TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------------

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

Đề tài:

TÁI BẢO HIỂM VÀ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Hà Nội 11/2007

Họ và tên sinh viên : Nguyễn Minh Thu Lớp : A2 Khoá : K42 A - KT& KDQT Giáo viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Mai Khanh

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Danh mục từ viết tắt

Tái bảo hiểm TBH

Excess of loss – hợp đồng bảo hiểm vượt mức bồi thường XOL

Petro Vietnam Insurance Company – Công ty bảo hiểm Dầu PVIC

khí Việt Nam

PJICO Petrolimex Joint Stock Insurance Company – Công ty cổ phần

bảo hiểm Petrolimex

VINARE Vietnam National Reinsurance Company – Công ty tái bảo

hiểm Quốc gia Việt Nam

WOE West Of England – Hội bảo hiểm tương hỗ của các chủ tàu

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

1

miền Tây nước Anh

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Mục lục

Danh mục từ viết tắt ........................................................................................ 1

Mục lục ........................................................................................................... 2

Lời mở đầu ...................................................................................................... 5

Chương I. Lý thuyết chung về TBH ............................................................. 7

I. Các khái niệm chung về TBH .................................................................. 7

1. TBH và sự ra đời của TBH ....................................................................... 7

1.1 Lịch sử ra đời ........................................................................................ 7

1.2 Sự cần thiết khách quan của TBH.......................................................... 9

1.3 Khái niệm, ưu nhược điểm .................................................................. 11

2. Tác dụng của TBH .................................................................................. 13

2.1 Với công ty nhượng TBH (Cendant) ................................................... 14

2.2 Với người được bảo hiểm (Insured)..................................................... 14

2.3 Với công ty nhận TBH (Reinsurer)...................................................... 15

3. Nguyên tắc pháp lý trong bảo hiểm ........................................................ 15

II. Phân loại TBH ..................................................................................... 17

1. Phân loại theo hình thức TBH................................................................. 18

1.1 TBH tạm thời (Facultative Reinsurance) ............................................. 18

1.2 TBH cố định (Treaty) .......................................................................... 20

1.3 TBH lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory Reinsurance). ......... 22

2. Phân loại theo phương thức TBH............................................................ 23

2.2 TBH phi tỷ lệ ...................................................................................... 27

2.3 TBH kết hợp........................................................................................ 31

III. Các bước ký kết hợp đồng TBH. ......................................................... 32

Chương II. Thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam ...................................... 35

I. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của thị trường TBH Việt Nam.35

1. Trước khi ban hành nghị định 100/CP về họat động kinh doanh bảo hiểm35

2. Sau khi ban hành nghị định 100/CP ........................................................ 36

3. Sau khi ban hành Luật bảo hiểm 2001 .................................................... 37

II. Các chủ thể tham gia thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam ............. 38

1. Công ty bảo hiểm gốc ............................................................................. 39

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

2

1.1 Công ty Bảo Việt Việt Nam ................................................................ 40

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

1.3 Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - PJICO ................................... 42

1.4 Công ty bảo hiểm Dầu khí - PVI ......................................................... 43

2. Công ty TBH .......................................................................................... 44

2.1 Tổng công ty Cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam - VINARE ............... 44

2.2 Công ty bảo hiểm và TBH nước ngoài ................................................ 46

3. Môi giới TBH ......................................................................................... 47

III. Tình hình phát triển của thị trường TBH phi nhân thọ trong những năm ............................................................................................................ 48 qua

1 Đặc điểm thị trường bảo hiểm gốc .......................................................... 48

1.1 Thị trường tăng trưởng nhanh .............................................................. 48

1.2 Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ngày một gay gắt .... 51

2. Thị trường TBH ...................................................................................... 53

2.1 Tổng quan toàn thị trường ................................................................... 53

2.2 Tổng quan theo nghiệp vụ ................................................................... 58

Chương III: Những cơ hội và thách thức với thị trường TBH trong thời kỳ hội nhập .............................................................................................................. 70

I. Cam kết của Việt Nam về mở cửa thi trường trong thời kỳ hội nhập ...... 70

1. Cam kết khi gia nhập WTO .................................................................... 70

2 Cam kết tại hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ (Phụ lục G) .. 71

Những cơ hội và thách thức mới với thị trường TBH trong thời kỳ hội

II. nhập. 73

1 Cơ hội ..................................................................................................... 73

1.1 Qui mô thị trường tăng nhanh, đa dạng hóa sản phẩm. ........................ 73

1.2 Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ BH và TBH theo chuẩn quốc tế ......... 75

2 Thách thức .............................................................................................. 75

III. Một số giải pháp để phát triển thị trường TBH Việt Nam .................... 79

1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nước .......................................................... 79

1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm .................... 79

1.2 Hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ. ............................................................................................ 80

1.3 Nâng cao ý thức của người dân về bảo hiểm ....................................... 81

2 Từ phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ..................................... 82

2.1 Không ngừng cải tiến, thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới ...................... 82

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

3

2.2 Chú trọng hơn nữa vào hoạt động đầu tư ............................................. 83

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

2.3 ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình cấp đơn, quản lý, khai thác, bồi thường ............................................................................................ 84

2.4 Có chính sách phát triển và xây dựng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp mình ............................................................................................................ 85

3 Giải pháp cho công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam VINARE ........ 87

Kết luận ......................................................................................................... 89

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

4

Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 90

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Lời mở đầu

Bảo hiểm là một ngành kinh doanh có nguồn gốc từ rất xa xưa và cùng với nó

TBH cũng đã ra đời đã từ rất lâu và là một bộ phận không thể thiếu trong ngành bảo

hiểm. TBH mang lại những lợi ích rõ ràng cho các nhà bảo hiểm, người được bảo

hiểm và cả nền kinh tế trong môi trường kinh tế – xã hội toàn cầu không ngừng biến

động và tiềm ẩn nhiều rủi ro cần được bảo hiểm. Hiện nay, trên thế giới bất kỳ một

công ty bảo hiểm nào cũng cần đến hoạt động TBH và số lượng các nhà TBH

chuyên nghiệp cũng ngày một tăng với trình độ chuyên môn và khả năng tài chính

ngày càng cao như Swiss Re, Munich Re, Alianz Re, Aon Re....

Tại Việt Nam hoạt động bảo hiểm chính thức ra đời năm 1965 đánh dấu bằng

việc thành lập của Công ty bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt). Nhưng mãi đến

năm 1994 Công ty TBH quốc gia mới ra mắt và cho đến nay vẫn là công ty TBH

chuyên nghiệp duy nhất tại Việt Nam. Có thể nói, bảo hiểm Việt Nam so với bảo

hiểm thế giới còn rất non trẻ, và TBH Việt Nam mới chỉ có hơn chục năm phát triển

tính đến thời điểm hiện nay.

