ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA

NHÀ NGUYỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Hà Nội – 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA TRIẾT HỌC

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA

NHÀ NGUYỄN

Họ và tên : Nguyễn Thị Khánh Linh

Lớp : QH – 2015 – X – TR

Mssv : 15032500

Giảng viên hướng dẫn : ThS Đỗ Thị Minh Thảo

Hà Nội – 2019

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ và chỉ bảo nhiệt tình của các

thầy cô trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, các thầy cô giáo khoa

Triết học đã giúp em xây dựng hệ thống lý luận căn bản để em hoàn thành

khóa luận này.

Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo thư viện Tôn giáo, thư viện

đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã tạo điều kiện để em hoàn thành khóa

luận này.

Em xin chân thành cảm ơn các bác, các cô, các chú trong ban Tuyên

giáo thành phố Huế, các cô chú hướng dẫn viên, các bậc cha chú - những

người đi trước tìm hiểu và có cái nhìn sâu sắc về đề tài này đã nhiệt tình chia

sẻ thông tin để em hoàn thành khóa luận.

Sau cùng em xin cảm ơn cô giáo. ThS Đỗ Thị Minh Thảo - giảng viên

hướng dẫn khóa luận đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành

khóa luận này.

Em xin cam đoan những thông tin có trong khóa luận là những thông

tin lấy từ những nguồn tài liệu chính thống và đáng tin cậy. Do phạm vi đề tài

rộng, thời gian nghiên cứu hạn hẹp và trình độ hạn chế nên trong khóa luận

không tránh khỏi thiếu sót, nên em kính mong các thầy cô có những kiến đóng

góp em sẽ tiếp thu và hoàn thành khóa luận tốt hơn.

Em xin chân thành cảm ơn!

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. ĐÔI NÉT VỀ NHÀ NGUYỄN VÀ NÉT ĐẸP TRIỀU

PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN TỪ 1802 - 1945 ............................... 4

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Triều Nguyễn ......................... 4

1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển ....................................................... 4

1.1.2. Gia phả hoàng gia nhà Nguyễn ......................................................... 6

1.1.3. Triều phục hoàng gia nhà Nguyễn với tiêu chí thẩm mỹ của

người cung đình xưa ................................................................................... 8

1.2. Những nét riêng và độc đáo của Triều phục hoàng gia Việt

Nam .............................................................................................................. 14

1.2.1. So sánh Triều phục Hoàng gia Nhà Nguyễn Việt Nam và triều

phục hoàng gia Nhà Mãn Thanh Trung Quốc ......................................... 14

1.2.2. So sánh triều phục của vua và triều phục của bá quan văn võ ....... 20

1.2.3. Thường phục của nhân dân và binh lính thời Nhà Nguyễn ............ 25

Chương 2. NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN,

TỪ DI SẢN VĂN HÓA CỦA NHÂN LOẠI ĐẾN THÁCH

THỨCBẢO TỒN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN .................................... 28

2.1. Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà Nguyễn nhìn từ giá trị di sản

văn hóa của nhân loại ................................................................................ 28

2.1.1. Giá trị di sản văn hóa của hoàng phục triều Nguyễn ...................... 28

2.1.2. Giá trị tôn giáo tín ngưỡng của hoàng phục triều Nguyễn ............. 30

2.2. Biện pháp bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục hoàng

gia nhà Nguyễn. .......................................................................................... 31

2.3. Ý nghĩa của việc bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục

hoàng gia Nhà Nguyễn tới giới trẻ và bạn bè trên thế giới .................... 33

KẾT LUẬN .................................................................................................... 35

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 37

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 70

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong văn kiện Hội nghị Trung ương Đảng 5 khóa VIII, Đảng ta đã chỉ

rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, tinh hoa của cộng đồng

các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh

dựng nước và giữ nước”. Nền văn hóa tiên tiến phải có sắc thái riêng, cái độc

đáo của truyền thống, tâm hồn, cốt cách, lối sống,... của cả một dân tộc, chứa

đựng tinh hoa của quá khứ kết hợp những cái tốt đẹp của hiện tại. Trong thời

kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, xã hộ ngày càng đổi mới thì nét

văn hóa truyền thống một mặt có sự kế thừa, mặt khác lại bị mai một. Con

người ngày càng quan tâm đến những giá trị văn hóa du nhập từ nước ngoài,

trong đó có phong cách thời trang. Các nước có cách bảo tồn và phát triển các

trang phục truyền thống của mình, trong khi việc đó ở nước ta lại chưa chú

trọng. Cũng có những lễ hội áo dài, những chương trình trình diễn thời trang

liên quan đến áo dào nhưng về trang phục cung đình xưa lại chưa được đi sâu

khai thác. Đây chính là lý do em chọn đề tài: “Nét đẹp triều phục hoàng gia

nhà Nguyễn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp. Em muốn nhấn mạnh đến nét

đẹp độc đáo cũng như tầm ảnh hưởng của trang phục cung đình hoàng gia

Triều Nguyễn. Để qua đó, giới trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về những nét đẹp

tạo nên bức tranh lịch sử rực rỡ của nước nhà.

2. Tình hình nghiên cứu

Trước đây đã từng có những tác giả đã đề cập đến vấn đề ao mũ của

vua chúa, quan lại cổ trang Việt Nam như tác giả Trần Quang Đức với tác

phẩm sách Ngàn năm áo mũ. Cuốn sách là một nghiên cứu công phu và đầy

tham vọng của Trần Quang Đức: dựng lại bức tranh trang phục Việt Nam

trong cung đình và ngoài dân gian trong khoảng một nghìn năm từ thời Lý

đến thời Nguyễn (1009-1945). Cuốn sách có đề cập đên trang phục Hoàng gia

Nhà Nguyễn nhưng lại được nghiên cứu song song với các Triều đại khác nên

chưa làm bật lên được nét đẹp uy nghiêm, rực rỡ của trang phục này.

1

Kế từ sau cuốn sách Ngàn năm áo mũ của tác giả Trần Quang Đức, một

lần nữa người trẻ ham mê lịch sử lại tái ngộ với triều phục của Hoàng gia VN

qua dự án Anh Hoàng của một bạn trẻ 9X - Vũ Đức. Dự ấn tuy đạt được

những nghiên cứu chuyên sâu nhất định nhưng lại trên hình ảnh,chưa có lý

luận để người đọc hiểu rõ hơn về Hoàng phục Triều Nguyễn. Cũng có những

tác giả như Đỗ Bằng Đoàn,Đỗ Trọng Huề với tác phẩm Những đại lễ và vũ

khúc của vua chúa, tác giả Võ Hương – An với Từ điển Nhà Nguyễn, và một

số tác giả khác đã đề cập đến vấn đề này nhưng chưa đưa ra được nhận định

một cách bao quát nhất về giá trị, ý nghĩa cũng như phương pháp bảo tồn

trang phục này.Vậy khóa luận của em dựa trên cơ sở kế thừa,tiếp thu và phát

triển từ các nghiên cứu đi trước, tổng hợp lại, hoàn thiện giúp độc giả có cái

nhìn tổng quát nhất về hoàng phục Triều Nguyễn.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Tiếp thu những bài học từ thế hệ đi trước, nhằm tôn vinh nét đẹp trang

phục truyền thống dân tộc, để có được cái nhìn sâu sắc hơn, nhân văn hơn về

triều phục hoàng gia Việt Nam. Từ đó đề ra các biện pháp bảo tồn và phát huy

nét đẹp trang phục cung đình Việt Nam.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Hệ thống hóa các dữ liệu còn rời rạc, tiếp thu các nghiên cứu của các

tiền bối đi trước nhằm hoàn thiện hơn những nghiên cứu về triều phục.

Mô tả thực trạng, phân tích và đánh giá từ đó đưa ra biện pháp bảo tồn

nét đẹp hoàng phục triều Nguyễn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là triều phục hoàng gia nhà Nguyễn.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu triều phục hoàng gia của nhà Nguyễn tại

cung đình Huế từ năm 1802 đến năm 1945. Trong đó tập trung nghiên cứu

triều phục hoàng gia mặc lúc thượng triều và các dịp lễ quan trọng.

2

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Đề tài thực hiện trên cơ sở thế giới quan của chủ nghĩa Mác - Lê nin.

Đề tài được nghiên cứu từ góc độ liên ngành mỹ học, lịch sử, tôn giáo học...

Ngoài ra, đề tài còn kế thừa và phát triển nghiên cứu của các nhà khoa

học đi trước, sử dụng tài liệu báo cáo của các công trình khoa học, và tài liệu

ở các thư viện lịch sử, thư viện quốc gia.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật, kết hợp với các

phương pháp cụ thể như: logic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, so sánh.

6. Ý nghĩa của đề tài nghiên cứu

Qua đề tài này, em muốn nhấn mạnh nét đẹp độc đáo cũng như tầm ảnh

hưởng của hoàng phục cung đình Huế, đặc biệt là trang phục cung đình hoàng

gia triều Nguyễn. Để qua đó, giới trẻ có cái nhìn sâu sắc hơn về những nét

đẹp tạo nên bức tranh lịch sử trang phục rực rỡ của nước nhà. Từ đó, tìm ra

giải pháp bảo tồn và phát triển cũng như quảng bá nét đẹp của hoàng phục

đến bạn bè thế giới.

7. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp

Ngoài mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận gồm

2 chương, 6 tiết.

3

Chương 1 ĐÔI NÉT VỀ NHÀ NGUYỄN VÀ NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN TỪ 1802 - 1945

1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Triều Nguyễn

1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

Nhà Nguyễn (1802 – 1945) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch

sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi năm

1802 và chấm dứt hoàn toàn khi Hoàng đế Bảo Đại thoái vị vào năm 1945,

tổng cộng là 143 năm. Triều Nguyễn là một triều đại đánh dấu nhiều thăng

trầm của lịch sử, đặc biệt là cuộc xâm lược của người Pháp vào giữa thế kỷ

19. Triều Nguyễn trải qua hai giai đoạn chính:

Giai đoạn thứ nhất (1802–1858), được coi là giai đoạn độc lập, các vua

nhà Nguyễn nắm toàn quyền quản lý đất nước, trải qua 4 đời vua: Gia Long,

Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức. Gia Long và sau đó là Minh Mạng đã cố

gắng xây dựng đất nước trên nền tảng Nho giáo và xóa bỏ các cải cách theo

hướng tiến bộ của nhà Tây Sơn. Trong thời kỳ này, nội bộ đất nước không ổn

định, triều Nguyễn ít được lòng dân, chỉ trong 60 năm đã xảy ra hơn 400 cuộc

nổi dậy của người dân. Thời kỳ vua Minh Mạng lại diễn ra nhiều cuộc chiến

tranh giành lãnh thổ ở Campuchia nên đã khiến ngân khố cạn kiệt, đến thời

vua Tự Đức thì mọi mặt của đất nước đều sút kém đi. Từ thập niên 1850, một

nhóm trí thức Việt Nam, tiêu biểu là Nguyễn Trường Tộ, đã nhận ra sự trì trệ

của đất nước và yêu cầu học hỏi phương Tây để phát triển công nghiệp –

thương mại, cải cách quân sự – ngoại giao, nhưng họ chỉ là thiểu số. Đa số

quan chức triều Nguyễn và giới sĩ phu không ý thức được sự cần thiết của

việc cải cách và mở cửa đất nước nên Tự Đức không quyết tâm thực hiện

những đề xuất này. Đất nước dần trở nên trì trệ, lạc hậu và đứng trước nguy

cơ bị thực dân châu Âu xâm chiếm.

