Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại PGD Lò Đúc- chi nhánh Ngân hàng Việt Nam thương tín Vietbank tại Hà Nội
lượt xem 57
download
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại PGD Lò Đúc - chi nhánh Ngân hàng Việt Nam thương tín Vietbank tại Hà Nội nhằm nghiên cứu những vấn đề cơ bản về DNVVN và hoạt động tín dụng ngân hàng để hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu, vai trò, vị trí của DNVVN trong nền kinh tế,...từ đó, đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng cho các DNVVN của PGD Lò Đúc.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với DNVVN tại PGD Lò Đúc- chi nhánh Ngân hàng Việt Nam thương tín Vietbank tại Hà Nội
- LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. Doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) là một loại hình doanh nghiệp không những thích hợp đối với nền kinh tế của những nước công nghiệp phát triển mà còn đặc biệt thích hợp với nền kinh tế của những nước đang phát triển. Ở nước ta trước đây, việc phát triển các DNVVN cũng đã được quan tâm, song chỉ từ khi có đường lối đổi mới kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng thì các doanh nghiệp này mới thực sự phát triển nhanh cả về số và chất lượng. Trong điều kiện của những bước đi ban đầu thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, có thể khẳng định việc đẩy mạnh phát triển DNVVN là bước đi hợp quy luật đối với nước ta. DNVVN là công cụ góp phần khai thác toàn diện mọi nguồn lực kinh tế đặc biệt là những nguồn tiềm tàng sẵn có ở mỗi người, mỗi miền đất nước. Các DNVVN ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong việc giải quyết các mối quan hệ mà quốc gia nào cũng phải quan tâm chú ý đến đó là: Tăng trưởng kinh tế giải quyết việc làm. Nhưng để thúc đẩy phát triển DNVVN ở nước ta đòi hỏi phải giải quyết hàng loạt các khó khăn mà các doanh nghiệp này đang gặp phải liên quan đến nhiều vấn đề. Trong đó khó khăn lớn nhất, cơ bản nhất, phổ biến nhất đó là thiếu vốn sản xuất và đổi mới công nghệ. Vậy DNVVN phải tìm vốn ở đâu trong điều kiện thị trường vốn ở Việt Nam chưa phát triển và bản thân các doanh nghiệp này khó đáp ứng đủ điều kiện tham gia, chúng ta cũng chưa có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp này một các hợp lý. Vì vậy phải giải quyết khó khăn về vốn cho các DNVVN đã và đang là một vấn đề cấp bách mà Đảng, Nhà nước, bản thân các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng cùng phải quan tâm giải quyết.
- Thực tế hiện nay cho thấy nguồn vốn tín dụng ngân hàng đầu tư cho phát triển DNVVN còn rất hạn chế vì các DNVVN khó đáp ứng đầy đủ điều kiện vay vốn ngân hàng và khi tiếp cận nguồn vốn tín dụng thì các doanh nghiệp lại sử dụng vốn chưa hợp lý và hiệu quả. Vì thế việc tìm ra giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN đang là một vấn đề bức xúc hiện nay của các NHTM. Xuất phát từ quan điểm đó và thực trạng hoạt động của các DNVVN hiện nay, sau một thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Đông Anh em đã chọn đề tài : “GIẢI PHÁP MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI PGD LÒ ĐÚC CHI NHÁNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM THƯƠNG TÍN (VIETBANK) TẠI HÀ NỘI” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về DNVVN và hoạt động tín dụng ngân hàng đối với DNVVN để hiểu rõ những điểm mạnh, điểm yếu, vai trò, vị trí của DNVVN trong nền kinh tế; vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển DNVVN. Trên cơ sở đó, nghiên cứu cụ thể mối quan hệ tín dụng giữa Chi nhánh NHCT Đông Anh với các DNVVN, thấy được thực trạng của hoạt động này, từ đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần mở rộng tín dụng cho các DNVVN của PGD Lò Đúc . 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Thực trạng hoạt động tín dụng đối với các DNVVN tại PGD Lò Đúc trong 3 quý đầu năm 2010. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, khóa luận đã sử dụng kết hợp một số phương pháp nghiên cứu khoa học để phân tích lý luận và thực tiễn như: Phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hoạt động kinh tế, phương pháp tổng hợp thống kê… 5. Kết cấu của đề tài
- Khóa luận gồm 3 phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về doanh nghiệp vừa và nhỏ và tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chương 2: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại PGD Lò Đúc Chi nhánh Hà Nội , Ngân hàng Việt Nam Thuơng Tín. Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại PGD Lò Đúc Chi nhánh Hà Nội , Ngân hàng Việt Nam Thuơng Tín.
