ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
LÊ THỊ KIỀU OANH
PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L
HÀ NỘI, 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
LÊ THỊ KIỀU OANH
PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT KINH DOANH
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2014-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Ts. Lê Kim Nguyệt
(Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội)
HÀ NỘI, 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Khóa luận chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Khóa luận tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Lê Thị Kiều Oanh
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
COD Nhu cầu Oxy hóa
DO Độ Oxy hòa tan
NN&PTNT Nông nghiệp và phát triển nông thôn
UBND Ủy ban nhân dân
UNICEF Quỹ Nhi đồng thế giới
QCVN Quy chuẩn Việt Nam
TN&MT Tài nguyên và môi trường
XLNT Xử lý nước thải
WPPCL Luật kiểm soát và phòng chống ô nhiễm nước Trung Quốc
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài ............................................................. 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ........................................................................... 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................................... 4
6. Bố cục nội dung của khóa luận ............................................................................... 4
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô
NHIỄM NGUỒN NƯỚC .......................................................................................... 5
1.1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn nước .............................................................. 5
1.1.1. Khái niệm nguồn nước ...................................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của nguồn nước ................................................................................. 7
1.2. Khái niệm, đặc điểm và nguyên nhân của ô nhiễm nguồn nước ......................... 8
1.2.1. Khái niệm ô nhiễm nguồn nước ........................................................................ 8
1.2.2. Đặc điểm của ô nhiễm nguồn nước ................................................................. 10
1.2.3. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước .......................................................... 11
1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nguyên tắc của pháp luật kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước ................................................................................................................ 12
1.3.1. Khái niệm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ...................................... 12
1.3.2. Đặc điểm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ....................................... 13
1.3.3. Vai trò của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ..................................... 14
1.3.4. Nguyên tắc của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ............................ 17
1.4. Pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở một số quốc gia trên thế giới ........ 18
Chương 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NGUỒN
NƯỚC Ở VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI ........................................................................................................... 24
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước ở Việt Nam ....................................................................................................... 24
2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt
Nam ........................................................................................................................... 28
2.2.1. Quy hoạch, chiến lược môi trường trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước .... 28
2.2.2. Chủ thể tham gia pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ........................... 31
2.2.3. Xây dựng, ban hành, công bố quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước .............. 43
2.2.4. Cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước.......................................................... 47
2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước .......................... 51
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiềm nguồn nước trên địa bàn
thành phố Hà Nội ...................................................................................................... 56
2.3.1. Thực trạng ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn thành phố Hà Nội ................... 56
2.3.2. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà
Nội ............................................................................................................................. 61
Chương 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
NGUỒN NƯỚC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................................................... 68
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước .................... 68
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt
Nam ........................................................................................................................... 69
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước tại địa bàn thành phố Hà Nội ................................................................ 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 79
DANH MỤC BẢNG
Tên bảng Trang
Bảng 2.1. Thời hạn cấp giấy phép tài nguyên nước 49
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá nhưng không phải là vô tận. Nước
cần cho mọi sự sống và mọi sự phát triển, nước vừa là môi trường vừa là nhân tố
đầu vào cho nhiều quá trình sản xuất, đặc biệt nước là nguồn của sự sống con
người. Chính vì thế bảo vệ nguồn nước trong đó có hoạt động kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước là vô cùng quan trọng, luôn có trong những vấn đề môi trường được thế
giới quan tâm.
Theo đó, “Nhà nước có chính sách bảo vệ môi trường; quản lý; sử dụng hiệu
quả, bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh
học; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu… nội dung vấn
đề bảo vệ môi trường nói chung”[22,Điều 63]. Sau khi bước sang thời kì đồi mới,
Việt Nam đã đặt được những bước tiến lớn về các lĩnh vực của đời sống xã hội góp
phần từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vấn đề bảo vệ
môi trường là một trong những vấn đề có tầm chiến lược quan trọng luôn được
Đảng và Nhà nước quan tâm. Điều đó được thể hiện ở các Nghị Quyết, quyết định
của Nhà nước như: Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị về
Bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
Quyết định166/QĐ-TTg 2014 Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm
2020, tầm nhìn đến 2030… Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật của Việt Nam như
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Bộ luật Dân
sự năm 2015, Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung, các Nghị định, Thông tư
hướng dẫn thi hành khác là cơ sở ban đầu để Nhà nước thống nhất và đưa hoạt động
quản lý, kiểm soát nguồn nước ở nước ta đạt hiệu quả cao nhất. Là một quốc gia
đang phát triển, song song với phát triển kinh tế, Việt Nam đã và đang phải đối mặt
với nhiều vấn đề môi trường trong đó có vấn đề ô nhiễm nguồn nước. Tuy nhiên
vấn đề kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam đang gặp phải khá nhiều khó
khăn do nhiều nguyên nhân khác nhau cả khách quan lẫn chủ quan, đòi hỏi phải có
dự điều chỉnh về mặt luật pháp để phù hợp với thực tế phát sinh trong giai đoạn
hiện nay.
1
Hà Nội, một thành phố với mật độ dân số rất cao, là nơi tập trung những cơ quan
đầu não, những trí lực hàng đầu của cả nước và hàng triệu người dân lao động từ
khắp nơi đổ về sinh sống. Sản xuất công nghiệp ở Hà Nội trong phạm trung tâm hay
vùng lân cận đều tập trung khá đông các cơ sở và nhiều ngành nghề với quy mô
khác nhau, nên đã tác động không nhỏ tới nguồn nước. Nơi đây còn là hạ lưu của
nhiều hệ thống sông lớn và cũng là thành phố có hệ thống hồ lớn dẫn tới vấn đề
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước càng cần được quan tâm. Tuy vậy, thực trạng ô
nhiễm nguồn nước ở địa bàn thành phố Hà Nội đang ở mức báo động trong những
năm gần đây, ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống, sức khỏe của hàng triệu người
mà còn gây nguy hại lớn đến môi trường. Kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội
đang tồn tại một số bất cập cần giải quyết. Xuất phát từ tình hình đó, đề tài “ Pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và liên hệ thực tiễn tại địa bàn Thành
phố Hà Nội” đã được lựa chọn để nghiên cứu với mong muốn từ cơ sở thực tiễn có
thể đóng góp được phần nào giúp quá trình hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước ở Việt Nam đạt được những kết quả tốt đẹp hơn.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài
Đứng trước những khó khăn và thách thức mà các vấn đề môi trường ở nước ta
đang đặt ra, công tác nghiên cứu các đề tài liên quan đến bảo vệ môi trường ngày
càng gia tăng. Thực tế cho thấy đã có nhiều đề tài khoa học, luận văn và nhiều bài
viết trên các tạp chí chuyên ngành có liên quan đến môi trường đề cập một cách trực
tiếp hoặc gián tiếp vấn đề bảo vệ môi trường hoặc có lồng ghép với vấn đề liên
quan đến ô nhiễm nguồn nước như: Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Nguyễn
Quốc Hùng, “Pháp luật về phòng chống và khắc phục ô nhiễm nguồn nước- Thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Bình” (2017), hay một số bài viết trên tạp chí như: Hàn
Ngọc Tài (2018), “Một số quy định về đánh giá sức chịu tải, khả năng tiếp nhận
nước thải của sông hồ”, Tạp chí Môi trường Cục môi trường, số tháng 3; “Pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm môi trường do hoạt động của làng nghề gây ra (Lê Kim
Nguyệt, Tạp chí dân chủ và pháp luật,2014); “Trách nhiệm của cơ quan nhà nước,
cộng đồng dân cư trong kiểm soát môi trường làng nghề ở Việt Nam” ( Lê Kim
Nguyệt, Tạp chí dân chủ và pháp luật, 1/2017) … Phần nào những công trình
nghiên cứu đã thể hiện phần nào lý luận và thực tiễn về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước ở Việt Nam. Đề tài được nghiên cứu này sẽ góp phần làm rõ hơn nữa về lý
luận và thực tiễn trên một địa bàn cụ thể để làm sâu hơn và phong phú hơn các vấn
2
đề pháp luật môi trường đang đươc quan tâm nghiên cứu.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát:
Dựa vào việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước, từ đó tìm hiểu đánh giá đúng thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước ở Việt Nam, cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước trên địa bàn Hà Nội. Phân tích, đánh giá và đưa ra một số giải
pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
3.2. Mục tiêu cụ thể:
Để đạt được những mục tiêu tổng quát đã đặt ra khi nghiên cứu đề tài, khóa luận
cần giải quyết được một số vấn đề sau:
Một là, nghiên cứu cơ sở lý luận về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Trong đó,
có đưa ra những khái niệm, đưa ra cơ sở lý luận về ô nhiễm nguồn nước và đưa ra
vai trò của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, đồng thời liên hệ với pháp luật
một số quốc gia trên thế giới.
Hai là, phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước được quy định trong các văn bản pháp luật Việt Nam hiện hành.
Ba là, nêu và phân tích về thực trạng ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội và thực tiễn áp
dụng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội qua một số trường hợp cụ thể,
đồng thời tìm ra nguyên nhân dẫn đến những vấn đề đó. Từ đó nêu ra phương hướng ,
giải pháp hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: khóa luận tập trung nghiên cứu lý luận về pháp luật kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn áp dụng các quy định pháp
luật về kiểm ô nhiễm nguồn nước tại địa bàn thành phố Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Luật bảo vệ môi trường, Luật
tài nguyên nước và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành… Giới hạn nội dung
phạm vi nghiên cứu trong lý luận về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được ghi nhận
trong các văn bản pháp luật hiện hành ở Việt Nam. Giới hạn phạm vi thời gian nghiên
cứu là quá trình áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn
3
Thành phố Hà Nội từ năm 2010 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng trong việc nghiên cứu khoa học xã
hội nói chung như phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp trừu tượng hoá
khoa học.
Một số phương pháp chủ yếu như: phương pháp phân tích, đánh giá quy phạm,
tính tích cực và tiêu cực của các vấn đề liên quan đến pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước; phương pháp phân loại trong việc nhận dạng các loại nguồn
nước, các loại vi phạm và hình thức xử phạt về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước…;
phương pháp so sánh để thấy được mặt lợi, mặt hạn chế của các quy phạm pháp
luật. Ngoài ra, khóa luận còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp
liệt kê, tổng hợp, phương pháp mô tả, điển hình hóa… để đáp ứng yêu cầu phát
triển từ lý luận về pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đến đi vào thực tiễn.
6. Bố cục nội dung của khóa luận
Khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung gồm ba phần chính:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Chương 2: Thực trạng pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và
4
một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM
NGUỒN NƯỚC
1.1. Khái niệm và đặc điểm của nguồn nước
Nước là một thành phần môi trường vô cùng quan trọng mà tạo hóa ban tặng
cho thế giới bởi lẽ nó gắn liền với sự tồn tại, phát triển của con người cũng như sự
sống của mọi sinh vật trên Trái đất. Nước cũng là một dạng tài nguyên thiên nhiên
có những tính chất vật lý, hóa học, sinh học … riêng biệt, một dạng vật chất, năng
lượng, thông tin có giá trị tự thân, và tồn tại theo một quy luật tự nhiên nhất định.
Nước quyết định sự tồn tại của xã hội và có khả năng ảnh hưởng đến sự phát
triển của xã hội. Nước ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con người từ sinh hoạt
cho đến đời sống sản xuất, thậm chí đến cả nền chính trị và kinh tế.
Thuật ngữ về tài nguyên nước được ghi nhận tại khoản 1, Điều 2, Luật Tài
nguyên nước năm 2012 như sau: “Tài nguyên nước bao gồm nguồn nước mặt, nước
dưới đất, nước mưa và nước biển thuộc lãnh thổ của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam”. Như vậy, định nghĩa được pháp luật quy định đã chỉ ra rằng, nước
là một loại tài nguyên, tài nguyên nước của một quốc gia là toàn bộ lượng nước có
trong lãnh thổ quốc gia đó mà con người có thể khai thác, sử dụng vì một mục đích
nhất định. Vì nước có vai trò rất lớn đối với cuộc sống con người, đặc biệt là có ảnh
hưởng lớn đến đời sống sản xuất, cùng với sự phát triển phức tạp của xã hội, các
quan hệ xã hội phát sinh liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Điều này
ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực đến nguồn tài nguyên nước nói chung và
nguồn nước nói riêng, đòi hỏi cần phải có pháp luật điều chỉnh quy định cụ thể liên
quan đến nguồn nước.
1.1.1. Khái niệm nguồn nước
Theo từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, nguồn nước là lượng nước mặt
của sông, suối, hồ ao và nước dưới đất có thể sử dụng được của một khu vực nào
đó. Đối với một khu vực lớn, một quốc gia, nguồn nước được giới hạn bởi đại lượng
dòng chảy năm trung bình nhiều năm của các sông, suối. Đối với các vùng nhỏ hơn,
các vùng kinh tế, nguồn nước phải tính đến lượng nước dưới đất và lượng nước của
5
hồ ao. Từ điển cũng ghi nhận thêm về khái niệm nguồn nước trong thủy lợi, khi
phân biệt khái niệm lượng nước trữ và nguồn nước. Theo đó, nguồn nước là lượng
nước dưới đất và nước mặt đảm bảo cho chu trình tuần hoàn nước; còn lượng nước
trữ là khối lượng chung của nước ngầm trong tầng đất giới hạn ở vùng (khu vực)
xem xét. Lưu lượng nước ngầm có thể đảm bảo cho yêu cầu dùng nước đủ tiêu
chuẩn chất lượng trong thời gian dài được gọi là nguồn nước ngầm để khai thác.
Theo góc độ pháp luật, khoản 2, Điều 2, Luật tài nguyên nước năm 2012 quy
định khái niệm nguồn nước là: “các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có
thể khai thác, sử dụng bao gồm sông, suối, kênh, rạch, hồ, ao, đầm, phá, biển, các
tầng chứa nước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác”. Như
vậy, pháp luật ghi nhận khái niệm nguồn nước chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên
hoặc nhân tạo có thể khai thác được như biển, sông, suối, ao, hồ, kênh, mương hoặc
các tầng chưa nước ở như nước ngầm, băng tuyết và các dạng tích tụ khác. Tùy theo
đặc điểm cũng như yêu cầu về khai thác, sử dụng, quản lý của từng loại nước mà có
thể chia nước thành các loại nước khác nhau, chẳng hạn như: nước mặt, nước dưới
đất, nguồn nước liên tỉnh, nguồn nước nội tỉnh, nguồn nước liên quốc gia…
Xét về mặt tự nhiên, nguồn nước có thể chia làm hai loại chính : nước mặt
và nước dưới đất. “Nước mặt là nước tồn tại trên mặt đất liền hoặc hải đảo”
[21,Khoản 3, Điều 2]. Nước mặt có thể chia thành hai loại: nước mặt có dòng chảy
và nước mặt không có dòng chảy. Nước mặt có dòng chảy như sông, suối, có khả
năng tự làm sạch. Nước mặt không có dòng chảy như ao, hồ, thường có rong, rêu và
các thủy sinh vật sinh sống nên khả năng bị nhiễm bẩn cao. “Nước dưới đất là nước
tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất”[21, Khoản 4, Điều 2]. Các tầng dưới đất
có thể chia nguồn nước dựa theo đặc điểm cấu tạo và vị trí của các tầng mạch nước.
Nước ngầm mạch nông có khả năng bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên ngoài nhiều
hơn nước tầng mạch sâu. Nhưng thông thường thì nguồn nước ở các tầng chứa nước
dưới đất chó chất lượng tương đối tốt. Luật Tài nguyên nước năm 2012 cũng dựa
vào sự phân chia các loại nguồn nước như để thể hiện các quy phạm pháp luật.
Xét về mặt phạm vi phân bố, nguồn nước được chia làm hai loại chủ yếu là:
nguồn nước liên tỉnh và nguồn nước nội tỉnh. Khoản 5, Điều 2, Luật Tài nguyên
nước năm 2012 quy định: “Nguồn nước liên tỉnh là nguồn nước phân bố trên địa
bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trở lên”. Nguồn nước liên tỉnh có
6
khả năng gây ảnh hưởng lẫn nhau giữa đời sống sản xuất và sinh hoạt của các địa
bàn, đòi hỏi phải có những quy định để đảm bảo tính thống nhất và linh hoạt giữa
hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước của các địa bàn có chung nguồn nước.
Nguồn nước nội tỉnh là “nguồn nước phân bố trên địa bàn một tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương” [21, Khoản 6, Điều 2], nghĩa là nguồn nước thuộc phạm vi quản
lý và khai thác của riêng một tỉnh hoặc một thành phố trực thuộc trung ương nào đó,
giúp cho việc quản lý riêng rẽ nguồn nước của địa phương được tập trung hơn. Việc
phân loại theo cách này ý nghĩa đối với việc khoanh vùng phạm vi quản lý, sử dụng,
khai thác nguồn nước một cách hiệu quả đối phù hợp với từng đơn vị địa phương
nhất định và phối hợp hài hòa với các địa phương khác trong công tác quản lý.
1.1.2. Đặc điểm của nguồn nước
Hiện nay, nguồn nước Việt Nam đang bị xâm hại khá nhiều từ nhiều nguyên
nhân khác nhau dẫn đến việc bảo vệ tài nguyên nước đang ngày càng trở nên cấp
thiết. Bảo vệ tài nguyên nước chính là bảo vệ sự sống còn và sự phát triển của con
người. Pháp luật chính là một công cụ đắc lực để thực hiện yêu cầu cấp thiết bảo vệ
tài nguyên nước trong đó có nhiệm vụ quan trọng đó là kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước. Để làm được việc đó, về phương diện pháp luật cần xác định thấu đáo những
đặc điểm của nguồn nước để có hướng đi đúng trong xây dựng pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước.
Thứ nhất là, nguồn nước không phải vô tận. Dựa vào tính tự làm mới và
chuyển hóa của nước mà con người nghĩ rằng nguồn nước là vô tận. Đó là suy
nghĩa hoàn toàn sai lầm. Nước có mặt trrong mọi mặt của đời sống vì thế nước càng
dễ bị làm ô nhiễm. Hiện nay, nguồn nước đang bị suy thoái rất nhiều do các hoạt
động sản xuất và sinh hoạt cuẩ con người. Nước không có đủ thời gian để tự làm
sạch cho dù con người có tác động vào quá trình tuần hoàn của nước hoặc tác động
vào quá trình tự làm sạch của nước vẫn không thể đáp ứng đủ nhu cầu về chất lượng
nguồn nước của chính con người. Chính vì thế pháp luật phải có những tác động,
bắt buộc con người phải có những hành động cụ thể, phải tuân thủ để kiểm soát
được ô nhiễm nguồn nước. Chẳng hạn như việc quy định rõ chức năng, nhiệm vụ,
thẩm quyền của các cơ quan quản lý; cơ chế kiểm soát nguồn nước sao cho phù hợp
với tình hình của từng địa phương…
Thứ hai, nguồn nước là dung môi hòa tan nhiều chất. Xuất phát từ tính chất
7
vật lý và hóa học của nước mà nước là dung môi có thể hòa tan nhiều chất, cũng
chính là nguyên nhân khiến nước dễ bị “tổn thương”. Từ đó phát sinh ra vấn đề chất
thải nguy hại hoặc những chất độc hại khác có thể dễ dàng hòa tan trong nước và
“lây lan” giữa các nguồn nước với nhau. Muốn kiểm soát được ô nhiễm nguồn nước
cần kiểm soát ngay từ những nguồn có thể làm “bẩn” nước, đòi hỏi pháp luật nên
xét đến những nguồn khác nhau gây hại cho nước nhất là trong vấn đề liên quan đến
chế tài xử phạt các hành vi gây ô nhiễm nguồn nước.
Thứ ba, nguồn nước tồn tại ở mọi nơi. Tức là nước có mặt trên cả mặt đất,
trong lòng đất và cả bầu khí quyển. Chính vì thế việc kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước đòi hỏi phải toàn diện ở nhiều dạng khác nhau. Thậm chí các loại thiên tai như
bão, lũ lụt, hạn hán cũng là một phần gây nên ô nhiễm nguồn nước, cần được quan
tâm để bảo vệ lợi ích của con người.
Thứ tư là nước có khả năng luân chuyển. Mặc dù định nghĩa về nguồn nước
chỉ ra rằng, nguồn nước là các loại nước đã “tích tụ”, tuy nhiên từ “tích tụ” không
có nghĩa là nước tập trung lại một vị trí cố định mà chỉ là khả năng tập hợp của
nước. Nước có khả năng tích tụ lại với nhau nhưng lượng nước đó hoàn toàn có khả
năng luân chuyển đi nơi khác thông qua nhiều quá trình khác nhau như chảy trôi,
quá trình tuần hoàn của nước… Vì thế kiểm soát ô nhiễm nguồn nước không chỉ là
trách nhiệm của riêng một đơn vị địa lý cố định nào cả mà phải là sự chung tay, góp
sức của nhiều chủ thể, của các địa phương với nhau. Từ đó cũng đặt ra vấn đề cho
pháp luật làm sao để có thể kiểm soát hài hòa hoạt động giữa các cơ quan nhà nước
với nhau, và giữa các cơ quan nhà nước ở các địa phương khác nhau để việc kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước đạt được hiệu quả cao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm và nguyên nhân của ô nhiễm nguồn nước
Ô nhiễm nguồn nước là vấn đề môi trường được cả nhân loại quan tâm vì nó
ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống, đời sống sinh hoạt và đời sống sản xuất của con
người. Ô nhiễm nguồn nước cũng là một vấn đề khá phức tạp, vì có nhiều nguyên
nhân cũng như nhiều dạng ô nhiễm mà có thể con người cũng chưa thể nắm rõ hết
tất cả. Pháp luật dựa vào những khái niệm, đặc điểm , từ cái cốt lõi của vấn đề để
đưa ra được những quy định phù hợp, bao quát được hết những khía cạnh mà ô
nhiễm nguồn nước đưa ra.
1.2.1. Khái niệm ô nhiễm nguồn nước
8
Ô nhiễm môi trường là “sự biến đổi của các thành phần môi trường không
phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật môi trường và tiêu chuẩn môi trường gây ảnh
hưởng xấu đến con người và sinh vật”[23]. Nước là một thành phần của môi trường,
xuất phát trên quan điểm của định nghĩa trên, pháp luật điều chỉnh riêng về tài
nguyên nước đã đưa ra khái niệm về ô nhiễm nguồn nước.
Hiến chương Châu Âu đã ghi nhận: “Ô nhiễm nước là sự biến đổi nói chung
do con người đối với chất lượng nước, làm nhiễm bẩn nước và gây nguy hiểm cho
con người, cho công nghiệp, nông nghiệp, nuôi cá, nghỉ ngơi, giải trí, cho động vật
nuôi và các loài hoang dã”. Theo khoản 14, Điều 2, Luật Tài nguyên nước năm
2012, khái niệm về ô nhiễm nguồn nước được quy định như sau: “Ô nhiễm nguồn
nước là sự biến đổi tính chất vật lý, tính chất hóa học và thành phần sinh học của
nước không phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho phép, gây ảnh hưởng
xấu đến con người và sinh vật”. Như vậy định nghĩa của hiến chương châu Âu chưa
nêu ra cụ thể sự biến đổi trong đất là gì và cơ sở xác định ô nhiễm là gì, chỉ quy
định chung là “làm nhiễm bẩn nước” và “gây nguy hiểm”. Khác với “suy thoái”
nguồn nước (sự suy giảm về số lượng, chất lượng nguồn nước so với trạng thái tự
nhiên hoặc so với trạng thái của nguồn nước đã được quan trắc trong các thời kỳ
trước đó [21khoản 15, Điều 2]), là khái niệm thiên về sự thay đổi về số lượng, chất
lượng nước so với thời kỳ trước đó, tức là lấy lượng và chất của nước ở một thời kỳ
trước đó làm cơ sở xác định, thì ô nhiễm nguồn nước là sự thay đổi thiên về tính
chất của nước, như tính vật lý, hóa học, thành phần sinh học và lấy tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật cho phép để làm cơ sở nhận định ô nhiễm. Bên cạnh đó về khía cạnh
biểu hiện nhận biết, ô nhiễm nguồn nước thể hiện tác động xấu của nó đến con
người và sinh vật.
Ô nhiễm nguồn nước có thể dựa vào các tiêu chí khác nhau để phân loại.
Dựa vào tiêu chí nguồn gốc, có thể chia ô nhiễm nguồn nước thành hai loại: ô
nhiễm tự nhiên và ô nhiễm nhân tạo. Ô nhiễm tự nhiên có thể xuất phát mưa, tuyết
tan, lũ lụt…đưa vào môi trường những chất thải bẩn, các vi sinh vật có hại… Ô
nhiễm nhân tạo là quá trình thải các chất độc hại chủ yếu dưới dạng lỏng như các
chất thải sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp…vào môi trường nước. Theo tiêu chí
bản chất ô nhiễm, có thể phân ra thành: ô nhiễm vô cơ, ô nhiềm hữu cơ, ô nhiễm
hóa chất, ô nhiễm sinh học… Hiện nay pháp luật cũng dựa vào những tiêu chí phân
9
loại này để quy định các tiêu chuẩn, quy chuẩn và các biện pháp xử phạt.
1.2.2. Đặc điểm của ô nhiễm nguồn nước
Xuất phát từ khái niệm về ô nhiễm nguồn nước và đặc trưng của nguồn
nước, ô nhiễm nguồn nước có những đặc điểm riêng biệt so với các ô nhiễm khác.
Sau đây là hai đặc điểm nổi bật nhất về ô nhiễm nguồn nước:
Một là, ô nhiễm nguồn nước có tính tốc độ lan truyền và quy mô ảnh hưởng
lớn. Nước có mặt ở mọi nơi trên Trái đất và là nền tảng cấu trúc nên tế bào sống,
nước len lỏi ở khắp mọi nơi và dễ dàng luân chuyển sang nơi khác. Các nguồn nước
không có nguồn nào là hoàn toàn riêng biệt, chúng có liên hệ đến nhau. Chẳng hạn
như nước ao, hồ nếu chỉ nhìn vào tính chất của nó bên ngoài sẽ thấy tính luân
chuyển của nước thấp, tính ổn định cao; nhưng bên trong đó, quá trình nước xâm
nhập vào đất, ngấm qua các tầng đất xuống tầng nước ngầm hay quá trình bốc hơi
ngưng đọng bên trên tầng khí quyển vẫn luôn luôn diễn ra. Chính vì xuất phát từ
tính luân chuyển của nước mà ô nhiễm nguồn nước rất dễ lây lan từ nguồn nước này
sang nguồn nước khác. Khi đã lây lan ô nhiễm thì quy mô ảnh hưởng trở nên lớn
hơn rất nhiều, vì quá trình lây lan sẽ luôn luôn diễn ra. Chẳng hạn như sự cố môi
trường ở các tỉnh miền Trung nước ta xảy ra vào tháng 4 năm 2016 là một ví dụ
điển hình cho sự tốc độ lan truyền của ô nhiễm nguồn nước. Hiện tượng hải sản chết
bất thường bắt đầu xuất hiện tại Hà Tĩnh vào ngày 6/4/2016, sau đó lần lượt xuất
hiện tại các tỉnh: Quảng Bình (10/4/2016), Thừa Thiên - Huế (15/4/2016), Quảng
Trị (16/4/2016) do nguồn nước bị ô nhiễm từ việc xả thải chất thải chứa độc tố của
công ty Formosa Hà Tĩnh. Tốc độ lan truyền ô nhiễm quá nhanh đã làm cho bốn
tỉnh dọc ven biển miền Trung nước ta chịu nhiều thiệt hại nặng nề.
