
vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
116
KHẢO SÁT VIỆC SỬ DỤNG KHÁNG SINH TRONG ĐIỀU TRỊ
NHIỄM TRÙNG CHÂN DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG
TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT TP. HỒ CHÍ MINH
Bùi Thị Hương Quỳnh1,2, Tu Do Khánh Khiêm1
TÓM TẮT32
Mục tiêu: Khảo sát việc sử dụng kháng sinh trong
điều trị nhiễm trùng bàn chân do đái tháo đường tại
bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh. Đối
tượng - Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt
ngang mô tả được thực hiện trên hồ sơ bệnh án của
bệnh nhân đái tháo đường bị nhiễm trùng bàn chân
được điều trị nội trú tại Bệnh viện Thống Nhất, Thành
phố Hồ Chí Minh từ ngày 1/1/2017 đến 1/3/2019. Kết
quả: Có 118 bệnh nhân được chọn vào nghiên cứu,
trong đó có 45,8% bệnh nhân nhiễm trùng mức độ
nhẹ, 39,8% trường hợp trung bình và 14,4% trường
hợp nhiễm trùng nặng. Độ tuổi trung bình là 64,92 ±
12,91 tuổi và thường mắc phải 2 bệnh kèm, bệnh kèm
thường gặp nhất là tăng huyết áp với tỷ lệ là 67%.
Tính hợp lý trong sử dụng kháng sinh trong điều trị
nhiễm trùng chân do đái tháo đường dựa theo hướng
dẫn sử dụng kháng sinh của Bộ Y tế 2015 hoặc
khuyến cáo điều trị nhiễm trùng bàn chân do đái tháo
đường của Hiệp hội bệnh truyền nhiễm hoa kỳ (IDSA)
2012, được đánh giá trên các tiêu chí về chỉ định, liều
dùng, đường dùng hay thay đổi kháng sinh thích hợp
sau khi có kết quả kháng sinh đồ vẫn còn chưa cao ở
mọi mức độ nhiễm trùng. Kết luận: Cần tuân thủ tốt
hơn nữa khuyến cáo điều trị nhiễm trùng bàn chân do
đái tháo đường và cần thiết phải xây dựng phác đồ
điều trị riêng phù hợp với tình hình bệnh tật và đề
kháng kháng sinh tại bệnh viện.
Từ khoá:
Kháng sinh kinh nghiệm, nhiễm trùng
bàn chân, đái tháo đường
SUMMARY
INVESTIGATION OF EMPIRICAL ANTIBIOTIC
THERAPY ON TREATMENT OF DIABETIC FOOT
INFECTIONS IN THONG NHAT HOSPITAL
Objectives: The aim of this study was to evaluate
the empirical antibiotic use for treatment of diabetic
foot infections. Methods: We conducted a cross-
sectional study in patients with diabetic foot infections
who were treated in Thong Nhat hospital, Ho Chi Minh
City from January 1st, 2017 to March 1st, 2019.
Results: One hundred and eighteen patients was
included in this study. The rate of patients with mild,
moderate and severe infection were 45.8%, 39.8%,
14.4%, respectively. The mean age of patients was
64.92 ± 12.91 years. Most of the patients had at least
1Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh;
2Bệnh viện Thống Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh
Chịu trách nhiệm chính: Bùi Thị Hương Quỳnh
Email: bthquynh@ump.edu.vn
Ngày nhận bài: 23.3.2019
Ngày phản biện khoa học: 3.5.2019
Ngày duyệt bài: 8.5.2019
two comorbidities, of those hypertension was the most
common one (67%). The rate of appropriate antibiotic
use for treatment of diabetic foot infections based on
Antibiotic treatment Guideline of Ministry of Health
2015, or Infectious Diseases Society of America 2012,
regarding to indications, dosages, route of
administration, and antibiotic changing follow by
susceptibility results was not high in all infection
severity. Conclusions: It is necessary to adhere exist
practice guidelines and develope the standard treatment
guideline of hospital for treatment of diabetic foot
infections based on the local bacterial antibiogram.