- CHƯƠNG 1 LÝ LUẬN CHUNG VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.1.1. Khái niệm a. Khái niệm doanh nghiệp Theo khoản 1 điều 4 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định thì: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh. b. Khái niệm DNVVN Ở Việt Nam, do chưa có tiêu chí xác định cụ thể đâu là doanh nghiệp nhỏ đâu là doanh nghiệp vừa nên một số cơ quan Nhà nước, một số tổ chức hỗ trợ đã chủ động đưa ra các tiêu chí quy định DNVVN để phục vụ cho công tác của mình như: NHCT Việt Nam quy định: là doanh nghiệp có dưới 500 lao động, vốn cố định
- bình hàng năm không quá 300 người. Căn cứ vào tình hình kinh tế – xã hội cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai tiêu chí vốn và lao động hoặc một trong hai tiêu chí nói trên. Đây là văn bản pháp luật đầu tiên chính thức quy định về DNVVN. Ý nghĩa nổi bật nhất của nghị định này là đã tạo nên khung pháp lý cho việc trợ giúp phát triển DNVVN ở nước ta. Theo nghị định 56/2009/NĐCP thì doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên), cụ thể như sau: Quy mô Doanh Doanh Doanh nghiệp vừa nghiệp siêu nghiệp nhỏ nhỏ Số lao Tổng Số lao Tổng nguồn Số lao động Khu vực động nguồn vốn động vốn I. Nông, lâm nghiệp và 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200 thủy sản trở xuống trở xuống người đến đồng đến 100 người đến 200 người tỷ đồng 300 người II. Công nghiệp và xây 10 người 20 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 20 tỷ từ trên 200 dựng trở xuống trở xuống người đến đồng đến 100 người đến 200 người tỷ đồng 300 người III. Thương mại và 10 người 10 tỷ đồng từ trên 10 từ trên 10 tỷ từ trên 50 dịch vụ trở xuống trở xuống người đến đồng đến 50 người đến 50 người tỷ đồng 100 người
- Ngoài ra, DNVVN là một loại hình doanh nghiệp nên nó mang đầy đủ đặc điểm của một doanh nghiệp. Ngoài ra DNVVN còn có một số đặc điểm riêng. a. Đặc điểm tạo nên những ưu thế cho DNVVN DNVVN có thể hoạt động mà không cần phải đòi hỏi một lượng vốn lớn. Thêm vào đó lĩnh vực sản xuất kinh doanh thường hướng tới phục vụ trực tiếp đời sống xã hội, chủ yếu nhằm vào những sản phẩm có sức mua cao, nên có thể huy động được các nguồn lực xã hội, các nguồn vốn còn tiềm ẩn trong dân do đó các DNVVN có khả năng đầu tư rất đa dạng và linh hoạt. Hơn nữa chu kì sản xuất kinh doanh ngắn, diễn biến theo mùa nên tốc độ quay vòng vốn nhanh, từ đó mang lại hiệu quả kinh tế cao cho doanh nghiệp. Cơ chế tổ chức quản lý của DNVVN hoạt động tương đối hiệu quả so với các loại hình doanh nghiệp còn lại. Trong DNVVN, cơ cấu tổ chức thường nhỏ gọn, ít cấp bậc, thường không bị chồng chéo. Cũng chính vì cơ cấu tổ chức đơn giản và gọn nhẹ của các DNVVN được đi cùng với cơ chế quản lý, điều hành hết sức linh hoạt đã đem lại hiệu quả tích cực trong quản trị doanh nghiệp. Chi phí quản lý của các DNVVN tương đối thấp. Thời gian đưa ra quyết định của các DNVVN ngắn, do đó có thể đưa ra quyết định nhanh chóng và hiệu quả đối với những vấn đề liên quan đến sản xuất kinh doanh khiến cho kế hoạch kinh doanh có thể được xây dựng và điều chỉnh sát với các biến động thực tế trên thị trường cũng như các nguồn lực nội tại của doanh nghiệp như vốn, nhân sự, trình độ kỹ thuật… Các DNVVN rất năng động và có tính linh hoạt cao. DNVVN có thể sử dụng linh hoạt các loại máy móc, thiết bị nội địa, dễ dàng thay đổi công nghệ sao cho phù hợp với yêu cầu của thị trường, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật mà không cần nhiều chi phí; có thể kết hợp cả những công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, sản xuất ra những sản phẩm chất
- lượng cao trong điều kiện sản xuất không thuận lợi. Hơn thế, do nhạy cảm với những biến động của thị trường và khả năng phản ứng lại thị trường cũng rất linh động, các DNVVN có thể chuyển đổi nhanh mặt hàng sao cho phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng; tận dụng được các nguồn nguyên vật liệu, nhân lực tại chỗ. DNVVN tồn tại và phát triển ở mọi ngành nghề, mọi thành phần kinh tế và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Với quy mô khiêm tốn của mình, các DNVVN có thể hoạt động trong cả những lĩnh vực mà những doanh nghiệp lớn không muốn tham gia hoặc không thể vươn tới, do đó nó có thể tạo ra một lượng cung hàng hóa đáp ứng đầy đủ, kịp thời nhất mọi nhu cầu tiêu dùng, dù là nhỏ nhất của tất cả các tầng lớp xã hội. Các DNVVN có số lượng lớn, phân bố rộng khắp trên cả nước, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế và hoạt động dưới nhiều hình thức như DNNN, doanh nghiệp tư nhân, CTCP, CT