Hai là, ô nhiễm nguồn nước phức tạp với nhiều tác nhân. Từ các tính chất
đặc trưng của nguồn nước để thay đổi mô hình, tính chất vật lý , hóa học sinh học ,
của nước có thể xuất phát từ rất nhiều nguyên nhân. Tốc độ lây lan cao cũng là trở
ngại để xác định tác nhân gây ra ô nhiễm nguồn nước. Để pháp luật thực hiện tốt vai
trò kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cần làm tốt công tác xác đinh tác nhân gây ô
nhiễm nguồn nước và dựa vào đó để có những quy định hợp lý. Kiểm soát từ tác
nhân gây ô nhiễm là một hướng đi đúng và hiệu quả, tránh để xảy ra tình trạng lây
lan ô nhiễm rồi mới có những biện pháp xử lý. Ngoài ra do tính phức tạp của ô
nhiễm nguồn nước các quy chế về xử phạt cũng khá rắc rối và chưa bao quát đủ các
10
nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước.
1.2.3. Nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước
Hiện nay có nhiều nguyên nhân dẫn đến ô nhiễm nguồn nước, nguyên nhân
tự nhiên hoặc nguyên nhân nhân tạo. Tuy nhiên nguyên nhân xuất phát từ các hoạt
động của con người vẫn là nguyên nhân chủ yếu tác động xấu đến tài nguyên nước,
dẫn tới cần phải có các biện pháp để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Thứ nhất về nguyên nhân tự nhiên: Bất cứ một hiện tượng nào làm giảm chất
lượng nước đều bị coi là nguyên nhân gây ô nhiễm nước.Ô nhiễm nước do mưa,
tuyết tan, lũ lụt, gió bão… hoặc do các sản phẩm hoạt động sống của sinh vật, kể cả
xác chết của chúng. Cây cối, sinh vật chết đi, chúng bị vi sinh vật phân hủy thành
chất hữu cơ. Một phần sẽ ngấm vào lòng đất, sau đó ăn sâu vào nước ngầm, gây ô
nhiễm, hoặc theo dòng nước ngầm hòa vào dòng lớn. Lụt lội có thể làm nước mất
sự trong sạch, khuấy động những chất dơ trong hệ thống cống rãnh, mang theo
nhiều chất thải độc hại từ nơi đổ rác, và cuốn theo các loại hoá chất trước đây đã
được cất giữ. Nước lụt có thể bị ô nhiễm do hoá chất dùng trong nông nghiệp, kỹ
nghệ hoặc do các tác nhân độc hại ở các khu phế thải. Công nhân thu dọn lân cận
các công trường kỹ nghệ bị lụt có thể bị tác hại bởi nước ô nhiễm hoá chất. Ô nhiễm
nước do các yếu tố tự nhiên (núi lửa, xói mòn, bão, lụt,...) có thể rất nghiêm trọng,
nhưng không thường xuyên, và không phải là nguyên nhân chính gây suy thoái chất
lượng nước toàn cầu. Sự suy giảm chất lượng nước có thể do đặc tính địa chất của
nguồn nước ví dụ như: nước trên đất phèn thường chứa nhiều sắt, nhôm. nước lấy từ
lòng đất thường chứa nhiều canxi… Ngoài ra, biến đổi khí hậu toàn cầu cũng là một
trong những nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước.
Thứ hai về nguyên nhân nhân tạo. Hoạt động sản xuất kinh doanh của con
người cần tập trung với lưu lượng lớn. Đặc biệt sản xuất công nghiệp thải ra nguồn
nước (trực tiếp hoặc gián tiếp) lượng lớn chất thải công nghiệp. Lượng nước thải
này chưa qua xử lý hoặc đã quy xử lý những chưa đạt tiêu chuẩn có thể được thải
trực tiếp vào các vùng nước mặt hoặc thấm từ vùng nước mặt xuống nước ngầm.
Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn tới ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam hiện nay.
Ở Việt Nam với mức tăng dân số nhanh chóng đã đưa nước ta vào hàng thứ
14[39] trong các quốc gia có dân số đông nhất Thế giới. Trong vòng hơn 50 năm
gần đây (1980- 2018), dân số nước ta tăng gần gấp đôi lần từ 54.372.518 người lên
95.563.102 người[39]. Dân số tăng nhu cầu dùng nước cho sinh hoạt và phát triển
11
kinh tế tăng lên, các nguồn thải tăng, sự ô nhiễm môi trường nước cũng tăng lên.
Sinh hoạt của con người cũng tác nhân lớn gây ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt
là nguồn nước ở các đô thị. Nước thải sinh hoạt là nước thải phát sinh từ các hộ gia
đình, bệnh viện, khách sạn, cơ quan trường học, chứa các chất thải trong quá trình
sinh hoạt, vệ sinh của con người. Thành phần cơ bản của nước thải sinh hoạt là các
chất hữu cơ dễ bị phân hủy sinh học (cacbohydrat, protein, dầu mỡ), chất dinh
dưỡng (photpho, nitơ), chất rắn[34]. Tùy theo mức sống và lối sống mà lượng nước
thải cũng như tải lượng các chất có trong nước thải của mỗi người trong một ngày là
khác nhau. Quá trình sản xuất nông nghiệp như sử dụng thuốc trừ sâu không đúng
quy trình, các loại phân bón hóa học, hóa chất bảo vệ thực vật tràn lan khiến các
hóa chất bị tồn dư sẽ ngấm xuống nước ngầm, cũng làm nguồn nước bị ảnh hưởng.
Trên đây là những tác nhân chính gây ô nhiễm nguồn nước. Với tốc độ gia
tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp ồ ạt như hiện nay, nguồn nước đang
đứng trước những nguy cơ rất lớn của ô nhiễm nặng nề. Hậu quả chung của tình
trạng ô nhiễm nước là tỉ lệ người mắc các bệnh cấp và mạn tính liên quan đến ô
nhiễm nước như viêm màng kết, tiêu chảy, ung thư… ngày càng tăng. Người dân
sinh sống quanh khu vực ô nhiễm ngày càng mắc nhiều loại bệnh tình nghi là do
dùng nước bẩn trong mọi sinh hoạt. Ngoài ra ô nhiễm nguồn nước còn gây tổn thất
lớn cho các ngành sản xuất kinh doanh, các hộ nuôi trồng thủy sản…Tác hại của ô
nhiễm nguồn nước là khôn lường, trong cả đời sống sinh hoạt, sản xuất của con
người; thậm chí là chính sự sống của con người và các loài sinh vật khác. Xuất phát
từ những đòi hỏi khác quan của thực tiễn đời sống xã hội, cùng với những ưu thế
đặc biệt của một công cụ pháp lý mà các công cụ khác không có được, pháp luật
phải thể hiện được vai trò, sức mạnh của mình trong việc điều chỉnh các quan hệ xã
hội liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Pháp luật về kiểm soát nguồn
nước sẽ là cơ sở pháp lý, là tiền đề cho mọi hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước; là công cụ đắc lực giúp cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có
được hiệu quả tốt hơn.
1.3. Khái niệm, đặc điểm, vai trò và nguyên tắc của pháp luật kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước
1.3.1. Khái niệm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Bảo vệ môi trường luôn là vấn đề sống còn, là vấn đề ảnh hưởng đến mọi
12
mặt đời sống xã hội của mỗi quốc gia.Với những đặc điểm riêng có của mình, pháp
luật giúp triển khai những chủ trương, chính sách của nhà nước một cách nhanh,
đồng bộ và hiệu quả nhất. Pháp luật cũng chính là tiếng nói của nhân dân thông qua
quyền và nghĩa vụ của mình. Pháp luật thể hiện vai trò của mình trong việc quy
định các hành vi xử sự đúng đắn, có lợi cho việc kiểm soát và phát triển nguồn nước
đồng thời thể hiện tính răn đe bằng những biện pháp, chế tài xử phạt những hành vi
gây hại cho nguồn nước, vi phạm quá trình kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Pháp
luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đặt ra những chuẩn mực xử sự, quy định những
hành vi được phép hay không được phép đối với nguồn nước, đồng thời đưa ra các
tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để kiểm soát nguồn nước gắn với các hoạt động
kiểm soát nguồn nước riêng biệt của từng chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Sau đó, đưa ra những quy định về xử lý vi phạm
liên quan đến ô nhiễm nguồn nước để một lần nữa thể hiện tính cưỡng chế, răn đe
của pháp luật đối với những hành vi gây hại cho đời sống xã hội.
Như vậy, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội liên quan đến kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước, cụ thể là điều chỉnh hoạt động của các cơ quan nhà nước cũng như các
tổ chức, cá nhân nhằm kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, tránh những tác động tiêu
cực mà các hoạt động của con người có thể gây hại đến nguồn nước. Bao gồm
những quy định về chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước, các quy định liên quan đến cấp , thu hồi giấy phép tài nguyên nước; quy
hoạch nguồn nước và các quy điịnh liên quan đến xử lý vi phạm pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước.
1.3.2. Đặc điểm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Công tác bảo vệ môi trường nói chung và công tác kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước nói riêng đạt được những bước tiến đáng kể trong thời gian gần đây. Trong đó
có sự đóng góp đắc lực của công cụ pháp luật. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước đã thể hiện được những đặc trưng riêng có của mình so với các ngành
luật khác, ngày càng thể hiện vị trí độc lập của mình và vai trò hữu hiệu trong kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nổi bật
những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là công cụ định hướng xử
13
sự của con người trong quan hệ với môi trường nói chung và nguồn nước nói riêng.
Ví dụ như thông qua các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về nguồn nước để khoanh
vùng giới hạn hành vi của các chủ thể. Đồng thời, pháp luật đưa ra những quy định
về quy hoạch, kế hoạch kiểm soát nguồn nước, góp phần định hướng hoạt động
kiểm soát nguồn nước lâu dài và có tính chiến lược hơn.
Thứ hai, pháp luật kiểm soát nguồn nước quy định rõ chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn cụ thể của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước. Pháp luật có tính bắt buộc chung, tính xã hội và tính quy phạm phổ
biến được đảm bảo thực hiện bởi các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Sở dĩ
.pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có hiệu quả hơn một các biện pháp khác
bởi lẽ nó đã quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, cũng như các tổ chức cá nhân trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Đặc biệt là việc đề cao sự vào cuộc, kiểm soát của các cơ quan nhà nước, như định
kỳ đánh giá tình hình môi trường nước, xây dựng kế hoạch bảo vệ nguồn nước…,
sẽ giúp ích rất lớn trong việc kiểm soát được hiệu quả và có răn đe cao hơn…
Thứ ba, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có tính bắt buộc các chủ
thể phải thực hiện các nghĩa vụ của mình rất cao. Bên cạnh những quy phạm đề ra
cách thức xử sự và nghĩa vụ của các chủ thể chung, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước còn quy định những chế tài phát hiện hành vi vi phạm và chế tài xử
phạt những vi phạm liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các chế tài về
hành chính, dân sự, hình sự… được áp dụng trong từng hành vi vi phạm cụ thể, để
công cụ pháp luật về kiểm soát nguồn nước thể hiện được sức mạnh của mình.
1.3.3. Vai trò của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, đảm bảo cho
sự tồn tại, vận hành bình thường của xã hội. Pháp luật không chỉ là một công cụ hữu
hiệu của nhà nước mà còn tạo môi trường thuận lợi để phát triển ý thức đạo đức của
con người. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ngày càng khẳng định được
vai trò của mình trong trong hệ thống pháp luật về môi trường. Ý nghĩa và vai trò
của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được thể hiện như sau:
Một là, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước tạo thành khung pháp lý
quy định quy tắc xử sự của con người khi tác động đến nguồn nước. Trong đời
sống, có rất nhiều hoạt động của con người tác động vào môi trường nước. Các hoạt
14
động đó diễn ra liên tục và dưới nhiều hình thức khác nhau đòi hỏi pháp luật phải có
những quy định về cách xử sự của con người với nguồn nước. Con người với vai trò
là chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật với nguồn nước cần biết điều chỉnh hành
vi của mình theo các quy định của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Pháp luật thông qua các công cụ chẳng hạn như các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
về nước để quy định mức, điều kiện chất thải mà con người có thể xả thải ra nguồn
nước. Cũng nhờ có các quy chuẩn làm cơ sở để pháp luật truy cứu trách nhiệm pháp
lý của các chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Pháp luật
cũng quy định về các hành vi của con người với từng loại nước (nước mặt, nước
ngầm…), bắt buộc con người phải tuân thủ và điều chỉnh chặt chẽ hành vi của mình
theo hướng có lợi cho nguồn nước, tất cả vì mục đích chung là bảo vệ được nguồn
nước khỏi ô nhiễm, cũng chính là bảo vệ chính cuộc sống, sự sống của con người.
Hai là, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước quy định nghĩa vụ của các
cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Mặc dù, kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước là nghĩa vụ của tất cả mọi người, cần có sự chung tay, góp sức
của cộng đồng, thế nhưng nhà nước lại đóng vai trò vô cùng quan trọng và nổi bật
hơn cả trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Nhà nước sử dụng công cụ đắc
lực của mình đó là pháp luật để thực hiện tốt vai trò đó. Chính vì thế, pháp luật
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các
cơ quan quản lý nhà nước. Cơ quan nhà nước sẽ có trách nhiệm với từng hoạt động
kiểm soát khác nhau, điều hòa hoạt động của các cơ quan nhà nước với nhau, đảm
bảo sư phối hợp hài hòa và có hiệu quả trong công tác kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước. Thực tế đã khẳng định tính tất yếu của các cơ quan nhà nước trong mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội. Cơ quan nhà nước lấy cơ sở là quy định pháp luật để có
quyền thực hiện các hoạt động kiểm soát nguồn nước trê thực tế. Trong quá trình
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, cơ quan nhà nước sẽ phát hiện ra nhiều sai phạm.
Pháp luật cũng có những quy định về xử lý vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước, để tạo cơ sở cho các cơ quan nhà nước thực thi những biện pháp
được pháp luật quy định. Chẳng hạn như quy định chắc năng quyền hạn của Sở tài
nguyễn và môi trường, các chi cục bảo vệ môi trường… sau đó sở tài nguyên dựa
vào những quy định trong luật, phối kết hợp với các chi cục và các địa phương tổ
chức kiểm soát ô nhiễm nguồn nước theo các tiêu chuẩn, quy chuẩn … do pháp luật
15
đặt ra, rà soát những vi phạm pháp luật tại địa phương và có những chế tài thích hợp
để răn đe. Nhờ có sự quy định nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn của các cơ quan nhà
nước mà ý thức bảo vệ môi trường của cấp lãnh đạo cũng như đội ngũ nhân viên
các cơ quan kiểm soát được nâng cao hơn rất nhiều. Vì ý thức được trách nhiệm tiên
phong của mình, các cơ quan nhà nước sẽ thực hiện tốt hơn các hoạt động kiểm soát
ô nhiễm nguồn nước.
Ba là, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có ràng buộc các chủ thể
phải thực hiện những yêu cầu của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các
chủ thể, nhất là các tổ chức, cá nhân, mặc dù nắm rõ trách nhiệm của mình với hoạt
động bảo vệ môi trường nói chung và với nguồn nước nói riêng nhưng có thể vì một
lý do nào đó chẳng hạn như lợi nhuận, các chủ thể sẵn sàng lờ đi trách nhiệm của
mình. Nhất là khi kiểm soát nguồn nước là một công việc chung mà không có lợi
ích cá nhân ở đó nên việc coi như mặc kệ trách nhiệm bảo vệ môi trường là điều
thường xuyên xảy ra trong đời sống xã hội. Một khi pháp luật đã quy định rõ nghĩa
vụ mà họ phải thực hiện và có các chế tài xử phạt để cảnh tỉnh họ thì hành vi của
các chủ thể sẽ đúng đắn hơn. Đây không chỉ đơn thuần là các biện pháp ngăn ngừa,
giáo dục chủ thể vi phạm mà còn mang tính răn đe để họ phát huy trách nhiệm và ý
thức của mỗi cá nhân.
Bốn là, việc duy trì và phát triển pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
giúp đảm bảo sự phát triển của xã hội. Nguồn nước là nguồn sống của các tế bào xã
hội. Việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đối với bất kì quốc gia nào cũng là nhiệm
vụ được ưu tiên. Điều này càng cần thiết hơn trong bối cảnh các nước đang phát
triển như nước ta đẩy mạnh phát triển công nghiệp và các ngành ứng dụng khoa học
kỹ thuật hiện đại. Đời sống con người ngày càng được nâng cao, nhưng ý thức về
bảo vệ môi trường nói chung và nguồn nước nói riêng chưa thực sự tốt. Nhiều tổ
chức, cá nhân thậm chí là cơ quan quản lý nhà nước vẫn còn coi trọng lợi ích riêng
mà lơ là lợi ích chung của toàn xã hội. Tất cả những điều trên tác động rất xấu tới
nguồn nước, đòi hỏi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước phải luôn duy trì
vai trò của mình trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, pháp luật cũng phải luôn luôn
vận động, đổi mới để ứng phó với những diễn biến mới có thể xảy ra và bù lấp
những lỗ hổng còn thiếu sót, để điều chỉnh hành vi của xã hội tốt hơn vì lợi ích của
chính xã hội, vì chính sự phát triển của toàn xã hội.
16
Nhờ những vai trò và đóng góp quan trọng của pháp luật kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước mà các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đã có những bước
tiến mới. Xã hội từ các cơ quan nhà nước cho tới các tổ chức, cá nhân ngày càng ý
thức hơn nghĩa vụ của mình trong việc làm thế nào để nguồn nước tránh khỏi những
tác hại xấu do chính con người gây ra. Một khi con người đã có ý thức và biến ý
thức thành hành động được thực hiện theo sự điều chỉnh hành vi của pháp luật, sẽ
giúp cho đích đến của ý thức là cái đích tốt đẹp nhất.
1.3.4. Nguyên tắc của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Hiện nay, có nhiều văn bản pháp pháp luật thể hiện nguyên tắc của pháp luật
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, tuy nhiên vẫn chưa có quy định cụ thể nào về
nguyên tắc của kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Nổi bật lên trong hệ thống pháp luật
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là một số nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc công bằng trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước và các tổ
chức, cá nhân. Mỗi chủ thể trong quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước cần được quy định nghĩa vụ theo nguyên tắc công bằng. Vì kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước là một công việc chung cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các chủ
thể. Không chủ thể nào phải chịu nhiều nghĩa vụ để thực hiện một công việc chung
thay cho chủ thể khác. Mỗi chủ thể phải có những nghĩa vụ khác nhau phù hợp với
từng chủ thể khác nhau, đồng thời các chủ thể phải có mỗi quan hệ chặt chẽ với
nhau để hoàn thành tốt những nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
Nguyên tắc đảm bảo chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia, công bằng, hợp lý
trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Nguyên tắc này phần nào được ghi nhận tại
khoản 9, Điều 3, Luật tài nguyên nước năm 2012. Nguồn nước không chỉ tồn tại
trong lãnh thổ mỗi quốc gia, nhờ tính luân chuyển của nguồn nước mà nhiều nguồn
nước có thể liên quan từ quốc gia này đến các quốc gia khác. Chẳng hạn các quốc
gia có nguồn nước ở đầu nguồn hoặc thượng lưu các con sông có thể có những
chính sách về nguồn nước ảnh hưởng đến các quốc gia ở hạ lưu sông. Chính vì thế
nguyên tắc bảo đảm chủ quyền lãnh thổ, lợi ích quốc gia là nguyên tắc quan trọng,
bên cạnh đó cũng cần đảm bảo công bằng, hợp lý khi kiểm soát nguồn nước để hài
hòa lợi ích của các quốc gia có nguồn nước liên quốc gia với nhau. Từ đó, thúc đẩy
quan hệ hợp tác, phát triển cùng có lợi về nhiều mặt kinh tế, chính trị, văn hóa của
17
các quốc gia có chung nguồn nước.
Nguyên tắc kiểm soát nguồn nước lấy “phòng ngừa” là chính. Trong các hoạt
động kiểm soát nguồn nước, luôn ưu tiên công đoạn “phòng ngừa” là nguyên tắc
đầu tiên. Nó được thể hiện ở chỗ, pháp luật kiểm soát nguồn nước đã quy định
nghĩa vụ của nhà nước và các tổ chức cá nhân dựa trên mục tiêu phòng ngừa ô
nhiễm nguồn nước là cái chính yếu, chứ không phải chỉ quy định chế tài xử lý vi
phạm sau khi đã có vi phạm về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước dẫn đến ô nhiễm
nguồn nước.
Nguyên tắc lấy nguồn nước và bảo vệ nguồn nước gắn liền với các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Với bất kì một quy hoạch, kế hoạch
nào liên quan đến phát triển các lĩnh vực trong đời sống xã hội đều cần lấy việc bảo
vệ nguồn nước làm cơ sở để xây dựng. Chẳng hạn như quy hoạch đô thị ven sông
cần đảm bảo duy trì dòng chảy tối thiểu trên sông, không vượt quá ngưỡng khai
thác đối với các tầng chứa nước và có các biện pháp bảo đảm đời sống khu dân cư
[20,Khoản 8, Điều 3]; hay theo khoản 6, Điều 6, Luật quy hoạch đô thị năm 2009,
quy định nội dung quy hoạch hạ tầng đô thị như sau: “Đáp ứng nhu cầu sử dụng nhà
ở, công trình y tế, giáo dục, văn hoá, thể thao, thương mại, công viên, cây xanh, mặt
nước và công trình hạ tầng xã hội khác”. Như vậy, các lĩnh vực phát triển của xã hội
cần lấy kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng và bảo vệ nguồn nước nói chung ra
làm cơ sở, mục tiêu để xây dựng các nội dung, các kế hoạch để phát triển để đảm
bảo công tác kiểm soát nguồn nước được sâu rộng và đồng bộ.
1.4. Pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở một số quốc gia trên thế giới
Vấn đề bảo môi trường liên quan đến nguồn nước giờ đây không còn là vấn
đề riêng của mỗi quốc gia mà là vấn đề được cả thế giới quan tâm, đặc biệt là các
quốc gia trong khu vực với nhau, các quốc gia láng giềng càng quan tâm học hỏi,
chia sẻ kinh nghiệm với nhau để bảo vệ tốt nguồn nước liên quốc gia và tài nguyên
nước của thế giới nói chung. Hiện nay nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng cho
mình một luật riêng về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cho đến nay, Việt Nam vẫn
chưa có văn bản pháp luật riêng của quốc gia về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước mà
hệ thông quy phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước vẫn được quy định
riêng lẻ ở một số Luật như Luật bảo vệ môi trường (2014), Luật Tài nguyên nước
(2012), Luật tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (2006), Luật thủy lợi (2017)… và
18
một số Nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành.
Một số quốc gia trên thế giới hiện nay đang phải đối mặt với vấn đề về ô
nhiễm nguồn nước vô cùng lớn. Tiêu biểu có thể kể đến Hà Lan- một quốc gia có
mật độ dân số khá cao nhưng với gần 2/3 diện tích lãnh thổ nằm dưới mực nước
biển. Hà Lan chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ biến đổi khí hậu khiến nguồn nước quốc
gia này bị ô nhiễm rất lớn từ nguyên nhân tự nhiên. Chính vì thế hoạt động kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Lan thể hiện rõ vai trò sống còn và ảnh hưởng quyết
định đến sự phát triển kinh tế- xã hội của quốc gia này.
Về quy định cơ quan có thẩm quyền kiểm soát nguồn nước. Ở Hà Lan các ủy
ban về nước (water board) - một thể chế bao gồm chính quyền địa phương, các cơ
quan chuyên môn và các tổ chức đại diện cho người dân trên địa bàn cả về quyền
lợi và nghĩa vụ… đã có từ 700 năm nay, và hiện nay, số lượng ủy ban chỉ còn lại
27, nhằm tăng cường về nguồn lực và sự phối hợp được nhanh chóng và tập trung
hơn. Trong phạm vi địa bàn của mình, ủy ban về nước có các trách nhiệm: (a) quản
lý và bảo trì các công trình có tác động đối với dòng chảy của nước như đê, giồng,
bến cảng; (b) quản lý và bảo trì các thủy lộ; bảo trì một mực nước thích hợp trong
các polder và các thủy lộ; (c) bảo trì chất lượng nước mặt thông qua việc xử lý nước
thải. Tuy nhiên, ủy ban về nước không phụ trách việc cung cấp nước sạch và cũng
không phải là cơ quan dịch vụ công ích [37].
Ngoài ra, Hà Lan còn thành lập các ủy ban châu thổ (Delta commissie) có
chức năng tư vấn cho cả nước và tầm nhìn dài hạn cho Chính phủ trong việc phát
triển các vùng ven biển và vùng thấp, hạn chế ô nhiễm nguồn nước ngầm do xâm
nhập mặn. Như vậy, Hà Lan có các cơ quan riêng biệt không chia theo cấp mà
thành lập thành từng ủy ban khác nhau, mỗi ủy ban về nước có lĩnh vực quản lý và
kiểm soát riêng biệt. Ngoài ra, điểm hay ở quy định thẩm quyền quản lý và kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Lan là ủy ban về nước sẽ có một thành phần là tổ
chức đại diện người dân trên địa bàn cả về quyền lợi và nghĩa vụ. Điều nay làm tăng
tính phối hợp giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền và người dân trong công
tác chung bảo vệ nguồn nước. Đồng thời các ủy ban chuyên trách về tư vấn riêng,
có khả năng tư vấn trên phạm vi cả nước, tạo ra tính mở và tính linh hoạt, chủ động
cho các chủ thể thực hiện nghĩa vụ của mình đối với nguồn nước.
Pháp luật Singapore, cũng quy định đạo luật riêng về kiểm soát ô nhiễm môi
19
trường. Đạo luật này điều chỉnh các vấn đề liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm
môi trường và các hoạt động có mục đích liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm môi
trường[35]. Pháp luật Singapore trao quyền lớn cho nhà nước can thiệp vào việc ra
quyết định của danh nghiệp và người dân. Công cụ cấp phép được sử dụng rất phổ
biến. Luật quản lý và Bảo vệ môi trường cho phép cơ quan nhà nước có quyền yêu
cầu bất kỳ chủ dự án nào cũng phải làm báo cáo đánh giá tác động môi trường và
được cơ quan này phê duyệt trước khi quy hoạch dự án[14]. Việc cấp giấy phép và
giấy chứng nhận thuộc thẩm quyền của Bộ Môi trường nhằm đảm bảo kiểm soát và
quản lý chặt chẽ các hoạt động có khả năng tác động có hại tới môi trường. Cụ thể
là trước khi một hoạt động được phép tiến hành, Bộ Môi trường phải đảm bảo là
hoạt động đó sẽ không gây ra tác hại gì cho môi trường[34]. Về vấn đề xử lý vi
phạm liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Singapore. Tùy vào mức độ vi
phạm khác nhau, pháp luật về bảo vệ môi trường ở Singapore ngoài quy định các
biện pháp giáo dục, thì các biện pháp mang tính cưỡng chế là không thể thiếu từ
biện pháp hình sự đến biện pháp hành chính và dân sự. Về vấn đề hình phạt cũng
được quy định khá đa dạng. Pháp luật môi trường Singapore lấy chế tài hình sự là
công cụ cơ bản để thực thi, biện pháp này được áp dụng đối với người bị kết án phạt
tiền, phạt tù, bắt bồi thường và đối với những vi phạm nhỏ thì phạt cải tạo lao động
bắt buộc (chỉ áp dụng với những bị cáo đủ 16 tuổi trở lên và đủ tiêu chuẩn y tế).
Chẳng hạn như về biện pháp xử lý hình sự, hình thức phạt tiền được coi là hình phạt
phổ biến và hữu hiệu nhất. Đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng hơn thì có
hình thức phạt từ.
