
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
884
NHỮNG KHÓ KHĂN VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP BÁN LẺ
VIỆT NAM
DIFFICULTIES AND DEVELOPMENT DIRECTION OF RETAIL ENTERPRISES IN
VIETNAM
ThS. Vũ thị Hồng Phượng, TS. Hoàng Thị Thắm
Trường Đại học Thương mại
Tóm tắt
Thị trường bán lẻ Việt Nam những năm gần đây đã có bước phát triển đáng kể, là một trong sáu ngành
nghề thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn nhất, đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra diện
mạo mới cho thị trường, gia tăng cơ hội lựa chọn đối với người tiêu dùng và đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã
hội. Tuy nhiên, trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đang đứng
trước không ít khó khăn, thách thức. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó ngoài một số yếu
tố khách quan, không thể không tính đến những hạn chế của chính bản thân doanh nghiệp. Bài viết tập trung
vào việc nhận diện những khó khăn, hạn chế đó trong bối cảnh cạnh tranh hiện nay, khái quát kinh nghiệm phát
triển của một số doanh nghiệp bán lẻ Việt thành công. Trên cơ sở đó, gợi ý hướng đi đối với các doanh nghiệp
bán lẻ nội nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra, phát triển mạnh mẽ lực lượng quan trọng này, góp phần hướng
tới mục tiêu phát triển bền vững thị trường bán lẻ Việt Nam.
Từ khóa: doanh nghiệp, thị trường, bán lẻ, nước ngoài, cạnh tranh, phát triển
Abstract
In recent years the retail market in Vietnam has remarkably developed. It is one of six professions that
have attracted the most foreign investment, strongly contributes economic – social development, creates a new
image of market, increases opportunities of choosing for consumers and better responses needs of society.
However, in context of more and more intense competition, Vietnamese retail enterprises are facing many
difficulties and challenges. This situation comes from many causes consisting of both objective factors and
limitations of themselves. Our paper focuses on identifying difficulties and limitations in the competitive context
today; generalizing development experiences of some successful retail enterprises in Vietnam. On that basis, we
suggest some directions for the domestic retail enterprises that contribute to solve proposed problem, strongly
develop these important forces, attain the goal of sustainable development of the retail market in Vietnam.
Keywords: enterprise, market, retail, foreign, competition, development
1. Sơ lược cơ sở lý thuyết của vấn đề nghiên cứu
Khái niệm doanh nghiệp bán lẻ
Theo Luật doanh nghiệp 2014, “Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế, có tài sản và tên riêng,
có trụ sở giao dịch ổn định, được cấp giấy đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực
hiện các hoạt động kinh doanh trên trị trường”. Và theo Philip Kotler, “Bán lẻ bao gồm tất cả những
hoạt động liên quan đến bán hàng hóa hay dịch vụ trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng để họ sử
dụng vào mục đích cá nhân, không kinh doanh”. Từ các khái niệm trên, có thể hiểu: Doanh nghiệp bán
lẻ là một tổ chức kinh tế, có tài sản và tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, được cấp giấy đăng ký
kinh doanh theo quy định của pháp luật để thực hiện việc bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ đến người
tiêu dùng cuối cùng.
Đặc điểm của doanh nghiệp bán lẻ
Với cách hiểu trên, doanh nghiệp bán lẻ có một số đặc điểm hết sức đặc trưng như: Đối tượng
trao đổi hàng hóa hoặc cung ứng dịch vụ là người tiêu dùng trực tiếp; lượng hàng hóa, dịch vụ mỗi lần
bán/cung ứng thường nhỏ; sau khi được bán ra thị trường, hàng hóa của họ không không dùng để bán
lại nên không tiếp tục vận động mà đi vào khâu tiêu dùng - khâu cuối cùng của một chu kỳ tái sản xuất

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
885
để phục vụ cho nhu cầu của cá nhân và hộ gia đình; Hoạt động bán hàng của doanh nghiệp bán lẻ có
thể diễn ra tại một địa điểm cố định, hoặc không cố định, bao gồm: ở các cửa hàng chuyên doanh, cửa
hàng tổng hợp, trung tâm thương mại, quầy hàng, sạp bán hàng, cửa hàng nhận đặt và trả hàng qua bưu
điện, hợp tác xã mua bán, quầy hàng lưu động, các chợ truyền thống…
Nhân tố tác động đến doanh nghiệp bán lẻ
Các doanh nghiệp bán lẻ chịu tác động của rất nhiều nhân tố, bao gồm cả các nhân tố bên trong
(mặt hàng kinh doanh; quy mô doanh nghiệp; tình hình ngồn lực của doanh nghiệp; kiến thức, tay
nghề, kỹ năng của nhân viên bán hàng; năng lực tổ chức và quản lý của doanh nghiệp; chiến lược phát
triển của doanh nghiệp)… và các nhân tố bên ngoài (bối cảnh kinh tế - xã hội trong và ngoài nước;
mục tiêu, quan điểm, định hướng, chính sách phát triển thương mại bán lẻ; vấn đề mở cửa thị trường
bán lẻvà xu hướng đầu tư của doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài…).