Giai đoạn thứ hai (1858–1945), được coi là giai đoạn bị Pháp xâm lăng

và đô hộ, kể từ khi quân Pháp đánh Đà Nẵng và kết thúc sau khi hoàng đế

4

Bảo Đại thoái vị. Tháng 8 năm 1858, Hải quân Pháp đổ bộ tấn công vào cảng

Đà Nẵng và sau đó chiếm Gia Định. Tháng 6 năm 1862, vua Tự Đức ký hiệp

ước cắt nhượng ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt ba

tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo thành một lãnh thổ thuộc địa Cochinchine (Nam

Kỳ). Sau khi củng cố vị trí vững chắc ở Nam Kỳ, từ năm 1873 đến năm 1886,

Pháp xâm chiếm nốt những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến

ở Bắc Kỳ. Đến năm 1884 thì nhà Nguyễn chính thức công nhận quyền cai trị

của Pháp trên toàn Việt Nam. Pháp có quyền cai trị, còn các vua nhà Nguyễn

chỉ còn là tượng trưng, quân Pháp có thể tùy ý phế lập vua Nguyễn. Giai đoạn

này kết thúc khi Bảo Đại tuyên bố thoái vị năm 1945.

Nhà Nguyễn trong thời gian cai trị đã tập trung xây dựng hệ thống các

xưởng thủ công thuộc nhà nước, nhất là ở kinh đô và các vùng phụ cận. Năm

1803, Gia Long thành lập xưởng đúc tiền Bắc Thành tiền cục ở Thăng Long.

Nhà Nguyễn cũng lập các ti trông coi các ngành thủ công, như ti Vũ khố quản lý

nhiều ngành thủ công khác nhau, bao gồm 57 cục: làm đất, đúc, làm đồ vàng

bạc, vẽ tranh, làm ngói, làm đồ pha lê, khắc chữ, đúc súng, làm trục xe, luyện

đồng... Ti Thuyền chịu trách nhiệm về các loại thuyền công và thuyền chiến,

gồm 235 sở trên toàn quốc. Ngoài ra còn có các ti Doanh kiến, ti Tu tạo, ti

Thương bác hỏa dược. Thủ công nghiệp thời Nguyễn chế tạo tất cả những đồ

dùng cho hoàng gia, tham gia đóng thuyền cho quân đội, đúc vũ khí, đúc tiền...

Phần lớn nhân lực trong các xưởng thủ công của nhà nước phong kiến

là do triều đình trưng dụng thợ khéo trong các ngành như khảm xà cừ, kim

hoàn, thêu thùa... tới làm việc để cung cấp đồ dùng cho triều đình. Đối với

nghề đóng tàu, năm 1820 sĩ quan người Mỹ, John White đã nhận xét: “Người

Việt Nam quả là những người đóng tàu thành thạo. Họ hoàn thành công trình

của họ với một kỹ thuật hết sức chính xác”. Ngoài các thuyền gỗ, người thợ

thủ công còn đóng cả các loại tàu lớn bọc đồng.

Ngoài ra họ đã sáng chế được nhiều máy móc và có chất lượng vào thời

đó, ví dụ các máy cưa xẻ gỗ, máy tưới ruộng... Trong ngành khai mỏ, đến nửa

5

đầu thế kỷ 19, triều đình đã quản lý 139 mỏ, và năm 1833 có 3.122 nhân công

trong các mỏ Nhà nước, tuy nhiên, phương thức khai mỏ thời bấy giờ vẫn

kém phát triển so với thế giới.

1.1.2. Gia phả hoàng gia nhà Nguyễn

Trong 143 năm tồn tại kể từ khi thành lập năm 1802 cho đến khi sụp đổ

1945, nhà Nguyễn có 13 vị vua cai trị thuộc 7 thế hệ. Tính theo Đế hệ thi của

Minh Mạng thì dòng họ nhà Nguyễn chỉ truyền đến chữ thứ 5 (Vĩnh) tương

đương với thế hệ thứ 5 kể từ các con Minh Mạng.

Thụy hiệu

Tên

Năm

Niên hiệu

Lăng

Miếu hiệu Thế Tổ

Cao hoàng đế

Nguyễn Phúc Ánh 1802–1820

Thiên Thọ Lăng

Thánh Tổ Nhân hoàng đế

1820–1841

Hiếu Lăng

Nguyễn Phúc Đảm

Hiến Tổ

Chương hoàng đế

1841–1847

Nguyễn Phúc Miên Tông

Xương Lăng

Anh hoàng đế

1847–1883

Dực Tông

Nguyễn Phúc Hồng Nhậm

Khiêm Lăng

Huệ hoàng đế

1883

An Lăng

Cung Tông

Nguyễn Phúc Ưng Ái

quận

1883

Văn Lãng vương/Phế Đế

Nguyễn Phúc Hồng Dật

Nghị hoàng đế

1883–1884

Bối Lăng

Giản Tông

Nguyễn Phúc Ưng Đăng

Xuất Đế

1884–1885

Nguyễn Phúc Ưng Lịch

Thuần hoàng đế

1885–1889

Tư Lăng

Cảnh Tông

Nguyễn Phúc Ưng Kỷ

An Lăng

1889–1907

Hoài Trạch công/Phế Đế

Nguyễn Phúc Bửu Lân

An Lăng

Phế Đế

1907–1916

Nguyễn Phúc Vĩnh San

Tuyên Hoàng Đế

1916–1925

Ứng Lăng

Hoằng Tông

Nguyễn Phúc Bửu Đảo

1926–1945

Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy

嘉隆 Gia Long 明命 Minh Mạng 紹治 Thiệu Trị 嗣德 Tự Đức 育德 Dục Đức 協和 Hiệp Hòa 建福 Kiến Phúc 咸宜 Hàm Nghi 同慶 Đồng Khánh 成泰 Thành Thái 維新 Duy Tân 啟定 Khải Định 保大 Bảo Đại

6

Sơ đồ các vua nhà Nguyễn:

1 Gia Long 1802 – 1819

2 Minh Mạng 1820 – 1840

3 Thiệu Trị 1841 – 1847

Thoại Thái Vương Kiên Thái Vương 4 Tự Đức 1847 - 1883 6 Hiệp Hòa 1883

5 Dục Đức 9 Đồng Khánh 8 Hàm Nghi 7 Kiến Phúc

7

1883 1885 – 1889 1884 - 1885 1883 - 1884

10 Thành Thái 1889 - 1907 12 Khải Định 1916 – 1925

11 Duy Tân 1907 - 1916 13 Bảo Đại 1926 – 1945

1.1.3. Triều phục hoàng gia nhà Nguyễn với tiêu chí thẩm mỹ của

người cung đình xưa

1.1.3.1. Triều phục hoàng Gia

Triều phục hoàng gia là trang phục Hoàng tộc mặc trong những dịp

quan trọng hoặc khi thiết triều. Triều phục hoàng gia được thiết kế tinh xảo,

xa hoa, rực rỡ nhưng cũng không kém phần trang trọng, uy nghi để tỏ rõ sự

tôn nghiêm của hoàng tộc. Triều phục của hoàng gia được là từ chất liệu vô

cùng quý hiếm, họa tiết rồng phượng được thêu khéo léo từ bàn tay của người

nghệ nhân giỏi nhất.

Trang phục của vua có mũ miện, áo long cổn, xiêm, đai, hia, hốt…

– Mũ miện, thân mũ hình tròn ống, đan bằng dây thau, rộng hẹp tùy cỡ

đầu, mặt ngoài bọc lụa màu huyền, trong lót lụa màu đỏ. Đặt lên trên thân mũ

là một ván gỗ mỏng hình chữ nhật, cạnh trước và cạnh sau đeo 24 dây tua bằng

vàng, xâu 300 hột san hô, trân châu, pha lê và 400 hạt vàng. Đỉnh mũ đính hai

chữ vạn thọ bằng vàng. Xung quanh thân mũ có 12 hình rồng vàng, 6 hình

ngọn lửa cũng bằng vàng. Lại dát hình hoa sen và đám mây bằng 256 hột vàng.

8

Khi đội mũ, dùng một khăn chít ở trán để đội cho chặt (võng cân).

Khăn dệt bằng tơ vàng.

– Áo long cổn bằng sa tanh màu thanh thiên, cổ tròn bằng đoạn bát ty

màu quan lục, trong lót lụa trắng. Thân áo thêu nhiều họa tiết: mặt trời, mặt

trăng, sao, núi, rồng v.v… Vạt áo thêu rồng, mây, hình sóng nước… Tay áo

cũng có họa tiết hình hai con rồng quay đầu xuống. Bên trong mặc áo đơn

màu bạch tuyết, cửa tay thêu hình rồng mây.

– Xiêm bằng sa màu vàng bóng, dưới viền gấm, thêu các họa tiết: ngọn

lửa, hạt gạo, hình phất, hình phủ… lại còn đính các thứ ngọc bội, khánh ngọc,

ngọc huỳnh, hạt vân mẫu, san hô, hổ phách… Khi đi lại, các thứ đó va chạm

vào nhau, phát ra âm thanh rủng rẻng.

– Đai làm bằng da bọc đoạn màu vàng, giữa đính một miếng ngọc hình

vuông, xung quanh gắn sáu viên ngọc trắng hình quả trám, bịt vàng, 392 hạt

châu ngọc, bên trong có sáu khuy để đính vào áo.

– Hia, ngoài bọc đoạn màu đen, trong lót đoạn màu đỏ. Xung quanh

thêu hình rồng, mây, đính ngọc, kim cương và những miếng kính cùng nhiều

thứ khác.

– Hốt (cầm tay) của vua bằng ngọc, dài một thước hai tấc (khoảng

40cm), ngang ba tấc (khoảng 10cm), có túi gấm đựng.

Khi biên soạn bộ Điển lệ nổi tiếng của triều Nguyễn, Khâm định Ðại

Nam hội điển sự lệ, các sử quan của triều đình đã dành quyển 78 và quyển

242 để bàn về việc ăn mặc của các bậc đế, hậu, hoàng tử, công chúa, quan

lại… triều Nguyễn, từ trang phục dùng trong các dịp triều lễ, khánh tiết, tết

nhất, cho đến thường phục, kể cả nội y, phụ kiện của y phục...

Triều Nguyễn có những quy định khác biệt về trang phục cho các giai

tầng trong xã hội, dựa trên các tiêu chí như chất liệu vải, màu sắc, cách may,

họa tiết trang trí, thậm chí cả số lượng y phục dành cho từng hạng người cũng

có những quy định rất chặt chẽ.

9

Các loại vải lụa dùng để may trang phục, mũ mão cho vua chúa, hoàng

thân quốc thích đều là hàng cao cấp, do triều đình đặt mua ở Trung Hoa. Các

vua Gia Long và Minh Mạng thường sai sứ thần sang Trung Hoa mua gấm

đoạn ở các vùng Nam Kinh, Giang Nam về để cung cấp cho nhu cầu trang

phục của hoàng gia. Trong cuốn “Histoire des Relations de la Chine avec

l’Annam - Việtnam du XVIe au XIXe siècle”, tác giả G. Devéria đã phản ánh

một sự kiện liên quan đến việc tìm mua vải lụa của các sứ thần Việt Nam khi

họ sang công cán Trung Hoa: “Sứ thần An Nam khi đi qua Nam Kinh muốn

mua lụa. Thanh triều không phản đối việc này, nhưng do đây là một việc mua

bán riêng tư, không có sự tiến cử của Thanh triều, nên các thương nhân Trung

Hoa đã tăng giá lên một cách thái quá, khiến sứ thần An Nam đã cãi cọ với họ

nên các quan cầm quyền phải can thiệp vào. Từ đó về sau, Thanh triều yêu

cầu sứ thần sẽ phải nộp cho nhà chức trách danh sách các món hàng mà mình

muốn mua. Các nhà chức trách Trung Hoa sẽ có nhiệm vụ mua hàng giúp cho

các sứ thần”. Tuy nhiên, do nhà Thanh không muốn bán gấm lụa màu vàng

cho phía Việt Nam (vì họ cho rằng chỉ có hoàng đế Trung Hoa mới được mặc

áo màu vàng), nên từ đời Thiệu Trị trở đi, nhà Nguyễn đã đặt các hộ dệt vải

lụa ở Hà Đông chuyên dệt lụa, gấm màu vàng dành riêng cho triều đình. Các

hộ dệt vải lụa truyền thống ở một số địa phương khác cũng được yêu cầu tiến

nộp các mặt hàng dệt cao cấp thay cho việc nộp thuế bằng tiền.