Ví dụ: theo Đạo luật về môi trường sức khoẻ cộng đồng và Đạo luật kiểm
soát ô nhiễm thì những người vi phạm lần đầu bị buộc tội về hành vi đưa chất thải
hoặc các chất độc hại vào nguồn nước ngầm có thể bị phạt tù đến 12 tháng[35]. Đối
với những người tái phạm thì có thể bị phạt tù với chế độ khắc nghiệt từ 1 đến 12
tháng . Ngoài ra, pháp luật Singapore cũng quy định các hình phạt khác như tạm
giữ, tịch thu; lao động cải tạo bắt buộc. Đối với các hành vi nhỏ, hình phạt lao động
cải tạo bắt buộc có hiệu quả khá cao, ít người tái phạm. Bên cạnh các chế tài hình
sự, Singapore cũng rất coi trọng các chế tài về hành chính (thông báo và lệnh; giấy
phép, giấy chứng nhận…) và các chế tài về dân sự ( bồi thường thiệt hại, các khoản
phí tổn mà cơ quan có thẩm quyền phải chịu để làm sạch môi trường…)
20
Nổi bật ở pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng và kiểm soát
các loại ô nhiễm môi trường nói chung là việc quy định các biện pháp xử lý vi
phạm. Các biện pháp xử lý vi phạm này được thực hiện nghiêm ngặt và có tính răn
đe cao, từ những vi phạm nhỏ với các hình thức xử phạt nhỏ như lao động, cải taoj
công ích đến hình thức phạt tiền hay đến phạt tù. Ở Việt Nam hình thức xử phạt
chính vẫn là xử phạt hành chính, tuy nhiên mức độ răn đe chưa thực sự hiệu quả.
Bài học kinh nghiệm khác đến từ Trung Quốc, quốc gia đông dân nhất thế
giới, đã và đang trong thời kỳ phát triển nóng công nghiệp. Theo Thống kê dân số
thế giới năm 2017 của viện khoa học thống kê, dân số Trung quốc chiếm hơn 18%
dân số thế giới. Tuy nhiên, Trung Quốc chỉ có 7% là nước sạch, thống kê cho thấy,
trên 70% nguồn nước các sông, hồ và 50% các đô thị có nước ngầm bị ô nhiễm[35].
Trước tình hình đó, Chính phủ Trung Quốc đã cho ra đời Luật Kiểm soát và Phòng
ngừa ô nhiễm nước (WPPCL) năm 1984, trước cả khi có Luật bảo vệ môi trường.
Năm 2008, Luật WPPCL đã được sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện như hiện nay. Một
số điểm nổi bật hiệu quả của luật WPPCL thể hiện như sau:
Thứ nhất, củng cố trách nhiệm bảo vệ môi trường của chính quyền địa
phương. Theo Luật WPPCL 2008, chính quyền địa phương phải đưa bảo vệ môi
trường nước vào quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và chính quyền sẽ chịu trách
nhiệm về chất lượng nước trong khu vực quản lý tương ứng của mình. Luật cũng
quy định lấy thành tích đạt được trong mục tiêu bảo vệ nước là một chỉ số để đánh
giá hoạt động của chính quyền địa phương và cơ quan quản lý môi trường. Cụ thể,
chính quyền địa phương phải ký cam kết trách nhiệm với Chính phủ trong việc thực
hiện các mục tiêu bảo vệ môi trường trong Kế hoạch 5 năm lần thứ 11, một trong số
các mục tiêu đó là giảm nhu cầu ôxy hóa (COD) trong nước xuống 10% trong giai
đoạn 2006 - 2010. Qua đó, Chính phủ sẽ xem xét các mục tiêu để đánh giá chính
quyền địa phương trong việc thực thi nhiệm vụ của mình[32, tr28].
Thứ hai, tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia vào bảo vệ môi trường nước.
Theo quy định của Luật WPPCL 2008, cộng đồng có quyền yêu cầu tiết lộ thông tin
về chất lượng nước quốc gia một cách thống nhất. Ví dụ khác : Theo Điều 88, luật
WPPCL, nếu số lượng (lớn hơn 10) các bên có quyền lợi hợp pháp bị thiệt hại
trong một sự cố ô nhiễm nguồn nước với mức độ tương đối lớn, các bên có thể lựa
chọn một đại diện để nộp đơn kiện tập thể[32]. Ngoài ra, Bộ Bảo vệ môi trường
21
Trung Quốc có trách nhiệm ban hành các thông tin về tiêu chuẩn chất lượng nước
quốc gia để tránh nhầm lẫn và bảo đảm công chúng được cung cấp thông tin chính
xác và đáng tin cậy về chất lượng nước.
Thứ ba, về công cụ pháp lý, để kiểm soát được hoàn toàn chất lượng nước
dòng sông, hồ thì bắt buộc ngay cả các nhà máy đạt tiêu chuẩn cũng phải giảm
lượng thải các chất gây ô nhiễm chính [16,tr26]. Đồng thời, chính quyền địa
phương cũng phải giảm thiểu và kiểm soát tổng lượng thải các chất gây ô nhiễm
nước trong khu vực hành chính và Chính phủ chịu trách nhiệm tương ứng để giảm
thiểu và kiểm soát tổng lượng thải các chất trong phạm vi quốc gia.
Nhật Bản ban hành luật Kiểm soát ô nhiễm nước từ năm 1970 với mục tiêu
đạt được tiêu chuẩn môi trường nước đạt được ở hầu hết các địa phương trên toàn
quốc. Chính vì thế Nhật Bản đặt nguyên tắc tiêu chuẩn chất lượng nước là một mục
tiêu quan trọng với cơ quan quản lý nhà nước được quy định áp dụng cho mọi
nguồn nước công cộng, đồng thời được chia làm nhiều nhóm tùy theo mục tiêu sử
dụng ở ao, hồ, sông [16, tr121]. Theo đó, thống đốc mỗi tỉnh sẽ đề ra một số tiêu
chuẩn nước thải phù hợp với tình trạng ô nhiễm nguồn nước của mỗi khu vực mình
quản lý và giám sát. Từ các quy định chung của vùng sẽ thiết kế quy định chung
cho toàn quốc. Thống nhất tiêu chuẩn nước thải quốc gia cho các đối tượng khác
nhau. Luật tập trung vào ba nội dung chủ yếu đó là tiêu chuẩn môi trường nước liên
quan đến bảo vệ sức khỏe con người và bảo vệ môi trường sống; Tiêu chuẩn và quy
định phát thải; Kiểm soát tổng lượng chất ô nhiễm. Nội dung pháp luật chủ yếu
nhấn mạnh vào tiêu chuẩn chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân ý thức con người của
đất nước phát triển như Nhật Bản rất cao. Điều quan trọng nhất mà họ cần làm đó ra
đặt ra những tiêu chuẩn để kiểm soát. Những tiêu chuẩn về nguồn nước có ý nghĩa
lớn trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước tại Nhật Bản. Điều này cũng để lại
những vấn đề cần xem xét về vấn đề tăng cường hiệu quả của các quy chuẩn, tiêu
chuẩn môi trường nước trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay.
Dựa vào những bài học kinh nghiệm của pháp luật một số quốc gia trên thế
giới, Việt Nam cần xem xét và ban hành các quy định nghiêm ngặt đối với kiểm
soát nguồn nước, đặt biệt là kiểm soát các nguồn độc hại làm ô nhiễm nước. Đặc
biệt, cũng cần chú trọng ô nhiễm nguồn nước do các nguyên nhân tự nhiên như xâm
nhập mặn ở nguồn nước đồng bằng Sông Cửu Long. Phân công rõ nghĩa vụ của các
22
cơ quan nhà nước và tặng cường cự phối hợp của các cơ quan nhà nước trong việc
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Đồng thời, pháp luật cũng nên đặt ra các biện pháp,
chế tài xử lý có hiệu quả, như kinh nghiệm phát huy hiệu quả các biện pháp xử phạt
của Singapore để nâng cao hơn ý thức của cá nhân và toàn thể cộng đồng trong việc
bảo vệ nguồn nước. Hơn hết, nâng cao tinh thần trách nhiệm và sự tham gia của
người dân trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước bởi vì hơn hết hoạt động kiểm
soát có hiệu quả hay không phụ thuộc lớn vào ý thức tự giác của người dân. Trong
bối cảnh của phát triển kinh tế thị trường, vấn đề kiểm soát ô nhiễm nguồn nước rất
cần sự vào cuộc của các quy định pháp luật. Việt Nam cần học hỏi kinh nghiệm của
các quốc gia đi trước và việc xây dựng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
kết hợp với thực tiễn tại quốc gia mình để có hướng đi đúng đắn nhất cho các giải
23
pháp hoàn thiện pháp luật.
Chương 2:
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NGUỒN NƯỚC Ở
VIỆT NAM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRÊN
ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước ở Việt Nam
Đảng và nhà nước ta luôn chú trọng, quan tâm đến đến vấn đề bảo vệ môi
trường , bảo vệ nguồn nước, càng ngày càng xác định rõ bảo vệ môi trường là
nhiệm vụ trọng tâm của cả đất nước. Pháp luật về kiểm soát ô nhiễm Việt Nam trải
qua quá trình hình thành và phát triển từ những năm cuối của thập niên 80 của thế
kỷ XX cho tới ngày nay, từ những nhen nhóm ban đầu để phục vụ quá trình đổi mới
của đất nước cho tới ngày nay khi đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về lĩnh
vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và mở ra hướng đi trong tương lai của việc phát
triển pháp luật pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đã không ngừng phát
triển và hoàn thiện.
Giai đoạn trước năm 1986
Sau nhiều năm đất nước bị nhấn chìm trong các cuộc chiến tranh liên miên,
hậu quả chiến tranh để lại là hết sức nặng nề. Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó
khăn, các cấm vân từ Mỹ và các nước phương Tây, đối phó với nguy cơ chiến tranh
ở phía Tây Nam và phía Bắc cùng với các thiên tai xảy ra liên tục khiến Việt Nam
phải suy nghĩa đến hướng đi mới cho đất nước . Những năm 80, nước ta rơi vào thời
kỳ khủng hoảng kinh tế, thêm việc bị cô lập về quan hệ ngoại giao, thêm vào đó là
nước ta vận hành theo hệ thống quan liêu bao cấp. Khó khăn chồng chất khó khăn
dẫn đến hoạt động bảo vệ môi trường không được quan tâm đúng mức. Trong giai
đoạn này, chính sách phát triển kinh tế- xã hội của đất nước dường như không đi đôi
với bảo vệ môi trường.
Hệ thống pháp luật nước ta trước năm 1986 cũng chưa hoàn chỉnh. Cơ chế
bao cấp với sự chi phối của hệ thống chi tiêu kế hoạch trong mọi lĩnh vực kinh tế-
xã hội kìm hãm sự phát triển của pháp luật. Các luật về kinh tế, tài chính thậm chí
cũng không có điều kiện phát triển vì thế phát triển pháp luật về môi trường còn là
24
một điều chưa được suy nghĩ đến một cách thấu đáo.
Về văn bản pháp luật, Điều 36, Hiến pháp năm 1980 có đề cập đến nghĩa vụ
thực hiện chính sách bảo vệ môi trường một cách chung chung như sau: “Các cơ
quan Nhà nước, xí nghiệp, hợp tác xã, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân đều có
nghĩa vụ thực hiện chính sách bảo vệ, cải tạo và tái sinh các nguồn tài nguyên thiên
nhiên, bảo vệ và cải thiện môi trường sống”. Ngoài ra, có một số sắc lệnh, nghị
quyết khác liên quan đến bảo vệ môi trường như sắc lệnh số 142/SL do Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký ngày 21/12/1949 quy định về kiểm soát lập biên bản các hành vi vi
phạm pháp luật bảo vệ môi trường, Nghị quyết số 36/CP của Hội đồng chính phủ
ngày 11/03/1961 về Quản lý, bảo vệ tài nguyên dưới lòng đất. Trong thời kỳ này,
Việt Nam cũng chưa tham gia bất kỳ một công ước quốc tế nào về môi trường, nên
pháp luật về môi trường chỉ đơn thuần xuất phát từ yêu cầu quản lý của nhà nước.
Như vậy, pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời kỳ này chưa được quan tâm, mà
chỉ có một số những quy định ban đầu hình thành cho nên pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước cũng chưa có điều kiện hình thành và phát triển.
Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 1998
Sau khi đất nước đã có nhiều thay đổi, nhờ chủ trương đổi mới đất nước sau
Đại hội Đảng lần thứ VI, bảo vệ môi trường đã được coi là một lĩnh vực cần coi
trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Năm 1992, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường được thành lập. Cục
Môi trường là cơ quan đầu tiên chuyên trách về môi trường có chức năng giúp Bộ
trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường thống nhất quản lý các hoạt động
bảo vệ môi trường trong cả nước.
Trong bối cảnh tại thời điểm năm 1993, việc nhà nước ta ban hành Luật Bảo
vệ môi trường đầu tiên cho thấy sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta đối với công
tác bảo vệ môi trường. Năm 1993 đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự phát triển
của pháp luật bảo vệ môi trường nói chung và pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước nói riêng. Luật Bảo vệ môi trường năm 1993 gồm có 55 điều được chia làm 7
chương, quy định những vấn đề có tính cốt lõi nhất trong công tác bảo vệ môi
trường. Trong giai đoạn này, chưa có luật tập trung quy định về bảo vệ nguồn tài
nguyên nước mà chỉ được quy định tại một số điều trong luật môi trường.
Luật Tài nguyên nước đầu tiên được Quốc hội khoá X thông qua tại kỳ họp
25
thứ 3 (ngày 20 tháng 5 năm 1998), có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 1999, đánh
dấu một bước tiến quan trọng nữa trong công tác quản lý tài nguyên nước ở nước ta.
Đây là văn bản pháp luật cao nhất về quản lý tài nguyên nước, trong đó các quan
điểm, đường lối của Đảng, chiến lược phát triển đất nước có liên quan đến tài
nguyên nước đã được thể chế hoá; bước đầu tiếp cận quan điểm hiện đại của thế
giới về quản lý tổng hợp tài nguyên nước. Luật ra đời đã góp phần tăng cường hiệu
lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các tổ chức
và cá nhân trong bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống và khắc
phục hậu quả tác hại do nước gây ra; ý thức, nhận thức của người dân trong khai
thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước đã được cải thiện đáng kể.
Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2012
Sau nhiều năm thi hành Luật, nhiều quy định của Luật đã được triển khai
trên thực tế và đạt nhiều kết quả khả quan, đặc biệt là đã khai thác, sử dụng tốt hơn
các nguồn nước để đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Công tác quản lý nhà nước về tài nguyên nước có nhiều tiến bộ và từng bước đi vào
nề nếp, nhất là từ sau khi thành lập Bộ TN&MT: hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật đã được bổ sung, hoàn thiện thêm một bước để đáp ứng yêu cầu của công tác
quản lý và đòi hỏi từ thực tiễn; công tác thanh tra, kiểm tra trong lĩnh vực tài
nguyên nước được tăng cường hơn trước; công tác cấp phép thăm dò, khai thác, sử
dụng nước, xả nước thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất cũng
được triển khai đồng bộ ở cả trung ương và địa phương…
Với những lý do cơ bản nêu trên, việc xây dựng để ban hành Luật Tài
nguyên nước (sửa đổi) thay thế Luật Tài nguyên nước năm 1998 nhằm bảo vệ tài
nguyên nước có hiệu quả; sử dụng nước hợp lý, tiết kiệm; phòng, chống, khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra được tốt hơn; tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước
về tài nguyên nước là thực sự cần thiết.
Từ vai trò quan trọng của nước với cuộc sống và từ những thách thức trong
quản lý tài nguyên nước đặt ra yêu cầu cấp bách tăng cường và nâng cao hiệu quả
quản lý tài nguyên nước. Theo đó, cần phải quản lý bền vững và hiệu quả hơn các
hoạt động khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước và phòng chống, khắc phục
hậu quả tác hại do nước gây ra. Để bảo đảm tính đồng bộ, đáp ứng yêu cầu quản lý
tài nguyên nước trong tình hình mới, ngày 21/6/2012, Quốc hội đã thông qua Luật
26
Tài nguyên nước số 17/2012/QH13. Hệ thống văn bản pháp luật về tài nguyên nước
đã được Bộ TN&MT tập trung xây dựng, từng bước hoàn thiện, đặc biệt là hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thực hiện Luật Tài nguyên nước năm 2012,
tạo lập hành lang pháp lý cơ bản cho công tác quản lý tài nguyên nước từ trung
ương đến địa phương. “Quy định về quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên
nước; Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra thuộc lãnh thổ
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [21,Điều 1]. Trong đó, liên quan
đến yếu tố môi trường, Luật Tài nguyên nước năm 2012 đề cập sâu hơn đến các
biện pháp phòng, chống suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, bảo đảm an toàn nguồn
nước và bảo vệ khả năng phát triển tài nguyên nước, quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể được phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Khi quy định trách nhiệm của
các tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ chất lượng nước, Luật Tài nguyên nước
năm 2012 thường dẫn chiếu đến các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường,
đặc biệt là dẫn chiếu đến các quy chuẩn môi trường được điều chỉnh theo pháp luật
môi trường.
Giai đoạn từ năm 2012 đến nay
Tích cực phát triển những quy định từ luật Tài nguyên nước năm 2012, các
cơ quan có thẩm quyền đã triển khai xây dựng, ban hành 06 Nghị định của Chính
phủ, 21 Thông tư của Bộ TN&MT, riêng từ đầu năm 2017 đến nay đã ban hành
Nghị định số 33/2017/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tài nguyên nước và khoáng sản; Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định mức
thu, phương pháp tính, phương thức thu, chế độ quản lý, sử dụng tiền cấp quyền
khai thác tài nguyên nước,..
Trên cơ sở tinh thần đó, Việt Nam đề cao việc bảo vệ và quản lý nguồn
nước, coi đây là một nội hàm quan trọng của "Chiến lược phát triển bền vững của
Việt Nam giai đoạn 2011-2020" và triển khai "Chiến lược quốc gia về tài nguyên
nước đến năm 2020." Chiến lược đề ra yêu cầu quản lý tài nguyên nước theo
phương thức tổng hợp, sử dụng đa mục tiêu và gắn với các tài nguyên thiên nhiên
khác: “quản lý tài nguyên nước phải được thực hiện theo phương thức tổng hợp và
thống nhất trên cơ sở lưu vực sông. Cơ cấu sử dụng nước phải phù hợp với sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước; tài nguyên nước phải được phát triển bền vững; khai thác, sử dụng tiết
27
kiệm, hiệu quả, tổng hợp và đa mục tiêu. Phải coi sản phẩm nước là hàng hoá; sớm
xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện xã hội hoá các hoạt động bảo vệ, phát triển nguồn
nước và cung ứng dịch vụ nước”. Phương thức quản lý này được thể hiện thống
nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật cũng như trong việc triển khai chính
sách quản lý tài nguyên nước ở các cấp.
Như vậy cho tới nay, hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở
Việt Nam đã phần nào bao quát được các vấn đề về nước. Tuy luật còn quy định lẻ
tẻ ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau, và một số văn bản tính thống nhất chưa cao,
nhưng đã phần nào động chạm đến tất cả các vấn đề về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước ở nước ta hiện nay.
2.2. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở
Việt Nam
2.2.1. Quy hoạch, chiến lược môi trường trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Đối với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, quy hoạch, kế hoạch môi
trường cùng với đánh giá chiến lược, đánh giá tác động môi trường là những công
cụ pháp lý quan trọng quy định quy tắc xử sự của các chủ thể trong việc định hướng
nội dung, cách thức của hành vi của các chủ thể với nguồn nước.
Quy hoạch bảo vệ môi trường là việc phân vùng môi trường để bảo tồn, phát
triển và thiết lập hệ thống hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường gắn với hệ thống giải
pháp bảo vệ môi trường trong sự liên quan chặt chẽ với quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế - xã hội nhằm bảo đảm phát triển bền vững. [23,Khoản 21, Điều 3]
Đối với lĩnh vực liên quan đến tài nguyên nước, Luật Tài nguyên nước năm
2012 có đề cập đến kế hoạch tài nguyên nước. Theo đó quy hoạch tài nguyền nước
bao gồm có quy hoạch tài nguyên nước chung của cả nước; quy hoạch tài nguyên
nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn liên tỉnh; quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương. [21,32,Điều 15].Đối tượng của tất cả các hoạt
động quy hoạch trên là nguồn nước mặt và nước dưới đất. Mỗi kỳ quy hoạch là 10
năm, tầm nhìn 20 năm.
Về việc xây dựng kế hoạch kiểm soát nguồn nước cần đảm bảo phù hợp với
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của
cả nước, và các cùng. [21,Điều 18-20].Tùy vào đặc điểm tự nhiên, kinh tế- xã hội
của từng lưu vực sông, tiềm năng cơ bàn của nguồn nước và dự báo biến đổi khí
28
hậu đến tài nguyên nước, quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về nguồn nước đã ban
hành để lập quy hoạch tài nguyên nước cho phù hợp. Sự ảnh hưởng của các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên liên quan đến nguồn nước liên quốc gia
cũng ảnh hưởng đến việc định hướng trong quy hoạch. Quy hoạch về tài nguyên
nước phải thể hiện được sự phân bổ nguồn nước, phân vùng chức năng nguồn nước
và xác định những biện pháp khắc phục hậu quả do tác hại của nguồn nước gây ra.
Quy hoạch về tài nguyên nước cũng chính là quy hoạch về các nguồn nước, nó
góp phần to lớn trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ngay từ những khâu ban đầu.
Nó giúp đánh giá tổng quát đặc điểm tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội song song với
đánh giá hiện trạng nguồn nước (xác định chức năng, nhiệm vụ của nguồn nước, trữ
lượng, chất lượng nguồn nước, mục đích sử dụng của nguồn nước…), đồng thời cũng
xác định được khoản kinh phí để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Mang ý nghĩa định hướng chung cho các quy hoạch về nguồn nước, chiến
lược về kiểm soát nguồn nước là những cơ sở cơ bản để phát huy những cachs thức
lập quy hoạch sao cho phù hợp. Thuật ngữ “chiến lược” xuất phát từ quân sự để chỉ
phương pháp, cách thức để chiến thắng một cuộc chiến tranh. Hiện nay, thuật ngữ
“chiến lược” được sử dụng rộng rãi để thể hiện các kế hoạch hành động được thiết
kế để hoàn thành một mục tiêu nhất định. Đối với pháp luật về môi trường, “chiến
lược môi trường” được hiểu là tổng hợp các kế hoạch hành động tác động đến môi
trường trong một thời kỳ nhất định để nhằm mục tiêu bảo vệ, cải thiện môi trường.
Chiến lược môi trường liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được
xây dựng dựa trên đặc điểm của nguồn nước, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của
đất nước và quốc tế. Đối với vấn đề nguồn nước trong nước , chiến lược tài nguyên
nước cần đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sinh hoạt cho người dân, nhu cầu sử dụng
nước cho sản xuất, phát triển kinh tế, đảm bảo cho quốc phòng – an ninh và phòng
chống hiệu quả, tác hại do nước gây ra. Đối với nguồn nước quốc tế, phải đáp ứng
được khả năng hợp tác quốc tế và các quy định trong các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
Nhà nước ta đã xây dựng và phê duyệt nhiều chiến lược có nội dung kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước, chẳng hạn như: “Chương trình mục tiêu quốc gia nước
sạch và vệ sinh môi trường nông thôn” (Theo quyết định phê duyệt của thủ tướng
Chính phủ số 237/1998/QĐ-TTg ngày 03/12/1998), “Định hướng phát triển thoát
29
nước đô thị Việt Nam đến năm 2020” (Theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng
Chính phủ số 35/1999/QĐ-TTg ngày 5/3/1999)… và trong giai đoạn gần đây có
“Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm
2020” (Theo quyết định phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ số 256/2003/QĐ-TTg
ngày 20/12/2003). Về lĩnh vực kiểm soát nguồn nước trong giai đoạn hiện nay, định
hướng của Nhà nước được quy định trong “Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước
đến năm 2020” theo quyết định phê duyệt số 81/2006/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ. Theo Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020, một trong
những mục tiêu về bảo vệ tài nguyên nước là: “Kiểm soát được tình hình ô nhiễm
nguồn nước. Chấm dứt việc sử dụng các loại hóa chất độc hại trong sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản gây ô nhiễm nguồn nước và làm suy
giảm đa dạng sinh học”.
Chiến lược khác với quy hoạch môi trường ở chỗ, chiến lược giúp vạch ra
các quan điểm, định hướng của Nhà nước về môi trường trong tương lai, còn quy
hoạch môi trường là sự hiện thực hóa các định hướng đã được quy định trong
chiến lược môi trường bằng những biện pháp cụ thể hơn. Chiến lược và quy
hoạch môi trường là văn bản pháp lý quan trọng, là cơ sở cho các hoạt động
kiểm soát nguồn nước.
Liên hệ đến một công cụ đắc lực khác đó là đánh giá tác động môi trường có
ý nghĩa đáng kể trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Đánh giá tác động
môi trường là “việc phân tích, dự báo tác động đến môi trường của dự án đầu tư cụ
thể để đưa ra biện pháp bảo vệ môi trường khi triển khai dự án đó”[23,khoản 23,
Điều 3]. Trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, việc đánh giá tác động môi
trường nhằm phân tích, đánh giá, dự báo những ảnh hưởng của hoạt động phát triển
kinh tế- xã hội đến trữ lượng, chất lượng nguồn nước; đánh giá, phân tích ảnh
hưởng của nước thải đến chất lượng nguồn nước, từ đó xây dựng và thực hiện các
giải pháp kiểm soát ô nhiễm nguồn nước được hiệu quả.
Đánh giá tác động môi trường là một công cụ hiệu quả đển kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước. Bộ TN&MT tổ chức thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi
trường. Báo cáo đánh giá tác động môi trường phải hoàn thành trước khi ban hành
quyết định chủ trương đầu tư dự án. Trong trường hợp của Formosa, đánh giá tác
động môi trường cũng là một lỗ hổng của pháp luật. Bởi khi quy định báo cáo đánh
30
giá tác động môi trường phải hoàn thành trước khi ban hành quyết định, chủ trương
đầu tư dự án, ở những thời điểm ban đầu dự án thì hầu như các thông số ảnh hưởng
tới môi trường không nhiều và không thể đánh giá đúng sự tác động của dự án đến
môi trường.
Một nhân tố khác góp phần kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có hiệu quả là kế
hoạch môi trường. Kế hoạch môi trường chưa được định nghĩa trong pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Kế hoạch môi trường là một công cụ của pháp luật,
là một hồ sơ pháp lý ràng buộc trách nhiệm giữa doanh nghiệp với các cơ quan
quản lý Nhà nước về môi trường dành cho các dự án không thuộc báo cáo đánh giá
tác động môi trường. Để xây dựng được kế hoạch môi trường đặc biệt về lĩnh lực
kiểm soát nguồn nước cần phải có quá trình đánh giá, phân tích, dự báo các tác
động đến môi trường trong các giai đoạn thực hiện dự án. Các chủ thể phải thực
hiện theo đúng kế hoạch môi trường đã đặt ra, đặc biệt quan tâm đến vấn đề xử lý
chất thải trước khi xả ra nguồn nước.