Trong số những yếu tố cơ bản trên, bài viết chủ yếu tập trung phân tích yếu tố các nguồn lực
của doanh nghiệp bán lẻ nội và vấn đề cạnh tranh giữa họ với doanh nghiệp nước ngoài khi nước ta mở
cửa thị trường bán lẻ.
2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thiện bài viết, trong quá trình nghiên cứu, nhóm tác giả đã thu thập các dữ liệu thứ cấp
(sách, giáo trình, luận án tiến sĩ, đề tài cấp Bộ, các đề án, báo cáo của doanh nghiệp…) từ nhiều nguồn
khác nhau(thư viện Trường Đại học Thương mại, Thư viện quốc gia, Bộ Công thương, Viện nghiên
cứu thương mại, một số doanh nghiệp...). Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử cùng quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về hội nhập và phát triển kinh tế,
thương mại, nhóm tác giả đã tổng quan các tài liệu trên, sắp xếp theo vấn đề nghiên cứu và tiến hành
phân tích, làm rõ một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp bán lẻ, nhận dạng những điểm yếu của doanh
nghiệp bán lẻ nội, tổng hợp kinh nghiệm của một số doanh nghiệp bán lẻ nội thành công để rút ra bài
học chung. Từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và sự phát triển của
doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam trong bối cảnh hiện nay.
3. Kết quả nghiên cứu
Nhận diện những khó khăn của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Đối với doanh nghiệp bán lẻ nội, bên cạnh những thuận lợi như: Mạng lưới bán lẻ ở Việt Nam
còn thưa thớt; quy hoạch còn nhiều cơ hội cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước (theo quy hoạch
cả nước, đến năm 2020 sẽ có khoảng 1.200 - 1.500 siêu thị, 180 trung tâm thương mại, 157 trung tâm
mua sắm. Dự báo, giai đoạn 2016-2020, tốc độ tăng trưởng thương mại bán lẻ sẽ đạt 11,9%, quy mô
thị trường khoảng 179 tỷ USD vào năm 2020, trong đó bán lẻ hiện đại sẽ chiếm trên 45%); doanh
nghiệp nội có lợi thế về nguồn hàng, sự am hiểu về truyền thống dân tộc và văn hoá tiêu dùng...thì
hàng loạt khó khăn cũng đang hiện hữu. Chúng bao gồm cả những khó khăn đến từ những yếu tố bên
ngoài (trong bài chính là áp lực từ việc mở cửa thị trường bán lẻ của nước ta) và cả những khó khăn
xuất phát từ các yếu tố nội tại của doanh nghiệp bán lẻ Việt.
Về áp lực cạnh tranh từ việc mở của thị trường bán lẻ Việt Nam
Áp lực hay sức ép của việc mở cửa thị trường bán lẻ đối với các doanh nghiệp nội trong lĩnh
vực này chính là sức hấp dẫn sau đây của thị trường bán lẻ Việt Nam đối với các nhà bán lẻ ngoại:
Việt Nam là quốc gia có dân số đông (tính đến tháng 4 /2019, nước ta có gần 98 triệu người),
trong đó số người ở độ tuổi lao động với nhu cầu tiêu dùng lớn chiếm tỷ lệ cao, kinh tế tăng trưởng ổn
định, mức sống và thu nhập bình quân đầu người không ngừng được cải thiện (GDP bình quân đầu
người của các năm 2000, 2005, 2010, 2015 và 2018 lần lượt đạt mức 5.689,05 nghìn đồng, 11.093,31
nghìn đồng, 24.817,63 nghìn đồng, 45.718,8 nghìn đồng và 53.441,76 nghìn đồng) . Đặc biệt, so với
các nước trong khu vực, mật độ bán lẻ ở Việt Nam vẫn còn ở mức thấp, nhóm doanh nghiệp bán lẻ
Việt có quy mô lớn và có năng lực chiếm tỷ lệ thấp nên các nhà đầu tư nước ngoài (với lợi thế vượt

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
886
trội về vốn, công nghệ kinh doanh, quản trị doanh nghiệp và chuỗi thu mua phân phối toàn cầu) sẽ dễ
dàng giành thắng lợi trên thị trường bán lẻ Việt Nam. Đây chính là một yếu tố có sức hút mạnh mẽ đối
với các đối thủ cạnh tranh ngoại.
