GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Luận văn

Khảo sát vấn đề việc làm của người dân ở khu vực 9,

Phường Đống Đa, Thành phố Quy Nhơn

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 4

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

PHẦN DẪN NHẬP

1. Lý do chọn đề tài

Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế xã hội mang tính

toàn cầu, là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay quan niệm

về phát triển được hiểu đầy đủ là tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ, công

bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo, giảm tỉ lệ thất nghiệp... trong đó thất nghiệp và

thiếu việc làm là bước cản lớn đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy tạo

việc làm cho người lao động đang là vấn đề hết sức nóng bỏng và cấp thiết.

Không chỉ là tạo điều kiện, cơ hội việc làm cho người lao động, phát huy hết

tiềm lực của đất nước mà còn góp phần vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo có

hiệu quả, là cơ sở để cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống nhân dân, góp

phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị và trật tự xã hội, tạo động lực mạnh

mẽ thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong những năm vừa qua, tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội ở tỉnh Bình

Định khá phát triển, bộ mặt của tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực như: các khu

kinh tế - khu công nghiệp mới dần hình thành và đi vào hoạt động có hiệu quả,

các khu công nghiệp cũ hoạt động mạnh hơn cả về quy mô lẫn chất lượng, cơ sở

hạ tầng phát triển mạnh, các dịch vụ xã hội ngày càng được quan tâm... Bên

cạnh đó thành phố Quy Nhơn – trung tâm kinh tế - văn hóa - chính trị - xã hội

của tỉnh đã có sự phát triển một cách vượt bậc và đã được công nhận là đô thị

loại I, đời sống nhân dân được nâng cao, tỉ lệ nghèo đô thị giảm. Trong công

cuộc đổi mới, hơn 10 năm qua, kinh tế - xã hội của thành phố Quy Nhơn đã có

những chuyển biến tích cực. Giá trị tổng sản phẩm xã hội năm 2002 ước đạt

1.600 tỷ đồng, tốc độ phát triển bình quân trên 12,5% năm. Cơ cấu kinh tế

chuyển dịch theo hướng tích cực. Hiện nay, tỷ trọng ngành công nghiệp là

34,4%, ngành thương mại dịch vụ là 52,5% và ngành nông nghiệp là 13,1%

[7;67]. Đặc biệt việc xây dựng khu kinh tế Nhơn Hội có ảnh hưởng rất lớn đối

với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bình Định nói chung và thành phố Quy

Nhơn nói riêng. Nhờ đó phường Đống Đa - một địa bàn nằm ngay sát cạnh khu

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 5

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

kinh tế Nhơn Hội đã và đang có những bước chuyển biến tích cực về tình hình

kinh tế - văn hóa – xã hội. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó thì một bộ

phận không nhỏ người dân đang rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn vì việc

thực hiện kế hoạch quy hoạch đất đai trên địa bàn phường chưa được đồng bộ và

toàn diện.

Ở khu vực 9, phường Đống Đa tình hình đời sống dân cư trước đây vẫn

vốn gắn bó với hoạt động sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên hiện nay phường

Đống Đa đang là khu vực nằm trong quá trình đô thị hóa, sự chuyển đổi đất

nông nghiệp sang đất đô thị diễn ra mạnh và đã tác động không nhỏ đến tình

hình đời sống người dân. Thường thì khi nói đến đô thị người ta thường nghĩ

ngay đến mặt lợi nhiều hơn là mặt hại, trước tiên các đô thị sẽ cung cấp nhiều cơ

hội việc làm, lương bổng, dịch vụ xã hội, năng suất lao động cao hơn; nó góp

phần chuyển hướng phát triển kinh tế và là động lực dịch chuyển cơ cấu kinh tế

ở cả khu vực đô thị và nông thôn. Nhưng bên cạnh đó mặt trái của quá trình đô

thị hóa cũng được bộc lộ rất rõ, một trong số đó là quá trình chuyển đổi đất nông

nghiệp ảnh hưởng trực tiếp tới người nông dân mất đất. Người dân ở khu vực 9,

phường Đống Đa vốn gắn bó đời đời với diêm nghiệp (nghề muối) và các hoạt

động nuôi trồng thủy sản nay đã bị mất đất sản xuất mà công tác đào tạo nghề,

hỗ trợ tạo công ăn việc làm cho người dân sau khi quy hoạch đất đai chưa được

thực hiện hiệu quả, đồng nghĩa với việc một số lượng lớn người lao động rơi vào

tình trạng thất nghiệp kéo theo nó là một loạt các hệ quả khác nữa.

Thành phố Quy Nhơn đang ngày càng phát triển, nhưng vấn đề việc làm

của phần lớn người dân chịu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa vẫn chưa được

giải quyết, trong đó tình hình thất nghiệp, thiếu việc làm ổn định của người dân

ở khu vực 9, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn đã và đang là vấn đề trăn

trở của các cấp chính quyền và nhân dân. Từ những lý do trên tôi chọn đề tài

“Khảo sát vấn đề việc làm của người dân ở khu vực 9, Phường Đống Đa,

Thành phố Quy Nhơn” để tiến hành nghiên cứu khoa học nhằm có sự đánh giá

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 6

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

đúng đắn về thực trạng và đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề việc

làm cho người dân ở khu vực này.

2. Tổng quan về tình hình nghiên cứu

Việc làm cho người lao động là một vấn đề luôn thu hút được sự quan tâm

của nhiều nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khác nhau. Đã có nhiều đề tài

nghiên cứu các cấp về vấn đề việc làm trên được tiến hành trên phạm vi cả nước

trong đó có địa bàn tỉnh Bình Định. Trong đó các đề tài nghiên cứu về thực

trạng việc làm của người dân sau tái định cư, việc làm của người dân chịu ảnh

hưởng trực tiếp của quá trình đô thi hóa, việc làm của người lao động ở nông

thôn, việc làm của lao động nữ ở nông thôn... được quan tâm nhiều. Có thể kể

đến một số để tài tiêu biểu như sau:

Đề tài nghiên cứu khoa học “ Tìm hiểu thực trạng việc làm của người dân

sau tái định cư ở phường Quang Trung, thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định”,

năm 2009,của sinh viên Nguyễn Đình Ngọc lớp CTXH_K28 trường Đại học

Quy Nhơn, đề tài này đã đi sâu nhiên cứu những thực trạng, khó khăn, nguyên

nhân đồng thời cũng đề ra nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề việc làm cho

người dân.

Đề tài khóa luận tốt nghiệp “Thực trạng việc làm và giải quyết việc làm

cho lao động nữ nông thôn ở xã Mỹ Hiệp, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định”, năm

2010, của sinh viên Võ Thị Thanh Tuyền lớp CTXH_K29 trường Đại học Quy

Nhơn. Đề tài đã chỉ ra thực trạng việc làm của người phụ nữ nông thôn và đưa ra

một số giải pháp hiệu quả nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người phụ nữ ở

nông thôn.

Các đề tài trên đã cung cấp những kiến thức về vấn đề việc làm của người

lao động sau tái định cư và phụ nữ nông thôn tỉnh Bình Định. Với các đề tài sẽ

cung cấp thêm những cơ sở lý luận, tạo tiền đề để tiến hành nghiên cứu thực

trạng vấn đề việc làm hiện nay trên địa bàn khu vực 9, phường Đống Đa, thành

phố Quy Nhơn. Đề tài “Khảo sát vấn đề việc làm của người dân ở khu vực 9,

Phường Đống Đa, Thành phố Quy Nhơn” sẽ góp phần xây dựng thêm cơ sở lý

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 7

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

luận cho công tác giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất trong quá

trình đô thị hóa, đặc biệt khi đối tượng vốn là người lao động sống ở vùng ven

thành phố.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục tiêu nghiên cứu

Khảo sát thực trạng việc làm của người dân ở khu vực 9, phường Đống

Đa, thành phố Quy Nhơn.

3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu

 Khảo sát việc làm của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho

quá trình đô thị hóa để thấy được các loại hình công việc, tính chất công việc

cũng như những khó khăn trong công việc mà người dân gặp phải.

 Đánh giá về nhu cầu việc làm của người dân của người dân bị thu hồi đất.

 Chỉ ra những cơ hội, tiềm năng của cộng đồng khu vực 9 trong việc giải

quyết việc làm cho người lao động bị thu hồi đất.

 Đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết vấn đề việc làm cho người dân

bị thu hồi đất nông nghiệp hiện nay.

4. Khách thể và phạm vi nghiên cứu

4.1 Đối tượng nghiên cứu

Vấn đề việc làm của người dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho

quá trình đô thị hóa của thành phố Quy Nhơn.

4.2 Khách thể nghiên cứu

Người dân ở khu vực 9, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn.

4.3 Phạm vi nghiên cứu

 Với yêu cầu của một đề tài nghiên cứu khoa học sinh viên, chúng tôi chỉ

tập trung vào việc làm rõ thực trạng việc làm của người lao động ở khu vực bị

tác động của quá trình đô thị hóa hiện nay.

 Phạm vi khảo sát được tiến hành trên địa bàn khu vực 9, phường Đống

Đa, thành phố Quy Nhơn.

 Thời gian thực hiện đề tài được hành từ tháng 11/2010 đến tháng 4/2011.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 8

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

5. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn

5.1 Ý nghĩa lý luận

 Góp phần xây dựng hệ thống kiến thức đầy đủ hơn về vấn đề việc làm và

giải quyết việc làm cho người dân bị ảnh hưởng bởi quá trình đô thị hóa.

 Làm tài liệu tham khảo cho những đề tài nghiên cứu sau này về vấn đề

việc làm.

5.2 Ý nghĩa thực tiễn

Giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho

quá trình đô thị hóa có ý nghĩa kinh tế - văn hóa - xã hội hết sức sâu sắc, nhất là

khi tỉnh Bình Định đang có sự phát triển mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực. Kết quả

nghiên cứu sẽ mô tả bức tranh chung rõ nhất về thực trạng việc làm cũng như

phần nào tình hình đời sống của người dân sau quy hoạch; chỉ ra những ảnh

hưởng tích cực và tiêu cực của các dự án phát triển khu dân cư mới đến vấn đề

việc làm của người dân, qua đó đề ra một số giải pháp mang tính định hướng

nhằm giải quyết việc làm cho người dân, giúp cộng đồng phát huy hết những

tiềm năng, thế mạnh của mình để hội nhập cùng sự phát triển của tỉnh nhà nói

riêng và đất nước nói chung.

6. Phương pháp nghiên cứu

 Phương pháp thu thập và phân tích những tài liệu, luận văn về vấn đề việc

làm; các báo cáo, tổng kết của phường Đống Đa liên quan đến vấn đề việc làm.

 Phương pháp điều tra bằng bảng anket: có 90 bảng anket đã được phát ra

tại cộng đồng dân cư khu vực 9, phường Đống Đa.

 Phương pháp phỏng vấn sâu: có 25 cuộc phỏng vấn sâu.

 Phương pháp quan sát: quan sát toàn cảnh khu vực 9; quan sát nhà cửa,

vật dụng trong gia đinh của người dân; quan sát những biểu hiện, thái độ

7. Giả thiết khoa học

 Người dân khu vực 9 phường Đống Đa thành phố QN đang thực sự gặp

khó khăn trong vấn đề việc làm sau khi bị thu hồi đất, phần lớn người dân không

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 9

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

có việc làm ổn định, hay làm những công việc không phù hợp, chỉ mang tính

tạm thời, bấp bênh và thu nhập thấp.

 Người dân khu vực bị ảnh hưởng bởi quy hoạch dân cư có nhu cầu rất lớn

về việc làm ổn định, phù hợp để sớm ổn định cuộc sống, trong đó nhu cầu về

việc đào tạo nghề và hỗ trợ cho vay vốn là quan trọng.

 Người dân khu vực 9 đang gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề việc

làm của mình vì trình độ văn hóa thấp.

 Cộng đồng khu vực 9 có nhiều tiềm năng để có thể giải quyết vấn đề việc

làm cho người dân như: mở các lớp vừa đào tạo nghề vừa xản xuất các mặt hàng

thủ công nghiệp thu hút được sự tham gia rất lớn của người dân, với việc xây

dựng khu đô thị mới trong khu vực này với các ngành nghề dịch vụ và công

nghiệp phát triển thì việc đào tạo tay nghề cho lớp trẻ sẽ đáp ứng được nhu cầu

về nguồn lao động rất lớn trong tương lai rất gần.

 Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng bởi quy

hoạch cần có những giải pháp mang tính khả thi, sự tham gia, phối hợp đồng bộ

giữa các cấp ngành trong tỉnh, các tổ chức nhận trách nhiệm xây dựng các công

trình đầu tư trên địa bàn khu vực và bản thân cộng đồng.

8. Cấu trúc đề tài

Đề tài được cấu trúc thành ba phần: phần dẫn nhập, phần nội dung và

phần kết luận. Trong đó phần nội dung bao gồm 3 chương:

 Chương 1: Cơ sở lý luận

 Chương 2: Thực trạng việc làm của người dân khu vực 9, phường Đống

Đa, thành phố Quy Nhơn.

 Chương 3: Một số giải pháp giải quyết vấn đề việc làm cho người dân khu

vực 9, phường Đống Đa, Thành phố Quy Nhơn.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 10

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1 Vai trò của việc làm và giải quyết việc làm đối với người dân bị thu hồi

đất phục vụ cho quá trình đô thị hóa

Vai trò của việc giải quyết vấn đề việc làm đối với người dân bị thu hồi

đất sản xuất nông nghiệp để phục vụ cho quá trình đô thị hóa là vô cùng lớn,

được xem là vấn đề nền tảng, mấu chốt để cải thiện và nâng cao đời sống cho

người dân một cách toàn diện.

Quá trình đô thị hóa đòi hỏi phải có sự thay đổi về cơ cấu ngành nghề

trên khu vực đó sao cho phù hợp với các tiêu chuẩn của đô thị, đồng nghĩa

với việc một diện tích lớn hoặc toàn bộ đất nông nghiệp sẽ bị quy hoạch,

chuyển đổi mục đích sử dụng. Trong khi đó cộng đồng dân cư tại khu vực này

lại gắn bó với đất nông nghiệp, và đó là công cụ lao động chủ yếu của họ. Vì

vậy, song song với việc quy hoạch đất đai thì công tác đào tạo việc làm mới

phù hợp để đảm bảo đời sống cho người dân là vấn đề vô cùng cấp thiết, cần

được thực hiện ngay từ đầu.

Nếu công tác này được tiến hành một cách kịp thời, đồng bộ và toàn

diện thì vấn đề công ăn việc làm cho người dân có đất đai sản xuất bị quy

hoạch sẽ đạt được hiệu quả cao nhất, giảm thiểu tới mức thấp nhất tỉ lệ người

thất nghiệp trong cộng đồng, góp phần vào quá trình phát triển bền vững của

cộng đồng.

Mặt khác nếu người dân không có công ăn việc làm ổn định, mức thu

nhập phù hợp sẽ dẫn đến vấn đề thất nghiệp và kéo theo đó là vô vàn những

hệ lụy khôn lường như: gia tăng tệ nạn xã hội, làm mất lòng tin của nhân dân

vào chính quyền địa phương, giáo dục sút kém, trẻ em lao động sớm, ảnh

hưởng tiêu cực đến mục tiêu phát triển của đô thị...

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 11

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

1.2 Một số khái niệm

1.2.1 Việc làm

1.2.1.1 Khái niệm

Theo điều 13 của Bộ luật lao động của nước ta có đưa ra khái niệm: Mọi

hoạt động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là

việc làm.

Trong việc làm có 2 khái niệm:

Việc làm đầy đủ: Là hiện tượng người lao động có việc làm và được làm

việc liên tục.

Việc làm hợp lý: Là sự phù hợp về mặt số lượng và chất lượng của các

yếu tố con người và vật chất của sản xuất, là bước phát triển cao hơn của việc

làm đầy đủ. [1;67 ]

Theo ngành xã hội nhân chủng học: Việc làm không chỉ bao hàm cái gì

được làm, được làm như thế nào và ai làm, mà nó còn hàm ý việc làm đó được

đánh giá như thế nào và ai đánh giá. Vì thế, việc làm bao hàm ý nghĩa vật chất,

xã hội, văn hóa và tâm lý cá nhân:

 Việc làm bao hàm chất lượng của mối quan hệ xã hội giữa người này và

người kia hoặc nhóm người này với nhóm người kia về quyền kiểm soát, phân

phối sản phẩm và tài nguyên. Mối quan hệ này thể hiện ở việc giới hạn việc tiếp

cận tài nguyên và lợi nhuận (vốn, kỹ thuật, thông tin…) của người lao động;

việc đánh giá thấp những giá trị, những tài nguyên và lợi nhuận mà người lao

động có sẵn (lao động, thời gian, tay nghề).

 Việc làm bao hàm việc tạo ra sản phẩm vật chất và các hoạt động xã hội.

việc làm là sự thực hiện một nhiệm vụ sản xuất, quản lý, hoặc biến đổi các tài

nguyên cần thiết để phục vụ đời sống. Việc làm cần sự đóng góp của các yếu tố

tài nguyên như đất đai, lao động, vốn, thời gian, thông tin – kỹ thuật. Kết quả

của việc làm có thể là sản phẩm vật chất hoặc sản phẩm không vật chất. Giá

trị của việc làm không chỉ được đánh giá dựa vào giá trị kinh tế mà còn phải

xem xét về mặt giá trị xã hội và ý nghĩa đối với cá nhân đó.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 12

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Việc làm mang ý nghĩa tâm lý xã hội: Người lao động đồng hóa mình

với công việc đang làm thông qua địa vị xã hội đạt được, niềm tự trọng cá

nhân, uy tín trong cộng đồng, quyền hành được giao hoặc ý nghĩa cá nhân tự

gán cho việc làm. Ý nghĩa tâm lý xã hội này nhiều khi quan trọng cũng như

ý nghĩa kinh tế của việc làm. Hơn thế nữa, sự đồng hóa này còn biểu hiện

thông qua việc thừa nhận thái độ của người khác đối với việc làm của họ.

 Việc làm bao hàm những giá trị văn hóa – xã hội: Mỗi nền văn hóa có

một thang giá trị riêng. Vì vậy, chúng ta không chỉ cần biết hoạt động nào

được coi là “việc làm” và giá trị kinh tế của việc làm đó được tính ra sao,

mà còn phải hiểu việc làm ấy có ý nghĩa gì đối với xã hội và với cá nhân khi

họ hoàn thành nhiệm vụ đó.