Kế hoạch môi trường tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc xác
định ứng xử của doanh nghiệp đối với môi trường phù hợp với hoàn cảnh của từng
doanh nghiệp cụ thể và từng dự án cụ thể. Kế hoạch môi trường về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước cho thấy ý thức trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc bảo
vệ nguồn nước; sự tôn trọng và hiểu biết các tiêu chuẩn, quy chuẩn về nguồn nước
đã được ban hành; sự hiểu rõ những nguồn nước mà doanh nghiệp sẽ sử dụng. Đồng
thời, vì kế hoạch môi trường là do doanh nghiệp tự chủ động hoàn thành nên sẽ
nâng cao ý thức trách nhiệm một cách thực chất hơn trong các doanh nghiệp, tạo
điều kiện để cơ quan quản lý nhà nước quản lý dễ dàng hơn trong lĩnh vực kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước.
2.2.2. Chủ thể tham gia pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Chủ thể pháp luật là cá nhân, tổ chức có khả năng có quyền và nghĩa vụ pháp
lý theo quy định của pháp luật. Chủ thể pháp luật khác với chủ thể quan hệ pháp
luật. Chủ thể pháp luật chỉ cần có năng lực pháp luật, nhưng để trở thành chủ thể
của một quan hệ pháp luật cụ thể thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
pháp luật, tức là phải có khả năng tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy
định của pháp luật. Nội dung phần này chủ yếu đề cập đến chủ thể quan hệ pháp
luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
31
Xuất phát từ đòi hỏi khách quan của đời sống xã hội đặc biệt là các đòi hỏi
về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước và vai trò của pháp luật trong việc điều chỉnh các
quan hệ xã hội, pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có ý nghĩa to lớn không
chỉ trong việc bảo vệ nguồn nước mà còn bảo vệ các chủ thể tham gia quan hệ pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Có hai chủ thể chính tham gia vào quan hệ
pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đó là: cơ quan quản lý nhà nước và các
tổ chức, cá nhân. Mỗi chủ thể được pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ phù hợp
với đặc thù tính chất, hoạt động của từng chủ thể.
Cơ quan quản lý nhà nước
Nhà nước là chủ thể tham gia nhiều quan hệ pháp luật. Nhằsm thực hiện các
hoạt động bảo vệ môi trường nước, Nhà nước là chủ thể có nghĩa vụ quản lý tài
nguyên nước, trong đó hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là hoạt động quan
trọng. Pháp luật quy định rõ nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong hoạt động
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Có thể chia hệ thống cơ quan Nhà nước về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
thành hai loại:
Thứ nhất là các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền chung (bao gồm: Chính
phủ và UBND các cấp)
Chính phủ là cơ quan đầu não ban hành những Nghị định, Thông tư liên
quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Chính phủ quy định cụ thể việc lập, quản
lý hành lang bảo vệ nguồn nước; quy định cụ thể việc thăm dò, khai thác nước dưới
đất; quy định cụ thể việc đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên
nước; quy định cụ thể các trường hợp khai thác tài nguyên nước phải nộp tiền cấp
quyền khai thác tài nguyên nước, phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai
thác tài nguyên nước.Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền như: phê duyệt quy
hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước, ban hành danh mục lưu vực sông
liên tỉnh…
Thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước do các cơ quan Nhà nước, cụ thể như sau: Chính phủ quy định cụ thể việc cấp
giấy phép xả thải vào nguồn nước[ 32,Điều 37], Chính phủ quy định cụ thể việc đăng
ký, cấp giấy phép khai thác, sử dụng tài nguyên nước [32, Điều 44]. Bên cạnh đó thẩm
quyền quy định trình tự, thủ tục và quy định cụ thể quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình
32
chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước thuộc về Chính phủ [32,Điều 73]
Chính phủ cũng là cơ quan có thẩm quyền thành lập hội đồng quốc gia về tài
nguyên nước (tư vấn cho Chính phủ và thủ tướng Chính phủ trong những quyết
định quan trọng về tài nguyên nước).
Như vậy, chủ yếu các hoạt động như lập quy hoạch, kế hoạch về nguồn nước
đều do Thủ tướng chính phủ phê duyệt và Chính phủ là cơ quan quản lý chung, ban
hành những quy định cụ thể mang tính định hướng hành động trong các hoạt động
liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
UBND các cấp là cơ quan ở địa phương có thẩm quyền trong các hoạt động
liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở tại địa phương mình. Theo đó,
UBND cấp tỉnh tổ chức lập quy hoạch tài nguyên nước của tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nhưng vẫn phải có ý kiến bằng văn bản của Bộ TN&MT. UBND
cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện điều tra, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước đối
với các nguồn nước nội tỉnh, nguồn nước liên tỉnh trên địa bàn của mình theo hướng
dẫn của các bộ ngành liên quan đặc biệt là Bộ TN&MT.
Thứ hai là các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn (bao gồm: Bộ
TN&MT, các Sở Tài nguyên và Môi trường, Chi cục bảo vệ môi trường, Phòng Tài
nguyên môi trường…)
Bộ TN&MT đứng vai trò là cơ quan đầu não đảm nhận trách nhiệm thực
hiện những nhiệm vụ về đánh giá hiện trạng tài nguyên nước. Theo đó, Bộ TN&MT
phải đưa ra những bộ dữ liệu, chuẩn dữ liệu, xây dựng hệ thống thông tin về tài
nguyên nước và tiến hành chia sẻ thông tin về tài nguyên nước. Bộ TN&MT cũng
có trách nhiệm trong việc quy định nội dung, biểu mẫu điều tra hiện trạng xả thải
vào nguồn nước. Đồng thời, Bộ TN&MT có trách nhiệm chủ trì, phối hợp với các
Bộ, cơ quan ngang Bộ có liên quan xây dựng các đề án, kế hoạch kiểm kê tài
nguyên nước trong phạm vi cả nước, với đối tượng kiểm kê là các nguồn nước khác
nhau như nguồn nước liên quốc gia, nguồn nước liên tỉnh …
Thẩm quyền xây dựng, phê duyệt quy hoạch tài nguyên nước thuộc thẩm
quyền của Bộ TN&MT phối hợp với các bộ ngành liên quan tùy vào loại nước ( tài
nguyên nước chung cho cả nước, tài nguyên nước lưu vực sông liên tỉnh, nguồn
nước liên tỉnh…).
Bộ TN&MT, UBND cấp tỉnh thực hiện việc cấp, gia hạn, điều chỉnh, đình
33
chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước
Bộ tài nguyên môi trường có nghĩa vụ chủ trì, phối hợp với các bộ ngành liên
quan và UBND cấp tỉnh lập chiến lược tài nguyên nước trình thủ tướng chính
phủ.[32,Điều 14,21,24]. Như vậy ta có thể thấy rằng thẩm quyền xây dựng các kế
hoạch, quy hoạch vè chiến lược khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên
nước chủ yếu thuộc về Bộ TN&MT. Là cơ quan đầu ngành trong các hoạt động liên
quan đến lĩnh vực về môi trường, Bộ TN&MT vừa có chức năng tham mưu cho
Chính phủ về chiến lược nước quốc gia vừa xây dựng và giám sát các hoạt động
trong kế hoạch, quy hoạch sử dụng, khai thác, bảo vệ nguồn nước. Khác với pháp
luật Hà lan như đã đề cập trước đó, Hà Lan lập ra các ủy ban về nước chuyên trách
từng vấn đề, thậm chí có ủy ban tham mưu riêng cho các vấn đề về nước thì trong
pháp luật Việt Nam hầu hết thẩm quyền các hoạt động về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước và các hoạt động khác về môi trường vẫn chủ yếu do Bộ TN&MT trực tiếp
nắm thẩm quyền; Bộ TN&MT có thể phối hợp với các bộ ngành liên quan khác
hoặc cùng với UBND cấp tỉnh thực hiện các hoạt động.
Pháp luật quy định nghĩa vụ xây dựng dự thảo đề nghị thẩm định, thẩm định
tiêu chuẩn quốc gia về môi trường là của Bộ trưởng Bộ TN&MT; Bộ trưởng Bộ
Khoa học và Công nghệ có trách nhiệm tổ chức thầm định dự thảo và công bố tiêu
chuẩn quốc gia về môi trường [35, Điều 120].Đối với quy chuẩn về tài nguyên
nước, Bộ TN&MT là cơ quan có trách nhiệm xây dựng, ban hành theo thẩm quyền
quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước[20,điểm d,
khoản 6, Điều 2]. Hiện nay danh sách các quy chuẩn quốc gia về môi trường chủ
yếu có trong quyết định 16/2008/QĐ-BTNMT về Ban hành quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về môi trường.
Các nghĩa vụ chung của các cơ quan Nhà nước chủ yếu được quy định trong
Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, Nghị định của
Chính phủ số 201/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
tài nguyên nước. Nghĩa vụ của nhà nước trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gồm
những nội dung cơ bản như sau:
Một là, đánh giá hiện trạng tài nguyên nước
Đánh giá hiện trạng tài nguyên nước là quá trình hoạt động nhằm xác định
trữ lượng, chất lượng nước, tình hình khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên nước,
34
nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực tới trữ lượng nước, chất lượng nước của quốc
gia[26]. Phục vụ cho việc đánh giá hiện trạng tài nguyên nước được hiệu quả cần
đánh giá tổng quan tiềm năng tài nguyên nước trên cơ sở điều tra cơ bản địa chất, sử
dụng các kết quả của nó làm căn cứ khoa học cho việc định hướng các hoạt động
thăm dò, khai thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn nước. Các hoạt động này được
gọi là điều tra cơ bản về nguồn nước.
Các cơ quan nhà nước có nghĩa vụ điều tra cơ bản tài nguyên nước, được ghi
nhận tại Điều 10, Luật tài nguyên nước năm 2012 [21, Điều 10 đến Điều 13]. Theo
đó, hoạt động điều tra cơ bản tài nguyên nước phải được thực hiên theo quy hoạch,
kế hoạch đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Bộ TN&MT tổ chức lập quy hoạch
tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt. Sau
khi quy hoạch tổng thể điều tra cơ bản tài nguyên nước đã được phê duyệt, bộ, cơ
quan ngang bộ và UBND cấp tỉnh trong phạm vi quyền hạn nhiệm vụ có trách
nhiệm tổ chức xây dựng kế hoạch điều tra cơ bản tài nguyên nước cho chính địa
phương mình để phù hợp với thực tế tại từng địa phương. Cùng với việc điều tra cơ
bản và đánh giá hiện trạng tài nguyên nước, nhà nước còn có trách nhiệm khác như
kiểm kê tài nguyên nước, điều tra hiện trạng khai thác, sử dụng, xả nước thải vào
nguồn nước, quan trắc tài nguyên nước, xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu
tài nguyên nước.
Ngoài quy định về nghĩa vụ bao quát các hoạt động liên quan đến đánh giá
tài nguyên nước của Bộ TN&MT, công tác này cần có sự phối hợp thực hiện giữa
các bộ ngành có liên quan. Các bộ ngành liên quan trong phạm vi, quyền hạn của
mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ TN&MT trong hoạt động kiểm kê tài nguyên
nước và xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước (Bộ
NN&PTNT, Bộ Công thương, Bộ Xây dựng và các bộ ngành có liên quan trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình)
Thực tế đã cho thấy tầm quan trọng của hoạt động đánh giá hiện trạng tài
nguyên nước. Đối với công tác kiểm soát ô nhiễm, việc đánh giá hiện trạng tài
nguyên nước giúp các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức, các nhân có tác động
đến nguồn nước biết được tình trạng của nước và các vùng địa chất xung quanh
nguồn nước. Nó cung cấp được cơ sở dữ liệu khoa học về thực trạng tài nguyên
nước ở mỗi địa phương cụ thể trong thời gian cụ thể, để từ đó làm tiền đề, cơ sở cho
35
các hoạt động lên kế hoạch, quy hoạch kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các tổ chức,
cá nhân dựa vào thông tin được chia sẻ trên cơ sở dữ liệu của Bộ TN&MT sẽ điều
chỉnh các hành vi tác động đến nguồn nước một cách hiệu quả, khoa học hơn, tránh
được các nguy cơ có thể gây ô nhiễm nguồn nước. Trong thời kỳ kinh tế thị trường,
việc thu hút đầu tư ngày càng nhiều là điều tất yếu xảy ra, việc các nhà đầu tư tham
khảo và tìm hiểu đầu tư tại Việt Nam bao gồm có việc tìm hiểu hiện trạng môi
trường, trong đó có hiện trạng nguồn nước ở khu vực đó, về cả trữ lượng, xuất xứ,
chất lượng nguồn nước để cân nhắc có đầu tư hay không. Cơ sở dữ liệu về đánh giá
hiện trạng tài nguyên nước chắc chắn sẽ góp phần giúp các nhà đầu tư có được
những lựa chọn phù hợp, góp phần vừa phát triển kinh tế đi đôi với bảo vệ nguồn
nước. Việc pháp luật quy định nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc đánh
giá hiện trạng tài nguyên nước vì thế có ý nghĩa quan trọng trong việc kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước.
Hai là, xây dựng và tổ chức thực hiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi
trường nước
Pháp luật xác định rõ nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc xây
dựng và tổ chức thực hiện hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường tức là việc
Nhà nước quy định các chuẩn mực, giới hạn về hóa học, vật lý, sinh học được quy
định bởi pháp luật nhắm xác định tính chất của nguồn nước. Các tiêu chuẩn nhà
nước ban hành bắt buộc phải áp dụng. Hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường
về nguồn nước bao gồm nhiều nhóm quy chuẩn với từng nguồn nước khác nhau
(quy chuẩn nước mặt, quy chuẩn nước dưới đất, quy chuẩn nước thải…).
Việc xây dựng, tổ chức thực hiện các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi
trường là nghĩa vụ cơ bản của các cơ quan nhà nước trong việc kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước. Pháp luật đặt ra các quy chuẩn, tiêu chuẩn môi trường về nguồn nước
để lấy cơ sở cho các quy định liên quan đến các hoạt động cấp giấy phép liên quan
đến sử dụng, khai thác nguồn nước; xác định các hành vi vi phạm pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước và các biện pháp xử lý vi phạm phù hợp với từng mức độ.
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch về khai
thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển tài nguyên nước
Kế hoạch, quy hoạch khai thác sử dụng tài nguyên nước là những hoạt động
được đ chủ động thực hiện theo một một mục tiêu đã vạch sẵn. Chiến lược về khai
36
thác, sử dụng, bảo vệ, phát triển nguồn tài nguyên nước là những nhiệm vụ lớn. mục
tiêu mang tính tổng thể, được nhà nước chỉ đạo thực hiện trong một thời gian dài.
Việc xây dựng, thực hiện các chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chính sách bảo vệ
nguồn nước tùy vào tiềm năng, yêu cầu và mục đích sử dụng của từng nguồn nước.
Chẳng hạn như quy hoạch lưu vực sông, quy hoạch khu vực xả nước thải… Nhà
nước khi xây dựng các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch kiểm soát nguồn nước cần
tính đến các yếu tố có ảnh hưởng đến nguồn nước một cách tổng thể, dựa trên kết
quả khảo sát tiêu chuẩn các nhóm nguồn nước để đưa ra những hành động, định
hướng cho chính xác.
Xây dựng và sử dụng nguồn tài chính cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước
Chi phí cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là rất lớn xuất phát từ
tính phức tạp và khó khăn của hoạt động này. Các cơ quan quản lý nhà nước với vai
trò là chủ thể chính trong quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có
nghĩa vụ phải xây dựng và có kế hoạch sử dụng hợp lý các nguồn tài chính cho hoạt
động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước [23,Điều 147-149]. Các nguồn tài chính tài
chính để kiểm soát ô nhiễm môi trường nói chung như: ngân sách nhà nước, phí bảo
vệ môi trường, quỹ bảo vệ môi trường…
Trong khi đó, nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước chủ yếu là nguồn thu ngân sách từ hoạt động tài nguyên nước bao
gồm: Thuế tài nguyên nước và các khoản thuế khác theo quy định của pháp luật;
các loại phí, lệ phí; tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; tiền bồi thường thiệt
hại cho Nhà nước, tiền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên
nước[21,Điều 64]. Ta có thể thấy rằng, nguồn tài chính để phục vụ cho hoạt động
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chủ yếu là nguồn thu ngân sách nhà nước ( từ thuế,
phí và tiền nộp phạt), thiếu đi sự đóng góp của quỹ bảo bệ môi trường. Các cơ quan
nhà nước cũng chú trọng đến hoạt động thu phí bảo vệ môi trường đối với nước
thải, để nó trở thành công cụ đắc lực giúp cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước được hiệu quả. Theo đó, phí bảo vệ môi trường đối với nước thải là một
khoản thu thuộc ngân sách Nhà nước, được quản lý và sử dụng như sau: trích lại
một phần phí thu được cho cơ quan, đơn vị trực tiếp thu phí để trang trải chi phí cho
việc thu phí; chi phí cho các chi phí lấy mẫu, đánh giá phân tích mẫu nước thải vục
37
vụ cho kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất. Phần còn lại của khoản phí thu được sẽ nộp
vào ngân sách nhà nước (một phần cho ngân sách trung ương để bổ sung vào quỹ
bảo vệ môi trường Việt Nam, một phần cho ngân sách địa phương để phục vụ việc
bảo vệ, phát triển tài nguyên nước ở địa phương). Nhờ nghĩa vụ xây dựng và sử
dụng có hiệu quả các nguồn tài chính phục vụ cho kiểm soát ô nhiễm nguồn nước,
các cơ quan Nhà nước cũng tự tạo ra điều kiện thuận lợi cho mình để tiếp tục phát
triển các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước khác một cách có hiệu quả hơn.
Cấp, thu hồi giấy phép liên quan đến việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Là một công cụ hữu hiệu, giấy phép tài nguyên nước có vai trò quan trọng
trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Thẩm quyền liên quan đến việc cấp, thu
hồi giấy phép về tài nguyên nước đều thuộc về các cơ quan quản lý Nhà nướ, cụ thể
chịu trách nhiệm chính là Chính phủ, Bộ TN&MT và UBND cấp tỉnh. Việc quy
định thẩm quyền như vậy giúp nhà nước kiểm soát nguồn nước một cách hiệu quả,
hạn chế những nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước.
Tổ chức thực hiện phòng chống, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước do sự
vận động bất thường của nước
Ô nhiễm nguồn nước xuất phát từ nhiều nguyên nhân, các nguyên nhân do
hoạt động của con người thì các cơ quan Nhà nước có nghĩa vụ phải thực hiện một
số hoạt động như trên đã đề cập. Tuy nhiên, không thể không kể đến các nguyên
nhân gây ô nhiễm nguồn nước thuộc về tự nhiên, chẳng hạn như xâm nhập mặ, hạn
hán, lũ lụt cũng là nguyên nhân làm thay đổi cấu trúc vật lý, hóa học, sinh học của
nước, là nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm nguồn nước. Vì thế nghĩa vụ của chủ thể Nhà
nước trong việc tổ chức thực hiện phòng chống và khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn
nước do sự vận động bất thường của nước cũng là một nội dung mà pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước quy định. Đối với từng nguồn nước và tác nhân gây
ô nhiễm nguồn nước sẽ quy định trách nhiệm riêng của các cơ quan. Cụ thể gồm
các nghĩa vụ như: nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây
ra; phòng , chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra; phòng,
chống lũ lụt, ngập úng nhân tạo; phòng, chống xâm nhập mặn; phòng chống sạt, lở
bờ bãi, sông [21, Điều 58-63]. Việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thông qua hoạt
động phòng, chống và khắc phục hậu quả do sự vận động bất thường của nước gây
ra có vai trò quan trọng trọng việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước một cách toàn
38
diện. Từ đó giúp bảo vệ được trữ lượng, chất lượng nguồn nước, hạn chế mức thấp
nhất những tác hại về mặt tự nhiên có thể gây ra đối với nguồn nước.
Thanh tra thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước; giải quyết
tranh chấp, khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước
Cơ quan nhà nước có nghĩa vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước, tức là hoạt động của nhà nước theo thủ tục nhất định
nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hành vi vi phạm về ô nhiễm nguồn nước.
Thanh tra chuyên ngành của Bộ TN&MT và các Sở tài nguyên và môi trường là cơ
quan thực hiện chức năng thanh tra đối với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước.[21,Điều 75]. Các cơ quan nhà nước thực hiện nghĩa vụ thanh tra việc thực
hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cần xác định rõ mục tiêu của hoạt
động này đó là phát hiện và ngăn chặn được những hành vi vi phạm pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Trong quá trình thực hiện công tác thanh tra, cần
dựa trên cơ sở khoa học kỹ thuật và công nghệ, các chuyên gia có trình độ pháp lý
để tiến hành hoạt động thanh tra có chất lượng. Nhà nước thông qua nghĩa vụ thanh
tra việc thực hiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có thể phát hiện ra
những bất cập của chính pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước để có giải
pháp hoàn thiện pháp luật trong tương lai để phù hợp hơn với tình hình cụ thể.
Thêm vào đó, các cơ quan nhà nước còn có nghĩa vụ giải quyết các tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước. Giải quyết tranh chấp về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước quan trọng
nhất phải đảm bảo buộc bên vi phạm phải khôi phục lại trữ lượng và chất lượng
nước. Đây là mục tiêu cơ bản và cần thiết nhất của giải quyết tranh chấp về ô nhiễm
nguồn nước. Tuy nhiên, hoạt động này chỉ là một trong những nghĩa vụ mà các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền phải thực thi để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Nếu
xét riêng về nội dung của pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thì riêng giải
quyết tranh chấp về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là một phần riêng biệt.
Như vậy, trên đây là tất cả nghĩa vụ của chủ thể là cơ quan quản lý nhà nước
được quy định trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Ta thấy nổi bật lên
trong các cơ quan nhà nước về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là thẩm quyền rất lớn
và bao trùm hầu hết các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước của Bộ TN&MT.
39
Chính phủ chỉ đóng vài trò trong việc phê duyệt Chiến lược nước quốc gia và một
số vấn đề liên quan đến quy định trình tự, thủ tục của cấp và thu hồi giấy phép tài
nguyên nước. Các bộ ngành liên quan, như bộ Xây dựng, Bộ Công thương, Bộ
NN&PTNT … chủ yếu đóng vai trò phối, kết hợp với Bộ TN&MT trong việc thực
hiện các kế hoạch, quy hoạch liên quan đến kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. UBND
cấp tỉnh là cơ quan nhà nước cấp dưới thực hiện các hoạt động do Bộ Tài nguyên
môi trường giao phó, và có nghĩa vụ trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở địa
phương nhất là nguồn nước liên tỉnh và nguồn nước nội tỉnh, đảm bảo việc phối hợp
nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở mỗi địa phương với nhau để hoạt
động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước đạt được kết quả tốt nhất.
Chủ thể là tổ chức, cá nhân
Các tổ chức, cá nhân là chủ thể đóng vai trò quan trọng trong kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước. Chủ thể này tham gia quan hệ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước với vai trò là chủ thể trực tiếp tác động đến đến nguồn nước thông qua
các hoạt động sản xuất, sinh hoạt, khai thác …nguồn nước của mình. Và tổ chức, cá
nhân cũng là chủ thể quyết định được những quyết sách của Nhà nước có được thực
hiện tốt hay không. Các hoạt động của con người rất đa dạng, mỗi hoạt động lại có
ảnh hưởng khác nhau đến nguồn nước. Chính vì thế pháp luật cũng dựa vào tính
chất, mức độ của từng hoạt động để quy định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân
trong kiểm soát ô nhiễm nguồn nước sao cho hợp lý. Sau đây là một số nghĩa vụ cơ
bản của chủ thể là các tổ chức cá nhân tham gia quan hệ pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước.
Thứ nhất là bảo vệ chất lượng, trữ lượng nguồn nước. Các tổ chức, cá nhân
không được thực hiện các hành vi gây tổn hại tới trữ lượng và chất lượng nguồn
nước. Pháp luật nghiêm cấm các hành vi: làm suy thoái, cạn kiệt nguồn nước, ngăn
cản trái phép sự lưu thông của nguồn nước ( bồi, lấp ao, hồ công cộng trái phép…).
Ngoài ra, về các chất thải vào nguồn nước, pháp luật cũng nghiêm cấm thải dầu,
mỡ, hóa chất độc hại, chất phóng xạ, nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đạt
tiêu chuẩn vào nguồn nước. Xác động vật, thực vật, vi khuẩn, siêu vi khuẩn độc hại
gây dịch bệnh vào nguồn nước. [23,Điều 7][ 21, Điều 9].
Để thực hiện tốt nghĩa vụ bảo vệ chất lượng, trữ lượng nguồn nước, các chủ
thể là tổ chức, cá nhân phải thực hiện nghĩa vụ nộp phí bảo vệ môi trường đối với
40
chất thải. Chẳng hạn: Nghị định 25/2013/NĐ-CP của Chính phủ về Phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc diện phải nộp phí
bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt hàng tháng cho đơn vị cung cấp nước
sạch. Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt được tính theo tỉ lệ
% trên giá bán 1m3 nước sạch nhưng tối đa không quá 10% giá bán nước sạch chưa
bao gồm thuế giá trị gia tăng. Ngoài ra, nước thải công nghiệp cũng là đối tượng
phải nộp phí bảo vệ môi trường.
Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước còn
phải đảm bảo các nghĩa vụ khác như: cung cấp thông tin về tài nguyên nước cho các
cơ quan có thẩm quyền khi có yêu cầu kiểm tra, đánh giá trữ lượng, chất lượng
nguồn nước, không gây cản trở hoặc làm thiệt hại lợi ích hợp pháp của chủ thể
khác. Khi phát hiện thấy những hành vi vi phạm kiểm soát ô nhiễm nguồn nước,
gây mất an toàn nguồn nước phải kịp thời báo ngay cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền để giải quyết.Các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải thực hiện đánh giá
tác động môi trường theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, tùy vào mục đích của
các chủ thể mà pháp luật có những quy định riêng. Chẳng hạn như đối với các chủ
thể sử dụng nước vào mục đích sản xuất nông nghiệp như làm muối, nuôi trồng
thủy sản phải đảm bảo sử dụng hóa chất phù hợp với chủng loại, mức độ tùy theo
quy định về thuốc bảo vệ thực vật…[21,Điều 33]. Pháp luật quy định nhiều trường
hợp khác nhau tùy vào much đích sử dụng nước của các tổ chức, cá nhân như:
khoan, thăm dò địa chất, xử lý nền móng công trình, xây dựng công trình ngầm; xây
dựng công trình thủy điện; thực hiện hoạt động giao thông đường thủy hay sử dụng
nguồn nước vào mục đích nghiên cứu khoa học, nghỉ ngơi, du lịch, thể thao đều dựa
trên những yêu cầu đặc thù của từng hoạt động. Hơn ai hết, các tổ chức, cá nhân
chính là chủ thể có đa dạng các hoạt động ảnh hưởng đến nguồn nước hơn cả so với
các chủ thể khác. Quy định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân dựa trên cơ sở quy
định nội dung mở ra tính tự giác, ý thức trong động cơ hành động chủ thể là chính.
Thứ hai về bảo vệ các công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn và các công
trình khác liên quan tới việc bảo vệ, phát triển, sử dụng tài nguyên nước. Khái niệm
công trình thủy lợi được quy định như sau: “Công trình thủy lợi là công trình hạ
tầng kỹ thuật thủy lợi bao gồm đập, hồ chứa nước, cống, trạm bơm, hệ thống dẫn,
chuyển nước, kè, bờ bao thủy lợi và công trình khác phục vụ quản lý, khai thác thủy
41
lợi”[24, khoản 3, Điều 2]. Sở dĩ có trong hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước có quy định về nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong việc bảo vệ các
công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn, các công trình phục vụ cho việc phát triển,
sử dụng tài nguyên nước bởi nhận thức được tầm quan trọng của các công trình
thủy lợi đối với việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cơ sở hạ tầng về nguồn nước
có tốt thì công tác kiểm soát ô nhiễm nguồn nước mới đạt được hiệu quả cao. Pháp
luật ghi nhận rằng mọi tổ chức cá nhân có trách nhiệm trực tiếp bảo vệ công trình
thủy lợi, khí tượng thủy văn [23,Điều 57][24, Điều 8].Các tổ chức, các nhân
không được thực hiện các hành vi bị cấm trong quá trình quản lý, khai thác và bảo
vệ công trình thủy lợi, thủy văn như: lấn chiếm sử dụng đât đai, xây dựng công
trình trái phép trong phạm vi bảo vệ công trình thủy lợi, khí tượng thủy văn; các
hoạt động gây mất an toàn thủy lợi, khí tượng thủy văn, trái với quy trình kỹ thuật
được quy định.
