MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………………………………….3

1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………………..3

2. Lịch sử nghiên cứu của vấn đề……………………………………………………..4

3. Phương pháp tiếp cận………………………………………………………………7

4. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………………………...8

5. Những đóng góp của đề tài…………………………………………………………8

PHẦN NỘI DUNG…………………………………………………………………...9

CHƢƠNG 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG GIỮA MỸ VÀ CHÂU ÂU TỪ

SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NAY………………………..10

1.1.Bối cảnh quốc tế.......................................................................................................10

1.1.1.Bối cảnh quốc tế Âu – Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh (1945 – 1991)................10

1.1.2.Bối cảnh quốc tế Âu – Mỹ từ sau khi kết thúc Chiến tranh Lạnh đến nay...............14

1.2.Những vấn đề về lý luận văn hóa........................................................................21

1.2.1.Khái niệm văn hóa…………………………………………………………..21

1.2.2.Bản sắc văn hóa……………………………………………………………..23

1.2.3.Khái niệm và mô hình tiếp xúc văn hóa…………………………………….23

1.2.4.Khái niệm tiếp biến văn hóa………………………………………………..26

1.2.5.Toàn cầu hóa………………………………………………………………..31

1.2.6.Hội nhập văn hóa………………………………………………………......33

CHƢƠNG 2: TIẾP XÚC VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HÓA MỸ ĐẾN CHÂU

ÂU TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NAY……………….42

2.1.Bản sắc văn hóa Mỹ.....................................................................................42

2.1.1.Cội nguồn văn hóa Mỹ.................................................................................42

2.1.2.Đặc trưng văn hóa Mỹ………………………………………………………….....48

2.2.Bản sắc văn hóa Châu Âu....................................................................................55

2.2.1.Cội nguồn văn hóa châu Âu………………………………………………………55

1

2.2.2.Đặc trưng văn hóa châu Âu……………………………………………………....63

2.3. Tiếp xúc và ảnh hƣởng của văn hóa Mỹ đến châu Âu………………….. 66

2.3.1.Quá trình tiếp xúc…………………………………………………………………..66

2.3.2.Kết quả của quá trình tiếp xúc……………………………………………………72

2.3.2.1.Ảnh hưởng văn hóa chính trị Mỹ đến châu Âu………………………………72

2.3.2.2. Ảnh hưởng của văn hóa Mỹ đến văn hóa châu Âu…………………………87

CHƢƠNG 3:KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU ÂU TRONG ỨNG XỬ

VỚI VĂN HÓA MỸ VÀ NHỮNG GỢI Ý CHO VIỆT NAM…………………...97

3.1.Chính sách của Pháp………………………………………………………….97

3.2.Chính sách của Đức.....................................................................................106

3.3.G i ch nh ch ch Vi Nam...................................................................................115

PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………………..123

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………...126

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Từ lâu, Mỹ và Châu Âu đã được xem là hai phần trọng yếu, không thể thiếu

được của một nền văn minh tiêu biểu nhất cho thế giới hiện đại, đó là nền văn minh

phương Tây. Mặc dù là hai phần có địa vị tương đương nhau thế nhưng cho đến nay,

khi đề cập đến một số vấn đề lịch sử - văn hoá, người ta lại rất khó tách rời Châu Âu

và Mỹ. Có lẽ điều đó xuất phát từ những duyên nợ sâu sắc kéo dài hàng thế kỷ của

hai khu vực này. Một trong những duyên nợ luôn được nhắc đến đó là ảnh hưởng qua

lại về mặt văn hoá hết sức đậm nét giữa các quốc gia Âu - Mỹ.

Trên thực tế, sự tiếp xúc và ảnh hưởng văn hoá giữa Mỹ và Châu Âu không

còn là vấn đề mới mẻ đối với giới nghiên cứu lịch sử, văn hoá. Ở nước Mỹ, ảnh

hưởng văn hoá qua lại giữa Mỹ và các quốc gia khác trên thế giới, trong đó có các

quốc gia Châu Âu thậm chí đã trở thành đề tài để chuyên sâu nghiên cứu hết sức sôi

nổi. Giáo sư sử học của Đại học Texas ở Austin Richard Pells, chuyên gia về văn hoá

và điện ảnh Mỹ thế kỷ XX đã từng trực tiếp bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đến ảnh

hưởng của văn hoá đại chúng Mỹ trên thế giới cũng như những ảnh hưởng đang tiếp diễn của văn hoá nước ngoài đối với Mỹ1. Bản thân ông đã có khá nhiều công trình,

bài viết nghiên cứu so sánh về văn hoá Châu Âu và nước Mỹ rất có giá trị, tiêu biểu

như cuốn: Not Like Us: How Europeans have Loved, Hated, and Transformed

American Culture since World War II (Basic Books, 1997). Ở Châu Âu, việc nghiên

cứu về những tương đồng, khác biệt cũng như những ảnh hưởng văn hoá giữa Châu

Âu và nước Mỹ, đặc biệt là quá trình “Mỹ hoá” (Americanization), cũng rất được

quan tâm bởi nó có liên quan mật thiết đến vị trí và vai trò của Châu Âu trong một thế

giới mà cực Mỹ đang tạm thời thao túng cũng như nó góp phần định hình thêm cho

1http:// www.rediff.com/movies/2006/sep/04pells.htm, cập nhật ngày 4 tháng 9 năm 2006.

3

chính sách văn hoá của Liên minh Châu Âu…Tuy được quan tâm nghiên cứu rộng rãi

như vậy nhưng vấn đề tiếp xúc, ảnh hưởng văn hoá giữa Châu Âu và Mỹ vẫn chưa

thực sự được thể hiện một cách hệ thống và đầy đủ. Thật khó tìm thấy một công trình,

bài viết nào giúp chúng ta định hình một cách toàn diện, rõ nét về mối duyên nợ văn

hoá Âu - Mỹ. Do vậy, đề tài này mong muốn đem lại một cách nhìn khái quát song

tương đối toàn diện, hệ thống hơn về ảnh hưởng của văn hoá Mỹ đến Châu Âu từ sau

chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến nay.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Nguồn tài liệu mà đề tài tham khảo và sử dụng là rất rộng lớn, có thể lên đến

hàng ngàn đầu sách và bài viết, cả bằng tiếng Việt và ngoại ngữ, cả của các tác giả

trong nước và tác giả nước ngoài.

Vấn đề văn hóa Âu - Mỹ và sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau đã được

học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, chưa có nhiều công

trình nghiên cứu ảnh hưởng của văn hóa Mỹ đối với văn hóa Châu Âu từ sau chiến

tranh Thế giới thứ hai đến nay. Về các công trình nước ngoài đã được dịch ra tiếng

Việt, chúng ta có thể kể tên, ví dụ các bộ sách đồ sộ: Nền tảng văn minh phương Tây

của một tập thể tác giả với sự chủ biên của M. Chambers và Ba. Hanawalt, Văn hóa

thế kỷ XXI của M.Fragonard, và Văn minh phương Tây của C.Brinton, J.B

Christopher và R.L.Wofl.

Vấn đề bản sắc và biện pháp tạo dựng bản sắc của văn hóa châu Âu, Mỹ và

phương Tây đã được bàn đến trong hàng loạt công trình của các học giả nước ngoài.

Nổi tiếng nhất và sớm nhất là tác phẩm kinh điển Nền dân trị Mỹ của nhà xã hội học

Pháp Alexis Toquille. Trong những thập niên 1960 - 1980 ở Châu Âu người đã biên

soạn cả một “Bộ sách giới thiệu kiến thức thời đại” mang tính phổ cập kiến thức,

4

trong đó tập trung vào văn minh phương Tây, chẳng hạn Văn minh Hoa Kỳ của J-

Piere Fichou, Những nền văn mình đầu tiên Địa Trung Hải của J.Gabriel- Leroux…

Trong công trình đồ sộ Lịch sử văn minh phương Tây của Koshlansky, Geary

và O’Brien, các tác giả khẳng định văn hóa Châu Âu đương đại chịu ảnh hưởng mạnh

mẽ của nền văn hóa bình dân và văn hóa đại chúng năng động vốn đều có xuất xứ từ

nước Mỹ như điện ảnh, truyền hình, games, ca nhạc…

Về văn hóa Châu Âu, văn hóa Mỹ ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ có các công

trình viết riêng về từng nền văn hóa và cũng chỉ mới ở bước đầu, chứ chưa có công

trình nào mang tính hệ thống về toàn bộ nền văn hóa Âu - Mỹ. Các tác phẩm tiêu biểu

có thể kể đến là Hồ sơ văn hóa Mỹ của nhà nghiên cứu Hữu Ngọc, Phác thảo chân

dung văn hóa Đức đương đại, Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Văn hóa Châu

Âu - Lịch sử, thành tựu, hệ giá trị của TSKH Lương Văn Kế, đề tài Khoa học cấp

Nhà nước Ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu, Bắc Mỹ đối với thế giới và Việt Nam trong

quá trình toàn cầu hóa của TSKH. Lương Văn Kế chủ biên.

Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa của TSKH. Lương Văn Kế, tác giả chủ

yếu hướng sự phân tích vào các khía cạnh chủ yếu của văn hóa Mỹ là: (1) Các cội

nguồn của văn hóa Mỹ, trong đó chủ yếu là cội nguồn Châu Âu; (2) Các thành tựu

lớn của văn hóa Mỹ; (3) Hệ giá trị đặc sắc của nền văn hóa Mỹ; (4) Toàn cầu hóa và

các phương thức truyền bá văn hóa Mỹ ra thế giới. Nhìn một cách khái quát, đây là

một công trình được xây dựng theo quan điểm “lịch sử tri thức”.

Đặc biệt, trong công trình nghiên cứu cấp Nhà nước: Ảnh hưởng của văn hóa

Tây Âu, Bắc Mỹ đối với thế giới và Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa của

TSKH. Lương Văn Kế, tác giả đã phân tích các vấn đề quan trọng như: Bản chất của

toàn cầu hóa và quan hệ của nó với các quá trình khu vực hóa, bản địa hóa và quốc tế

hóa; các không gian văn hóa, các nền văn minh, đặc điểm của tiếp xúc văn hóa và

5

tiếp xúc ngôn ngữ; vấn đề liên văn hóa và một nghiên cứu điển hình về liên văn hóa ở

Châu Âu. Tác giả cũng lần lượt phân tích ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu, Bắc Mỹ

đối với các khu vực.

Trong cuốn Phác thảo chân dung đời sống văn hoá Đức đương đại của TSKH.

Lương Văn Kế (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004), tác giả đã dành hẳn một

chương bàn về khái niệm văn hoá và bản sắc văn hoá nói chung; dành một mục quan

trọng để bàn về bản sắc văn hoá Châu Âu và biểu hiện của nó trong văn hoá Đức.

Công trình đi sâu phân tích đặc điểm của các lĩnh vực chủ yếu của đời sống văn hoá

Đức với tư cách là một nền văn hoá lớn và điển hình của văn hoá Châu Âu.

Trong cuốn Hồ sơ văn hoá Mỹ nhà nghiên cứu Hữu Ngọc là người đầu tiên ở

Việt Nam tiếp cận một cách hệ thống và khá khách quan các hiện tượng văn hoá Mỹ.

Công trình này gợi mở nhiều suy nghĩ trong xã hội và giới nghiên cứu văn hoá về bản

sắc của văn hoá Mỹ và sức mạnh đặc biệt của nó. Còn trong cuốn Liên bang Mỹ -

Đặc trưng xã hội - văn hoá, tác giả Nguyễn Thái Yên Hương lại tiếp cận theo hướng

mở rộng từ đặc thù thể chế chính trị Mỹ đến đặc thù văn hoá, xem văn hoá Mỹ là sự

cởi trói khỏi các định kiến Châu Âu phù hợp với đặc thù một quốc gia đa chủng hỗn

tạp và luôn luôn sống động. Có quan điểm gần gũi trong cách nhìn nhận về văn hoá

Mỹ là đề tài Đặc trưng văn hoá Mỹ của tác giả Lê Thế Quế (ĐQQG Hà Nội, 2006).

Đóng góp ý nghĩa của đề tài là dành một chương để nói về ảnh hưởng của văn hoá

Mỹ trên thế giới và Việt Nam.

Với những cuốn sách nền tảng và những tài liệu tham khảo sẽ là nguồn tài liệu

quan trọng trong quá trình luận văn của tác giả.

6

3. Phƣơng ph p iếp cận

Phương pháp chính để thực hiện là phân tích tư liệu và phương pháp nghiên cứu

quốc tế nhằm làm sáng tỏ các đặc điểm, các nét đặc trưng của văn hóa Mỹ và ảnh

hưởng của văn hóa Mỹ đến Châu Âu từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.

Đồng thời, luận văn cũng áp dụng phương pháp hệ thống - cấu trúc vào nghiên

cứu các hiện tượng văn hóa văn minh, bởi vì phương pháp hệ thống - cấu trúc giúp

người nghiên cứu phát hiện ra các tầng nấc và kiểu thức của các mối quan hệ qua lại,

tương tác giữa các hiện tượng và yếu tố. Ở cấp vĩ mô, phương pháp hệ thống giúp

cho người ta thấy được mối liên hệ qua lại giữa các nền văn hóa, văn minh với nhau,

chẳng hạn sẽ không có cái gọi là văn hóa phương Tây nếu không có văn hóa Châu Âu

cũng như văn hóa Mỹ; cũng không có nó nếu không có sự hiện diện của văn hóa

Châu Á (phương Đông) đối lập; sẽ không có văn hóa Mỹ nếu không có văn hóa Châu

Âu và văn hóa gốc Phi.

Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành. Đây là

phương pháp tổng hợp của các ngành giữa văn hóa, chính trị và lịch sử để thiết lập

các mối quan hệ qua lại, quy định và ảnh hưởng lẫn nhau giữa những phương pháp và

quy trình của nhiều chuyên gia khác nhau.

Ngoài ra, đề tài được viết dựa trên phương pháp lịch sử, phương pháp nghiên

cứu văn hóa, phương pháp phân tích, so sánh, logic, tổng hợp, kiểm tra, đánh giá tư

liệu, hệ thống hóa nhằm rút ra những nhận định có tính tổng hợp, khái quát phục vụ

cho nghiên cứu được chi tiết, xác thực hơn.

7

4. Phạm vi nghiên cứu

Thứ nhất, khi nói đến văn hóa đây là một định nghĩa rất rộng, trong phạm vi

nghiên cứu của đề tài thì tập trung phân tích và so sánh ảnh hưởng của văn hóa Mỹ

đến Châu Âu trên lĩnh vực: Chính trị và các khía cạnh khác của đời sống văn hóa xã

hội.

Thứ hai, về mặt thời gian, đề tài chỉ đưa vào phạm vi nghiên cứu phạm vi thời

gian từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến nay vì thời gian này ảnh hưởng của văn

hóa Mỹ đến các nước Châu Âu là rõ nét nhất.

Thứ ba, về mặt không gian đề tài hạn định lại phạm vi đối tượng để tập trung

phân tích nên đã chọn hai nước tiêu biểu là Đức và Pháp.

Trong các nước Tây Âu, Pháp là một nước tự hào về một truyền thống văn hoá

mạnh mẽ và được thế giới tôn trọng. Đồng thời, so với nhiều quốc gia Tây Âu, Nhà

nước Pháp nắm giữ vai trò mạnh mẽ hơn hết đối với văn hoá trong đời sống đương

đại.

Đối với trường hợp của Đức, ảnh hưởng của văn hoá Mỹ ở Đức là rất khác nhau

giữa các thế hệ, các nhóm người và các vùng khác nhau. Trong khi Tây Đức tiếp

nhận văn hoá Mỹ với một sự cởi mở nhất định thì Đông Đức tỏ ra khá bảo thủ và dè

dặt trong việc tiếp nhận.

Với việc chọn hai nước Đức và Pháp sẽ làm rõ được sự ảnh hưởng của văn hóa

Mỹ đến hai nước này nói riêng và khu vực châu Âu nói chung.

5. Những đóng góp của đề tài

Với nội dung nghiên cứu của đề tài mong muốn đem lại một cách nhìn mới, hệ

thống, đúng đắn về bản chất và tính ưu việt của nền văn hoá Mỹ từ đó thấy được bản 8

sắc và giá trị của văn hoá Mỹ đối với Châu Âu nói chung và thế giới nói riêng. Đây

cũng là bức tranh khái quát và toàn diện nhất giúp cho người đọc hình dung rõ nét về

nền văn hoá và bản sắc của văn hoá Mỹ.

Đồng thời luận văn cũng đưa ra những kinh nghiệm của các nước trong việc tiếp

thu và phát huy có hiệu quả các yếu tố tích cực của nền văn hoá Mỹ giàu phẩm chất

tư duy và tính sáng tạo.

Đề tài cũng đánh giá một cách khách quan những tác động của văn hóa Âu - Mỹ

đối với quá trình hiện đại hóa văn hóa và xã hội Việt Nam khi tiếp xúc với phương

Tây.

9

PHẦN NỘI DUNG

Chƣơng 1: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG GIỮA MỸ VÀ CHÂU ÂU

TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ĐẾN NAY

1.1 . Bối cảnh quốc tế

1.1.1 . Bối cảnh quốc tế Âu - Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1945 - 1991)

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới từng bước có những chuyển

biến to lớn, tác động tới quan hệ quốc tế, tác động tới từng nước, từng khu vực và cả

trật tự thế giới vừa được thiết lập.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, nhưng các nước Châu Âu, Nhật Bản và

Liên Xô bị chiến tranh tàn phá nặng nề, bị tổn thất lớn cả về người và của. Chỉ có

Mỹ giàu lên nhanh chóng trong chiến tranh (thu về 114 tỉ đô la lợi nhuận do bán vũ khí và phương tiện chiến tranh)2 và trở thành nước mạnh nhất về kinh tế trong

khoảng ba năm sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ chiếm quá nửa tổng sản lượng

công nghiệp của thế giới tư bản (56,4% năm 1948). Mỹ là chủ nợ lớn nhất thế giới (riêng về vũ khí, các nước đồng minh châu Âu đã nợ Mỹ 41,751 tỉ USD)3 và nắm

trong tay một lợi thế khiến các nước phải kiêng nể, e dè: Độc quyền về bom nguyên

tử.

Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước về kinh tế, quân sự và chính

trị…Từ đây tham vọng làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ và đây cũng là

cơ sở để Mỹ triển khai nhanh chóng kế hoạch của mình trong một bối cảnh quốc tế và

tương quan so sánh lực lượng hết sức thuận lợi đứng cả về hai phía quan hệ; Mỹ với

2http://text.123doc.vn/document/754234-my-nhat-tay-au-sau-chien-tranh-the-gioi-ii.htm, cập nhật ngày 6/11/2013. 3http://user.hnue.edu.vn/index.php?page=news&uid=118&news_id=500, cập ngật ngày 1/4/2011.

10

các nước trong khối đồng minh tư bản chủ nghĩa; Mỹ với Liên Xô và các nước xã hội

chủ nghĩa. Tuy nhiên, sức mạnh và ưu thế của Mỹ không kéo dài được mãi, nó đã bị

giảm sút tương đối từ những năm 60 của thế kỷ XX trở đi, đặc biệt từ những năm 70

khi các nước tư bản phục hồi và vươn lên nhanh chóng, trước hết là Tây Âu và Nhật

Bản.

Hai cường quốc Xô - Mỹ từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ

hai, sau chiến tranh quan hệ ấy nhanh chóng chuyển thành quan hệ đối đầu. Từ quan

hệ đối đầu giữa hai nước chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe - phe xã hội chủ

nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới hai cực, quan hệ

Xô - Mỹ, mặc dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc và kiềm chế nhau, đều thực hiện

chiến lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu trực tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hòa

bình thế giới được duy trì trong suốt thời kì Chiến tranh lạnh và cả sau đó.

Một biến chuyển lớn sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự ra đời của hệ

thống xã hội chủ nghĩa. Một loạt các nước Đông Âu, Châu Á và khu vực Mỹ Latin

sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, đã tuyên bố đi lên chủ

nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng mạnh.

Những thành tựu xây dựng chủ nghĩa xã hội trong những năm 50 - 60 đã thu hút sự

chú ý của thế giới và tác động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế

giới. Ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn, chủ nghĩa xã hội là chỗ dựa tin

cậy của phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.

Chủ nghĩa tư bản không còn là một hệ thống duy nhất chi phối nền chính trị thế giới.

Tình hình trên đây đã dẫn tới một vấn đề: Trong chiến lược của mình, Mỹ và các

nước đồng minh không thể không tính đến một thực tế đó của chủ nghĩa xã hội.

Ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới chuyển biến

mau lẹ ngày càng có lợi cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bất lợi cho Mỹ và

11

các đồng minh của Mỹ. Đầu năm 1947, ở các nước Đông Âu, khu vực ảnh hưởng của

Liên Xô, chính quyền lần lượt chuyển vào tay nhân dân lao động, ở Thổ Nhĩ Kỳ và

Hy Lạp phong trào đấu tranh vũ trang do Đảng Cộng sản lãnh đạo phát triển mạnh

mẽ. Ở Pháp, Bỉ và Italia, đại diện của Đảng Cộng sản đã tham gia Chính phủ, ở các

nước này đã diễn ra một loạt những cải cách kinh tế - xã hội có lợi cho người lao

động. Trong bối cảnh như thế, Mỹ không thể không có những phản ứng lại. Tháng 3 -

1947, Tổng thống Mỹ Truman đã đọc diễn văn tại Quốc hội Mỹ, chính thức đưa ra

học thuyết của mình. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa mới bị cộng sản thôn

tính” và những đe dọa tương tự đang diễn ra nhiều nước khác ở Châu Âu, ở Italia,

Pháp và cả Đức nữa. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra “đảm nhận sứ mạng lãnh đạo thế giới

tự do” phải giúp đỡ các dân tộc thế giới chống lại “sự đe dọa” của chủ nghĩa cộng

sản, chống lại sự “bành trướng” của nước Nga, giúp đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự 4. Tổng thống Mỹ đã phát động cuộc chiến tranh lạnh chống Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, học thuyết Truman đã mở đầu cho cuộc Chiến tranh lạnh và cuộc

chiến tranh này đã diễn ra theo tư tưởng và mục tiêu của Mỹ mà học thuyết Truman

đã vạch ra. Mục tiêu của Chiến tranh lạnh do Mỹ phát động là Mỹ tiến tới lãnh đạo

thế giới tự do chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại Liên Xô và các

nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn chủ nghĩa xã hội không cho lan ra các khu vực

khác.

Trong những năm 1947 - 1949, Mỹ thi hành “chính sách ngăn chặn” nhằm

ngăn chặn “sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản”, rồi tiến tới tiêu diệt nó. Mỹ cho

rằng, Liên Xô bị suy yếu trong Chiến tranh thế giới thứ hai, kiệt quệ cả về vật chất và

tinh thần, chỉ cần đặt trước Liên Xô một lực lượng mạnh trong vòng 10 - 15 năm,

Liên Xô sẽ tự bị tiêu diệt và sẽ ngăn chặn được chủ nghĩa cộng sản, ngăn chặn được

4http://doc.edu.vn/tai-lieu/giao-an-su-12-nuoc-mi-15252/, cập nhật ngày 1/6/2013

12

khuynh hướng xâm lược của người Nga. Để thực hiện “chính sách ngăn chặn” chủ

nghĩa cộng sản, Mỹ đã xúc tiến việc chia cắt nước Đức và Triều Tiên.

Sự ra đời của hai khối quân sự lớn nhất toàn cầu do Mỹ và Liên Xô đứng đầu,

đối địch nhau, đều chạy đua vũ trang, trang bị những vũ khí hiện đại để tăng cường

sức mạnh của khối mình, đã làm cho tình hình thế giới càng căng thẳng.

Hai bên tiếp tục chạy đua vũ trang, thi nhau chế những vũ khí và trang thiết bị

hiện đại. Cuộc chạy đua vũ trang lên tới đỉnh cao vào những năm 60 của thế kỷ XX.

Hai bên Xô - Mỹ đã có một kho vũ khí hạt nhân khổng lồ. Theo ước tính của những

nhà quân sự thì chỉ cần phóng một nửa số kho vũ khí hạt nhân của Mỹ hoặc của Liên

Xô, cũng đủ hủy diệt toàn bộ sự sống con người và nền văn minh nhân loại.

Nhưng ngay sau đó, cuộc chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mỹ chuyển sang

trạng thái hòa hoãn, hợp tác giải trừ quân bị. Động thái này có dấu hiệu từ năm 1969.

Lý do Mỹ đang sa lầy ở Việt Nam, muốn thoát khỏi tình trạng đó, những dấu hiệu sa

sút nền kinh tế; Liên Xô cũng có nhiều khó khăn về kinh tế, đặc biệt là vấn đề mối

quan hệ giữa hai miền của nước Đức, cuộc xung đột biên giới Liên Xô - Trung (từ

tháng 3 đến tháng 6 - 1969). Tình hình đó buộc hai nước Mỹ - Xô phải chuyển sang

hòa hoãn, tìm sự nhân nhượng của nhau.

Tuy nhiên, sự hòa hoãn này bị chấm dứt khoảng cuối năm 1980, khi Roonan

Rigân trúng cử Tổng thống Mỹ. Rigân lên cầm quyền trong bối cảnh tình hình thế

giới có những sự kiện lớn và đang diễn ra bất lợi cho Mỹ: Vừa thất bại trong cuộc

chiến ở Việt Nam cách đó không lâu, đến năm 1979, Mỹ lại thất bại ở Iran,… tình

hình đó làm địa vị của Mỹ bị giảm sút trên thế giới. Trong khi đó, Liên Xô lại đưa

quân vào Apganixtan, Liên Xô còn làm hậu thuẫn cho Ba Lan để chính phủ nước này

tuyên bố “tình trạng chiến tranh” nhằm trấn áp các thế lực đối lập ở Ba Lan (từ ngày

13 – 12 - 1981).

13

Trước tình hình đó, Rigân phản ứng quyết liệt bằng việc thực hiện chạy đua vũ

trang mạnh mẽ nhằm phá thế cân bằng về chiến lược quân sự với Liên Xô, khôi phục

lại vị trí đứng đầu về quân sự. Cuộc chạy đua vũ trang lớn trong lịch sử giữa hai nước

Liên Xô lại diễn ra suốt từ năm 1980 đến năm 1987. Từ năm 1980 đến năm 1986,

ngân sách quân sự tăng 50%, sau đó có giảm đi chút ít. Năm 1982, ngân sách quân sự của Mỹ chiếm 7,4% tổng sản phẩm quốc gia (GNP)5. Tháng 11 - 1983, Rigân cho

triển khai tên lửa tầm trung “Pershing” và “Cruise” ở cộng hòa Liên bang Đức, Bỉ,

Hà Lan và một số nước châu Âu khác hướng vào Liên Xô và Đông Âu. Ngày 23

tháng 3 năm 1983, Rigân lại đề ra kế hoạch “Chiến tranh giữa các vì sao” (SDI) với

chi phí lên tới 26 tỉ USD trong 5 năm. Để chống lại các hành động của Liên Xô,

Rigân tiến hành giải tỏa các điều luật của Quốc hội về hạn chế quyền chủ động của

Tổng thống. Do đó, Tổng thống hoàn toàn chủ động tiền hành các chiến dịch ở

Grênađa (1983), ở Libi (1986) và cung cấp vũ khí cho quân nổi loạn ở Apganixtan. Ở

vùng Trung Cận Đông, Rigân tiến hành một loạt những biện pháp để giữ vững vị trí

của họ ở khu vực này: Thiết lập một loạt căn cứ quân sự ở Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập, Ôman,… thành lập“lực lượng phản ứng nhanh” (RDF) gồm 11.000 người6…

Tuy nhiên, khi Goobachốp lên nắm chính quyền ở Liên Xô, quan hệ Xô - Mỹ

bắt đầu có những biến chuyển khác trước, tình hình quan hệ giữa hai nước từng bước

chuyển sang hòa dịu.

1.1.2. Bối cảnh quốc tế Âu - Mỹ từ sau kết thúc chiến tranh lạnh đến nay

Từ nửa sau thập niên 80, sau khi M. Goócbachốp lên cầm quyền ở Liên Xô,

quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại để giải quyết những vấn

đề trong quan hệ giữa hai nước và quan hệ quốc tế. Quá trình đàm phán cắt giảm vũ

5http://text.123doc.vn/document/1577061-su-hinh-thanh-va-sup-do-cua-trat-tu-hai-cuc-ianta.htm, cập nhật 29/6/2014 6http://nxb.dhsphn.edu.vn/index.php?page=news&uid=118&news_id=504, cập nhật ngày 16/4/2011 14

khí chiến lược tấn công trải qua chặng đường dài đầy khó khăn, cuối cùng cũng đã

đạt được những kết quả đáng ghi nhận, tạo cơ sở quan trọng cho việc kết thúc cuộc

chiến tranh lạnh giữa hai cường quốc lớn nhất thế giới. Ngày 2 - 12 - 1989, tại Manta,

Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, Goócbachốp và Tổng thống Mỹ G. Bush đã có

cuộc gặp gỡ không chính thức. Trong cuộc gặp này, hai bên đã chính thức tuyên bố

chấm dứt tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai nước, đồng thời cũng chấm dứt cuộc

chạy đua vũ trang quyết liệt làm cho tình hình thế giới luôn luôn căng thẳng trong

suốt hơn 40 năm qua.

Trong những năm cuối thập niên 80, đầu thập niên 90, những biến động chính

trị to lớn đã diễn ra ở Liên Xô và Đông Âu. Công cuộc cải tổ ở Liên Xô do

Goócbachốp khởi xướng đã phạm phải những sai lầm nghiêm trọng, gây ra tình trạng

hỗn loạn về chính trị và làm cho nền kinh tế Liên Xô ngày càng trì trệ hơn. Những

nhân tố đó là tiền đề cho sự tan vỡ không thể tránh khỏi của Nhà nước liên bang.

Ngày 21 - 12 - 1991, Liên Xô tuyên bố giải thể, 15 nước Cộng hoà trở thành các quốc

gia độc lập. Ở Đông Âu, từ thập niên 80, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng

tiến hành chính sách cải cách với những mức độ khác nhau. Công cuộc cải tổ ở Liên

Xô đã tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị Đông Âu. Trong khi đó, các

nước phương Tây đã lợi dụng tình hình khó khăn của các nước Đông Âu để gây ảnh

hưởng về kinh tế, chính trị ở khu vực này. Cũng với những sai lầm chủ quan trong

chính quá trình cải cách ở Đông Âu, những nhân tố khách quan nêu trên đã góp phần

dẫn tới sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu. Sự sụp đổ của

chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã dẫn tới sự giải thể của khối quân

sự Vácxava (7 - 1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế SEV (6 - 1991). Trật tự hai cực

Ianta không còn nữa.

Năm 1991, sau khi Liên Xô sụp đổ, trật tự thế giới tồn tại gần nửa thế kỷ đã bị

phá vỡ, cục diện thế giới và quan hệ chính trị quốc tế thay đổi về cơ bản, dẫn đến

15

hình thành trật tự thế giới mới và tập hợp lực lượng mới. Trước hết, đó là sự điều

chỉnh chiến lược đối ngoại của các nước lớn nhằm giành vị trí xứng đáng trong quan

hệ quốc tế. Tất cả các nước khác cũng đều tìm cách tác động một cách có lợi nhất cho

mình vào quá trình thiết lập trật tự thế giới mới. Từ sự đa dạng về lợi ích của các chủ

thể quan hệ quốc tế đã hình thành nhiều mối quan hệ song phương và đa phương, làm

cho tình hình thế giới càng thêm phức tạp.

Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự hai cực Ianta giải thể với sự sụp đổ của chủ

nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu. So sánh lực lượng trên bình diện toàn

cầu từ chỗ cân bằng giữa hai hệ thống chính trị - xã hội đối lập nay chuyển sang trạng

thái mất cân bằng theo hướng có lợi cho Mỹ và phương Tây. Tuy nhiên, tình hình

quốc tế đã không phát triển một cách hoà bình, ổn định như người ta mong đợi. Sự

đối đầu Đông - Tây về hệ tư tưởng, chính trị, quân sự, kinh tế…đã từng chi phối đời

sống quốc tế trong suốt thời kì Chiến tranh lạnh, nay được chuyển hoá dưới những

hình thức khác, bên cạnh sự nổi lên của những mâu thuẫn mới. Sự vận động của các

mâu thuẫn này sẽ quyết định diện mạo của trật tự thế giới và xu hướng phát triển của

quan hệ quốc tế sau chiến tranh lạnh.

Trước hết, đó là mâu thuẫn giữa các nước lớn xung quanh việc thiết lập một

trật tự thế giới mới. Khác với các trật tự thế giới trước đây thường được thiết lập ngay

sau khi Chiến tranh kết thúc, trật tự thế giới mới đã không thể ra đời ngay sau khi

Liên Xô tan rã. Mặc dù Tổng thống Mỹ G. Bush (cha), năm 1991 đã tuyên bố về một

trật tự thế giới đơn cực do Mỹ chi phối, nhưng thực tế lịch sử đã không diễn ra theo ý

muốn của Mỹ. Liên Xô tan rã nhưng Liên bang Nga vẫn tiếp tục tồn tại với tiềm lực

quân sự kế thừa Liên Xô cũ và không phải là một cường quốc bại trận để chấp nhận

một trật tự thế giới do Mỹ áp đặt. Các trung tâm kinh tế, các cường quốc khu vực như

Tây Âu, Nhật Bản, Trung Quốc… không ngừng lớn mạnh và cố gắng tạo cho mình

một vị thế đáng kể để chia sẻ quyền lực chi phối đời sống chính trị quốc tế. Trong lúc

16

các cường quốc đang nổi lên thì Mỹ vẫn là một siêu cường, một cường quốc vượt trội

và là cường quốc duy nhất có ảnh hưởng ở cấp độ toàn cầu. Nước Mỹ vừa trải qua

một chu kì tăng trưởng dài nhất trong lịch sử nước này (1992 - 2001), với tốc độ tăng

trưởng kinh tế cao (từ 3 đến 4%), chỉ số thất nghiệp thấp, mức lạm phát thấp. Với số

dân chỉ bằng 4,7% dân số thế giới, nhưng nước Mỹ chiếm trên 30% GDP toàn cầu,

với khoảng 10.000 tỉ đôla hàng năm, bằng GDP của tất cả các nước thành viên Liên minh châu Âu (EU) cộng lại7. Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, sức mạnh tổng

hợp của Mỹ (gồm 7 lĩnh vực: kinh tế, quân sự, khoa học công nghệ, tài nguyên thiên

nhiên, chính trị, xã hội, ảnh hưởng trên trường quốc tế) lớn hơn hai lần Nhật Bản và

hơn bốn lần Trung Quốc. Với sự giải thể Liên bang Xô Viết, Mỹ không còn đối thủ

cạnh tranh và có mưu đồ thiết lập trật tự thế giới một cực. Nhằm đạt được mục tiêu

chiến lược ngăn chặn không cho cường quốc nào, dù là đồng minh hay đối thủ vươn

lên thách thức vai trò siêu cường của mình, Mỹ thực hiện chính sách đối ngoại đơn

phương, chà đạp lên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế, coi thường các tổ chức

quốc tế, kể cả Liên Hợp Quốc và chỉ lợi dụng các tổ chức này khi cần thiết vì lợi ích

của Mỹ. Mỹ cho triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa chống tên lửa (NMD), rút ra

khỏi hiệp ước ABM, từ chối không phê chuẩn Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân…

Chiến lược xây dựng một thế giới đơn cực do Mỹ chi phối được bắt đầu ngay sau

chiến tranh lạnh và được thể hiện bằng những biện pháp cứng rắn, công khai hơn

trong thời kì cầm quyền của Tổng thống Bush (con).

Trong bối cảnh đó, sự kiện nước Mỹ bị tấn công khủng bố ngày 11 - 9 -

2001 là một đòn choáng váng thúc đẩy mạnh mẽ hơn nữa âm mưu thiết lập trật tự đơn

cực của Mỹ. Sau khi mất ngọn cờ “chống cộng” để tập hợp lực lượng trong chiến

tranh lạnh, Mỹ đưa ra chiêu bài thành lập liên minh chống khủng bố quốc tế để tập

7http://www.academia.edu/4477507/Nh%E1%BB%AFng_Mau_thu%E1%BA%ABn_trong_quan_h %E1%BB%87_qu%E1%BB%91c_t%E1%BA%BF_sau_chi%E1%BA%BFn_tranh_l%E1%BA%A 1nh

17

hợp lực lượng nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành một trật tự thế giới

mới do Mỹ chi phối. Sự kiện 11 - 9 - 2001 được dùng để biện minh cho quyết định sử

dụng lực lượng quân sự phát động cuộc chiến tranh chớp nhoáng ở Apganixtan (10 -

2001) và cuộc chiến tranh Irắc (3 - 2003) của Mỹ, bất chấp sự phản đối của dư luận

quốc tế. Mỹ đã lợi dụng cuộc chiến chống khủng bố để tăng cường sức mạnh và thực

hiện mục tiêu chiến lược lâu dài bá chủ thế giới của mình. Chủ nghĩa đơn phương, ý

đồ thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mỹ đã vấp phải sự chống đối không những

của các nước lớn như Pháp, Đức, Nga, Trung Quốc… mà còn của hầu hết các quốc

gia trên thế giới. Phong trào chống chiến tranh, chống chính sách hiếu chiến của Mỹ

ở Irắc lan rộng khắp thế giới. Mâu thuẫn giữa chủ trương xây dựng thế giới đơn cực

do Mỹ chi phối với yêu cầu thiết lập một trật tự đa cực của các nước lớn và cộng

đồng quốc tế là một trong những mâu thuẫn cơ bản trong quan hệ quốc tế thời kì sau

Chiến tranh lạnh.

Thứ hai là mâu thuẫn về lợi ích dân tộc. Lợi ích dân tộc là tiêu chí hàng đầu

của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, trong thời kì

Chiến tranh lạnh, khi thế giới bị chia làm hai phe do hai siêu cường khống chế, lợi ích

dân tộc nhiều khi bị đặt xuống dưới, thậm chí bị hi sinh để bảo vệ “lợi ích quốc tế”

của mỗi phe. Sau khi chiến tranh lạnh chấm dứt, lợi ích dân tộc được đặt lên hàng

đầu. Mỗi quốc gia dù lớn hay nhỏ đều xuất phát từ lợi ích dân tộc để thể hiện quan

điểm, thái độ riêng đối với các vấn đề quốc tế. Thực tế cho thấy, điều đó được thể

hiện trong thái độ của các nước đối với các vấn đề quốc tế lớn hiện nay như: vấn đề

chống khủngbố quốc tế, cuộc chiến tranh Apganixtan, chiến tranh Irắc, vai trò của

Liên Hợp Quốc, vấn đề môi trường, vấn đề hạt nhân, nhân quyền… và hàng loạt

những vấn đề khác. Sự tập hợp lực lượng trở nên cơ động, linh hoạt, tuỳ theo từng

vấn đề, từng thời điểm trong quan hệ quốc tế, không phân biệt chế độ chính trị - xã

hội khác nhau, trên cơ sở đảm bảo tốt nhất cho lợi ích dân tộc.

