Hy vọng mới cho bệnh nhân
Parkinson
Trước đây, các biện pháp chữa trị bệnh Parkinson chỉ làm giảm triệu
chứng mà chưa trị triệt để. Nay nhờ những tiến bộ vượt bậc mà người bệnh
hi vọng giảm nhiều phiền toái, thậm chí có thể trị dứt bệnh.
Ghi nhận ở các phòng khám nội thần kinh, lão khoa cho thấy bệnh
Parkinson đã không còn hiếm gặp ở VN. Đây là bệnh mãn tính, ảnh hưởng
trên toàn hệ vận động khiến người bệnh cử động rất chậm, run, khó thăng
bằng, đi đứng khó khăn.
Dùng thuốc
Thiếu dopamine ở những nhân xám của hệ thần kinh trung ương là
nguyên nhân gây ra các triệu chứng trên. Bình thường dopamine được các tế
bào nằm trong các hạch nền ở thân não tiết ra. Khi các tế bào này bị thoái
hóa hoặc tổn thương, lượng dopamine bị giảm sút nghiêm trọng, thế là các
triệu chứng của Parkinson xuất hiện.
Điều trị Parkinson chủ yếu là dùng thuốc để bổ sung lượng dopamine
thiếu hụt. Thuốc điều trị cung cấp dopamine dưới dạng tiền chất (levodopa)
khi uống vào sẽ được khử carboxy và biến thành dopamine ở trong não và cả
khu vực ngoài não. Dopamine tồn tại ở ngoài khu vực ngoại vi sẽ gây ra tác
dụng phụ, nhất là ở giai đoạn trễ của bệnh (sau 5-7 năm), khiến người bệnh
khó chịu không kém so với những triệu chứng của bệnh. Người bệnh thường
rất khó xử: không uống thuốc thì không cử động được, uống thuốc vào thì
người lắc lư, chân tay múa may không tự chủ vì tác dụng phụ...
Sự ra đời của Madopar là một cột mốc quan trọng trong điều trị giai
đoạn đầu của Parkinson. Thành phần của viên thuốc này gồm levodopa và
benserazide (chất được sử dụng nhăm ức chế quá trình khử carboxy ở
levodopa để biến thành dopamine ở ngoại vi) với tỉ lệ 4:1, nhằm tối ưu hóa
việc ngăn chặn quá trình levodopa khử nhóm carboxy ở ngoại biên và chỉ
cho quá trình này diễn ra trong hệ thần kinh trung ương.
Tuy nhiên, ở những bệnh nhân điều trị lâu ngày, người ta nhận thấy
cần phải tăng liều Madopar bởi ngày càng nhiều levodopa bị phá hủy ở
ngoài hệ thần kinh trung ương. Khi hấp thu vào cơ thể, levodopa chuyển hóa
theo hai hướng chính: khử carboxy và o-methyl hóa. Do benserazide chỉ ức
chế được quá trình khử carboxy, còn quá trình o-methyl hóa vẫn xảy ra và
có xu hướng tăng ở người bị bệnh Parkinson điều trị lâu dài với Madopar. Vì
thế có sự ra đời của Stalevo.
Trong Stalevo có sự kết hợp giữa ba thành phần carpidopa, levodopa
và entacapone. Carbidopa ức chế quá trình khử carboxy của levodopa ở
ngoại biên; entacapone ức chế men o-methyltransferase, làm ức chế quá
trình o-methyl hóa levodopa ở ngoại vi, dẫn đến làm tăng levodopa trong các
nhân xám của hệ thần kinh trung ương. Do vậy, Stalevo (chưa thấy xuất hiện
ở VN) hiệu quả hơn trong điều trị Parkinson so với Madopar.
Kích thích bằng điện
Liệu pháp kích thích bằng điện (Activa Parkinson’s control therapy)
được phép áp dụng vào điều trị Parkinson ở châu Âu, Canada vào năm 1998
và ở Mỹ năm 2002. Phương pháp này sử dụng điện để kích thích trực tiếp
vào não của người bệnh.
Thiết bị gồm có điện cực được gắn trực tiếp vào trong não, bộ phận
kích thích thần kinh có chứa nguồn pin nhỏ và một con chip phát ra những
xung động điện giúp kiểm soát các triệu chứng Parkinson, cùng một hệ
thống dây dẫn để nối các điện cực với bộ phận kích thích.
Để làm được trị liệu này, các bác sĩ phẫu thuật thần kinh sẽ tiến hành
mổ để đưa điện cực vào não người bệnh. Đây là một phẫu thuật đòi hỏi sự
hỗ trợ của nhiều trang thiết bị hiện đại, chỉ những trung tâm thần kinh lớn
trên thế giới mới có khả năng làm được (hiện ở khu vực Đông Nam Á chỉ có
Bệnh viện quốc gia Singapore và Bangkok Hospital của Thái Lan).
Phương pháp gắn thiết bị kích thích không dành cho người thu nhập
thấp, bởi nó có chi phí khoảng 55.000 USD. Nhưng nó chỉ nhằm giúp bệnh
nhân ít bị run, kiểm soát tốt hơn vận động và tư thế, làm giảm tác dụng phụ
của thuốc. Điểm bất lợi là chỉ cần tắt máy thì xuất hiện ngay các triệu chứng.
Bệnh nhân điều trị bằng phương pháp này vẫn phải uống levodopa hăng
ngày với liều lượng giảm hơn so với lúc chưa mang thiết bị kích thích.
Sử dụng tế bào gốc
Phương pháp điều trị triệt để bệnh Parkinson là sử dụng tế bào gốc.
Khi được tiêm vào, các tế bào gốc sẽ đến định cư trong các hạch nền ở thân
não và biệt hóa thành những tế bào nền tiết ra dopamine, giúp cho quá trình
dẫn truyền thần kinh bình thường trở lại.
Một trung tâm nghiên cứu tế bào gốc ở Bắc Kinh, Trung Quốc (Wu
Stemcell Medical Center) đã áp dụng phương pháp sử dụng tế bào gốc để
điều trị thành công bệnh Parkinson. Trong hai năm, 2008-2009, trung tâm
này đã điều trị cho 50 bệnh nhân Parkinson, tỉ lệ thành công đạt 98%, kinh
phí một ca điều trị khoảng 32.000 USD.