Rất nhiều tư liệu về phục trang của vua Khải Định được lưu truyền đến

ngày nay trên tượng và trên ảnh chụp đã cho ta hình dung về thời giao lưu

văn hóa Đông Tây qua trang phục của Vua như thế nào. Mũ Thông thiên, áo

thụng, và nhiều mề đay kiểu Pháp đến chiếc khăn xếp và áo tay gọn gàng cho

thấy nhà vua rất chịu khó tiếp thu cái mới. Ở một góc độ khác, người ta cho

rằng đó là sự lai căn, sự lỗi thời của ngay ngai vàng, chứ không phải cứ là một

ông vua. Trên một bức tượng trưng bày trong bảo tàng Huế, vua mặc áo Tây

có mủ vai, xẻ ngực, quần chẽn dắt trong ủng cao. Dù kiểu cách thay đổi

10

nhưng trên áo quần vẫn giữ họa tiết hoa văn rồng phượng như cũ. Vua Khải

Định là một người rất thích cách tân, thay đổi kiểu cách trang phục.

Trên áo mão của các vua hậu triều Nguyễn thường đính vàng bạc, trân

châu, kim cương... để tăng thêm giá trị và uy nghi. Theo sách Khâm định Ðại

Nam hội điển sự lệ, trên chiếc mũ vua đội lúc thiết đại triều có đính 31 hình

rồng làm bằng vàng tốt; 30 đóa hoa vuông có khảm ngọc, đính thêm 140 hạt

kim cương và trân châu. Mũ của hoàng hậu có 9 con rồng, 9 con phượng bằng

vàng tốt, 9 miếng bồn khoan bằng bạc, 4 cái trâm bằng bạc có gắn 198 hạt

trân châu và 231 hạt pha lê. Khăn bịt trán thì làm bằng đoạn bát ti (vải đoạn

dệt từ tơ xe 8 sợi) màu thiên thanh, bên trong lót lĩnh đại tào màu vàng, trang

sức 4 cái khuyên vàng tốt và 4 sợi dây tơ. Tất cả áo mũ, xiêm y, hài ủng của

vua hậu cho đến phi tần, cung giai, tùy theo thứ bậc mà đính vàng bạc, trân

châu nhiều hay ít nhưng cái nào cũng có.

Về đề tài trang trí, sự phân chia thứ bậc theo chủ đề được tuân thủ nghiêm

ngặt. Áo vua thêu rồng, áo hoàng tử trang trí lân. Áo hoàng hậu thêu hoa và

chim phượng (có 3 dải đuôi), còn áo công chúa thêu chim loan (giống như chim

phượng nhưng chỉ có 1 dải đuôi). Mũ đại triều của vua có 9 hình rồng hướng

thiên bằng vàng. Mũ của hoàng thái hậu thêu 9 con phượng. Mũ của cung giai

thì tùy theo thứ bậc mà có từ 1 chim phượng đến 7 chim phượng...

Triều phục của vua thì gọi là Long bào, hoàng bào.

Triều phục của quan văn võ tướng gọi là phẩm phục.

Có phẩm phục đại triều là phẩm phục mặc khi thiết triều và phẩm phục

thường triều.

Chỉ dụ năm Thiệu Trị thứ 5 (1845) có nêu rõ:

“Việc chế định triều phục là để tỏ rõ người mặc là người có đức. Xưa

nay các quan văn võ được ban cấp phẩm phục triều theo chế định. Mỗi phẩm

cấp cho một bộ đại triều và thường triều phẩm phục này có trang trí rau tảo,

vân mây không giống nhau, viềm tua và màu sắc cũng khác, gấm lựa bất

đồng. Hoa văn ấy làm triều phục thêm rực rỡ. Tuy vậy trong hàng quan lại có

11

người do chức dịch được ban cấp phẩm phục có giá trị hơn phẩm hàm; lại có

người cùng phẩm hàm không được phẩm phục như thế. Vì như thế nên chế

định không phù hợp với phẩm cấp nên phải một lần phải định lại cho xong để

sáng tỏ phẩm hàn và tăng vẽ tôn nghiêm nơi triều nghi. Vậy truyền cho Bộ Lễ

bàn kỹ quan giai văn võ để định lại triếu phục cho đúng với phẩm hàm rồi tâu

lên, đợi trẫm ban sắc chỉ thi hành.

Khâm thử ”

1.1.3.2. Nét đặc trưng nổi bật trong triều phục hoàng gia nhà Nguyễn

Bộ mặt của một nhà nước phong kiến ngoài kinh tế, chính trị, giáo dục

còn thể hiện trong văn hóa mặc. Mỗi một triều đại đi qua đều để lại những

dấu ấn riêng biệt về phong cách, đặc điểm trang phục cung đình, và hoàng gia

triều Nguyễn cũng vậy. Thậm chí, vấn đề y phục ở triều đại này còn được

biên soạn trong quyển 78 và 242 để luận về việc ăn mặc của các bậc vua chúa,

quý tộc, tập hợp trong Khâm định Ðại Nam hội điển sự lệ. Trong ăn mặc bình

dân, người ta thường phân biệt y phục đông, hè, tức là đồ mặc lúc nóng, lúc

lạnh, nhưng đối với phục sức của một vương triều, họ quan tâm đến cách biểu

hiện về quyền lực và đẳng cấp cao thấp, hơn là thời tiết. Trong chuỗi phát

triển của phục trang Việt Nam, phục trang nhà Nhà Nguyễn nằm ở gia đoạn

cuối nên đã tổng kết rất nhiều loại phục trang vương triều đi trước và gần nhất

là Mãn Thanh.

- Phần mô tả:

Về chất liệu

Trang phục của các thành viên trong Hoàng tộc đều được may từ loại

vải cao cấp. Triều đình nhà Nguyễn phải mua từ Trung Quốc, trong đó gấm

đoạn thường mua ở Nam Kinh và Giang Nam. Phụ kiện

Vàng bạc, đá quý… là những phụ kiện ưa thích của hoàng gia Nguyễn,

gắn lên trang phục để tôn lên vẻ sang trọng và uy nghiêm. Trong sách Khâm

định Ðại Nam hội điển sự lệ có ghi, chiếc mũ mà vua đội lúc thượng triều bàn

việc lớn được gắn 31 hình rồng bằng vàng, 30 đóa hoa vuông tọa trên khảm

12

ngọc, đính thêm 140 hạt kim cương và trân châu. Còn mũ của hoàng hậu có 9

con rồng, 9 con phượng bằng vàng, 4 trâm bạc có gắn tổng cộng 198 hạt trân

châu cùng 231 hạt pha lê… Tất cả đều là sản phẩm thượng hạng.

Họa tiết

Áo và mũ vua có thêu hình rồng, áo các hoàng nam là lân. Trang phục

hoàng hậu thêu hoa và chim phượng (có 3 dải đuôi), áo công chúa thêu chim

loan (khác chim phượng ở chỗ chỉ có 1 dải đuôi).

Cùng là rồng nhưng rồng trên áo vua thì có 5 móng; trên áo của Thế tử

là rồng 4 móng. Và nếu trên áo vua, hậu trang trí những con rồng có dáng vẻ

uy nghi, đường bệ thì trên áo mũ của hoàng thân, tôn tước chỉ được phép là

những con mãng, con giao (các hóa thân ở thứ bậc thấp hơn của rồng). Trên

áo mão của hoàng thái hậu và hoàng hậu trang trí hoa văn đoàn phượng (tức

chim phượng uốn lượn trong hình tròn), với những đường nét sinh động, được

thêu dệt công phu thì trên áo của công chúa và cung giai đã được biến tấu

thành chim loan, chi tiết đi kèm cũng không nhiều bằng. Ngoài ra còn có họa

tiết là chữ Hán và cũng có sự phân hóa. Với áo vua, các chữ Phúc, Lộc, vạn

Thọ được theo nổi, to rõ theo lối chữ triện, được nạm trân châu hay thêu kim

tuyến. Trong khi các chữ này trên áo phụ nữ thường nhỏ hơn và dệt chìm trên

mặt vải, thường phác họa bằng chữ chân và không đính gì.

Phân loại

Xét về mục đích, hoàn cảnh, thời tiết thì trang phục của vua chúa được

chia ra thành các loại: trang phục đại triều hay thường triều; trang phục nghi

lễ hay thường phục; trang phục các mùa… với những tên gọi khác nhau.

Nói tới nghi lễ nhất định không thể quên lễ tế Nam Giao. Trong dịp

này, áo gọi là cổn, màu đen, tay áo được may rất rộng, thêu lưỡng long triều

nhật dọc theo hai vạt trước, đầu vua đội miện (chính là mũ). Trong hội tịch

điền, đích thân nhà vua sẽ phải xuống ruộng, trang phục bớt rườm ra, phô

trương hơn. Đó là áo sa kép màu gạch non, có các chi tiết rồng nhỏ ẩn mình

13

trong mây. Long cổn vua mặc trong lễ tế đàn Nam Giao, lễ tế trời đất quan

trọng nhất của Hoàng tộc và của đất nước.

Nếu như trong phục trang quần áo ít khi thay đổi thì mũ và giày lại hay

thay đổi. Những mẫu giày của Hoàng gia Huế khá phong phú và đẹp mắt.

Theo tiến sĩ Đoàn Thị Tình, trong cuốn Trang phục Việt Nam, ngoài 7 kiểu

dép, guốc và 6 loại giày thông thường khác nhau thì có 8 loại hài cho các bậc

quyền quý như: văn hài, hài bịch gót, hài chân hoa, hài vua, hài hoàng hậu,

hài hoàng tử, hài thổ quan và hia ống cao. Mỗi loại đều được thiết kế rất

chuyên nghiệp.

Đi kèm với trang phục đại triều là đôi hài thêu rất cầu kỳ.

1.2. Những nét riêng và độc đáo của Triều phục hoàng gia Việt

Nam

1.2.1. So sánh Triều phục Hoàng gia Nhà Nguyễn Việt Nam và triều

phục hoàng gianhà mãn Thanh Trung Quốc

Hoàng bào của vua nhà Thanh

Trong quá trình tổng hợp và phát triển của mình, Hoàng phục nhà

Nguyễn đã kế thừa Triều phục hoàng gia nhà Mãn Thanh. Tính kiểu cách và

14

nhiều màu sắc của Mãn Thanh được vận dụng phần nào nhưng phom áo quần,

kết cấu may cắt được học tập rất tinh khéo. Mỗi quan hệ này dù chưa được

nghiên cứu một cách thống nhất nhưng những tiếp nhận và ảnh hưởng là

không thể tránh khỏi. Vì bao giờ phong kiến Việt cũng coi trọng Thiên triều

Trung Hoa như một mẫu mực.

Bảo tàng văn vật Tô Châu vẫn còn giữ những mô phỏng trang phục vua

nhà Thanh.Áo bào của vua nhà Thanh cũng với các chi tiết mặt trời, trăng,

sao,cành rong,lưỡi búa, cung tên thường có trên y phục đại triều của vua

Nguyễn.Cũng là áo tay thụng, nhưng áo của vua Nhà Thanh được cắt thẳng từ

2 bên sườn nên khi chưa mặc,trông thành 1 khối hình học vuông, khác lối tay

hụng chéo ở Việt Nam. Giống với nhà Thanh, nhà Nguyễn ở gấu áo cũng có

những cột dọc ở dưới họa tiết song ba đào bên trên nâng con rồng ( phượng)

bay lên.