18

Thứ ba là mâu thuẫn về sắc tộc, tôn giáo. Đây là mâu thuẫn đã từng tồn tại từ

lâu đời trong lịch sử nhân loại. Xung đột sắc tộc, tôn giáo vốn được biết đến như

những hậu quả của chính sách “chia để trị” của chủ nghĩa thực dân, đồng thời còn bắt

nguồn từ sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hoá, việc tranh giành ảnh hưởng

quyền lực giữa các nhóm sắc tộc, sự xúi giục, kích động của một số thế lực bên

ngoài… Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, trong xu thế dân chủ, đa nguyên, đa đảng,

các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo bùng nổ, lan rộng và diễn ra ngày càng quyết liệt

ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Trong đó, chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan có điều

kiện tăng cường hoạt động và trở thành nguồn gốc của chủ nghĩa khủng bố quốc tế

hiện nay. Xu hướng chính của chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan là chống Mỹ và các nước

phương Tây thân Mỹ, nhưng lấy thủ đoạn khủng bố làm vũ khí. Chính sách đối ngoại

hiếu chiến của chính quyền Mỹ đã khiến cho Mỹ trở thành đối tượng của chủ nghĩa

khủng bố ở khắp mọi nơi trên thế giới. Khủng bố quốc tế có tác động mạnh mẽ đến

quan hệ quốc tế, gây bất ổn định trong nội bộ quốc gia, đồng thời tác động đến hoà

bình, an ninh khu vực nói riêng và trên thế giới nói chung. Tình hình sẽ trở nên đặc

biệt phức tạp khi khủng bố và chống khủng bố trở thành công cụ của nhà nước này

chống lại nhà nước khác, làm căng thẳng quan hệ quốc tế.

Thứ tư là mâu thuẫn về hệ tư tưởng. Đã hơn 10 năm trôi qua sau khi chiến

tranh lạnh kết thúc. Liên Xô tan rã, nhưng mâu thuẫn về ý thức hệ không vì thế mà

mất đi. Trên bình diện quốc tế, các nước tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mỹ vẫn chưa

từ bỏ ý đồ thực hiện “diễn biến hoà bình” với các nước xã hội chủ nghĩa còn lại như

Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Bắc Triều Tiên… Biên giới của thời kỳ Chiến tranh

lạnh vẫn còn ở bán đảo Triều Tiên, eo biển Đài Loan. Để chống các nước xã hội chủ

nghĩa, các nước tư bản không chỉ dùng diễn biến hoà bình mà còn dùng biện pháp

bao vây, cấm vận, sự trừng phạt về kinh tế, đe doạ về quân sự, sử dụng chiêu bài bảo

vệ dân chủ, nhân quyền… Tuy nhiên, sự tồn tại của mâu thuẫn về ý thức hệ không

thể cản trở quá trình hợp tác kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay giữa các 19

nước có hệ thống chính trị xã hội đối lập nhau. Trong tình hình đó, mâu thuẫn giữa

các nước xã hội chủ nghĩa với Mỹ và các nước tư bản chủ nghĩa khác vẫn là đối

kháng về ý thức hệ song sự đối kháng đó không phải là nhân tố chủ đạo chi phối quan

hệ quốc tế như trong thời kỳ chiến tranh lạnh trước đây. Mâu thuẫn về ý thức hệ giữa

chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội được thể hiện chủ yếu thông qua “diễn biến hoà

bình” và “chống diễn biến hoà bình”. Cuộc đấu tranh này diễn ra trên nhiều phương

diện và là một quá trình đấu tranh lâu dài.

Thứ năm, mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển với các nước đang phát

triển (mâu thuẫn Bắc - Nam) tiếp tục diễn ra gay gắt, khoảng cách giữa các nước giàu

với các nước nghèo ngày càng lớn. Theo báo cáo của Chương trình phát triển Liên

Hợp Quốc (UNDP), tổng thu nhập kinh tế thế giới những năm cuối thế kỷ XX, đầu

thế kỷ XXI, vào khoảng 25.000 tỉ đôla Mỹ, trong đó các nước phát triển Mỹ, EU và Nhật chiếm tới 88%8. Phần còn lại là của trên 100 nước đang phát triển. Sự cách biệt

giàu nghèo ngày càng lớn đã và đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định, an

ninh và sự thịnh vượng chung của thế giới. Tình trạng nghèo khổ, bất bình đẳng, mâu

thuẫn sắc tộc, tôn giáo bùng lên đã khiến cho quy mô của chủ nghĩa khủng bố lan tràn

trên khắp các lục địa, với những hình thức hết sức đa dạng. Mâu thuẫn về khoảng

cách giàu nghèo còn diễn ra trong nội bộ từng nước, đặc biệt là trong các nước tư bản

phát triển. Cuộc đấu tranh đòi dân chủ, nâng cao chất lượng cuộc sống, chống thất

nghiệp, tệ nạn xã hội… ở các nước tư bản diễn ra ngày càng mạnh mẽ.

Nhìn chung có thể thấy, các mâu thuẫn cơ bản của thời đại vẫn còn tồn tại,

song sự vận động của chúng có những biểu hiện mới, không giống như thời kỳ chiến

tranh lạnh. Điều đó có tác động quyết định đến chiều hướng phát triển của quan hệ

quốc tế sau chiến tranh lạnh.

8http://tailieu.vn/doc/mau-thuan-trong-quan-he-quoc-te-sau-chien-tranh-lanh-631530.html, cập nhật ngày 27/05/2011

20

1.2. Những vấn đề lý luận về văn hóa

1.2.1. Khái niệm văn hoá

Chúng ta không thể bỏ qua khái niệm “văn hoá” trước khi đề cập đến văn hoá

Mỹ ảnh hưởng đến các nước châu Âu. Từ “văn hoá” là một trong các từ ngữ được

dùng rộng rãi nhất không chỉ trong các môn khoa học tinh thần, trong hoạt động văn

hoá và du lịch, mà còn cả trong đời thường của mọi dân tộc.

Vậy văn hoá là gì? Đường lối văn hoá của Đảng Cộng sản Việt Nam xác định

“Văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển”. Nhưng đó là nói trên khía cạnh chức năng văn hoá9.

Nhìn lại các định nghĩa về văn hoá, thấy có hai cách hiểu: cách hiểu thứ nhất

dựa vào các đặc trưng dân gian, chủ yếu chỉ các tập quán của một dân tộc, bộ tộc hay

một nhóm người và có thể là của một tập thể bất kỳ; cách hiểu thứ hai hướng đến sự

đối lập giữa giới tự nhiên và văn hoá.

Trong nghiên cứu văn hoá, các nhà nghiên cứu đã trải qua mấy thế kỷ tranh

luận mới đến được ý tưởng xem văn hoá như một hình thức duy nhất đúng và ở trình

độ phát triển cao nhất. Ở đây có một sự thống nhất tương đối giữa các nhà khoa học.

Trong đó công trình Primitive Cultrure (Văn hoá nguyên thuỷ) của E. B. Tylor xuất bản năm 1871 được xem là viên đá tảng của dân tộc học hiện đại10. Theo Tylor thì

văn hoá “Trong ý nghĩa dân tộc học rộng nhất của nó bao gồm toàn bộ hiểu biết, tín

ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và toàn bộ các năng lực và thói quen mà con người với tư cách thành viên của xã hội phải thích nghi”11. Nhà nhân

9http://dangcongsan.vn/cpv/Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30519&cn_id=87206, cập nhật 31/1/2006 10 E. B. Tylor: Văn hoá nguyên thuỷ. Người dịch (từ bản tiếng Nga): Huyền Giang, Hà Nội,2001. 11E. B. Tylor: Sđd

21

loại học người Anh nổi tiếng B. K. Manilowski thì lại xem văn hoá đại thể như là

ứng xử đồng nhất của một tập thể. Nghĩa là đồng nhất văn hoá với bản sắc văn hoá.

Bản sắc này đặc biệt rõ ràng khi người ta quan sát văn hoá của một khu vực hay cộng

đồng xa lạ trong khi tiến hành nghiên cứu điền dã. Vào năm 1952, các nhà dân tộc

học nổi tiếng Kroeber và Kluckhohn (Mỹ) đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa

khác nhau về văn hoá trong các công trình nổi tiếng thế giới. Gần đây việc định nghĩa

về văn hoá không chỉ được các nhà khoa học mà còn cả các nhà chính trị, không chỉ

cá nhân người nghiên cứu mà còn cả các tổ chức thậm chí như UNESCO đưa ra.

Trong tình hình quá đa dạng như vậy, một định nghĩa về văn hoá dựa trên ý kiến của

hai nhà dân tộc học nổi tiếng thế giới là Kroeber và Kluckhohn và của Kohl - nhà nghiên cứu người Đức12 đã được đưa ra cụ thể như sau13:

Văn hoá là tổng thể các thành tựu vật chất và tinh thần của các cộng đồng

người, có tính lịch sử, bao gồm tư tưởng, phong tục tập quán, và các giá trị; được

chọn lọc và học tập mà thành; nó thể hiện bằng các biểu trưng/biểu tượng và là sự

trừu tượng hoá và sản phẩm của hành vi của con người.

Định nghĩa văn hoá này có ngoại diên đủ rộng để bao chứa các loại yếu tố của

văn hoá; có nội hàm đủ sâu để chỉ thừa nhận những tinh hoá có giá trị của một xã hội.

Văn hoá có đặc tính là sự kết tinh, sự đọng lại của lịch sử. Chừng nào một yếu tố

chưa trở thành truyền thống, chưa trở thành chuẩn mực và giá trị của số đông, thì yếu

tố đó chưa thể coi là văn hoá đích thực. Trong quan niệm về văn hoá, cần đặc biệt

nhận thức đúng tầm quan trọng của hệ giá trị, của cách thức tư duy và hành động của

12Dẫn theo W. Bisang et al. (ed): Văn hoá Ngôn ngữ, Tiếp xúc (tiếng Đức), Wuerzburg 2004, tr38. 13 “Culture is product; is historical; includes ideas patterns and values; is selective; is learned; is based upon symbols; and is an abstraction from behavior and the products of behavior.” Trong: Kroeber, A./Kluckhohn, C.K.M.: Culture: a critical review of concepts and definitions. Papers of Peabody Museum of American Archaeology and Ethnology, Havard University, 47.12 Cambridge, Mass. 1952. Dẫn theo W. Bisang trong: Sđd

22

con người, vì đó là cái gốc của mọi biểu tượng, mọi thành công hay thất bại, văn

minh hay lạc hậu của một nền văn hoá.

1.2.2. Bản sắc văn hoá

Theo cách hiểu tâm lý - xã hội học thì bản sắc thường có hai cách định nghĩa:

(1) Bản sắc là toàn bộ các đặc trưng có thể giúp phân biệt một cá thể này với mọi

cá thể khác. Định nghĩa này cho phép người ta đồng nhất một cách rõ rệt các sự

vật theo cách nhìn tâm thần học.

(2) Bản sắc là toàn bộ các đặc trưng làm nên một cá nhân và phân biệt giữa bản

sắc – Tôi (những đặc trưng duy nhất) và bản sắc – Ta (những đặc trưng cùng

có ở một tập thể).

Bản sắc của một dân tộc vừa phải bao gồm những đặc tính đồng nhất với bản

sắc khu vực và nhân loại, lại vừa phải mang những đặc trưng độc đáo không thể

nhầm lẫn với các dân tộc khác. Bản sắc văn hoá là các yếu tố truyền thống và các

chuẩn mực về cảm thụ, về giá trị và về ứng xử thể hiện thống nhất ở tuyệt đại đa số

thành viên của một cộng đồng nhờ học tập từ kinh nghiệm của một cộng đồng văn

hoá.

1.2.3. Khái niệm và mô hình tiếp xúc văn hoá

Mọi thành quả văn hoá cũng như cấu trúc ngôn ngữ không thể nào tồn tại bất

biến qua mọi thời đại, mà trái lại chúng thường xuyên biến đổi. Một trong những

động lực của sự biến đổi đó là sự tiếp xúc giữa các nền văn hoá thông qua các cư dân

của họ. Muốn cắt nghĩa được hiện tượng tiếp xúc văn hoá, người ta một mặt cần xuất

phát từ thực tiễn những biến đổi của đời sống văn hoá của các dân tộc sống kề nhau,

mặt khác phải xuất phát từ mô hình tiếp xúc thể hiện động lực đem lại những biến đổi

23

to lớn trong cấu trúc nhà nước, của xã hội, tôn giáo, kinh tế, các hình thức cư trú, của nghệ thuật và ngôn ngữ14.

Quan niệm về tiếp xúc có thể rất khác nhau, tuỳ vào lĩnh vực chuyên môn của

nhà nghiên cứu. Tiếp xúc văn hoá là hiện tượng các nền văn hoá tiếp xúc với nhau

thông qua các hoạt động giao lưu kinh tế, tôn giáo, chinh phục và chiếm đóng quân

sự của các cư dân, tạo ra những ảnh hưởng văn hoá lẫn nhau, làm biến đổi các nền

văn hoá tiếp xúc.

Do đó, có thể nói tiếp xúc văn hoá và ảnh hưởng văn hoá là những khâu kế tiếp

nhau tất yếu của một quá trình tiếp xúc. Mức độ và chiều hướng ảnh hưởng đối với

nhau trong tiếp xúc văn hoá là không giống: có văn hoá giữ vai trò chủ động tích cực

truyền bá áp đảo; nhưng có nền văn hoá bị động, tiếp nhận và bị áp đặt, ít có cơ hội

ảnh hưởng ngược lại; có tiếp xúc để lại ảnh hưởng lâu dài, nhưng cũng có những tiếp

xúc không để lại ảnh hưởng đáng kể nào. Điều này tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử

cụ thể.

Động cơ nảy sinh tiếp xúc văn khá đa dạng:

- Động cơ kinh tế: Trao đổi hàng hoá nhằm cải thiện đời sống; khai thác các

nguồn nguyên liệu mà mình không có (khoáng sản, lầm thổ sản, vật liệu xây

dựng); tăng cường lực lượng lao động bằng cách thuê công nhân nước

ngoài, hoặc để tăng dân số; khắc phục tình trạng nguy cấp do thiên tại, địch

hoạ, biến đổi thời tiết.

14W Bisang: Kultur and Sprache aus der Perspektive des Kontaktes (Văn hoá và ngôn ngữ theo cách nhìn tiếp xúc) trong: W. Bisang/ T. Bierscheck/D. Kreikenbom/U. Verhoeven (ed): Văn hoá, Ngôn ngữ, Tiếp xúc (tiếng Đức) Wuerzburg 2004 tr.2

24

- Động cơ chính trị: Gìn giữ hoà bình; tìm kiếm uy quyền, bành trướng thế

lực và sự can thiệp bằng các cuộc xâm chiếm lãnh thổ, cấu kết với các thế

lực bên ngoài nhằm thay đổi cán cân trong tranh giành quyền lực.

- Động cơ tôn giáo và hệ tư tưởng: Du nhập tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội tôn

giáo mới; hoặc học tập các hệ tư tưởng cách mạng hay cải cách, hoặc các

trào lưu chính trị thời thượng.

- Động cơ cá nhân, hiểu biết và nhu cầu tâm lý – xã hội: Do hôn nhân, hiếu

kỳ, cô đơn, nhu cầu cảm thông và chia sẻ (ví dụ trao đổi các trang blog nhật

ký cá nhân trên Internet ngày nay), học tập nâng cao trí thức (vd.y dược

học, toán học, địa lý học). - Do lãnh thổ liền kề nhau15.

Biểu hiện dễ thấy nhất về kết quả tiếp xúc văn hóa là trên lĩnh vực ngôn ngữ

(ví dụ từ/ thuật ngữ ngoại lai, từ/thuật ngữ vay mượn), trang phục, tín ngưỡng – tôn

giáo, cho đến những khía cạnh biển đổi chậm hơn nhưng sâu sắc hơn, như hệ tư

tưởng, văn chương, mỹ thuật, trí tuệ khoa học, mô hình chính trị nhà nước…Quá

trình tiếp xúc thường diễn ra toàn diện trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế, đến chính

trị, văn hóa, tôn giáo, và những tiếp xúc đa dạng đó liên quan chặt chẽ đến nhau, tác

động lẫn nhau.

Quá trình tiếp xúc văn hoá giữa hai nền văn hoá có thể đồng thời đem lại

những kết quả rất khác nhau. Có những khả năng sau đây xảy ra:

(1) Một trong hai nền văn hoá áp đảo và bao trùm lên nền văn hoá kia, nói cách

khác nền văn hoá mạnh đã đồng hoá hoàn toàn nền văn hoá yếu. Chỉ còn

một số tàn tích yếu ớt rơi rớt lại trong nền văn hoá chiến thắng. Đây là tình

15 So sánh: W. Bisang: Kultur and Sprache aus der Perspektive des Kontakes (Văn hoá và ngôn ngữ nhìn từ quan điểm tiếp xúc) trong: W. Bisang et al (ed.): Kultur, Sprache, Kontakt (Văn hoá, Ngôn ngữ, Tiếp xúc), Wuerrzbug, 2004, tr.1 – 53.

25

trạng phổ biến ở các quốc gia dân tộc, trong đó có một dân tộc đa số có văn

hoá phát triển mạnh áp đảo.

(2) Hai nền văn hoá đồng hoá lẫn nhau, pha trộn lẫn nhau vào nhau, tạo thành

một văn hoá mới bao chứa các yếu tố của cả hai nền văn hoá gốc. Trong

trường hợp này xảy ra sau khi hai nền văn hoá tiếp xúc có sức mạnh tương

đương và cũng có một số đặc điểm cấu trúc loại hình cơ bản. Đó cũng

thường là hai nền văn hoá thuộc cùng một khu vực địa lý.

(3) Hai nền văn hoá vay mượn lẫn nhau, bổ sung cho nhau, trong đó thường

thấy một nền văn hoá vay mượn nhiều, có nền văn hoá vay mượn ít hơn, tuỳ

thuộc vào sự giàu có hay nghèo nàn, văn minh hay lạc hậu, dân số đông hay

ít của các nền văn hoá tiếp xúc. Đây là tình trạng phổ biến của tiếp xúc văn

hoá trong lịch sử.

Hai trường hợp (2) và (3) nêu trên thường đi kèm với một hiện tượng gọi là

tiếp biến văn hóa (Acculturation). Theo đó bên văn hóa tiếp nhận không dùng nguyên

sỉ các yếu tố như chúng vốn có trong văn hóa ngoại lai, mà biến đổi, chỉnh lý để

chúng phù hợp hơn với các đặc điểm của văn hóa bản địa. Nói cách khác, nền văn

hóa tiếp nhận cần “bản địa hóa” các yếu tố ngoại lai. Quá trình tiếp biến văn hóa do

đó có thể diễn ra nhanh hay chậm, đạt kết quả tích cực hay tiêu cực là tùy thuộc vào

nhiều điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội, tâm lý dân tộc.

1.2.4. Khái niệm tiếp biến văn hóa

Các nhà nghiên cứu Âu - Mỹ tuy có cách nhìn nhận hết sức đa dạng, nhưng

nhìn chung đều thống nhất cho rằng cả tiếp biến văn hoá và hội nhập văn hoá đều là

các quá trình bộ phận hợp thành một khái niệm bao trùm - khái niệm toàn cầu hoá và

khái niệm hẹp hơn - khái niệm toàn cầu hoá văn hoá.

Trước hết cần điểm lại một số quan niệm về Tiếp biến văn hoá. Đây là một

26

khái niệm được nói đến thường xuyên cả ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Nếu ta

đưa từ Tiếp biến văn hoá tiếng Việt vào trang Google.com.vn thì với 0,25 giây ta đã

thu được 26 triệu kết quả; từ Tiếp xúc văn hoá cho ta 15,8 triệu kết quả. Tất nhiên kết

quả trên không thấm tháp gì khi so sánh với kết quả tra cứu trên trang mạng tiếng

Anh. Nếu ta đưa cụm từ tiếng Anh Acculturation vào trang mạng công cụ tìm kiếm

Google.com thì kết quả cũng rất cao: Chỉ trong vòng 0,26 giây sau chúng ta nhận

được 2,51 triệu kết quả. Nếu tra cứu thêm các từ ngữ khác liên quan trực tiếp đến

Tiếp biến văn hoá, như khái niệm Tiếp xúc văn hoá chẳng hạn, thì ta thu được hàng

trăm triệu kết quả. Chỉ riêng khái niệm Tiếp xúc văn hoá (cultural contact) với thời

gian 0,27 giây ta đã có tới 442 triệu kết quả! (số liệu lúc 8g30 ngày 8/7/2012). Tuy

không phải các con số tin tức trên đều mang ý nghĩa học thuật, nhưng tình trạng đa

dạng như vậy nói lên môt điều rằng các hiện tuợng tiếp biến văn hoá đã và đang diễn

ra phổ biến và thu hút sự quan tâm của công luận. Trên góc độ học thuật, thật khó mà

điểm lại được tất cả các quan niệm, hay có thể tìm đuợc một quan niệm thống nhất về

khái niệm này. Tuy nhiên, nếu ta phân tích nội dung của các định nghĩa mà người ta

đưa ra, vẫn có thể rút ra được một số ý tương đối nhất trí, nhất là trong phát biểu của

các học giả và tổ chức có uy tín quốc tế. Tiếp biến văn hoá thường được định nghĩa là

các quá trình thay đổi trong các vật phẩm, phong tục, hệ giá trị và niềm tin như là kết

quả từ sự tiếp xúc của hai hay nhiều nền văn hóa. Sự thay đổi này có ở một hay tất cả

các nền văn hoá tiếp xúc với nhau.

Suy nghĩ đầu tiên được ghi lại về tiếp biến văn hóa được tìm thấy trong chữ

khắc Sumer từ năm 2370 trước công nguyên.Văn bản đó đã đặt ra các quy tắc thương

mại và tương tác với người nước ngoài được thiết kế để hạn chế thâm nhập văn hóa

và bảo vệ thực hành văn hóa truyền thống. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại Platon cũng nói rằng cần phải tránh tiếp biến văn hóa vì nó sẽ dẫn đến rối loạn xã hội16. Theo đó,

16 http://www.hoalinhthoai.com/news/detail/news-536/

27

ông đề nghị mọi người không nên đi du lịch ra nước ngoài cho đến khi ít nhất 40 năm

tuổi, và rằng du khách nên được giới hạn đến các cảng của thành phố để giảm thiểu

tiếp xúc với người dân bản địa.

J.W. Powell được xem là người đầu tiên đã đặt ra thuật ngữ "tiếp biến văn hóa"

trong công trình Introduction to the study of Indian languages (Nhập môn nghiên cứu

về các ngôn ngữ Anh - điêng) xuất bản năm 1880. Ông định nghĩa nó như là "thay đổi

tâm lý gây ra bởi đa văn hóa giả." Công trình nghiên cứu theo quan điểm hiện đại

đầu tiên ra đời năm 1918 của Florian Znaniecki với tiêu đề "Nông dân Ba Lan ở Châu

Âu và Mỹ". Trong tác phẩm này ông đã khảo sát văn hoá của người nhập cư Ba Lan

ở Chicago, đưa ra nhận định về ba hình thức của tiếp biến văn hóa tương ứng với ba

kiểu người: (i) tiếp nhận hoàn toàn văn hóa chủ nơi nhập cư và từ bỏ văn hóa xuất

xứ), (ii) duy trì nguyên trạng văn hoá xuất xứ (pha m tục) khước từ nền văn hóa mới,

(iii) sáng tạo ra một văn hoá mới trên cơ sở thích ứng với nền văn hóa chủ nhà mà vẫn bảo tồn văn hóa xuất xứ.(4) Năm 1936, ba nhà nghiên cứu Redfield, Linton,

Herskovits đưa ra một định nghĩa được sử dụng rộng rãi đầu tiên cho khái niệm tiếp

biến văn hóa. Họ định nghĩa tiếp biến văn hoá là "những hiện tượng xảy ra khi một

nhóm cá nhân có nền văn hóa khác nhau có những tiếp xúc đầu tiên hay liên tục, tạo

ra những thay đổi tiếp theo trong các mô hình văn hóa gốc của một trong hai hoặc cả

hai nhóm văn hoá...”. Theo định nghĩa này tiếp biến văn hóa (acculturration) được

phân biệt với đồng hóa (assimilation) vốn chỉ là một khâu của tiếp biến văn hóa mà

thôi. Từ điển Bách khoa toàn thư Anh thì định nghĩa “Tiếp biến văn hóa là các quá

trình thay đổi trong các vật phẩm, phong tục, và niềm tin như là kết quả từ sự tiếp

xúc của hai hay nhiều nền văn hóa. Thuật ngữ này cũng được sử dụng để tìm hiểu

các kết quả của sự thay đổi đó.” Cũng theo Bách khoa toàn thư này, có hai kiểu chính

của tiếp biến văn hóa là tính có tổ chức và sự thay đổi có định hướng. Chúng có thể

được phân biệt trên cơ sở các điều kiện mà quá trình tiếp xúc văn hóa và sự thay đổi

đã diễn ra. Như vậy Bách khoa toàn thư trứ danh này đã nhấn mạnh tính chủ động 28

của chủ thể tiếp nhận yếu tố văn hoá bên ngoài. Thực tế tiếp biến văn hoá ở các dân

tộc cho thấy có những tiếp biến không phải lúc nào cũng mang tính chủ động và có

định hướng được, nhất là ở những trường hợp mà vai trò quản lý và định hướng của

nhà nước và các thiết chế xã hội có nhiều hạn chế.

Tuy các lý thuyết về tiếp biến văn hoá đa dạng và phong phú như vậy, nhưng

mô hình hoàn thiện nhất là đi vào xem xét những thay đổi xảy ra ở cấp độ nhóm và cá

nhân của cả hai nhóm tương tác. Để hiểu được tiếp biến văn hóa ở cấp độ nhóm, đầu

tiên phải xem xét bản chất của cả hai nền văn hóa trước khi tiếp xúc với nhau. Theo

hướng đó, E. Kramer (người Mỹ) đã đưa ra Lý thuyết tích hợp chiều và phân ly

(Theory of Dimensional Accrual and Dissociation/DAD), như trong các công trình

sau: Consciousness and Culture: An Introduction to the Thought of Jean Gebser

(1992), Modern/Postmodern: Off the Beaten Path of Antimodernism (1997),

Postmodernism and Race (1997), The Emerging Monoculture: Assimilation and the

"Model Minority (2003),Religious Misperceptions: The case of Muslims and

Christians in France and Britain (2011), Dimensional accrual and dissociation: An

introduction (2012, trong: J. Grace (Ed.), Comparative Cultures and Civilizations

(Vol. 3)… Trong đó, ông sử dụng lại nhiều khái niệm từ các học giả khác để đi đến

một giải thuyết về biểu hiện khác biệt văn hóa theo không gian và thời gian. Quan

trọng nhất, lý thuyết DAD của Kramer nhấn mạnh rằng, việc nghiên cứu các nền văn

hóa khác nhau tiếp xúc với nhau trong điều kiện giống nhau lý tưởng sẽ giúp giải

thích sự khác biệt giữa các nền văn hóa đã ảnh hưởng đến quan hệ giữa các nền văn

hóa, giữa các sắc tộc cũng như đến quá trình tiếp biến văn hóa như thế nào. Lý thuyết

DAD Kramer phê phán các quan niểm cho rằng các nền văn hóa khác nhau biểu hiện

các chế độ giao tiếp khác nhau; theo đó thì có chế độ lý tưởng (idolic) hoặc chế độ ký

hiệu học (signalic). Theo ông, không có kiểu giao tiếp nào là nền tảng và có giá trị

phổ quát cao hơn những kiểu giao tiếp khác. Cũng không có giải pháp cuối cùng cho

cuộc xung đột giữa các nền văn hóa. Thay vào đó, ông đưa ra ba lý thuyết tích hợp: 29

Lý thuyết về tích hợp Chiều và Phân ly, lý thuyết hợp nhất văn hóa (cultural Fusion)

và lý thuyết làn sóng văn hóa. Mặt tích cực của lý thuyết DAD Kramer, là đưa ra một

phương thức học tập, tích hợp thông tin mới, và quá trình hội nhập này luôn ở trong

điều kiện dễ hiểu đối với người học.

Có nghiên cứu cho rằng, trong tiếp biến văn hoá, việc áp dụng các chuẩn mực

văn hóa của nền văn hóa chủ nhà có thể ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe của các

nhóm người nhập cư, vì mức độ căng thẳng tâm lý, những khó khăn trong tiếp cận

các nguồn lực y tế, những hạn chế về ngôn ngữ giao tiếp và sự cô đơn kéo dài. Chẳng

hạn nghiên cứu của Lara, Gamboa, Kahramanian, Morales & Bautista (2005) về

người nhập cư ở Mỹ cho thấy do phải hội nhập vào văn hoá Mỹ, những người Mỹ

gốc Latin có mức độ hiệu ứng tiêu cực về sức khỏe, nhưng họ lại nhận được tác động

tích cực trong sử dụng và tiếp cận các điều kiện chăm sóc sức khỏe, chẳng hạn ở

người nhập cư Mexico nữ vị thành niên.

Trong nghiên cứu tiếp biến văn hoá, một số người (chẳng hạn A. Schneider,

2003) chú ý đến hiện tượng gọi là Chiếm đoạt văn hóa (Cultural appropriation). Đó là

việc thông qua một số yếu tố cụ thể của một nền văn hóa của một nhóm văn hóa khác

nhau. Nó có thể bao gồm việc giới thiệu các hình thức âm nhạc, trang phục, trang

điểm cá nhân và nghệ thuật, tôn giáo, ngôn ngữ, hoặc hành vi. Những yếu tố này

thường được nhập khẩu vào nền văn hóa hiện có, và có thể có ý nghĩa cực kỳ khác

nhau hoặc thiếu tinh tế như vốn có trong ý nghĩa ban đầu ở văn hóa gốc. Chiếm đoạt

văn hóa đôi khi được xem là tiêu cực, và đã được gọi là "văn hóa hành vi trộm cắp"

(cultural theft). Có học giả Phương Tây công khai lên án hành vi gọi là Chủ nghĩa đế

quốc văn hóa. Đó là việc một nước lớn vạch ra chiến lược và thực hiện hành vi chèn

ép văn hóa hoặc ngôn ngữ của một quốc gia khác, dùng các thủ đoạn để đồng hóa nền

văn hóa của nước khác theo những chuẩn mực của mình, đặt nó trong vòng cương toả

của văn hoá nước lớn của mình. Chủ nghĩa đế quốc văn hóa có thể biểu hiện ra ở một

30

chính sách nhà nước, hoặc một thái độ chung về ưu thế văn hóa nước lớn, nó thường

đi kèm với các chính sách khác về chính trị, ngoại giao và kinh tế.

1.2.5. Toàn cầu hóa

Một khi đề cập đến ảnh hưởng của văn hóa Mỹ đến Châu Âu, thì tất yếu cần

xem xét bối cảnh lịch sử của quá trình tiếp xúc và ảnh hưởng lẫn nhau của các nền

văn hóa. Trong đó đặc trưng nổi bật nhất là bối cảnh toàn cầu hóa. Nhưng toàn cầu

hóa là một khái niệm phức tạp, gây tranh luận trên mọi khía cạnh, từ nguyên nhân,

chủ thể, bản chất, nội dung, phân kỳ lịch sử, đến kết quả của quá trình vĩ đại đó.

Không những thế trên phương diện phương pháp luận thì còn phải xem xét quá trình

toàn cầu hóa trong tương tác với các quá trình khác diễn ra đồng thời, mà nhiều khi

người ta khó lòng khẳng định được một hiện tượng nào đó có thuộc về toàn cầu hóa

hay không.

Vấn đề gây tranh luận đầu tiên là, toàn cầu hóa chỉ diễn ra trên lĩnh vực kinh tế

hay là trên cả lĩnh vực khác như chính trị và văn hóa.Vấn đề thứ hai là chủ thể của

toàn cầu hóa. Người ta không nhất trí với nhau xem chủ thể của toàn cầu hóa là các

quốc gia, các doanh nghiệp hay cá nhân.

Về vấn đề gây tranh cãi thứ nhất, có ba quan điểm khác nhau17:

- Toàn cầu hóa chỉ là hiện tượng kinh tế

- Toàn cầu hóa là hiện tượng kinh tế và chính trị

- Toàn cầu hóa là quá trình đa chiều/ đa hệ: cả kinh tế, chính trị - an ninh và

văn hóa.

17 Trong một cuốn sách của tác giả Phạm Thái Việt còn đưa ra tới trên hai mươi cách hiểu khác nhau về toàn cầu hóa, trong đó hầu hết đều hiểu toàn cầu hóa như một quá trình đa hệ: Xem: Phạm Thái Việt: Toàn cầu hóa: Những biến đổi lớn trong đời sống chính trị quốc tế và văn hóa. Hà Nội, 2006, tr 21 – 27.

31

Ba quan điểm khác nhau này phản ánh ba bước tiến về nhận thức của giới

nghiên cứu về hiện tượng toàn cầu hóa. Cuối cùng người ta nhận thức toàn cầu hóa là

quá trình đa chiều, không loại trừ hiện tượng toàn cầu hóa về văn hóa. Bởi vì các hiện

tượng văn hóa không chỉ là sản phẩm kéo theo của kinh tế, mà chúng đồng thời có thể

là tiền đề cho toàn cầu hóa và thậm chí đi trước cả toàn cầu hóa kinh tế nữa.

Như vậy toàn cầu hóa là tổng thể đa chiều của các quá trình mở rộng tác động

đến phạm vi toàn cầu của các hiện tượng trong đời sống xã hội và cá nhân (kinh tế,

chính trị, văn hóa…), tạo nên phức thể toàn cầu có điều tiết của các quan hệ xã hội.

Vấn đề cơ bản của nội dung toàn cầu hóa thể hiện trên mấy điểm sau đây:

- Những yếu tố văn hóa nào (thuộc các nền văn hóa nào) được toàn cầu hóa,

và tại sao lại là những yếu tố đó chứ không phải là yếu tố khác?

- Các yếu tố văn hóa được toàn cầu hóa theo cách thức nào?

- Kết quả hay tác động của toàn cầu hóa văn hóa đối với đời sống các quốc

gia trên các phương diện văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội như thế nào?

- Các quốc gia cần ứng xử như thế nào với làn sóng toàn cầu hóa để phát

triển văn hóa của mình và đóng góp cho văn hóa chung của nhân loại?

Toàn cầu hóa văn hóa hiển nhiên là một chiều cạnh quan trọng và tất yếu cả

tổng thể toàn cầu hóa. Như mọi yếu tố thượng tầng khác - chẳng hạn như chính trị,

pháp luật - văn hóa phụ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh tế. Nhưng một khi

văn hóa được kiến tạo nên, thì nó vẫn có tính độc lập tương đối nhất định đối với lĩnh

vực kinh tế và chính trị. Khoa học chính trị ngày nay nhất trí rằng các vấn đề văn hóa

đóng vai trò ngày càng quan trọng trong nền chính trị quốc gia và quốc tế sau thời kỳ

Chiến tranh Lạnh. Chính trị bản sắc trở thành tâm điểm trong chương trình nghị sự

chính trị.

32

Vậy toàn cầu hóa văn hóa là gì? Trên cơ sở định nghĩa chung về toàn cầu hóa

và những đặc thù của các hiện tượng văn hóa, chúng ta có thể hiểu: Toàn cầu hóa là

toàn bộ các quá trình mở rộng phạm vi vận dụng các yếu tố chuẩn mực, giá trị, tri

thức và lối sống của các nền văn hóa, khiến chúng trở thành các chuẩn mực, giá trị,

tri thức và lối sống phổ quát của nhân loại.

Toàn cầu hóa văn hóa, giống như các dạng toàn cầu hóa kinh tế và chính trị,

đều dựa trên những tiền đề chung như hệ thống công nghệ viễn thông (nghe nhìn)

siêu tốc, sự xóa bỏ nhiều rào cản quốc gia quan trọng về chính trị, kinh tế, quá trình

cá nhân hóa, truyền thông và lao động. Nhưng nó còn dựa trên những tiền đề riêng

của văn hóa, như việc hình thành một ngôn ngữ giao tiếp chung (tiếng Anh và một

vài ngôn ngữ quốc tế mạnh khác), mức độ đồng đều tương đối của tri thức nhận được

qua giáo dục, sự thống nhất tương đối về ý chí và nhận thức của các quốc gia về vận

mệnh chung của nhân loại…

Một đặc điểm quan trọng khác về văn hóa của kỷ nguyên toàn cầu hóa giai

đoạn hiện nay là sự tràn sang nhau của các lĩnh vực văn hóa, chính trị và kinh tế.

Nhiều khi người ta khó phân biệt một sự kiện nào đó là sự kiện văn hóa, chính trị hay

kinh tế. Có thể thấy, trong kỷ nguyên toàn cầu hóa ngày nay, văn hóa không còn là

văn hóa thuần túy nữa, vì chính trị và kinh tế nhiều khi cũng đều phải mượn trang

phục và son phấn của văn hóa. Việc phân phối trên quy mô toàn cầu các sản phẩm

được tiêu chuẩn hóa quốc tế (theo phương Tây) sẽ tạo ra quá trình đồng nhất hóa các

giá trị và thói quen, lối sống của các dân tộc. Điều đó cho thấy tác động to lớn và lâu

bền của văn hoá trong đời sống nhân loại ở kỷ nguyên toàn cầu hóa.

1.2.6. Hội nhập văn hóa

Tương tự như khái niệm Tiếp biến văn hoá, thật khó mà có một định nghĩa

thống nhất về Hội nhập văn hóa, vì nó là liên quan đến nhiều khái niệm khác nữa và

33

tuỳ thuộc vào các quan điểm của người nghiên cứu. Tính phổ biến của khái niệm Hội

nhập văn hoá cao đến mức nếu ta trao vào mục từ tiếng Anh Cultural integration trên

trang công cụ tìm kiếm thông tin Google.com thì chỉ 0,26 giây sau chúng ta nhân

được 16,5 triệu kết quả (tra cứu lúc 8g15 ngày 8/7/2012). Bằng tiếng Việt, mục từ

Hội nhập văn hoá trên trang công cụ này cũng cho ta 33,1 triệu kết quả trong vòng

0,25 giây! (số liệu truy cập 12 giờ ngày 8/7/2012). Với quan niệm về một xã hội đa

văn hóa trong kỷ nguyên toàn cầu hoá kinh tế với vai trò chủ chốt của các công ty

xuyên quốc gia, hội nhập văn hoá phản ánh sự hội nhập tại nơi làm việc như văn

phòng các công ty, các tổ chức quốc tế. Hội nhập văn hoá liên quan đến văn hoá tiêu

dùng đại chúng, nơi tất cả mọi thứ từ thời trang đến thể thao, âm nhạc đến truyền

hình, được du nhập vào nền văn hoá quốc gia (văn hoá dân tộc) mà không gặp thách

thức nào. Về chủ thể của hội nhập văn hoá, các nghiên cứu của Phương Tây quan tâm

chủ yếu đến những nguời nhập cư đến từ các nước phi Phương Tây, nay họ hoà nhập

vào các xã hội Phuơng Tây như Pháp, Đức, Anh, Mỹ v.v… Năm 2009, một nhóm các

nhà khoa học của Đức và Mỹ dưới sự chỉ đạo của Viện nghiên cứu lao động Berlin

(Institue for the Study of Labor) đã công bố một bản báo cáo khá dầy dặn với tiêu đề

Hội nhập văn hoá ở Đức, nói về hội nhập văn hoá của người nhập cư - chiếm 9%

trong tổng số 83 triệu dân ở Đức hiện nay. Theo các tác giả, thì sự đồng nhất bản sắc

dân tộc là yếu tố quan trọng quyết định sự hội nhập kinh tế - xã hội của họ. Một khó

khăn lớn mà nghiên cứu này cố gắng giải quyết là phân tích khả năng nội sinh của các

quá trình kinh tế đã diễn ra trong tương tác với xã hội và văn hóa như thế nào. Trong

năm 2006, các học giả Constant, Gataullina, và Zimmermann đã đưa ra một khái

niệm đa chiều (multidimensional concept) về bản sắc dân tộc vốn vay mượn từ trong

kinh tế học cũng như tâm lý học xã hội và khoa học xã hội khác. Cụ thể, họ tạo ra

một cặp chỉ số định lượng dân tộc học (ethnosizer) đo lường mức độ đồng nhất dân

tộc của người nhập cư. Bản sắc dân tộc là việc cá nhân tự nhận thức như thế nào về

34

mình trong một môi trường và phân loại, so sánh những nét giống nhau hoặc khác

nhau của bản thân với những người khác cùng dân tộc.