Key words:
empirical antibiotic, diabetic foot
infections, diabetic mellitus.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng chân là biến chứng thường gặp
ở bệnh nhân đái tháo đường, hầu hết nhiễm
trùng này đều có thể được chữa lành và không
ảnh hưởng nhiều đến chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân nếu có kế hoạch điều trị phù hợp.
Tuy nhiên, trên thực tế có rất nhiều bệnh nhân
phải chịu cảnh cắt cụt hoặc đoạn chi do cách tiếp
cận chuẩn đoán và kế hoạch điều trị không hợp
lý [4]. Các vết thương nhiễm trùng nên được
đánh giá dựa trên tình trạng viêm nhiễm, dịch
mủ và nên được phân loại dựa trên mức độ
nhiễm trùng. Từ đó, bác sĩ có thể đưa ra kế
hoạch điều trị hợp lý. Trong đó, việc điều trị
bằng kháng sinh đóng một vai trò chủ đạo trong
việc quyết định hiệu quả điều trị. Ngay từ khâu
lựa chọn kháng sinh điều trị ban đầu theo kinh
nghiệm phải dựa trên dữ liệu về dịch tễ học có
sẵn, và đặc biệt là phải sử dụng kháng sinh điều
trị dứt điểm dựa trên kết quả kháng sinh đồ.
Tại bệnh viện Thống Nhất, TP. Hồ Chí Minh
chưa có nghiên cứu khảo sát đầy đủ việc lựa
chọn kháng sinh trong điều trị nhiễm trùng bàn
chân do đái tháo đường. Do đó mục tiêu của
nghiên cứu này là khảo sát tình hình sử dụng
kháng sinh thực tế tại bệnh viện, từ đó so sánh
với các khuyến cáo sẵn có trên thế giới nhằm
đánh giá tính hợp lý và góp phần vào việc xây
dựng phác đồ chuẩn tại bệnh viện về điều trị
nhiễm trùng chân do đái tháo đường.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang
mô tả
Tiêu chuẩn chọn mẫu
- Bệnh nhân đủ 18 tuổi trở lên

TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 478 - th¸ng 5 - sè 2 - 2019
117
- Có chẩn đoán đái tháo đường
- Có chẩn đoán viêm nhiễm từ 1/3 cẳng chân
dưới trở xuống
- Thời gian nhập viện từ 1/1/2017 đến tháng
1/3/2019
Tiêu chuẩn loại trừ
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Bệnh nhân xin ra viện, chuyển viện hoặc mất
theo dõi để đánh giá được cải thiện lâm sàng.
Cỡ mẫu: Tất cả các bệnh nhân thoả mãn tiêu
chuẩn chọn mẫu và không có tiêu chuẩn loại trừ
trong thời gian nghiên cứu.
Các bước tiến hành
Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được
trích xuất hồ sơ bệnh án và thu thập thông tin
vào phiếu khảo sát. Nội dung thu thập thông tin
bao gồm thông tin cá nhân của người bệnh như
tuổi, giới, chiều cao, cân nặng, các bệnh mắc
kèm; các dấu hiệu nhiễm trùng và phân loại mức
độ nhiễm trùng theo hướng dẫn điều trị của
2012 Infectious Disease Society of America
Clinical Practice Guideline for the Diagnosis and
Treatment of Diabetic Foot Infections (IDSA
2012) [4]; thông tin về quá trình điều trị bằng
kháng sinh của bệnh nhân về loại, cách phối hợp,
liều lượng, tần suất sử dụng, đường sử dụng, thời
gian sử dụng kháng sinh và các thay đổi kháng
sinh trong quá trình điều trị; đáp ứng lâm sàng sau
của bệnh nhân sau quá trình điều trị.