Thứ ba, về phòng chống, khắc phục hậu quả, tác hại do vận động của nước
gây ra. Nước vận động rất bất thường vè dễ gây ra sự cố môi trường. Khi xảy ra sự
cố môi trường, các tổ chức, cá nhân phải tuần thủ các quy định của pháp luật và
chấp hành nghiêm chỉnh các biện pháp khắc phục hậu quả. Pháp luật còn quy định
các trường hợp tổ chức, cá nhân khai thác hồ chứa phải có quy hoạch phòng chống
lũ lụt được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Hoặc vid dụ như các tổ
chức cá nhân xả chất thải có khả năng gây mưa axit phải có biện pháp xử lý khí
thảo theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
Bảo vệ nguồn nước sạch là quá trình lâu dài và khó khăn. Pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước ngoàn việc quy định trách nhiệm của chủ thể nhà nước,
còn quy định nghĩa vụ của chủ thể là các tổ chức, cá nhân để hoạt động kiểm soát
nguồn nước thật sự hiệu quả. Bởi kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là quá trình phức
tạp cần sự chung tay của cả nhà nước và cộng đồng. Nhà nước là chủ thể có thẩm
quyền, có chức năng quản lý các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các cá
nhân là chủ thể trực tiếp tác động vào nguồn nước, cần có những quy định ứng xử
riêng đối với từng hoạt động của chủ thể này tác động đến nguồn nước. Các chủ thể
trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có quan hệ chặt chẽ với nhau, phối
hợp cùng nhau trong các hoạt động nhằm mục đích kiểm soát được tình trạng ô
nhiễm nguồn nước đang ngày càng đáng báo động hiện nay. Nghĩa vụ của các chủ
42
thể hiện nay chưa được quy định thống nhất, các quy định còn lẻ tẻ ở nhiều văn bản
pháp luật khác nhau. Tuy nhiên về nội dung pháp luật quy định về quyền hạn và
nghĩa vụ của các chủ thể đã phần nào theo sát được tình hình thwucj tế vầ hoạt động
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Để việc thực hiện hiệu quả các nghĩa vụ đã được
pháp luật quy định, các chủ thể cần nắm được động cơ của pháp luật muốn hướng
đến, các quy tắc ứng xử chung mà pháp luật muốn thể hiện, xuất phát từ tinh thần
của pháp luật, kết hợp với các quy định được cụ thể hóa thành các điều luật, các chủ
thể sẽ tự cảm nhận được trách nhiệm và nâng cao tính tự giác của mỗi chủ thể trong
việc thực hiện các nghĩa vụ của mình với hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Từ đó, góp phần nâng cao sức mạnh tổng hợp, sự gắn kết trong công cuộc thực hiện
những mục tiêu chung tối quan trọng của toàn xã hội.
2.2.3. Xây dựng, ban hành, công bố quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước
Bất kì pháp luật kiểm soát về ô nhiễm môi trường đều phải dựa vào một cơ
sở vững chắc để xác định thế nào là ô nhiễm và ô nhiễm ở mức độ nào. Và pháp
luật cũng cần có cơ sở khoa học rõ ràng được cụ thể hóa thành các chuẩn mực để
dựa vào đó quy định các biện pháp, chế tài xử phạt thích đáng. Công cụ hữu hiệu
nhất được pháp luật quy định đó chính là tiêu chuẩn và quy chuẩn môi trường nước,
được vừa là công cụ kỹ thuật vừa là công cụ pháp lý quan trọng để kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước.
Quy chuẩn kỹ thuật môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất
lượng môi trường xung quanh, hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất
thải, các yêu cầu kỹ thuật và quản lý được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành dưới dạng văn bản bắt buộc áp dụng để bảo vệ môi trường.[23,Khoản 5, Điều
3,] Phân biệt với tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường là quy định về đặc tính kỹ thuật và
yêu cầu quản lý dùng làm chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch
vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội
nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này. Tiêu chuẩn do một tổ
chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện áp dụng.
Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và yêu
cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, quá trình, môi trường và các đối tượng
khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an toàn, vệ sinh, sức
khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, môi trường; bảo vệ lợi ích và an ninh
43
quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu thiết yếu khác [19, khoản 3,
Điều 3].Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới
dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.
Xuất phát từ định nghĩa trên, trong lĩnh vực môi trường quy định quy chuẩn
môi trường là mức giới hạn của các thông số về chất lượng môi trường xung quanh,
hàm lượng của các chất gây ô nhiễm có trong chất thải, các yêu cầu kỹ thuật và
quản lý được các cơ quan nhà nước và các tổ chức công bố dưới dạng văn bản tự
nguyện áp dụng để bảo vệ môi trường. Các quy chuẩn kỹ thuật môi trường nước là
giới hạn mức thông số về chất lượng nguồn nước, hàm lượng các chất gây ô nhiễm
có trong nước và các yêu cầu kỹ thuật và quản lý. Qua đó, là cơ sở để kiểm soát
chất lượng nguồn nước từ các hoạt động của con người như hoạt động sản xuất kinh
doanh, từ hoạt động công nghiệp, làng nghề, các hoạt động sinh hoạt… Pháp luật
quy định các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường theo các nguồn nước khác
nhau bới tính chất riêng có của mỗi nguồn nước.
Việc xây dựng các quy chuẩn môi trường về nguồn nước dựa trên cơ sở các
căn cứ khoa học đã được Bộ Khoa học về Công nghệ kiểm định. Bên cạnh đó các
quy chuẩn này phải dựa trên mục đích bảo vệ các hệ sinh thái, bảo vệ sức khỏe con
người. Các quy chuẩn được xây dựng dựa trên tính khả thi thực hiện, phù hợp với
điều kiện cơ sở vật chất phục vụ công tác kiểm soát, đánh giá chất lượng nguồn
nước và phù hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước. Quy chuẩn kỹ thuật
phải đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, phù hợp quyền và lợi ích hợp
pháp của các bên có liên quan. Việc xây dựng tiêu chuẩn phải bảo đảm sự tham gia
và đồng thuận của các bên có liên quan. Tuy nhiên, sự tham gia đóng góp về tiêu
chuẩn, quy chuẩn của cộng đồng tại Việt Nam còn hạn chế, do trình độ không đáp
ứng và do khuôn khổ pháp lý cũng không cho phép sự can thiệp quá nhiều của cộng
đồng. Hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật phải bảo
đảm công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại không cần
thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại. Nhờ tính công khai, minh
bạch mà quyền lợi các chủ thể được đảm bảo hơn. Điểm hay trong Luật Tiêu chuẩn
và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 đó là ghi nhận quyền của tổ chức, cá nhân tham
gia xây dựng quy chuẩn kỹ thuật, đó là có quyền đề nghị, góp ý kiến xây dựng quy
chuẩn kỹ thuật. Điều này góp phần nâng cao tính phối hợp giữa cộng đồng và các
44
cơ quan quản lý Nhà nước vì công việc chung.
Việc ban hành quy chuẩn môi trường nước. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan
nhà nước có thẩm quyền ban hành dưới dạng văn bản. Hiện nay, thẩm quyền ban
hành quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước là do Bộ TN&MT đảm nhận. UBND cấp
tỉnh ban hành quy chuẩn kỹ thuật môi trường ở địa phương. Sau đó, Bộ Khoa học
và Công nghệ sẽ thẩm định quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ TN&MT xây dựng.
Đảm bảo các điều kiện cần thiết thù quy chuẩn ký thuật quốc gia sẽ được Bộ
TN&MT ban hành công khai. Hiện nay, Bộ đã ban hành 45 quy chuẩn quốc gia,
trong đó có 7 quy chuẩn quốc gia về chất lượng nước, 13 quy chuẩn quốc gia về
nước thải. Theo đó, Bộ trưởng Bộ TN&MT có trách nhiệm ra quyết định ban hành
quy chuẩn quốc gia về môi trường. Hệ thống quy chuẩn kỹ thuật về nguồn nước ở
Việt Nam hiện nay về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gồm có một số quy chuẩn cơ
bản sau:
Về nguồn nước mặt và nước ngầm: QCVN 08:2008/BTNMT - Quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN 10:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về chất lượng nước biển ven bờ; QCVN 38:2011/BTNMT Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh; QCVN
09:2008/BTNMT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước ngầm
Về nước thải: Quy chuẩn về nước thải gồm: QCVN 11:2008/BTNMT - Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp chế biến thủy sản; QCVN
12:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp giấy và
bột giấy; QCVN 13:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công
nghiệp dệt may; QCVN 14:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước
thải sinh hoạt; QCVN 15:2008/BTNMT - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về dư lượng
hóa chất bảo vệ thực vật trong đất; QCVN 01-MT:2015/BTNMT Quy chuẩn kỹ
thuật quốc gia về nước thải sơ chế cao su thiên nhiên; QCVN 13-MT:2015/BTNMT
Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp dệt nhuộm;
Về nguồn nước sinh hoạt: QCVN 01:2009/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về chất lượng nước ăn uống (đối với nước dùng để ăn uống, nước dùng cho
các cơ sở chế biến thực phẩm; QCVN 02:2009/BYT Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về chất lượng nước sinh hoạt (sử dụng cho mục đích sinh hoạt thông thường
không sử dụng để ăn uống trực tiếp hoặc dùng cho chế biến thực phẩm tại các cơ
45
sở chế biến thực phẩm).
Về công bố quy chuẩn kỹ thuật. Bộ TN&MT hoặc UBND là các cơ quan ban
hành quy chuẩn có trách nhiệm thông báo công khai việc ban hành quy chuẩn kỹ
thuật và việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ quy chuẩn kỹ thuật trong thời hạn ít
nhất là ba mươi ngày, kể từ ngày ra quyết định. Đồng thời, có các hoạt động tổ
chức, phổ biến, hướng dẫn triển khai áp dụng quy chuẩn kỹ thuật, một trong số đó
có việc xuất bản phát hành quy chuẩn kỹ thuật. Quy định pháp luật là vậy nhưng khi
thực thi trong thực tế vẫn chưa thể hiện rõ hiệu quả của nó. Hầu như, các quy chuẩn
kỹ thuật chưa thật sự được sự quan tâm của quần chúng thậm chí là các doanh
nghiệp cũng chưa thật sự hiểu biết về quy chuẩn kỹ thuật về nước. Nguyên nhân có
thể do năng lực cán bộ quản lý nhà nước về môi trường còn yếu, bên cạnh đó ý thức
trách nhiệm của đa số người dân chưa cao… Mục đích của việc công bố quy chuẩn
quốc gia về nguồn nước phải dựa trên cơ sở phổ biến trong cộng đồng, do đó, cần
có giải pháp để nâng cao sức ảnh hưởng của các quy chuẩn kỹ thuật về nước đến
với người dân. Con người muốn nâng cao chất lượng cuộc sống thì trước hết phải
hiểu rõ về chất lượng sống mà mình hướng đến.
Các quy chuẩn kỹ thuật môi trường về nguồn nước có vai trò quan trọng
trong việc xác định khung pháp lý của các nội dung quy định khác trong pháp luật
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Là cơ sở cho các chủ thể như nhà nước, các tổ
chức, cá nhân thực hiện đúng nghĩa vụ của mình với nguồn nước. Cùng với sự phát
triển, thay đổi của tình hình đất nước, các bộ quy chuẩn quốc gia về nguồn nước
cũng cần vận động thay đổi để phù hợp với những yêu cầu đặt ra của tiến trình đó.
Trong thực tế, có nhiều lỗ hổng trong các quy định về quy chuẩn kỹ thuật về
nguồn nước ở nước ta. Đơn cử là sự cố môi trường biển Formosa gây ra hiện tượng
hải sản chết bất thường bắt đầu xuất hiện tại Hà Tĩnh vào ngày 6/4/2016, sau đó lần
lượt xuất hiện tại các tỉnh: Quảng Bình (10/4/2016), Thừa Thiên - Huế (15/4/2016),
Quảng Trị (16/4/2016). Lỗ hổng pháp lý lớn nhất trong sự cố môi trường Formosa
là việc áp dụng các Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về kiểm soát nguồn nước thải.
Nhiều lỗ hổng trong việc đảm bảo thực thi các quy chuẩn dẫn đến hậu quả vô cùng
xấu đến môi trường, gây thiệt hại rất lớn về sức khỏe, tài sản của con người và tác
động khôn lường đến hệ sinh thái biển. Cùng với việc người dân, thậm chí và các
cấp chính quyền chưa hiểu rõ về các quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật môi trường về
46
nguồn nước dẫn đến khâu thực hiện phần nhiều chỉ vì mặt hình thức, chưa đạt được
kết quả cao. Người dân cũng không thể biết những căn cứ mình có thể dựa vào để
nhận biết tình trạng ô nhiễm nguồn nước để có biện pháp thông báo, tố cáo với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền vì lợi ích của chính bản thân mình và toàn xã hội.
Các cơ quan có thẩm quyền hiện nay thường chỉ lưu ý đến việc thực hiện cấp
phép theo quy chuẩn kỹ thuật của từng trường hợp. Nếu như nguồn nước đó có rất
nhiều nguồn gây ô nhiễm xả vào thì tổng lượng nước thải dễ dàng vượt qua khả
năng tiếp nhận của dòng nước. Ví dụ điển hình là việc nuôi cá lồng bè ở các vùng
ven biển. Chẳng hạn như ở Cát Bà, việc nuôi cá lồng bè đã và đang gây ô nhiễm
biển Cát Bà. Theo báo cáo Thực trạng giải pháp ô nhiễm Cát Bà của Ban quản lý
đảo Cát Bà, các chỉ số chất lượng nước và chỉ số đa dạng loài đều cho thấy chất
lượng nước và chất lượng hệ sinh thái Cát Bà xuống cấp nghiêm trọng.
Vậy, quy chuẩn kỹ thuật về nguồn nước là các căn cứ khoa học và pháp lý cơ
bản và hữu hiệu để kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Việc xây dựng các tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật môi trường cần đảm bảo các nguyên tắc đã được quy định trong
pháp luật để đảm bảo minh bạch, rõ ràng, phù hợp với điều kiện phát triển của đất
nước. Hơn hết, việc thực hiện các bộ quy chuẩn, tiêu chuẩn kỹ thuật về nguồn nước
cần có sự phối kết hợp của các cơ quan nhà nước có liên quan và tăng cường sự
đóng góp của người dân. Để làm được điều đó, cần nâng cao phổ biến, hướng dẫn
thực hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật môi trường về nguồn nước đến gần
hơn với toàn xã hội, để hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước thực sự là trách
nhiệm của toàn dân.
2.2.4. Cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước
Giấy phép tài nguyên nước là chứng thư pháp lý do cơ quan có thẩm quyền cấp
cho các tổ chức, cá nhân trong đó xác định rõ các quyền, nghĩa vụ liên quan nhằm
buộc các chủ thể này khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên nước. Giấy
phép tài nguyên nước là một công cụ đắc lực trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước. Thông qua việc đăng ký, cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước, các cơ quan
Nhà nước sẽ kiểm soát được trữ lượng, chất lượng nguồn nước, các hoạt động tác
động đến nguồn nước của các tổ chức, cá nhân hạn chế được việc sử dụng, khai thác
bừa bãi, lãng phí nguồn nước, gây suy thoái, ô nhiễm nguồn nước. Hơn nữa, việc
kiểm soát giấy phép tài nguyên nước còn giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
47
các tổ chức, cá nhân trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước.
Giấy phép tài nguyên nước bao gồm: Giấy phép thăm dò nước dưới đất; giấy
phép khai thác, sử dụng nước mặt; giấy phép khai thác, sử dụng nước dưới đất; giấy
phép khai thác, sử dụng nước biển; giấy phép xả nước thải vào nguồn nước [12,Điều
15]. Nội dung của giấy phép tài nguyên nước ngoài việc ghi đẩy đủ thông tin của chủ
thể xin cấp phép còn chú trọng vào nội dung về nguồn nước mà chủ thể muốn thăm
dò, khai thác, hoặc xả thải cũng như quy mô, công suất, lưu lượng, thông số chủ yếu
của công trình thăm dò, khai thác nước, xả nước thải; chế độ, phương thức mà chủ
thể sẽ khai thác, sử dụng, xả nước thải và thời hạn của giấy phép.
Về thẩm quyền cấp, thu hồi giấy phép tài nguyên nước: Chính phủ cơ quan Nhà
nước chịu trách nhiệm quy định cụ thể việc đăng ký, cấp giấy phép khai thác, sử
dụng tài nguyên nước. Tùy vào từng loại giấy phép có thể đăng ký ở các cơ quan
Nhà nước khác nhau. Nguyên tắc cấp phép là phải đảm bảo đúng thẩm quyền, đối
tượng, trình tự, thủ tục đồng thời bảo đảm cân bằng lợi ích giữa Nhà nước và các
chủ thể tham gia khác; ưu tiên cấp giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên
nước để cấp nước sinh hoạt; đảm bảo phù hợp với quy hoạch tài nguyên nước đã
được phê duyệt; tất cả nhằm mục tiêu bảo vệ nguồn nước.
Để được cấp giấy phép tài nguyên nước, các chủ thể phải đảm bảo các điều kiện
theo quy định của pháp luật. Cụ thể là: đã thực hiện thông báo, lấy ý kiến đại diện
của cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; đã
có các phương án xử lý nước thải, đảm bảo không gây ô nhiễm nguồn nước theo kế
hoạch quy hoạch đã định.
Ngoài ra pháp luật còn đặc biệt chú trọng việc quy định về điều kiện cấp giấy
phép cho những trường hợp xả thải vào nguồn nước. Các điều kiện đối với các chủ
thể xả nước thải ra nguồn nước khắt khe hơn: Có thiết bị, nhân lực hoặc có hợp
đồng thuê tổ chức, cá nhân khác đủ năng lực thực hiện việc vận hành hệ thống xử lý
nước thải và quan trắc hoạt động xả nước thải đối với trường hợp đã có công trình
xả nước thải; Có phương án bố trí thiết bị, nhân lực để thực hiện việc vận hành hệ
thống xử lý nước thải và quan trắc hoạt động xả nước thải đối với trường hợp chưa
có công trình xả nước thải. Thậm chí, đối với các công trìnhxả nước thải vào nguồn
nước có lưu lượng từ 10.000 m3/ngày đêm trở lên phải có phương án, phương tiện,
thiết bị cần thiết để ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước và thực hiện việc
48
giám sát hoạt động xả nước thải theo quy định.
Thời hạn giấy phép tài nguyên nước quy định trong Nghị định của Chính phủ số
201/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Tài nguyên
nước được tổng hợp theo bảng sau:
Bảng 2.1. Thời hạn cấp giấy phép tài nguyên nước
Thời hạn Gia hạn
Loại giấy phép Thời gian gia hạn/ lần Số lần ra Tối thiểu Tối đa hạn Tối thiểu Tối đa
Giấy phép khai thác,
sử dụng nước mặt, 05 năm 10 năm Nhiều lần 03 năm 10 năm
nước biển
Giấy phép thăm dò 0 02 năm 1 lần 0 01 năm nước dưới đất
Giấy phép khai thác, 03 năm 10 năm Nhiều lần 02 năm 05 năm sử dụng nước dưới đất
Giấy phép xả nước 03 năm 10 năm Nhiều lần 02 năm 05 năm thải vào nguồn nước
Pháp luật cũng thể hiện tính linh hoạt khi tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân
trong trường hợp các tổ chức, cá nhân đề nghị cấp hoặc gia hạn giấy phép với thời
hạn ngắn hơn thời hạn tối thiểu thì giấy phép được cấp theo thời hạn trong đơn.
Ngoài ra, tùy từng trường hợp mà các chủ thể có thể điều chỉnh giấy phép. Chẳng
hạn như: điều kiện mặt bằng không cho phép tho công một số hạng mục trrong đề
án thăm dò đã được phê duyệt; có sự khác biệt giữu cấp trúc thủy văn thực tế vè dự
kiến; khai thác gây sụt, lún mặt đất, biến dạng công trình, xâm nhập mặn, cạn kiệt, ô
nhiễm nguồn nước nghiêm trọng. Giấy phép tài nguyên nước cũng có thể bị đình
chỉ hoặc thu hồi hoặc cấp lại được quy định cụ thể trong Nghị định của Chính phủ
số 201/2013/NĐ-CP về Hướng dẫn luật Tài nguyên nước. Bộ TN&MT có thẩm
quyền cấp, gia hạn, điều chỉnh hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép đối với một số
trường hợp liên quan đến ô nhiễm nguồn nước như: xả nước thải với lưu lượng từ
30.000 m3/ngày đêm trở lên đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản; xả nước thải với
lưu lượng từ 3.000 m3/ngày đêm trở lên đối với các hoạt động khác… UBND cấp
tỉnh cấp, gia hạn, điều chỉnh, điều chỉnh hiệu lực, thu hồi và cấp lại giấy phép đối
49
với các trường hợp không được thuộc thẩm quyền của Bộ TN&MT.
Các quy định cụ thể về giấy phép tài nguyên nước được quy định từ điều 15 đến
điều 38, Nghị định Chính phủ số 201/2013/NĐ-CP về Quy định chi tiết thi hành
một số điều của Luật Tài nguyên nước.
Qua kiểm tra các doanh nghiệp khai thác, sử dụng tài nguyên nước trên địa bàn
các tỉnh đều có lỗi giống nhau là không có giấy phép khai thác, xả nước thải theo
quy định hoặc nếu có thì việc khai thác cũng vi phạm hoặc vượt quy định cho phép.
Việc chấp hành pháp luật về tài nguyên nước cho thấy còn chưa cao. Ngay cả công
ty chuyên cung cấp nước sạch phục vụ sinh hoạt, sản xuất, dịch vụ, thương mại
cũng chưa có ý thức tuân thủ pháp luật.
Đơn cử, thanh tra của Cục Quản lý Tài nguyên nước mới đây tại Công ty Cổ
phần cấp nước Bà Rịa – Vũng Tàu, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu,
đã phát hiện nhiều sai phạm trong khai thác, sử dụng. Cụ thể: Công ty ký với Trung
tâm Quản lý, khai thác công trình thủy lợi tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu với giá 900
đồng/m3 để khai thác nước hồ Đá Đen. Tuy nhiên, Trung tâm Quản lý, khai thác
công trình thủy lợi tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu không có giấy phép khai thác sử dụng
nước mặt hồ Đá Đen và hồ Kim Long theo quy định của pháp luật về tài nguyên
nước hiện hành, vi phạm quy định tại Khoản 3 Điều 44 Luật Tài nguyên nước 2013.
Đó là chưa kể, các đơn vị trực thuộc của công ty là Nhà máy nước Bình Châu và
Nhà máy nước Phước Bửu cũng không có giấy phép khai thác, sử dụng nước mặt và
giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, khai thác nước vượt quá lưu lượng quy
định là 12%.
Ví dụ về ô nhiễm nước tại kênh bốn xã (chiều dài 3100m) , chảy qua địa phận
phường Khắc Niệm, Thành phố Bắc Ninh [16,tr.81] Trước đây con kênh này chỉ
tiếp nhận nước thải từ một cơ sở sản xuất rất nhỏ, về cơ bản chất lượng nước nước ở
con kênh này vẫn đảm bảo cho tưới tiêu của vùng. Nhưng nay con kênh phải tiếp
nhận thêm nước thải từ cơ sở chăn nuôi, chế biến của Công ty DABACO. Mặc dù
các cơ sở trên đều có giấy phép xả thải của Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn
tỉnh cấp nhưng kênh Bốn Xã vẫn bị ô nhiễm trầm trọng nhiều năm.
Ví dụ trên đã thể hiện thực trạng việc cấp phép xả thải hiện nay hiện nay thiếu
gắn kết với kiểm soát ô nhiễm nước. Việc cấp phép xả thải được phân ra theo nguồn
nước tiếp nhận nước thải tức là nguồn nước tự nhiên và nguồn nước phục vụ tưới
50
tiêu. Giấy phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên do Bộ và Sở Tài nguyên và Môi
trường đảm nhiệm còn hệ thống nước tưới tiêu lại do Bộ và các sở Nông nghiệp và
phát triển nông thôn đảm nhiệm. Điều này xung đột với bản chất của nguồn nước là
có sự dịch chuyển và kết nối tự nhiên. Từ đó gây khó khăn cho các thủ tục hành
chính về xin cấp phép xả thải vào nguồn nước và công trình thủy lợi, các cơ quan
chuyên môn về tài nguyên môi trường có thông tin đầy đủ về cấp phép xả thải từ
phía các cơ quan chuyên môn về nông nghiệp và phát triển nông thôn.
2.2.5. Xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiêm nguồn nước là hành vi trái pháp
luật, có lỗi do chủ thể có năng lực chủ thể thực hiện, xâm hại các quan hệ pháp luật
về khai thác, bảo vệ, sử dụng tài nguyên nước gây suy thoái, ô nhiễm tài nguyên
nước. Các vi phạm trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước chủ yếu do các tổ
chức, cá nhân gây nên đặc biệt là các tổ chức, cá nhân sử dụng nước và hoạt động
kinh doanh. Thực tế cho thấy các vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước về nước thải sinh hoạt, đặc biệt ở các đô thị lớn, nhưng cơ chế kiểm soát còn
hạn chế. Mặc dù, nó chỉ là những vi phạm mang tính chất nhỏ nhưng việc xử lý vi
phạm có tính chất nhỏ vẫn chưa thực sự hữu ích và có tính răn đe với cộng đồng.
Các vi phạm nhỏ tồn tại nhiều trong đời sống, tuy nhiên chưa được thống kê mà chủ
yếu vẫn là những vi phạm mang tính chất lớn hơn thuộc về các tổ chức, cá nhân
kinh doanh. Các cơ sở sản xuất kinh doanh thường có mức độ xả thải độc hại hơn
rất nhiều và chiếm đa số các vi phạm về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Các vi
phạm này thường dẫn tới hậu quả ô nhiễm nguồn nước, là suy thoái nguồn nước
nghiêm trọng. Một số vi phạm chủ yếu trong lĩnh kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
như sau:
- Xả nước thải vượt tiêu chuẩn cho phép
- Xả, thải các chất gây ô nhiễm vào môi trường nước vượt quá tiêu chuẩn cho
phép hoặc gây ô nhiễm nước
- Đổ nước thải trong vùng biển nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Xử lý vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là quá trình bao
gồm các biện pháp chấm dứt hành vi vi phạm kịp thời, thực hiện các biện pháp khôi
phục, bảo vệ trữ lượng, chất lượng nguồn nước, hạn chế tới mức độ tối đa tình trạng
lây lan ô nhiễm do tính vận động của nước; đồng thời có các chế tài xử phạt nghiêm
51
khắc các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Tùy vào tính chất, mức độ của các hành vi vi phạm phạm pháp luật về kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước, các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm xác định và áp
dụng các trách nhiệm pháp lý khác nhau cho chủ thể gây ô nhiễm nguồn nước. Hiện
nay, pháp luật Việt Nam về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có thể xử lý vi phạm
liên quan đến lĩnh vực này bằng trách nhiệm pháp lý như trách nhiệm hành chính,
trách nhiệm dân sự, trách nhiệm hình sự. Thông qua xử lý vi phạm pháp luật liên
quan đến lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, buộc các chủ thể có lỗi phải chịu
trách nhiệm đồng thời có tính ảnh hưởng đến chủ thể khác trong xã hội, giúp họ có
ý thức trách nhiệm, tự giác cao hơn trong việc bảo vệ nguồn nước.