Về tác động của hội nhập văn hoá, quan điểm của giới nghiên cứu cũng rất

khác nhau. Trong khi điều này có thể được nhìn nhận tích cực đối với thế giới thống

nhất, thì trong mắt nhiều người khác, hội nhập văn hóa được xem như là một mối đe

dọa đối với chủ quyền quốc gia và sự đa dạng văn hóa.

Nhìn chung các công trình nghiên cứu của các học giả Âu - Mỹ tập trung vào

hiện tượng tiếp biến và hội nhập văn hoá của các nhóm người nhập cư (imigrant) hơn

là tiếp biến và hội nhập văn hoá của các nền văn hoá quốc gia.

Khi đề cập đến tiếp biến văn hoá và hội nhập văn hoá ngày nay, không thể bỏ

qua vấn đề toàn cầu hoá và ảnh hưởng của văn hoá Phương Tây đối với thế giới.

Chủ đề này thậm chí đã trở thành một trọng điểm nghiên cứu từ gần 20 năm trở lại

đây của các học giả Âu Mỹ. Chẳng hạn các công trình: "National Identity and

International Relations" của W. Bloom (Cambridge University Press,1990), "Toàn

cầu hoá văn hoá" của D. Wolton (bản tiếng Việt: Hà Nội 2006). Công trình "Sự va

chạm của các nền văn minh" (nguyên văn yiếng Anh: The clash of civilization and

the remarking of wolrd order) ra đời năm 1996 của S. Huntingon (Mỹ, đã được xuất

bản bằng tiếng Việt năm 2005) là một dấu ấn tiêu biểu bộc lộ quan điểm chính thống

của một bộ phận giới nghiên cứu ở Phương Tây về toàn cầu hoá và vai trò của văn

hoá.

Ta đề cập sâu hơn về tác phẩm Sự va chạm của các nền văn minh của

Huntington. Theo ông, giữa phân chia khu vực kinh tế và phân chia về văn hoá có

“quan hệ lịch sử với nhau”. Kết quả sự phân chia đó là sự ra đời của hai không gian

văn hoá siêu vĩ mô là Phương Đông và Phương Tây. Ở đấy sự khác biệt cốt lõi

“không phải là sự khác biệt về kinh tế, mà là về nền tảng triết học, hệ giá trị và lối

35

sống” (tr. 20). Theo đó thì các nước giàu đều ở Phương Tây và có chung một số đặc

điểm nào đó. Những đặc điểm chung đó làm cho họ khác với các nước nghèo thuộc

về Phương Đông. Về mặt kinh tế và chính trị thì các nước giàu có Phương Tây đã nô

dịch các nước nghèo Phương Đông thông qua chủ nghĩa thực dân trong hơn 4 thế kỷ.

Mâu thuẫn và xung đột giữa các xã hội bùng phát và cuối cùng thì các nước nghèo đã

vùng lên lật đổ ánh thống trị thực dân Phương Tây, giành độc lập dân tộc.

Tuy nhiên cũng theo Huntington - sự phân giới Phương Đông và Phương Tây

hàm chứa những điều bất ổn, do chỗ nếu Phương Tây có những đặc điểm khá thống

nhất thành một chỉnh thể nào đó, thì các xã hội phi Phương Tây lại không có sự thống

nhất đó. Do đó theo tác giả thì “Tính đoàn kết của cộng đồng phi phương Tây và sự

phân chia Đông - Tây là những chuyện hoang đường do Phương Tây sáng tác”,(tr.

21), cũng do thế giới quá phức tạp nên không thể đơn giản chia thế giới thành Bắc và

Nam theo kinh tế hay Đông và Tây theo văn hoá được, vì sự phân biệt Đông -Tây

hàm ý hệ tư tưởng, chứ không phải là hàm ý phân biệt văn hoá. Huntington có biện

luận về thói quen gọi thế giới phi Phương Tây thay cho Phương Đông, nhưng biện

luận đó không đủ rõ ràng. Điều này có lẽ có lợi cho nhận định về tính thiếu thống

nhất của thế giới phi Phương Tây mà ông đã phê phán ở trên.

Huntington nhấn mạnh cái đối lập, cái xung đột không thể dung hoà nhau giữa

các nền văn hoá, đặc biệt là sự đối kháng giữa văn minh Phương Tây và thế giới phi

Phương Tây. Trong khi đó, một quan niệm đúng đắn mang tính duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử chỉ cho ta thấy rằng đó chỉ là biểu hiện bên ngoài của những xung

đột và mâu thuẫn sâu xa do bất bình đẳng về quyền lợi trên lĩnh vực kinh tế và chính

trị giữa các nước phát triển Phương Tây và các nước còn lại.

Quan niệm mang tính chất đối lập, xung đột và nhấn mạnh sự khác biệt văn

hoá nói trên của Huntington do đó đã gặp phải nhiều ý kiến phản bác, điển hình là tác

36

phẩm Sự cộng sinh giữa các nền văn hoá (tiếng Đức: Das Zusammenleben der

Kulturen) của Harald Mueller - học giả người Đức. Mueller phản bác hầu như tất cả

các quan điểm phiến diện (simple) mang màu sắc kỳ thị chính trị của Huntington. Nội

dung cơ bản của sự phê phán này bao gồm 4 khía cạnh sau đây:

Thứ nhất là, cần phải định nghĩa và phân biệt đúng đắn hai khái niệm văn hoá

và văn minh, đồng thời vạch rõ các động lực thúc đẩy sự phát triển của chúng. Sau đó

cần phân tích mối quan hệ giữa chính trị và văn hoá, các điều kiện để “chính trị hóa”

các yếu tố văn hoá. Cuối cùng cần tìm ra các nguyên nhân và quá trình xung đột

mang tính bạo lực.

Thứ hai là, trên cơ sở phân tích nói trên, cần chỉ ra rằng, phải chăng điều dự

báo của Huntington được chứng minh bằng hiện thực chiến tranh ngày nay? Mueller

tỏ rõ sự phủ nhận nguyên nhân văn hoá của xung đột, mà nhấn mạnh tính chất mâu

thuẫn và xung đột về lợi ích kinh tế và chính trị.

Thứ ba là, có thể căn cứ vào các mối quan hệ về kinh tế - xã hội giữa các quốc

gia mà phân chia thế giới chính trị thành 6 khu vực lớn và dự báo xu thế phát triển

của nền chính trị thế giới. 6 khu vực lớn của nền chính trị thế giới bao gồm: Phương

Tây, Châu Á, khu vực Hồi giáo, Nga và lân bang, các khu vực “ngoại vi” là Châu Phi

và Mỹ Latinh.

Thứ tư là, dự báo chiều hướng phát triển của các mối quan hệ giữa các đại khu

vực nói trên, trong đó cần tính đến các nhân tố bất ổn như chủ nghĩa khủng bố, phá

hoại môi trường, các dòng di cư lớn.

Cuối cùng là những nhận định mang tính tư vấn cho thực tiễn chính trị thế giới,

mục đích là tạo dựng cuộc chung sống hoà bình giữa các tôn giáo, giữa các quốc gia

và khu vực.

37

Quan điểm tích cực của Mueller đã vạch rõ những sai lầm và tác hại chính trị

của các quan điểm của Huntington. Mueller kêu gọi các cường quốc - chủ thể chủ yếu

của nền chính trị thế giới - không được hoảng sợ trước sự rối loạn và khủng hoảng.

Để tránh khủng hoảng và xung đột, cần thay đổi cách thức ứng xử. Các nền văn hoá

hoàn toàn có thể cộng sinh với nhau. Văn hoá Nhật Bản, trước đây và sự nghiệp hiện

đại hoá ở Trung Quốc ngày nay là những ví dụ điển hình về khả năng hoà hợp văn

hoá Đông - Tây. Do đó, “tạo dựng niềm tin quan trọng hơn là đe doạ, ngay cả việc có

thể phải từ chối dùng thứ vũ khí cuối cùng (bạo lực – LVK) để chống lại những kẻ

phá hoại hoà bình”.

Một người Đức nổi tiếng khác, chuyên gia về toàn cầu hoá là Ulrich Beck, một

học giả đầy uy tín mà tác phẩm đã được dịch ra trên 30 ngôn ngữ trên thế giới, đã

công bố một loạt tác phẩm trong đó nêu bật những khía niệm quan yếu của vấn đề

toàn cầu hoá và sự xung đột giữa các chế độ và khu vực. Nhiều công trình đã được

dịch ra tiếng Anh và các ngoại ngữ khác. Có thể kể tên một số tác phẩm của ông gần

đây nhất như: Toàn cầu hoá là gì? (Was ist Globalisierung?), Thảm hoạ hay là sự

khởi đầu mới (Katastrophe oder Neubeginn?), Xã hội rủi ro (Weltrisikogesellschaft -

Auf der Suche nach der verlorenen Sicherheit).

Trong tác phẩm Xã hội rủi ro, U. Beck đã phê phán sự lạm dụng chính trị, lấy

lý do tăng cường an ninh quốc gia để tước đi quyền tự do giao lưu giữa các quốc gia.

Ông cổ vũ cho sự tạo dựng một nền chính trị hiện thực toàn cầu thông qua tăng

cường tiếp xúc và hoà nhập của con người trên khắp thế giới. Cùng một cách nhìn

toàn câu hoá như là điều kiện mới của tiếp biến và hội nhập văn hoá còn có hai công

trình của nhà báo Mỹ T. L. Friedman: Chiếc Lexus và cây ô liu (Hà Nội 2005), và

Thế giới phẳng (Hà Nội, 2006).

38

Trong tác phẩm Toàn cầu hoá văn hoá (2001), học giả người Pháp Dominique

Wolton đã đề cập đến một loạt vấn đề quan trọng về mặt lý luận như: Sự khác biệt

giữa thông tin và truyền thông, chủ nghĩa đa nguyên hiện đại, chủ nghĩa đại đồng, bản

sắc và văn hoá tập thể, tam giác nóng Văn hoá - Truyền thông - Bản sắc, khả năng

chung sống giữa các nền văn hoá và liên quan với hệ thống chính trị. Ông cũng dành

một phần để bàn về tính đa văn hoá của văn hoá Pháp, những thách thức của văn hoá

Châu Âu trong toàn cầu hoá v.v... Về khả năng cùng chung sống giữa các nền văn

hoá Châu Âu, tác giả đã có một nhận định chí lý rằng: Những người sáng lập ra Liên

minh Châu Âu đã bắt đầu bằng kinh tế. Đó là một may mắn. Vì "nếu bắt đầu bằng

văn hoá, thì có lẽ những người Châu Âu vẫn còn mãi tranh cãi nhau, trong khi với

kinh tế, họ đã xích lại gần nhau". Điều này tái xác nhận văn hoá Châu Âu thống nhất

trong đa dạng và luôn trong quá trình tạo dựng như bất kỳ một khu vực nào khác, cho

dù sự thống nhất bản sắc của họ là cao nhất.

Khi nghiên cứu lịch sử các nền văn hoá và tiếp biến văn hoá không thể nào bỏ

qua hai công trình nền tảng về mặt lý luận, đó là tác phẩm Nghiên cứu lịch sử nhân

loại của ArnoldI. Toynbee và Tìm hiểu các nền văn minh trên thế giới của Fernand

Braudel. Trong công trình nghiên cứu lịch sử, nhà sử học lừng danh người Anh đã

đưa ra một hệ phương pháp để nghiên cứu lịch sử các nền văn hoá, văn minh trên thế

giới. Cho đến nay tuy đã qua gần 7 thập niên, nhiều gợi mở của ông vẫn còn nguyên

giá trị. Theo ông, chính sự lựa chọn giải pháp hay cách thức hành động để vượt qua

thách thức (challenge response) của người thủ lĩnh sẽ quyết định sự tiến lên hay thụt

lùi của nền văn minh. Trong tiếp nhận văn hoá bên ngoài để hiện đại hoá đất nước thì

nhà nước với loại hình thể chế hay văn hóa chính trị nhà nước có thể đóng vai trò tích

cực hay tiêu cực, ảnh hưởng đến kết quả của quá trình đó. Hành vi của triều đình nhà

Minh và nhà Thanh cũng thể hiện thái độ coi thường óc sáng tạo khoa học công nghệ

vốn được Châu Âu xem là chìa khóa của năng suất lao động và sự tiến lên của nền

văn minh. Người ta tìm thấy vô vàn các minh chứng về thái độ khước từ tiến bộ này. 39

Chẳng hạn vào thế kỷ XVI khi người Bồ Đào Nha đem đồng hồ cơ giới tinh vi cũng

như nhiều máy móc khác, kể cả các cỗ đại bác, hiện đại nhất thế giới hồi đó vào

Trung Quốc, thì họ đã được yêu cầu phải đứng đằng sau các cỗ máy đó để điều khiển

cho người Trung Quốc thưởng thức, vì họ coi chúng như đồ chơi mà thôi. Vậy là

người Trung Quốc chỉ biết “xài” công nghệ hiện đại nhưng không thể làm ra chúng.

Đến thế kỷ XVIII thì mọi chuyện còn tồi tệ hơn nữa: Họ cự tuyệt hẳn các hệ thống

máy móc phức tạp mà châu Âu phát minh ra. Thái độ của người Trung Quốc chính là

một “căn bệnh thế kỷ” - nói theo A.Toynbee và nhà nghiên cứu người Nga Evgenhi

Yasin - căn bệnh tự mãn, “bão hòa ở đỉnh cao”, cự tuyệt các thành tựu văn minh bên

ngoài của nhà cầm quyền. Quan điểm cho rằng không phải địa lý hay văn hoá, mà

chính thể chế quốc gia sẽ quyết định sự hưng thịnh và suy vong của các quốc gia

ngày càng được nhiều người tán đồng.

F. Braudel người Pháp trong tác phẩm danh tiếng Tìm hiểu các nền văn minh

đã đưa ra nhũng nhận định sắc xảo về sự lan toả của các nền văn minh. Ông cho rằng

vô vàn các yếu tố của các nền văn minh qua quá trình lan toả ra khắp thế giới đã mất

đi nguồn gốc riêng của mình, đã trở thành tài sản tập thể của nền văn minh nhân loại.

Tuy nhiên, các dân tộc không chấp nhận ngay lập tức toàn bộ nền văn minh Phương

Tây, mà chúng chỉ tiếp thu một phần từ đó. Nhưng dù sao thì đó cũng vẫn là “một sự

vay mượn đáng ao ước cho tất cả các nền văn minh trên thế giới, và tốc độ của các

phương tiện truyền thông hiện đại tạo điều kiện thuận lợi cho việc truyền bá nhanh

chóng và hữu hiệu”. Mặc dù tác phầm ra đời từ thập niên 1960 nhưng người ta thấy

các nhận định của tác giả vẫn còn đúng.

Khi điểm lại các quan điểm của giới nghiên cứu văn hoá và xã hội đương đại,

không thể bỏ qua công trình Hiện đại hoá và Hậu hiện đại hoá của học giả Mỹ

Ronald Inglehart. Công trình dựa trên điều tra xã hội học toàn cầu ở 48 quốc gia được

lựa chọn vào cuối những năm 1980 - đầu 1990 đã đưa ra những đánh giá và nhận xét

40

sâu sắc về sự biến đổi và xu hướng biến đổi sắp tới của các xã hội trên tất cả các

phương diện chính trị, kinh tế và văn hoá. Ngay phần mở đầu của cuốn sách, tác giả

đã đưa ra một khẳng định khoa học rằng: “Xuyên suốt xã hội công nghiệp tiên tiến,

quyền biểu đạt và tham gia chính trị đang trở nên ngày càng quan trọng đối với một

bộ phân công chúng ngày càng lớn”. Điều đó có nghĩa là, quá trình công nghiệp hoá

và hiện đại hoá tất yếu sẽ kéo theo quá trình dân chủ hoá để tạo dựng hệ giá trị dân

chủ - một giá trị cốt lõi của loài người nói chung. Các dữ liệu nghiên cứu cho thấy rõ

ràng “hệ thống niềm tin” (tức hệ giá trị) của công chúng gắn bó mật thiết với sự biến

đổi xã hội toàn cầu. Tác giả khẳng định rằng “phát triển kinh tế, biến đổi văn hoá và

biến đổi chính trị luôn đi cùng nhau trong những mô hình gắn kết và thậm chí trong

một chừng mực nào đó có thể tiên đoán được”. Quá trình gia tăng giá trị dân chủ nói

riêng và giá trị tinh thần nói chung đi liền với sự nâng cao không ngừng đời sống vật

chất xã hội. Vì thế ở các xã hội hậu hiện đại hay hậu duy vật, nhu cầu dân chủ và giải

phóng đã gia tăng đáng kể. Trong khi đó, ở các quốc gia đang phát triển hay đang ở

giai đoạn công nghiệp hoá, giá trị dân chủ chưa đặt ra cấp thiết, vì rằng mối lo thường

trực ở các xã hội này là miếng cơm manh áo thường ngày. Inglehart còn đưa ra một

“khuôn mẫu văn hoá”, theo đó các yếu tố văn hoá tuy không có “tính quyết định luận

toàn bộ” nhưng có sự ràng buộc lẫn nhau và bản thân khuôn mẫu này lại “liên kết

chặt chẽ với trình độ phát triển kinh tế của một xã hội”. Bản thân tác giả Inglehart

cũng phải thừa nhận rằng các mô hình văn hoá gắn kết “có liên quan chặt chẽ với quá

trình phát triển kinh tế. Những nhận định như vậy đáng để chúng ta suy ngẫm. Tuy

nhiên, không thể nói rằng các nhận định đó đều chính xác, vì rằng thực tiễn đã chứng

minh chính quá trình dân chủ hoá cũng như tiếp thu giá trị dân chủ và tự do đã là

động lực vĩ đại cho sự phát triển của các quốc gia. Nói khái quát hơn, văn hoá hoàn

toàn có thể là một trong những động lực của sự phát triển.

41

CHƢƠNG 2: TIẾP XÚC VÀ ẢNH HƢỞNG CỦA VĂN HOÁ MỸ

ĐẾN CHÂU ÂU TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

ĐẾN NAY

2.1 . Bản sắc văn hóa Mỹ

2.1.1. Cội nguồn văn hóa Mỹ

 Cội nguồn di dân châu Âu và ưu thế của người Anh

Đặc trưng của nước Mỹ là được hình thành từ những người nhập cư. Ngay từ

buổi đầu và suốt những thập kỷ tiếp theo, đất nước này liên tục được bổ sung và phát

triển bởi những làn sóng nhập cư, xứng đáng với tên gọi “Một quốc gia của các quốc

gia”. Tuy nhiên, từ buổi đầu lập quốc, trong số nhiều nhóm dân tộc và bộ tộc hoà

nhập với nhau để tạo nên nước Mỹ thời thuộc địa, di dân Anh đã đóng vai trò đặc biệt

quan trọng về nhiều mặt, trong đó có văn hoá.

Quá trình xâm thực của thực dân châu Âu bắt đầu từ thế kỷ XVI sau cuộc thám

hiểm của Chris Columbus. Người Tây Ban Nha là những người đầu tiên đổ bộ lên bờ

biển Florida và đến giữa thế kỷ XVI, họ đã đi sâu vào lục địa Bắc Mỹ. Đầu thế kỷ

XVI, người Pháp cũng bắt đầu chú ý xâm thực vùng đất này. Họ xây dựng cơ sở ở

Canada, năm 1540, đặt thương điếm đầu tiên của Pháp ở dọc bờ song Hudson. Sau đó

người Pháp tiến vào vùng hồ George (bang New York hiện nay), thành lập vùng

Lousiana thuộc Pháp vào thế kỷ XVII. Bắc Mỹ khi đó được coi gần như là vùng đất

vô chủ nên các nước thực dân châu Âu đều tìm cách xâm chiếm. Hà Lan cũng là một

nước thực dân có tiềm lực. Vì vậy, ngay từ đầu thế kỷ XVI, Hà Lan cũng tiến vào

Bắc Mỹ để buôn bán và xây dựng nên đất nước New Amsterdam.

42

Năm 1607, người Anh chính thức đặt chân lên vùng đất Virginia, thành lập

thuộc địa đầu tiên – Jamestown. Đến 1604, người Anh đã có những thuộc địa vững

vàng được thiết lập dọc bờ biển New England và vịnh Chesapeake. Những cuộc di

thực của Anh đến Bắc Mỹ lại trở nên mạnh mẽ vào đầu những năm 20 của thế kỷ

XVIII, khi quá trình tước đoạt ruộng đất ở Anh của giai cấp quý tộc lên đến đỉnh

điểm. Trong quá trình đó, nhiều thực dân từ các nước Châu Âu khác cũng đổ đến lãnh

thổ mới này, nhưng người Anh vẫn chiếm một vị thế vững vàng hơn cả. Đến năm

1733, những người lập nghiệp Anh đã xây dựng được 13 thuộc địa dọc bờ biển Đại

Tây Dương, với bang Georgia là thuộc địa được thành lập cuối cùng.

Về kinh tế, ở nước Mỹ đã dần hình thành và phát triển một thị trường dân tộc

thống nhất trong 13 bang thuộc địa. Về cơ bản, đó là một nền kinh tế phát triển theo

hướng tư bản chủ nghĩa. Những quan hệ sản xuất này là do những người dân di cư từ

Anh và Châu Âu mang theo, cho dù những quan hệ đó chỉ mới xuất hiện ở Anh. Biểu

hiện rõ nhất là sự phổ biến của hiện tượng mua, bán và đầu cơ đất đai, sự gia tăng giá

trị xuất khẩu, tổng sản phẩm quốc dân và mức sống của những người dân tự do. Dân

cư thuộc địa Bắc Mỹ đã chuẩn bị sẵn sàng về kinh tế để trở thành một bộ phận quan

trọng trong phong trào đòi quyền tự trị đã và đang chi phối phần lớn hoạt động chính

trị của nước Anh trong suốt thế kỷ XVII và XVIII.

 Sự hình thành nền văn hoá chủ đạo

Phần lớn dân định cư tới Mỹ vào thế kỷ XVII là người Anh. Đến năm 1754,

trên vùng đất của thực dân Anh ở Bắc Mỹ đã có tới 1,3 triệu người. Tiếng Anh trở

thành ngôn ngữ được phổ biến rộng rãi ở Bắc Mỹ.

So với cộng đồng người Mỹ gốc Phi và người bản địa, cộng đồng người da

trắng có dân số đông nhất, có tiền, có quyền lực trong đất nước mới thành lập này. Vì

vậy, họ trở thành chủ nhân của vùng đất mới, nhanh chóng chi phối nên văn hoá ở

43

nước Mỹ và tác động đến cộng đồng dân cư khác. Lúc xảy ra cuộc Cách mạng Mỹ18,

người da trắng phần lớn vẫn là gốc Anh, theo đạo Tin Lành và thuộc tầng lớp trung lưu. Những người Mỹ này đôi khi được nhắc tới dưới cái tên “WASP”19. Là công dân

“chính quốc”, lại có ưu thế trội hơn về dân số, nên không có gì đáng ngạc nhiên khi

những đặc điểm của họ đã trở thành chuẩn mực đánh giá những nhóm người khác.

Những người có tôn giáo khác (như người Đức, người Hà Lan, và người Thuỵ Điển)

đều là những nhóm thiểu số và sẽ bị bất lợi nếu không đồng hoá. Vào cuối thế kỷ

XVIII, quá trình đồng hoá này xảy ra khá thuận lợi. Theo các nhà sử học Allan

Nevins và Herry Steele Commanger, “người Anh, người Ai - len, người Đức…người

Hà Lan, người Thụy Điển - hoà lẫn vào nhau và kết hôn với nhau mà không suy nghĩ về sự khác biệt”20.

Như vậy, thứ văn hoá có ảnh hưởng lớn ở Mỹ bắt nguồn từ lịch sử ban đầu của

đất nước này mang đặc tính của tầng lớp trung lưu Tây Âu theo đạo Tin Lành và nói

tiếng Anh. Chính thứ văn hoá này đã hình thành nên những gì mà sau này trở thành

những giá trị truyền thống đã được A. Tocqueville miêu tả vào những năm 1830: Tự

do, sự bình đẳng về cơ hội và nguyện vọng lao động cật lực để có mức sống vật chất

cao hơn.

Nền văn hoá Mỹ trong buổi đầu đã kết hợp các thể chế chính trị, xã hội với các

tập tục kế thừa từ nước Anh (đặc biệt là tiếng Anh), với những quan niệm và giá trị

của đạo Tin Lành không chính thống vốn có địa vị mờ nhạt ở nước Anh nhưng khi

được dân nhập cư mang đên đất Mỹ, nó đã khoác lên một sức sống mới trên mảnh đất

này. Như vậy nền văn hoá Mỹ bao gồm những yếu tố của văn hoá Anh nói chung,

18Tức Cuộc chiến tranh giành độc lập (1775 – 1783), nhờ đó 13 thuộc địa của những người nhập cư gốc Anh giành được độc lập từ Đế quốc Anh. 19Viết tắt của các chữ “white Anglo - Saxon protestants”, nghĩa là người da trắng, gốc Anh, theo đạo Tin Lành. 20 Allan Nevins and Henry Steele Commanger, America: The Story of a Free People. Boston: Little, Brown 1942.

44

những yếu tố đặc thù của các nhánh văn hoá của xã hội Anh mà những người định cư

là đại diện.

Cội nguồn văn hoá này đã trải qua những thay đổi suốt gần 300 năm qua, nhưng một số yếu tố của nền văn hoá đó trong buổi đầu vẫn còn tồn tại. John Jay21 đã

xác định 6 yếu tố quan trọng mà người Mỹ cùng chia sẻ vào năm 1789, đó là: Tổ tiên,

ngôn ngữ, tôn giáo, nguyên tắc tổ chức chính quyền, phong tục tập quán, kinh nghiệm

chiến tranh. Thật ra 200 năm sau đó, yếu tố tổ tiên chung rõ ràng không tồn tại nữa.

Ngày nay, người ta dễ dàng tìm thấy ở Mỹ một gia đình mà ông là người Anh, bà là

người Hà Lan, con trai lấy vợ Pháp và mấy đứa cháu, mỗi đứa cháu lấy vợ thuộc một

dân tộc khác nhau. Một vài yếu tố khác cũng trải qua những thay đổi hoặc phai mờ.

Chẳng hạn, đạo Tin Lành ngày càng được phân chia thành nhiều giáo phái khác

nhau.Tuy nhiên, trong những nét cơ bản của người Mỹ, dù trải qua nhiều thách thức,

vẫn là những nét quan trọng của văn hoá Mỹ trong thế kỷ XX. Những giá trị cơ bản

của đạo Tin Lành, hay cụ thể hơn là Thanh giáo, vẫn rất quan trọng và được tiếp tục

coi trọng. Trong phần lớn lịch sử của nước Mỹ, có thể thấy người dân Mỹ vẫn đi theo

một hình thức nào đó của đạo Tin Lành.

Về mặt ngôn ngữ, vào thế kỷ XVIII, những người định cư gốc Đức ở

Pennsylvania đã cố gắng làm cho tiếng Đức có một vị trí tương đương tiếng Anh

nhưng không thành công. Đến thế kỷ XIX, dân nhập cư gốc Đức vẫn muốn duy trì

những vùng đất nói tiếng Đức ở Wisconsin và đã sử dụng tiếng Đức ở các trường học

những vẫn không thực hiện được mục đích đó do những áp lực của quá trình đồng

hoá. Năm 1889, cơ quan lập pháp Wiconsin yêu cầu các trường phải sử dụng tiếng Anh trong công tác giảng dạy 22. Trước khi xuất hiện những cộng đồng đông đảo dân

21 John Jay (1745 – 1829), một chính khách kỳ cựu, nhà ngoại giao, nhà tư pháp, người đã viết và nghiên cứu nhiều về con người và các sự kiện trong những năm đầu của nước Mỹ. 22 Jame A. Morone, The Struggle for American Culture, trong tập san PS: Political Sciences and Politics, số 29 (September 1996), tr 428 – 429.

45

nhập cư nói tiếng Tây Ban Nha ở Miami và vùng đất Tây Nam, nước Mỹ vẫn là một

ví dụ độc đáo về một đất nước vô cùng rộng lớn, với hơn 200 triệu dân, nhưng gần

như phần lớn đều nói cùng một thứ tiếng.

Một trong những giá trị văn hoá được người Mỹ luôn tự hào từ thời lập quốc

đến nay đó chính là các thiết chế chính trị dân chủ và cách thức xây dựng các thiết

chế đó. Nhưng xét về cội nguồn lịch sử, các quan niệm này được hình thành trên cơ

sở truyền thống và khát vọng tự do được những người dân di cư, chủ yếu từ nước

Anh mang đến. Các tư tưởng về chế độ cai trị, về quyền tối cao của luật pháp, về cái

tôi, về quyền sở hữu, về truyền thống tự do cũng như các tập quán sinh hoạt khác của

người Anh đã xâm nhập và bám rễ vào nền văn hoá Mỹ.

Cho đến thế kỷ XIX và thậm chí thế kỷ XX, những người nhập cư đã bị thôi

thúc và thuyết phục tôn trọng những yếu tố quan trọng của nền văn hoá Anh - Tin

Lành theo nhiều cách. Những người chủ trương đa nguyên văn hoá, những người theo

quan điểm đa văn hoá, và những người phát ngôn cho các nhóm dân tộc thiểu số

trong thế kỷ XX đã phải đấu tranh chật vật trước xu hướng đồng hoá đó. Vì vậy, năm

1977, Michael Novak đã chỉ trích một cách gay gắt là những người dân nhập cư đến

từ Đông và Nam Âu bị sức ép trở thành “Mỹ” bằng cách thích nghi với nền văn hoá

Anglo - American, mà theo ông, sự Mỹ hoá đó là “một quá trình đàn áp to lớn về mặt tinh thần”23. Năm 1995, Will Kymlicka cũng cho rằng, trước những năm 1960,

“người ta trông đợi những người nhập cư rời bỏ di sản riêng của mình và đồng hoá

hoàn toàn với các chuẩn mực văn hoá hiện hành” mà ông gọi là “mô hình tuân theo Anh”24. Nếu họ bị cho là không thể đồng hoá, họ sẽ bị loại trừ. Năm 1967, Harold

Cruse phát biểu rằng “nước Mỹ là một quốc gia tự dối mình về việc mình là ai và là

23 Micheal Novak, Unmeatable Ethnics: Politics and Culture in American Life. London: Transaction Publishers, 1996, tr. 405. 24 Will Kymlicka, Finding Our Way: Rethinking Ethnocultural Relations in Canada, Toronto: Oxford University Press, 1998, tr.44.

46

cái gì? Đấy là một quốc gia của các thiểu số, do một nhóm thiểu số cai trị - nó cứ nghĩ và hành động như thể đó là một quốc gia của người Anh Tin Lành25.

Từ sau khi nước Mỹ ra đời, cùng với sự đa dạng của dòng người nhập cư đến

từ các quốc gia, châu lục khác nhau, văn hoá tôn giáo của Mỹ lại thêm đa dạng với sự

xuất hiện của đạo Do Thái, các tôn giáo phương Đông…Vị trí của tôn giáo với đời

sống xã hội cũng thay đổi theo. Tôn giáo không còn là vấn đề của cộng đồng nữa mà

đã trở thành vấn đề của cá nhân. Cho dù có sự thay đổi như vậy nhưng vẫn không thể

phủ nhận được ưu thế của đạo Tin Lành và Cơ đốc giáo với số lượng tín đồ đông nhất

trong số các tôn giáo tồn tại ở nước Mỹ hiện nay.

Dù ảnh hưởng của Thanh giáo không toả trên toàn lãnh thổ nhưng trong suốt

200 năm, phần lớn người Mỹ đều theo đạo Tin Lành. Với các đợt nhập cư khá lớn

của các tín đồ Thiên Chúa giáo, trước hết là từ Đức và Ireland, và tiếp sau đó là Ý và

Ba Lan, tỷ lệ tín đồ Tin Lành giảm dần. Vào năm 2000, nước Mỹ còn khoảng 60%

dân số là tín đồ Tin Lành. Tuy nhiên, những niềm tin, giá trị và quan niệm của đạo

người định cư trên đất Mỹ, và nền văn hoá đó vẫn tiếp tục thâm nhập và định hướng

cuộc sống cho xã hội, tư tưởng của người Mỹ, dù tỷ lệ tôn tín đồ Tin Lành suy giảm.

Do trọng tâm của nền văn hoá Mỹ nên các giá trị của đạo Tin Lành có ảnh hưởng sâu

sắc đến đạo Thiên Chúa và các tôn giáo khác ở Mỹ. Những yếu tố đó đã làm hình

thành nên thái độ của người Mỹ đối với lĩnh vực đạo đức riêng và chung, đối với hoạt

động kinh tế, Chính phủ và chính sách công cộng.

Đạo lý lao động là đặc trưng trọng tâm của văn hoá Tin Lành, và ngay từ đầu,

tôn giáo của người Mỹ đã là thứ tôn giáo của sự lao động. Trong nhiều xã hôi, sự cha

truyền con nối, giai tầng, vị trí xã hội. Đạo Tin Lành dạy rằng vị trí xã hội phải là kết

quả của sự lao động.

25 Harold Cruise, The Criis of the Negro Intellectual. New York: Morrow, 1967, tr. 256.

47

Quyền lao động và được hưởng thành quả lao động trở thành một phần của

những lập luận chống lại chế độ nô lệ ở thế kỷ XIX…Khái niệm “con người tự lập”

được coi là một sản phẩm đặc biệt của môi trường và văn hoá nước Mỹ.

Như vậy, trong gần 4 thế kỷ, nền văn hoá của những người định cư lập quốc

vẫn còn một số yếu tố chủ đạo và tồn tại lâu dài trong bản sắc của người Mỹ. Ảnh

hưởng chính của văn hoá Anh từ buổi ban đầu do mối quan hệ của các thuộc địa với

nước Anh đã làm cho tiếng Anh, hệ thống luật pháp, những di sản anh lan rộng. Đồng

thời, những giá trị của đạo Tin Lành cũng cắm rễ vào sâu nền văn hoá Mỹ. Tất nhiên,

nền văn hoá đó đã trải qua nhiều thay đổi, chịu tác động của những luồng nhập cư

khác đến từ châu Âu và sau này là châu Á và Mỹ Latinh. Tuy nhiên, không thể phủ

nhận cội nguồn Anglo của nó.

2.2.2 Đặc trưng văn hoá Mỹ

 Hệ thống giá trị Mỹ

Giá trị (Value) nguyên là một phạm trù khởi nguồn từ kinh tế, vì nó định

lượng ra thang bậc về mức độ quý trọng của sản phẩm hàng hoá. Giá trị phụ thuộc

vào từng nền văn hoá và vào từng thời đại.

Theo tác giả người Đức, Douglas K. Steven, người Mỹ thường không thích

“Những khái quát hóa về lối sống Mỹ. Không điển hình hoặc là không muốn trở

thành điển hình chính là một phần của con người Mỹ”. Nhà văn Richard Ford bày tỏ

rõ hơn thái độ của ông về điều này: “Tôi không bao giờ cảm thấy dễ chịu trước nhận

xét về một thái độ, cá tính, hành vi, phẩm chất, tính cách, kinh nghiệm hoặc tín

48

ngưỡng là “có chất Mỹ điển hình”. Đó là điều mà Michael Kammen trong cuốn sách Một dân tộc nghịch lý đã gọi là “tính đa dạng bất định” của văn hóa Mỹ26.

Tuy vậy, người nước ngoài vẫn không thể không thừa nhận rằng nước Mỹ và

dân tộc Mỹ tuy được hình thành một cách pha tạp như vậy, nhưng vẫn có tính thống

nhất và toàn vẹn. Một chính trị gia Châu Âu đã nhận xét rằng: “Điều gì đối với một

Châu Âu thống nhất vẫn còn là trên lý thuyết thì có thể thấy bằng thực tế trên đất

nước Hoa Kỳ”. Trong đất nước đa dạng, pha tạp này, vẫn diễn ra một sự đồng hóa

giữa các nền văn hóa, nhưng đó là một sự đồng hóa theo cách khác để tạo ra một hệ

giá trị Mỹ điển hình.

 Chủ nghĩa cá nhân và sự tự lập

Cái ấn tượng sâu sắc nhất, tạo ra đặc trưng nổi bật của văn hoá Mỹ chính là

tính cách Mỹ: Giá trị cá nhân. Hiểu một cách đại thể đó là xã hội Mỹ lấy con người

cá nhân làm trung tâm; còn diễn đạt có tính chất bác học thì đó là cá nhân luận hay

chủ nghĩa cá nhân. Thuật ngữ Cá nhân luận hay Chủ nghĩa cá nhân được dung rộng

rãi từ giữa thế kỷ XIX ở Hoa Kỳ, và hầu như đây là cách gọi của giới học giả và

người nước ngoài. Còn người Mỹ thường thích dùng một tên gọi đề chỉ giá trị này:

Tự do cá nhân. Có lẽ không có một quốc gia nào trên thế giới lại có một cam kết văn

hoá sâu sắc với chủ nghĩa cá nhân như ở Mỹ, và từ “tự do” là một từ phổ biến trong

xã hội Mỹ ngày nay. Có lẽ đây là giá trị cơ bản nhất trong tất cả mọi giá trị của Mỹ.

Khắp mọi nơi trên nước Mỹ, chủ nghĩa cá nhân được tôn thờ rộng rãi và dường như

với người Mỹ, nó như là một cái gì đó rất tự nhiên. Tất cả người Mỹ mang hình ảnh

của sự độc lập, sự thành đạt, không cần dựa dẫm, phụ thuộc ai vào điều gì.

26 Lê Thế Quế, Đặc trưng văn hóa Mỹ, Đề tài đặc biệt cấp ĐHQG Hà Nội, MS: QG 02 - 22, tr 85 - 86.

49

Chủ nghĩa cá nhân mà người Mỹ lý tưởng hoá yêu thích không khí tự do, nơi

mà không có Chính phủ hay bất cứ lực lượng nào khác ra lệnh cho cá nhân thực hiện.