Hiệu quả của sử dụng kháng sinh trong điều
trị nhiễm trùng chân do đái tháo đường được
đánh giá bằng cách so sánh giữa các thông tin
thập được về quá trình điều trị bằng kháng sinh
với IDSA 2012 và các tiêu chí sau:
- Tính hợp lý của việc sử dụng kháng sinh
kinh nghiệm được xét nếu hợp lý theo 1 trong 2
tài liệu là hướng dẫn sử dụng kháng sinh của Bộ
y tế năm 2015 và theo IDSA năm 2012 về loại
kháng sinh, liều lượng, tần suất và đường dùng
theo mức độ nhiễm trùng (bảng 1).
- Tính hợp lý về sử dụng kháng sinh sau khi
có kết quả kháng sinh đồ.
- So sánh về số ngày điều trị kháng sinh theo
mức độ nhiễm trùng (bảng 1).
Bảng 1. Phân loại mức độ nhiễm trùng theo IDSA 2012 [4]
Biểu hiện lâm sàng của nhiễm trùng
Mức độ
Không có dấu hiệu hay triệu chứng nhiễm của nhiễm trùng
Không nhiễm trùng
Xác định có sự xuất hiện của nhiễm trùng khi có từ 2 triệu chứng sau trở lên:
• Ban đỏ
• Sưng hay chai cứng cục bộ
• Tăng nhạy cảm hay đau cục bộ
• Cảm giác nóng ấm cục bộ
• Có dịch mủ
Nhiễm trùng cục bộ chỉ gồm da và mô dưới da: nếu ban đỏ xuất hiện thì
kích thước trong khoảng 0,5 - 2 cm xung quanh vết loét; và phải loại trừ các
nguyên nhân đáp ứng viêm khác của da
Nhẹ
Nhiễm trùng cục bộ như mô tả ở trên, với ban đỏ lớn hơn 2cm hay tổn thương các
cấu trúc sâu hơn da và mô dưới da, không có hội chứng đáp ứng viêm toàn thân.
Trung bình
Nhiễm trùng cục bộ như mô tả ở trên, có dấu hiệu của đáp ứng viêm toàn
thân, được xác định khi có từ 2 biểu hiện sau:
• Thân nhiệt < 360C hay > 380C
• Nhịp tim > 90 nhịp/phút
• Nhịp thở > 20 nhịp/phút hay PaCO2 < 32 mmHg
• Lượng bạch cầu < 4000 tế bào/μL hay >12000 tế bào/μL
Nặng
Phân tích số liệu: Phần mềm thống kê sử
dụng: RStudio -1.1.463. Sự khác biệt được xem
là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm nền của bệnh nhân của
nhóm nghiên cứu. Có tổng số 118 hồ sơ bệnh
án của bệnh nhân được lựa chọn vào nghiên
cứu. Độ tuổi trung bình của toàn mẫu nghiên
cứu là 64,92 ± 12,91 tuổi, chủ yếu là bệnh nhân
từ 50 tuổi trở lên, có 54,2% bệnh nhân nữ.
Trung bình mỗi bệnh nhân bị nhiễm trùng chân
đều mắc thêm gần 2 bệnh kèm trên nền đái tháo
đường (1,81 ± 1,17 bệnh). Trong đó, phổ biến
nhất chính là tăng huyết áp với 67% trường hợp
của mẫu nghiên cứu.
Theo kết quả thống kê, có gần 24% bệnh
nhân được điều trị trước nhập viện như tự chăm
sóc vết thương, tự mua thuốc ở nhà thuốc, dùng
thuốc nam hay đến điều trị tại các cơ sở y tế ở
tuyến dưới; có 18,6% số bệnh nhân trong
nghiên cứu không điều trị trước nhập viện mà
đến thẳng bệnh viện để điều trị. Thông thường

vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
118
mỗi bệnh nhân thường xuất hiện trên 3 dấu hiệu
nhiễm trùng với tỷ lệ là 83,9%. Hai vị trí nhiễm
trùng phổ biến nhất lần lượt là phần bàn chân
(44,1%) và ngón chân (33,2%). Tình trạng của
vết thương lúc nhập viện chủ yếu là đã bị nhiễm
trùng (53,4%), tuy nhiên trường hợp vết thương
bị hoại tử cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ (18,6%).
