Khai thác tiềm năng thương mại điện tử

Bản báo cáo mới nhất của hãng eMarketer cho biết, cột mốc đáng nhớ vào cuối

năm 2005, tổng số người sử dụng internet trên toàn cầu là hơn một tỷ, chiếm

khoảng một phần sáu tổng dân số, trong đó có khoảng 845 triệu người truy cập

mạng thường xuyên. Ở Việt Nam tính đến giữa năm 2005 đã có khoảng 10 triệu

người truy cập internet, chiếm khoảng 12,5% số dân cả nước, dự tính đến đầu năm

2006, tỷ lệ này có thể sẽ tăng từ 16 đến 18% khi số người truy cập internet lên đến

13-15 triệu người. Ðiều này cho thấy tín hiệu lạc quan về sự phát triển TMÐT ở

Việt Nam trong giai đoạn 2006-2010.

Thương mại điện tử chỉ việc thực hiện những giao dịch thương mại dựa trên các

công cụ điện tử mà cụ thể là mạng internet. Có nhiều cấp độ thực hiện TMÐT. Ở

cấp độ cơ bản, một website đối với doanh nghiệp có thể chỉ để trưng bày thông tin,

hình ảnh, tìm kiếm khách hàng qua mạng, liên hệ với khách hàng qua email... Cấp

độ cao hơn khi doanh nghiệp thực hiện một số giao dịch trên mạng như khách

hàng đặt hàng thẳng từ trên mạng, quản lý thông tin khách hàng, đơn hàng bằng cơ

sở dữ liệu tự động, có thể xử lý thanh toán qua mạng bằng thẻ tín dụng...

Ðối với nước ta, TMÐT giúp rất nhiều cho kinh doanh marketing và tìm kiếm

khách hàng qua mạng, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và xuất khẩu.

Theo thống kê của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Thương mại) đến cuối năm 2004,

Việt Nam đã có khoảng 17.500 website của các doanh nghiệp. Các website sàn

giao dịch B2B, website rao vặt, siêu thị trực tuyến B2C... đua nhau ra đời. Tuy

nhiên, các website này vẫn còn phát triển hạn chế, chưa có website nào thật sự

phát triển đột phá. Những mặt hàng được bán phổ biến trên mạng tại Việt Nam

hiện nay chủ yếu gồm: hàng điện tử, kỹ thuật số, sản phẩm thông tin (sách điện tử,

CD, VCD, nhạc...), thiệp, hoa, quà tặng, hàng thủ công mỹ nghệ. Các dịch vụ ứng

dụng TMÐT nhiều như: du lịch, tư vấn, CNTT, dịch vụ thông tin, giáo dục và đào

tạo...

Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đã quan tâm nhiều hơn về việc lập website để

giới thiệu thông tin, hỗ trợ marketing, bán hàng qua mạng... Kết quả khảo sát của

Vụ Thương mại điện tử năm 2005 về quan điểm của doanh nghiệp đánh giá thứ tự

tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh như sau: Xây dựng hình ảnh

công ty; mở rộng kênh tiếp xúc với khách hàng hiện có; thu hút khách hàng mới;

tăng lợi nhuận và hiệu quả hoạt động; và tăng doanh số. Kết quả khảo sát đã phản

ánh thực tế là hầu hết doanh nghiệp có website mới chỉ coi đó là kênh tiếp thị bổ

sung để quảng bá hình ảnh công ty và giới thiệu sản phẩm/dịch vụ. Do đó, doanh

nghiệp chưa đầu tư khai thác hết những lợi ích TMÐT có thể mang lại.

Theo nhiều chuyên gia, để TMÐT phát triển, cần nhiều yếu tố thúc đẩy và làm nền

tảng cụ thể: Về cơ sở hạ tầng công nghệ: Ðây là điều kiện quan trọng nhất để tiến

trình thực hiện TMÐT có những bước bứt phá. Công nghệ thông tin và internet đã

trở nên không còn xa lạ và là kênh thông tin không còn xa xỉ đối với người dân

Việt Nam, nó đã vươn xa tới tận thôn bản. Ðiều đó chứng tỏ, chúng ta hoàn toàn

có thể thực hiện những cuộc bứt phá cho TMÐT ở Việt Nam; Về số người truy

cập internet và chi phí truy cập internet: Hiện nay, tỷ lệ người dân truy cập internet

ở nước ta tuy còn thấp so với các nước phát triển nhưng đã đạt đến mặt bằng

chung của thế giới (xấp xỉ 13% và dự báo hoàn toàn có thể tăng cao hơn), đây

cũng có thể coi là điều kiện rất mở cho mục tiêu phát triển TMÐT của nước ta

theo kế hoạch 2006-2010. Ðối với chi phí truy cập internet, tuy còn cao hơn so với

mặt bằng khu vực nhưng đã có những cải thiện đáng kể và không còn là "nỗi ám

ảnh" đối với người tiêu dùng; Về nhân lực chuyên môn: Nếu như ngành CNTT nói

chung của nước ta đang đứng trước nguy cơ về sự khủng hoảng nguồn nhân lực,

thì trong lĩnh vực TMÐT bắt đầu hé mở những tín hiệu đáng mừng vì doanh

nghiệp ngày càng đánh giá cao ứng dụng CNTT trong việc nâng cao năng suất lao

động và mở rộng thị trường. Số đơn vị kinh doanh có cán bộ chuyên trách về

CNTT tăng nhanh. Một số trường đại học kinh tế - thương mại trong nước đã tiến

hành giảng dạy về TMÐT như một phần chương trình đào tạo các kỹ sư kinh tế.

Bên cạnh đó, có nhiều sinh viên Việt Nam chọn chuyên ngành TMÐT ở các

trường đại học nước ngoài. Trong vài năm tới, đây sẽ là lực lượng quan trọng hỗ

trợ doanh nghiệp khi tham gia các hoạt động TMÐT; Ðối với kiến thức TMÐT về

phương diện kinh doanh, chiến lược và nhận thức của nhà đầu tư: Ðây vẫn có thể

coi là một bài toán nhiều ẩn số đối với những người đã và đang chuẩn bị quan tâm

tới TMÐT và cơ hội phát triển của nó. Ðây được coi là một trong những yếu tố

cần quan tâm hàng đầu cho kế hoạch phát triển TMÐT của Việt Nam.

Ðối với cộng đồng cũng vậy, số lượng người truy cập internet ngày càng tăng cao

và đã có những dấu hiệu tích cực về nhận thức của việc sử dụng dịch vụ internet,

tuy nhiên cũng còn rất hạn chế so với kỳ vọng vì đó là yếu tố quan trọng tạo nên

nền TMÐT phát triển; Vai trò lãnh đạo của Nhà nước và các yếu tố pháp lý: Ðây

phải được coi là yếu tố hàng đầu cho sự phát triển TMÐT. Tuy nhiên hiện nay ẩn

số này vẫn chưa thể giải đáp bởi trong khi hạ tầng viễn thông và internet trong

nước tiến vượt bậc, môi trường pháp lý vẫn không thay đổi.

Trong khi khối doanh nghiệp năng động với thời cuộc và công nghệ thì với các cơ

quan chuyên trách vẫn tỏ ra chậm chạp trong việc tạo lập môi trường pháp lý

thuận lợi để TMÐT phát triển. Luật Giao dịch điện tử chính thức có hiệu lực sau

hai năm soạn thảo. Tốc độ ra đời của một bộ luật như vậy phần nào nói lên nhu

cầu của thực tiễn. Tuy nhiên, hiện chưa có bất kỳ văn bản hướng dẫn nào được

thông qua để luật đi vào cuộc sống