Tuy vậy, bối cảnh kinh tế xã hội của nước ta đang có nhiều thay đổi và ngành

bảo hiểm cũng đang có những bước tiến ngoạn mục trong những năm qua mà điển

hình là sự lớn mạnh của các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ với mức tăng trưởng hai

con số trong 5 năm trở lại đây. Việt Nam đang chứng tỏ là một thị trường bảo hiểm

đầy tiềm năng và hấp dẫn không ít các nhà kinh doanh dịch vụ tài chính nước ngoài.

Cùng với nguyên nhân thị trường bảo hiểm thế giới đang có xu hướng bão hòa, các

nhà bảo hiểm quốc tế đang chờ đón ngày thị trường bảo hiểm Việt Nam chính thức

mở cửa vào năm 2008. TBH vốn là một lĩnh vực kinh doanh mang tính quốc tế cao

chắc chắn sẽ có nhiều biến động sau sự kiện này. Các doanh nghiệp kinh doanh bảo

hiểm và TBH nói chung cần phải chuẩn bị những gì để có thể chủ động hội nhập và

nắm bắt những cơ hội mới hay đơn giản là để đứng vững và giữ được thị phần ngay

trong thị trường bảo hiểm nội địa. Đó là một bài toán không hề đơn giản nhưng rất

đáng được quan tâm. Người viết vì vậy đã cố gắng nghiên cứu thêm về TBH và đã

mạnh dạn chọn đề tài “TBH và áp dụng tại thị trường Việt Nam” làm nội dung

cho khóa luận tốt nghiệp của mình.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

5

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Những nghiên cứu của khóa luận xoay quanh việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng

nghiệp vụ TBH tại thị trường Việt Nam về. Khóa luận tập trung vào: mức độ và

trình độ triển khai nghiệp vụ TBH tại các công ty trong nước; những điều các nhà

bảo hiểm và TBH Việt Nam đã làm được và cần phải làm tốt hơn trước những

chuyển biến nhanh chóng của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong thời gian qua;

tìm hiểu cơ hội, thách thức với các công ty bảo hiểm trong nước và cuối cùng là

những đề xuất của người viết để góp phần tăng tính chủ động của các công ty bảo

hiểm và TBH Việt Nam trong thời kỳ mới.

Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia thành 3 chương như sau:

Chương I. Lý thuyết chung về TBH

Chương II. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

Chương III. Những cơ hội và thách thức với thị trường TBH phi nhân thọ

trong thời kỳ hội nhập.

Cuối cùng, cho phép người viết được gửi lời cảm ơn chân thành đến Thạc sỹ

Phạm Thị Mai Khanh – giảng viên trường Đại học Ngoại Thương, người đã nhiệt

tình giúp đỡ tôi trong quá trình viết khóa luận và đã đưa ra những góp ý quý báu để

bài khóa luận có thể tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Tuy vậy, do bản thân

người viết chỉ là một sinh viên không thuộc chuyên ngành bảo hiểm, thêm vào đó là

trình độ nghiên cứu còn hạn chế, khóa luận chắc hẳn không tránh khỏi nhiều sai sót.

Rất mong được các thầy cô chỉ bảo thêm.

Hà nội, tháng 11 năm 2006

Nguyễn Minh Thu

Lớp A2 K42A KTNT

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

6

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

CHƢƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TBH

I. CÁC KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TBH

1.

TBH và sự ra đời của TBH

1.1 Lịch sử ra đời

TBH ra đời muộn hơn so với bảo hiểm. Những dấu hiệu cổ xưa nhất về

bảo hiểm đã xuất hiện từ thế kỷ thứ V trước công nguyên, nhưng TBH với vị

trí là một ngành bổ trợ chỉ hình thành khi bảo hiểm đã phát triển đến một mức

độ nhất định. Vào cuối thời trung cổ, hoạt động giao thương bằng thuyền vượt

đại dương đã diễn ra khá sôi nổi tại Châu Âu. Những chuyến đi biển dài ngày

chứa đựng vô vàn rủi ro và vì vậy các ông chủ thuyền buôn đã có thói quen

mua bảo hiểm cho tàu và hàng trước mỗi chuyến đi, các tổ chức kinh doanh

bảo hiểm vào thời này cũng đã xuất hiện và hoạt động kinh doanh của họ đều

tập trung vào bảo hiểm hàng hải.

Bản giao ước cổ nhất có tính chất pháp lý như một hợp đồng bảo hiểm

được ký kết vào năm 1370 tại Genoa – Italy. Khi đó, một nhà bảo hiểm có tên

Guilano Grillo sau khi nhận bảo hiểm cho một con tàu chở hàng đi từ Genoa

đến Sluys đã ký tiếp một hợp đồng TBH toàn bộ đoạn hành trình nguy hiểm

nhất từ Cadiz qua vịnh Biscay dọc bờ biển nước Pháp cho hai nhà bảo hiểm khác là Gofferdo Benaina và Martino Sacco.1

Trong những năm sau đó, những thỏa thuận kiểu này xuất hiện ngày

càng nhiều đặc biệt là trong đầu thế kỷ XVIII khi trung tâm thương mại

chuyển dần từ Địa Trung Hải đến Bắc Âu, ngành hàng hải Anh lớn mạnh

nhanh chóng, kéo theo nhu cầu về bảo hiểm và TBH hàng hải gia tăng. TBH

trong thời kỳ này đã bị các nhà bảo hiểm gốc lạm dụng đến mức chính phủ

1 Edwin W. Kopf – Note on the origin and development of reinsurance

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

7

Hoàng Gia Anh phải ra lệnh cấm hoạt động TBH hàng hải từ năm 1746 đến

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

năm 1864. Tuy nhiên các hoạt động TBH vẫn phát triển ở những mảng nghiệp

vụ khác như bảo hiểm cháy, bảo hiểm nhân thọ; TBH hàng hải cũng chuyển

phạm vi sang các nước khác như Đức, Áo, Thụy Sỹ...

Và cũng chính trong thời kỳ này, tại nước Đức, hợp đồng TBH cố định

đầu tiên (treaty) được ra đời vào năm 1825 cho nghiệp vụ TBH cháy. Trước

đó, các hợp đồng TBH tạm thời, và đồng bảo hiểm vẫn chiếm ưu thế. Các nhà

bảo hiểm gốc thường cũng chính là những nhà TBH, họ cung cấp dịch vụ

TBH cho các nhà bảo hiểm trong và cả ngoài nước Đức. Cho đến năm 1852,

Công ty TBH đầu tiên là Cologne Reinsurance mới được thành lập bởi ông

Mevissen. Chỉ trong 3 năm đầu thành lập, công ty này đã nhanh chóng mở

rộng hoạt động kinh doanh của mình ra các nước Đức, Áo, Thụy Sỹ, Bỉ, Hà

Lan.... Sự ra đời của Cologne đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc kinh

doanh tái bao hiểm. Từ thời điểm này, TBH đã chính thức trở thành một

ngành kinh doanh độc lập và có hệ thống. Sau Cologne là sự ra đời của hàng

loạt các công ty TBH chuyên nghiệp khác:

 Công ty TBH Thụy Sĩ (Swiss Re) năm 1863.