Nhà Thanh là một triều đại do dòng họ Ái Tân Giác La ở Mãn Châu

thành lập. Khi đó, Mãn Châu là một địa danh nằm tại phía bắc bán đảo Triều

Tiên và phía Đông Bắc Trung Quốc. Hiện nay, vùng đất này bị phân chia giữa

khu vực Viễn Đông Nga với Đông Bắc Trung Quốc. Nhà Thanh cũng là triều

đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc và Mông Cổ.

Triều đại này từng được tộc người Nữ Chân (đứng đầu bởi Nỗ Nhĩ Cáp

Xích) xây dựng với quốc hiệu Đại Kim vào năm 1616 tại Mãn Châu - sử sách

gọi là nhà Hậu Kim (để phân biệt với nhà Kim cũng của người Nữ Chân, từng

tồn tại vào thế kỷ 12-13). Cho đến năm 1636, Hoàng Thái Cực đổi quốc hiệu

thành Đại Thanh, và mở rộng lãnh thổ vào lục địa Đông Á cũng như các khu

vực xung quanh. Nhà Thanh chinh phục và trở thành triều đình cai trị của

Trung Quốc (1644-1659), Đài Loan (1683), Mông Cổ (1691), Tây Tạng

(1751), Tân Cương (1759), hoàn thành cuộc chinh phục của người Mãn Châu.

Trong thời gian trị vì, nhà Thanh đã củng cố quyền quản lý của họ đối

với Trung Quốc, hoà nhập với văn hoá Trung Quốc, và đạt tới tầm ảnh hưởng

cao nhất của Đế quốc Trung Hoa. Tuy nhiên, sức mạnh quân sự của họ đã

15

giảm trong thế kỷ 19, và phải đối mặt với sức ép từ bên ngoài, nhiều cuộc nổi

loạn và những thất bại trong chiến tranh, nhà Thanh tàn tạ từ sau nửa cuối thế

kỷ 19. Nhà Thanh bị lật đổ sau cuộc Cách mạng Tân Hợi khi hoàng hậu nhiếp

chính khi ấy là Hiếu Định Cảnh hoàng hậu, đối mặt với nhiều sự phản kháng

buộc phải thoái vị nhân danh vị hoàng đế cuối cùng, Phổ Nghi, ngày 12 tháng

2 năm 1912.

Nhắc đến vua Nhà Thanh, ta không thể không nhắc tới Càn Long, vị

vua đã đưa nhà Thanh tới thời kì đỉnh cao nhất trong lịch sử Trung Hoa. Vị

vua thường xuyên xuất hiện trong những bộ phim cổ trang lịch sử Trung Hoa.

Hoàng bào của ông hiện vẫn còn được cất giữ khá nguyên vẹn và đang được

bán đấu giá tại Anh.

Hoa văn trên hoàng bào của Hoàng đế Càn Long.

- Mô tả chi tiết

"Chiếc áo bào lụa màu xanh dương được thêu bằng loại chỉ màu vàng

óng sang trọng, với hình 9 con rồng, chim hạc và những bông hoa nhỏ như

hạt ngọc. Biểu tượng của quyền lực hoàng gia được sắp xếp theo các nhóm:

Mặt trời, Mặt trăng, chòm sao…”.

Chiếc áo bào được một tướng Anh mang về sau chuyến thăm đến Bắc

Kinh năm 1912. Chiếc áo này đã được gia đình vị tướng cất giữ kể từ đó.

Hoàng đế Càn Long (1711 - 1799) được đánh giá là người đưa nhà

Thanh đến thời kỳ đỉnh cao nhất và là một trong những hoàng đế nổi tiếng

nhất trong lịch sử Trung Quốc.

Tay áo dài và cổ áo rời, nặng

Mặc dù người Mãn Châu từ vùng Đông Bắc tái chiếm và đóng đô ở

Bắc Kinh từ tay nhà Minh vào năm 1644 nhưng nếu xét về các khía cạnh văn

hoá, phong tục tập quán và lễ nghi, người Mãn Châu phải học rất nhiều từ đất

nước phát triển như Trung Hoa.

Họ không những nể phục Trung Hoa bởi thể chế chính trị mà còn khâm

phục bởi những lễ nghi, văn hoá, phong tục tập quán và thậm chí tôn giáo của

16

người dân nơi đây.Sau khi xâm chiếm, dù người Mãn Châu rất khâm phục

văn hoá Trung Hoa, nhưng họ vẫn luôn tự hào về cội nguồn của chính mình.

Do đó, việc du nhập những bộ y phục là một trong những yếu tố quan

trọng nhất khi người Mãn Châu chuyển đến vùng đất này. Chúng được làm từ

da động vật và có hình dạng của con thú ấy để tận dụng tối đa việc sử dụng

nguyên liệu thô.

Y phục hoàng tộc của người Trung Hoa với tay áo hình móng ngựa

cùng cổ áo rời và nặng được bắt nguồn từ truyền thống của người Mãn Châu.

Kể từ khi người Mãn Châu sinh sống bằng việc săn bắn ở vùng Đông Bắc, họ

phải tìm cách để chống chọi với cái lạnh thấu xương ở vùng đất này. Do đó,

họ mặc những bộ y phục có tay áo dài để che hết phần tay, và cổ áo rời, nặng

được dùng để tránh rét trong những chuyến đi dài.

Nhưng sau này, tay áo dài trở nên vướng víu trong cuộc sống thường

nhật. Vì thế, triều đình đã quyết định cuốn tay áo lên, và chỉ thả tay áo xuống

khi giao thiệp với một người lạ nào đó. Truyền thống này xuất phát từ hoàng

tộc triều đình và dần dần trở thành nếp sống của tất cả mọi người.

Chiếc áo được trang trí công phu nhất thế giới

Trước khi chiếc áo long bào được khoác lên long thể của hoàng đế triều

Thanh, nó phải qua các công đoạn cầu kì và chỉn chu, có khi mất đến hơn hai

năm rưỡi để hoàn thành. Thậm chí, trong khuôn viên triều đình còn có một

nhà may chuyên dụng để may y phục cho nhà vua nói riêng và gia đình hoàng

tộc nói chung.

Kiểu mẫu và đường nếp phải nhận được sự chấp thuận của hoàng đế và

các vị đại thần trong triều đình trước khi được phép hoàn thành.Sau đó, kiểu

mẫu sẽ được chuyển giao đến các thợ làm lụa. Sau khi vải đã hoàn tất, một

thợ thủ công sẽ cắt vải và sẽ chuyển đến một thợ may tiếp theo để hoàn tất

phần thô của chiếc áo long bào. Sau cùng, chiếc áo sẽ được thêu thêm nhiều

hoạ tiết cầu kì.

17

Chỉ những loại chỉ thượng hạng mới được sử dụng để thêu long bào và

thậm chí còn phải làm từ vàng thật. Hoàng đế sẽ thuê 500 thợ thủ công và thợ

thêu để khâu áo và 40 thợ khác để thêu chỉ vàng lên áo.

Mỗi chiếc áo long bào được dùng cho từng dịp khác nhau

Các tủ quần áo hoàng gia trong thời nhà Thanh đều là những chiếc áo

choàng và áo long bào. Nhiều long bào được dùng cho những dịp lễ lớn trong

triều đình, y phục đi du ngoạn, y phục vào những ngày thời tiết xấu và thậm

chí những bộ y phục dùng khi ăn và ra ngoài trời.

Tùy vào tình hình thời tiết mà sẽ có áo lót bên trong hay không và sẽ

làm bằng những chất liệu khác nhau như lụa, da thuộc hay vải sợi. Màu sắc

được chọn phải phù hợp với màu sắc hoàng gia. Một trong những màu sắc

dành riêng cho hoàng đế là vàng tươi, đỏ, xanh và xanh sáng.

Tùy vào tình hình thời tiết mà sẽ có áo lót bên trong hay không và sẽ

làm bằng những chất liệu khác nhau như lụa, da thuộc hay vải sợi. Màu vàng

thường được sử dụng trong các buổi lễ. Những màu sắc còn lại được dùng

trong những ngày lễ ở ba ngôi đền lớn: Long bào xanh ở Đền Cung đình, long

bào đỏ ở Đền Mặt trời và long bào xanh sáng ở Đền Mặt trăng. Với mỗi chiếc

áo long bào, hoàng đế cũng sẽ đeo đai và mũ phù hợp.

Những chiếc áo long bào được dùng trong những dịp hết sức đặc biệt

thường có hoạ tiết con rồng vàng. Thông thường, hoàng đế chỉ mặc bộ y phục

này vào những ngày lễ trọng đại.

Có mười hai mẫu áo long bào tất cả.

Áo long bào của hoàng đế thường mang nhiều hình vẽ hoa mỹ, cầu kì

và tinh tế. Điển hình là hình ảnh con rồng tượng trưng cho sự uy hùng và

mạnh mẽ. Là một yếu tố hết sức quan trọng của Nho giáo, con rồng tượng

trưng cho quyền lực của hoàng đế.

Áo long bào thường có chín con rồng, hai con ở hai vai, một ở sau

lưng, một phủ lấy phần ngực áo, một phủ lấy phần tà áo, bốn con rồng còn lại

sẽ nằm ở phần dưới cùng của chiếc áo long bào.

18

Hình ảnh con rồng không chỉ đơn thuần là vật trang trí mà còn là biểu

tượng của sự thịnh vượng và may mắn đối với mọi người. Ngoài biểu tượng

con rồng, long bào của hoàng đế nhà Thanh còn có mười một biểu tượng thể

hiện cho sự may mắn như Mặt trời, Mặt trăng và ngôi sao, ba thứ ánh sáng

quyền năng; ngọn núi thể hiện sự bảo toàn ngôi vị hoàng đế từ bốn phương;

côn trung tượng trưng cho sự tinh tường của hoàng đế; chén rượu thể hiện sự

vững vàng và đạo đức; cỏ nước thể hiện sự thanh khiết; ngọn lửa thể hiện sự

thành thực; phấn mễ biểu trưng của sự thịnh vượng; phủ, một loại đồ thêu có

màu trắng và đen tượng trưng cho sự quyết đoán và sự dũng mãnh của hoàng

đế; phất, một loại đồ thêu khác có màu đen và xanh lá cây, một hình ảnh của

lòng trung thực.

Ngoài ra, một biểu tượng khác trên chiếc áo long bào là hình ảnh một

con dơi đỏ - từ đồng âm của một nhân vật mang ý nghĩa là "ngập trong trận

đại hồng thuỷ của sự may mắn".

Áo lót bên trong cũng có hình ảnh của đại dương và núi non, vì theo

quan niệm của người Trung Hoa, hoàng đế là thiên tử, là người có quyền lớn

nhất thế gian.

Triều phục Hoàng gia nhà Nguyễn lại có nét khác:

Hoàng bào của vua nhà Nguyễn là một tấm áo rất lộng lẫy, được chế

tác hết sức công phu. Tính chất đế vương được thể hiện qua chất liệu gấm, lụa

vàng óng cùng hình tượng rồng vờn mây...

Được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, hoàng bào của vua

nhà Nguyễn mặc lúc thiết lễ đại triều là một hiện vật đặc sắc phản ánh cuộc

sống xa hoa cũng như tư duy thẩm mỹ của những người đứng đầu nhà nước

phong kiến cuối cùng của Việt Nam.

Đây là một tấm áo rất lộng lẫy, được chế tác hết sức công phu.Tính

chất đế vương được thể hiện qua chất liệu gấm, lụa vàng óng cùng hình tượng

rồng vờn mây.

19

Rồng trên long bào của vua được tạo hình với 5 móng, thể hiện đây là

một con rồng đã hoàn thiện, so với rồng 4 móng trên trang phục của hoàng

thái tử - người được chỉ định sẽ kế vị ngôi vua sau này.

Các chữ Phúc, Lộc, Thọ đại tự được thêu nổi trên áo vua theo lối chữ

triện, như lời chúc phúc dành cho người quyền lực nhất vương triều.