Số bệnh nhân có xuất hiện tình trạng viêm
xương là 9,3%. Mức độ nhiễm trùng chủ yếu là
Nhẹ (45,8%). Chỉ có xấp xỉ 30% bệnh nhân
trong nghiên cứu được chỉ định nuôi cấy vi sinh.
Các đặc điểm nền của bệnh nhân được trình bày
trong bảng 2.
Bảng 2. Tóm tắt các đặc điểm nền của 2 nhóm bệnh nhân
Đặc điểm
Kết quả thống kê mô tả
Tuổi, năm
64,92 ± 12,91
Giới tính
Nam
54 (45,8%)
Nữ
64 (54,2%)
BMI, kg/m2
21,08 ± 7,23
Bệnh kèm
Số bệnh kèm
1,81 ± 1,17
Tăng huyết áp
79 (67%)
Suy tĩnh mạch chi sâu
43 (36,4%)
Thiếu máu cơ tim
21 (17,8%)
Suy thận mạn
12 (10,2%)
Rối loạn lipid huyết
11 (9,3%)
Điều trị trước nhập viện
Có
28 (23,7%)
Không
22 (18,6%)
Không có thông tin
68 (57,7%)
Dấu hiệu nhiễm trùng
Hai dấu hiệu
17 (14,4%)
Ba dấu hiệu
39 (33,1%)
Bốn dấu hiệu
32 (27,1%)
Năm dấu hiệu
28 (23,7%)
Vị trí
Ngón chân
39 (33,2%)
Bàn chân
52 (44,1%)
Gót chân
7 (5,6%)
Mu bàn chân
6 (5,1%)
Vị trí khác
14 (12%)
Tình trạng
Viêm loét
33 (28,0%)
Nhiễm trùng
63 (53,4%)
Hoại tử
22 (18,6%)
Viêm xương
Có viêm xương
11 (9,3%)
Không viêm xương
107 (90,7%)
Mức độ nhiễm trùng
Nhẹ
54 (45,8%)
Trung bình
47 (39,8%)
Nặng
17 (14,4%)
Nuôi cấy kháng sinh đồ
Có
35 (29,7%)
Không
83 (70,3%)
Khảo sát việc s dụng kháng sinh: Có tổng cộng 25 loại kháng sinh được sử dụng trong
nghiên cứu, trong đó kháng sinh có tần suất sử dụng nhiều nhất là moxifloxacin ở 67,8% số bệnh
nhân. Kết quả thống kê các loại kháng sinh, liều lượng và đường sử dụng được trình bày ở bảng 3.
Bảng 3. Kháng sinh và liều lượng kháng sinh được s dụng (n = 118)
Kháng sinh
Liều dùng và đường dùng
Tần suất (tỷ lệ %)
Amoxicillin/acid clavulanic
1g x 2 uống
19 (16,1%)
Cefoxitin
1g x 1 tĩnh mạch chậm
1 (0,8%)
29 (24,6%)
1g x 2 tĩnh mạch chậm
8 (6,8%)
2g x 2 tĩnh mạch chậm
23 (19,5%)
Fosfomycin
1g x 1 truyền tĩnh mạch
1 (0,8%)
28 (23,7%)
1g x 2 tĩnh mạch chậm
20 (16,9%)
2g x 2 tĩnh mạch chậm
1 (0,8%)
4g x 2 truyền tĩnh mạch
