TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
VĂN HỌC VIỆT NAM
ĐỀ TÀI
Người hướng dẫn: Thầy Phạm Văn Phúc
Người thực hiện: Sinh viên Nguyễn Thị Thu Nga
MSSV: K35.601.059
Niên khóa: 2009 - 2013
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 05 năm 2013
LỜI CÁM ƠN
Trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành bài khóa luận, em đã
được tiếp xúc và rèn luyện nhiều hơn về kiến thức chuyên môn lẫn nghiệp vụ.
Em xin chân thành cám ơn thầy Phạm Văn Phúc với sự hướng dẫn, góp ý của
thầy để em hoàn thành khóa luận này.
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Thu Nga
MỤC LỤC
Phần thứ nhất ................................................................................................................... 4
DẪN NHẬP ..................................................................................................................... 4
I. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 4
II. Lịch sử vấn đề .................................................................................................... 5
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 20
IV. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 20
Phần thứ hai: NỘI DUNG ............................................................................................. 22
CHƯƠNG I: KHÁI LƯỢC TRỞ LẠI VỀ DIỆN MẠO THƠ CA VIỆT NAM TRÊN
VĂN ĐÀN CÔNG KHAI ĐẦU THẾ KỈ XX ............................................................... 22
I. Bối cảnh lịch sử xã hội của diện mạo thơ trên văn đàn công khai đầu thế kỉ XX .. 24
II. Bối cảnh văn học của thơ và diện mạo thơ ca giai đoạn ....................................... 26
II.1. Bối cảnh văn học của thơ: những đặc điểm chính của văn học trên văn đàn
công khai ................................................................................................................. 28
II.2. Diện mạo thơ: những đặc điểm riêng của thơ ca giai đoạn ............................ 31
II.2.1. Một giai đoạn ôn tập lại các thể loại ......................................................... 31
II.2.2. Tình trạng đình đốn về nghệ thuật ............................................................ 34
II.2.3. Điểm qua các khuynh hướng và các nhà thơ ............................................ 36
II.2.4. Một số nhà thơ tiêu biểu ............................................................................... 40
CHƯƠNG II: Ý NGHĨA HIỆN ĐẠI HÓA CỦA “HAI GIỌT LỆ” ............................. 49
I. Khái quát chung ...................................................................................................... 49
I.1. Hoàn cảnh sáng tác ........................................................................................... 49
I.1.1.“GIỌT LỆ THU” (TƯƠNG PHỐ) ............................................................. 49
I.1.2.“LINH PHƯỢNG KÍ” (ĐÔNG HỒ) .......................................................... 50
I.2. Khái niệm “hiện đại hóa” trong văn học .......................................................... 51
I.2.1. Khái niệm “hiện đại hóa” ........................................................................... 51
I.2.2. Nội dung của hiện đại hoá ......................................................................... 54
II. Ý nghĩa hiện đại hóa của “Hai giọt lệ” .................................................................. 58
II.1. Về phương diện nội dung ................................................................................ 58
II.2. Về phương diện hình thức .............................................................................. 80
CHƯƠNG III: VỊ TRÍ CỦA ĐÔNG HỒ VÀ TƯƠNG PHỐ TRONG TỔNG THỂ BỐI
CẢNH GIAO THỜI CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỈ XX ....................... 93
I. Tương Phố ........................................................................................................ 93
I.1. Đôi nét về tác giả Tương Phố ........................................................................... 93
I.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Tương Phố .............................................. 94
II. Đông Hồ .............................................................................................................. 100
II.1. Đôi nét về tác giả Đông Hồ ........................................................................... 100
II.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Đông Hồ .............................................. 101
Phần thứ ba: KẾT LUẬN ............................................................................................ 112
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 115
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ............................................................................... 118
Phần thứ nhất
DẪN NHẬP
Lý do chọn đề tài
I.
Giai đoạn 30 năm đầu thế kỉ XX có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong lịch sử
văn học Việt Nam. Đây là giai đoạn chuyển tiếp, là “buổi giao thời” giữa hai thời kì
văn học, trung đại và hiện đại. Vì vậy văn học giai đoạn này có một đặc điểm nổi bật
là sự đan xen cũ – mới, thúc đẩy nhanh nhịp hiện đại hóa văn học. Đấy cũng là cơ hội
cho sự vận động phát triển thể loại văn học; trong đó có thơ ca - một lĩnh vực vốn là
truyền thống lâu đời của văn học Việt Nam.
Tương Phố và Đông Hồ là hai “độc đáo” hiếm có, không chỉ trong giai đoạn 30
năm đầu của thế kỉ XX. Họ đã góp mặt vào thi đàn “Hai giọt lệ” chứa chan thương
cảm, từng có lúc được coi là hai thi phẩm “trác tuyệt”. Tuy không lớn bằng, không
nhiều bình diện thành công và đóng góp như Tản Đà, hay thậm chí như Á Nam Trần
Tuấn Khải, để tiêu biểu cho “gạch nối” giữa hai nền thơ cũ và mới, nhưng họ đã góp
vào tiếng nói chung của thơ ca thời ấy, cùng làm nên cảnh tượng về một “dàn đồng ca”
thơ lãng mạn, với cái Tôi cá nhân mang theo nỗi buồn nhiều sắc độ, và với những
vùng vẫy phá bỏ “khuôn khổ bất nhân” trong thơ ca (lời Xuân Diệu), mở đầu cho
khuynh hướng buồn thương, ảo não ảnh hưởng đến Thơ mới sau này.
Và, Đông Hồ sẽ trở thành nhà Thơ mới (1932-1945) thực thụ.
Thành tựu nghiên cứu về thơ ca của Tương Phố và Đông Hồ chưa nhiều, chưa
thật thấu đáo. Do vậy, chúng tôi chọn đề tài “Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX
trong “Hai giọt lệ” của Tương Phố - Đông Hồ” với mong muốn tìm hiểu thấu đáo hơn
sự hình thành, chuẩn bị, tích lũy và vận động hiện đại hóa của thơ ca Việt Nam ở “giai
đoạn giao thời” rất quan trọng này.
II. Lịch sử vấn đề
Trong những công trình, bài viết về văn học Việt Nam đầu thế kỉ XX, một số
nhà nghiên cứu đã ít nhiều đề cập đến Tương Phố và Đông Hồ. Ngoài phần viết về con
người hai nhà thơ, còn có những nhận xét, phê bình về văn nghiệp của họ, về “Hai giọt
lệ” – “Giọt lệ thu” của nữ sĩ Tương Phố và “Linh Phượng lệ ký” của thi sĩ Đông Hồ.
Có thể quy các bài viết ấy thành ba dạng sau:
Dạng thứ nhất: Những bài chủ yếu kể về kỉ niệm riêng tư của người viết đối
với hai tác giả. Qua đó, ta hiểu hơn về con người của Tương Phố và Đông Hồ.
Dạng thứ hai: Những bài thẩm bình, cảm nhận về các sáng tác của hai tác giả,
nhất là về “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký”. Nhờ những bài viết này, độc giả sẽ có
cái nhìn cụ thể hơn và phần nào sâu sắc hơn về sáng tác của hai tác giả.
Dạng thứ ba: Những công trình có tính chất văn học sử, hoặc chuyên luận /
chuyên khảo, nghiên cứu, đánh giá chung về toàn bộ văn nghiệp của Tương Phố và
Đông Hồ hay một đặc điểm nổi bật nào đó về nội dung và nghệ thuật... Dạng thứ ba
này chiếm số trang nhiều nhất.
Nhìn chung, số lượng bài viết nghiên cứu về “giai đoạn văn học giao thời” đầu
thế kỉ XX có phần ít hơn đáng kể, so với lượng bài lẫn số trang, viết về những giai
đoạn khác của văn học Việt Nam (tình hình đó có những lý do khách quan của nó, xin
không bàn đến ở đây). Nhưng chính vì vậy, công việc của chúng tôi, tìm hiểu về
Tương Phố và Đông Hồ, sẽ gặp những khó khăn mà đề tài khác ít gặp, chẳng hạn,
ngay từ khâu đầu tiên là văn bản đầy đủ của các tác phẩm để khảo sát, cũng như nguồn
tư liệu phải tham khảo...
Xin đi vào cụ thể từng kiểu dạng như sau:
Dạng 1:
Khi “Giọt lệ thu” ra đời và thổi vào lòng công chúng thành thị những nỗi buồn
thê lương, dai dẳng thì tên tuổi của Tương Phố mới thực sự được nhiều người biết đến.
Không ít người khi tiếp xúc với bà, vẫn giữ mãi ấn tượng đẹp về bà. Trong tuyển tập
“Nữ sĩ Việt Nam” [11, 500], nhà văn Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiên đã kể lại rằng:
“Lần cuối cùng (17/4/1973) chúng tôi đến thăm bà tại nhà nữ sĩ Song Khê (em
gái bà) ở 36 Trần Cao Vân, Sài Gòn. Vì chúng tôi là bạn thân với con trai, con dâu của
bà, cũng lại là bạn văn nghệ vong niên với bà nữa, nên qua tâm sự bà đã tặng vợ chồng
tôi một bài thơ lưu niệm với thủ bút của bà.
Lúc ấy nữ sĩ Tương Phố đang bị bệnh, người rất gầy, tôi lo lắng hỏi bà bệnh gì.
Bà ung dung mỉm cười và rất thân mật kéo tay tôi gí vào cục u bên hông rồi nói: “Ung
thư rồi đây này Như Hiên ạ”... Rồi bằng ánh mắt xa xôi...bằng nụ cười thản nhiên, làm
như không cần biết người đối thoại đang há hốc mồm chột dạ..., bà vẫn điềm nhiên
mỉm cười, thong thả đọc mấy vần thơ ứng khẩu:
“Lúc đau, đau đến tái người
Lúc yên... thì lại đau đời sầu đau...”
Tương Phố đã để lại trong lòng người mọi người hình ảnh một người phụ nữ
sầu não, mảnh dẻ nhưng lại rất gan dạ, lúc nào cũng tỏ ra cương quyết. Dù ốm nặng
nhưng bà vẫn rất lạc quan và mạnh mẽ. Chẳng thế mà khi đến thăm nhà văn Tam Lang
Vũ Đình Chí (tác giả “Tôi kéo xe”), bà đã làm tặng bốn câu thơ nhan đề “Siêu thoát” :
“Rồi cũng đi mà có ở chi
Chuyện đời thôi nỏ hết sân si
Phù sinh vốn biết thân là mộng
Một sớm qua chời thắc mắc gì.”
Sau khi bà qua đời, trong bài báo nhan đề “Vẫn về nữ sĩ Tương Phố, cô dâu xứ
Huế” của nhà văn Nguyễn Hữu Thứ, có đoạn kể lại suy nghĩ của bà về tâm trạng cùng
hoài bão của nữ sĩ khi làm thơ. Lúc sinh tiền, khi được nhà văn đặt câu hỏi đó, bà đã
mỉm cười khiêm tốn trả lời:
“... Tôi làm thơ để diễn tả tâm tình tùy theo nhu cầu, theo hứng... chứ không
phải làm thơ để sáng tác văn chương. Có lẽ đó là một loại nghệ thuật vị nhân sinh cho
tôi...”[11, 504]
Tuy nói vậy nhưng nếu theo dõi thi nghiệp của bà thì chúng ta sẽ sớm nhận ra
không hẳn vậy. Dấu vết dụng công “làm văn chương” và thậm chí là “sáo” vẫn lộ rõ
và xuất hiện nhiều trong “Giọt lệ thu”, đặc biệt trong “Tái tiếu sầu ngâm” và những
“thi phẩm” khác về sau.
Có thể thấy rằng, Tương Phố coi thơ văn là một loại hình nghệ thuật giúp ích
cho bà trong việc diễn tả cảm xúc, tình cảm chứ không hẳn là chuyện nghề nghiệp. Đó
cũng là một cách nghĩ tác động đến nội dung và đề tài trong những sáng tác của bà.
Bởi hầu hết các tác phẩm của Tương Phố đều là tiếng lòng xuất phát từ một tâm hồn
đa cảm, đa sầu nhưng cũng không kém phần mạnh bạo, mạnh mẽ.
Cùng thời với Tương Phố và cũng góp phần vào thi đàn một “giọt lệ” khóc vợ
thương tâm là thi sĩ Đông Hồ. Trong mắt người đương thời từng tiếp xúc, ông là một
người rất trọng phép tắc, lễ giáo. Nhà văn Nguyễn Triệu Nam đã kể lại trong bài viết
“Kỷ niệm về thi sĩ Đông Hồ” [47] như sau:
“…Đông Hồ là mẫu người nệ cổ, có phần kiểu cách. Hay dùng điển tích xưa
mỗi khi nói chuyện. Tiếp xúc với văn hữu, thường chêm những cổ ngữ, nhất là những
kính ngữ. Cách trang phục cũng cổ nữa. Lễ lạc hay tiếp tân, đều vận quốc phục, khăn
đóng, áo dài, giầy Gia Định. Về hình thức bề ngoài, có thể coi con người Đông Hồ là
phiên bản của hình ảnh một công dân Gia Định Thành thời Minh Mạng. Tiếp khách
quý, Nhà thơ còn đốt trầm cho thêm phần trịnh trọng. Chỉ khách quý ngang vai hoặc
trên vai mình thì mới bày vẽ như thế. Khách dưới vai, đáng tuổi con cháu thì khỏi.”
Quả thực, tuy sinh ra trong thời đại mới nhưng Đông Hồ vẫn giữ được vẹn
nguyên những giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Cung cách ứng xử
của ông tuy có phần kiểu cách nhưng đó cũng là sự thể hiện tấm lòng hoài cổ và yêu
quý những giá trị văn hóa một thời của tầng lớp trí thức.
Ngoài ra, Đông Hồ còn là một thầy giáo nhiệt thành và tâm huyết với nghề, tâm
huyết với việc truyền bá nét đẹp văn chương đến với thế hệ trẻ. Nói về điều này, Hoài
Thanh đã có nhận định trong “Thi nhân Việt Nam” rằng:
“Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì
tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường
con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng. Nhưng yêu quốc văn
mà đến như Đông Hồ kể cũng ít. Thất học từ năm mười lăm, mười sáu; từ đó người
chỉ chuyên học quốc văn, viết quốc văn rồi mở trường chuyên dạy quốc văn”. [38,
349]
Chính vì tình yêu tiếng mẹ đẻ ấy mà Đông Hồ đã không quản sức khỏe, tuổi tác
để tiếp tục đứng lớp giảng dạy. Sự ra đi đột ngột trên bục giảng của người thầy đáng
kính ấy đã để lại trong lòng mọi người sự thương tiếc khôn nguôi.
Nhà giáo Võ Văn Nhơn - người học trò chứng kiến cái chết của thầy Đông Hồ
đã viết bài “Đông Hồ - thi sĩ yêu tiếng Việt” [51] kể lại: “Cũng vì lòng yêu tiếng mẹ,
nên ba mươi năm sau ngày Trí Đức học xá đóng cửa, Đông Hồ đã nhận lời giảng dạy
phần Văn học miền Nam cho Đại học Văn Khoa, mặc dù tuổi đã gần sáu mươi và sức
khỏe cũng đã kém. Việc trở lại dạy học chính là để nối lại “tình duyên lỡ làng” với Trí
Đức học xá ngày nào, để đề cao “giọng Hàn Thuyên” và kêu gọi “hồn Đại Việt”.
[…]Vào ngày 25/3/1969 (tức ngày mồng 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu), trên một
giảng đường ở lầu hai lộng gió của Đại học Văn Khoa (bây giờ là Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn TP. HCM), Đông Hồ đã bất ngờ ngã xuống lúc đang bình bài thơ
“Trưng nữ vương” của Ngân Giang. Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ
anh hùng chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng, một tứ thơ rất độc đáo, rất nữ tính mà
Đông Hồ đã tinh tế chỉ ra. Được các học trò đưa vào bệnh viện, ông mất ngay ngày
hôm đó.”
Chúng tôi xin mượn lời nhà thơ Hoài Anh để nói đôi điều về sự ra đi của Đông
Hồ - người thầy tận tâm với nghề đến hơi thở cuối cùng: “Việc Đông Hồ ngất đi trên
bục giảng khi đang ngâm bài thơ Trưng Nữ Vương và chỉ vài giờ sau hấp hối ở bệnh
viện, há chẳng đủ chứng tỏ trái tim yêu nước, bị dồn nén không chịu nổi, đến mức phải
phá tung đó sao”.
Dạng 2:
Bàn luận riêng về các sáng tác của Tương Phố và Đông Hồ, các nhà nghiên cứu
đặc biệt chú ý đến hai tác phẩm tiêu biểu nổi bật là “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ
ký”. Nhiều bài thẩm bình, cảm nhận xoay quanh hai tác phẩm này đã giúp chúng ta có
cái nhìn tương đối sâu sắc hơn về bút lực của họ. Vì lẽ đó, trong các thẩm bình, đánh
giá của dư luận về tác phẩm của Tương Phố và Đông Hồ, dường như không mấy ai
không nói đến “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” - hai tác phẩm làm nên tên tuổi
hai nhà thơ Việt Nam trước 1932 này.
Về giá trị của “Giọt lệ thu”, Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền (2006) đã viết:
“Tác phẩm “Giọt lệ thu” được nung nấu trong hoàn cảnh bi thiết của tác giả.
Hơn nữa, nếp văn chương lãng mạn thời đó đã tô điểm cho “Giọt lệ thu” đầy màu sắc
ủy mị bi thu, gợi cảm lòng sầu... quyến rũ độc giả, nhất là phái nữ. Quả thật, “Giọt lệ
thu” của nữ sĩ Tương Phố đã được ấn dấu son một thời, đã đưa bà bước vào sự nghiệp
văn chương và bà đã nổi tiếng trên văn đàn cũng qua tác phẩm này vào năm 1928”.
[11, 492]
Phê bình về Tương Phố, Bùi Xuân Uyên đã viết trong lời tựa của “Mưa gió
sông Tương” (1960) như sau:
“Chúng ta đều đã biết Tương Phố.
“Giọt lệ thu” năm nào đã thấm vào văn học sử. Cái tên của Tương Phố đã đóng
dấu một nỗi buồn. Kể ra không lạ gì một trang thiếu phụ, những năm ngó đào tơ đã
gặp người xứng lứa vừa đôi, yêu nhau lại lấy được người mình yêu. Nhưng thương
thay, đoàn tụ để chia lìa, tang chồng đã ám mặt người vợ trẻ tay bồng con thơ. Bạn gái
trong hoàn cảnh này, ai thì cũng khóc”. [24, 103]
Tác phẩm này không những đã chiếm được cảm tình của độc giả bốn phương
mà còn gây xôn xao cho giới cầm bút một thời. Nhà văn Nguyễn Vỹ (1970) đã nêu
trong “Văn thi sĩ tiền chiến”:
“... So sánh thơ văn của nữ sĩ Tương Phố, với cô Desbordes Valmore, một nữ
thi sĩ Pháp cũng thuộc thế kỉ XIX...
“... Desbordes Valmore đã khóc sướt mướt suốt cả tập thơ; nhưng lệ của
Valmore là những nốt đàn rơi đọng tuyết... héo hắt! Còn giọt lệ của Tương Phố là
những hạt sương xao xuyến bình minh, là những thổn thức lóng trong tim hoa, khiến
“Giọt lệ thu” dễ cảm lòng người”. [43, 493]
Đến nhà phê bình Nguyễn Tấn Long (1968) cũng đã nhận xét trong “Việt Nam
thi nhân tiền chiến toàn tập: “... Nữ sĩ Tương Phố đã đem nỗi niềm bi thương của
mình trải trên những dòng thơ và tạo thành áng văn trác tuyệt về tình... ” [24, 102]
Năm 1929, bà Jeanne Duclos Salesses đã dịch “Giọt lệ thu” của Tương Phố ra
Pháp ngữ nhan đề “Larmes d’Automne” đăng trên báo “Le Moniteur d’Indochine”.
“Giọt lệ thu” viết từ năm 1923 cho đến mùa thu năm 1928 mới đăng trên báo
Nam Phong (số 131, tháng 7 năm 1928); đến năm 1952, tác phẩm được nhà xuất bản
Ngày nay – Hà Nội in lần đầu. Và đến năm 1967, tác phẩm “Giọt lệ thu” được nhà
xuất bản Bốn phương cho tái bản tại Sài Gòn. Lần này sau tập “Giọt lệ thu” có thêm
hai phụ lục. Cụ thể:
Phần một: Nói qua về bản dịch Pháp ngữ.
Phần hai: Trích đăng gần 100 cảm đề được tích tụ từ 1928 đến 1956 của các
nhà trí thức, văn thi gia và độc giả khắp nơi trong, ngoài nước gửi đến khen tặng tác
giả “Giọt lệ thu”.
Sau đây là một số ghi nhận trích ra từ tập cảm đề:
“Thu về riêng biết tình thu nặng
Còn chăng châu lệ khóc sơn hà?”
Hãn Mạn Tử (Huế 1933)
(HMT - bút danh của cụ Phan Bội Châu)
“Thím ơi! Một giọt lệ ấy, đủ mát mẻ vong hồn người cửu nguyên rồi!...”
Cháu: Thái Thị Nghĩa
Huế 1928
“Cành hoa xuân mới vừa quen mặt
“Giọt lệ thu” xưa luống chạnh lòng.”
Ưng Bình Thúc Giạ Thị
Vĩ Dạ, Huế 1933
“... Bài “Giọt lệ thu” mà Tương Phố viết năm Quý Hợi (1923) và đăng tạp chí
Nam Phong cách đây 13 năm. Có thể coi là một bài mở đầu cho lối thơ thê lương ảo
não... Cái buồn của Tương Phố là cái buồn có cớ, cái buồn thực sự, cái buồn ghi sâu
tận đáy lòng... ”
Vũ Ngọc Phan, tác giả “Nhà văn hiện đại”
“... Phàm những sự đau đớn trên đời này, chỉ về chữ tình là nhiều nhất, và lại là
sâu nhất. Thật vậy, không phải nói ngoa đâu. Mà từ nghìn xưa cái giống văn chương
vẫn là dòng đa tình. Nhưng cũng phải yêu nhau thế nào, tình ái thiết tha đến thế nào
mới có được giọt lệ như “GIỌT LỆ THU”!”
Song An – Hoàng Ngọc Phách
(Kiến An 1928)
“Giọt lệ thu” thực là một bài văn đã chiếm phần ưu thắng về tình cảm và tưởng
tượng, lại thêm ý đẹp lời hay, giọng điệu mới mẻ, biệt lập riêng một loại. Bài văn ấy,
đã được Nha học chánh Đông Pháp lựa chọn làm tài liệu giảng văn trong khoa Việt
Nam ban Trung học về “khuynh hướng lãng mạn”.
Dương Quảng Hàm
Hà Nội 1944
Cảm đề “Giọt lệ thu” của nữ sĩ Tương Phố:
“Tờ thơ mấy độ lệ sầu chan
Bàng ến cũ não can tràng
Hồn nương mấy dặm mờ quan ải
Bóng lẩn thâu đêm tiếc mộng tàn
Hương cũ mơ hồ sen Tịnh Đế
Trời Nam sầu đọng khắp rừng bàng.”
Thanh Vân NDN
(Nha Trang 15/06/1954)
Như vậy, chúng ta có thể thấy rằng “Giọt lệ thu” đã có tầm ảnh hưởng khá sâu
rộng tới độc giả đương thời. Bằng tấm lòng chân tình thể hiện trong ngòi bút tài hoa,
Tương Phố đã ghi dấu ấn trong lòng mọi người và góp phần đưa văn học Việt Nam
vượt ra khỏi biên giới thông qua các văn bản dịch.
Bàn về “Linh Phượng lệ ký” của thi sĩ Đông Hồ, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan
đã viết:
“Đông Hồ vốn là một thi sĩ giàu tình cảm, nên văn bài Linh Phượng của ông là
một thứ văn đẽo gọt, lời nhiều hơn ý, lời tràn lan mà ý quanh co, như không bao giờ
hết.
Bài lệ kí Linh Phượng được kể là một áng văn hay, nhờ ở mấy điều này: Từ đầu
đến cuối chỉ toàn một giọng tha thiết, ai oán; lại có nhiều việc tuy nhỏ mà đầy đau
thương, như giặt giũ, thuốc thang, bóp chân tay, chải đầu vấn tóc cho người đàn bà sắp
mất, làm cho người ta thấy rằng cái tình yêu đương của hai vợ chồng không cứ ở việc
lớn, mà chỉ một vài cử động nhỏ cũng tiêu biểu được tấm lòng khăng khít”. [30, 125]
“Toàn bài, câu nào cũng được; nhân mấy chữ “bỗng châu chìm” ở câu hai mà
hạ được câu bốn hay tuyệt “Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm”, âm điệu trầm, gây
nên một cảm tưởng thật buồn... ” [30, 126]
Hoài Anh trong tập “Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn, 2001” cũng đã
nhận xét rằng:
“... Đông Hồ thực sự nổi tiếng bằng bài “Linh Phượng” trong tập “Trác Chi lệ
kí” (1928). Khi người yêu là nàng Linh Phượng qua đời giữa lúc đang độ tình ái nồng
thắm đã gây xúc động mạnh cho Đông Hồ khi viết những dòng thơ não nuột... ” [1,
395]. Tuy nhiên, Hoài Anh cũng đã có chỗ chưa đúng khi nói Linh Phượng là “người
yêu” của Đông Hồ. Bởi lẽ, Linh Phượng, nói một cách chính xác, không chỉ là người
yêu mà là vợ của Đông Hồ. Thứ đến, thời Đông Hồ người ta vẫn chưa có quan niệm
“người yêu” như thời Hoài Anh.
Đông Hồ sáng tác nhiều nhưng một trong các tác phẩm đánh dấu tên tuổi của
ông chính là “Linh Phượng lệ ký”. Bởi lẽ đây là tiếng lòng của một người chồng yêu
thương vợ sâu sắc nên dễ đi vào tâm khảm của độc giả và tìm được sự đồng cảm nơi
họ.
“Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ và “Giọt lệ thu” của Tương Phố là hai áng
văn đặc sắc lúc bấy giờ. Thấy hai nhà thơ, kẻ ở miền Nam khóc vợ, người ở miền Bắc
khóc chồng nên ông Giám đốc Nhà xuất bản Nam Ký Hà Nội có sáng kiến đề nghị hai
tác giả Đông Hồ và Tương Phố cho phép nhà xuất bản in chung hai tác phẩm thành
một quyển lấy nhan đề “Hai giọt lệ”, nhưng hai tác giả chưa trả lời dứt khoát nên việc
không thành.
Sau đó, người ta thấy cuốn sách này xuất hiện trong tủ sách “Những áng văn
hay” của Nhà xuất bản Tân Dân Hà Nội do ông Vũ Đình Long làm giám đốc mà hai
tác giả cũng không phản ứng gì.
Do chuyện này mà Đông Hồ làm bài thơ Hai giọt lệ gửi cho Tương Phố:
“Giọt lệ thu” kia vẫn đượm sầu,
Cánh chim “Linh Phượng” biết về đâu?
Đài gương nhạt phấn phôi pha nét,
Viện sách tàn hương lạnh lẽo màu.
Cõi Bắc trời Nam Hai giọt lệ,
Đông Hồ, Tương Phố một dòng châu.
Đoạn trường gặp gỡ năm canh mộng,
Một hội thương tâm, một nhịp cầu.”
Nhận được bài này, Tương Phố bèn làm một bài thơ đáp tạ:
“Hai giọt lệ chưa tuôn đã cạn,
Khúc đoạn trường dạo bán cũng thôi.
Lửa hương kiếp trước tàn rồi,
Dây tơ một đứt, mấy hồi thương tâm.
Lệ Nam Bắc âm thầm rỏ giọt,
Tiết xuân thu chua xót lòng nhau.
Ngùi trông trời thảm đất sầu,
Hỏi chim “Linh Phượng” bay đâu quên về?
“Giọt lệ thu” dầm dề ứa mãi,
Buổi thu về lệ lại chứa chan.
Hồ Đông mạch nước còn tràn,
Sông Tương lai láng khôn hàn tình xưa.
Tâm sự kể bao giờ cho xiết,
Giấy mực đâu giãi hết niềm đau?
Não tình kẻ Bắc người Nam,
Cảm “Hai giọt lệ” mấy hàng châu rơi.
Tạ lòng quân tử mấy mươi!”
25/3/1929
Đó cũng là một cái duyên thú vị của hai tác giả trong nghiệp văn chương thi
phú trên văn đàn Việt Nam thời bấy giờ...
Dạng 3:
Đánh giá chung về toàn bộ văn nghiệp của Tương Phố và Đông Hồ hay một đặc
điểm nổi bật nào đó về nội dung và nghệ thuật chiếm số lượng trang viết nhiều nhất,
nhiều nhà nghiên cứu đã có những tìm hiểu khá sâu sắc và đa dạng. Hãy đi vào một số
trong đó, mà khóa luận thấy là tiêu biểu:
Nói về tình yêu của mình đối với thơ Tương Phố, Nguyễn Vỹ trong “Văn thi sĩ
tiền chiến” đã viết: “Tôi yêu thơ Tương Phố từ hồi 11 tuổi. Tình yêu thơ mộng hồn
nhiên và viển vông còn mãi trong tâm trí. Lớn lên tưởng tình yêu đó đã chết, không
ngờ nó cũng lớn lên với tôi...”[43, 345].
Tìm hiểu về những điểm làm nên nét độc đáo của thơ Tương Phố, Nguyễn Tấn
Long và Nguyễn Hữu Trọng trong “Việt Nam thi nhân tiền chiến” nhận định: “Chỉ
trong thời gian ba năm, đôi vợ chồng trẻ đã làm một cuộc tạm biệt rồi vĩnh biệt nhau.
Đau khổ, Tương Phố đã đem nỗi bi thương của mình trải trên những dòng thơ và tạo
thành áng văn trác tuyệt về tình... Nó không hề vay mượn của ai, nó hề không gò bó,
gượng ép hay giả tạo... Đó chính là nét độc đáo của Tương Phố.”[24, 87-88].
Vũ Ngọc Phan trong “Nhà văn hiện đại” (trọn bộ) đã đánh giá cao thơ Tương
Phố bằng những lời lẽ khen ngợi: “Gần đây, thơ mà âm điệu du dương, nhưng tính tình
lại thấm thía và gần gũi với người đời, trước hết phải kể thơ của Tương Phố... Và bài
“Giọt lệ thu” có thể coi là một bài mở đầu cho lối thơ thê lương, ảo não... Trong thi
phẩm này, Tương Phố hay kể lể, hay dùng chữ cổ đượm những màu xưa... nên ngày
nay chắc nhiều người cho là lôi thôi (đúng là những lời kể lể của người đàn bà trong
khi khóc chồng), là cổ, nhưng nó thật là lối văn đặc biệt... vẫn có cái sức cảm người ta
về âm điệu trước, về ý sau... Nếu đem so sánh Đông Hồ với Tương Phố, người ta thấy
Đông hồ là tay thợ thơ, còn Tương Phố mới thật có tâm hồn thi sĩ. Cái tâm hồn này lại
là một tâm hồn đặc Việt Nam, không chịu ảnh hưởng một cái học ngoại lai nào cả...
Nhìn chung, thơ của Tương Phố réo rắt và cảm động, nhưng văn xuôi của bà lại kém
phần chân thật”. [30, 137 - 138 và 147]. Ông đã có cái nhìn tinh tế và thẳng thắn khi
nhận định về những ưu – nhược điểm của Tương Phố ở hai lĩnh vực văn xuôi và thơ.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã quá đề cao Tương Phố mà có phần xem nhẹ Đông Hồ khi
cho rằng thi sĩ chỉ là “tay thợ thơ” trong mối tương quan so sánh giữa hai tác giả.
Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên” (quyển III) đã
tóm tắt những điểm chính và sự đóng góp của Tương Phố đối với văn đàn như sau:
“Chỉ từ khi bài "Giọt lệ thu" đăng trên tạp chí Nam Phong (tháng 7 năm 1928), cái tên
Tương Phố mới ra đời. Nhưng mãi đến 1930, sau khi bài “Khúc thu hận” và bài “Tái
tiếu sầu ngâm” đăng trên Nam Phong, thì nữ sĩ mới thật sự chiếm được một ghế thi gia
vững vàng trên thi đàn, và đủ làm cho ngây ngất cả một thế hệ vốn ôm sẵn chữ “thu”
trong lòng. Hơn mười năm sau, mấy vần réo rắt ấy vẫn còn được Vũ Ngọc Phan tán
tụng. Song đối với chúng ta ngày nay, cái giọng gọi hồn, cái tiếng khóc đám ma ấy đã
giảm nhiều hấp lực. Có thể khen là tác giả có ý thành thật, song nó sáo, sáo quá... Còn
truyện của bà, đa phần là những ký sự, hồi ký cá nhân. Cách kết cấu của chúng (trừ
“Giọt lệ thu”) đều sơ sài, cốt chuyện có khi rất giả tạo, hình như tác giả viết cốt để
giảng luân lý, để giải bày những tư tưởng của mình về nhân sinh, về thời thế”. [28, 338
và 404]. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải nhìn nhận rằng, không phải hai bài “Khúc
thu hận” và “Tái tiếu sầu ngâm” đưa Tương Phố “chiếm được một ghế thi gia vững
vàng trên thi đàn”. Bởi sự thật thì chính mấy tác phẩm này lại làm nhạt và nhẹ “ghế thi
gia văn đàn” của Tương Phố. Cả hai bài đều không có điểm gì mới (thậm chí còn nặng
hơn) so với “Giọt lệ thu” ở tính “sáo”. Do đó, chúng cũ hơn, lạc hậu hơn so với trình
độ văn đàn và trình độ thưởng thức của công chúng đương thời.
Không chỉ nhận xét về hình thức nghệ thuật của văn thơ Tương Phố, Thanh
Lãng còn đi sâu hơn về những đóng góp mang tính tư tưởng thời đại của nữ sĩ trong
“Bảng lược đồ văn học Việt Nam” (quyển hạ): “Ba nhà viết truyện ngắn tiêu biểu ở
thời kỳ này (1913-1932) là Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn và Tương Phố. Xét kỹ về
kỹ thuật, không ai giống ai... Cả hai ông đều quan niệm truyện là một sự tập trung, một
sự đổ dồn có giàn xếp để đi đến chỗ chung kết, nhưng truyện của Tương Phố thì
không. Hình như nó chủ ý không có kết cấu... Văn thơ của bà xét chung là thứ văn
nhịp nhàng cân đối. Tuy nhiên, hồi đầu với “Giọt lệ thu”, lời lẫn ý đều rất thơ, và
thường điệp ngữ... Về sau, văn của Tương Phố nhẹ nhàng hơn, gần với tiếng nói hàng
ngày hơn. Lối dùng điệp ngữ chỉ thỉnh thoảng mới thấy...