Thị trường bán lẻ Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng, hấp dẫn đối với nhà bán lẻ
ngoại còn bởi giá trị thị trường lớn (đạt mức khoảng 120 tỷ USD) và có tốc độ tăng trưởng hàng năm
khá cao (giai đoạn 2012-2017 tăng gần 10%/năm). Cùng với đó, kinh tế Việt Nam đang là một trong
những nền kinh tế có thị trường hàng tiêu dùng tăng trưởng nhanh nhất trong các nền kinh tế mới nổi
của châu Á - Thái Bình Dương với tăng trưởng dự kiến trong giai đoạn 5 năm (2017-2022) sẽ duy trì
mức hai con số. Ngoài ra, năm 2018, 10 nước trong đó có Việt Nam tham gia khu vực mậu dịch chung
ASEAN, doanh nghiệp của các các quốc gia này cũng như doanh nghiệp Việt Nam được bãi bỏ hàng
rào thuế quan, 100% dòng thuế nhập khẩu ở hầu hết các mặt hàng sẽ được xóa bỏ, môi trường thuận
lợi giúp bán lẻ luôn là ngành thu hút đầu tư nước ngoài.
Do đạt sự tăng trưởng mạnh về kinh tế, sự cải thiện về thể chế chính sách và môi trường đầu tư,
mức tăng cao của nhu cầu tiêu dùng qua những mô hình bán lẻ hiện đại… nên Việt Nam đã từng được
đánh giá có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất trên thế giới (năm 2008). Trải qua một số thăng trầm, biến
động (Năm 2009, 2010, 2011 liên tục tụt rớt 5,8,9 hạng, xuống các thứ bậc tương ứng là 6,14,23, thậm
chí đến năm 2012 đã tuột khỏi danh sách 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới nhưng đến năm
2015 - khi các luật đầu tư thông thoáng hơn, Chính phủ đã cho phép 100% quyền sở hữu của các nhà
bán lẻ nước ngoài cùng nhiều chính sách ưu đãi khác, thị trường bán lẻ Việt Nam đã hấp dẫn trở lại,
năm 2016 xếp thứ 11) thì đến nay đã vươn lên xếp thứ 6 trong xếp hạng trên.
Ngày 11/1/2008 là thời điểm đánh dấu sự kiện Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của tổ
chức thương mại thế giới WTO. Đây cũng chính là ngày Việt Nam thực hiện cam kết mở cửa tất cả
các phân ngành dịch vụ phân phối theo phân loại của tổ chức này. Tiếp đó từ ngày 1/1/2009 Việt nam
cho phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Và từ ngày 11/1/2010 đã không có bất kỳ hạn
chế nào về sản phẩm được phép phân phối bán lẻ đối với doanh nghiệp nước ngoài, quyền phân phối
của họ gắn liền với quyền được lập cơ sở bán lẻ thứ nhất, chỉ khi nào họ muốn lập cơ sở bán lẻ thứ hai
mới cần được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Đặc biệt, bắt đầu từ ngày 11/1/2015,
Việt Nam mở cửa hoàn toàn đối với lĩnh vực bán lẻ, kèm theo đó là rất nhiều cơ chế, chính sách được
cải thiện theo hướng có lợi cho cá doanh nghiệp nước ngoài để thu hút đầu tư.