2 (1,6%)

TẠP CHÍ Y häc viÖt nam tẬP 478 - th¸ng 5 - sè 2 - 2019
119
4g x 3 truyền tĩnh mạch
5 (4,2%)
Imipenem/ cilastatin
0,5g x 2 truyền tĩnh mạch
2 (1,6%)
12 (10,2%)
0,5g x 3 truyền tĩnh mạch
9 (7,6%)
0,5g x 4 truyền tĩnh mạch
1 (0,8%)
Levofloxacin
0,5g x 1 uống
7 (5,9%)
27 (22,9%)
0,5g x 2 uống
4 (3,4%)
0,75g x 2 uống
1 (0,8%)
0,5g x 1 truyền tĩnh mạch
1 (0,8%)
0,75g x 1 truyền tĩnh mạch
18 (15,3%)
Moxifloxacin
0,4g x 1 truyền tĩnh mạch
80 (67,8%)
80 (67,8%)
0,4g x 1 uống
1 (0,8%)
Teicoplanin
0,2g x 1 truyền tĩnh mạch
8 (6,8%)
34 (28,8%)
0,2g x 2 truyền tĩnh mạch
4 (3,4%)
0,4g x 1 truyền tĩnh mạch
28 (23,7%)
0,4g x 2 truyền tĩnh mạch
5 (4,2%)
Trung bình số ngày sử dụng kháng sinh là 20,81 ± 12,22 ngày. Kết quả các đặc điểm sử dụng
kháng sinh theo mức độ được trình bày ở bảng 4. Kết quả về tính hợp lý của sử dụng kháng sinh theo
các tiêu chí được trình bày ở bảng 5
Bảng 4. Đặc điểm về s dụng kháng sinh
Đặc điểm
Nhẹ
Trung bình
Nặng
Giá trị p
Trung bình số lượng kháng sinh sử dụng
1,56 ± 0,50
1,74 ± 0,49
1,82 ± 0,39
0,059
Tổng số ngày sử dụng kháng sinh
14,67 ± 6,65
25,72 ± 13,02
26,71 ± 14,93
<0,001
Số lần đổi kháng sinh
1,33 ± 0,93
1,79 ± 1,16
2,53 ± 1,55
<0,001
Bảng 5. Tỷ lệ hợp lý về s dụng kháng sinh dựa trên mức độ nhiễm trùng
Mức độ
Hợp l
Chưa hợp l
Giá trị p
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
Chỉ định: Nhẹ
18
33,3%
36
66,7%
0,072
Trung bình
19
40,4%
28
59,6%
Nặng
11
64,7%
6
35,3%
Liều dùng: Nhẹ
45
83,3%
9
16,7%
0,511
Trung bình
38
80,9%
9
19,1%
Nặng
12
70,6%
5
29,4%
Đường dùng: Nhẹ
13
24,1%
41
75,9%
<0,001
Trung bình
47
100%
0
0%
Nặng
15
88,2%
2
11,8%
Thay đổi kháng sinh theo kháng sinh đồ
Nhẹ
7
50%
7
50%
0,510
Trung bình
5
38,5%
8
61,5%
Nặng
2
25%
6
75%
IV. BÀN LUẬN
Đặc điểm nền của bệnh nhân của nghiên
cứu. Độ tuổi trung bình của bệnh nhân trong
nghiên cứu của chúng tôi là 64,92 ± 12,91 tuổi.