Về mặt tư tưởng, có lẽ Tương Phố là người đã phối kết đầy đủ hơn hết (trong
một tổng hợp đầy mâu thuẫn) tất cả đặc tính của thế hệ. Cùng với Trần Tuấn Khải,
Đông Hồ, Hoàng Ngọc Phách; Tương Phố là hiện thân của tình cảm lãng mạn. Nghĩa
là, tất cả mọi sầu thảm của thế hệ (cảnh đất nước điêu linh, cảnh hàng mấy trăm ngàn
thanh niên bị bó buộc đầu quân sang Pháp...) như cô đúc lại trong người thiếu phụ
sông Thương, ấy là chưa nói đến thân phận góa bụa ở lứa tuổi 20... Nhìn chung, tài
năng thực sự của Tương Phố là ở thi ca, chứ không phải ở địa hạt tiểu thuyết”. [16,
497-499 và 502].
Tiếp đến, hai nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi và Lê Chí Dũng trong “Từ điển
Văn học” (bộ mới) cũng viết rằng: “Tương Phố đã góp vào bộ phận văn chương Việt
hợp pháp 30 năm đầu thế kỷ XX một tiếng khóc ảo não, ít nhiều có làm sống lại tâm
trạng người chinh phụ trong văn học quá khứ... Nhưng nỗi đau xót vì hạnh phúc
chóng tan của bà có nhiều sầu thảm, vô vọng hơn, và cũng nhuốm màu sắc hiện đại
hơn. Vì trong đó, không chỉ có nỗi đau riêng, mà còn gói cả một “trời sầu” của thế hệ
thanh niên tiểu tư sản thành thị Việt Nam những năm sau Đại chiến I. Chính căn bệnh
thời đại này đã đẻ ra một loạt những sáng tác kiểu “Giọt lệ thu” (Tương Phố), “Linh
Phượng” (Đông Hồ), “Bể thảm” (Đoàn Như Khuê)... Đó là những tiếng nói lãng mạn,
yếu ớt đầu mùa, nặng tính chất thoát ly, nhưng cũng còn bị cột trong khá nhiều thành
kiến luân lý cổ. Về sau, tuy Tương Phố còn sáng tác, nhưng trong tác phẩm của bà chỉ
rặt những “ý mòn, lời sáo”, nên không còn được ai chú ý nữa. Nói khác hơn, ngòi bút
của bà đã lạc lõng với thời đại.”[42,491]
Đồng thời, nhận xét về nghệ thuật, hai tác giả cũng đã chỉ ra những mặt còn hạn
chế của thơ Tương Phố. Hai ông cho rằng “văn xuôi của bà là thứ văn có đối, có vần,
có sự pha tạp giữa ký, tạp ký, luận thuyết với thể truyện. Tuy chúng có lâm ly réo rắt
nhưng từ ngữ thì sáo mòn như phần đông các cây bút văn xuôi buổi đầu thế kỷ XX.
Thơ bà, trước sau chỉ quanh quẩn trong hai thể loại là lục bát và song thất, thỉnh
thoảng có đôi bài Đường luật, với lời lẽ sầu thảm như văn xuôi...”[42, 491].
Đánh giá sự nghiệp văn chương của Đông Hồ, các nhà nghiên cứu đã viết như
sau:
Tiếng thơ Đông Hồ quả tình chưa thật trong trẻo, độc đáo nhưng lại vang xa. Lê
Tràng Kiều trong bài phát biểu “Tình và tứ của thi sĩ” in trên Tiểu thuyết thứ Năm (số
8, ra ngày 24/11/1938) đã chứng dẫn bằng thơ của Tản Đà, Thanh Tịnh, Yến Lan, Vũ
Trọng Can và cả Đông Hồ:
“Mãi đến nay ta vẫn chưa hiểu rõ những người đa tình dễ trở nên thi sĩ, hay thi
sĩ dễ trở nên đa tình. Nhưng nếu chỉ đa tình mà cũng là thi sĩ thì cả một lớp thanh niên
ở mọi thời đại đều đã là thi sĩ cả? Và nếu chỉ là thi sĩ mới trở nên đa tình thì đời này
chẳng nhẽ ít khách đa tình ư?”[51]
PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn trong “Người đương thời thơ mới bàn về thơ Đông
Hồ” đã nhận định:
“Đông Hồ chưa phải là một hiện tượng đột xuất trong làng Thơ mới nhưng
người đương thời khắp trong Nam ngoài Bắc đã tỏ lòng tri ân, trân trọng ghi nhận một
tiếng thơ bình dị, chan chứa nghĩa tình. Con đường đi từ “Thơ Đông Hồ” đến “Cô gái
xuân” đã được giới phê bình đương thời đón nhận, khẳng định như một bước tiến,
chứng tỏ khả năng tự vận động, đổi mới và hòa nhập của Đông Hồ với phong trào Thơ
mới 1932-1945, góp phần xây dựng và nối kết vùng văn học cực Tây Nam Bộ với nền
văn học Việt Nam dân tộc và hiện đại”. [50]
Viết về Đông Hồ trong “Thi nhân Việt Nam”, Hoài Thanh chỉ ra rằng:
“Đông Hồ là người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình
yêu dưới trăng thanh, trong tiếng sóng”. [38, 351]
Hay:
“Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới
vừa nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình”. [38, 351]
Sự nghiệp sáng tác của Đông Hồ còn dài và tiếp bước sang thời kì Thơ Mới nên
phong cách thơ của ông cũng vì thế mà có sự thay đổi, biến hóa đa dạng.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, giai đoạn 1900 – 1930 là một giai đoạn có tính
chất giao thời. Nếu từ thế kỉ XI đến cuối thế kỉ XIX văn học Việt Nam phát triển theo
một hướng, xét về quan niệm văn học, tư tưởng mĩ học, hệ thống thể loại là cùng loại
với văn học một số nước thuộc vùng Đông Á, chịu ảnh hưởng văn học Trung Quốc, thì
từ năm 1930 về sau văn học Việt Nam đã lại phát triển theo một hướng khác, cùng loại
với văn học thế giới cận hiện đại, về nguồn gốc thuộc truyền thống văn học châu Âu.
Trong quãng từ năm 1900 đến năm 1930, văn học Việt Nam chuyển từ loại hình này
sang loại hình khác.
Theo đó, nhiều thể loại mới ra đời và góp phần đổi mới diện mạo của văn học
Việt Nam. Nằm trong xu thế đó, sự xuất hiện “Hai giọt lệ” của Tương Phố và Đông
Hồ đã thổi luồng gió mới vào dòng chảy của văn học dân tộc. Sau khúc dạo đầu ấy,
thơ ca Việt Nam bắt đầu có những bước chuyển mình và thực sự khởi sắc với sự trỗi
dậy mạnh mẽ mang tên “Thơ mới”.
Tóm lại, các bài viết, nhận định kể trên đều nêu lên những biểu hiện tư tưởng,
xác định vị trí, sự đóng góp của Tương Phố và Đông Hồ trong nền văn chương Việt
Nam. Tuy còn nhiều ý kiến trái chiều về những sáng tác cũng như đóng góp của hai
tác giả nhưng qua đó chúng ta cũng phần nào có cái nhìn sâu hơn về họ. Tựu chung
lại, các nhà nghiên cứu đều đánh giá cao thơ của Tương Phố và Đông Hồ so với các
thể loại khác do họ sáng tác. Mặc dù có ghi nhận những đóng góp mang ý nghĩa thời
đại của hai tác giả nhưng hầu như chưa có công trình nào thực sự đi sâu nghiên cứu
một cách cụ thể những điểm mới mẻ mà “Hai giọt lệ” mang lại cho thi đàn lúc bấy
giờ. Sự ra đời của “Hai giọt lệ” – “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ kí” có ý nghĩa như
thế nào đối với quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc? Dấu ấn giao thời thể hiện ra
sao trong nội dung và hình thức của hai tác phẩm? Điểm chung và riêng của “Hai giọt
lệ”so với các sáng tác đương thời là gì?...Đây chính là những điều khóa luận quan tâm
và muốn tìm hiểu.
Với đề tài “Ý nghĩa hiện đại hóa thơ đầu thế kỉ XX trong “Hai giọt lệ” của
Tương Phố - Đông Hồ”, khóa luận hi vọng sẽ đóng góp phần nào vào việc nghiên cứu
một trong những giai đoạn phức tạp của văn học Việt Nam – giai đoạn giao thời 1900
– 1930. Đồng thời, với dung lượng khiêm tốn của một bài khóa luận, người viết hy
vọng sẽ đóng góp một phần khiêm tốn vào con đường tìm hiểu, nghiên cứu hai tác giả
Tương Phố – Đông Hồ. Thông qua đó, chúng ta có thể thấy được vị trí và vai trò của
họ trên con đường hiện đại hóa đầy biến động của thơ ca đầu thế kỉ XX.
III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với khuôn khổ của đề tài, khóa luận tập trung tìm hiểu các vấn đề cụ thể:
Quá trình vận động và đặc điểm của thơ ca Việt Nam thuộc giai đoạn đầu thế kỉ
XX (1907 – 1932) thông qua những hiện tượng tiêu biểu. Đặc biệt là hai tác phẩm đã
tạo nên những dấu ấn văn học sử: “Giọt lệ thu” của Tương Phố và “Linh Phượng lệ
ký” của Đông Hồ.
Đối tượng nghiên cứu: Đông Hồ và Tương Phố (cuộc đời, thành tựu sáng tác),
nhưng chủ yếu tập trung tìm hiểu “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký”.
Về phạm vi nghiên cứu, chúng tôi sẽ xem xét tương đối toàn diện đối tượng
nghiên cứu đã được xác định bên trên, nhưng chủ yếu tập trung làm rõ mấy vấn đề
sau: Đặc trưng của văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX được thể hiện qua hai tác phẩm
“Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký”; Đóng góp của hai tác phẩm vào việc hiện đại
hóa thơ Việt Nam giai đoạn giao thời (1900 – 1930).
IV. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng và tham khảo những phương pháp và
thao tác ít nhiều có tính chất phương pháp sau:
1. Đọc tất cả các tác phẩm của Tương Phố - Đông Hồ, chú trọng
phần thơ trong phạm vi nghiên cứu đã nêu.
Đọc các bài viết mà chúng tôi tìm được của các tác giả về cuộc đời, con người
và thơ Tương Phố - Đông Hồ để có cái nhìn mang tính tổng quát.
2. Phương pháp so sánh – đối chiếu.
Phương pháp này được sử dụng để so sánh thơ của Tương Phố và Đông Hồ với
các tác giả khác, từ đó làm rõ đặc điểm nổi bật về nội dung, hình thức của “Hai giọt
lệ” và xác định tính chất giao thời của tác phẩm.
3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp này sử dụng để tiến hành phân tích những bài thơ trong “Giọt lệ
thu” và “Linh Phượng lệ ký” cũng như các sáng tác khác của hai tác giả để phục vụ
cho việc đánh giá ý nghĩa hiện đại hóa thơ Việt Nam đầu thế kỉ XX của Tương Phố và
Đông Hồ.
Tất cả các phương pháp trên không thực hiện riêng lẻ mà hỗ trợ, bổ sung, phối
hợp nhau trong quá trình khảo sát, phân tích, đánh giá các vấn đề thuộc phạm vi đề tài
để mang lại kết quả cao nhất.
Phần thứ hai
NỘI DUNG
CHƯƠNG I
KHÁI LƯỢC TRỞ LẠI VỀ DIỆN MẠO THƠ CA VIỆT
NAM TRÊN VĂN ĐÀN CÔNG KHAI ĐẦU THẾ KỈ XX
Sở dĩ gọi là văn đàn công khai vì văn học đương thời bị phân hóa thành hai khu
vực văn học hợp pháp và bất hợp pháp.
Cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp chưa có đủ thời gian rảnh rang và tiền bạc để
có thể sắm một đội ngũ bồi bút chuyên nghiệp. Vì thế, công việc bồi bút vẫn còn do
những tên Việt gian kiêm nhiệm mà tiêu biểu là Tôn Thọ Tường, Hoàng Cao Khải, Lê
Hoan...
Đầu thế kỉ XX, Pháp đã đào tạo được đội ngũ bồi bút chuyên nghiệp hơn, có
văn chương hơn, thậm chí số này còn đủ sức lập thuyết, để cũng lý sự về yêu nước, về
cách mạng dù thực tế là phục vụ cho Pháp. Mặt khác, Pháp còn dùng tiền bạc, uy
quyền để thành lập những cơ quan ngôn luận đủ sức lũng đoạn văn đàn công khai.
Tiêu biểu là những tờ báo như: “Đông Dương tạp chí” (1913 – 1917), sau đó là “Nam
Phong tạp chí” (1917 – 1934). Hai tờ báo này do hai nhà “trí thức lớn” là Nguyễn
Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh làm chủ bút.
Theo góc nhìn khách quan, ta không thể không thừa nhận những đóng góp lớn
của hai ông ở những điểm sau:
Trước hết, hai ông là những hiện tượng của lịch sử văn hóa văn học Việt Nam.
Thứ đến, các ông và những tờ tạp chí của mình có những đóng góp không nhỏ
cho sự tiến bộ, hiện đại hóa đối với văn hóa và văn học Việt Nam.
Tiếp đến, trong tư tưởng và nhất là trong phát ngôn của họ có những điều ta
phải thừa nhận là chân lí, có những câu xứng đáng là danh ngôn:
“Tương lai của nước ta hay hay dở là tùy thuộc vào chữ quốc ngữ.”(Nguyễn
Văn Vĩnh)
“Một nước không thể không có quốc hồn, “Truyện Kiều” là quốc hồn của ta.
Một nước không thể không có quốc túy, “Truyện Kiều” là quốc túy của ta. “Truyện
Kiều” còn thì nước ta còn, tiếng ta còn thì nước ta còn.”(Phạm Quỳnh)
Toàn bộ Nam Phong, một phần Đông Dương và chương trình của nhà trường
Pháp – Việt là chỉ là làm lại những điều mà Đông kinh nghĩa thục đang làm dở dang.
Khác nhau ở chỗ Đông kinh nghĩa thục xuất phát từ động cơ yêu nước, còn bọn họ làm
là để mị dân với tư cách một công cụ văn hóa của Pháp. Cho nên thực dân Pháp đóng
cửa bỏ tù Đông kinh nghĩa thục nhưng lại trả lương hậu hĩnh cho Nguyễn Văn Vĩnh
(Đông Dương), Phạm Quỳnh (Nam Phong), và Nguyễn Thái Tích (trường Quy thức).
Tại sao Pháp làm như vậy? Có thể lí giải rằng vì việc hiện đại hóa văn học Việt
Nam trở thành một tất yếu, một quy luật nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người.
Pháp hiểu ra điều đó từ sau Đông kinh nghĩa thục. Cho nên Pháp dành quyền về văn
hóa văn học Việt Nam từ tay những người yêu nước sang những người chúng có thể
điều khiển. Do đó, công lao của Phạm Quỳnh hay Nguyễn Văn Vĩnh chỉ là ý nghĩa
khách quan ngoài dự tính và quan thầy của họ (ngày nay đã có đủ chứng cớ về việc
Pháp đã kiểm soát hai tờ đó đến từng bài, quyết định bài nào xuất hiện kì nào, trả
lương, đài thọ cho những bài xuất hiện; việc trả lương do cơ quan mật thám phủ Toàn
quyền; trên bìa của các tờ Nam Phong đều công khai hai tên chủ bút: Phạm Quỳnh và
Luis Matti – chánh mật thám Đông Dương). Vì vậy khó có thể nói họ yêu nước thành
thực được.
Văn học yêu nước cũng có xuất hiện trên văn đàn công khai nhưng đó là sự lọt
lưới kiểm duyệt của nó, vì chủ yếu nó là cơ quan ngôn luận của văn học nô dịch. Ví dụ
tiêu biểu chính là việc Đông Dương tạp chí xuất hiện hàng loạt những bài công khai
lên án Phan Bội Châu và tổ chức “Việt Nam quang phục hội”. Tệ hơn nữa là còn kêu
gọi nhà cầm quyền Pháp phải bắt cho bằng được và đem tử hình Phan Bội Châu. Như
vậy, có thể nói rằng trên văn đàn công khai nắm quyền lũng đoạn chính là tiếng nói
của văn học nô dịch.
Tuy nhiên, những tiếng nói đó chỉ dừng lại ở phạm vi báo chí chứ chưa thấm
sâu vào văn học. Trái lại, những cơ quan ngôn luận của Pháp và báo chí nói chung lại
trở thành miếng đất màu để gieo mầm văn học dân tộc, trong đó có hạt mầm hiện đại
hóa. Bộ phận đó được nhiều nhà văn học sử gọi là văn học hợp pháp không cách
mạng. Nó gồm hai khuynh hướng nghệ thuật: lãng mạn và hiện thực. “Giọt lệ thu” của
Tương Phố cùng với “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ là hai thi phẩm thuộc dòng
văn học có khuynh hướng lãng mạn.
I. Bối cảnh lịch sử xã hội của diện mạo thơ trên văn đàn
công khai đầu thế kỉ XX
Về chính trị, sau khi phong trào Cần Vương do Phan Đình Phùng lãnh đạo thất
bại (1896), thực dân Pháp cơ bản thực hiện xong công cuộc bình định của chúng ở
Việt Nam. Nước Việt Nam từ đây bước vào thời kỳ lịch sử mới, chuyển từ xã hội
phong kiến Nho giáo sang chế độ thực dân – phong kiến với sự chia cắt thành ba xứ :
Bắc kỳ - Trung kỳ - Nam kỳ, theo các chính sách đô hộ khác nhau: thuộc địa - tự trị -
bảo hộ. Nhưng về thực chất đều chịu sự thống trị của Pháp.
Xã hội Việt Nam lúc này hết sức phức tạp. Bên trên là chính quyền thống trị
thực dân cấu kết với bộ máy cai trị Nam triều. Giai cấp phong kiến tiếp tục chiếm giữ
những vị trí nhất định trong xã hội. Tư sản thực dân và tư sản dân tộc cùng tham gia
vào quá trình bóc lột giai cấp cần lao. Các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là nông
dân, chịu thêm nhiều áp bức. Và xuất hiện những lực lượng “dưới đáy” mới của xã
hội: công nhân, dân nghèo thành thị, thậm chí cả một bộ phận trí thức, tiểu tư sản,...
Xã hội phân hóa thành các giai tầng áp bức và bị áp bức, thống trị và bị trị.
Cuộc sống cũng phân hóa thành thị với nông thôn ngày càng rõ rệt.
Những năm đầu thế kỉ XX, thực dân, phong kiến tương đối rảnh rỗi với các
phong trào yêu nước, nên chúng tiến hành nhiều biện pháp nhằm khai thác thuộc địa,
làm giàu cho chính quốc. Người dân Việt Nam chịu rất nhiều áp bức, cùng cực.
Các tầng lớp nhân dân, các lực lượng tiến bộ, sau một thời gian chịu nhiều thử
thách và tổn thất, dần trưởng thành. Hàng loạt các phong trào yêu nước, dân chủ xuất
hiện trong khoảng 1922 – 1926. Việt Nam quốc dân đảng ra đời và hoạt động mạnh
trong thời gian 1927-1930. Các tổ chức tiền thân của Đảng cộng sản xuất hiện và hoạt
động có hiệu quả trong khoảng thời gian 1924-1930. Đó là các tổ chức thanh niên, phụ
nữ, công hội...
Về kinh tế, chính phủ Pháp đã xác lập ở đây những hình thức tổ chứa sản xuất
xã hội do Pháp thống trị và chỉ huy, đồng thời với quá trình khai thác thuộc địa, vơ vét
tài nguyên và nhân lực ở Việt Nam. Xã hội Việt Nam thay đổi theo chiều hướng một
xã hội thuộc địa. Bắt đầu có dấu hiệu mở mang kinh tế, phát triển buôn bán, thông
thương với nước ngoài, mở cửa với phương Tây và thế giới, đưa Việt Nam hòa nhập
với đời sống thế giới. Các thành thị mọc lên nhanh chóng, kinh tế thị trường có điều
kiện phát triển. Sản xuất hàng hóa tăng nhanh. Nông nghiệp sau một thời gian đình
đốn dần dần ổn định, mang những đặc điểm mới có ảnh hưởng của sự điều tiết kinh tế
tư bản. Nhiều nhà máy, hầm mỏ, đồn điền được xây dựng và khai thác. Kinh tế từng
bước ổn định. Mặc dù vậy, phần lớn nhân dân vẫn sống trong nghèo khổ và lầm than.
Sản phẩm hàng hóa và sản xuất nông nghiệp tập trung chủ yếu trong tay một nhóm
thiểu số tư bản, địa chủ.
Về văn hóa - tư tưởng, Việt Nam chuyển từ ảnh hưởng văn hóa Nho giáo sang
ảnh hưởng văn hóa tư sản phương Tây. Những giá trị văn hóa cũ còn tiếp tục duy trì,
bắt đầu tình hình những giá trị văn hóa mới. Văn hóa cũ có ảnh hưởng mạnh ở nông
thôn, trong khi đó văn hóa mới ảnh hưởng chủ yếu ở thành thị.
Các tư tưởng triết học, tôn giáo truyền thống như Nho – Phật – Đạo vẫn tiếp tục
tồn tại trong những phạm vi nhất định và có những biến thái mới. Các tư tưởng triết
học, tôn giáo ảnh hưởng phương Tây bắt đầu xuất hiện và lớn mạnh. Bên cạnh tư
tưởng tư sản, thực dân tác động tới một bộ phận xã hội, dần dần xuất hiện và lớn mạnh
những tư tưởng dân chủ tư sản, tư tưởng tiến bộ của giai cấp công nhân – tư tưởng
cộng sản – và ngày càng lan rộng trong dân chúng.
Đạo Thiên chúa, và một số tôn giáo bản địa như Cao Đài, Hòa Hảo cũng ảnh
hưởng nhất định tới một bộ phận con người trong xã hội thời kỳ này.
Nền giáo dục cũng có những thay đổi mới. Bắt đầu từ việc thay thế dần nhà
trường giáo dục cũ bằng nhà trường giáo dục mới. Việc học và thi bằng chữ Hán chấm
dứt vào năm 1919. Giáo dục thi cử theo quy chế phong kiến thay thế bằng giáo dục thi
cử ảnh hưởng của Pháp. Nhà trường chuyển sang học chữ Pháp, chữ quốc ngữ. Các
nội dung giáo dục cũng thay đổi, chú trọng cả tới khoa học tự nhiên, khoa học công
nghệ. Nền giáo dục tỏ ra quy củ và hiện thực hơn. Song nó mang nặng tính chất nô
dịch, quan lại cho bộ máy hành chính mới, phục vụ cho Chính phủ bảo hộ Pháp.
Nhìn chung toàn bộ xã hội việt Nam từ 1900 đã thay đổi rất căn bản. Đây là
cuộc đổi thay đau thương mà vĩ đại, đưa dân tộc ta bước vào một thời đại mới nằm
trong cầu trường văn hóa cận đại ảnh hưởng phương Tây. Nó đẩy về sau những năm
dài của chế độ phong kiến, nó trải nghiệm trong những năm tháng dân tộc chịu thử
thách của văn hóa, tư tưởng phương Tây hồi đầu thế kỷ, nó chuẩn bị cho một thời đại
văn hóa tư tưởng mới sắp ra đời, khi người Việt Nam đứng lên đánh đuổi giặc ngoại
xâm và tay sai bán nước, tự làm chủ số phận của mình, đưa dân tộc hội nhập cùng thế
giới hiện đại
II. Bối cảnh văn học của thơ và diện mạo thơ ca giai đoạn
Bài viết chủ yếu tập trung vào cái mới của tình hình văn học giai đoạn.
Từ đây, nền văn học mới đã bắt đầu xuất hiện, phát triển theo chiều hướng hiện
đại hóa, trên cơ sở lịch sử xã hội cụ thể, dần dần từ giã những ảnh hưởng của văn học
Trung Quốc, chuyển sang chịu ảnh hưởng của văn học Pháp.
Sự ra đời của nền văn học mới gắn bó chặt chẽ với những tiền đề lịch sử sản
sinh ra nó. Trước hết, những tiền đề lịch sử đã sản sinh ra chủ thể của văn học mới ấy:
người sáng tác mới, người đọc mới, và giữa họ là tác phẩm như một môi giới trung
gian với con người được quan tâm mô tả cũng là những con người mới,dù ít dù nhiều.
Đó là những “con người mới”, mang tư tưởng, tình cảm, tâm trạng mới, với những
mối quan tâm, những quan niệm mới về lịch sử và tự nhiên. Và phù hợp với nó, trong
văn học là những “nội dung mới” và “hình thức mới” tương ứng của thời đại.
Vì thế, trong văn học, bên cạnh những nhân vật quen cũ của xã hội phong kiến,
nông nghiệp cổ truyền, những vua chúa quan lại, chức dịch, nho sĩ, nông dân... mà vai
trò ngày càng thu hẹp, đã xuất hiện và trưởng thành hàng loạt những nhân vật mới của
thời đại, đó là hình ảnh của các quan chức thực dân, quan lại Nam triều, người trí thức
Tây học, các tầng lớp tư sản, tiểu tư sản, lớp thị dân kiểu mới... Từ cuối những năm
1920, xuất hiện thêm loại nhân vật mới – nhân vật người chiến sĩ cách mạng. Đây
chính là nhân vật chính của lịch sử và văn học Việt Nam hiện đại sau này.
Về hình thức văn học, bên cạnh những hình thức biểu hiện truyền thống, bắt
đầu xuất hiện và lớn mạnh những hình thức biểu hiện mới, ảnh hưởng văn học Pháp,
văn học phương Tây. Đó là những truyện ngắn, truyện dài, tiểu thuyết, kịch, thơ ca,...
Chúng ta cũng cần chú ý đặc biệt tới những tiền đề vật chất trực tiếp khác của
văn học hiện đại. Đó là sự lớn mạnh của chữ quốc ngữ La tinh hóa, của in ấn, xuất
bản, báo chí và của đội ngũ công chúng văn học mới.
Bên cạnh những chất liệu văn học như chất liệu đời sống, chất liệu tâm hồn, văn
học Hiện đại Việt Nam lấy chữ quốc ngữ La tinh hóa làm chất liệu nghệ thuật. Lần đầu
tiên trong lịch sử, chữ quốc ngữ đã thay thế vai trò lịch sử nghìn năm của chữ Hán và
chữ Nôm. Chữ quốc ngữ ra đời từ thế kỷ XVII có công của các giáo sĩ phương Tây
như Alêchxăng đơ Rốt (Pháp), Bacbôda, Amaran (Bồ Đào Nha)... Sau hơn hai thế kỷ
thử nghiệm trưởng thành, đến đầu thế kỷ XX, nó đã là công cụ giao tiếp hữu hiệu, trở
thành chất liệu nghệ thuật quan trọng.
Sự ra đời của văn học Hiện đại còn nhờ công lao của “bà đỡ” quan trọng đó là
báo chí và xuất bản. Từ đây, thay vì phương thức xuất bản lạc hậu và cách truyền bá
văn học cũ rất hạn hẹp và chậm chạp, là phương thức xuất bản tiên tiến và phương
thức truyền bá văn học nhanh chóng. Đó là sự ra đời của các nhà xuất bản và các tờ
báo.
Tờ báo chữ Pháp đầu tiên xuất bản ở Nam Bộ năm 1862 là tờ “Công báo” của
quân đội viễn chinh ở Nam kỳ. Tờ báo chữ quốc ngữ đầu tiên cũng xuất hiện ở Nam
Bộ là tờ “Gia Định báo”, năm 1865.
Từ đó cho tới 1929 đã có tới mấy chục tờ báo khác nhau. Báo chí đăng tải các
tin tức, song đã dành nhiều chỗ cho in tác phẩm văn học. Nhiều tờ báo có đóng góp
cho việc công bố và tuyên truyền văn học là: Nam Phong tạp chí, Đông Dương tạp
chí, Trung Bắc tân văn...
Nói tới sự hình thành và phát triển của văn học hiện đại, không thể không đánh
giá đúng đắn vai trò của đội ngũ độc giả. Ở một khía cạnh nào đó, độc giả chính là
người quyết định số phận của văn học. Văn học phải đáp ứng được nhu cầu, thị hiếu
thẩm mĩ của độc giả, nó mới có lý do tồn tại. Nói tới độc giả, cũng tức là nói tới sự
tiếp nhận văn học, là nói tới mục đích sáng tác của nhà văn. Trước đây, nhà văn sáng
tác để nói chí, để tải đạo, phần lớn là viết cho “riêng mình”. Độc giả (hiểu theo nghĩa
là công chúng đông đảo) dường như không tham gia vào quá trình văn học. Giữa tác
giả và độc giả không mấy khi có mối liên hệ trực tiếp. Và nhìn chung họ không có nhu
cầu nhận thức về nhau một cách kĩ lưỡng.
Song trong thời kỳ hiện đại, văn học không đơn thuần là “thú chơi” như trước
mà nó cũng được đem ra rao bán như “hàng hóa”. Tác phẩm gắn liền với “giá cả”,
viết gắn liền với “nhuận bút”, độc giả la với “khách hàng”.
Xuất hiện những nhà văn “chuyên nghiệp” đầu tiên. Độc giả giờ đây trở thành
người có quyền đánh giá và quyết định sản phẩm hàng hóa. Vì vậy giờ đây văn học
không chỉ chủ yếu phục vụ tác giả (tự phục vụ) mà chủ yếu phục vụ độc giả. Điều này
dường như xa lạ với văn học trung đại. Nhu cầu, thị hiếu thẩm mĩ của độc giả đóng
một vai trò lớn, nếu không nói là quyết định, đối với sự phát triển của văn học.
II.1. Bối cảnh văn học của thơ: những đặc điểm chính của văn
học trên văn đàn công khai
Điều nhận thấy rõ nhất của văn học đầu thế kỉ XX là tính giao thời của nó. Đó
là sự giao nhau giữa hai thời đại văn học cổ trung đại và hiện đại, là sự giao thời giữa
hai lực hút Đông – Tây, là sự giao thời mới – cũ. Tính chất giao thời này không phải
chỉ của riêng văn học, mà còn diễn ra trong các loại hình nghệ thuật khác như âm
nhạc, hội họa, điêu khắc... cũng như còn diễn ra trên cả bề mặt văn hóa dân tộc.
Đối với văn hóa dân tộc, sự giao thời này cũng bộc lộ ra trên mọi lĩnh vực hoạt
động, từ ngôn ngữ văn học đến thể loại văn học, từ nội dung tư tưởng đến các hình
thức biểu hiện, từ tác giả tới nhân vật văn học...
Quy luật của cuộc sống là luôn vận động đi lên, không ngừng phát triển đến
mức hoàn thiện trong thế giới khách quan. Văn học cũng không ra ngoài quy luật ấy.
Lịch sử văn học xét cho cùng chính là lịch sử của sự phát triển, cách tân và
không ngừng hiện đại hóa bản thân nền văn học. Quy luật vận động của văn học Việt
Nam trong lịch sử là đưa văn học phát triển từ phạm trù văn học Trung đại sang phạm
trù văn học Hiện đại. Đây là một quá trình vận động, phát triển đầy chông gai, thử
thách. Nó không phải chỉ bước cái một là xong mà phải qua những khâu trung gian
chuyển tiếp bao hàm trong một phạm trù kép tạm gọi là phạm trù cận đại diễn ra trong
khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX (1900 – 1930) với diện mạo một giai đoạn văn
học giao thời.
Giai đoạn giao thời là một khoảng thời gian chuyển tiếp giữa hai thời kỳ, có cái
mới và cái cũ đan xen, có mâu thuẫn, xung đột và chưa ổn định. Năm 1900 chỉ là cái
mốc quy ước cho sự chuyển tiếp giữa hai thời kỳ trong một dòng chảy thống nhất của
lịch sử văn học.
Do tính chất của đề tài nên người viết chỉ đi vào tìm hiểu một vài đặc điểm của
văn học Việt Nam giai đoạn giao thời (1900 – 1930).
Về ngôn ngữ, văn học giai đoạn này vẫn tiếp tục tồn tại song song hai bộ phận:
văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm; bên cạnh bộ phận thứ ba mới manh nha nhưng
đang tăng trưởng mạnh: văn học chữ Quốc ngữ. (Ngoài ra còn có một ít văn học bằng
tiếng Pháp).
Đối với bộ phận văn học mà tác giả của nó là những người vốn hấp thụ cái học
cũ, dĩ nhiên chữ Hán và chữ Nôm vẫn là phương tiện thuận tay hơn cả để diễn đạt tâm
trạng, tình cảm và cũng hợp với bộ phận độc giả của nó vốn còn khá đông đảo.
Trong tình hình đó phải nói thêm rằng tuy chữ Quốc ngữ chưa phải là thứ ngôn
ngữ văn học độc tôn và chính thức nhưng nó đang ngày một hoàn thiện và tỏ rõ ưu thế
trên trường văn học. Sáng tác văn học bằng chữ quốc ngữ vẫn là lựa chọn ngôn ngữ
văn tự quan trọng nhất. Một sự lựa chọn có tương lai đối với các nhà văn trong điều
kiện lịch sử cụ thể lúc bấy giờ, đây là phương tiện có nhiều khả năng phù hợp với,
trình độ, tâm lý, thị hiếu của người Việt Nam, có tiềm năng lớn nhất phản ánh đời sống
và tâm hồn con người Việt Nam hiện đại.
Về hình thức thể loại trong nhiều sáng tác giai đoạn này đã có sự đan xen, giao
thoa giữa các yếu tố cũ và mới. Riêng ở lĩnh vực thơ ca câu thơ có nhiều biến động
làm rạn vỡ quỹ đạo câu thơ Đường hay câu thơ Lục bát truyền thống. Yếu tố tự do bắt
đầu được để ý, câu thơ nhiều tự do thời cũ như Hát nói được đề cao. Thậm chí có
những nhà thơ mô phỏng câu thơ Pháp... Tất cả làm tiền đề cho sự xuất hiện của câu
Thơ mới sau này.
Tư tưởng nghệ thuật giai đoạn văn học giao thời được hình thành dần từ những
xung đột nghệ thuật cơ bản của văn học, bộc lộ một cách “phức điệu” và có khi đối
nghịch giữa các xu hướng mới, cũ; mà một trọng tâm trong đó là xung đột giữa cá
nhân với thực tại trong ý thức xã hội.
