KHÁI QUÁT VỀ

CÁC PHƯƠNG

PHÁP KIỂM TOÁN

Khái niệm: Phương pháp kiểm toán là các biện phá p, cách thức, thủ pháp được sử

dụng trong công tác kiểm toán, nhằm thực hiện mục đích kiểm toán đặt ra.

Kiểm toán là một ngành khoa học còn non trẻ, hoạt động thực tế dù chưa nhiều,

nhưng đến nay kinh nghiệm tích luỹ đã đủ cho việc khẳng định kiểm toán là một

ngành khoa học độc lập trong cả lý luận và thực tiễn. Từ những kinh nghiệm thực

tế đó đã hình thành một hệ thống phương pháp kiểm toán, tuy chưa hoàn chỉnh

nhưng hệ thống phương pháp kiểm toán khá đa dạng, khoa học và sáng tạo.

Và cũng như các ngành khoa học khác, kiểm toán cũng có những phương pháp

chung đó là cơ sở phương pháp luận và phương pháp kỹ thuật riêng của mình để

hình thành những phương pháp xác minh và bày tỏ ý kiến phù hợp với đối tượng

kiểm toán.

Cơ sở phương pháp luận

Tất cả các ngành khoa h ọc kể cả kiểm toán đều phải dựa trên cơ sở phương pháp

luận chung đó là phép biện chứng duy vật. Trong quan hệ với phương pháp kiểm

toán chúng ta cần quan tâm, quán triệt đầy đủ các mối quan hệ và quy luật khách

quan sau:

Thứ nhất, quan điểm duy vật biện chứng cho rằng: Các sự vật hiện tượng cũng

như các mặt của sự vật hiện tượng đó có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Như vậy

khi xác minh, nhận thức về một mặt hay một sự vật, hiện tượng nào đó phải xem

xét nó trong mối quan hệ biện chứng với các mặt, các sự vật hiện tượng khác có

liên quan.

Ví dụ: Khi mua hàng bằng tiền mặt thì hàng tồn kho (cụ thể là hàng hoá) tăng, tiền

mặt trong quỹ giảm xuống.

Quan điểm thứ hai: Mọi sự vật và hiện tượng đều vận động, vận động là tuyệt đối,

đứng im là tương đối. Vì vậy trong kiểm toán khi nghiên cứu và phán xét mọi sự

vật, hiện tượng tại thời điểm kiểm toán phải có phương pháp nghiên cứu chúng

trong trạng thái động, tức là phải xem xét chúng trong cả một khoảng thời gian nào

đó hợp lý. Ví dụ khi xem xét tài khoản tiền mặt, KTV có thể xem xét và so sánh sự

biến động của tiền mặt trong kỳ kiểm toán với niên độ kế toán trước, hay kỳ kế

toán trước.

Quan điểm thứ ba: Trong nội tại sự vật hiện tượng đều có sự thống nhất và đấu

tranh giữa các mặt đối lập. Trong kiểm toán, mối quan hệ này là cơ sở cho phương

pháp kiểm tra cân đối về lượng ví dụ tài sản và nguồn vốn, số phát sinh Nợ và số

phát sinh Có…

Quan điểm thứ tư: Cho rằng mọi sự vật hiện tượng đều có bản chất riêng và được

biểu hiện dưới các hình thức cụ thể. Vì vậy khi nghiên cứu và kết luận bản chất sự

vật hiện tượng phải xem xét trên những hình thức biểu hiện khác nhau, ở tính phổ

biến của chúng. Ví dụ tài sản thì phải xem xét cả về giá trị và cả về mặt số lượng,

cả trên sổ sách lẫn trong thực tế.

Ngoài nhữ ng quy luật trên kiểm toán viên còn phải thực hiện đúng quy luật vận

động của quá trình nhận thức, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ

cảm tính đến lý tính với những bước quan sát, thu thập bằng chứng thực tế rồi mới

phân tích, phán đoán, suy lý … ừt mình.

Phương pháp kỹ thuật đổi mới đưa ra kết luận của Cơ sở về mặt kỹ thuật trước hết

phải kể đến phương pháp toán học, trực tiếp là các phương pháp chọn mẫu. Mặt

khác do đối tượng kiểm toán có quan hệ chặt chẽ với đối tượng của kế toán và của

phân tích kinh doanh nên kỹ thuật kiểm toán không thể tách rời các phương pháp

kỹ thuật của kế toán và phân tích kinh doanh.