TNHH, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cơ sở kinh tế cá thể khác. b. Đặc điểm tạo nên những bất lợi cho DNVVN Đa phần các DNVVN có quy mô sản xuất kinh doanh nhỏ và luôn trong tình trạng thiếu vốn, “khát vốn” cho mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đầu tư cải tiến máy móc, trang thiết bị mới. Theo kết quả khảo sát điều tra hơn 63 ngàn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy số vốn của các DNVVN còn rất thấp: khoảng 50% doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% doanh nghiệp có vốn dưới 2 tỷ đồng và có tới 90% doanh nghiệp có vốn dưới 5 tỷ đồng (nguồn: Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu tư). Thông tin của các DNVVN thường không minh bạch do hạn chế kiến thức về kế toán, về thông tin tài chính… nên việc lập kế hoạch tài chính cũng như lập các báo cáo tài chính thiếu chính xác, không trung thực. Do
- chính sách ưu đãi thuế thu nhập đối với DNVVN, một số doanh nghiệp đã cố tình “chế biến” số liệu, giấu lãi để hưởng chính sách ưu đãi thuế. Chủ yếu các DNVVN không có tài sản đảm bảo để vay vốn. Mặt khác việc chuyển giao quyền sở hữu về vốn góp bằng tài sản chưa rõ ràng minh bạch gây khó khăn cho ngân hàng trong quá trình thẩm định tài chính, thẩm định tài sản đảm bảo. Năng lực quản trị điều hành của chủ DNVVN kém, còn thói quen điều hành quản trị theo kiểu gia đình. Việc lập kế hoạch kinh doanh, phương án kinh doanh thiếu tính chuyên nghiệp. Chưa biết thu thập và xử lý tốt các thông tin, khả năng tự điều chỉnh trong nền kinh tế thị trường đầy biến động còn hạn chế. Trình độ của người lao động còn hạn chế. Các chủ DNVVN không đủ khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn trong việc thuê những người lao động có tay nghề cao do hạn chế về tài chính. Người lao động ít được đào tạo và bồi dưỡng chuyên môn do kinh phí hạn hẹp vì vậy kỹ năng tay nghề của người lao động không cao. Ngoài ra, sự không ổn định khi làm việc cho các DNVVN, cơ hội để phát triển thấp tại các doanh nghiệp này cũng tác động làm cho nhiều người lao động có kỹ năng tay nghề cao không muốn làm việc cho khu vực này. Hạ tầng cơ sở phục vụ cho sản xuất kinh doanh còn nhiều hạn chế, máy móc thiết bị lạc hậu, chi phí đầu vào cho sản xuất lớn. Hiện nay phần lớn công nghệ mà các DNVVN đang sử dụng đã lạc hậu hàng chục năm, có khi vài chục năm, như trong ngành điện tử là khoảng 15 20 năm, ngành cơ khí là 20 năm, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm chỉ ở mức 5 7% so với mức 20% của thế giới. Kỹ thuật, công nghệ lạc hậu đã kéo theo hiệu quả sử dụng vốn thấp, đồng thời làm chi phí đầu vào tăng.
- DNVVN thường gặp khó khăn về tiếp cận những nguồn thông tin, công nghệ tiên tiến. Đó là một trở ngại lớn khó vượt qua do công nghệ mới thường rất đắt nên các DNVVN thường không đủ nguồn vốn để đầu tư ngay vào lĩnh vực này. Chưa có khả năng liên kết, hợp tác giữa các DNVVN với nhau, với các hiệp hội, với phòng thương mại, với ngân hàng… Tính thực thi các chính sách hỗ trợ của Chính phủ còn hạn chế. Dẫn đến năng lực cạnh tranh của các DNVVN kém. 1.1.3. Vai trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam Kể từ khi Luật Doanh nghiệp có hiệu lực vào ngày 01/01/2000, khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là các DNVVN trở thành khu vực kinh tế năng động nhất. Với xuất phát điểm là một nền kinh tế kém phát triển, sản xuất nhỏ lẻ phổ biến, nên các DNVVN chiếm một tỷ trọng đáng kể trong các loại hình doanh nghiệp tại Việt Nam. Các DNVVN đã và đang trở thành một lực lượng kinh tế quan trọng, góp phần vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế và đóng góp vào nguồn thu đáng kể cho Ngân sách Nhà nước. Từ năm 2000 đến năm 2006, Việt Nam có 207.034 doanh nghiệp dân doanh (chủ yếu là các DNVVN) đăng ký kinh doanh thành lập mới với tổng số vốn đăng ký đạt hơn 466 nghìn tỷ đồng (tương đương gần 3 tỷ USD). Trong thời gian qua, các doanh nghiệp dân doanh đã sử dụng gần 3 triệu lao động, đóng góp hơn 40% GDP và 29% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đóng góp khoảng 14,8% tổng thu Ngân sách Nhà nước. Việc phát triển DNVVN sẽ góp phần đa dạng hóa các thành phần kinh tế, góp phần đáng kể vào sự tăng trưởng GDP của đất nước, đẩy nhanh tốc độ phát triển của nền kinh tế, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa, dịch vụ cho nền kinh tế. Vai trò của các DNVVN không chỉ thể hiện ở giá trị kinh tế mà nó tạo ra, mà quan trọng hơn nó có ý nghĩa then chốt trong việc tạo ra công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, phát triển đồng đều giữa các vùng, khu vực trong cả nước.