Mỗi thời đại sản sinh ra con người của thời đại mình. Thời đại giao thời thì con
người cũng có dáng vẻ “giao thời”. “Văn học là tấm gương phản ánh thời đại”
(M.Goorki) cho nên cũng đã sáng tạo ra hệ thống hình tượng nhận vật “giao thời”. Đó
một mặt là sự xuất cùng lúc cả con người “quen” cũ và con người “lạ” mới, một mặt
khác là khuôn dạng thứ ba: con người vừa quen vừa lạ trên dung mạo, nhất là dung
mạo tinh thần. Có bóng dáng con người của văn học truyền thống, cũng có diện mạo
con người thời đại mới chưa từng gặp trong văn học trước đây (những người tư sản,
tiểu tư sản, trí thức, thị dân...)
Như vậy, dấu ấn “giao thời” là khá đậm nét trong các sáng tác văn học đầu thế
kỉ XX. Văn học thời kì này là văn học giao thời nhưng xét ở trạng thái vận động của
nó, ta thấy rõ văn học đã phát triển theo chiều hướng hiện đại, dưới sự tác động của
các ảnh hưởng văn học Pháp, văn học phương Tây.
Văn học giao thời đầu thế kỉ XX tồn tại trong một thời gian không dài nhưng
cũng có nhiều biến đổi và phát triển về chất so với trước đó. Nó tạo tiền đề cho sự
thành công hiện đại hóa và sự phát triển hiện đại về sau của văn học Việt Nam. Đóng
góp của nó cho dòng chảy liên tục của văn học Việt Nam quả là không nhỏ.
Nền văn học giao thời với những đặc điểm, tính chất riêng đòi hỏi một đội ngũ
nhà văn “vững tay lái”, gánh vác trách nhiệm “chuyển giao thời đại” của mình.
Nhu cầu xã hội mới của giai đoạn giao thời là cội nguồn thúc đẩy cá nhân và tài
năng sáng tạo. Những thời điểm xã hội chuyển mình chính là lúc đòi hỏi tính tích cực
sáng tạo của cá nhân là sinh thể xã hội, là kết tinh các quan hệ xã hội và tinh hoa đời
sống.
Trong buổi giao thời cũ mới đan xen, sẽ có những con người đan xen cũ mới
đại diện cho nền văn học giao thời đó. Các nhà nghệ sĩ ngôn từ sẽ bằng tài năng, bằng
những con đường khác nhau cùng “gánh vác trách nhiệm” “chuyển giao thế hệ”, góp
phần vào quá trình đổi mới nền văn học. Và Tương Phố, Đông Hồ,... đã xuất hiện bên
cạnh Tản Đà để trở thành con người thời đại tiêu biểu ấy.
II.2. Diện mạo thơ: những đặc điểm riêng của thơ ca giai đoạn
II.2.1. Một giai đoạn ôn tập lại các thể loại
Trong giai đoạn này, các nhà thơ đã có sự phục hưng lại các thể loại văn vần
lịch triều. Về các thể thơ có nguồn gốc ngoại lai (Hán) thì có thơ luật (thi), phú, văn tế,
tứ lục, nhất là từ khúc…; còn các thể thơ dân tộc (Nôm) thì có lục bát, song thất (song
thất lục bát, lục bát gián thất), hát nói và cả những làn điệu dân ca các miền được khai
thác hình thức phần lời (ca từ) làm thành các “thể” cho thơ: hát xẩm, hát đò đưa, hát
ví, hát dặm...
Thơ phú, đặc biệt là thơ luật được đăng tải nhiều trong các báo từ Nam ra Bắc
trên nhiều tờ báo nổi tiếng như Nông cổ mín đàm, Đông Dương tạp chí, Nam Phong
và Phụ nữ tân văn... Thâm chí, tiểu thuyết, sử kí thời kì này vẫn mang đậm truyền
thống văn vần. Chẳng hạn như truyện thơ lục bát “U tình lục” của Hồ Biểu Chánh,
“Giai nhân kì ngộ” của Phan Châu Trinh, hay như Dương Bá Trạc cũng sáng tác cả
một truyện Nôm mới “Trai lành gái tốt”; Nguyễn Thế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu
viết sử giáo khoa bằng văn ngũ ngôn; Ưng Ân kể “Việt sử danh nhân liệt nữ” bằng thơ
song thất lục bát...
Tuy nhiên, các nhà văn thời kì này đã ý thức rõ hơn về sứ mệnh sáng tác của
mình. Hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, họ đã đem bút thơ
của mình điểm tô cho nền văn học quốc ngữ đang hình thành và phát triển. Phạm Thế
Ngũ trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân biên – tập 3” đã nhận định rằng:
“Những người cũ như các cụ khoa cử thì trong ý thức tỉnh ngộ quốc gia muốn li dị với
câu thơ chữ Hán để dành cả cảm tình và thời giờ cho “giọng Hàn Thuyền và hồn Đại
Việt”:
“Chữ nho mít hết chữ Tây nhòa,
Chữ của mình đâu sẵn giở ra.
Chán kẻ văn chương theo giọng chú,
Mặc ai mách quẻ gọi bằng cha.”
(Cử nhân Trần Mỹ - Cổ phần lái khúc – N.P.24)
Những người mới thì có nhiều người muốn dựng hẳn một sự nghiệp thi gia, làm
thơ xuất bản, mơ tưởng sự tiếng tăm là cái bắt đầu quyến rũ người cầm bút ở nước ta
từ khi có báo chí. Do đó mà sáng tác ra rất nhiều và tuy ôn tập lại các lối cũ, nhưng
cũng thực hiện được một chút tiến bộ, vài cải cách nhỏ”. [28, 373]
Xét cụ thể vào từng thể loại, chúng ta có thể thấy rằng về thể Hán, tuy vẫn làm
thơ theo lối cũ nhưng các nhà thơ đã mở rộng những bài thất ngôn bát cú hay tứ tuyệt
ra các thể thơ ngũ ngôn, thất ngôn, kéo dài từng trường thiên vài chục câu, dùng vần
bằng – trắc, Đường luật cổ phong muôn vẻ... Kĩ thuật cũng được chú ý biến đổi và để
công khai thác hơn. Các dạng bài thủ vĩ, bài tiệt hạ, bài phú đắc, bài thích câu, lối liên
châu, lối thước kiều... đều là những thể thức đã có trong thơ Tàu nhưng đến thời kì này
mới được lưu tâm như là một sự “ôn tập”, “tổng duyệt, tổng kiểm kê” có ý thức, để
xem khả năng thực tế của chúng trước nhu cầu đổi mới thơ.
Ngoài ra, việc “tổng ôn tập” không chỉ xuất hiện trên văn đàn công khai mà nó
còn chi phối cả thơ trên văn đàn không công khai. Điều đó chứng tỏ đây là một nhu
cầu tất yếu có tính quy luật của thời kì này. Kèm theo đó, các loại hình “kẻ sĩ” cũng có
sự “tổng duyệt” khi tập hợp từ nho sĩ, đạo sĩ và cả tu sĩ Phật giáo. Những kiểu tâm
trạng như nhập thế hành đạo, ẩn sĩ, tu sĩ …vẫn hiện diện. Ta có thể kể đến trường hợp
của Nguyễn Thượng Hiền. Là một nhà thơ, một chí sĩ yêu nước, ông từng kết giao với
với nhiều sĩ phu yêu nước như Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh
Thúc Kháng. Nguyễn Thượng Hiền từng hỗ trợ phong trào Đông Du nhưng vì cha ông
lúc đó mang bệnh nặng nên ông phải ở lại vận động cách mạng trong nước. Năm 1907,
khi vua Thành Thái bị người Pháp buộc thoái vị, ông vào phủ Toàn quyền đòi nhà
nước Bảo hộ bãi lệnh nhưng không thành. Thối chí, ông giả làm thầy bốc thuốc ở hiệu
“Nam Thọ” (Hà Nội) rồi tìm đường sang Trung Quốc hoạt động và cùng với Phan Bội
Châu lập ra Việt Nam Quang phục Hội. Năm 1914 sau khi Phan Bội Châu bị bắt, ông
là người lãnh đạo của hội.
Sau khi các hoạt động của Việt Nam Quang phục Hội thất bại, Nguyễn Thượng
Hiền xuống tóc vào tu ở chùa Thường Tích Quang, Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang và
mất tại đây. Ông để lại một số tác phẩm thơ, văn bằng chữ Hán, Nôm. Thơ ông chủ
yếu ký thác những tâm sự của mình và lên án chính sách của người Pháp, khơi dậy
lòng yêu nước, kêu gọi nhân dân đứng lên chống Pháp. Tập văn xuôi “Hát Đông thư
dị” của ông mang đậm tính chất truyền kỳ.
Nói đến sự “ôn tập” về hình thức thơ, ta cũng không thể bỏ qua trường hợp tiêu
biểu “Khối tình con I” (1916) của Tản Đà. Trong đó, tác giả đã tập hợp đủ mọi “thể”
thơ từng có trong thơ ca trung đại Việt Nam, ta và Tàu, bình dân và bác học, văn học
viết và văn học dân gian.
Có thể dẫn ra một vài khổ thơ thể hiện điều ấy như:
“Người ta có vợ có chồng
Em như con sáo trong lồng kêu mai
Má đào gìn giữ cho ai
Răng đen, đen quá cho hoài luống công.”
Không chỉ mang âm hưởng ca dao, thơ của Tản Đà còn có những câu mang
giọng điệu giống Hồ Xuân Hương:
“…Xuân lại xuân đi không dấu vết
Ai về ai nhớ vẫn thơm tho
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt
Đá hỏm hang đen tối tối mò
Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối
Phàm trần chưa biết nhắn nhe cho.”
(Chơi chùa Hương Tích – Khối tình con I)
Những câu như “Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt”, “Đá hỏm hang đen tối
tối mò” và “Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối” của Tản Đà khiến người ta nhớ đến
những câu của Hồ Xuân Hương: “Nước trong leo lẻo một dòng thông”, “Xoi ra một lỗ
hỏm hòm hom” và “Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo”…
Và chính kiểu hình thức hỗn hợp ấy trong tập thơ đầu của Tản Đà lại trở thành
kiểu mẫu cho nhiều nhà thơ khác mô phỏng như “Một tấm lòng” của Hải Nam Đoàn
Như Khuê, phong dao và những “bài hát” của Á Nam Trần Tuấn Khải…
Bên thể thơ Việt, ta cũng thấy có sự thay đổi. Nếu như trước kia, các nhà nho
thường dùng câu lục bát để làm truyện dài thì nay truyện đã trở thành tiểu thuyết văn
xuôi, các câu lục bát được dùng để làm những bài thơ vắn diễn đạt mọi cảm hứng thay
cho các câu thơ Tàu như trước đây. Đồng thời, các nhà thơ cũng tìm vào văn chương
truyền khẩu của dân gian, học tập ca dao, đặt các bài phong thi, xẩm chợ, đò đưa.
II.2.2. Tình trạng đình đốn về nghệ thuật
Mặc dù có cải cách nhưng những chuyển biến nhỏ nhặt ấy vẫn chưa đủ sức làm
biến đổi nền thơ ca hiện tại. Chúng vẫn nằm trong đường lối văn vần truyền thống và
không thay đổi được dung mạo nghệ thuật cũ.
Đối với vài thể như song thất, hát nói, nhất là thơ luật có phần thụt lùi về nghệ
thuật. Trên báo Nam Phong, Hữu Thanh, Phụ Nữ đương thời, ta khó có thể tìm thấy
những tác giả một thời như Xuân Hương, Thanh Quan hay Nguyễn Khuyến. Mặc dù
thơ in ra nhiều nhưng chất lượng thì không có gì nổi bật. Đủ các loại thơ như thơ
mừng, thơ cám ơn, thơ chúc thọ, thơ lưu giản, thơ vịnh cảnh, đề con cóc, cây cau, thơ
nhân tình thế thái... Đồng thời, nội dung của chúng cũng rất sáo cũ và đi theo lối mòn.
Vịnh cảnh mùa thu thì:
“Lác đác sân ngô lá rụng vàng,
Tiết hè qua khỏi tiết thu sang.
(thơ Đoàn Nhữ Nam)
Hay:
“Chót vót trên không núi mấy chòm,
Có chùa trong ấy hỏm hòm hom.”
(thơ Nguyễn Thế Thụy)
Những hình ảnh kiểu ước lệ, cổ điển ấy vẫn được sử dụng khá rộng rãi trong
thơ văn thời bấy giờ. Ngay cả ở những thể cách mới mẻ đôi chút, mà tứ xưa, từ sáo
cũng khiến cho người ta không cảm thấy không còn mới mẻ. Chẳng hạn như bài từ
khúc của nữ sĩ Đạm Phương - thi tài nổi danh đương thời và đã có bài được đăng ở
Nam Phong từ những số đầu:
“Tựa bên lầu,
Ngắm cảnh thâu.
Bóng ác chen bãi cát cồn dâu,
Cát hồng nương gió biết về đâu
Lầu ngang đỉnh núi,
Uốn bức rèm châu.
Vẽ tranh sơn thủy màu chưa lạt,
Xem khách yên hà dạ vẫn đau.
Ngắm cảnh thâu,
Tựa bên lầu.”
(Điệu Nga mi dương)
Bài thơ mang đậm lối viết sáo mòn khó có thể tìm thấy nét riêng để phân biệt
với người khác. Nếu không biết tên tác giả mà chỉ đọc qua thì ta dễ lầm tưởng đây là
một bài thơ được sáng tác từ thời trung đại.
Sở dĩ có tình trạng nghệ thuật thi ca đình đốn này là vì nhiều lý do. Trước hết
là vì chủ trương văn học của giai đoạn. Đây là một giai đoạn mà những nhà cầm viết
đều bị đè nén bởi những bận tâm về chính trị và học thuật. Các nhà Nho từ Đông Kinh
đều có cái mặc cảm mất nước vì thi phú. Vì thế mà Phạm Quỳnh đã cho rằng “cái văn
minh thiếu, cái văn phải tạo ra cấp thời để cứu nước là văn xuôi, văn nghị luận”. [28,
376]. Ngay chính Tản Đà tuy làm thơ và nổi danh về thơ rất sớm, song vẫn có một
mặc cảm tự khí, coi đó chỉ là thứ trò chơi, và dồn cả tâm huyết của ông vào giấc mộng
làm báo.
Thơ vẫn được làm ra nhiều theo thói quen và vẫn được đón tiếp rộng rãi vào
báo để để chiều lòng một số độc giả. Tuy nhiên, do sự thờ ơ của những người chủ
trương văn học như trên nên nó đã bị giảm phần quý trọng, không được chăm sóc
hướng dẫn.
Một lý do nữa nằm ở ngay những người làm thơ của giai đoạn. Họ đều là những
người theo Nho học lâu đời hay ít nhiều chịu ảnh hưởng của cái học Nho. Chính vì đều
ít nhiều từ Hán học bước sang quốc văn và đều học làm thơ qua mẫu thơ chữ Hán chữ
Nôm thời trước nên dù có cố gắng làm mới mình, họ cũng chỉ có thể viết ra lời xưa ý
cũ, thơ của họ vì vậy không tiến bộ được bao nhiêu.
II.2.3. Điểm qua các khuynh hướng và các nhà thơ
Ở đây ta có thể thấy đủ các khuynh hướng thơ văn chữ Nôm như đã phân tích
khi bước vào nghiên cứu văn học lịch triều. Đó có thể là khuynh hướng thời thế, dùng
lời lẽ bóng gió để than thở về thời cuộc, về vận nước, như thường thấy trong thơ của Á
Nam hay khuynh hướng trào phúng, cười cợt thế tình, mỉa mai xã hội, như đôi khi thấy
trong thơ Tản Đà. Song nói chung hai khuynh hướng này không thịnh hành. Khi uy
quyền của lớp thống trị đã vững vàng, xã hội Pháp thuộc bước vào một nền nếp và
người lãnh đạo văn nghệ như Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh đều chấp nhận tán
dương thì các khuynh hướng cũng có sự thay đổi. Nguyễn Văn Vĩnh trên tờ Annam
Nouveau, từng lên tiếng đả kích cái giọng khêu gợi quốc sự trong thơ Á Nam. Nam
Phong thì cũng không phải là nơi để các nhà thơ gọi hồn nước hoặc chửi tham quan ô
lại. Do đó, xét trên bề mặt thì hai khuynh hướng thịnh hành hơn cả là khuynh hướng
đạo lý và tình cảm. Người ta làm thơ thuật sử, vịnh sử, theo vết “cụ Quận Hoàng”, làm
thơ giáo huấn con trẻ như Tản Đà với các sách “Lên sáu”, “Lên tám”, làm thơ ngụ
ngôn để dạy luân lý như Nguyễn Trọng Thuật. Chủ trương không làm chính trị chỉ làm
văn hóa giáo dục của Phạm Quỳnh, của Nam Phong, nói chung của cả lớp trí thức hợp
tác bấy giờ, đã đưa đến cho các nhà thơ đương thời một lối thoát. Một lối thoát nữa là
con đường tình cảm lãng mạn. Một nỗi sầu bao trùm lên các thế hệ lúc bấy giờ. Cái
giọng sầu ấy cất lên véo von, thấm vào man mác, trong các bài thơ của Tương Phố,
Đoàn Như Khuê, Trần Tuấn Khải, Tản Đà...
Để thống kê hết tất cả các nhà làm thơ trong giai đoạn này là một việc không
dễ. Chúng tôi chỉ điểm qua những nhà thơ có tác phẩm xuất bản hoặc có thơ đáng kể
về lượng hay phẩm trong các báo bấy giờ như Nam Phong, Hữu Thanh, An Nam tạp
chí, Phụ nữ Tân văn, nhất là Nam Phong.
Về phái nữ, ta phải kể đến Nhàn Khanh, Đạm Phương, Tương Phố. Nhàn
Khanh có cả một thi tập đăng ở Nam Phong năm 1918. Thơ bà êm đềm, đài các,
phảng phất thơ Thanh Quan, khiến cho lúc đầu có người lầm bà với nữ sĩ đời Minh
Mạng. Đạm Phương ngoài làm thơ còn viết cả luận thuyết, đoản văn nữa. Tương Phố
có một thi nghiệp mà ta sẽ nói sau.
Về phái nam, trước hết phải kể những nhà Nho khoa cử cũ như Trần Mĩ, Trịnh
Đình Dư, Dương Bá Trạc, Bùi Kỉ. Trần Mĩ, có tập “Cổ phần lái khúc” đăng ở Nam
Phong năm 1919, trong đó có bài “Đê thứ hí tác” đáng chú ý. Bài thơ đã mượn tích
Sơn Tinh – Thủy Tinh để nói đến xã hội đương thời:
“…Ông thủy đắc ý cười khúc khích.
Tự đó đến giờ xứ Bắc Kì,
Trị Thủy không có ai thiên sách.
Oán thù chuyện cũ có hay không?
Nếu có vua thì cũng nên tránh,
Đòi nhiều lễ vật để làm chi?
Làm cho cả nước phải tai ách.
Các ông thành phố rầy mà đi,
Cho cưới con gái đừng có thách.”
Dương Bá Trạc (bút hiệu Tuyết Huy) vốn là nhà nho của Đông Kinh Nghĩa
Thục, là tác giả một quyển tiểu thuyết văn vần theo kiểu truyện thơ truyền thống: “Trai
lành gái tốt”. Ông mơ tưởng dựng lại một kiệt tác lục bát theo vết “Đoạn trường tân
thanh” nhưng không thành công. Một tác giả khác là Trịnh Đình Dư, bút hiệu Ngẫu
Trì, thường có thơ đăng trên Nam Phong, Hữu Thành từ năm 1929. Ông là cây bút
nghị luận của Phụ nữ tân văn và cũng có nhiều bài thơ luật đăng trên báo này. Bùi Kỷ,
bút hiệu Ưu Thiên, là một nhà biên thảo hơn là một nhà thơ. Tuy sáng tác ít nhưng các
bài về thơ phú của ông đều có giá trị. Trong những bài ca trù như “Chữ nhàn”, “Chữ
lao”, ông “…đã thổi cho câu hát nói một khí lực quyến rũ mãnh liệt”.[Phạm Thế Ngũ,
28, 380]
Ngoài ra cũng có thể kể thêm các tác giả như: Vũ Khắc Tiệp, Nguyễn Văn Đào,
Trần Mạnh Đàn, hai ông họ Đoàn, Mai Khê và Mai Nhạc. Mai Khê Đoàn Tư Thuật,
dịch giả “Tuyết Hồng lệ sử”, cũng đã có công dịch bài tựa truyện Kiều của Chu Mạnh
Chinh ra văn tứ lục rất chuốt, rất hay. Ông đã viết những câu thơ luật vịnh truyện Kiều
khá hay như:
“Bút cụ Nguyễn Du hòa những lệ,
Văn người Nam Việt quý hơn vàng.”
Thuộc vào lớp trẻ hơn, nói theo Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học sử
giản ước tân biên” là những người thuộc lớp “Nho Tây tham bán”, mà thi phẩm cũng
hay thấy trên Nam Phong là Nguyễn Mạnh Bổng, Hoàng Ngọc Phách, Dương Đình
Tẩy, Trần Huy Liệu, Phạm Tuấn Tài. Nguyễn Mạnh Bổng, hiệu Mân Châu, là người
rất chịu khó làm việc cho văn mới. Ngay từ buổi đầu ông làm thơ, dịch truyện, viết
đoản thiên, đăng ở Nam Phong, ở Hữu Thanh, ở Phụ nữ Tân văn, nhưng ông không có
tài hẳn về loại nào nên không để lại tiếng tăm gì. Thơ Hoàng Ngọc Phách thì cũng êm
đềm, chải chuốt như lối văn của ông ở “Tố Tâm”:
“Déo dắt trên bờ chim ghẹo nguyệt,
Vẳn vơ dưới bóng cá ăn sương.”
(Vịnh cảnh hồ Tây)
Phạm Tuấn Tài tuy có tư tưởng cách mạng về chính trị như thơ ông thì lại rất cổ
truyền. Xem xét bài “Cảnh chiều Bắc Cạn” của ông, ta thấy câu tứ và hình ảnh đều
mang nặng lối cổ:
“Vừa mới tan sương bóng đã tà,
Mịt mù mây phủ nước non hoa.
Bờ kia cụ Lã ôm cần lại,
Sườn nọ ông Chu quẩy gánh ra.
Tháo ách voi Ngu nơi ruộng vắng.
Gõ sừng trâu Nịnh quãng đồng xa.
Hỏi ai lữ khách buồn chăng tá?
Loạc quạc kìa trông một lũ gà!”
Ngoài ra, ở miền Nam cũng có các bài đăng trên báo cùng một giai đoạn (Đại
Việt, Đuốc Nhà Nam, Nam kỳ tuần báo, Phụ nữ tân văn) một số bút thơ cũng từ làng
nho ra như Trần Chánh Chiếu, Đặng Thúc Liêng, Huyền Mặc, Thượng Tân Thị.
Thượng Tân Thị là bút hiệu của một nhà Nho quê ở Thừa Thiên (tên thật là Phan Quốc
Quang). Ông vào Nam từ năm Thành Thái bị đày và làm ông đồ dạy học ở xóm Tân
Bình. Tác giả đã làm ra mười bài “Khuê phụ oán” (1919) và được khen là giai tác suốt
một thời. Ông đã viết những dòng thơ tả tình khuê phụ như:
“Chiêm bao lẩn thẩn theo chân bướm,
Tin tức bơ vơ lạc cánh hồng.
Tính tới tính lui thân cá chậu,
Lo quanh lo quẩn phận chim lồng.”
Ngoài ra còn vài nhà thơ đặc biệt có thi nghiệp, có tác phẩn xuất bản và gây
được tiếng tăm với đương thời, chúng ta sẽ dành riêng để nói rõ hơn sau đây. Nói
chung, ta cũng sẽ thấy tất cả những tính cách của thi ca trong giai đoạn như đã phân
tích trên. Nhưng họ cũng đạt tới được một vài đặc sắc, nhất là ở cố gắng của họ để mở
lối vào các thể Nôm dân tộc. Đồng thời, chính cái giọng tha thiết chân thành đã khiến
cho thơ họ có một giá trị chứ không đến nỗi chỉ là giảng thuyết nhạt nhẽo như thường
thấy trong đa số các bài văn vần ở các văn đàn thời này.
II.2.4. Một số nhà thơ tiêu biểu
II.2.4.1. Tản Đà (1889 – 1939)
Tản Đà, tên khai sinh là Nguyễn Khắc Hiếu, ông sinh năm 1889 tại làng Khê
Thượng, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây (nay là Ba Vì – Hà Nội). Tản Đà được đánh giá
là nhà thơ quan trọng có thi hứng bao trùm cả giai đoạn văn học những năm đầu thế kỉ
XX. Nhận xét về ông, các nhà văn học sử hiện đại đều công nhận Tản Đà chính là
gạch nối giữa hai nền thơ cũ và mới.
Ông viết đủ các lối văn như văn nghị luận (“Tản Đà tùng văn”, “Tản Đà văn
tập”, “Tản Đà xuân sắc”), văn tiểu thuyết (“Thề non nước”, “Trần ai tri kỉ”), văn du kí
(“Giấc mộng con”), văn giảng đạo đức (“Đài gương kinh”), văn ghi tư tưởng (“Nhàn
tưởng”), văn biên tập (“Đài gương truyện”), văn dịch thuật (“Đại học”, “Kinh thi”),
giáo khoa (“Lên sáu”, “Lên tám”)…Tuy viết nhiều như vậy nhưng khi nhắc đến Tản
Đà, chúng ta vẫn nghĩ đến ông là một nhà thơ – tác giả tập “Khối tình con” (hai quyển)
và “Tản Đà vận văn” (ba quyển).
Hơn ai hết, Tản Đà là nhà thơ thừa kế những cảm hứng truyền thống của văn
Nôm. Ông cũng có những bài về khuynh hướng thời thế:
“Lo vì phong hóa mỗi ngày suy,
Thánh giáo không ai kẻ hộ trì...
Lo vì thế cục nát như tương
Cái ruột tằm ai rối vấn vương.”
(Hủ nho lo việc đời)
Sống trong xã hội lố lăng với nhiều tấn tuồng bi hài, Tản Đà cũng có những
sáng tác theo khuynh hướng trào phúng mang giọng điệu gần với Hồ Xuân Hương và
Tú Xương. Tuy nhiên, vì chính quyền thực dân giăng lưới kiểm duyệt gắt gao nên ông
chỉ xoay nụ cười quanh những vấn đề thế tình muôn thuở hay chính mình, đem cái tôi
hẩm hiu thất bại, đôi lúc ngông nghênh khoác lác, làm một đối tượng để bỡn cợt cho
độc giả mua báo.
Sinh ra trong gia đình Nho lưu, được đào tạo theo Nho học nên ông cũng rất
chú trọng đến luân lí Nho giáo. Vì thế, trong thơ ông, khuynh hướng đạo lí cũng là
một khuynh hướng quan trọng. Ông truyền bá cho luân lí đạo Nho:
“Trăm năm trong cõi người ta
Trai thời trung hiếu đàn bà tiết trinh
Cuộc nhân thế xoay vần dâu bể
Mối cương thường ai dễ xem khinh.”
(Tiết phụ hành)
Luân lí của ông không chỉ ở trong nhà mà còn ra đất nước khi tuyên truyền lòng
“ái quốc ái quần”. Do thời thế nên chủ nghĩa ái quốc của ông không vượt sang địa hạt
chính trị mà chỉ ở phạm vi luân lí. Ông kêu gọi tình hữu ái:
“Trung Nam Bắc chị cùng em
Chị em nghe đấy con chim gọi đàn
Chim kia còn biết gọi đàn
Chút tình hữu ái chị bàn cùng em.”
(Đề báo Hữu Thanh)
Có thể thấy rằng tư tưởng của Tản Đà vẫn đi theo văn sĩ Nho gia xưa nhưng đã
có sự mở rộng ra khỏi những công thức cương thường muôn thuở, hướng vào hoàn
cảnh đổi thay của xã hội lúc bấy giờ nên có chiều hướng phong phú hơn. Đặc biệt, ở
khuynh hướng tình cảm, ta sẽ thấy thơ ông đã có bước tiến lại gần với thơ mới về sau
này.
Trong thơ Tản Đà, ta cũng thấy có nhiều đề tài như nhàn lạc, tình ái, sầu não,
thiên nhiên. Tuy nhiên, màu sắc lãng mạn của ông cũng thật riêng biệt. Ông ca tụng
thú ăn chơi một cách tỉ mỉ và say mê:
“Túi thơ đeo khắp ba kì
Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng
Thú ăn chơi cũng gọi rằng
Mà xem chưa dễ ai bằng thế gian.”
(Thú ăn chơi)
Viết về điều này, Phạm Thế Ngũ trong “Việt Nam văn học sử giản ước tân
biên” (tập III) đã nhận định rằng: “Ông đã đem sự ăn chơi nhất là sự ăn làm một thứ
chủ nghĩa cho cuộc đời (Trăm năm hai chữ Tản Đà, còn sông còn núi còn là ăn chơi),
một chủ nghĩa mà có người đã gọi là “khoái lạc chủ nghĩa” của Tản Đà.[28, 400]
Các nhà Nho xưa như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát..đã từng đem ái tình vào
thơ văn, song chưa ai si tình như Tản Đà. Không những mơ tưởng tới những cuộc hội
ngộ với Tây Thi, Chiêu Quân mà ông còn viết thư hỏi trời xin cưới Hằng Nga…Nho
gia xưa cũng từng đem sầu vào thi văn nhưng chưa ai như Tản Đà thức “canh nghe
tiếng kim kí cách dục giờ” để băn khoăn về ý nghĩa cuộc đời.
Ta thấy ở Tản Đà có khuynh hướng thoát li. Dù hô hào cho cương thường đạo lí
nhưng ông cũng không dấu nổi nỗi buồn hoài nghi đối với những giá trị cũ. Do đó, ông
tìm cách thoát li thực tại để đi vào mộng, vào những cuộc phiếm du…Đây là điều
khiến Tản Đà cách xa các thi nhân tiền bối.
Về hình thức thể loại, một đặc điểm nổi bật trong thơ Tản Đà là mang đậm tính
chất của thi ca giai đoạn này ở mảng ôn tập các thể loại lịch triều. Ông đã khai thác tất
cả các thể loại như thơ ngũ ngôn, thơ thất ngôn, đường luật, cổ phong tứ tuyệt, trường
thiên, câu đối, phú, văn tế, tứ lục, từ khúc, tiểu khúc song thất hay lục bát, hát nói.
Không những thế, ông còn thiên sang các thể loại bình dân như xẩm, đò đưa, phong
dao…Cái đặc sắc trong thơ Tản Đà được thể hiện qua việc dung hòa cách mềm dẻo, tự
nhiên giữa hình ảnh cổ văn và vật liệu bình dân trong ca dao. Ví như khi nói đến chí
khí cảm hoài trong thơ luật, ông thường gọt dũa trang trọng:
“Trung hiếu vẹn tròn hai khối ngọc
Thanh cao phô trắng một cành mai.”
(Thơ Tự vịnh)
Nhưng ở lục bát, ông lại sử dụng ca dao và tiếng nói hàng ngày hết sức thân
thuộc:
“Người ta có vợ có chồng
Em như con sáo trong lồng kêu mai
Má đào gìn giữ cho ai
Răng đen, đen quá cho hoài luống công.”
(Khối tình con I)
Với sự phong phú, đa dạng từ đề tài đến hình thức, thơ Tản Đà đã có tầm ảnh
hưởng đến giai đoạn văn học giao thời đầu thế kỉ XX. Vì mục đích giới thiệu những
nhà thơ tiêu biểu của giai đoạn nên chúng tôi chỉ điểm qua một vài đặc điểm nổi bật
trong thi nghiệp của Tản Đà. Nếu đi sâu nghiên cứu thì những gì dẫn ra trên đây chưa
phải là đầy đủ và toàn diện. Là cầu nối giữa cũ và mới, Tản Đà quả thực đã có những
đóng góp nhất định cho sự phát triển của văn học. Chúng tôi xin phép được dừng tại
đây vì lí do dung lượng và mục đích chính của đề tài. Chỉ xin nhấn mạnh rằng, Tản Đà
là một thi sĩ có vị trí gạch nối sang thơ mới. Ông đã được các nhà thơ mới xem như
một bậc tiền bối có công mở đường hết sức đặc biệt.
II.2.4.2. Đoàn Như Khuê
Đoàn Như Khuê (1883-1957), tự là Quý Huyền, hiệu là Hải Nam, người làng
Hải Yến, nay là xã Quốc Trị, huyện Tiên Lữ, Hưng Yên. Ông thi hương, vào được nhị
trường. Sau khi thi hương bị bãi bỏ, ông lên Hà Nội viết văn và dịch sách . Có thời kì
ông làm chủ bút tờ Thương báo. Trong kháng chiến chống Pháp, có thời ông làm trong
Ban Cổ học Hội văn hóa kháng chiến liên khu III (1947-1949). Vào cuối đời, ông làm
công tác dịch thuật ở Hà Nội.
Tác phẩm chính của Đoàn Như Khuê: “Một tấm lòng” (1917), “Cảo thơm toàn
tập” (1924), “Luận ngữ cách ngôn” (1927).
Qua các tác phẩm trên, tác giả bày tỏ mối quan tâm đến đất nước, đến việc bồi
dưỡng đạo đức truyền thống của dân tộc, có ý thức nêu cao vốn quý của văn hóa dân
tộc. “Một tấm lòng” là một tập gồm các bài văn vần đủ lối thơ luật, thơ cổ phong, ca
lục bát, song thất lục bát, xẩm, phong dao... Đa số các bài thơ ca thuộc thù ứng, hiếu
hỉ, như “Mừng bạn mới cưới vợ”, “Mừng một bà tiết phụ”, “Thay lời bạn khóc vợ”,
“Khóc bạn thân”. Cái cảm hứng thù phụng thường hời hợt khách sáo như thường thấy
ở loại văn này.
“Một tấm lòng” là tập thơ đầu và cũng là tập thơ duy nhất của Hải Nam Đoàn
Như Khuê. Sau này ông có soạn một tập tuyển lục thơ cổ nhân (Cảo thơm toàn tập)
chứ không sáng tác thêm nữa.
II.2.4.3. Trần Tuấn Khải
Trần Tuấn Khải (1895 – 1983). Ông có nhiều bút danh: Á Nam, Đông Minh,
Đông A Thị, Tiêu Hoa Nhân, Lâm Tuyền Khách... Quê ở làng Quản Xán, huyện Mĩ
Lộc – Nam Định. Cha ông là Trần Thụy Giáo đỗ cử nhân, làm huấn đạo. Xuất thân
trong một gia đình nho học có truyền thống yêu nước, Trần Tuấn Khải học chữ Hán
song chịu ảnh hưởng của tân học từ các phong trào Duy Tân, Đông kinh nghĩa thục.