Để tăng thêm giá trị và uy nghi, tấm long bào được đính nhiều vàng

bạc, trân châu... nhiều họa tiết thêu bằng sợi kim tuyến.

Những nét dệt, đường thêu rất sống động và công phu, thể hiện tài năng

tuyệt đỉnh của những người thợ may cung đình.

So với hoàng bào của vua, hoàng bào của hoàng hậu nhà Nguyễn cũng

không kém phần lộng lẫy.

Nét khác biệt dễ nhận ra so với hoàng bào của vua trước hết là màu sắc:

Hoàng bào của hoàng hậu có màu đỏ cam, sẫm hơn so với màu vàng của vua.

Hoa văn trang trí trung tâm trên áo hoàng hậu là chim phượng - loài

chim thần thoại được coi là biểu tượng cho phụ nữ hoàng tộc.

Các họa tiết trang trí khác có nhiều sự tương đồng với hoàng bào của

vua, nhưng mật độ có phần thấp hơn.

Các loại vải lụa dùng để may trang phục của vua và hoàng hậu đều là

hàng cao cấp, do triều đình đặt mua ở Trung Hoa. Riêng gấm lụa vàng, thành

phần quan trọng nhất thì được đặt làm ở làng lụa Hà Đông.

Phương pháp chế tác các trang phục này là thêu từng mảnh rồi lắp ghép

vào vải lót trong.

Trang phục trong hoàng cung nhà Nguyễn có nhiều loại với tên gọi

riêng, màu sắc riêng như trang phục đại triều; trang phục thường triều; trang

phục nghi lễ, thường phục; trang phục xuân hạ; trang phục thu đông… Trong

đó, trang phục đại triều được chế tác kỳ công nhất.

1.2.2. So sánh triều phục của vua và triều phục của bá quan văn võ

Vua đội mũ gắn rồng bằng vàng, còn quan đội mão.

20

Chỉ có những nhân vật trong hoàng gia mới được mặc áo thêu, còn các

quan phải mặc áo dệt.

Thời xưa trang phục quan lại thường được phân loại theo cách cắt của

cổ áo thành ba dạng: đối lĩnh (tức giao lĩnh), trực lĩnh và bàn lĩnh.

Đối lĩnh (trái), Trực lĩnh (giữa) và Bàn lĩnh (phải). Trích từ ‘Trung

Quốc cổ đại nhân vật phục thức dữ họa pháp’.

– Đối lĩnh, hay giao lĩnh, có cổ cắt vạt chéo cài sang bên phải. Đây là lễ

phục trang trọng nhất trong các lễ phục cổ truyền, được mặc trong các lễ tế.

Cao cấp hơn cả của loại này là áo cổn ở trong cung, may bằng đoạn thất thể

rất quý hiếm, thường được vua, quan mặc trong lễ tế Giao. Tay áo giao lĩnh

cắt thụng, khi buông xuống dài bằng gấu áo. Các nước Đồng văn trọng Khổng

giáo ở Á châu như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam đều có áo

này. Dưới thời Nguyễn ở Việt Nam phụ nữ không mặc giao lĩnh. Hiện nay

trong nhiều lễ tế đình ở các làng, xã, người mình vẫn mặc áo giao lĩnh.

– Trực lĩnh, tức là áo có vạt xẻ dọc ở giữa thân trước. Lễ phục trực lĩnh

trong cung thời nguyễn dành riêng cho các bà và gọi là áo mệnh phụ. Áo này

không được vua quan, nam phái trong triều đình Việt Nam xử dụng. Trong

khi đó các nam đạo sĩ Lão giáo bên Trung Quốc lại có mặc áo được cắt y hệt

như áo mệnh phụ của phụ nữ Việt. Áo nhật bình của các sư sãi trong nước

cũng thuộc dạng trực lĩnh. Lễ phục trực lĩnh cũng may rộng, xẻ bên, và có tay

cắt thụng dài bằng gấu. Áo được xẻ vạt bên hông.

– Bàn lĩnh, tức áo cắt cổ tròn, có hay không có cổ đứng đính liền, vạt

cài sang phải. Lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ở nước ta trước đây. Ở trong

21

cung áo này được cả nam lẫn nữ phái xử dụng dưới dạng long bào, phượng

bào của vua, hoàng thái hậu, hoàng quý phi; và mãng bào của thân vương,

hoàng tử và các quan. Các áo bào này được may bằng gấm thất thể hay ngũ

thể quý hiếm, và có cổ tròn không đính cổ đứng. Áo rất rộng, xẻ bên. Tay cắt

thụng dài bằng gấu áo. Áo được mặc trong các lễ đại triều, triều yến.

Nhưng lễ phục bàn lĩnh phổ thông nhất ngày xưa của người Việt, cả ở

trong cung lẫn ngoài phố, là bàn lĩnh có cổ đứng, gọi là áo Tấc. Áo cũng cắt

rộng, xẻ bên, với tay thụng dài bằng gấu, cài khuy bên phải như áo dài. Áo

Tấc rất thông dụng, được mặc trong các lễ yết miếu, từ đường, việc hỷ, cũng

như các việc thăm viếng quan trọng.

Sử sách cận đại của Nguyễn triều ít khi đề cập đến triều phục của quan

lại. Thảng hoặc mới có nhắc đến một vài đạo dụ liên quan đến vấn đề này. Thí

dụ như dụ năm 1886 của vua Đồng Khánh, hay các đạo dụ 1920 và 1921 của

vua Khải Định. Các đạo dụ này thật ra có chủ ý khiển trách các sự cẩu thả

trong việc xử dụng triều phục, cũng như tiếm lạm trong mầu sắc trang phục

của các quan thời bấy giờ. Thí dụ như thường dân dám mặc áo mầu chính

hoàng. Rồi việc quan cấp dưới dám tiếm dụng sắc áo của hoàng tử, hoàng

thân. Hay về việc vì công quỹ không đủ để tiếp tục cấp nhung phục cho các

quan với các sắc mầu và hoa văn đúng theo lệ cổ, cho nên phải thay bằng các

áo tứ linh mầu xanh lá cây cho văn ban và mầu huyền cho võ ban từ chánh

nhị phẩm đến tòng tam phẩm (thực ra hai sắc vải này có vẻ đã được dùng để

may áo chầu nhiều hơn là may nhung phục).

Nhưng điều quan trọng là qua các đạo dụ này người ta biết thêm một

loại lễ phục nữa trong triều đình, bên cạnh các áo lễ tay rộng (phổ phục) vẫn

phổ biến như áo cổn, áo chầu. Đó là nhung phục. Nhung phục cũng được may

rộng như phổ phục, với cùng loại vải, hoa văn và mầu sắc với áo chầu của

người mặc. Nhưng nhung y có tay áo cắt chẽn như tay áo dài. Nói cách khác,

nhung y là áo tấc tay hẹp.

22

Áo cổn thuộc dạng giao lĩnh là loại lễ phục cao quý nhất, chỉ dùng

trong lễ tế giao. Áo đại triều, hay áo chầu, được mặc trong các dịp đại triều

nghi vào các ngày 1 và 15 âm lịch tại điện Thái Hòa. Áo thường triều được xử

dụng khi chầu vua trong các ngày 5, 10, 20 và 25 mỗi tháng tại điện Cần

Chánh. Nhung phục được ban cho các ấn quan để mặc khi thù tiếp các quý

quan (quan Tây), hoặc khi chầu vua ở điện Văn Minh.

Loại nhung phục cao quý nhất là những áo được vua ngự tứ đặc biệt

cho các công thần, được lấy ra từ kho ngự dụng của nhà vua. Áo này thường

được trang trí theo dạng cửu long, mà trên thực tế là các con phi giao hay còn

được vua Khải Định gọi là rồng bay ngang.

Một loại áo nữa là áo chiến tay chẽn, với hai đầu tay được may đáp

miếng vải gọi là mã quải, được mặc khi dự lễ ngoài trời như duyệt binh hay

tịch điền. Loại áo này khi vua mặc gọi là long trấn. Còn của thân vương,

hoàng tử hay các quan thì gọi là mãng lan.

Điều quan trọng nhất khi khảo về trang phục của quan lại triều Nguyễn

là việc phân biệt cấp bậc và ban hệ theo mầu sắc và hoa văn của áo.

Trong tập “Bulletin des Amis du Vieux Huế” (tháng 7 - 9 năm 1916), cụ

Nguyễn Đôn có viết rõ về mầu sắc của từng cấp bậc triều phục dựa theo lệ

vào năm Thiệu Trị ngũ niên (1845). Theo tài liệu này thì mầu sắc áo chầu, tức

áo đại triều, của các quan được định rõ như sau:

- Chánh nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cổ đồng,tiếng Pháp là vieux

cuivre; dệt hoa văn ngũ thể (năm mầu) cộng thêm chỉ kim tuyến. Vải đoạn tức

là satin gấm. Tất cả các loại vải từ đây trở xuống đều dệt bằng tơ tằm.

- Tòng nhất phẩm: Vải đoạn bát ti mầu thiên thanh (天青), tiếng Pháp là

pourpre sombre (tím đậm, hay mầu tương); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

- Chánh nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu cam bích (紺碧), tiếng Pháp là

poupre rougeat (tím đỏ); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

- Tòng nhị phẩm: Vải đoạn bát ti mầu quan lục (官綠), tiếng Pháp là

verte (xanh lục); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến.

23

Chánh tam phẩm: Đoạn bát ti mầu bửu lam (寶藍), tiếng Pháp là bleu

foncé (lam đậm); dệt hoa văn ngũ thể với kim tuyến. Áo chầu chánh tam phẩm võ ban mầu bửu lam

- Tòng tam phẩm: Đoạn bát ti mầu ngọc lam (玉藍), tiếng Pháp là bleu

de jade (xanh ngọc bích); dệt hoa văn ngũ thể viền kim tuyến.

Hai cấp tứ phẩm và ngũ phẩm cả văn lẫn võ ban đều mặc áo chầu may

bằng vải trừu (lụa), dệt hoa văn tròn toàn hoa (trong sách viết nhầm là viên

giao) mầu ngũ thể với kim tuyến. Áo tứ phẩm mầu quan lục. Áo ngũ phẩm

mầu bửu lam. Phân biệt văn võ bằng mão đội đầu.

Chánh và tòng lục phẩm mặc áo bào may bằng loại lụa dệt hoa văn đơn

sắc gọi là quang tố trừu, mầu ngọc lam. Nhưng thật ra cho đến thời điểm

1916, sắc áo đại triều của cấp bậc chánh tòng lục phẩm là quan lục. Từ cấp

bực này trở xuống ở lễ đại triều phải đeo bổ tử.

Theo sách Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì mầu sắc và chất liệu

áo chầu của chánh thất phẩm cũng giống như của lục phẩm, chỉ khác nhau ở

bổ tử. Nhưng trên thực tế thì từ trước thời Khải Định các quan từ chánh thất

phẩm trở xuống đến cửu phẩm đã không còn được cấp áo đại triều nữa. Tất cả

đều chỉ mặc áo giao lĩnh thường triều may bằng vải sa đoạn với bổ tử các cấp.

Cũng theo Khâm định Đại nam hội điển sự lệ thì áo rộng giao lĩnh

thường triều được may bằng vải sa đoạn (sa Bắc), với các mầu lam, lục hay

hắc; với cổ mầu bạch tuyết. Nhưng trên thực tế thì áo thường triều của tất cả

các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm đều may bằng vải sa đoạn mầu lam. Cấp

bậc được phân biệt qua nội dung bổ tử.