- DNVVN còn có vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất lưu thông hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Hệ thống cửa hàng sản xuất kinh doanh, thương mại dịch vụ vừa và nhỏ đặt ở khắp các đường phố, khu công nghiệp, các tụ điểm dân cư, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng một cách nhanh chóng, thuận tiện. Với tính năng động cao, các DNVVN còn là trường học khởi nghiệp cho các doanh nhân và là môi trường tạo mối liên kết, tích tụ vốn để từng bước hình thành các doanh nghiệp lớn. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp lớn đều hình thành từ các DNVVN cách đây vài chục năm và mọi người khi làm quen với môi trường kinh doanh thường bắt đầu với những DNVVN. Từ những DNVVN các nhà kinh doanh sẽ được làm quen với sự cạnh tranh, tiếp cận các kỹ năng quản lý cơ bản, tích lũy kinh nghiệm cho bản thân. Họ sẽ là người lãnh đạo các doanh nghiệp này phát triển thành các doanh nghiệp lớn hoặc tự tìm kiếm các doanh nghiệp lớn để phát triển hơn nữa năng lực của mình. Nguồn nhân lực về quản lý vì thế được nâng cao cả về chất lượng cũng như số lượng. DNVVN có vai trò tích cực đối với sự phát triển kinh tế địa phương, khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Các DNVVN có thể hoạt động ở khắp mọi nơi thậm chí cả những nơi cơ sở hạ tầng chưa phát triển như vùng núi, hải đảo, nông thôn. Nhờ đó, doanh nghiệp có thể khai thác rộng khắp các tài nguyên của từng vùng. Việc nhiều doanh nghiệp, chủ yếu là các DNVVN được thành lập tại các vùng nông thôn, vùng núi, vùng sâu vùng xa sẽ góp phần trong việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ. Các DNVVN góp phần làm tăng hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Sự ra đời của các DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế. Với sự tồn tại của nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
- ngành, cùng một lĩnh vực sẽ làm giảm tính độc quyền và buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh, phải liên tục đổi mới, làm ăn có hiệu quả để có thể tồn tại và phát triển. DNVVN đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội ngày càng phong phú, đa dạng mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN đã phát triển hầu khắp các lĩnh vực, rất đa dạng và phong phú như: nông nghiệp, công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Nếu trong những năm trước đây, vốn đầu tư của khu vực tư nhân và số lượng doanh nghiệp tư nhân thành lập mới hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực thương mại thì trong thời gian gần đây có xu hướng tăng lên trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh, du lịch, xây dựng, giao thông… 1.1.4. Các nguồn huy động vốn của DNVVN a. Nguồn tài chính phi chính thức Vay từ người quen, người thân nhưng lượng vốn huy động không nhiều và không có sẵn khi cần thiết. Vay từ người cho vay nặng lãi, mặc dù không cần tài sản thế chấp và có thể đáp ứng đủ, kịp thời nhu cầu vay nhưng hình thức này lại có chi phí rất cao. Vay thông qua hình thức trả chậm, chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp hoặc giữa các doanh nghiệp với nhà cung cấp các yếu tố đầu vào. Trong việc tài trợ cho các DNVVN, các nguồn tài chính phi chính thức này có một số lợi thế nhất định là khá linh hoạt, chi phí giao dịch thường thấp hơn, hơn nữa giao dịch chủ yếu dựa trên cơ sở lòng tinh giữa những người đi vay và người cho vay nên thường không có tài sản thế chấp. Tuy nhiên, nguồn tài chính này cũng bộc lộ nhiều hạn chế như: quy mô cho vay nhỏ, ngắn hạn với chi phí phát sinh cao, chỉ đủ để tài trợ cho những hoạt động mua sắm tài sản cố định có quy mô nhỏ và đầu tư nhiều lần. Như vậy,
- các nguồn vốn này khó có thể đáp ứng được yêu cầu phát triển DNVVN. Do đó, việc tiếp cận với các nguồn tài chính chính thức được xem là cần thiết cho quá trình tăng trưởng và phát triển của các DNVVN. b. Nguồn tài chính chính thức Nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển và Ngân hàng chính sách xã hội. Nguồn tín dụng từ các TCTD hiện hành bao gồm các NHTM quốc doanh, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các quỹ tín dụng nhân dân và các công ty cho thuê tài chính. Để mở rộng sản xuất và phát triển hoạt động kinh doanh, các DNVVN chủ yếu tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Nhưng việc tiếp cận nguồn vốn này cũng