Với sức hấp dẫn vốn có, thêm vào đó là những thay đổi lớn về môi trường đầu tư nói trên, rõ
ràng xu hướng “đổ bộ” vào thị trường bán lẻ Việt Nam của các “ông lớn” bán lẻ trên khắp các quốc gia
là hoàn toàn dễ hiểu. Theo Công ty hàng đầu thế giới về nghiên cứu thị trường Kantar Worldpanel,
bình quân mỗi tháng tại Việt Nam có 2-3 siêu thị được thành lập. Tính đến năm 2018, thị trường bán lẻ
Việt Nam có khoảng 211 trung tâm thương mại, 1.007 siêu thị, hơn 8.462 chợ và rất nhiều cửa hàng
tiện lợi1, nhưng trong đó doanh nghiệp nước ngoài đã chiếm tới khoảng 25-30% thị phần và họ chủ
yếu đầu tư vào phân khúc thị trường bán lẻ hiện đại (15% thị phần là do trung tâm thương mại, 50%
thị phần là do cửa hàng tiện lợi, 10% thị phần do siêu thị mini và khoảng 25% thị phần do các phương
thức bán hàng không thông qua cửa hàng).Và điều đáng nói là các doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài này ngay sau khi xuất hiện tại thị trường Việt Nam thường đã khai thác khá tốt thị trường nước
ta và có sự lớn mạnh không ngừng về cả số lượng cũng như quy mô. Tại thời điểm đó, doanh thu của
khối doanh nghiệp này đang chiếm tới gần 70% doanh thu của ngành. Đây thực sự là một sức ép cạnh
tranh rất lớn cho doanh nghiệp bán lẻ của nước ta.
Đặc biệt, làn sóng mua bán, sáp nhập (M&A) và sự xuất hiện nhanh chóng của hàng loạt tập
đoàn bán lẻ đến từ Nhật Bản, Thái Lan, Hàn Quốc và nhiều quốc gia khác đang là xu hướng đáng chú
ý. Điển hình là tập đoàn bán lẻ Aeon của Nhật Bản với với tổng số vốn đầu tư hơn 13 tỷ yên và dự
định năm 2020 sẽ mở 20 trung tâm mua sắm quy mô lớn tại Việt Nam với tổng vốn lên đến 1,5 tỷ
USD, chuỗi Family Mart của Nhật mở 130 cửa hàng tại Việt Nam và dự định mở thêm 700 cửa hàng
1 Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công Thương)

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
887
nữa vào năm 2020; Tập đoàn Lotte Mart Của Hàn Quốc với 8 trung tâm thương mại quy mô lớn tại Hà
Nội và có mục tiêu sẽ tăng lên 60 trung tâm thương mại trên toàn Việt Nam với tổng vốn đầu tư lên
đến 3,2 tỷ USD vào năm 2020, cùng với đó là Emart xuất hiện tại Thành phố Hồ Chí Minh với Khu
trung tâm mua sắm trị giá 60 triệu USD); Tập đoàn Berli Jucker (BJC) của Thái Lan với việc đầu tư
655 triệu euro để mua lại toàn bộ chuỗi bán lẻ Metro Cash & Carry Việt Nam. Hay việc Central Group
của Thái Lan mua lại thành công toàn bộ chuỗi siêu thị Big C từ tay các ông chủ người Pháp với giá trị
lên đến 1,4 tỷ USD; Tập đoàn bán lẻ đồ nội thất, thiết kế hàng đầu thế giới IKEA (Thụy Điển) cũng
tuyên bố sẽ xây dựng trung tâm bán lẻ và kho hàng tại Việt Nam với vốn đầu tư khoảng 450 triệu
USD; Nhà bán lẻ của Nhật Bản Muji cũng đã lên kế hoạch thành lập Công ty TNHH Muji Việt Nam
và sẽ khai trương cửa hàng đầu tiên vào năm 2020; Tập đoàn Alibaba (Trung Quốc) đã chi tới 4 tỷ
USD mua lại Lazada; Cuối năm 2018, một doanh nghiệp khác của Nhật Bản là Tập đoàn Sumitomo
đã hợp tác với Tập đoàn BRG của Việt Nam đưa thương hiệu FujiMart vào Việt Nam với siêu thị
FujiMart đầu tiên có mặt tại Hà Nội.
Tóm lại việc các tập đoàn bán lẻ tầm cỡ trên thế giới dành cho thị trường bán lẻ Việt Nam sự
quan tâm đặc biệt thông qua các quyết định đầu tư dài hạn một mặt là những tín hiệu tốt đối với người
tiêu dùng nhưng riêng đối với các doanh nghiệp bán lẻ nội còn nhiều yếu thế thì đây chính là một sức
ép vô cùng to lớn khi họ phải đương đầu cạnh tranh không cân sức với các tập đoàn nước ngoài đầy
tiềm lực. Thậm chí, có tới 58% doanh nghiệp thừa nhận việc mở cửa cho các nhà đầu tư CPTPP, EU
vào thị trường bán lẻ Việt Nam sẽ khiến cho hoạt động của họ trở nên khó khăn hơn.2 Chỉ khi bên cạnh
những chính sách vĩ mô phù hợp, họ tự tìm được hướng đi riêng, tận dụng được thời cơ, chủ động khắc
phục mọi điểm yếu của bản thân… mới có thể tránh được sức ép và nguy cơ bị thôn tính, lấn át ngay
trên chính “sân nhà”.