Sự khác biệt hoa văn giữa văn và võ ban không thấy chỉ rõ trong tài

liệu này. Và cũng không được nhắc đến trong bộ Khâm định Đại nam hội

điển sự lệ hay bất cứ một tài liệu nào khác. Nhưng trong bài viết về lễ Nguyên

Đán trong cung năm Bính Tuất (1886) thời Đồng Khánh, bác sĩ người Pháp là

Hocquart có nhắc đến việc quan văn mặc áo chầu có chim phượng và quan võ

mặc áo có trang trí mặt tròn (medaillon). Có lẽ vì từ xa nhìn loáng thoáng

24

không rõ cho nên khi các quan văn đứng chầu với hai tay chắp trước ngực,

con phượng trên tay áo rộng được thấy rõ nhất và che phủ các chi tiết khác

của áo tứ linh.

Nhưng rõ nhất là chi tiết thấy được trên những tượng quan hầu ở các

tôn lăng. Các tượng quan văn đội mão viên phác đầu (đỉnh tròn) đều mặc áo

chầu tứ linh. Trong khi các tượng quan võ đội mão phương phác đầu (đỉnh

vuông) trên áo có hoa văn ổ tròn.

1.2.3. Thường phục của nhân dân và binh lính thời Nhà Nguyễn

Thời Nguyễn thì nam giới cả hai miền Nam Bắc đã quen mặc áo dài,

một loại áo viên lĩnh cổ đứng may bằng năm khổ vải, thân áo dài quá đầu gối,

tay áo hẹp. Đàn bà từ Hoành Sơn vào Nam cũng mặc áo dài nhưng khác áo

đàn ông chút ít với thân áo may dài hơn; gấu áo dài quá bắp chân. Phía dưới

mặc quần. Đàn bà từ Hà Tĩnh trở ra vẫn mặc áo tứ thân, một loại áo giao lĩnh

xẻ trước ngực và mặc váy.Lễ phục thì còn vẫn dùng áo giao lãnh buộc chéo,

nhưng khoác ra bên ngoài cùng khi hành lễ, gọi là áo thụng hay bổ phục.

Áo trực lĩnh (xẻ trước ngực) với tay áo thật rộng thì là lễ phục khoác ra

ngoài của nữ giới quyền quý trong chốn cung đình, gọi là áo mệnh phụ.

Ngoài ra áo viên lĩnh không có cổ đứng gọi là áo bào, dùng làm lễ phục

của các quan đại thần, vương tôn.

Đời sống xã hội trong thời kỳ này có ảnh hưởng không nhỏ đến trang

phục của người dân.

Không chỉ vào chốn cung đình với các mệnh phụ công nương, cái yếm

còn ra ruộng đồng “dầm mưa dãi nắng” với người nông dân, và cùng

với chiếc áo tứ thân, cái yếm theo chị em đến với hội đình đám, góp

phần tạo nên bộ “quốc phục” của quý bà thời xưa.

Cái yếm xuất hiện trong cuộc sống của người dân Việt Nam từ lâu

nhưng mãi tới đời nhà Lý cái yếm mới “định hình” về cơ bản. Theo dòng lịch

sử, cái yếm không ngừng biến đổi, nâng cao tính thẩm mỹ qua những lần cải

25

tiến. Tuy nhiên, “cuộc cách mạng” của cái yếm chỉ xảy ra vào đầu thế kỷ này

khi cái quần kiểu Tây và cái váy đầm xoè xâm nhập vào Việt Nam. Thế kỷ

19, cái yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét lỗ làm cổ, hai

đầu của lỗ, đính hai mẩu dây để cột ra sau gáy. Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ xây,

cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cổ xẻ, đít chữ V mà sẻ sâu xuống gọi là

yếm cổ cánh nhạn.

Bước sang thế kỷ 20, áo yếm càng được sử dụng phổ biến với nhiều

kiểu dáng và mẫu mã phong phú. Dành cho người lao động có yếm màu nâu

dệt bằng vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm. Con gái nhà gia giáo

mặc yếm nhiều màu, trang nhã và kín đáo.

Để trở thành “quốc phục” của quý bà quý cô trước khi chiếc áo dài ra

đời, đi kèm với cái yếm là chiếc áo cánh khoác ngoài không cài cúc. Khi ra

ngoài bên ngoài chiếc yếm phải có thêm chiếc áo dài, chiếc váy lưỡi trai bằng

lĩnh, dải lụa đào hoặc màu mỡ gà thắt ngang lưng, cái xà tích bạc lủng lẳng,

bộ “độ nghề” ăn trầu bên phía cạnh sườn, chân mang dép. Chưa hết, phục

trang ra đường còn phải kể đến là hai chiếc khăn đội đầu: khăn nhiễu (quấn

bên trong) và khăn mỏ quạ (trùm bên ngoài). Nếu đúng dịp hội hè đình đám

các cô gái thường trang bị thêm cho mình chiếc nón quai thao, và tóc thì vấn

cao cài lược.Đến thế kỷ 19 thường phục người Việt đại để mặc một loại áo

ngắn, cài giữa ngực. Miền Bắc gọi là áo cánh, miền Nam dùng loại áo tương

tự nhưng dài hơn và xẻ ở hai bên hông, gọi là áo bà ba. Áo cánh thì không xẻ

ở bên hông. Phía dưới thì đàn ông mặc quần lá tọa. Quần này may sâu đũng

để có thể kéo cạp quần lên cao hay xuống thấp để cho ống quần dài hay ngắn

tùy ý; cạp quần buông loà xòa, buộc bằng thắt lưng ở bụng. Đàn bà miền Bắc

mặc váy, buộc thắt lưng và ruột tượng; miền Nam mặc quần.Đàn bà ở nhà có

khi chỉ mặc yếm. Ra ngoài thêm áo cánh, áo tứ thân, hay áo dài. Về mắu sắc

thì người dân quê làm ruộng, quần áo hay nhuộm màu nâu hay đen, chỉ những

khi nhàn nhã mới mặc màu trắng hay màu tươi như yếm màu hồng, màu đào.

Thời nhà Nguyễn thì đàn ông thường búi tóc. Người nhiều tóc thì búi tó to

26

được cho là đẹp. Đàn bà phía nam sông Gianh cũng búi tóc còn đàn bà phía

bắc cuộn tóc vào trong khăn rồi quấn thành một vòng quanh đầu. Hình dáng

búi tó thông tục gọi là "búi tó củ hành" hay "búi tó củ kiệu"

Khăn đàn ông thì chỗ chân tóc trên trán có thể xếp thành dạng chữ "nhất"

(chữ Nho: 一) hay chữ "nhân" (人) với nếp trái đè lên nếp phảitạo bằng hai vòng

quấn đầu tiên. Đàn bà miền Bắc thì dùng khăn bao lấy tóc rồi quấn vòng chung

quanh đầu,trùm khăn,gọi là khăn mỏ quạ. Trong Nam thì chỉ búi tóc rồi trùm khăn.

Người Việt còn dùng nhiều loại nón như nón lá, nón quai thao.

Về trang phục của binh lính thời đó, ta thấy: lính trong triều thường

mặc áo thân dài. Loại quan ở cấp bậc trên, áo được may bằng vải tốt, có họa

tiết hay trơn. áo có nẹp khác màu ở vòng quanh tai, mép tà, gấu áo, cửa tay.

Lính hầu vua quan mặc áo cài cúc giữa, có nẹp hai bên tà từ ngực đến suốt

chiều dài của thân áo. Thắt lưng vải buộc ngoài áo dài nhân dân gọi là lính

khố vàng, vì vải màu trắng cháo lòng. Mặc quần ta, dưới chân bó xà cạp.

Chân đi dép da trâu hoặc đi đất. Đầu đội mũ hay khăn theo phẩm trật. Lính

hầu thì đội nón sơn nhỏ có chóp nhọn.

Ngoài ra còn có lính khố xanh, khố đỏ. Gọi là lính khố xanh vì loại lính

này thắt lưng xanh. Gọi là lính khố đỏ vì loại lính này thắt lưng đỏ. Thắt lưng

bằng vải, thắt phía trong áo và buông xuống trước bụng một đoạn ngắn

khoảng 20cm.

Nói chung lính đều mặc áo cánh ngắn, cổ đứng, cao, cài cúc giữa, tay

áo hẹp, ở gần cửa tay áo có đính phù hiệu chữ V bằng màu đỏ hay vàng hoặc

kim tuyến để chỉ cấp bậc là cai, đội hay quản v.v… Quần như quần nhân dân

nhưng phía dưới bó xà cạp. áo quần màu vàng cỏ úa. Đầu đội nón dấu nhỏ

hay nón đĩa đan bằng tre quang dầu. Nón đĩa rộng như cái mẹt con, đường

kính khoảng 25cm, phía sau có đính vải để che gáy và hai bên tai tránh nắng.

Chân đi dép da trâu mỏng, có quai chéo chữ V và một quai quàng.

Giai đoạn sau, lính người Việt tham gia quân đội Pháp được trang phục

theo kiểu cách quân đội viễn chinh Pháp quy định.

27

Chương 2. NÉT ĐẸP TRIỀU PHỤC HOÀNG GIA NHÀ NGUYỄN, TỪ DI SẢN VĂN HÓA CỦA NHÂN LOẠI ĐẾN THÁCH THỨC BẢO TỒN VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN

2.1. Nét đẹp triều phục hoàng gia nhà Nguyễn nhìn từ giá trị di sản

văn hóa của nhân loại

2.1.1. Giá trị di sản văn hóa của hoàng phục triều Nguyễn

Thực tế trong công tác bảo tồn thời gian qua cho thấy, dù chúng ta đã

có các phương pháp giữ gìn và bảo tồn nét đẹp văn hóa của hoàng phục, song

vẫn chưa được nhận diện 1 cách hệ thống nhất về giá trị văn hoa di sản của

hoàng phục triều Nguyễn.

Giá trị nghệ thuật: nét đẹp của hoa văn họa tiết trên hoàng phục hoàng

gia nhà Nguyễn tiêu biểu cho một phong cách, một giai đoạn, có tính toàn

vẹn, cần được giữ gìn. Giá trị nghệ thuật này vẫn còn được áp dụng trên trang

phục hay họa tiết trang trí. Đặc biệt hơn, hoa văn họa tiết này còn được cách

tân trên cách sàn diễn thời trang, các phim cổ trang hoặc các bức họa của các

họa sĩ nổi tiếng.Trang phục này là nghệ thuật mặc, nghệ thuật may mặc,

phong cách mặc mang đặc trưng nổi bật của triều đại. Nghiên cứu về Triều

phục là nghiên cứu về cái đẹp, cái đẹp thẩm mỹ của người cung đình xưa. Cái

đẹp là một phạm trù mỹ học, trong đó phản ánh và đánh giá những hiện tượng

của hiện thực và những tác phẩm nghệ thuật đem lại cho con người một cảm

giác khoái lạc về mặt thẩm mỹ, biểu hiện dưới hình thức cảm tính, đồng thời

xác định giá trị thẩm mỹ của đối tượng theo quan điểm về sự hoàn thiện, xem

chúng là các hiện tượng có giá trị thẩm mỹ cao nhất. Trong thực tế lịch sử mỹ

học nói riêng và triết học nói chung, quan niệm về cái đẹp không thống nhất.

Khi nghiên cứu các phạm trù của khách thể thẩm mĩ, phạm trù cái đẹp là một

phạm trù mà không nhà nghiên cứu nào có thể bỏ qua. Bởi lẽ trong cuộc sống

28

của con người,cái đẹp luôn là bạn đồng hành, có mặt ở khắp mọi nơi.Cái đẹp

đem lại nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ, tạo nên

nguồn sức mạnh để con người vượt qua thử thách. Nhờ có cái đẹp mà con

người có niềm tin vào chân lý,vào ngày mai.Cái đẹp luôn hiện hữu xung

quanh ta, có những cái đẹp do thế giới tự nhiên ban tặng nhưng cũng có

những cái đẹp do bàn tay con người làm nên, đó là cái đẹp trong nghệ

thuật.Tuy nhiên, cái đẹp mà trong nghiên cứu đề cập đến là cái đẹp tồn tại

trong một trạng thái khác, đó là cái đẹp trong xã hội.Chúng ta sẽ phần nào

hiểu thêm về nó khi đi vào tìm hiểu nếp sống tình cảm của con người qua Ngũ

Luân.Bản chất của cái đẹp là một phạm trù hết sức phức tạp, đặc điểm của cái

đẹp là tồn tại mãi với thời gian.cái đẹp gồm những phẩm chất: hài hòa, mực

thước, chất lượng, tiến bộ, có hai hệ tiêu chí là Chân, thiện, mĩ và tính nhân

dân, tính dân tộc,tính nhân loại.