 Công ty TBH London (London Guarantee Reinsurance Co.,Ltd)

năm 1869.

 Công ty TBH Munich (Munchenes Ruck AG) năm 1880.2

Việc thành lập các công ty TBH chuyên nghiệp là một sự kiện có tính

chất quan trọng trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Bằng cách TBH,

các công ty bảo hiểm đã có sẵn trong tay nguồn đảm bảo đắc lực cho hoạt

động kinh doanh của họ. Do đó, khả năng cạnh tranh của các công ty bảo

hiểm gốc và khả năng phục vụ của các công ty TBH cũng được cải tiến bằng

việc mở rộng TBH cho các loại hình bảo hiểm với các thị trường bảo hiểm

nước ngoài. Hai cuộc chiến tranh thế giới làm ảnh hưởng tới sự phát triển của

2 PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

8

ngành bảo hiểm nói chung và TBH nói riêng, nhất là các công ty TBH ở Đức.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Đặc biệt là chiến tranh thế giới lần thứ II đã ảnh hưởng đến nền kinh tế các

nước là rất lớn, làm cho hoạt động bảo hiểm và TBH bị ngưng trệ, thậm chí ở

một số nước, nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ

chiến tranh. Vì vậy mà hoạt động TBH gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên,

hoạt động bảo hiểm và TBH ở Thụy Sĩ vẫn rất phát triển.

Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện Thế giới đã thay đổi, hệ

thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc

ở các nước thuộc địa giành nhiều thắng lợi, kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa

bị khủng hoảng đã ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động TBH. Cụ thể là thời kỳ

này hoạt động TBH trên thế giới có 3 đặc điểm sau:

 Sự phục hồi các công ty TBH của cộng hoà liên bang Đức.

 Thành lập các công ty TBH của các nước xã hội chủ nghĩa với đặc

điểm thực hiện độc quyền về TBH và hạn chế các mối quan hệ với

các nước tư bản.

 Các nước chậm phát triển mới giành độc lập cũng thực hiện độc

quyền TBH như Achentina, Brazil, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và

một số nước ở Châu Phi, Đông Nam Á... làm thu hẹp thị trường

TBH quốc tế.

Ngày nay, đã phát triển rất mạnh mẽ, rộng khắp và trở thành một hệ

thống mang tính quốc tế cao cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Chắc chắn rằng với những đặc điểm riêng có của mình, hoạt động TBH trên

phạm vi toàn cầu nói chung sẽ ngày càng phát triển hơn nữa cũng như ngày

càng biến chuyển phù hợp hơn với yêu cầu đặt ra của một nền kinh tế toàn

cầu hội nhập, cởi mở nhưng cũng hết sức khó tính.

1.2 Sự cần thiết khách quan của TBH

Trước tiên người viết xin khẳng định lại vai trò của bảo hiểm trong nền

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

9

kinh tế hiện nay. Ngay từ khi con người biết sản xuất và có của cải thặng dư,

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

người ta đã có nhu cầu đảm bảo tài sản của họ khỏi những rủi ro không lường

trước được và điều đó chính là tiền đề cho sự xuất hiện của ngành bảo hiểm

trong hơn một thiên niên kỷ trước. Ngày nay, khi lượng của cải xã hội ngày

càng nhiều, và sản xuất không ngừng mở rộng, nhu cầu này trở nên phổ biến

hơn bao giờ hết. Thêm vào đó, tình hình kinh tế xã hội toàn cầu nói chung và

tại Việt Nam nói riêng đang tiềm ẩn những bất ổn từ nhiều phía: bất ổn chính

trị, khủng bố, thiên tai.... Trong thời đại toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, một

tổn thất dù xảy ra tại bất kỳ điểm nào trên thế giới ngày càng phẳng này cũng

có thể làm ngưng trệ cả chuỗi giá trị toàn cầu. Điều đó lý giải tại sao quỹ bảo

hiểm tại các nước phát triển nhất thế giới hiện nay lên đến 10% GDP.

Bảo hiểm và TBH có mối liên hệ rất chặt chẽ. Bảo hiểm là tiền đề của

TBH, và ngược lại TBH giúp bảo hiểm mở rộng phạm vi của mình. Trong

quá trình kinh doanh các công ty bảo hiểm thường xuyên bị đe dọa phá sản

bởi nhiều nguyên nhân như:

 Do đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị quá lớn mà khả năng tài

chính của công ty bảo hiểm lại có hạn. Điều này đặc biệt phổ biến ở các

nền kinh tế đang phát triển, nơi có hệ thống tài chính còn yếu kém.

 Do nhiều tổn thất lớn xảy ra liên tục trong một thời gian ngắn vì tác

động của thiên tai, lụt lội, đặc biệt là trong bối cảnh khí hậu toàn biến

chuyển ngày càng xấu, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường.

 Do phương pháp và kỹ thuật xác định phí bảo hiểm không chính xác,

thu không đủ bù chi dẫn đến phá sản.

 Do đối tượng tham gia bảo hiểm hoạt động ở địa bàn quá xa, công ty

không đủ khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro.

Để đối phó với nguy cơ phá sản mà vẫn tiếp tục nhận được các đơn bảo

hiểm với giá trị lớn, các công ty bảo hiểm đã phải tìm cách chia sẻ rủi ro với

nhau. Có hai phương pháp được các nhà bảo hiểm áp dụng là đồng bảo hiểm

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

10

và TBH.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Đồng bảo hiểm là việc nhiều công ty bảo hiểm cùng bảo hiểm cho một

đối tượng tham gia, như vậy mỗi công ty chỉ phải chịu một phần rủi ro nếu

đối tượng tham gia bảo hiểm gặp tổn thất. Tuy nhiên hình thức này có hai

nhược điểm lớn là:

 Việc kí hợp đồng thường kéo dài do đặc thù của loại hợp đồng này là

hợp đồng đa bên nên đòi hỏi đàm phán nhiều, gây khó khăn và tốn

kém, làm mất cơ hội kinh doanh của người tham gia.

 Nếu tổn thất xảy ra, việc bồi thường rất khó tập trung dẫn đến tình

trạng đối tượng tham gia bảo hiểm nghi ngờ khả năng tài chính của

công ty bảo hiểm.

TBH đã khắc phục được hai nhược điểm trên của đồng bảo hiểm.

