IPM-Quản lý dịch hại tổng hợp đối với cây hồ tiêu

IPM – (Intergrate Pest Managerment ) là quản lý dịch hại tổng hợp hay nói

cách khác là sử dụng các biện pháp tổng hợp để quản lý dịch hại cây trồng,

trên cơ sở sinh thái học sẽ làm tăng năng suất, cải thiện chất lượng nông sản

phẩm, bảo vệ môi trường, và giảm chi phí đầu tư.

Quản lý dịch hại tổng hợp là một hệ thống điều khiển dịch hại bằng cách sử dụng

hài hòa những biện pháp kỹ thuật như biện pháp sinh học, hóa học một cách thích

hợp, trên cơ sở phân tích hệ sinh thái đồng ruộng một cách hợp lý để đạt hiệu quả

kinh tế cao nhất và an toàn nhất. IPM đối với mỗi cây trồng có những đặc thù riêng

3 biện pháp cơ bản trong IPM đối với cây hồ tiêu. (Piper nigrum Linneaus).

1-Biện pháp sinh học:

Con người đã tác động đến môi trường sinh thái bằng cách tạo điều kiện thuận lợi

cho thiên địch (côn trùng có ích) phát triển và thiên địch sẽ tấn công sâu hại. Sự

đấu tranh tự nhiên này làm cân bằng sinh thái trong thiên nhiên. Ví dụ hạn chế

phun thuốc sâu sẽ giữ được tắc kè, chuồn chuồn, bọ ngựa, kiến vàng, bọ rùa, nhện

là những loài chuyên ăn rệp hại trên cây tiêu, nhất là rệp sáp. Không cần phun

thuốc hóa học mà vẫn tiêu diệt rệp sáp, xét về mặt hiệu quả kinh tế lợi hơn nhiều.

Rệp, rệp sáp trên vườn tiêu sẽ bị các thiên địch tiêu diệt nếu chúng ta không xua

đuổi và bắt hay tiêu diệt thiên địch.

2-Biện pháp kỹ thuật

a) Chọn giống tiêu tốt:

Chọn những giống tiêu có khả năng chống chịu sâu bệnh tốt. Hiện có rất nhiều

giống tiêu đang trồng tại Việt Nam, tuy nhiên tại vùng này có thể phát triển tốt,

kháng bệnh khá nhưng vùng khác có thể kháng bệnh kém. Do vậy tùy mỗi địa

phương có thể chọn những giống phù hợp nhất để trồng.

Ví dụ: Giống Lada Belangtoeng nguồn gốc từ Indonesia có lá to xanh đậm du nhập

vào Việt Nam từ những năm 50 thế kỷ trước, giống này dễ trồng, cho năng suất

khá cao, leo mau, dây lá rất xanh tốt. Tại Bà Rịa-Vũng Tàu giống này kháng bệnh

thối rễ khá, nhưng đưa lên trồng tại Tây nguyên do mùa mưa tập trung ẩm quá cao

nên kháng bệnh rễ lại kém.

- Giống Pannijur-1 nguồn gốc Ấn độ, được nhập nội Việt Nam từ 1989, chín sớm,

chín khá đồng đều, năng suất cao, kháng bệnh tốt tại Bà Rịa nhưng tại Bình Phước

giống này kháng bệnh chỉ ở mức trung bình.

b) Nhân giống:

- Chỉ cắt cành ươm từ các vườn không nhiễm sâu bệnh, những vườn có năng suất

cao, chống chịu sâu bệnh khá và có nhiều đặc tính tốt.

- Các cây mẹ để cắt cành ươm phải là những cây tốt nhất, được chọn lọc trong

vườn cây tốt (trong một vườn tốt vẫn có những cây chưa tốt hoặc không đạt yêu

cầu làm giống).

- Độ tuổi cây mẹ: Chỉ nên cắt cành ươm từ những cây mẹ từ 3-4 năm tuổi, nên

dùng các cành thân chính để ươm giống (không dùng cành ác làm hom giống).

- Giâm cành ươm vào bầu Nylon đục 8 lỗ, trước khi dâm hom vào bầu phải xử lý

hom bằng Bordeaux 1%, Aliette 0,2-0,%, hay Rovral 0,2-0,3%. Xử lý nấm bệnh

ngay từ khi ươm bầu. Nếu xử lý và chọn lọc hạn chế nguồn bệnh ngay từ khi nhân

giống sẽ hạn chế một phần dịch bệnh sau này.