Và cái giá phải trả cho sự tự do chính là tinh thần tự lập. Nhìn một cách bao quát hơn,

chủ nghĩa cá nhân là “sự khẳng định các quyền của cá nhân và của từng nhóm đối với

tập thể”, mở rộng ra là “sự bảo vệ các thực thể văn hoá nhỏ chống các thực thể lớn”.

Nó được hoàn chỉnh thêm bằng thuyết đa nguyên, cho rằng mọi tư tưởng, mọi

khuynh hướng đều được tự do phát biểu và thực hiện, bảo đảm ai cũng có vận may

như nhau, dù là một công dân, một nhóm người hay là một vùng văn hoá. Chủ nghĩa

cá nhân thể hiện qua tính tự nguyện: Mỗi người, mỗi nhóm tình nguyện gia nhập

cộng đồng dân tộc nhưng không từ bỏ cá tính, quyền lựa chọn.

 Niềm tin tôn giáo của đạo Tin Lành

Mặc dù đạo Tin Lành trên đất Mỹ có nhiều giáo phái, nhưng tất cả các giáo

phái đều có chung một hệ giá trị và niềm tin của người Mỹ. Một trong những giá trị

nổi bật là ý thức tự chịu trách nhiệm, là đức tính không ngừng vươn lên hoàn thiện mình của từng cá nhân27. Những người theo đạo Tin Lành không còn trông cậy về

phần hồn của mình ở các cha linh mục như trong đạo Cơ đốc nữa, mà họ phải chịu

trách nhiệm về bản thân trước Chúa vì những lỗi lầm của họ. Do đó động lực phải tự

hoàn thiện, lập công chuộc tội, khát khao muốn trở thành người lương thiện để được

Chúa xá tội luôn luôn thôi thúc trong họ. Đức tính này ngày càng được nuôi dưỡng và

không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực tôn giáo mà còn mở rộng tới những ngóc ngách của

cuộc sống.

Giá trị tôn giáo của đạo Tin Lành cũng ảnh hưởng nhất định đến việc hình

thành những đặc điểm khác của người Mỹ như tinh thần biên cương, tính hiệu quả,

27 Maryanne Kearny Datesman, JoAnn Crandall, Edwaerd N. Kearny, The American Ways, Prentice Hall Ragents, 1997, trang 47.

50

tính thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng bình đẳng và tự do, dân chủ của người

Mỹ.

Mặc dù đạo Tin Lành ảnh hưởng sâu rộng đến văn hoá Mỹ nhưng nó không

chiếm vị trí độc tôn. Thực tế, tất cả các tôn giáo thiểu số Mỹ đều có một vị trí nhất

định nào đó, chí ít là có được sự tôn trọng về đức tin. Sự nhạy cảm mang tính tôn

giáo đã hình thành nên nền văn hoá Mỹ bên cạnh lĩnh vực chính trị.

 Giấc mơ Mỹ: Sự bình đẳng về cơ hội và sự cạnh tranh

Nhà văn kiêm sử gia James Truslow Adams đã tạo ra thuật từ "Giấc mơ Mỹ"

trong cuốn sách xuất bản năm 1931 của ông có tựa đề là Epic of America (Thiên hùng

ca Mỹ): "Giấc mơ Mỹ là giấc mơ của một vùng đất mà ở đó cuộc sống đáng tốt đẹp

hơn, giàu có hơn và đầy đủ hơn cho mọi người. Ở đó mỗi người có cơ hội theo khả

năng hoặc thành tựu của mình. Đấy là một giấc mơ khó khăn cho tầng lớp thượng

lưu châu Âu diễn giải đầy đủ, và cũng thật khó khăn cho tất cả chính chúng ta những

người càng ngày ngờ vực và không tin tưởng vào nó. Nó không phải là một giấc mơ

về các loại xe hơi hay đơn thuần là tiền lương cao, nhưng là một giấc mơ về trật tự

xã hội mà trong đó mọi đàn ông và đàn bà sẽ có thể đạt được tầm vóc đầy đủ cái khả

năng bẩm sinh của mình, và được những người khác công nhận họ vì những gì của

chính họ, không phân biệt môi trường hoàn cảnh sinh ra hay địa vị ngẫu nhiên của

họ”.

 Thành đạt về vật chất và sự cần cù lao động

Tìm kiếm và duy trì được nhiều của cải vật chất là điều hết sức quan trọng đối

với người Mỹ. Bởi của cải vật chất từ trước đến nay được đông đảo xã hội coi như là

một bằng chứng của vị trí xã hội Mỹ. Từ trước, người Mỹ đã bác bỏ hệ thống quý tộc

51

cha truyền con nối ở châu Âu và các tước hiệu quý tộc, họ phải tìm kiếm một cái gì

đó thay thế để đánh giá địa vị xã hội. Chất lượng và số lượng tài sản cá nhân trở

thành một bằng chứng của sự thành công và địa vị xã hội đã được chấp nhận rộng rãi.

Khi những người định cư đầu tiên đặt chân lên đất Mỹ, lục địa Bắc Mỹ là vùng

đất giàu có về tài nguyên thiên nhiên, nhưng tất cả các nguồn tài nguyên này đều

chưa được khai thác. Chỉ có lao động cần cù thì các nguồn tài nguyên này mới biến

thành của cải vật chất, cho phép con người nâng cao mức sống. Làm việc cật lực vừa

điều là cần thiết, vừa là việc đáng làm đối với hầu hết dân cư dân Mỹ trong suốt chiều

dài lịch sử.

Phần lớn người Mỹ vẫn tin vào giá trị của sự cần cù làm việc. Một con người

lý tưởng là một “con người lao động hết mình”. Một người ở mọi thành phần xã hội

đều làm việc hết mình, tức là “đi thẳng vào công việc”, không trì hoãn, làm việc có

hiệu quả và hoàn thành nhiệm vụ theo kiểu đáp ứng đúng các tiêu chuẩn cao về chất

lượng.

 Tính táo bạo, chấp nhận rủi ro và năng lực sáng tạo

Tính táo bạo và óc sáng tạo là xung lực tạo nên sức sống mãnh liệt của nước

Mỹ. Người Mỹ không ngại vượt qua những bước mạo hiểm và rủi ro để đến thành

công. Tính táo bạo của họ được sự trợ giúp của sự kết hợp kỳ lạ giữa tinh thần làm

việc tập thể với sự cạnh tranh, của việc coi trọng kinh nghiệm và chuyên môn. Nhiều

học giả thừa nhận sự chuyên cần và tích cực trong công việc, khả năng sáng tạo dồi

dào và không ngừng đổi mới của người Mỹ trong kinh tế, khoa học kỹ thuật và nghệ

thuật. Một điều hiển nhiên là điện ảnh Hollywood có sức chinh phục và hấp dẫn toàn

52

thế giới. Các tác phẩm văn chương và nghệ thuật của người Mỹ cũng mang đậm dấu

ấn sáng tạo cá nhân, có khả năng hút hàng tỷ người trên thế giới.

Năng suất lao động của người Mỹ tăng cao hơn nhiều nước tiên tiến khác,

chẳng hạn công nhân công nghiệp Mỹ làm việc có năng suất cao hơn nhiều so với

công nhân Đức và Nhật Bản. Trong lĩnh vực nông nghiệp, Mỹ có năng suất cao hơn

Nhật Bản 4 lần và Đức 2,5 lần. Mỹ chỉ chiếm khoảng 5% dân số thế giới và 6% đất

đai thế giới, nhưng từ Đại chiến thế giới lần thứ hai, Mỹ đã sản xuất ra 50% tổng sản

phẩm công nghiệp của thế giới. Nếu tính chung những sản phẩm chủ yếu thì trong

suốt 15 năm, cho đến năm 1995, Mỹ chiếm khoảng 25% sản lượng công nghiệp, sản

phẩm nông nghiệp và dịch vụ trên thế giới. Năm 1991, sản phẩm xe hơi xuất khẩu

của các hãng General Motors và Ford chiếm 25,9% toàn bộ thị trường xe hơi ở Tây Âu28. Mỹ là nước đầu tư ra nước ngoài lớn hơn rất nhiều so với các nước, lớn hơn gấp

khoảng hai lần so với nước Anh - nước đầu tư lớn thứ hai. Sản phẩm phần mềm và

phần cứng máy vi tính của nước Mỹ chiếm vị trí thống trị ở Châu Âu. Tất cả đều là

nhờ vào năng lực và niềm hứng thú sáng tạo của nhân dân Mỹ.

 Tính thẳng thắn và quyết đoán

Người Mỹ thường cho rằng các cuộc xung đột hay bất hoà có thể được giải

quyết tốt đẹp bằng cách tranh luận thẳng thắn giữa những người có liên quan. Nếu tôi

không thích điều mà bạn đang làm, tôi nên nói trực tiếp với bạn điều đó vì bạn sẽ hiểu

một cách rõ ràng và từ chính bản thân tôi rằng cảm nhận như thế nào về nó. Việc nhờ

một người nào đó giải một cuộc tranh luận thường được xem là nơi hèn nhất. Đó là

hành động của một người không có đủ can đảm để nói trực tiếp với người khác. Tuy

28Lê Thế Quế, Đặc trưng văn hóa Mỹ. Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài đặc biệt cấp ĐHQGHN, Trường ĐHKHXH&NV, Hà Nội, 2006.

53

nhiên, việc trung gian hoà giải đang dần dần gia tăng, phổ biến trong những năm gần

đây.

Tính quyết đoán là một tính từ mà người Mỹ thường sử dụng để mô tả những

người biểu lộ các ý kiến và các yêu cầu của họ một cách rõ ràng và trực tiếp. Những

người không quyết đoán có thể tham dự “các lớp học về quyết đoán”. Tuy nhiên,

những gì người Mỹ coi là quyết đoán thì thường bị người nước ngoài đôi khi chính cả

người Mỹ cho là sự hung hăng nếu nhân vật được đề cập là một phụ nữ.

 Mức độ sâu sắc vừa phải của các mối liên hệ

Người Mỹ gây thất vọng lớn đối với những người nước ngoài bởi họ rõ ràng

không có khả năng trở nên thân thiết với người khác theo cách mà những người nước

ngoài trông đợi. Nhiều người đến từ các nước khác nói rằng người Mỹ không biết

cách kết bạn. Bạn không bao giờ cảm thấy có thể gọi điện cho họ bất cứ lúc nào hoặc

họ sẽ giúp đỡ bạn bất cứ vấn đề gì. Cảm giác này ở những người thuộc các nền văn

hoá khác là một sự thật, nhưng nó có nguyên do từ trong bản chất cá tính Mỹ. Vì

người Mỹ tôn trọng sự riêng tư của người khác và cũng mong muốn sự riêng tư của

mình được tôn trọng. Trong giao tiếp hàng ngày với người khác, người Mỹ thường

giữ mức độ xã giao ở những đề tài thông thường không đụng chạm đến ai, “vô

thưởng vô phạt” như giao thông, thời tiết hay các tin tức trên truyền hình. Ngay cả

với những người hàng xóm lâu năm hoặc cùng chung cơ quan họ cũng có thể được

gọi một cách chính xác là người quen hơn là bạn. Với người quen, mức độ liên quan

mật thiết hay ý thức về các nghĩa vụ đối với nhau thấp hơn. Người Mỹ thường sử

dụng từ bạn để bao hàm rất nhiều loại quan hệ đến độ khiến cho các du khách nước

ngoài bối rối.

54

Những giá trị, quan niệm được đề cập ở trên có mối quan hệ chồng chéo và hỗ

trợ nhau lẫn nhau. Nói cách khác, chúng hầu như đồng thuận và phù hợp lẫn nhau,

tạo nên một tập hợp các giá trị và quan niệm đồng hành để hình thành nên phương

pháp mà người Mỹ lĩnh hội và liên hệ thế giới xung quanh họ. Chính chúng đã góp

phần tạo nên cái được gọi là “tính khí Mỹ”.

2.2. Bản sắc văn hóa Châu Âu

2.2.1. Cội nguồn văn hóa châu Âu

 Cội nguồn Trung Đông

Trung Cận Đông hay Trung Đông là vùng đất nằm ở vị trí tiếp giáp giữa ba

châu lục Á, Phi, Âu; là ngã ba văn minh của nhân loại cho đến tận ngày nay. Các nhà

nghiên cứu đã xác nhận, ngay từ thiên niên kỷ V trước Công nguyên (CN), con người

nơi đây đã xây dựng được một xã hội đô thị với làng ấp tập trung. Họ biết dệt vải,

làm đồ gốm, thuần hoá súc vật để cày bừa, canh tác, đóng thuyền và xây cất các công

trình kiến trúc tâm linh vĩ đại. Đặc biệt là người ta đã sáng tạo ra chữ viết để ghi lại

ngôn ngữ của mình.

Dọc theo sông Nile, Lưỡng Hà (Tigre và Eurphrate) và sông Indus đã mọc lên

nhiều đô thị sầm uất. Cho đến nay, người ta vẫn chưa lý giải được các dân tộc Trung

Cận Đông đã chuyển từ văn hoá nông nghiệp sang văn hoá đô thị bằng cách nào. Một

số nhà khoa học phỏng đoán rằng, cuộc di cư từ các sườn đồi xuống đồng bằng là hậu

quả của thay đổi khí hậu: Thời đó xảy ra hạn hán nghiêm trọng sau kỷ Băng hà, các

gò đồi hết nước nên dân cư phải chuyển đển vùng thấp trũng và xây đắp thuỷ lợi để

chế ngự nguồn nước. Quá trình thực hiện các công việc khổng lồ ấy đòi hỏi dân cư

phải được tổ chức lại cả về chính trị và kinh tế, ngay từ thời điểm 4.500 năm trước CN29. Nền văn minh của xã hội đô thị mang tính vật chất và phô trương ấy có một

29 Briton, C./Lee, R./Christopher, J.B: Văn minh phương Tây. NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004, tr 29 – 30.

55

cấu trúc xã hội phức tạp, bao gồm các cấp lãnh đạo sắp xếp theo tôn ti đông đảo, giới

tinh hoa với các thương gia, chuyên gia; bên dưới là tầng lớp thường dân nghèo khổ,

lam lũ phục dịch cho các tầng lớp trên.

Xung quanh chuỗi thành bang kể trên là các cộng đồng dân du mục. Họ thường

xuyên cướp bóc lẫn bang. Giữa các thành bang và với dân du mục tứ chiếng này

thường xuyên có liên hệ qua lại với nhau, có khi đối với địch, có khi hoà hợp, tạo ra

trạng thái cân bằng trên đại thể. Các dân tộc Ai Cập, Assyria và Babylon kế tiếp nhau

xưng bá trong khu vực, nhưng có điều đặc biệt là họ không tiêu diệt bản sắc hay cá

tính và độc lập của các dân tộc khác. Mãi đến kỷ nguyên của người Ba Tư ở thế kỷ

VI trước CN, sự thống trị của Đế chế này đã kéo theo sự tàn phá và đồng hoá mạnh mẽ các nền văn hoá ở khu vực30. Việc phát minh ra chữ viết đầu tiên là tượng hình và

cải tiến nó qua nhiều thế kỷ đến mức ở vùng Mesopontamie mỗi con chữ chỉ là một

ký hiệu của âm tiết, không còn gắn gì với tính chất tượng hình nữa. Việc phát minh ra

chữ viết, theo nhận định của các nhà khoa học, là chỉ xảy ra một lần duy nhất cho

toàn bộ các biến thể của các hệ thống chữ viết Hebreu, A Rập, Hy Lạp, Latinh và các

chữ khác của Châu Âu.

Riêng về tôn giáo, tính chất độc thần của dân Ai Cập (thời đại Pharaon

Ikhnaton) với tính cách một bước tiến về tư duy tôn giáo đã ảnh hưởng lớn đến tính

chất độc thần của Do Thái Giáo và sau này thể hiện trong Thiên chúa giáo - tôn giáo

chủ đạo và là nền tảng của văn hoá Châu Âu nói riêng, phương Tây nói chung.

Về luật pháp, các bộ luật Summer và Hamurabi sau đó đều tỏ ra quá hà khắc,

phản ánh tính chất phân biệt giai cấp rất rõ rệt. Tuy nhiên, luật pháp thời đều áp dụng

giới Ấn Độ và phía Nam biên giới nước Nga ngày nay.

30Đế chế Ba Tư đã chiếm Mesopotamie mở rộng ra toàn bộ vùng lãnh thổ kéo dài từ Ai Cập tới biên

56

phổ thông cho mọi người, kể cả quý tộc lẫn nô lệ, cho dù mức độ áp dụng cho giới quý tộc là nương nhẹ hơn31.

Về hệ thống cai trị, các dân tộc Trung Cận Đông (bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ và

Iran) đã tạo ra một kiểu chế độ quân chủ chuyên chế tuyệt đối. Theo đó, tính chất

thiêng hoá hoàng đế cùng với sự phân chia giai cấp thành 3 hạng người (quý tộc,

thường dân và nô lệ) sau này đã trở thành khuôn mẫu cho chế độ quân chủ của đế

quốc La Mã và các vương quốc Châu Âu.

Tất cả những di sản vĩ đại ấy đã được lưu giữ và truyền bá đến Châu Âu thông

qua sự tồn tại của các đế quốc khu vực rộng lớn trải rộng suốt Trung Đông và Châu

Âu, nhất là thời kỳ Hy Lạp cổ đại, thời kỳ Đế quốc La Mã, thời kỳ Đế chế

Ottaman…; thông qua di cư của các nhóm sắc tộc gốc Ấn – Âu chung (người Do

Thái và các giống dân khác từ bên ngoài Tây Âu).

 Cội nguồn văn minh cổ đại phương Tây

 Cội nguồn văn minh Hy Lạp cổ đại

Dưới góc độ lịch sử, nền văn hoá châu Âu nói riêng và phương Tây nói chung

đều bắt nguồn từ nền văn minh cổ đại Trung Cận Đông, đạo Thiên chúa và các nhánh

lớn của nền văn hoá Châu Âu bản địa. Nhưng ở đây cần lưu ý rằng, nền văn minh cổ

đại phương Tây và Thiên Chúa giáo đã bao trùm lên toàn bộ thời Trung cổ với tính

cách một thể thống nhất và nó giải thích cho chúng ta cái sức mạnh sáng tạo của sự

thống nhất đó.

Nền tảng tinh thần đặc sắc của văn hoá Châu Âu chính là nền văn minh Hy Lạp

cổ đại. Nền văn minh này được mọi người ca ngợi hơn tất thảy vì sự sáng tạo, thiên

2004, tr 40 - 41

31Briton, C./ Lee, R./ Christopher, J.B.: Văn minh phương Tây. NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội,

57

tài nghệ thuật, sự táo bạo trong tư tưởng. Người Hi Lạp đã phát minh ra những hình

thức tư tưởng và hình thức thể hiện mang tính chất kinh điển: Triết học, khoa học, sân

khấu, văn chương, sử thi và sử học. Nó khẳng định vai trò chủ đạo của lý trí của con

người, của tranh luận và biện luận theo logic. Nó cũng tôn vinh chủ nghĩa anh hùng

và tư cách độc lập của cá nhân. Trong toàn bộ di sản vĩ đại đó nổi lên ba yếu tố

truyền thống và cũng là ba nét đặc sắc của thế giới tinh thần Châu Âu nói riêng và

phương Tây nói chung: Cách tư duy triết học, cách tư duy khoa học và cách tư duy

văn học nghệ thuật.

Giai đoạn tiếp theo của lịch sử tinh thần Hy Lạp là kỷ nguyên bi kịch với các

đại biểu khổng lồ như Aichylos (Et-syn), Sophokles (Sôphôc) và Euripides (Ơ – ri

pit). Chủ đề của các vở kịch bất hủ trên là nỗi trăn trở và cảm nhận của con người về

trật tự chính trị và tôn giáo đang bao phủ lên xã hội con người. Những chủ đề đó

được lý giải theo cách là con người tự trọng ý thức quen thuộc phải chịu đựng số

phận mà trời tiền định. Thưở ban đầu, các vở kịch Hy Lạp được trình diễn như là

những nghi thức tế lễ thần linh, rồi dần dần mới được xem như những tác phẩm nghệ

thuật. Sau đó là những vở kịch điển hình cho thuyết định mệnh như Oedipus làm vua

của Sophokles. Motiv của vở bi kịch này một khuôn mẫu về khởi nguồn của văn hoá.

Theo đó, nguồn gốc của văn hoá (phương Tây) khởi đầu bằng vụ án giết người ( liên

tưởng giữa việc giết cha trong Oedipus làm vua và việc bán Chúa Jesus trong Kinh

thánh) và sau đó là bữa tiệc thịt người (liên hệ giữa tục Totem/ vật tổ, và việc phân

phát bánh thánh và nước thánh - tượng trưng cho máu và thịt của Chúa Jesus). Sau

những sự kiện điên loạn ấy là một chuỗi dài bất tận của hành vi sám hối (liên hệ giữa

sự ân hận của Edipus và lễ xưng tội, rửa tội của Thiên chúa giáo). Văn hoá toát ra từ

các vở bi kịch Hy Lạp cổ đại chính là thứ văn hoá sám hối, trùng khớp với tinh thần

của Thiên chúa giáo sau này.

58

Nghê thuật tạo hình, kiến trúc và nghề thủ công mỹ thuật ở Châu Âu cũng xuất

xứ từ văn minh Hy Lạp cổ đại. Điện Pantheon ở Athen - Hy Lạp đang được phục chế

mãi mãi là biểu tượng cho quan niệm và niềm hứng khởi thẩm mỹ trong kiến trúc đền

đài của Châu Âu. Các bức tượng khoả thân thần Apollon, nữ thần sắc đẹp

Venus…mãi mãi đem lại cho người ta cảm xúc thẩm mỹ về cái đẹp kinh điển của cơ

thể con người trong sự thăng hoa hài hoà với thế giới tinh thần của nó).

Về mặt triết học và khoa học, ngay từ xa xưa người Hy Lap đã đăt dấu hỏi về

trật tự duy lý của thế giới tự nhiên. Họ muốn khám phá các mối liên hệ cũng như cội

nguồn của thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử trí tuệ nhân loại, Aristoteles đã đưa ra

các cặp phạm trù đối lập và song hành giữa vật chất và tồn tại, hiện thực và khả năng.

 Văn hoá La Mã cổ đại

Thời La Mã cổ đại, Roma là trung tâm văn hoá, chính trị của Đế chế và trở

thành niềm kiêu hãnh bất hủ của một Đế chế bành trướng tuy chậm chạp nhưng ngày

càng vươn ra tầm thế giới. Do vậy mà không có một thành phố nào, một bộ tộc nào

hay một dân tộc nào có riêng được một sức mạnh lịch sử nữa, mà chúng ta phải

nhường chỗ cho hệ tư tưởng của toàn đế quốc, trong đó các bộ tộc hay dân tộc riêng

lẻ bị xem thường và được hoà đồng vào toàn bộ Đế quốc. Dưới ách thống trị tàn bạo

của Nhà nước La Mã, các hoạt động thương mại, kinh tế và kéo theo đó là sự giao lưu

văn hoá tinh thần được mở ra và được thúc đẩy mạnh mẽ, một địa vực mênh mông

trải ra khắp Âu - Á - Phi cho nền văn minh cổ đại được hình thành. Ngày nay, ta có

thể thấy, thành tựu văn hoá La Mã dựa trên sự củng cố trường cửu của đế chế mà tư

tưởng cơ bản của nó được bao gồm trong 4 chữ cái SPQR: Senatus Populusque Romanus32. Trong mọi cuộc tranh chấp quyền lực của lịch sử La Mã, người ta không

32 Lương Văn Kế (Chủ biên): Phác thảo chân dung đời sống văn hoá Đức đương đại. Hà Nội, 2004,tr.106

59

được phép quên rằng, những tư tưởng nói trên đã hình thành từ trong quá khứ và

chính chúng đã khiến cho nền văn hoá phát triển không ngừng.

Thế giới tinh thần La Mã đã được nhào nặn lại bởi tinh thần Hy Lạp cổ đại.

Trong thời đại văn minh Hy Lạp thì tiếng Hy Lạp đã lấn át tiếng La Tinh, thậm chí

trong suốt một thời kỳ dài. Thế nhưng tiếng Latinh vẫn sản sinh ra những nhà thơ,

nhà văn và sử học vĩ đại như Vergil, Circero và Taticus. Chính họ đã đem đến cho

tiếng Latinh một hình thức đầy tính nghệ thuật. Và ngày nay các tác phẩm của họ vẫn

là cơ sở và mục đích của môn học tiếng Latinh trong trường phổ thông ở Châu Âu.

 Vai trò của di cư

Văn hoá không thể tách rời con người. Nghĩa là các nhân tố văn hoá với tư

cách là những quan hệ, những thuộc tính hay phẩm chất tinh thần, kể cả những vật

phẩm của nó, được truyền bá từ nơi này sang nơi khác là nhờ vào sự di cư. Khu vực

Châu Âu cũng như vậy. Các cuộc di cư và qua lại lẫn nhau giữa các dân tộc ở Trung

Đông, vùng lõi Châu Âu (đế chế La Mã cổ đại) và phía Đông song Rhine (thuộc nước

Đức) đã tạo ra nền móng của văn minh Châu Âu nói riêng và phương Tây nói chung.

Di dân thời thượng cổ và cổ đại từ Trung Đông và ngoại vi Tây Âu đã đem đến lục

địa Châu Âu những thành tựu đầu tiên của nền văn minh. Thậm chí có tác giả như

học giả Anh B.T.Spalding coi văn minh Hy Lạp cổ đại là sự thừa kế không trọn vẹn thành tựu của nền văn minh Ai Cập huy hoàng từng tồn tại cách đây 8000 năm33.

Các cuộc chinh phạt của các đế quốc cổ đại và trung đại cũng đóng vai trò

quan trọng trong quá trình hình thành nền văn minh Châu Âu. Các cuộc chinh phạt đó

không phải chỉ xuất phát từ một phía Châu Âu sang các khu vực khác ở phương

Đông, mà ngược lại, chúng đan xen lẫn nhau, khi thì từ phương Đông tràn sang

33 B.T. Spalading: Hành trình về phương Đông. Nguyễn Phong dịch, Hà Nội, 2009, tr 233 – 234.

60

phương Tây (ví dụ cuộc xâm lăng của đế chế Ottaman/Thổ Nhĩ Kỳ và đế chế Mogul),

khi thì từ phương Tây tràn sang phương Đông (ví dụ các cuộc Thập tự chinh của

Thiên chúa giáo La Mã), tạo ra các quá trình di cư liên văn hoá liên tục và vô cùng mạnh mẽ, sâu sắc34.

Sự phục hưng của người Do Thái diễn ra sau đó, trong thế kỷ V đến thế kỷ I

trước CN. Họ tái thiết lại Jerusalem, nhưng vẫn luôn bị các đế chế Ba Tư, Hy Lạp đến

La Mã chi phối như một nước phiên thuộc. Lịch sử sau đó với dân tộc này cũng hết

sức đau thương. Họ tản mát khắp hoàn cầu. Tuy bị áp bức hàng ngàn năm và bị tan

đàn xẻ nghé thành hàng trăm bộ tộc khác nhau trên thế giới, nhất là ở Châu Âu,

nhưng tất cả họ vẫn mơ về một ngày phục quốc, về miền đất hứa và kỳ lạ nhất họ vẫn

là một dân tộc đồng nhất và phong tục tập quán và tôn giáo,tín ngưỡng. Họ nhận sứ

mệnh sáng tạo ra tôn giáo độc thần cho văn minh phương Tây. Người ta cho rằng, bí

quyết của sự đồng nhất dân tộc đó chính là niềm tin trong thế giới tinh thần mãnh liệt

của họ.

 Cội nguồn Thiên Chúa giáo

Để có thể hiểu được Thiên chúa giáo với tư cách một tôn giáo có ảnh hưởng

mạnh mẽ nhất là đối với nền văn hoá Châu Âu thì không thể tìm hiểu Do Thái giáo -

cái nôi hình thành nên tôn giáo này. DoThái giáo đã gắn liền với toàn bộ các thiên

của sách Cựu ước trong Kinh Thánh. Từ trong Cựu ước, người ta gặp gỡ một thế giới

và một phương cách sống mà ngày nay từ sơ khai đã vô cùng khác lạ so với văn hoá

Hy - La. Ở đây, người ta luôn luôn ý thức rằng, số phận con người là nằm trong bàn

tay của chỉ riêng cá nhân Chúa mà thôi. Triết lý tôn giáo của người Do Thái được

xem là một tiến bộ vĩ đại so với các dân tộc vùng Trung Đông, bởi vì vào thời cổ đại,

– 43.

34Brinton, C./Lee,R./Christopher, J. B.: Văn minh phương Tây. NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2004, tr 42

61

trong khi các giống dân Trung Đông còn theo đa thần giáo và dị đoan, thì dân Do

Thái đã một lòng hoan hỉ và tin tưởng vào một Chúa trời duy nhất, toàn năng, cao cả,

huyền bí và tin vào số kiếp sống tốt đẹp ở thế giới bên kia, ngay cả khi họ bị đày ải

vô cùng khốn khổ (chẳng hạn nhân vật Jakob trong Cựu ước). Niềm tôn kính Chúa ấy

đã được thể hiện trong mọi hình tượng tôn giáo và được Thiên chúa giáo đẩy đến một

tầm phát triển cao hơn. Tương tự như Do Thái giáo, Thiên chúa giáo là một tôn giáo

mang tính lịch sử. Lịch sử loài người được hiểu là không có gì khác hơn là do ý

Chúa. Do đó mà đối với Thiên chúa giáo thì lịch sử chỉ là lịch sử cứu rỗi, là sám hối

và tha thứ. Ý thức thời đại theo tinh thần của Thiên chúa giáo do vậy không có tính

tuần hoàn, mà là được sáng tạo ra nhằm một mục đích cuối cùng cho toàn thể loài

người. Đối với Thiên chúa giáo thì cuộc đời và sự nghiệp của Jesus, người Nazareth

tượng trưng cho bước ngoặt trong tư duy tôn giáo. Còn đối với mỗi tín đồ Thiên chúa

giáo thì Ngài vừa là Con trai của đức Chúa trời lại vừa là nhà cách mạng xã hội. Vai trò và ảnh hưởng của Ngài đã vượt xa ra ngoài khuôn khổ của Thiên chúa giáo35.

Sự hoà kết giữa tư duy lịch sử thần thánh của Thiên chúa giáo và các học

thuyết lý luận cũng như những thực tiễn của triết học Hy - La đã trở thành tiền đề văn

hoá có tính quyết định đối với văn hoá Châu Âu. Quá trình hỗn dung đó đã diễn ra

trước tiên ở trường phái Alexandria, mà đại biểu của Thiên chúa giáo tiếp nhận khái

niệm Hy Lạp Paideia, theo đó thì lịch sử là sự giáo dục nhân tính bởi Chúa. Một loạt

khái niệm khác nhau của triết học Hy - La cổ đại như logic, tư tưởng, chân lý, bất tử,

linh hồn và trí tuệ…đã trở thành một bộ phận hữu cơ của Thiên chúa giáo với một ý

nghĩa mới mẻ.

Tư duy nhân văn Hy Lạp đã được mở rộng và làm sâu sắc thêm bằng quan

niệm Thiên chúa giáo về con người với tư cách cá nhân, đó là bất kể là ai cũng đều

quý như nhau trước Chúa và điều đó là bất di bất dịch trong xã hội. Với nhận thức

35 Kinh Thánh. Cựu ước và Tân ước.Bản tiếng Việt. Korea, 1990

62

như thế về con người, Thiên chúa giáo đã chỉ ra ý nghĩa của tình trạng nô lệ vốn bị

xem nhẹ trong xã hội cổ đại.

Tóm lại, các di sản phong phú và kỳ vĩ của các xã hội trong vùng Trung Cận

Đông cổ đại trên các phương diện nghệ thuật, chữ viết, kiến trúc, kỹ thuật đồ gốm và

kim khí, hệ thống chính trị và tổ chức xã hội nói chung đã có ảnh hưởng to lớn đến

Châu Âu, trước hết thông qua xã hội Hy Lạp và La Mã cổ đại. Các dân tộc Châu Âu

đã học được kỹ thuật đúc tiền kim loại, cách đo lường thời gian và cả những hình

thức ngoại giao. Người Hy Lạp, và tiếp đó người La Mã phát triển thêm hệ thống tổ

chức xã hội bằng các thiết chế dân chủ và chủ nghĩa cá nhân (dành cho tầng lớp trên

trong xã hội), lối tư duy logic và đam mê văn hoá đối thoại theo logic. Họ cũng sáng

tạo ra hệ thống luật lệ, thể chế, chính sách có ảnh hưởng lâu dài đến toàn bộ văn minh

phương Tây và kéo dài đến tận hôm nay. Dấu ấn về di sản tinh thần phương Đông

(Trung Cận Đông) ở Châu Âu nói riêng, phương Tây nói chung thậm chí còn sâu sắc

và phong phú hơn ở các xã hội Trung Cận Đông ngày nay.

2.2.2 . Đặc trưng văn hóa Châu Âu

Để tìm hiểu văn hoá Mỹ, không thể không nắm những nét chung của văn hoá

phương Tây, một nền văn hoá được đánh dấu bởi lối sống, tình cảm, tư duy, các sáng

tác…của người Tây Âu - Bắc Mỹ nói chung.

Văn hoá phương Tây có ba yếu tố: Chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp - La Mã,

yếu tố Do Thái - Ki Tô giáo, chủ nghĩa duy lý và khoa học.

 Chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp – La Mã

Theo trình tự thời gian, chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lap xuất hiện đầu tiên. Nhà

thơ Anh Shelley (Sely) đã viết: “Tất cả chúng ta đều là người Hy Lạp; luật pháp, tôn

giáo, nghệ thuật của chúng ta đều bắt nguồn từ Hy Lạp”. Nhận định này có phần 63

cường điệu nhưng cũng phải công nhận là “Người Hy Lạp đã sáng tạo ra tất cả

những lý luận nhân bản mà chúng ta thường coi là đặc trưng cho phương Tây”: Tự

do, lạc quan, chú trọng đến hạnh phúc con người ở trần thế, đề cao lý tính, văn hoá,

tôn trọng cả thân thể lẫn tinh thần, tôn trọng nhân phẩm và giá trị của cá nhân, số

phận cá nhân chỉ có thể do đa số định đoạt. Dĩ nhiên, những lý tưởng ấy đều bị hạn

chế bởi lịch sử, giai cấp, nhưng là những ngọn đuốc sáng so với những chế độ Cận

Đông đương thời mang đậm dấu ấn độc đoán, uy lực, mê tín và hướng về đời sống

bên kia trần thề, coi thường cá nhân…Văn học nghệ thuật cổ Hy Lạp cho đến nay vẫn

là một nguồn cảm hứng dồi dào, nhất là triết học với những tổ sư Platon (Platông) và

Aristote (Arixttôtơ).

Chủ nghĩa nhân văn cổ đại phát triển rực rỡ nhất ở Hy Lạp vào các thế kỷ IV

và V trước CN. Tiếp thu chủ nghĩa nhân văn Hy Lạp, La Mã đã có ảnh hưởng sâu

đậm cho đến nay đối với phương Tây về nhiều mặt: Kiến trúc, luật pháp, văn học

(ảnh hưởng Hy Lạp nhiều hơn), tổ chức tôn giáo (Giáo hội Thiên chúa giáo), tư tưởng

về uy lực tuyệt đối của Nhà nước, quan điểm cá nhân không có quyền gì trừ quyền do

Nhà nước ban cho, khái niệm đế chế do một dân tộc ngự trị. Trong lĩnh vực triết học,

người La Mã hướng về hành động hơn là tư duy, không xuất sắc bằng Hy Lạp. Vào

hậu kỳ cổ đại Hy Lạp (période hellenistique: 323 tr. CN - 31 tr CN), trong quá trình

đế chế La Mã hình thành, triết học Hy Lạp đã làm nẩy mầm ba trường phái sẽ chi

phối triết học La Mã (chủ nghĩa khắc kỷ, chủ nghĩa hướng lạc, chủ nghĩa hoài nghi).

Ba khuynh hướng này sẽ trở đi trở lại trong tư tưởng phương Tây).

 Yếu tố Do Thái – Ki Tôn giáo ( Judéo – Christianisme)

Là một đặc trưng sâu sắc của văn hoá phương Tây. Vào hậu kỳ cổ đại Hy Lạp

(hellénistique), trên lãnh thổ Hy Lạp - La Mã, nhất là Cận Đông, quần chúng hướng

về những tôn giáo tín ngưỡng dựa vào xúc cảm, tình yêu Thượng đế, nội tâm, thần bí,

64

khác với những tôn giáo tín ngưỡng Hy Lạp - La Mã dựa vào tổ chức bên ngoài, quy

tắc máy móc. Đạo Do Thái (Judaisme), một đạo nhất thần ra đời đã lâu, phát triển

trong hoàn cảnh này song song với mấy tôn giáo của Cận Đông. Đạo Do Thái đã để

lại cho phương Tây, ít nhiều qua đạo Ki Tô, một số tư tưởng chính trị và luật pháp,

nhân phẩm và giá trị cá nhân, những yếu tố sau này dẫn đến khái niệm hiện đại về

dân chủ.

Đạo Ki Tô (hay Cơ Đốc) tiếp thu một phần quan trọng giáo lý của đạo Do

Thái, nhất là qua Cựu ước (phần đầu Kinh Thánh): Tên Thượng đế, quá trình sáng tạo

thế gian, lịch sử con người, mười điều giới luật, tội tổ tông, Thiên hựu và khá nhiều

tư tưởng đạo lý, chính trị khác. Dĩ nhiên, đạo Ki Tô, do Jesus (Giê-xu) sáng lập

khoảng ba chục năm đầu công nguyên, thay đổi nội dung những yếu tố ấy cũng như

tiếp thu và cải biên những yếu tố mượn của những tôn giáo và triết học khác nhau:

Khái niệm về thế giới bên kia và sự xung đột vĩnh cửu giữa thiện và ác của đạo Ba

Tư Zooroatre, sự tin vào một khả năng siêu tri thức về khái niệm “Thượng đế -

Người” của những giáo phái ngộ đạo (gnosticisme), nghi lễ rửa tội và nghĩ lễ ngày

chủ nhật cùng ngày 25 tháng Chạp của giáo phái Ba Tư thờ thần ánh sáng

(Mithraime),…Đạo Ki Tô cũng thu nạp nhiều tư tưởng cổ Hy Lạp – La Mã của

Ploton, Aristote, Plotin.

 Chủ nghĩa duy lý và đầu óc khoa học

Chủ nghĩa duy lý, nguồn gốc của đầu óc khoa học, xuất hiện rõ rệt từ thế kỷ

XVI (thời kỳ Phục Hưng) và tự khẳng định vào thế kỷ XVII với triết học Descartes

(Đêcactơ). Nó đề cao lý tính, đối lập với đức tin và thế giới quan Thiên chúa giáo thời

Trung cổ. Nhà triết học có thể hiểu biết chân lý bằng lý trí, như nhà toán học dùng lý

trí để quyết toán. Thuyết cơ giới quy các hình thức vận động phức tạp khác nhau của

thế giới vào một hình thức vận động đơn giản nhất: Vận động cơ học. Sự ra đời của

65

thuyết cơ giới gắn liền với những thành tựu của cơ học Newton. Tiêu chuẩn chân lý ở

phương Tây dần dần kết tinh ở lý tính và khoa học. Những quan điểm này đánh vào

tư tưởng tôn giáo, chấm dứt thời Trung cổ và mở đầu thời kỳ Cận đại.