không phải dễ dàng. Theo điều tra về thực trạng DNVVN của Cục phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa Bộ Kế hoạch và Đầu tư chỉ có 32.28% các DNVVN có khả năng tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, còn lại các DNVVN rất khó hoặc không thể tiếp cận được. Các chương trình tín dụng của các tổ chức và chính phủ nước ngoài như: Quỹ phát triển DNVVN của cộng đồng châu Âu (SMEDF), tín dụng hỗ trợ của ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), dự án phát triển khu vực Mêkông (MPFD), hỗ trợ của công ty tài chính quốc tế IFC tại Việt Nam… Nguồn vốn huy động trên thị trường chứng khoán thông qua việc niêm yết và phát hành trái phiếu, cổ phiếu. Tuy nhiên, hình thức huy động vốn này đối với DNVVN rất khó khăn, bởi những điều kiện niêm yết, phát hành hết sức chặt chẽ mà các DNVVN khó có thể đáp ứng được. 1.2. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ 1.2.1. Khái niệm, đặc trưng, phân loại tín dụng ngân hàng a. Khái niệm tín dụng ngân hàng
- Danh từ tín dụng xuất phát từ gốc La tinh Creditum có nghĩa là một sự tin tưởng tín nhiệm lẫn nhau, hay nói cách khác đó là lòng tin. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng là quan hệ vay mượn lẫn nhau trên cơ sở có hoàn trả cả gốc và lãi. Theo K.Mác, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quay về với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Theo quan điểm này phạm trù tín dụng có 3 nội dung chủ yếu đó là: tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả. Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa. Quá trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn sau: Thứ nhất: phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay. Ở giai đoạn này, giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên nhận được giá trị và cũng chỉ một bên nhượng đi giá trị. Thứ hai: sử dụng vốn trong quá trình tái sản xuất. Người đi vay sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không được quyền sở hữu về giá trị đó. Thứ ba: đây là giai đoạn kết thúc một vòng tuần hoàn của tín dụng. Sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kì sản xuất để trở về hình thái tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay. Việc các ngân hàng thương mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối vốn dưới hình thức cho vay được gọi là tín dụng ngân hàng. b. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng * Tín dụng ngân hàng được thiết lập trên cơ sở lòng tin.
- Lòng tin là cơ sở đầu tiên để có quan hệ tín dụng. Vì quan hệ tín dụng chỉ xảy ra khi người cho vay tin tưởng người đi vay sẽ hoàn trả tiền vay, sẽ sử dụng vốn vay có hiệu quả. Tuy nhiên, lòng tin thể hiện ở uy tín, tài sản bảo đảm của khách hàng hay sự bảo lãnh của bên thứ ba. Điều này rất quan trọng vì nó tạo nên sự an toàn cho hoạt động tín dụng của ngân hàng. * Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn có thời hạn. Nếu không có thời hạn thì không thể gọi là quan hệ tín dụng hoàn chỉnh. Thời hạn trong quan hệ tín dụng phụ thuộc vào thỏa thuận giữa ngân hàng và khách hàng. Để xác định thời hạn vay ngân hàng căn cứ tính hợp lý giữa thời hạn đi vay và thời hạn cho vay vốn để giảm thiểu rủi ro thanh khoản. Còn khách hàng xác định dựa trên cơ sở chu kì sản xuất kinh doanh, thời điểm hình thành nguồn thu của mình. * Tín dụng ngân hàng mang tính hoàn trả cả gốc và lãi. Hoàn trả là thuộc tính vốn có của tín dụng. Vì vốn cho vay của ngân hàng là vốn huy động của những người tạm thời thừa nên sau một thời gian nhất định ngân hàng phải trả lại cho người ký thác. Mặt khác, ngân hàng cần phải có nguồn để bù đắp chi phí hoạt động như: khấu hao tài sản cố định, trả lương cán bộ công nhân viên, chi phí văn phòng phẩm… nên người vay vốn ngoài việc trả nợ gốc còn phải trả cho ngân hàng một khoản lãi. Ngoài ra, trong nền kinh tế thị trường tín dụng còn mang các đặc trưng sau: Hoạt động tín dụng luôn bị chi phối bởi các quy luật kinh tế khách quan của thị trường: Quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh, quy lu ật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ. Hoạt động tín dụng luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro. Đó là những khoản lỗ tiềm năng mà ngân hàng phải gánh chịu khi đến hạn khách hàng không thực hiện hoặc không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của mình.