1.2.1.2 Các thành tố của việc làm

Có thể nghiên cứu và đo lường việc làm dựa vào 10 thành tố sau đây:

Năng lượng: cần tiêu phí một số năng lượng sức lực hay chất xám để làm

chuyển đổi, duy trì, sản xuất một vật hay làm một việc gì đó trọng một hệ

thống nhất định để đạt mục đích đặt ra. Việc làm không thể chỉ đo lường bởi

sản phẩm vật chất làm ra mà còn là những sản phẩm không vật chất (thông

tin, thiết chế xã hội, niềm tin…). Đó làm những việc làm của công nhân,

người quản lý, nhân viên xã hội, nghệ sỹ, nhà truyền giáo,…

Phần thưởng kinh tế và tinh thần: tiền lương và tiền thường là mặt kinh tế

của việc làm; vị thế xã hội, danh dự cá nhân, quyền hành (quyền trong gia

đình và uy tín trong cộng đồng) là phần thường về mặt xã hội và tâm lý.

Động cơ phần thường của việc làm rất khác nhau đối với nam nữ và đối với

các bối cảnh làm việc khác nhau (đi làm để kiếm tiền, đi làm để có thêm bạn

hoặc thêm kiến thưc,…)

Tài nguyên: việc làm là sự thực hiện một nhiệm vụ cần thiết nào đó, cần sử

dụng một số tài nguyên như vốn, nguyên liệu, tay nghề, thời gian và một số

quyền hạn xã hội cho phép để phục vụ đời sống. mỗi tài nguyên được đánh

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 13

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

giá căn cứ vào giá trị kinh tế, giá trị xã hội và giá trị của chính cá nhân

người đánh giá.

Giá trị: giá trị của việc làm thay đổi tùy theo hoàn cảnh lịch sử, xã hội và cá

nhân. Việc đánh giá một việc làm có hiệu quả, có năng xuất, có giá trị tùy

thuộc rất nhiều vào quan điểm của người đánh giá. Sự đánh giá này mang

tính tương đối. đánh giá một việc làm thường không dựa theo tiến trình mà

thường vào dựa vào giá trị cụ thể trước mắt của sản phẩm làm ra, vì vậy

những sản phẩm của người mẹ, nhân viên xã hội, nhân viên văn phòng, nhà

chính trị thường không được nhìn thấy, không được đánh giá đúng mức. ví

dụ: nhiều đánh giá dựa trên vẻ đẹp, năng xuất cao của sản phẩm hơn là căn

cứ vào năng lượng và thời gian tiêu phí. Mỗi việc làm có đặc điểm văn hóa

riêng không thể bị xem xét cùng với một tiêu chí đánh giá. Ví dụ: hôn nhân

và quản lý không thể được đánh giá bằng một thang đo lường như nhau.

Thời gian: giá trị của việc làm thay đổi tùy vào việc đó làm khi nào? Ví dụ:

sản phẩm làm ngoài giờ có giá trị gấp đôi sản phẩm trong giờ. Vài công việc

được làm một cách dễ dàng hơn nhờ có kinh nghiệm (tích lũy theo thời gian)

nhưng có nhiều việc se trở nên khó làm hơn khi tuổi càng cao. Mặt khác, giá

trị thời gian tiêu phí đôi khi không được kể đến trong vài công việc nhưng

lại được đánh giá cao trong một số công việc khác (việc nội trợ và cấp

dưỡng tại xí nghiệp). việc làm nhằm hoàn thành một nghĩa vụ cần thiết của

thời gian phải được kể đến. ví dụ: làm ngoài giờ.

Nơi làm việc: nhiều giá trị của việc làm được đồng hóa với nơi làm việc (rửa

chén tại nhà không được coi trọng như rửa chén tại bếp cơ quan, tại khách

sạn; may gia công ở nhà rẻ hơn may trong xí nghiệp).

Người lao động: giá trị của việc làm cũng được đánh giá khác nhau do ai là

người làm việc ấy. trong xã hội có một số công việc được xem như là “thích

hợp” cho một số người không chỉ vì yêu cầu chuyên môn, tay nghề của họ

mà còn do sự giới hạn của phong tục, do bảo vệ đặc quyền đặc lợi của một

giai tầng xã hội. ví dụ: âm nhạc và thể thao được xem là hợp với người da

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 14

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

đen. Bởi vị quyền lợi kinh tế, danh dự và uy tín của cá nhân gắn liền với

việc làm nên sự chuyên môn hóa hoặc sự phân biệt chuyên môn trong phân

công lao động được củng cố dưới 3 hình thức:

Do luật quy định (ở thế kỷ trước, phụ nữ không thể thẩm phán, người da

màu không thể là thị trưởng).

Do phong tục quy định (ở xã hội đạo hồi, công việc trong nhà là công việc

chuyên môn của phụ nữ, còn việc buôn bán ở chợ là của đàn ông).

Do cá nhân tự chọn.

Kỹ thuật: công cụ là khía cạnh của việc làm. Công cụ kỹ thuật cao thì đỡ tốn

kém thời gian, năng lượng và năng xuất cao hơn. Kỹ thuật không đơn thuần

chỉ là công cụ sản xuất hoặc công cụ của việc làm mà còn mang ý nghĩa sử

dụng khác: khi lao động người bị đưa vào hệ thống sản xuất như một yếu tố

kỹ thuật thì sức người trở nên bóc lột.

Tâm lý đồng hóa hoặc xã lạ với việc làm: cá nhân hoạc một nhóm người

thường đồng hóa mình với vai trò của công việc hoặc một mặt của công việc

nào đó. Sự đồng hóa này có liên quan mật thiết đến sự đầu tư cá nhân trong

tiến trình hoạt động xã hội. nếu đồng hóa toàn tâm với một công việc nào đó

quá sẽ sao lãng các vai trò khác và bị căng thẳng, dẫn đến “bệnh nghiện làm

việc”. ngược lại với bệnh “nghiện làm việc” là tâm lý xa lạ với việc đang

làm. Mức độ xa lạ cao nhất khi người công nhân bị đối xử như là một cái

máy và có ít quyền hạn nhất đối với sản phẩm do họ làm ra. Sản phẩm phản

chiều cái tôi của người lao động, vì thế giá trị của người lao động cũng nhân

lên từ giá trih sản phẩm.

Sự phân chia lao động theo giới tính: trong nền kinh tế chính trị có giai cấp,

sự phân chia lao động ám chỉ sự chuyên môn hóa của một tiến trình mang

tính kỹ thuật và kinh tế, một số nhà xã hội hóa hiện đại đã mở rộng khái

niệm này bao gồ cả sự phân chia lao động theo giới tính. Đó là sự phân công

những hoạt động, những vai trò trong xã hội cho nam và nữ. sự phân chia

lao động theo giới tính trong việc làm một phần là do sự khác nhau về cơ

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 15

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

hội học hành của nam và nữ. nhìn chung phụ nữ ít khi leo lên được các cấp

học cao. Ví dụ: khoảng 2/5 sinh viên nữ tốt nghiệp cử nhân nhưng chỉ có ¼

nữ tốt nghiệp trên đại học. thật vậy, phụ nữ thường được đào tạo ít hơn nam

giới. một chi tiếc mà mọi người đều biết đến để minh họa cho sự không cân

đối về giới trong lĩnh vực giáo dục là phụ nữ có khuynh hướng học một số

ngành xã hội và thường tránh các ngành khoa học kỹ thuật. sự lựa chọn

ngành học đã ảnh hưởng đến cơ hội hành nghề cho phụ nữ. sự bất lợi trong

nghề nghiệp của phụ nữ có liên quan chặt chẽ đến vai trò của phụ nữ trong

gia đình. Khi gánh nặng lao động trong nhà rơi lên vai phụ nữ thì họ sẽ bị

giới hạn trong việc lựa chọn nghề nghiệp.

Trong khi sự phân chia lao động theo giới tính thường được giải thích là do

sự khác nhau về sinh học phù hợp với chức năng sinh sản của phụ nữ nhưng

các nhà nghiên cứu theo phái nữ quyền xem sự phân chia lao động này là kết

quả của chế độ phụ quyền phong kiến phân biệt đối xử với phụ nữ, bởi vì tư

bản và phong kiến cho rằng lãnh điah thích hợp cho phụ nữ là ở trong nhà và

lãnh địa của nam giới là bên ngoài xã hội.

1.2.1.3 Các tiêu chí xác định việc làm

 Giới hạn về độ tuổi: Việc giới hạn này tùy theo mỗi quốc gia sẽ có

những giới hạn riêng. Ở Việt Nam độ tuổi lao động được tính từ 15 tuổi đến

60 tuổi đối với nam và từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ.

 Giới hạn về thời gian làm việc của người lao động có việc làm, làm

việc ít nhất 16h/1tuần thì được xem là có việc làm.

1.2.1.4 Chính sách việc làm

Chính sách việc làm là một hệ thống các quan điểm, chủ trương,

phương pháp, phương hướng, công cụ và các giải pháp giải quyết việc làm

cho người lao động. Nó được cụ thể hóa bằng văn bản pháp lý được Quốc

hội thông qua và nhà nước ban hành. Chính sách việc làm là một trong

những chính sách xã hội quan trọng đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển

xã hội. Dưới góc độ chính sách việc làm thì để hạn chế thất nghiệp, một mặt

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 16

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

phải tạo ra chỗ làm mới, mặt khác phải tạo điều kiện cho người lao động

tránh được nguy cơ thất nghiệp, đồng thời có chính sách trợ cấp cho người

lao động khi họ có nguy cơ thất nghiệp.[2;67]

Một số quy định trong luật lao động nước ta về chính sách việc làm:

 Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát

triển kinh tế - xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương

trình giải quyết việc làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà

nước và các nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm.

 Chính phủ phải có các chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào

tạo lại, hướng dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ

quốc gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện để người lao động tìm việc làm

hoặc tự tạo việc làm; hỗ trợ về tài chính cho những địa phương và ngành có

nhiều người thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thay đổi cơ cấu hoặc công

nghệ.

 Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển

kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính,

cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích

khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức,

đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới

nhằm tạo việc làm cho nhiều người lao động.

 Các chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao

 `Giải quyết việc làm

động là người dân tộc thiểu số.

Giải quyết việc làm là quá trình tạo ra điều kiện và môi trường bảo đảm

cho mọi người có khả năng lao động, có cơ hội được làm việc với chất lượng

việc làm ngày càng cao.[2;67]

1.2.2 Thất nghiệp

1.2.2.1 Khái niệm

Hiện nay trên thế giới có rất nhiều quan điểm khác nhau về thất nghiệp:

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 17

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì: thất nghiệp là tình trạng tồn tại

khi một số người trong độ tuổi lao động, muốn làm việc nhưng không thể tìm

được việc làm ở mức lương thịnh hành.

 Theo Paul-A-Samuelson: Thất nghiệp bao gồm những người không có

việc làm nhưng tích cực tìm việc hoặc đang chờ đợi để trở lại làm việc.

Tóm lại thất nghiệp là tình trạng một người lao động nào đó tuy có đủ khả

năng lao động (sức khỏe, nhận thức, trình độ) đã cố gắng tự tìm kiếm, tự tạo

việc làm với mức thu nhập phù hợp hiện hành, nhưng không thể tìm được việc

làm, và nó chỉ được áp dụng cho những đối tượng nhất định. Bởi vì khi đã nói

đến thất nghiệp, theo cách hiểu chung nhất là khi một người lao động đã được

qua đào tạo, đã có những kinh nghiệm, am hiểu nhất định về một nghề nghiệp

mà do một lý do nào đó bị mất việc làm hoặc không thể tìm được việc làm trong

một khoảng thời gian tương đối dài và họ không có nguồn thu nhập chính đáng

nào khác để tự chi phí, trang trải cho cuộc sống của mình và người thân thì mới

được coi là thất nghiệp.

 Người thất nghiệp: Là người trong độ tuổi lao động, còn khả năng lao

động nhưng chưa có việc làm, đang có nhu cầu làm việc nhưng chưa tìm được

việc làm với mức lương đang thịnh hành trên thị trường. Ở Việt nam những

người được coi là thất nghiệp bao gồm:

 Người lao động đang làm việc bị mất việc làm vì những lý do như:

Doanh nghiệp phá sản, giải thể. Dôi dư do doanh nghiệp xắp xếp lại, bị xa thải,

bị chấm dứt hợp đồng.

 Người mới đến tuổi lao động, học sinh, sinh viên mới tốt nghiệp hoặc

thôi học, bỏ học chưa tìm được việc làm.

 Bộ đội xuất ngũ, thanh niên xung phong hết nghĩa vụ, lao động xuất

khẩu về nước chưa có việc làm.

 Những người phải nghỉ việc tạm thời không có thu nhập do tính thời vụ

của sản xuất.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 18

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Tỷ lệ thất nghiệp là phần trăm số người lao động không có việc làm trên

tổng số lực lượng lao động xã hội.

 Lực lượng lao động (hay dân số hoạt động kinh tế): bao gồm những người

đang làm việc và những người thất nghiệp.

Lịch sử của tình trạng thất nghiệp chính là lịch sử của công cuộc công

nghiệp hóa. Ở nông thôn, mặc dù có tình trạng thiếu việc làm, thất nghiệp một

phần, làm việc ít thời gian ở nông thôn, nhưng tình trạng thất nghiệp này không

bị coi là vấn đề nghiêm trọng.

1.2.2.2 Phân loại thất nghiệp

Có nhiều cách để phân loại tình trạng thất nghiệp, sau đây là một cách phân loại

theo tính chất thất nghiệp:

 Thất nghiệp tự nhỉên: Là loại xẩy ra do quy luật cung cầu của thị trường

sức lao động tác động. Tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên có quan hệ chặt chẽ với tỉ lệ

lạm phát. Do nhiều lý do khác nhau, tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên ở mỗi nước khác

nhau và có xu hướng tăng lên.

 Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối giữa cung và cầu về các

loại lao động. Cầu của loaị lao động này tăng lên cầu của loại lao động khác

giảm xuống, cung điều chỉnh không kịp cầu. Trong quá trình vận động của nền

kinh tế thị trường, sẽ có nhiều ngành kinh tế phát triển thu hút nhiều lao động,

nhưng có nhiều ngành bị thu hẹp lại làm dư thừa lao động. Loại thất nghiệp này

thấy rõ nhất ở hai ngành nông nghiệp và công nghiệp. Do ứng dụng những tiến

bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp làm dư thừa lao động nông

nghiệp. Trong khi đó nhu cầu lao động trong công nghiệp tăng lên do thu hút

được vốn đầu tư nước ngoài.

 Thất nghiệp tạm thời: Phát sinh do sự di chuyển lao động giữa các vùng,

các miền, thuyên chuyển công tác giũa các giai đoạn khác nhau trong quá trình

sản xuất. trong thời gian di chuyển người lao động không có việc làm.

 Thất nghiệp tự nguyện: Là thực trạng người lao động không muốn làm

việc do nhiều lý do khác nhau.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 19

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Thất nghiệp trá hình: Là tình trạng người lao động được sử dụng dưới

mức khả năng của họ. Thuộc loại này bao gồm cả những người làm nghề nông

trong thời điểm nông nhàn (đôi khi những người này được tách riêng thành

những người thất nghiệp theo thời vụ).

 Thất nghiệp ẩn: Là dạng thất nghiệp không được báo cáo.

1.2.3 Đô thị

1.2.3.1 Khái niệm

 Theo các nhà xã hội học: “Đô thị là một chỉnh thể không gian xã hội, biểu

hiện sự thống thất của một kiểu đặc biệt: tổ chức xã hội dân cư, điều kiện địa lý

tự nhiên và môi trường nhân tạo”.[3;67]

Vậy đô thị là sự thống nhất giữa không gian đô thị và con người đô thị, hai

yếu tố này không thể tách rời lẫn nhau mà tồn tại song song với nhau.

 Ngoài ra còn có rất nhiều định nghĩa về đô thị, và ở mỗi quốc gia thì việc

định nghĩa về đô thị cũng khác nhau. Thông thường mật độ dân số tối thiểu cần

thiết để được gọi là một đô thị phải là 400 người trên một cây số vuông hay

1000 người trên một dặm vuông Anh. Các quốc gia châu Âu định nghĩa đô thị

dựa trên cơ bản việc sử dụng đất thuộc đô thị, không cho phép có một khoảng

trống tiêu biểu nào lớn hơn 200 mét. Dùng ảnh chụp từ vệ tinh thay vì dùng

thống kê từng khu phố để quyết định ranh giới của đô thị. Tại các quốc gia kém

phát triển, ngoài việc sử dụng đất và mật độ dân số nhất định nào đó, một điều

kiện nữa là phần đông dân số, thường là 75% trở lên, không có hành nghề nông

nghiệp hay đánh cá.

