Khóa luận tốt nghiệp đại học
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2 KHOA NGỮ VĂN ----------------------------
NGUYỄN THỊ HẠ
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN VANG BÓNG MỘT THỜI CỦA NGUYỄN TUÂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học Th.S NGUYỄN PHƯƠNG HÀ
HÀ NỘI - 2014
Khóa luận tốt nghiệp đại học
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện khóa luận, tôi đã nhận được sự quan tâm,
giúp đỡ tận tình của các thầy cô giáo tổ Văn học Việt Nam, khoa Ngữ văn
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến ThS. Nguyễn Phương Hà, người trực tiếp hướng dẫn tôi trong
suốt thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận.
Vì điều kiện thời gian cùng những hạn chế về kiến thức chuyên môn
nên khóa luận của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được
sự đóng góp của quý thầy cô và bạn bè.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hạ
Khóa luận tốt nghiệp đại học
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những vấn đề trong khóa luận là kết quả nghiên cứu
của bản thân tôi, dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Phương Hà. Nội dung
khóa luận mà tôi nghiên cứu không trùng lặp với bất cứ một công trình nghiên
cứu nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình.
Hà Nội, tháng 05 năm 2014
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Hạ
Khóa luận tốt nghiệp đại học
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................... 2
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu ........................................................... 4
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận...................................................................... 5
7. Cấu trúc của khóa luận ........................................................................ 6
NỘI DUNG
Chương 1. NGUYỄN TUÂN – CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP ................. 7
1.1. Cuộc đời .................................................................................................. 7
1.2. Sự nghiệp văn học ................................................................................... 8
1.3. Phong cách nghệ thuật ............................................................................ 10
1.4. Tập truyện ngắn Vang bóng một thời ...................................................... 12
Chương 2. CÁC BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT
TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN VANG BÓNG MỘT THỜI ..................... 15
2.1. Nhân vật .................................................................................................. 15
2.1.1. Nhân vật tài hoa, nghệ sĩ .............................................................. 15
2.1.2. Nhân vật kỳ ảo ............................................................................... 18
2.1.3. Nhân vật lãng tử, giang hồ, xê dịch .............................................. 21
2.2. Không gian nghệ thuật .......................................................................... 24
2.2.1. Không gian quá khứ ...................................................................... 24
2.2.2. Không gian kỳ ảo ...................................................................... 27
2.3. Thời gian nghệ thuật .............................................................................. 28
Khóa luận tốt nghiệp đại học
2.3.1. Thời gian quá khứ ......................................................................... 29
2.3.2. Thời gian kỳ ảo .............................................................................. 31
2.4. Ngôn ngữ nghệ thuật .............................................................................. 33
2.4.1. Kết hợp ngôn ngữ kể và ngôn ngữ tả ............................................ 34
2.4.2. Thủ pháp lạ hóa ngôn từ .............................................................. 38
2.4.3. Ngôn ngữ sử dụng tối đa lớp từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính,
trang trọng .............................................................................................. 41
2.5. Giọng điệu nghệ thuật ............................................................................ 43
2.5.1. Giọng khinh bạc, lạnh lùng ........................................................... 44
2.5.2. Giọng thán phục, luyến tiếc .......................................................... 46
2.5.3. Giọng ngậm ngùi, buồn tủi ........................................................... 48
KẾT LUẬN .................................................................................................... 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 53
Khóa luận tốt nghiệp đại học
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Nguyễn Tuân là một trong số chín tác gia văn học lớn nhất của Việt
Nam, đóng vai trò quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học. Các
sáng tác của ông thuộc nhiều thể loại: truyện ngắn, phóng sự, tiểu thuyết, tùy
bút... Ở lĩnh vực nào, nhà văn cũng thể hiện được phong cách riêng, độc đáo
của mình. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Tuân xứng đáng được Đảng và Nhà nước trao tặng phần thưởng cao
quý - giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt I năm 1996).
2. Nghiên cứu cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân, chúng
ta không thể không nói đến tập truyện ngắn Vang bóng một thời. Tác phẩm đã
gây được tiếng vang lớn trong sự nghiệp cầm bút của Nguyễn Tuân giai đoạn
trước Cách mạng tháng Tám. Năm tháng qua đi, tập truyện ngắn Vang bóng
một thời ngày càng có nhiều bạn đọc yêu thích và luôn nhận được sự quan tâm
đặc biệt từ các nhà nghiên cứu. Vì vậy, tìm hiểu các yếu tố: nhân vật, không
gian và thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu sẽ làm rõ các biểu hiện
nghệ thuật của tác phẩm. Qua đó, khẳng định những đóng góp của Nguyễn
Tuân đối với sự phát triển của văn học ở các phương diện nội dung và hình
thức nghệ thuật.
3. Nguyễn Tuân là một tác gia được đưa vào giảng dạy ở hầu hết các cấp
bậc: Đại học, Cao đẳng, THPT... Việc nghiên cứu các tác phẩm của Nguyễn
Tuân, đặc biệt là các sáng tác trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời, giúp
chúng ta khám phá những đặc sắc của một phong cách nghệ thuật độc đáo bậc
nhất này. Đồng thời góp một phần thiết thực vào công việc giảng dạy tác phẩm
của Nguyễn Tuân trong nhà trường. Do đó, chúng tôi chọn đề tài: Thế giới
1 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
làm đối tượng nghiên cứu.
2. Lịch sử vấn đề
Hơn nửa thế kỉ cầm bút, Nguyễn Tuân đã để lại những dấu ấn sâu đậm
trong lòng bao thế hệ bạn đọc. Với lối viết độc đáo, tài hoa, các sáng tác của
ông giai đoạn trước và sau Cách mạng đều được giới nghiên cứu quan tâm.
Vang bóng một thời là tập truyện ngắn đầu tay đã mang lại vinh quang trong
sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Tuân. Từ khi xuất bản lần đầu tiên năm 1940,
Vang bóng một thời đã nhiều lần tái bản. Đến nay, có không ít các bài báo,
đánh giá, công trình nghiên cứu về tập truyện ngắn này vẫn không ngừng
được công bố.
Người đầu tiên có công trong việc phát hiện ra tài năng độc đáo của
Nguyễn Tuân ở các sáng tác trong Vang bóng một thời là Thạch Lam. Trong
một bài viết ngắn Đọc Vang bóng một thời đăng trên báo Ngày Nay (số 212,
ngày 15/06/1940), Thạch Lam đã có cái nhìn tinh tế và sâu sắc về lối hành
văn của Nguyễn Tuân. Ông đề cao Nguyễn Tuân là “một nhà văn có tài năng
đặc biệt, một nghệ sĩ có lương tâm” bởi niềm đam mê sáng tạo, yêu cái đẹp và
khả năng “làm sống lại cả một thời xưa cũ” [12, 229]. Qua bài viết, Thạch
Lam đã chỉ ra những nét riêng trong Vang bóng một thời. Tuy nhiên, những
nhận xét ban đầu của Thạch Lam chỉ mang tính khái quát về mặt nội dung,
chưa đi sâu tìm hiểu về những phương diện nghệ thuật, khiến độc giả chưa
thật sự thỏa đáng.
Sau Thạch Lam, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan cũng đánh giá cao tập
truyện Vang bóng một thời là “một văn phẩm gần tới sự toàn thiện, toàn mỹ”.
Ông cho rằng Nguyễn Tuân là nhà văn “đứng hẳn ra một phái riêng” bởi “lối
hành văn đặc biệt và những ý kiến cùng tư tưởng phô diễn bằng một giọng tài
hoa, sâu cay và khinh bạc, đầy nghệ thuật như một bức phác họa và bao giờ
2 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
cũng cho người ta thấy một trạng thái tâm hồn” [12, 37]. Tác giả Vũ Ngọc
Phan đã xem Vang bóng một thời như một “bức họa cổ” để từ đó chỉ ra không
gian và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm.
Trong số những nhà nghiên cứu tâm huyết về Nguyễn Tuân, phải kể đến
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh. Ông không phải là người đầu tiên bàn về Nguyễn
Tuân nhưng lại nghiên cứu về Nguyễn Tuân một cách toàn diện, từ cuộc đời,
sự nghiệp, đến quan điểm nghệ thuật. Bàn về phong cách Nguyễn Tuân,
Nguyễn Đăng Mạnh khẳng định: “hạt nhân của phong cách Nguyễn Tuân có
thể gói gọn trong một chữ ngông”. Đề cập đến quan điểm sáng tác của Nguyễn
Tuân, ông cho rằng: “Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến một nhà
văn có quan điểm duy mỹ, trọng cái đẹp hình thức, đặt nghệ thuật lên trên hết
mọi thứ thiện ác ở đời” [12, 91].
Giáo sư Phan Cự Đệ trong bài Đọc lại Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân, đã chỉ ra những kiểu nhân vật có ở tập Vang bóng một thời. Đó là các
nhà Nho cuối mùa tìm về những thú vui thanh cao và nhân vật “lãng tử giang
hồ, xê dịch sống một cách nghệ sỹ trước cuộc đời”. Ông cho rằng: “Nguyễn
Tuân đã làm cái việc của một người đi khơi lại đống tro tàn của dĩ vãng, tìm
lại những cái đẹp của ngày qua đã một thời vang bóng” [12, 233]. Hay như
nhà nghiên cứu Trương Chính khi viết về Vang bóng một thời cũng khẳng
định: “Về văn phong thì phải nói Nguyễn Tuân trong tác phẩm đầu tay này đã
đạt đến đỉnh cao mà về sau ông không đạt tới nữa” [1, 482].
Điểm lại lịch sử nghiên cứu về Nguyễn Tuân, tác giả Đỗ Đức Hiểu với
bài viết Chất thơ trong Vang bóng một thời đã khai thác tính nhạc, nhịp điệu
trong ngôn ngữ và giọng điệu của tác phẩm. Mai Quốc Liên với bài Nguyễn
Tuân - bậc thầy về nghệ thuật ngôn từ Việt Nam và Hoài Anh trong bài
Nguyễn Tuân là nhà nghệ sĩ ngôn từ đã đưa cái đẹp thăng hoa đã chỉ ra
được những nét đẹp mang giá trị truyền thống trong Vang bóng một thời.
3 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Ngoài ra, đi vào nghiên cứu một tác phẩm cụ thể, Nguyễn Ngọc Hóa còn có
bài tìm hiểu về Cái thật và cái tài hoa trong Chữ người tử tù. Ở đó, người
viết phát hiện ra bút pháp xây dựng nhân vật của Nguyễn Tuân đó là “những
con người khổng lồ” mang “cốt cách phi phàm”. Tuy nhiên, hầu hết những
bài đánh giá, nhận định trên còn mang tính khái quát.
Nghiên cứu về tác gia Nguyễn Tuân, còn phải đề cập tới một số công
trình nghiên cứu, Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ, khóa luận tốt nghiệp trong
cả nước như: Vẻ đẹp một thời vang bóng trong sáng tác của Nguyễn Tuân
(Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thủy, Đại học Sư phạm Hà Nội). Luận án đã
có đóng góp trong việc tìm hiểu về những nét đẹp truyền thống và giá trị dân
tộc sâu sắc trong văn chương Nguyễn Tuân; Vai nghĩa không gian, thời gian
trong Vang bóng một thời của nguyễn Tuân (Luận án tiến sĩ của Ngô Thị
Hải Yến, Đại học Sư phạm Hà Nội) nghiên cứu về các vai nghĩa của không
gian và thời gian trong tập Vang bóng một thời...
Như vậy, điểm lại lịch sử nghiên cứu vấn đề về tác gia Nguyễn Tuân,
đã có nhiều công trình nghiên cứu tập Vang bóng một thời về các phương
diện như: nhân vật, ngôn ngữ, không gian, thời gian... Tuy nhiên, những bài
viết này chủ yếu là những nhận định lẻ tẻ, đánh giá mang tính chất khái quát,
gợi mở. Trên cơ sở kế thừa thành tựu của những người đi trước, chúng tôi xin
đi sâu nghiên cứu đề tài Thế giới nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng
một thời của Nguyễn Tuân để góp phần hiểu thêm giá trị văn chương của
Nguyễn Tuân, khám phá những đặc sắc của phong cách nghệ thuật độc đáo này.
3. Phạm vi, đối tượng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, phạm vi mà chúng tôi
khảo sát là mười hai truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời của Nguyễn
Tuân, Nhà xuất bản Văn học, 2011.
4 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Như tên gọi của khóa luận, chúng tôi tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong
tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân. Trong đó, tập trung
vào một số phương diện nghệ thuật cơ bản về: nhân vật, không gian nghệ
thuật, thời gian nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu.
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, chúng tôi hướng tới những mục đích sau:
- Tìm hiểu về các biểu hiện nghệ thuật trong tập Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân ở các phương diện: Nhân vật, không gian, thời gian, ngôn
ngữ và giọng điệu.
- Khẳng định vai trò và vị trí tác gia Nguyễn Tuân trong tiến trình hiện
đại hóa nền văn học.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận đặt ra và giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Làm rõ thế giới nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân ở các phương diện: Nhân vật, không gian, thời gian, ngôn
ngữ và giọng điệu.
- Thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân và khẳng
định những đóng góp của ông trong quá trình hiện đại hóa nền văn học.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thống kê, phân loại
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
6. Đóng góp của khóa luận
- Làm rõ các biểu hiện nghệ thuật trong tập Vang bóng một thời ở các
phương diện: nhân vật, không gian, thời gian, ngôn ngữ và giọng điệu. Qua
5 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
đó, khẳng định sự độc đáo trong sáng tạo nghệ thuật của phong cách Nguyễn
Tuân.
- Góp phần thiết thực vào việc giảng dạy và học tập các tác phẩm của
Nguyễn Tuân trong nhà trường.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Nội dung chính của khóa luận được triển
khai thành 2 chương:
Chương 1: Nguyễn Tuân - Cuộc đời và sự nghiệp văn học.
Chương 2: Các biểu hiện nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng
một thời.
6 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
NỘI DUNG
Chương 1
NGUYỄN TUÂN – CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
1.1. Cuộc đời
Nguyễn Tuân sinh năm 1910 tại phố Hàng Bạc nhưng quê ở làng Nhân
Mục - Thượng Đình (nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Hà
Nội). Ông sinh ra trong một gia đình trí thức, giữa lúc Hán học đã tàn lụi, thất
thế, nhường chỗ cho Tây học. Là một tri thức yêu nước, giàu tinh thần dân
tộc, Nguyễn Tuân đã phải trải qua những năm tháng khổ sở, có lúc bế tắc,
tuyệt vọng. Bối cảnh xã hội, không khí gia đình đặc biệt ấy đã in sâu đậm
trong cá tính, tư tưởng cũng như phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Từ nhỏ, Nguyễn Tuân đã say mê và thuộc rất nhiều thơ của Đoàn Thị
Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương, Nguyễn Khuyến... Ông thích
những thú vui, món ăn truyền thống, yêu sự cầu kì kiểu cách, gắn liền với
những giá trị cổ truyền của dân tộc.
Thời thanh thiếu niên ông cùng gia đình đi và sống ở nhiều nơi: Khánh
Hòa, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh, Thanh Hóa... “Cuộc đời
Nguyễn Tuân hầu như nằm trong những chuyến đi” (Mai Quốc Liên). Năm
1929, ông bị đuổi học vì tham gia một cuộc bãi khóa phản đối chống giáo
viên người Pháp nói xấu người Việt. Từ đây, Nguyễn Tuân bắt đầu hành trình
của cuộc đời với nhiều khúc khuỷu, đầy chông gai.
Sống trong cảnh nô lệ, thuộc địa, cũng giống như bao thanh niên trí
thức khác, Nguyễn Tuân luôn tìm cách thoát khỏi cuộc sống bế tắc ấy. Năm
1930, ông và một nhóm bạn có cùng chí hướng vượt biên sang Lào, rồi bị bắt
tại Băng Cốc (Thái Lan) và đưa vào trại giam Thanh Hóa. Thời gian này,
7 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Nguyễn Tuân rơi vào tình trạng khủng hoảng tinh thần sâu sắc, sa vào con
đường ăn chơi trụy lạc.
Ở tù ra, Nguyễn Tuân làm thư kí cho một nhà máy đèn và bắt đầu sự
nghiệp sáng tác. Ông thể hiện tài năng của mình trên các báo Trung Bắc tân
văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tiểu thuyết thứ Bảy... Ngoài văn học,
Nguyễn Tuân còn say mê diễn kịch, đóng phim và trở thành một trong những
diễn viên điện ảnh đầu tiên ở nước ta.