- c. Phân loại tín dụng ngân hàng Hoạt động tín dụng rất đa dạng và phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Để sử dụng và quản lý tín dụng có hiệu quả thì phải tiến hành phân loại tín dụng. Mặt khác, để đảm bảo an toàn vốn trong kinh doanh thì việc cấp tín dụng phải gắn liền với đối tượng vay, để tạo điều kiện cho sự vận động của vốn phù hợp với sự vận động của vật tư hàng hóa thì phải tiến hành phân loại tín dụng. * Căn cứ vào thời hạn tín dụng Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 1 năm (một số nước quy định dưới 2 năm). Tín dụng ngắn hạn được dùng để bổ sung sự thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp và phục vụ các nhu cầu sinh hoạt của các cá nhân. Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Loại tín dụng này được cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kĩ thuật, mở rộng sản xuất và xây dựng các công trình nhỏ, có thời hạn thu hồi vốn nhanh. Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng (đường xá, bến cảng, sân bay…), cải tiến và mở rộng sản xuất với quy mô lớn. * Căn cứ vào đối tượng tín dụng. Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế, có nghĩa là cho vay bù đắp vốn lưu động thiếu hụt tạm thời. Tín dụng vốn lưu động bao gồm: cho vay dự trữ hàng hóa, cho vay chi phí sản xuất, cho vay để thanh toán các khoản nợ dưới hình thức chiết khấu kỳ phiếu.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được sử dụng để hình thành tài sản cố định, có nghĩa là đầu tư để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới. * Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn. Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng cấp cho các nhà doanh nghiệp, các chủ thể kinh doanh để tiến hành sản xuất và lưu thông hàng hóa. Tín dụng tiêu dùng: là loại tín dụng cấp cho các cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm nhà cửa, xe cộ, các loại hàng hóa bền chắc như tủ lạnh, điều hòa, máy giặt… * Căn cứ vào xuất xứ của tín dụng. Tín dụng gián tiếp: là hình thức cấp tín dụng thông qua một trung gian tài chính như NHTM hoặc tổ chức tín dụng khác. Tín dụng trực tiếp: là hình thức cấp tín dụng giữa người có tiền (hoặc hàng hóa) với người cần sử dụng tiền (hoặc hàng hóa) đó, không cần phải thông qua một trung gian tài chính nào cả. * Căn cứ vào mức độ đảm bảo. Tín dụng có đảm bảo: là hình thức cấp tín dụng có tài sản hoặc người bảo lãnh đứng ra làm đảm bảo cho khoản nợ vay. Tín dụng không có đảm bảo: là hình thức tín dụng không có tài sản hoặc người bảo lãnh đảm bảo cho khoản nợ vay. 1.2.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của DNVVN * Tín dụng ngân hàng góp phần hình thành cơ cấu vốn tối ưu cho doanh nghiệp. Hiện nay để thực hiện các quyết định đầu tư, doanh nghiệp có thể sử dụng hai nhóm nguồn vốn là vốn tự có và vốn đi vay. Tuy nhiên nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp không được đáp ứng tối đa mà quy mô của khoản vay còn tùy thuộc vào các điều kiện, các quy định vay vốn của ngân hàng, của
- pháp luật… Mặt khác, nếu quy mô vốn vay quá lớn sẽ làm tăng chi phí trả lãi dẫn đến tăng giá sản phẩm, ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Do vậy buộc doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu vốn tối ưu. Cơ cấu vốn tối ưu là sự kết hợp hợp lý nhất các nguồn tài trợ cho hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp nhằm mục đích tối đa hóa giá trị thị trường của doanh nghiệp tại mức giá vốn bình quân rẻ nhất. * Tín dụng ngân hàng hỗ trợ cho sự ra đời và phát triển của các DNVVN; tạo điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh thường xuyên, liên tục và mở rộng sản xuất kinh doanh. Ngân hàng không những hỗ trợ cho DNVVN trong quá trình hoạt động và phát triển mà còn hỗ trợ cho doanh nghiệp ngay từ khi mới hình thành và đi vào hoạt động ban đầu. Nếu như không có sự hỗ trợ của ngân hàng thì các DNVVN sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động sản xuất kinh doanh, thậm chí không thành lập được. Nhiều doanh nghiệp ra đời, song do hạn chế về vốn nên không có khả năng sử dụng công nghệ, thiết bị hiện đại dẫn đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh không cao, thiếu sức cạnh tranh và khó đứng vững trên thương trường. Để có thể hoạt động thường xuyên liên tục các DNVVN phải có đủ vốn để đáp ứng các nhu cầu cho sản xuất kinh doanh, tuy nhiên nguồn vốn tự có của doanh nghiệp lại không thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết. Vì vậy vốn tín dụng ngân hàng là một giải pháp hữu hiệu. Tín dụng ngân hàng còn giúp các DNVVN tái sản xuất mở rộng, phát triển các ngành nghề mũi nhọn. * Tín dụng ngân hàng giúp các DNVVN tổ chức sản xuất kinh doanh có hiệu quả từ đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của DNVVN trên thị trường. Đặc trưng của tín dụng ngân hàng không chỉ là tài trợ vốn mà còn phải đảm bảo hoàn trả gốc và lãi đúng hạn. Do vậy khi sử dụng vốn vay các