Theo nghị định số 72/2001/NĐ-CP ngày 5 tháng 10 năm 2001 của Chính

phủ Việt Nam về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị thì đô thị là khu dân

cư tập trung có những đặc điểm sau:

o Về cấp quản lí, đô thị là thành phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà

nước có thẩm quyền quyết định thành lập.

o Về trình độ phát triển, đô thị phải đạt được những tiêu chuẩn sau:

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 20

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Là trung tâm tổng hợp hoặc trung tâm chuyên ngành, có vai trò thúc

đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước hoặc một vùng lãnh thổ như: vùng

liên tỉnh, vùng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc vùng trong tỉnh,

 Đối với khu vực nội thành phố, nội thị xã, thị trấn tỉ lệ lao động phi

trong thành phố trực thuộc Trung ương; vùng huyện hoặc tiểu vùng trong huyện.

nông nghiệp tối thiểu phải đạt 65% tổng số lao động; cơ sở hạ tầng phục vụ các

hoạt động của dân cư tối thiểu phải đạt 70% mức tiêu chuẩn, quy chuẩn thiết kế

quy hoạch xây dựng quy định cho từng loại đô thị, quy mô dân số ít nhất là 4000

người và mật độ dân số tối thiểu phải đạt 2000 người/km².[4; 67 ]

1.2.3.2 Các khái niệm liên quan về đô thị

 Đô thị hóa theo chiều rộng: Đây là khái niệm nói đến sự đô thị hóa của

các khu vực, các thành phố… sự đô thị hóa chủ yếu là sự phát triển mạnh mẽ về

số lượng, các thị trấn trở thành các đô thị mới,… hoặc các thành phố lớn trở

thành các siêu đô thị. Sự đô thị hóa này chủ yếu nhằm thay đổi sự cũ kỹ lạc hâu,

trong đồi sông xã hội. Chủ yếu ở các nược thuộc thế giới thứ ba như ở châu Á,

khu vực nam Mỹ… Sự đô thị hóa này thường tăng nhanh và gia tăng các đô thị

nhưng đem đên nhiều mặt tiêu cực của xã hội đô thị (tệ nạn xã hội, gia tăng giàu

- nghèo, …

 Đô thị hóa theo chiều sâu: Khái niệm nói lên sự đô thị hóa trong nhiều

mặt quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt các linh vực dịch vụ, giáo dục,

văn hóa… Sự đô thị hóa đặc biệt về chât lượng sống của con người đô thị. Đây

là sự đô thị hóa về việc năng cao nhận thức, kiến thức của con người được văn

minh hơn, được tiếp cận với những dịch vụ cao cấp, đời sống được văn minh

hiện đại hơn. Con người đô thị đó được sống trong cuộc sống tốt hơn, hiện đại

và phát triển hơn. Chủ yếu đô thị hóa theo chiều sâu chủ yếu ở các nước châu

 u, Hoa Kỳ … nơi đã trải qua sự đô thị hóa về chiều rộng lâu đời nên sau thời

kỳ đos họ tập trung nhằm nâng cao đời sống xã hội tiến tới hoan mỹ, hoàn hảo

hơn.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 21

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Đô thị hóa cưỡng bức: Khái niệm nói về sự đô thị hóa bắt buộc đối với

các khu vực dân cư để phù hợp với sự thay đổi đời sống xã hội, nhu cầu vật chất

và cả tinh thần đối với người dân đô thị. Chủ yếu đây là sự đo thihóa cưỡng bức

các khu vực phát triển đô thị quá nhanh, đăc biệt các mặt như dân số, nhu cầu

lao động… Một sô khu vực như: ngoại thành đô thị, thành phố,.. các thị trấn, các

vùng ven đô…

 Giải thể đô thị: Khái niệm nói về sự thay đổi chủ yếu là về vấn đề dân số,

nhu cầu con người… của các khu vực đô thị. Do ở các đô thị các vấn đề về môi

trường, tệ nạn xã hội, vấn đề nhà ở… ngày càng mạnh mẽ và trở thành vấn đề

lớn khiến con người đặc biệt là đối với con người đô thị đang dân dần quay về

sống trong các khu vực ở ngoại ô, ở vùng ngoại thành các đô thị. Ở nơi này họ

có được sự thoải mái, có được cuộc sống tốt hơn, thỏa mãn được các nhu cầu về

môi trường, nhà ở … Tiêu biểu như ở các thành phô Băc Kinh, Luân Đôn, một

vài thành phố ở châu Âu.

1.2.3.3 Các đặc trưng của đô thị

 Đô thị là nơi có mật độ dân số rất cao. Thế giới đã quy định mật độ dân số

của đô thị không vượt quá 5000 người/1km2.

 Đại đa số dân cư ở đô thị hoạt động nghề nghiệp là phi nông nghiệp (theo

quy định của nước ta thì ít nhất là 60% dân cư làm nghề phi nông nghiệp, còn

40% vẫn làm nông nghiệp).

 Đô thị là môi trường sống trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát

triển của cá nhân và xã hội.

 Là trung tâm kinh tế chính trị văn hóa xã hội của khu vực. Đô thị và thành

phố là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau.

1.2.4 Đô thị hóa

1.2.4.1 Khái niệm

 Đô thị hóa là quá trình thay đổi hình thức cư trú của con người, nhằm làm

thay đổi chất lượng cuộc sống và bộ mặt của nông thôn.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 22

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Hai thành tố trong quá trình đô thị hóa:

 Đô thị hoá là sự tăng lên của cư dân đô thị. Sự tăng lên này theo ba

dòng chính: sự tăng dân số tự nhiên của cư dân đô thị, dòng di dân từ nông thôn

ra thành thị và điều chỉnh về biên giới lãnh thổ hành chính của đô thị. Ba dòng

này có vai trò và vị trí khác nhau theo từng giai đoạn lịch sử cụ thể.

 Đô thị hoá mở rộng không gian đô thị, không gian kiến trúc. Mở rộng

không gian đô thị là một tất yếu đối với các đô thị trên thế giới trong quá trình

đô thị hoá. Đó cũng có thể là đô thị sát nhập vào đô thị hoặc đô thị hoá mở rộng

đô thị ra ngoại thành hoặc lân cận. Mở rộng không gian đô thị cũng mang tính

lịch sử, tuỳ từng quan niệm của mỗi quốc gia.[5;67]

1.2.4.2 Các khái niệm liên quan về đô thị hóa

 Đô thị hóa theo chiều rộng: Đây là khái niệm nói đến sự đô thị hóa chủ

yếu là sự phát triển mạnh mẽ về số lượng. Các thị trấn trở thành các đô thị

mới,… hoặc các thành phố lớn trở thành các siêu đô thị. Sự đô thị hóa này chủ

yếu nhằm thay đổi sự cũ kĩ lạc hậu, trong đời sống xã hội. Sự đô thị hóa này

thường tăng nhanh và gia tăng các đô thị nhưng lại đem đến nhiều mặt tiêu cực

của xã hội đô thị (tệ nạn xã hội, gia tăng tỉ lệ giàu - nghèo …). [3;67 ]

 Đô thị hóa theo chiều sâu: Khái niệm nói lên sự đô thị hóa trong nhiều

mặt quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt các lĩnh vực dịch vụ, giáo dục,

văn hóa… Sự đô thị hóa đặc biệt về chất lượng sống của con người đô thị. Đây

là sự đô thị hóa về việc nâng cao nhận thức, kiến thức của con người được văn

minh hơn, được tiếp cận với những dịch vụ cao cấp, đời sống được văn minh

hiện đại hơn. Con người đô thị đó được sống trong cuộc sống tốt hơn, hiện đại

và phát triển hơn. Đô thị hóa theo chiều sâu diễn ra chủ yếu ở các nước châu

 u, Hoa Kỳ… nơi đã trải qua sự đô thị hóa về chiều rộng lâu đời nên sau thời

kỳ đó họ tập trung nhằm nâng cao đời sống xã hội tiến tới hoàn mỹ, hoàn hảo

hơn. [3; ]

 Đô thị hoá thay thế: Là khái niệm để chỉ quá trình đô thị hoá diễn ra

ngay chính trong đô thị. Ở đây cũng có sự di dân nhưng từ trung tâm ra ngoại

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 23

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

thành hoặc vùng ven đô. Đô thị hoá thường vẫn mang tính chủ quan thông qua

quy hoạch. Quy hoạch đô thị cho phép con người tạo ra những đô thị tối ưu

theo ý muốn. Tuy nhiên, đô thị được quy hoạch là tối ưu đến mấy vẫn chắc

chắn lạc hậu trong tương lai. Do cư dân tăng lên, kết cấu hạ tầng, kiến trúc đô

thị... lần lượt lạc hậu. Đặc biệt các công trình công nghiệp, dịch vụ... theo thời

gian trở nên lạc hậu và gây ô nhiễm nặng nề, phải di dởi xa thành phố.

Quá trình này cũng có thể là quá trình chỉnh trang, nâng cấp đô thị, đáp

ứng yêu cầu mới. Nhiều hộ gia đình từ trung tâm di cư đến vùng ven và ngoại

thành, nhiều công trình nhà cửa, giao thông, kênh rạch, vườn hoa, nhà văn hoá

đang được xây dựng lại với quy mô lớn hơn. Đô thị hoá thay thế được quan

niệm ở đây bao gồm cả sự mở rộng không gian đô thị ấy bằng cách phát triển

đô thị ra vùng ven và ngoại thành. [5;67]

Đô thị hoá cưỡng bức: Là khái niệm dùng để chỉ sự di chuyển dân cư từ

nông thôn về thành thị, lý do ngoài kinh tế, tức là không phải trước hết tìm việc

làm hay tìm dịch vụ tốt hơn. Quá trình cưỡng bức xảy ra có thể nông dân chạy

vào thành phố chủ yếu là lánh nạn. Trong quy hoạch thiết kế ban đầu, không

tính đến khả năng này. Do vậy khi dân số tăng lên không phải do yêu cầu phát

triển của đô thị, đứng về phía đô thị là cưỡng bức, đối với người dân chạy vào

đô thị là tự bắt buộc. Đặc điểm đô thị hoá cưỡng bức là không gian kiến trúc

không được mở rộng theo quy hoạch mà mang tính tự phát cao. Các nhu cầu

của dân nhập cư không được đáp ứng, đô thị trở nên quá tải, những tiêu cực do

đô thị hoá cưỡng bức mang lại ngày một nặng nề. Khả năng khắc phục là chưa

thể.[5;67]

 Đô thị hoá ngược: Là khái niệm dùng để chỉ sự di dân từ đô thị lớn sang

đô thị nhỏ, hoặc từ đô thị trở về nông thôn.

Thông thường ở giai đoạn đầu công nghiệp hoá, kinh tế - xã hội đang phát

triển, đô thị luôn luôn là nơi tạo ra nhiều việc làm và các dịch vụ tốt hơn thu

hút hướng di dân từ nông thôn trở về thành thị. Sự bổ sung một lực lượng lao

động trẻ, nam nhiều hơn nữ, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở đô thị. Quá

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 24

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

trình đô thị hoá kết thúc, tức là giai đoạn ổn định của đô thị, đô thị trở nên đất

chật, người đông, vấn đề chất lượng sống phụ thuộc nhiều vào môi trường sống

cả tự nhiên và xã hội, so với nông thôn lại có những hạn chế nhất định. Một

mặt do sự phát triển kinh tế - xã hội và các dịch vụ ở nông thôn cũng phát

triển, đến lượt nó lại thu hút luồng di cư trở lại. Mặt khác, nông thôn lại chứa

đựng sự phong phú của văn hoá dân tộc, văn hoá cội nguồn, sự yên tĩnh và đặc

biệt môi trường trong sạch. Thực tiễn cho thấy có sự di cư từ đô thị ra bên

ngoài, đặc biệt là vùng nông thôn hoặc các đô thị nhỏ. [5;67]

1.2.5 Phát triển cộng đồng

1.2.5.1 Khái niệm

 Cộng đồng: là một tập thể có tổ chức, bao gồm các cá nhân con người

sống chung ở một địa bàn nhất định, có chung một đặc tính xã hội hoặc sinh

học nào đó và cùng chia sẻ với nhau một lợi ích vật chất hay tinh thần nào đấy.

 Phát triển cộng đồng: là những tiến trình, qua đó nỗ lực của dân chúng

kết hợp vói nỗ lực của chính quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế, xã hội,

văn hóa của các cộng đồng và giúp các cộng đồng này hội nhập và đồng thời

đóng góp vào đời sống quốc gia (Định nghĩa của Liên Hợp Quốc, 1956).

 Theo Murray và Ross thì “Tổ chức cộng đồng là một tiến trình, qua đó

một cộng đồng nhận rõ nhu cầu, mục tiêu của mình và sắp xếp các nhu cầu,

mục tiêu này, phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm đến tài nguyên

(bên trong và bên ngoài) để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy. Thông qua đó

sẽ phát huy thái độ và kĩ năng hợp tác vói nhau trong cộng đồng”.[6;67]

 Hay có thể hiểu về phát triển cộng đồng với một khái niệm khác là “Tổ

chức cộng đồng là một tiến trình giải quyết các vấn đề, qua đó cộng đồng được

tăng sức mạnh bởi các kiến thức và kỹ năng phát hiện nhu cầu và vấn đề, ưu

tiên hóa chúng, huy động tài nguyên để giải quyết chúng. Tổ chức cộng đồng

không phải là một cứu cánh mà là một kĩ thuật, nó nhằm vào tăng sức mạnh

cho các cộng đồng để tự quyết định về sự phát triển và sự định hình trong

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 25

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

tương lai của mình. Mục đích cuối cùng trong phát triển cộng đồng là sự tham

gia chủ động với tư cách tập thể của người dân vào sự phát triển”.[6; 67]

1.2.5.2 Các nguyên tắc hành động trong phát triển cộng đồng

Trong phát triển cộng đồng muốn làm việc thực sự có hiệu quả thì cần

đảm bảo 10 nguyên tắc hành động sau:

1. Bắt đầu từ nhu cầu, tài nguyên và khả năng của cộng đồng.

2. Đáp ứng nhu cầu và mối quan tâm bức xúc hiện tại của cộng đồng

3. Tin tưởng vào khả năng thay đổi, tự giải quyết vấn đề và phát triển của

họ.

4. Khuyến khích người dân cùng tham gia thảo luận, lấy ý kiến chung,

quyết định hành động chung để họ đồng hóa mình với những chương trình hành

động.

5. Bắt đầu từ những việc nhỏ với những thành công nhỏ để đi đến những

thành công lớn.

6. Vận động thành lập nhóm nhỏ để thực hiện dự án, không chỉ để giải

quyết một vấn đề cụ thể, mà còn để củng cố, làm vững mạnh tổ chức tự nguyện

của người dân.

7. Cung cấp nhiều cơ hội để người dân tương trợ lẫn nhau và phát sinh

các hoạt động chung, qua đó các thành viên vừa đạt được cảm xúc tự hoàn thành

nhiệm vụ, vừa góp phần cải thiện an sinh cho nhóm.

8. Quy trình “Hành động – Suy ngẫm, rút kinh nghiệm – Hành động

mới” cần áp dụng để tiến đến những chương trình hành động chung lớn hơn,

trình độ quản lý cao hơn.

9. Nếu điều hành có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn theo nhóm là dịp để

tổ chức nhóm trưởng thành.

10. Thiết lập mối liên kết với các tổ chức khác để họ có thêm hỗ trợ và

hợp tác với nhau.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 26

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

1.2.5.3 Nội dung trong phát triển cộng đồng

 Quản lý tài nguyên cộng đồng: Gồm quản lý môi trường cộng đồng, xử lý

các thảm họa thiên tai, phát triển các cơ sở kinh doanh sản xuất.

 Giáo dục cộng đồng: Giúp trang bị kiến thức, sự hiểu biết và kỹ năng làm

việc, lao động cho người dân, gồm các bước sau:

 Thức tỉnh chính quyền địa phương và cộng đồng về tình trạng hiện tại của

cộng đồng.

 Hình thành giá trị cộng đồng, giúp thay đổi nhận thức, thái độ, hành vi

mang tính tiêu cực; đề cao các giá trị tích cực, khơi dậy truyền thống tương thân,

tương ái của cộng đồng.

 Phát triển những kỹ năng làm việc chung.

 Tổ chức cộng đồng. Bao gồm:

 Củng cố các tổ chức có sẵn, như: các đoàn thể, tổ chức chính trị, xã hội tại

cộng đồng.

 Thành lập nhóm hay các câu lạc bộ, tổ chức học tập và phát triển các

ngành nghề như lập tổ sản xuất, câu lạc bộ nghề nghiệp trong cộng đồng.

 Mở rộng, liên kết với các nhóm khác để tiến hành lập hiệp hội, hợp tác

xã…

1.2.5.4 Mục tiêu phát triển cộng đồng

 Phát triển kỹ năng và khả năng tổ chức của người dân, giúp cộng đồng biết

cách lập kế hoạch xã hội.

 Nối kết các đầu tư kinh tế xã hội vào trong những nhóm cộng đồng nghèo cơ

sở.

 Ủng hộ cho sự liên kết rộng rãi các tổ chức trong việc giải quyết các vấn đề

của cộng đồng.

 Tạo sự quan tâm về công bằng xã hội trong tiến trình lập kế hoạch xã hội.

1.2.5.5 Tiến trình phát triển cộng đồng

Mục tiêu cuối cùng của phát triển cộng đồng là giúp cho cộng đồng đi từ

thực trạng yếu kém để vươn lên phát triển, giải quyết hết các mâu thuẫn. Để đạt

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 27

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

được mục tiêu đó phát triển cộng đồng phải có một tiến trình với từng bước đi cụ

thể và có hiệu quả.

Tiến trình phát triển cộng đồng bao gồm ba bước sau:

Bước 1: Cộng đồng thức tỉnh

 Từ một cộng đồng còn yếu kém, phát triển cộng đồng cần đi sâu vào làm

cho người dân ở đó hiểu được thực trạng của chính mình thông qua các cuộc trao

đổi thảo luận, điều tra về nhu cầu và các vấn đề khó khăn, cũng như những tiềm

năng và thuận lợi. Từ đó làm cho cộng đồng hiểu và tích cực hợp tác để dần thay

đổi vấn đề của chính mình.

Bước 2: Cộng đồng tăng năng lực

 Biết rõ vấn đề của mình, mình có gì, mình muốn gì thì cộng đồng đó phải

tăng năng lực phát huy các nguồn tài nguyên mà cộng đồng vốn có hay qua quá

trình tập luyện. Thông qua đó cộng đồng khắc phục được những hạn chế và tăng

cường kiến thức, kỹ năng để hành động. Ngoài ra còn phải liên kết các tổ chức lại

để cùng hành động hiệu quả vì mục tiêu chung.

Bước 3: Cộng đồng tự lực

 Mục đích cuối cùng của phát triển cộng đồng là thông qua các tác động từ

bên ngoài, với nội lực bên trong được phát huy và tăng cường cộng đồng sẽ trở

thành cộng đồng tự lực. Cộng đồng tự lực không có nghĩa là mọi khó khăn, khủng

hoảng không còn nữa mà mỗi lần gặp khó khăn cộng đồng có thể tự huy động tài

nguyên bên trong và bên ngoài để giải quyết vấn đề. Qua mỗi lần như vậy cộng

đồng sẽ tăng trưởng và tự lực hơn.