Trong hình thức này công ty bảo hiểm ban đầu là công ty gốc (hay công ty

nhượng TBH) đóng vai trò người tham gia bảo hiểm trong hợp đồng TBH,

các công ty còn lại là các công ty TBH (hay công ty nhận TBH). Nhờ có hình

thức TBH này mà các công ty bảo hiểm sẽ được đảm bảo an toàn tài chính và

có thể bảo hiểm cho các rủi ro có giá trị lớn thông qua việc chuyển bớt trách

nhiệm bảo hiểm và rủi ro sang công ty TBH. Ngoài ra các công ty bảo hiểm

tiến hành TBH để nhận được sự trợ giúp của công ty bảo hiểm về mặt kỹ

thuật tính phí, đánh giá rủi ro, giải quyết bồi thường và hỗ trợ nhân viên của

mình….

Như vậy, sự ra đời của TBH là một tất yếu khách quan nhằm mục đích

thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của thị trường bảo hiểm, góp phần đảm bảo

cho nền kinh tế toàn cầu giữ được ổn định và phát triển

1.3 Khái niệm, ưu nhược điểm

1.3.1 Khái niệm.

TBH là một loại nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

11

phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm thông qua hợp đồng TBH.3

Thực tế TBH được hình thành trên cơ sở bảo hiểm gốc nên nó luôn gắn

liền với nghiệp vụ bảo hiểm gốc

Như vậy, nếu như bảo hiểm là hình thức dàn trải tổn thất của một ít

người cho nhiều người cùng chịu thì TBH là hình thức dàn trải một lần nữa

những tổn thất mà các công ty bảo hiểm phải gánh chịu. Nói cách khác, TBH

là bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm.

TBH được chia thành hai phần tùy theo góc độ nghiên cứu là: TBH đi

và TBH nhận.

TBH đi (Outward Reinsurance): hay còn gọi là nhượng TBH tức là một

công ty bảo hiểm gốc (là công ty khai thác dịch vụ bảo hiểm trực tiếp từ

khách hàng) phân tán rủi ro cho các công ty TBH . Trong trường hợp này

công ty bảo hiểm gốc phải chuyển bớt một phần phí cho các công ty TBH và

nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của mình.

Quá trình ngược lại được gọi là TBH nhận (Inward Reinsurance) hay

còn gọi là nhận TBH.

1.3.2 Quan hệ giữa các bên tham gia

Trong một nghiệp vụ TBH cơ bản có những bên tham gia chính sau:

 Ngƣời đƣợc bảo hiểm: là người ký kết hợp đồng bảo hiểm thông

thường với công ty bảo hiểm gốc để bảo hiểm cho đối tượng được bảo

hiểm khỏi những rủi ro được xác định trong hợp đồng bảo hiểm.

 Công ty bảo hiểm gốc: là công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho

3 PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

12

người được bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và nhận trách nhiệm bồi

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

thường cho người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra với đối tượng

bảo hiểm như trong hợp đồng.

 Công ty TBH: là công ty ký hợp đồng TBH với công ty bảo hiểm gốc,

nhận một phần phí bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc nhượng sang và

đảm bảo chi trả một phần trách nhiệm tương ứng với phần phí nhượng

sang đó. Ngoài ra công ty TBH còn trả hoa hồng khai thác cho công ty

bảo hiểm gốc. Trong một thương vụ bảo hiểm có thể có hơn một nhà

TBH tham gia.

 Ngoài ra còn có thể kể đến sự góp mặt của các công ty môi giới bảo

hiểm, các công ty đồng bảo hiểm và công ty TBH của các công ty TBH

nói trên (nếu nhà TBH tiếp tục nhượng tái một phần rủi ro cho một nhà

tái khác).

Như vậy có hai hợp đồng bảo hiểm tồn tại song song trong một thương

vụ liên quan đến tái bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm gốc ký giữa người tham

gia bảo hiểm và nhà bảo hiểm gốc; và hợp đồng TBH ký giữa nhà bảo hiểm

gốc và nhà TBH. Đây là hai hợp đồng có nghĩa vụ và trách nhiệm riêng biệt,

song hợp đồng TBH chỉ có thể tồn tại dựa trên một hợp đồng bảo hiểm gốc.

Nói cách khác, hợp đồng bảo hiểm gốc là tiền đề cho hợp đồng TBH.

1.3.3 Ƣu, nhƣợc điểm của TBH

Ưu điểm: tạo tâm lý an toàn cho các công ty bảo hiểm, cân bằng các

dịch vụ bảo hiểm, bảo vệ các dịch vụ đó khỏi ảnh hưởng của các sự cố lớn có

tính thảm họa, đảm bảo về mặt tài chính cho các công ty bảo hiểm.

Nhược điểm: TBH có liên quan đến việc chuyển một phần, thậm chí là

một phần lớn phí bảo hiểm cho các công ty TBH. Do đó, TBH có thể làm tăng

hoặc giảm một cách đáng kể chỉ tiêu tài chính của một công ty bảo hiểm.

2.

Tác dụng của TBH

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

13

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Tại các phần trước của chương này, người viết đã hơn một lần khẳng

định vai trò quan trọng của TBH trong ngành bảo hiểm nói chung và trong

nền kinh tế nói riêng. Dưới đây, người viết xin trình bày rõ hơn về tác dụng

của TBH cho từng đối tượng cụ thể

2.1 Với công ty nhượng TBH (Cendant)

Tác dụng đầu tiên là TBH giúp cho công ty nhượng TBH tăng khả năng

nhận bảo hiểm và có thể nhận bảo hiểm những rủi ro lớn mà không cần tăng

thêm vốn. Công ty nhượng TBH có thể kinh doanh dựa vào vốn của công ty

nhận TBH. Nếu không có TBH thì công ty nhượng chỉ có thể nhận bảo hiểm

cho những rủi ro tương đương với số vốn của mình.

Thứ hai, TBH giúp công ty nhượng có thể phân tán rủi ro một cách

rộng rãi, đặc biệt là các thảm họa tự nhiên có thể đe doạ cho nền kinh tế quốc

dân như động đất, bão lụt …

Thứ ba, là TBH giúp đảm bảo khả năng thanh toán tiền bồi thường

trong trường hợp xảy ra những thiệt hại lớn hay những rủi ro mang tính thảm

họa. Nhờ đó tình hình tài chính cả công ty nhượng TBH được đảm bảo tính

ổn định hơn.

Thứ tư, TBH có thể giúp người bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột

biến của rủi ro. Người bảo hiểm cũng có thể nhận được sự tư vấn nghiệp vụ từ

những nhà nhận TBH.

Cuối cùng, sau khi chuyển phần phí TBH cho công ty nhận TBH, công

ty bảo hiểm gốc còn nhận được một khoản tiền hoa hồng cho các dịch vụ mà

mình khai thác được. Nhiều khi đây là yếu tố quan trọng để các công ty bảo

hiểm gốc quyết định sẽ ký hợp đồng TBH với công ty TBH nào.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

14

2.2 Với người được bảo hiểm (Insured)

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Người được bảo hiểm sẽ được đảm bảo rằng số tiền tổn thất sẽ được

thanh toán khi số tiền bảo hiểm và số tiền tổn thất là quá lớn.