Nhân được các giống tốt sạch bệnh là một trong những yếu tố thành công cho quản

lý dịch hại tổng hợp sau này.

c) Thiết kế và chăm sóc vườn cây:

Vườn tiêu tồn tại hàng chục năm, do vậy cần thiết kế khoa học và hợp lý ngay từ

đầu, đảm bảo mật độ vừa phải, tùy theo khả năng đầu tư của mỗi gia đình (không

nhiều phân hữu cơ, vô cơ bón hàng năm nên trồng thưa hơn nhưng vẫn đảm bảo

20kg phân chuồng, 0,5 kg vôi, 0,5kg lân/gốc và NPK theo quy trình kỹ thuật).

-Miền Nam có lượng mưa khá lớn và tập trung vào các tháng cuối mùa mưa, do

vậy độ ẩm không khí và đất rất cao, tiểu khí hậu đồng ruộng khá ẩm ướt nên cần

trồng mật độ thích hợp để không che cớm lẫn nhau, dễ bị nhiễm các bệnh trên thân

lá.

- Nọc sống: Có thể bố trí mật độ khoảng cách 2,5 x 2,5 hoặc 3 x 3 m ( 1.600 –

1.200 gốc/ha).

- Nọc betong: Có thể bố trí khoảng cách mật độ 2,5 x 2,5 m hoặc (1.600 gốc,/ha).

- Cây nọc chết bằng gỗ không được khuyến cáo sử dụng để tránh nạn phá rừng và

nấm bệnh.

- Cây nọc sống – Hạn chế tối đa việc dùng cây Anh đào, Lồng mức, Bình linh dùng

làm cây nọc sống vì những cây này là môi trường tốt để rệp sáp sinh sôi, nó là ký

chủ của rệp sáp hại tiêu. Có thể dùng rất nhiều cây để làm nọc sống tùy mỗi địa

phương như cây keo rừng, cóc rừng… Nên thiết kế hàng cây theo hướng Đông –

Tây để tận dụng nhiều ánh sáng mặt trời nhất.

d) Xen canh:

Vườn trồng tiêu nọc chết được xen canh cà phê, sầu riêng, bơ… và thường trồng

trên bìa lô xung quanh vườn sẽ tạo hàng rào che chắn gió. Nó còn có tác dụng che

bớt ánh sáng bức xạ trực tiếp, tạo môi trường sinh thái hài hòa và tạo thêm thu

nhập.

3-Biện pháp hóa học:

Đây là biện pháp cuối cùng khi phải bảo vệ cây trồng khỏi dịch hại tấn công mà

các biện pháp trên không có hiệu quả và dịch hại phát triển quá ngưỡng kinh tế cho

phép. Tuy nhiên sử dụng thuốc bảo vệ thực vật (BVTV) phải ưu tiên thuốc sinh

học không độc hại cho môi trường và nông sản, sau đó mới đến thuốc hóa học.

Thuốc hóa học phải ưu tiên sử dụng loại thuốc ít độc hại cho môi trường, thuốc ít

tồn tại trong nông sản và mau phân hủy. Khi sử dụng thuốc hóa học BVTV phải

tuân thủ nguyên tắc 4 đúng (đúng thuốc, đúng liều lượng nồng độ, đúng lúc, đúng

cách ).

- Đúng thuốc: Chọn loại thuốc phù hợp ghi trên nhãn bao bì, đúng đối tượng dịch

hại.

- Đúng liều lượng nồng độ: Không pha nồng độ cao lãng phí và độc hại, không pha

quá loãng không diệt được sâu bệnh lại phải phun thêm lần sau. Pha thuốc theo

hướng dẫn trên bao bì của thuốc BVTV.

- Đúng lúc: Phun thuốc đúng thời điểm sâu còn non dễ tiêu diệt. Phun thuốc khi

mới nhiễm bệnh sẽ dễ trị bệnh hơn khi đã quá nặng.

- Đúng cách: Loại rệp ẩn mặt dưới của lá thì phải phun mặt dưới, tuyến trùng hại rễ

hồ tiêu thì phải tưới thuốc vào rễ, bệnh đốm lá phải phun thuốc mặt trên của lá…

Riêng đốm lá do nấm Rosellina sp, mặt dưới lá bị bệnh có các vết nâu rải rác và

tập trung ở bìa lá nặng thì toàn lá héo vàng, có thê dùng Carbenzim 500FL hoặc

Topsin M70WP (10cc/bình 8 lít phun đẫm) nên phải phun thuốc vào mặt dưới lá

mới có tác dụng.

- Dùng loại thuốc trong danh mục cho phép của Bộ NN&PTNT

IPM không phải là một quy trình kỹ thuật cụ thể, mỗi nơi mỗi cây trồng có những đặc thù riêng nên cần áp dụng phù hợp mới mang lại hiệu quả cao.