Giáo sư Crane Brinton đã phân tích rất xác đáng ba yếu tố khiến cho tư tưởng

Tây Âu - Bắc Mỹ hiện đại ( tức là tư tưởng của giai cấp tư sản) hình thành: Chủ nghĩa

nhân văn, cải cách tôn giáo, chủ nghĩa duy lý (gốc của đầu óc khoa học).Ba yếu tố

này đều đóng góp đập tan hệ tư tưởng phương Tây đã khác hẳn thời kỳ Trung cổ mặc

dù đạo Ki Tô không phải vì thế mà ngừng phát triển.

Chủ nghĩa nhân văn đánh vào lý tưởng tôn giáo Trung cổ “Sống vì thế giới bên

kia”. Nó đề cao con người phát triển toàn vẹn, hưởng hạnh phúc trần thế, cái đẹp của

tinh thần và cả thân thể, phát triển nghệ thuật. Trào lưu văn nghệ Phục Hưng xuất

phát từ Ý (thế kỷ XIV) rồi lan ra Tây và Trung Âu (thế kỷ XVI). Phản ánh tư tưởng

giai cấp tư sản đương lên, nó chủ trương phục hưng chủ nghĩa nhân văn cổ Hy Lạp -

La Mã, nhấn mạnh tự do tư tưởng, chống chủ nghĩa kinh viện Trung cổ.

Phong trào cải cách tôn giáo (thế kỷ XVI) cũng gián tiếp đánh vào lý tưởng tôn

giáo Trung cổ, phá vỡ sự thống nhất của cộng đồng Thiên chúa giáo. Vẫn trung thành

với đạo Ki Tô, nó phê phán nhánh Thiên chúa giáo La Mã, đòi trở lại tinh thần đạo Ki

Tô thực, khuyến khích tự do tư tưởng và tự do phê phán của từng cá nhân. Mỗi người

là linh mục của bản thân mình, không từng tuyệt đối bất cứ lời dạy nào của tang lữ.

Hàng loạt giáo phái Ki Tô mới ra đời, tách khỏi công giáo La Mã, gọi tên chung là

“Tôn giáo phản kháng”.

2.3 . Tiếp xúc và ảnh hƣởng của văn hóa Mỹ đến Châu Âu

2.3.1. Quá trình tiếp xúc

66

Thưở ban đầu xác lập quan hệ Âu – Mỹ nói chung, quan hệ văn hóa Âu – Mỹ

nói riêng, Châu Âu dường như đóng một vai trò chủ động hơn: Chủ động tìm đến và

chủ động đặt ảnh hưởng của mình ở Mỹ. Điều này cũng rất dễ hiểu bởi theo cách nói

quen thuộc, chính người Châu Âu đã “tìm ra” Châu Mỹ và tìm đến Châu Mỹ trước

tiên. Nói một cách chính xác hơn, người Châu Âu có công khai phá, biến đổi và phát

triển Châu Mỹ (trong đó có Bắc Mỹ) theo hướng ngày càng văn minh hơn. Trong

hoàn cảnh nền văn hóa bản địa ở Mỹ đã hình thành nhưng còn ở trình độ thấp, những

yếu tố văn hóa tiến bộ vượt trội của Châu Âu rõ ràng sẽ có những điều kiện hết sức

thuận lợi để phát huy tối đa, toàn diện ảnh hưởng của mình. Lúc đầu, ảnh hưởng của

văn hóa Châu Âu hầu như được xác lập ở Mỹ chủ yếu thông qua vai trò của người

nhập cư đến từ các quốc gia Châu Âu. Về sau, khi nước Mỹ đã ra đời song còn trong

giai đoạn non trẻ, chính bản thân các công dân Mỹ đã chủ động đến học tập văn hóa

Châu Âu, coi đó như là sự tìm về với cội nguồn cảm hứng sáng tạo, xây dựng nền

tảng cho văn hóa mới của nước Mỹ. Là một đất nước của những người nhập cư, với

chính sách duy trì tính đa dạng của văn hóa Mỹ bằng cách khuyến khích người nhập

cư tiếp tục bảo tồn các giá trị văn hóa của quốc gia trước đó của họ, nước Mỹ vẫn là

nơi rộng mở đối với làn gió văn hóa Châu Âu (chỉ có điều là làn gió này liệu có còn

giữ được mức khuynh đảo các làn gió văn hóa khác và thao túng văn hóa Mỹ như

thưở ban đầu nữa chăng?). Nói tóm lại, người Châu Âu có rất nhiều điều kiện thuận

lợi để du nhập và xác lập ảnh hưởng văn hóa của mình trên đất Mỹ, nhất là trong thưở

“ban đầu” của các quốc gia này.

Quá trình tiếp xúc văn hóa giữa Mỹ và Châu Âu có thể chia thành ba giai đoạn

gắn liền với ba cung bậc phản ứng khác nhau trong tâm tư, thái độ của người Mỹ.

Giai đ ạn đầu tiên: Có thể được tính từ lúc Mỹ đón những người nhập cư đầu

tiên (đến từ Châu Âu, chủ yếu là người Anh) đến trước nội chiến 1861 - 1865. Lúc

này người nhập cư Châu Âu và các hậu duệ của họ chiếm địa vị thống trị trong đời

67

sống Mỹ. Họ trở thành công dân Mỹ sau khi nước Mỹ ra đời trong lúc nguồn gốc

Châu Âu của họ còn chưa bị thời gian làm phai nhạt bao nhiêu. Do vậy, các đặc trưng

văn hóa truyền thống của Châu Âu hầu như vẫn được bảo tồn khá nguyên vẹn và có

sức lan tỏa sâu sắc trong đời sống xã hội Mỹ, lấn át ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa

bản địa và các yếu tố văn hóa gốc Phi của những người nô lệ. Có thể nói như một số

nhà nghiên cứu văn hóa Mỹ lúc này chính là “văn hóa Châu Âu” di thực (hiện trạng

này cũng diễn ra tương tự ở Canada, bởi Canada cũng được gọi là một “đất nước của

người nhập cư” và ngày nay vẫn được xem là có rất nhiều điểm tương đồng về văn

hóa với Châu Âu). Đối với nhiều người Mỹ, văn hóa Châu Âu chính là nguồn gốc, di

sản và là nền tảng cơ bản của văn hóa Mỹ. Và giai đoạn được xem xét này chính là

giai đoạn mà người Mỹ hướng sang Châu Âu nhiều nhất, “họ sao chép nghệ thuật

Châu Âu, họ đi Paris hay Berlin để nghiên cứu những bậc thầy của dĩ vãng hay học

hỏi những kỹ thuật, mỹ thuật đương thời”. Nhưng sự học tập theo kiểu sao chép ấy

đôi khi quá vụng về, phản tác dụng, khiến văn hóa Mỹ không những đạt được bước

phát triển tiến bộ hơn mà còn trở nên lệ thuộc vào nền văn hóa Châu Âu. Theo nhà sử

học Jacques Partes, chuyên gia về văn hóa Pháp, giáo sư trường đại học Paris - VII, ở

thế kỷ XIX (thậm chí là cuối thế kỷ này), nền văn hóa Mỹ hầu như vẫn chưa hiện

diện, “nó chỉ là cái ruột thừa kém cỏi của văn hóa Anh, là cái đuôi của hội họa

Pháp…”. Thậm chí, G. Washington, người đã đi vào huyền thoại anh hùng Mỹ và là

bậc “khai quốc công thần” danh tiếng, mặc dù khác biệt về chính trị với các nước

Anh song khi thiết kế ngôi nhà riêng của mình ở Mount Vernon, ông cũng không

thoát khỏi ảnh hưởng của kiến trúc Anh.

Sự quá lệ thuộc của người Mỹ và nền văn hóa Châu Âu trong giai đoạn này

cũng đã nói lên sự thao túng của văn hóa Châu Âu trên đất Mỹ lúc bây giờ cũng như

sự thao túng của người Mỹ trong những bước đi nhằm định hình một nền văn hóa

mới cho riêng mình. Nước Mỹ vốn được xem là ra đời từ những ý tưởng mới, cách

suy nghĩ mới và nhằm hướng tới việc kiến tạo một lối sống mới, thế thì làm sao lại 68

phải chấp nhận là một nền “văn hóa Châu Âu di thực”?. Nhận thấy tình trạng thiếu

thốn “yếu tố Mỹ” trong nền văn hóa quốc gia, một số trí thức Mỹ với tầm nhìn xa

trông rộng đã thể hiện một quan điểm chống lại việc rập khuôn văn hóa Châu Âu

trong cả việc làm và lời nói. Thomas Jefferson (1743 - 1826), một bậc khai quốc công

thần, Tổng thống thứ ba của Mỹ và là tác giả bản “Tuyên ngôn độc lập Mỹ”, từ

những năm 70 của thế kỷ XVIII đã thể hiện thái độ ghét cay ghét đắng kiểu kiến trúc

các triều đại vua Geogre bởi ông cho đó là kiểu kiến trúc gắn liền với sự thống trị

thuộc địa của nước Anh. Bản thân ông đã dần thay đổi kiểu kiến trúc ngôi nhà riêng

của mình từ những năm 70 của thế kỷ XVIII dưới ảnh hưởng của kiến trúc Italia,

thậm chí ông còn đặt cho cả khu đất một cái tên Italia Monticello. Sau Cách mạng

Mỹ, Jefferson đến Paris với tư cách Đại diện ngoại giao Mỹ và ở đây, ông đã vô cùng

thích thú khi chứng kiến những tiến bộ mới nhất về kiến trúc ở Paris cũng như vùng

phụ cận. Điều đó đã truyền cảm hứng cho ông sau đó xây dựng lại Moticello với

những ảnh hưởng mới từ kiến trúc Pháp. Sau này, ngôi nhà riêng của Jefferson đã trở

thành nơi chiêm ngưỡng của nhiều khách du lịch. Chính Jefferson cũng là người thiết

lập và thiết kế trường đại học tổng hợp Virginia và được xem là người đưa phong

cách tân cổ điển (Neoclassical Style) vào kiến trúc Mỹ. Như vậy, có thể nói bên cạnh

việc chối bỏ những ảnh hưởng của thực dân Anh, mặc dù vẫn còn chịu nhiều ảnh

hưởng của văn hóa Pháp, Italia (về kiến trúc), song Thomas Jefferson đã thể hiện tinh

thần tiên phong trong việc học tập một cách tích cực, chọn lọc và có hiệu quả đối với

văn hóa Châu Âu.

Người tiếp nối Thomas Jefferson ở một mức độ quyết liệt hơn trong tinh thần

chống lệ thuộc văn hóa Châu Âu là Ralph W. Emerson (1803 - 1882), triết gia đầu

tiên của nước Mỹ đồng thời là nhà thơ, nhà văn có công trình xây dựng nền văn hóa

thực sự Mỹ. Năm 1837, tại trường đại học Harvard, thông qua một bài phát biểu nổi

tiếng “Học giả Mỹ) - (The Amercican Scholar), Emerson đã “kêu gọi người trí thức

Mỹ phải có đầu óc độc lập đối với văn hóa Châu Âu và Anh”. Ông nêu rằng “Sự học 69

hỏi kéo dài các nước đã chấm dứt. Hàng triệu người quanh ta đang ào ào bước vào

cuộc sống, không thể mãi cung cấp cho họ những đề tài cũ trong những mùa gặt nước

ngoài”.Và để có được đầu óc độc lập ấy, Emerson cho rằng người trí thức Mỹ phải có

suy nghĩ độc lập, không ngừng trau dồi kiến thức không chỉ trong sách vở mà cả

trong cuộc sống. Bài phát biểu này của Emerson về sau thường được biết đến với một

cái tên khác là “Bản tuyên ngộn độc lập trí thức Mỹ”. Riêng trong lĩnh vực văn học,

Emerson cũng kêu gọi các nhà thơ Mỹ lấy chất liệu thơ ngay trên đất Mỹ.

Tóm lại, chính thái độ của người Mỹ giống như kiểu của Thomas Jefferson và

Emerson ở trên đã bước đầu khẳng định phần nào tính độc lập, riêng biệt của văn hóa

Mỹ. Tuy nhiên, sự phản ứng đó trong hoàn cảnh lúc bấy giờ thực chất lại càng thể

hiện rõ sức ảnh hưởng quá mạnh mẽ của văn hóa châu Âu trên đất Mỹ. Có thể nói

giai đoạn từ “thưở ban đầu” đến trước nội chiến 1861 - 1865 chính là giai đoạn thăng

hoa nhất của những ảnh hưởng từ văn hóa Châu Âu đến Mỹ.

Giai đ ạn thứ hai: Từ nội chiến (1861 – 1865) đến năm 1945 giống như là

một khúc trung gian trong hai cung bậc thăng, trầm của sự tiếp xúc văn hóa Âu – Mỹ.

Trong giai đoạn này, người ta được chứng kiến sự phát triển kinh tế ngày càng nhanh

chóng cũng như sự gia tăng vị thế của nước Mỹ trên trường quốc tế. Trong nền văn

hóa Mỹ, các yếu tố cấu thành khác như: Yếu tố địa lý, yếu tố văn hóa Mỹ - Phi thể

hiện vai trò ngày càng thêm rõ nét. Điều đó dẫn đến hai hệ quả song song đó là: Sự

xác lập của một nền văn hóa Mỹ riêng biệt và sự suy giảm ảnh hưởng của văn hóa

Châu Âu ở nước Mỹ. Nếu như ở hai thập kỷ đầu của thế kỷ XX, Pháp và Italia vẫn là

hai quốc gia điện ảnh hàng đầu thì từ những năm 30 trở đi, nước Mỹ dần dần chiếm

lĩnh ngành điện ảnh và phát huy vai trò ảnh hưởng trở lại. Nền văn hóa đại chúng Mỹ

hình thành trên cơ sở tiếp thu chủ nghĩa hiện đại ở Châu Âu, ngày càng phát triển sôi

động và thể hiện rõ màu sắc Mỹ.

70

Giai đ ạn thứ ba: Từ sau Đại chiến thế giới Thứ hai đến nay là giai đoạn mà

người ta chỉ còn chứng kiến những ảnh hưởng mờ nhạt của văn hóa Châu Âu đối với

nước Mỹ. Lúc này, nước Mỹ được xem như “đã trưởng thành”, chính thức bắt tay vào

sứ mệnh lãnh đạo thế giới, trong đó có Châu Âu. Người Mỹ vẫn trân trọng các giá trị

văn hóa Châu Âu và xem nó là nền tảng của văn hóa Mỹ. Song lúc này, với vị thế

mới và sự phát triển vượt bậc của nước Mỹ, người Mỹ còn mong muốn khuếch

trương nền văn hóa mới trưởng thành của mình. Những cuộc tranh luận báo chí hàng

năm, trong đó Mỹ chỉ trích sự sa sút của văn hóa Châu Âu, chính là một trong những

biểu hiện của thực tế này.

Như vậy, có thể thấy rằng, với vị trí quan trọng ngày từ thưở ban đầu thông qua

vai trò khai phá của các đoàn người nhập cư từ Châu Âu (như đã phân tích ở giai

đoạn một), văn hóa Châu Âu đã có một ảnh hưởng khá toàn diện lên đời sống văn hóa

Mỹ. Châu Âu mang đến cho nước Mỹ các loại nhạc (nhạc cổ điển, nhạc dân gian, một

số thể loại rock như Hard Rock, Heavy Metal…), các kiểu kiến trúc khác nhau (tân

cổ điển, nhạc dân gian, một số thể loại rock như Hard Rock, Heavy Metal…), các

kiểu kiến trúc khác nhau (tân cổ điển, tân Gothic…) đến các loại hình tín ngưỡng tôn

giáo đa dạng, các môn thể thao (tennis, golf, điền kinh, hockey trên băng…), các loại

thức ăn (bánh pizza, hamburgers, bia, rượu, sô đa…), thể chế chính phủ và luật pháp

(luật dân sự, luật La Mã, hệ thống nghị viện, nền dân chủ…). Thể chế nước Mỹ được

xây dựng trên tư tư tưởng thuyết ánh sáng và nước Anh. Riêng về thời trang và mỹ

phẩm, cho đến nay, người Mỹ vẫn phải “kính cẩn” trước ảnh hưởng của Châu Âu.

Quá trình tiếp xúc và ảnh hưởng của văn hóa Âu - Mỹ còn cho thấy rõ nét một

sự xoay chiều theo hướng: Ảnh hưởng của văn hóa Châu Âu đối với nước Mỹ đang

giảm dần và xu hướng ngược lại đang tăng lên. Sự suy giảm về ảnh hưởng của văn

hóa Châu Âu ở nước Mỹ xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó quan trọng nhất là

sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của nước Mỹ trên mọi phương diện kinh tế - chính

71

trị - văn hóa.Vị thế của nước Mỹ cũng quyết định rất nhiều đến thái độ của người Mỹ

khi tiếp nhận văn hóa Châu Âu. Vị thế này ngày càng gia tăng, người Mỹ sẽ ngày

càng mong muốn xác lập và củng cố vững chắc hơn cả sự độc lập và độc đáo trong

nền văn hóa quốc gia, tiếp nhận một cách chọn lọc và chủ động, tích cực những yếu

tố văn hóa Châu Âu. Thậm chí, với sự linh hoạt và khả năng thích nghi nhanh chóng,

người Mỹ còn tạo nên được một vòng biến thái văn hóa kỳ diệu với việc tiếp nhận

các yếu tố văn hóa bên ngoài, trong đó có văn hóa Châu Âu, sau đó biển đổi, phát

triển theo hướng “Mỹ hóa”, thử nghiệm trong môi trường văn hóa đại chúng Mỹ rồi

cuối cùng đem “xuất khẩu” ra toàn thế giới.

2.3.2. Kết quả của quá trình tiếp xúc

2.3.2.1. Ảnh hưởng văn hoá chính trị Mỹ đến Châu Âu

Chiến tranh lạnh diễn ra ngay sau khi Chiến tranh thế giới II kết thúc và nó mở

ra thời kỳ mới trong việc điều chỉnh những chính sách văn hoá Mỹ.

Để cạnh tranh với Liên Xô đang có tiếng nói rất quyền lực trên trường quốc tế

và đối phó với nguy cơ Liên Xô mở rộng ảnh hưởng của mình ở Châu Âu, truyền bá

tư tưởng Cộng sản ra khắp thế giới, Mỹ đã thực hiện truyền bá văn hoá và các giá trị

Mỹ sang toàn Châu Âu.

Tại những khu vực do Mỹ được phân chia chiếm đóng sau chiến tranh, một

loạt những chương trình văn hoá, giáo dục đã được triển khai nhằm giáo dục và định

hướng lại người Đức tiếp thu những giá trị của một hệ thống dân chủ. Những chương

trình trao đổi văn hoá là một phần quan trọng của chiến dịch phát triển giáo dục này.

72

Giữa năm 1945 và năm 1954 đã có khoảng 12.000 người Đức và 2000 người Mỹ tham gia vào các chương trình trao đổi văn hoá giữa hai quốc gia36.

Năm 1946 chứng kiến sự ra đời của một chương trình có lẽ nổi bật nhất trong

các hoạt động trao đổi văn hoá giáo dục của Mỹ. Thượng nghị sĩ bang Arkansas, J.

William Fullbright, đã tài trợ và trợ giúp cho việc thông qua Luật dân sự số 79 – 584

- đạo luật Fullbright. Theo luật này Bộ ngoại giao được uỷ quyền ký kết các thoả

thuận với các chính phủ nước ngoài và sử dụng ngoại tệ thu được từ thặng dư buôn

bán trong chiến tranh để giải ngân các hoạt động trao đổi văn hoá và học thuật.

Những chương trình này sau đó đã được lấy tên là chương trình Fullbright.

Sự hiệu quả của chương trình này đã được chứng minh bằng những con số cụ

thể, chẳng hạn như từ 1946 - 1996 đã có khoảng 250.000 người hưởng lợi từ học

bổng Fullbright. Học bổng này đã hỗ trợ rất nhiều sinh viên và học giả từ Châu Âu

đến Mỹ học tập. Mục đích của các chương trình này là nhằm tăng cường sự hợp tác

giáo dục và văn hoá giữa Mỹ và các quốc gia khác, thông qua đó thúc đẩy sự hiểu

biết lẫn nhau giữa các quốc gia bên ngoài và Mỹ.

Bước sâu hơn vào Chiến tranh lạnh, nhận thức sự ảnh hưởng của chủ nghĩa xã

hội, năm 1948 Quốc hội nới rộng phạm vi cấp phép cho các chương trình văn hoá

giáo dục quốc tế bằng việc thông qua đạo luật Smith – Mundt, đạo luật về trao đổi

văn hoá và thông tin Mỹ vào năm 1948. Lần đầu tiên khi không phải đang trong tình

trạng chiến tranh chính phủ tăng cường “tổ chức các hoạt động trao đổi, văn hoá, giáo

dục, thông tin trên phạm vi toàn cầu: với mục tiêu “thúc đẩy sự hiểu biết về nước Mỹ

ở các quốc gia khác và tăng cường sự hiểu biết giữa nhân dân Mỹ và nhân dân các

quốc gia khác”. Đằng sau những ngôn từ này người ta thấy được sự lo ngại sâu sắc

của Mỹ về chính sách đối ngoại của Liên Xô và an ninh của Mỹ ở Châu Âu. Thêm

36 Milton Cummings (2003), Cultural Diplomacy and the United States Government: A Survey Center for Arts and Culture, tr4.

73

vào đó còn có mối lo cụ thể hơn về chiến dịch tuyên truyền chống Mỹ trong rất nhiều

chương trình thông tin khác nhau của Liên Xô.

Năm 1953, Cơ quan thông tin Mỹ (The United States Information Agency)

được thành lập, hoạt động độc lập với Bộ ngoại giao Mỹ. Cơ quan này mới phụ trách

tất cả các chương trình thông tin bao gồm cả Đài phát thanh Mỹ (the Voice of

America) vốn thuộc kiểm soát của Bộ ngoại giao nhưng các chương trình trao đổi văn

hoá giáo dục vẫn thuộc quyền Bộ ngoại giao. Riêng VOA này khi liên quan đến các

chương trình phát thanh mang tính tuyên truyền, phục vụ mục tiêu “tấn công văn

hoá”. Đài phát thanh VOA cùng với các đài phát thanh Châu Âu tự do (Radio Free

Europe) nhằm vào các nước cộng sản tại Châu Âu giúp Mỹ “bao sân” tuyên truyền

các tư tưởng và văn hoá.

Cùng thời điểm này, song song với các chương trình công khai của Chính phủ,

Cục tình báo Trung ương CIA cũng nhảy vào cuộc trong những nỗ lực tình báo chống

lại chủ nghĩa cộng sản ở Châu Âu, bằng việc hỗ trợ các chương trình văn hoá và trí

tuệ. Trong những nỗ lực duy trì quan hệ giữa người Mỹ và các trí thức, nghệ sĩ nước

ngoài, cơ quan này cũng đã hỗ trợ tổ chức Đại hội tự do văn hoá và bí mất tài trợ cho

các triển lãm nghệ thuật Mỹ, những chuyến lưu diễn của những nhóm nghệ thuật và

cả việc xuất bản những tạp chí văn hoá ở nước ngoài.

Trong những năm 1960 và 1970, có thêm hai sự kiện có tính chất định hướng

cho các chương trình của chính phủ về các chính sách văn hoá. Năm 1961, đạo luật

trao đổi văn hoá và giáo dục lẫn nhau, đạo luật Fullbright – Hays đã được thông qua,

như một quan chức của Bộ ngoại giao đánh giá, các đạo luật này “khôi phục những

chương trình trao đổi văn hoá và giáo dục với tư cách là một lãnh địa của quan hệ

74

ngoại giao chính thức”37. Cũng trong giai đoạn này, Tổng thống Kenedy chấp nhận

chính sách hoà giải hơn với Liên Xô nhằm hai mục đích “vừa tranh thủ thời gian và

điều kiện hoà hoãn để củng cố sức mạnh bên trong của nước Mỹ, vừa tạo điều kiện

thuận lợi thực hiện chính sách Diễn biến hoà bình ở các nước xã hội chủ nghĩa ở

Đông Âu” do nhận định phe xã hội chủ nghĩa không còn là một khối thống nhất, làm

cho quan hệ Xô - Mỹ hoà dịu mới có thể làm cho quan hệ giữa Mỹ và Đông Âu được

cải thiện, tạo điều kiện cho Mỹ thực hiện chính sách diễn biến hoà bình ở các nước

này.

Đến thời Jimmy Carter, Cơ quan truyền thông quốc tế (theUnited States

International Communication Agency) được thành lập kết hợp được các chức năng

của Cơ quan thông tin Mỹ và Cục văn hoá, giáo dục của Bộ ngoại giao. Trong thư gửi

Quốc hội, Tổng thống Carter đã nhấn mạnh nhiệm vụ của cơ quan này là “nhằm cho

thế giới biết về xã hội và nền chính trị của chúng ta - đặc biệt là những cam kết của

Mỹ đối với việc đảm bảo sự đa dạng văn hoá và tự do cá nhân”. Rõ ràng ông Carter

đã thể hiện tham vọng của Mỹ là làm cho thế giới nhận ra và ngưỡng mộ sự ưu việt

của nền chính trị Mỹ, xã hội Mỹ: Mang đến nhiều cơ hội cho con người hơn những gì

mà những tuyên truyền của Chủ nghĩa cộng sản đang lan rộng ở Châu Âu. Có vẻ thực

tế và nhạy bén hơn, Chính phủ Mỹ cũng nhận ra tầm quan trọng của việc “biết mình

biết người”. Cũng trong thư gửi Quốc hội, ông Carter nhấn mạnh cơ quan mới này

“phải nói cho chúng ta biết về thế giới để làm giàu văn hoá của chúng ta cũng như

giúp chúng ta biết về thế giới để làm giàu văn hoá của chúng ta cũng như giúp chúng

ta có được sự hiểu biết đầy đủ để giải quyết hiệu quả các vấn đề giữa các quốc gia

khác”.

37Milton Cummings (2003), Cultural Diplomacy and the United States Government: A Survey Center for Arts and Culture, tr10.

75

Các giá trị tư tưởng của các vị lãnh tụ được hàm chứa thiêng liêng trong Bản

Tuyên ngôn độc lập, Hiến pháp, Chủ trương lập chế độ liên bang, và Bản Tuyên ngôn

Nhân quyền đã mang đến một trang sử mới cho các giá trị nghệ thuật truyền thống

đầy sức sống của Mỹ trên các lĩnh vực: nghệ thuật, phim ảnh, nhạc jazz, và văn

chương. Các giá trị nghệ thuật này của Mỹ mang lại cho mọi người khắp nơi trên thế

giới sự thích thú và đam mê bất kể có sự khác nhau về chính trị. Nhưng sau cuộc xâm

chiếm Irắc của Mỹ, vụ ngược đãi tù nhân ở nhà tù Abu Ghraib, và các cuộc tranh cãi

về việc giam giữ tù nhân ở Bagram và vịnh Guantánamo, nước Mỹ hầu như bị cả thế

giới coi là một thế lực nguy hiểm cần phải chống đối chứ không còn có vai trò là

người mở đường cho những hi vọng. Sự nhìn nhận này của thế giới với Mỹ xóa đi

khả năng thành công trong cuộc chiến đấu của thế giới giành quyền tự do, dân chủ, và

nhân phẩm cho các dân tộc - những tư tưởng vẫn đang thổi nguồn hi vọng cho các

dân tộc bị áp bức trên thế giới. Lòng tin trong cộng đồng thế giới chắc chắn sẽ được

khôi phục nếu Mỹ làm được nhiều điều hơn là chỉ dùng quân sự hoặc các biện pháp

về kinh tế để điều chỉnh cách nhìn nhận về Mỹ này của thế giới.

Thực tế lịch sử ghi lại nền văn hóa phong phú đa dạng của nước Mỹ đã đóng

vai trò không kém gì hoạt động quân sự trong việc củng cố vai trò lãnh đạo thế giới

của đất nước này, ngay cả trong cuộc chiến chống khủng bố. Các giá trị nghệ thuật

tư tưởng truyền thống đã tạo nên một bức tường thành chống lại các thế lực đen tối.

Và các hoạt đông văn hóa thể hiện khả năng của các họa sĩ, những nghệ sĩ biểu

diễn, và các nhà tư tưởng Mỹ trong việc củng cố an ninh nước Mỹ thông qua việc

tạo dựng quan hệ chính trị bền vững, rộng mở và khéo léo nhờ chính sách văn hóa

ngoại giao. Nhưng với nguồn lực có hạn và do thiếu sự quan tâm sâu sắc của chính

phủ đã giới hạn những nỗ lực trong việc dành thiện cảm của nhân dân thế giới đối

với Mỹ.

76

Đây là lúc để thay đổi và điều chỉnh mục tiêu của văn hóa phù hợp với vị trí

của Mỹ. Đây cũng là điều mà Cựu Ngoại trưởng Mỹ Madeline Albright đã nói là

"một tất yếu", là lúc cho thấy các giá trị mà Mỹ đã thuyết giáo trên vũ đài chính trị

quốc tế được thể hiện thế nào trong nền văn hóa của nước này - và là lúc để lắng

nghe những nền văn hóa khác trên thế giới nói về Mỹ.

Dường như Mỹ không bao giờ có thể khôi phục lại lòng tin của thế giới dành

cho mình. Các cuộc điều tra ý kiến được thực hiện bởi một loạt các tổ chức, bao

gồm tổ chức Zogby Quốc tế thuộc Trung tâm nghiên cứu Pew, và tổ chức Gallup

(là CNN/Mỹ ngày nay), cho thấy thái độ phản đối của nhân dân thế giới đối với Mỹ

và các chính sách của nước này, đặc biệt trong cuộc chiến tranh ở Irắc. Cuộc điều

tra được tiến hành ở các nước đạo Hồi/A-rập, và đa số người dân các nước Ai Cập,

Morocco, và A-rập Saudi coi George W.Bush là mối đe dọa đối với thế giới còn

lớn hơn cả "trùm khủng bố" Osama bin Laden; ở Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan và Jordan

thì số người chống đối đã giảm xuống ổn định trong năm 2002, 2003 và 2004; một

cuộc điều tra được tiến hành tại10 nước vào tháng 10/2004 - tại Canada, Pháp,

Anh, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, Úc, Mexico, Israel, và Nga: Một số

đồng minh thân cận nhất của Mỹ đã có xu hướng tương tự. Tuy cuộc điều tra gần

đây cho thấy những nỗ lực hỗ trợ của Mỹ sau trận sóng thần ở Đông Nam Á vào

tháng 12/2004 đã xoa dịu được cơn thịnh nộ của thế giới với Mỹ, nhất là ở các

nước đạo Hồi đông dân như Indonesia, nhưng thực tế còn rất nhiều các dân tộc trên

thế giới đã mất niềm tin vào nước Mỹ.

Các thành tựu của hệ thống giáo dục cao học của Mỹ làm nhiều nước trên thế

giới phải đố kỵ mặc dù có rất nhiều khó khăn mà sinh viên nước ngoài phải đối mặt

trong việc xin visa để được vào học ở các trường của Mỹ; các quỹ tài trợ phát triển

tài năng là một phần trong chương trình giao lưu văn hóa nằm trong chính sách văn

hóa ngoại giao.

77

Mọi người trên thế giới yêu thích văn hóa Mỹ là qua các tư tưởng của Mỹ - tư

tưởng về tự do qua các sáng tác của Emerson và Thoreau, của Hemingway và

Fitzgerald; các bản nhạc của Fitzgerald, Charlie Parker, và John Coltrane; các bức

tranh của Jackson Pollock, Willem de Kooning, và Robert Motherwell; các điệu

múa ballê của Martha Graham, Merce Cunningham, và Paul Taylor; các bộ phim

của Woody Allen và Martin Scorsese. Tuy nhiên, một nhà chức trách người Mỹ đã

nói về việc cắt giảm quỹ hỗ trợ cho các chương trình văn hóa gần đây: "Nó giống

như việc hút hết không khí trong 1 chiếc bình: Nếu không có cách nào khác để

khuyến khích chúng ta duy trì hoạt động nghệ thuật ngoài vì mục đích chính trị thì

chúng ta sẽ thất bại".

Khi cuộc Chiến tranh lạnh kết thúc và sau đó là việc giải tán Cơ quan thông

tin Mỹ (USIA) vào năm 1999, thì các chương trình giao lưu văn hóa chính thức của

Mỹ với nước ngoài giảm sút đáng kể; các chương trình văn hóa giảm sút thậm chí

trước thời điểm giải tán nhân sự của USIA theo mệnh lệnh của Bộ Ngoại giao Hoa

Kỳ (DOS) đã phá hủy những gì cần thiết cho việc duy trì các mối quan hệ về văn

hóa. Những gì còn lại là một loạt các chương trình đặc biệt cần được thực hiện

thông qua y ban Giáo dục và Văn hóa (Bureau of Education and Cultural Affairs

(ECA)) thuộc DOS, với nhân sự và ngân sách cắt giảm, vị trí bị phai mờ trong hệ

thống ngoại giao, và mục tiêu của chính sách văn hóa ngoại giao không còn tương

xứng với các giá trị tư tưởng Mỹ và mục tiêu của chính sách đối ngoại.

Bản báo cáo tổng hợp những khám phá trong nghiên cứu về chính sách văn

hóa và đối ngoại của Mỹ của các tổ chức của Mỹ; những thông tin mà Hội đồng tư

vấn Mỹ thu lượm được từ chuyến công tác sang Oman, Ai Cập, và Anh vào mùa hè

năm 2004 cũng như các chuyến thăm quan của các cá nhân trong Hội đồng được

DOS tài trợ đến Ai Cập, Malaysia, và Na Uy; các cuộc phỏng vấn các hoạ sĩ, biên

đạo múa, các nhà hoạt động văn hóa, các học giả, các nhà làm phim, các đạo diễn

78

ca múa kịch, và các nhà văn trong nước và nước ngoài; các cuộc thảo luận với các

nhà ngoại giao Mỹ, các trưởng ban chương trình của DOS, và hàng loạt những

quan chức nước ngoài, nhà báo, và các chuyên gia. Mỹ ngày càng thấy rõ hơn nguy

cơ khủng hoảng về chính sách ngoại giao, đầu tiên là trong nhận thức của Mỹ và

sau đó thể hiện ở các vấn đề ngoại giao cần được giải quyết: Các mối quan hệ cần

được lập lại và các mối quan hệ mới cần được thiết lập. Nếu không đơn giản Mỹ sẽ

không còn có được sự thiện chí của thế giới và điều này sẽ làm cho việc thi hành

chính sách đối ngoại đang ngày càng trở nên khó khăn hơn. "Chúng ta đã từng yêu

quý nước Mỹ", đó là tiêu đề của một cuộc hội thảo về lễ liên hoan văn chương thế

giới tại thể hiện tình cảm của toàn thế giới đối với Mỹ trong 3 năm qua. Câu hỏi đặt

ra lúc này là nước Mỹ cần làm gì để lấy lại được thiện cảm đó của thế giới dành

cho mình?

Hội đồng tư vấn về chính sách văn hóa được Quốc hội Mỹ ủy nhiệm theo văn

bản luật BL 107-228 tháng 3/2004. Hội đồng có nhiệm vụ tư vấn cho Bộ ngoại

giao Hoa Kỳ trong việc xây dựng các chương trình và chính sách nhằm nâng cao

việc thực hiện chính sách văn hóa ngoại giao trong chính sách đối ngoại của Mỹ,

đặc biệt quan tâm đến các hoạt động; 1) tổ chức nhiều các cuộc biểu diễn, trưng

bày triển lãm nghệ thuật của các nghệ sĩ Mỹ ở nước ngoài; 2) xây dựng các chiến

dịch khuyến khích hợp tác tài trợ cho các chương trình giao lưu văn hóa thu hút sự

quan tâm của công chúng Mỹ.

Như cựu Ngoại trưởng Mỹ George P. Shultz phát biểu, có thể ví chính sách

văn hóa như việc làm vườn - "Nhổ cỏ phải nhổ tận gốc”. Ta cũng có thể xây dựng

cơ sở niềm tin và sự hiểu biết. Nếu tình hình có xấu đi ta đã có một nền tảng vững

chắc để giải quyết" - và vai trò của chính sách văn hóa là trồng những hạt giống -

các tư tưởng và giá trị phi vật chất; các công cụ và các chiến dịch nghệ thuật; các

cuộc bàn luận chính trị và triết học; các ý niệm tinh thần; các cách nhìn nhận thế

79

giới - những giá trị này có thể nảy nở ở các vùng đất khác trên thế giới. Chính sách

văn hoá thể hiện tâm hồn của một quốc gia, điều này lý giải sự phức tạp trong đời

sống chính trị Mỹ: Khi đất nước này có chiến tranh, mọi phương pháp được sử

dụng, bao gồm cả việc phát động các phong trào văn hóa. Nhưng khi hòa bình lập

lại, văn hóa lại ngày càng bị mai một vì cố hữu nước Mỹ luôn thiếu sự ủng hộ của

công chúng đối với nghệ thuật. Và bây giờ nếu Mỹ lại có chiến tranh lần nữa thì

nước này càng phải quan tâm nhiều hơn đến chính sách văn hóa. Có thể hiện tại Mỹ

nên tạo dựng những yếu tố, cơ sở văn hóa vững chắc cho việc thực hiện chính sách

văn hóa ngoại giao hiệu quả và phù hợp với cách nhìn nhận vai trò của văn hóa

trong việc giữ vững an ninh quốc gia.

Nỗ lực đầu tiên trong chính sách văn hóa Mỹ có từ chiến tranh thế giới I, xuất

phát các hoạt động văn hóa của Đảng quốc xã Đức ở châu Mỹ Latin, chứ không

phải đến năm 1938, Bộ Ngoại giao Mỹ mới ý thức được vai trò của các quan hệ

văn hóa. Chính phủ đã đồng ý hỗ trợ các chương trình giao lưu văn hóa cho các

sinh viên và các nghệ sĩ theo Nghị định 1936, nghị định hướng dẫn việc thúc đẩy

các mối quan hệ văn hóa ngoại giao của Mỹ với các nước - mô hình tổ chức các

chương trình giao lưu là một phần trong chính sách đối ngoại trong suốt thời kỳ

Chiến tranh lạnh.

Mục đích và mục tiêu của chương trình này là "Tạo điều kiện cho Chính phủ

Hoa Kỳ hiểu biết hơn về các dân tộc khác và nâng cao mối quan hệ hiểu biết lẫn

nhau giữa nhân dân Mỹ và nhân dân các nước khác". Trong số những cách thức có

thể được sử dụng nhằm đạt được những mục tiêu này thì có một biện pháp là giao

lưu quốc tế về con người, kiến thức và kỹ năng.

Giao lưu quốc tế về nhân lực và các dự án là một sách lược cần thiết để đạt

được các mục tiêu của chương trình giao lưu có tính chất giáo dục này. Những

80

người tham gia vào các dự án này sẽ mang đến các nước khác cũng như mang lại

cho đất nước mình những thông tin, kiến thức và những quan điểm mới mà qua mỗi

kinh nghiệm cá nhân và sự tác động của cá nhân sẽ nâng cao hơn sự hiểu biết của

nước Mỹ về các nước cũng như sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Mỹ và nhân

dân thế giới. Các chương trình này đóng vai trò tiên phong và trực tiếp đóng góp

cho các hoạt động giao lưu về kỹ thuật, tri thức và kỹ năng, chia sẻ thông tin về

việc phát triển giáo dục, nghệ thuật và khoa học.