Nghiệp vụ TBH sẽ hạn chế xu hướng gia tăng phí bảo hiểm vì nếu

không có TBH thì công ty bảo hiểm gốc sẽ phải thu một khoản phí bảo hiểm

rất lớn để đề phòng bị phá sản khi có thảm hoạ xảy ra.

2.3 Với công ty nhận TBH (Reinsurer).

Đối với công ty nhận TBH chuyên nghiệp: Một công ty nhận TBH

chuyên nghiệp thường có một nhóm các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực bảo

hiểm và TBH khác nhau. Đối với các công ty này, việc nhận TBH là vấn đề

sống còn của họ và đó cũng là công việc chính để họ sử dụng nguồn vốn và

kỹ thuật chuyên môn nhằm mục đích thu lợi nhuận.

Nhận TBH cũng là nghiệp vụ không thể thiếu đối với bất kỳ một công

ty bảo hiểm nào vì:

- Nhận TBH giúp cho công ty bảo hiểm có thể tăng thêm thu nhập

- Giảm tỷ trọng chi phí quản lý

- Có thể dùng phí TBH thu được để đầu tư thu lợi nhuận

- Việc nhận TBH xét trên phương diện quốc tế có thể coi là chiếc cửa

sổ mà thông qua đó công ty nhận TBH biết được sự phát triển của

thị trường bảo hiểm và thị trường TBH Thế giới.

2.4 Với nền kinh tế quốc dân

Hoạt động TBH diễn ra giữa nhiều tổ chức TBH của nhiều nước. Như

vậy, một thiệt hại có tính thảm họa ở một nước thông qua TBH sẽ được bù

đắp từ những khoản tiền bồi thường mang tính quốc tế. Tổn thất được phân

tán trên một phạm vi rộng, việc gánh chịu trở nên dễ dàng hơn.

3. Nguyên tắc pháp lý trong bảo hiểm

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

15

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Hợp đồng TBH chỉ có thể được thiết lập và tồn tại khi có một hợp đồng

bảo hiểm đang có hiệu lực. Hay nói cách khác là không thể có hợp đồng TBH

nếu không có hợp đồng bảo hiểm gốc. Có một định nghĩa rất cổ điển về TBH

do luật gia nổi tiếng Lord Man – Field’s đưa ra vào năm 1807: “TBH là một

sự đảm bảo mới, bị chi phối bởi một đơn bảo hiểm mới, cho cùng một rủi ro

đã được bảo hiểm trước, nhằm bồi thường cho người được bảo hiểm theo mức thoả thuận và cả hai đơn bảo hiểm phải tồn tại đồng thời”4. Định nghĩa

này đã chỉ rõ rằng:

- Hợp đồng TBH cũng mang tính chất như một hợp đồng bảo hiểm.

- Người được bảo hiểm gốc là người thứ ba trong hợp đồng TBH.

- Hợp đồng bảo hiểm gốc và hợp đồng TBH phải tồn tại song song.

Như vậy có nghĩa là nếu công ty nhận TBH bị phá sản thì công ty

nhượng TBH vẫn có trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên

đơn bảo hiểm. Nhưng nếu công ty nhượng TBH bị phá sản thì người được

bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm gốc không có quyền khiếu nại đối với

công ty nhận TBH. Tuy nhiên, hệ thống luật Anh – Mỹ vẫn cho phép người

được bảo hiểm gốc có quyền được hưởng bồi thường trực tiếp từ người nhận

TBH trong một số trường hợp đặc biệt nhưng phải có điều khoản “ Cut –

through clause” trong hợp đồng TBH. Điều khoản này cho phép người được

bảo hiểm gốc có thể trực tiếp yêu cầu công ty nhận TBH thanh toán một phần

tổn thất trong trường hợp công ty bảo hiểm không có khả năng thanh toán

hoặc bị phá sản.

Mọi nguyên tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm cũng đều được

áp dụng tương tự cho hợp đồng TBH giữa công ty nhượng và nhận TBH.

Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối (The Utmost Good Faith) là nét đặt

4 PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

16

trưng trong TBH. Trong hợp đồng TBH, nguyên tắc này phải đặc biệt được

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

tôn trọng. Cụ thể là công ty nhượng TBH phải cung cấp đầy đủ mọi thông tin

liên quan tới đối tượng bảo hiểm cho công ty nhận TBH biết, nếu có rủi ro

xảy ra thì phải thông báo và tính toán tổn thất một cách trung thực. Ngược lại,

công ty nhận TBH cũng phải trung thực trong việc đưa ra những thống kê tổn

thất trên thị trường thế giới để tính đúng phí bảo hiểm.

Nguyên tắc bồi thường (Principle of Indemnity) cho phép công ty

nhượng TBH được toàn quyền hành động trong việc giải quyết khiếu nại, trừ

khi có quy định khác trong hợp đồng TBH. Kết quả của việc giải quyết khiếu

nại sẽ được công ty nhận TBH chấp thuận. Tuy nhiên, theo nguyên tắc này,

khi công ty nhượng TBH muốn đòi bồi thường từ công ty nhận TBH thì phải

chứng minh được tổn thất rơi vào phạn vi họp đồng TBH. Cách thức tính toán

và thanh toán bồi thường tuỳ thuộc vào từng phương thức TBH và điều khoản

thanh toán được quy định cụ thể trong hợp đồng.

TBH

TBH cè ®Þnh

TBH t¹m thêi

Ph ¬ng thøc TBH

TBH phi tû lÖ

T¸i bao hiÓm theo tû lÖ

TBH møc d«i (surplus)

TBH sè thµnh (quota share)

TBH v ît tû lÖ båi th êng (stop loss)

TBH v ît møc båi th êng (Excesss of loss)

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

17

II. PHÂN LOẠI TBH

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

1.

Phân loại theo hình thức TBH

Có 2 hình thức TBH chính là TBH tạm thời và TBH cố định. Xét về

xuất xứ thì TBH tạm thời ra đời trước, tuy nhiên hình thức này dần bộc lộ

nhiều nhược điểm khiến nó được sử dụng ít đi và thay vào đó là hình thức

TBH cố định. Ngoài ra còn có một hình thức TBH nữa là sự kết hợp giữa 2

hình thức trên gọi là TBH lựa chọn-bắt buộc.

1.1 TBH tạm thời (Facultative Reinsurance)

1.1.1 Khái niệm

TBH tạm thời hay còn gọi là TBH tuỳ ý lựa chọn, là hình thức TBH cơ

bản và cổ điển nhất. Theo hình thức này, công ty bảo hiểm gốc chuyển

nhượng cho công ty TBH từng dịch vụ hay từng đơn bảo hiểm một cách riêng

lẻ. Về phần mình, công ty TBH có quyền nhận hay từ chối dịch vụ và đơn bảo

hiểm đó. Công ty bảo hiểm gốc có toàn quyền quyết định TBH cho dịch vụ

nào, với tỷ lệ bao nhiêu, cho công ty TBH nào là tuỳ họ. Mặt khác công ty

TBH có quyền nhận hay từ chối hoặc chỉ nhận TBH với một tỷ lệ mà họ cho

là thích hợp.

Công ty bảo hiểm gốc có nghĩa vụ phải cung cấp cho công ty TBH mọi

thông tin có liên quan đến dịch vụ được bảo hiểm. Trên thực tế nhà TBH cũng

tiến hành đánh giá mức độ rủi ro của dịch vụ rồi quyết định có nhận TBH hay

không mà không cần đầy đủ các chi tiết.

1.1.2 Ưu nhược điểm

* Ưu điểm:

 Cho phép các công ty bảo hiểm nhỏ, với kinh nghiệm tương đối hạn

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

18

chế có thể cạnh tranh để nhận những dịch vụ lớn nằm ngoài khả năng

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

của mình, bởi vì họ có thể sử dụng được chuyên môn nghiệp vụ và khả

năng vốn của các thị trường TBH quốc tế.

 Cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoại phạm

vi khai thác thông thường của mình. Những dịch vụ như vậy chủ yếu là

theo yêu cầu đặc biệt của khách hàng mà công ty bảo hiểm gốc phải

chấp nhận để giữ uy tín cho mình.

 Một nhóm các công ty bảo hiểm gốc có quan hệ thân thiết có khả năng

trao đổi các rủi ro được đánh giá là tốt trên cơ sở tạm thời để tiến hành

phân tán rủi ro và đảm bảo doanh thu ổn định.

* Nhược điểm

 Đòi hỏi nhiều thời gian vì mỗi dịch vụ phải được giải quyết riêng lẻ.

Công ty bảo hiểm gốc phải thu xếp TBH tạm thời trước khi nhận một

dịch vụ, do đó việc quyết định nhận bảo hiểm sẽ bị chậm lại cho đến

khi thu xếp xong toàn bộ TBH tạm thời. Như vậy, công ty bảo hiểm

gốc có khả năng phải nhường dịch vụ cho những đối thủ cạnh tranh lớn

mạnh hơn, hoặc nhận bảo hiểm mà không được bảo vệ đầy đủ bằng

TBH và đôi khi làm mất thiện chí với khách hàng do chậm trễ.

 Những công việc liên quan đến đàm phán, soạn thảo hợp đồng và thanh

toán rất tốn kém và do đó giảm lợi nhuận thu được.

 Trước mỗi thời kỳ TBH tiếp tục, công ty bảo hiểm gốc lại phải lặp lại

toàn bộ quy trình đàm phán trước khi trao đổi với khách hàng của

mình. Chưa kể việc hủy bỏ hay thay đổi có thể gây ra thêm nhiều công

việc khác không cần thiết.

 Sự cần thiết phải tiết lộ những thông tin về dịch vụ nhận bảo hiểm có

thể dẫn đến việc rò rỉ tin tức cho các đối thủ cạnh tranh.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

19

1.1.3 Trường hợp áp dụng hình thức TBH tạm thời

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Mặc dù TBH tạm thời xuất hiện cùng với sự ra đời của bảo hiểm và có

những nhược điểm như trên, song ngày nay nó vẫn được sử dụng trong một số

trường hợp.

 Nhà bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một loại rủi ro nào đó và

yêu cầu công ty TBH giúp đỡ. Khi ấy nhà TBH sẽ là người xác định

mức phí, các điều khoản và điều kiện bảo hiểm cũng như những hạn

chế cần thiết cho dịch vụ của nhà bảo hiểm gốc.

 Những thỏa thuận TBH tự động hiện có của công ty bảo hiểm gốc

không bao gồm một số rủi ro hay một phần những rủi ro nào đó. Nếu

nhà bảo hiểm gốc vẫn quyết định nhận bảo hiểm cho rủi ro đó thì phải

tiến hành thu xếp TBH tạm thời.

 Rủi ro nhận bảo hiểm có thể có giá trị vượt quá phạm vi những thỏa

thuận TBH tự động. Do đó phải thu xếp TBH tạm thời cho phần giá trị

vượt quá này.

 Công ty bảo hiểm gốc cũng có thể muốn tránh không đưa những dịch

vụ có nguy cơ tổn thất cao vào những thỏa thuận TBH tự động hiện có

của mình. Do đó, họ phải tiến hành thu xếp TBH tạm thời trước để

giảm bớt khả năng tổn thất trước khi đưa vào hợp đồng TBH tự động.

1.2 TBH cố định (Treaty)

1.2.1 Khái niệm

TBH cố định hay còn gọi là TBH bắt buộc, là hình thức TBH mà theo

đó công ty nhượng phải nhượng cho nhà TBH tất cả các đơn vị rủi ro bảo

hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận và quy định trong hợp đồng. Ngược lại,

nhà TBH cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn bộ các rủi ro đó.

1.2.2 Ưu, nhược điểm

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

20

* Ưu điểm:

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho

rủi ro bảo hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến

của của nhà TBH, do đó hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được

ký kết.

 Công ty nhượng được nhà TBH bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc phạm vi

hợp đồng, do đó khả năng an toàn của công ty bảo hiểm được đảm

bảo.

 Việc nhận TBH theo hợp đồng cố định cho phép công ty TBH nhận

được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời

đơn lẻ. Nhà TBH có điều kiện thu được phí lớn, phù hợp với nguyên

tắc "quy luật số đông" giúp nhà TBH có điều kiện đẩy mạnh tiến bộ

kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro mới.

* Nhược điểm:

 Thông thường TBH cố định có tính ổn định cho một giai đoạn nhất

định, do đó thiếu tính linh hoạt trước những thay đổi của công ty

chuyển nhượng.

 Vì mọi rủi ro phải đem tái đi cho nên đứng về phía công ty nhượng

những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem tái đi

trong khi khả năng tài chính của họ vẫn có khả năng đảm đương

được.

 Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất việc ký kết

hợp đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà TBH rất khó

lường trước được.

1.2.3 Trường hợp áp dụng

Mang tính chất toàn diện nên hình thức này có thể áp dụng với tất cả

các loại nghiệp vụ. TBH cố định đã khắc phục được hầu hết các nhược điểm

của TBH tạm thời (phức tạp, và tốn kém) nên ngày nay TBH cố định ngày

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

21

càng được dùng phổ biến thay thế TBH tạm thời. Hầu hết các công ty bảo

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

hiểm hoạt động trên thị trường hiện nay đều có những hợp đồng TBH cố định

ký với một nhà TBH khác. Thực tế, chỉ khi nào trách nhiệm bảo hiểm vượt

quá giới hạn của hợp đồng cố định thì công ty bảo hiểm gốc mới thu xếp phần

vượt quá đó vào hợp đồng tạm thời.

1.3 TBH lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory Reinsurance).

1.3.1 Khái niệm

TBH hiểm lựa chọn - bắt buộc là một hình thức bảo hiểm mà công ty

nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình nhận bảo

hiểm, nhưng ngược lại nhà TBH bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà

công ty nhượng đã đưa vào thoả thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó

phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã qui ước của hợp đồng TBH thoả

thuận. Các bên tham gia hợp đồng TBH tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc cần phải có

sự trung thực tuyệt đối để đảm bảo lợi ích cho các nhà nhận TBH.

1.3.2 Ưu, nhược điểm

* Ưu điểm:

 Công ty nhượng TBH không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch

vụ mà mình nhận bảo hiểm. Họ có lựa chọn dịch vụ để chào TBH từng

phần trách nhiệm vượt quá khả năng giữ lại của mình cho một hoặc

một số nhà TBH mà họ lựa chọn, thay vì đem phân chia toàn bộ các

phần vượt quá khả năng ấy cho các nhà TBH. Tuy nhiên, công ty

nhượng không được lợi dụng hình thức TBH này để lựa chọn những rủi

ro xảy ra tổn thất đưa vào hợp đồng và giữ lại những rủi ro có độ an

toàn cao hơn. Để phòng ngừa trường hợp này xảy ra, nhà TBH phải

nắm được ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty

nhượng đem TBH và thường xuyên canh chừng diễn biến của thoả ước

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

22

mà mình đã ký kết.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 Người nhận TBH có điều kiện thu được một nguồn phí TBH lớn hơn và

có phần thăng bằng hơn so với các hình thức TBH tạm thời.

 Công ty nhượng TBH có điều kiện đem chào TBH bảo hiểm từng phần

trách nhiệm thặng dư so với khả năng tự giữ lại của mình cho một nhà

TBH duy nhất hay cho một số nhà TBH mà họ lựa chọn thay cho việc

phải đem phân chia tất cả phần thặng dư so với khả năng tự giữ lại của

mình cho các nhà TBH. Tuy nhiên, cách TBH như thế này thường chỉ

có thể thực hiện được bằng cách chào cho các nhà TBH có tiềm lực thật

lớn vì chỉ có họ mới có thể nhận các giá trị bảo hiểm cao.

* Nhược điểm:

 Nhà TBH không có quyền từ chối nhưng rủi ro mà người TBH chuyển

cho họ. Tuy nhiên, những rủi ro đó phải phù hợp với nội dung và điều

khoản đã quy ước trong hợp đồng TBH cố định.

 Hình thức này không thuận lợi lắm cho các nhà TBH, bởi vì nguồn dịch

vụ đưa vào hợp đồng này không thường xuyên và tổn thất gây ra rất

thất thường. Các bên tham gia hợp đồng cần phải có sự trung thực tuyệt

đối để đảm bảo cho các nhà TBH nhận được các dịch vụ hợp lý.

 Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần đem TBH thì

chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức này rất tốn kém.

1.3.3 Trường hợp áp dụng

Hình thức này thường được áp dụng khi khả năng nhận TBH trong các

hợp đồng số thành và mức dôi (xem phương thức TBH) đã không thể đáp ứng

được. Nó cũng được áp dụng trong trường hợp rủi ro giá trị lớn hoặc các dịch

vụ mà hợp đồng TBH số thành và mức dôi không cho phép đưa vào 100%

giới hạn trách nhiệm của hợp đồng.

2.

Phân loại theo phƣơng thức TBH

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

23

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 TBH theo tỷ lệ (TBH theo số tiền bảo hiểm).

 TBH phi tỷ lệ (TBH theo mức bồi thường).

2.1 TBH theo tỷ lệ

TBH theo tỷ lệ hay còn gọi là TBH theo số tiền bảo hiểm, là phương

thức TBH mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng tái bảo hiểm và nhà

TBH đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo tỷ lệ tham gia của mỗi

bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm. Phương thức này được chia làm hai

loại:

 TBH số thành.

 TBH mức dôi.

2.1.1 TBH số thành - Quota share

Trong phương thức này, công ty nhượng buộc phải nhượng và công ty

nhận buộc phải nhận một tỷ lệ (thường được thể hiện dưới dạng đơn vị phần

trăm) đã ấn định trước đối với tất cả các dịch vụ mà công ty nhượng khai thác

được, trong mỗi loại hình đã được thỏa thuận. Thông thường có một mức giới

hạn cho số tiền bảo hiểm tối đa với tỷ lệ phân chia đã ấn định trước. Phí bảo

hiểm và trách nhiệm bồi thường được chia sẻ giữa công ty nhượng và nhà

TBH theo theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên và số tiền bảo hiểm.

Ví dụ:

Công ty bảo hiểm A thu xếp một hợp đồng TBH số thành cho các đơn

bảo hiểm xe cơ giới với công ty TBH B trong năm 2006. Trong năm đó, phí

bảo hiểm mà công ty A thu được là 10 triệu USD và tổn thất phải trả cho

người được bảo hiểm là 6 triệu USD. Phí nhượng tái và mức đòi bồi thường

đơn vị: triệu USD

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

24

nhà TBH trong trường hợp này được tính như sau:

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

1 Phí bảo hiểm gốc

10

2 Phí nhượng tái (25%)

2.5

3 Bồi thường bảo hiểm gốc

6

4 Đòi bồi thường từ TBH (25%)

1.5

Như vậy trong thương vụ này, công ty bảo hiểm A giữ lại được 7.5

triệu USD tiền phí bảo hiểm gốc và phải trả bồi thường là 4.5 triệu USD.

* Đối với công ty nhượng TB

Ưu điểm: Công việc tính toán đơn giản, chi phí quản lý thấp, hoa hồng

cao hơn so với tất cả các loại hợp đồng TBH khác do tính chất rủi ro được dàn

trải nhiều hơn, hợp đồng thường có lợi nhuận cao hơn nên vì vậy người nhận

TBH trả cho công ty nhượng TBH mức hoa hồng cao hơn.

Nhược điểm: Công ty nhượng TBH không có lựa chọn trong việc giữ

lại nên phải TBH cả những rủi ro nhỏ có thể giữ lại, làm giảm đáng kể doanh

thu của công ty nhượng tái. Bên cạnh đó, hợp đồng TBH số thành không hạn

chế được trách nhiệm tuyệt đối với công ty bảo hiểm gốc, vì thế nếu có tổn

thất lớn xảy ra trong năm thì công ty bảo hiểm gốc sử dụng loại hình TBH

này vẫn không thể giảm thiểu đáng kể rủi ro về phía mình.

* Đối với công ty nhận TBH

Ưu điểm: Khả năng nhận TBH và tỷ lệ chia lãi của người nhận TBH

luôn lớn hơn so với các loại hợp đồng khác.