 Tiến trình phát triển cộng đồng là một tiến trình luôn luôn tiếp diễn vì trong

quá trình tồn tại và phát triển của cộng đồng s ẽ vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại

không ngừng. Trong thực tiễn, tiến trình này không phải lúc nào cũng cứng nhắc

khi áp dụng, mà điều quan trọng là tác viên phát triển cộng đồng phải thực sự vì lợi

ích của cộng đồng, vì sự phát triển và linh hoạt, nhưng cũng phải đảm bảo được các

nguyên tắc cơ bản, các bước đi cơ bản của tiến trình đó.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 28

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA NGƯỜI DÂN KHU

VỰC 9, PHƯỜNG ĐỐNG ĐA, THÀNH PHỐ QUY NH ƠN

2.1 Tổng quan về tình hình kinh tế - văn hóa - xã hội trên địa bàn phường

Đống Đa, thành phố Quy Nhơn

Phường Đống Đa nằm ở phía Đông Bắc thành phố Quy Nhơn. Phía

Tây giáp phường Nhơn Phú và phường Nhơn Bình; phía Bắc giáp phường

Nhơn Bình; phía Đông giáp phường Hải Cảng, phường Thị Nại và phường

Lê Hồng Phong ; phía Nam giáp phường Quang Trung.

Trong giai đoạn 2005 – 2010 phường đã đạt được một số thành tựu

tren các mặt sau:

 Về phát triển kinh tế:

Là địa bàn có nhiều dự án chỉnh trang đô thị, quy hoạch giải toả đã và

đang trong giai đoạn triển khai thực hiện; diện tích đất sản xuất muối và

nuôi trồng thủy sản bị thu hẹp nên đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn,

Năm 2007 phường Đống Đa tiếp nhận trên 250 hộ có phương tiện

đánh bắt thủy sản từ các phường Trần Phú và Hải Cảng. Phường đã kịp thời

chỉ đạo chính quyền và các hội đoàn thể quản lý và khuyến khích động viên

ngư dân đóng mới, cải tạo phương tiện đánh bắt thủy sản. Tổ chức triển

khai, thực hiện Quyết định 289/CP của Chính phủ, đã có 343 tàu thuyền

nhận tiền hỗ trợ với tổng số tiền 7.984.000.000 đồng.

 Công tác xây dựng cơ bản, quản lý và chỉnh trang đô thị:

Trong những năm vừa qua tỉnh Bình Định đã đầu tư xây dựng nhiều

dự án trên địa bàn phường như: dự án Nam sông Hà Thanh, nút tam giác

Đống Đa – Hoa Lư – Quy Nhơn – Nhơn Hội, Công viên Di tích Tháp Đôi,

đường Tháp Đôi, Đảo 1A , 1B bắc sông Hà Thanh, Khu đô thị thương mại

phía bắc sông Hà Thanh và đường Nguyễn Tất Thành (nối dài)... Tuy nhiên

tình trạng lấn chiếm đất đai, xây dựng trái phép, không phép, chuyển đổi

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 29

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

mục đích sử dụng đất diễn ra hết sức phức tạp - nhất là tại các địa bàn khu

vực 9, khu vực núi Một, dọc các nhánh sông Hà Thanh, chân núi Bà Hỏa đã

gây khó khăn trong công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực đất đai.

Trong 5 năm qua, nhiều công trình được thành phố đầu tư xây dựng

nhằm chỉnh trang đô thị, phục vụ dân sinh như: công trình xây dựng các lớp

mẫu giáo kết hợp với khu sinh hoạt nhân dân các khu vực: 1, 2, 5, 7, 8, 9,

10, 11, Chợ khu vực 5, Di dời cải táng mộ vô chủ và làm đường giao thông

nông thôn khu vực 9; ; cải tạo nâng cấp, sửa chữa Trạm y tế, Nhà văn hóa

phường; tường rào - hệ thống thoát nước Chợ Khu vực 5…

 Về phát triển văn hoá- xã hội

 Sự nghiệp giáo dục- đào tạo

Trong những năm qua, công tác giáo dục ngày càng được chú trọng và

có bước phát triển khá toàn diện cả về chất lượng dạy và học; cơ sở vật chất,

trang thiết bị được đầu tư, sửa chữa, nâng cấp ngày càng khang trang sạch

đẹp, tạo cảnh quan môi trường sư phạm để các em học sinh yên tâm học tập.

Việc huy động học sinh vào Mẫu giáo, lớp 1 và lớp 6 luôn duy trì ở tỷ lệ

100%. Triển khai thực hiện tốt cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung

do ngành phát động và phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học

sinh tích cực” gắn với Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo

đức Hồ Chí Minh”. Duy trì kết quả phổ cập giáo dục Tiểu học và Trung học

cơ sở, tích cực đẩy mạnh hoàn thành phổ cập Trung học phổ thông và công

tác xã hội hóa giáo dục.

 Về y tế, dân số- gia đình và trẻ em:

Phường Đống Đa đã thực hiện tốt chương trình y tế quốc gia, đẩy

mạnh công tác phòng chống dịch bệnh, duy trì công tác kiểm tra vệ sinh an

toàn thực phẩm các cơ sở kinh doanh ăn uống, sản xuất thực phẩm; ngăn

chặn, đẩy lùi các bệnh xã hội. Công tác khám và chăm sóc sức khoẻ ban đầu

cho nhân dân được quan tâm thực hiện tốt. Trạm Y tế phường được đầu tư

sửa chữa, nâng cấp; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác khám

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 30

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

chữa bệnh được quan tâm đầu tư để phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.

Năm 2005 Trạm y tế phường đạt “Chuẩn y tế quốc gia” và duy trì cho đến

nay.

Ban Dân số gia đình và trẻ em đã phối hợp với Trạm y tế và các ban

ngành, đoàn thể đẩy mạnh công tác truyền thông dân số - gia đình và trẻ em,

phấn đấu giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn dưới 13%,

vận động chị em đặt vòng tránh thai đạt và vượt chỉ tiêu hàng năm, góp phần

hạ tỷ suất sinh xuống còn dưới 8,3%, duy trì tốt Câu lạc bộ không sinh con

thứ 3 nhằm vận động các cặp vợ chồng trong độ tuổi hạn chế việc sinh con

thứ 3. Công tác bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em thường xuyên được quan

tâm như: Tổ chức tháng hành động vì trẻ em, tổ chức cho các em vui chơi

nhân các ngày lễ như Quốc tế Thiếu nhi, Tết Trung thu... Thường xuyên

củng cố, kiện toàn và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cộng tác viên y tế, dân số -

gia đình và trẻ em từ phường đến khu vực. Hoàn thành Tổng điều tra dân số

và nhà ở năm 2009, kết quả toàn phường có 7.454 hộ với 28.747 nhân khẩu.

 Hoạt động văn hóa thông tin – TDTT, Đài truyền thanh:

Phường đã thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về xây

dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, chỉ đạo thực

hiện tốt các cuộc vận động lớn như cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây

dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”; phong trào “Quần chúng bảo vệ an

ninh Tổ quốc”, thực hiện “Quy chế dân chủ ở cơ sở”; đặc biệt là cuộc vận

động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; tăng cường

quản lý Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa, đấu tranh với các biểu hiện tiêu

cực, suy thoái đạo đức, lối sống không lành mạnh, kịp thời phát hiện và xử

lý một số trường hợp vi phạm trong kinh doanh dịch vụ văn hóa, góp phần

xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh trên địa bàn phường.

Chú trọng các hoạt động văn hóa văn nghệ, TDTT, tổ chức hoạt động

kỷ niệm các ngày lễ lớn, tham gia các cuộc thi hàng năm của các ngành tổ

chức. Tổ chức thành công Đại hội TDTT cấp phường lần thứ 2/ 2005 và lần

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 31

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

3/ 2009; tham gia Đại hội TDTT và Ngày hội Văn hóa thể thao miền Biển

đạt kết quả cao. Củng cố Đài truyền thanh phường về nhân lực và cơ sở vật

chất nhằm phục vụ tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ.

 Thực hiện chính sách an sinh xã hội:

Phường đã chỉ đạo thực hiện tốt công tác lao động - thương binh xã

hội đối với các đối tượng chính sách, người có công, gia đình thương binh

liệt sĩ, Mẹ Việt Nam anh hùng. Quan tâm đến các gia đình chính sách có

hoàn cảnh khó khăn, những đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống

Mỹ cứu nước chưa được hưởng chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước;

xây dựng quỹ “Đền ơn đáp nghĩa”, thực hiện các dự án vay vốn xóa đói

giảm nghèo, giúp đỡ người nghèo, các đối tượng chính sách gặp khó khăn,

các hoạt động nhân đạo, từ thiện… xây dựng quỹ “Vì người nghèo” đạt kết

quả khá.

Quản lý tốt các đối tượng thuộc diện chính sách, nhận và cấp phát

lương hưu, phụ cấp và chế độ ưu đãi đầy đủ kịp thời, bảo đảm đúng đối

tượng, đúng chế độ, không để xảy ra sai sót. Tổ chức triển khai, thực hiện

Quyết định số 290/2005/QĐ-TTg ngày 06/12/2007 của Thủ tướng Chính

phủ, đã có 86 đối tượng nhận tiền hỗ trợ với số tiền 238.500.000 đồng.

Thực hiện chủ trương xóa đói giảm nghèo theo tiêu chí mới, bình quân

mỗi năm giảm 0,64% (đạt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội XI đề ra), hiện nay

còn 4.1%; toàn phường đã xây dựng được 07 nhà ở đơn sơ diện chính sách,

32 nhà ở đơn sơ hộ nghèo với tổng số tiền 238.500.000 đồng.

 Tình hình thu hồi đất nông nghiệp phục vụ cho quá trình đô thị

hóa ở khu vực 9, phường Đống Đa.

Theo báo cáo của UBND phường Đống Đa thì Khu vực 9 hiện có 838

hộ dân đang sinh sống, gồm 2.902 nhân khẩu và trong đó có 1517 nữ. Dân

số khu vực 9 được chia ra làm 4 tổ dân phố. Đời sống nhân dân chủ yếu làm

nghề muối, nuôi trồng thủy sản, trồng rau - hoa xanh và cây cảnh, buôn bán

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 32

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

nhỏ và lao động phổ thông. Cuộc sống nhân dân nhìn chung còn gặp nhiều

khó khăn, trình độ dân trí còn thấp so với mặt bằng chung của thành phố.

Thực hiện các quy hoạch của tỉnh, thành phố tuy đời sống nhân dân của khu

vực này gặp rất nhiều khó khăn do bị thu hồi đất nông nghiệp, không có đất

sản xuất, song với sự vượt khó của nhân dân cũng như chính sách đền bù,

bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của chính phủ phù hợp nên đời sống nhân

dân ngày càng được phát triển góp phần xây dựng khu dân cư mới, tạo diện

mạo mới cho địa phương nói riêng và thành phố Quy Nhơn nói chung.

Địa bàn khu vực là một địa bàn tương đối rộng, diện tích đất đai trước

đây chủ yếu là đất nông nghiệp phục vụ cho nông nghiệp với nghề nghiệp

chính là diêm nghiệp và nuôi trồng thủy sản. Hiện nay số diện tích đất ruộng

muối hầu như đã xóa sạch, chỉ còn một số diện tích ao nuôi trồng thủy sản

vẫn nằm trong diện chưa quy hoạch. Trên địa bàn khu vực 9 hiện nay có một

diện tích nhỏ khu tái định cư dành cho dân cư khu 2, phường Trần Phú và

dân cư thuộc diện giải tỏa đường Nguyễn Tất Thành nối dài sinh sống. Nhìn

chung, tình hình đời sống người dân khu vực 9 đang dần được nâng cao rõ

rệt về các mặt như: vệ sinh môi trường, điện - đường - trường - trạm, nước

sinh hoạt... đó là những kết quả tốt đẹp mà các dự án quy hoạch khu dân cư

mang lại cho đời sống người dân. Tuy nhiên những biến chuyển đó không

toàn diện khi một bộ phận lớn người dân có đất đai bị quy hoạch đang rơi

vào hoàn cảnh khó khăn khi không có việc làm.

Hiện nay trên địa bàn khu vực 9, phường Đống Đa đang có ba dự án

đang được quy hoạch – đầu tư:

1. Dự án Khu Đô thị - Thương mại Bắc sông Hà Thanh

Theo quyết định số 77/QĐ_UBND ngày 31/01/2007 của Ủy ban nhân

dân tỉnh Bình Định về việc thu hồi diện tích đất bị ảnh hưởng bởi dự án cầu

đường Quy Nhơn – Nhơn Hội; Quyết định số 154/QĐ_UBND ngày

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 33

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

09/03/2007 của UBND tỉnh Bình Định về việc thu hồi đất để thực hiện bồi

thường thiệt hại, giả phóng mặt bằng chuẩn bị xây Khu đô thị - Thương mại

Bắc sông Hà Thanh.

Dự án bao gồm 3 khu:

Khu A: Quy hoạch khu sinh thái.

Khu B: Quy hoạch khu thương mại An Phú Thịnh.

Khu tái định cư: Quy hoạch tái định cư.

2. Dự án khu dân cư B đảo 1 Bắc sông Hà Thanh

Theo Quyết định số 1056/QĐ-CTUBND ngày 09/05/2006 của UBND

tỉnh Bình Định về việc phê duyệt điều chỉnh Quy hoạch chi tiết xây dựng

công trình khu dân cư (B) đảo 1 Bắc sông Hà Thanh.

Mục đích của dự án này là xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ dân tái

định cư thuộc dự án Nguyễn Tất Thành (nối dài) và các dự án khác trên địa

bàn thành phố.

3. Dự án khu dân cư A đảo 1 Bắc sông Hà Thanh

Theo Quyết định số 1161/QĐ_CTUBND ngày 27/04/2004 của UBND

tỉnh Bình Định về việc thu hồi đất xây dựng công trình khu dân cư (A) đảo 1

Bắc sông Hà Thanh.

Mục đích của dự án này là xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ dân tái

định cư thuộc dự án Nguyễn Tất Thành (nối dài) và các dự án khác trên địa

bàn thành phố.

Trong ba dự án trên thì dự án Khu Đô thị - Thương mại Bắc sông Hà

Thanh là dự án lớn nhất cũng như có diện tích đất đai được quy hoạch lớn

nhất và mục đích sử dụng cũng phong phú hơn.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 34

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

2.2 Thực trạng việc làm của người dân ở khu vực 9, phường Đống Đa,

thành phố Quy Nhơn

2.2.1 Đặc điểm người lao động bị thu hồi đất nông nghiệp để phục vụ cho

quá trình đô thị hóa

2.2.1.1 Giới tính

Bảng 1: Giới tính

Giới tính Số lượng Tỉ lệ (% )

51.1 46 Nam

48.9 44 Nữ

100 90 Tổng

Qua bảng 1 ta thấy tỉ lệ nam ở địa phương chiếm tỉ lệ 51.1%, còn tỉ lệ nữ

chiếm tỉ lệ 48.9%. So với nữ thì tỉ lệ nam cao hơn, tuy nhiên sự chênh lệch

không lớn.

2.2.1.2 Độ tuổi

Bảng 2: Độ tuổi

Độ tuổi Số lượng Tỉ lệ (% )

20 18 Từ 18 – 30 tuổi

24.4 22 Từ 31 – 45 tuổi

37.8 34 Từ 46 – 60 tuổi

17.8 16 Trên 60 tuổi

100 90 Tổng

Qua bảng 2 ta thấy tỉ lệ người dân ở độ tuổi 46 – 60 chiếm tỉ lệ cao

nhất với 37.8%, tiếp theo là ở độ tuổi 32 – 45 với 24.4%, từ 18 – 30 tuổi

chiếm tỉ lệ 20% và thấp nhất là ở độ tuổi trên 60 tuổi với tỉ lệ 17.8%.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 35

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

2.2.1.3 Trình độ học vấn

Bảng 3: Trình độ học vấn

Trình độ học vấn Số lượng Tỉ lệ (% )

5.6 Mù chữ 5

20 Tiểu học 18

46.7 Trung học cơ sở 42

23.4 Trung học phổ thông 21

4.4 TCCN – CĐ – ĐH 4

0 Trên đại học 0

100 Tổng 90

Qua bảng số liệu, ta nhận thấy trình độ học vấn của người dân trên

khu vực 9 là khá thấp. Trong đó tỉ lệ người dân có trình độ trung học cơ sở

chiếm tỉ lệ cao nhất với 46.7%, tiếp theo đó trình độ trung học phổ thông

chiếm tỉ lệ 3.4% và tiểu học là 20%, thậm chí có đến 5.6% người dân mù

chữ. Hiện nay, với chính sách phổ cập giáo dục của nhà nước ta thì trình độ

trung học cơ sở là trình độ thấp nhất được phổ cập trên toàn quốc, và theo

xu hướng phát triển của đất nước nói chung, tỉnh Bình Định nói riêng thì với

trình độ học vấn này cơ hội nghề nghiệp của người dân sẽ bị hạn chế rất

nhiều.

2.2.1.4 Thời gian sinh sống tại địa phương

Bảng 4: Thời gian sinh sống tại địa phương

Thời gian sinh sống Số lượng Tỉ lệ (% )

7.8 Dưới 5 năm 7

4.4 Từ 5 – dưới 10 năm 4

Từ 10 – 20 năm 11 12.2

75.6 Trên 20 năm 68

100 Tổng 90

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 36

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Nhìn vào bảng số liệu ta có thể nhận thấy có đến 75.6% người dân đã

sống ở khu vực này trên 20 năm, có 12.2% số người dân sống từ 10 – 20 năm.

Còn tỉ lệ người dân sống dưới 10 năm chiếm tỉ lệ thấp, cụ thể dưới 5 năm

chiếm tỉ lệ 7.8% và từ 5 – dưới 10 năm chiếm tỉ lệ 4.4%.

Như vậy đa số người dân ở khu vực này là dân gốc của địa phương, đã

gắn bó từ lâu đời với mảnh đất nơi đây. Điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ

hiểu rõ về tình hình khu vực này, cả những biến động của nó cũng như những

cơ hội việc làm mà họ có thể nắm bắt được.

Đồng thời, khi người dân ở đây là dân gốc thì các mối quan hệ làng

xóm, láng ghiềng cũng lâu đời và bền vững hơn, tạo điều kiện thuận lợi để họ

có thể hiểu nhau, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống cũng như trong vấn đề

việc làm.