Kết quả này tương tự với nghiên cứu của
Demetriou M và cộng sự [1] (trung bình 66,4 ±
11,2 tuổi), nghiên cứu của Katz DE và cộng sự
[3] (trung bình 67 ± 13 tuổi). Điều này có thể
được giải thích do bệnh chủ yếu là người cao
tuổi, hệ miễn dịch lúc này ít nhiều bị suy giảm
chức năng, bệnh nhân khó có thể tự chăm sóc
tốt bàn chân và kiểm soát tốt đường huyết, tạo
điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển nên
dễ dẫn đến tình trạng nhiễm trùng chân. Tỷ lệ
bệnh nhân nữ và nam xấp xỉ 1:1 trong nghiên
cứu. Trung bình mỗi bệnh nhân trong nghiên cứu
của chúng tôi mắc 2 bệnh kèm. Trong đó, tăng
huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất (67%) cùng với
bệnh nền là đái tháo tháo đường thì có thể dẫn
đến nguy cơ làm tăng khả năng mắc phải các
biến chứng trên mạch máu, tưới máu kém làm
giảm khả năng hoạt động miễn dịch của bạch
cầu, từ đó làm tình trạng nhiễm trùng xấu đi. Có
23,7% bệnh nhân có điều trị trước khi nhập viện
(tự chăm sóc vết thương, đắp thuốc nam, mua
thuốc ở nhà thuốc hay đã điều trị ở trung tâm y
tế địa phương) tuy nhiên tình trạng nhiễm trùng
có thể không đỡ hoặc xấu đi nếu không có một
biện pháp can thiệp và điều trị hợp lý. Bàn chân
và ngón chân là hai vị trí có tỷ lệ nhiễm trùng

vietnam medical journal n02 - MAY - 2019
120
cao trong nghiên cứu. Bàn chân chính là phần
chịu lực của cơ thể và tiếp xúc trực tiếp với các
bề mặt nên có nguy cơ va đập cao và gây chấn
thương. Nếu vết thương chân được can thiệp
sớm ngay từ lúc xuất hiện tình trạng viêm loét
thì phương pháp điều trị sẽ đơn giản hơn, thời
gian điều trị sẽ ngắn hơn tuy nhiên trong nghiên
cứu ta thấy chỉ có 12% trên tổng số bệnh nhân ở
tình trạng này đến cơ sở y tế. Hầu hết bệnh
nhân chỉ nhập viện khi tình trạng đã xấu đi
(nhiễm trùng, hoại tử), cho thấy bệnh nhân còn
chưa được trang bị đầy đủ kiến thức về chăm
sóc bàn chân đái tháo đường. Theo khuyến cáo
của IDSA 2012 [4], kháng sinh kinh nghiệm chỉ
là lựa chọn điều trị ban đầu, sau đó phải dựa
trên tình trạng lâm sàng và tuân theo kết quả
kháng sinh đồ để có lựa chọn kháng sinh điều trị
hợp lý. Với phổ hẹp trên đúng chủng vi khuẩn
gây bệnh nên thời gian điều trị sẽ nhanh hơn do
đáp ứng tốt hơn, tiết kiệm được chi phí do giảm
thời gian nằm viện và lượng thuốc được sử dụng.
Nhưng trong nghiên cứu của chúng tôi, chỉ có
30% trường hợp có chỉ định còn lại là điều trị
dựa trên kinh nghiệm cùng đáp ứng lâm sàng
đơn thuần, cho thấy tầm quan trọng của kháng
sinh đồ vẫn chưa được hiểu rõ.
Tổng số ngày điều trị bằng kháng sinh thấp
nhất ở trường hợp nhẹ (14,67 ± 6,65 ngày) phù
hợp với khuyến cáo IDSA 2012 với thời gian điều
trị kháng sinh từ 1-2 tuần. Mức độ trung bình và
nặng có số ngày sử dụng kháng sinh là xấp xỉ
nhau (25,72 ± 13,02 với 26,71 ± 14,93 ngày).