- doanh nghiệp không phải chỉ thu hồi vốn đủ mà còn phải tìm mọi biện pháp sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất. Mặt khác, các ngân hàng chỉ cho vay khi đã thẩm định đầy đủ, kỹ càng mọi yếu tố liên quan đến doanh nghiệp, trong đó đặc biệt là tính hiệu quả và khả thi của phương án, dự án kinh doanh cần tài trợ vốn. Vì vậy, ngay từ khi thiết lập phương án sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp đã phải nghiên cứu và phân tích kỹ về phương án của mình để có thể tăng tính khả thi của phương án, tăng cường sự tin tưởng của ngân hàng khi quyết định tài trợ. Ngoài ra trong quá trình cấp tín dụng ngân hàng còn tư vấn giúp cho các doanh nghiệp có các quyết định đầu tư tốt nhất, đem lại lợi nhuận cao nhất cho doanh nghiệp. Đồng thời công tác kiểm tra định kỳ của các ngân hàng đã buộc các doanh nghiệp phải làm ăn đứng đắn, minh bạch, tuân thủ pháp luật. Trên cơ sở đó năng lực cạnh tranh của DNVVN sẽ ngày càng được nâng cao trên thị trường. * Tín dụng ngân hàng góp phần thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các DNVVN thuộc loại hình doanh nghiệp Nhà nước. Trong thời gian qua Nhà nước ta đã và đang tập trung tiến hành cổ phần hóa các DNNN. Cụ thể, các doanh nghiệp sau khi có quyết định cổ phần hóa sẽ tự phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay các hình thức huy động vốn khác để có vốn hoạt động. Trước tình hình đó các ngân hàng cũng tập trung phát triển các dịch vụ trên thị trường chứng khoán nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp huy động vốn như dịch vụ lưu ký chứng khoán, mua bán cổ phiếu, trái phiếu, bảo lãnh phát hành, tư vấn tài chính… Hơn nữa các doanh nghiệp cũng có thể sử dụng các cổ phiếu, trái phiếu làm tài sản đảm bảo vay vốn tại ngân hàng. Với hình thức cấp tín dụng này các doanh nghiệp có thể yên tâm hơn khi tham gia vào quá trình cổ phần hóa và đó chính là động lực thúc đẩy quá trình cổ phần hóa hiện nay. * Tín dụng ngân hàng tạo điều kiện cho các DNVVN tiếp cận nguồn vốn nước ngoài.
- Nếu chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng tốt, các sản phẩm dịch vụ cung cấp với chất lượng cao, sẽ góp phần tạo ra một cơ sở hạ tầng tài chính của nền kinh tế vững mạnh, từ đó sẽ tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp, gián tiếp cũng như các nguồn vốn hỗ trợ phát triển của các tổ chức nước ngoài. Và như vậy, nguồn vốn để các DNVVN có thể tiếp cận sẽ ngày càng được mở rộng. * Tín dụng ngân hàng là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế, góp phần chống lạm phát, ổn định tiền tệ và giá cả, từ đó tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho DNVVN. Thông qua tín dụng ngân hàng, có thể kiểm soát được khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông, thực hiện yêu cầu của quy luật lưu thông tiền tệ. Với việc cung ứng tín dụng cho các chủ thể trong nền kinh tế, ngân hàng đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong l ưu thông, thực hiện việc dẫn dắt các luồng tiền, tập hợp và phân chia vốn của thị trường, điều khiển chúng một cách hiệu quả, thực thi vai trò điều tiết gián tiếp vĩ mô, góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh ổn định, thuận lợi cho hoạt động của các doanh nghiệp nói chung và DNVVN nói riêng. Như vậy, DNVVN có thể ra đời, tồn tại và phát triển thì rất cần sự hỗ trợ từ phía ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng là chủ yếu. Qua đó có thể thấy, việc mở rộng tín dụng ngân hàng đối với DNVVN là thực sự quan trọng, cần thiết và đúng đắn, phù hợp với chủ trương, định hướng chính sách tăng cường hỗ trợ phát triển DNVVN của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới. 1.2.3. Các phương thức cho vay áp dụng đối với DNVVN a. Cho vay ngắn hạn Tín dụng ngắn hạn của ngân hàng dành cho doanh nghiệp là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường được dùng để bổ sung vốn lưu động