Sự truyền bá tri thức và văn hóa Mỹ - thành công của Mỹ trong cuộc chiến

tranh tư tưởng với Liên Xô - có thể được đánh dấu bằng nhiều chương trình văn

hóa có ý nghĩa.

Cơ quan trung tâm tri thức (The Central Intelligence Agency) đã tham gia

hoạt động văn hóa vào những năm 50 thông qua việc hỗ trợ cho các cuộc trưng bày

nghệ thuật Mỹ, tổ chức các tua lưu diễn nghệ thuật, và xuất bản tạp chí Encounter,

là một trong những ấn phẩm nổi bật trong thời kỳ đó - nhưng hoạt động này đã

chấm dứt vào năm 1967.

Nhưng sau Chiến tranh Lạnh, chính sách văn hóa không còn được ưu tiên, và ngân quỹ cho chính sách này giảm sút đáng kể. Như bà Juliet Antunes Sablosky

báo cáo: "Kể từ năm 1993, ngân sách đã cắt giảm 30%, nhân sự của chính sách này

giảm 30% ở nước ngoài và trong nước giảm 20%, và rất nhiều các trung tâm văn

hóa, thư viện đã đóng cửa". Việc giải tán tổ chức UISA vào năm 1999 đã đánh dấu

sự chấm hết của chính sách văn hóa ngoại giao chính thức và bắt đầu rút ra khỏi

hoạt động văn hóa chung của thế giới. Dẫn chứng là, "Từ năm 1995 đến 2001 số

lượng các nghệ sĩ tham gia chương trình giao lưu của ECA đã giảm từ 45.000

xuống còn 29.000". Thay cho các hoạt động văn hóa ở nước ngoài thì các chương

trình chính trị, đặc biệt là các chương trình chính trị cực đoan ở các nước đạo Hồi.

81

Trong cuốn The First Resort of Kings, ghi lại lịch sử về chính sách văn hóa ngoại

giao của Mỹ, ông Richard T. Arndt đã chỉ trích "Ngày càng có sự thiếu hiểu biết về

thế giới bên ngoài" trong chính sách ngoại giao Mỹ. Tuy nhiên cũng có một số ít

người đã đề xuất cần phải tìm ra nguyên nhân và biện pháp cho chính sách văn hóa

ngoại giao đang xuống dốc. Nhưng rút cục chẳng ai quan tâm, bỏ mặc đất nước

trước sự ảnh hưởng dữ dội của văn hóa đạo Hồi.

Ngoài ra, việc thi hành các luật lệ nghiêm ngặt về việc cấp visa sau sự kiện

9/11 đã ảnh hưởng đến chính sách văn hóa. Nếu trong những năm 90, số lượng sinh

viên nước ngoài học đại học ở Mỹ tăng 10%/năm thì những yêu cầu nghiêm ngặt

đối với việc nhập cảnh đã làm giảm tỉ lệ tăng này xuống thấp hơn cả 1% vào năm

2002 và 2003; những khó khăn trong việc xin visa đã đẩy sinh viên nước ngoài

sang học các trường ở úc và các nước trong khối liên minh châu Âu. Thực sự rất

nhiều sinh viên nước ngoài tìm đến đất Mỹ để học hỏi các kiến thức về khoa học kỹ

thuật, các kỹ năng sư phạm và nghiên cứu (Theo báo cáo của Hội đồng khoa học

quốc gia có 38% tiến sĩ trong đội ngũ kỹ sư và các nhà khoa học đều là người nước

ngoài), những người quay trở lại quê hương cũng rất biết ơn công giáo dục và

thường đóng vai trò là sứ giả của nước Mỹ. Họ thấm nhuần các giá trị văn hóa Mỹ,

và cho thấy sự thiện chí của nước Mỹ. Ông Joseph S. Nye, Jr nhận xét: "Năm

trước, số học lưu học sinh ở các trường đại học và cao đẳng Mỹ giảm lần đầu tiên

kể từ năm 1971. Các báo cáo gần đây cho thấy tổng số lưu học sinh nhập học tại

2.700 trường đã giảm 2,4%, và ở các trường đại học nghiên cứu lớn thì con số này

còn giảm nhiều hơn nữa". Mỹ cũng không nên giảm ngân sách hỗ trợ cho các lưu

học sinh: NAFSA, Tổ chức đào tạo quốc tế (The Association of International

Educators) báo cáo rằng các lưu học sinh và gia đình họ phải hỗ trợ thêm gần 13 tỷ

$ mỗi năm, và trong năm 2003 con số này giảm đi hơn 300 triệu đô la Mỹ. Theo

cựu Ngoại trưởng Mỹ Colin Powell đã phát biểu:"Không có tài sản nào giá trị hơn

82

đối với đất nước chúng ta là tình hữu nghị của các lãnh đạo thế giới trong tương lai,

những người đã từng được đào tạo ở đây".

Rõ ràng vấn đề lúc này đối với chính sách văn hóa là vấn đề về ngân sách.

Ngân sách của DOS dành cho chính sách đối ngoại năm 2003 tổng cộng là 600

triệu đô la Mỹ, 40% trong số đó được dành cho các chương trình văn hóa và giáo

dục. ECA, với ngân sách hàng năm là 245 triệu đô la Mỹ (khoảng 3 triệu đô la Mỹ

được dành cho các hoạt động văn hóa), đã tổ chức rất nhiều các chương trình, bao

gồm các chương trình giao lưu giáo dục, chương trình giao lưu của thanh niên và

giao lưu của các nghệ sĩ; hỗ trợ tổ chức các cuộc triển lãm tranh, tác phẩm điêu

khắc, ảnh nghệ thuật và phim; tài trợ các chuyến lưu diễn của các nghệ sĩ; tài trợ

cho các chuyên gia văn hóa tổ chức giảng dạy, tổ chức hội thảo. Trong những

chương trình đó nổi bật là: Chương trình giao lưu văn hóa Culture Connect đã đưa

các hình tượng văn hóa nổi tiếng như Yo-Yo Ma, Wynton Marsalis, và Frank

McCourt đến với công chúng nước ngoài, hướng vào các đối tượng từ 12 đến 25 để

tăng cường sự hiểu biết văn hóa lẫn nhau; Quỹ hỗ trợ bảo tồn di sản văn hóa

(Ambassador’s Fund for Cultural Preservation) nhằm giúp các nước bảo tồn các

khu di tích lịch sử và các di sản viết tay, đồ sưu tập của bảo tàng và các hình thức

văn hóa truyền thống như âm nhạc, nhảy múa, và ngôn ngữ; Chương trình giao lưu

của các viện bảo tàng thế giới nhằm tăng cường sự liên kết giữa các viện bảo tàng ở

Mỹ với nước ngoài; Chương trình lưu diễn nhạc Jazz từ 4-6 tuần ở nước ngoài; và

các chương trình khác nhưng những chương trình này đều sẽ không còn có nguồn

tài trợ.

Tất nhiên là vẫn còn một số hoạt động văn hóa quốc tế được tiến hành bởi các

tổ chức tư nhân. Văn hóa Mỹ, nổi bật là phim và ca nhạc là một trong những lĩnh

vực nghệ thuật mạnh nhất trên thế giới ngày nay. Tuy nhiên văn hóa Mỹ cũng rất

phong phú và mỗi loại hình văn hóa lại tạo nên một hình ảnh mới cho đất nước này,

83

và y ban giáo dục và văn hóa ECA là "tâm điểm đầu tiên trong kế hoạch thành lập

các Hiệp hội hợp tác giữa các tổ chức tư nhân và tổ chức nhà nước", ECA đóng vai

trò quan trọng trong việc tăng cường mối quan hệ giữa các họa sĩ, nhà văn, … của

Mỹ với nước ngoài. Gần 1.500 tổ chức tư nhân, các học viện cùng ECA hợp tác với

Hội đồng du lịch quốc gia (The National Council of International Visitors) tổ chức

các chương trình văn hóa và giao lưu, duy trì mạng lưới gồm 80.000 tình nguyện

viên Mỹ - những người giới thiệu nước Mỹ đến với các du khách nước ngoài. Họ

làm việc trên lĩnh vực giải trí để đưa hình ảnh nước Mỹ đến với toàn cầu. Và kết

quả của các chương trình này là: Các du khách đến Mỹ đã hiểu sâu sắc hơn về

những biến đổi của xã hội Mỹ, bên cạnh đó người Mỹ cũng tự mở mang sự hiểu

biết của mình về thế giới. Giao lưu văn hóa giúp các dân tộc có những hiểu biết cơ

bản về nhiều vùng đất khác trên thế giới.

Vào tháng 6 năm 2004, 6 thành viên của tổ chức ACCD đã tiến hành chuyến

công tác tìm hiểu thực tế tại Muscat, Cairo, và London nhằm nghiên cứu vai trò của

văn hóa và nghệ thuật trong chính sách đối ngoại; để đánh giá những tác động của

việc tổ chức các chương trình văn hóa nghệ thuật; để xem xét lại ngân quỹ dành

cho các hoạt động văn hóa nghệ thuật; để xem có thể kết hợp các chương trình văn

hóa nghệ thuật như thế nào; để DOS học hỏi cách thức hỗ trợ hữu hiệu nhất cho các

chương trình văn hóa nghệ thuật; để khám phá các chính sách nghệ thuật và văn

hóa có thể nâng cao hình ảnh Mỹ ở nước ngoài như thế nào; và để bàn bạc cách

hợp tác với các tổ chức hoạt động văn hóa nghệ thuật tư nhân Mỹ.

Một cuộc điều tra gần đây của ACCD đã cho kết luận: Hình ảnh và danh tiếng

của Mỹ ở nước ngoài hầu như không bị ảnh hưởng xấu đi. Nhưng dường như vẫn

có một thế lực nào đó chống lại các chính sách và hoạt động của Mỹ. Mặc dù vậy,

điều đó là cần thiết để Mỹ không coi thường các nước khác.

84

Điều cần nói ở đây là: Chúng ta đang mở cửa và hội nhập - là điều kiện để

hợp tác với các ngồn lực nước ngoài bao gồm cả trên lĩnh vực văn hóa và nghệ

thuật. Thực tế, Mỹ có thể tham gia thành công vào nền văn hóa thế giới nhưng

dường như Mỹ vẫn đang "ẩn mình". Mỹ nên sẵn sàng hội nhập lại nền văn hóa

chung của thế giới.

Một quan chức khác lại nêu ra vấn đề về dịch thuật cho thấy được hiện trạng

là rất ít các sách tiếng Anh được dịch sang tiếng A-rập và ngược lại. Thực sự dịch

thuật cũng có vai trò quan trọng trong bất kỳ sáng kiến nào của chính sách văn hóa

ngoại giao; một số bất hòa giữa các dân tộc có thể được giải quyết nhờ có sự giao

lưu về văn chương và các giá trị tri thức truyền thống; một số nhà hoạch định chính

sách và phê bình Mỹ không có sự hiểu biết rõ về các dân tộc khác trong một vài

trường hợp có thể dàn xếp bằng các thông dịch viên từ nước ngoài.Và dịch thuật có

thể đem lại sự hiểu biết văn hóa lẫn nhau. Nhưng cũng cần thiết lưu ý rằng trong

các tác phẩm đã được dịch chiếm 25-45% sách được xuất bản hàng năm của một

nước, con số này ở A-rập là 3%; trong 185.000 các tác phẩm tiếng Anh được xuất

bản ở đây vào năm 2004 thì chỉ có 874 là các tác phẩm văn chương được dịch. Bản

báo cáo phát triển con người A-rập năm 2002 (The 2002 Arab Human

Development Report) của Liên hiệp quốc lưu ý rằng: "Dịch thuật là một trong

những công cụ quan trọng để quảng bá thông tin và giao tiếp với thế giới". Tuy

nhiên hoạt động dịch thuật ở A-rập không có những chuyển biến tích cực. Tính

trung bình, chỉ có 4.4 cuốn sách được dịch trên 1 triệu người được xuất bản trong 5

năm đầu của thập niên 80, trong khi đó ở Hungary con số này là 519 cuốn trên 1

triệu người và ở Tây Ban Nha là 920 cuốn."Dịch thuật là một hình thức giao lưu

tiết kiệm, thành quả là sự truyền bá thông tin và các tư tưởng, sự in sâu các bản sắc

của văn hóa nước ngoài, tăng cường sự hiểu biết và chia sẻ, thể hiện các giá trị nói

chung của con người, và dịch thuật cũng lưu giữ được các giá trị và có tác động

trong khoảng thời gian dài”.

85

Một đề tài nổi bật thường được nhắc đến trong các chuyến đi của nhóm

nghiên cứu ACCD là: Nhu cầu cần được giao lưu hợp tác hơn nữa của các diễn viên,

nhà làm phim hoạt hình, các họa sĩ, các đạo diễn, các nhà văn, các kỹ thuật viên sân

khấu, và những người thiết kế trang web. Ngài Joseph S. Nye, Jr. gọi đây là "nguồn

lực mềm", ông ta định nghĩa là "khả năng có được những gì bạn muốn nhờ việc thu

hút và thuyết phục những người khác ủng hộ và hợp tác cùng bạn để thực hiện các

mục tiêu," và nó cũng quan trọng giống như các giải pháp về kinh tế hay quân sự

trong cuộc chiến chống khủng bố, và đặc biệt nó không tốn kém.

Một nhà nhiếp ảnh nói:"Nếu chúng ta có thể liên kết với nhau trên cơ sở hiểu

biết văn hóa, chúng ta có thể vượt qua những sự khác biệt về chính trị."

Thành công của các chương trình giao lưu văn hóa Mỹ còn thể hiện ở buổi

họp tại Đại sứ quán Mỹ ở London, trong buổi họp này các nghệ sĩ tham gia chương

trình sáng tác văn chương quốc tế (The International Writing Program), chương

trình Fullbright, và chương trình International Visitor Leadership đã chia sẻ những

kinh nghiệm của họ tại Mỹ. Người thì ca ngợi sự cởi mởi của các giám đốc viện

bảo tàng, những người sẵn sàng chia sẻ thông tin tài chính và các kế hoạch hoạt

động. Một nhà soạn nhạc đến từ Belfast nói rằng "Văn hóa có thể đạt được những

điều mà chính trị không làm được". Mỗi nghệ sĩ có một ấn tượng riêng về các giá

trị văn hóa nước Mỹ và hiểu biết rõ hơn về nền văn hóa đa dạng của đất nước này.

Theo cách nói ngoại giao họ cho rằng văn hóa là một điểm đến của những mối

quan tâm chung, nó mở những cánh cửa đang khép vì lý do chính trị. Vì vậy mà

chính sách văn hóa có tác động lâu dài đến tiềm thức của con người trong vòng 5,

10, 20 năm.

86

2.3.2.2 Ảnh hưởng của văn hóa Mỹ đến văn hóa Châu Âu

Khi vị thế của nước Mỹ ngày càng tăng trên trường quốc tế (cả về kinh tế và

chính trị), khi nền văn hóa Mỹ đã được định hình rõ nét hơn thì cũng là lúc nước Mỹ

phát huy ảnh hưởng của mình, trong đó có ảnh hưởng về văn hóa ra toàn thế giới nói

chung và tới Châu Âu nói riêng. Sức hấp dẫn của bản thân nước Mỹ (văn hóa đa

dạng; môi trường tự do; hình mẫu của văn minh tư bản), mối quan hệ rộng mở với

nước Mỹ đã tạo ra ở các quốc gia Châu Âu một nhu cầu tự nhiên và cần thiết là tiếp

cận với văn hóa Mỹ. Không giống như Châu Âu bắt đầu ảnh hưởng văn hóa của mình

ở Mỹ bằng con đường nhập cư, xâm lấn đất đai, nước Mỹ thực hiện quá trình ảnh

hưởng văn hóa của mình lên Châu Âu chủ yếu thông qua con đường ngoại giao và

buôn bán.

Thưở ban đầu, khi ở giai đoạn đón các đoàn nhập cư ồ ạt từ Châu Âu sang

khai phá, nước Mỹ trong con mắt người Châu Âu là một vùng đất mới, tự do, nơi ẩn

náu an toàn cho mọi cuộc đàn áp tôn giáo, chính trị…ở Châu Âu; đồng thời cũng là

nơi thử nghiệm lý tưởng cho những ước mơ làm giàu. Có lẽ thuật ngữ “giấc mơ Mỹ”

có nguồn gốc xuất phát từ những ngày đầu tiên dân nhập cư Châu Âu đến Bắc Mỹ.

Sau khi cách mạng Mỹ thành công, những chiến sỹ tình nguyện Châu Âu trở về

lục địa mang theo lý tưởng tự do tuyệt đẹp từ nước Mỹ. Và người ta đã cho rằng có

một vòng quay tư tưởng đã được thiết lập ở đây. Tư tưởng khai sáng của nước Pháp

châm ngòi, soi rọi cho tư tưởng cách mạng Mỹ và sau đó, tư tưởng cách mạng Mỹ lại

là “hồi chuông cảnh tỉnh” cho cách mạng tư sản Châu Âu, trước hết là cách mạng tư

sản Pháp. Có thể nói, từ thưở lập quốc, nước Mỹ đã có ảnh hưởng, tác động ít nhiều

sâu sắc đến Châu Âu qua một nét văn hóa tư tưởng đó là tư tưởng tự do.Tư tưởng đó

khiến cho không ít người Châu Âu lúc bây giờ có những chuyển biến quan trọng

trong tâm tư, tình cảm và hành động. Điều đó thể hiện rõ nét nhất ở những đoàn

87

người từ Châu Âu ngày càng nhập cư nhiều vào nước Mỹ.

Có người cho rằng văn hóa Mỹ đã bắt đầu ảnh hưởng đến châu Âu từ nội chiến 1861 - 1865 bởi sự xuất hiện những giá trị văn hóa tinh thần đặc trưng Mỹ38. Tuy

nhiên, những nghiên cứu cẩn thận với những bằng chứng thuyết phục lại chỉ ra rằng

phải đến những năm 30 của thế kỷ XX và nhất là sau Đại chiến thế giới thứ hai thì

một nền văn hóa Mỹ mới thực sự định hình, thoát ly khỏi ảnh hưởng của văn hóa

Châu Âu và có ảnh hưởng tích cực trở lại đối với văn hóa Châu Âu. Sự phát triển của

điện ảnh Mỹ và nền văn hóa đại chúng Mỹ là những ví dụ rất sinh động.Ở hai thập kỷ

đầu tiên của thế kỷ XX, Pháp và Italia là hai nước Châu Âu xuất khẩu phim ảnh lớn

nhất thế giới. Thế nhưng, chẳng bao lâu sau đó, nước Mỹ trên cơ sở tiếp thu thành tựu

điện thành Châu Âu đã phát triển lĩnh vực điện ảnh của mình nhanh chóng đến mức

thay thế Pháp và Italia trong xuất khẩu phim ảnh. Các thế hệ đạo diễn giỏi người Mỹ

đã dần dần xuất hiện.Hollywood trở thành kinh đô điện ảnh thế giới và hoạt động như

một cộng đồng quốc tế. Cho đến nay, phim ảnh Mỹ thống trị thị trường toàn cầu nói

chung và Châu Âu nói riêng (theo thống kê một nửa số vé bán ra tại Pháp trong năm

2007 là để đi xem phim Mỹ). Một ví dụ khác về nền văn hóa đại chúng Mỹ, nền văn

hóa này (bao gồm cả điện ảnh), được xây dựng, phát triển trên cơ sở chủ nghĩa hiện

đại châu Âu đầu thế kỷ XX. Nền văn hóa này nhanh chóng phát triển ở Mỹ và lan

rộng ảnh hưởng tới Châu Âu cũng như toàn thế giới. Nguyên nhân dẫn đến sự thành

công của văn hóa đại chúng trước hết phải kể đến sự hỗ trợ về mặt ngôn ngữ tiếng

anh - ngôn ngữ quốc tế này đã giúp ảnh hưởng của nền văn hóa đậm chất Mỹ này

được phổ biến nhanh chóng, chính người Pháp cũng từng phải thừa nhận rằng ngôn

38Văn Ngọc Thành - Trịnh Nam Giang, Tiếp xúc và ảnh hưởng văn hóa giữa châu Âu và Bắc Mỹ.

ngữ của họ - tiếng Pháp so với tiếng Anh đã là hạn chế lớn đối với việc phổ biến văn

88

hóa Pháp). Một nguyên nhân quan trọng khác đó là công chúng Mỹ rất đa dạng, vừa

tạo nên một thị trường nội địa to lớn vừa tạp ra một môi trường thử nghiệm rất hoàn

hảo cho nền văn hóa đại chúng Mỹ trước khi được tung ra toàn thế giới. Vì thế, nền

văn hóa này có thể dễ dàng tiếp cận và “chiều ý” bất kỳ ai, dù là một công dân Châu

Âu khó tính nhất. Sự chuyên nghiệp trong sản xuất, lưu thông của các tập đoàn viễn

thông đối với các sản phẩm văn hóa cũng giúp cho nền văn hóa Mỹ có điều kiện phổ

biến nhanh, mạnh mẽ. Một nguyên nhân đặc biệt nữa xuất chính từ đặc điểm của các

sản phẩm văn hóa Mỹ đó là tính cá nhân cao, điều nay được thể hiện ở chỗ các sản

phẩm văn hóa Mỹ (bài hát, bộ phim…) thường có xu hướng đi khai thác mối quan hệ

giữa người - người hơn là đưa ra một thông điệp xã hội - chính trị nào. Chính đặc

điểm này lại khiến cho văn hóa Mỹ trở nên quen thuộc và dễ tiếp nhận hơn cho bất cứ

ai.

Với những mối quan hệ Âu - Mỹ trở nên gắn bó mật thiết sau Đại chiến thế giới

thứ hai (thông qua kế hoạch “Phục hưng Châu Âu”) và được sự thúc đẩy của quá trình

toàn cầu hóa, văn hóa Mỹ đã nhanh chóng xác lập ảnh hưởng rộng rãi, sâu sắc trên

nhiều phương diện của đời sống các nước Châu Âu: Từ lối sống, nghệ thuật, giải trí

đến khoa học kỹ thuật - công nghệ…Người Châu Âu ngày càng say sưa tiếp nhận các

loại nhạc Mỹ (Rock&Roll, disco, pop, rap, hip-hop...), kiểu kiến trúc Mỹ (kiểu nhà

chọc trời được thiết kế với chất liệu thép, kính), các môn thể thao (bóng rổ), các loại

thức ăn Mỹ (thức ăn nhanh: Pizza Hut, Mc Donalds..;đồ uống nhẹ có ga: Coca Cola,

Fanta..đồ ngũ cốc Kellog’s..), thời trang Mỹ (quần Jean, áo phông..). Các lễ hội

truyền thống như Lễ Halloween, Giáng sinh, Phục sinh, Lễ Tạ ơn… dần dần được

truyền bá, tổ chức và đã trở thành những ngày lễ không thể quên tại nhiều nước. Một

nhà văn người Pháp đã nói rằng “chỉ với một chiếc quần Jeans và điệu nhạc Jazz mà

89

người Mỹ đã chinh phục khắp thế giới”39. Nhận xét này có phần cường điệu, nhưng

phản ảnh khá chính xác tình hình hiện nay.

Và cũng không thể không kể đến sức ảnh hưởng của âm nhạc Mỹ, đặc biệt là

nhạc Jazz. Tổ tiên xa xưa của Jazz là âm nhạc lao động và âm nhạc tôn giáo - negro

spiritual, gospel - của người da đen. Đến đầu thế kỉ XX, cũng chính người da đen là

những người đã làm một cuộc pha trộn giữa nhạc blues, ragtime và âm nhạc Châu Âu

để khai sinh ra Jazz. Có lẽ chính vì nguồn gốc pha trộn và "địa vị" xuất thân như thế

nên cho đến giờ, chưa có một lời giải thích thật sự thuyết phục cho cái tên Jazz. Vậy

là Jazz chính là sản phẩm của một cuộc gặp gỡ và pha trộn văn hóa trên một vùng đất

mới. Một nguyên nhân quan trọng khác khiến Jazz trở nên phổ biến là khoảng từ

1930 trở đi, các ban nhạc Jazz bắt đầu đi lưu diễn nhiều nơi ở Châu Âu. Trên hành

trình ấy, Jazz đã vay mượn và thu nhận những yếu tố ngoại lai để làm phong phú

chính mình. Theo con đường ấy, Jazz đã dần chiếm địa vị quan trọng trong đời sống

văn hóa ở Châu Âu. Nhạc Jazz hiện nay đã phổ biến ở Châu Âu đến nỗi người ta

đánh giá sân khấu nhạc Jazz ở Châu Âu mang tính sáng tạo và năng động hơn cả ở

Mỹ.

John Dean nhận xét: “Từ sau chiến tranh thế giới lần II, nền văn hoá bình dân

Mỹ trở thành một hiện tượng toàn cầu”. Bởi vì trong thế kỷ XX và nhất là nửa cuối

của thế kỷ này, ảnh hưởng của văn hoá bình dân Mỹ đã nhanh chóng lan toả khắp thế

giới, thông qua một trong những phương tiện quan trong nhất là nền công nghiệp giải

trí. Hoa Kỳ là một nước xuất khẩu khổng lồ trong lĩnh vực giải trí, trong đó các sản

39Nguyễn Thái Yên Hương, Vai trò văn hóa đối với việc mở rộng “giá trị” Mỹ, Tạp chí nghiên cứu

ngày nay, số 8 – 2008, tr.51.

phẩm điện ảnh đóng một vai trò quan trọng.

90

Để có được sức mạnh to lớn đó, điện ảnh Mỹ đã trở thành nền công nghiệp

quốc tế. Từ khâu sản xuất, cho đến khâu phát hành, nền điện ảnh Mỹ nằm trong một

guồng quay to lớn với sự hỗ trợ của nhiều yếu tố, nó đủ sức chiếm lĩnh và thống trị

thế giới, áp đảo ý chí đề kháng của nhiều nền văn hoá khác muốn bảo vệ sự phát triển

của nền điện ảnh trong nước họ. Kể từ khi ra đời vào cuối thế kỷ XIX, nhờ những

phát minh của Edison đã cống hiến cho dân chúng Mỹ những thước phim câm, cho

đến khi tiến sâu vào Châu Âu trong bối cảnh hoang tàn của lục địa cũ giữa hai cuộc

thế chiến đến nay, điện ảnh Mỹ đã đi những bước của đôi chân khổng lồ. Theo Tyler

Cohen, “Giữa thập kỷ 1960 - 1970, phim Mỹ chiếm 35% số tiền bán vé ở các rạp chiếu phim của lục địa Châu Âu; ngày nay con số đó lên đến 80% và 90%”40.

Quả vậy, hơn 70 năm qua phim Mỹ ngày càng được lưu hành rộng rãi trên thế

giới. Vô tuyến truyền hình và video cũng chỉ làm tăng thêm sự phổ biến của chúng.

Hầu hết các hệ thống truyền hình trên thế giới đều có một điểm chung, đó là số phim

Mỹ chiếu trên màn ảnh nhỏ chiếm khối lượng rất lớn. Trong nhiều trường hợp, những

bộ phim Mỹ cho dù là cũ hay mới đều được chiếu thường xuyên hơn cả những bộ

phim do các nước chủ nhà sản xuất. Vào đầu những năm 1970, các quốc gia trên thế

giới hàng năm sản xuất khoảng 3.500 phim truyện. Mặc dù phim Mỹ chỉ chiếm một

tỷ lệ nhỏ, nhưng điều nghịch lý là chúng lại chiếm đến khoảng 50% thời lượng chiếu

ở rạp trong cái được gọi là Thế giới tự do.

Nhìn chung, phim do Mỹ sản xuất chiếm lĩnh thị trường rộng lớn trong nước

và được chiếu trên 100 quốc gia khác. Khoảng nửa tổng thu nhập của các công ty

40Nguyễn Thị Nga, Sức mạnh của điện ảnh Mỹ trên thế giới, Tạp chí nghiên cứu châu Mỹ, số 3 –

2007.

điện ảnh Mỹ là từ nước ngoài. Có lẽ không một ngành công nghiệp lớn nào của Mỹ

91

lại dựa nhiều vào thu nhập từ nước ngoài như điện ảnh. Nền công nghiệp điện ảnh

Mỹ đã thực sự được công nhận là một nền công nghiệp quốc tế.

Trên thực tế, phim Mỹ hiện nay phim Mỹ chiếm trung bình khoảng 80% phim

chiếu ở Châu Âu và sự thống trị này được hỗ trợ từ các tập đoàn truyền thông Mỹ đến

60% mạng lưới phát hành của Châu Âu. Sự thống trị của Mỹ trong ngành công

nghiệp điện ảnh, cả trên màn hình nhỏ và ở rạp, một phần là nhờ giá trị phim bán ra

nước ngoài rẻ. Điều này có thể dễ dàng hiểu được: Phim Mỹ dù được sản xuất với chi

phí cao, nhưng giá thành sản xuất đã được thu hồi phần lớn nhờ thị trường nội địa

rộng lớn trước khi phim được bán ra nước ngoài. Ở Châu Âu, chi phí cho việc dựng

các chương trình bị hạn chế, dẫn đến việc nhiều quốc gia mua các chương trình phim

truyền hình của Mỹ, như vậy sẽ đỡ tốn kém hơn là dựng các chương trình ở trong

nước. Trong năm 1999, xuất khẩu phim ảnh và truyền hình từ Hoa Kỳ tăng 22% và

125 phim có doanh thu lớn nhất trên thế giới gần như là hoàn toàn của Hollywood.

Ngay như nước Pháp là một nước rất đề cao “văn hoá dân tộc”, chín trong mười phim

ăn khách của đất nước này trong năm 1999 do các hãng phim khổng lồ của

Hollywood sản xuất.

Về phương diện văn hoá, bóng ma ngự trị văn hoá của Mỹ nói chung và “cỗ

máy” Hollywood nói riêng là mối lo âu của nhiều nước. Quả vậy, trong thế kỷ XX và

đặc biệt là cuối thế kỷ XX, các nền công nghiệp điện ảnh Châu Âu không ngớt ta thán

về quyền lực của Hollywood bởi thị phần dành cho phim ảnh trong nước của họ ngày

càng suy giảm. Nó chỉ giành cho các nền điện ảnh địa phương 15% doanh thu, ngay

cả tại các quốc gia yêu điện ảnh như Italia, Đức. Còn đối với nước Pháp, nhờ truyền

thống văn hoá và việc thực hiện các chính sách và biện pháp bảo hộ văn hoá của

chính phủ, tình hình có phần khả quan hơn: nền điện ảnh của họ chiếm khoảng 1/3 thị

phần quốc gia. Tuy nhiên ngày nay, ba mươi năm sau sự trị vì của Fellini,

Bergman…(các diễn viên cự phách của Châu Âu), người Châu Âu chọn xem những

92

phim do Châu Âu sản xuất không nhiều. Chẳng hạn, năm 2002 tuy là một năm tốt

đẹp của điện ảnh Pháp, nhưng phim Pháp chỉ chiếm 35% số vé, còn đa số vé là dành

cho phim Mỹ (50%); còn lại là 4,9% số vé dành cho phim Anh, 0,8% dành cho phim

Đức và 0,2% dành cho phim Italia. Ở Tây Ban Nha năm 2003, phim Hollywood

chiếm 67% thị trường, phim Tây Ban Nha chiếm 15,8%, Vương quốc Anh chiếm

5,7%, nước Pháp - 2,6% và nước Đức chỉ có 1,2%. Tóm lại ở Châu Âu, phim Châu

Âu lưu hành khá khó khăn. Chúng được tiêu thụ chủ yếu tại các rạp quốc gia, nơi mà

màn ảnh rộng cũng bị các sản phẩm của Hollywood thao túng. Thị phần của phim Mỹ

đã không ngừng tăng lên ở tất cả các nước thuộc Cộng đồng Châu Âu, cho dù phim

địa phương có chất lượng tốt chăng nữa. Một công trình nghiên cứu đã tiết lộ rằng từ

đầu thế kỷ XX, Tây Âu đã là khu vực sản xuất nhiều phim nhất, trên cả Mỹ, Ấn Độ

và Viễn Đông. Năm 1995, Liên hiệp Châu Âu sản xuất 550 phim, Mỹ khoảng 450

phim. Tuy nhiên, những phim được chiếu khắp hành tinh này lại là những sản phẩm

của Hollywood.

Tất nhiên sau khi hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã ở Liên Xô và Đông Âu, thị

trường phim Mỹ càng được mở rộng hơn nữa. Tại Nga cũng như nhiều nước thuộc

khối xã hội chủ nghĩa trước đây, thị trường điện ảnh chịu sự chi phối mạnh mẽ của

phim Mỹ.

Điện ảnh Mỹ có sức hấp dẫn mạnh mẽ của nó nhờ nhiều yếu tố. Frédéric

Sojcher, một nhà nghiên cứu – giảng dạy tại trường đại học Sorbonne, Paris 1 và

đồng thời là chủ biên của công trình Cinéma européen et identities culturelles (Điện

ảnh Châu Âu và các bản sắc văn hoá) cho rằng những phim dài của Mỹ biết đáp ứng

tuyệt vời những nhịp đập sơ đẳng của khan giả. Ông thú nhận rằng, Hollywood “ p

đặt sự thanh tâm, bạo lực, những hiệu ứng đặc biệt, thứ nhịp điệu giải toả âu lo và

giải quyết các mối căng thẳng siêu hình đang khuấy động chúng ta. Nó đã trở thành

cái mà Serge Daney gọi là một “nền điện ảnh - khái niệm được làm thành chủ yếu từ

93

những hiệu ứng đặc biệt: Người ta đi xem người Sao Hoả tấn công châu Mỹ (phim

Mars Attacks) cũng như đi xem một cơn lốc xoáy ập xuống một thành phố (phim

Twiste)”.

Để có thể có lãi, mỗi sản phẩm của Hollywood phải được tung ra trên quy mô

toàn thế giới như một sự kiện của đại chúng, với những chiến lược quảng cáo rất ác

liệt. Một phim dài đạt được doanh thu chủ yếu ngay từ tuần đầu khai thác nó. Trước

khi chiếu, chiến dịch quảng cáo đã được tiến hành trước đó sáu tháng. Chi phí cho

chiến dịch này có thể tốn kém hàng chục triệu đô la. Mục tiêu của nó là gì? Đó là

doanh thu phim ít nhất phải vượt gấp đôi chi phí sản xuất. Để đạt kết quả như vậy,

không thể chỉ dựa vào thị trường trong nước, mà còn phải lao mạnh đi chiếm lĩnh các

màn hình thế giới bằng những chiến dịch quảng cáo rầm rộ. Với những cách làm này,

nhiều phim Mỹ đạt doanh thu ở nước ngoài cao hơn trong nước.

Những năm 1950, trường dạy nghề Hollywood ra đời (Hollywood Professional

School), hàng năm đã thu hút hàng nghìn sinh viên, học sinh đến học, đặc biệt các sinh viên đến từ Châu Âu41. Ngay sau đó là Hollywood Walk of Frame một trung tâm

giao lưu và làm việc của các nghệ sĩ, những người cộng tác viên của các bộ máy công

nghiệp điện ảnh, sân khấu vô tuyến truyền hình, âm nhạc…Năm 1985 cả một khu vực

rộng lớn và hoành tráng “khu giải trí và thương mại Đại lộ Hollywood” (Hollywood

Boulevard Commercial and Entertainment District) được xây dựng và trở thành trung

tâm thương mại và giao dịch điện ảnh lớn nhất thế giới.

Ngày nay, không ai phủ nhận sức mạnh thương mại của các ngành công nghiệp

văn hoá và các phương tiện truyền thông của Mỹ. Tuy nhiên không phải ai cũng biết

tr. 54.

41Lê Đình Cúc, Điện ảnh Mỹ và công nghệ truyền thông, Tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 05 – 2011,

94

rằng việc truyền bá văn hoá ra nước ngoài cũng là một công việc của nhà nước Hoa

Kỳ.

Nền công nghệ giải trí của Mỹ không những đem đến nguồn lợi to lớn cho đất

nước, mà điều quan trọng nó còn là một phương tiện mạnh mẽ giúp phát triển ảnh

hưởng của văn hoá Mỹ trên thế giới. Chính phủ Hoa Kỳ nhận thức được rằng sự pha

trộn giữa văn hoá giải trí đầy hấp dẫn và thông điệp chính trị sẽ có sức mạnh thuyết

phục mạnh mẽ hơn là sử dụng đơn thuần những lời lẽ tuyên truyền hoa mỹ. Trên thực

tế, điện ảnh Mỹ là một phương tiện khổng lồ truyền tải những giá trị của nền văn hoá

bình dân Mỹ bởi nó tiếp cận được một lực lượng quần chúng vô cùng đông đảo. Nó

còn là phương tiện quan trọng bởi con người tiếp nhận ảnh hưởng của phim ảnh một

cách vô ý thức và trên thực tế, chúng định hướng cách suy nghĩ của họ về những gì

đang diễn ra quanh họ. Edison đã nói: “Ai kiểm soát công nghiệp điện ảnh sẽ kiểm

soát mạnh mẽ ảnh hưởng tới người dân”. Elmar Davis, Giám đốc của cơ quan Thông

tin Chiến tranh Hoa Kỳ phát biểu “Chưa bao giờ có một kẻ chào hàng nào cho các

sản phẩm của Mỹ ở nước ngoài có hiệu quả hơn là phim truyện của Mỹ”.

Bởi vậy, nền công nghiệp văn hoá Mỹ đã nhận được sự ủng hộ đặc biệt của

chính quyền trong nước xuất khẩu ra nước ngoài. Chính phủ Hoa Kỳ đã thi hành hàng

loạt biện pháp hỗ trợ việc xuất khẩu các ngành công nghiệp văn hoá, đặc biệt là điện

ảnh. Chẳng hạn, luật pháp Mỹ từng cho phép khu vực điện ảnh lập ra các-ten xuất

khẩu, bất chấp các đạo luật chống độc quyền của Mỹ. Để đối phó với các quy định

của đạo luật chống độc quyền Sherman và Clayton, Đạo luật Thương mại xuất khẩu

Webb - Pomerene của Mỹ cho phép những hiệp hội của các công ty Mỹ được hưởng

một số ngoại lệ. Nhờ đó các tập đoàn điện ảnh Mỹ có thể phối hợp với nhau để: Thao

túng giá, chia nhau thị trường bên ngoài và thi hành biện pháp bán phim theo kiểu

“bán cả mớ” (mua gộp phim loại A với các phim loại B) - một cách làm ăn bị luật

chống độc quyền trong nước nghiêm cấm. Đạo luật Webb – Pomerene là một cố

95

gắng ban đầu của chính phủ Mỹ nhằm kích thích việc mở rộng kinh doanh của Mỹ

trên trường quốc tế khi số công ty Mỹ quan tâm nhiều đến các hoạt động nước ngoài

chưa nhiều.