2.2.1 .5 Số thành viên trong gia đình

Ta có các bảng thống kê số liệu điều tra về số thành viên trong gia đình

của người dân ở khu vực này như sau:

Bảng 5+6+7: Số thành viên trong gia đình

Tỉ lệ (% ) 2.2 43.3 31.1 23.4 Tỉ lệ (% ) 32.2 51.1 11.1 5.6 Tỉ lệ (% ) 76.7 8.9 2.2 2.2 10 100 Số thành viên trong gia đình Từ 1 – 2 người Từ 3 – 4 người Từ 5 – 6 người Trên 6 người Thành viên trong độ tuổi lao động Từ 1 – 2 người Từ 3 – 4 người Từ 5 – 6 người Trên 6 người Số thành viên chưa có việc làm ổn định Từ 1 – 2 người Từ 3 – 4 người Từ 5 – 6 người Trên 6 người Không có Tổng Số lượng 2 39 28 21 Số lượng 29 46 10 5 Số lượng 69 8 2 2 9 90

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 37

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Qua bảng số liệu số liệu số 5, ta thấy các gia đình ở đây tương đối đông

thành viên, cụ thể như gia đình có từ 3 – 4 thành viên chiếm tỉ lệ cao nhất là

43.3%, gia đình có từ 5 – 6 thành viên chiếm tỉ lệ 31.1%, gia đình có trên 6

người chiếm tỉ lệ 23.4% và gia đình chỉ có 1 -2 thành viên chiếm tỉ lệ thấp 2.2%.

Dựa vào bảng 6, ta thấy tỉ lệ thành viên đang trong độ tuổi lao động cũng

chiếm tỉ lệ không nhỏ, thể hiện ở các gia đình có 3 – 4 thành viên trong độ tuổi

lao động chiếm tỉ lệ chủ yếu là 51.1% và tỉ lệ gia đình có từ 1 – 2 thành viên

đang trong độ tuổi lao động là 32.2%, đó là nguồn lao động dồi dào sẽ tạo ra thu

nhập đáng kể cho gia đình.

Tuy nhiên nếu xét bảng số 7, thì ta lại thấy một vấn đề hết sức nổi cộm

đó là tỉ lệ thành viên gia đình trong độ tuổi đã có việc làm ổn định chiếm tỉ lệ rất

thấp là 10%. Như vậy, 90% các hộ còn lại đều có thành viên chưa có việc làm

ổn định, đó không chỉ là một gánh nặng của gia đình, xã hội mà còn là vấn đề

trăn trở, là nguyên nhân có thể phát sinh ra tệ nạn xã hội.

2.2.2 Thực trạng vấn đề việc làm của người dân khu vực 9, phường Đống

Đa, thành phố Quy Nhơn

2.2.2.1 Nghề nghiệp của người dân trước và sau khi quy hoạch đất đai

phục vụ quá trình đô thị hóa

Ta có bảng thống kê số liệu điều tra về nghề nghiệp trước đây và hiện tại

của người dân như sau:

Bảng 9: Công việc chính của người dân trước và sau khi quy hoạch đất đai

Trước đây Bây giờ Nghề nghiệp Tổng ý kiến Tỉ lệ(%) Tổng ý kiến Tỉ lệ(%)

3.3 2.2 5.6 4.4 69 10 1.1 4.4 0 0 100 45.6 1.1 7.8 27.8 0 11.1 0 4.4 1.1 1.1 100 Không có việc làm ổn định Công chức nhà nước Buôn bán, dịch vụ Công nhân Nghề muối Nghề biển Thợ sơn Nghề may Làm tóc Bảo vệ Tổng 3 2 5 4 62 9 1 4 0 0 90 41 1 7 25 0 10 0 4 1 1 90

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 38

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Qua bảng số liệu trên ta thấy có một sự thay đổi rất lớn trong cơ cấu

ngành nghề của người dân ở khu vực này.

Trước đây, khi chưa quy hoạch đất đai thì nghề muối (hay còn gọi là

diêm nghiệp) chiếm tỉ lệ chủ yếu 69%, tiếp theo là nghề biển, nuôi trồng thủy

hải sản, làm bờ chiếm tỉ lệ 10%. Việc sản xuất muối đòi hỏi người dân hoạt

động chủ yếu với công cụ lao động chính là ruộng muối, và nó sẽ được truyền

từ thế hệ này sang thế hệ khác. Điều đó cũng góp phần giải thích vì sao trình

độ học vấn của người dân ở khu vực là khá thấp. Với hoạt động sản xuất này

người dân dựa vào kinh nghiệm là chủ yếu, các yếu tố khoa học ít được quan

tâm và chú trọng, nên với tính chất nghề nghiệp như vậy không đòi hỏi người

dân phải có trình độ cao, chỉ cần biết đọc biết viết là được, đã khiến cho

không ít các bậc phụ huynh cho con em mình nghỉ học để đi làm muối với họ,

kéo theo đó là cả một hệ quả to lớn về sau.

Hiện tại, số người dân không có việc làm chiếm tỉ lệ lớn nhất (45.6%),

tiếp theo là làm công nhân chiếm tỉ lệ 27.8%. Điều đó cho thấy biến đổi lớn

trong cơ cấu việc làm của người dân nơi đây. Từ chỉ có 3.3% tỉ lệ người dân

không có việc làm ổn định khi chưa quy hoạch đất đai tăng lên tới 45.6% sau

khi đã tiến hành quy hoách đất đai, cho thấy vấn đề việc làm tạo thu nhập ổn

định đang là khó khăn lớn nhất của người dân. Họ bắt đầu chuyển sang các

ngành nghề khác như làm công nhân 27.8% hay nghề biển 11.1% (nghề này

tăng lên rất ít), những nghề này đều là những nghề nặng nhọc và thu nhập thì

không cao, trong đó công nhân là nghề nghiệp được người dân lựa chọn nhiều

nhất vì không đòi hỏi trình độ quá cao, hiển nhiên khu công nghiệp Phú Tài

là khu vực thu hút nhiều nhất lượng công nhân trên địa bàn này, nhưng vẫn

không thể giải quyết hết được tỉ lệ lao động thất nghiệp ở đây và cũng vì địa

điểm làm việc quá xa nên một phần người dân không tham gia được. Trong

khi tình hình giá cả thị trường hiện nay đang tăng đột biến thì để có một cuộc

sống ổn định là điều không dễ dàng.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 39

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Quán nước mía tạm bợ tăng thêm thu nhập cho gia đình

Thực tế cho thấy với trình độ thấp thì việc tìm kiếm được những công

việc có thu nhập cao ổn định là rất khó. Vì thế người dân lựa chọn những

công việc không đòi hỏi trình độ học vấn cao. Qua tìm hiểu thì đa số phụ nữ

không có việc làm ổn định ở khu vực này thường ở nhà, ban đêm đi nhặt “ve

chai” hay có ai mướn gì thì làm nấy, còn đàn ông thì họ thường tập trung ở

các khu chợ để làm nghề khuân vác mướn hay chạy xe ôm. Những nghề này

đều là nghề nặng nhọc, nguy hiểm, thu nhập lại thấp nên không mang lại hiệu

quả kinh tế cao và ổn định.

Tiệm hớt tóc nữ duy nhất ở khu vực

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 40

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Ta thấy có sự khác biệt về nghề nghiệp ở các độ tuổi. Trong độ tuổi

trên 60 thì đa số người dân ở trong tình trạng không có việc làm chiếm

93.8%, còn lại họ tổ chức buôn bán nhỏ như bán nước mía, bán bán xèo, tạp

hóa nhỏ. Điều này cũng phù hợp với tình trạng độ tuổi và sức khỏe của họ.

Còn ở độ tuổi từ 18 – 30 tuổi thì nghề nghiệp chủ yếu là công nhân và tình

trạng thất nghiệp chiếm tỉ lệ thấp nhất ở các độ tuổi. Ở độ tuổi từ 31 – 45 thì

tỉ lệ người dân làm công nhân vẫn là chủ yếu, tuy nhiên nghề biển cũng được

lựa chọn nhiều chiếm 18.2%, tỉ lệ lao động không có việc làm ổn định chiếm

tỉ lệ cao hơn lứa tuổi trước với tỉ lệ 31.8%. Ở độ tuổi 46 – 60 thì công nhân

vẫn là nghề chiếm tỉ lệ cao nhất (29.4%), nghề biển cũng được người dân

chọn nhiều với tỉ lệ 14.8%, và tỉ lệ lao động thất nghiệp chiếm tỉ lệ cao hơn

sao với hai lứa tuổi trước.

Ở độ tuổi 18 – 30 nghề nghiệp chính ở độ tuổi này là công nhân chiếm tỉ

lệ 44.3%, đây là một lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với người lao động ở độ tuổi

này, vẫn còn một tỉ lệ không nhỏ là 27.8% người dân chưa có việc làm ổn định.

Điều đáng nói ở đây là ở độ tuổi này họ vẫn đang là độ tuổi thanh niên, là những

người năng động và còn dồi dào sức khỏe nhất thì trình độ học vấn của họ lại

không cao nên vấn đề việc làm đối với họ vẫn rất khó khăn.

Ở độ tuổi 31 – 45 tuổi thì nghề nghiệp chính vẫn là công nhân, tuy nhiên

tỉ lệ này so với lứa tuổi 18 – 30 thì ít hơn. Ở độ tuổi này thì các doanh nghiệp

hay công ty cũng phần nào đó hạn chế nhận vào làm việc mà họ sẽ ưu tiên cho

lượng lao động có tuổi đời trẻ hơn. Như vậy so với lứa tuổi trước thì cơ hội việc

làm của người dân ở độ tuổi này bị khép kín hơn. Điều đó giải thích vì sao tỉ lệ

người lao động ở lứa tuổi này tăng cao hơn so với lứa tuổi trước, tuy nhiên cũng

không đáng kể lắm. Điều đáng quan tâm ở độ tuổi này là tỉ lệ người dân chưa có

việc làm ổn định chiếm tỉ lệ cao hơn so với độ tuổi 18 – 30, chiếm 31.8%.

Ở lứa tuổi từ 46 – 60 ta thấy tỉ lệ lao động có việc làm lại giảm đi so với

hai lứa tuổi trước mà tỉ lệ lao động không có việc làm ổn định tăng lên rất nhiều

chiếm 41.2%. Điều đó cũng là một thực tế đáng buồn, vì ở độ tuổi này các công

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 41

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

ty hay xí nghiệp sẽ hạn chế tới mức tối đa nhận vào làm, vì thao tác của họ chậm

hơn, dễ đau bệnh hơn, vấn đề an toàn lao động ít được đảm bảo hơn và thời gian

có thể gắn bó với công ty để làm công nhân lành nghề là ít hơn nhiều. Như vậy

ở lứa tuổi này mặc dù người lao động sẽ rất khó tìm được việc làm trong các

công ty, xí nghiệp. Điều đó sẽ hạn chế rất lớn cơ hội tìm được việc làm ổn định

của họ.

Độ tuổi trên 60 là đã hết độ tuổi lao động, họ được xem là những người

cần an hưởng tuổi già bên con cháu. Tuy nhiên khi điều kiện kinh tế còn không

được đảm bảo thì họ vẫn sẽ lao động để ít nhất không trở thành gánh nặng cho

con cháu. Nếu trước đây với nghề muối thì không có sự phân biệt về lứa tuổi,

mọi độ tuổi đều có thể làm được nếu có sự đảm bảo về sức khỏe, vậy thì dù đã

trên 60 tuổi thì họ vẫn có thể tham gia lao động với các thành viên khác trong

gia đình. Tuy nhiên đất đai điều đã được quy hoạch thì họ không thể tìm được

công việc nào khác ngoài việc trông cháu cho con hay mở các quán nước nho

nhỏ vừa làm cho vui, vừa góp thêm vào “tiền đi chợ”.

Qua phân tích ta thấy, giữa độ tuổi và nghề nghiệp có mối quan hệ tỉ lệ

nghịch với nhau khi lứa tuổi càng tăng thì khả năng tìm được việc làm ổn định

ngày càng giảm và tỉ lệ lao động không có việc làm ổn định tăng lên rõ rệt.

Công việc chủ yếu mà người lao động tham gia là làm công nhân, trong khi đó

mức lương công nhân không hề cao thì đời sống kinh tế của cả gia đình thực sự

sẽ gặp rất nhiều khó khăn.

Như vậy ta thấy dù ở độ tuổi lao động nào thì hầu như công nhân vẫn là

nghề nghiệp chính mà họ lựa chọn, và ở độ tuổi càng cao thì tỉ lệ lao động có

việc làm ổn định càng giảm. (Xem thống kê bảng 30 – phần phụ lục).

Xem bảng 35 – phần phụ lục ta cũng thấy tỉ lệ lao động không có việc

làm ổn định có chiều hướng giảm tỉ lệ thuận theo trình độ học vấn, cụ thể

người dân mù chữ có tỉ lệ thất nghiệp cao nhất là 60%, ở trình độ tiểu học thì

tỉ lệ này là 55.6%, trung học cơ sở và trung học phổ thông là 42.8% và trình

độ TCCN – CĐ – ĐH là 25%. Ở trình độ TCCN - CĐ - ĐH thì nghề nghiệp

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 42

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

chiếm tỉ lệ chính chính là buôn bán, dịch vụ (50%). Còn ở những trình độ còn

lại thì công nhân và nghề biển chiếm tỉ lệ cao cụ thể như ở trình độ mù chữ

thì 40% người dân làm công nhân, ở trình độ tiểu học thì 27.7% người dân

làm công nhân, ở trình độ trung học cơ sở thì có 23.8% người dân làm nghề

biển và 21.4% người dân làm nghề công nhân, ở trình độ trung học phổ thông

thì tỉ lệ người dân làm công nhân là chủ yếu chiếm tỉ lệ 38.2%. Như vậy

người dân có trình độ học vấn từ Trung cấp chuyên nghiệp trở lên thì họ chọn

những việc mang tính chất thiên về đầu óc tính toán hơn. Còn những người ở

trình độ thấp hơn thì công việc chính mà họ chọn là các công việc thiên về

sức lực.

2.2.2.2 Mức độ ổn định của công việc

Độ ổn định trong công việc hiện tại của người dân được thể hiện qua bảng

thống kê sau:

Bảng 11: Độ ổn định của công việc hiện tại

Độ ổn định Số lượng Tỉ lệ (% )

4.4 Rất ổn định 4

36.6 ổn định 33

Không ổn định 36 40

19 Rất không ổn định 17

100 Tổng 90

Qua bảng xét mức độ ổn định của công việc hiện tại ta thấy có 59% người

dân ở đây cho rằng công việc hiện tại của họ là không ổn định hay rất không ổn

định, có 36.6% người dân cho rằng công việc hiện tại của họ là ổn định và 4.4%

số người dân có việc làm rất ổn định. Qua đó ta thấy được có 59% tỉ lệ người

dân hiện đang không có việc làm ổn định, qua phân tích về việc làm hiện nay

của người dân cho thấy một tỉ lệ lớn người dân đang phải làm những công việc

mang tính chất bán thời gian, phụ thuộc vào sự may mắn nên công việc không

có độ ổn định cao.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 43

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Theo lời của chú Hồ Văn Hải “Sáng chú dậy sớm ra ngoài chợ, có mấy

anh em ở đó nữa, tụi chú tập trung lại ở một chỗ quen thuộc rồi ngồi chơi, hút

thuốc, nói chuyện, rồi khi có ai đó muốn khuân vác hay thuê mướn gì thì tụi chú

làm”, “có khi chú kiếm được cả vài trăm một ngày, nhưng cũng có khi cả ngày

chỉ kiếm được vài chục, mà nghề này tốn sức lắm, đêm về là mệt mỏi rã rời”.

Hay theo lời một người phụ nữ giấu tên thì “ban ngày cô ở nhà lo nội trợ,

rồi khoảng 9h30 là cô đi bới rác để tìm sắt vụn, nhôm nhựa người ta bỏ mang đi

bán, ráng kiếm tiền để lo bữa ăn cho hôm sau”, “mới đầu thì dị lắm, nhưng giờ

thì hết rồi, quen rồi”.

Như vậy tính chất công việc của người dân không có độ ổn định cao, nếu

chẳng hạn trời mưa thì không thể đi làm để tăng thu nhập, đồng thời công việc

nguy hiểm, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe mà thu nhập lại thấp.

2.2.2.3 Mức độ phù hợp của công việc

Để làm rõ sự phù hợp nghề ở hiện tại của người dân ta xét bảng sau:

Bảng 12: Sự phù hợp của công việc hện tại đối với người dân

Sự phù hợp nghề Số lượng Tỉ lệ (% )

2.2 Rất phù hợp 2

Khá phù hợp 6 6.7

34.5 Phù hợp 31

35.6 Không phù hợp 32

20 Hoàn toàn không phù hợp 18

100 Tổng 90

Kết quả cho thấy một tỉ lệ lớn hơn người dân cho rằng công việc hiện tại

không phù hợp với mình chiếm 56.6%. Trong đó có 35.6% cho rằng công việc

hiện tại của họ là không phù hợp và có 20% số người được hỏi khẳng định công

việc hiện tại của họ là hoàn toàn không phù hợp. Ta cũng thấy có 34,5% người

dân đang có việc làm phù hợp với bản thân, 6.7% số người dân nhận xét là khá

phù hợp và 2.2% nhận cho rằng công việc hiện tại rất phù hợp với họ.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 44

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Như vậy có thể nhận thấy hơn một nửa dân cư ở đây đang làm những

công việc hoàn toàn không phù hợp với họ.

Khi tiến hành phỏng vấn sâu tôi gặp được trường hợp của cô Đỗ Thị Lặn.

Vốn là người Thanh Hóa, cô lấy chồng và theo chồng vào Bình Định xây dựng

cuộc sống gia đình, tuy nhiên sau khi ruộng muối bị quy hoạch đời sống gia đình

cô rơi vào hoàn cảnh vô cùng khó khăn. Cô không có việc làm, không có thu

nhập, chồng cô thì đi làm nghề khuân vác mướn, mới hơn 50 tuổi mà răng đã

rụng hết chỉ còn vài cái, người thì gầy teo. Biết công việc đó nặng nhọc và

không phù hợp với thể trạng của mình, nhưng chú vẫn làm, làm để nuôi cháu ăn

học, làm để trả nợ. Nợ đó theo lời cô là nợ phát sinh sau khi quy hoạch đất đai,

chứ trước đây thì nhà cô tuy khổ nhưng vẫn đủ ăn và chi tiêu cho cuộc sống gia

đình. Còn bản thân cô thì mang đủ bệnh trong người, mỗi lần phát bệnh thì cô

chỉ nằm nhà chờ chết chứ không lấy đâu ra tiền mà chữa bệnh. Cô khóc.