Cách mạng tháng Tám thành công đã làm thay đổi cuộc đời và tư tưởng
Nguyễn Tuân. Ông hòa mình vào tập thể và tự nguyện đứng vào hàng ngũ
nhà văn phục vụ cách mạng và trở thành một cây bút tiêu biểu của nền văn
học hiện đại.
Từ năm 1948 đến năm 1956, Nguyễn Tuân giữ chức Tổng thư kí Hội
Văn nghệ toàn quốc. Năm 1950 đến 1953, ông gia nhập Đảng tại chi bộ Hội
Văn nghệ Việt Nam và cống hiến không ngừng nghỉ. Những tháng ngày ở Việt
Bắc gian khổ, Nguyễn Tuân vừa sáng tác, vừa chiến đấu. Tại đây, ông đã thai
nghén để sau đó cho ra đời những tác phẩm phản ánh khá chân thực không
khí chiến đấu sôi nổi của quân và dân ta trong những ngày kháng chiến
chống Pháp.
Nguyễn Tuân mất vào năm 1987 tại Hà Nội, để lại sự nghiệp văn học
phong phú với những trang viết độc đáo và tài hoa. Với những cống hiến lớn
lao cho nền văn học hiện đại Việt Nam, ông được Nhà nước truy tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I năm 1996).
1.2. Sự nghiệp văn học
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Tuân chia thành hai giai đoạn: trước
Cách mạng tháng Tám và sau Cách mạng tháng Tám.
a) Trước Cách mạng tháng Tám.
8 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Nguyễn Tuân không phải là nhà văn thành công ngay từ những tác
phẩm đầu tay. Ông bắt đầu cầm bút từ đầu những năm 30 và đã thử bút qua
nhiều thể loại: thơ, bút ký, truyện ngắn hiện thực trào phúng. Từ năm 1932
đến năm 1937 có thể coi là chặng thử bút, dò đường của Nguyễn Tuân. Năm
1937, ông cho ra mắt tác phẩm truyện ngắn Một vụ bắt rượu lậu. Đến năm
1939, độc giả thực sự biết đến tên tuổi Nguyễn Tuân qua tập truyện ngắn
Vang bóng một thời. Đây là tác phẩm đánh dấu mốc quan trọng cho sự
nghiệp sáng tác của nhà văn.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân thành công ở một số thể loại:
+ Truyện ngắn: Một vụ bắt rượu lậu (1937), Vang bóng một thời
(1940), Xác ngọc lam (1943).
+ Tùy bút: Một chuyến đi (1938), Chiếc lư đồng mắt cua (1941), Tùy
bút I (1941), Tùy bút II (1943), Tóc chị Hoài (1943).
+ Phóng sự: Ngọn đèn dầu lạc (1939), Tàn đèn dầu lạc (1941).
+ Tiểu thuyết: Thiếu quê hương (1940).
Sống trong chế độ thuộc địa ngột ngạt, bức bối, cũng như bao văn nghệ
sĩ khác, Nguyễn Tuân luôn cảm thấy bất hòa sâu sắc với xã hội đương thời.
Ông đã tìm lối thoát cho mình vào những chuyến đi với chủ nghĩa Xê dịch,
tìm về vẻ đẹp của một thời vang bóng và đời sống trụy lạc. Đó cũng là ba nội
dung chính trong đề tài sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Tuân.
b) Sau Cách mạng tháng Tám.
Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới đối với
dân tộc ta, đồng thời cởi trói tư tưởng cho giới văn nghệ sĩ. Nguyễn Tuân
không còn bất hòa với xã hội mà đã trở về sống hòa hợp giữa cuộc đời, bắt
đầu từ đây tạo lên những bản hòa tấu vang dội cho nền văn học Việt Nam.
9 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Trong không khí cả nước ra trận, Nguyễn Tuân cũng hăng hái tham gia
kháng chiến, đem ngòi bút phục vụ cho chiến đấu. Ông đã cho ra đời một
khối lượng tác phẩm phong phú thuộc nhiều thể loại, đặc biệt là tùy bút.
+ Truyện ngắn: Chùa Ðàn (1946), Thắng càn(1963), Chú Giao làng
Seo (1953).
+ Tùy bút, bút ký: Ðường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Bút ký
đi thăm Trung Hoa (1955), Tùy bút kháng chiến và hòa bình (Tập I/1955,
Tập II/1956), Sông Ðà (1960), Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi (1972), Cảnh sắc và
hương vị đất nước (1988).
Có thể thấy, cả hai giai đoạn trước và sau Cách mạng, những sáng tác
của Nguyễn Tuân đều thể hiện một phong cách văn chương độc đáo, tài hoa,
uyên bác. Nếu như trước Cách mạng, người ta thường nhắc nhiều đến tập
Vang bóng một thời thì sau Cách mạng, Nguyễn Tuân đã tiếp tục phát huy sở
trường và đặc biệt thành công ở thể loại tùy bút và được mệnh danh là “ông
vua tùy bút”. Với những đóng góp to lớn ấy, Nguyễn Tuân xứng đáng là một
trong số các tác gia tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Phong cách nghệ thuật
Nguyễn Tuân có một phong cách nghệ thuật rất độc đáo và sâu sắc.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ðăng Mạnh khẳng định: “Hạt nhân của phong
cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông
vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những
Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà... và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh
nhà văn; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi
loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con
người cao đẳng, thuyết hiện sinh...”.
Ngông là biểu hiện của sự chống trả mọi thứ nền nếp, phép tắc, định
kiến của xã hội bằng cách làm ngược lại với thái độ ngạo đời. Thể hiện phong
10 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
cách này, mỗi trang viết của Nguyễn Tuân đều muốn chứng tỏ tài hoa uyên
bác. Và mọi sự vật được miêu tả, quan sát chủ yếu ở phương diện văn hóa,
thẩm mỹ.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nguyễn Tuân đi tìm những cái đẹp của
thời xa xưa còn vương sót lại và viết thành tập truyện ngắn Vang bóng một
thời. Ngoài ra, ông còn học theo chủ nghĩa xê dịch, chủ nghĩa duy mỹ, chủ
nghĩa hưởng lạc, chủ nghĩa ẩm thực... Vì thế ông là nhà văn của những tính
cách phi thường, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong
cảnh tuyệt mĩ, của gió, bão, núi cao rừng thiêng, thác ghềnh dữ dội.
Chủ nghĩa độc đáo trong đời sống cũng như trong nghệ thuật mà biểu
hiện là thú chơi ngông của Nguyễn Tuân không chỉ đơn thuần là phản ứng
tâm lý của một cá nhân trước tấn kịch xã hội. Nó còn bao hàm cái khí khái
của người trí thức yêu nước không cam tâm chấp nhận chế độ thực dân, tự đặt
những nghịch thuyết để tách mình ra và vượt lên trên cái xã hội của những kẻ
xu thời, thỏa mãn với thân phận nô lệ.
Sau Cách mạng tháng Tám, phong cách Nguyễn Tuân có những đổi
thay quan trọng. Vẫn tiếp cận thế giới, con người thiên về phương diện văn
hóa nghệ thuật, nghệ sĩ, nhưng giờ đây ông còn tìm thấy chất tài hoa nghệ sỹ
ở cả nhân dân đại chúng. Nguyễn Tuân không còn đối lập giữa quá khứ, hiện
tại và tương lai, lối văn vừa đĩnh đạc cổ kính, vừa trẻ trung hiện đại. Đặc điểm
dễ nhận thấy trong phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân là mới lạ, không
giống ai. Mọi thứ Nguyễn Tuân bày biện đều có hương vị đặc sản, từ những
nguồn “chưa ai khơi” nên thường tạo được cảm giác rất mạnh, ấn tượng rất sâu.
Hệ thống nhân vật của Nguyễn Tuân bao giờ cũng mang dáng vẻ riêng,
độc đáo và rất đẹp - vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở cả hai giai đoạn
sáng tác, nhà văn luôn trân trọng những “đấng tài hoa” và say mê miêu tả,
11 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
chiêm ngưỡng họ. Mỗi nhân vật thường sành hơn người ở một thú chơi hoặc
một ngón nghề nào đó, đầy tính nghệ thuật.
Nguyễn Tuân cũng là một con người yêu thiên nhiên tha thiết. Ông có
nhiều phát hiện hết sức tinh tế và độc đáo về núi sông cây cỏ trên đất nước
mình. Phong cách tự do phóng túng và ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân đã
khiến Nguyễn Tuân tìm đến thể tùy bút như một điều tất yếu. Dường như ông
chỉ có thể gắn bó với lối văn nào thật sự tự do và chấp nhận những cảm xúc
đậm màu sắc chủ quan. Thể tùy bút trong văn chương Nguyễn Tuân đã đạt
đến đỉnh cao của khả năng ghi nhận và thể hiện đời sống.
Xét đến cùng, phong cách riêng không trộn lẫn, không ai bắt chước
được của tùy bút Nguyễn Tuân chính ở sự linh hoạt, phong phú đến thần tình
của giọng điệu văn chương. Tóm lại, trong nền văn học Việt Nam hiện đại,
Nguyễn Tuân thật xứng đáng ở tầm cỡ nhà văn lớn mà khi nói đến ông, người
ta nghĩ ngay đến một phong cách độc đáo, tài hoa, uyên bác.
1.4. Tập truyện ngắn Vang bóng một thời
Vang bóng một thời là tập truyện ngắn được Nguyễn Tuân sáng tác
năm 1939, đăng trên tạp chí Tao Đàn và Tiểu thuyết thứ bảy do nhà in Tân
Dân Hà Nội xuất bản lần đầu tiên năm 1940. Tác phẩm đã gây được tiếng
vang lớn, khiến cho giới văn nghệ sĩ và người đọc hết sức tán thưởng và khen
ngợi: “Người ta lấy làm sung sướng khi thấy một nhà văn kính trọng và yêu
mến cái đẹp, coi công việc sáng tạo là công việc quý báu và thiêng liêng”
(Thạch Lam). Với tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân trở thành nhà văn
nổi tiếng, được trao tặng giải thưởng Gia Long, kiêu hãnh đứng ngang hàng
với Hồn bướm mơ Tiên của Khái Hưng và Đôi Bạn của Nhất Linh.
Trong sáng tác của Nguyễn Tuân, Vang bóng một thời là tập truyện
được đánh giá cao nhất về tư tưởng và nghệ thuật. Toàn bộ tác phẩm gồm
mười hai truyện ngắn, sáng tác theo xu hướng thoát li hoài cổ. Đây là lần đầu
12 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
tiên trong văn học, quá khứ và xã hội phong kiến Việt Nam được xem xét và
ghi chép từ cái nhìn hiện đại. Ở đó, Nguyễn Tuân không viết về trật tự xã hội,
về tư tưởng đạo đức cũ mà thiên về mô tả, ngợi ca những vẻ đẹp riêng về thời
quá khứ. Những phong tục đẹp, thú chơi tao nhã, lành mạnh hiện lên một cách
chân thực.
Với Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đóng vai trò “là người khơi
đống tro tàn của dĩ vãng để bày lại trước mắt ta những cái ta đã biết qua hay
chưa biết rõ” (Vũ Ngọc Phan). Trong tác phẩm, ngoài hai truyện Bữa rượu
máu và Báo oán thì mười truyện còn lại có thể coi như “mười nén tâm
hương” nguyện cầu cho cái đẹp cổ truyền của người Việt Nam đó là: uống
đẹp (Những chiếc ấm đất, Chén trà trong sương sớm), nhắm đẹp (Hương
cuội), chơi đẹp (Thả thơ, Đánh thơ, Một cảnh thu muộn), ứng xử đẹp (Ngôi
mả cũ), hoa tay đẹp (Trên đỉnh non Tản), tài nghệ đẹp (Ném bút chì) và
nhân cách đẹp (Chữ người tử tù). Những vẻ đẹp xưa đều được hiện lên trong
niềm xót xa nuối tiếc khôn nguôi của tác giả. Trong khi những nhà văn khác
sao nhãng quá khứ, thì bằng tình yêu quê hương đất nước tha thiết, thái độ
trân trọng những giá trị văn hóa của dân tộc và lòng yêu mến, tiếc thương dĩ
vãng, Nguyễn Tuân đã “vớt lại vẻ đẹp đã qua và làm sống lại cả một thời xa
xưa” qua những trang văn để đời mà “về sau ông không bao giờ đạt tới nữa”.
Đặc biệt, nhà văn đã tái hiện lại những con người thuộc lớp nhà Nho có
nhân cách tài hoa nhưng bất đắc chí như: ông Phủ, ông Nghè, cụ Kép, cụ
Thượng, cụ Ấm... Họ không chấp nhận cuộc sống nô lệ thực tại nên đã tìm về
những thú chơi thanh cao: đánh cờ, trồng hoa, thả thơ, đánh thơ, uống trà, làm
đèn kéo quân... Họ chơi ngông với đời bằng lối sống ẩn mình, ngoài vòng
danh lợi, chỉ biết vui thú, hưởng lạc một cách tao nhã, đài các, cầu kì. Đó là
cụ Ấm (Chén trà trong sương sớm) thích uống trà với thứ nước đọng trong lá
sen buổi sớm mai. Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong thú chơi thanh
13 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
đạm ấy, cách pha trà của cụ Ấm đã trở thành lễ nghi. Cụ Kép (Hương cuội) đã
để tất cả “quãng đời xế chiều” của mình vào việc chăm sóc một vườn hoa
quý... Cách chơi hoa, uống trà đều toát lên sự cầu kì, lịch lãm, tài hoa đầy
nghi lễ và rất đỗi đời thường. Tất cả những cái đẹp ấy được Nguyễn Tuân
nâng niu, trân trọng, miêu tả một cách cầu kì và nâng lên thành nghệ thuật.
Do nhu cầu khẳng định cái tôi tài hoa, uyên bác khiến ngòi bút Nguyễn
Tuân đôi chỗ mang tính chất cực đoan, chỉ quan tâm đến cái đẹp thuần túy
mang tính, hình thức. Vì thế, người đọc có cảm giác vừa thú vị vừa rờn rợn về
cái đẹp của nghệ thuật “chém treo ngành” của Bát Lê (Bữa rượu máu), cái
đẹp của nghệ thuật “ném bút chì” (Ném bút chì). Tất nhiên, ẩn trong cái đẹp
lạnh lùng và tàn bạo đó, người đọc vẫn nhận thấy chút hơi hướng của hiện
thực và ý nghĩa tích cực của việc phản ánh hình tượng đó. Thông qua tác
phẩm, nhà văn hướng về quá khứ và bày tỏ thái độ bất hòa sâu sắc với xã hội
đương thời và khẳng định vẻ đẹp của một thời huy hoàng trong dĩ vãng.
Như vậy, tập truyện ngắn Vang bóng một thời là nỗi niềm hoài cổ
trong sâu thẳm tâm hồn Nguyễn Tuân trước cái hay, cái đẹp đã chết chỉ còn
lại những dư âm. Bằng một cách thầm lặng, Nguyễn Tuân đã làm sống lại cả
một giai đoạn nhiều biến động trong lịch sử để công chúng đọc và tự suy
ngẫm về quá khứ của cha ông.
Những đóng góp to lớn của Nguyễn Tuân về thế giới nghệ thuật trong
tập truyện ngắn Vang bóng một thời đã mang lại vinh quang đầu tiên trong sự
nghiệp sáng tác trước Cách mạng của Nguyễn Tuân. Đặc biệt, với sự độc đáo
về quan niệm, đề tài, cảm hứng sáng tác và thái độ thiết tha trân trọng cái đẹp
quá khứ, Vang bóng một thời đã trở thành tác phẩm bất tử với thời gian.
14 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Chương 2
CÁC BIỂU HIỆN NGHỆ THUẬT TRONG TẬP TRUYỆN NGẮN
VANG BÓNG MỘT THỜI
2.1. Nhân vật
Tác phẩm văn học bao giờ cũng phản ánh đời sống bằng hình
tượng và được diễn đạt bằng ngôn từ, nhằm thể hiện tư tưởng tình
cảm của con người. Trong thế giới hình tượng đó, nhân vật văn học giữ
vai trò trung tâm trong tác phẩm.
Theo giáo trình Lý luận văn học (tập 2), tác giả Trần Đình Sử cho
rằng: “Nhân vật văn học là con người được thể hiện bằng phương tiện văn
học. Nội dung của nhân vật văn học nằm trong sự thể hiện của nó. Chỉ đến
khi tác phẩm kết thúc, người đọc mới có ý niệm đầy đủ về nhân vật” [16, 118].