Đồng thời, với Hiệp định Blum – Byrenes năm 1946, Mỹ đã mở rộng cửa thị

trường Pháp cho các bộ phim Hoa Kỳ chiếm lĩnh các rạp, gây nên tình trạng ngột

ngạt cho nền công nghiệp điện ảnh Pháp. Theo thoả thuận này, Mỹ cho Pháp vay 1,5

tỷ rưỡi đô la để tái thiết đất nước. Nước Pháp lúc đó bị tàn phá bởi chiến tranh, và Mỹ

trong tư thế của một nước thắng trận đã đưa viện trợ tái kiến thiết như một điều kiện

để đổi lấy việc các sản phẩm của Mỹ vào Pháp. Toàn bộ một phần của thoả thuận

Blum – Byrnes để cập cụ thể đến điện ảnh và yêu cầu phim Mỹ được chiếu ở các rạp

của Pháp.

Nói chung, chính phủ Mỹ luôn tích cực triển khai các hoạt động ngoại giao và

biện pháp kinh tế để ngăn cản các quốc gia khác dựng lên những rào cản cho việc lưu

thông các sản phẩm văn hoá Mỹ. Các nước muốn thi hàng chính sách bảo hộ văn hoá

nhằm hạn chế sự bành trướng đó cũng không đơn giản, bởi nó vấp phải sự phản

kháng của Mỹ và có nguy cơ nhận được sự trả đũa về kinh tế của phía chính phủ Mỹ.

Chính vì vậy, Michel Fregonard đã nhận xét: “Ngành điện ảnh Hoa Kỳ là đối tượng

được các nhà cầm quyền Hoa Kỳ dành cho sự quan tâm đặc biệt nhất, vì họ nhận

thấy rõ ở ngành này một nhân tố quyết định đối với ý thức hệ của họ”.

96

CHƢƠNG 3: KINH NGHIỆM CỦA CÁC NƢỚC CHÂU ÂU TRONG

ỨNG XỬ VỚI VĂN HOÁ MỸ VÀ NHỮNG GỢI Ý CHO VIỆT NAM

Không thể phủ nhận sự tồn tại của văn hoá Mỹ ở Châu Âu từ những năm 50

của thế kỷ XX. Cùng với sự can dự của người Mỹ ở Châu Âu là sự xuất hiện của

Coca Cola, các mặt hàng gia dụng, phim ảnh, thời trang và âm nhạc…, góp phần hình

thành lối sống Mỹ, phần nào tác động và chi phối đời sống của người dân Châu Âu.

Tuy nhiên, sự can dự của người Mỹ bên cạnh việc tạo ra những tình cảm thân Mỹ

cũng đã gây ra nhiều cuộc biểu tình ban đầu là phản đối Mỹ, sự có mặt của quân đội

Mỹ và sau đó lan sang các vấn đề văn hoá ở Tây Âu. Nguyên nhân là vì nhiều người

cho rằng sản phẩm của Mỹ đã ảnh hưởng vượt ra tính phổ biến của nó trong người

tiêu dùng, không chỉ thống trị thị trường Châu Âu mà còn cả tư duy của họ. Lo sợ

trước “Giá trị Mỹ” ngày càng được rộng mở, các nước Châu Âu mà tiêu biểu là hai

nước Đức và Pháp đã có những chính sách, hành động cụ thể để “ngăn chặn” sức ảnh

hưởng của văn hoá Mỹ.

3.1. Chính sách của Pháp

Phong trào chống Mỹ ở Pháp bắt nguồn từ mâu thuẫn giữa chủ nghĩa cộng sản

và chủ nghĩa xã hội. Có nhiều cuộc tranh luận công khai lên án chủ nghĩa bành

trướng của Mỹ, NATO và những sản phẩm văn hoá, nghệ thuật được xem là làm lung

đoạn văn hoá Pháp, làm mê hoặc thế hệ thanh niên Pháp…Vào đầu những năm 50 thế

kỷ XX, Coca Cola có thể được xem là sản phẩm thương mại tượng trưng cho ảnh

hưởng văn hoá Mỹ ở Pháp. Tuy nhiên, loại thức uống này chỉ gây lo lắng cho giới

cầm quyền và các ngành sản xuất đồ uống ở Pháp. Có thể hiểu được - và cũng có lẽ

khó tránh khỏi - việc những người bất mãn với quyền lực và văn hoá thịnh hành của

Mỹ - dùng chủ nghĩa dân tộc để chống lại nó. Hãy nhớ lại rằng, hồi những năm 40,

các quan chức Pháp đã tìm cách ban hành lệnh cấm Coca-cola – và mãi đến tận năm

97

1953, thứ đồ uống này mới được phép bán tại Pháp. Với người dân Pháp, điều này

dường như chẳng có nghĩa lý gì khi phần đông có thể thích Mỹ và sử dụng hàng hoá

của Mỹ nhưng nhìn chung lại chẳng hiểu biết gì về Mỹ cả. Vào năm 1953 chỉ có 17% người Pháp được hỏi thích Coca Cola trong đó có đến 61% không thích42. Người dân

Pháp vẫn xem phim của Mỹ, và mặc dù thị phần phim Mỹ ở Pháp ngày càng tăng chỉ chiếm đến 35% trong khi có đến 50% người dân vẫn thích xem phim Pháp43. Đơn

giản là người Pháp thích xem phim của họ hơn, nhưng rõ ràng cũng không phản đối

hay chê bai, phê phán những sản phẩm từ Hollywood.

Hoặc, xem lại trường hợp của José Bové - một nông dân chăn cừu ở Pháp

(người từng trải qua thời thơ ấu tại Berkeley, California). Ông đã trở thành anh hùng

của nước Pháp và được báo chí trên khắp toàn cầu nhắc đến trong năm 1990 bằng

việc bảo vệ “chủ quyền ẩm thực” - thông qua việc phá huỷ một nhà hàng Mc Donald.

Không một ai buộc công chúng Pháp bước vào cánh cửa vàng đó, nhưng sự thành

công của Bové với giới truyền thông rõ ràng đã nói lên sự mâu thuẫn trong tư tưởng văn hoá đối với nhiều thứ có xuất xứ Mỹ44.

Pháp đã xây dựng chính sách bảo hộ văn hoá, một mặt là để bảo vệ nền công

nghiệp điện ảnh của đất nước họ và mặt khác là để hạn chế ảnh hưởng của lối sống

Mỹ được truyền bá thông qua phim ảnh. Tiêu biểu cho phản ứng này là cuộc đấu

tranh vì “quyền miễn trừ văn hoá” do Pháp chủ xướng từ năm 1993 trong các vòng

đàm phán Uruguay và hiện vẫn tiếp diễn trong các cuộc đàm phán mậu dịch tự do

song phương hay đa phương, chẳng hạn vòng đàm phán Doha. “Quyền miễn trừ văn

42Kuisel Richard F, Seducing the French: The Dilemma of Americanization, NXB ĐH California, 1996, tr 68, 17, 33 43 Kuisel Rechard F, The French Cinema and Hollywood: A case studies of Americanization trong Heike Ferenbach, Uta G. Poiger (chủ biên): Transactions, transgressions, transformations: American culture in Western Europe and Janpan. NXB Oxford, 2000, tr 201, 211 44 http://huc.edu.vn/chi-tiet/1026/Toan-cau-hoa-va-suc-manh-My.html

98

hoá” dựa trên nguyên tắc coi văn hoá không giống bất kỳ thứ hàng hoá nào khác, với

lý do nó vượt ra ngoài tính chất thương mại: các hàng hoá và dịch vụ văn hoá truyền

đạt tư tưởng, giá trị và cách sống, chúng phản ảnh những bản sắc văn hoá của một

quốc gia và tính đa dạng đầy sáng tạo của các công dân của nó. Vì vậy, chúng cần

được loại khỏi các sản phẩm thương mại bình dân vốn là đối tượng trong các cuộc

đàm phán về mậu dịch tự do. Các nước tiêu biểu trong cuộc đấu tranh cho “quyền

miễn trừ văn hoá” là Pháp và Canada. Cuộc đấu tranh này được đa số các nước Châu

Âu ủng hộ. Thực chất cuộc đấu tranh này nhằm cho phép các nước ban hành các

chính sách văn hoá hỗ trợ cho nền công nghiệp điện ảnh của họ trước sự bành trướng

của điện ảnh Mỹ, chẳng hạn ban hành các hạn ngạch nhằm hạn chế nhập khẩu phim

Mỹ, các chủ trương hạn chế thời lượng chiếu phim Mỹ trên truyền hình hoặc chính

sách hỗ trợ cho việc sản xuất phim trong nước…

Để thu hút khán giả và cạnh tranh với phim Mỹ, các nhà sản xuất phim của

Pháp thường dựa vào các ngôi sao của thời kì trước chiến tranh như Jean

Gabin, Gaby Morlay, Danielle Darrieux, Michèle Morgan hay Jean Marais. Vì lí do

này nên điện ảnh Pháp có rất ít ngôi sao mới, trong số này đáng kể chỉ có Gérard

Philipe, Simone Signoret và Martine Carol. Phải chờ đến năm 1956 màn ảnh lớn của

Pháp mới bùng nổ với ngôi sao mới Brigitte Bardot sau khi cô thủ vai chính trong Và

Chúa đã tạo ra đàn bà (Et Dieu… créa la femme,1956) của đạo diễn Roger Vadim.

Thập niên 1950 của điện ảnh Pháp được đặc trưng bằng những bộ phim "chất

lượng kiểu Pháp" (qualité française), đó là những bộ phim có phần kịch bản được

chuẩn bị rất kĩ lưỡng (thường là được chuyển thể từ tác phẩm văn học) và chất lượng

nhưng lại yếu về phần thực hiện và lời thoại. Theo đạo diễn nổi tiếng, đồng thời là

nhà phê bình phim Francois Truffaut thì trong những bộ phim kiểu này, đạo diễn chỉ

như những kĩ thuật viên có nhiệm vụ dàn dựng kịch bản và đảm bảo chất lượng hình

ảnh. Tiêu biểu cho các bộ phim "chất lượng kiểu Pháp" là Le Diable au

99

corps của Claude Autant-Lara, La Symphonie pastorale của Jean Delannoy hay Jeux interdits của René Clément45.

Trong các nước Tây Âu, Pháp là một nước tự hào về một truyền thống văn hoá

mạnh mẽ và được thế giới tôn trọng. Đồng thời, so với nhiều quốc gia Tây Âu, nhà

nước Pháp nắm giữ vai trò mạnh mẽ hơn hết đối với văn hoá trong đời sống đương

đại. Trước sự thâm nhập mạnh mẽ của văn hoá Mỹ, nước Pháp đã thể hiện ý chí phản

ứng mạnh mẽ. Họ thực hiện việc bảo hộ nền văn hoá quốc gia bằng những biện pháp

hay quy chế, bằng sự tài trợ từ ngân sách công cộng, bên cạnh một số hoạt động khác

trong chính sách văn hoá nhằm giúp phát huy nền văn hoá dân tộc. Nhờ vậy, Pháp

vẫn cố gắng duy trì được sự độc lập trong sản xuất phim ảnh, trong khi Anh, Đức bị

lệ thuộc chặt chẽ vào Hoa Kỳ trong lĩnh vực này.

Từ thập niên 1980 cũng giống như nhiều nền điện ảnh khác, điện ảnh Pháp

phải cạnh tranh với một lĩnh vực giải trí mới, truyền hình. Số lượng gia đình

có tivi tăng lên đồng nghĩa với số lượng khán giả đến rạp giảm xuống. Ở Anh Quốc,

lượng khán giả đến rạp tụt xuống thấp nhất năm 1984 với 53 triệu lượt (so với 1,7 tỷ lượt năm 1947), ở Pháp con số này là 116 triệu năm 199246.

Một lần nữa những người đứng đầu ngành công nghiệp điện ảnh Pháp lại phải

tìm cách thay đổi để thích ứng tình hình mới.Các khu rạp chiếu mới liên tục được xây

dựng, các rạp chiếu sẵn có cũng được cải tạo và Pháp tiếp tục dẫn đầu Châu Âu về số

rạp phim hiện đại với khoảng 5300 rạp. Các hãng phim cũng tiến hành hợp tác với

chính đối thủ cạnh tranh, các hãng truyền hình, để trình chiếu các bộ phim điện ảnh

trên các kênh chuyên biệt hoặc dùng tiền lời thu được từ truyền hình để đầu tư ngược

lại cho điện ảnh. Hãng đi đầu trong xu hướng mới này là Canal + được thành lập

năm 1984.Các tài năng mới của nghệ thuật điện ảnh cũng được tạo điều kiện tối đa để 45 http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_%E1%BA%A3nh_Ph%C3%A1p 46http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_%E1%BA%A3nh_Ph%C3%A1p

100

phát triển sự nghiệp. Sau làn sóng của những Louis de Funès, Bourvil, Lino

Ventura, Alain Delon là thế hệ của Patrick Dewaere, Gérard Depardieu và Isabelle

Adjani. Các bộ phim đáng chú ý thời kì này có thể kể tới Diva (1981) của Jean-

Jacques Beineix, Le Grand Bleu (1988) của Luc Besson và Les Amants du Pont-

Neuf (1991) của Leos Carax.

Để quảng bá cho điện ảnh nội địa, Viện Hàn lâm Kỹ thuật và Nghệ thuật Điện

ảnh (Académie des arts et techniques du cinéma) lấy mô hình của Giải Oscar thành

lập Giải César vào năm 1976 với những buổi lễ trao giải lộng lẫy, các ngôi sao bước

trên thảm đỏ. Liên hoan phim Cannes cũng được đầu tư để giữ vững vị thế liên hoan

phim hàng đầu thế giới, bên cạnh đó là một loạt liên hoan phim mới được tổ chức

như Liên hoan điện ảnh Paris (Festival Paris Cinéma).

Chính phủ Pháp đã thực hiện chỉ thị “Television sans Frontières” năm 1989

của EU ban hành nhiều hạn ngạch nhằm hạn chế số lượng phim Mỹ chiếu ở các rạp

và trên màn ảnh nhỏ của Pháp. Chỉ thị về phát thanh và truyền hình này của EU được

thông qua vào tháng 10 năm 1989 trong một nỗ lực bảo vệ và phát huy bản sắc văn

hoá của Châu Âu. Chỉ thị này yêu cầu các nhà nước thành viên EU dành phần lớn

thời gian truyền phát các chương trình giải trí cho các chương trình của Châu Âu.

Nước Pháp đã cật lực vận động để thông qua chỉ thị này và từ đó trở đi đã thực hiện

nghiêm ngặt nhiều hạn ngạch trong phạm vi quốc gia. Nhằm chứng tỏ sự nghiêm túc

của mình đối với chủ trương của chỉ thị, nước Pháp thậm chí đã yêu cầu truyền hình

và các nước phân phối điện ảnh của nước này mua sản phẩm của các nước láng

giềng, mà không đảm bảo các nước này có mua các sản phẩm của Pháp như một sự

có đi có lại hay không.

Chỉ thị EU đòi hỏi các nhà nước thành viên của EU “đảm bảo bất cứ nơi nào có

thể thực hiện được và bằng phương tiện thích hợp”, các nhà phát thanh truyền hình

101

phải dành phần lớn thời gian phát hình cho các tác phẩm của Châu Âu, loại bỏ thời

gian định dành cho tin tức, các sự kiện thể thao, trò chơi, dịch vụ quảng cáo và các

thông tin trên tivi cho những người đặt thuê. Chỉ thị này áp dụng cho tất cả các nước

thành viên EU vào thời điểm nó được đưa ra, yêu cầu mỗi nước thực hiện những hạn

ngạch nhằm lập chương trình nghe nhìn do Châu Âu thực hiện. Trong tất cả các nhà

nước thành viên EU thì nước Pháp thi hành hệ thống hạn ngạch quyết liệt nhất. Người

ta ước lượng rằng sự xoá bỏ hạn ngạch phát hành ở Châu Âu sẽ mang lại thêm cho

Hollywood số lãi từ 1-2 tỷ đô la. Điều này cũng sẽ đe doạ tất cả các nền công nghiệp

nghe nhìn trên Cựu lục địa.

Bên cạnh các biện pháp trên, Pháp còn thi hành biện pháp trợ cấp cho ngành

công nghiệp văn hoá. Ngành công nghiệp điện ảnh của Pháp phát triển dựa trên hệ

thống trợ cấp. Trong các nền điện ảnh Châu Âu, điện ảnh Pháp được xem như đứa

con cưng: Lệ phí trích từ thu nhập của các rạp được đầu tư lại cho việc sản xuất để

bảo vệ sự sáng tạo điện ảnh. Quy chế cũng bắt buộc các kênh truyền hình phải tham

gia cùng sản xuất các phim. Sự hỗ trợ đó đã làm tăng thế mạnh cho ngành công

nghiệp này. Nhờ vào sự hỗ trợ tài chính này mỗi năm Pháp sản xuất được khoảng 130

phim. Nhiều phim được các công ty truyền hình hợp tác sản xuất. Tuy nhiên, dù với

số phim hàng năm như vậy vẫn không thể nào đáp ứng được nhu cầu xây dựng

chương trình truyền hình. Luật ở Pháp đòi hỏi chương trình truyền hình nhập từ bên

ngoài Châu Âu không vượt quá 40% và vì vậy các nhà làm chương trình truyền hình

không có đủ chương trình để phát. Do đó, họ phải cho chiếu đi chiếu lại chương trình

cũ và chiếu những phim hạng hai vào những thời điểm trong ngày có người xem

nhiều nhất.

Mặt khác, cuộc đấu tranh của Pháp cho “quyền miễn trừ văn hoá” đã không

chịu ngừng nghỉ kể từ khi kết thúc các cuộc thương lượng của vòng đàm phán

Uruguay vào năm 1993. Nỗi lo sợ bị “đồng nhất về văn hoá” đã được hợp pháp hoá

102

khi Cộng đồng Châu Âu thúc đẩy việc thông qua “quyền miễn trừ văn hoá” đối với

các sản phẩm nghe nhìn trong những ngày cuối cùng của vòng đàm phán Uruguay.

Kết quả vận động hành lang tích cực của Pháp đã khiến cho nhiều sản phẩm nghe

nhìn được loại ra khỏi GATT nhờ “quyền miễn trừ văn hoá”. Các chính sách “bảo hộ

văn hoá” Pháp sử dụng đã vấp phải sự chống đối của Mỹ. Là nước xuất khẩu chương

trình nghe nhìn lớn nhất thế giới, Mỹ sẽ phải chịu thiệt nhiều nhất trước những sáng

kiến kiểm soát về kinh tế trong ngành công nghệ giải trí. Các nhà sản xuất điện ảnh

Mỹ quan tâm đến hệ quả của Chỉ thị của EU, bởi vì ngành công nghiệp này kiếm

được 3.5 tỷ đô một năm nhờ xuất khẩu sang thị trường nghe nhìn của Châu Âu. Mối

quan tâm của họ đã được đề cập nhiều năm liền bởi Hiệp hội phim truyện Mỹ, một

trong những nhóm vận động hành lang có hiệu quả nhất ở Washington. Dưới ánh

sáng của Mỹ, thặng dư thương mại do ngành công nghiệp điện ảnh tạo ra là một lý do

đầy thuyết phục để Quốc hội ra tay hành động. Việc sản xuất phim truyền hình cho

Châu Âu là một lĩnh vực tăng trưởng có thể giúp giảm lạm chi thương mại hơn nữa.

Vì vậy về phía mình, Mỹ cũng không ngần ngại đe doạ trả đũa về thương mại đối với

các nước thành viên của OECD, kể cả Tiệp Khắc và Hungari, để các nước này từ bỏ

tất cả mọi sự bảo hộ trong lĩnh vực văn hoá. Lập trường của Mỹ là các hạn ngạch đã

vi phạm nghĩa vụ của các nhà nước thành viên theo quy định của GATT. Tuy nhiên,

Pháp là nước ít bị đe doạ trước những áp lực hay hình phạt của Mỹ hơn là Canada,

quốc gia bị lệ thuộc quá nhiều vào Mỹ. Và như vậy, cuộc đấu tranh để bảo vệ văn hoá

của Pháp không dễ dàng lùi bước, dù xu thế toàn cầu đang mang lại cho Mỹ những

thuận lợi nhất định.

Nhóm người thực sự nhận thức về sự đe doạ của văn hoá Mỹ và chống văn hoá

Mỹ là giới trí thức cánh tả. Đảng cộng sản Pháp và một số lượng rất nhỏ dân thường

lo lắng cho bản sắc dân tộc (chỉ có 4% những người được hỏi vào năm 1953, sự hiện

diện của các nhân tố chính trị Mỹ ở Pháp là lý do khiến giới trí thức và Đảng Cộng

sản Pháp xem ảnh hưởng của văn hoá Mỹ một phần của chủ nghĩa bá quyền của Mỹ 103

và lo ngại về nền độc lập của Pháp. Nếu như văn hoá đại chúng Pháp phần nào chịu

ảnh hưởng bởi văn hoá Mỹ thì văn hoá cao của tầng lớp trí thức, một bộ phận chủ yếu

cấu thành bản sắc Pháp, không những không bị ảnh hưởng mà còn khiến người Pháp

ngẩng cao đầu khẳng định tính siêu việt và vượt trội trước văn hoá Mỹ, được xem là

non nớt và chưa thật sự được khai hoá. Nguyên nhân gần như không có chống văn

hoá Mỹ diễn ra ở Pháp mặc dù cũng có những nhóm người lo sợ trước những đe doạ

từ văn hoá Mỹ vì đó là giai đoạn Pháp phụ thuộc rất nhiều vào Mỹ, mà phản đối sự

hiện diện của văn hoá Mỹ, chẳng khác nào là phản đối mối quan hệ hữu hảo giữa Mỹ

và Pháp lúc bấy giờ.

Trong những năm gần dây, cùng với sự xâm nhập mạnh mẽ, của văn hoá Mỹ

vào Pháp, chống văn hoá Mỹ ở Pháp cũng vẫn chỉ diễn ra mạnh mẽ với một số nhóm

người thuộc trí thức và giới cầm quyền. Trong cuộc phỏng vấn năm 1991, cựu Bộ trưởng văn hoá Pháp Jack Lang đã kịch liệt phê phán đế quốc văn hoá Mỹ47. Cảnh

giác trước sự bá chủ văn hoá Mỹ, ngay từ sau Đại chiến thế giới II cho đến nay, giới

cầm quyền Pháp đã đặt vào các mục tiêu chính sách là tinh thần chống văn hoá Mỹ,

thể hiện rõ rệt qua việc bảo vệ nền công nghiệp văn hoá trong nước và duy trì những

luật lệ về web phức tạp bên cạnh việc bỏ tiền ra để bảo vệ nền điện ảnh, âm nhạc và xuất bản trong nước48. Có hai nguyên nhân chính khiến Pháp đứng vững trước làn

song văn hoá Mỹ, thậm chí còn chủ động tiếp nhận những giá trị cần tiếp nhận: Khi

văn hoá Mỹ mới xâm nhập vào Pháp, người Pháp không biết gì nhiều về Mỹ; người

Pháp tự hào về văn hoá của họ là luôn tự xem mình là trung tâm nhân văn thế giới, họ

tự tin về sức mạnh nội tại của văn hoá dân tộc.

47 Jessica C.E. Gienow Hecht, Châu Âu nhìn nhận ảnh hưởng của văn hóa Mỹ, website của Đại sứ quán Hoa Kỳ tại Việt Nam ngày 17-8-2008 http://vietnamese.vietnam.usembassy.gov

104

Nỗi sợ về sự bá chủ văn hóa Mỹ đến từ sau cuộc Đại chiến Thế giới II và được

Pháp đặt vào các mục tiêu chính sách phản công hàng đầu. Sự phản đối rõ rệt của

nước này thể hiện qua việc bảo vệ các nền công nghiệp văn hóa trong nước, ngày nay

vẫn duy trì qua các luật lệ về web phức tạp, bên cạnh việc chi tiền để bảo vệ nền điện

ảnh, âm nhạc và xuất bản trong nước.

Mang toàn bộ văn chương Châu Âu lên mạng Internet là một trong những

chiêu thức “phản công” chống lại sự bành trướng của văn hóa Mỹ, dưới thời của

Tổng thống Pháp Jacques Chirac đã được phát động và chính điều này đã được sự hậu thuẫn của chính phủ các nước Anh, Đức và Tây Ban Nha49. Một thực tế cho thấy,

người Anglo-Saxon đã nung nấu giấc mơ về một thư viện toàn cầu từ lâu, làm lo âu

cho ngành xuất bản văn hóa ở Paris, một lần nữa gia tăng “mưu đồ” biến tiếng Pháp

trở thành một ngôn ngữ vùng miền.

Tổng thống Chirac đã có cuộc gặp với Bộ trưởng Văn hóa Renaud Donnedieu

de Vabres và Chủ tịch Thư viện Quốc gia Jean-Noel Jeanneney để “Phân tích những

điều kiện có thể thực hiện để đưa ra bộ sưu tập các thư viện lớn ở Pháp và Châu Âu

phố biến rộng rãi và nhanh chóng hơn trên internet”. Kinh phí cho đồ án “Văn

chương Châu Âu online” này thấp hơn 1.000 lần so với 200 triệu USD mà Mỹ đã bỏ

ra cho Google. Chính vì thế, Tổng thống Chirac quyến định tới Châu Âu với hi vọng

liên kết các nước, tìm kiếm tài chính đủ mạnh để “phản công”. Với một tin tưởng vào

cái mà ông gọi là “Thế giới đa cực”, đồ án này sẽ được Châu Âu đón nhận.

Tuy nhiên, Mỹ vẫn là tâm điểm của toàn cầu hóa hiện nay, bởi lẽ phần nhiều

của cuộc cách mạng thông tin đều khởi nguồn từ nước Mỹ. Và hiện tại, một phần lớn

49 Theo A.Nguyện, Pháp phản công chống lại sự thống trị văn hóa Mỹ, www. Tuoitre.com.vn, 16-8-2008

105

nội dung của mạng lưới thông tin toàn cầu được khởi tạo từ Hoa Kỳ và củng cố "sức

mạnh mềm" của Mỹ.

Bộ trưởng Văn hoá Pháp Jack Lang cảnh báo rằng sức mạnh mềm "di chuyển

chủ yếu theo một chiều vì tư duy không muốn tiếp thu của người Mỹ, nếu không nói

là hoàn toàn mù tịt về những nền văn hoá khác. Nhưng Pháp đã quên mất tính cởi mở

của xã hội Mỹ vốn luôn chấp nhận và tái chế lại văn hoá từ những phần còn lại của

thế giới.

3.2. Chính sách của Đức

Dưới góc độ lịch sử thì nền văn hoá Châu Âu nói chung và nền văn hoá Đức

nói riêng đều bắt nguồn từ nền văn minh cố đại phương Tây, của đạo Thiên chúa và

nền văn hoá German cổ đại.

Sau khi nước Đức chính thức đầu hàng quân Đồng Minh ngày 8 tháng

5 năm 1945, Thế chiến Thứ hai kết thúc, văn hóa Đức cũng chịu ảnh hưởng lớn cả về

kinh tế và chính trị. Về chính trị, nước Đức bị chia thành hai nửa do một bên là Liên

Xô, một bên là Anh, Mỹ và các đồng minh phương Tây cai quản dẫn đến việc hình

thành nền văn hóa riêng biệt với những hướng phát triển và tư tưởng nghệ thuật khác

nhau rõ rệt.

Chúng ta dễ nhận thấy ảnh hưởng của văn hóa Mỹ ở Đức, từ giữa những năm

50 của thế kỷ XX khi giới trẻ nước này đổ ra đường với những chiếc áo thun kiểu

Taxes, mặc quần Jean kiểu cowboy, đeo cà vạt có hình ảnh phụ nữ trần truồng và đặc biệt là với kiểu tóc Taxes hoang dại50. Qua đó, người ta còn nhận thấy xu hướng ăn

mặc của giới trẻ Đức thay đổi khi chúng thích mặc quần short ngắn hơn, áo jackets

50 Poiger Uta G, Jazz Rock and Rebels: Cold War politics and American culture in a divided Germany, NXB ĐH California, 2000, tr.62, 1, 32.

106

nhiều hơn, đi tất sọc, con gái mặc đồ của con trai và không hề trang điểm…, cuộc

sống của mọi người ngày càng gắn với nhạc jazz, rock’n’roll hay phim ảnh của Mỹ.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Cộng hòa Liên bang Đức được thành lập trên phần lãnh

thổ Đức do quân đội Đồng Minh, đứng đầu là Mỹ quản lý. Do vậy, các bộ phim Mỹ

bắt đầu tràn vào thị trường điện ảnh Đức, trong thập niên 1950 các bộ phim Đức chỉ

còn chiếm khoảng 40% thị phần điện ảnh trong nước, 30% khác do các bộ phim Mỹ nắm giữ51. Báo giới và quan chức gay gắt phê bình sách báo, âm nhạc và phim ảnh về

Mỹ và lối sống Mỹ đang phá hoại những di sản văn hóa Đức.

Tuy nhiên, tư tưởng chống văn hoá Mỹ ở Đức cũng chỉ là của một nhóm. Ảnh

hưởng của văn hoá Mỹ ở Đức là rất khác nhau giữa các thế hệ, các nhóm người và

các vùng khác nhau. Trong khi Tây Đức tiếp nhận văn hoá Mỹ với một sự cởi mở

nhất định thì Đông Đức tỏ ra khá bảo thủ và dè dặt trong việc tiếp nhận.

Khi mà cả Đông Đức và Tây Đức cần phải được tái thiết cả về cơ sở hạ tầng,

chính trị, kinh tế và phải xây dựng một bản sắc quốc gia mới sau khi chế độ Nazi sụp

đổ, sự hiện diện của Mỹ ở Tây Đức một cách hợp pháp, không chỉ là các đơn vị quân

sự, kế hoạch Marshall góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực Tây Âu mà

còn cả những sản phẩm văn hóa, giải trí Mỹ. Vào đầu những năm 50 thế kỷ XX,

ngành công nghiệp điện ảnh Mỹ xâm nhập Đức với rất nhiều loại sản phẩm nói về đời

sống cowboys ở vùng Taxes, hay các loại phim bạo lực, cướp bóc… Còn ở Đông

Đức, mặc dù có hơn 50% số phim được trình chiếu là sản phẩm của Liên Xô nhưng

vẫn có nhiều thanh niên vượt tường Berlin để sang Tây Đức xem những phim không

quá nặng nề và rất có thể là bị cấm ở Đông Đức.

Trong những năm 1980, điện ảnh Đức đã có sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực

điện ảnh để mở rộng hợp tác cũng như có thể cạnh tranh được với các trung tâm điện 51http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90i%E1%BB%87n_%E1%BA%A3nh_%C4%90%E1%BB% A9c

107

ảnh, truyền hình lớn của Hollywood. Đó là sự hợp tác của các nhà điện ảnh Đức với

điện ảnh Mỹ như Ben Eichiger, Roland Emerich, Wolfgang Petesen. Kết quả của sự

hợp tác quốc tế có thể thấy qua các phim của đạo diễn tài năng Bern Eichinger như

“Tên hoa hồng” (Der Name der Rose, 1985) với sự tham gia của nhiều ngôi sao thế

giới, phim “Ngôi nhà tinh thần” (Das Geiterhaus, 1993) dựa theo tiểu thuyết của nữ

nhà văn gốc Chile Isabela Alende và phim “Tình yêu tuyết của cô Smilla” (Fraeulein

Smillas Gespuer fur Schnee, 1996) được coi là đạt đến trình độ cao của điện ảnh Mỹ.

Nhà nước Đức cũng chủ trương ban hành các chính sách nhiều mặt (tổ chức,

xây dựng, mở rộng và hiện đại hoá các trung tâm chiếu phim, các trung tâm sản xuất

phim, hỗ trợ tài chính, khuyến khích tài năng trẻ…) để đẩy mạnh công nghiệp điện

ảnh nhằm phục vụ tốt hơn đời sống văn hoá của nhân dân trong nước cũng như tăng

cường vai trò quốc tế của điện ảnh Đức ở khu vực Châu Âu cũng như trên thế giới.

Do vậy từ thập niên 90, điện ảnh Đức đã có sự đầu tư lớn tới hàng tỷ euro của nhiều

hãng truyền thông kinh doanh quốc tế. Hàng loạt rạp chiếu phim được cải tạo, nâng

cấp hoặc xây dựng mới. Chính phủ Liên bang cũng như các bang của Đức cũng hỗ

trợ đắc lực về tài chính và đào tạo cho các đạo diễn tài năng trẻ. Về quản lý nhà nước,

Quốc hội Liên bang đã ban hành Luật hỗ trợ điện ảnh, lập Hội đồng tài trợ phim trẻ

Đức, hỗ trợ điện ảnh và Bộ nội vụ Đức thành lập giải phim xuất sắc hàng năm tới

hàng D-Mark.

Một yếu tố nữa góp phần không nhỏ cho việc giữ gìn bản sắc văn hóa là việc

gìn giữ tiếng Đức. Ngôn ngữ chung là một yếu tố trợ giúp rất mạnh cho việc tái thống

nhất đất nước, vượt qua những khó khăn của lịch sử và văn học. Trên bình diện Liên

hiệp Châu Âu (EU), Đức cũng rất nỗ lực trong việc gìn giữ và phát huy tiếng Đức.

Bên cạnh tiếng Anh, là ngoại ngữ số một trong các trường học, trẻ em được học thêm

ngoại ngữ thứ hai là tiếng Pháp hoặc tiếng Tây Ban Nha, nhưng tiếng Đức vẫn là thứ

tiếng chính được dạy một cách chính thống.

108

Có thể nêu lên một số biện pháp trong cơ chế gìn giữ văn hóa của Đức trong

quá trình toàn cầu hóa hiện nay:

Thứ nhất, hệ thống các trường học Đức ở nước ngoài. Đức có một hệ thống hơn 300 trường phổ thông đặt tại các nước trên thế giới52. Đây là những cơ sở đào tạo

tiếp nhận con cái của những người Đức sinh sống, làm việc ở nước ngoài, và dùng

tiếng Đức để giảng dạy, và dạy theo phương pháp của Đức.

Thứ hai, Đức ký một loạt hiệp ước song phương với các nước có chung

đường biên giới về việc giảng dạy tiếng của nhau trong trường phổ thông hai nước;

ký hiệp ước này với Ba Lan, Pháp, Séc, Thổ Nhĩ Kỳ... Trẻ em các trường phổ thông

tại Đức và các nước trên, nhất là tại các vùng biên giới, trong chương trình học bao

giờ cũng được học tiếng Đức và ngược lại.

Thứ ba, hệ thống các viện Gớt (Viện Văn hóa của Đức ở nước ngoài). Viện

Gớt có nhiệm vụ truyền bá tiếng Đức cho người nước ngoài, chuẩn bị cho các học

sinh nước ngoài một trình độ tiếng Đức nhất định để có thể sang học tại các trường

cao đẳng, đại học của Đức, truyền bá văn hóa Đức, chiếu phim, tổ chức các hoạt động

văn hóa, các chuyến lưu diễn trên nước bạn, và đóng vai trò chủ chốt trong việc tổ

chức các năm Đức tại các nước khác.

Thứ tư, Bộ Ngoại giao cũng đóng vai trò không nhỏ trong việc phát triển văn

hóa và ngôn ngữ Đức. Trên bình diện Liên bang, Đức không có Bộ Văn hóa. Cơ quan

quản lý về văn hóa ở cấp độ này chính là Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao đứng ra đàm

phán các hiệp định liên quan văn hóa và ngôn ngữ Đức với các nước khác.

Thứ năm, tại Đức có một cơ quan với tên là Hội nghị các Bộ trưởng văn hóa

(của các bang). Cơ quan này có hẳn một chương trình trao đổi thanh niên, sinh viên

52 http://news.apttravel.com/net-van-hoa-duc-trong-thoi-ky-toan-cau-hoa-l98610.htm

109

giữa các nước với Đức trong khuôn khổ các trường đại học và trong lĩnh vực văn hóa.

Mỗi năm, cơ quan này tổ chức cho khoảng 40.000 thành viên gặp gỡ, trao đổi với nhau.Cơ quan này đã đào tạo được 40.000 đại sứ cho văn hóa Đức53.Và cuối cùng, là

việc kết nghĩa giữa các thành phố của Đức với các thành phố nước ngoài.

Đức cũng rất tích cực trong việc truyền bá tiếng mẹ đẻ cho người dân nước

mình. Khi hai nước Đức sáp nhập, nền văn học đã được bổ sung một nguồn rất phong

phú của Đông và Tây Đức.

Còn một biện pháp nữa để Đức phát triển nền văn học. Đó là sau mỗi giải

Nobel văn học, sách mới lại ùa vào thị trường Đức. Phần lớn các sách được dịch ra

tiếng Đức. Điều khó khăn cho việc bán sách là những cuốn sách này là của những tác

giả chưa được biết đến trong giới độc giả của Đức. Giải pháp cho khó khăn này là

nhà xuất bản in những cuốn sách song ngữ, vừa giúp cho người đọc hiểu được nền

văn hóa của nước chủ nhà sáng tạo ra cuốn sách, lại vừa kết nối được những người

Đức có mối liên hệ với nước đó. Ngoài ra, các liên hoan văn học diễn ra ở các thành

phố Béc-lin, Cô-en, Đu-xen-đóp... cũng giúp đưa văn học nước ngoài lại gần với độc

giả Đức.

Tuy nhiên, chính sự hiện diện của văn hoá Mỹ và tư tưởng chống cộng sản

Đông Đức là hai nguyên nhân chính để bản sắc dân tộc Đức, trên cơ sở nền tảng của

truyền thống hạt nhân với vai trò giới rõ rệt, được khơi mào, thúc đẩy, hình thành một

cách trọn vẹn và phát triển. Mặt khác, Tây Đức không thể chống văn hoá Mỹ quá

mạnh mẽ vì vai trò và vị trí của người Mỹ lúc bấy giờ ở Tây Âu và cũng không thể

quá bảo thủ với những giá trị văn hoá truyền thống bởi vì sự tiến bộ lúc này đối với

Đức chính là sự hiện đại và tự do. Sự hiện diện của Mỹ hay văn hoá Mỹ chính là

53 http://hoctiengduc.com/noi-dung/664/Net-van-hoa-Duc-trong-thoi-ky-toan-cau-hoa.html

110

nguồn áp lực chính trị cho sự hình thành và phát triển của bản sắc Đức trong khi

những tác động tương tự không có ở phía đông bức tường Berlin.

Tiến trình Mỹ hóa đã làm cho người Đức nhận thức rõ hơn về điều gì trên thế

giới này là quan trọng đối với họ và đã sớm nhận ra rằng Mỹ sẽ không còn quan trọng

như họ nghĩ; thậm chí nếu không còn sự hỗ trợ của người Đức, chắc hẳn Mỹ đã mất

đi vai trò ở châu lục này. Sự suy giảm hình ảnh của Mỹ ở Đức là có thật khi chỉ còn

30% người Đức vào năm 2007 có thiện cảm với Mỹ giảm 12% so với năm 2006. Có

lẽ bản sắc Đức nằm ngay ở sự khác biệt so với Mỹ. Là người Đức có nghĩa là nhìn

nhận thế giới này bằng một con mắt khác với con mắt mà người Mỹ nhìn nhận; và đó

cũng có thể là một nỗ lực để cho cả thế giới biết rằng người Đức có một con đường

khác để đi.