Cơ sở cái đẹp trong trang phục: Chiếc bánh đẹp là do bột, đường,.. cũng

như quần áo đẹp là do chất liệu vải may cắt mà thành. Vẻ đẹp của trang phục

dựa trên cơ sở hình thể, đường nét, màu sắc, hoa văn, chất liệu để biết cách ăn

mặc thanh lịch, duyên dáng, hấp dẫn hơn. Tất cả tạo nên vẻ đẹp mắt, hài lòng

cho người mặc. Ở nước ta,từ thời các vua Hùng, nhân đân ta đã có nền tảng văn

hóa trang phục, trải qua bao nhiêu đời vua, nhân đân ta đã hình thành và phát

triển các loại trang phục càng ngày càng công phu, cầu kì và đẹp mắt.Trong đó

đẹp mắt nhất phải kể đến triều phục Hoàng gia. Triều phục hoàng gia là tuyệt

tác thẩm mĩ của người cung đình xưa.Trang phục hoàng triều dù có các quy tắc

chuẩn mực song sức sáng tạo lại luôn tồn tại trong đôi bàn tay khéo léo của

người nghệ nhân., trong phong cách mặc của mỗi ông vua triều Nguyễn và

trong sự cách tân của các Triều đại cuối khi tiếp xúc với văn hóa trang phục

của châu Âu thời đó.Trang nhã là đặc điểm thẩm mĩ quan trọng nhất qua vẻ

đẹp của hoàng bào như là sự kết tinh của Chân – Thiện - Mĩ.

29

Giá trị lịch sử: Giá trị về niên đại, hoàng phục thể hiện sự hiếm có của di

sản còn lại qua thời gian, thể hiện sự tiêu biểu của hiện vật với một giai đoạn lịch

sử, công trình hay không gian là chứng tích cho những sự kiện lịch sử.

– Giá trị truyền thống: tri thức về bản sắc trên trang phục rất đáng để

các thế hệ sau học tập.

- Giá trị kế thừa, chuyển tiếp trong bối cảnh đương đại. Giá trị này nếu

nhìn về thời gian (coi là gốc) của di sản thì nó chưa hình thành, mà được hình

thành dần cho đến ngày hôm nay. Giá trị trong văn hóa xã hội đương đại đó là

góp phần tạo dựng một giai đoạn lịch sử trang phục truyền thống trong dòng

chảy trang phục đương đại để có được cái nhìn tổng quan về lịch sử và vẻ đẹp

trang phục của dân tộc.

- Giá trị dấu ấn nơi chốn, tạo bản sắc, tính biểu tượng cho khu vực:

hoàng phục dù được phục dựng nhưng vấn giữ nguyên được giá trị tinh thần

cốt lõi vốn có. Hoàng phục không chỉ là niềm tự hào của một thế hệ, của Huế,

của cả đất nước Việt Nam mà còn là dấu ấn chung của cả nhân loại.

2.1.2. Giá trị tôn giáo tín ngưỡng của hoàng phục triều Nguyễn

Hoàng phục triều Nguyễn có giá trị văn hóa vật thể rất cao. Các giá trị

văn hóa về tín ngưỡng, phong tục tập quán truyền thống luôn tồn tại trong một

khung cảnh lịch sử là cung đình Huế, đi kèm với công trình kiến trúc, không

gian. Vì vậy, nói đến triều Nguyễn, ta không thể không kể tới một loại hình

nghệ thuật đang được bảo tồn và phát huy đó là Nhã nhạc cung đình Huế, được

UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Bên cạnh đó, đi cùng nhã

nhạc cung đình Huế, ta không thể không nhắc tới quần thể kiến trúc cung đình

và Hoàng phục Triều Nguyễn. Đi cùng với giá trị tinh thần, còn có giá trị tôn

giáo, tín ngưỡng với các biểu tượng rồng về thần quyền của nhà vua.

Trang phục hoàng triều với các chuẩn mực như dài, rộng và trang

trọng, với những hoa văn chữ Vạn Thọ,cài chéo bên phải bằng khuy vàng,

họa tiết sóng ba đào.

30

Họa tiết song ba đào dưới vạt áo với những dải sóng nước sôi lên, dồn

những hình con lân và con rồng tung lên bầu trời.Giống với nhà Thanh, nhà

Nguyễn ở gấu áo cũng có những cột dọc ở dưới sóng ba đào.

Áo Hoàng triều có thể được chôn theo người trong hoàng thất khi họ

mất nhưng cũng có thể giữ lại làm đồ thờ cúng trong một dòng họ nào đó.

Các biểu tượng rồng,phượng trên long bào và phụng bào cũng là những

biểu tượng rất phổ biến trong các công trình thờ tự, tín ngưỡng của người Việt

thuộc nhóm tứ linh: Long,ly, quy phụng. Rồng là biểu trưng cho quyền lực

thế quyền của nhà Vua.Rồng vừa biểu trưng cho sự thịnh vượng phát triển,

quốc thái dân an, mưa thuận gió hòa, xã hội an thái,xã tắc uy nghi, giàu nội

lực và bền vững đế vương.

2.2. Biện pháp bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục hoàng

gia nhà Nguyễn.

Bản sắc văn hóa hay bản thể văn hóa là bản thể hay cảm giác thuộc về

một nhóm nào đó. Nó là một phần của khái niệm về bản thân và nhận thức về

bản thân của một người, và có liên quan đến quốc tịch, sắc tộc, tôn giáo, giai

cấp xã hội, thế hệ, địa phương hay bất cứ loại nhóm xã hội nào có văn hóa

riêng biệt. Bản sắc văn hóa đặc trưng cho cả cá nhân và nhóm đồng nhất về

văn hóa với các thành viên có chung bản sắc văn hóa.

Cùng với tiếng nói, chữ viết, trang phục là một trong những chỉ dấu

quan trọng đầu tiên để nhận biết và phân biệt giữa dân tộc này với dân tộc

khác. Trang phục truyền thống không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa, mà còn

chứa đựng những giá trị nghệ thuật, giá trị lịch sử của từng tộc người.Bản sắc

văn hóa không chỉ là tiếng nói,di sản, mà còn là trang phục.

Cùng với sự phát triển của xã hội, trang phục không chỉ là mang chức

năng bảo vệ và giữ ấm thân thể, mà còn truyền tải những ký hiệu văn hóa,

những thông điệp phong phú về đời sống vật chất, tinh thần của mỗi cá nhân,

cộng đồng xã hội, thậm chí về một dân tộc, một quốc gia. Mỗi thời đại lại có

một kiểu trang phục đặc trưng. Trang phục truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi

31

cộng đồng tộc người trên thế giới là thành tố quan trọng tạo nên những giá trị

văn hóa đặc thù và bền vững mà ta vẫn gọi là bản sắc văn hóa.

Một điều thú vị là dù nước Việt Nam ta nằm ngay cận kề với nước

Trung Hoa và chịu sự ảnh hưởng văn hóa, phong tục Trung Hoa dưới nhiều

hình thức khác nhau, trang phục dân gian phải chịu những định chế nghiêm

ngặt, những áp đặt nhưng vẫn phần nào giữ được bản chất phóng khoáng cố

hữu của văn hóa dân gian.

Chính hình thái bán tự trị của văn hóa làng vô cùng đặc trưng của

người Việt như một thứ “kháng thể” có khả năng chống lại sự xâm thực văn

hóa từ bên ngoài. Trong môi trường văn hóa làng xã luôn có xu hướng khép

kín ấy, nơi mà thậm chí phép vua còn thua lệ làng thì nhiều tập tục truyền

thống vẫn được kế thừa từ thế hệ này sang thế hệ khác. Trang phục dân gian

của người Việt ‒ đặc biệt là trang phục phụ nữ vẫn còn gìn giữ được tương

đối nhiều những nét đặc sắc, thậm chí có cả những tập tục đã xuất hiện từ thời

Đông Sơn cách đây mấy ngàn năm.

Song song với việc lưu truyền phong tục cũ, người dân Việt Nam tự

ngàn đời cũng vẫn bền bỉ thẩm thấu những tinh hoa văn hóa bốn phương, rồi

chuyển biến chúng thành những nét đặc sắc của mình. Không cầu kỳ như

những vàng son nhung gấm, mão miện hài hia của vua chúa và giới chức quan

lại, nhưng những chiếc nón lá, nón cụ quai tơ, nón thúng quai thao, yếm đào,

khăn vấn, áo tứ thân, áo dài, guốc sơn, guốc tre… những thứ y phục quá đỗi

bình dị của tầng lớp thường dân vẫn luôn là nơi nâng niu những nét duyên

thuần Việt nhất, nơi lưu giữ những hình ảnh đặc thù cho bản sắc văn hóa

trang phục Việt.

Triều phục hoàng gia không chỉ là trang phục mà còn là văn hóa, bao

hàm những giá trị về thẩm mỹ mang bản sắc dân tộc. Nói cách khác, mỗi bộ

trang phục dân tộc được xem là “niềm tự hào” của cả dân tộc đó.

Nên việc bảo tồn và phát huy hình ảnh của triều phục nhà Nguyễn là

vô cùng quan trọng. Nhưng việc bảo tồn như thế nào để có thể vừa giữ gìn

32

được nét đẹp văn hóa dân tộc lại vừa mang lại giá trị tinh thần lại là một

bài toán khó.

Trước hết, Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch cần đưa ra mục tiêu tổng

quát cho công tác bảo tồn và phát huy nét đẹp của Triều phục đáp ứng yêu cầu:

“văn hóa vừa là động lực vừa là mục tiêu” cho sự phát triển bền vững văn hóa

dân tộc Việt Nam. Đưa hoàng phục trở thành niềm tự hào, nâng cao ý thức bảo

tồn và phát huy trang phục truyền thống. Tuy nhiên, khi thực hiện nên phân

loại hoàng phục theo các hướng bảo tồn như bảo tồn nguyên vẹn hay bảo tồn

theo các giai đoạn tái sáng tạo. Do đó, quá trình tái sáng tạo Hoàng phục triều

Nguyễn cần phải có sự tham gia của các họa sĩ, nhà nghiên cứu tham gia và

được cộng đồng chấp thuận. Đó là xu hướng của bảo tồn. Bộ VHTTDL nên

đưa ra nhiều nội dung, quy trình phù hợp, từ kiểm kê đến bảo tồn.

Những bộ trang phục truyền thống phải được giữ gìn, phát huy bản sắc

ở những địa điểm du lịch ( không chỉ ở thành phố Huế mà còn ở trên mọi

miền tổ quốc), hoặc qua các cuộc giao lưu văn hóa. Quá trình bảo tồn cũng

phải có sự tham gia của các nhà nghiên cứu, nhà khoa học, các họa sĩ...

Ở Hàn Quốc, Trung Quốc, họ có cách bảo tồn và phát huy trang phục

rất hay bằng cách lồng vào những chương trình, những thước phim cổ trang,

vừa mang tính thiết thực vừa đưa trang phục hoàng gia nước họ đến gần hơn

với thế hệ trẻ trong nước và cả bạn bè quốc tế.