Về điểm yếu của doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam
Cũng như các doanh nghiệp Việt Nam chung, vấn đề lớn đang đặt ra đối với doanh nghiệp
doanh nghiệp bán lẻ nước ta nằm ở chỗ đa phần đều là những doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ,
thậm chí rất nhỏ. Với quy mô này, các doanh nghiệp bán lẻ có chung một số đặc trưng sau đây được
coi là điểm yếu so với các doanh nghiệp ngoại:
- Điểm yếu về nhân lực
Nhìn chung, Việt Nam có nguồn nhân lực dồi dào nhưng cơ cấu chưa hợp lý và tỉ lệ lao động
chất lượng cao còn khiêm tốn. Đặc biệt, trình độ nhân lực phục vụ trong các doanh nghiệp bán lẻ nói
riêng phần lớn còn ở mức sơ khai, trình độ thấp, phong cách thiếu chuyên nghiệp. Nguyên nhân là do
nhận thức không đúng nên của đa phần chủ doanh nghiệp nội đều tuyển nhân viên bán hàng có trình
độ lao động phổ thông hoặc sinh viên vừa đi học vừa đi làm nên ngoài việc hạn chế về trình độ, kỹ
năng...khi tăng ca hoặc có điều chỉnh lịch làm việc họ không chịu được áp lực hoặc khó đáp ứng được
về mặt thời gian, từ đó sẽ dẫn đến việc phải thay nhân viên, gây sáo trộn và mất ổn định nguồn nhân
lực. Trường hợp ngược lại, nếu doanh nghiệp thực sự có nhu nhân viên bán hàng, kinh doanh giỏi, có
bằng cấp, đáp ứng được yêu cầu công việc thì nhu cầu trên cũng không dễ đáp ứng bởi họ quan niệm
bán hàng không phải là một nghề chuyên nghiệp, chỉ là nghề tạm thời và họ cũng chỉ làm một thời
gian trong khi chờ cơ hội tốt hơn. Bên cạnh yếu tố chất lượng, cơ cấu nhân lực bán lẻ cũng khá bất hợp
lý giữa các khâu mua, khâu bán với khâu giao nhận và kho vận hoặc xúc tiến thương mại, giữa lao
đông nghiệp vụ và lao động quản lý doanh nghiệp, giữa lao động trong khu vực doanh nghiệp với các
cơ quan quản lý…; tình trạng lao động làm trái nghề là phổ biến. Bên cạnh đó, đội ngũ chủ doanh
nghiệp, giám đốc, cán bộ quản lý còn nhiều hạn chế về kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm quản lý
cũng như điều hành. Một bộ phận lớn chủ doanh nghiệp và giám đốc doanh nghiệp tư nhân chưa được
đào tạo bài bản về kinh doanh và quản lý, còn thiếu kiến thức kinh tế - xã hội và kỹ năng quản trị kinh
doanh, đặc biệt là yếu về năng lực kinh doanh quốc tế và kiểm soát quy trình. Từ đó, chủ yếu có
khuynh hướng quản lý theo kinh nghiệm, thiếu tầm nhìn chiến lược, đa phần chưa được trang bị đầy
2 Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)

Kỷ yếu Hội thảo quốc tế “Thương mại và phân phối” lần 2 năm 2020
888
đủ kiến thức trên các phương diện: quản lý tổ chức, chiến lược cạnh tranh, phát triển thương hiệu, sử
dụng ngoại ngữ, máy tính và công nghệ thông tin.
So với các doanh nghiệp Việt Nam, trình độ nhân lực của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài
cao hơn hẳn. Họ được đào tạo bài bản và bố trí công việc phù hợp, đúng chuyên môn cũng như có chế
độ đãi ngộ xứng đáng do đó làm việc rất kỷ luật, chuyên nghiệp, hiệu quả, có khả năng chịu được áp
lực công việc đồng thời có kỹ năng làm việc nhóm rất tốt. Đặc biệt, đội ngũ quản lý đều là những
người năng động, am hiểu về kinh doanh bán lẻ và giàu kinh nghiêm quản lý, có tầm nhìn chiến lược.