Ông sớm có suy nghĩ về thời cuộc, chuyên dùng thơ văn để bày tỏ tấm lòng yêu nước,
thức tỉnh người đọc hướng về quê hương. Thơ ông thường nói đến những nền nếp dân
tộc như lòng thủy chung nhân ái, nghĩa đồng bào, tình cha con chồng vợ. Đó cũng là
tình cảm phổ biến của nhiều người lúc bấy giờ: thiết tha với độc lập dân tộc nhưng
chưa tìm được con đường cứu nước và cũng có phần bất lực nên gửi hoài bão cho văn
chương. Một thời gian dài, thơ văn Trần Tuấn Khải có những bài được phổ biến rất
rộng rãi từ Bắc vào Nam như “Tiễn chân anh Khóa”, “Nhớ anh Khóa”... Những bài
thơ này đã theo chân những người hát xẩm, những đám hát rong đến mọi bến bờ của
đất nước.
Thi phẩm đầu tay của ông, “Duyên nợ phù sinh” xuất bản tập I năm 1921, tập II
năm 1922. Kế đến là “Bút quan hoài”, hai tập, năm 1926. Về sau còn có “Với sơn hà”
năm 1936. Ông sáng tác nhiều và thơ ông cũng có nhiều giá trị đặc biệt. Ông cũng làm
thơ luật song sở trường hơn cả là về các lối lục bát đoản ca, phong dao, hoặc lục bát
biến thể: “Hát xẩm”, “Hát anh khóa”.
Qua thi ca ông ta có thể nhận ra được ba khuynh hướng. Trước hết là tư tưởng
đạo lý của nhà nho dạy người ta ăn ở hợp lý hay cương thường:
“Óc anh như mảnh gương trong,
Có lau thì sáng bỏ không thì mờ.”
Sau đến là khuynh hướng thời thế đã từng khiến cho thơ ông bị cấm lưu hành.
Có lẽ theo cái sáo xưa của các nhà nho Đông Kinh nghĩa thục, ông thường mượn lời
bóng gió để nhắc nhở người ta nghĩ đến quốc sự, khi thì mượn lời nói với anh khóa,
khi thì mượn lời người đàn bà gánh nước than thân:
“Em bước chân ra,
Con đường xa tít.
Bên vai kĩu kịt,
Nặng gánh em trở ra về.
Em ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya.
Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai?
Em những tiếc công bà Nữ Oa đội đá vá trời,
Con dã tràng lấp biển biết đời nào xong.
Bước đem khuya thân gái ngại ngùng,
Nước non gánh nặng, đức ông chồng hay hỡi có hay?”
Cái giọng thời thế này sang đến “Bút quan hoài” càng thấm thía người ta. Ông
thường mượn ý của lịch sử, như mượn trường hợp Nguyễn Phi Khanh dặn con, Trưng
Trắc khuyên em, mà đặt ra những lời thơ thống thiết như:
“Coi lịch sử gương kia còn đó,
Mở dư đồ đất nọ chưa tan.
Giang sơn này vẫn giang sơn,
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Chớ lần nữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai.
Đem thân đày đọa tôi đòi.
Nhọc nhằn bêu riếu muôn đời hay chi.”
Sau nữa đến cái giọng buồn thế hệ thường len lỏi cả trong những bài giảng luân
lý hay thuyết quốc sự và hiện ra rõ ràng hơn ở các bài thơ cảm hứng cá nhân, ngắm
cảnh sinh sầu, chán thực tìm mộng. Đây là một bài trong khuynh hướng ấy: “Bên sông
chiều đất khách” (trong “Duyên nợ phù sinh”):
“Bảng lảng trời hôm vắng,
Buồn trông mặt sóng khơi,
Thế tình cơn gió thoảng.
Trần mộng ngọn triều xuôi.”
Bài “Đi thuyền bể” dưới đây, câu thơ lục bát đẹp, tư tưởng lại sâu sắc, tác giả đã
từ cái buồn nhân thế mà vượt lên một thái độ triết lý phảng phất cả Phật lẫn Nho:
“Đời như nước mắt bể khơi,
Người như chiếc lá ngược xuôi giữa dòng.
Biết bao sóng gió hãi hùng,
Chân sào tay lái ai cùng với ta.
Đừng theo con nhạn mới sa,
Thấy con sóng bạc tưởng là mồi ngon.
Lênh đênh bay lội chập chờn,
Biết bao hy vọng theo nguồn nước xuôi.
Kiền khôn một giấc mộng dài,
Mộng trong giấc mộng vui cười được bao.
Ngàn mê bến giác bên nào,
Thương nhau xin bắt lái vào cùng nhau.”
Nhìn chung thì thơ Tản Đà hay hơn, lớn hơn, nhiều mặt hơn (về giá trị), nhưng
riêng mảng “phong dao” và “câu hát”, thì Á Nam có phần trội bật hơn, tài hoa hơn,
như dư luận lâu nay đánh giá. Á Nam Trần Tuấn Khải có tình của một chí sĩ và ngọn
bút một thi ông. Thơ ông đã gây được nhiều tiếng vang trong lòng người đương thời.
Nhất là những bài hát giọng thời thế như “Anh Khóa”, “Gánh nước”, khoảng 1925 -
1930, đất nước xao động vì các biến cố chính trị, đã tự nhiên truyền đi khắp thành thị
thôn quê. Nhiều nhà thơ sau này dựa theo đặt ra các bài tương tự mà ta có thể thấy cả
trên báo Nam Phong, như bài “Tri âm ơi” của Nguyễn Thế Núc (Nam Phong, số 104),
“Anh ký ơi” của Tạ Bình Hải (Nam Phong, số 109), “Đánh thức chồng tát nước” của
Ngô Thế Thụy (Nam Phong, số 93).
Ngoài Đoàn Như Khuê và Trần Tuấn Khải thì Tương Phố và Đông Hồ cũng là
những nhà thơ có thi nghiệp tiêu biểu trong giai đoạn này. Với yêu cầu của đề tài, khóa
luận sẽ đề cập đến vai trò, vị trí và đóng góp của hai tác giả ở chương sau, để từ đó
cung cấp cho mọi người một cái nhìn sâu sắc hơn và đầy đủ hơn về hai tác giả của
“Hai giọt lệ”.
CHƯƠNG II
Ý NGHĨA HIỆN ĐẠI HÓA CỦA “HAI GIỌT LỆ”
I. Khái quát chung
I.1. Hoàn cảnh sáng tác
I.1.1.“GIỌT LỆ THU” (TƯƠNG PHỐ)
Viết mùa thu năm Quý Hợi, 1923. Đăng trên tạp chí Nam Phong số 131, tháng
7/1928, “Ngày mai” xuất bản năm 1952.
Ngoài bìa ghi hai câu thơ: “Trời cao đất rộng bao la hận – Năm tháng còn đây
ngấn lệ châu”. Trang sau có lời đề tặng: “Âm thầm... tặng hương hồn anh Thái Văn Du
lánh trần ai năm ba mươi tuổi”. Lời tựa (“Tư ngôn”) đầu sách của Phạm Quỳnh, chủ
bút Nam Phong tạp chí.
Tác phẩm như một khúc tản văn – tâm tưởng trong hình thức văn xuôi đậm tính
biền ngẫu có xen lẫn tám đoạn thơ lục bát và song thất lục bát. Đây là lời tâm sự của
nữ sĩ kể lể nỗi nhớ thương, đau xót khôn nguôi của một người vợ trẻ về hạnh phúc vợ
chồng ngắn ngủi chỉ tính bằng ngày tháng, khi người chồng đột ngột lìa đời, “kẻ Nam
người Bắc, khi sống đã xa nhau, lúc mất lại không gặp mặt”. Câu chuyện của đôi vợ
chồng gọi ra thấp thoáng qua tiếng khóc dài của người vợ... Nàng lấy chồng khi mới
mười bảy tuổi; gần nhau chưa trọn một năm, khi con mới được sáu ngày thì chồng
tòng chinh, phải bổ sang Nhà thương binh sĩ ở Marseille (Pháp). Chàng gắng học thêm
để lấy bằng y khoa Thuộc địa, nhưng, hỡi ôi: “lúc trở về đã hai lần phổi nát”. Chàng
được đưa về Huế (quê chàng). Tương Phố khi đó đang lưu học tại Trường nữ Sư phạm
Hà Nội, không nghỉ được, lại thêm nỗi đường xa diệu vợi nên không vào được để gặp
chồng. Rồi ít hôm, tin xé lòng đưa tới: người chồng đã mất. Đưa tang chồng xong, bơ
vơ thân gái, người vợ ôm con thơ về tựa gối cha già, giữa dòng chiếc bách lênh đênh
phải đem tấm thân trôi nổi dạt vào lòng cha. Nàng nhìn trước tương lai sầu thảm: cuộc
đời dang dở khi tuổi còn xanh, con đang măng sữa, trăm đắng nghìn cay, không biết
trông cậy vào ai... Năm năm ôm nỗi nhớ thương, cứ mỗi độ thu, mưa gió tràn trề càng
khơi thêm dòng nước mắt. Cảnh thu vàng gợi lại bao nỗi niềm dĩ vãng khiến ngọn
triều trong dạ cũng mênh mang cơn sóng lệ: “Đến với anh mùa thu, mất anh cũng lại
mùa thu, cho nên năm năm cứ mỗi độ thu sang thì em lại bồi hồi nhớ trước tướng sau
mà lòng thu một tấm cũng ngây ngất sầu”.
I.1.2.“LINH PHƯỢNG KÍ” (ĐÔNG HỒ)
Tập lệ kí đăng lần đầu trên tạp chí Nam phong số 128, tháng 4/1928 với Lời
giới thiệu “Tự ngôn” của Thượng Chi – tức Phạm Quỳnh. Nhà xuất bản Nam Ký, xuất
bản năm 1934.
Đây là một tập ký gần với nhật ký ghi lại tình cảm thương nhớ khôn nguôi của
thi sĩ đối với người vợ đã mất. Linh Phượng – vợ nhà thơ về nhà chồng năm mười tám
tuổi và mất ở tuổi hai lăm. Tập lệ kí kể lại những ngày Linh Phượng lâm trọng bệnh,
thầy thuốc tìm hết phương cứu chữa nhưng bệnh mỗi ngày càng thêm nặng. Trước bao
nhiêu đau đớn, tuyệt vọng, giận hờn của người bệnh, nhà thơ chỉ còn biết lựa lời
khuyên giải và tận tình chăm sóc nàng. Tập lệ kí đã làm người đọc cảm động về những
chăm chút mà người chồng đã dành cho vợ với bao ân tình, thương xót. Nhiều chi tiết
đã được kể lại đầy xúc động: xoa bóp cánh tay đau cho vợ, người chồng thương quá
đặt lên cánh tay ấy một chiếc hôn, “cái hôn chảy nước mắt”; gỡ mái tóc cho vợ một
cách lúng túng, vụng về khiến nàng phải buồn cười, “nụ cười xiết bao tình ái ân âu
yếm”...
Phút lâm chung của Linh Phượng, thi sĩ Đông Hồ chỉ còn biết cố cầm nước
mắt, nhìn người vợ đang lạnh dần. Người chồng không muốn đậy mặt nàng lại mà cứ
ngồi lặng ngắm khuôn mặt thương yêu của Linh Phượng: “Tôi trông nàng không có
lần nào đẹp bằng lần này, đẹp quá, đẹp đến nỗi tôi mê mẩn say sưa... Tôi trông nàng
đẹp, đẹp cao xa huyền bí như nàng tiên trong mây, như thế là bởi tôi sẵn bụng thương
yêu nàng quá hay là ngày thường không mấy khi nàng mặc quần áo lụa, nay khăn áo
đoan trang, cái vẻ đẹp mới nhân đó mà càng tôn lên chăng? Trong hai lẽ cũng có cả.
Tôi nghĩ đến đây, bỗng sa nước mắt mà trong lòng xót thương, đau tủi bội phần... ”.
Tập lệ kí kể lại cảnh nhập quan, cảnh đám tang đưa linh cữu về núi Tô Châu. Cung
tiễn linh cữu, thi sĩ đọc một bài văn ứng khẩu, “mỗi tiếng than là một giọt lệ, mỗi câu
văn là một khối tình”. Bài thơ khóc vợ của Đông Hồ chứa chan nước mắt: “Đầm đìa
giọt thảm khăn hồng thấm – Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm – Hình dạng mơ màng
khi thức ngủ - Tiếng hơi quanh quẩn nếp y xiêm ”...
I.2. Khái niệm “hiện đại hóa” trong văn học
I.2.1. Khái niệm “hiện đại hóa”
Có thể hiểu rằng “hiện đại hóa trong văn học” là làm cho văn học trở nên hiện
đại. Đó là sự vận động của văn học trong một thời điểm, giai đoạn nào đó.
Trở lại với đề tài khóa luận, chúng ta cần xác định rằng “Hiện đại hóa” văn học
Việt Nam chính là giai đoạn đầu thế kỉ XX.
Hiện đại hóa trong văn học là quá trình diễn ra trên nhiều phương diện như văn
tự, ngôn tự, thể loại... Quan niệm sáng tác cũng tập trung xoay quanh việc trả lời
những câu hỏi văn chương có giá trị, tác dụng gì đối với con người...
Trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, “hiện
đại hóa” là sự chuyển đổi cả phạm trù văn học [sử] từ phạm trù văn học Trung đại
dang phạm trù Hiện đại. Chúng ta cần lưu ý rằng Hiện đại với tư cách một phạm trù
văn học [sử] chỉ xuất hiện một lần trong lịch sử để thay thế phạm trù văn học cũ hơn
nó, tức là văn học Trung đại. Theo đó, về mặt lí thuyết, đến một lúc nào đó, tới lượt
mình, nó lại trở thành phạm trù văn học cũ, bị phạm trù văn học khác nào đó mới hơn,
thay thế một cách tất yếu, hợp qui luật.
Có người lầm tưởng “hậu hiện đại” là một cái gì tương đương với phạm
trù văn học Hiện đại, trong khi hoàn toàn không phải như vậy. Hậu hiện đại xuất hiện
chỉ như một (hoặc một số) trào lưu văn học, tiếp theo (các) trào lưu Hiện-đại-chủ-
nghĩa (Tượng trưng, Siêu thực, Đa đa,… mà giới nghiên cứu macxit trước đây gộp
chung gọi một cách miệt thị là suy đồi.
Thứ đến, chúng ta cần xác định rằng chuyển đổi phạm trù văn học là chuyển đổi
toàn bộ văn học và đời sống văn học, gồm tất, từ tác giả, tác phẩm, độc giả, đến
phương thức lẫn cách thức phổ biến lưu hành tác phẩm, thiết lập hai chiều các kênh
thông tin và phản hồi giữa nhà văn và công chúng…Riêng ở Việt Nam, đến thời Hiện
đại (văn học Hiện đại) mới thực sự bắt đầu có cái gọi là ngành nghiên cứu và phê bình
văn học, như một ngành khoa học chuyên biệt; cũng lần đầu tiên người ta (người sáng
tác và nhà phê bình, đại diện cho công chúng và dư luận) mới thực sự quan tâm đến lý
luận (lý thuyết văn học) và mói có lý thuyết văn học (nhập cảng dần từ châu Âu, từ
Pháp, sau nữa là từ Nga từ Tàu…). Trong đó trung tâm cố nhiên vẫn là tác phẩm, do
đó quan trọng bậc nhất phải là tư tưởng thẩm mĩ và hệ thống thi pháp.
Chúng ta sẽ tìm nghĩa khái niệm hiện đại với những cách hiểu khác nhau
trong những hoàn cảnh khác nhau.
Hàng ngày chúng ta vẫn thường nghe nói đến hai tiếng hiện đại. Trên báo chí
thời sự, trong các văn kiện chính trị cụm từ “quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá”
hoặc “sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá” thường được nhắc lại với một nội dung
xác định. Hiện đại ở đây được hiểu là trình độ của những nước tiên tiến trên thế giới,
và hiện đại hoá là đưa sự phát triển của xã hội ta lên một bước làm cho chúng ta không
thua kém những nước đó.
Theo “Từ điển Tiếng Việt” do Hoàng Phê chủ biên: “Hiện đại: (1) thuộc về thời
đại ngày nay; (2) có áp dụng những phát minh, những thành tựu mới nhất của khoa
học, kĩ thuật, đối lập với cổ điển”. [32, 565]
Đây chính là nghĩa thông thường nhất của hai chữ hiện đại.
Một nghĩa khác của từ là nghĩa được dùng trong khoa sử học. Ở các phổ thông
trung học, học sinh được giảng như sau: Không kể thời cổ đại thì từ Cách mạng tư sản
Anh trở về trước là lịch sử trung đại; từ Cách mạng Anh tới Công xã Paris (1871) là
lịch sử cận đại; sau Công xã Paris, lịch sử bước sang một trang mới là lịch sử hiện đại
(gần đây, nhiều sách giáo khoa có sự điều chỉnh, coi lịch sử hiện đại bắt đầu từ sau
Cách mạng tháng Mười Nga). Đây là phác đồ chung của lịch sử thế giới theo quan
điểm Macxit. Còn trong từng nước, lại có sự xác định cụ thể. Ở Trung Hoa lịch sử từ
chiến tranh Nha phiến 1840 đến 1919 – phong trào Ngũ Tứ là lịch sử cận đại; 1919
đến 1949 là hiện đại, sau 1949 là đương đại. Riêng ở Việt Nam, lịch sử cận đại bắt đầu
từ khi người Pháp đánh chiếm nước ta (1858) cho tới 1930, năm thành lập Đảng Cộng
sản Đông dương. Từ sau 1930 là lịch sử hiện đại.
Những cái mốc để phân biệt lịch sử vừa nói cũng là mốc thường dùng để phân
chia văn học, và trong nhiều trường hợp trở thành quy phạm có tính chất nhà nước.
Viện Văn học chia ra các Ban cổ – cận, Ban hiện đại theo tiêu chuẩn này.
Thế nhưng cũng có những cách hiểu khác, tồn tại từ rất sớm.
Trong bài viết “Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn học Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX cho tới 1945”, Vương Trí Nhàn đã dẫn ra một số nhà văn tiêu
biểu có sử dụng khái niệm hiện đại như sau:
“Khi Vũ Ngọc Phan viết “Nhà văn hiện đại” (1941) ông kể gộp vào sách những
nhà văn mà sự nghiệp nổi lên từ đầu thế kỷ XX.
Sau đó mấy năm, trong bài viết nhan đề “Sự tiến triển của văn học Việt Nam
hiện đại”, ông vẫn giữ nguyên cách hiểu như vậy.
Một tác giả khác, Đào Duy Anh, trong “Việt Nam văn hoá sử cương” cũng coi
văn học hiện đại là phần văn học dùng chữ quốc ngữ mà đến thế kỷ XX mới trở nên
phổ biến và phát triển mạnh. Hoặc khi làm Biểu liệt kê tác giả tác phẩm cho cuốn
“Việt Nam văn học sử yếu”, Dương Quảng Hàm đã chia văn học Việt Nam theo các
thế kỷ và kết thúc bằng mục Hiện đại (thế kỷ XX).
Ở đây, cũng nên lưu ý có những người không dùng tới mấy khái niệm như hiện
đại, thế kỷ XX, song trong các bài viết của mình, vẫn làm toát ra một quan niệm như
vậy. Đó là trường hợp của Lê Thanh hoặc Mộc Khuê, trong các tác phẩm đã in hoặc
các bài đăng báo.
Một thời gian dài, ở ta quan niệm “văn học hiện đại, tức là văn học thế kỷ XX”
này bị coi là sơ lược, không có triển vọng. Mãi tới gần đây, nhiều người mới quay lại
với cách phân chia ấy chẳng hạn đó là trường hợp bộ “Văn học Việt Nam giai đoạn
giao thời 1900-1930” của Trần Đình Hượu và Lê Chí Dũng (bản in lần đầu 1988),
hoặc công trình nghiên cứu “Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900-1945” của
nhóm Mã Giang Lân (in ra năm 2000). Cách phân chia này, cũng đã được áp dụng với
bộ sách giáo khoa văn học dùng cho các trường Phổ thông trung học in ra năm 2000
(mới được chỉnh lý).”[29, 4 - 5]
Theo ý chúng tôi trong nghiên cứu văn học đây là cách hiểu nên được thống
nhất sử dụng. Nó hợp lý bởi lẽ nó không đặt văn học trong sự phụ thuộc một cách máy
móc vào các sự kiện lịch sử mà có chú ý tới tính độc lập tương đối của văn học. Nói
cách khác nó xem xét văn học dưới góc độ văn hoá, tức là những yếu tố có tính chất
lặp đi lặp lại trong sáng tác và phổ biến bao gồm môi trường hoạt động, chủ thể, thể
loại…Và bởi lẽ, những đặc điểm của văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đã tồn tại
liên tục, nên hai chữ hiện đại với nội dung xác định của nó đến nay vẫn dùng được.
Đặt bên cạnh hàng chục thế kỉ của văn học trung đại, thì thời gian của văn học hiện đại
chưa phải là dài, những quy luật chủ yếu của nó đang phát huy tác dụng.
I.2.2. Nội dung của hiện đại hoá
Sau khi qui định thời gian tồn tại của văn học hiện đại như trên, điều quan trọng
là cùng nhau xác định nội dung khái niệm hiện đại, và đi liền với nó là quá trình hiện
đại hoá.
Thoạt nghe, ai cũng hiểu ngay rằng hiện đại là lối làm nghệ thuật một cách mới
mẻ, khác hẳn so với lối cũ của ngày hôm qua. Nhưng trong thực tế nghiên cứu, từ này
không có nghĩa chung chung như thế mà có nội dung cụ thể của nó. Chúng tôi không
đủ trình độ để tìm hiểu hai chữ hiện đại dưới góc độ từ nguyên học, nhất là xác định
được khởi điểm mà từ này lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, trước khi truyền sang Việt
Nam, song có thể mạnh bạo dự đoán: Hiện đại chỉ được dùng nhiều từ cuối thế kỷ
XIX, nó gắn liền với một giai đoạn bột phát của sự tiếp xúc Đông Tây, khi mà người
châu Á (mà gần với ta nhất là Trung Hoa) bắt đầu có ý thức được rằng dù bản thân
từng có truyền thống văn hoá lâu đời, song hiện đang ở giai đoạn trì trệ, bế tắc, có
nhiều phương diện có thể gọi là cổ hủ lạc hậu. Vậy cái lối làm kinh tế cũng như văn
chương nghệ thuật mới mẻ, đáng gọi là xứng với thời buổi ngày nay (hiện đại) phải là
gắn liền với phương Tây, và trở nên hiện đại (hiện đại hoá) là làm theo mẫu hình
phương Tây. Từ đầu thế kỷ XX, khi đề ra yêu cầu xây dựng nền văn hoá mới, các tác
giả “Văn minh tân học sách” đã nghĩ như vậy. Mà khi làm công việc ghi nhận thành
tựu những năm từ đầu thế kỷ XX trở đi, các tác giả Vũ Ngọc Phan, Đào Duy Anh,
Dương Quảng Hàm... cũng nghĩ như vậy. Nếu xưa kia, cái để ông cha ta đối chiếu là
văn học Trung Hoa, thì ngày nay, cái để con người đầu thế kỷ trông vào học tập là
cách làm văn hoá, cách nghĩ của người phương Tây. Đây đó hai chữ Âu hoá có bị hiểu
sai và việc này đã có người mang ra chế giễu, song nhìn chung nó được dùng rất
nghiêm chỉnh, và giả định một sự học hỏi tích cực với tất cả bản lĩnh dân tộc vững
chãi, chứ không phải là học đòi theo lối nô lệ.
Sau đây là cách hiểu hai chữ hiện đại ở một số nước gần gũi và có hoàn
cảnh tương tự với Việt Nam.
Khi khái quát về tình hình văn học ở Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonêxia,
v.v... các tác giả cuốn “Văn học Đông Nam Á”[29, 6 - 7] nhất trí rằng: “Nếu cuộc tiếp
nhận văn hoá Trung Hoa và Ấn Độ là cuộc hội nhập văn hoá lần thứ nhất, xảy ra trong
khu vực, thì cuộc tiếp xúc với văn hoá phương Tây là cuộc hội nhập văn hoá lần thứ
hai, nó khiến cho văn học hiện đại ở các nước Đông Nam Á mang một màu sắc mới.”
Ngay từ 1945, trong một bài viết mang tên “Trên đường kiến thiết văn hoá mới
ở Trung Quốc – vấn đề dân tộc hoá”[29, 7], nhà nghiên cứu Đặng Thai Mai đã khái
quát “Vấn đề văn hoá ở Trung quốc khoảng 100 năm nay cũng là một vấn đề nhập
cảng: thâu thái những kiến thức về kỹ nghệ, về khoa học để cải tạo nền văn hoá “ngàn
xưa” của nước Tàu”. Ở một chỗ khác (cũng bài báo trên), ông viết “Vấn đề Âu hoá,
hiện đại hoá (modernisation) cũng là một vấn đề lựa chọn. Bất kỳ khoa học xã hội hay
khoa học tự nhiên, bất kỳ về phương diện tri thức hay phương diện kĩ nghệ, văn hoá
mới Trung Quốc sẽ phải góp nhặt trong văn hoá Âu Tây những thành phần tiến bộ cái
tinh hoa có thể áp dụng vào trong tình thế Trung Quốc ngày nay”. Trong cách hiểu của
tác giả, hai quá trình Âu hoá và hiện đại hoá gần như đã được đồng nhất.
Bây giờ, chúng ta hãy cùng trở lại với một số định nghĩa trong các từ điển.
Trong “Tạp chí Văn học” - số 1(2002), đã trích ra một số định nghĩa từ các cuốn từ
điển tiếng Nga và tiếng Pháp. Chúng tôi xin dẫn ra đây để tham khảo:
“Hiện đại hoá” (tiếng Pháp “moderniser”). Thuật ngữ văn hoá học dùng để xác
định quá trình vận động từ xã hội tiền công nghiệp dựa trên truyền thống tới một hệ
thống kinh tế và chính trị, cũng như văn hoá tiêu biểu cho sự phát triển của các nước
tư bản (...) Những yếu tố cơ bản của quá trình này là: khả năng sử dụng những kĩ thuật
hiện đại trong những ngành then chốt của sản xuất được đẩy mạnh; hình thức tiêu thụ
được mở rộng, những điều kiện mới (về xã hội, chính trị, văn hoá) được phát triển; nền
sản xuất mới được hình thành. Quá trình hiện đại hoá bao gồm cả việc nắm vững
những kiểu dạng mới của sinh hoạt tinh thần (kiểu tư duy mới)...
“Hiện đại hoá trong lĩnh vực đời sống văn hoá”: Quá trình vận động phát triển,
từ nền văn hoá tiền công nghiệp tới nền văn hoá đặc trưng cho các nước tư bản phát
triển. Những nhân tố cơ bản của hiện đại hoá bao gồm: đa dạng hoá các hệ thống tinh
thần và sự định hướng giá trị; thế tục hoá và đa cực hoá các ý thức xã hội và giáo dục;
làm cho ngày càng có nhiều người biết chữ; hình thành văn hoá và ngôn ngữ dân tộc,
đa dạng hoá các trào lưu tư tưởng; phát triển phương tiện thông tin đại chúng”.
Đây cũng là quan niệm thấy trình bày trong một số tài liệu tiếng Nga khác,
chẳng hạn cuốn “Văn hoá học xã hội” của B.S. Erasov (1996) hoặc “Đại từ điển
Collins về xã hội học” (1999). Bản Collins nhấn mạnh “có một sự đối lập rõ rệt giữa
xã hội trước và sau hiện đại hoá” “nhân tố quyết định của hiện đại hoá là vượt qua,
thay thế những giá trị truyền thống vốn thù địch với mọi biến động”. Hiện đại hoá như
vậy là “bao trùm lên cả công nghiệp hoá”. [29, 8]
Ở Việt Nam, khái niệm “hiện đại hóa” theo “Từ điển tiếng Việt” – Hoàng Phê
(chủ biên) được hiểu như sau: “Hiện đại hóa: (1) làm cho mang tính chất của thời đại
mới; (2) làm cho trở thành có đầy đủ mọi trang bị, thiết bị của nền công nghiệp hiện
đại.”[45, 565]
ĐẾN ĐÂY, CÓ THỂ TÓM TẮT
Khái niệm văn học hiện đại trong nghiên cứu văn học, theo chúng tôi nên dành
để chỉ văn học Việt Nam thế kỷ XX.
Dù ở đâu, ở thời điểm nào, hiện đại có thể có nghĩa khác, nhưng xét chung
trong vòng hơn một thế kỷ nay, một nền văn học hiện đại là một nền văn học xây dựng
theo mẫu hình phương Tây. Cố nhiên ở mỗi dân tộc, việc này được làm theo một cách
riêng, với sự sáng tạo riêng. Nói như Naguib Mahfouz, nhà văn Ai Cập được giải
Nobel văn chương 1988: “Những trào lưu văn hoá phương Tây đã được chúng tôi tích
nhập vào đất đai phong thổ của chúng tôi vào nền văn hoá của chúng tôi nhuần nhuyễn
đến nỗi không phân biệt được nữa. Sự đồng hoá đạt đến nỗi tưởng như những trào lưu
ấy vẫn có ở nước chúng tôi vậy”.
Để chuyển dịch cả một nền văn học (và rộng hơn cả nền văn hoá) từ mô hình
trung đại sang mô hình hiện đại, cần có cả một quá trình. Đó là quá trình hiện đại hoá
văn học khởi động từ đầu thế kỷ XX, và đến 1945, coi như đã hoàn thành một chặng
cơ bản (Còn như tới những năm tám mươi, chín mươi, một quá trình hiện đại hoá lại
đang xảy ra, thì đó là một việc khác, có sắc thái khác).
Quá trình hiện đại hoá đồng thời cũng là quá trình trong đó các xu thế dân tộc
hoá, và dân chủ hoá đóng vai trò những định hướng liên tục và ổn định. So với văn học
trung đại, nền văn học Việt Nam hiện đại thực sự trở thành một nền văn học dân tộc,
với nghĩa đầy đủ của từ này. Mặt khác cũng chỉ đến giai đoạn hiện đại, tinh thần dân
chủ vốn sẵn có trong văn chương các thế kỷ trước, mới được hoàn thiện. Bề nào mà
xét thì văn học hiện đại cũng là cả một bước tiến lớn lao và chúng ta chỉ hình dung ra
một cách đầy đủ trong sự so sánh với quá khứ.
II. Ý nghĩa hiện đại hóa của “Hai giọt lệ”
II.1. Về phương diện nội dung
Xuất hiện trên thi đàn vào đầu thế kỉ XX, “Hai giọt lệ” đã mở đường và dẫn lối
cho bầu không khí sầu thảm đi vào văn chương đương thời. “Giọt lệ thu” của Tương
Phố và “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ chính là nỗi lòng chân tình và bi thiết của
cái tôi cá nhân.
Như đã nói ở trên, đầu thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có nhiều biến động kéo theo
sự du nhập của văn hóa phương Tây. Theo đó, hệ tư tưởng và các trào lưu nghệ thuật –
văn hóa cũng có những đổi mới trước sự biến đổi của thời cuộc. Trong dòng văn học
công khai, trào lưu lãng mạn ra đời giữa không khí bi quan, dao động của thế hệ
đương thời. Có thể nói rằng con đường văn chương lúc bấy giờ đối với một số tiểu tư
sản trí thức là một lối thoát li trong sạch, là một nơi có thể gửi gắm nỗi niềm tâm sự.
Theo họ, làm văn chương có lẽ cũng là một cách để thể hiện lòng yêu nước. Trường
Chinh đã nhận định trong “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam” rằng: “Các tầng lớp
tư sản dân tộc và tiểu tư sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ nghĩa lãng mạn một
tiếng thở dài chống chế độ thuộc địa”.
“Tiếng thở dài” đó trong thơ Đông Hồ và Tương Phố chính là tiếng khóc
chồng, khóc vợ của “cái tôi” ảo não nhuốm màu cá nhân. Sở dĩ nhấn mạnh “cái tôi” cá
nhân ở đây là vì trước đó – thời trung đại – khái niệm “cái tôi” vẫn còn là cái gì xa xôi
và cấm kị. Văn học lãng mạn hiện đại, ngay từ giai đoạn đầu này (đầu thế kỷ XX) đã
xuất hiện gắn liền với “cái tôi” cá nhân. Trước kia, trong văn học trung đại chủ yếu chỉ
có “cái ta”, bây giờ mới có “cái tôi” (thuộc loại hình cái tôi cá nhân tư sản). Sự xuất
hiện “cái tôi” là trên cơ sở hình thành hệ tư tưởng tư sản và tư tưởng cá nhân từ
phương Tây ảnh hưởng vào văn hóa Việt Nam. Thuở trước, trong xã hội phong kiến
Việt Nam và trong văn học chính thống của nó, “cái tôi” cá nhân hầu như không có địa
vị trong đời sống và trong văn học. Cá nhân không được thừa nhận, như một thực thể
và nhất là như một giá trị, nó phải bị được hòa tan trong cái chung cộng đồng. Người
ta sống theo họ theo làng, với những thúc ước lễ giáo và phận vị, phải tuân thủ những
qui phạm chặt chẽ như “tam cương ngũ thường”, “tam tòng tứ đức” hay “văn dĩ tải
đạo” (của Nho giáo)… Về vấn đề này, “phi ngã” hay “hữu ngã”, đã không ít nhà
nghiên cứu bàn cãi khi luận đến đặc trưng văn học thời trung đại. Các nhà thơ, nhà văn
như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát... cũng ít nhiều nói
đến “cái tôi” nhưng đều không được giai cấp phong kiến đề cao, thậm chí còn bị dị
nghị và trừng trị nghiêm khắc. Vòng kiềm tỏa ấy cứ thế bó buộc con người trong
những lối sống và tư duy sáo mòn, khuôn khổ và qui tắc cho đến đầu thế kỉ XX. Khi
văn học được cựa mình sau giấc ngủ dài thì cũng là lúc thơ ca Việt Nam bước vào giai
đoạn mới, mở đầu cho thời kỳ.
Sự xuất hiện của cái tôi trữ tình kiểu mới, dù như một hiện tượng trong bước
ngoặt của lịch sử thơ ca, cũng không phải vô cơn cớ. Nó có mối quan hệ vừa kế thừa,
vừa phủ định cái tôi trữ tình giai đoạn trước đó. Trong “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng
lệ ký”, cái tôi cá nhân hay con người cá thể được bộc lộ trực tiếp dưới dạng nhật kí
riêng tư. Có thể thấy đó là sự “can đảm” bứt phá, bộc lộ khát vọng chia sẻ, giãi bày
như một nhu cầu bức thiết. Sự thể hiện đó dường như vượt lên trên dư luận, bất chấp
khuôn phép đương thời.
Chính vì thế mà Tương Phố làm thơ không phải để thành thi sĩ, cũng không
phải vì nghiệp mưu sinh. Bà làm thơ cốt để giãi bày tâm sự đau thương, để vơi bớt nỗi
nhớ thương gửi gắm trong từng câu chữ. Cả khúc văn là một dòng lệ chảy triền miên
không dứt. Mạch tình cảm đau thương ấy luôn được lặp lại qua những hình ảnh trùng
lặp, từ ngữ sáo mòn nhưng nhịp văn biền ngẫu du dương vẫn giữ được sắc thái biểu
cảm, gợi niềm thông cảm và chia sẻ của người đọc. Chẳng hạn như: “Ngày vui xưa đã
không trở lại, phong vũ đoạn trường lại cứ năm năm mưa gió cùng về với thu, khiến
cho em mỗi trận gió vàng lại một phen vật vã. Ôi! Thu xưa lệ rỏ, thu này châu sa, mỗi
độ thu về mất bao nhiêu nước mắt! Nhưng sao em khóc đã nhiều mà giọt lệ bên lòng
vẫn không vơi được, cái tâm sự đắng cay lại cứ càng ngày càng thêm cay đắng”.[48]
Tương Phố đã khóc với “Giọt lệ thu”:
“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng”.
thì Đông Hồ cũng thông qua “Linh Phượng lệ ký” mà giãi bày nỗi lòng của mình. Ta
bắt gặp hình ảnh một người chồng lo lắng, đau đớn trước bệnh tình của vợ từng ngày –
từng ngày một cho đến khi vợ mình lìa bỏ cõi trần. Xen trong tiếng khóc người chết
tuy ai oán kéo dài qua mười ba trang văn chương lâm li là những đoạn thơ khóc vợ
hiền quá cố, thơ phúng vợ bạn, câu đối thờ, câu đối viếng và nổi bật hơn cả là bài thơ
sau:
“Chăn gối cùng nhau những ấm êm,
Bỗng làm ngọc nát, bỗng châu chìm.
Đầm đìa mực lệ tờ hoa chép;
Lạnh lẽo đêm xuân giấc mộng tìm.
Xiêm áo mơ màng khi thức ngủ;
Tiếng hơi quanh quẩn chốn sau thềm.
Bảy năm vui khổ, nghìn năm biệt,
Sớm gió chiều mưa lắm nỗi niềm”.
Vũ Ngọc Phan đã nhận xét về bài thơ này rằng: “Toàn bài, câu nào cũng được;
nhân mấy chữ “bỗng châu chìm”, ở câu hai mà hạ được câu bốn hay tuyệt “Lạnh lẽo
đêm xuân giấc mộng tìm... ”; âm điệu trầm, gây nên cảm tưởng thật buồn. Hai câu kết
đủ tả hết những ngày sum họp ngắn ngủi, nỗi phân li không hạn của đôi vợ chồng và
những mối ưu sầu của người cô độc. Nhưng có biết rõ cảnh “cô độc” ấy, mới biết câu
thơ là hay”. [30, 126] Điều đó chứng tỏ nhà nghiên cứu khá tâm đắc với những vần thơ
khóc vợ rất thật của Đông Hồ.
Vì khát vọng thổ lộ, chia sẻ nên những gì mà Tương Phố, Đông Hồ thể hiện
trong bài đều rất chân tình, tha thiết, xuất phát từ tận đáy lòng. Đó chính là điều làm
nên cái tôi cá biệt của hai tác giả. Vì có thật nên cái tôi đó trở thành cái tôi cá nhân
không lẫn vào đâu, không bị nhạt nhòa giữa bao nhiêu thi sĩ văn nhân khác. Theo đó,
phẩm chất khái quát hóa nghệ thuật cũng bị hạn chế, không trở thành những khuôn
thước vui – buồn chung như thời trung đại.
Tình yêu chân thật của Tương Phố thông qua giọng thơ nghe não ruột là tiếng
nấc nghẹn ngào, là những giọt lệ đầy vơi của người vợ khóc chồng, là tiếng đau
thương của kẻ ở người đi, là tiếng nói của tâm hồn đau khổ vì tình yêu tan vỡ, tiếng
than ai oán của người góa phụ khi phải vĩnh viễn lìa xa chồng. Vì lẽ đó mà thơ Tương
Phố đã đi vào lòng công chúng đương thời với nỗi sầu thương diệu vợi. Người ta thích
đọc thơ bà để hiểu thế nào là sự tột cùng của đau thương, thế nào là niềm xót xa của
cõi lòng đang thổn thức. Sự chân thật ấy được thể hiện qua hầu hết các tác phẩm của
Tương Phố. Hầu như các sáng tác của bà chỉ nói đến tâm sự bản thân, và chính mình là
vai chính trong câu chuyện.
“Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ cũng là một thiên nhật kí của tác giả về cái
chết đau đớn của vợ. Đau đớn vì cuộc từ biệt của người vợ hiền đương tuổi thanh
xuân, Đông Hồ đã đem nỗi thống khổ ấy mà viết nên bài “lệ kí”. Bên cạnh những chi
tiết tưởng tượng và hồn thơ sầu cảm, để lại ấn tượng rõ nhất cho người đọc là cái “có
thực” của câu chuyện là và tác giả thực sự khóc một cái chết đau đớn. Vốn là một thi
sĩ giàu tình cảm nên Đông Hồ đã tạo ra một “Linh Phượng lệ ký” đẽo gọt, lời nhiều
hơn ý, lời tràn lan, ý quanh co. Nhưng sự đau xót chân thành, lời kể lể thê thiết, đã
mang lại cho thiên nhật kí nét riêng không kém phần sâu sắc và đặc sắc.
Nhật kí cá nhân là ghi lại sự việc và tâm sự riêng tư sâu kín có thực hằng ngày
của cá nhân đó. “Hai giọt lệ” cũng có thể được coi như những cuốn nhật kí thể hiện
nỗi lòng bi thiết của cái tôi cá thể tạo nên nét riêng biệt, độc đáo trên thi đàn văn học
lúc bấy giờ.
Trong thuở giao thời ấy, “cái tôi” cá thể đang chập chững những bước đi đầu
tiên nên không tránh khỏi ấu trĩ, nông cạn. Cả hai tác phẩm đều là những lời than
khóc, đều mang bản sắc của tác giả nhưng vẫn còn “thật thà” và khá sơ khai. Cách thể
hiện nội dung đã có bước tiến so với thơ ca trung đại nhưng cũng còn thô mộc và chưa
thể nhuần nhụy sắc sảo bằng các tác phẩm Thơ mới sau này. Đó cũng là điều dễ hiểu
và hợp với qui luật vận động nội tại. Đó là hai trong số những nốt dạo, còn phải so dây
nắn phím, để cùng với Tản Đà tấu mở “khúc dạo đầu” giao thoa cũ – mới, trước khi
chuyển hẳn vào “cuộc hòa nhạc tân kỳ” Thơ mới (Hoài Thanh, Cung chiêu anh hồn
Tản Đà). Thất bại (và thành công) của người bước trước sẽ cấp kinh nghiệm để kẻ đi
sau hoàn thiện mình hơn. Thơ Đông Hồ và Tương Phố là bước khởi đầu cho lối thơ thê
lương ảo não của văn học lãng mạn sau này. “Hai giọt lệ” chính là ngọn gió đầu mùa
báo hiệu và mở đường cho cái tôi cá nhân ngay sau đó, từng bước trưởng thành và làm
nên cuộc cách mạng thi ca nổi tiếng vào những năm 32-45 của thế kỉ trước.
Nói đến cái tôi cá thể, một vấn đề đặt ra là liệu cái tôi cá thể ấy đã từng xuất
hiện hay chưa trong văn học trung đại Việt Nam? Cái Tôi (“ngã”) của văn học thời
hiện đại đã từng được khơi mào và hiện diện trong văn học trước đó hay không?... Đó
cũng là điều được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu.
Điểm lại những tác giả tiêu biểu nhất của văn học trung đại từ thế kỉ XV đến
cuối thế kỉ XIX, ta thấy rằng dù ở thời đại nào thì mỗi dòng mỗi chữ được sáng tạo ra
cũng là kết quả của sự chiêm nghiệm và được chọn lựa, sàng lọc thông qua lăng kính
chủ quan của mỗi tác giả. Do đó, dù đậm nhạt khác nhau thì tác phẩm bao giờ cũng
mang ít nhiều dấu ấn cá nhân, những cá tính sáng tạo riêng biệt – nhất là ở những
phong cách lớn, những nhà văn lớn.
Trong thơ Nôm Nguyễn Trãi, con người cá nhân của ông được thể hiện nổi bật
ở sự lựa chọn day dứt giữa lập thân, dưỡng thân và bảo thân của bản thân nhà thơ. Dù
số phận oan nghiệt có cướp đi sự sống của ông thì sự lựa chọn chưa bao giờ thôi xuất
hiện trong con người ông. Nguyễn Trãi là một nhà nho đích thực qua rất nhiều câu thơ
như:
“Lúc nhỏ rừng nho nức hương thơm
Lòng hãy cho bền đạo Khổng môn”.
(Tự thán – XLI)
Ông ao ước sống an nhàn trong một thế giới vô kỉ, vô công, vô danh... :
“Am trúc hiên mai ngày tháng qua
Thị phi nào đến cõi yên hà?”
(Ngôn chí – III)
Trong con người Nguyễn Trãi luôn thường trực mâu thuẫn lớn giữa xuất và xử,
giữa lánh trần hay nhập thế. Một mặt ông muốn “cởi tục, tìm thanh” nhưng mặt khác
vẫn còn nặng nợ với đời: “Bui có một niềm chăng nỡ trễ - Đạo làm con với đạo làm
tôi”. Đối với ông, việc lựa chọn này luôn là vấn đề day dứt, đau đớn. Dù biết rằng thế
thái nhân tình luôn đầy rẫy những hiểm nguy:
“Hai chữ công danh chẳng dám cóc
Một trường ân oán những hăm he”.
(Trần tình – VIII)
Hay:
“Ngoài chưng mọi chốn đều thông hết
Bui một lòng người cực hiểm thay”.
(Mạn thuật – IV)
Nhưng không vì thế mà ông muốn từ bỏ hoàn toàn. Nguyễn Trãi vẫn mong
được mang sức tàn giúp việc đời:
“Những vì chúa thánh âu đời trị
Há kể thân nhàn, tiếc tuổi tàn!”
(Tự thán – II)
Như vậy, đây không chỉ là mâu thuẫn đơn thuần giữa tư tưởng Nho giáo với tư
tưởng Phật – Lão, hay lựa chọn xuất xứ nói chung, mà chính là biểu hiện của ý thức về
số phận cá nhân, về bản lĩnh con người, của ý thức muốn cống hiến cho xã hội bất
chấp nguy hiểm.
Mặt khác, ý thức cá nhân của Nguyễn Trãi cũng biểu hiện thành ý thức tự
khẳng định, chống hòa đồng với thói phàm và đứng ngoài thói tục. Ý thức này quyện
chặt với ý thức nghĩa vụ, sứ mệnh, quyện chặt với quan niệm con người rất sâu sắc của
Nguyễn Trãi. Ông quan niệm là con người phải “hữu tài thời hữu dụng”, mà vô dụng
là vô nghĩa. Chữ “nhàn” có thể đưa ông về với thiên nhiên, hòa đồng với cây cỏ nhưng
lại đặt ông vào thế vô dụng. Mong muốn được làm việc phục vụ triều đình và xã tắc
mới là lý tưởng lớn của cá nhân ông. Và vòng luẩn quẩn ấy cứ thế quấn lấy ông, khiến
ông ray rứt, khổ sở, ưu tư.
Tóm lại, ở thơ Nôm Nguyễn Trãi, ta gặp một con người có ý thức cao với đức
tài, có lí tưởng đại dụng, khôn khéo, sâu sắc, tự tin, dũng cảm tự khẳng định mình,
chọi lại thói phàm tục của người đời, không trùng lặp hoàn toàn với khuôn mẫu nào
hết. Đó chính là một nhân cách lớn rất phong phú, nhân cách Nguyễn Trãi. Ý thức cá
nhân là ý thức tự khẳng định sự tồn tại, giá trị riêng của chính mình, gắn liền với ý
nghĩa nhân sinh của con người. Trong thời Lê sơ, Nguyễn Trãi khẳng định con người
cá nhân của mình bằng cách đối lập “ta” với “chúng ngươi”, “ta” với “miệng thế”,
“lòng người”, “ta” với “bụt, tiên”.
Đến thế kỉ XVI, xã hội phong kiến bước vào thời kì suy tàn. Xã hội rối ren,
lòng người li tán. Vì lẽ đó, con người cá nhân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm tự khẳng
định mình bằng hình thức đối lập, khép kín, không giao tiếp với tư thế cô độc một cách
cao quý, thanh sạch:
“Dửng dưng mọi sự gác bên ngoài
Dầu được, dầu thua, ai mặc ai”.
Đồng thời với sự khép kín, không giao tiếp là việc tự nhận mình ngu, dại, hèn,
kém một cách cao ngạo:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”.
(Nhàn)
Nhà thơ hầu như không tin vào việc người đời hiểu được lòng tri kỉ:
“Có ai biết được lòng tri kỉ
Vòi vọi non cao, nguyệt một vừng”.
(Lòng thư thái – Bạch Vân quốc ngữ thi tập)
Có thể thấy rằng trọng tâm ý thức cá nhân là giữ mình cho an toàn, thanh thản,
yên phận. Tình cảm cá nhân hầu như không được biểu hiện ngoài cảm xúc về sự ưu
việt trí tuệ biết nhìn xa của mình. So với con người cá nhân trong thơ Nguyễn Trãi, ta
thấy con người cá nhân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn thanh cao nhưng khép kín
hơn, quyết liệt, tuyệt giao hơn. Sự ngập ngừng, trăn trở của Nguyễn Trãi đã hoàn toàn
biến mất. Ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy được sự dứt khoát vứt bỏ, không vương vấn
sự đời để sống ẩn dật, khép kín.
Nói chung, sự xác lập địa vị chủ đạo của Nho giáo đã tạo nên bước ngoặt cho ý
thức cá nhân biểu hiện ở tính tích cực lựa chọn xuất – xử, niềm kiêu hãnh từ bỏ phàm
tục, đối lập với kẻ khác, gắn mình với thanh cao. Ở điểm này, ý thức tự do nội tâm gắn
liền với tư tưởng Phật, Lão – Trang nhưng nhìn chung vẫn là ý thức cá nhân trong tinh
thần siêu nghiệm.
Đến thế kỉ XVII, quá trình xây dựng nền độc lập dân tộc tất yếu đòi hỏi mẫu
người lí tưởng biết yêu nước thương dân, hi sinh cá nhân vì phúc lợi dân tộc. Đó là con
người công đức được thể hiện tập trung trong “Việt điện u linh”. Đó là sự thần hóa các
giá trị người “ích quốc lợi dân”, con người cá nhân chưa trở thành mối quan tâm của
tác giả. Bài tựa “Việt điện u linh” của Lí Tế Xuyên (thế kỉ XIV) [45, 160] khẳng định:
“Thông minh chính trực mới đủ để gọi là Thần”, và đối lập với thần là “dâm thần, tà
quái, yêu ma, vọng quỷ”. Trong “Truyền kì mạn lục” (thế kỉ XVI) có thể coi là tác
phẩm đồng thời với “Việt điện u linh”, Nguyễn Dữ (thế kỉ XVI) đã vạch mặt các dâm
thần, tạp quỷ như “Truyện đối tụng ở Long cung”, “Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên”, “Truyện cái chùa hoang ở Đông Trào”... Có lẽ cả “Việt điện u linh” lẫn
“Truyền kì mạn lục” đều phát huy tác dụng “dị khúc đồng công” trong việc xác lập
thần phả chính thống, phá bỏ tệ loạn thần, loạn miếu đương thời, do tâm lí mê tín dị
đoan gây ra. Một đằng lập, một đằng phá, cả hai đều góp phần vào việc dựng xây
truyền thống dân tộc.
Như vậy, truyền kì, chí quái mở ra thế giới tâm linh, siêu thực, cho phép con
người cá nhân có dịp biểu hiện nhiều mặt hơn.
Nếu nói con người trong thơ thiền Lí – Trần, thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, bên cạnh lí tưởng cao thượng là lí tưởng thoát tục, diệt dục, thuần khiết trong
sáng, thì với “Truyền kì mạn lục” ta đã gặp một thế giới những con người sống trong
bể dục, tình dục. “Dục”, nhất là tình dục, vật dục được xuất hiện như một phạm trù của
con người cá nhân, nhưng được hiểu như những biểu hiện phản diện. Con người cá
nhân xuất hiện dưới những phẩm chất phản diện, dưới hình thức của cái ác, cái xấu
như Trọng Quỳ, Trung Ngô (Nhị Khanh), các hạng vua quan tham ác trong “Người
tiều phu núi Na”...
Nhưng mặt khác, cái “dục” của cá nhân tự do trong tình yêu nam nữ, tuy không
được thừa nhận trong lời bình, nhưng lại được miêu tả như những cuộc tình kì ngộ
lãng mạn đáng nhớ. Chẳng hạn như cuộc gặp của Trung Ngộ với hồn ma Nhị Khanh
cô quạnh đầy ân ái, xướng họa với lí tưởng hành lạc; cuộc kì ngộ ái ân xướng họa của
Hà Nhân ở trại Tây, rồi kì ngộ Hàn Than và Vô Kỷ, Nhuận Chi và Túy Tiêu... Điều
đặc biệt là tình yêu cá nhân tự do không gắn với giá thú, nghĩa vụ, được khẳng định
trong văn học dưới hình thái tội lỗi, cấm kị, một thứ tội lỗi chỉ có ở loài yêu quái
nhưng lại đáng yêu, khiến ta thích thú như ăn một thứ trái cấm ở đời. Với con người cá
nhân lúc này, người ta có thể lấy tình mà thương, mà tha, chứ chưa có lí để khẳng
định, bảo vệ.
Tóm lại, trong văn học giai đoạn thế kỉ XV đến thế kỉ XVII, con người cá nhân
xuất hiện dưới hai hình thái chính: hoặc là lìa bỏ công danh, lìa bỏ thị phi, khen chê,
“độc thiện kì thân”, đối lập với kẻ khác phàm tục; hoặc là đam mê vật dục, sắc dục
như một tội lỗi, trái với đạo lí nhưng đã không còn mặc cảm tội lỗi, trái lại đã biểu
hiện được cảm giác đam mê, đẹp, lãng mạn.
Khác với cá nhân tinh thần cao ngạo thể hiện trong thơ văn thế kỉ XVI với
Nguyễn Bỉnh Khiêm, những con người có thể trốn đời, ẩn dật ở ngoại thế, ngoại vật,
con người thế kỉ XVII không thể đứng ngoài chiến tranh. Thời kì này, nội chiến diễn
ra liên miên và dai dẳng. Từ 1627 đến 1672, chúa Trịnh tổ chức bảy cuộc chinh phạt
chúa Nguyễn. Thêm vào đó, các cuộc khởi nghĩa nông dân cũng nổ ra khắp nơi.
Khác với cá nhân tinh thần trong văn học mấy thế kỉ trước không biết đến chữ
“thân”, nên không ý thức được rõ rệt ý nghĩa của tuổi trẻ, lúc nào họ cũng nhìn đời
như nhau, con người trong văn học thời này bắt đầu tự ý thức chữ “thân”: ý thức về
tuổi trẻ, về quyền được sống cuộc sống vật chất, nhục thể.
“Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn (bản Hán văn) và bản dịch Nôm
hiện hành tập trung biểu hiện khát vọng được hưởng hạnh phúc tuổi trẻ, cái phần vật
chất nhất của con người. Lí tưởng võ công, lí tưởng hiếu nghĩa vẫn còn được nhắc đến
nhưng không còn là niềm rung cảm. Người chinh phụ nhân danh “khách má hồng”
chịu nỗi “truân chuyên” mà lên án “xanh kia”, không chấp nhận sự hi sinh vô nghĩa
kiếp người cho chiến tranh phi nghĩa (hay ít ra, cuộc chiến tranh không rõ ràng về
nghĩa lý):
“Trong cánh cửa đã đành phận thiếp
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay?”
Người chinh phụ không còn ảo tưởng vào chữ tình muôn kiếp siêu hình:
“Đành muôn kiếp chữ tình là vậy
Theo kiếp này hơn thấy kiếp sau”.
Trước đây, theo tư tưởng Nho giáo, con người không có gì là riêng của mình,
tất cả đều do cha mẹ hay vua ban. Giờ đây, người ta đã ý thức được rằng, con người
mình là của riêng mình, mình phải biết giữ gìn thì mới tồn tại được. Đó có thể coi như
một phát hiện lại về con người. Ý thức cá nhân làm con người không tin vào cái vĩnh
cửu, họ chỉ tin vào “lúc này”, “kiếp này”, “thân này”. Đó là một bước ngoặt trong
quan niệm về con người trong văn học Việt Nam.
Từ con người cá nhân với niềm lo sợ tuổi trẻ chóng tàn trong “Chinh phụ
ngâm” đến “Cung oán ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều, giá trị của cá nhân con
người đã bị thực tế (số phận) làm cho trở nên hư ảo, vô nghĩa.
Tác phẩm là tiếng than thê thiết, đau đớn cho tính chất hư ảo, biến hóa của giá
trị con người. Tính chất biến ảo vô thường của con người và thế giới đã được biết đến
từ lâu. Nếu là một nhà thiền học thì sẽ khuyên ta biết phá “vật – ngã lưỡng chấp”, rũ
bỏ vọng niệm để được giải thoát và thanh thản tâm hồn. Nhưng con người trần thế đã ý
thức được mình là thực tại, vì thế biến ảo mới đau lòng.
Người cung nữ là biểu trưng cho giá trị tài – sắc, có quyền được hưởng mọi
điều kiện hạnh phúc, sung sướng. Giá trị ấy được cực tả là cao nhất, gây ấn tượng
nhất:
“Nụ hoa chưa mỉm miệng cười,
Gấm nàng Ban đã lạt mùi thu dung”.
“Bóng gương lấp ló trong mành
Cỏ cây cũng muốn nổi tình mây mưa”.
Thế nhưng, cả khúc ngâm là nỗi oán hận về nỗi cá nhân không có một chút
quyền nào:
“Quyền họa phúc trời tranh mất cả
Chút tiện nghi chẳng trả phần ai
Cái quay búng sẵn trên trời
Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”.
“Cung oán ngâm khúc” đã có những đoạn cực tả tình dục rất khêu gợi như:
“Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ my trập trùng.
Chồi thược dược mơ màng thụy vũ,
Đóa hải đường thức ngủ xuân tiêu.
Cành xuân hoa chúm chím chào,
Gió đông thôi đã cợt đào ghẹo mai.
Xiêm nghê nọ tả tơi trước gió,
Áo vũ kia lấp ló trong trăng.
Sênh ca mấy khúc vang lừng,
Cái thân Tây Tử lên chừng điện Tô”.
Ở đây, Nguyễn Gia Thiều đã miêu tả cảnh tình dục nhưng không như một tội
lỗi kiểu “Truyền kì mạn lục” mà như một niềm kiêu hãnh, sung sướng. Con người cá
nhân thêm một lần xuất hiện, lại như được phát hiện lại, đi ngược giáo lí.
Có thể nói thế kỉ XVIII đã xảy ra một bước ngoặt lớn trong quan niệm con
người cá nhân, làm nở rộ một dòng văn học nhân đạo, khác với văn học mà nhân nghĩa
làm chủ đạo trước đó. Bước ngoặt làm thay đổi giá trị con người ấy thể hiện như sau:
Trước thế kỉ XVIII, cá nhân chỉ được đánh giá trong thang bậc đạo lí, nghĩa lí, lí trí và
ở sức mạnh tinh thần, con người càng có nghị lực vươn lên bao nhiêu, càng khắc phục
cá nhân nhỏ bé, phàm tục thì càng có giá trị. Bởi vì nghĩa lí, đạo lí, giáo lí là cái thiện,
còn mọi thứ dục, lục dục, nhân dục, nhất là tình dục đều là cái xấu. Bây giờ tình hình
lật ngược lại. Quyền sống của con người trần thế, giá trị con người thân xác với bao
thứ “dục” chính đáng của nó là trung tâm điểm của giá trị. Bất kì cái gì chà đạp giá trị
ấy, quyền sống ấy thì đều là cái ác, cái xấu, cái đáng oán hận.
Thế kỉ XVIII đến thế kỉ XIX, một biểu hiện hiếm có, độc đáo của con người cá
nhân trong văn học Việt Nam thời kì này là thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Ý thức về nhu
cầu bản năng là biểu hiện của ý thức cá nhân. Phân tâm học cho biết có một vô thức cá
nhân sâu xa bao gồm tất cả những thúc đẩy của bản năng, mà những thiết chế xã hội
và văn hóa đã chôn vùi, “bịt miệng”, nhưng không hủy diệt được.
Ở Việt Nam, chịu ảnh hưởng của Nho giáo, tư tưởng “nam nữ hữu biệt”, “nam
nữ thụ thụ bất thân”, để lộ thân thể bị xem là ô nhục. Tư tưởng cấm dục của Tống Nho
càng khắc nghiệt và giả dối. Cuộc sống trụy lạc trong cung đình, tướng phủ thời ấy đã
quá tai tiếng, tương phản gay gắt với đạo đức phong kiến. Tuy vậy, số phận đặc biệt
với nhiều thiệt thòi trong cuộc đời tình duyên đã để lại dấu ấn thiếu thốn, không thỏa
mãn sâu đậm trong tâm linh của Hồ Xuân Hương. Nhưng cái chính ở chỗ bà là một cá
tính mạnh mẽ, ngang tàng, dám nói cái cấm kị mà đời ít người dám nói trong thơ. Vì
vậy thơ bà thể hiện chân thực tình cảm của bà:
“Lưng khoang tình nghĩa dường lai láng
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh”.
(Tự tình III)
“Năm thì mười họa chăng hay chớ
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn không công!”
(Làm lẽ)
Một cuộc đời mà tất cả đều nửa vời, đứt đoạn, dang dở, thiếu thốn, ý thức ấy
thể hiện sự bất mãn dai dẳng, sâu sắc, liên tục trong cuộc sống ái ân. Thực tế thì như
vậy, mà đạo đức xã hội lại cấm đoán, kiêng khem một cách giả dối đã gợi dậy ở bà
thái độ chống đối, xé toang mọi che đậy.
Cái cá nhân không thỏa mãn bị dồn nén ấy trở thành ám ảnh làm cho thơ bà có
cái nhìn ngộ nghĩnh, nhìn cái gì cũng ra cơ thể người phụ nữ và việc sinh hoạt chốn
buồng the. Điều mới mẻ là nhà thơ xem đó như một nhu cầu đương nhiên, công khai,
có tính chất thách thức:
“Quản bao miệng thế lời chênh lệch
Không có, nhưng mà có, mới ngoan”.
(Không chồng mà chửa)
“Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo... ”
(Đèo Ba Dội)
Nhà thơ không xem cái lẳng lơ là lẳng lơ, không xem cái tục là tục, không xem
“dâm” là “dâm”. Tất cả đều hồn nhiên, tự nhiên. Chúng ta không nên nói đến cái gọi là
“dâm” hay “tục” mà nên nói đến những ám ảnh tính dục, nhu cầu giải phóng nhãn
quan tình dục phong kiến cổ hủ như một nhu cầu của con người cá nhân.
Văn học Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, các nhà nghiên cứu đã chỉ
ra sự xuất hiện của con người cá nhân cô đơn, xót mình đầy tâm trạng được thể hiện
trong các tác phẩm chữ Hán và “Truyện Kiều” của Nguyễn Du.
Như đã nói ở trên, từ “Chinh phụ ngâm khúc”, “Cung oán ngâm khúc”, thơ Hồ
Xuân Hương... đã nổi lên con người cá nhân với tình cảm thương thân, xót thân. Có
thể nói trong văn học thời kì này đã khởi đầu một khuynh hướng văn học chữ “Thân”,
chứ không phải văn học chữ “Tài”, mà “Truyện Kiều” là tiêu biểu nhất.
Con người cá nhân xuất hiện bao giờ cũng như là một sự phân hóa khỏi cái
chung, sự hiện diện của những nhu cầu vượt khỏi khuôn khổ chung của xã hội. Trong
văn học trung đại, khi con người là một bộ phận của đẳng cấp, gia tộc, bị đồng nhất
trực tiếp vào cộng đồng, tự cảm thấy các thuộc tính của cộng đồng ấy như là thuộc tính
tự nhiên của chính mình, thì con người chưa thể có ý thức về con người cá nhân.
Người ta bắt đầu cảm thấy được số phận và thực thể cá nhân khi nào bị tách rời ra khỏi
cộng đồng ấy.
“Luân lạc”, “tha hương”, “biếm trích”, “li biệt” với bè bạn thân nhân để lưu lạc
nơi góc bể chân trời, nơi đất khách là những trạng thái khiến con người ý thức được cá
nhân của mình. “Thanh Hiên thi tập” là tập thơ tràn đầy tình cảm tha hương, lưu lạc.
Hàng chục bài thơ với sự trở đi trở lại của chữ “lữ”, “khách” đã thể hiện cái cá nhân
“vô thân” của con người. Ý thức cá nhân càng rõ rệt khi con người rơi vào cô đơn cô
độc, với người tài tử nghệ sĩ thì ấy là khi chưa được người khác nhận biết, chưa tìm
được người tri kỉ.
“Cao sơn lưu thủy vô nhân thức,
Hải giác thiên nhai hà xứ tầm”.
(Non cao nước chảy tri âm ai đó
Góc bể chân trời biết đâu mà tìm.)
(Lưu biệt Nguyễn đại lang)
Cá nhân trước hết được ý thức ở khía cạnh “thiếu cái chung” – thiếu người
đồng cảm, thân thiết:
“Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ”
(Ta có tấc lòng không biết nói với ai)
“Ỷ biến lan can vô dữ ngữ”
(Dựa bên lan can không biết nói với ai)
Thứ đến là ý thức về sự tàn tạ của cơ thể mình – già nua, yếu đuối, bệnh hoạn...
trước sự công phá của thời gian và thế sự. Nguyễn Du nói nhiều đến tóc bạc, thân già,
đa bệnh. Đó cũng chính là bằng chứng của ý thức cá nhân. Nhưng ý thức cá nhân thể
hiện sâu hơn ở chỗ thấy những giá trị mình quý trọng, nâng niu đã trở nên vô dụng, vô
nghĩa:
“Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri”
(Mệnh bằng cái lông mà không biết)
Cũng như những người cùng thời đại, Nguyễn Du tự ý thức về cá nhân qua mấy
ý niệm: vô thân, thân chóng tàn, tài không được chấp nhận. Và để nâng cao giá trị con
người, ông đề xướng chữ tâm: “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Truyện Kiều). Đó
là cái tâm thương thân, liên tài. Nếu như Phật giáo coi “sắc, thân, tâm, chúng sinh” với
“hỉ, nộ, ai, lạc” chỉ là vọng niệm thì Nguyễn Du lại xem đó là cái thật của mỗi người,
là quyền sống của mỗi cá nhân, ai cũng như ai.
“Thịt da ai cũng là người
Lòng nào hồng rụng thắm rời chẳng đau”.
“Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai... ”
(Truyện Kiều)
Như vậy, ông không chỉ thừa nhận cá nhân vật chất mà còn thừa nhận cá nhân
bình đẳng. Bên cạnh đó, bằng sự thể nghiệm cuộc sống cá nhân, Nguyễn Du phát hiện
con người cá nhân rất nhỏ bé. Ông dành chữ “chút” để nói về kiếp người, đời người,
tình người:
“Thưa rằng chút phận ngây thơ”
“Của tin gọi một chút này làm ghi”
Văn học thời trước thường thấy một cái “ta” mạnh mẽ, cương liệt. to lớn. Đó là
vì con người được đồng nhất với Đạo, dựa vào sức mạnh của Đạo. Nguyễn Du nhìn
người như một cá nhân tách khỏi Đạo nên hiểu rõ cái nhỏ bé của nó trước cuộc đời.
Ông đã bắt đầu thừa nhận con người bình thường với các nhược điểm, khuyết điểm có
thể có, thừa nhận con người sống với ý nghĩa riêng của cá nhân. Thông minh cao
thượng như Kiều, vẫn có thể bị vật chất tầm thường cám dỗ “Lễ nhiều nói ngọt nghe
lời dễ xiêu”.
Có thể nói Nguyễn Du đã có ý niệm về tâm lí cá nhân làm nền tảng cho sự miêu
tả nhân vật. Ông không chỉ miêu tả con người lí tưởng, khuôn mẫu, mà còn miêu tả
“con người này”, con người sống trong tình huống cụ thể, cá biệt và ứng xử với tất cả
những gì nó có. Đây là con người cá nhân trong dạng chỉnh thể toàn vẹn, đầy mâu
thuẫn mà người ta không thể nhìn nhận nó theo một quan niệm định sẵn. Chính đặc
điểm này dẫn đến cái nhìn nhiều chiều của nhà văn trong miêu tả nhân vật.
“Truyện Kiều” là đỉnh cao về quan niệm con người cá nhân trong văn học cổ
điển Việt Nam với nhiều bình diện phong phú nhất, phức tạp nhất. So với con người cá
nhân trong giai đoạn văn học trước, với con người trong “Chinh phụ ngâm”, “Cung
oán ngâm”, thơ Hồ Xuân Hương... , có thể nói đây là tập đại thành về con người cá
nhân của thời đại.
Thời kì này, ta cũng không quên nhắc đến con người cá nhân công danh, hưởng
lạc ngoài khuôn khổ trong thơ văn Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát. Dưới những
danh từ truyền thống như “chí, công danh, phận sự”... Nguyễn Công Trứ đã lồng vào
đó những nội dung của ý thức cá nhân, ngược với thánh hiền. Nguyễn Công Trứ đề
cao hai chữ “thích chí”, và chí của ông là chí thi thố tài năng cá nhân: “Làm nên đấng
anh hùng đâu đấy tỏ”; đồng thời ông cũng xem cuộc đời là một cuộc chơi: “Đem ngàn
vàng mua lấy tiếng cười – Phong lưu cho bõ kiếp người”. Có thể nói, dưới hình thức
ngôn ngữ nhà nho, Nguyễn Công Trứ đã diễn đạt một ý thức cá nhân mới – thích chí,
hành lạc...
Công danh là một phạm trù lưỡng tính, vừa mang nội dung quốc gia xã hội, vừa
mang nội dung cá nhân. Nguyễn Công Trứ một mặt ý thức rõ rệt:
“Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Nhưng điều thú vị là ông không chỉ có chí công danh và đặt nó làm đầu như
nhiều bậc nho sĩ đương thời. Ông biết rõ công danh là đường vinh nhục và xem nó là
sự thường: “Cái vinh nhục, nhục vinh đắp đổi”. Và xử thế ở đời như một cuộc chơi.
Do vậy, ngoài công danh, ông chủ trương hưởng lạc. Nếu công danh là cái tự khẳng
định bằng “hướng ngoại” thì hưởng lạc là sự khẳng định bản thể của cá nhân. Để
khẳng định nguyên tắc “quý thích chí” của mình, Nguyễn Công Trứ cũng đứng trên lẽ
được mất, khen chê, đàm luận thị phi:
“Được mất dương dương người tái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong”.
Nhìn chung, với Nguyễn Công Trứ, ý thức cá nhân được khẳng định với ba
phạm trù: công danh, cái nhàn hưởng lạc và cái ta hơn người, cái ta riêng tư, tự hào, tự
cho là đủ, tự trào. Chúng tạo nên cho con người một sự hài hòa, tự tin, phong lưu, tự
do, đứng trên mọi được mất, khen chê. Đó là bước phát triển cao nhất của ý thức cá
nhân mang nội dung phong phú, hài hòa trong văn học Việt Nam.
Cao Bá Quát sinh trưởng vào thời nhà Nguyễn phục hưng Hán học. Ông chủ
yếu sáng tác bằng chữ Hán. Thơ phú Nôm của ông chủ yếu là hát nói. Nhìn chung, thơ
Cao Bá Quát thể hiện một cá nhân mạnh mẽ, ngang tàng, sống ngoài thói tục. Ông tài
cao nhưng chí không ở công danh, dám làm điều cấm kị. Khác với Nguyễn Công Trứ,
ông thấy mình lạc lõng. Ông không thấy “trời đất dọc ngang ngang dọc” mà thấy:
“Bãi cát, bãi cát dài
Một bước lại như lùi
[... ]
Đường phẳng mờ mịt
Đường hiểm vô cùng”.
(Sa hành đoản ca)
Thơ phú Nôm Cao Bá Quát lại thể hiện một mặt khác của con người ông. Tài tử
vừa tự khẳng định mình vừa đề cào mình sánh với các bậc danh nho, danh tướng trong
lịch sử, vừa cảm thấy đời chật chội: “Trần ai không đếch chỗ”...
Trong thơ ca trù, Cao Bá Quát khi thì tỏ chí chán đời, khinh đời, muốn quên hết
mọi thứ nhưng có lúc lại tự an ủi với chữ “mệnh”, chữ “thì” để được thanh thản:
“Ngất ngưởng thay con tạo khéo cơ cầu
Muốn đại thụ hãy ghìm cho lúng túng...
Hẵng bền lòng chớ chút oán vưu
Thời chí hỹ, ngư long biến hóa
Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả
Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chi
Hơn nhau cũng một chữ thì”.
(Hơn nhau một chữ “thì”)
Tóm lại, ý thức cá nhân thể hiện trong một thái độ khinh đời, bất cần đời, dùng
thái độ ấy để tự khẳng định mình đứng ngoài ràng buộc.
Từ Nguyễn Công Trứ trở đi hình thành một dòng thơ ca trù thể hiện lí tưởng
hưởng lạc với các tác giả như Dương Lâm, Dương Khuê, Nguyễn Đức Như, Trần Lê
Kỷ... và một loạt bài khuyết danh khác. Đây là những nhà nho không còn ý thức “hữu
trách” với thiên hạ, không còn tinh thần “ưu hoạn” cho đời, không còn chí với đạo, chỉ
còn biết thỏa mãn với thú vui hình hài, trăng gió.
“Từ lên một đến mười lăm còn trẻ nít
Bốn mươi lăm cút kít đã về già
Tính trong vòng cắn đá với trăng hoa
Già cho lắm ba mươi năm là sắp kiệt
Thế mà còn đi học đi hiệc, đi thi đi thiếc, khi đỗ khi diệc,
làm quan làm kiếc.
Việc đời vấn vít biết bao ngơi
Trời đã sinh ra kiếp làm người
Chả chơi nữa người cười ra chú vích”.
(Chơi cho thích – Trần Lê Kỷ)
Quan niệm phong lưu – âm dương – tính dục đã có từ xưa, nhưng bây giờ trở
thành một hiện tượng công khai trước ý thức xã hội. Sự đề cao một chiều ý thức này
đã làm phai nhạt ý thức xã hội, thậm chí quay lưng với cuộc sống. Đó là một bước lệch
của ý thức cá nhân.
Cuối thế kỉ XIX, trong văn học xuất hiện con người cá nhân trống rỗng, mất ý
nghĩa trong thơ văn Nguyễn Khuyến. Trước khi lui về ở ẩn, từ khi chưa đỗ đạt cho đến
thời làm quan, Nguyễn Khuyến cũng nuôi chí lập công danh như mọi nhà nho. Nhưng
dần dần, cho đến khi lui về ở ẩn, ông đã thay đổi hẳn cái nhìn về con người và cuộc
đời. Ông nhận thấy quan chỉ là đồ vật để trưng bày cho vui mắt:
“Xứ tôi xoàng xĩnh không gì khéo
Tượng gỗ cân đai tạm góp phần”.
(Đấu xảo kí văn)
Nhìn lại mình, con người mờ mịt như không còn bộ mặt:
“Trăm chén hình tặng ảnh,
Nghìn năm ta là ai?”
(Đề ảnh)
Ý thức về sự bất lực, sự vô nghĩa của cá nhân trong thời cuộc cũng là ý thức về
cá nhân. Ý thức cá nhân của Nguyễn Khuyến góp phần đánh dấu sự chấm dứt vai trò
của mô hình nhân cách truyền thống.
Cùng với Nguyễn Khuyến, Tú Xương thuộc vào số nhà thơ lớn cuối thế kỉ XIX.
Sống giữa buổi giao thời đầy nhố nhăng, giá trị đảo lộn, nhà thơ đã đem tiếng cười chế
nhạo mọi hiện tượng chướng tai gai mắt đương thời. Ông xứng đáng được gọi là nhà
thơ trào phúng lớn. Xét về phương diện ý thức cá nhân, tiếng cười Tú Xương có một ý
nghĩa mới: tiếng cười giải thoát.
Đặc điểm tiếng cười của Tú Xương bao gồm: Thứ nhất, không mang tính chất
thuần túy đạo đức, ý thức hệ, mà mang tính chất hài hước, sinh hoạt, cười vui; Thứ
hai, có tính chất phổ biến: vừa cười người, vừa cười mình, không tự đặt mình ra ngoài
đối tượng của tiếng cười; Thứ ba, có tính chất lưỡng tính: vừa phủ định, vừa khẳng
định.
Nhà thơ tự giễu mình và tạo ra tiếng cười lưỡng tính như:
“Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quấy ta
Chừa được cái gì hay cái nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà”.
(Ba cái lăng nhăng)
“Ba cái lăng nhăng”, cái “quấy” xem ra rất có hại, phải phủ định, nhưng quả
thực cũng không dễ phủ định được cái nào.
Nhà thơ mở ra một phạm vi mới trong cuộc sống tự do cá nhân mà chỉ thực sự
đáng chê khi đi quá giới hạn. Con người nhà thơ như sống trên đường biên của khuôn
phép và phi khuôn phép. Ông dùng tiếng cười để níu cái ngoài khuôn phép, để nó
không được đi quá xa. Còn lập trường đạo đức của Tú Xương rất rõ: ông yêu nước,
thương người, ghét vô luân, giả dối, nịnh bợ, nhưng không vì thế mà trói buộc con
người cá nhân vào khuôn thước cũ kĩ. Chính vì vậy mà thơ Tú Xương có một giọng
ngông dám nói toạc những điều mà người đời không dám nói.
Tóm lại, con người cá nhân trong văn học giai đoạn thế kỉ XVIII – XIX trước
hết là con người cá nhân tự nhiên được ý thức qua các nhu cầu sống, hưởng thụ và sự
hữu hạn, bất lực; sau đó là cá nhân xã hội được ý thức qua mọi khác biệt và xung đột
với các thiết chế, chuẩn mực xã hội, giáo lí đạo đức cổ truyền. Cái lí của con người cá
nhân Việt Nam là các quyền tồn tại tự nhiên, bản năng được ý thức sau và đòi hỏi một
không gian xã hội mới. Đó chính là một bản sắc quan trọng của văn học cổ Việt Nam
và cũng là ý nghĩa hiện đại của nó.
Như vậy, xét về lý thuyết, trong văn học trung đại có sự xuất hiện con người cá
nhân. Lẽ đương nhiên, trong bối cảnh văn hóa trung đại vốn nặng nề, khép kín thì khả
năng con người tự ý thức về mình và hướng tới khám phá, thể hiện từng số phận con
người là điều không dễ. Tuy nhiên, trong đó vẫn bộc lộ sâu sắc những sắc thái tình
cảm của con người cá nhân. Bản thân nhà văn có sự phân thân giữa phẩm chất con
người chức năng phận vị với một bên là dấu hiệu của cái tôi cái thể.
Trong thời kì hình thành của nền văn học Việt Nam hiện đại trước năm 1930,
chúng ta thấy xuất hiện những tác phẩm có tính chất lãng mạn như “Khối tình con” của
Tản Đà, “Một tấm lòng” của Đoàn Như Khuê, “Giọt lệ thu” của Tương Phố, “Linh
Phượng lệ ký” của Đông Hồ, “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách...Như đã nói ở trên,
văn học lãng mạn ra đời mang theo một cái “tôi” cá nhân. Con người cá nhân dù đã
xuất hiện ở văn học trung đại qua một số sáng tác của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Công Trứ... nhưng đó chỉ là những điểm nhấn thoáng qua và bị giai cấp phong
kiến đè nén.
Chỉ đến đầu thế kỉ XX thì “cái tôi” cá nhân hiện đại mới thực sự xuất hiện. Đó
là “cái tôi” cá nhân tư sản – một nửa giống cái tôi cá nhân lãng mạn trong văn học
trung đại – tình yêu nam nữ có say mê nhưng e dè ngượng ngập. Tuy nhiên tình yêu đó
đã trở thành lăng kính cho các tác giả nhìn đời và miêu tả cuộc đời. Cũng có khi cái tôi
ấy được bộc lộ qua cái tôi cá biệt, cụ thể của tác giả, qua cái tôi mang đậm chất lãng
mạn của tác giả. Điển hình chính là “Giọt lệ thu” của Tương Phố - bài văn khóc chồng
xen lẫn những đoạn thơ lục bát và song thất lục bát – lấy tiểu sử của bà (nhân danh bà
và chồng bà) mà viết nên. Và “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ cũng là tiếng khóc vợ
viết nên từ chính cuộc đời tác giả.
Cuối những năm hai mươi của thế kỉ XX, khi thơ ca của người chí sĩ quay trở
lại với những vần thơ cảm hoài, ngôn chí thì trên thi đàn công khai đã xuất hiện ngọn
gió thu hiu hắt, gieo vào lòng công chúng thành thị những nỗi buồn thê lương, dai
dẳng. Tiếng khóc của Tương Phố và Đông Hồ vẳng lên trong dàn hợp xướng đủ các
thể loại ấy thật đặc biệt. Mỗi bài thơ trong tập “Giọt lệ thu” là một tiếng khóc thiết tha,
ảo não đi kèm với những đoạn văn xuôi kể lể vắn dài. Cứ như thế tiếng khóc, lời kể lể
tuần tự xuất hiện vói giọng điệu bi thiết xuyên suốt tác phẩm.
Trong khi kể lể, Tương Phố nghĩ đến loài chim còn có đôi có cặp, nghĩ đến
những ngày vợ chồng còn bên nhau mà không khỏi ngậm ngùi:
“Gió mưa chim chẳng lìa đôi,
Giữa đường ân ái não người lẻ duyên
Lai sinh nguyện chắp cánh uyên
Cao bay chẳng để khôn thiêng lọc lừa!”
Và nghĩ đến cảnh mẹ góa con côi, nương tựa cha già:
“Thần hôn đã lỗi đạo thường,
Con côi mẹ góa lại nương cha già
Muối dưa đắp đợi ngày qua,
Phơ phơ tóc bạc cũng sa giọt sầu!”
Từ đầu đến cuối đều là tiếng khóc, “giọt sầu” thi nhau tuôn rơi. Mặc dù “Giọt lệ
thu” có những đoạn văn xuôi kể lể dài dòng, lôi thôi nhưng đó lại chính là điểm đặc
biệt tạo nên âm hưởng thời đại của tác phẩm. Viết về điều này, nhà văn Vũ Ngọc Phan
đã nói rằng: “Thật là lôi thôi, mà có lôi thôi như thế mới đúng với thói thường của
nhân loại đúng như những lời kể lể của người đàn bà trong khi khóc chồng. Cái cảnh
tượng này, nhiều người đã thấy trong những nhà có tang: Người đàn bà bưng mật khóc
nức nở bên quan tài, rồi chốc chốc tiếng khóc im để cho tiếng kể lể dài dòng tiếp theo,
hết lần này đến lần khác”. [30, 141]
Có thể thấy rằng văn của Tương Phố có tính cách “nhân loại”. Bởi lẽ những cái
thường tình, những nỗi chua xót của người đàn bà trong lúc sinh li tử biệt đều được thể
hiện dưới ngòi bút của bà.
Đọc lại những dòng lệ kí của Đông Hồ và đặt nó vào thời đại, ta mới thấy hết ý
nghĩa của nó. Năm 1928 – thời kì lãng mạn cựu nho, thời đại của những tiểu thuyết (và
bản dịch ra chữ quốc ngữ) quốc ngữ đầu tiên như “Tố Tâm”, “Tuyết Hồng lệ sử”. Cái
chết của Linh Phượng được mô tả gợi liên tưởng đến những cái chết bi thảm của các
nữ nhân vật văn học khác trên thế giới đương thời. Tác giả đã “văn chương hóa” cái
tang của mình bằng điệu sầu bi của thời đại. Nhờ điệu chung ấy mà bài văn của ông
được đón nhận như kiệt tác và đi vào lòng công chúng.
Thời đại mà hai tác giả đang sống là thời vẫn còn bị chi phối rất đáng kể bởi
quan niệm: người ta phải thoát ly khỏi thực tại mới làm văn chương. Đông Hồ làm thơ
luật Đường với những hình ảnh cũ kĩ. Nỗi buồn của thời đại đã dẫn người ta tìm đến
thơ ông. Rồi đến Tương Phố, trong thơ bà là “cái buồn thật sự, cái buồn ghi sâu tận
đáy lòng, cái buồn vô cớ, những mối sầu không đâu”. [30, 138]
Trong thơ của Tương Phố, có cái buồn có cớ, cả những cái buồn vô cớ - điều
thường thấy trong cuộc sống thành thị lúc đương thời. Chính bà cũng đã viết rằng:
“Hỏi ta khóc vì đời? Hay đau vì mình ư? Ta cũng không biết được rằng vì đâu mà ta
khóc!!! (“Nỗi thương tâm của người bạn gái” – Tương Phố) [44, 236]
Do đó, tiếng khóc của hai tác giả đã hòa vào cái bản nhạc sầu bi, một thứ “thời
bệnh” bấy giờ và làm say mê bao tâm hồn đồng điệu. Theo điệu chung ấy, Phạm
Quỳnh cũng tán thưởng áng văn. Giới thiệu “Linh Phượng lệ ký”, ông nhắc đến “Giọt
lệ thu” và viết nên “Lời tựa”: “Vẫn biết tình thâm thì giọng thiết, nỗi khổ thì lời oán,
những tấm lòng ngổn ngang cũng phải có lời nói sẵn sàng mới thổ lộ ra được. Văn Tàu
lão luyện đã đành, tiếng ta non nớt mà cũng mang được cái tình cảm nặng nề như thế
âu cũng là cái triệu quốc văn tấn tới vậy”.
Tựu chung lại, chúng ta ghi nhận ý nghĩa hiện đại hóa của “Hai giọt lệ” ở
những điểm mới mẻ mà các thi phẩm này đóng góp. Xuất hiện ở buổi giao thời, về mặt
nội dung, chúng mang đậm tính chất giao thời của giai đoạn, vừa thể hiện tính bi thiết
của cái tôi cá nhân nhưng vẫn tìm được sự đồng điệu của nỗi buồn mang tính thời đại.
Dẫu rằng cái tôi ở buổi sơ khai còn ấu trĩ những điều đó cũng phù hợp với quy luật. Và
dù sao cũng là mới.
Trước tiên là mới ở cảm xúc, ở tư tưởng. Vắng một người thế gian thành hoang
lạnh. Con người cô đơn, mất mát trước sự chia lìa lứa đôi. Nỗi đau ấy không gì có thể
bù đắp được. Ở đây, ta nhận thấy cộng đồng đã trở thành bóng mờ, rất mờ, không còn
sức ảnh hưởng mạnh mẽ như trước đây. Thời trung đại cá nhân luôn nằm trong sự bao
phủ của gia thế, dòng họ, đẳng cấp... Từ bao đời nay, trong thơ ca cũ, những thứ đó
từng làm chỗ dựa cho con người tìm thấy bình yên thanh thản và tìm về trú ngụ. Thế
nhưng đứng trước nỗi đau mất mát của những cá nhân đầu thế kỉ XX, chúng không
còn phát huy giá trị của mình. Nỗi đau mất mát cá nhân trở nên quá lớn, khiến con
người cảm thấy chống chếnh, và không gì có thể khỏa lấp.
Thứ đến, tình yêu lứa đôi mà cụ thể là tình cảm vợ chồng được thể hiện theo
góc nhìn mới. Tình yêu không còn chỉ là những gì ước lệ, tượng trưng, mà được “tả
thực” bằng những từ ngữ chân thật. Tình yêu ở đây không hẳn chỉ là thuần túy tinh
thần mà còn bao gồm cả tình yêu thể chất. Chẳng hạn như ở “Linh Phượng lệ ký” có
những việc tuy nho mà vất vả như giặt giũ, thuốc thang, bóp chân tay, chải đầu vấn tóc
của tác giả dành cho vợ…, và chính những chi tiết “nho nhỏ” “tiểu tiết” ấy mới thật sự
truyền cảm động. Người ta thấy rằng tình yêu thương của hai vợ chồng không nhất
thiết ở việc lớn mà chỉ cần những cử động nhỏ cũng thể hiện được tấm lòng khăng
khít, gắn bó.
Tình cảm vợ chồng trong “Giọt lệ thu” cũng rất chân thực. Khi đôi lứa phải lìa
xa nhau vì lưỡi gươm oan nghiệt của kiếp người, người chồng ra đi bỏ lại vợ góa vò võ
một mình:
“Ngày xuân luống tiếc xuân dài
Oanh đưa liễu đón duyên ai đi về?
Vui xuân đôi lứa đề huề,
Sầu xuân say tỉnh tê mê một người!”
Từng đoạn thơ, câu chữ thuật lại tình cảm vợ chồng hết sức gần gũi, bình dị:
“Anh ngoảnh lại, hôn con, hôn vợ
Miệng mỉm cười, lệ ứa khôn ngăn
Em non nớt đừng ăn bậy nhé
Ủ cho con, chớ để lạnh lùng”
(Em còn nhớ)
Rõ ràng tình yêu đôi lứa đã được cụ thể bằng những hành động, cử chỉ chăm
sóc rất thực, rất sát chứ không còn là sự khái quát, ước lệ. Nhờ đó, người đọc cảm thấy
dễ đồng điệu, thông cảm và tiếp cận tác phẩm gần gũi hơn. Và đó là điểm mới mà hai
tác phẩm đã đem lại cho dòng chảy văn học thời bấy giờ.
II.2. Về phương diện hình thức
Về mặt hình thức thể loại, “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” còn in rõ dấu
vết của giai đoạn giao thời mới – cũ và những bước đầu của quá trình hiện đại hóa văn
xuôi và thơ quốc ngữ.
Những đoạn “văn xuôi” trong cả hai bài còn mang dấu vết khá sâu nặng của
văn biền ngẫu, nhưng đã khá uyển chuyển và mới mẻ.
Nói đến thể biền ngẫu, ta nghĩ ngay đến thể văn chỉ cần đối mà không cần vần.
Bài văn biền ngẫu có nhiều vế, nhiều đoạn bao gồm nhiều loại câu bất kì đối nhau
từng cặp như các câu hát tự, song quan, cách cú, hạc tất. Có thể kể ra một số đoạn
mang tính “biền ngẫu” trong “Hai giọt lệ” :
“Anh ơi! Phòng thu vò võ một mình, mỗi khi nhớ anh, em lại ngừng tay kim
chỉ, cuốn bức châu liêm, xa trông non nước, và hồi tưởng những đường xưa lối trước
đi về có nhau, thì muôn nghìn tâm sự bây giờ lại như xô lùi em về cảnh đời, dĩ vãng,
mà ngọn triều trong dạ cũng mênh mang cơn sóng lệ... !” (Giọt lệ thu – Tương Phố).
Hay:
“Tôi thấy lưng vựng hoảng hốt người lên, như người đứng coi chiếc thuyền
đắm. Mênh mông biển cả, sóng gió tơi bời cảnh ghê gớm mà kinh hoàng, sóng vỗ
thuyền nghiêng, nghiêng ngập mạn thuyền, nước tràn từ từ vào thuyền, khách trong
thuyền biết mình sắp chết, tính mạng nguy trong giây phút, dậm chân đưa tay kêu van
than khóc đã đành; lại còn người trên bờ mục kích cái cảnh thê thảm hãi hồn ấy thì dễ
có đứng yên sao được... “ (Linh Phượng lệ ký – Đông Hồ)
“Giọt lệ thu” là một bài vừa văn vần vừa văn xuôi xen lẫn nhau. Trong đó, mỗi
đoạn văn là tiếng khóc thiết tha, ai oán. Đọc từng đoạn suốt tác phẩm, ta thấy các đoạn
văn vừa có đối, vừa có những vế tứ lục, những câu nói lối hát tuồng, vẫn còn rất gần
lối khóc chồng bằng văn tế: “Anh ơi ! Gái Thiên Tôn than thở khóc sinh ly, năm năm
được thấy Ngưu Lang trở lại, dây đàn kia lại cùng nhau so phím cũ. Em nay đau lòng
tử biệt, những ngậm ngùi kẻ khuất người còn, miền dị lộ nước mây thăm thẳm cách,
non Bồng nước Nhược, vời trông anh bóng hạc biết về đâu ! Cõi trần ai quanh năm
uống lệ lại nuôi sầu, đoạn trường ấy anh biết cho nhau chăng nhẽ”.
Tuy rằng suốt tác phẩm có nhiều trang trí tu từ, sáo ngữ cổ điển nhưng vẫn có
những chi tiết cá biệt có ý nghĩa “tả thực”, thể hiện chân tình của tác giả. Chúng ta
thường tự hỏi nếu chồng không mất thì liệu Tương Phố có cho ra đời “Giọt lệ thu” hay
không? Thực chất sự ra đi của người chồng chỉ là nguồn bi hứng cho bà chứ ẩn sâu
bên trong vẫn là hồn thơ đa cảm, là bản chất của một thi sĩ. Do đó, bà hoàn toàn có thể
sáng tác nên những thi phẩm khác “Giọt lệ thu” nếu có nguồn cảm hứng.
Cũng thế, “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ tuy có những đoạn văn còn mang
nặng tính cổ điển nhưng thông qua tình cảm chân thành, mạch văn thiết tha, được diễn
đạt bằng lối văn đẽo gọt trau chuốt khiến người đọc xúc động:
“Tôi đi vòng qua hậu đầu ngôi mộ, bóng trăng sau núi rọi bóng tối thoáng
ngang, tôi hoa mắt lên, tưởng đó là hồn nàng về với toi... Cái bóng mà tôi định tìm ấy
là cái bóng một người thiếu phụ, khuôn mặt đẹp như hoa mà lạnh như sương, hai mái
tóc buồn rủ xuống hai má trắng nhợt, đôi con mắt lờ đờ nhìn vào tôi như chan chứa
tình xuân mà lại như chan chứa thất vọng... Tôi không muốn dứt về, trèo lên cao đứng
nhìn xuống, bốn bề yên lặng, ánh trăng tỏa xuống rừng cây bát ngát, xung quanh nằm
la liệt những mồ mả cũ trong bóng tối, thỉnh thoảng có mấy con đom đóm lập lòe như
soi cho cái thiên cổ quạnh hiu này. Tôi nhìn vào mộ nàng, cái nấm đất kia từ đây rồi
nằm trơ trọi ở giữa thiên địa nhân này mà mặc cho ngày nắng đêm mưa dầu dãi... ”
Chính hình thức phu diễn, chen “văn xuôi” với thơ đã tạo điểm nhấn mới cho
“Hai giọt lệ”. Tùy theo nhu cầu diễn đạt mà có lúc chúng ta thấy “văn xuôi” réo rắt
biền ngẫu như Tương Phố hay những đoạn gần như là “thơ văn xuôi” của Đông Hồ.
Điều đó biểu hiện đậm đặc tính giao thời của giai đoạn. “Giao thời” là sự chuyển giao
giữa cái cũ và cái mới. Tuy nhiên, giữa hai phạm trù đó chưa thật tách biệt rõ ràng, dứt
khoát với nhau. Khi cái cũ đã dần dần mất đi vị trí của mình thì sự ra đời của cái mới
là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, vì còn non nớt ở buổi đầu sơ khai nên cái mới chưa đủ
sức lấn át cái cũ. Thơ văn của Tương Phố và Đông Hồ xuất hiện trong giai đoạn này
nên mang những đặc điểm của hai phạm trù cũ – mới cũng không có gì lạ.
Bài “Giọt lệ thu” có những đoạn thơ réo rắt, tiêu tao như:
“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm sầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thềm
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng”.
cũng đã vượt xa những bài thơ giả tạo, sáo mòn vẫn nhan nhản ngay trên Nam Phong.
Lời tuy có cổ kính nhưng ý chân thật sẽ tạo được điểm nhấn.
Đồng thời, những câu thơ ai oán:
“Thu về đẹp lứa duyên Ngâu,
Năm năm Ô Thước bắc cầu Ngân giang.
Đôi ta ân ái nhỡ nhàng,
Giữa đường sinh tử đoạn tràng chia hai.
Anh vui non nước tuyền đài,
Cõi trần hương lửa riêng ai lạnh lùng.
Nhân gian khuất nẻo non Bồng,
Trăm năm não thiếp tấm lòng bơ vơ!”
Ta nhận thấy những câu ai oán nhất trong bài thơ trên lại là những câu dùng chữ
cổ nhất, chẳng hạn như “Năm năm Ô Thước bắc cầu Ngân giang” , “Giữa đường sinh
tử đoạn đường chia hai” và “Anh vui non nước tuyền đài”. Như vậy, “cổ” chưa chắc
đã là “dở”. Nó vẫn hay nếu được vận dụng đúng cách, hợp hoàn cảnh. Thơ của Tương
Phố lắm lời rất sáo nhưng nhờ âm điệu du dương mà gây được những cảm tưởng man
mác khiến nhiều người muốn thưởng thức thơ bà. Tuy nhiên phải vừa đọc vừa ngâm
thì mới thấy được tình ý sầu não nổi lên trong các điệu.
Thơ của Tương Phố phần nhiều là lục bát và song thất lục bát. Đây là hai thể
thơ dân tộc đặc trưng của Việt Nam. Mặc dù Tương Phố có làm cả thơ Đường luật,
nhưng bà thuận tay ở thể thơ thuần túy dân tộc hơn; nếu so ra sẽ thấy sự chênh lệch rõ.
Âu đó cũng là một biệt tài. Sở dĩ nói vậy vì trong ngâm vịnh, người ta thường thấy lục
bát dễ làm nhưng khó thành thơ, không khéo sẽ biến ra vè. Thế mà ở đây, lục bát là thể
Tương Phố thường dùng, nhìn chung đứng được, đều “câu hay xen lẫn với câu vừa”
(mượn ý Hồ Chí Minh “phê bình” thơ Huy Cận), không câu nào quá non hay quá
sượng, hơn hẳn khi bà làm mấy thể thơ Tàu.
Trải hàng trăm năm định hình và phát triển, lục bát và song thất lục bát đã từng
bước tạo được chỗ đứng trong làng thơ của dân tộc. Đến vài thập kỷ cuối thế kỷ XIX,
nhất là đầu thế kỉ XX, văn xuôi chữ quốc ngữ xuất hiện, qua các bản kể chuyện dân
gian của Trương Vĩnh Kí, Huỳnh Tịnh Của, qua sáng tác thử nghiệm của Nguyễn
Trọng Quản, và tập dượt ngày một tích cực qua việc dịch, mô phỏng, phóng tác, rồi
sáng tác “đại trà” của các câu bút chuyện nghiệp như Hồ Biểu Chánh, Phạm Duy Tốn,
Nguyễn Bá Ngọc, Tản Đà, Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Tử Siêu...
Truyện thơ lục bát dù có mặt thêm vài lần nữa, với “U tình lục” (1909) của Hồ
Biểu Chánh và “Giai nhân kỳ ngộ” (1915) của Phan Châu Trinh thì cũng không có
nghĩa là nó có thể tồn tại song song với truyện và tiểu thuyết văn xuôi. Phương thức
tồn tại và phát huy tác dụng chủ yếu của lục bát đương nhiên không thể là kể chuyện
được nữa. Đã được chuẩn bị từ trước, lúc này lại gặp cơ hội, lục bát có đủ điều kiện để
được chuyển sang nhận chức năng trữ tình làm chức năng chủ yếu của mình.
Cơ hội đầu tiên chính là sự ra đời của dòng thơ ca yêu nước và cách mạng đầu
thế kỷ. “Ái chủng”, “Ái quần” (Phan Bội Châu), “Địa dư lịch sử nước nhà” (Ngô Quí
Siêu), “Ru con” (Hoàng Lạc), “Khóc những người hy sinh trong vụ Hà Thành đầu
độc”,...những tác phẩm nói lên những cảm xúc suy nghĩ của các bậc chí sĩ, các trí thức
và quần chúng cách mạng về hiện trạng đau thương của đất nước, của dân tộc; đồng
thời cũng nói lên ước mơ toàn dân đoàn kết chấn hưng đất nước, làm vẻ vang cho
“dòng dõi con rồng, cháu tiên”.
Tuy nhiên, cái “cơ hội” lớn nhất phải là nhu cầu “tổng kiểm kê” và huy động về
hình thức thể loại trong vốn cũ, cho Hiện đại hóa văn học, như ở một phần trước đã
nói. Lục bát xuất xứ từ dân gian, là một thể thơ thông dụng của dân gian. Ở xuất xứ đó
của nó, nó vốn đặc dụng cho loại trữ tình dân gian là ca dao dân ca. Các thế kỷ trước,
trong nhu cầu dân tộc hóa, văn học viết đã tìm đến và sử dụng; sau quãng dài thử
nghiệm, cuối cùng nó được chọn cho loại truyện (tự sự), làm thành thể loại truyện thơ
nôm lục bát. Tuy vậy, trong truyện thơ, các tác giả bình dân hay bác học vẫn không bỏ
quên khả năng trữ tình vốn có của nó: trong khi tự sự, đồng thời nó vẫn trữ tình, mỗi
lúc cần. Vì vậy đến lúc này về với trữ tình là về lại, là “hồi cố”, làm thức dậy một khả
năng đã được khẳng định mạnh mẽ mà văn học viết dường bỏ quên (coi nhẹ) đẩy
xuống thế tiềm năng.
“ - Ngán thay giống tốt nòi sang
Bởi đâu sa sút mà mang tiếng hèn?
Xưa sao đứng chủ cầm quyền
Giờ sao nhẫn nhục chịu hèn làm tôi?”
(Ái chủng)
Cơ hội tiếp theo, là sự xuất hiện trên thi đàn công khai những bài thơ muốn tìm
về các thể thơ dân tộc để gửi gắm nhiều khía cạnh cảm xúc đang diễn ra trong tâm
hồn: Tản Đà (các bài “Phong dao”, “Thề non nước”, “Nói chuyện với bóng”, “Đêm thu
nhớ cảnh cầu Hàm Rồng”, “Rau sắng Chùa Hương”...); Đoàn Như Khuê (“Phong
dao”...); Trần Tuấn Khải (các bài: “Phong dao”, “Hỡi cô bán nước”...); Tương Phố
(“Giọt lệ thu”, “Tái tiếu sầu ngâm”, “Tình quê”...). Điều đáng chú ý là, mặc dầu cùng
hướng lục bát vào chức năng trữ tình, nhưng Tản Đà nhìn thấy ở đấy khả năng thể hiện
sự duyên dáng, tình tứ, đôi khi có man mác buồn nhưng vẫn trong sáng:
“Anh đi lẽo đẽo đường trường,
Công danh chẳng thấy, những thương cùng sầu
Lại đây ăn một miếng trầu
Kẻo mai tuyết nhuốm trên đầu huê râm”.
Còn Tương Phố lại dành cho nó những nỗi niềm trĩu nặng đau thương:
“Đôi ta ân ái nhỡ nhàng,
Giữa đường sinh tử đoạn tràng chia hai
Anh vui non nước tuyền đài
Cõi trần hương tỏa riêng ai lạnh lùng
Nhân gian khuất nẻo non bồng
Trăm năm não thiếp tấm lòng bơ vơ”.
Những biểu hiện như vậy đã phần nào chứng tỏ được khả năng phong phú của
lục bát trong việc biểu đạt nội dung của các tác phẩm trữ tình nhỏ. Và trong đó cũng là
những gợi ý để các nhà thơ thuộc nhiều thế hệ sau có thể tiếp tục phát hiện những khả
năng khác, còn tiềm ẩn trong thể thơ này.
Thể song thất lục bát, bước sang thế kỷ XX, vẫn tiếp tục khẳng định ưu thế trữ
tình, nhưng đã được mở rộng thêm nhiều hướng thể hiện để có thể đáp ứng nhiều hơn
nhu cầu mới của thời đại: một giai đoạn mới, hiện đại, của nhiệm vụ cứu nước: làm
cách mạng giải phóng dân tộc - một mặt; đồng thời - mặt khác, chính là nhiệm vụ Hiện
đại hóa văn hóa văn học, hiện đang là mối quan tâm lớn nhất của văn đàn hợp pháp.
Hướng thứ nhất, là thể thơ vẫn được tiếp tục sử dụng để diễn tả những cảm xúc
có tính chất hồi cố, bi ai. Như ta đã biết, vào thời gian cuối của nửa sau thế kỷ XIX,
ngâm khúc đã thôi không xuất hiện. Nhưng ảnh hưởng của nó xem ra còn khá đậm.
Một số nhà thơ vẫn tiếp tục bị thu hút bởi cảm xúc cũng như âm điệu của các khúc
ngâm. Và, khi gặp những hoàn cảnh thích hợp, họ đem nỗi đau của mình gửi gắm vào
những dòng song thất lục bát. Người đầu tiên khiến ta biết được điều đó là nhà thơ
Nguyễn Khuyến, qua tác phẩm “Khóc Dương Khuê”, Tương Phố rồi Đông Hồ tiếp
theo cũng khai thác khả năng diễn tả những nỗi niềm sầu muộn của thể thơ này để
khóc than cho hạnh phúc riêng sớm tan vỡ, mà cũng là để thể hiện mối sầu chung của
một lớp người cùng thời đại.
“Chim Linh Phượng một bay chẳng lại,
Nhà Độc Thê mực vẩy lệ sầu
Gió mùa hai độ xuân thu (thâu)
Khắp trông non nước toàn màu thê lương”.
(Tục huyền cảm tác - Đông Hồ)
Hướng thứ hai là đưa song thất lục bát vào nhiệm vụ thể hiện những suy nghĩ
tâm sự của các nhà chí sĩ, các nhà trí thức cách mạng trước cảnh đất nước bị xâm lăng,
bị tàn phá trở nên nghèo nàn xơ xác, nhân dân bị áp bức, đè nén trở nên ngu muội,
phân tán; đồng thời cũng là thể hiện ý thức sâu sắc của họ về trách nhiệm phải cùng
nhân dân giành lại độc lập và phú cường cho đất nước. Hợp tuyển thơ văn yêu nước và
cách mạng đầu thế kỷ XX đã ghi nhận hơn 30 tác phẩm như vậy: “Hải ngoại huyết
thư”, “Ái quốc” (Phan Bội Châu), “Tỉnh quốc hồn ca” (Phan Châu Trinh), “Hợp quần
doanh sinh thuyết” (Nguyễn Thượng Hiền), “Lời tuyên cáo của Việt Nam Quang Phục
hội” (Hoàng Trọng Mậu), “Thiết tiền ca” (Nguyễn Phan Lãng), “Chiêu hồn nước”
(Phạm Tất Đắc), “Nam Hải bô thần ca” hay còn gọi là “Đề tinh quốc dân ca” (Phan
Bội Châu),...Ở những tác phẩm này, ta cũng nhận ra một ít “hơi hướng” của ngâm
khúc: dùng song thất lục bát để diễn tả những cảm xúc đi về giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai, được láy đi láy lại, trong những lời lẽ thống thiết, bi phẫn:
“Trải mấy lớp tiền vương dựng mở,
Bốn nghìn năm dãi gió dầm mưa
Biết bao công của người xưa
Gang sông, tấc đất, dạ dưa, ruột tằm”.
(Ái Quốc)
Có điều cần nói là nếu như các ngâm khúc trước đây thường diễn tả tâm trạng
riêng tư, thì các bài ca song thất lục bát thời này có xu hướng thể hiện tâm trạng và
nhiệt tình công dân đối với giống nòi Tổ quốc.
Hướng thứ ba, là thể thơ được đưa về tình trạng trung tính, nghĩa là không đặc
biệt gắn với một loại nội dung nhất định nào, mà để nó được diễn tả nhiều loại cảm
xúc khác nhau. Hướng này được thể hiện chủ yếu qua gần hai mươi bài song thất lục
bát của Tản Đà.
Một cảm xúc khi “Trông cánh hạc bay”, một quan niệm về “Cảnh vui của nhà
nghèo”, một suy nghĩ trong khi “Nói chuyện với ảnh” hay một lời trách móc trong
những bức “Thư gửi người tình không quen biết”,...đều được Tản Đà diễn tả bằng
song thất lục bát. Song, có lẽ do chỗ song thất lục bát đã được tạo sức hấp dẫn quá lớn
ở những tác phẩm chứa đựng loại cảm xúc buồn thảm hoặc thống thiết triền miên nên
khi được đưa về những cảm xúc không mang các tính chất đó, nó dường như khó bề
gây được ấn tượng sâu sắc. Tuy vậy, phải thấy là Tản Đà đã bổ sung một hướng đi
đúng cho thể thơ. Bởi vì nếu không nó sẽ bị “mắc kẹt” vào cái khả năng chuyên biệt
của mình, một khi đời sống thơ ca không tạo ra cho nó những cơ hội để thi thố khả
năng ấy nữa. Thế nhưng rồi ta sẽ thấy sức mạnh của truyền thống đối với thể thơ này
dường như là cái khó có thể vượt qua, và điều đó sẽ ảnh hưởng (“tai hại”) rất nhiều
đến tương lai của song thất lục bát.
Quay trở lại với Tương Phố và “Giọt lệ thu”, ta có thấy bà đã góp phần làm mới
và chuyển đổi ý nghĩa nội dung của thể lục bát truyền thống. Chính sự nhẹ nhàng, dễ
dãi như những câu ca dao cẩm tú đã tạo nên sức cảm cho người đọc về âm điệu trước
rồi mới đến ý tứ. Những vần thơ của Tương Phố như:
“Trời thu ảm đạm một màu
Gió thu hiu hắt thêm rầu lòng em
Trăng thu bóng ngả bên thuyền
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng!”
phảng phất âm điệu của bài ca dao:
“Thân em như tấm lụa đào
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?
Em vịn cành trúc, em tựa cành mai,
Đông đào tây liễu biết ai bạn cùng!”
Tuy giống nhau về âm điệu nhưng bài thơ của Tương Phố lại không thể coi là
ca dao vì khác nhau về ý. Ý bài thơ không phải là ý chung mang tính cộng đồng cho
tất cả mọi người. Nó là một bài bày tỏ tâm sự của một người sầu não vì những đau đớn
trong ngày thu qua.
Như vậy, không giống với những nhà thơ dùng thơ Đường luật để sáng tác,
Tương Phố thành công trong việc dùng hình thức thơ thuần Việt là lục bát để tạo ra
những bài thơ nổi tiếng nhất của mình. Đánh giá thành công của Tương Phố, Vũ Ngọc
Phan đã viết rằng: “Tương Phố chỉ sở trường là thơ lục bát hay song thất lục bát. Dùng
hai thể thơ đặc biệt Việt Nam để diễn tả những tính tình đặc biệt Việt Nam thật là rất
hợp, vì lẽ ấy mà hai thể thơ đó, bà đã có những tuyệt tác”. [30, 146]
Một điểm đáng lưu ý và cũng là điểm mới của “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ
ký” là sự hòa trộn và xuất hiện “thơ văn xuôi”. “Thơ văn xuôi” ở nhiều nước trên thế
giới từ lâu vốn đã không xa lạ hiếm hoi gì. Nhiều tác giả nổi tiếng đã gặt hái thành
công sự nghiệp thơ ca của mình trên mảnh đất thể loại “thơ văn xuôi” này, chẳng hạn
Uýt-man, nhà thơ người Mỹ. Những văn vần, văn biền ngẫu, và cả văn xuôi cổ, đều
gần gũi dáng dấp với “thơ văn xuôi” phương Tây. Xuân Diệu cho rằng trong văn học
Việt Nam (và cả trong văn học Trung Quốc) thơ văn xuôi có nguồn gốc ở thể phú.
Nhận định này có cơ sở, vì thực chất phú cũng là sự giãn ra của các thể cổ thi để mở
rộng dung lượng phản ánh. Nhưng nói đúng hơn, trong thơ ca cổ của ta, những bài phú
và văn tế viết theo thể văn vần, cạnh các bài biền văn như hịch, cáo đều có dáng dấp
của thơ văn xuôi. Hịch, cáo (như “Hịch tướng sĩ văn” của Trần Hưng Đạo, “Bình Ngô
Đại Cáo” của Nguyễn Trãi...), phú (như “Bạch Đằng giang phú” của Trương Hán
Siêu, “Tài tử đa cùng phú” của Cao Bá Quát, “Hàn nho phong vị phú” của Nguyễn
Công Trứ, “Tụng Tây Hồ phú” của Nguyễn Huy Lượng...) và văn tế (như “Văn tế chị”
của Nguyễn Hữu Chỉnh, “Văn tế Phan Châu Trinh” của Phan Bội Châu…)... đều có
dáng dấp thơ văn xuôi, và làm cơ sở cho “thơ văn xuôi” chính thức bắt rễ nảy nở.
Trong số đó, văn xuôi cổ là cận kề hơn cả về thể loại với “thơ văn xuôi” sau này.
Giữa chúng có những giống nhau: câu thơ và mạch thơ (hoặc có vần hoặc
không có vần, hoặc có đối hoặc không có đối) phóng khoáng, mở rộng và kéo dài như
là câu văn xuôi. Dung lượng của toàn bài khá phong phú, do đó, lối diễn đạt và lối
bình luận không bị hạn chế như trong khuôn khổ thơ cách luật, mà nhà thơ có thể đi
được vào nhiều khía cạnh của cảm xúc và tư duy.
Nhưng khác nhau ở chỗ phú, văn tế cũng như hịch và cáo trong sáng tác có
những quy tắc về vần, đối, bố cục, … mà thơ văn xuôi không có. Sau văn xuôi cổ, thì
phú lưu thủy, văn tế tự do (tứ lục)... cũng gần gũi với thơ văn xuôi hơn.
Sau cùng, thơ văn xuôi cũng không bị ràng buộc về đề tài và chủ đề như một số
“tiểu loại” văn tế, hịch, cáo.
Sang đầu thế kỷ XX, một số sáng tác của Tản Đà, Đông Hồ, Tương Phố có tính
chất thơ văn xuôi như:
“... Xuân qua; hạ lại, cảnh tình đà chẳng khác chi đông thu sang tâm sự lại dạt
dào, thương tâm gió đuổi mấy chiều; lòng em lai láng biết bao sầu tình! Anh ơi phòng
thu vò võ một mình, mỗi khi nhớ anh em lại ngừng tay kim chỉ, cuốn bức châu liêm,
xa trông non nước và hồi tưởng những đường xưa lối trước đi về có nhau, thì muôn
nghìn tâm sự bây giờ lại như xô lùi em về cảnh đời dĩ vãng, mà ngọn chiều trong dạ
cũng mênh mang cơn sóng lệ... ! Em nhiều khi nghĩ cũng thương, nước mắt muốn thôi
đi không khóc nữa, nhưng hai hàng châu lệ vẫn cứ chan hòa như mưa.
Nước non ngao ngán tình xưa
Trăm năm bạn cũ bây giờ xa đâu?
Để riêng ai
Bức khăn hồng tầm tã giọt châu
Gối chăn còn ngấn lệ sầu tới nay.
Anh ơi, nước non còn đó mà anh vội đi đâu? Ngày sanh sao chẳng ở cùng nhau,
duyên thắm nỡ nào chia rẽ lứa?
Ngoài nội uyên kia cùng chắp cánh, trên lương yến nọ chẳng lìa đôi, từng mây
kết bạn ngang trời, nghĩ chim ríu rít, tủi người lẻ loi. Ôi chim có đôi người sao lẻ bạn,
chăn đơn gối chiếc, em biết cùng ai than thở chuyện trăm năm?” (Tương Phố - Viết ở
sông Thương mùa thu năm Quý hợi 1923)
“Thôi từ đây cải rụng kim rơi, mây chìm bèo nổi, từ đây rồi lúc nào tôi cũng
thấy chung quanh mình tôi đầy những cảnh tiêu điều buồn bã, âu sầu hiu quạnh lạ
thường; gặp những khi đêm khuya canh vắng, gió xế mưa chiều, hồi tưởng đến cảnh
cũ niềm xưa, mới ngày nào đây cùng ai chung cơn may rủi, chung nỗi khóc cười, khi
chăn êm khi nệm ấm, khi gió gác khi trăng sân, cùng ai vui thú mà chạnh lòng. Mỗi
lân hồi tưởng đến như thế thì thấy mình bang khuâng như người làm nát ngọc chìm
châu. Hòn ngọc đang cầm trên tay mà bỗng rơi xuống vỡ tan tành, hay hạt châu bỗng
chìm hút dưới đáy nước sâu, cái nhớ tiếc ngơ ngẩn vẩn vơ ngậm ngùi than thở mà
không biết đâu tìm... “ (Linh Phượng lệ ký - Đông Hồ)
Nếu ở một nền văn học nào khác, thì những thi phẩm hay, từng gây chấn động
như “Hai giọt lệ” hẳn đã tạo nên một phong trào mới cho thơ văn. Tuy nhiên, do cái
“học phong” của nước ta xưa nay vốn lặng lẽ nên những điệu thơ réo rắt của Tương
Phố hay những dòng thơ đẽo gọt, trau chuốt của Đông Hồ chỉ được ngâm ngợi trong
một thời gian ngắn rồi cũng tàn tạ trôi dần vào dĩ vãng. Nhà văn Vũ Ngọc Phan đã viết
về Tương Phố bằng những lời lẽ ca ngợi, tán thưởng: “Người ta thấy Đông Hồ là ta
thợ thơ, còn Tương Phố mới thật có tâm hồn thi sĩ. Cái tâm này lại là một tâm hồn đặc
biệt Việt Nam, không chịu ảnh hưởng một cái học ngoại lai nào cả!” [30, 138]
Điều đó còn được cắt nghĩa bằng những lẽ khác nữa, mà lẽ chính (chủ yếu) là:
mặt bằng “trình độ” của văn học ta quá lạc hậu, quá cũ, hay là cũ kỹ lạc hậu quá lâu
(giam mình trong Trung đại quá lâu), nay gặp cái thế giới, mới ngộ ra điều đó. Cho
nên phải thật nhanh lên. Nhưng không dễ gì “đốt cháy giai đoạn”, và lại không phải
mọi đoạn đề khả dĩ đốt. Thế tất chỉ còn cách bước gấp. “Một năm ở ta bằng mươi
mười lăm năm ở nước người” (nói về nhịp độ hiện đại hóa văn học đầu XX) là vậy. Cả
loạt hiện tượng như “Hai giọt lệ”, vừa là mới đó, đã cũ đó; vừa được hoan nghênh đã
bị thờ ơ ghẻ lạnh…, bởi đã bị vượt qua.
Quá khứ là bài học cho hiện tại để hướng tới tương lai. Những gì mà Tương
Phố và Đông Hồ đóng góp cho văn học Việt Nam bấy giờ quả thực rất đáng ghi nhận.
Bước đầu ra đời trong buổi giao thời, thơ của Tương Phố hay Đông Hồ đều có những
tìm tòi, sáng tác làm mới thể loại, “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” đã thể hiện rõ
tính chất giao thời của thời đại ở cả hai phương diện nội dung và hình thức.
Về mặt nội dung, hai tác phẩm là sự thể hiện “cái tôi” chân thành, cá thể rất thật
của mình dưới dạng nhật kí riêng tư. Đồng thời, chúng cũng mang nỗi buồn thời đại,
mở đầu cho lối thơ thê lương, ảo não của văn học lãng mạn sau này.
Phương diện hình thức ghi nhận sự đóng góp của những đoạn văn réo rắt biền
ngẫu nhưng ý nghĩa, lời thơ không kém phần tiến bộ, hiện đại. Không những thế, bên
cạnh việc “làm mới”, tính giao thời còn thể hiện mạnh mẽ ở việc kế thừa và sử dụng
những từ ngữ cổ, hình ảnh cổ để diễn tả “cái mới” mà không gây nhàm chán. Sự xuất
hiện của thể thơ lục bát mang đậm chất dân gian truyền thống trong “Giọt lệ thu” của
Tương Phố dễ gợi ta nghĩ đến “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn và “Ai tư vãn”
của Ngọc Hân công chúa ở giọng điệu bi thảm, sầu não. Không những chọn lọc tinh
hoa của cái cũ, “Hai giọt lệ” cũng có những đoạn thơ văn xuôi rất gần với đặc trưng
của giai đoạn hiên đại sau này. Mặc dù chưa đủ sức tạo ra cuộc cách mạng trong thi ca
nhưng sự ra đời của hai tác phẩm đã thổi một luồng gió mới vào bầu khí chung của
văn học đương thời. Ngọn gió thu mang cả “nỗi sầu thế hệ” và tiếng khóc ai oán, xót
xa của sự chia lìa lứa đôi đã mở màn cho dòng văn học lãng mạn và từng bước đi vào
lòng độc giả. Chúng đã tạo tiền đề để xây những viên gạch đầu tiên cho chiếc cầu nối
giữa thơ trung đại và thơ hiện đại. Đây là điều chúng ta cần ghi nhận khi đánh giá về
vai trò và vị trí của Tương Phố - Đông Hồ trong giai đoạn này – giai đoạn đầu thế kỷ
XX nhiều biến động.
CHƯƠNG III
VỊ TRÍ CỦA ĐÔNG HỒ VÀ TƯƠNG PHỐ TRONG TỔNG THỂ
BỐI CẢNH GIAO THỜI CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ
KỈ XX
I. Tương Phố
I.1. Đôi nét về tác giả Tương Phố
Nữ sĩ Tương Phố tên thật là Đỗ Thị Đàm sinh ngày 14/7/1900, nguyên quán ở
xã Bối Khê, tổng Cẩm Khê, huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên và mất ngày 8/11/1973
tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng.
Về năm sinh của bà có vài sách ghi khác nhau như trong “Từ điển Văn học”
(tập 2 - NXB KHXH, 1984, tr.491) đã ghi năm sinh của bà là năm 1896; Sách “Từ
điển nhân vật lịch sử Việt Nam” (NXB KHXH, 1992, tr.203) thì ghi bà sinh năm Mậu
Tuất 1898. Trên lăng mộ bà tại đồi Tương Sơn, Đà Lạt đã ghi trên tấm bia mộ bà năm
sinh là 1900 và năm mất là 1973.
Đỗ Thị Đàm là một nữ sĩ hiện đại, bút danh Tương Phố. Vì bà chào đời tại Đồn
Đầm, tỉnh Bắc Giang, nơi thân sinh của bà làm việc, nên đặt tên bà là Đàm để ghi dấu
tích làm kỷ niệm (Đàm chữ Hán có nghĩa là Đầm). Bà sinh ra trong một gia đình nho
học, thân sinh của bà là cụ ông Đỗ Duy Phiên và cụ bà Nguyễn Thị Yêm. Thân mẫu bà
hiếm hoi, chỉ sinh được hai người con gái là Tương Phố và Song Khê. Song Khê - Đỗ
Thị Quế cũng là một nữ sĩ có tiếng lúc bấy giờ (chính là “Đỗ Tang Nữ” đã “bái tặng”
Tản Đà bó rau sắng cùng bốn dòng thơ họa lục bát dễ thương, làm nên giai thoại “Rau
sắng chùa Hương” quen thuộc). Hai chị em lúc nhỏ học chữ Hán với thân phụ, và học
tiếng Pháp tại trường công lập ở tỉnh nhà Hưng Yên. Sau đó, bà Đỗ Thị Đàm lên học
tại trường nữ Sư phạm Hà Nội. Thời kỳ đó, bà gặp anh chàng sinh viên trường thuốc
Thái Văn Du (em ruột cụ Thái Văn Toản - Thượng thư Bộ Lại, triều Nguyễn thời Bảo
Đại), người làng Quy Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị rồi thành vợ chồng và
sống tại Hà Nội.
Một năm sau (1916), Tương Phố sinh con trai là Thái Văn Châu, thì chồng bà
(khi ấy đã là Y sĩ Đông Dương) phải qua Pháp tham chiến trong cuộc chiến tranh Pháp
- Đức (1914-1918). Khoảng cuối năm 1919, chồng bà bị bệnh phổi phải trở về Huế,
rồi mất vào mùa thu năm 1920 (ngày 25 tháng 7) khi bà còn đang học ở trường Nữ Sư
phạm Hà Nội.
Tương Phố thuộc hàng nữ lưu tân tiến những năm 20 của thế kỷ XX. Bà bắt đầu
làm thơ vào khoảng những năm ông Du phải đi xa, và số thơ này đều có chủ đề chung
là nỗi nhớ mong chồng.
Sau khi chồng mất, năm 1923 (hoặc 1922), bà viết một bài văn xuôi có xen tám
đoạn thơ lục bát và song thất lục bát, mang tên là “Giọt lệ thu”, được đăng báo năm
1928. Đây là tác phẩm gây được tiếng vang trên văn đàn thời bấy giờ và cũng đã khơi
dòng văn chương lãng mạn sầu não trong văn học Việt Nam hiện đại. Nội dung bài là
tiếng khóc thê thiết của một người vợ trẻ (Tương Phố) chờ chồng suốt ba năm, nhưng
khi chồng (Thái Văn Du) về tới Huế, chẳng bao lâu thì mất. Đầu những năm 30, bài
văn này đã được một nữ dịch giả người Pháp dịch ra tiếng Pháp, được một số nhà phê
bình Pháp chú ý và không ngớt tán dương.
Sau đó bà tiếp tục viết những bài văn thơ cùng loại, đăng báo Nam Phong, về
sau được tập hợp thành các tập: “Giọt lệ thu”, “Mưa gió sông Tương”, “Trúc mai”...
Năm Ất Sửu (1925), bà tái giá với Tuần phủ Phạm Khắc Chánh ở Phúc Yên
(nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc).
Sau năm 1945, Tương Phố vào sống ở Nha Trang rồi mất ở Đà Lạt vào ngày 8
tháng 11 năm 1973, được an táng tại đồi Tương Sơn, thành phố Đà Lạt.
I.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Tương Phố
Tương Phố bước vào Nam Phong và nổi danh với bài “Giọt lệ thu” (số 131,
tháng 7, 1928). Từ đó, bà trở thành một cây bút phụ nữ rất được chú ý.
Tương Phố đã đóng góp cho văn chương thời đại một tiếng khóc ảo não, trong
đó có âm hưởng khúc ngâm chinh phụ và nỗi buồn sinh li tử biệt của văn chương
truyền thống, đồng thời cũng nhuốm màu sắc thời đại – đó là nỗi buồn và cả một “bể
thảm trời sầu” của lớp thanh niên thời ấy. Có thể coi Tương Phố là nhịp cầu nối của
văn thơ truyền thống với thời hiện đại: người ta vẫn thấy những cảm xúc và nét luân lí
cũ được thể hiện bằng bút pháp ước lệ, lời văn biền ngẫu nhưng đã có được sự say
đắm, tha thiết và những cảm xúc lãng mạn báo hiệu cho sự hình thành dòng văn học
lãng mạn vài năm sau.
Nói đến Tương Phố, người ta nghĩ ngay đến tác phẩm “Giọt lệ thu” nổi tiếng.
Tuy nhiên, ta cũng không thể không nhắc đến những sáng tác khác rất đáng chú ý của
bà như: “Trúc Mai” (truyện dài bằng thơ); “Một giấc mộng” (truyện, 1928); “Mối
thương tâm của người bạn gái” (văn xuôi, 1928); “Bức thư rơi” (văn xuôi, 1929);
“Tặng bạn chán đời” (thơ 1929), “Tái tiếu sầu ngâm” (thơ lục bát, 1930), “Khúc thu
hận” (thơ song thất lục bát, 1931), “Đời đáng chán” (thơ song thất lục bát, 1932),...
Trong các bài kí sự sau “Giọt lệ thu”, Tương Phố có vẻ muốn tiến tới thể đoản
thiên. Tác giả tự thuật lại mình, lại đem một vài nhân vật ở ngoài vào, tạo ra một chút
động tác. Tuy nhiên, cách kết cấu rất sơ sài và câu chuyện có khi rất giả tạo. Bởi tác
giả viết để giảng luân lí, để giãi bày những tư tưởng về nhân sinh, về thời thế nên câu
chuyện có phần khiên cưỡng.
“Một giấc mộng” thuật lại dưới hình thức bức thư gửi cho người bạn gái kể về
cuộc phiếm du trong mộng của tác giả. Trong đó, tác giả gặp các cô bạn gái và cùng
nhau bàn luận về địa vị nữ giới, hạnh phúc gia đình, văn minh Âu Á và “đời đáng chán
hay không đáng chán”...
“Mối thương tâm của người bạn gái” lại là những trang văn miêu tả lời người
bạn gái của tác giả giãi bày những lẽ vì sao mình khóc. “Bức thư rơi” viện cớ lượm
được một bức thư rơi nên đưa đăng lên báo – trình bày những ý kiến của tác giả về
thời thế...“Tặng bạn chán đời” là lời tự thuật của một bạn gái kể chuyện một nữ sinh
thi hỏng về nhà lại gặp cảnh dì ghẻ con chồng nên muốn tự mình kết liễu cuộc sống.
Thế nhưng sau khi nghe người ở ngăn cản, thuyết lí tại sao không nên chán đời và
nghe tin tự sát của cậu công tử đàng điếm chán đời nhà hàng xóm, cô đã nghĩ lại và
tìm ra lẽ sống ở đời.
Ta thấy rằng những thiên kí sự trên của Tương Phố đều mang chủ ý cảnh thế,
trong cái chủ trương chung làm văn nghệ để phục vụ luân lí của Nam Phong. Về kĩ
thuật thì động tác bị hi sinh cho thuyết lí. Tác giả đặt ra một khung cảnh cho có
chuyện, cốt để giãi bày những ý kiến xây dựng của mình về nhân sinh về thời thế. Đến
câu văn thì tuy ở các bài về sau không quá cầu kì đẽo gọt như ở “Giọt lệ thu”, song
vẫn săn sóc, trau chuốt ở từ ngữ, ở nhịp điệu cho đẹp và êm. Văn xuôi có nhịp có vần
không khác gì thơ. Tuy vậy nhưng ở buổi đầu đăng lên Nam Phong vẫn được nhiều
độc giả thưởng thức và tán thưởng.
Thơ của Tương Phố được đánh giá cao hơn văn xuôi do tính réo rắt và cảm
động lòng người cách chân thật. Quả thực, văn xuôi không phải thứ văn đẽo gọt mà
hay, đẽo gọt quá nhiều sẽ làm cho lời văn mất tự nhiên. Hơn nữa, thường thì cái hay
của văn xuôi trước hết ở nghĩa của lời. Do đó, nếu lời quá rườm sẽ làm cho văn trở nên
sáo rỗng, không thật. Vì vướng phải những khuyết điểm trên nên văn xuôi của Tương
Phố không được đánh giá cao. Ngược lại, ở mảng thơ ca, những lời và ý được viết ra
từ chính tâm can của bà lại mang đến hiệu quả cao.
Ngoài “Giọt lệ thu”, Tương Phố còn có bài “Khúc thu hận” và “Tái tiếu sầu
ngâm” cũng rất được chú ý.
Bài “Khúc thu hận”( Nam Phong, số 164 – 7/1931) làm thể song thất lục bát
khá điêu luyện về ý tứ và hình thức. Nhiều câu rất giống với “Chinh phụ ngâm” của
dịch giả Đoàn Thị Điểm.
“Chàng đi, đi chẳng trở về
Thu về, thiếp những tê mê dạ sầu!
Làng mây nước biết đâu nhắn gửi?
Khoảng đất trời để mãi nhớ thương... ”
Đem so với “Chinh phụ ngâm” sẽ thấy rất giống những câu như:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió,
Thiếp thì về buồng cũ gối chăn.
Đoái trông theo đã cách ngăn,
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh”.
Đến những câu tình ý đậm đà, thiết tha, thể hiện rõ lời than của người thiếu
phụ:
“Nỗi li hận mây chiều gió sớm,
Tình tương tư khoảng vắng canh trường
Gió mưa tâm sự thê lương
Chỉ kim ai vá đoạn trường nhau đây!”
Bài “Tái tiếu sầu ngâm” làm khi bà tục huyền chứa tình ý đậm đà và thiết tha
của một người nuốt lệ ngậm cười mà ôm cầm thuyền khác vì nghĩ đến đứa con côi
không nơi nương tựa:
“E dè buổi gió chiều mưa
Con côi mẹ góa dễ nhờ nương đâu?
Bước đi âu cũng thương nhau
Dừng chân đứng lại cơ mầu dở dang
Dây loan chắp mối đoạn tràng
Ngâm câu “tái tiếu” hai hàng lệ sa... ”
Tương Phố có những bài thơ nhắc người ta tình cảm cố hương sâu đậm1:
“... Nhớ ngày đông, giá cóng tay,
1 Thơ Tương Phố dẫn trong phần này lấy từ Văn học Việt Nam (1900 – 1945), NXB Giáo dục, tái bản lần thứ 13, 2010, Hà Nội, trang 237 – 238.
Nhớ thu sang, ngọn gió may lạnh lùng
Nhớ xuân, muôn tía ngàn hồng
Nhớ sen mùa hạ nở tung mặt hồ
Đồng quê, nghĩ nhớ con cua
Lũy tre gió lộng vi vu sáo diều
Quê nhà đầm ấm bao nhiêu
Mẹ cha, em nhớ bao chiều yên vui”.
Bài thơ khiến người ta liên tưởng đến câu ca dao về người con gái đi lấy chồng
xa, nhớ nhà: “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”, mà vẫn mang nỗi buồn da diết
của thời đại tác giả:
“Bắc Nam duyên phận xa xôi
Hương quan nghìn dặm mấy hồi chiêm bao!”
Trong thơ Tương Phố, người ta gặp những motif mới về quan hệ vợ chồng. Từ
cái ghen của người vợ:
“Nhớ ngày xưa anh cảm chị Hằng
Đa tình đến nỗi thương trăng lạnh lùng
Rẽ mây ước tới Thiềm cung
Nguyện đem chăn gối bạn cùng Thường Nga.
Vợ gần, cảm bóng trăng xa
Ghen trăng, vợ bẳn: “Hằng Nga... Nga gì!”
(Nụ cười dưới trăng – Mưa gió sông Tương)
đến tình cảm vợ chồng:
“... Cùng nhau hú hí sớm trưa
Bữa cơm giấc ngủ cùng chờ đợi nhau
... Yêu có phút lặng nhìn chẳng chớp
Trông nhau cùng muốn nuốt nhau đi”.
(Tự tình – Mưa gió sông Tương)
Đặc biệt, có những câu thơ của Tương Phố đi xa hơn trong tình cảm lãng mạn
mà thơ xưa không hề có:
“Thân này, đôi dẫu đủ đôi
Lòng này, riêng vẫn lẻ loi tấm lòng!
Theo duyên ân ái đeo bòng
Trăm năm vẫn một khúc lòng bi thương!”
(Tái tiếu sầu ngâm)
Quả thực, Tương Phố đã đóng góp cho văn học Việt Nam tinh thần bản sắc khi
sử dụng những thể thơ thuần Việt để sáng tác. Không những thế, bà còn mạnh dạn viết
ra những chuyện tình cảm vợ chồng đời thường rất chân thật, không ước lệ, sáo rỗng.
Trong khi phần lớn phụ nữ đương thời còn chưa dứt ra khỏi những trói buộc phong
kiến thì đã có những người như Tương Phố đã biết thương kim, tích cổ, than nước, lo
đời, biết băn khoăn tư lự tới những vấn đề quan trọng sâu xa thì thực đáng quý trọng.
Tương Phố là một nữ sĩ có tài và là một trong những người tiêu biểu có ảnh hưởng đến
lịch sử văn học và lịch sử phát triển của phụ nữ Việt.
II. Đông Hồ
II.1. Đôi nét về tác giả Đông Hồ
Đông Hồ sinh năm Bính Ngọ (1906) tại làng Mỹ Đức, tỉnh Hà Tiên. Họ Lâm,
nhũ danh là Kỳ Phác (bộ ngọc), hộ tịch chép là Tấn Phác (Biện Hoà Tấn Phác), ông
bác đặc tiểu tự là Quốc Tỉ (truyền quốc ngọc tỉ) sau đổi là Trác Chi (Hữu phác ngọc,
nghi sử ngọc nhân điêu trác chi).
Vì tổ tiên mấy đời đều ở ven Đông Hồ ấn nguyệt, một thắng cảnh trong Hà Tiên
thập cảnh, nên khi bắt đầu biết làm thơ đã lấy hiệu Đông Hồ. Rồi “dĩ hiệu hành”, nghĩa
là đời biết tên hiệu đó hơn, không cần biết tên thật nữa.
Sau năm quốc biến 1945, ông dời nhà lên ở Sài Gòn, lại có biệt hiệu là Thủy Cổ
Nguyệt (chiết tự chữ “hồ”), là Đại Ẩn Am (Đại ẩn ẩn thành thị). Vì sinh trưởng ở nơi
cùng tịch, nên chữ Pháp, chữ Hán đều được học rất ít. Chỉ chuyên tự học tiếng Việt mà
thành một văn tài, thi tài.
Có tiếng từ năm 1923 đến năm 1933, ông là một cây bút miền Nam chịu ảnh
hưởng mạnh của Nam Phong. Ban đầu, ông chuyên sao lục thi văn của Nho gia miền
Nam và gửi đăng trên Nam Phong. Sau đó gửi đăng chính thơ của ông. Từ năm 1926,
ông thường có bài trên Nam Phong, trở thành một cộng tác viên và đại biểu cho phái
Nam Phong ở Nam Kì. Ông chủ yếu biên soạn, khảo cứu, kí sự, tùy bút, trong đó, làm
văn nhiều hơn làm thơ.
Năm 1935, báo Nam Phong đình bản, ông nghỉ viết, tự ra chủ trương tuần báo
“Sống”, tự lực xuất bản ở Sài Gòn. Được ít lâu vì không tự túc nổi nên tuần báo của
ông cũng đình bản.
Từ năm 1936 đến năm 1945, ông về Hà Tiên ẩn cư.
Năm 1953, Đông Hồ làm giám đốc “Nhân Loại tập san”, xuất bản ở Sài Gòn để
làm cơ quan cho nhà xuất bản Bốn Phương và nhà Sách Yiểm Yểm thư trang sáng lập
từ năm 1950.
Thành tích đáng ghi nhận hơn hết là từ năm 1926 đến năm 1934, ông mở nhà
nghĩa học trên bờ Đông hồ, lấy tên là “Trí Đức Học Xá”, tự mình làm trưởng giáo, chủ
trương chuyên dạy toàn tiếng Việt, luôn luôn cổ động khuyến khích cho học trò và bạn
bè tin vào tương lai Việt Ngữ. Trường này dụng ý theo lối giáo dục đạo học, sống gần
thiên nhiên như nhà tịnh xá Santiniketan của thi hào R.Tagore ở Ấn Độ.
Trường mở cả lớp hàm thụ để cho học trò ở xa Hà Tiên cũng có thể tập luyện
tiếng Việt, cho nên, trong mấy năm liền, đã gây được ảnh hưởng tốt ở miền Nam.
Ngày 25 tháng 3 năm 1969 (tức ngày mồng 8 tháng 2 năm Kỷ Dậu), trên một
giảng đường ở Đại học Văn Khoa (bây giờ là Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
thành phố Hồ Chí Minh), Đông Hồ đã bất ngờ ngã xuống lúc đang bình bài thơ “Trưng
nữ vương” của Ngân Giang. Bài thơ nói về nỗi cô đơn, lạnh lẽo của người nữ anh hùng
chạnh nhớ tới chồng sau chiến thắng, một tứ thơ rất độc đáo, rất nữ tính mà Đông Hồ
đã tinh tế chỉ ra. Được các học trò đưa vào bệnh viện, ông mất ngay ngày hôm đó.
II.2. Sự nghiệp thơ văn và đóng góp của Đông Hồ
Tác phẩm đã xuất bản thành sách:
- “Úc Viên Thi Thoại” (1909)
- “Hà Tiên Mạc thị sử” (1929),
- “Thơ Đông Hồ” gồm các bài từ khi mới làm thơ năm 1922 đến năm 1932
(Nam ký thư quán Hà Nội xuất bản năm 1932).
- “Lời hoa”, nhuận sắc các bài tập Việt văn của học trò Trí Đức Học Xá. Hợp
thái trong ba tập: “Bông hoa đầu mùa”, “Bông hoa đua nở”, “Bông hoa cuối mùa” (Trí
Đức Học Xá Hà Tiên xuất bản, năm 1934).
- “Linh Phượng”, đã đăng ở Nam Phong tạp chí năm 1928 (Nam ký thư quán
Hà Nội xuất bản năm 1934).
- “Cô gái xuân”, thơ mới, làm trong khoảng 1932-1935 (Vị Giang văn khố Nam
Định xuất bản năm 1935).
- “Những lỗi thường lầm trong sự học quốc văn”, biên soạn chung với Trúc Hà
(Trí Đức Học Xá xuất bản, năm 1936).
- “Hà Tiên thập cảnh”, in chung với “Đường vào Hà Tiên” của Mộng Tuyết
thất tiểu muội (Xuất bản Bốn Phương, Sài Gòn, năm 1960).
- “Trinh trắng”, thi tuyển (Xuất bản Bốn Phương, Sài Gòn, năm 1961).
- “Truyện Song Tinh”, khảo cứu và sao lục “Song Tinh bất dạ truyện”, diễn ca
của Nguyễn Hữu Hào đầu thế kỷ XVIII (Xuất bản Bốn Phương, Sài Gòn, năm 1962).
- “Chi lan đào lý, tùy bút tâm tình” (trích in, tạp chí Bách khoa thời đại, tháng 7
năm 1965).
- “Năm ba điều nghĩ về Truyện Kiều”, thuyết trình nhân dịp kỷ niệm 200 năm
sinh Nguyễn Du (trích in,Văn hóa nguyệt san, tháng 10-11, năm 1965).
- Biên khảo: “Văn Học Miền Nam: Văn Học Hà Tiên” (1970).
Mặc dù có viết nhiều bài văn xuôi loại kí sự, biên khảo nhưng văn nghiệp của
Đông Hồ cốt yếu là về thi ca. Những bài thơ đầu tiên của ông đăng trên Nam Phong số
15 (“Trác Chi thi văn tập”, 12 bài). Từ đó thỉnh thoảng ông vẫn có bài trong Nam
Phong. Số Nam Phong 151 đăng rất nhiều bài của ông nhân dịp ông tục huyền. Năm
1932, ông thu góp những bài đã đăng, thêm vào nhiều bài mới và xuất bản tập “Thơ
Đông Hồ”.
Đông Hồ sinh trưởng ở miền Nam song tự đào tạo theo thẩm thức văn chương
miền Bắc. Đọc thơ ông người ta thấy ở giọng câu mặt chữ rất ít dấu vết thổ ngơi miền
Nam. Ông ít làm đoản ca lục bát, không hề làm hát nói, càng không biết đến những thể
bình dân miền Bắc như xẩm chợ, đò đưa, mà thường chỉ xu hướng về lối ngũ ngôn thất
ngôn hay đôi khi là song thất lục bát.
Thơ Đông Hồ nói chung có tính phong độ cổ kính và trang nhã. Nhất là những
bài họa cảnh thác tình phảng phất khí vị Đường nhân, tuy lời thơ kém hàm súc cô
đọng. Ví như bài “Chơi Bạch tháp động”:
“Bạch vân thăm dấu cũ
Người Bạch vân đã vắng
Người Bạch vân chẳng thấy
Hỏi đá đá không nói
Nhìn đá lòng ngơ ngẩn
Kim cổ mầu rêu phủ
Ngàn cây cơn gió thoảng
Nghe kinh lòng tục sạch
Trần gian hay cực lạc
Người này tình cảnh ấy
Bạch tháp nhớ người xưa
Động Bạch tháp còn trơ
Chòm Bạch vân phất phơ
Hỏi mây mây làm ngơ
Trông mây dạ thẫn thờ
Tang thương bóng nhạt mờ
Cửa động tiếng chuông đưa
Lắng kệ giấc tiên mơ
Bây giờ là bao giờ
Lai láng mảnh hồn thơ”.
Người ta thường thấy ở ông một tâm hồn bình thản xa với cái rung động thiết
tha, não nề của Hải Nam, Á Nam. Nhà thơ Đông Hồ sống bình lặng trong cái thế giới
Hà Tiên của ông và ưu diễn tả những tình cảm nghệ sĩ đôi khi hời hợt bằng những câu
thơ trang sức một cách dễ dàng. Tuy nhiên, khi bị tác động bởi tang tóc chia li, ngòi
bút thơ của ông cũng thốt ra những lời bi thiết như trong bài “Linh Phượng lệ ký”.
Nếu Tương Phố có “Tái tiếu sầu ngâm” thì Đông Hồ cũng có “Tục huyền cảm
tác”:
“Chim linh phượng một bay chẳng lại
Nhà độc thê mưa vẩy lệ sầu
Gió mưa hai độ xuân thu
Khắp trong non nước toàn màu thê lương”.
Những bài thơ nước mắt như trên đã đi vào lòng độc giả đương thời và gây xúc
động sâu sắc. Nhưng đối với thế hệ sau thì sức hấp dẫn của chúng đã không còn mạnh
mẽ. Tuy nhiên, con đường thi nghiệp của Đông Hồ còn dài. Ra khỏi giai đoạn 1932,
ông tiếp tục thích nghi với giai đoạn mới. Và về sau, tuy không vươn hẳn lên tỏa sáng
song thơ ông vẫn tiếp tục ra đời và ngả dần sang màu sắc thơ mới. Ngay 1935, tập “Cô
gái xuân” của ông ra đời với những bài như “Bốn cái hôn” hay “Mua áo” đã đưa tác
giả lên một vị thế khác.
Có thể nói rằng, từ tập “Thơ Đông Hồ” cũ kỹ đến tập “Cô gái xuân” mới mẻ,
người ta nhận thấy một sự biến đổi, thay hình mới mẻ. Từ chất lãng mạn trong khuôn
khổ cổ điển, Đông Hồ nhanh chóng chuyển theo dòng thơ mới lãng mạn qua tập “Cô
gái xuân” (in trong Vị giang văn khố, Nam Định) gồm những bài thơ sáng tác từ năm
1932 đến năm 1942.
Nhà phê bình Trần Thanh Mại khi viết truyện ký Hàn Mặc Tử (Huế, 1941)
cũng có ý nhắc nhớ tới hiện tượng Đông Hồ đã mau chóng từ bỏ lối cảm lối nghĩ xưa
cũ, hóa thân và đam mê nhập cuộc làng Thơ mới: “Ở tận góc trời Nam, ông Đông Hồ
2 Dẫn theo PGS.TS Nguyễn Hữu Sơn, Người đương thời thơ mới bàn về thơ Đông Hồ, http://www.tonvinhvanhoadoc.vn, Hà Nội, 2010, trang 2.
Lâm Tấn Phác, không cưỡng nổi với phong trào mới, cũng đành bỏ hồ, bỏ động của mình mà về nhập ngũ vào đạo binh cách mệnh”…2
Trong bài mở đầu “Một thời đại trong thi ca” ở bộ sách tổng thành “Thi nhân
Việt Nam” (Nguyễn Đức Phiên xuất bản, Huế, 1942), Hoài Thanh - Hoài Chân nhận
diện Đông Hồ trong toàn cảnh nền thơ đương thời:
“Chung quanh ngôi sao Thế Lữ châu tuần bao nhiêu hành tinh có tên và không
tên, hầu hết các thi sĩ lớn nhỏ hồi bấy giờ (...). Cả những vì sao vốn ở một trời khác:
Vân Đài, Đông Hồ, Mộng Tuyết, cũng ghé về châu tuần một lúc...
[…]Ngoài Lưu Trọng Lư, Phan Văn Dật, Nguyễn Nhược Pháp, Nguyễn Bính,
Nguyễn Đình Thư, Vũ Hoàng Chương, trong dòng Việt cơ hồ không còn ai. Hoặc
cũng có thể tìm thấy ở đây: Đông Hồ, Nguyễn Xuân Huy, Thúc Tề, Nguyễn Vỹ (trong
bài “Gửi Nguyễn Vỹ”), T.T.Kh, Hằng Phương, Mộng Huyền, Trần Huyền Trân.
Nhưng không lấy gì làm rõ lắm…”
Thế rồi hai tác giả tuyển bốn bài đều từ tập “Cô gái xuân” vào “Thi nhân Việt
Nam” (tương đương với số bài của Tế Hanh, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, J. Leiba, Vũ
Hoàng Chương) và đi sâu phân tích đặc điểm thơ Đông Hồ:
“Hoàn cầu dễ ít có thứ tiếng được âu yếm, nâng niu như tiếng Nam. Âu cũng vì
tiếng Nam đương ở trong cảnh khốn cùng, đương bị nhiều người rẻ rúng. Thói thường
con nhà nghèo vẫn thương yêu cha mẹ hơn con nhà sang trọng.
[…]Khốn nỗi, người ra đời vào lúc văn học nước nhà đương hồi tàn tạ. Vốn
tính hiền lành, không đủ táo bạo để gây nên giữa làng văn một cuộc biến động cần
phải có, lúc đầu người chỉ cam tâm hiến mình cho những lề lối xưa ràng buộc. Và
người cũng không hề lấy thế làm bứt rứt khó chịu, chưa bao giờ người có ý muốn thoát
ly.
Mặc dầu, sự tình cờ đã một đôi lần đưa người ra ngoài khuôn sáo. Trong tập
“Thơ Đông Hồ”, giữa bao nhiêu câu văn trơn tru mà tầm thường, trống rỗng, đột nhiên
ta gặp đôi lời dường như trong ấy ẩn náu một linh hồn. Như những lời thuật hoài sau
khi nàng Linh Phượng đã thành người thiên cổ:
“Mối sầu khôn dãi cùng trời đất;
Chén rượu đành khuây với nước non.
Cùng những lời nhớ bạn, hoặc thật thà:
“Khi biệt dễ dàng, khi gặp khó;
Chốn vui ai nhớ chốn sầu chi”.
hoặc kín đáo:
“Cái oanh đâu bỗng ngoài hiên gọi
Đã hai lần rồi xuân vắng mai”.
Với nỗi thắc mắc ấy, với nỗi buồn man mác ấy, Đông Hồ đã đi xa trường thơ
Nam Phong nhiều lắm.
Nhưng trong tập Thơ Đông Hồ, lạ nhất là bài “Tuổi xuân”, người ta có thể
tưởng nó đã ở đâu lạc tới. Đến khi tác giả đưa in lại vào tập “Cô gái xuân” ta mới thấy
nó tìm được hoàn cảnh tự nhiên của nó. Bởi vì trong bài “Tuổi xuân” có cái bồng bột,
cái trịnh trọng trước tình yêu mà cả thế hệ trước đây không từng biết: họ quen xem
người đàn bà như một thứ đồ chơi.
Đông Hồ vẫn là người của thế hệ bây giờ vậy. Cho nên phong trào thơ mới vừa
nổi lên là người nhận ngay được con đường của mình. Với phong trào thơ mới tưởng
không có sự đắc thắng nào vẻ vang hơn.
Từ nay, Đông Hồ sẽ chỉ ca tình yêu và tuổi trẻ. Ngòi bút của thi nhân riêng âu
yếm những nỗi lòng của người thiếu nữ, khi bình yên lặng lẽ, khi phơi phới yêu
đương. “Cô gái xuân” của Đông Hồ thỏ thẻ những lời đến dễ thương, những lời tuồng
như lả lơi mà vẫn trong sạch. Ta thấy trong lời nàng cái êm dịu, cái mơn trớn, vuốt ve
của tình ái. Nghe nàng nói lòng nào không xiêu? Nhất là khi nàng kể cảnh ái ân trên
bãi biển ta khó có thể không cùng nàng tơ tưởng đến những cảnh ấy. Đông Hồ là
người thứ nhất đã đưa vào thi ca Việt Nam cái vị bát ngát của tình yêu dưới trăng
thanh, trong tiếng sóng.”[38, 350 - 351]
Vào đúng năm 1942 này, nhà phê bình Vũ Ngọc Phan đã có bài phác thảo chân
dung Lâm Tân Phác (Hiệu Đông Hồ, tự Trác Chi) trong sách “Nhà văn hiện đại”
(Quyển nhất, NXB Tân dân, H,. 1942), trong đó dẫn giải và phân tích chi tiết sắc thái
thơ Đông Hồ:
...“Gần đây, trong Nam, số thi nhân mỗi ngày một ít, nên khi nói đến thơ Nam
Kỳ, ai cũng phải nhớ ngay đến thi sĩ Đông Hồ, người đã viết mấy bài có giá trị trong
tạp chí Nam Phong. Cách đây hai mươi năm, Đông Hồ có đăng nhiều bài thơ trong tạp
chí này, mà bài xuất sắc hơn cả, làm cho ông nổi tiếng. Là bài lệ ký: Linh Phượng
(Nam Phong, số 128 - Avril 1928), bài Khóc vợ, mà Thượng Chi đã viết mấy lời giới
thiệu rất màu mè (...).
...Đông Hồ vốn là một thi sĩ giàu tình cảm nên văn bài Linh Phượng của ông là
một thứ văn đẽo gọt, lời nhiều hơn ý, lời tràn lan mà ý quanh co, như không bao giờ
hết...”[30, 124 - 125]
Sau đó, Vũ Ngọc Phan đã nhận xét rẳng: “Phần nhiều thơ của Đông Hồ kém
phần đặc sắc nếu đem so với thơ của những thi gia Nam Kỳ như Phan Văn Trị, Tôn
Thọ Tường. Giọng thơ Đông Hồ chẳng khác nào giọng những thơ của người Bắc đăng
trong mục “Văn uyển” của tạp chí Nam Phong hồi xưa, nghĩa là không có cái gì hỏng
mà cũng không có cái gì hay ho lắm.” Tác giả đã dẫn ra những dẫn chứng cho thấy thơ
Đông Hồ có nhiều bài “ngoài cái nhẹ nhàng, thanh nhã ra, không có cái gì làm cho
người đọc cảm động”.[30, 127]
Trái lại, Vũ Ngọc Phan đánh giá cao Đông Hồ trong việc dịch thơ. Ông viết
rằng: “Đông Hồ dịch thơ lại khéo lắm. Bài “Cái bình vỡ” dịch theo bài “La vese brisé”
của Sully Prudhomme, vừa sát nghĩa, vừa có nhiều câu tài tình.
Như mấy câu chữ Pháp:
“Souvent aussi la main qu’on aime,
Effleurant le cour, le meurtrit;
Puis le coeur sefend de lui même,
La fleur de son amour périt;
Toujors intact aux yeux du monde,
Il sent croitre et pleurer tout bas;
Sa blessure fine et profonde:
Il est brise, n’y touchez pas”.
Đông Hồ dịch là:
“Thường tình người ta có khác chi,
Phải tay người yêu chạm đến khi.
Chạm đến quả tim tê tái vỡ,
Hoa ái tình kia cũng héo đi.
Trông vẫn còn nguyên ai biết đâu,
Vết thương kia nhỏ nhưng mà sâu.
Lệ lòng mấy giọt âm thầm rỏ,
Bình vỡ, ai ơi, chớ động vào!”
Dịch như vậy không phải cái lối gò từng chữ, bó từng câu mà rất thoát nghĩa.
Đọc riêng bản dịch không ai biết là thơ dịch.”[30, 129 - 130]
Quả thật, trong tập “Cô gái xuân” (xuất bản năm 1935), giọng thơ ông đã đổi
mới ít nhiều. Tuy thể thơ vẫn còn là ngũ ngôn hay thất ngôn, nhưng ý trong nhiều bài
thật có khác những bài trong tập “Thơ Đông Hồ”. Đọc bài “Bốn cái hôn” trong tập
“Cô gái xuân”, người ta thấy ông đã chịu ảnh hưởng ít nhiều thơ mới.
Vốn xuất thân từ nho học nhưng ông là người đầu tiên ca ngợi cái hôn giữa trai
gái. Trong bài “Bốn cái hôn”, tuy phải xếp cái hôn của người yêu ở đằng sau cái hôn
của mẹ, của cha, của cô giáo nhưng so với thời ấy thì đã là táo bạo:
“Một hơi thở mát qua, dịu dàng
Như cơn gió biển thoảng bay ngang
Rồi luồng điện ấm chạm trên má,
Ân ái môi anh kề nhẹ nhàng”.
Ông đã diễn tả sự khao khát tình thương yêu của một thiếu nữ ngây thơ bằng
những lời thơ rất khéo. Đồng thời, tình yêu của đôi trai gái qua ngòi bút của Đông Hồ
diễn ra một cách nồng nàn mà không lẩn vào những ý trai lơ, dâm đãng:
“...Nay em đang giữa cảnh đêm xuân,
Gió trăng tình tứ đêm thanh tân.
Trước vùng trời biển cảnh lồng lộng,
Cùng anh trao đổi tình ái ân.
Khoác tay anh đi trên bãi cát,
Cát bãi, trăng soi màu trắng mát.
Nghiêng đầu lơi lả tựa vai anh,
Lặng nghe sóng bãi đưa rào rạt.
Nước mây êm ái bóng trăng sao,
Say sưa em nhìn lên trời cao,
Buông khúc đàn lòng theo nhịp gió,
Giờ phút thần tiên, hồn phiêu dao”.
(Bốn cái hôn)
Lời thơ nhẹ nhàng, êm ái như để ru cái tình yêu của đôi trai gái giữa một đêm
trăng trên bãi cát, theo với nhịp gió thoang thoảng, tiếng sóng ào ào, dường như tình
yêu của loài người cũng hoà cùng cảnh êm đềm và bát ngát của vũ trụ.
Bài “Mua áo” có những câu tả tình yêu một cách bóng bẩy mà táo bạo:
“Ô hay! Nghe hỏi mà yêu nhỉ!
Thước tấc anh còn lựa hỏi ai.
Rộng hẹp, tay anh bồng ẵm đó,
Ngắn dài, người mới tựa bên vai!”
Ngoài ra, Đông Hồ có một bài thơ vịnh Mạc Cửu và Mạc Thiên Tích, làm thể
trường thiên cổ thi, lời cứng cáp, khác hẳn những bài tứ tuyệt uỷ mị trong tập “Thơ
Đông Hồ”.
“Chẳng đội trời Thanh Mãn
Tìm qua đất Việt bang;
Triều đình riêng một góc,
Trung hiếu ven đôi đường;
Trúc thành xây vũ lược,
Anh các dựng văn chương;
Tuy chửa là cô quả,
Mà cũng đã bá vương;
Bắc phương khi vỡ lở,
Nam Hải lúc kinh hoàng;
Giang hồ lòng lang miếu,
Hãn mặc thân chiến tràng;
Đất trời đương gió bụi,
Sự nghiệp đã tang thương;
Anh hùng lo thành bại,
Tuẫn tiết còn hiển vang;
Non bình mây khói giận,
Hồ Đông trăng nước gương;
Tâm sự sau xưa đất,
Nghìn thu một tấc vàng”.
(Nam Phong, số 143 - trang 343)
Những bài thơ hay của Đông Hồ, đều có cái đặc tính là trang nhã và nghiêm.
Tuy ông cũng hưởng ứng phong trào mà xuất bản tập “Cô gái xuân” nhưng người ta
chỉ còn nhớ ông là tác giả tập lệ ký “Linh Phượng” đăng trong Nam Phong cùng một
năm với bài “Giọt lệ thu” của Tương Phố, người khóc vợ, người khóc chồng, mỗi bên
riêng có một giọng ngậm ngùi, thảm thiết...
Khẳng định về tấm lòng yêu nước của Đông Hồ, trong “Chân dung văn học”
Hoài Anh đã dẫn chứng những cứ liệu rất quan trọng: “Lòng yêu nước của Đông Hồ
được gửi gắm vào cảnh sắc và lịch sử. Đông Hồ rất yêu Hà Nội và đã có quan hệ thư
từ trao đổi sách báo với Nguyễn Tuân từ năm 1942; năm 1926-1927, ông đã ra Bắc và
gặp Tản Đà; năm 1944, Nguyễn Bính khi ghé Hà Tiên, Đông Hồ đã nhường gian Nam
Phong tiểu các cho Nguyễn Bính để thi sĩ nằm đó mà làm thơ, Nguyễn Bính dừng gót
giang hồ ở đó một thời gian mới về Rạch Giá”.[1, 398]
Đông Hồ chưa phải là một hiện tượng đột xuất trong làng Thơ mới nhưng
người đương thời khắp trong Nam ngoài Bắc đã tỏ lòng tri ân, trân trọng ghi nhận một
tiếng thơ bình dị, chan chứa nghĩa tình. Con đường đi từ “Thơ Đông Hồ” đến “Cô gái
xuân” đã được giới phê bình đương thời đón nhận, khẳng định như một bước tiến,
chứng tỏ khả năng tự vận động, đổi mới và hòa nhập của Đông Hồ với phong trào Thơ
mới 1932-1945, góp phần xây dựng và nối kết vùng văn học cực Tây Nam Bộ với nền
văn học Việt Nam dân tộc và hiện đại.
Phần thứ ba
KẾT LUẬN
Xét chung trong chuyển động của tiến trình xã hội và văn học, thơ Việt Nam từ
đầu thế kỉ XX đến những năm 30 đã có những nhịp đi và bước nhảy ngoạn mục tạo đà
cho một cuộc cách mạng trong thơ ca thực thụ bắt đầu liền sau đó (1932-1945). Cuộc
cách mạng nằm trong dòng chảy của quá trình hiện đại hóa đất nước, hiện đại hóa đời
sống, tư tưởng, văn hóa, văn học. Lẽ đương nhiên, văn học dần dần vượt ra khỏi ảnh
hưởng của tư tưởng Trung Hoa cổ tiếp xúc với các trào lưu tư tưởng, văn hóa, văn học
hiện đại của thế giới trên một cơ sở, một cái gốc chung là yêu nước, dân tộc hoặc sôi
nổi, mạnh mẽ, hoặc âm thầm kín đáo và được thể hiện bằng nhiều dạng thức khác
nhau. Từ Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền đến Tản Đà, Tương Phố, Đông Hồ,
Trần Tuấn Khải... và các nhà thơ mới sau này luôn có những đột biến bất ngờ với sự
phân nhánh, chia dòng, đứt gãy,... về mặt nội dung hay hình thức của thơ ca.
Ngày mà thơ Tương Phố và Đông Hồ ra đời, họ đã mang đến cho thi đàn công
khai một “ngọn gió thu” hiu hắt sầu thảm với những giọt lệ sầu bi của kẻ khóc chồng,
người khóc vợ. “Giọt lệ thu” của Tương Phố và “Linh Phượng lệ ký” của Đông Hồ
thường được ghép liền với nhau như hai áng văn dẫn đường cho bầu không khí sầu
thảm đi vào văn chương thời đó. Từ đó trở đi, trong thơ của người sau 1932 được xếp
vào hàng các nhà thơ mới cũng toàn một màu buồn, một sự đổ vỡ mang tính thời đại.
Có thể nói rằng, đóng góp của Tương Phố và Đông Hồ chủ yếu ở địa hạt văn
chương, trong đó “Giọt lệ thu” và “Linh Phượng lệ ký” là một trong những dấu ấn khó
phai mờ trong lịch sử văn chương dân tộc ở thập niên thứ ba của thế kỷ XX. “Hai giọt
lệ” như tiếng kêu réo rắt, bi thiết của cá nhân con người hòa trong không khí buồn đau
chung của thời đại, góp phần báo hiệu “một thời đại mới trong thi ca” dân tộc – thời
đại của Thơ mới lãng mạn với những tên tuổi sáng chói như: Thế Lữ, Lưu Trọng Lư,
Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử...
Về mặt nội dung, “Hai giọt lệ” đã đóng góp một số điều mới mẻ có ý nghĩa
hiện đại hóa. Đó là sự thể hiện ở dạng trực tiếp con người cá nhân, cá thể với khát
vọng thổ lộ, chia sẻ của cái “tôi” ở buổi sơ khai, chân tình nhưng còn nhiều ấu trĩ, và
hợp với quy luật phát triển của văn học. Đồng thời, “Hai giọt lệ” cũng mới ở cảm xúc,
ở tư tưởng. Vắng một người thế gian thành hoang lạnh. Trước nỗi cô đơn, mất mát,
cộng đồng trở thành bóng mờ: giữa lúc bơ vơ ấy, thì ngay đại gia đình cũng chỉ có thể
làm nơi tạm trú cho thân xác thuộc phần đời thường phàm tục, chứ không còn thể là
nơi trú ngụ cho cả tâm hồn của người nữ sĩ… Không những thế, tình yêu lứa đôi dưới
góc độ tình cảm chồng vợ cũng được thể hiện khá chân thực.
Về phương diện hình thức, tuy văn của hai bài còn mang dấu ấn khá sâu nặng
của văn biền ngẫu nhưng đã khá uyển chuyển và mới mẻ. Chúng mới ở hình thức phu
diễn chen “văn xuôi” với thơ để phục vụ nhu cầu diễn đạt. Ngoài ra, “văn xuôi” lại réo
rắt biền ngẫu trong sáng tác của Tương Phố và trái lại, với Đông Hồ, nhiều đoạn lại
như là “thơ văn xuôi”... Tất thảy chúng đều thể hiện tính chất giao thời đặc trưng của
giai đoạn.
Trong thơ mới, cái “tôi” cá nhân như điểm tựa nhìn ra thế giới, trở thành một
nguyên tắc cắt nghĩa và lí giải thế giới. Chính cái “tôi” cá nhân ấy đã mang lại cho thơ
mới một nhãn quan ngôn ngữ mới, phù hợp với tâm lí và công chúng của thời đại mới,
góp phần để sẽ cùng làm nên một “cuộc cách mạng cho thi ca”.
Tất cả những điều trên cho thấy trong thế giới nghệ thuật thơ Tương Phố -
Đông Hồ, về cơ bản những chất liệu vẫn lấy từ chất liệu cũ của thơ trung đại nhưng
được mở rộng, cách tân. Tư duy thơ của Tương Phố - Đông Hồ cơ bản vẫn là lối tư
duy truyền thống, và điều đó ảnh hưởng chi phối đến quá trình lựa chọn ngôn từ cũng
như hình thức biểu hiện. Mặc dù cố gắng rất nhiều và đã thành công phải nói vang dội,
lúc mới ra, nhưng chỉ ít lâu, cả hai đã thành cũ kĩ, công chúng thờ ơ, vì họ đã bị vượt
qua. Mặc dù Đông Hồ có bước tiếp thành một nhà Thơ mới, song người ta nhớ ông
trước hết và chủ yếu vì ông có “Linh Phượng lệ ký”. Tương Phố - Đông Hồ đã góp
phần khuấy nên bầu không khí mới mẻ buổi đầu khi thi đàn hầu như vẫn im lìm trong
phạm trù trung đại. Ý nghĩa hiện đại hóa mà họ mang lại vẫn là sự cách tân trên cái
nền cơ bản của thi ca truyền thống. Về sau khi thơ mới nở rộ thì Tương Phố và Đông
Hồ bị nhanh chóng vượt qua.
Sáng tác của Tương Phố - Đông Hồ giai đoạn giao thời đã góp vào dàn đồng ca
lãng mạn của thi đàn những viên gạch đầu tiên làm cầu nối giữa hai thời đại văn học.
Có thể nói, thơ của họ đã đi đến điểm tận cùng của thơ ca truyền thống, và cũng chính
họ đồng thời dợm những bước đầu tiên “vượt đường biên” sang hiện đại. Trong bối
cảnh lịch sử của giai đoạn văn học giao thời những năm đầu thế kỉ XX, ý nghĩa hiện
đại hóa mà “Hai giọt lệ” đã mang lại, dù không thật nhiều và không thật bề thế, song
cũng đã là đóng góp cần thiết và đáng quý; nói được thế này chăng: hai tác giả -
Tương Phố, Đông Hồ - thuộc số không nhiều những thi sĩ được lịch sử văn học dân tộc
trao cho sứ mệnh làm hiện thân của qui luật? Dẫu sao thì đó cũng là điều đáng trân
trọng biết bao!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB Hội nhà văn.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại – nhận thức và thẩm định, NXB
Khoa học xã hội.
3. Vũ Tuấn Anh (2012), Những sự kiện văn học Việt Nam (từ 1865 đến 1945), NXB
Khoa học xã hội.
4. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề “ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam
trung đại”, Tạp chí Văn học, số 5, trang 38 – 43.
5. Chinh phụ ngâm (2012), NXB Văn hóa thông tin.
6. Các nhà thơ nữ Việt Nam - sáng tác và phê bình (2001), NXB Giáo dục.
7. Phan Cự Đệ chủ biên (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo dục.
8. Tản Đà (2001), “Tản Đà về tác gia và tác phẩm”, NXB Giáo dục.
9. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo
dục.
10. Hà Minh Đức (2012), Một thế kỉ thơ Việt Nam (1900 – 2000), NXB Khoa học xã
hội.
11. Như Hiên Nguyễn Ngọc Hiền (2006), Nữ sĩ Việt Nam – tiểu sử và giai thoại cổ -
cận – hiện đại, NXB Văn học.
12. Trần Đình Hượu tuyển tập – tập 2 (2007), NXB Giáo dục.
13. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam (từ thế kỉ X đến thế kỉ XX), NXB
Đại học quốc gia Hà Nội,.
14. Lê Quang Hưng (sưu tầm và chỉnh lí) (2000), Nghệ thuật và nhân sinh tuyển tập,
NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
15. Trịnh Đình Khôi (2001), “Nghĩ về văn học Việt Nam thế kỉ XX”, Tạp chí Văn học,
số 10, trang 13 – 20.
16. Thanh Lãng (1997), Bảng lược đồ văn học Việt Nam (quyển hạ), NXB Trình Bày.
17. Mã Giang Lân (1998), “Chữ quốc ngữ và sự phát triển thơ ca đầu thế kỉ XX”, Tạp
chí Văn học, số 8, trang 45 – 50.
18. Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục.
19. Phong Lê (1983), “Đóng góp của văn thơ Hà Bắc hiện đại và vấn đề phát triển
văn nghệ địa phương”, Tạp chí Văn học, số 2, trang 84 – 96.
20. Phong Lê (1994), Văn học trong hành trình tinh thần của con người – tập tiểu
luận, NXB Lao động.
21. Phong Lê (2001), “Trên quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam vào nửa đầu thế
kỉ XX”, Tạp chí Văn học, số 1, trang 11 – 16.
22. Phong Lê (2002), “Thời kì văn học Việt Nam và cuộc chuyển giao từ văn học trung
đại sang văn học hiện đại”, Tạp chí Văn học, số 8, trang 3 – 6.
23. Phong Lê (2009), Hiện đại hóa và đổi mới văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Đại
học quốc gia Hà Nội.
24. Nguyễn Tấn Long (2000), Việt Nam thi nhân tiền chiến toàn tập, NXB Văn học.
25. GS Nguyễn Đăng Mạnh (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam – tập 7, quyển 1
(Văn học giai đoạn 1900 – 1945), Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia, NXB Khoa học xã hội.
26. Hương Nguyên (2002), “Các nhà văn nữ Việt Nam thời Pháp thuộc”, Tạp chí Văn
học, số 3, trang 63 – 70.
27. Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức (1999), Thơ ca Việt Nam – hình thức và thể loại,
NXB thành phố Hồ Chí Minh.
28. Phạm Thế Ngũ (1998), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập III), NXB
Đồng Tháp.
29. Vương Trí Nhàn (2002), “Nhà văn tiền chiến và quá trình hiện đại hoá trong văn
học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX cho tới 1945”, Tạp chí Văn học, số 1.
30. Vũ Ngọc Phan toàn tập (2010), NXB Văn học.
31. Phê bình – bình luận văn học (1992), NXB Tổng hợp Khánh Hòa.
32. Hoàng Phê (chủ biên) (2009), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
33. Phan Diễm Phương (1995), “Thể thơ dân tộc và sự lựa chọn của nền văn học
mới”, Tạp chí Văn học, số 11, trang 22 – 24.
34. Phan Diễm Phương (2000), Lời giãi bày của văn chương – Phê bình tiểu luận,
NXB Khoa học xã hội.
35. Nguyễn Hữu Sơn (1993), “Vấn đề cá nhân trong văn học cổ nhìn từ góc độ lí
thuyết”, Tạp chí Văn học, số 3, trang 7 – 11.
36. Trần Đình Sử (1995), “Thời trung đại – cái tôi trong các học thuyết, trong đời
sống và trong văn học”, Tạp chí Văn học, số 7, trang 1 – 4.
37. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB Đại học quốc
gia Hà Nội.
38. Hoài Thanh - Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, NXB Kim Đồng.
39. Nguyễn Bá Thành (2012), Giáo trình tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
40. Tác gia văn học Thăng Long – Hà Nội (từ thế kỉ XI – XX) (1999), NXB Hội nhà
văn.
41. Tổng tập văn học Việt Nam (2000), Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia, NXB Khoa học xã hội.
42. Từ điển Văn học (bộ mới) (2004), NXB Thế giới.
43. Nguyễn Vỹ (2007), “Văn thi sĩ tiền chiến”, NXB Văn học (in lại).
44. Văn học Việt Nam (1900 – 1945) (2010), NXB Giáo dục Việt Nam.
45. Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam (1997), NXB Giáo dục.
46. http://www.daovien.net
47. http://www.tapchisonghuong.com.vn
48. http://www.tailieu.vn
49. www.thivien.net
50. http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn
51. www.tienphong.vn
52. http://www.tonvinhvanhoadoc.vn
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ...
... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... ... .