Trong quan hệ với đối tượng kiểm toán, chúng ta cần đặc biệt quan tâm tới hai

phần riêng biệt:

Một phần là thực trạng hoạt động tài chính được phản ánh trong các tài liệu kế toán

hình thành nên phân hệ phương pháp chứng từ. Phân hệ này bao gồm:

+ Kiểm toán các cân đối kế toán (kiểm toán cân đối)

+ Đối chiếu trực tiếp

+ Đối chiếu lôgic

Phần chưa được phản ánh trong các tài liệu kế toán hình thành nên phân hệ phương

pháp kiểm toán ngoài chứng từ. Phân hệ này bao gồm:

+ Kiểm kê

+ Điều tra

+ Thực nghiệm

Qua cách phân tích trên, chúng ta thấy phương pháp kiểm toán là sự vận dụng

phương pháp luận duy vật biện chứng, các bộ môn khoa học tự nhiên và kinh tế

vào quá trình thu thập bằng chứng, xác minh, đánh giá, nhận xét những nội dung

kiểm toán được thể hiện qua các thông tin do đối tượng kiểm toán cung cấp và

những tài liệu khác có liên quan, nhằm đảm bảo tính độc lập, khách quan cho kết

luận kiểm toán.

KIỂM TOÁN CHỨNG TỪ ĐỐI CHIẾU LÔGIC

Khái niệm: Đối chiếu lôgic là việc xem xét mức biến động tương ứng về trị số của

các chỉ tiêu có quan hệ kinh tế trực tiếp song có thể có mức biến động khác nhau

và có thể theo hướng khác nhau.

Cơ sở: Các đối tượng, các chỉ tiêu kinh tế tài chính trong đơn vị có mối quan hệ

với nhau.

Một số đối chiếu lôgic có thể thực hiện trong quá trình kiểm toán như:

Hàng tồn kho giảm có thể dẫn đến tiền mặt, tiền gửi hoặc các các khoản phải thu

tăng.

Tài sản cố định tăng có thể dẫn tới tiền vay, nợ dài hạn tăng hoặc chi phí xây lắp

giảm…

Vốn bằng tiền giảm có thể dẫn tới hàng hoá vật tư tăng hoặc các khoản phải trả

giảm…

Cách đối chiếu này được sử dụng rất phổ biến trong việc xem xét khái quát các

mối quan hệ kinh tế – tài chính thuộc đối tượng kiểm toán. Trên cơ sở đó định

hướng cho việc kiểm toán các đối tượng cụ thể khi phát hiện những mâu thuẫn và

xu hướng biến động của các chỉ tiêu có liên quan.

CÁC PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN CHỨNG TỪ

Kiểm toán cân đối

Khái niệm

Kiểm toán cân đối là phương pháp dựa trên các cân đối (phương trình) kế toán và

các cân đối khác để kiểm toán các quan hệ nội tại của các yếu tố cấu thành quan hệ

cân đối đó.

Dựa vào phép biện chứng duy vật: Trong hàng loạt các mối quan hệ giữa các mặt

sự vật hiện tượng xuất hiện mối liên hệ thống nhất và mâu thuẫn giữa hai mặt đối

lập. Trong hoạt động kinh tế tài chính cũng xuất hiện nhiều mối liên hệ như vậy.

Trong kiểm toán trước hết phải xét đến cân đối tổng quát theo các mô hình cân đối

khái quát.

Ví dụ: Với bản cân đối tài khoản

Tài sản = Vốn chủ sở hữu + Công nợ

Hoặc tổng số tài sản = Tổng số nguồn vốn

Cân đối kế toán là phương pháp kiểm toán các kiểm toán viên dựa vào các phương

pháp cân đối trong kế toán trong quá trình hình thành kiểm toán.

Phương pháp kỹ thuật áp dụng:

Phương trình kế toán cơ bản: Tổng tài sản bằng tổng nguồn vốn.

Đặc điểm của đối tượng kiểm toán

Phương pháp cân đối kế toán áp dụng với các đối tượng kiểm toán có chứa đựng

các mối quan hệ cân đối.

Nội dung kiểm toán

Kiểm toán các cân đối tổng quát, thực chất đây là xem xét các mối quan hệ cân đối

tổng quát trong đối tượng kiểm toán.

Trong thực tế có thể có những trường hợp các mối quan hệ cân bằng này thường

xuyên không được duy trì. Khi đó phải xem xét lại bản chất riêng của mối quan hệ.

Trong một số trường hợp, do bản thân quy định của chế độ về kinh tế nói chung và

về kế toán nói riêng làm cho quan hệ này không cân bằng về lượng.

Trong một số trường hợp khác thiếu cân bằng này hoàn toàn chỉ do lỗi

của kế toán.

Kiểm toán cân đối thực chất là kiểm toán dựa trên các quan hệ cân đối trong từng

định khoản kế toán. Vì vậy kiểm toán các cân đối cụ thể là việc kiểm tra và đối

chiếu giữa các sổ sách kế toán, nhật ký, bảng kê, sổ cái. Trong quá trình kiểm toán

các cân đối cụ thể, các kiểm toán viên thường phát hiện các lỗi kiểm toán sau đây:

Quy mô phản ánh không đúng với thực tế

Phản ánh không phù hợp giữa nội dung kinh tế của nghiệp vụ với quan

hệ nghiệp vụ thực tế phát sinh.

Điều kiện áp dụng

Phương pháp cân đối kế toán được áp dụng với các đối tượng có tồn tại quan hệ

tương đối. Dù quan hệ cân đối tổng quát có tồn tại hay không, kiểm toán các cân

đối cụ thể vẫn phải đặt ra.