Theo lời của chú Nguyễn Văn Quang – người dân địa phương “tui biết

nghề đó khổ (khuân vác mướn) nhưng giờ biết làm gì bây giờ, đi xin làm công

nhân thì không được, đất thì không có lấy gì làm ăn, mấy người hàng xóm kêu

đi làm thì tui đi luôn”, “nghĩ lại hồi trước làm nghề muối ấy vậy mà khỏe hơn

bây giờ nhiều, không phải lo lắng nhiều, lại được thời gian nghi ngơi, còn bây

giờ khổ quá”

Như vậy ta có thể thấy sau khi quy hoạch đất đai, đa số người dân ở đây

đang làm những công việc không phù hợp với sức khỏe, nhu cầu của họ, mà chỉ

vì mục đích kinh tế và tìm được một công việc phù hợp là vấn đề vô cùng khó

khăn với người dân nơi đây.

Qua phân tích ta thấy dù ở bất cứ bậc học nào thỉ tỉ lệ người dân cảm thấy

nghề nghiệp hiện tại của mình không phù hợp chiếm tỉ lệ cao, cụ thể như:

Ở trình độ TCCN – CĐ – ĐH thì có 50% người dân cho rằng nghề nghiệp

hiện tại ít phù hợp với họ. Ở trình độ Trung học phổ thông thì có 38.1% số

người dân cho rằng công việc ít phù hợp với họ, và ở bậc trung học tỉ lệ này là

35.7%, bên cạnh đó còn có 33.4% cho rằng công việc hoàn toàn không phù hợp

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 45

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

với họ, ở bậc tiểu học có 44.4% số người dân cho rằng công việc ít phù hợp.

(Xem bảng 36 – phần phụ lục)

2.2.2.4 Thời gian lao động

Bảng 16. Thời gian lao động trung bình mỗi ngày

Thời gian lao động Số lượng Tỉ lệ (% )

14.4 Dưới 4h 13

41.1 Từ 4h – 8h 37

38.9 Trên 8h – 12h 35

Trên 12h 5 5.6

100 Tổng 90

Qua bảng thống kê ta thấy, tuy người dân phần đông không có nghề

nghiệp ổn định nhưng với những công việc không tên hay những công việc đòi

hỏi chờ người khác thuê mướn thì thời gian lao động của họ bỏ ra không phải là

ít, thể hiện ở con số 38.9% người dân có thời gian lao động từ trên 8h – 12h và

41.1% người dân lao động từ 4h – 8h mỗi ngày. Thời gian lao động hợp lý, tuy

nhiên thu nhập lại thấp là vì những công việc họ làm thường là nội trợ gia đình

hay ai thuê gì làm nấy.

Như vậy, mặc dù không có việc làm ổn định nhưng công việc hàng ngày

của họ vẫn chiếm một khối lượng thời gian khá lớn, và xét trong mối tương quan

với thu nhập thì công việc họ đang làm là những công việc không lương trong gia

đình hay mức lương họ nhận được chưa tương xứng với công sức của họ bỏ ra.

Giữa nam và nữ không có khác biệt lớn về thời gian lao động mỗi ngày,

thời gian lao động từ 4h – 12h mỗi ngày vẫn chiếm tỉ lệ cao nhất, cụ thể ở nam

là 82.7% và ở nữ là 77.3% (Xem bảng 25 – phần phụ lục). Tương tự thời gian

lao động mỗi ngày dưới 4h và trên 12h cũng chiếm tỉ lệ tương đương nhau. Điều

đó khẳng định sự phân công thời gian lao động theo giới ở khu vực này là phù

hợp.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 46

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

2.2.2.5 Nơi làm việc

Bảng 10: Địa điểm làm việc của người dân

Tỉ lệ (% ) 48.9 16.7 33.3 1.1 100 Địa điểm Ở nhà Trong phường Ngoài phường Ngoại thành Tổng Số lượng 44 15 30 1 90 Qua bảng trên ta thấy tỷ lệ người dân làm việc tại nhà hoặc không có việc

làm chỉ ở nhà là cao nhất 48.9%, và tỉ lệ người dân làm việc ở ngoại thành

chiếm 33.3%. Hai số liệu này vừa xác minh tính tin cậy của bảng 9, vì nếu

không có việc làm ổn định hay chỉ loay hoay với công việc nhà thì thường họ sẽ

ở nhà là chủ yếu. Và theo phỏng vấn sâu thì những người làm công nhân thì có

một số ít là làm thọ máy cho các xưởng nhỏ ở ngoài đường Trần Hưng Đạo

thuộc phường Đống Đa, còn lại chủ yếu là làm cho các xí nghiệp, công ty gỗ ở

Phú Tài.

Hiện nay diện tích đất đai của các gia đình ở khu vực này là khá nhỏ bé,

thường thì chỉ xây được căn nhà và có một sân nhỏ trước nhà, vì vậy không đủ

điều kiện để phát triển kinh tế hộ gia đình. Trong khi đó với đa số gười dân

không có việc làm chỉ quanh quẩn ở nhà sẽ không tạo ra được nguồn thu nhập

nào đáng kể, mà phải trông chờ vào con cháu hay các thành viên khác tạo thêm

gánh nặng cho gia đình.

So với nam giới thì tỉ lệ nữ giới ở nhà chiếm tỉ lệ lớn hơn, cụ thể tỉ lệ này

ở nữ là 61.4% trong khi đó tỉ lệ này ở nam là 37%. Ngoài ra tỉ lệ nam làm việc

tại phường (nam: 21.7%, nữ: 11.4%) và ngoài phường (39.1% và 27.2%) đều

chiếm tỉ lệ cao hơn soi với nữ. Điều đó cho thấy so với nữ thì địa bàn làm việc

của nam tương đối rộng hơn hơn và linh hoạt hơn trong việc tìm kiếm việc làm

ở trong khu vực và các địa phương khác. (Xem bảng 32 – phần phụ lục)

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 47

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

2.2.2.6 Sự phân công lao động theo giới

Sự phân công lao động theo giới trong gia đình của người dân được thể

hiện qua bảng sau:

Bảng 8: Lao động chính trong gia đình

Tỉ lệ (% ) 54.4 10 35.6 100 Lao động chính Nam Nữ Cả nam và nữ Tổng Số lượng 49 9 32 90

Như bảng số liệu đã thể hiện, ta thấy ở khu vực này, lao động chính trong

các gia đình là nam chiếm tỉ lệ cao nhất 54.4%, trong khi tỉ lệ nữ làm lao động

chính chiếm tỉ lệ thấp (10%), bên cạnh đó cũng có một tỉ lệ lớn nữ giới cùng với

nam giới làm lao động chính của gia đình (35.6%). Điều này hoàn toàn phù hợp

với xu thế hiện nay của nước ta là mặc dù đa số trong các gia đình Việt Nam

người nam vẫn là trụ cột chính, nhưng với định hướng phát triển bình đẳng thì

vai trò của phụ nữ ngày càng được nâng cao và được xã hội công nhận. Như

vậy, việc tạo ra xu hướng bình đẳng về giới trong lao động sẽ góp phần nâng cao

cơ hội tăng thu nhập cho gia đình, người phụ nữ ngày càng chủ động hơn chứ

không chỉ trông chờ vào người đàn ông trong gia đình.

2.2.2.7 Thu nhập

Quá trình đô thị hóa là nhằm phục vụ cho quá trình phát triển chung của

một khu vực rộng lớn, hay để nhằm khai thác hiệu quả các nguồn tài nguyên của

đất nước. Đô thị hóa đồng nghĩa với việc con người đang sinh sống ở khu vực

đang sẽ là người đô thị. Tuy nhiên một thực trạng đang diễn ra ở khu vực 9,

phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn là người dân đô thị thất nghiệp, đời sống

kinh tế rơi vào hoàn cảnh vô vùng khó khăn.

Để thấy rõ hơn về sự khó khăn đó của người dân ở khu vự này ta xét bảng

phân tích số liệu thống kê sau:

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 48

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Bảng 17: Những thay đổi của đời sống gia đình người dân sau khi dự

án quy hoạch đất đai được tiến hành

Sự thay đổi Số lượng Tỉ lệ (% )

4.4 Được nâng cao 4

35.6 Bình thường 32

60 Khó khăn hơn 54

100 Tổng 90

Qua bảng trên ta thấy sau khi quy hoạch đất đai tình hình đời sống không

những không được nâng cao lên mà thậm chí có tới 60% người dân rơi vào

hoàn cảnh khó khăn hơn trước. Có 35.6% người dân vẫn giữ được sự ổn định

của kinh tế gia đình. Như vậy ta thấy công tác ổn định đời sống cho nhân dân

khi quy hoạch đất đai để đô thị hóa chưa được thực hiện có hiệu quả, thiếu tính

đồng bộ và không toàn diện, dẫn đến đời sống người dân ngày càng khó khăn.

Trong tình hình kinh tế hiện nay, giá cả hàng hóa tăng cao và tất cá các

dịch vụ đều tăng giá thì với đời sống của các gia đình s ống ở khu vực thành phố

có rất nhiều các khoảng phải chi tiêu: cho bữa ăn hàng ngày của gia đình, các

vật dụng trong gia đình, các khoảng vệ sinh môi trường, điện, nước, hoạt động

vui chơi – giải trí … thì mỗi tháng một gia đình không có con đi học xa phải chi

ra tối thiểu khoảng 2.5 triệu. Nhưng nếu không có việc thì không có thu nhập,

hay công việc không ổn định thì thu nhập sẽ không cao, thì tất yếu đời sống gia

đình sẽ rơi vào bần cùng, thậm chí nợ nần chồng chất.

Những căn nhà đổ nát, tạm bợ

cho thấy điều kiện sống khó khăn của người dân

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 49

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Về thu nhập của người dân ở khu vực 9, phường Đống Đa được thể hiện

rất rõ qua bảng sau:

Bảng 13: Thu nhập bình quân cá nhân hàng tháng

Thu nhập bình quân Số lượng Tỉ lệ (% )

19 Dưới 260 ngàn đồng 17

22.2 Từ 260 - <1 triệu đồng 20

45.6 Từ 1 triệu - <2.5 triệu đồng 41

13.2 Trên 2.5 triệu đồng 12

Tổng 90 100

Kết quả cho thấy có 45.6% người dân có thu nhập từ 1 triệu - <2.5 triệu

cho thấy rõ về tình hình đời sống khó khăn của người dân ở đây, đây không phải

là khoảng thu nhập quá thấp nhưng so với cuộc sống ở đô thị thì không thể nào

đáp ứng được cho sinh hoạt hàng ngày của một hộ gia đình.

Thu nhập từ 260.000 -< 1 triệu đồng cũng chiếm tỉ lệ 22.2%, thậm chí có

đến 19% người dân có thu nhập dưới 260.000 đồng, đây thực sự là mức thu

nhập quá thấp để gia đình có thể tồn tại ở đô thị, và các hộ này thường rơi vào

ngưỡng cận nghèo hay nghèo. Nhận định này càng có cơ sở hơn khi có đến

65.6% hộ có mức thu nhập không đủ chi tiêu cho cuộc sống gia đình

Bảng 15: Chi tiêu cho cuộc sống gia đình

Chi tiêu cho cuộc sống Số lượng Tỉ lệ (% )

2.2 Dư 2

32.2 Vừa đủ 29

65.6 Thiếu 59

100 Tổng 90

Qua bảng 24 – phần phụ lục ta nhận thấy nam giới có thu nhập tương đối

cao hơn so với nữ. Ở mức thu nhập thấp nhất là dưới 260.000đồng thì nam

chiếm 13% trong khi nữ chiếm 25%. Ở mức thu nhập cao nhất là trên 2.5 triệu

đồng, thì nam chiếm tỉ lệ cao hơn với 17.4% và ở nữ là 9.1%.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 50

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Ngoài ra xét trên một phương diện khác thì thu nhập của người dân có

mối quan hệ rất lớn với trình độ học vấn của họ, để nhận thức rõ được điều đó

thì ta tiến hành nhận xét mối tương quan giữa trình độ học vấn và thu nhập của

người dân địa phương qua bảng 31 – phần phụ lục.

Qua bảng tương quan ta thấy ở trình độ học vấn TCCN – CĐ – ĐH người

dân đã có thu nhập từ 1 triệu trở lên, cụ thể thu nhập từ 1triệu -<2.5 triệu là 25%

và trên 2.5 triệu là 75%. Ở bậc học thấp hơn thì đa số người dân nằm trong mức

thu nhập từ 260.000 -<2.5 triệu, cụ thể như ở bậc học trung học phổ thông thì có

52.4% người dân có thu nhập từ 1 triệu đến dưới 2.5 triệu, bậc trung học cơ sở

có 50% người dân có thu nhập từ 260.000 -<2.5 triệu và đối với người dân mù

chữ thì có 60% người dân có thu nhập từ 1 triệu đến dưới 2.5 triệu.

Qua bảng tương quan ta thấy ở trình độ học vấn có vai trò rất lớn trong

việc điều chỉnh mức thu nhập hàng tháng của người lao động. Và ở các bậc học

càng cao thì thu nhập của người dân càng cao và tỉ lệ người dân có mức thu

nhập dưới 1 triệu đồng giảm theo từng bậc học cao hơn, điều đó là hoàn toàn

hợp lý.

2.2.2.8 Những khó khăn trong vấn đề việc làm

 Theo bảng 18 sẽ cho chúng ta thấy rõ những khó khăn mà cộng đồng dân

cư khu vực 9, phường Đống Đa hiện đang gặp phải:

Bảng 18: Những khó khăn người dân đang gặp phải trong vấn đề việc

làm

Những khó khăn Tổng số ý kiến Tỉ lệ (% )

15.6 Không có khó khăn gì 14

44.4 Thiếu vốn 40

34.4 Thiếu kiến thức 31

6.7 Thiếu phương tiện sản xuất 6

7.8 Lớn tuổi 7

12.2 Sức khỏe yếu 11

3.3 Phụ thuộc vào thời tiết 3

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 51

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Theo như bảng số liệu đã cho thấy hiện nay khó khăn lớn nhất mà người dân

đang gặp phải là thiếu vốn (44.4%) và thiếu kiến thức (34.4%). Và tiếp theo là khó

khăn về sức khỏe (12.2%), lớn tuổi (7.8%), thiếu phương tiện sản xuất (6.7%).

Theo như đánh giá của người dân về chính bản thân họ thì vấn đề thiếu

vốn sản xuất đang là vấn đề lớn nhất đối với họ, thì một câu hỏi đặt ra là: vậy số

tiền đền bù ruộng đất của họ đâu? Thắc mắc về vấn đề này tôi đã tiến hành

phỏng vấn sâu các hộ gia đình đang gặp phải khó khăn về thiếu vốn. Hiện tại

vấn đề xin việc ở các công ty, xí nghiệp đang gặp nhiều khó khăn thì giải pháp

họ thường lựa chọn là chọn nghề biển hay buôn bán nhỏ. Trong khi đó để làm

nghề biển thì họ cần mua phương tiện sản xuất như ghe, lưới… số tiền để sắm

những phương tiện đó là không hề nhỏ. Trong khi đó số tiền đền bù tuy không

nhỏ, nhưng trong khoảng thời gian không tìm kiếm được việc làm họ dồn số tiền

đó vào cho chi tiêu trong gia đình. Theo như phỏng vấn sâu tôi được biết khoảng

tiền đền bù của nhà nước ở giai đoạn đầu (khoảng năm 2000) là 26.000đồng/m2

đất nông nghiệp và bình quân mỗi hộ dạng 4 khẩu thì có khoảng 1000m2 đất

nông nghiệp, trong giai đoạn sau (không rõ thời gian cụ thể) thì tăng lên

34.000đồng/m2 đất nông nghiệp. Những hộ gia đình ở đây được đền bù nhiều

thì lên đến vài trăm triệu đồng, những hộ này thì tình hình đời sống kinh tế đang

còn rất thoải mái, những hộ được đền bù ít thì khoảng 20 – 50 triệu. Cầm số tiền

đó trong tay thì có vẻ lớn, nhưng thực ra chỉ một hay hai năm là hết sạch. Nên

để tự đầu tư phát triển kinh tế họ đang vấp phải vấn đề lớn nhất là thiếu vốn.

Vấn đề thiếu kiến thức để tìm được việc làm ổn định cũng chiếm tỉ lệ lớn

là 34.4%. Với trình độ học vấn thấp thì ít người dân có thể sử dụng nguồn vốn

hiệu quả. Như ở phân tích ở trên ta đã thấy trình độ học vấn của người dân ở khu

vực này tương đối thấp, trong xu thế phát triển toàn cầu hóa hiện nay, vấn để

trình độ học vấn đang rất được đề cao, vậy để xin được vệc làm với trình độ văn

hóa thấp là không dễ dàng. Các công ty, xí nghiệp hiện nay đang chỉ tuyển nhân

viên với trình độ trung học cơ sở trở lên, và ưu tiên cho lao động có trình độ

trung học phổ thông. Vậy khó khăn lớn thứ hai mà họ đang gặp phải là trình độ

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 52

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

học vấn thấp và vấn đề nâng cao trình độ học vấn của họ hiện nay không phải là

vấn đề đơn giản.

 Ngoài ra theo phân tích bảng tương quan mối quan hệ giữa giới tính và

khó khăn trong vấn đề việc làm (Bảng 29), cho ta thấy được tại khu vực này

không có sự khác biệt quá lớn trong những khó khăn mà nam và nữ gặp phải.

Thiếu vốn vẫn là vấn đề khó khăn lớn nhất mà cả nam và nữ đều gặp phải, trong

đó khó khăn về vốn sản xuất ở nam chiếm tỉ lệ 32.7% và ở nữ tỉ lệ này là 38.6%.

Tiếp theo đó, vấn đề khó khăn về kiến thức vẫn chiếm tỉ lệ cao ở cả 2 giới, cụ

thể ở nam là 29.1% và ở nữ là 26.2%. Song tỉ lệ nam gặp khó khăn về sức khỏe

lại chiếm tỉ lệ cao hơn so với nữ, ở nam là 12.7% và ở nữ còn ở nữ là 7%, giải

thích về sự chênh lệch này là do hoạt động nông nghiệp thì người đàn ông đóng

vai trò chính, làm những việc nặng nhất, nên về sau người đàn ông sẽ xuống s ức

nhanh hơn so với phụ nữ. Có 5.3% phụ nữ gặp khó khăn về thời tiết còn ở nam

giới là 0%, sự khác nhau này là do có một tỉ lệ nhỏ phụ nữ đang tổ chức buôn

bán, ngày nắng thì họ còn tăng được một khoảng thu nhập cho gia đình, ngày

mưa thì sẽ có ít khách mua hàng.

 Ngoài ra cộng đồng dân cư khu vực 9 ở đây còn gặp phải khó khăn khi

tìm kiếm việc làm tại địa phương. Việc làm cho người dân trên địa bàn là rất ít,

nên cơ hội việc làm cho cộng dồng bị thu hẹp đáng kể.

 Một số người có nhu cầu việc làm nhưng ngay tại địa phương không có

việc gì có thể đáp ứng cho nhu cầu của họ được mà phải đi xa nên đã tạo rào cản

lớn cho vấn đề tìm việc làm của họ.

 Hiện nay giá cả hàng hóa đang tăng cao, trong khi lương bổng thì tăng rất

chậm đã ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình đời sống của người dân tại địa

phương.

 Một số người dân vì trình độ học vấn quá thấp không thể tự đánh giá đúng

những khó khăn của mình mà cần phải có người nghiên cứu định hướng. Một số

người dân vẫn biết chữ và đọc tốt viết tốt, nhưng khi cầm bảng hỏi anket trong

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 53

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

tay thì họ lại không dám trả lời mà trả lại cho người nghiên cứu. Điều đó cũng

cho thấy sự rụt rè, thiếu sự chủ động trong mọi vấn đề.

2.2.2.9 Nguyên nhân của vấn đề việc làm

* Nguyên nhân chủ quan

 Trình độ học vấn thấp nên việc tìm kiếm việc làm ổn định gặp phải rất

nhiều khó khăn. Chính điều này đã trở thành nguyên nhân chính hạn chế cơ hội

xin việc và học nghề của họ.

 Người nông dân vốn quen với ruộng đồng, ao hồ nên khi tiếp xúc với các

lĩnh vực ngành nghề khác họ còn nhiều bỡ ngỡ, rụt rè, chậm chạp dẫn đến tiến

độ công việc không cao, nên việc xin việc của họ vấp phải nhiều khó khăn.

 Người dân ở khu vực này vốn từ xưa làm nghề nông (diêm nghiệp) là chủ

yếu nên đã hình thành tâm lý thụ động, trông chờ, ỷ lại khi gặp phải những khó

khăn, thách thức. Đồng thời khả năng thích nghi với môi trường xã hội mới

kém, thiếu tính sáng tạo và chủ động.

Trong điều kiện đất sản xuất bị mất đi, khả năng tìm kiếm việc làm đối

với những người lao động có trình độ học vấn thấp sẽ gặp nhiều khó khăn, vì

vậy cần phải linh động trong nhiều nguồn lực giúp đỡ. Tuy nhiên người dân ở

đây lại mang nặng tư tưởng trông chờ vào sự giúp đỡ của chính quyền địa

phương. Từ đó khi vấn đề giải quyết việc làm không đạt được hiệu quả đa số

người dân lại chỉ biết đổ lỗi cho chính quyền địa phương, cho các tổ chức có

trách nhiệm thực hiện dự án quy hoạch. Người dân không thực sự chủ động

trong việc giải quyết việc làm cho chính mình, trong khi chính họ mới là chủ thể

của vấn đề còn sự giúp đỡ của chính quyền địa phương chỉ là sự hỗ trợ từ bên

ngoài.

 Người nông dân ít khi tích lũy được một số tiền lớn trong tay nên khi

dự án quy hoạch được tiến hành, người dân nhận được một khoảng đền bù khá

lớn. Với số tiền lớn trong tay hầu như người nông dân không biết cách linh động

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 54

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

nguồn vốn đó để phát triển kinh tế, số tiền đó họ dành để chi tiêu và mua sắm đồ

dùng cho gia đình. Nhìn những căn nhà ọp ẹp, bị đập một phần vì nằm trong khu

vực giải tỏa tương phản với những chiếc tivi màn hình phẳng 21inch, 29inch và

những chiếc xe máy xịn mới cáu như Air blade, Nouvo LX, Excenter... trị giá

hàng chục triệu mới biết họ vừa mua không lâu, và số tiền đền bù họ dành cho

mua sắm là rất nhiều.

 Dù công việc hiện tại có thu nhập thấp nhưng người dân vẫn kém linh

động trong việc tìm kiếm thêm những công việc phụ để tăng thu nhập cho gia

đình. Cụ thể, dựa vào bảng 14 ta thấy có tới 87.8% người dân không chủ động

tìm kiếm những công việc làm phụ để tăng thu nhập cho gia đình, chẳng hạn

như chăn nuôi gia cầm, trồng rau, xin vào làm cho các quán gần đó... chỉ có

12.2% tỉ lệ người dân có làm thêm việc phụ để tăng thu nhập cho gia đình, tỉ lệ

này quá thấp.

 Trước đây khi người dân còn hoạt động nông nghiệp, công việc rất

nhiều và cực khổ, nhưng họ vẫn bám nghề và cần cù lao động. Khi dự án giải

tỏa đất đai được tiến hành, trong một khoảng thời gian dài người dân rơi vào

tình trạng rảnh rỗi và sử dụng tiền đền bù cho chi tiêu cuộc sống trong gia đình

hoặc của con cháu gởi cho thì lại hình thành nên trong họ tâm lý thích được

hưởng thụ, biếng làm việc. Vì thế nên khi không có việc làm họ lại cậy vào tiền

đền bù hay cậy vào con cháu với lý do là không biết làm việc gì hay lớn tuổi rồi

mặc dù họ vẫn đang trong độ tuổi lao động.

 Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay vấn đề tuyển dụng lao

động của các cơ quan, xí nghiệp rất phong phú, trên báo, đài, truyền hình, trên

mạng internet, các tờ rơi và đặc biệt là thông qua các trung tâm giới thiệu việc

làm. Tuy nhiên ở bảng 23 – bảng tìm hiểu về những phương pháp tìm việc của

người dân sau quy hoạch đất đai lại cho thấy một nguyên nhân lớn nữa dẫn đến

tình trạng thất nghiệp của người dân ở khu vực này chiếm tỉ lệ cao.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 55

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Bảng 23: Những cách thức tìm kiếm việc làm của người dân sau khi quy

hoạch đất đai

Cách thức tìm việc Số lượng Tỉ lệ (% )

63.3 Thông qua người quen giới thiệu 57

2.2 Thông qua trung tâm giới thiệu việc làm 2

1.1 Thông qua báo chí, truyền hình 1

2.2 Thông qua sự giới thiệu của địa phương 2

32.2 Chưa đi xin việc 29

Qua bảng trên ta thấy có 67.8% số người dân có đi tìm kiếm việc làm

bằng nhiều hình thức khác nhau, trong khi đó có tới 32.2% tỉ lệ người dân chưa

đi xin việc. Tỉ lệ người dân chưa đi xin việc quá lớn nên dẫn đến tình trạng thất

nghiệp nặng nề ở khu vực này, những người này thường là phụ nữ ở nhà nội trợ

còn chồng đi làm hay có tư tưởng hưởng thụ, ỷ lại như trên đã phân tích.

Trong khi có tới 63.3% tỉ lệ người dân tìm việc bằng cách thông qua

người thân giới thiệu, thì tỉ lệ người dân tìm việc thông qua các hình thức khác

như thông qua chính quyền địa phương (2.2%), thông qua trung tâm giới thiệu

việc làm (2.2%), thông qua báo chí – truyền hình (1.%) lại rất ít ỏi. Điều đó cho

thấy khả năng cập nhập thông tin tuyển dụng lao động của người dân còn quá

nhỏ hẹp, trong khi các hình thức khác hiện nay lại có tiềm năng rất lớn đối với

việc tìm kiếm việc làm cho bản thân họ

* Nguyên nhân khách quan

 Cơ hội việc làm cho người dân trên địa bàn khu vực quá thấp. Người dân

không có nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm ngay trên chính địa phương mình

đang sinh s ống. Điều đó được thể hiện qua bảng phân tích số liệu sau:

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 56

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Bảng 19: Cơ hội việc làm cho người dân ở địa phương

Cơ hội việc làm Số lượng Tỉ lệ (% )

1.1 Rất lớn 1

2.2 Khá lớn 2

3.3 Lớn 3

33.4 Không lớn 30

60 Không có 54

100 Tổng 90

Theo như đánh giá của chính cộng đồng thì có tới 60% cho rằng trên

địa bàn khu vực 9 không có một cơ hội việc làm nào cho họ có thể tham gia,

có 33.4% số người dân cho rằng cơ hội việc làm của họ là không lớn, chỉ có

3.3% cho rằng cơ hội việc làm là lớn, 2.2% cho là khá lớn và 1.1% cho là rất

lớn. Như vậy ta thấy rằng cơ hội việc làm cho người dân là quá thấp trong khi

nhu cầu lại quá cao, chính sự mâu thuẫn đó đã phần nào đẩy người dân vào

tình trạng thất nghiệp.

 Cơ cấu ngành nghề ở địa phương không phong phú và kém tiềm năng.

Bảng 22: Những nghề ở khu vực mà người dân có thể tham gia sau

khi đất sản xuất đã được quy hoạch

Những nghề trong khu vực mà người dân Số lượng Tỉ lệ (% ) có thể tham gia

7.8 Công nhân 7

Buôn bán nhỏ 18 20

7.8 Phụ hồ 7

3.3 Nghề biển 3

1.1 Uốn tóc 1

1.1 Kinh tế hộ gia đình 1

58.9 Không có nghề nào 53

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 57

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Dựa vào bảng trên ta thấy có tới 58.9% số người được hỏi cho rằng

trong khu vực họ không thể tham gia được, bên cạnh đó ta cũng thấy cơ cấu

nghành nghề trong khu vực quá ít, chỉ có 6 nghề là người dân có thể tham gia

lao động, tuy nhiên tỉ lệ đó chỉ chiếm 42.1%

 Chính quyền địa phương ít quan tâm đến việc giải quyết việc làm cho

người dân ở khu vực. Công tác quy hoạch đất đai có tác động rất lớn đối với

đời sống của người dân, đặc biệt vấn đề việc làm cần giải quyết nhanh chóng

và hiệu quả để đời sống nhân dân được ổn định và ngày càng được nâng cao.

Tuy nhiên theo đánh giá của người dân thì vai trò của chính quyền địa

phương là quá nhỏ bé, hay chỉ là về mặt hình thức, điều đó thể hiện qua bảng

sau:

Bảng 20: Sự quan tâm của chính quyền địa phương đối với việc giải quyết

việc làm cho người dân

Sự quan tâm của chính quyền Số lượng Tỉ lệ (% )

Có 11 8.9

91.1 Không 79

100 Tổng 90

Qua bảng trên ta thấy có 91.1% trong tổng số ý kiến đánh giá rằng chính

quyền địa phương không quan tâm đến việc giải quyết việc làm cho họ, chỉ có

8.9% cho rằng chính quyền có sự quan tâm. Như vậy ta thấy vai trò rất quan

trọng của chính quyền địa phương trong việc giải quyết việc làm cho người

dân sau khi quy hoạch đất đai đã không được thực hiện hiệu quả. Một cán bộ

lớn trong phường nói “ thì kế hoạch quy hoạch đất đai là của tỉnh giao xuống

cho phường thực hiện, phường chỉ làm hết trách nhiệm giải tỏa đất đai như

tỉnh giao cho, còn vấn đề việc làm thì làm sao mà giải quyết hết được, rồi từ từ

họ cũng ổn định lại thôi”. Sự vô tâm của chính quyền địa phương khiến cho

việc giải quyết vấn đề việc làm cho người dân không đạt được hiệu quả.

 Việc chính quyền địa phương giải quyết việc làm cho người dân chỉ

mang tính hình thức và xuất phát từ trên xuống chứ không thực sự tìm hiểu

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 58

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

nhu cầu, nguyện vọng của người dân, điều đó đi ngược lại với mục tiêu lớn

nhất của quá trình đô thị hóa là phát triển về mọi mặt cho người dân.

 Hiện nay cùng với xu hướng phát triển của xã hội, trình độ của người

lao động ngày càng được nâng cao, vì thế trong các công ty xí nghiệp nhu cầu

tuyển lao động có tay nghề, có trình độ cao đang là ưu tiên số một. Vì thế cơ

hội việc làm cho người dân có trình độ thấp hầu như là rất thấp.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 59

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ VIỆC

LÀM CHO NGƯỜI DÂ N KHU VỰC 9, PHƯỜNG ĐỐNG ĐA,

THÀNH PHỐ QUY NH ƠN

3.1 Nhu cầu đào tạo nghề của người dân khu vực 9, phường Đống Đa,

thành phố Quy Nhơn

 Nhu cầu về vay vốn sản xuất: hiện nay nhu cầu vay vốn sản xuất và nhu

cầu được đào tạo nghề đang là hai nhu cầu lớn nhất của người dân, điều đó thể

hiện qua tỉ lệ 44.4% số người dân đang gặp khó khăn về thiếu vốn sản xuất,

34.4% số người dân đang gặp khó khăn về kiến thức. Sau khi quy hoạch đất đai

tình hình đời sống người dân lâm vào hoàn cảnh khó khăn,vấn đề vốn sản xuất

đối với họ rất cần thiết, tuy nhiên số hộ được ưu đãi vay vốn nhà nước lại có hạn

nên đa số người dân ở đây thường vay “nóng” bằng các nguồn khác với mức lãi

cao, dẫn đến tình trạng khó khăn càng khó khăn hơn. Tuy nhiên, nhu cầu vay

vốn của người dân luôn phải đi liền với công tác đào tạo nghề, bởi không phải ai

cũng có khả năng sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay đó. Nếu có vốn sản xuất họ

sẽ chủ động hơn trong vấn đề việc làm của mình, vốn vay của nhà nước có lãi

suất thấp giúp người dân yên tâm hơn trong việc sử dụng vốn.

 Nhu cầu của người dân về vấn đề giải quyết việc làm là rất lớn. Trong đó

nhu cầu được đào tạo nghề là nhu cầu lớn nhất của người dân. Bảng số liệu sau

sẽ cho ta thấy được thực tiễn nhu cầu đào tạo nghề của người dân khu vực này

như thế nào.

Bảng 24: Nhu cầu được đào tạo nghề của cộng đồng

Tỉ lệ (% ) 43.3 37.8 18.9 100 Nếu được đào tạo nghề Tham gia ngay Có thể sẽ tham gia Không tham gia Tổng Số lượng 39 34 17 90

Qua bảng số liệu trên ta thấy có 43.3% số người được hỏi khẳng định sẽ

tham gia ngay lớp đào tạo nghề do chính quyền địa phương hay các tổ chức

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 60

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

đoàn thể nào đó mở ra, chiếm tỉ lệ cao nhất. Điều đó cho thấy nhu cầu được

đào tạo nghề của người dân hiện đang rất cấp thiết, một phần đông dân cư

trong cộng đồng đang mong chờ sự giúp đỡ này từ chính quyền hay các tổ

chức đoàn thể. Có 37.8% số người dân còn lưỡng lự trong việc lựa chọn sẽ

tham gia lớp đào tạo.. Chỉ có 17% số người dân khẳng định là sẽ không tham

gia vào khóa đào tạo.

 Để thấy rõ hơn về tính chất của nhu cầu đào tạo nghề giữa nam và nữ ta

xét mối tương quan giữa giới tính và nhu cầu đào tạo nghề, kết quả cho thấy:

Bảng 33: Mối tương quan giữa nhu cầu đào tạo nghề và giới tính

Nam Nữ

Tổng Tỉ lệ(%) Số lượng Tỉ lệ(%) Số lượng Giới tính Được đào tạo nghề

45.6 34.8 19.6 100% 40.9 40.9 18.2 100% 21 16 9 46 18 18 8 44 39 34 17 90 Tham gia ngay Có thể sẽ tham gia Không tham gia Tổng

Qua bảng tương quan ta nhận thấy có sự khác nhau trong nhu cầu đào tạo

nghề giữa nam và nữ, thể hiện có 45.6% tỉ lệ nam khẳng định sẽ tham gia khóa

đào tạo nghề, còn ở nữ là 40%, tỉ lệ này ở nam cao hơn so với nữ; có 34.8% tỉ lệ

nam còn lưỡng lự trong việc lựa chọn có nên tham gia hay không thì tỉ lệ nữ lại

cao hơn chiếm 40.9%. Ngoài ra tỉ lệ nam và nữ không tham gia lớp đào tạo nghề

gần như xấp xỉ nhau, ở nam là 19.6%, còn ở nữ là 18.2%. Ngoài ra ta còn thấy tỉ

lệ nữ khẳng định sẽ tham gia vào lớp đào nghề và còn lưỡng lự chiếm tỉ lệ

ngang nhau là 40.9%, trong khi đó ở nam thì số người có nhu cầu tham gia lớp

đào tạo nghề cao hơn so với số người còn đang lưỡng lự.

 Đặc biệt người dân ở đây rất mong nhận được sự quan tâm nhiều hơn nữa,

sâu sát hơn nữa về mọi mặt của chính quyền địa phương, đặc biệt là trong vấn

đề việc làm. Điều đó thể hiện qua bảng 26 với dạng câu hỏi mở để người dân tự

đề xuất ý kiến của mình với chính quyền địa phương.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 61

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Ngoài ra người dân còn mong chính quyền địa phương tổ chức các cuộc

họp xúc tiến việc làm, lắng nghe những ý kiến nguyện vọng, nhu cầu của dân để

giải quyết thỏa đáng. Người dân mong chính quyền địa phương giới thiệu việc

làm cho người dân như đã hứa trước khi quy hoạch đất đai.

 Qua phỏng vấn sâu cho thấy đa số người dân ở đây có nhu cầu được thay

đổi nghề nghiệp hiện nay của họ vì lương thấp không đủ chi tiêu hay còn do

nghề nghiệp hiện tại không phù hợp về sức khỏe, độ ổn định của công việc

không cao. Qua phỏng vấn sâu cũng cho thấy đa số người dân mong muốn quay

về nghề cũ của họ là nghề muối, vì với nghề đó họ đã có kinh nghiệm, không

cân kiến thức cao và cần rất ít vốn sản xuất.