- thiếu hụt tạm thời, phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Cho vay ứng trước: là phương thức tài trợ trực tiếp cho người đi vay để đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn. Bao gồm: Cho vay từng lần: là phương thứ cho vay dựa trên cơ sở nhu cầu tín dụng của từng đối tượng vay cụ thể, như cho vay để mua nguyên vật liệu đối với các doanh nghiệp sản xuất, cho vay dự trữ hàng hóa để bán đối với các doanh nghiệp thương mại… Đây là loại cho vay có kì hạn nợ cụ thể gắn liền với chu kì ngân quỹ của doanh nghiệp. Thông thường, việc xét duyệt cho vay dựa trên cơ sở hợp đồng kinh tế, đơn đặt hàng, các hóa đơn bán hàng, bản kê bán thành phẩm hoặc thành phẩm, hoặc có thể dựa trên dự toán ngân sách cho từng loại tài sản lưu động cụ thể. Loại hình cho vay này thường áp dụng đối với các doanh nghiệp có trình độ quản trị tài chính yếu, và có nhiều rủi ro hoặc không có quan hệ tín dụng thường xuyên với ngân hàng. Trên thực tế, các doanh nghiệp mới thành lập, các doanh nghiệp nhỏ thường áp dụng kỹ thuật cho vay này. Cho vay theo hạn mức tín dụng: là phương pháp cho vay để đáp ứng toàn bộ nhu cầu thiếu hụt vốn lưu động theo hạn mức tín dụng đã cam kết. Hạn mức tín dụng là giới hạn tối đa số tiền cho vay mà ngân hàng có thể cung cấp cho một khách hàng trong một thời hạn nhất định. Ngân hàng xác định hạn mức tín dụng trên cơ sở phân tích toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp và doanh nghiệp được sử dụng một cách chủ động tiền vay trong hạn mức thỏa thuận đó. Thông thường, ngân hàng định kỳ hạn trả nợ cuối cùng cho toàn bộ các khoản vay, không định kỳ hạn trả nợ cho từng lần giải ngân. Các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng thường xuyên, trình độ quản trị tài chính tương đối tốt và doanh nghiệp được xếp hạng tín dụng cao là những doanh nghiệp thường được áp dụng loại hình cho vay này.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp tăng cường sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam vào hệ thống Logistics toàn cầu (2010)
97 p | 220 | 40
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long, chi nhánh Chợ Lớn - Nguyễn Thị Mỹ Duyên
105 p | 205 | 40
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp hoàn thiện hệ thống kênh phân phối lốp ô tô tại Công ty Cổ phần Cao su Đà Nẵng
75 p | 159 | 26
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp xây dựng và phát triển ngành công nghiệp phụ trợ hàng dệt may Việt Nam
86 p | 184 | 22
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tại xã Võ Lao, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai
104 p | 58 | 14
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
81 p | 134 | 13
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp hoàn thiện hoạt động markeing mix cho Công ty TNHH Jollibee Việt Nam chi nhánh Hải Phòng
63 p | 25 | 8
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty TNHH Thương mại Hạnh Huyên
105 p | 14 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp hoàn thiện hoạt động Marketing cho Ngân hàng Thương mại cổ phần Quốc tế Việt Nam tại phòng giao dịch Lạch Tray
73 p | 13 | 7
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp marketing giúp phát triển Trung tâm Anh ngữ Newton
66 p | 15 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình tuyển dụng nhân sự tại Công ty TNHH Hợp Tác Kinh Tế Đại Việt
68 p | 21 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty Cổ phần Thương mại và Thiết bị xây dựng Hoàng Minh trên thị trường nội địa
80 p | 11 | 6
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách Marketing Mix tại Công ty cổ phần DOHA Logistics
87 p | 13 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp thúc đẩy hoạt động Marketing mix tại Công ty TMCP Ngũ Phúc
75 p | 12 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp thúc đẩy hoạt động marketing tại Công ty giải trí Vhunter
97 p | 11 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp marketing nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH Nước mắm Lương Hải
77 p | 16 | 5
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp thu hút nguồn nhân lực tuyển dụng cho các doanh nghiệp tại Công ty Cổ phần Tìm kiếm và Phát triển nguồn nhân lực Gjobs
78 p | 9 | 4
-
Khóa luận tốt nghiệp: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động marketing tại Nhà hàng lẩu nướng Gogi House Lê Hồng Phong
72 p | 13 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn