
Hy Lạp cổ đại
2
4. Sự cường thịnh của Aten:
Sau khi đánh thắng Ba Tư, các thành bang Hy Lạp mà biểu hiện là Aten bước vào
thời kì cường thịnh nhất trong lịch sử của mình.Sự cường thịnh ấy biểu hiện ở các
mặt sau đây:
a. Quyền bá chủ trên biển:
Vốn giữ vai trò quan trọng trong cuộc chiến tranh chống Ba Tư, sau khi thắng lợi,
uy tín của Aten rất cao. Hơn nữa, Aten vốn có nền thương nghiệp hàng hải phát
triển phù hợp với nhiều thành bang lúc bấy giờ.
Trên cơ sở ấy năm 478 TCN, Aten giành được quyền bá chủ trên biển Egiê.
b. Sự phát triển của chế độ nô lệ:
Quyền bá chủ trên biển là điều kiện quan trọng để cung cấp cho Aten một nguồn
nô lệ nước ngoài phong phú vì nguồn nô lệ chủ yếu là tù binh và những người bị
bắt cóc. Số lượng nô lệ ở Aten cũng như các thành bang khác ở Hy Lạp lúc bấy
giờ rất đông vượt hẳn số dân tự do. Theo Atênê, một nhà văn Hy Lạp sống vào
khoảng thế kỉ III, lúc bấy giờ Aten có khoảng 400.000 nô lệ, 21000 công dân,
10000 kiều dân.
Còn Ang-ghen thì nói, Aten có: 365000 nô lệ, khoảng 90000 dân tự do, 45000
kiều dân.

Nô lệ là một giai cấp hết sức cực khổ. Họ không được coi là người mà chỉ là loại
“ tài sản biết cử động”, là “ công cụ biết nói”, do đó chủ có thể đem nô lệ cho thuê,
biếu tặng, hoặc biến thành món hàng để buôn bán. Nô lệ không có tài sản, không
có quyền lập gia đình. Trong khi đó, nô lệ là lực lượng lao động chủ yếu trong
nông nghiệp, thủ công nghiệp, trong hầm mỏ, trong các hiệu buôn và các thuyền
buôn… Như vậy nô lệ ở Hy Lạp rất đông đảo về số lượng và giữ vai trò hết sức
quan trọng trong đời sống kinh tế.
c. Sự phát triển về công thương nghiệp:
Trên cơ sở phát triển của chế độ nô lệ và quyền bá chủ trên biển Egiê, đến thế kỉ V
TCN, nền công thương nghiệp của Aten cũng phát triển rất mạnh mẽ. Aten sản
xuất được nhiều sản phẩm thủ công với trình độ kỹ thuật cao mà tiêu biểu là đồ
gốm, đồ sứ.
Quan hệ buôn bán với bên ngoài cũng mở rộng. Hải cảng Pirê được xây dựng
thành một thương cảng và quân cảng rất tốt, trở thành một nơi xuất nhập khẩu
hàng hóa quan trọng của Aten.
Đồng tiền của Aten được sử dụng rộng rãi trong tất cả các thành bang ở Hy Lạp,
đồng thời biến thành một loại hàng hóa để trao đổi.
d. Sự phát triển của chế độ dân chủ:
Chế độ dân chủ của Aten đến thời kì này lại càng hoàn thiện. Đặc biệt dưới thời
Pêriclét, Aten đã thi hành nhiều chính sách về chính trị và kinh tế nhằm đảm bảo
quyền dân chủ cho công dân như:

Tiếp tục duy trì tổ chức dân chủ có từ trước như: Đại hội nhân dân, Hội đồng 500
người, Tòa án nhân dân…, hơn nữa phần lớn các chức vụ đều được bổ nhiệm bằng
cách bốc thăm. Đại hội nhân dân thì cú khoảng mười ngày họp một lần.
Aten còn thi hành các chế độ phúc lợi như cấp tiền cho công dân mua vé xem kịch,
cấp phát lương thực cho người nghèo.
Đây cũng là thời kì Aten đã tạo điều kiện cho văn hóa phát triển rực rỡ. Nhiều nhà
triết học, sử học, thi sĩ, diêu khắc… của Hy Lạp đã tập trung về Aten để lao động
sáng tạo.
5. Cuộc chiến tranh Pêlôpônedơ: ( 431 – 404 TCN )
Trong khi các thành bang Hy Lạp đang bước vào thời kì phát triển mạnh mẽ thì
giữa đồng minh Pêlôpônedơ do Xpác cầm đầu và đồng minh Đêlốt do Aten cầm
đầu đã xảy ra một cuộc nội chiến, lịch sử gọi là chiến tranh Pêlôpônedơ.
Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến tranh này là do sự phát triển khác nhau về
đường lối chính trị và kinh tế của hai khối đồng minh.
Nguyên nhân trực tiếp là do Aten xung đột với Coranh, một thành viên của đồng
minh Pêlôpônedơ.
Cuộc chiến tranh này bao gồm hai giai đoạn:
Giai đoạn thứ nhất ( 431 – 421 TCN )
Màn đầu tiên của cuộc chiến tranh này là sự kiện thành bang Tebơ, đồng minh của
Xpác, tấn công Platê, đồng minh của Aten năm 431 TCN.