Như vậy, nhân vật trong tác phẩm văn học được hiểu là những con người hay
những sự vật mang cốt cách của con người được xây dựng bằng các phương
tiện của nghệ thuật ngôn từ. Nhân vật cũng chính là phương tiện cơ bản để
nhà văn khái quát được hiện thực cuộc sống.
Nguyễn Tuân là một nhà văn lớn có phong cách độc đáo và tài hoa thì
thế giới nhân vật được đề cập đến vô cùng sinh động và hấp dẫn. Ở đây,
chúng tôi chỉ xin được nói tới một số nhân vật tiêu biểu trong tập truyện ngắn
Vang bóng một thời. Đó là ba kiểu nhân vật: Nhân vật tài hoa, nghệ sĩ; nhân
vật kì ảo và nhân vật lãng tử giang hồ, xê dịch. Qua những kiểu nhân vật này
chúng ta sẽ thấy được quan điểm thẩm mỹ cũng như tư tưởng của nhà văn
Nguyễn Tuân và thời đại.
2.1.1. Nhân vật tài hoa, nghệ sĩ
Nhân vật tài hoa, nghệ sĩ là những nhân vật có tài, hơn người hoặc
mang trong mình một chất tài tử hơn đời. Đây là kiểu nhân vật xuyên suốt cả
15 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
hai giai đoạn sáng tác trước và sau Cách mạng. Nguyễn Tuân bước vào nghề
văn như để minh chứng cho hai câu thơ của Nguyễn Công Trứ:
Trời đất cho ta một cái tài
Giắt lưng dành để tháng ngày chơi.
Tiếp nối khí chất nhà Nho tài tử của những bậc tiền bối, Nguyễn Tuân
đã tôi luyện cho mình trở thành một người tài hoa, tài tử,luôn tôn thờ cái đẹp.
Nói đến Nguyễn Tuân, người ta thường nghĩ đến một nhà văn của quan điểm
duy mỹ “suốt đời đi tìm cái đẹp và cái thật”. Quan điểm ấy thể hiện ngay ở
những nhân vật ưa thích nhất của ông trong Vang bóng một thời. Đó là
“những con người tài hoa tài tử, dù tĩnh tại hay xê dịch, đối với cuộc sống,
đối với quê hương đều chỉ là những kẻ sống tạm ở nhờ, những con người sinh
ra dường như chỉ để ngắm đời, ngoạn cảnh cho cảm giác được no nê thanh
sắc và để trổ tài khoe chữ chứ không chịu gánh lấy một trách nhiệm nào”
(Nguyễn Đăng Mạnh).
Rõ ràng, thế giới nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Tuân dù là nam
hay nữ, già hay trẻ hoặc làm bất cứ nghề gì cũng là con người tài hoa, tài tử.
Viết về những con người này, Nguyễn Tuân luôn tràn đầy hứng thú và sự nhiệt
thành. Đó là những ông Nghè, ông Cử, Huấn Cao, cụ Kép, cụ Hồ Viễn, Phó Sứ
- Mộng Liên... đều là những con người tài hoa, tài tử.
Là một nhà văn tài hoa, Nguyễn Tuân tìm thấy sự đồng cảm ở những
con người tài hoa, tài tử. Trong tập Vang bóng một thời, cụ Sáu trong truyện
Những chiếc ấm đất có cách uống trà đặc biệt ở chỗ là chỉ uống trà pha bằng
nước giếng trên chùa Đồi Mai và dám “đánh đổi sản nghiệp lấy một chén trà
ngon”. Bởi vậy mà cụ Sáu không bước chân đi đâu xa được, từng thề rằng:
“giếng chùa mà cạn thì sẽ lập tức cho không người nào muốn xin bộ đồ trà
quý báu”. Nhân vật cụ Kép làng Mọc trong truyện Hương cuội cũng là con
người tài hoa, tài tử. Cụ am hiểu sâu sắc về loài hoa lan và có thú uống rượu,
16 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
thưởng hoa một cách cầu kỳ, nghệ sỹ, hơn đời: uống rượu với đá cuội tẩm kẹo
mạch nha trong mùi hoa lan thoang thoảng khắp vườn. Sở thích đó khiến cụ
Kép sẵn sàng đem quãng đời xế chiều của một nhà Nho để “phụng sự lũ hoa
thơm cỏ quý và rượu thạch lan hương”. Có thể thấy, những nhân vật tài hoa,
nghệ sỹ ấy chính là hiện thân của vẻ đẹp xưa mà Nguyễn Tuân say mê kiếm
tìm, chiêm ngưỡng, ngợi ca bằng tất cả tình yêu, niềm kính phục.
Mặt khác, mỗi nhân vật tài hoa, nghệ sĩ trong truyện ngắn của Nguyễn
Tuân đều mang những dáng vẻ riêng. Cụ Hồ Viễn trong truyện Ngôi mả cũ là
một viên tướng Cờ Đen oai phong lẫm liệt, từng tung hoành một thuở:
“Người ta nói chuyện lại rằng cụ Hồ hồi còn làm tướng quân Cờ Đen, mỗi lúc
cụ trương lá cờ đầu lúc xuất quân, trông oai phong lẫm liệt. Bên thắt lưng
điều, cụ giắt hai khẩu súng. Phía bên trái là một khẩu đoản mã, và phía bên
phải là một khẩu súng thập bát hưởng bắn một lúc những mười tám phát liền”
[18, 73]. Đây là nhân vật mang trong mình cái “cốt tài tử” đã thấm nhuần vào da
thịt, không dễ thay đổi. Khi thất thế, đi làm thầy địa lý nhưng cụ Hồ Viễn vẫn giữ
được những thói quen kỳ dị: “ngày hai bữa rượu và mỗi phiên chợ lại một bữa
thuốc phiện” và “móng tay út lá lan của cụ uốn hai vòng như râu rồng” luôn
phải rửa bằng chanh.
Khảo sát các truyện trong tập Vang bóng một thời, ta thấy ngòi bút của
Nguyễn Tuân đã dồn hết vào nhân vật Huấn Cao. Đó là một “đấng tài hoa”
văn võ song toàn “có tài viết chữ rất nhanh và rất đẹp”. Nét chữ đẹp và
vuông ấy thể hiện hoài bão, nhân cách phi thường. Bước vào ngục tù tăm tối,
Huấn Cao vẫn hiên ngang, khinh bạc, bất chấp mọi thế lực cường quyền:
“Huấn Cao lãnh đạm, không thèm chấp, chỉ chúc mũi gông nặng xuống thềm
đá tảng, khom mình chúc mạnh đầu thành gông xuống đấy đánh thuỳnh một
cái. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau” [18,
107]. Là một kẻ tử tù nhưng Huấn Cao luôn mang thiên lương, nhân cách để
17 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
cảm hóa con người, khiến cho viên quản ngục phải cảm phục, chắp tay “xin
bái lĩnh”. Có thể thấy, Nguyễn Tuân luôn trân trọng và say mê chiêm ngưỡng
những vẻ đẹp của tài hoa, của nhân cách. Ở đây, vẻ đẹp của con người tài hoa,
nghệ sĩ đã được nâng lên đến mức độ “thiên tính” và chủ nghĩa duy mỹ được
trân trọng một cách tuyệt đối.
Vốn là người mê hát, Nguyễn Tuân đã gửi hồn mình vào những điệu hò
mái đẩy trên sông Hương. Do đó, ông thấu hiểu những con người kiếm sống
bằng nhan sắc và bằng tiếng hát lời ca. Đó là những nhân vật: “Nơi quê hương
vào những ngày u hoài âm ỉ, gió Đông Bắc còn gửi mãi về cái mùi diêm sinh
đem từ ngoài bờ cõi vào... mỗi ngày vẫn có ba người đàn bà ca hát từ lúc mặt
trời tắt cho đến lúc mặt trời mọc” (Đánh thơ). Nguyễn Tuân đã nói về những
con người tài hoa, nghệ sĩ này bằng tất cả lòng mến thương, cảm phục. Họ là
Mộng Liên, Mộng Huyền, Mộng Thu, không chỉ có tài sắc mà còn lãng mạn.
Tóm lại, trong tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân tập trung khắc
họa hình tượng các nhân vật tài hoa, nghệ sĩ. Bởi ông sinh ra và lớn lên trong
cái nôi văn hóa cổ truyền của dân tộc nên cảm thấy hoài tiếc về những giá trị đã
qua nay chỉ còn vang bóng. Không thực hiện được ước mơ cháy bỏng giữa
cuộc đời thực nên ông đã gửi gắm cái tài và cái tâm vào những con người tài
hoa để mong được thỏa nguyện.Vì thế, Nguyễn Tuân đã dành trọn tình cảm
của mình để viết về những con người tài hoa, tài tử.
2.1.2. Nhân vật kỳ ảo
Bên cạnh nhân vật tài hoa, nghệ sĩ, Nguyễn Tuân cũng chú ý khắc họa
nhân vật kỳ ảo. Đây là kiểu nhân vật không có thật, được nhào nặn, hư cấu đặt
trong một không khí huyền ảo hoặc là những con người siêu nhiên trong trí
tưởng tượng của nhà văn. Như vậy, nhân vật kỳ ảo là sản phẩm sáng tạo của
người nghệ sỹ nhằm khái quát những phương diện đa dạng và biến đổi không
ngừng của đời sống theo khuynh hướng kỳ ảo hóa.
18 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Trong văn học trung đại, nhân vật kỳ ảo thường là những bóng ma, oan
hồn như Truyền kỳ mạn lục, Lĩnh Nam chích quái... Đến văn học hiện đại,
nhân vật kỳ ảo xuất hiện khá đa dạng, tồn tại dưới nhiều hình thức. Đó là thế
giới kỳ ảo của không gian miền núi, chốn sơn cùng thủy tận trong Lan rừng
(Nhất Linh), Suối Đàn, Truyện đường rừng (Lan Khai)... Có thể thấy, yếu tố
kì ảo đã tạo nên một phong cách truyện ngắn đặc sắc giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Với Nguyễn Tuân, những sáng tác của ông trước Cách mạng, ta thấy
yếu tố kỳ ảo xuất hiện nhiều nhất trong tập truyện Yêu ngôn. Đây là tác phẩm
mở đầu cho hình thức sáng tác theo kiểu loại truyện kỳ ảo mà Nguyễn Tuân
bắt đầu khai phá. Tiếp đó, là hàng loạt truyện ngắn trong tập Vang bóng một
thời được Nguyễn Tuân sử dụng bút pháp kỳ ảo để miêu tả.
Truyện Báo oán kể về cuộc báo thù của một oan hồn, khiến ông Đầu
Xứ Anh bị hỏng thi ở khóa trước. Nguyên do là lúc trước, ông cụ thân sinh đã
để một nàng hầu tự ải khi cô có thai sáu, bẩy tháng. Oan hồn báo cho ông biết
rằng cái ân oán sẽ còn theo mãi nếu Đầu Xứ Anh còn dự thi. Bằng sức tưởng
tượng phong phú và ngòi bút tài hoa, Nguyễn Tuân đã khiến người đọc như
nhìn thấy linh hồn của người phụ nữ trở về đòi món nợ tiền kiếp: “Một người
đàn bà trẻ, xõa tóc, ẵm con, hiện ngay dưới lều, ngay chỗ đầu chõng, kêu gào
giữ dịt lấy tay không cho viết. Gào khóc chán người đàn bà ấy lấy mớ tóc xoã
quất vào mặt ông cứ bỏng rát lên và cười sằng sặc, lấy nghiên mực đổ vào
quyển ông” [18, 169].
Khóa thi cuối cùng, người anh động viên Đầu Xứ Em đi thi với mộng
ước công danh bảng vàng. Cũng như anh, người em đi thi lại gặp phải sự việc
tương tự: Đầu Xứ Em tự nhiên nghe tiếng cười lanh lảnh, rồi lại mớ tóc xoã,
người đàn bà cất tiếng the thé, ông đau bụng dữ dội rồi gục xuống, phải bỏ
dở bài thi. Hai anh em ông Đầu Xứ nổi tiếng hay chữ nhất vùng Sơn Nam hạ,
19 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
đành ngậm ngùi ca thán “thi không ăn ớt thế mà cay” khi nàng hầu của cha họ
thề báo oán.
Qua nhân vật ma nữ kỳ ảo trong truyện, nhà văn muốn phản ánh đầy đủ
về hiện thực khoa thi Mậu Ngọ, từ cảnh sĩ tử mang lều chõng ra đi, đến cảnh
sĩ tử bì bõm tại trường thi, lễ cúng tam sinh... Đó là chốn quan trường đầy tệ
nạn, một xã hội không trọng dụng nhân tài. Có thể nói, đây là một áng văn
chương hay, một tài liệu giá trị về trường thi Nho học lúc suy tàn.
Nhân vật kỳ ảo không chỉ có trong truyện Báo oán, mà còn xuất hiện ở
truyện Trên đỉnh non Tản. Khác với truyện của Lan Khai, hấp dẫn người đọc
bằng những truyện đường rừng hoang sơ kì thú và bí hiểm. Nguyễn Tuân lại
cuốn hút độc giả bằng cách đưa vào văn chương một câu chuyện mang dấu ấn
huyền thoại cổ tích Sơn Tinh, Thủy Tinh. Truyện ngắn Trên đỉnh non Tản là
một thế giới bí mật, huyền ảo. Sau mỗi trận dâng nước của Thủy thần, Đền
Thượng bị hư hỏng và đám thợ mộc Chàng Thôn lại được Sơn thần gọi lên
chữa đền. Cuộc sống trên núi Tản trong cái nhìn của kíp thợ mộc vừa huyền
ảo, vừa kì thú, vừa thần tiên vừa quái dị. Chốn non tiên ấy toàn những cái êm
dịu, trong sáng, thơm lành. Đó là nơi “ngày tháng thì dài, mà không thấy sốt
ruột. Hoa quả lành ngọt và thơm như hết thảy những cái gì không phải là trần
hủ sống gửi ở mặt đất cõi trần” [18, 198]. Đặc biệt, Nguyễn Tuân còn xây
dựng được thành công nhân vật kỳ ảo trong truyện. Ông đã miêu tả thánh Tản
Viên - một trong bốn tứ bất tử nơi thế giới u linh, thường “hay biến hóa nhiều
nhất và tàng hình lẫn vào đám người trần mắt thịt”. Ở trong truyện, vị thần
non Tản ấy đã hóa thân thành “một ông cụ râu tóc lông mi trắng xốp như
bông, chống một cây gậy trúc đùi gà vàng óng, khoan thai tiến vào cổng
trước làng Chàng Thôn. Trông ông cụ đĩnh đạc, cổ kính, đội cái nón cỏ giống
kiểu nón tu lờ người tu hành...bước đi có đủ cái vững vàng của một người
quắc thước thuộc lòng con đường đi của mình” [18, 202]. Có thể thấy, nhân
20 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
vật thần kỳ và thế giới siêu nhiên trong truyện Trên đỉnh non Tản “thực chất
cũng chỉ là một con đường thoát lên chốn thần tiên” [12, 236] dành cho
Nguyễn Tuân sau khi đã tìm về quá vãng nhưng vẫn không thỏa lòng.
Tìm hiểu các truyện ngắn trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân
thấy có xu hướng phê phán xã hội thể hiện một cách kín đáo qua các nhân vật
kỳ ảo. Ở truyện Báo oán và Trên đỉnh non Tản, Nguyễn Tuân đã xây dựng
một kiểu nhân vật được hư cấu hóa để biểu hiện thế giới quan thần linh, nhằm
mang lại cho tác phẩm những giá trị thẩm mĩ nhất định. Việc xuất hiện những
nhân vật kỳ ảo trong cuộc sống hiện thực cũng là nỗ lực khai thác tầng sâu
của hiện thực. Đồng thời, đây chính là cách để nhà văn mở rộng biên độ phản
ánh, chuyển tải một phạm vi đời sống khác lạ vào tác phẩm. Bằng trí tưởng
tượng phong phú, Nguyễn Tuân đã tạo nên một thế giới siêu thực với những
nhân vật kỳ ảo, khơi gợi cảm giác mới lạ nơi người đọc.
2.1.3. Nhân vật lãng tử, giang hồ, xê dịch
Là một người dân nước thuộc địa, Nguyễn Tuân đau xót cho tình cảnh
dân tộc mình nên phản ứng lại bằng cách tìm về vẻ đẹp của quá khứ hoặc chủ
trương xê dịch giang hồ. Đó cũng là cách quay lưng với đời sống tầm thường,
đồng thời, đúng với mục đích sống của nhà văn. Với Nguyễn Tuân, cuộc đời
ông “nằm trong những chuyến đi”. Đi không biết mệt mỏi, đi để tìm cái đẹp
và thỏa mãn khát vọng của người nghệ sĩ tài tử.
Trước Cách mạng, Nguyễn Tuân là người lữ hành đi khắp nơi, khắp
chốn. Sau Cách mạng, những chuyến đi ngày một dày hơn, khi thì ở Tây Bắc,
Hoàng Liên Sơn, lúc lại ở Cô Tô, Cà Mau... Đi để phát hiện ra những vẻ đẹp
của con người. Chính ham muốn xê dịch ấy đã giúp ông có vốn sống, vốn
hiểu biết phong phú để xây dựng thành công những nhân vật lãng tử giang
hồ, xê dịch.
21 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã xây dựng nhân vật lãng
tử, thích cuộc sống giang hồ, xê dịch. Đó là những con người mang trong
mình chất tài tử, tài hoa, có nhân cách cao đẹp. Bởi vậy, họ không chịu sống
cuộc sống gò bó, luồn cúi trong vòng danh lợi mà chỉ thích nay đây mai đó
theo ý mình. Đối với họ, sống ở đời giống như một cuộc chơi, đâu vui thì đến,
đâu buồn thì đi. Đi là một phương tiện, một sự cứu cánh của cuộc đời.
Nhân vật Phó Sứ - Mộng Liên trong truyện Đánh thơ, đã từng đặt chân
đi khắp dải đất Trung Kỳ. Không chịu bất cứ ràng buộc nào, cặp tài tử này tự
do đi khắp mọi nơi, phiêu bạt với túi thơ, túi phách của mình. “Suốt một dải
Trung kỳ, họ đi về như là trẩy chợ. Tới mỗi nơi, ở mọi chốn, quan Phó Sứ lại
mở một cái túi đựng toàn bài thơ đố ra cho mọi người đặt tiền và bên chiếu
bạc văn chương, Mộng Liên lại đàn, lại ca để làm vui cho cuộc đỏ đen rất trí
thức này... mỗi tuần trăng, cặp tài tử này ở một tỉnh. Cái chiếu bạc thả thơ
của họ thường trải ở một phủ nha, huyện nha hay là nơi tư thất một đốc bộ
đường. Bất kể lúc lên voi, lúc xuống chó, lứa đôi này đã để dấu giầy trên mọi
chốn và tha lê đi khắp nơi cái túi thơ và cái túi phách ăn người của họ” [18, 53].
Có thể thấy, cuộc đời của Phó Sứ - Mộng Liên thật lãng du, khác đời.
Với họ, đi vừa là nguồn sống vừa để chiêm ngưỡng cảnh đẹp, được thoải mái
tâm hồn, tự do phóng túng. Họ có mặt trên cõi đời này dường như là để mua
vui cho thiên hạ. Và cuối cùng người chồng tài tử đã chết ở chân đèo Ngang
trên con đường giang hồ, xê dịch. Cuộc đời của hai con người ấy đã được tác
giả đã gửi vào những chuyến đi, những cuộc vui của thiên hạ.
Nhân vật Cử Hai trong truyện Một cảnh thu muộn cũng là một người
có tâm hồn lãng tử, ưa thích cuộc sống xê dịch. Lối sống của con người này
có ảnh hưởng lớn từ tư tưởng Lão Trang, sống “cuộc đời mình như người ta
chơi vậy thôi. Người ấy thực là không có một giây phút trịnh trọng đối với
nhân sinh” [12, 234]. Nguyễn Tuân đã xây dựng hình tượng nhân vật Cử Hai
22 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
thật độc đáo, ấn tượng. Đó là một người luôn xê dịch theo sở thích của bản
thân mình: “Tết mùng ba, ông Cử hai đã trốn khỏi nhà trọ từ hôm trước để để
đi ăn hàn thực và đi hội đạp thanh với các bạn làm thơ tức cảnh. Tết Đoan
ngũ, ông lên núi hái lá thuốc, những mong được như hai người Lưu Nguyễn
ngày xưa gặp tiên. Tết Trung thu ông lên chùa Thầy ngắm trăng Chợ Giời
họp trên đỉnh núi Sài Sơn... Cái hành tung của người nghệ sỹ không chịu sống
cho người khác và hòa theo với những người xung quanh ấy, thực khó mà dò
hỏi. Lùng cái dấu bàn chân của một chính khách thất quốc lúc vượt bể ra
ngoài mưu việc lớn, thực ra còn dễ hơn đuổi theo ông Cử Hai những lúc cái
hứng giang hồ của ông nổi dậy” [18, 148]. Phải chăng ở đây, hình ảnh nhân
vật Cử Hai là hình bóng của nhà văn Nguyễn Tuân. Họ đều là những con
người lãng tử thích cuộc sống giang hồ, xê dịch. Với họ chỉ có đi mới thỏa
mãn nhu cầu của giác quan, đi mới tìm được thú vui, tận hưởng được những
điều mới lạ và quên đi cái bế tắc, cái chán nản ở cuộc sống hiện tại. Đó chính là
một lối thoát, một thái độ phủ nhận xã hội hiện thực của nhà văn Nguyễn Tuân.
Ở trong tập truyện Nguyễn, cũng xuất hiện cái “tôi” Nguyễn Tuân tài
năng, ôm ấp khát vọng khẳng định mình trước cuộc đời. Để giải tỏa những
uẩn ức trong lòng, Nguyễn Tuân đã lựa chọn sự ra đi. Trong những cuộc vui,
Nguyễn Tuân muốn sống bằng cách sống của người nghệ sỹ và không bao giờ
muốn dừng chân ở một nơi nào nhất định.
Như vậy, trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã xây dựng một
cách độc đáo và thành công kiểu nhân vật lãng tử, giang hồ, xê dịch. Những
con người ưa xê dịch ấy dường như sinh ra chỉ để “ngắm đời, ngoạn cảnh cho
cảm giác được no nê thanh sắc”. Đồng thời, qua những nhân vật lãng tử, xê
dịch ta thấy được hình bóng của một Nguyễn Tuân trong đó. Với kiểu nhân
vật này đã góp phần làm phong phú cho thế giới nhân vật trong truyện ngắn
của Nguyễn Tuân.
23 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
2.2. Không gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999) cho rằng:
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ
thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Sự miêu tả, trần thuật trong nghệ thuật
bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn, diễn ra trong trường nhìn nhất
định...” [6, 134].
Như vậy, không gian nghệ thuật vừa là hình thức tồn tại của hình tượng
vừa là một phương thức thể hiện đặc điểm tư duy nghệ thuật và khả năng
chiếm lĩnh thế giới của văn học. Không gian nghệ thuật trở thành phương tiện
chiếm lĩnh đời sống, mang ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật.
Trong văn học, không gian nghệ thuật được các tác giả chiếm lĩnh và
thể hiện khác nhau. Không gian trong truyện cổ tích phần lớn là không gian
hẹp: Ở một làng nọ..., Một gia đình nọ... Đến khi văn học viết ra đời, không
gian nghệ thuật càng được các tác giả thể hiện phong phú và đa dạng. Đó là
không gian rộng lớn, trải dài từ vùng nông thôn đến thành thị (Giông tố - Vũ
Trọng Phụng); không gian nhuốm màu thiền đạo (Hồn bướm mơ tiên - Khái
Hưng); hay không gian tươi đẹp của núi rừng Tây Bắc (Vợ chồng A Phủ - Tô
Hoài)... Với tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, mỗi truyện ngắn là
một không gian nghệ thuật hấp dẫn riêng. Không gian ấy được đặt trong nhiều
chiều: không gian rộng - hẹp, không gian cận cảnh - viễn cảnh, không gian
trần thế - tâm tưởng, không gian quá khứ - hiện tại... Nổi bật lên trong tác
phẩm là không gian quá khứ và không gian kỳ ảo.
2.2.1. Không gian quá khứ
Không gian quá khứ “là loại không gian mang bóng hình quá khứ được
dựng lên bởi hoài niệm, kí ức, hồi tưởng và cả tưởng tượng” [8, 129].
24 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Trong tập Vang bóng một thời, không gian quá khứ xuất hiện nhiều ở
hầu hết các truyện ngắn. Đó là không gian trường thi, khoa cử thời xưa (Báo
oán), không gian làng nghề thủ công truyền thống (Trên đỉnh non Tản),
không gian của những thú chơi tao nhã của một thời đã qua (Một cảnh thu
muộn, Hương cuội, Thả thơ, Đánh thơ...).
Trong truyện Những chiếc ấm đất, toàn bộ câu chuyện là không gian
của thời dĩ vãng đã qua được Nguyễn Tuân tái hiện lại. Qua đó, nhà văn thể
hiện cái nhìn đối với những điều ông cảm nhận. Ý nghĩa sâu sắc của câu
chuyện còn được tác giả gửi gắm trong những không gian nhỏ hẹp: “chiếc ấm
đất”, “mươi mảnh trấu”, rồi chuyện “năm cái kim hỏa”. Tất cả những không
gian ấy đều được Nguyễn Tuân gợi lại với một sự trăn trở, hoài tiếc khôn
nguôi về cái đẹp đã qua khiến người đọc vô cùng ngưỡng mộ.
Ở truyện Chén trà trong sương sớm, nhà văn đã kết hợp đan xen giữa
không gian rộng và hẹp trong quá khứ. Không gian rộng là hình ảnh sương
khói mờ ảo của những buổi sớm mùa đông, lúc bầu trời “còn tối đất”, không
gian hẹp là căn phòng, ngôi nhà, mảnh vườn, gian nhà gạch, khu bếp của gia
đình cụ Ấm. Có thể nói, truyện Chén trà trong sương sớm như bức tranh về
quá khứ đậm hồn dân tộc, mời gọi người đọc trở về với nghi thức uống trà
truyền thống của người xưa. Đối với Nguyễn Tuân, dường như ý nghĩa của
truyện đọng trong dư vị của không gian quá khứ. Bởi vậy, nhà văn bùi ngùi
miêu tả nhân vật “than tiếc đến cái mùa thu đã đi mất rồi, để sen hồ rách hết
tàn rũ hết lá” [18, 137]. Bằng tất cả sự trân trọng và tiếc nuối, Nguyễn Tuân
đã làm sống dậy không gian của một thời vàng son trong quá khứ.
Như vậy, mỗi truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời nhà văn đều
có ý đưa người đọc trở về với không gian của một thời quá vãng mà trong đó,
chứa đựng nét đẹp cổ truyền của dân tộc. Những giá trị truyền thống đó luôn
được bao phủ bởi một không gian thiên nhiên sinh động và hấp dẫn. Không
25 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
gian thiên nhiên đẹp để con người thưởng thức, đổi lại thiên nhiên cũng được
đền đáp vì được bàn tay con người nâng niu. Hình ảnh cụ Kép làng Mọc trong
truyện Hương cuội có một tâm nguyện rất thanh cao mà ít ai có được:
“Nguyện đem cái quãng đời xế chiều của một nhà Nho để phụng sự lũ hoa
thơm, cỏ quý” [18, 85]. Cuộc sống của cụ Kép làng Mọc được bao bọc bởi
không gian địa lý gắn với không gian đẹp của phong tục, thói quen, sinh hoạt
hằng ngày.
Một điều đáng chú ý nữa là kiểu không gian quá khứ ấy luôn được
Nguyễn Tuân gắn kết với những sinh hoạt văn hóa tinh thần của dân tộc đã bị
mai một. Nhà nghiên cứu Đoàn Trọng Huy gọi đó là “không gian của giá trị
văn hóa, không gian tích tụ lịch sử”. Nguyễn Tuân đã thể hiện sự tài hoa khi
chỉ sử dụng những nét chấm phá đơn sắc để tạo nên chân dung cụ Phủ ông mà
“học lực và chính tích chấp được cả bạn đồng liêu một thời” nhưng nay thất
thế (Thả thơ). Những nét điệu nghệ trong thú chơi đèn kéo quân của cha -
con, ông - cháu nhà cụ Thượng Nam Ninh đều biết hưởng cái Đẹp của chiếc
đèn kéo quân Tây Thi - Phạm Lãi (Một cảnh thu muộn)...Vì vậy, Vũ Ngọc
Phan đã phát hiện ra rằng: “Đọc Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân người
ta cũng có một cảm tưởng gần giống như những cảm tưởng trong khi ngắm
một bức họa cổ”.
Tóm lại, ở hầu hết các sáng tác trong tập Vang bóng một thời, người
đọc đều bắt gặp kiểu không gian quá khứ. Nó được dựng lên bởi hoài niệm,
ký ức, hồi tưởng và cả sức tưởng tượng hết sức sinh động và đặc sắc của
Nguyễn Tuân. Mặt khác, những khung cảnh ấy được đặt trong vùng không
gian rộng lớn khái quát mang nét đặc trưng của một thời kỳ lịch sử một đi
không trở lại. Bằng một vốn từ Hán Việt phong phú, Nguyễn Tuân đã khéo
léo dựng cảnh, tạo không khí đưa người vào không gian quá khứ cổ kính
trang trọng thời xưa cũ.
26 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
2.2.2. Không gian kỳ ảo
Bên cạnh không gian quá khứ, người đọc còn bắt gặp không gian kỳ ảo
trong tập Vang bóng một thời. Đây là kiểu không gian không có thật trong
thực tế mà chỉ có trong tưởng tượng gắn liền với những tác phẩm mang màu
sắc thần thoại. Không gian kỳ ảo thường xuất hiện trong các sáng tác dân gian
và mang tính chất thiêng liêng: Cõi tiên trong truyện cổ tích, thế giới u minh
trong thần thoại. Với các sáng tác của Nguyễn Tuân trong tập Vang bóng một
thời, ngoài không gian quá khứ còn có không gian kỳ ảo xuất hiện ở truyện
Trên đỉnh non Tản và Báo oán.
Trong truyện Báo oán, nhà văn đã xây dựng một không gian hiện vừa
thực vừa kỳ ảo, ma quái xen lẫn. Đó là một không gian hiện thực trong khoa
cử, không gian của trường thi với khung cảnh trời mưa, sân trường lầy lội.
Xen lẫn vào đó là không gian kỳ ảo, ma quái của oan hồn hiện về báo oán làm
hai anh em Đầu Xứ hỏng thi: “Một thứ gió u hiển thổi thốc mãi vào bãi
trường, nghe lào xào như có tiếng người chen chúc và chạy vào choán chỗ.
Những cây nến cháy vạt ngọn bỗng tắt phụt hết. Không gì xa vắng bằng cái
động đậy trong đìu hiu của muôn loài… Tiếng loa đồng xoáy sâu vào màn
mưa lạnh...” [18, 168]. Ở đây, những từ ngữ như: u hiển, thốc, tắt phụt hết,
đìu hiu cho người đọc cảm giác ghê rợn. Khung cảnh trường thi được Nguyễn
Tuân đã miêu tả thật kỳ dị, linh thiêng.
Ngoài ra, ở truyện Trên đỉnh non Tản, điểm nhìn không gian nghệ
thuật của tác giả thay đổi linh hoạt. Khi thì là không gian hẹp ở làng Chàng
Thôn, nhưng có khi lại là không gian bạt ngàn mờ ảo, lung linh nhiều màu sắc
trên đỉnh non Tản. Ở đây, không gian kì ảo mang tính nguyên sơ hoang dã.
Đây là không gian cõi tiên, khác biệt với thế giới trần tục. Ở đó, một mũi tên
bắn chết một lúc sáu con chim khi lấy về chim đã được nướng chín, rồi những
hòn đá cuội đập vỡ có gạo ăn và rượu uống... Chính sự đan xen, hòa quyện
27 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
giữa không gian thực và ảo, không gian hẹp và rộng tạo cảm giác choáng
ngợp trong lòng người đọc. Sự pha trộn giữa thực - ảo, ma - người tạo nên sức
hấp dẫn mới mẻ tạo cảm giác mới lạ và chuyển tải thông điệp nhân sinh của
Nguyễn Tuân.
Rõ ràng, truyện Trên đỉnh non Tản và Báo oán thuộc kiểu không gian
kỳ ảo, thần tiên và ma quái. Các yếu tố thật - ảo luôn thâm nhập, đan lồng vào
nhau. Cuộc sống của những người thợ mộc, thợ ngoã với Vương quốc thần
non Tản; những công cụ lao động của thợ mộc làng Chàng Thôn với mũi tên
bạc, tên vàng ở thế giới thần tiên (Trên đỉnh non Tản). Khoá thi Mậu Ngọ, sĩ
tử bì bõm trong bùn lầy với hình ảnh người đàn bà trẻ xõa tóc gào khóc rồi
cười sằng sặc, hắt nghiên mực tàu lên quyển của hai ông Đầu Xứ (Báo oán).
Đằng sau những yếu tố ảo - thật đó là những vấn đề xã hội hiện thực: giấc mơ
hạnh phúc, no đủ của con người, hàng bao thế kỷ không nguôi (Trên đỉnh
non Tản). Hành động thất đức của cụ Huấn để lại cho con một ân oán khủng
khiếp và dai dẳng, món nợ máu phải trả (Báo oán).
Tóm lại, với tập truyện ngắn Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã làm
sống dậy cả một không gian bao la rộng lớn thời dĩ vãng - một giai đoạn
nhiều biến động trong lịch sử. Tất cả những yếu tố về không gian ấy đều
mang ý nghĩa thẩm mĩ nhất định, nó phản ánh quan điểm và tư tưởng thẩm mĩ
của nhà văn, giúp tác giả phản ánh cuộc sống, con người trong Vang bóng
một thời một cách cụ thể và sâu sắc hơn.
2.3. Thời gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999):
“Thời gian nghệ thuật là hình thức nội tại của hình tượng nghệ thuật
thể hiện tính chỉnh thể của nó cũng như không gian nghệ thuật. Sự miêu tả
trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ cũng xuất phát từ một điểm nhìn
28 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
nhất định trong thời gian. Và cái được trần thuật bao giờ cũng diễn ra trong
thời gian được biết qua thời gian trần thuật. Sự phối hợp của hai yếu tố này
tạo thành thời gian nghệ thuật, một hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới
nghệ thuật” [6, 272].
Khác với thời gian tự nhiên (thời gian khách quan), thời gian nghệ
thuật được vận động trên cả ba chiều: quá khứ, hiện tại, tương lai. Nó không
tuân theo một cách nghiêm ngặt theo sự vận động của quy luật tự nhiên, mà
thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược trình tự, thay đổi nhịp độ của thời gian
hoặc tái hiện lại khoảng thời gian đã qua bằng cách để con người tìm về với
quá khứ tùy theo ý đồ nghệ thuật của tác giả. Trong Vang bóng một thời,
Nguyễn Tuân luôn tìm về với thời gian của quá khứ, hòa mình vào hiện tại và
hướng về tương lai. Ở đó, tác giả đề cập tới thời gian trong quá khứ nhiều hơn
thời gian hiện tại và tương lai. Thời gian và không gian trong tập Vang bóng
một thời luôn có sự đan xen, hòa quyện không hề tách rời nhau. Tương ứng với
không gian quá khứ và không gian kì ảo là thời gian quá khứ và thời gian kỳ ảo.
2.3.1. Thời gian quá khứ
Với cách xây dựng thời gian quá khứ từ điểm nhìn thực tại, Nguyễn
Tuân đã đưa người đọc trở về với những giá trị đích thực của cuộc sống, đó là
những nét đẹp cổ truyền của người Việt. Đối với Nguyễn Tuân, quá khứ trong
Vang bóng một thời là quá khứ đã qua, một đi không trở lại.
Trong tác phẩm Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã làm sống lại hình
tượng nhân vật Huấn Cao. Người ta cho rằng đây chính là hình ảnh Cao Bá
Quát - con người văn võ song toàn, có thật trong lịch sử. Cao Bá Quát là
người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương thế kỷ XIX, chống lại chế độ thực
dân phong kiến xấu xa tàn bạo. Theo dòng quá khứ, nhà văn đã làm sống lại
người anh hùng Cao Bá Quát qua hình tượng nhân vật Huấn Cao. Mặt khác,
nhà văn bày tỏ lòng tiếc nuối một nét đẹp trong đời sống văn hóa dân tộc, đó
29 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
là thú chơi thư pháp đang bị lụi tàn. Trong không gian ngục tối “chật hẹp, ẩm
ướt” ấy, cái đẹp và cái thiện cùng ngự trị. Huấn Cao dù biết trước ngày mai
phải ra pháp trường chịu tội hành hình, nhưng vẫn ung dung, tự tại, không hề
vội vã, lo sợ. Có thể nói, Nguyễn Tuân là một nhà văn luôn kính trọng và yêu
mến cái đẹp, nhưng vì cái đẹp không dễ tìm thấy trong buổi “Tây - Tàu nhố
nhăng” nên nhà văn đã ngược dòng thời gian để trở về với quá khứ tìm lại nét
đẹp xưa. Qua truyện Chữ người tử tù, tác giả không chỉ đề cao một con
người có phẩm chất, nhân cách cao đẹp mà còn thể hiện được quan niệm của
nhà văn về cuộc sống: cái Đẹp luôn tồn tại với thời gian.
Viết tác phẩm Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân không có ý ca ngợi,
lý tưởng hóa chế độ phong kiến. Qua những trang viết tài hoa, ông muốn bày
tỏ sự tiếc nuối những cái đẹp truyền thống đã qua. Nhà văn đắm chìm trong
quá khứ của một thời vang bóng với những phong tục, thú chơi truyền thống
tao nhã với tất cả sự tiếc nuối, trân trọng. Đó là cái đẹp trong cách uống trà
của các cụ thời xưa (Những chiếc ấm đất, Chén trà sương); thú chơi hoa lan,
uống rượu, ngâm thơ, làm đèn kéo quân (Hương cuội, Thả thơ, Đánh thơ,
Một cảnh thu muộn); phong tục trong cách ứng xử với khách hoặc với người
cao tuổi (Ngôi mả cũ)...Trở về với quá khứ chính là cách để nhà văn Nguyễn
Tuân bày tỏ thái độ của mình đối với cuộc sống hiện tại và đối với một xã hội
kệch cỡm, nhố nhăng.
Trong truyện Báo oán nhà văn còn đề cập đến tệ nạn nơi trường thi,
phòng thi, sự đồi bại của xã hội cũ. Nguyễn Tuân lấy câu chuyện từ quá khứ
để minh chứng cho điều đó: “Ở cuốn lịch niên hiệu Duy Tân thập niên, bìa
vàng nhòe nét son dấu kim ấn tòa Khâm Thiên Giám, thấy tiết thu phân và
ngày lập thu đã qua lâu rồi” [18, 161]. Vẫn là trở về với quá khứ nhưng ở
đây nhà văn sử dụng những yếu tố thời gian tâm tưởng, sử dụng những yếu tố
huyền ảo để nói về hiện tại, lên án xã hội đương thời: “Lúc sinh thời, cụ Huấn
30 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
đẻ ra ông đã phạm vào một việc thất đức [...] cụ đã mang lấy trách nhiệm tinh
thần về cái chết của một nàng hầu tài hoa nổi tiếng một thời” [18, 170]. Vì
thế mà ân oán ấy vẫn theo đuổi hai anh em ông Đầu Xứ nếu họ tiếp tục đi thi.
Nhà văn đã kể lại một câu chuyện từ mấy chục năm trước và mượn chuyện
oan hồn để nói về xã hội phong kiến mục ruỗng, một chốn quan trường lũng
đoạn, tệ nạn mua quan bán tước, không biết trọng dụng nhân tài.
Như vậy, với tập Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân đã đi sâu vào thời
gian của quá khứ, làm sống lại những nét đẹp cổ truyền của dân tộc. Đồng
thời nhà văn trở về với quá khứ, để tìm lại những vẻ đẹp của một thời vang
bóng. Qua đó, nhà văn bày tỏ quan niệm, thái độ của mình đối với hiện thực
cuộc sống. Mặt khác, trở về với thời gian trong quá khứ chính là cách Nguyễn
Tuân phủ nhận cái xã hội Tây Tàu nhố nhăng và nhà văn đang cố gắng lưu
giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
2.3.2. Thời gian kỳ ảo
Thời gian kỳ ảo là kiểu thời gian không có thực, được mơ hồ hóa tạo
thành thế giới huyền ảo, lung linh. Thời gian kỳ ảo thường phổ biến trong
truyện cổ tích, truyện truyền kỳ hoặc được hư cấu trong trí tưởng tượng của
tác giả. Với tập Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân, thời gian kỳ ảo được
miêu tả rõ nhất ở hai sáng tác nằm cuối tập truyện ngắn, đó là truyện Báo oán
và Trên đỉnh non Tản.
Thời gian kỳ ảo trong truyện Báo oán được miêu tả là lúc đêm khuya.
“Nằm nghe mưa rơi trên quán trọ xóm Cửa Trường, một đêm nguyệt tận năm
Ngọ, từ tối đến giờ, ông Đầu Xứ Anh chỉ những hết lo xa rồi lại nghĩ gần.
Trong một lúc mơ hoảng, ông lại trông thấy bóng cái người đàn bà mặc đồ
trắng, xõa tóc, kiễng gót, thu một đứa trẻ con vào tà ào sổ gấu, đi tuột vào
phía nhà cầu...” [18, 183]. Thời gian kỳ ảo ở đây đã thể hiện được không khí
quái đản của truyện ngắn.
31 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Ở truyện Trên đỉnh non Tản, thời gian kỳ ảo không được xác định cụ
thể mà chỉ áng chừng: “thỉnh thoảng cứ dăm bảy năm một”, “vài năm một”
tạo cảm giác mơ hồ, huyền ảo. Thời gian được miêu tả thường là lúc chiều tàn
hay khi đêm tối: “Đêm tờ mờ đen rầm hẳn lại, rồi đen ngòm, rồi đen kịt” [18,
205], nhằm tăng thêm tính kỳ ảo, linh thiêng trong truyện. Không chỉ vậy,
thời gian kỳ ảo ở đây còn giống như truyện cổ tích nối dài đưa người đọc về
lại với làng Chàng Thôn tỉnh Đoài chuyên nghề thợ mộc. Ở đó có những
người thợ mộc tài hoa đến mức thần tiên trên núi cũng phải “hạ sơn cầu đến”.
Tác phẩm đã đưa người đọc đi vào thời gian kỳ ảo trong cổ tích xa xưa, thời
mà xảy ra cuộc đại chiến giữa Sơn thần và Thủy thần trong truyền thuyết Sơn
Tinh, Thủy Tinh. Sự kết hợp, lồng ghép, hòa phối giữa không gian và thời
gian trong tác phẩm khiến cho cái huyền ảo nhòe lẫn vào thế giới thực, từ đó
tạo ra sự ám ảnh, mê hoặc cho bức tranh cuộc đời mà nhà văn đã dày công
sáng tạo.
Mặt khác, thời gian kỳ ảo ở truyện Trên đỉnh non Tản cũng hư hư,
thực thực giữa ngày và đêm, không thể tính được. Trên đỉnh núi Tản ấy ngày
tháng thì dài, mà “ngày tháng trên này không biết lấy gì mà đo tính, bởi vì
chỗ sơn thượng không có đêm không có ngày. Đây là nơi của ánh sáng vĩnh
viễn nhờ nhờ như màu ngọc liệu, như chất nước quế trắng chính sơn pha
loãng” [18, 216]. Chỉ áng chừng rằng: “Tính theo ngày tháng của các người
dưới này, thì cũng phải đi vắng mất chừng một tháng”. Đối với những người
thợ mộc Chàng Thôn, họ mơ ước một cuộc sống no đủ, những ngày vui vô
tận, tha hồ thưởng thức của ngon vật lạ, ngày nào cũng được ngắm nhìn thỏa
thích những kỳ hoa dị thảo như khi ở cõi tiên. Nhưng với họ, giấc mơ tiên
cảnh chỉ trong giây lát, chợp mắt tỉnh giấc, họ lại trở về với hiện thực thường
nhật đầy nhọc nhằn lo sợ và cả nỗi ám ảnh về cái chết bất thần và đau đớn nếu
họ dám tiết lộ bí mật.
32 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Như vậy, thời gian nghệ thuật trong tập Vang bóng một thời là thời
gian quá khứ và thời gian kỳ ảo. Trở về thời gian của quá khứ, Nguyễn Tuân
đã làm sống dậy những nét đẹp cổ truyền của dân tộc. Đặc biệt, với kiểu thời
gian kỳ ảo, ông đã đưa vào văn chương Việt một huyền thoại cổ tích Sơn Tinh
thủy Tinh mang dấu ấn của thế kỷ XX. Khi trở về với thời gian trong quá khứ,
nhà văn đã kết hợp đan xen giữa thời gian hiện thực đời thường và thời gian
kỳ ảo của cõi thần tiên huyền bí. Qua đó, nhà văn bày tỏ quan niệm cũng như
cái thái độ của mình với cuộc sống. Nguyễn Tuân tìm về quá khứ hoặc muốn
thoát lên cõi tiên đều nhằm phủ nhận tất cả những gì xấu xa, đồi bại đang tồn
tại trong xã hội đương thời.
2.4. Ngôn ngữ nghệ thuật
Ngôn ngữ chính là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc
trưng của văn học. Không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học.
Theo M.Gorki “Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học”. Trong tác phẩm
văn học, ngôn ngữ cũng chính là yếu tố quan trọng để xây dựng lên tác phẩm.
Nó không chỉ là phương tiện để chuyển tải nội dung mà còn là nơi nghệ sĩ thể
hiện phẩm chất tư duy cũng như khả năng sáng tạo của mình. Ngôn ngữ nghệ
thuật cũng là con đường trực tiếp để người đọc đi vào tác phẩm, nắm bắt cho
được những thông điệp mà nhà văn muốn gửi đến bạn đọc. Hơn nữa, ngôn ngữ
còn là một phương diện nghiên cứu giúp khẳng định phong cách của nhà văn.
Nguyễn Tuân không phải là người đi đầu quá trình hiện đại hóa nền
văn học nước nhà, nhưng lại có vai trò tích cực trong việc kế thừa, khẳng định
và phát triển ngôn ngữ dân tộc. Ông cho rằng: "Chúng ta vẫn đắm đuối với
nghề Iàm văn, ngày càng chuốt thêm văn tự, ngày càng làm óng tốt dẻo bền
hơn lên nữa cái tiếng nói Việt cổ truyền của mình" [19, 137]. Nguyễn Tuân là
người say mê tiếng Việt, luôn trân trọng và tìm cách làm giàu có thêm thứ
ngôn ngữ mà ông gọi là “tiếng ta”. Bởi vậy, khi trao giải cho những nhà văn
33 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
đạt Giải thuởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1), nhà thơ Tố Hữu
đã gọi Nguyễn Tuân là “Người thợ kim hoàn của chữ”. Bàn về ngôn ngữ của
Nguyễn Tuân, các nhà nghiên cứu đều dành những lời rất xác đáng để đánh
giá: Sự chín đẹp của văn tài Nguyễn Tuân (Vương Trí Nhàn); Nguyễn Tuân -
bậc thầy của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam (Mai Quốc Liên); Thầy chữ
Nguyễn Tuân (Hà Bình Trị)... Với Nguyễn Tuân, chủ nghĩa duy mĩ, cái ngông
của người nghệ sĩ, sự chú trọng cái đẹp, cái độc đáo phi thường đã được cụ
thể hóa bằng sự chọn lọc, gọt giũa kĩ lưỡng, sử dụng hữu hiệu, vận dụng sáng
tạo ngôn ngữ trong quá trình sáng tác. Bởi thế, ông chính là “nhà nghệ sỹ
ngôn từ đưa cái đẹp thăng hoa” (Hoài Anh).
Ngôn ngữ trong văn Nguyễn Tuân luôn có sức hấp dẫn riêng: vừa sắc
sảo biến hóa, vừa lấp lánh trí tuệ tài hoa, để lại ấn tượng khó phai trong lòng
người đọc. Ông luôn cố gắng khám phá và phát huy giá trị của ngôn ngữ tiếng
Việt. Ở khóa luận này chúng tôi tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật của Nguyễn
Tuân trong Vang bóng một thời qua ba đặc điểm cơ bản sau:
2.4.1. Kết hợp ngôn ngữ kể và ngôn ngữ tả
Nghệ thuật trần thuật (kể chuyện) là một trong những phương diện cơ
bản tạo nên giá trị thẩm mỹ đặc sắc cho tập truyện ngắn Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân. Mười hai truyện ngắn trong tác phẩm là mười hai câu
chuyện kể về một thời đã qua. Điểm đặc biệt ở đây là cách kể chuyện của
Nguyễn Tuân không đơn thuần và tĩnh tại, mà câu văn trần thuật luôn có sự
kết hợp giữa ngôn ngữ kể và ngôn ngữ tả.
Mở đầu tập Vang bóng một thời là truyện Chém treo ngành, kể về
nhân vật Bát Lê. Đây là một tay đao phủ chuyên sử dụng thanh quất (loại
kiếm hai lưỡi), có tài chém đầu rất ngọt, chỉ một nhát lướt qua là đứt cổ
nhưng vẫn còn dính một làn da. Nay Bát Lê đã về già không phải nhúng tay
vào công việc ấy nữa, mỗi lần có án trảm, ông chỉ ra pháp trường cho có mặt.
34 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Nhưng nay quan lớn Đổng lý Quân vụ gọi vào cho biết có mười hai tên tử tù
sắp phải mang ra xử chém. Đến ngày hành hình, Bát Lê múa thanh quất, mười
hai cái đầu của tội nhân bị chẻ gục xuống, không một giọt máu vấy vào áo,
hắn được quan công sứ thưởng mấy cọc bạc đồng bà lão.
Cốt truyện có nội dung đơn giản, nhưng dưới ngòi bút tài hoa và phóng
thoáng của Nguyễn Tuân, Chém treo ngành đã được diễn tả kỹ lưỡng, tỉ mỉ
và sắc lạnh. Từ việc miêu tả cảnh cho đến lối hành văn đều được chú trọng.
Ngôn ngữ kể luôn đan xen với ngôn ngữ tả. Mở đầu tác phẩm, nhà văn đã
miêu tả cho cho câu chuyện một không khí rùng rợn, quái đản nhưng cũng
mang tính hiện thực rất cao trong đoạn miêu tả vườn chuối um tùm phía Tây
thành: “Mỗi buổi chiều mặt trời lặn, mấy con chim không tổ mỏi cánh định
tìm vào vườn chuối âm u này để ngủ. Nhưng thân chuối cao vút và tàu lá
chuối trống trải không đủ là nơi làm tổ, loài chim kêu mấy tiếng thưa thớt rồi
lại bay qua ngọn thành. Vào tiết mưa dầm, những trận mưa ngâu đổ lên vườn
chuối một khúc nhạc suông nghe buồn thỉu buồn thiu” [18, 7].
Nguyễn Tuân luôn thích sự khác thường, những đoạn văn miêu tả cảnh
trời chiều trong Chém treo ngành mang sắc thái kỳ dị, lạ thường, như báo
trước một điềm dữ sắp xảy ra. Đó là báo trước ngày định mệnh của những kẻ tử
tù. Nhà văn đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh gây ấn tượng mạnh: dữ dội,
quái rợ, oi ả, hình ảnh bầu trời kì dị với những đám mây tím đỏ, bức tranh mây
chó... “Trời chiều có một vẻ dữ dội. Mặt đất thì sáng hơn nền trời. Nền trời vẩn
đục những đám mây tím đỏ vẽ đủ mọi hình quái rợ. Những bức tranh mây chó
màu thẫm hạ xuống thấp thêm và đè sát xuống pháp trường oi ả” [18, 17].
Cảnh trường thi trong truyện Báo oán cũng được miêu tả một cách
khác thường: “Mặt đất sáng hơn nền trời. Cuộc tế tiến trường như lắng xuống
chờ một sự biến gì. Gió cũng không muốn thổi. Mấy ngọn sáp không lung lay,
vệt khói xám nơi bình hương bốc lên thẳng thắn trên bàn tam sinh. Nền trời
35 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
phương Đông đáng lẽ phải hửng lên rồi. Thế mà ở đấy chỉ rặt một thứ mây
đục đùn lên những hình quỷ Đông. Phía Tây, một cái cầu vồng cụt một chân,
tô lên tạo vật những màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt”[18, 167]. Nguyễn
Tuân luôn gây sự chú ý trong cách miêu tả, nhiều chi tiết thường được miêu tả
ngược lại với quy luật của tự nhiên: “Mặt đất sáng hơn nền trời”, “gió không
muốn thổi”... Ngôn ngữ miêu tả trong truyện vừa chi tiết, tỉ mỉ, lại vừa như
báo trước được sự việc sắp tới. Nguyễn Tuân luôn thích dùng từ ngữ và cấu
trúc khác người làm cho sự vật được miêu tả cứ như có linh hồn, sự sống.
Đọc những đoạn văn miêu tả, người đọc như đang được ngắm một bức tranh
bằng ngôn ngữ do nhà văn tạo ra.
Trong Vang bóng một thời, “hầu hết mười hai thiên truyện không có
cốt truyện, hoặc cốt truyện rất khó nắm bắt”. Nhìn chung các truyện đều có
nhân vật nhưng dường như nhân vật chỉ là cái cớ để nhà văn bộc lộ những
cảm xúc chủ quan của mình. Nguyễn Tuân kể lại câu chuyện bằng một cách
khách quan và bám sát vào miêu tả các thú chơi thanh tao của các nhân vật để
cho người đọc tự cảm nhận nhưng lại khéo léo đặt tình cảm kín đáo của mình
vào đó. Đơn thuần là câu chuyện kể về những phong tục, thói quen cầu kì,
kiểu cách của những nhà Nho tài tử với thú chơi hoa lan, uống rượu, ngâm
thơ, nhai kẹo mạch nha ướp hương lan (Hương cuội). Nhưng tác giả diễn tả
hết sức chi tiết, tỉ mỉ, kĩ lưỡng từng công việc đến các bước tiến hành rửa đá
cuội, bọc kẹo mạch nha, ướp hương hoa lan... Tất cả đều rất thi vị khiến ta
như thoáng thấy một niềm nuối tiếc cho những cái hay, cái đẹp đã không còn.
Bằng ngòi bút miêu tả tỉ mỉ, cộng với vốn tri thức hiểu nhiều biết rộng, tác giả
đã dựng lại cả một thế giới đầy hương thơm ngào ngạt của hương lan, kẹo đá,
cùng với những thú vui tao nhã ngâm thơ, vịnh nguyệt.
Truyện Chén trà trong sương sớm cũng kể về một cái thú uống trà cầu
kỳ, thi vị, pha chút nghiêm trang, huyền bí của cụ Ấm. Nguyễn Tuân đã đem
36 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
tất cả vốn liếng câu chữ của mình ra để miêu tả những điều mà ông đã quan
sát một cách kỹ lưỡng. “Cụ Ấm phẩy quạt nan phành phạch theo một nhịp
nhanh chóng trước cửa hỏa lò. Hòn than tàu lép bép nổ, nghe vui tai. Và làm
vui cho cả mắt nữa, những tàn lửa không có trật tự, không bị bó buộc kia còn
vẽ lên một khoảngkhông những nét lửa ngang dọc ngoằn ngoèo. Những lúc có
cháu nhỏ ngồi với mình, cụ Ấm thường hỏi chúng xem pháo hoa cải như thế
có thích không [...]. Bây giờ hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm áp trong
một cái vỏ tàn tro dầy và xốp trắng” [18, 130; 131]. Ngôn ngữ kể và tả luôn
đan lồng vào nhau, tạo cho tác phẩm sự hấp dẫn, lôi cuốn bởi những điều tuy
rất nhỏ nhưng cũng phải là người tỉ mỉ và dày công tìm tòi thì mới hiểu biết
một cách cặn kẽ như vậy.
Đặc biệt, phải có sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế như Nguyễn Tuân thì mới
miêu tả được hình ảnh ngọn lửa với nhiều hình dáng khác nhau vô cùng đặc
sắc: “Những hòn than tẩu cháy đều, màu đỏ ửng, có những tia lửa xanh lè vờn
ở chung quanh, ngọn lửa xanh nhấp nho. Hòn lửa rất ngon lành, một khối đỏ
tươi và trong suốt như thỏi vàng thổi chẩy. Thỉnh thoảng, từ hòn than tự tiêu
diệt buột ra một tiếng khô, rất khẽ và rất gọn, hòn than sống hết một đời
khoảng chất, hòn than chỉ còn là một điểm lửa ấm áp”.
Đọc truyện Trên đỉnh non tản, người ta còn thấy Nguyễn Tuân đã đem
tất cả vốn liếng câu chữ của mình, cùng trí tưởng tượng phong phú vào những
trang miêu tả khung cảnh huyền bí, kỳ ảo nơi núi Tản và đền thờ. Nơi đây “là
nơi của ánh sáng vĩnh viễn nhờ nhờ như màu ngọc liệu, như chất nước quế
trắng chính sơn pha loãng. Những buổi trời tái hẳn lại vì khí núi âm u, thì
một vài hòn ngói trên lòng trần đền hình mai luyện lại sáng rực hẳn lên như
một nguồn lửa. Ở những hòn ngói phát hào quang ấy, đọc rõ được bốn chữ
Tản Viên đài ngõa [...]. Dưới ánh lửa ngói sáng choang, cột gỗ chò nhấp
nhoáng lộng lẫy chớp chớp lên như vẩy rồng vàng cốm chạm nổi” [18, 216].
37 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Có thể thấy, Nguyễn Tuân đã kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ kể và
ngôn ngữ tả giàu chất tạo hình, mười hai truyện ngắn trong tập Vang bóng
một thời là mười hai bức tranh dân gian độc đáo và đa sắc màu về những cái
đẹp trong quá khứ. Qua đó khẳng định Nguyễn Tuân là bậc thầy trong việc sử
dụng ngôn ngữ. Tập truyện ngắn Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân đã
góp phần làm cho ngôn ngữ văn xuôi Việt Nam thêm phong phú và đậm chất
hội họa.
2.4.2. Thủ pháp lạ hóa ngôn từ
Nguyễn Tuân là một trí thức dân tộc rất mực tài hoa, uyên bác, am
tường cả Hán học lẫn Tây học, đặc biệt, có lòng say mê thiết tha đối với tiếng
Việt. Ông luôn tự học để trang bị cho mình vốn ngôn từ phong phú và có ý
thức tìm tòi sáng tạo bằng thủ pháp lạ hóa ngôn từ khiến câu văn trở nên mới
mẻ, độc đáo. Có thể khẳng định rằng, tập truyện ngắn Vang bóng một thời
của Nguyễn Tuân là một quá trình lao động nghệ thuật thật sự nghiêm túc,
bền bỉ không ngừng. Độc giả luôn cảm thấy thú vị, hấp dẫn bởi những câu
chữ mới mẻ lạ lùng của ông. Không chỉ góp nhặt những từ sẵn có, Nguyễn
Tuân còn có ý thức sáng tạo từ và cách dùng từ mới, lạ. Rất nhiều từ ngữ
tưởng như đơn nghĩa hoặc cũ mòn, nhưng với tài năng của ông, tất cả đều trở
nên phong phú, giàu sức biểu hiện. Dường như Nguyễn Tuân không chịu thỏa
mãn với lối diễn đạt thông thường, giản dị. Ông luôn tìm tòi và thể hiện sự
cách tân độc đáo, khiến người đọc luôn hứng thú tìm hiểu cho được cốt lõi
của sự vật, hiện tượng được miêu tả.
Thủ pháp lạ hóa ngôn từ được sử dụng trong cách dùng từ, tạo câu,
cách diễn ý mới mẻ, đôi khi cầu kỳ, kiểu cách nhưng rất tài hoa, tạo ra sức
hấp dẫn cho câu văn. Ví dụ, khi miêu tả bầu trời, Nguyễn Tuân sử dụng
những sắc thái khác nhau, gây ấn tượng với người đọc: Bầu trời kì dị, dữ dội,
quái rợ, oi ả, bức tranh mây chó... (Chém treo ngành); một cái cầu vồng cụt
38 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
một chân, một màu xanh đỏ dại dại và nghịch mắt, (Báo oán); ánh nắng già
dặn buổi trưa nung đốt mặt cánh đồng dưới chân đồi (Những chiếc ấm đất);
Đêm tờ mờ đen rầm hẳn lại, rồi đen ngòm, rồi đen kịt (Trên đỉnh non Tản).
Ở những đoạn văn như thế, bộc lộ sự tài hoa, trong việc sử dụng thủ pháp lạ
hóa ngôn từ của tác giả. Những sự vật, hiện tượng qua con mắt của nhà văn
đều rất độc đáo, khác lạ.
Mặt khác, Nguyễn Tuân là người luôn có sự sáng tạo trong tác phẩm
qua việc đặt tên, đặt từ mới và tạo lớp từ chuyên biệt gây ấn tượng sâu đậm
cho người đọc, mang phong cách riêng của Nguyễn Tuân. Nhà văn luôn luôn
sáng tạo, lạ hóa trong cách dùng từ đồng nghĩa. Cùng một sự việc, một nhân
vật nhưng Nguyễn Tuân có nhiều cách gọi khác nhau. Ở truyện Trên đỉnh
non Tản, Thánh Tản Viên được gọi bằng nhiều cái tên khác nhau: Thần non
Tản, Chúa Ngàn Thiêng, Chủ non xanh, Chúa Ngàn cao cả, Thần Non Cao,
Sơn chủ, Thánh Tản, Thần Núi Tản, Ngàn thăm thẳm kín mật. Tất cả để gợi
ấn tượng về một núi Tản Viên chứa đầy bí mật. Truyện Chén trà trong sương
sớm, khi miêu tả hình dáng của ngọn lửa nhà văn cũng gọi bằng các tên gọi:
nét lửa, điểm lửa, hồn lửa, tia lửa, lưỡi lửa, hòn lửa, khối lửa đỏ tươi. Những
nét độc đáo, lạ hóa trong ngôn ngữ của Nguyễn Tuân đã tạo nên những cảnh
tượng, những chân dung rất riêng, không ai có thể bắt chước. Điều đó tạo nên
sức hấp dẫn mãnh liệt đối với người đọc.
Đọc truyện Hương cuội, ta thấy thú vị và thật lạ tai khi Nguyễn Tuân
dùng từ “đãi” để diễn tả nụ cười của cụ Kép dành cho đứa cháu: “Cụ Kép đãi
đứa cháu ngây thơ bằng một nụ cười rất độ lượng”. Hay ở truyện Chém treo
ngành, nhà văn dùng từ “ngọt” để miêu tả cho những hành động chém đầu
hay giết người của nhân vật.
Trong Vang bóng một thời, Nguyễn Tuân còn sử dụng thủ pháp lạ hóa
ngôn từ bằng lối ví von, so sánh thật chính xác, mới lạ. Sự vật được miêu tả
39 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
trong trường liên tưởng, cảm giác chuyển đổi tinh tế, bất ngờ làm cho những
từ ngữ miêu tả nghe rất lạ tai: Hòn than tàu lép bép nổ, những nét lửa ngang
dọc ngoằn ngoèo, những lưỡi ngọn lửa xanh nhấp nhô, hòn lửa rất ngon
lành...(Chén trà trong sương sớm). Nguyễn Tuân còn sử dụng rất nhiều từ
láy mang âm hưởng lạ hóa trong tác phẩm. Ví dụ đoạn văn sau trong truyện
Chữ người tử tù: “Trên bốn chòi canh, ngục tốt cũng bắt đầu điểm vào cái
quạnh quẽ của trời tối mịt, những tiếng kiểng và mõ đều đặn thưa thớt. Lướt
qua cái thăm thẳm của nội cỏ đẫm sương, vẳng từ một làng xa đưa lại mấy
tiếng chó cắn ma. Trong khung cửa sổ có nhiều con song kẻ những nét đen
thẳng lên nền trời lốm đốm tinh tú, một ngôi sao Hôm nhấp nháy như muốn
trụt xuống phía chân giời không định” [18, 104]. Hệ thống từ láy được sử
dụng nhiều ở truyện Báo oán: “Mùa mưa dầm tháng chín chỉ là những giọt
nước mắt triền miên than vãn của kì thất tịch còn sót lại mãi đến bây giờ. Xứ
đồng chiêm Sơn Nam hạ đã biến thành một vùng nước mất hẳn bờ, trên đó
nhấp nhô những con đò đồng lí tí [...]. Bãi quết trầu đỏ lặng im giữa làn nước
nhợt nhạt, rồi chậm chạp tan hòa vào nước đồng chiêm, mỗi khi nhìn rộng ra,
chỉ rặt một màu bao la nhờ nhờ”. Nhà văn sử dụng dày đặc các từ láy, tạo
cảm giác vừa nên thơ vừa vắng vẻ, đìu hiu.