3.2 Tiềm năng của cộng đồng trong việc giải quyết việc làm cho người dân

khu vực 9, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn

Bên cạnh những khó khăn của cộng đồng Cộng đồng dân cư khu vực 9 hiện

nay trong vấn đề việc làm. Ta thấy tại cộng đồng hiện nay cũng đang có những

tiềm năng để giải quyết vấn đề việc làm sau:

 Một trong những tiềm năng lớn xuất phát từ chính bản thân của cộng

đồng là đa số người dân ở khu vực này xuất phát từ nông nghiệp, nên họ có sẳn

bản tính cần cù, siêng năng, không ngại khó khổ, họ sống quan tâm giúp đỡ lẫn

nhau. Đó là một tiềm năng lớn của cộng đồng để giải quết vấn đề việc làm của

họ.

 Sau khi quy hoạch đất đai đường sá ở khu vực đã được cải thiện, giao

thông thuận lợi và phát triển. Nhìn chung vấn đề điện – đường – trường – trạm,

nước sinh hoạt rất thuận tiện nên đời sống nguời dân ngày càng được nâng cao.

 Cộng đồng khu vực 9 hiện đang có nguồn lao động dồi dào, đóng vai trò

quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 62

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Hiện nay trong khu vực đời sống kinh tế - văn hóa - xã hội của người dân

đang ngày càng được nâng cao, các loại hình dịch vụ ngày càng phát triển tạo cơ

hội cho người dân nắm bắt được cơ hội mà tự tạo việc làm cho mình hay xin

được việc làm.

 Hiện nay các công trình xây dựng trên địa bàn đang rất phát triển, đó cũng

là một nguồn giải quyết lao động tạo thời cho người dân địa phương.

 Các khu đô thị mới trong khu vực sắp sửa được xây dụng và hoàn thành

trong vài năm nữa sẽ là một tiềm năng lớn trong tương lai để tạo công ăn việc

làm, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương.

 Các công ty, xí nghiệp với quy mô nhỏ và vừa đang dần phát triển trên

địa bàn khu vực tạo cơ hội việc làm lớn cho người dân mà không cần phải di

chuyển xa.

 Hiện nay trên địa bàn các dịch vụ vui chơi, giải trí, thư giãn đang nở rộ vì

đây là khu vực có không gian tương đối yên tĩnh, đồng thời lại gần biển và

không khí trong lành. Nhất là vào buổi chiều quang cảnh trên các dòng sông rất

đẹp và vào buổi tối thì rất mát mẻ, thu hút được các loại hình buôn bán nhỏ như

quán nước, quán ăn, cà phê...

 Khu vực 9 tương đối gần với khu kinh tế Nhơn Hội hiện nay đã đi vào

xây dựng và trong vài năm tới sẽ cần một lượng lớn lao động. Đó là một cơ hội

lớn cho người dân tham gia lao động.

3.3 Một số giải pháp giải quyết việc làm nghề cho người dân khu vực 9,

phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn

Vấn đề giải quyết việc làm cho người dân bị thu hồi đất giải quyết việc

làm cho người dân bị thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội nói

chung và các dự án phát triển công nghiệp nói riêng là một vấn đề khó, vì vậy

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 63

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

cần phải thực hiện đúng những quan điểm nhất quán để quá trình phát triển này

thực sự mang lại lợi ích thiết thực nhất cho người dân.

Sau đây là những quan điểm giải quyết việc làm cho người lao động bị

thu hồi đất:

 Giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất phải trên quan điểm toàn

diện, bình đẳng và phát triển bền vững.

Tính toàn diện được thể hiện: Đối với mỗi dự án thu hồi đất (bất kể phục

vụ cho mục đích gì), các cấp chính quyền cần phối hợp với chủ đầu tư thông báo

kế hoạch cụ thể, công khai, minh bạch cho người dân, nơi có đất bị thu hồi.

Tránh tình trạng kế hoạch mập mờ về thời gian, phạm vi quy hoạch; giá cả đền

bù không rõ ràng…

Tính bình đẳng được thể hiện: Giá đền bù phải tuân thủ nguyên tắc thị

trường và đảm bảo nơi ở mới có điều kiện tối thiểu bằng nơi ở cũ. Tránh tình

trạng lợi dụng danh nghĩa Nhà nước để ép giá đền bù hoặc lừa dân để có giá

chênh lệch cao, sau đó chuyển nhượng dự án kiếm lời. Đây chính là nguyên

nhân chủ yếu dẫn đến những khiếu kiện về đất trong thời gian qua.

Tính bền vững thể hiện: Không chỉ có giá đền bù thoả đáng theo thị

trường, mà còn cần tạo điều kiện cho người dân bảo đảm được cuộc sống sau

này, bằng cách tạo việc làm mới để người dân có thu nhập thường xuyên, duy trì

được cuộc sống hàng ngày. Tránh tình trạng ở nhiều địa phương, người dân sau

khi nhận tiền đền bù, tiêu hết vào việc xây nhà, sắm sửa đồ đạc, thậm chí dư giả

thì ăn tiêu, cờ bạc. Sau khi tiêu hết tiền thì lại rơi vào cảnh thất nghiệp, thậm chí

thiếu ăn.

 Xác định đúng tầm quan trọng của công tác này với sự tham gia của cả

các cấp chính quyền (nơi có đất bị thu hồi), chủ đầu tư (doanh nghiệp nhận đất)

và người dân có đất bị thu hồi.

Lâu nay, đối với các dự án thu hồi đất, thường chỉ chú ý đến việc đền bù

(tính toán giá đất bị thu hồi), lo địa điểm tái định cư, mà ít chú ý đến giải quyết

việc làm cho người dân bị thu hồi đất. Có chăng, ở đâu đó có chú ý đến việc

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 64

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

này, thì trách nhiệm cũng dồn cả lên vai cấp chính quyền, nơi có đất bị thu hồi.

Còn doanh nghiệp được nhận đất chỉ cần lo đủ số tiền đền bù theo quy định

(nhiều khi còn được Nhà nước hỗ trợ), là hết trách nhiệm.

Quan niệm này cần được thay đổi. Trách nhiệm của doanh nghiệp nhận

đất sẽ phải được thể chế hoá thành những quy định cụ thể. Ngoài ra, những

người dân có đất bị thu hồi, ở một mức độ nào đó cũng phải chủ động tìm việc,

tự tạo cho mình những công việc thích hợp trong tương lai, khi mà đất canh tác

bị thu hẹp, để phục vụ cho những mục đích phát triển kinh tế - xã hội của quốc

gia.

 Kết hợp đồng bộ nhiều giải pháp tạo việc làm, trong cả nông nghiệp,

công nghiệp và dịch vụ;

Hiện trạng nông thôn Việt Nam, ở nhiều vùng quê đang thiếu việc làm,

chưa kể đến những địa phương có đất bị thu hồi cho mục đích phát triển kinh tế

- xã hội khác, thì nguy cơ thiếu việc làm càng trầm trọng hơn, nếu chỉ nhìn vào

quỹ đất để phát triển nông nghiệp. Chính vì vậy, cùng với việc tạo thêm việc

làm trong nông nghiệp, như tăng vụ, phát triển chăn nuôi, trồng trọt các giống

cây con mới, cần tạo việc làm ở những lĩnh vực khác như công nghiệp, dịch vụ

(tham gia vào các dự án có sử dụng đất tại địa phương) và phát triển các ngành

nghề tiểu thủ công nghiệp khác, kể cả thị trường xuất khẩu lao động.

Dựa vào tình hình thực tế của cộng đồng khu vực 9, bản thân người

nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người dân

như sau:

 Nhóm giải pháp đối với chính quyền địa phương và chủ đầu tư các dự án

 Chính quyền địa phương cần có sự khảo sát lại một cách toàn diện tình

hình đời sống của người dân, đặc biệt là trong vấn đề việc làm. Từ đó đánh giá

chính xác hơn về thưc trạng đời sống người dân để đề ra và thực hiện các giải

pháp giải quyết việc làm cho người dân.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 65

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Chính quyền cần có sự quan tâm sâu sát hơn nữa đến đời sống người

dân sau khi quy hoạch đất đai, tạo điều kiện thuận lợi cũng như thường xuyên

thăm hỏi để gắn kết mối quan hệ giữa hai phía.

 Tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người dân tiếp cận với nguồn vốn để

phát triển sản xuất hay chuyển đổi nghề nghiệp. Vốn đang là khó khăn cũng như

nhu cầu lớn nhất của người dân, có đến 44.4% tỉ lệ người dân trong cộng đồng

đang gặp khó khăn về vốn. Đồng thời song song với việc cho vay vốn chính

quyền địa phương cần lập ra một tổ chuyên trách việc hướng dẫn cho người dân

cách để sử dụng nguồn vốn một cách hợp lý và hiệu quả. Lẽ ra đây là việc cần

phải thực hiện ngay từ khi mới thực hiện dự án để người dân sử dụng có hiệu

quả khoảng tiền đền bù của mình, nhưng trong tình trạng người dân thiếu việc

làm nghiêm trọng như hiện nay thì công tác này vẫn vô cùng cần thiết.

 Gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm. Nhu cầu lớn nhất hiện tại của

người dân là được đào tạo nghề, vì vậy giải pháp tối ưu nhất là đào tạo nghề

cho người dân,việc đào tạo nghề cần có sự chuẩn bị kĩ càng, cần tổ chức nhiều

cuộc họp để người dân nói lên những nhu cầu, nguyện vọng của mình, đồng thời

có sự phân tích của cán bộ địa phương để người dân hiểu rõ hơn về nghề nghiệp

mà họ chọn, nhu cầu của các công ty doanh nghiệp về ngành nghề đó hiện nay,

đồng thời phân tích rõ xu hướng phát triển các ngành nghề trong tương lai của

khu vực, định hướng cho họ chọn được ngành nghề muốn học, và cuối cùng dựa

trên những kết quả ấy chính quyền tổ chức đào tạo nghề cho người dân. Điều

đặc biệt quan trọng là cần phải chú ý đến đầu ra của việc đào tạo nghề, cần phải

có sự liên kết chặt chẽ với các công ti, xí nghiệp... không nên để xảy ra tình

trạng đào tạo xong nhưng người dân lại không tìm được việc làm, lâu dần các

kiến thức kĩ năng bị mai một. Không áp đặt việc dạy nghề cho người dân hay chỉ

làm việc này một cách hình thức nếu không sẽ không mang lại hiệu quả mà còn

tiêu hao về thời gian và tiền bạc.

 Việc đào tạo nghề cho người dân cần phải có sự kiểm tra đôn đốc

thường xuyên và kiểm định chất lượng đào tạo nghề mỗi đọt cuối khóa.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 66

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

 Việc đào tạo nghề không chỉ là trách nhiệm của chính quyền địa

phương và người dân mà nó còn bao gồm cả các chủ đầu tư các dự án xây dựng

trên địa bàn.

 Chính quyền địa phương tìm kiếm việc làm và giới thiệu cho người

dân. Người nông dân ở khu vực 9 có trình độ dân trí khá thấp vì vậy khả năng

linh động trong việc tìm kiếm việc làm còn kém, vì vậy chính quyền cần có

chính sách tìm kiếm việc làm và giới thiệu cho người dân.

 Chính quyền địa phương giới thiệu cho người dân tham gia vào các sàn

giao dịch việc làm hay các trung tâm giới thiệu việc làm để họ có thể tự đi, tự

chọn lấy ngành nghề cho mình. Bên cạnh đó khuyến khích các trung tâm giới

thiệu việc chú ý đến cả đầu vào là người lao động, đưa thông tin về việc làm đến

vơi người lao động thông qua xã phường.

 Hiện nay trên địa bàn phường Đống Đa chưa có một trung tâm giới

thiệu việc làm nào, việc xây dựng ngay từ bây giờ là cần thiết cho cả hiện tại và

tương lai.

 Chính quyền địa phương khuyến khích, thu hút các doanh nghiệp đầu

tư tạo việc làm cho người lao động. Nếu ngay tại địa phương có các công ty, xí

nghiệp thì sẽ giải quyết một cách rất hiệu quả cho tình trạng thất nghiệp hiện nay

của người dân.

 Các chủ đầu tư dự án trên khu vực này cần tạo cơ hội tốt nhất để giải

quyết việc làm cho người dân nơi đây.

 Nhóm giải pháp từ chính cộng đồng

 Người dân cần ý thức được rằng bản thân họ là chủ thể trong việc giải

quyết việc làm của chính mình, không nên ỷ lại, trông chờ hay đỗ lỗi hoàn toàn

cho chính quyền đại phương. Bản thân cộng đồng là yếu tố quan trọng nhất đề

giải quyết vấn đề việc làm của chính mình. Ý thức được vấn đề này người dân

sẽ chủ động và tích cực hơn trong việc tìm kiếm việc làm.

 Người dân cần linh hoạt hơn trong việc tìm kiếm việc làm. Người dân

cần tiếp cận việc làm không chỉ bằng phương pháp truyền thống là thông qua

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 67

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

người giới thiệu, mà cạn phải chủ động hơn nữa bằng việc tìm hiểu các thông tin

về việc làm, tuyển dụng thông qua báo chí, internet, thông qua trung tâm giới

thiệu việc làm, các sàn giao dịch việc làm...

 Bản thân người lao động trong khu vực 9, cần chủ động nắm bắt thông

tin để có điều kiện tham gia đào tạo đúng với nhu cầu của những ngành nghề mà

địa phương đang cần. Từ đó vẫn chuyển đổi được nghề nghiệp mà không phải

xa quê hương, đúng với chủ trương “Ly nông bất ly hương” mà Nhà nước ta

hiện đang triển khai.

 Hiện nay trình độ học vấn của người dân trên khu vực còn thấp vì thế

cần tích cực học tập để nâng cao trình độ, đây chính là chìa khóa quan trọng

nhất để giải quyết vấn đề việc làm cho người dân ở đây.

Trên đây là những giải pháp bản thân nhà nghiên cứu đề ra để giải quyết

vấn đề việc làm cho người dân khu vực 9, phường Đống Đa, trong đó có đề ra

nhóm giải pháp cho chính quyền địa phương và các chủ đầu tư dự án cùng nhóm

giải pháp cho cộng đồng, trong quá trình thực hiện các giải pháp này cần có sự

phối hợp chặt chẽ từ cả ba phía mới có thể giải quyết vấn đề việc làm hiện nay ở

khu vực này một cách hiệu quả nhất.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 68

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

PHẦN KẾT LUẬN

Qua quá trình nghiên cứu thực trạng vấn đề việc làm của người dân khu

vực 9, phường Đống Đa đã chứng minh được những vấn đề sau.

 Người dân khu vực 9, phường Đống Đa, thành phố Quy Nhơn đang

thực sự gặp khó khăn về vấn đề việc làm khi có tới 45.6% người dân đang

không có việc làm hay không có việc làm ổn định sau khi bị thu hồi đất nông

nghiệp (diêm nghiệp và nuôi trồng thủy sản) đề phục vụ mục đích đô thị hóa.

Phần lớn người dân đang làm những công việc không phù hợp (55.6%) và

những công việc họ làm chỉ mang tính tạm thời, bấp bênh và thu nhập thấp.

 Qua quá trình nghiên cứu đã cho thấy những nhu cầu lớn nhất hiện nay

của người dân trong vấn đề việc làm là vay vốn (khó khăn về vốn sản xuất là lớn

nhất chiếm tỉ lệ 44.4%) và đào tạo nghề (có 43.3% người dân khẳng định sẽ

tham gia ngay các lớp đào tạo nghề và 37.8% người dân cho rằng có thể họ sẽ

tham gia).

 Người dân khu vực 9 đang gặp khó khăn trong việc giải quyết vấn đề

việc làm của mình vì trình độ văn hóa thấp, điều đó được thể hiện qua tỉ lệ người

dân có trình độ Trung học cơ sở chiếm tỉ lệ cao nhất 46.7%.

 Cộng đồng khu vực 9 có nhiều tiềm năng để có thể giải quyết vấn đề

việc làm cho người dân như: mở các lớp vừa đào tạo nghề vừa xản xuất các mặt

hàng thủ công nghiệp thu hút được sự tham gia rất lớn của người dân, với việc

xây dựng khu đô thị mới trong khu vực này với các ngành nghề dịch vụ và công

nghiệp phát triển thì việc đào tạo tay nghề cho lớp trẻ sẽ đáp ứng được nhu cầu

về nguồn lao động rất lớn trong tương lai rất gần.

 Để giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng bởi quy

hoạch cần có những giải pháp mang tính khả thi, sự tham gia, phối hợp đồng bộ

giữa các cấp ngành trong tỉnh, các tổ chức nhận trách nhiệm xây dựng các công

trình đầu tư trên địa bàn khu vực và bản thân cộng đồng.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 69

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

Thực trạng vấn đề việc làm của người dân khu vực 9, phường Đống Đa,

thành phố Quy Nhơn đã cho ta thấy tình hình người dân có đất nông nghiệp bị

quy hoạch để phục vụ quá trình đô thị hóa đang gặp nhiều vấn đề hết sức khó

khăn, thiết nghĩ các cơ quan chức năng, các tổ chức doanh nghiệp và toàn xã hội

cần có biện pháp giải quyết nhanh chóng và hiệu quả để thực hiện đúng mục tiêu

cao nhất của quá trình đô thị hóa là nâng cao đời sống cho người dân.

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 70

GVHD: ThS. Phan Thị Kim Dung

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Luật lao động (1994).

2. Tạp chí Cộng sản, số phát hành 110/2006.

3. Xã hội học đô thị

4. Nghị định 72/2001/NĐ-CP về việc phân loại đô thị và cấp quản lý đô thị

(2001)

5. Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: Những vấn đề kinh tế - xã hội nảy

sinh trong quá trình đô thị hóa Thành phố Hồ Chí Minh. Chủ nhiệm :TS

VƯƠNG CƯỜNG (2008)

6. Nguyễn thị Oanh, 2000, Phát triển cộng đồng, NXB ĐH Mở bán công

thành phố Hồ Chí Minh.

7. W ebsite: www.baobinhdinh.com.vn

SVTH: Phạm Hồng Hiệp

Trang 71