Trong khuyến cáo của IDSA 2012 về điều trị
nhiễm trùng chân do đái tháo đường, mức độ
trung bình nên điều trị từ 1-3 tuần, trong khi
nặng được khuyến cáo là 4-6 tuần [4]. Do đó, có
thể có vấn đề trong điều trị bằng kháng sinh ở
mức độ trung bình.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, tính hợp lý về
chỉ định đúng loại kháng sinh được sử dụng
trong điều trị nhiễm trùng chân theo từng mức
độ nhẹ, trung bình và nặng không thấy có sự
khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm (p
= 0,072). Chỉ định hợp lý của bác sĩ về loại
kháng sinh được sử dụng ở mức độ nhiễm trùng
nhẹ chỉ chiếm 33,3% trên tổng số trường hợp,
bệnh nhân thường được chỉ định kháng sinh
mạnh hơn yêu cầu. Bác sĩ thường sử dụng
những kháng sinh được IDSA khuyến cáo khi
nhiễm trùng mức độ trung bình để điều trị mức
độ nhiễm trùng nhẹ như moxifloxacin, cefoxitin,
piperacillin/ tazobactam hay ceftazidime. Trong
khi khuyến cáo IDSA gợi ý các kháng sinh ở
thang thấp hơn như amoxicillin/ clavulanate,
cephalexin, clindamycin,…[4]. Có thể việc chỉ
định kháng sinh mạnh vẫn đạt kết quản điều trị
thành công khi nhiễm trùng nhẹ, tuy nhiên cũng
cần cân nhắc mặt hại vì sẽ làm tăng tỷ lệ đề
kháng kháng sinh, đặc biệt là trong bối cảnh đề
kháng kháng sinh đang tăng cao ở bệnh viện
như hiện nay. Ở mức độ nhiễm trùng trung bình,
tỷ lệ chỉ định hợp lý ở mức 40,4%. Vấn đề chủ
yếu trong trường hợp này chính là về lựa chọn
phối hợp kháng sinh; phối hợp moxifloxacin với
một kháng sinh cephalosporine thế hệ 2
(cefoxitin) để phủ phổ kép lên các vi khuẩn kị khí
là không cần thiết theo nghiên cứu của Young
Joo Song và cộng sự [5]; và việc kết hợp kháng
sinh nhóm quinolone (levofloxacin, ciprofloxacin,
moxifloxacin) cùng với cephalosporine thế hệ 3
(ceftriaxone, ceftizoxime, cefmetazole, cefpirom)
phủ kép lên vi khuẩn Gram âm đã được khuyến
cáo là không nên sử dụng làm kháng sinh điều
trị kinh nghiệm trong nghiên cứu của Johnson SJ
và cộng sự [2] và nghiên cứu của viện Fletcher
Allen [6]. Ở mức độ nặng tỷ lệ chỉ định khá cao
(64,7%). Theo với IDSA 2012, fosfomycin không
được khuyến cáo sử dụng nhưng trong tất cả các
trường hợp trong khi nghiên cứu của chúng tôi
thì kháng sinh này lại được sử dụng với một tần
suất khá cao (23,7%).
Về liều lượng kháng sinh, kết quả cho thấy ở
mọi mức độ nhiễm trùng, tính hợp lý là khá cao.
Theo thứ tự hợp lý tăng dần như sau: nặng
(70,6%), trung bình (80,9%), nhẹ (83,3%). Mức
độ nặng được sử dụng liều kháng sinh có tỷ lệ
hợp lý thấp hơn chủ yếu là do thiếu liều ở các
kháng sinh nhóm β-lactam. Do đây là nhóm
kháng sinh phụ thuộc vào nồng độ nên nếu
không đủ liều khuyến cáo sẽ có thể ảnh hưởng
đến hiệu quả điều trị.
Đường dùng kháng sinh có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa ba mức độ nhiễm trùng (p <
0,001). Mức độ nhiễm trùng nhẹ có tỷ lệ hợp lý về
đường dùng kháng sinh chỉ là 24,1% trong khi ở
mức độ trung bình và nặng lần lượt là 100% và
88,2%. Khi bệnh nhân, bác sĩ thường kê luôn
kháng sinh đường tiêm truyền, trong khi theo
khuyến cáo IDSA2012 [3], đường sử dụng nên là
đường uống trừ một số trường hợp đặc biệt.
Chỉ có 29,7% bệnh nhân trong nghiên cứu
được chỉ định làm kháng sinh đồ, trong đó tỷ lệ
thay đổi kháng sinh điều trị kinh nghiệm sang
kháng sinh phù hợp theo kết quả kháng sinh đồ
khi không có đáp ứng lâm sàng vẫn khá thấp.
Mức độ nhiễm trùng càng nghiêm trọng bác sĩ
càng ít cân nhắc đổi thuốc theo kháng sinh đồ.
Kháng sinh đồ là một trong những công cụ hết