Ngoài Pháp và Đức, văn hóa Mỹ còn tác động đến nhiều quốc gia khác ở Châu

Âu. Ở Anh, các sân khấu vẫn duy trì chiếu các vở kịch bóng gió phản đối Mỹ

như The madness of George Dubya, Guantanamo Baywatch, Stuff Happens. Nhà thơ

Anh Harold Pinter phát biểu “Chủ nghĩa chống Mỹ của tôi đến mức gần như không thể kiểm soát nổi”54. Còn tiểu thuyết gia Anh Margaret Drabble cũng cho rằng tư

tưởng chống Mỹ ám ảnh ông như một căn bệnh. Tâm lý chống Mỹ ở Châu Âu cũng

có những cao trào, nhưng nhìn chung người ta không thể phủ nhận được sự tồn tại

của tình cảm thân Mỹ. Nói cách khác thì ở Châu Âu, tồn tại thứ tình cảm nửa yêu,

nửa ghét với Mỹ và văn hóa Mỹ, mặc dù Mỹ đang yếu dần khi Châu Âu không còn

xem Mỹ như những người giải phóng và Mỹ cũng không còn xem Châu Âu là quê

hương tinh thần nữa.

54 Thảo Nguyên Vy, Chính sách đối ngoại hậu Bush, từ website: http://www.tgvh.com.vn ngày 16- 8-2008.

111

Có nhiều nguyên nhân để Châu Âu giành chiến thắng ngay trên sân nhà trước

sự tấn công của văn hóa Mỹ. Tuy nhiên, có 5 nguyên nhân chính sau đây:

Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến chính là những khác nhau về nguồn gốc của

sự đa dạng trong giá trị của Mỹ và Châu Âu. Điều này ít nhiều dẫn đến những xung

đột về giá trị giữa hai nền văn hóa này. Ví dụ, người Mỹ tìm mọi cách để giảm đi vai

trò của nhà nước trong hầu hết những lĩnh vực và mở rộng không gian cho các nhà tư

bản trong lĩnh vực công thì người Châu Âu lại xem nhà nước là cơ sở quan trọng để

bảo đảm mọi lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị và tìm mọi cách để hạn chế các nhà tư

bản trong lĩnh vực công. Sự khác nhau về nguồn gốc của giá trị (lịch sử, ngôn ngữ,

tính đồng nhất, đất đai, tài nguyên và thời gian… dẫn đến những quan điểm và hành

vi ứng xử, giao tiếp và xử lý vấn đề khác nhau) thường dẫn đến xung đột và mọi xung

đột thường khiến người ta xa nhau hơn, đề phòng nhau hơn và đương nhiên là khó có thể dung hợp với nhau hơn55.

Nguyên nhân thứ hai, có vẻ như mâu thuẫn với nguyên nhân thứ nhất, là những

đặc điểm tương đồng về văn hóa giữa Mỹ và Châu Âu, bao gồm cả những tương

đồng do ảo tưởng. Những điểm tương đồng này khiến người ta ít chú ý đến những

khác biệt nên góp phần làm giảm đi những xung đột có lẽ đã xảy ra đối với những

nền văn hóa khác. Nguyên nhân này giải thích tại sao chống văn hóa Mỹ ở Châu Âu

không diễn ra quá mạnh mẽ như ở các quốc gia và khu vực khác và tư tưởng chống

văn hóa Mỹ của công chúng Châu Âu không phải lúc nào cũng rõ ràng bên cạnh tình

cảm thích Mỹ.

Nguyên nhân thứ ba, vai trò và vị trí của tiếng Anh ở Châu Âu. Nếu như học

tiếng Anh, đặc biệt là tiếng Anh theo giọng Mỹ, trở thành trào lưu ở nhiều quốc gia,

55 Lionel Laroche, Những khác biệt văn hóa giữa Liên minh Châu Âu với Bắc Mỹ và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển hợp tác thương mại, Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, số 8 (83) – 2007, tr 17 – 24.

112

đặc biệt là ở các nước đang phát triển, thì tiếng Anh không thực sự quan trọng ở Châu

Âu, nếu như không muốn nói là sự lựa chọn thứ 2 hay thứ 3 sau một số ngôn ngữ

khác như tiếng Đức, Tây Ban Nha. Điều này dẫn đến tỷ lệ nói tiếng Anh của người

Châu Âu là không cao và không đồng đều giữa các thế hệ: Đức 44%, Italia 16%,

Pháp 31%, Tây Ban Nha 12%, Bỉ 34% (14). Như vậy, tiếng Anh ở Châu Âu không có

vai trò và vị trí đặc biệt như ở một số quốc gia và khu vực khác, nếu không muốn nói

là yếu. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ và trực tiếp đến việc truyền tải những giá trị

văn hóa Mỹ vào Châu Âu. Nói cách khác, nó là trở ngại lớn để văn hóa Mỹ tác động

đến Châu Âu bởi ngôn ngữ là phương tiện, công cụ chính để những giá trị văn hóa có

thể được truyền tải và khuếch tán.

Nguyên nhân thứ tư là sự phụ thuộc của Châu Âu vào Mỹ về kinh tế và chính

trị ngày càng giảm. Nếu như sau những năm 50 TK XX, Châu Âu, mà cụ thể là Tây

Âu, phụ thuộc hoàn toàn vào Mỹ về kinh tế và chính trị trong việc tái thiết sau chiến

tranh với kế hoạch Marshall (1948-1952), thì kể từ năm 1967 tính chất của quan hệ

EU - Mỹ chuyển sang thế cân bằng và cạnh tranh: Từ khu vực bị động nhận trợ giúp

về kinh tế từ Mỹ trở thành thị trường tiêu thụ và đối tác thương mại với Mỹ sau khi

các chính sách phát triển kinh tế nội khối đạt được những thành công đáng kể. Đến đầu những năm 90 thế kỷ XX, EU có nhiều lĩnh vực còn mạnh hơn cả Mỹ56. Giảm

được sự phụ thuộc vào Mỹ cũng có nghĩa là Châu Âu hạn chế được sự can dự và

giảm đi ảnh hưởng của Mỹ trên nhiều lĩnh vực, trong đó có văn hóa.

Nguyên nhân thứ năm, quan trọng nhất, chính là sự hình thành và phát triển

của bản sắc Châu Âu, vốn không thể tồn tại nếu không có cái người ta gọi là Mỹ

hóa diễn ra ở Châu Âu. Tiến trình Mỹ hóa đã làm cho người Châu Âu nhận thức rõ

hơn về điều gì trên thế giới này là quan trọng đối với họ và đã sớm nhận ra rằng Mỹ 56Trần Thị Kim Dung, Quan hệ Việt Nam – Liên minh châu Âu, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2001, tr.49

113

sẽ không còn quan trọng như họ nghĩ; thậm chí nếu không còn sự hỗ trợ của người

Châu Âu, chắc hẳn Mỹ đã mất đi vai trò ở châu lục này. Có lẽ bản sắc Châu Âu nằm

ngay ở sự khác biệt so với Mỹ. Là người Châu Âu có nghĩa là nhìn nhận thế giới này

bằng một con mắt khác với con mắt mà người Mỹ nhìn nhận; và đó cũng có thể là

một nỗ lực để cho cả thế giới biết rằng người Châu Âu có một con đường khác để đi.

Tuy nhiên, ở đây không có nghĩa là bản sắc Châu Âu được hình thành dựa trên tình

cảm chống Mỹ hóa.

Sự hình thành và phát triển của bản sắc Châu Âu gắn liền với tiến trình hình

thành và phát triển và thành công của EU trong hơn nửa thế kỷ qua. Chẳng có gì là

bất hợp lý khi nhiều người cho rằng nguồn gốc sâu xa của nhất thể hóa Châu Âu

chính là tính thống nhất trong đa dạng của văn minh phương Tây có được từ nhiều

tiến trình lịch sử khác nhau, bắt đầu bằng tiến trình Hy Lạp hóa. Lý do để xây dựng

một Châu Âu phát triển bền vững là phải xây dựng một Châu Âu văn hóa với một bản sắc chung, bản sắc cộng đồng cho toàn Châu Âu57.

Xây dựng một Châu Âu văn hóa về thực chất là thực hiện hàng loạt chính sách

để thúc đẩy hai tiến trình diễn ra cùng một lúc: Tiến trình xác định ranh giới và tiến

trình thúc đẩy liên kết, dung hợp văn hóa, sử dụng nhiều chính sách văn hóa khác

nhau (cả từ trên xuống và từ dưới lên) để tìm kiếm những yếu tố chung, những đặc

điểm tương đồng nhằm tạo dựng những liên kết và sự gần gũi giữa các quốc gia thành

viên; thực thi những chính sách văn hóa nhằm tìm kiếm bản sắc trên cơ sở tạo dựng

những khác biệt so với nhóm khác hoặc cộng đồng khác; hay nói cách khác, tìm

những yếu tố để tách biệt họ ra khỏi nhóm người khác; trong đó nhóm khác, cộng

đồng khác trong trường hợp ở Châu Âu chính là Mỹ.

57Bùi Hải Đăng, Bước đầu tìm hiểu khái niệm bản sắc cộng đồng, Tập san Khoa học xã hội và nhân văn, số 37, tháng 12 – 2006, tr 107 - 111.

114

Nhắc đến vai trò của bản sắc Châu Âu, xem việc hình thành và phát triển của

bản sắc châu Âu là nguyên nhân để Châu Âu thành công trong việc chống văn hóa

Mỹ, không thể không nhắc đến chính sách văn hóa chung của EU với tư cách là một

bộ phận hợp thành của chính sách nhất thể hóa Châu Âu trong việc xây dựng bản sắc

chung. Chính sách này nhằm thực hiện một số ý đồ chiến thuật: Hòa hợp và củng cố

thành quả chính trị và kinh tế của EU, nâng cao hình ảnh và vị thế của EU trên trường

quốc tế và quan trọng là hợp thành chiến lược của EU cạnh tranh với Mỹ, thể hiện tư

tưởng của chủ nghĩa phiếm Âu, chống Mỹ.

Đối với ảnh hưởng văn hoá từ nước Mỹ, người Châu Âu có thái độ phản ứng

khá mâu thuẫn: Vừa thích thú, gần gũi; vừa lo ngại, chống đối. Nếu như người Mỹ

luôn nhìn sang Châu Âu để tìm nguồn cội, bản sắc văn hoá của mình thì người Châu

Âu lại tìm thấy ở người Mỹ, văn hoá Mỹ một cảm giác gẫn gũi như là một phần của

chính bản thân mình. Thêm vào đó, sự trẻ trung, luôn luôn đổi mới của nền văn hoá

Mỹ thực sự có một sức hút mạnh mẽ, không cưỡng lại được đối với một Châu Âu già

cỗi, có vẻ bảo thủ. Bằng kinh nghiệm, truyền thống văn hoá lâu đời; trong cơn lốc

toàn cầu hoá, Châu Âu nhận thức rõ được sức mạnh bành trướng của văn hoá Mỹ.

Chính điều này đã dẫn đến thái độ phản ứng thứ hai của người châu Âu trước ảnh

hưởng của văn hoá Mỹ, đó là cảm giác lo ngại và tìm cách chống đối song song với

những cố gắng bảo tồn giá trị truyền thống châu Âu. Hiện nay, liên minh EU đang nỗ

lực hoạch định một chính sách văn hoá thống nhất nhằm tăng cường sức mạnh cho

Châu Âu, chống lại quá trình toàn cầu hoá mà họ cho rằng đó là cái vở của “Mỹ hoá”.

3.3. G i ý chính sách cho Vi t Nam

Những yếu tố văn hóa nước ngoài đã làm phong phú, đa dạng thêm văn hóa

nước nhà, đồng thời góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại.

115

Tuy nhiên, có rất nhiều thách thức đặt ra đối với nền văn hóa Việt Nam trong quá

trình tiếp thu, chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài giai đoạn hiện nay.

Thách thức trong quá trình giao lưu văn hóa

Lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời kỳ

tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... Trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm

văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu

sắc, toàn diện theo 2 con đường: Cưỡng bức và hòa bình. Dù theo con đường nào,

chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa

ngoại nhập làm giàu có và phong phú thêm văn hóa dân tộc. Lần thứ hai là từ nửa sau

thế kỷ XIX đến năm 1945, chủ yếu là ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Đây là

cuộc “ép duyên” văn hóa Đông - Tây, song cũng là một tất yếu lịch sử của quá trình

giao lưu và tiếp biến văn hóa. Sau khi cơ bản bình định xong các phong trào yêu

nước, chính quyền thực dân Pháp ồ ạt du nhập văn hóa chính quốc vào thuộc địa với

những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Sự du nhập này, lập tức bị nền văn hóa bản

địa phản kháng mạnh mẽ như một lẽ tự nhiên. Song cũng có không ít tinh hoa của

văn hóa phương Tây đã được chúng ta tiếp thu. Lần thứ ba là từ sau Chiến tranh thế

giới thứ hai đến nay. Luồng văn hóa từ phương Tây vào Việt Nam góp phần làm thay

đổi diện mạo văn hóa nước nhà.Những năm gần đây, văn hóa nước ngoài đã và đang

xâm nhập một cách ồ ạt vào Việt Nam. Chủ thể đón nhận những làn sóng văn hóa

ngoại nhập một cách hồ hởi nhất chủ yếu là tầng lớp trẻ - thế hệ tương lai của đất

nước. Việc tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách thụ động, thiếu chọn lọc, thiếu “gạn

đục khơi trong” đang để lại những hậu quả khó lường. Bản chất của văn hóa là hướng

tới chân - thiện - mỹ, ngày càng toàn diện và có tính quốc tế hơn. Song trong quá

trình lịch sử của mình, văn hóa còn có những “bước lùi”, mà một trong những “bước

lùi” đó chính là mặt trái của quá trình tiếp nhận văn hóa nước ngoài, là nhận thức và

thái độ chưa đúng của giới trẻ đối với văn hóa truyền thống.

116

Trên mặt trận tư tưởng, điều tai hại nhất là những thế lực thù địch sử dụng các

tác nhân văn hóa, văn nghệ có nội dung xấu với âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ chế độ,

phá hoại cách mạng… thông qua hệ thống in-tơ-nét và các phương tiện truyền thông

đại chúng hiện đại, khiến một số người do thiếu bản lĩnh, thiếu trình độ nên chịu ảnh

hưởng không nhỏ của những tư tưởng độc hại. An ninh chính trị, an ninh văn hóa

đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Nhiều quan điểm sai trái, phản động, trong đó có

quan điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật, trong đời sống chính trị sẽ dẫn đến

những hậu quả vô cùng tai hại.

Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, xu hướng tách văn học nghệ thuật khỏi xã

hội, xa rời cuộc sống, xa rời chính trị là biểu hiện biến thái mới của quan niệm “nghệ

thuật vị nghệ thuật” lỗi thời. Xu hướng “tự cởi trói”, tự do trong lựa chọn khuynh

hướng, trường phái sáng tác từ lâu đã trở nên quen thuộc ở phương Tây. Khi vào Việt

Nam, một mặt, nó cho phép nhiều năng khiếu trở thành tài năng, thỏa mãn nhu cầu

ngày càng đa dạng của công chúng nghệ thuật; mặt khác lại hạ thấp những thành tựu

văn nghệ cách mạng, làm rạn vỡ và thu hẹp đội ngũ công chúng, hình thành một thị

hiếu, một lối sống, một hệ tư tưởng chối bỏ dân tộc, sùng ngoại, chạy theo những giá

trị tiêu cực trong văn hóa ngoại lai. Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng phản động

nước ngoài, nhiều nhà văn đã nói và viết không đúng sự thật, không đúng bản chất

của hiện thực, thậm chí xuyên tạc hình ảnh của Đảng, bản chất cuộc chiến tranh chính

nghĩa của dân tộc ta hoặc ngợi ca, đề cao những tác phẩm đi ngược lại với những

chuẩn mực, giá trị văn hóa chân chính của dân tộc...

Trong lối sống của nhiều bạn trẻ ngày nay thể hiện rất rõ những vấn đề tiêu cực

trong quá trình tiếp thu văn hóa nước ngoài. Đối với hôn nhân, truyền thống tốt đẹp

của dân tộc là đề cao trinh tiết của người phụ nữ, cái tình đi đôi với cái nghĩa, tình có

thể hết nhưng nghĩa thì bền chặt... Còn bây giờ, giới trẻ đang dậy lên những trào lưu

như “sống thử”, “sống gấp”... Bên cạnh đó, thói quen tiêu xài hoang phí và theo đuổi

117

những lợi ích vật chất, lối sống thực dụng là nét không đặc trưng cho con người Việt

Nam cần, kiệm. Nhiều bạn trẻ lười học tập, lười lao động lại muốn mau chóng nổi

tiếng nên tự tạo “xì-căng-đan” cho mình. Tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ

phương Đông truyền thống là “công, dung, ngôn, hạnh” bị biến dạng, nhường chỗ

cho sự táo bạo, phô trương, thậm chí thác loạn... Có ý kiến cho rằng, một số thanh,

thiếu niên không nhận thức đầy đủ về văn hóa thẩm mỹ của dân tộc, dẫn đến thị hiếu

sai lệch, lệch chuẩn về giá trị đạo đức.

Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo những

trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến mức báo động. Sức trẻ

cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh

hành trên thế giới, như: manga (truyện tranh Nhật Bản), anime (phim hoạt hình Nhật

Bản), thời trang Kawaii (Nhật Bản), thời trang Hàn Quốc... Nhiều bạn trẻ không ngại

ngần chạy theo cả những trào lưu độc dị khiến chúng ta không khỏi giật mình, như

hát cùng dao kéo, chụp ảnh quái đản, “hot boy” giả gái, nuôi thú độc...

Trong lĩnh vực thương mại, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường Việt

Nam, từ bánh kẹo, sữa, rượu, thuốc lá, thuốc tây cho đến hàng gia dụng, điện tử, ô tô,

xe máy,... lấn át thị trường hàng nội và lại được người dân ưa chuộng với tâm lý sùng

ngoại. Nó góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi bộ mặt văn hóa trong mỗi

gia đình Việt trên tất cả các phương diện.Tuy nhiên, không phải thứ hàng ngoại nào

cũng tốt. Nhiều thứ chứa “độc tố” đang xâm hại sức khỏe nhân dân ta theo đúng

nghĩa đen, đồng thời cũng làm tổn hại “sức khỏe tinh thần” của mọi người.

Một thực trạng nữa, đó là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống trong

quá trình hội nhập, mở cửa giao lưu với văn hóa nước ngoài. Nét đẹp ru con bằng

những câu ca dao đã thưa vắng dần. Ca dao, tục ngữ... vốn là kho tàng quý báu của

quần chúng nhân dân, là những bài học về đối nhân xử thế, bài học làm người nuôi

118

dưỡng tâm hồn từ thơ bé, hướng con người tới chân - thiện - mỹ đã và đang mai một

dần trong đời sống tinh thần. Nghề truyền thống dệt thổ cẩm ở một số nơi, một số dân

tộc thiểu số đang mất dần.

Văn hóa trang phục hiện nay ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng bị

mai một, nhất là trong giới trẻ. Họ chỉ thích mặc âu phục, quần bò, áo phông hơn là

mặc trang phục truyền thống tự dệt, tự may. Trong âm nhạc cũng vậy, ở Tây Nguyên,

số người biết chơi, biết chỉnh cồng, chiêng chủ yếu là các cụ già. Nhiều dân tộc khác

thì những câu hát then, hát xẩm, ca trù, cải lương, chèo, tuồng,... không được ưa

chuộng bằng nhạc trẻ.

Góp phần hạn chế tiêu cực, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà

bản sắc dân tộc

Thứ nhất, con người là chủ thể tiếp nhận các giá trị văn hóa. Muốn cho những

“luồng gió độc” của văn hóa ngoại lai không xâm hại đến nền văn hóa dân tộc, chủ

thể văn hóa đó phải có một bản lĩnh, một trình độ nhận thức nhất định. Đó là năng lực

tự thân của mỗi cá nhân và quan trọng hơn là nó được vun trồng, nuôi dưỡng từ phía

gia đình, nhà trường, xã hội. Muốn bảo tồn được các giá trị văn hóa dân tộc, đồng

thời vẫn tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại thì điều cốt yếu là phải tích cực

tuyên truyền, giáo dục cho chủ thể văn hóa Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp họ

hiểu được những giá trị của văn hóa truyền thống, có niềm tự hào, tự tôn dân tộc và

nhận thức được các mặt tốt xấu, tích cực, tiêu cực của các luồng văn hóa ngoại lai.

Thứ hai, phải làm cho văn hóa nội sinh trở thành một “thành trì” vững chắc,

trong đó quan trọng là quán triệt sâu sắc tư tưởng, đường lối văn hóa của Đảng và

Nhà nước về văn hóa, tiêu biểu là Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết

Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều văn

kiện, tài liệu khác. Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo

119

và công bố năm 1943, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ba nguyên tắc đúng đắn được

đưa ra là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa

Việt Nam phát triển độc lập), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm

cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng), Khoa học

hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề

cương cũng chỉ rõ gốc rễ, nguồn cội của nền văn hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa -

của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ

nghĩa Mác - Lê-nin về văn hóa, là thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - hạt

nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 là “kim chỉ nam” cho

việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa được chỉ rõ: phát huy chủ

nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản

sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Nhiệm vụ cụ thể là: xây dựng con

người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng môi trường văn hóa, phát

triển sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, phát triển

sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ...

Thứ ba, tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động,

đồi trụy, đồng thời hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục, như: tục đốt vàng mã, rải đồ

vàng mã, tiền giả, tiền thật trên đường trong đám tang, vừa gây tốn kém lãng phí, vừa

làm mất mỹ quan đường phố,… để tạo đời sống tinh thần lành mạnh hơn.

Thứ tư, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa

truyền thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc tuyên truyền,

vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới phải đi đôi với khắc phục thái độ

120

xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tiếp thu văn

hóa nước ngoài là điều cần thiết, song chúng ta phải chủ động hội nhập, chắt lọc tinh

hoa văn hóa bên ngoài để làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc. Điều đáng

lưu ý là trong quá trình toàn cầu hóa, nhiều nước phát triển có ý đồ áp đặt các giá trị

văn hóa của mình cho toàn thế giới.Điều này sẽ đem lại nhiều thách thức hơn so với

cơ hội, trong đó có nguy cơ đe dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh

đó, đòi hỏi việc tiếp thu và hội nhập văn hóa, cần chú trọng nguyên tắc: Tôn trọng

độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước

khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Trong khi bảo tồn văn hóa nước nhà,

tiếp thu văn hóa nước ngoài thì phải đồng thời chống cả hai xu hướng cực đoan là

sùng ngoại lẫn sùng cổ.

Thứ năm, đẩy mạnh và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa,

nghệ thuật với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” là một giải pháp tích

cực. Lực lượng chủ yếu trong công tác này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và

nhân dân (đóng góp sức người, sức của), đội ngũ văn nghệ sĩ (lao động và sáng tạo để

có nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu

rộng trong xã hội, có tầm vóc thời đại)...

Thứ sáu, tuyên truyền, giáo dục người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ biết yêu văn

hóa dân tộc, tăng sức hấp dẫn của văn hóa truyền thống. Các cơ quan quản lý văn

hóa, truyền thông cần tích cực hơn trong việc gìn giữ và quảng bá văn hóa truyền

thống; Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa truyền thống, tích cực giao lưu văn

hóa để giới trẻ thêm tự hào và có lòng tự tôn dân tộc; có tinh thần, thái độ phê phán,

đấu tranh mạnh mẽ với lối sống chạy theo ngoại lai một cách mù quáng, chống lại

những âm mưu đồng hóa văn hóa của các thế lực thù địch...

121

Văn hóa là vốn quý của quốc gia, là tài sản vô giá, là động lực của sự phát

triển. Văn hóa - kinh tế - chính trị là “kiềng ba chân”, là rường cột của quốc gia, chỉ

cần một trong ba yếu tố đó yếu kém thì cả “công trình” sụp đổ. Bảo tồn, phát huy

những giá trị văn hóa truyền thống và học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại,

đấu tranh mạnh mẽ với những ảnh hưởng tiêu cực từ nước ngoài chính.

122

PHẦN KẾT LUẬN

Thực tế lịch sử đã chứng minh văn hoá Châu Âu chính là một yếu tố cấu thành

nên nền văn hoá Mỹ (cùng với yếu tố địa lý Mỹ, và các yếu tố văn hoá phi Châu Âu

khác: văn hoá Mỹ - Phi, văn hoá Châu Á…). Chính điều này đã tạo nên những thời kì

mà văn hoá Châu Âu khuynh đảo trên đất Mỹ và ngày nay đó lại là cội nguồn sâu xa

giúp văn hoá Mỹ tìm ra cách thâm nhập vào Châu Âu. Cái cảm nhận gần gũi về văn

hoá giữa người Mỹ và người Châu Âu là một sự thật đã được thừa nhận từ cả hai

phía.

Trong mối quan hệ về văn hoá với phần còn lại của thế giới, trong đó có Châu

Âu, nước Mỹ đã thể hiện rõ là nơi “nhập khẩu”, “tiêu thụ”, “xuất khẩu” sản phẩm văn

hoá lớn nhất thế giới. Với ưu thế là đất nước của những người nhập cư, nước Mỹ đã

biết cách xây dựng nên một nền văn hoá trên thế giới (trong đó có yếu tố văn hoá

châu Âu), sau đó “Mỹ hoá” chúng và cuối cùng tạo ra một sản phẩm đặc biệt, có tính

toàn cầu để “xuất khẩu” trên toàn thế giới. Điện ảnh, đồ ăn nhanh, công viên giải trí

là những ví dụ tiêu biểu mà Richard Pell đưa ra trong bài nghiên cứu: “Nền văn hoá

Mỹ có Mỹ không?” của mình. Ông đã chỉ ra rằng: “Rốt cuộc thì người Mỹ không tạo

ra đồ ăn nhanh, các công viên giải trí hay phim ảnh. Trước Big Mac đã có cá và khoai

tây chiên. Trước Disneyland, đã có Vườn Tivoli ở Copenhagen (mà Walt Disney lấy

làm mẫu cho công viên giải trí đầu tiên của ông ở Anaheim, California, mô hình mà

sau này đã được tái hiện ở Tokyo và Paris). Còn trong hai thập kỷ đầu tiên của thế kỷ

XX, hai nhà xuất khẩu phim ảnh lớn nhất trên thế giới là Pháp và Italia”. Có thể thấy,

qua những ví dụ này, người Mỹ thể hiện một phẩm chất hết sức linh hoạt và năng

động trong tiếp thu và phát triển văn hoá. Dường như một ý tưởng, một sản phẩm văn

hoá dù nhỏ song nếu trong mắt người Mỹ nó có khả năng đem lại lợi nhuận lớn thì

nhất định nó sẽ được phát triển thành một ý tưởng, một sản phẩm “kiểu Mỹ” đồng

thời cũng sẽ là “kiểu toàn cầu”. Chính điều này đã giúp cho Mỹ có thể len lỏi khắp

123

mọi nơi trên thế giới, dù là ở những ngóc ngách văn hoá kiêu hạng, bảo thủ nhất của

người Châu Âu.

Rõ ràng, một thực tế đang diễn ra vô cùng rõ nét đó là ảnh hưởng văn hoá Mỹ

ngày nay đang dần lất át ảnh hưởng văn hoá Châu Âu. Mối quan hệ văn hoá Âu – Mỹ

dường như đã bị nghiêng hẳn về chiều Mỹ. Điều này có thể được giải thích bởi sức

mạnh kinh tế - vật chất vượt trội của nước Mỹ và sức hấp dẫn từ một nền văn hoá Mỹ

đa dạng, mang tính đại chúng, được cộng hưởng bởi nhiều yếu tố văn hoá phi Châu

Âu, và luôn luôn năng động, đổi mới. Văn hoá Châu Âu dường như trở nên già cỗi, bị

đóng khung nhiều hơn trong tính cộng đồng. Và quả thật, văn hoá Châu Âu thực sự

đang đứng trước nhiều thách thức. Tạp chí Time số ra ngày 3/12/2007 cho biết trong

khoảng 500 đầu sách mà Pháp đã xuất bản năm 2007 thì chỉ vài cuốn là thu hút được

dư luận toàn thế giới. Hơn nữa, Pháp không có tên trong danh sách 10 trung tâm văn

hoá nổi tiếng nhất thế giới do tạp chí Forbes bình chọn năm 2007, trong khi Mỹ

chiếm tới 4/10…Những thống kê của tạp chí Times dành cho nước Pháp đó phải

chăng cũng có thể là hiện trạng chung cho toàn Châu Âu? Làm thế nào để chính sách

văn hoá của Liên minh Châu Âu vừa có thể củng cố bản sắc văn hoá mỗi quốc gia

Châu Âu vừa tạo nên được sức mạnh cần thiết để chống chọi lại quá trình toàn cầu

hoá hay Mỹ hoá?...Làm thế nào để bảo vệ sự thuần khiết của văn hoá Châu Âu nhưng

vẫn phải sống chung được với một thế giới đa dạng, phải đối mặt với những ảnh

hưởng văn hoá to lớn từ nước Mỹ, phải giải quyết tình trạng người nhập cư từ các nền

văn hoá Hồi giáo vào Châu Âu đang ngày càng gia tăng?.

Trong khi Châu Âu đang buồn lòng vì sự suy giảm về ảnh hưởng văn hoá của

mình trên toàn cầu thì người Mỹ dù trên thế “thượng phong” vẫn đôi lúc không thoát

khỏi mặc cảm thua thiệt với Châu Âu. Rõ ràng, so sánh về bề dày lịch sử - văn hoá,

nước Mỹ không thể nào sánh kịp với Châu Âu. Và mặc dù tự coi các giá trị văn hoá

thế giới đều có thể là di sản của nền văn hoá Mỹ đa dạng, song người Mỹ vẫn không

124

khỏi thán phục và ganh tị khi ngắm nhìn các toà lâu đài cổ kính và các tác phẩm nghệ

thuật tinh tế của châu Âu. Không ít người châu Âu trong các cuộc luận chiến văn hoá

với người Mỹ đã đánh giá nền văn hoá Châu Âu là nền văn hoá tinh tuý, có thứ hạng

cao còn nền văn hoá Mỹ chỉ là nền văn hoá đại chúng, bình dân. Thực tế, sự đánh giá

này không có nghĩa lý gì nhiều trong cuộc sống hiện đại song có lẽ nào người Mỹ

không thầm đau nỗi đau của anh nhà giàu mới phất luôn bị coi là trọc phú vì không

có dòng dõi quý tộc lâu đời?

Như vậy, có thể nói rằng tiếp xúc và ảnh hưởng giữa Châu Âu và Mỹ từ trước

đến nay thực sự đúng là “duyên” và “nợ”. Mặc dù không quên, không dứt được mối

“duyên tình” sâu xa nhưng cả người Mỹ và người Châu Âu đều mong muốn và cố

gắng xác lập những ảnh hưởng văn hoá của mình lên đối phương nhằm thể hiện một

sự vượt trội hơn.

125

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng vi t:

1. Briton, C./Lee, R./Christopher, J.B: Văn minh phương Tây. NXB Văn hoá

Thông tin, Hà Nội, 2004, tr 29 – 30.

2. B.T. Spalading: Hành trình về phương Đông. Nguyễn Phong dịch, Hà Nội,

2009, tr 233 – 234.

3. Chamber, Lịch sử văn minh phương Tây. Lương Văn Hy, Nguyễn Đức

Phú…dịch. Hà Nội, 2004, tr.32.

4. Lương Văn Kế, Ảnh hưởng của văn hóa Tây Âu, Bắc Mỹ đối với thế giới và

Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa, công trình nghiên cứu trọng điểm cấp

Nhà nước.

5. Lương Văn Kế (Chủ biên), Trần Đương (2004), Phác thảo chân dung đời sống

văn hoá Đức đương đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

6. Lương Văn Kế (2011), Văn hoá Bắc Mỹ trong toàn cầu hoá, NXB Giáo dục

Việt Nam.

7. Lương Văn Kế (2010), Văn hoá châu Âu – Lịch sử thành tựu hệ giá trị, NXB

Giáo dục Việt Nam.

8. Lương Văn Kế (Chủ biên): Phác thảo chân dung đời sống văn hoá Đức đương

đại. Hà Nội, 2004 tr 106.

9. E. B. Tylor: Văn hoá nguyên thuỷ. Người dịch (từ bản tiếng Nga): Huyền

Giang, Hà Nội,2001.

10. Dẫn theo W. Bisang et al. (ed): Văn hoá Ngôn ngữ, Tiếp xúc (tiếng Đức),

Wuerzburg 2004, tr38.

11. Trần Thị Kim Dung, Quan hệ Việt Nam – Liên minh châu Âu, NXB Khoa học

Xã hội, Hà Nội, 2001, tr.49

126

Tiếng Anh:

12. Allan Nevins and Henry Steele Commanger, America: The Story of a Free

People. Boston: Little, Brown 1942.

13. “Culture is product; is historical; includes ideas patterns and values; is

selective; is learned; is based upon symbols; and is an abstraction from

behavior and the products of behavior.” Trong: Kroeber, A./Kluckhohn,

C.K.M.: Culture: a critical review of concepts and definitions. Papers of

Peabody Museum of American Archaeology and Ethnology, Havard

University, 47.12 Cambridge, Mass. 1952. Dẫn theo W. Bisang trong: Sđd

14. Moss. D., Piltz TH., Elsberger S, (Ed.) (1993), Culture Life in Federal

Republic of German.

15. Milton Cummings (2003), Cultural Diplomacy and the United States

Government: A Survey Center for Arts and Culture, tr4.

16. Jame A. Morone, The Struggle for American Culture, trong tập san PS:

Political Sciences and Politics, số 29 (September 1996), tr 428 – 429.

17. Kuisel Richard F, Seducing the French: The Dilemma of Americanization,

NXB ĐH California, 1996, tr 68, 17, 33.

18. Kuisel Rechard F, The French Cinema and Hollywood: A case studies of

Americanization trong Heike Ferenbach, Uta G. Poiger (chủ biên):

Transactions, transgressions, transformations: American culture in Western

Europe and Janpan. NXB Oxford, 2000, tr 201, 211.

19. Poiger Uta G, Jazz Rock and Rebels: Cold War politics and American culture

in a divided Germany, NXB ĐH California, 2000, tr.62, 1, 32.

20. W Bisang: Kultur and Sprache aus der Perspektive des Kontaktes (Văn hoá và

ngôn ngữ theo cách nhìn tiếp xúc) trong: W. Bisang/ T. Bierscheck/D.

Kreikenbom/U. Verhoeven (ed): Văn hoá, Ngôn ngữ, Tiếp xúc (tiếng Đức)

Wuerzburg 2004 tr. 2.

127

21. Ryan Edwarson. “Knicking Uncle Sam out of the peaceful Kingdom: English –

Canada “New Nationalism and Americanization”. Journal of Canadian Studies.

Vol 37. No.4, tr 131.

Tạp chí:

22. Bùi Hải Đăng, Bước đầu tìm hiểu khái niệm bản sắc cộng đồng, Tập san Khoa

học xã hội và nhân văn, số 37, tháng 12 – 2006, tr 107 - 111.

23. Bùi Phương Lan, Suy nghĩ về vai trò của báo chí truyền thông Mỹ, Tạp chí

châu Mỹ ngày nay, số 6 – 2009, tr. 64.

24. Lionel Laroche, Những khác biệt văn hóa giữa Liên minh châu Âu với Bắc Mỹ

và ảnh hưởng của nó đến sự phát triển hợp tác thương mại, Tạp chí Nghiên

cứu châu Âu, số 8 (83) – 2007, tr 17 – 24.

25. Lê Đình Cúc, Văn hóa Mỹ - sự thống nhất tự do và đa nguyên, Tạp chí châu

Mỹ ngày nay, số 08 – 2012, tr.57.

26. Lê Đình Cúc, Điện ảnh Mỹ và công nghệ truyền thông, Tạp chí châu Mỹ ngày

nay, số 05 – 2011, tr. 54.

27. Nguyễn Thị Nga, Sức mạnh của điện ảnh Mỹ trên thế giới, Tạp chí nghiên cứu

châu Mỹ, số 3 – 2007.

28. Nguyễn Thái Yên Hương, Vai trò văn hóa đối với việc mở rộng “giá trị” Mỹ,

Tạp chí nghiên cứu ngày nay, số 8 – 2008, tr.51.

29. Nguyễn Thái Yên Hương, Xu hướng “Mỹ hóa” văn hóa trong thế giới toàn

cầu hóa và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay,

số 10 – 2008, tr. 52- 53.

30. Phát biểu của Ðại sứ Raymond F. Burghardt (2012), Âm nhạc Mỹ: Nhạc Jazz

và tính cách Mỹ, Phát biểu tại Câu lạc bộ Phụ nữ Quốc tế Hà Nội.

31. Trích lại từ “Làm thế nào để phim giải trí thắng ở rạp?”, Báo Văn hóa 21 –

24/5/2004, tr.11.

128

Websites:

32. Bài giảng thư viện, Chạy đua vũ trang

http://violet.vn/nhamson75/

33. Mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay.

http://quankhoasu.blogspot.com/2012/04/lich-su-quan-he-quoc-te-1919-2005-

ts.html

34. Nguyễn Hoàng - Nhật Bắc, Văn hoá vừa là mục tiêu vừa là động lực phát

triển kinh tế - xã hội.

http://baodientu.chinhphu.vn/Tin-noi-bat/Van-hoa-vua-la-muc-tieu-vua-la-dong-

luc-phat-trien-KTXH/178406.vgp

35. GS. TSKH Trần Ngọc Thêm, Khái luận về văn hoá

http://vanhoahoc.hcmussh.edu.vn/3cms/upload/khoavanhoahoc/File/Congbo/K

hai_luan_van_hoa_Tran_Ngoc_Them.pdfc

36. PGS. TS Văn Ngọc Thành, Cuộc chiến tranh lạnh,

http://user.hnue.edu.vn/index.php?page=news&uid=118&news_id=500

37. Lương Xuân Hà (2008),JAZZ, một câu chuyện về toàn cầu hóa

http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=115&News=1213&CategoryID=4

38. Nét văn hóa Đức trong thời kỳ Toàn cầu hóa

http://news.apttravel.com/net-van-hoa-duc-trong-thoi-ky-toan-cau-hoa-

l98610.htm

39. Thảo Nguyên Vy, Chính sách đối ngoại hậu Bush, từ website:

http://www.tgvh.com.vn ngày 16-8-2008.

40. Theo A.Nguyện, Pháp phản công chống lại sự thống trị văn hóa Mỹ,

www. Tuoitre.com.vn, 16-8-2008.

129

41. Văn Ngọc Thành - Trịnh Nam Giang, Tiếp xúc và ảnh hưởng văn hóa giữa

châu Âu và Bắc Mỹ.

http://user.hnue.edu.vn/user_files/thanhvn/documents/articles_385.pdf

42. Richard Pells, The impact of American culture is exaggerated,

http://www.rediff.com/movies/2006/sep/04pells.htm, cập nhật ngày 4 tháng 9

năm 2006.

43. Văn hóa, lịch sử đất nước Đức tổng hợp

http://hoctiengduc.com/noi-dung/664/Net-van-hoa-Duc-trong-thoi-ky-toan-

cau-hoa.html.

130