Với vốn từ ngữ giàu có cùng với thủ pháp lạ hóa ngôn từ, Nguyễn Tuân
đã tạo nên một không gian kỳ ảo trong trí tưởng tượng vô cùng lạ mắt ở
truyện Trên đỉnh non Tản: “Hai con thuyền thoi đi êm như trườn xuống dốc
một ngọn thác mà lòng thác đều lót đầy một lớp rêu tơ nõn. Ban nãy, lườn áp
bến không có một tiếng động róc rách như là khẽ lách mặt nước mà ngoi từ
dưới lên. Bây giờ hai con thuyền thoi đi trong một giấc mơ thần. Gió sớm nổi
lên, mùi nhàn nhạt của nước nguồn, mùi ngai ngái của cỏ bồng ải rũ phả
mạnh vào mũi thuyền thoi như xuyên cắm sâu mãi vào cái động đặc của mùi
sơn lam” [18, 206]. Hàng loạt những từ Nguyễn Tuân đã sử dụng để đặc tả
40 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
không khí thần tiên thoát tục của chốn thiên thai trong buổi sớm mai tinh
khôi: êm êm, trườn, lớp rêu tơ nõn, giấc mơ thần, mùi nhàn nhạt, mùi ngai
ngái, cỏ bồng, mùi sơn lam... Không chỉ sử dụng phép lạ hóa ngôn từ để tả
cảnh, Nguyễn Tuân còn thể hiện biệt tài tả người. Những từ ngữ lạ hóa mà
ông dùng để tả ánh mắt của người con gái chèo thuyền trên đỉnh non Tản:
“Một cô gái mắt sắc như dao cau và lạnh như chất kim, lạnh hơn cái gây gấy
của núi rừng buổi sớm mai dày đặc sương mù”. Đôi mắt sắc và lạnh ấy đâu
phải của người trần gian mà là ánh mắt của tiên nữ trên núi thần, nó khiến
người ta nể sợ mà phục tùng.
Tóm lại bằng vốn từ vựng phong phú và độc đáo, mỗi khi cầm bút
Nguyễn Tuân đã tập trung nhằm lạ hóa sự diễn đạt ngôn ngữ. Có lúc, ông
dùng vốn từ lạ hóa để chơi ngông với đời, hoặc để trêu ghẹo thiên hạ và xót
xa cho thân mình. Trong mỗi trang văn, dường như nhà văn luôn tìm những
ngôn từ biểu đạt mới lạ để chống lại sự giản đơn, nhàm chán và tẻ nhạt trong
cách nói, cách viết. Vậy nên “mỗi dòng, mỗi chữ tuôn ra dưới đầu ngọn bút
đều như có đóng một dấu triện riêng” (Anh Đức). Thủ pháp lạ hóa ngôn từ
mà Nguyễn Tuân sử dụng trong Vang bóng một thời đã tạo cho người đọc một
cảm giác mới lạ, bất ngờ, thú vị để lại ấn tượng sâu đậm trên từng câu chữ.
2.4.3. Ngôn ngữ sử dụng tối đa lớp từ Hán Việt mang sắc thái cổ kính,
trang trọng
Nguyễn Tuân là một nhà văn của quan điểm duy mĩ, luôn tâm niệm về
cái đẹp và yêu cái đẹp. Trước Cách mạng, ông luôn đi tìm cái đẹp trong quá
khứ. Bởi vậy những trang văn của Nguyễn Tuân mang khuynh hướng sùng
cổ. Rất nhiều truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời, nhà văn đã sử dụng tối
đa lớp từ Hán Việt, tạo cho tác phẩm mang một sắc thái cổ kính, trang trọng.
Mười hai truyện ngắn trong tập Vang bóng một thời là mười hai bức
họa cổ mà nhà văn đã phủ lên những bức tranh ấy một không khí cổ kính
41 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
trang trọng bằng việc sử dụng lớp từ Hán Việt. Nhà nghiên cứu Vương Trí
Nhàn đã nhận xét: “Có những khi người ta chỉ hạ những chữ thông thường,
thì ông trương lên những chữ thật hiếm gặp, những chữ gốc Hán mà phải loại
bặt thiệp, thông thái lắm mới biết dùng”. Quả thực trong Vang bóng một thời,
từ Hán Việt chiếm tỉ lệ rất cao, hơn thế nữa, đó lại toàn là những từ khó hiểu,
lạ tai, nghĩa của chúng chưa phổ cập trong ý thức số đông người Việt. Tuy
nhiên, lớp từ Hán Việt được sử dụng đúng lúc, đúng chỗ, tạo không khí cổ
kính trang trọng.
Trong truyện Báo oán, Nguyễn Tuân đã đưa người đọc vào chốn
trường thi năm Mậu Ngọ: “Tinh mơ ngày hai nhăm tháng chín, tại khu trường
thi Nam Định, các quan làm lễ tiến trường. Hai chiếc lọng vàng nghiêng phủ
xuống lá cờ và tấm biển có chữ “phụng chỉ khâm sai”, bốn cây lọng xanh ghé
thấp tịt xuống một cái đầu bạc đại khoa. Mùi nghi vệ mới phảng phất ít hôm
trước thì sớm nay đã nổi dậy trên khắp khoảng đất mà mọi khi chỉ có gió chạy
trên hoa cỏ may hiu hắt từng cơn” [18, 109]. Đoạn văn trên sử dụng hàng loạt
các từ Hán Việt như: lễ tiến trường, phụng chỉ, khâm sai, đại khoa, nghi vệ
Các từ Hán Việt được đặt đúng chỗ, đúng hoàn cảnh đã tái hiện khung cảnh
trường thi năm ấy. Khiến cho người đọc nhớ đến những ông đồ già, tóc râu đã
ngả màu vì sự đùa cợt của công danh, đến phút cuối cũng cố chen ra mong
vớt lấy một chút phấn hương của triều đình. Hay các sĩ tử lỉnh kỉnh với lều,
chõng, nghiên, bút, giấy, mực lên đường đi thi mong tiến thân bằng đường
học hành, mang lại công danh vinh hoa phú quý cho cả gia đình, dòng họ. Có
thể nói, những từ Hán Việt đã tạo nên sự cổ kính, uy nghi, trang trọng của
riêng Nguyễn Tuân, không bị trùng lặp với bất cứ nhà văn nào.
Thậm chí, Nguyễn Tuân còn sử dụng lớp từ Hán Việt mang sắc thái cổ
xưa để gọi tên người, tên đồ vật, địa danh: làng Cổ Nguyệt, ông Đầu Xứ, các
loại bút Song Lan, Thanh Chi, Nhất Chi, Kiều Lan, rồi đến Trúc Lan, Hoàng
42 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Tam, mực Kiêu Kỵ, mực hiệu Diệu tự, giấy Lịch Bưởi ... Tưởng như những
cái tên ấy đã bị lãng quên do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Tây học, nay được
Nguyễn Tuân làm cho sống lại tràn đầy sức sống trong Báo oán.
Bằng việc sử dụng tối đa lớp từ Hán Việt, Nguyễn Tuân đã đưa người
đọc trở về với thời quá khứ một đi không trở lại. Trong truyện Chữ người tử
tù, một loạt từ Hán Việt được nhà văn sử dụng: viên quản ngục, thầy thư lại,
án thư, pháp trường, tử tù, tử hình, thập bát, đao phủ, khí phách, tri kỷ, thiên
lương, lương thiện, ngục quan, từ biệt, vũ trụ, biệt đãi, tâm điền, tiểu nhân,
mãn nguyện, quản ngục, nhất sinh, hoài bão, nhất sinh, bộ tứ bình, bức trung
đường, lạc khoản, thiên hạ, thiên lương, lương thiện,bái lĩnh … Tạo nên màu
sắc lịch sử, cổ kính, bi tráng. Đó còn thể hiện Nguyễn Tuân là bậc thầy về
ngôn ngữ, sử dụng các từ Hán Việt khiến cho câu văn lịch lãm, uy nghiêm và
tạo ấn tượng mạnh.
Có thể nói, Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn có phương pháp
sử dụng từ Hán Việt tài tình nhất. Ông có biệt tài trong việc gợi không khí cổ
kính. Đó là kết quả của sự khổ công tìm tòi mà nhờ đó, nhà văn có thể bộc lộ
rõ nhất tính cách, sở trường của mình trong một phong cách riêng không thể
lẫn. Đúng như nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: “Chỉ người ưa
suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ
văn để người nông nổi thưởng thức”. Ông xứng đáng được mệnh danh là
"người thợ kim hoàn của chữ".
2.5. Giọng điệu nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, tác giả Lê Bá Hán - Trần Đình Sử -
Nguyễn Khắc Phi (Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999):
Giọng điệu là “thái độ, tình cảm lập trường tư tưởng đạo đức của nhà
văn đối với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách
43 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ,
thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm” [6, 112].
Trong sáng tạo văn học, giọng điệu có vai trò quan trọng, là yếu tố đầu
tiên tạo nên phong cách của một tác giả. Giọng điệu có vai trò thống nhất
những yếu tố khác của hình thức nghệ thuật trong tác phẩm vào một chỉnh
thể. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, tình cảm, thái độ, thị hiếu thẩm
mỹ của tác giả. Mỗi nhà văn lớn thường có giọng điệu riêng khiến người đọc
dễ dàng nhận ra phong cách riêng của từng người. Nếu truyện ngắn của
Nguyễn Công Hoan là giọng điệu hài hước, trào phúng, tiếng cười ném thẳng
vào kẻ thù. Thì ở Nam Cao, có sự hòa trộn giọng điệu lạnh lùng, khách quan
với giọng xót xa, thương cảm. Trong văn Nguyên Hồng là giọng thương cảm
thống thiết trên từng câu chữ...
Nguyễn Tuân là nhà văn có tài năng bậc thầy trong việc tạo ra sự đa
giọng điệu. Chỉ xét tập truyện ngắn Vang bóng một thời, người đọc có thể dễ
dàng nhận thấy ba giọng điệu chính mà chúng tôi khảo sát sau đây. Đó là
giọng khinh bạc, lạnh lùng; giọng thán phục, luyến tiếc và giọng ngậm ngùi,
buồn tủi. Mỗi giọng điệu ấy, lại có những biểu hiện khác nhau nhằm hướng
tới một mục đích nghệ thuật nhất định.
2.5.1. Giọng khinh bạc, lạnh lùng
Nguyễn Tuân là một nghệ sỹ tài hoa, ngông nghênh, không chịu gò bó
trong khuôn khổ nào: “Con người ấy rất có ý thức về khả năng của mình và
luôn khát khao được sống một cuộc đời đầy đủ. Nhưng trong xã hội cũ, con
người như thế không thể tìm được chỗ đặt chân. Thành ra ông đã phải sống
héo hắt, chật hẹp rồi đâm ra khinh bạc với đời” (Trương Chính). Nguyễn
Tuân tìm về quá khứ hoặc xê dịch bằng những chuyến đi để cái tôi được tung
hoành, khẳng định mình giữa cuộc đời. Đây chính là cơ sở nảy sinh giọng
điệu ngông nghênh, khinh bạc trong văn Nguyễn Tuân.
44 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Trước Cách mạng tháng Tám, giọng khinh bạc, lạnh lùng là một giọng
điệu cơ bản, bao trùm lên tác phẩm của Nguyễn Tuân. Không ít nhà nghiên
cứu phê bình văn học và độc giả đã bị “dị ứng” với giọng điệu này bởi nó
không nhẹ nhàng, mềm mại mà gân guốc đến khó chịu nhưng không thể phủ
nhận một điều là chính giọng điệu ấy làm cho người ta không dễ dàng quên.
Trong Vang bóng một thời, giọng khinh bạc, lạnh lùng được nhà văn
thể hiện ở tác phẩm Chém treo ngành. Qua thái độ kể về câu chuyện mười
hai tên tử tù bị đem ra pháp trường xử chém, Nguyễn Tuân miêu tả sự việc
bằng một giọng văn rất lạnh lùng: “Một tiếng loa. Một tiếng trống. Ba tiếng
chiêng. Rứt mỗi hồi chiêng mớm, thì một tấm linh hồn lại lìa khỏi một thể xác.
Tùng! Bi li! Bi li! [...]. Lũ tử tù bị trói giật cánh khuỷu, quì gối trên mặt đất,
khom khom lưng, xếp theo hai hàng chênh chếch nhau, chầu mặt vào rạp.
Những người giữ phần việc ở bãi đoạn đầu đang bóp hông, nắn xương cổ và
tuốt cho mềm sống lưng lũ tử tù [...]. Họ lạnh người dần dần. Sinh khí chừng
như đã thoát hết khỏi người họ” [18, 18].
Những người bị hành hình đều là người của nghĩa quân Bãi Sậy, những
nhà ái quốc sa cơ thất thế, nhưng Nguyễn Tuân không hề tỏ thái độ ca ngợi
hay đứng về phía họ. Bởi trong thời điểm lúc bấy giờ, thực dân Pháp đang
kiểm duyệt sách báo khắt khe, bắt buộc nhà văn phải ẩn mình bằng giọng điệu
lạnh lùng khi miêu tả nghệ thuật hành hình của tên đao phủ. Nguyễn Tuân đã
thành công trong sự tố cáo hành động bạo ngược của bọn sát nhân khát máu,
chúng đã nhẫn tâm lấy việc giết người làm trò chơi tiêu khiển. Giọng văn đôi
khi lạnh lùng và tưởng chừng như tàn nhẫn ấy, Nguyễn Tuân dùng để tố cáo
xã hội thực dân nửa phong kiến lố lăng, tàn bạo. Đúng như nhà nghiên cứu
Phan Cự Đệ đã khẳng định: “Ngôn ngữ của Nguyễn do đó cũng là một thứ
ngôn ngữ khinh bạc, kênh kiệu cứ như đấm vào họng người ta” [2, 111].
45 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
Giọng điệu khinh bạc, lạnh lùng còn được thể hiện trong tác phẩm Chữ
người tử tù. Huấn Cao là một tử tù, nhưng luôn tỏ ra khinh bạc cường quyền,
thể hiện qua hành động rỗ gông: “Huấn Cao lạnh lùng,không thèm chấp, chúc
mũi gông nặng, khom mình thúc mạnh đầu thành gông xuống thềm đá tảng
đánh thuỳnh một cái... Một trận mưa rệp đã làm nền đá xanh nhạt lấm tấm
những điểm nâu đen” [18, 107]. Thậm chí, giọng khinh bạc còn bộc lộ qua
cuộc đối thoại giữa nhân vật Huấn Cao và viên quản ngục. Huấn Cao đã tỏ rõ
khí phách và bản lĩnh qua câu trả lời đầy khinh bạc: “Ngươi hỏi ta muốn gì?
Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng có đặt chân vào đây. Khi nói câu
mà ông cố ý làm ra khinh bạc đến điều...” [18, 109].
Có thể thấy, giọng điệu khinh bạc của nhân vật Huấn Cao khi chưa hiểu
được ý nguyện của viên quản ngục, thể hiện thái độ coi thường đối với những
tên cai ngục hèn nhát, cam chịu cuộc sống nô lệ. Qua đó, thể hiện tư tưởng,
lập trường của nhà văn về xã hội đương thời.
Như vậy, giọng điệu khinh bạc trong tập truyện ngắn Vang bóng một
thời bắt nguồn từ cảm hứng phê phán những cái xấu xa, thối nát trong xã hội
của Nguyễn Tuân. Đó cũng là sản phẩm của một quan niệm nghệ thuật đề cao
cái đẹp, đề cao ý thức cá nhân, cá thể. Đây chính là cơ sở để chúng ta lý giải
và cắt nghĩa giọng điệu khinh bạc, lạnh lùng trong truyện ngắn Nguyễn Tuân
trước Cách mạng tháng Tám.
2.5.2. Giọng thán phục, luyến tiếc
Ngoài giọng khinh bạc, lạnh lùng nói trên, giọng thán phục, luyến tiếc
cũng là một giọng điệu chủ đạo trong Vang bóng một thời. Là một tri thức tài
hoa yêu cái đẹp, nhưng sống trong xã hội rối ren, vì thế, Nguyễn Tuân quay
về quá khứ để tìm nét đẹp truyền thống bằng việc ngợi ca những thú chơi tao
nhã, lịch lãm. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, thú chơi ấy được thể
hiện cầu kì như một lễ nghi, lễ đạo. Tất cả lối sống, cách sống của những con
46 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
người tài hoa, tài tử trong quá khứ được Nguyễn Tuân làm sống lại bằng tình
cảm trân trọng, thái độ thán phục, luyến tiếc.