- Điểm yếu về nguồn lực tài chính
Do hạn chế về quy mô doanh nghiệp và khả năng tiếp cận vốn cũng như mặt bằng lãi suất ngân
hàng cao đã dẫn tới tình trạng quy mô vốn và năng lực tài chính của nhiều doanh nghiệp bán lẻ Việt
Nam còn rất nhỏ bé, vừa kém hiệu quả vừa thiếu tính bền vững. Chính sách của Nhà nước là sẽ hỗ trợ
hết mức, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận vốn nhưng thực tế, để vay được vốn từ
ngân hàng, họ phải đáp ứng được yêu cầu là có dòng tiền, có tài sản thế chấp và phương án kinh doanh
tốt (chứ không chấp nhận khi chỉ có ý tưởng kinh doanh) đồng thời phải trải qua rất nhiều thủ tục
phiền hà cũng như bị định giá quá rẻ mạt. Do nguồn lực tài chính có vai trò chi phối các nguồn lực
khác nên hạn chế về tài chính có thể là nguyên nhân dẫn đến nhiều mặt hạn chế khác.
Đối lập với thực trạng trên, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đều có tiềm lực tài chính dồi
dào. Đây là điều dễ hiểu bởi công ty mẹ của những cơ sở bán lẻ này thường là những “đại gia”, “ông
lớn” bán lẻ toàn cầu. Họ thuận lợi về vốn nên có thể theo đuổi chiến lược hy sinh chịu lỗ thời gian đầu
nhằm xây dựng mạng lưới, đội ngũ, uy tín, thương hiệu,.... để sau đó chỉ việc thu lợi nhuận.
- Điểm yếu về công nghệ bán lẻ và xây dựng thương hiệu
Ngoài những hạn chế cơ bản nói trên, yếu tố công nghệ bán lẻ như dịch vụ khách hàng, hoạt
động dự trữ, mạng lưới phân phối, chiến lược kinh doanh, cách trưng bày, thiết kế gian hàng,... của các
doanh nghiệp thương mại bán lẻ nước ta chưa được chú ý và đầu tư thích đáng nên ở trình độ thấp, cần
sớm khắc phục. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam còn đầu tư chưa thích đáng cho việc
xây dựng thương hiệu, một số thương hiệu chỉ nổi tiếng ở thành thị, lực lượng đông đảo người tiêu
dùng nông không biết đến.
Trái ngược với đặc trưng trên của doanh nghiệp bán lẻ trong nước, các doanh nghiệp nước
ngoài với thương hiệu uy tín vốn đã được biết đến rộng rãi, khi đến Việt Nam họ còn tạo được niềm tin
đối với các nhà sản xuất, nhà cung cấp trong và ngoài nước, đảm bảo được nguồn hàng ổn định với giá
gốc để phục vụ người tiêu dùng một cách tốt nhất. Từ đó ngày càng củng cố được thương hiệu của
mình. Đây là một lợi thế hết sức quan trọng mà hầu hết các nhà bán lẻ Việt Nam chưa có được.
- Điểm yếu trong công tác nghiên cứu thị trường
Đối với các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài, do khả năng tài chính, nhân lực, tính chuyên
nghiệp và kinh nghiệm kinh doanh cũng như kinh nghiệm quản lý... đều dồi dào nên công tác nghiên
cứu thị trường được họ làm rất bài bản, cẩn trọng, có tầm nhìn chiến lược và dài hạn. Nhờ đó, có thể
nói họ còn am hiểu thị trường Việt Nam hơn cả các “đối thủ sân nhà”.
Ngược lại với xu hướng trên, không những không thường xuyên nghiên cứu thị trường, các
doanh nghiệp bán lẻ nội mới chỉ tiến hành hoạt động này một cách rất sơ sài với mức đầu tư hết sức
khiêm tốn, chưa được tổ chức một cách khoa học, hạn chế trong việc sử dụng công nghệ thông tin,
công cụ toán học, thống kê,... Thậm chí, mặc dù doanh nghiệp Việt Nam lại được đánh giá là linh hoạt,
dễ thích ứng vì thấu hiểu được thói quen và văn hóa người tiêu dùng bản địa nhưng dường như nó chỉ
đúng khi áp dụng cho một số thị trường mới ở một số địa phương mà không có cơ sở khi khẳng định ở
quy mô “sân chơi” quốc tế. Khả năng tìm kiếm, khai thác và xử lý thông tin của cán bộ nghiên cứu thị
trường còn yếu, dẫn đến tình trạng đa số các doanh nghiệp bán lẻ thụ động, chủ yếu dựa vào kinh