Tiếp đó quân đồng minh Pêlôpônedơ do vua Xpác chỉ huy tấn công vào vùng
Attích của Aten, tàn phá mùa màng, nhà cửa của nông dân. Nông dân Attích phải
chạy vào sống chen chúc ở Aten.
Để trả đũa, hải quân Aten tấn công vùng ven biển Pêkôpônedơ, gây cho đồng
minh Pêlôpônedơ nhất là Coranh nhiều thiệt hại.
Sau 10 năm tấn công lẫn nhau, hai bên chưa phân thắng bại. Vì vậy năm 421 TCN,
hai bên đã đi đến một hòa trong đó quy định hai bên phải trao trả cho nhau những
vùng đất đai bị chiếm và những người bị bắt trong chiến tranh.
Hòa ước này chỉ là sự hoãn binh của hai bên để chuẩn bị cho một cuộc đọ sức mới
nhằm quyết định sự thắng bại vì vậy cả hai bên đều không có ý thức thực hiện
nghiêm chỉnh những điều đã ký kết.
Giai đoạn thứ hai: ( 415 – 404 TCN )
Hòa bình chỉ duy trì được 6 năm. Năm 415 Aten chủ trương đánh vào vùng Nam
Ý và đảo Xixin để cướp của cải của vùng giàu có này đồng thời nhằm cắt đứt
nguồn cung cấp lương thực cho các thành bang thuộc đồng minh Pêlôpônedơ.
Trong khi đó Xpác một mặt đưa quân đến phối hợp với các thành bang ở Xixin
đánh tan hải quân của Aten, một mặt tấn công vào vùng Attích, đã gây cho Aten
nhiều tổn thất.
Trong quá trình ấy, Xpác cũng xây dựng hải quân. Năm 408 TCN, hải quân Xpác
đã đánh tan hải quan Aten. Đến năm 405 TCN, Aten lại bị thảm bại, 170 trong số
180 thuyền chiến bị bắt, 3000 người bị bắt, còn lại bị giết. Ngay sau đó Xpác đến
bao vây Aten. Vì thế cùng lực kiệt, năm 404 TCN Aten phải xin hàng.

Một hiệp ước đầu hàng được kí kết với những điều khoản rất khắc nghiệt như:
+ Aten phải giải tán toàn bộ hải quân.
+ Phải giải tán đồng minh Đêlốt
+ Phải bỏ chế độ dân chủ
+ Phải thừa nhận quyền bá chủ của Xpác…
Thế là cuộc chiến tranh Pêlôpônedơ kéo dài 27 năm đến đây kết thúc bằng sự thất
bại của Aten.
IV. Sự thiết lập quyền bá chủ ở Hy Lạp và cuộc chinh phục phương Đông của
Makêđônia:
1. Cuộc đấu tranh để giành quyền bá chủ ở Hy Lạp:
Sau chiến tranh Pêlôpônedơ, Xpác trở thành bá chủ ở Hy Lạp. Nhưng quyền bá
chủ của Xpác không duy trì được lâu, vì về kinh tế, chính trị và văn hóa, Xpác đều
lạc hậu hơn các thành bang khác.
Thế lực của Aten dần dần được khôi phục. Năm 378 TCN, Aten lôi kéo được 70
thành bang tổ chức thành một đồng minh mới.
Thành bang Tebơ cũng trở thành một thành bang hùng mạnh, đã lôi kéo được
nhiều thành bang ở miền Trung lập thành đồng minh Bê ô xi. Năm 371TCN, Tebơ
đánh bại Xpác. Đồng minh Pêlôpônedơ đến đây tan rã.Quyền bá chủ của Xpác
chấm dứt.Tuy vậy quyền bá chủ của Tebơ cũng chỉ duy trì được mười năm mà
thôi.