Trách nhiệm pháp lý đối với vi phạm pháp luật trong lĩnh vực kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước gồm:
Trách nhiệm hành chính
Trong các văn bản pháp luật hiện hành, hình thức xử phạt hành chính chủ
yếu đối với vi phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước là cảnh cáo hoặc phạt tiền.
Nghị định số 155/2016/NĐ-CP của Chính phủ về quy định xử phạt hành
chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường chủ yếu quy định hành vi vi phạm về xả
nước thải. Mức tối đa phạt tiền đối với cá nhân có các hành vi vi phạm quy định về
xả nước thải vượt quá thông số kỹ thuật vào môi trường là 1.000.000.000 đồng và
đối với tổ chức là 2.000.000.000 đồng. Cụ thể quy định pháp luật chẳng hạn như:
Phạt tiền từ 950.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng đối với hành vi xả nước thải
có chứa chất phóng xạ gây nhiễm xạ môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật cho phép,
trừ các trường hợp hành vi tội phạm về môi trường. Phạt tăng thêm 10% của mức
phạt tiền cao nhất đã chọn đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này đối với
mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,1 đến dưới 1,5 lần; 20% đối
với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 1,5 đến dưới 02 lần; 30%
đối với mỗi thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 02 đến dưới 03 lần
hoặc giá trị pH từ 04 đến dưới cận dưới của quy chuẩn kỹ thuật cho phép hoặc từ
trên cận trên của quy chuẩn kỹ thuật cho phép đến dưới 10,5 hoặc nước thải có chứa
01 trong 03 loại vi khuẩn (Salmonella, Shigella, Vibrio cholerae); 40% đối với mỗi
thông số môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 03 đến dưới 05 lần hoặc giá trị pH
52
từ 02 đến dưới 04 hoặc từ 10,5 đến dưới 12,5 hoặc nước thải có chứa từ 02 loại vi
khuẩn (Salmonella, Shigella, Vibrio cholerae) trở lên; 50% đối với mỗi thông số
môi trường vượt quy chuẩn kỹ thuật từ 05 lần trở lên hoặc giá trị pH dưới 02 hoặc
từ 12,5 đến 14. Tổng mức phạt đối với mỗi hành vi vi phạm không quá
1.000.000.000 đồng.
Ngoài cảnh cáo và phạt tiền các chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước còn có thể bị áp dụng các hình phạt bổ sung như tước quyền sử
dụng giấy phép môi trường hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn, tịch thu tang việt,
phương tiện vi phạm hành chính về bảo vệ môi trường.
Nghị định số 33/2017/NĐ-CP của Chính phủ quy đinh về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước và khoáng sản chủ yếu quy định việc xử
phạt các vi phạm liên quan đến quy định về điều kiện năng lực thực hiện đề án, dự
án điều tra cơ bản, tư vấn lập kế hoạch tài nguyên nướ, các vi pham liên quan đến
giấy phép tài nguyên nước, các hoạt động quan trắc… liên quan đến kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước. Theo đó, các hình phạt chính bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền;
mức phạt tiền đối đa đối với một hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước là 250.000.000 đồng đối với cá nhân và 500.000.000 đồng đối với tổ
chức. Ngoài ra biện pháp xử phạt bổ sung kèm theo hình phạt chính như: tước
quyền sử dụng giấy phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải
vào nguồn nước; giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất 01 tháng đến 24 tháng;
Đình chỉ hoạt động lập, thực hiện đề án, dự án về tài nguyên nước; đình chỉ hoạt
động thăm dò, khai thác tài nguyên nước 01 tháng đến 12 tháng; Tịch thu tang vật,
mẫu vật là khoáng sản, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính, ngoài việc bị áp dụng hình thức xử
phạt chính, hình thức xử phạt bổ sung, tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính có thể
bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả để khắc phục tình trạng ô
nhiễm nguồn nước do các tổ chức, cá nhân vi phạm gây ra nhằm bảo vệ trữ lượng,
chất lượng nguồn nước là mục tiêu cuối cùng và quan trọng hơn cả.
Pháp luật quy định các hình thức xử phạt trong trách nhiệm hành chính đối
với các hành vi vi phạm pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là đã khá đầy đủ
và hợp lý. Về nội dung xử phạt cũng đã khái quát được các hầu hết các vi phạm. Về
mức độ xử phạt, một số mức phạt tiền còn thấp, chưa có tính răn đe. Chẳng hạn như
53
Trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm dân sự mà chủ thể vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước chủ yếu là các trách nhiệm về khắc phục hậu quả ô nhiễm, phục hồi
nguồn nước và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước gây ra. Trách nhiệm này được ghi nhận trong Luật
Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, và Bộ Luật Dân sự
năm 2015. Theo đó:
Tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, gây ô nhiễm, suy
thoái, sự cố môi trường, gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác, có trách nhiệm
khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi trường, bồi thường thiệt hại xử lý theo quy định
của Luật bảo vệ môi trường và pháp luật có liên quan [23,Khoản1, Điều 60]. Với
lĩnh vực ô nhiễm nguồn nước. Pháp luật quy định “tổ chức, cá nhân gây ra sự cố ô
nhiễm nguồn nước, ngoài việc bị xử phạt theo quy định của pháp luật còn có trách
nhiệm khắc phục hậu quả ô nhiễm, suy thoái nguồn nước trước mắt, cải thiện, phục
hổi chất lượng nước về lâu về dài và bồi thường thiệt hại do mình gây ra” [21,,điểm
d, khoản 1, Điều 27]. Nổi bật lên trong trách nhiệm dân sự về xử lý vi phạm pháp
luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là trách nhiệm bồi thường thiệt hại, thường là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Điều 602, Bộ luật Dân sự năm
2015 ghi nhận: “Chủ thể làm ô nhiễm môi trường mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật, kể cả trường hợp chủ thể đó không có lỗi”
Cơ sở phát sinh trách nhiệm dân sự có hành vi vi phạm pháp luật môi trường,
có thiệt hại xảy ra. Yếu tố lỗi không phải cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại. Do quan hệ trong lĩnh vực môi trường có thể phát sinh giữa các chủ thể mà
không cần đến cơ sở pháp lý làm tiền đề như quan hệ hợp đồng, đây là loại trách
nhiệm phát sinh dưới sự tác động trực tiếp của các quy phạm pháp luật mà không có
sự thỏa thuận trước của các chủ thể.
Một số loại thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm gây ra
là: thiệt hại về tài sản của chủ thể có liên quan đến các hoạt động tác động đến nguồn
nước đó; thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người; thiệt hại làm suy giảm chức
năng, tinh hữu ích của môi trường. Việc xác định thiệt hại do suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường được tiến hành độc lập hoặc có sự phối hợp giữa bên gây
thiệt hại và bên bị thiệt hại. [23,Điều 130, 131].Việc xác định thiệt hại về sức khoẻ,
tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do gây ô
54
nhiễm, suy thoái môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Trường hợp mỗi bên hoặc các bên có yêu cầu thì cơ quan chuyên môn về bảo
vệ môi trường có trách nhiệm tham gia hướng dẫn cách tính toán, xác định thiệt hại
hoặc chứng kiến việc xác định thiệt hại.Về mức độ bồi thường thiệt hại, trên thực tế
việc bồi thường thiệt hại về môi trường khá phức tạp do chưa có định mức bồi
thường thiệt hịa chưa rõ ràng, bởi việc định mức ô nhiễm nguồn nước khó cụ thể.
Trách nhiệm hình sự
Trách nhiệm hình sự liên quan đến vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước được ghi nhận trong các Bộ luật hình sự nhưng phải đến bộ luật hình sự
năm 1999, tội phạm về môi trường mới được quy định thành một chương riêng biệt.
Trong đó, có Điều 183 quy định về tội gây ô nhiễm nguồn nước nhưng Bộ luật hình
sự năm 1999 sửa đổi năm 2009 đã quy định chung lại thành các tội gây ô nhiễm
môi trường và chủ thể chịu trách nhiệm hình sự chỉ là cá nhân.
Cho tới Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi năm 2017 mới có hiệu lực vào ngày
01/01/2018 đã quy định cụ thể hơn về trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây ô nhiễm
môi trường. Hình phạt bao gồm các hình thức như: phạt tiền, phạt tù, phạt cải tạo
không giam giữ. Điểm mới ở bộ luật này và đã quy định mức xử phạt dựa theo mức độ
gây ô nhiễm được quy định định mức rõ ràng để tránh quy định mang tính chung
chung về xác định mức độ lỗi của hành vi như các quy định ở các Bộ luật hình sự trước
như là “ nghiêm trọng”, “rất nghiêm trọng” “đặc biệt nghiêm trọng”.
Chẳng hạn: Theo khoản 9, Điều 235, Bộ Luật Hình sự 2015, phạm tội thuộc
một trong các trường hợp xả thải ra môi trường nước thải, chôn, lấp, đổ, thải ra môi
trường chất thải rắn hoặc phát tán khí thải có chứa chất phóng xạ vượt giá trị liều
400 milisivơ (mSv) trên năm trở lên hoặc giá trị suất liều 0,02 milisivơ (mSv) trên
giờ trở lên thì bị phạt tiền từ 1.000.000.000 đồng đến 3.000.000.000 đồng hoặc phạt
tù từ 03 năm đến 07 năm. Mức phạt tiền đối với cá nhân tối thiểu là 50.000.000
đồng và cao nhất là 3.000.000.000 đồng; mức phạt tù thấp nhất là 03 tháng, nhiều
nhất là 07 năm.
Ngoài ra, lần đầu tiên trách nhiệm pháp nhân được đưa vào nội dung pháp
luật về các tội phạm môi trường trong Bộ luật hình sự 2015 sửa đôi bổ sung năm
2017. Theo đó, pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự với các hành
vi gây ô nhiễm môi trường được quy định trong Bộ luật Hình sự 2015. [26].Mức
phạt tiền từ 3.000.000.000 đồng đến 20.000.000.000 đồng, hoặc có thể bị đình chỉ
55
hoạt động 1 đến 3 năm. Mức độ cao nhất là đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.
Tuy nhiên, xử lý trách nhiệm hình sự về môi trường nước hiện nay rất ít, mặc
dù có những vụ đã gây ra hậu quả rất nghiêm trọng. Chẳng hạn là vụ Công ty TNHH
Vedan xả nước thải trực tiếp xuống sông Thị Vải (Đồng Nai), Công ty sửa chữa tàu
biển Huyndai-Vinashin xả chất thải rắn (hạt nic) độc hại không qua xử lý ra môi trường
ở Khánh Hòa, nhà máy Miwon (Việt Trì- Phú Thọ) xả nước thải chưa qua xử lý xuống
sông Hồng; công ty cổ phần thuộc da Hào Phương xả nước thảo độc hại ra sông Đồng
Điền ( huyện Nhà Bè- Thành phố Hồ Chí Minh)… đều không bị xử lý hình sự. Việc áp
dụng xử phạt hành chính vào những sai phạm này là không đủ sức răn đe, thể hiện sự
yếu kém về quản lý môi trường ở trung ương và địa phương.
Theo báo cáo của cục cảnh sát môi trường tại hội nghị tổng kết năm 2015 thì
trong năm 2015, lực lượng cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường toàn cuốc
đã phát hiện 11.118 cá nhân, 2.474 tổ chức vi phạm pháp luật về môi trường, tặng
17% so với cùng kỳ năm 2014. Trong đó, xử phạt vi phạm hành chính 8.205 vụ với
6.863 cá nhân, 2.077 tổ chức, số tiền 110.77 tỉ đồng. Cơ quan cảnh sát điều tra các
cấp đề nghị khởi tố 232 vụ, 314 đối tượng, trong đó đã quyết định khởi tố 153 vụ,
275 bị can. Mặc dù số lượng tăng lên theo năm hung số lượng các việc xử lý hình
sự chiếm tỉ lệ nhỏ ( khoảng dưới 2%).[16,tr.85]. Các chế tài xử phạt hình sự về tội
gây ô nhiễm môi trường nói chung trong đó có ô nhiễm nguồn nước là hậu quả pháp
lý nghiêm khắc nhất mà các chủ thể phải chịu. Hiện nay, ở nước ta vi phạm pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng và pháp luật về môi trường nói
chung ngày càng nhiều. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là áp dụng hình thức xử phạt hành
chính, hình thức xử phạt nặng hơn như hình sự hầu như rất ít. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng không áp dụng hiệu quả biện pháp xử phạt hình sự là
việc xác định hậu quả của các hành vi tội phạm môi trường là rất khó khăn. Chẳng
hạn như trong trường hợp của Vedan, khó có thể xác định được mức độ gây thiệt
hại đối với đời sống người dân ở dọc sông Thị Vải trong khi cũng có rất nhiều
doanh nghiệp khác và nhiều hộ dân cũng đổ nước thải xuống sông Thị Vải. Do vậy,
việc xác định mức thiệt hại do Vedan gây ra với nguồn nước sông Thị Vải là rất
phức tạp, vì thế khó xác định mức xử phạt hình sự.
2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiềm nguồn nước trên địa
bàn thành phố Hà Nội
2.3.1. Thực trạng ô nhiễm nguồn nước trên địa bàn thành phố Hà Nội
Thủ đô Hà Nội sau khi được mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02 ha, lớn
56
gấp hơn 3 lần trước đây và đứng vào tốp 17 Thủ đô trên thế giới có diện tích rộng nhất;
dân số tăng hơn gấp rưỡi, hơn 6,2 triệu người, hiện nay là hơn 7 triệu người; gồm 30
đơn vị hành chính cấp quận, huyện, thị xã, 577 xã, phường, thị trấn.[ 36]
Tài nguyên nước của Hà Nội khá đa dạng, phong phú. Nước mặt bao gồm rất
nhiều hệ thống sông, hồ, ao, kênh, mương… Nhờ nguồn nước mặt tự nhiên lớn nên
nguồn nước ngầm của Hà Nội cũng khá phong phú. Hà Nội được hình thành từ
châu thổ sông Hồng, nét đặc trưng của vùng địa lí thành phố Hà Nội là “Thành phố
sông hồ” hay “Thành phố trong sông”. Nhờ các con sông lớn nhỏ đã chảy miệt mài
hàng vạn năm đem phù sa về bồi đắp nên vùng châu thổ phì nhiêu này. Hiện nay, có
7 sông chảy qua Hà Nội: sông Hồng, sông Đuống, sông Đà, sông Nhuệ, sông Cầu,
sông Đáy, sông Cà Lồ.
Trong đó, đoạn sông Hồng chảy qua Hà Nội dài tới 163km (chiếm 1/3 chiều
dài của con sông này chảy qua lãnh thổ Việt nam). Trong nội đô ngoài 2 con sông
Tô Lịch và sông Kim ngưu còn có hệ thống hồ đầm là những đường tiêu thoát nước
thải của Hà Nội.
Đoạn sông Nhuệ chảy qua địa bàn thành phố Hà Nội khoảng 62 km -64 km
từ cống Liên Mạc, quận Bắc Từ Liêm đến xã Châu Can, huyện Phú Xuyên. Sông
Nhuệ có dòng chảy chính qua địa phận các quận, huyện: Bắc Từ Liêm, Nam Từ
Liêm, Hà Đông, Thanh Trì, Thanh Oai, Thường Tín, Phú Xuyên, Ứng Hòa.
Sông Đáy: Có chiều dài gần 100 km chảy qua địa phận Hà Nội từ xã Cẩm
Đình, huyện Phúc Thọ đến xã Yến Vĩ ,huyện Mỹ Đức. Sông Đáy có dòng chảy
chính qua địa phận các quận, huyện Phúc Thọ, Đan Phượng, Hoài Đức, Quốc Oai,
Thanh Oai, Hà Đông, Chương Mỹ, Ứng Hòa, Mỹ Đức.
Hà Nội có rất nhiều hồ nước. Tuy rằng theo thời gian, nhiều hồ đã bị san lấp
mặt bằng để xây dựng tuy nhiên số lượng hồ ở Hà Nội vẫn rất lớn, đến hàng tram
hồ đầm lớn nhỏ ở khắp các phường, xã của Hà Nội như: Hồ Hoàn Kiếm, Hồ Tây,
Quảng Bá, Trúc Bạch, Thiền Quang, Bảy Mẫu, Thanh Nhàn, Linh Đàm, Yên Sở,
Giảng Võ, Đồng Mô… Các hồ ở Hà Nội thường năm trong các đô thị đông đúc.
Chúng đóng vai trò là hệ thống điều hòa nhiệt tự nhiên cho vùng đô thị.
Về ô nhiễm nước mặt
Thực tế cho thấy, nước ở các cống rãnh, sông ở Hà Nội ô nhiễm trầm trọng,
màu nước đen kịt, thường xuyên bốc mùi hôi thối ảnh hưởng rất lớn đến đời sống
57
của người dân. Tại các chợ, các tụ điểm có các hoạt động giết mổ, các rác thải thực
phẩm thừa, nước thải sản xuất được đổ ra nguồn nước bừa bãi, trực tiếp khiến
nguồn nước bị ô nhiễm và cũng là nguyên nhân gây ra các bệnh dịch nguy hiểm. Hà
Nội hiện nay có 177 hồ nước lớn nhỏ. Về tình trạng ô nhiễm hồ, UBND thành phố
cho biết địa bàn có 117 ao, hồ, đa số bị ô nhiễm bởi nước thải, trầm tích, bùn đáy.
Thực trạng ô nhiễm một số sông ở Hà Nội: (theo số liệu do Chi Cục Bảo vệ
môi trường Hà Nội cung cấp)
Trong ba lưu vực sông đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở nước ta là sông Cầu,
Sông Nhuệ - Đáy và sông Đồng Nai thì lưu vực sông Nhuệ đáy thuộc địa phận Hà
Nội (Lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy là một trong 3 lưu vực sông đang bị ô nhiễm ở
nước ta, chảy qua địa phận của 05 tỉnh, thành phố bao gồm: Hoà Bình, Hà Nội, Hà
Nam, Nam Định, Ninh Bình) là một trong những phần ô nhiễm nặng.
Năm 2017, Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã lấy mẫu, quan trắc,
phân tích chất lượng nước mặt sông Nhuệ, sông Đáy thuộc lưu vực sông Nhuệ -
sông Đáy (đoạn chảy qua địa phận Hà Nội) vào 02 đợt (mùa mưa và mùa khô). Kết
quả đối chiếu với QCVN 08-MT:2015/BTNMT – Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về
chất lượng nước mặt (cột B1) cho thấy: Trong năm 2017, chất lượng nước sông
Nhuệ, sông Đáy (vào mùa khô) tại các vị trí mà đoạn sông Nhuệ và sông Đáy chảy
qua các khu vực đông dân cư và sau các điểm hợp lưu với các sông khác tại địa
phận Hà Nội tuy chưa được cải thiện nhiều nhưng đã có xu hướng giảm mức độ ô
nhiễm. Tuy nhiên các thông số liên quan đến nguồn nước vẫn chỉ ra rằng chất lượng
nước ở các sông này vẫn ở lúc trung bình hoặc kém.
Ô nhiễm sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu
Sông Tô lịch dài 13.5, từ Cống Bưởi đến cầu Tó (Văn Điển); Sông Kim
Ngưu dài 7.7 km từ Lò Đúc đến Văn Điển. Gần 90% lượng nước thải chưa được xử
lý đổ ra hai sông này khiến mỗi năm lượng mùn dày thêm gần 10cm. Từ nhiều năm
nay, nước sông luôn bốc mùi hôi thôi, nhiều loại rác thải được đổ sống sông bừa
bãi. Các động thực vật thủy sinh hầu như không thể sinh sống.
Thực trạng ô nhiễm ao, hồ tại Hà Nội.
Tính riêng đầu năm 2016 đã có rất nhiều hồ rơi vào tình trạng ô nhiễm
nghiêm trọng ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân. Hồ Ngọc Khánh mới cải
tạo nhưng tình trạng ô nhiễm vẫn tiếp diễn, nước đen bốc mùi nồng nặc. Ngoài ra
58
hiện tượng cá chết hàng loạt ở hồ Hoàng Cầu (08/06/2016).
Cá chết hàng loạt tại Hồ Tây tháng 10/2016
Tình trạng cá chết hàng loạt tại hồ Tây cuối năm 2016 là sự cố nghiêm trọng
nhất về môi trường nước ở Hà Nội những năm gần đây mà trước nay chưa bao giờ
xảy ra. Theo Ban quản lý hồ Tây, mỗi ngày khoảng 4.000 m3 nước thải chưa qua xử
lý từ các nhà hàng, quán ăn uống và người dân sinh sống xung quanh đổ xuống hồ.
Kết quả phân tích mẫu nước gần đây cho thấy, hàm lượng amoniac cao gấp 3 lần
tiêu chuẩn cho phép. Nước ô nhiễm sẵn nên chỉ cần thay đổi thời tiết là cá chết.[33]
Thành phố chỉ ra bốn nguyên nhân khiến cá chết ở nhiều hồ. Thứ nhất, do
hầu hết hồ của Hà Nội là hồ điều hòa, vẫn còn nước thải chảy vào, gây nên hiện
tượng tái ô nhiễm nước. Thứ hai, thời tiết thay đổi dẫn tới thiếu oxy trong nước,
hàm lượng DO thấp (DO là lượng oxy hòa tan trong nước cần thiết cho sự hô hấp
của thủy sinh). Thứ ba, ý thức người dân kém, vẫn xả thẳng rác thải và xả thải trái
phép vào hồ. Cuối cùng còn hiện tượng cho phép nuôi, thả cá kinh doanh làm ảnh
hưởng trực tiếp đến môi trường hồ.
Về tình trạng ô nhiễm hồ, lưu lượng nước thải chảy vào vượt quá khả năng
tự làm sạch của hồ, gây ô nhiễm hữu cơ, dầu mỡ, kim loại nặng, vi sinh. Xung
quanh các hồ thường có rất nhiều hàng quán và xả thải bừa bãi, gây mất vệ sinh môi
trường. Tại nhiều nơi, việc đổ rác, phế thải xuống hồ còn khá phổ biến làm thu hẹp
diện tích mặt nước và gây ô nhiễm.
Theo kết quả quan trắc tại một số hồ nội thành do Trung tâm quan trắc tài
nguyên và môi trường Hà Nội thực hiện trong giai đoạn 2011-2016 cho thấy hầu hết
các giá trị hàm lượng đều vượt quy chuẩn cho phép theo quy chuẩn Việt Nam.
“Ngoài Fe nằm trong giới hạn cho phép, các thông số còn lại đều vượt quy chuẩn;
dầu mỡ khoáng trong giai đoạn 2015-2016 tăng cao hơn giai đoạn 2012- 2013 và
vượt quy chuẩn nhiều lần”, báo cáo cho hay.
Về ô nhiễm nước ngầm
Nguồn nước ngầm Hà Nội cũng đang ô nhiễm ở tình trạng đáng báo động.
Cụ thể như sau:
Ở Đồng bằng Bắc Bộ, mực nước ngầm hạ sâu, đặc biệt ở khu vực Mai Dịch
(quận Cầu Giấy, Hà Nội). Vào mùa khô, 7/7 mẫu đều có hàm lượng amoni cao hơn
tiêu chuẩn cho phép. UNICEF còn cho thấy, khu vực phía Nam Hà Nội, ô nhiễm
59
asen nặng nhất, thậm chí đứng đầu danh sách các địa chỉ ô nhiễm asen trên toàn
quốc, đặc biệt tại một số khu vực thuộc phường Quỳnh Lôi (quận Hai Bà Trưng),
khu vực huyện Thanh Trì... Tại huyện Quốc Oai, hàm lượng asen cao gấp 3 lần tiêu
chuẩn cho phép.[36]
Mới đây, hàng trăm hộ dân thôn Phú Mỹ, xã Mỹ Đình, huyện Từ Liêm phát
hiện ra nguồn nước sinh hoạt sử dụng trong nhiều năm nay bị nhiễm chất thạch tín
(asen) vượt gấp 43 lần mức cho phép...
Qua phân tích, kết hợp với các tài liệu quan trắc cho thấy nguồn nước ngầm
bị nhiễm bẩn và đang lan rộng ở nhiều nơi. Tại xã Chàng Sơn, huyện Thạch Thất,
Trung tâm Nước sinh hoạt và Vệ sinh môi trường lấy 123 mẫu nước ngầm để phân
tích, kết quả có 86 mẫu bị nhiễm bẩn, trong đó 4 mẫu có màu lạ, 4 mẫu có độ đục
cao gấp 5 lần quy chuẩn cho phép, 28 mẫu có hàm lượng amoni cao gấp 8,33 lần
cho phép, 44 mẫu có chỉ số coliforms, cao gấp 2,68 lần cho phép, 3 mẫu có chỉ số
ecoli cao gấp 1,3 lần cho phép.[36]
Theo số liệu nghiên cứu của Tổng cục Thủy lợi (Bộ NN&PTNT) về phân bố
asen trong đất và nước tại Hà Nội, khoảng 1/4 số hộ gia đình sử dụng trực tiếp nước
ngầm không xử lý ở khu vực ngoại thành bị ô nhiễm nặng, trong đó nước có chứa
asen, tập trung tại các huyện Thanh Trì, Gia Lâm.
Một kết quả quan trắc khác của Trung tâm Quan trắc và dự báo tài nguyên
nước (Bộ TN&MT) cũng khẳng định, mực nước ngầm tại Hà Nội đang suy giảm
mạnh, chất lượng nước ở nhiều nơi không đạt quy chuẩn. Nguồn nước ngầm bị ô
nhiễm nặng nhất là vùng gần lưu vực sông Nhuệ, sông Đáy, cụm công nghiệp, làng
nghề và vùng Phú Xuyên, Ứng Hòa, Thanh Oai, Quốc Oai, Thạch Thất, Hoài Đức,
Thanh Trì, Từ Liêm...
Theo PGS - TS Trần Hồng Côn, Chủ nhiệm bộ môn Công nghệ hóa học
(Khoa hóa, Trường Đại học Khoa học tự nhiên thuộc Đại học quốc gia Hà Nội),
nguồn nước ngầm trên địa bàn thành phố đang bị nhiễm asen với mức độ không
đồng đều, có nơi nhiễm nặng, có nơi ít hơn mức cho phép.
Nguyên nhân ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội
Có rất nhiều nguyên nhân gây ô nhiễm nguồn nước ngầm tại Hà Nội chủ yếu
là do nước thải công nghiệp, nước thải sinh hoạt không xử lý mà thải ra môi trường
trong kho đó môi trường nước ngầm phải chịu quá nhiều lỗ khoan: khoan thăm dò,
60
khai thác, lỗ khoan cho xây dựng và khai thác nước. Bị khai thác nhiều dẫn tới nước
chảy mạnh, tốc độ thấm nước nhanh hơn kéo theo các chất bẩn ngấm vào nguồn
nước và tình trạng lún cục bộ ở các khu vực. Những giếng khoan của tư nhân sau
khi không sử dụng đã không được lấp đúng cách khiến các chất độc hại theo đường
giếng chui vào mạch nước ngầm cũng là nguyên nhân nước ngầm gây ra ô nhiễm
nguồn nước ngầm.