2.3. Ý nghĩa của việc bảo tồn và quảng bá hình ảnh của triều phục

hoàng gia Nhà Nguyễn tới giới trẻ và bạn bè trên thế giới

Trang phục hoàng gia là di sản văn hóa tồn tại từ nhiều đời, là thông

điệp mà quá khứ để lại cho ngày nay. Việc bảo tồn và giữ gìn hoàng phục là

vô cùng cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc với người dân Việt Nam nói chung và

nhân loại nói riêng. Nếu hoàng phục không còn tồn tại, hoặc bị mai một sẽ

mất đi giá trị tín ngưỡng, giá trị tâm linh và bản sắc văn hóa của một dân

tộc.Những bộ trang phục hoàng gia là niềm tự hào to lớn của mỗi một đất

nước, nhất là nước có bề dày lịch sử như nước ta.

33

Việc bảo tồn và phát huy nét đẹp cũng như tinh thần văn hóa dân tộc

trong mỗi bộ hoàng phục góp phần đưa giới trẻ Việt Nam đến gần hơn với

trang sử vẻ vang của đời đời cha ông để lại, rồi từ đó khơi dậy niềm tự hào

dân tộc, như Bác Hồ của chúng ta đã từng nói:

Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam

Không có quá khứ thì sao có hiện tại như ngày hôm nay. Chính vì

những dấu ấn vẻ vang ấy mà đất nước ta được như ngày hôm nay và ngày mai

sau, khi thế hệ trẻ hôm nay tiếp bước cha anh, đưa Việt Nam lên tầm cao mới,

thế giới sẽ được thấy một Việt Nam đã từng oai hùng như thế.

Việc giữ gìn nét đẹp văn hóa này còn góp phần in đậm bản sắc Việt

trong hồn mỗi con người Việt Nam, để dù có đi xa đến phương trời nào vẫn

luôn nhớ về nguồn cội.

Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Việt Nam đã và đang đi

lên phát triển công nghiệp dịch vụ, hướng mũi nhọn chính là du lịch tâm linh

thì việc bảo tồn này còn góp phần quảng bá hình ảnh Việt Nam ra bạn bè

quốc tế, bên cạnh đó mang đến nguồn lợi về kinh tế dồi dào. Cũng như các

nước bạn bè của nước ta, nhờ phát huy đúng hướng mà trang phục hoàng gia

nước họ có mặt rất đậm nét trong các sản phẩm văn hóa giao lưu như điện ảnh

tới người dân Việt Nam.

34

KẾT LUẬN

Triều phục hoàng gia không chỉ là trang phục mà còn là biểu tượng văn

hóa, bao hàm những giá trị về thẩm mỹ mang bản sắc tộc người. Nói cách

khác, mỗi bộ trang phục dân tộc được xem là “niềm tự hào” của cả dân tộc đó.

Bộ mặt của một nhà nước phong kiến ngoài kinh tế, chính trị, giáo dục

còn thể hiện trong văn hóa mặc. Mỗi một triều đại đi qua đều để lại những

dấu ấn riêng biệt về phong cách, đặc điểm trang phục cung đình, và hoàng gia

triều Nguyễn cũng vậy.

Nét đẹp của hoa văn họa tiết trên hoàng phục hoàng gia nhà Nguyễn

tiêu biểu cho một phong cách, một giai đoạn, có tính toàn vẹn, cần được giữ

gìn. Giá trị nghệ thuật này vẫn còn được áp dụng trên trang phục hay họa tiết

trang trí. Giá trị về niên đại, hoàng phục thể hiện sự hiếm có của di sản còn

lại qua thời gian, thể hiện sự tiêu biểu của hiện vật với một giai đoạn lịch sử,

công trình hay không gian là chứng tích cho những sự kiện lịch sử. Giá trị

truyền thống: tri thức về bản sắc trên trang phục rất đáng để các thế hệ sau

học tập. Giá trị kế thừa, chuyển tiếp trong bối cảnh đương đại. Giá trị này nếu

nhìn về thời gian (coi là gốc) của di sản thì nó chưa hình thành, mà được hình

thành dần cho đến ngày hôm nay. Giá trị trong văn hóa xã hội đương đại đó là

góp phần tạo dựng một giai đoạn lịch sử trang phục truyền thống trong dòng

chảy trang phục đương đại để có được cái nhìn tổng quan về lịch sử và vẻ đẹp

trang phục của dân tộc.

Trang phục hoàng triều dù có các quy tắc chuẩn mực song sức sáng tạo

lại luôn tồn tại trong đôi bàn tay khéo léo của người nghệ nhân., trong phong

cách mặc của mỗi ông vua triều Nguyễn và trong sự cách tân của các Triều

đại cuối khi tiếp xúc với văn hóa trang phục của châu Âu thời đó.

Các tiêu chí bản sắc của một triều đại chính là tiêu chí thẩm mĩ đầu

tiên. Tiêu chí tiếp theo là tiếp thu những biểu tượng ch quyền lực trong trang

phục nhà Thanh.Từ đó hợp thành trong tiêu chí chân –thiện-mĩ trong trang

phục của người Việt.Đẹp trong nét sang trọng, đẹp trong sự sa hoa, đẹp trong

35

sắc thái và cấp bậc của trang phục, đẹp khi đại triều và thường triều, đẹp trong

các mùa xuân hạ thu đông.

Hoàng phục không chỉ là niềm tự hào của một thế hệ, của Huế, của cả

đất nước Việt Nam mà còn là dấu ấn chung của cả nhân loại. Việc bảo tồn và

giữ gìn nét đẹp của hoàng phục triều Nguyễn dù gặp nhiều khó khăn nhưng đã

và đang tiếp tục sửa đổi và phát huy hết giá trị của nó. Hoàng phục triều

Nguyễn sẽ luôn là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam nói riêng và toàn nhân

loại nói chung.

36

PHỤ LỤC

- Hình ảnh có chú thích:

Vua Khải Định mặc áo tế Giao, đội mũ bình thiên, ngự trên ngai vàng

37

Vua Khải Định trong trang phục thường triều, đầu đội khăn xếp, đang làm việc trong điện Cần Chánh.

Vua Bảo Đại trong trang phục đại triều, đầu đội mão cửu long, ngự trên ngai vàng trong điện Thái Hòa.

38

Hoàng hậu Nam Phương (vợ vua Bảo Đại) trong trang phục thường triều.

Hoàng hậu Nam Phương trong trang phục mệnh phụ thu đông.

39

Hoàng hậu Nam Phương mặc áo dài cổ truyền, đầu chít khăn vành.

Hoàng thái hậu Đoan Huy (vợ vua Khải Định, mẹ vua Bảo Đại) trong trang phục Đại triều.

40

Hoàng thái tử Bảo Long (con vua Bảo Đại) mặc áo sa kép, đầu đội khăn xếp.

Vua Bảo Đại, hoàng hậu Nam Phương và hoàng thái hậu Đoan Huy trong trang phục áo dài truyền thống cùng công chúa Phương Mai và Phương Dung.

41

Chiếc mũ vua nhà Nguyễn đội khi thiết triều

Trang phục của vua

Long Bào

42

Hoàng bào

Long cổn Vua mặc trong các lễ tế ở miếu

Long cổn vua mặc trong lễ tếđàn Nam Giao, lễ tế trời đất quan trọng nhất của Hoàng tộc và của đất nước.

43

Hoàng phục của hoàng hậu và thái hậu

Phượng bào hoàng hậu mặc lúc thiết triều

Đoàn phượng nhật bình hoàng hậu mặc khi thường triều

Áo sa kép của hoàng hậu

44

Áo sa kép của hoàng thái hậu Trang phục của các hoàng tử và công chúa

Mãng bào hoàng tử mặc lúc thiết triều

45

Mãng lan Hoàng tử mặc trong các buổi lễ

Áo sa kép của hoàng tử

46

Áo đoàn loan nhật bình của công chúa

Áo sa kép của công chúa

47

Đôi hài từng được vua Bảo Đại sử dụng.

Còn đây là đôi hài dành cho hoàng hậu nhà Nguyễn.

48

Hoàng bào của vua nhà Thanh

Vua Càn Long thường xuất hiẹn trên phim ảnh Trung Quốc

49

Hoa văn trên hoàng bào của Hoàng đế Càn Long.

50

Hình ảnh con rồng thêu bằng chỉ vàng trên hoàng bào của Càn Long.

51

Càn Long khoác long bào màu vàng trong một buổi lễ ở triều đình.

Được trưng bày tại Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế, hoàng bào của vua nhà Nguyễn mặc lúc thiết lễ đại triều là một hiện vật đặc sắc phản ánh cuộc sống xa hoa cũng như tư duy thẩm mỹ của những người đứng đầu nhà nước phong kiến cuối cùng của Việt Nam.

52

Rồng trên long bào của vua được tạo hình với 5 móng

53

Các chữ Phúc, Lộc, Thọ đại tự được thêu nổi trên áo vua theo lối chữ triện, như lời chúc phúc dành cho người quyền lực nhất vương triều.

54

Những nét dệt, đường thêu rất sống động.

Hoàng bào của hoàng hậu nhà Nguyễn

55

Hoàng bào của hoàng hậu

Hoa văn trang trí trung tâm trên áo hoàng hậu là chim phượng - loài chim thần thoại được coi là biểu tượng cho phụ nữ hoàng tộc.

56

Các họa tiết trang trí khác có nhiều sự tương đồng với hoàng bào của vua, nhưng mật độ có phần thấp hơn.

57

Trang phục đại triều

58

Áo Tấc

59

Nhung y tòng nhất phẩm võ ban.

Nhung y ngự tứ.

60

Mãng lan tòng nhị phẩm

Áo chầu chánh nhất phẩm văn ban mầu cổ đồng

61

Áo cổn chánh nhất phẩm võ ban

Áo chầu tòng nhất phẩm võ ban mầu thiên thanh

62

Áo chầu chánh nhị phẩm văn ban mầu cam bích

Áo chầu tòng nhị phẩm võ ban mầu quan lục

Áo chầu chánh tam phẩm võ ban mầu bửu lam

63

Áo chầu tòng tam phẩm văn ban mầu ngọc lam

Hoa bào của chánh, tòng ngũ phẩm

64

Áo chầu lục phẩm với bổ tử thêu con bạch nhàn (gà lôi trắng)

Áo thường triều Một vài mẫu bổ tử thời cuối Nguyễn triều:

65

Bổ tử trên quan phục Văn nhất và nhị phẩm (Tiên Hạc), mẫu Huế [trái] và trên quan phục Văn cửu phẩm (liêu thuần-đa đa) mẫu Bắc[phải]

Bổ tử trên quan phục Võ thất phẩm (bưu, tức hổ nhỏ) mẫu Huế [trái] và Võ tứ phẩm (hổ) mẫu Bắc [phải]

66

Tượng quan văn đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo

67

Tượng quan võ 1 đội mão đỉnh tròn với hoa văn tứ linh trên áo

68

nón quai thao.

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tg: Sử quán triều Hậu Lê gồm các sử quan tiêu biểu: Ngô Sĩ Liên, Vũ

Quỳnh, Phạm Công Trứ, Lê Hy, Nguyễn Quý Đức Tp :Đại Việt sử kí toàn

thư

2. Tg: Đỗ Bằng Đoàn,Đỗ Trọng Huề Tp : Những đại lễ và Vũ khúc của vua

chúa Việt Nam , Nxb Sách in dưới sự bảo trợ của Bộ Văn Hóa

3. Tg: Võ Hương – An 2012 Tp Từ điển nhà Nguyễn Nxb Nam Việt

4. https://www.24h.com.vn/tin-tuc-quoc-te

5. http://nguoikesu.com/tu-lieu/bang-doi-chieu-cac-trieu-dai-viet-nam-va-

cac-trieu-dai-trung-quo

6. https://lichsunuocvietnam.com/trang-phuc-hoang-gia-nha-nguyen/ Từ điển

nhà Nguyễn

7. Đi tìm trang phục Việt tập 16,17,18 trang phục vương triều Nguyễn.

(link youtube)

70