Trong tập Vang bóng một thời, người đọc cảm thấy luyến tiếc những
thú chơi truyền thống của người Việt ngày càng bị mai một theo thời gian và
lối sống Tây hóa. Bằng tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân, những thú chơi
tao nhã như thả thơ, đánh thơ, uống trà ngâm thơ, làm đèn kéo quân... được
sống lại trên từng trang văn với giọng điệu và thái độ trân trọng, thán phục,
luyến tiếc. Cách uống trà của cụ Ấm (Chén trà trong sương sớm) được miêu
tả một cách cầu kỳ như một nghi lễ thiêng liêng. Nguyễn Tuân kể lại bằng
giọng thán phục: “Chưa bao giờ ông già này dám cẩu thả trong cái thú chơi
thanh đạm. Pha cho mình cũng như pha trà mời khách, cụ Ấm đã để vào đấy
bao nhiêu công phu. Những công phu đó đã trở nên lễ nghi, nếu trong ấm trà
pha ngon, người ta chịu nhận thấy một chút mùi thơ và một tị triết lý và tâm
lý” [18, 133]. Mỗi buổi sớm cụ Ấm chỉ uống hai chén trà vào buổi sáng sớm,
nhưng lại dồn vào đó tất cả sự công phu, tỉ mỉ, từ cách nhóm bếp, đun nước,
pha trà, chọn giờ uống. Mỗi câu văn Nguyễn Tuân viết đều thể hiện sự hiểu
biết, trân trọng thú tiêu dao lành mạnh của người xưa.
Cùng viết về thú uống trà tao nhã và thanh đạm, ta bắt gặp nhân vật cụ
Sáu (Những chiếc ấm đất) cũng không màng danh lợi, phá gần hết cơ nghiệp
cha ông để lại chỉ vì thú vui uống trà Tàu. Câu chuyện về cụ Sáu gieo vào
lòng người đọc nỗi buồn, một niềm tiếc nuối khôn nguôi về sự tàn lụi của cái
đẹp trong quá khứ. Ca ngợi thú uống trà chính là bày tỏ sự thán phục, luyến
tiếc về cái đẹp truyền thống của dân tộc ta.
Đặc biệt, ở truyện Đánh thơ, giọng thán phục, luyến tiếc không ít lần
được vang lên. Mở đầu câu chuyện đã dẫn người đọc quay về quá khứ: “Giữa
quãng cuối đời vua Thành Thái và đầu đời Hoằng Tôn Tuyên hoàng đế, đất
Thuận Hóa, có ba người đàn bà rất đẹp và rất lẳng lơ. Bằng cái sắc, bằng
47 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
tiếng ca, bằng cái tiểu xảo, bằng cái duyên lúc kín đáo, lúc lộ liễu, ba người
đàn bà đẹp ấy đã thừa tô điểm cho xứ Huế trong một thời” [18, 50]. Cuộc đời
của đôi tài tử Phó Sứ - Mộng Liên như một câu chuyện nhẹ nhàng, man mác
buồn. Phó Sứ đã chết trên bước đường xê dịch, chỉ còn một mình Mộng Liên
trên cõi đời, trở thành người đàn bà góa, đang tìm người giữ đàn cho mình.
Cái chết của Phó Sứ như đánh dấu sự kết thúc những cuộc đánh thơ khiến
người đọc cảm thấy buồn và luyến tiếc.
Có thể nói, những trang viết trong Vang bóng một thời là những phong
vị xa xưa, là mảnh hồn của quê hương đất nước. Bằng giọng điệu thán phục,
luyến tiếc, Nguyễn Tuân đã níu giữ quá khứ bằng thái độ trân trọng. Với ông,
quá khứ là nơi hội tụ những tinh túy của tâm hồn Việt. Ở đó, người ta hiểu
biết thêm về cách pha trà, cách thưởng thức một ấm trà, hiểu thêm về nghệ
thuật thư pháp xưa. Hướng về quá khứ vàng son, Nguyễn Tuân bộc lộ sự
luyến tiếc về những vẻ đẹp đã qua không bao giờ quay trở lại.
2.5.3. Giọng ngậm ngùi, buồn tủi
Trong tập Vang bóng một thời, người đọc còn thấy giọng điệu man
mác dư vị ngậm ngùi, buồn tủi. Giáo sư Phan Cự Đệ cho rằng: “Nguyễn Tuân
đã làm cái việc của một người đi khơi lại đống tro tàn của dĩ vãng, tìm lại cái
đẹp ngày đã qua của một thời vang bóng. Cảm tưởng của người đọc khi gấp
sách lại là ngậm ngùi, tiếc nuối một cái gì đã mất hút vào xa xưa” [12, 271].
Trong truyện Những chiếc ấm đất, cụ Sáu là một người cả đời đam mê
uống trà Tàu, chỉ uống trà khi được pha bằng cái ấm của mình và nước giếng
của chùa Đồi Mai. Cụ Sáu có một thời sống phong lưu: “Danh và lợi, ông ta
không màng. Phá gần hết cơ nghiệp ông cha để lại, ông ta thực đã coi cái phú
quý nhỡn tiền không bằng một ấm trà Tàu”. Vậy mà “bây giờ ông cụ Sáu sa
sút lắm rồi. Bây giờ ông cụ lo lấy bữa cơm cũng khó, chứ đừng nói đến
chuyện uống trà. Thỉnh thoảng có xin được người nào quen một vài ấm, cụ
48 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
lấy làm quý lắm” [18, 36]. Giọng ngậm ngùi, buồn tủi càng xót xa hơn khi
nhà văn miêu tả cảnh gia đình sa sút, phải bán từng chiếc ấm đất.
Có thể thấy, đối với những cái đẹp của một thời vàng son trong quá
khứ, giọng điệu của nhà văn bao giờ cũng đôn hậu nhưng biết bao buồn tủi,
ngậm ngùi. Ở Vang bóng một thời, ta thường bắt gặp những câu văn có nhịp
điệu trầm buồn, thong thả từ tốn, nghiền ngẫm cho thật kĩ mới thấy mang
trong đó một trạng thái của tâm hồn nguyễn Tuân luôn hoài niệm về quá khứ.
Truyện Báo oán, ông Đầu Xứ Anh khi tiễn em đi thi, luôn trăn trở
mong sao làng Cổ Nguyệt được vinh dự có người đỗ đạt. Nhưng hồn ma hiện
về báo oán, khiến hai anh em Đầu Xứ không thể ghi tên trên bảng vàng. Bằng
giọng buồn tủi Nguyễn Tuân miêu tả tâm trạng chán nản, thất vọng của những
sĩ tử khi bị hỏng thi: “Hai anh em gặp nhau, lẳng lặng không nói một câu
nào... đó là đêm dài nhất trong một đời người” [18, 189]. Giọng điệu xót xa,
ngậm ngùi cho những người tài tử nhưng luôn bị vùi dập tài năng. Trong xã
hội kim tiền ô trọc, con người tôn thờ cái đẹp sẽ rơi vào khủng hoảng, bế tắc,
lụi tàn.
Trong truyện Đánh thơ, Nguyễn Tuân cũng bày tỏ thái độ ngậm ngùi,
xót xa cho cặp vợ chồng Phó Sứ - Mộng Liên. Họ là một đôi tri kỷ tài hoa, tài
tử, nguyện đem cuộc đời cống hiến cho những đêm phiêu bạt theo những vần
thơ. Để rồi ông phó sứ đã bất ngờ trúng cơn gió độc mà chết trên đường.
Đằng sau cái chết của những người tài tử ấy, nhà văn bộc lộ sự tiếc thương
bằng giọng điệu ngậm ngùi, buồn tủi: “Rồi đây những lúc thanh vắng, những
lúc trăng bãi gió ngàn, hồn ma tha hồ mà trêu ghẹo khách bộ hành cô Kinh
đấy ông ạ”. Nguyễn Tuân bộc lộ niềm xót xa cho cái thân phận kiếp tài hoa,
tài tử thật mong manh, cái chết có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
Ở truyện Ngôi mả cũ, giọng ngậm ngùi, buồn tủi được thể hiện qua
nhân vật cô Tú. Nhân vật ấy “đưa chúng ta đến hương vị cũ kỹ và nhẫn nại
49 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
của một sự hy sinh”. Sự tàn phá của những ngày loạn lạc, đã làm cho hai chị
em cô Tú trở thành những đứa trẻ mồ côi phải vất vả tự nuôi nhau. Cô Tú
không đi lấy chồng, ở nhà dệt vải để nuôi em đi học. Cậu Chiêu chăm chỉ và
ngoan ngoãn, yêu chị và kính chị như mẹ. Thêm vào đó là bóng dáng của cụ
Hồ Viễn, một tướng Cờ Đen thất thế, làm thầy địa lý lúc về già. Một bức vẽ
trong đó tác giả phác họa được cả một lớp người phong kiến tàn tạ, đang phải
sống trong bế tắc, nhưng họ vẫn luôn hy vọng vào ngày mai tươi sáng, niềm
hy vọng của con người y như một dòng suối chảy không bao giờ dứt. Bằng
giọng điệu ngậm ngùi, buồn tủi, nhà văn đã thể hiện sự xót xa, thương cảm
cho các nhân vật trong truyện.
Như vậy, giọng điệu nghệ thuật trong tập truyện ngắn Vang bóng một
thời của Nguyễn Tuân rất đa dạng, nhiều sắc thái. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc
Phan nhận định: “Văn chương Nguyễn Tuân đã làm cho văn giới Việt Nam
phải chú ý đến lối hành văn đặc biệt của ông và những ý kiến cùng tư tuởng
phô diễn bằng những giọng tài hoa, lúc thì sâu cay, khinh bạc, lúc thì đầy
nghệ thuật, như một bức phác họa, nhưng bao giờ nó cũng cho người ta thấy
một trạng thái của tâm hồn”. Vì thế, ở khóa luận này, việc chia tách giọng
điệu như trên chỉ mang tính tạm thời, thể hiện ý kiến chủ quan của người viết
để thuận lợi cho việc nghiên cứu. Trên thực tế, nhà văn đã sử dụng kết hợp
nhiều giọng điệu khác nhau. Cái tôi tài hoa của Nguyễn Tuân có lúc khinh
bạc, lạnh lùng trước sự nhố nhăng của cuộc đời trần tục. Lúc lại thán phục và
luyến tiếc trước vẻ đẹp vang bóng một thời, khi thì ngậm ngùi, buồn tủi, xót
xa cho những giá trị cao đẹp bị mai một. Các giọng điệu này không tách bạch
mà luôn kết hợp, đan xen với nhau để tạo nên sự đa dạng về giọng điệu trong
mỗi trang văn của Nguyễn Tuân. Điều đó đã chứng tỏ tài năng, sự uyên bác
của một nhà văn lớn.
50 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
KẾT LUẬN
Trong nền văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Tuân xứng đáng là một
tác gia lớn với sự nghiệp sáng tác đồ sộ, rất mực tài hoa và độc đáo. Ở cả hai
giai đoạn trước và sau Cách mạng, Nguyễn Tuân luôn là cây bút nổi bật trên văn
đàn Việt Nam. Gần một thế kỷ trôi qua, Vang bóng một thời đã được tái bản
nhiều lần và vẫn có sức hấp dẫn, lôi cuốn nhiều thế hệ bạn đọc.
Tập truyện ngắn Vang bóng một thời là cả một niềm tâm sự u uất chứa
đựng một cái nhìn bất mãn với thời cuộc của tác giả. Cũng bởi thế, ông chỉ
tìm thấy cái đẹp trong một thời vang bóng. Đó là cái đẹp tài hoa, tài tử được
Nguyễn Tuân nâng thành cái đẹp tuyệt đối.
Là nhà văn nghiêng về chủ nghĩa duy mĩ, Nguyễn Tuân yêu cái đẹp và
thờ phụng cái đẹp. Cũng bởi thế ông luôn ca ngợi những con người tài tử, chí
khí hơn người. Với tài năng nghệ thuật độc đáo và tài hoa, Nguyễn Tuân đã
xây dựng lên một thế giới nhân vật vô cùng phong phú, đa dạng. Đó là những
con người tài hoa nghệ sỹ của một thời vang bóng, là nhân vật kỳ ảo trong cái
nhìn hư cấu tưởng tượng. Đó còn là những nhân vật lãng tử giang hồ xê dịch
mang dáng dấp của nhà văn. Bên cạnh việc xây dựng nhân vật, nhà văn còn
tạo dựng được không gian và thời gian nghệ thuật độc đáo. Đặc biệt, Nguyễn
Tuân là nhà văn có ý thức nghiêm túc về nghề nghiệp. Ông quan niệm nghề
văn là nghề của chữ và luôn luôn coi trọng việc lựa chọn và sử dụng ngôn từ.
Văn chương Nguyễn Tuân vì thế không phù hợp cho sự đọc nhanh, đọc vội
mà phải nghiền ngẫm, suy nghĩ mới thấy cái hay, cái đẹp trong lớp sóng ngôn
từ của ông. Cách sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu của Nguyễn Tuân không
thể trộn lẫn với bất kỳ ai. Đó là vừa sử dụng những ngôn từ Hán Việt mang
sắc thái cổ kính, vừa lạ hóa những ngôn ngữ thông thường, đồng thời kết hợp
giữa ngôn ngữ tả và ngôn ngữ kể, tạo nên tính hấp dẫn cho tác phẩm. Giọng
51 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
điệu trong Vang bóng một thời của Nguyễn Tuân được thể hiện qua ba giọng
điệu cơ bản đó là giọng khinh bạc, lạnh lùng; thán phục, luyến tiếc và ngậm
ngùi, buồn tủi. Thể hiện sự bất hòa với xã hội đương thời, bên cạnh đó là sự
tiếc nhớ quá khứ xa xưa với bao nỗi niềm, tâm trạng, cùng những triết lý nhân
sinh sâu sắc.
Có thể khẳng định rằng, vẻ đẹp trên từng trang viết trong Vang bóng
một thời là kết quả tất yếu từ một cách viết mang chiều sâu, bề rộng và tầm
cao văn hóa của Nguyễn Tuân. Lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, đặc biệt
biểu hiện ở thái độ thành kính, trân trọng tiếng mẹ đẻ và các giá trị truyền
thống chính là động lực bên trong, thôi thúc nhà văn không ngừng tìm tòi,
khơi nguồn vốn cũ và sáng tạo nên giá trị mới.
52 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trương Chính (Tuyển tập, tập 2), (1997), Nxb Văn học, Hà Nội.
2. Phan Cự Đệ - Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp Hà Nội.
3. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Văn học, Hà Nội,
Hà Nội.
4. Nguyễn Thị Hồng Hà, Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, Nxb Văn học.
5. Võ Thị Xuân Hà, Nguyễn Tuân - Trái núi cao xanh,vnexpress.net,
http://evan.vnexpress.net/news/phe-binh/phe-binh/2010/07/3b9aeb6a/,
Thứ hai, 05/07/2010, 11:10.
6. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1999), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
8 . Đoàn Trọng Huy (2007), Hình tượng không gian đa dạng trong văn xuôi
nghệ thuật Nguyễn Tuân, Tạp chí Nghiên cứu Văn học (6).
9. Nguyễn Đăng Mạnh (1991), Nguyễn Tuân bàn về văn học nghệ thuật,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
10. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam 1930 -
1945, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và
phong cách, Nxb Văn học.
12. Tôn Thảo Miên (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Nguyễn Tuân về tác gia
và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Vương Trí Nhàn, Nguyễn Tuân: Sự biến hóa của cái đẹp,
http://htx.dongtak.net/spip.php?article3645, Thứ Ba 13, Tháng Bảy 2010.
53 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn
Khóa luận tốt nghiệp đại học
14. Nguyễn Thị Ninh (1998), Ngôn từ nghệ thuật trong tùy bút Nguyễn Tuân,
Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học sư phạm, Hà Nội.
15. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại (tập 1), Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
16. Trần Đình Sử (chủ biên) La Khắc Hòa - Phùng Ngọc Kiếm - Nguyễn
Xuân Nam, (1987), Giáo trình Lý luận văn học (tập 2), Nxb Đại học Sư
phạm.
17. Trần Văn Trọng (2009), Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Tuân trước Cách
mạng, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Hà Nội.
18. Tác phẩm chọn lọc văn học Việt Nam, Vang bóng một thời, Nxb Văn học.
19. Nguyễn Tuân toàn tập (2000), Nxb Văn học, Hà Nội.
54 Nguyễn Thị Hạ K36D - Ngữ văn