Tại Hà Nội có nhiều khu công nghiệp, khu Đô Thị, khu chung Cư khiến các
hoạt động như công nghiệp, dịch vụ cũng gây ô nhiễm nguồn nước. Mật độ các khu
công nghiệp tăng làm gia tăng nhu cầu về nước sinh hoạt và tất yếu dẫn tới tăng
khai thác nguồn nước ngầm, việc khai thác nguồn nước ngầm không đúng cách
cộng với rác thải công nghiệp gây ra ô nhiễm trầm trọng. Minh chứng rõ nhất cho
điều này là tình trạng nước nhiễm chì, asen và một số chất tại các khu công nghiệp
trên toàn quốc gây ra các làng ung thư, xã ung thư đáng xót xa.
Do công tác quản lý của các cơ quan Nhà nước còn hạn chế. Nhiều hoạt
động gây ô nhiễm nguồn nước chưa được kiểm tra, xử lý đúng mức khiến ý thức
của chủ thể tham gia sử dụng, khai thác nguồn nước càng được đà lấn tới, ý thức
trách nhiệm về bảo vệ nguồn nước càng ngày càng giảm sút. Trong công tác quản lý
của các cơ quan Nhà nước nhiều khi chồng chéo, chưa rõ ràng. Sự phối hợp giữa
các cơ quan còn thiếu hiệu quả.
Tất cả những vấn đề trên khiến chúng ta phải xem xét vấn đề thực tiễn áp
dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tại Hà Nội để tìm ra những giải pháp hợp lý
khắc phục tình trạng ô nhiễm ô nhiễm ngày càng trầm trọng như đã phản ánh ở trên
để nâng cao chất lượng cuộc sống triệu con người đang làm việc và sinh sống tại Hà
Nội, những nhân lực, trí lực hàng đầu và cả những mầm tương lai của đất nước.
2.3.2. Phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở
Hà Nội
Về các văn bản pháp luật đã ban hành
Hà Nội đã ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan đến kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước. Cơ quan ban hành các văn bản pháp luật phần lớn đúng thẩm quyền
theo quy định của pháp luật. Một số văn bản pháp luật tiêu biểu trong thời gian gần
đây như: các quyết định về việc phê duyệt Bảng giá tính thuế tài nguyên trên địa
bàn thành phố Hà Nội và quy định về đăng ký khai thác, sử dụng tài nguyên nước
61
Quyết định về việc thu phí thẩm định báo cáo kết quả thăm dò đánh giá trữ lượng
nước dưới đất trên địa bàn thành phố Hà Nội, quyết định về việc thu phí bảo vệ môi
trường đối với nước thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố Hà Nội. Tiêu biểu:
Quyết định số 487/QĐ-UBND phê duyệt Danh mục khu vực phải
đăng ký khai thác nước dưới đất trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Nghị định số 82/2017/NĐ-CP quy định về phương pháp tính, mức thu
tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước
Nghị định quy định về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai
thác tài nguyên nước
Quyết định về việc công bố thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên nước và khí tượng thủy văn thuộc thẩm quyền giải quyết của
Sở Tài nguyên và Môi trường/ UBND cấp huyện trên địa bàn thành
phố Hà Nội
Thông tư số 27/2014/TT-BTNMT Quy định việc đăng ký khai thác
nước dưới đất, mẫu hồ sơ cấp, gia hạn, điều chỉnh, cấp lại giấy phép
tài nguyên nước
Nghị định số 54/2015/NĐ-CP Quy định về ưu đãi đối với hoạt động
sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả
Quy định điều kiện về năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện điều
tra cơ bản tài nguyên nước, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước, lập
đề án, báo cáo trong hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nước
Về thực hiện quy định về kế hoạch, quy hoạch tài nguyên nước
UBND thành phố Hà Nội đã đề ra nhiều kế hoạch và quy hoạch về tài
nguyên nước với nội dung được yêu cầu đảm bảo các điều kiện : Phù hợp với Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội, Quy hoạch sử dụng đất, Quy hoạch chung
xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch cấp
nước 3 vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam đến năm 2030;
Định hướng phát triển cấp nước đô thị và khu công nghiệp Việt Nam đến năm 2025,
tầm nhìn đến năm 2050 và các quy hoạch chuyên ngành khác có liên quan đã được
cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hướng tới phát triển ổn định, bền vững trên cơ sở
khai thác tối ưu các nguồn lực, đáp ứng nhu cầu sử dụng nước sạch với chất lượng
62
bảo đảm, đáp ứng các yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của Thủ đô. Bảo đảm khai
thác sử dụng nguồn nước hợp lý, tiết kiệm có xem xét đến các ảnh hưởng của biến
đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường; ưu tiên nước mặt và dần thay thế nguồn nước
ngầm. Đồng thời Hà Nội khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư và
phát triển cấp nước.
Về thực hiện quy định về giấy phép tài nguyên nước
UBND Thành phố Hà Nội ban hành Quyết định số 35/2010/QĐ-UBND quy
định về việc cấp phép khai thác tài nguyên nước, xả nước thải vào lưu vực nguồn
nước trên địa bàn thành phố.
Sở Tài nguyên và Môi trường Hà Nội là đơn vị được cấp phép thăm dò, khai
thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước đối với các trường hợp
thăm dò, khai thác nước dưới đất đối với công trình có lưu lượng từ 10m3/ngày đêm
đến dưới 3.000m3/ngày đêm; khai thác và sử dụng nước mặt cho sản xuất nông
nghiệp với lưu lượng từ 1m3/giây đến dưới 2m3/giây; khai thác, sử dụng nước mặt
cho các mục đích không phải cho sản xuất nông nghiệp và phát điện với lưu lượng
từ 5.000m3/ngày đêm đến dưới 50.000m3/ngày đêm; xả nước thải vào lưu vực
nguồn nước với lưu lượng từ 10m3/ngày đêm đến dưới 5.000m3/ngày đêm; xả nước
thải bệnh viện vào lưu vực nguồn nước với lưu lượng dưới 5.000m3/ngày đêm.
Đồng thời, Sở được cấp giấy phép hành nghề khoan nước dưới đất quy mô
vừa và nhỏ cho các tổ chức, cá nhân có địa chỉ thường trú trên địa bàn thành phố
theo quy định. Ngoài mức quy định trên, các tổ chức và hộ cá nhân khai thác sử
dụng tài nguyên nước trên địa bàn cho mục đích không phải sinh hoạt sẽ do UBND
các quận, huyện, thị xã cấp giấy phép.
Cũng theo quyết định này, giấy phép sẽ bị thu hồi trong trường hợp được cấp
nhưng không sử dụng trong thời hạn 12 tháng liên tục mà không được cơ quan có
thẩm quyền cho phép hoặc chủ giấy phép vi phạm nội dung quy định của giấy phép,
gây cạn kiệt, ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.
Về xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến ô nhiễm nguồn nước
Trong năm 2017, các cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường trên địa bàn
thành phố đã kiểm tra, thanh tra tại 2.161 cơ sở, trong đó xử lý vi phạm hành chính
588 cơ sở với tổng tiền phạt trên 16.5 tỷ đồng. Kết quả thanh tra cho thấy các cơ sở
đầu tư xây dựng hệ thống nước thải còn kém và ý thức chấp hành các quy định pháp
63
luật thấp[36].
Các vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Hà Nội chủ yếu
được giải quyết bằng xử phạt hành chính. Về mức xử phạt hành chính chưa thực
sự mang tính răn đe.
Ví dụ: Tình trạng xả thải gây ô nhiễm nguồn nước, ảnh hưởng đến sản xuất nông
nghiệp của người dân thôn Lũng Vị, xã Đông Phương Yên, huyện Chương Mỹ.
Nguồn nước tại mương tiêu thoát nước ở cánh đồng Lũng Vị có màu sắc bất
thường, có mùi lạ do xả thải đỏ như máu. Qua xác minh, UBND huyện kết luận,
nguyên nhân do Công ty TNHH mây tre Lệ Tùng trước đó ngày 01/09/2016 đã bị sự cố
gió bão tốc mái nhà xưởng, dẫn đến nước mưa chảy tràn vào khu vực sản xuất của
công ty, cuốn theo một lượng nước nhuộm hàng mây tre đan màu đỏ, sau đó chảy ra
khu vực mương thoát nước tạo thành màu đỏ như báo phản ánh. Bên cạnh xác minh
nguyên nhân xả thải, báo cáo của UBND huyện cho biết, các hồ sơ pháp lý về bảo vệ
môi trường của công ty cơ bản đầy đủ. Công ty đã xây dựng và vận hành hệ thống xử
lý nước thải sản xuất từ năm 2014, kết quả phân tích môi trường nước sau xử lý do
viện Hóa học thực hiện cho thấy các chỉ tiêu đạt quy chuẩn quy định.
Bên cạnh yêu cầu khắc phục hậu quả, UBND huyện tiến hành lập biên bản xử
lý hành chính Công ty TNHH mây tre Lệ Tùng 7,5 triệu đồng về lỗi không thực hiện
báo cáo về hoạt động xả thải vào nguồn nước cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền và
lỗi không thực hiện đầy đủ chế độ quan trắc, giám sát môi trường theo nội dung cam
kết bảo vệ môi trường đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận.
Với mức phạt như vậy liệu tính răn đe có cao không? Hơn nữa, chưa kể đó là
một tiền lệ khiến các cơ sở sản xuất khác tiếp tục coi thường sự quản lý của Nhà
nước, sẵn sàng vi phạm các quy định về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Đó chỉ là
một ví dụ điển hình trong rất nhiều trường hợp xử phạt hành chính mà tính răn đe
quá thấp trong khi tình trạng vi phạm pháp luật môi trường ngày càng gia tăng cả về
số lượng và mức độ ảnh hưởng xấu đến môi trường. Đặt ra cho chúng ta câu hỏi, tại
sao các chế tài đã được thực thi mà tình trạng ô nhiễm vẫn cứ gia tăng chóng mặt
như vậy.
Về các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước khác
Thành phố Hà Nội đã triển khai các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước như bao gồm:
64
Triển khai đầu tư kinh phí, kêu gọi hợp tác nhằm từng bước khắc phục tình
trạng ô nhiễm sông và cải thiện chất lượng môi trường nguồn nước sông. Đồng thời
tăng cường tổ chức, vận động nhân dân tham gia tổng vệ sinh dọc tuyến đường bờ
sông Tô Lịch và Kim Ngưu; tổ chức thu gom phế thải, nạo vét lòng sông; xử lý các
trường hợp vi phạm hệ thống thoát nước đô thị, hành vi đổ trộm phế thải từ công
trình xây dựng; triển khai lắp đặt thí điểm 38 cụm bè thủy sinh trên sông Tô Lịch
đoạn từ Hoàng Quốc Việt đến cầu Mới nhằm tạo cảnh quan và góp phần cải thiện
chất lượng nước.
Phê duyệt chỉ giới hành lang bảo vệ công trình thủy lợi sông Nhuệ trên địa
bàn thành phố Hà Nội tỷ lệ 1/500 tại Quyết định số 5168/QĐ-UBND ngày
08/10/2014; chỉ đạo, xử lý kiên quyết vi phạm pháp luật về đất đai (lấn chiếm lòng
sông, hành lang sông): Công tác quản lý mốc giới, chống lấn chiếm và xử lý vi
phạm hành lang sông đã được UBND các quận/huyện thuộc hành lang bảo vệ lưu
vực sông Nhuệ - sông Đáy quan tâm, chỉ đạo quyết liệt; đồng thời tăng cường công
tác kiểm tra xử lý nghiêm các trường hợp lấn chiếm, xây dựng trái phép trên hành
lang sông.
Tập trung nguồn lực chỉ đạo các sở, ngành và đơn vị thực hiện đầu tư xây
dựng và vận hành các Trạm, Nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt quy mô lớn; các
trạm XLNT làng nghề, đảm bảo chất lượng nước thải sau xử lý đạt quy chuẩn môi
trường; các dự án đầu tư cải tạo nạo vét và xây dựng hệ thống thủy lợi liên quan
trong lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy; các dự án bổ sung nguồn nước sông, các công
trình tiêu thoát nước. Các công trình XLNT và cải tạo hệ thống thủy lợi hiện đang
vận hành và triển khai gồm:
Đẩy nhanh tiến độ triển khai các trạm bơm tiêu và công trình đầu mối:
Đồng Bông 1, Đồng Bông 2, Yên Nghĩa (tiêu từ sông Nhuệ ra sông Đáy), Đông
Mỹ (tiêu từ khu vực Thanh Trì ra sông Hồng), Cụm công trình đầu mối Liên Mạc,
Trạm bơm Yên Thái, Đào Nguyên (huyện Hoài Đức) tiêu ra sông Đáy; Xây dựng,
nâng cấp các trạm bơm: Đan Hoài, Bá Giang lấy nguồn nước sông Hồng bổ cập
cho sông Đáy, trạm bơm Cao Xuân Dương lấy nguồn nước sông Đáy (có chất
lượng đảm bảo) để phục vụ tưới tiêu sản xuất nông nghiệp cho các xã trên địa bàn
huyện Thanh Oai.
Tiếp tục triển khai, đẩy nhanh tiến độ đầu tư, xây dựng các dự án xử lý nước
65
thải góp phần bảo vệ môi trường lưu vực sông Nhuệ- sông Đáy, đẩy nhanh tiến độ
thực hiện dự án “Cụm công trình tiếp nước”. Các dự án làm sạch sông Nhuệ, sông
Đáy; thu gom, nạo vét sông Nhuệ, sông Đáy:
Sông Nhuệ: Dự án xây dựng cụm công trình đầu mối Liên Mạc, Từ Liêm,
Hà Nội (giai đoạn I) tại Từ Liêm, Hà Nội với mục tiêu lấy nước sông Hồng vào
sông Nhuệ; Các dự án: Nâng cấp trục chính sông Nhuệ kết hợp với làm đường giao
thông cải thiện môi trường gắn với chỉnh trang sông Nhuệ từ cống Hà Đông đến
đường vành đai 4 và Nâng cấp trục chính sông Nhuệ kết hợp với làm đường giao
thông cải thiện môi trường gắn với chỉnh trang sông Nhuệ từ Liên Mạc đến cống Hà
Đông; Nạo vét sông Nhuệ từ Liên Mạc đến Hà Đông.
Sông Đáy: Dự án nạo vét, cải tạo lòng dẫn sông Đáy thành phố Hà Nội
(chiều dài nạo vét từ đập Đáy đến cầu Mai Lĩnh (phường Yên Nghĩa, quận Hà
Đông); Dự án tiếp nước, cải tạo khôi phục Sông Tích (là phụ lưu của sông Đáy) từ
Lương Phú, xã Thuần Mỹ, huyện Ba Vì.
Việc giải quyết ô nhiễm nguồn nước, đặc biệt là nguồn nước sông Nhuệ,
sông Đáy là việc làm khó, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, ngành. Do đó,
cần sự đầu tư lớn và phải được giải quyết từng bước, đồng bộ và sự ủng hộ cao của
các cấp, các ngành đặc biệt là nhân dân trong lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy. Các
dự án trên một số đã và đang được triển khai thi công, một số gặp khó khăn do thiếu
vốn hoặc khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng. Tuy nhiên, khi các Dự án
trên hoàn thành sẽ góp phần cải thiện đáng kể chất lượng nguồn nước của lưu vực
sông Nhuệ, sông Đáy đảm bảo phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh trên địa
bàn các quận, huyện thuộc lưu vực sông.
Ngoài ra, các chương trình hành động về môi trường cũng được Hà Nội tích
cực triển khai thực hiện. Tổng cục Môi trường vừa đề ra bốn Chương trình công tác
năm 2018: Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật, đề án trình Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá về môi trường; Triển
khai công tác thanh tra, kiểm tra năm 2018; vận hành đường dây nóng về môi
trường; Rà soát kiểm soát các dự án, nguồn thải lớn có nguy cơ gây sự cố môi
trường, gây ô nhiễm môi trường; Thực hiện các chương trình quan trắc, lập các báo
cáo về môi trường. Các chương trình bảo vệ môi trường của học sinh sinh viên như
tổ chức ngày chủ nhật xanh để dọn rác ở các sông bị ô nhiễm chính. Công tác tuyên
66
truyền về bảo vệ môi trường ở học đường cũng được Thành phố triển khai.
Bên cạnh trong thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm tại Thành phố Hà
Nội còn tồn tại một số vướng mắc. Nghị định phí nước thải có thể chưa lường trước
được hậu quả của tình hình ô nhiễm sẽ mở rộng nhanh và hậu quả ngày càng trầm
trọng hơn khi quy định “Mức thu phí bảo vệ môi trường đối với nước thải sinh hoạt
được tính theo tỷ lệ phần trăm (%) trên giá bán của 1m3 nước sạch, nhưng tối đa
không quá 10% (mười phần trăm) giá bán nước sạch chưa bao gồm thuế giá trị gia
tăng” (theo khoản 1 điều 5 Nghị định 25/2013/NĐ-CP) việc thu phí sử dụng nước
sạch thấp như vậy sẽ dẫn đến hệ quả người dân sử dụng nước lãng phí và lượng
nước thải thải ra hàng ngày cũng cao hơn và khó kiểm soát hơn. Nghị định về thủy
lợi phí (Nghị định số 67/2012/NĐ-CP): Việc thực hiện đang đứng trước nguy cơ
khó khăn lớn do chủ trương mở rộng miễn giảm và bỏ phí thủy lợi. Trong tình hình
nông nghiệp Việt Nam hiện sử dụng trên 80% nhu cầu dùng nước của cả quốc gia
và trước thực trạng nhiều công trình thủy nông đang bị xuống cấp và chưa hoàn
chinhrm chưa chuyển giao cho các tổ chức hợp tác xã trên diện rộng thì việc bỏ phí
thủy lợi sẽ phải có những điều chỉnh về chính sách và tổ chức quản lý để sao sử
dụng tiết kiệm nguồn nước tưới. Những điều còn tồn tại trên đặt ra vấn đề cần có
những định hướng, thay đổi và giải pháp hoàn thiện pháp luật để hoạt động kiểm
67
soát ô nhiễm nguồn nước đạt hiệu quả cao hơn.
Chương 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT Ô NHIỄM NGUỒN
NƯỚC VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Trong những năm gần đây, việc quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam được cải
thiện đáng kể về mặt pháp lý, cấu trúc thể chế và các cơ chế, góp phần vào sự phát
triển kinh tế-xã hội của đất nước. Luật Tài nguyên nước đã được chính thức ban
hành từ năm 1998 và các văn bản hướng dẫn pháp quy tiếp theo, đã cung cấp các
quy định về quản lý, điều hành, lưu trữ, khai thác và sử dụng tài nguyên nước trên
toàn quốc. Sự thay đổi về thể chế trong quản lý tài nguyên nước đã khuyến khích
được quá trình phi tập trung hóa, đẩy mạnh sự tham gia rộng rãi của các thành phần
ngoài nhà nước trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn nước, cung cấp nước
sinh hoạt và nước tưới tiêu. Đặc biệt, Luật Tài nguyên nước đã được Quốc hội khóa
XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 21/6/2012. Luật này quy định việc điều tra cơ
bản tài nguyên nước; bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước; phòng, chống,
khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; quản lý nhà nước về tài nguyên nước trên
lãnh thổ Việt Nam. Tài nguyên nước quy định trong Luật này bao gồm nước mưa,
nguồn nước mặt và nguồn nước dưới đất. Riêng nước biển, nước khoáng và nước
nóng thiên nhiên được điều chỉnh bằng pháp luật khác.
Theo luật này, tài nguyên nước ở Việt Nam thuộc sở hữu toàn dân, được nhà
nước thống nhất quản lý nhằm đảm bảo tất cả mọi người có quyền hưởng lợi từ các
nguồn nước. Hiện Bộ TN&MT được Chính phủ giao trách nhiệm quản lý nhà nước
về tài nguyên nước nói chung, trong khi Bộ NN&PTNT và Bộ Công Thương... có
trách nhiệm quản lý tài nguyên nước theo hoạt động của ngành, cho các mục đích
tương ứng như thủy lợi, nuôi trồng thủy sản và sản xuất điện.
Gần đây, cách tiếp cận quản lý tài nguyên nước tổng hợp và dựa trên lưu vực đã
được đẩy mạnh ở Việt Nam. Về nguyên tắc, tài nguyên nước không chỉ được xem
như “tài sản chung” mà còn là “hàng hóa có giá trị thương mại và kinh tế.” Do đó,
Chính phủ đã áp dụng một số cơ chế nhằm tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý
nước ở các khía cạnh khác nhau về chính sách, kỹ thuật thực hiện, năng lực và cơ sở
68
hạ tầng.
Kinh nghiệm quản lý tài nguyên nước ở Việt Nam đã ghi nhận và đánh giá cao
vai trò quan trọng của cộng đồng địa phương, với tư cách vừa là người trực tiếp sử
dụng nước, vừa là người quản lý và bảo vệ tài nguyên nước. Quản lý bởi cộng đồng
hay quản lý dựa vào cộng đồng, đã được giới thiệu và áp dụng ở nhiều vùng theo
các cách khác nhau trong lĩnh vực cấp nước sinh hoạt và thủy lợi. Mặc dù còn nhiều
bất cập về mặt pháp luật, thể chế và năng lực, nhưng cộng đồng địa phương đã
chứng minh được tài nguyên nước sẽ được quản lý tốt hơn, nếu có sự tham gia của
cộng đồng trong quá trình ra quyết định.
Trong thời gian tới, pháp luật kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta tiếp
tục được hoàn thiện theo định hướng:
- Tăng cường sự tham gia của các nguồn lực ( các cơ quan quản lý Nhà nước,
cộng đồng, các tổ chức độc lập) vào việc kiểm soát ô nhiễm nước dựa trên nguyên
tắc công bằng lợi ích giữa các bên liên quan
- Ưu tiên xử lý các điểm công nghiệp và đô thị đang ô nhiễm trầm trọng.
- Ưu tiên công đoạn “ngăn ngừa” trong quy trình ba công đoạn “ngăn ngừa-
phát hiện- ngăn chặn”
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở
Việt Nam
Hiện nay tuy đã có nhiều văn bản pháp luật quy định về về kiểm soát ô
nhiễm và suy thoái tài nguyên nước nhưng luật pháp và các quy định liên quan
tới nguồn tài nguyên này vẫn còn được soạn thảo một cách riêng rẽ. Hệ thống
văn bản pháp luật về tài nguyên nước chưa hoàn chỉnh. Luật tài nguyên nước đi
vào thực tiễn chưa phát huy được tác dụng điều chỉnh. Công tác quản lý tài
nguyên nước còn phân tán, chồng chéo, đan xen giữa quản lý và khai thác, sử
dụng. Sự phối hợp giữa các ngành, giữa trung ương và địa phương, giữa các tỉnh
trong việc thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tài nguyên
nước vẫn chưa thực sự chặt chẽ.
Bên cạnh đó cũng còn một số nhược điểm như: cơ cấu tổ chức của bộ máy
tài nguyên môi trường chưa được hoàn thiện, mạng lưới điều tra cơ bản về tài
nguyên nước và môi trường chưa được hoàn chỉnh, chưa thiết lập được đầy đủ cơ sở
dữ liệu, tài liệu cơ bản về tài nguyên nước, về sử dụng và ô nhiễ để phục vụ cho
69
hoạt động lập pháp nhằm quản lý và bảo vệ nguồn tài nguyên này.
Sự phối hợp, lồng ghép giữa các cơ quan còn nhiều hạn chế. Giữa các Bộ,
Ngành, Đoàn thể quần chúng chưa có sự phối hợp tổ chức thực hiện chặt chẽ. ở một
số tỉnh chưa phân định cụ thể nhiệm vụ của Sở Nông nghiệp và phát triển nông
thôn, Sở Kế hoạc và Đâu tư, Sở Tài nguyên và Môi trường trong quá trình theo dõi
thực hiện cũng như áp dụng pháp luật kiểm soát về ô nhiễm môi trường. Cơ chế
phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa phương chưa đồng bộ,
còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Nhận thức của nhiều cấp chính quyền, cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân
có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi trường nước là loại ô nhiễm môi trường gây
nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời sống con người cũng
nhưu sự phát triển bền vững của đất nước. Đội ngũ cán bộ quả lý môi trường nước
còn thiếu về số lượng và chất lượng. Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử
dụng và bảo vệ tài nguyên nước theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các
quy định hợ lý trong việc đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước
gây nên tình trạng thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường
nước. Các quy định về quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (như chưa có
các quy định và quy trình kĩ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn
nước). Tất cả những lý do trên cho thấy sự cần thiết phải có những giải pháp hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát tài nguyên nước trong thời gian tới.
Từ thực tiễn ô nhiễm nước trong thời gian qua đã phản ánh một số bất cập,
thách thức trong kiểm soát ô nhiễm theo hệ thống luật pháp. Một trong những thách
thức lớn nhất là kiểm soát ô nhiễm nước chưa được chú ý đúng tầm quan trọng và
cần thiết trong sự nghiệp phát triển kinh tế mà chỉ được đưa vào như một phần nhỏ
tích hợp trong công tác bảo vệ môi trường. Vì vậy công tác kiểm soát các hành vi xả
thải, các nguồn ô nhiễm còn mang tính gián tiếp, hình thức. Các công cụ thực thi
kiểm soát ô nhiễm nước bị tản mạn nằm trong nhiều luật và có quan hệ chéo phức
tạp trong hệ thống quản lý hành chính, dẫn đến tính thực thi chưa có hiệu quả cao.
Việc thực thi các hoạt động kiểm soát ô nhiễm nước trong hệ thống luật hiện nay
cũng đối mặt với các thách thức như nền tảng công nghệ xử lý nước thải còn yếu và
thiếu, các nguồn nước thải bị quản lý bởi nhiều bên khác nhau.
Từ những yêu cầu thực tế trên, rút ra được một số giải pháp hoàn thiện pháp
70
luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở nước ta hiện nay như sau:
Một là, nâng cao thẩm quyền và năng lực quản lý của các cơ quan Nhà nước.
Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo vệ quyền con người bằng pháp luật,
trong đó có quyền được sống trong môi trường trong lành. Nhưng hiện nay chúng ta
chưa có sự nhận thức rõ ràng, đầy đủ, thống nhất về quyền được sống trong môi
trường trong lành. Quyền được sống trong môi trường trong lành được ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013 nên hiểu theo nghĩa tự nhiên của nó (tức là chỉ có trong
lành về mặt tự nhiên) hay theo nghĩa phát triển bền vững bao hàm cả trong lành về
mặt xã hội. Bên cạnh đó, tại Điều 43 Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, mọi người có
quyền được sống trong môi trường trong lành đồng thời phải có nghĩa vụ bảo vệ
môi trường. Nhà nước là chủ thể đống vai trò vô cùng quan trọng trong việc kiểm
soát ô nhiễm nguồn nước. Nhà nước đặt ra các thiết chế cần thiết và các cơ quan
trực tiếp tác động đến việc thực thi pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Từ
đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Cần thiết phải nâng cao thẩm quyền của các Nhà nước trong việc thực thi các
thiết chế về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cần phân rõ nhiệm vụ chắc năng, trách
nhiệm của các cơ quan trong từng trường hợp cụ thể ứng với từng loại nguồn nước
cụ thể. Hiện nay, thẩm quyền các hoạt động chủ yếu thuộc Bộ Tài nguyên môi
trường và UBND cấp tỉnh tuy nhiên quy định thẩm quyền nhiều khi còn chung
chung dẫn đến khi thực hiện chưa được rõ ràng.
Bên cạnh đó cần có sự bố trí, làm rõ, tạo cơ chế phối hợp giữa các chức năng
quản lý, giám sát, thanh tra, xử lý, cấp phép. Do môi trường nước có phạm vi rộng,
ảnh hưởng đến nhiều vùng, miền và ngành nghề khác nhau, nên kiểm soát các cơ
quan có thẩm quyền trong việc kiểm soát ô nhiễm nguồn nước hiện đang khá chồng
chéo giữa các bộ ngành. Để khắc phục tình trạng này, cần có sự rà soát, thống nhất
các chức năng với nhau. Cần cải cách, thu gọn cơ quan có thẩm quyền về một mối
để đảm bảo thực hiện có hiệu quả. Vì ở nước ta, Bộ tài nguyên môi trường chưa
phải cơ quan duy nhất kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, các bộ ban ngành và các cơ
quan chuyên môn khác có những trách nhiệm kiểm soát khác nhau tạo ra sự cồng
kềnh. Ở điểm này, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm một số quốc gia có quy
định Bộ TN&MT là cơ quan tập trung trách nhiệm nhất đối với hoạt động kiểm soát
71
ô nhiễm nguồn nước.
Hai là, hoàn thiện quy định về giấy phép tài nguyên nước
Về thẩm quyền cấp giấy phép, thống nhất cơ quan có thẩm quyền cấp giấy
phép xả thải vào hệ thống nước tự nhiên (Bộ và Sở Tài nguyên và Môi trường đảm
nhiệm) với cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xả thải vào hệ thống tưới tiêu ( Bộ
và Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn đảm nhiệm) về một mối để đảm bảo tính
kết nối tự nhiên và tính luân chuyển của nguồn nước. Hiện nay, hệ thống cấp giấy
phép xả thải dàn trải từ các cơ quan trung ương đến địa phương mà không nhất
quán. Chính vì thế cần xây dựng hệ thống cấp giấy phép xả thải tập trung để dễ
dàng quản lý.
Về căn cứ cấp giấy phép. Đầu tiên, cần làm rõ khả năng tiếp nhận nước thải vào
nguồn nước, bổ sung các quy định để có thể tính toán một cách có hệ thống trên phạm
vi một đoạn sông, một lưu vực có xét đến tác động tích lũy của tất cả các nguồn thải
vào nguồn nước tiếp nhận, không chỉ căn cứ vào nguồn nước tiếp nhận tại một điểm xả
thải như tình trạng chung hiện nay mà phải có sự kiểm soát bao quát trên tất cả các
điểm có liên quan, ảnh hưởng đến nhau. Tiếp đó, xây dựng bộ tiêu chí cấp giấy phép xả
thải trong các quy chuẩn xả thải phải tương ứng với công nghệ.
Về nội dung của giấy phép. Nội dung của giấy phép xả thải phải được cải thiện
để làm rõ sự gắn kết giữa giấy phép và kiểm soát ô nhiễm nước (kết hợp với việc đưa
ra những quy chuẩn và các biện pháp giám sát hoặc yêu cầu báo cáo hoặc các biện
pháp khác nhằm đảm bảo việc xả thải không làm hư hại đến chất lượng nước).
Về thời hạn của giấy phép. Hiên nay, thời hạn của giấy phép xả thải ở nước
ta khá dài khoảng 10 năm chưa kể các lần gia hạn. Điều này gây khó khăn cho công
tác quản lý của các cơ quan Nhà nước. Nên xem xét giảm thời hạn giấy phép, chúng
ta có thể xem xét học tập kinh nghiệm của Nhật Bản (10 năm) hoặc Hoa Kỳ (5 năm)
Việc giám sát thực thi giấy phép xả thải. Do công tác báo cáo của các đơn vị
thực thi giấy phép xả thải còn kém và công tác quản lý lại chủ yếu phụ thuộc vào
các báo cáo đó nên chưa phát huy được hiệu quản. Do vậy, bên cạnh việc có cơ chế
tăng cường hệ thống báo cáo thường xuyên của các đơn vị xả thải, cần chú trọng
đào tạo cán bộ có chuyên môn về kiểm soát việc thực thi hoặc tăng quyền giám sát
của một bên thứ ba nếu cần thiết. Thành lập cơ quan chuyên môn không thuộc Nhà
72
nước để có những đánh giá khách quan, tránh tình trạng tham nhũng, quan liêu.
Ba là, hoàn thiện quy định về bồi thường thiệt hại trong xử lý vi phạm pháp
luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Trước tình hình vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường nói chung và vi
phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước nói riêng đang ngày càng gia tăng
và mức độ phức tạp ngày càng cao. Thêm vào đó nguồn nước đang ngày càng trở
thành nhân tố có tính quyết định đến an ninh, sự sống, kinh tế- xã hội toàn cầu. Tất
cả càng thúc đẩy pháp luật phải có những điều chỉnh hợp lý để kiểm soát một cách
có hiệu quả ô nhiễm nguồn nước. Quy định về hình thức xử phạt các hành vi vi
phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước cần được chú trọng và sát với
tình hình thực tế hơn nữa. Trong đó, hình thức bồi thường thiệt hại đóng vai trò rất
lớn và phù hợp với tình hình nhiều quốc gia trên thế giới và được thế giới vận dụng
khá hiệu quả trong kiểm soát ô nhiễm môi trường.
Về quy định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một điều cần thiết, nhất
là quy định xác định mức bồi thường. Tuy nhiên, để chứng minh mối quan hệ nhân
quả giữa thiệt hại và hành vi trái pháp luật gây ô nhiễm môi trường dưới góc độ
pháp lý là rất khó khăn. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, theo
quy định của pháp luật, người dân phải tự thu thập các chứng cứ về hành vi vi phạm
gây ô nhiễm môi trường của người gây thiệt hại và tự xác định mức độ thiệt hại của
mình để khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên, trên thực tế, người dân khó
có thể tự thu thập được chứng cứ do không có đủ thời gian, tài chính, trang thiết bị
cũng như trình độ. Điều này ảnh hưởng đến quyền khởi kiện của họ.
Cụ thể, việc xác định giá trị và mức tính bồi thường thiệt hại về tính mạng,
tài sản là rất khó khăn, đặc biệt là mức tính bồi thường thiệt hại về tinh thần, tính
mạng bị xâm hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường tạo ra. Theo đó, bồi thường về
tinh thần trong trường hợp sức khỏe bị xâm hại cao nhất không quá 30 tháng lương
tối thiểu và bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người thân của người bị thiệt hại
về tính mạng do ô nhiễm môi trường là cao nhất không quá 60 tháng lương tối
thiểu. Việc xác định mức bồi thường thiệt hại cần phải dựa vào các căn cứ như hậu
quả của hành vi xâm phạm đối với chính bản thân người bị hại. Tức là người bị hại
không chỉ bị thương tích hoặc bị tổn hại nặng đến sức khỏe (chịu đau đớn về thể
xác), mà còn phải chịu thiệt hại về tinh thần (thẩm mỹ, quan hệ xã hội, nghề
73
nghiệp…). Thiệt hại tinh thần còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, độ tuổi, vị trí
công việc, dung mạo… Đây cũng là những trường hợp thiệt hại về tinh thần khó có
thể định lượng được. Thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật về kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước gây ra trên diện rộng và ảnh hưởng tới nhiều chủ thể bị thiệt hại. Tuy
nhiên, theo quy định của pháp luật hiện nay, người dân không có quyền được khởi
kiện tập thể để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Cho nên cần bổ sung quy
định tăng tính tham gia của người dân vào công tác kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Bốn là, tăng cường sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Sự tham gia của cộng đồng có một vai trò lớn trong hoạt động kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước chính vì thế cần khuyến khích sự tham gia của cộng đồng.
Chẳng hạn trong hoạt động của các làng nghề. “Với những quy định về trách nhiệm
của cộng đồng dân cư trong kiểm soát ô nhiễm môi trường do các hoạt động của
làng nghề gây ra ở Việt Nam, bước đầu đã tạo được những chuyển biến đáng kể về
hành vi kiểm soát ô nhiễm ở cộng đồng dân cư. Tại nhiều làng nghề, hương ước,
quy ước đóng vai trò rất tích cực trong việc đề cao các chuẩn mực đạo lý, truyền
thống của làng nghề, đồng thời cũng là công cụ tích cực nhằm vận động, tuyên
truyền phổ biến, giáo dục về kiểm soát ô nhiễm ở làng nghề. Ngoài ra còn thúc đẩy
phát triển sản xuất, giải quyết các mâu thuẫn, xung đột thường ngày trong khu vực
làng nghề. Ý thức tự giác của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động kiểm soát ô
nhiễm cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện và nâng cao chất lượng
môi trường tại các làng nghề”[27]. Tuy nhiên trong pháp luật kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước ở nước ta hiện nay , sự tham gia của cộng đồng chưa được quy định rõ
ràng. Do đó, bổ sung các quy định ở một số nội dung như sau:
Trách nhiệm cung cấp thông tin và khuyến khích sự tham gia của cá nhân, tổ
chức, kể cả tổ chức phi chính phủ, các tổ chức nghiên cứu khoa học có nguồn tài trợ
từ nước ngoài vào hoạt động kiểm soát ô nhiễm nguồn nước. Cho phép các tổ chức
độc lập được cung cấp thông tin, tiến hành thanh tra nếu phát hiên hành vi vi phạm.
Có những quy định về hình thức tham vấn ý kiến của người dân, quy trình xử lý các
đơn thư yêu cầu của cá nhân, tổ chức, nâng cao quyền được tham gia thảo luận của
người dân. Để khuyến khích sự tham gia của cộng đồng và các bên liên quan trong
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước có thể có chính sách động viên, khen thưởng đối với
74
các tổ chức, cá nhân đã cam kết và tích cực thực hiện đúng cam kết bảo vệ nguồn
nước hoặc có các nỗ lực không ngừng đóng góp cho hoạt động kiểm soát ô nhiễm
nguồn nước. Vấn đề kiểm soát ô nhiễm nguồn nước muốn đạt được hiệu quả cao nhất
thì không thể phụ thuộc vào sự quản lý của các cơ quan có thẩm quyền, biện pháp hữu
hiệu và lâu dài nhất là nâng cao ý thức của cộng đồng. Một khi công việc chung có sự
chung tay của tất cả các nguồn lực sẽ đơn giản và hiệu quả rõ rệt hơn nhiều.
Năm là, xây dựng văn bản pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
Tài nguyên và môi trường là một ngành đa lĩnh vực mới được hình thành
trên cơ sở hợp nhất nhiều lĩnh vực quản lý nhà nước. Bộ TN&MT đã được giao
quản lý 08 lĩnh vực chuyên ngành gồm: đất đai; tài nguyên nước; tài nguyên địa
chất, khoáng sản; môi trường; khí tượng thủy văn; biến đổi khí hậu; đo đạc và bản
đồ; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo và một số nhiệm vụ khoa học
công nghệ tổng hợp gồm viễn thám, công nghệ thông tin. Các lĩnh vực quản lý của
ngành hầu hết đều có tính phức tạp, nhạy cảm, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của
nhân dân, doanh nghiệp, tổ chức, có tác động lớn đến bảo đảm an ninh, quốc phòng,
sự phát triển kinh tế, xã hội; là ngành điều tra cơ bản, dự báo gắn liền với các hoạt
động điều tra, thăm dò, quan trắc với mạng lưới tổ chức rộng khắp cả nước và gắn
liền với yêu cầu nghiên cứu, ứng dụng và phát triển khoa học - công nghệ; thực hiện
các biện pháp nhằm bảo vệ TN&MT, là yếu tố quan trọng của một trong ba trụ cột
của phát triển bền vững.
Hiện nay vẫn chưa có một văn bản thống nhất nào quy định cụ thể về cơ sở
hạ tầng phục vụ cho kiểm soát nguồn nước nhất là nguồn nước mặt. Luật bảo vệ
môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên nước năm 2012, hay cụ thể hơn là Nghị
định 80/2014/ NĐ-CP về thoát nước và xử lý nước thải vẫn còn quy định khá chung
chung chưa đáp ứng được tình hình hiện nay nhất là hệ thống thoát nước cơ sở ở
các đô thị lớn như Hà Nội.
Ngay từ khi được thành lập, xác định việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính
sách, pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, Bộ TN&MT đã luôn luôn nỗ lực đổi
mới, nâng cao chất lượng xây dựng văn bản quy phạm pháp luật , nhằm hoàn thiện hệ
thống văn bản pháp luật về tài nguyên và môi trường, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà
nước, bảo đảm việc khai thác tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường và quyền lợi, nghĩa
vụ của người dân; thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước. Hệ thống chính
sách pháp luật tài nguyên và môi trường đi vào cuộc sống; tạo hành lang pháp lý cho
75
việc quản lý tài nguyên và môi trường ngày càng hiệu quả hơn.
Hệ thống pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nước hiện nay thiếu tính thực thi,
có quá nhiều văn bản luật liên quan nhưng khoảng cách từ văn bản đến công cụ
thực thi rất xa, gần như bị vô hiệu hóa và ô nhiễm nước vượt tầm kiểm soát. Bất cập
trong văn bản luật pháp về ngăn ngừa và kiểm soát nguồn nước còn tồn tại trong
nhiều khâu như “ngăn ngừa” chưa được quan tâm đúng mức, chủ yếu thực hiện ở
mức xử lý vi phạm kiếm tra cuối nguồn. Bên cạnh đó khâu xử lý triệt để còn thiếu
hướng dẫn, chưa có một quy định cụ thể về công nghệ xử lý. Vai trò của cộng đồng
trong giám sát còn mờ nhạt. Nội dung ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nguồn nước
chưa quy định rõ trách nhiệm, chưa phân định chi tiết nhiệm vụ của các bên tham
gia. Chính vì thế cần có một luật thống nhất điều chỉnh về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước để tạo hành lang pháp lý đảm bảo hơn.
3.3. Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về kiểm soát ô
nhiễm nguồn nước tại địa bàn thành phố Hà Nội
Thứ nhất, Hà Nội cần chú trọng công tác quy hoạch phát triển các khu, cụm,
điểm công nghiệp, các làng nghề, các đô thị, đảm bảo tính khoa học cao, trên cơ sở
tính toán kỹ lưỡng, toàn diện các xu thế phát triển, từ đó có chính sách phù hợp;
tránh tình trạng quy hoạch tràn lan, thiếu đồng bộ, chồng chéo như ở nhiều địa
phương thời gian vừa qua, gây khó khăn cho công tác quản lí nói chung, quản lí môi
trường nói riêng. Đối với các khu công nghiệp, cần có quy định bắt buộc các công
ty đầu tư hạ tầng phải xây dựng hệ thống thu gom, xử lí nước thải , phân tích môi
trường tập trung hoàn chỉnh mới được phép hoạt động, đồng thời thường xuyên có
báo cáo định kỳ về hoạt động xử lí nước thải, rác thải tại đó.
Thứ hai, Hà Nội nên chú trọng phát huy tính nghiêm túc của quy hoạch môi
trường nước và đánh giá tác động môi trường nước. Thực hiện nghiêm túc việc
thẩm định, đánh giá tác động môi trường đối với các dự án đầu tư, trên cơ sở đó, cơ
quan chuyên môn tham mưu chính xác cho cấp có thẩm quyền xem xét quyết định
việc cấp hay không cấp giấy phép đầu tư. Việc quyết định các dự án đầu tư cần
được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích đem lại trước mắt với những ảnh hưởng của nó
đến môi trường về lâu dài. Thực hiện công khai, minh bạch các quy hoạch, các dự
án đầu tư và tạo điều kiện để mọi tổ chức và công dân có thể tham gia phản biện xã
76
hội về tác động môi trường của những quy hoạch và dự án đó.
Song song với nó là nâng cao cơ chế giám sát chặt chẽ các hoạt động khai
thác nước, xả nước thải vào nguồn nước. Bởi trên thực tế những hoạt động này của
nước ta còn chưa rõ ràng, thiếu sự thống nhất. Các cơ quan chức năng và có trách
nhiệm trong việc giám sát, quản lý xả thải từ khâu cấp phép đến khâu tham gia,
giám sát và xử lý hậu quả còn lúng túng, thiếu nguồn lực, thiếu công nghệ và thiếu
sự phối hợp với địa phương, nhất là thiếu sự tham gia của người dân nên không phát
hiện, kiểm soát kịp thời chất thải và công nghệ thải... Vì vậy, để tăng cường năng
lực giám sát xả thải của các cơ sở sản xuất, các cơ quan liên quan cần xây dựng
chính sách để người dân tham gia. Bởi người dân chính là đối tượng chịu ảnh hưởng
trực tiếp và nhiều nhất trước tác hại từ môi trường. Bên cạnh đó, cần có mức xử
phạt cao và nghiêm khắc các tổ chức, cá nhân cố tình vi phạm...
Thứ ba, Hà Nội nên xây dựng văn bản hướng dẫn chi tiết nguồn kinh phí sự
nghiệp môi trường và kinh phí sự nghiệp kinh tế của Trung ương và địa phương. Cụ
thể ưu tiên cho các dự án đầu tư cho lưu vực sông Nhuệ - sông Đáy; Báo cáo Chính
phủ bố trí kinh phí triển khai thực hiện Đề án theo Quyết định số 57/2008/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án tổng thể Bảo vệ môi trường lưu vực
sông Nhuệ - sông Đáy đến năm 2020; Lập Quy hoạch mạng lưới quan trắc chất
lượng nước sông Nhuệ - sông Đáy; Phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tập
trung nghiên cứu việc xử lý ô nhiễm môi trường làng nghề một cách đồng bộ từ cơ
chế, chính sách và công nghệ xử lý, làm cơ sở cho các địa phương tiếp tục hoàn
thiện để triển khai thực hiện trong những năm tới.
Ngoài các biện pháp trên cần kết hợp cần tăng cường công tác tuyên truyền,
nâng cao nhận thức cộng đồng về bảo vệ môi trường nước: Đây là vấn đề cốt lõi để
định hướng phát triển và bảo vệ môi trường bền vững, do đó thường xuyên tổ chức
các chương trình truyền thông, chiến dịch, sự kiện thường niên về môi trường:
Ngày Môi trường thế giới, Chiến dịch “Làm cho thế giới sạch hơn”, “Ngày chủ nhật
không sử dụng túi nilông”,….; Tổ chức hội nghị, tập huấn, thực hiện chương trình
tuyên truyền và nâng cao nhận thức về bảo vệ nguồn nước; Phối hợp với các cơ
quan truyền thông (truyền hình, báo chí), Ban Tuyên giáo Thành ủy và các tổ chức
77
chính trị xã hội thực hiện các chương trình tuyên truyền về bảo vệ nguồn nước.
KẾT LUẬN
Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm nguồn nước đã
và đang ngày càng trở nên nghiêm trọng ở Việt Nam. Bất chấp những lời kêu gọi
bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước, tình trạng ô nhiễm càng lúc càng trở nên
trầm trọng. Tình trạng quy hoạch các khu đô thị chưa gắn với vấn đề xử lý chất thải,
nước thải nên ô nhiễm môi trường ở các thành phố lớn, các khu công nghiệp, khu
đô thị đang ở mức báo động. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam hiện nay về kiểm soát
ô nhiễm nguồn nước đang có nhiều bất cập nhất là trong việc đồng bộ hóa và cự
phối kết hợp giữa các bộ ngành với nhau. Thông qua việc phân tích một số điểm bất
cập cũng như đưa ra một số phương án hoàn thiện pháp luật có thể giúp cho việc
hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước . Đề tài nghiên cứu đã giúp
ta đạt được:
Thứ nhất, nhận thức rõ pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước là cơ sở
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể.
Thứ hai, hiểu được tình hình áp dụng pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước trong thực tiễn tại thành phố Hà Nội
Thứ ba, đưa ra được những bài học kinh nghiệp cho việc thực thi pháp luật
và kiễn nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước trong tương lai.
Trên cơ sở nghiên cứu, khóa luận đã đưa ra được một số lập luận xuất phát từ
thực tiễn về vai trò của pháp luật kiểm soát nguồn nước, tính cần thiết phải hoàn
thiện pháp luật về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước, phân tích việc áp dụng pháp luật
về kiểm soát ô nhiễm nguồn nước ở Việt Nam nói chung và liên hệ thực tiễn tại
Thành phố Hà Nội nói riêng để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
kiểm soát ô nhiễm nguồn nước.
Hi vọng đề tài này sẽ giúp ích phần nào cho việc kiểm soát ô nhiễm nguồn
nước nói chung và bảo vệ tài nguyên nước nói riêng đạt hiệu quả cao, góp phần bảo
vệ loại tài nguyên vô cùng quý giá – là yếu tố cơ bản cấu thành sự sống và sự phát
78
triển của muôn loài, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Bộ tài nguyên và môi trường (2014), Thông tư số 56/2014/TT-BTNMT, Quy
định điều kiện về năng lực của tổ chức, cá nhân thực hiện điều tra cơ bản tài
nguyên nước, tư vấn lập quy hoạch tài nguyên nước, lập đề án, báo cáo trong
hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nước, Hà Nội.
2. Bộ tài nguyên và môi trường (2015), Thông tư số 59/2015/TT-BTNMT Quy
định kỹ thuật khoan điều tra, đánh giá và thăm dò nước dưới đất, Hà Nội.
3. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 15/2017/TT-BTNMT Ban
hành định mức kinh tế - kỹ thuật Lập quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch tài
nguyên nước, Hà Nội.
4. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 16/2017/TT-BTNMT, Ban
hành Quy định kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh giá hiện
trạng khai thác, sử dụng tài nguyên nước, Hà Nội.
5. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 30/2017/TT-BTNMT Ban
hành định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh giá tài nguyên nước, Hà Nội.
6. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 36/2017/TT-BTNMT Ban
hành quy định kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật khảo sát, đo đạc tài
nguyên nước và đánh giá, dự báo tài nguyên nước bằng mô hình dòng chảy,
Hà Nội.
7. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 37/2017/TT-BTNMT Ban
hành quy định kỹ thuật và định mức kinh tế - kỹ thuật điều tra, đánh giá hiện
trạng xả nước thải vào nguồn nước, Hà Nội.
8. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 47/2017/TT-BTNMT Quy
định về giám sát khai thác, sử dụng tài nguyên nước, Hà Nội.
9. Bộ tài nguyên và môi trường (2017), Thông tư số 65/2017/TT-BTNMT về Quy
định kỹ thuật xác định dòng chảy tối thiểu trên sông, suối và xây dựng quy
trình vận hành liên hồ chứa, Hà Nội.
10. Chính phủ (2015), Chiến lược quốc gia về tài nguyên nước đến năm 2020.
11. Chính phủ (2013), Nghị định số 201/2013/NĐ-CP về Hướng dẫn thi hành một
79
số điều của Luật tài nguyên nước, Hà Nội.
12. Chính phủ (2015), Nghị định số 43/2015/NĐ-CP về Quy định lập, quản lý
hành lang bảo vệ nguồn nước, Hà Nội.
13. Đại học luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật môi trường, Nxb, Công an nhân
dân, Hà Nội, 189-218.
14. Đoàn Tiến Dũng (2017), Luận văn thạc sĩ đề tài “Xử lý vi phạm pháp luật bảo
vệ môi trường trên địa bàn Quảng Bình”, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội.
15. Hàn Ngọc Tài (2018), “Một số quy định về đánh giá sức chịu tải, khả năng tiếp
nhận nước thải của sông hồ”, Tạp chí Môi trường Cục môi trường, 3, 12-13.
16. Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam, Liên minh nước sạch (2018),
“Báo cáo nghiên cứu ô nhiễm nước và sự cần thiết phải xây dựng luật kiểm
soát ô nhiễm nước ở Việt Nam”, Hà Nội.
17. Nguyên Quốc Hùng (2017), Luận văn thạc sĩ luật học đề tài “ Pháp luật về
phòng chống và khắc phục ô nhiễm nguồn nước- Thực tiễn áp dụng tại tỉnh
Quảng Bình”, Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
18. PGS.Ts Hoàng Thế Liên (2017), “Pháp luật môi trường phục vụ phát triển bền
vững ở Việt Nam”, Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp, Hà Nội.
19. Quốc hội (2006), Luật Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Hà Nội.
20. Quốc hội (2009), Luật Quy hoạch đô thị, Hà Nội.
21. Quốc hội (2012), Luật Tài nguyên nước, Hà Nội.
22. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
23. Quốc hội (2014), Luật Bảo vệ môi trường, Hà Nội.
24. Quốc hội (2014), Luật Xây dựng, Hà Nội.
25. Quốc hội (2015), Bộ Luật Dân sự, Hà Nội.
26. Quốc hội (2015), Bộ Luật hình sự, Hà Nội.
27. Ts.Lê Kim Nguyệt (2014), “Trách nhiệm của cơ quan nhà nước và cộng đồng
dân cư trong kiểm soát ô nhiễm môi trường làng nghề Việt Nam”, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, 12(273).
28. Ts.Lê Kim Nguyệt (2018), “Pháp luật môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Khoa học xã hội Việt Nam, 3, 52-59.
29. ThS.Ngô Thu Uyên (2017), “Luật pháp và chế tài trong bảo vệ môi trường ở
80
Nhật Bản”, Tạp chí Tài nguyên và Môi trường Bộ Tài Nguyên và Môi trường,
23(277), 53-54.
30. Trần Thanh Xuân (2015), “Mạng lưới và tài nguyên nước sông Việt Nam:
Những biến đổi và thách thức”, Hà Nội, Nxb Khoa học kỹ thuật, 49-50.
31. Trung tâm nghiên cứu môi trường và cộng đồng (2015), “Ngăn ngừa và kiểm
soát ô nhiễm nước- Những kiến nghị chính sách cho luật Bảo vệ môi trường
sửa đổi và hướng tới xây dựng luật ngăn ngừa và kiểm soát ô nhiễm nước ở
Việt Nam”, Hà Nội.
Tài liệu tiếng Anh
32. Yao Qi, Xin Zhou (2009), “Water pollution control in China: Review of laws,
regulation and policies and their implementation”, Economic Analisis Team,
IGES.
Tài liệu trang web
33. Báo điện từ VnEpress (2016), “Tình trạng cá chết ở hồ Tây là nghiêm trọng
chưa từng có”, link: https://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/tinh-trang-ca-chet-o-
ho-tay-la-nghiem-trong-chua-tung-co-3477476.html (truy cập: 17/03/2018)
34. Bộ tư pháp, viện khoa học pháp lý, “Các nguồn nước thải chính gây ô nhiễm
nguồn nước và ô nhiễm môi trường” link:
http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/hoi-dap-phap-luat-bao-ve-moi-
truong.aspx?ItemID=213 (truy cập:03/02/2018)
35. Bộ Tư pháp, Viện khoa học pháp lý, “Pháp luật bảo vệ môi trường ở
Singapore”, link: http://khpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi-
moi-truong.aspx?ItemID=165 (truy cập: 25/02/2018)
36. Cổng thông tin điện tử, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội link:
http://hanoi.gov.vn/diachihanoi/-/hn/RtLibd2X8kEn/1001/124742/] (truy
cập:15/03/2018)
37. Hương Giang (2017), VOV Báo điện tử của đài tiếng nói Việt Nam, “Hà Lan
tiên phong trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu”, link: https://vov.vn/the-
gioi/ho-so/ha-lan-tien-phong-trong-cuoc-chien-chong-bien-doi-khi-hau-
643344.vov. (truy cập: 06/02/2018)
38. Nguyên Vũ (2018), “Hà Nội xử phạt 588 cơ sở vi phạm về môi trường trong
năm 2017”, Báo mới, link: https://baomoi.com/ha-noi-xu-phat-588-co-so-vi-
81
pham-ve-moi-truong-trong-nam-2017/c/25248140.epi (truy cập: 02/04/2018)
39. Tạp chí Các nước, “Dân số các nước trên thế giới năm 2017” link:
82
https://danso.org/viet-nam/ (truy cập: 03/02/2018)