Nhược điểm: Công ty nhận TBH phải trả một mức hoa hồng cao hơn

các hợp đồng TBH khác.

2.1.2. TBH mức dôi - Surplus

Đặc trưng của của TBH mức dôi là công ty nhượng ấn định mức giữ lại

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

25

(mức trách nhiệm giữ lại) tuyệt đối, số dôi ra tái đi. Phần tái đi được thu xếp

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

bằng một số lần của mức giữ lại. Do đó phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm bồi

thường vẫn được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng giữa công ty nhượng tái và nhà

TBH (vì vậy vẫn là phương thức TBH theo tỷ lệ). Nhà nhượng tái được quyền

chọn mức giữ lại tùy theo loại rủi ro.

Ví dụ:

Một công ty bảo hiểm A ký kết hợp đồng TBH mức dôi với công ty

bảo hiểm B nghiệp vụ bảo hiểm cháy: mức giữ lại của A là 10 triệu USD và

hợp đồng TBH 5 lines (10 lần). Trong năm kinh doanh, công ty A đã cấp các

đơn bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lần lượt là: 9 triệu USD, 15 triệu USD, 45

triệu USD và 75 triệu USD. Mức phí bảo hiểm tái đi và tỷ lệ tái được tính như

đơn vị: triệu USD

Số tiền hiểm gốc 9 15 45 75

Số tiền bảo hiểm giữ lại 9 10 10 10

Số tiền bảo hiểm tái đi 0 5 35 50

Tỷ lệ tái 0% 33% 78% 66.67%

Số lần (lines) 0 line 0.5 lines 3.5 lines 5 lines (*)

sau:

(*) Trong trường hợp cuối với số tiền bảo hiểm là 75 triệu USD, số tiền bảo

hiểm tái đi không thể vượt quá số lines đã thỏa thuận (5 lines - tức 50 triệu

USD), nên sau khi tái theo hợp đồng surplus, công ty A vẫn phải giữ lại thêm

một phần trách nhiệm là 15 triệu USD.

Nhìn vào ví dụ trên có thể thấy tuy cũng là TBH theo tỷ lệ nhưng tỷ lệ

TBH trong hợp đồng mức dôi đã linh hoạt hơn nhiều. Với những đơn bảo

hiểm nhỏ, công ty nhượng tái có thể giữ lại toàn bộ cho mình còn với những

đơn lớn hơn, công ty bảo hiểm gốc vẫn có thể ổn định được mức giữ lại phù

hợp với khả năng tài chính của công ty. Tuy vậy, để có thể tính toán hợp lý

mức giữ lại cho mỗi loại rủi ro, công ty bảo hiểm gốc cần phải có kinh

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

26

nghiệm và trình độ cũng như có một nền số liệu phân tích đáng tin cậy. Điều

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

này không hề đơn giản với những nước chưa có điều kiện áp dụng công nghệ

thông tin vào quản lý và thống kê bảo hiểm.

Về phía nhà TBH, việc đảm bảo cân đối khi nhận TBH trở nên khó

khăn hơn. Trong nhiều trường hợp, tỷ lệ trách nhiệm và số phí thu được là rất

lớn. Vì thế các nhà TBH thường giới hạn số lines (chính là bội số tối đa của

mức giữ lại) trong các hợp đồng bảo hiểm mức dôi (xem trường hợp cuối

cùng trong ví dụ trên). Bên cạnh đó, nhà TBH cũng phải lợi dụng quy luật số

nhiều, nhận nhiều hợp đồng bảo hiểm để cân bằng tài chính cho mình.

2.2 TBH phi tỷ lệ

TBH phi tỷ lệ hay còn gọi là TBH theo mức bồi thường bảo hiểm, là

một phương thức TBH mà trong đó công ty nhượng TBH ấn định giới hạn bồi

thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất, là hậu quả

của từng sự cố đối với một hoặc nhiều loại bảo hiểm mà mình đảm trách, còn

phần tổn thất vượt quá mức giới hạn đó được chuyển cho nhà TBH gánh chịu.

Các phương thức TBH theo tỷ lệ liên quan đến các mức tỷ lệ của giá trị đối

tượng chịu rủi ro. Trong khi các phương thức TBH phi tỷ lệ nhìn nhận theo

cách khác và được dựa trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm.

Có hai phương thức TBH cơ bản sau:

 TBH vượt mức bồi thường.

 TBH vượt tỷ lệ bồi thường.

2.2.1 TBH vượt mức bồi thường - Excess of Loss

TBH vượt mức bồi thường là phương thức trong đó công ty TBH đồng

ý bồi thường cho công ty bảo hiểm gốc phần tổn thất vượt quá giới hạn nào

đó cho một rủi ro hay một sự cố. Theo phương pháp này, các bên thỏa thuận

là công ty nhượng TBH thanh toán số tiền cố định đầu tiên cho các tổn thất

phát sinh từ một sự cố và công ty nhận TBH thanh toán số tiền vượt quá mức

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

27

bồi thường giữ lại.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Trong phương thức TBH vượt mức bồi thường có thể phân ra thành hai

loại nhỏ hơn:

 TBH vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ: theo hợp đồng TBH

vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ, nhà TBH sẽ bồi thường cho

một tổn thất bất kỳ của một đơn vị rủi ro vượt quá phần tổn thất giữ

lại của công ty bảo hiểm gốc và trong phạm vi giới hạn định mức. Phần

tổn thất này phải được xác định vào thời điểm bắt đầu ký kết hợp đồng.

 TBH vượt mức bồi thường tích tụ rủi ro: (Cat XOL) hợp đồng này bảo

hiểm cho nhiều tổn thất do một sự cố đơn nhất xảy ra, ví dụ như một

trận động đất, một cơn bão hay những thiên tai khác. Theo hợp đồng

này, công ty nhượng tái có thể gộp tất cả các tổn thất phát sinh từ một

sự cố đơn nhất và được nhận bồi thường từ nhà TBH cho toàn bộ phần

tổn thất vượt quá mức giữ lại (còn gọi là mức miễn thường). Như vậy,

ngay cả khi công ty nhượng tái phải gánh chịu nhiều tổn thất của nhiều

rủi ro nhận bảo hiểm, tổn thất của công ty này cũng chỉ giới hạn ở phần

giữ lại. Toàn bộ phần tổn thất vượt quá mức giữ lại cho tới giới hạn

trách nhiệm của hợp đồng TBH sẽ được thu hồi lại từ nhà TBH. Giới

hạn trách nhiệm và mức giữ lại sẽ được quy định ngay từ lúc ký kết

hợp đồng.

Dưới đây là một ví dụ về hợp đồng TBH vượt mức bồi thường đảm bảo

nghiệp vụ:

Ví dụ:

Công ty bảo hiểm A thu xếp một hợp đồng TBH cố đinh vượt mức bồi

thường với công ty TBH B cho 2000 đơn bảo hiểm hàng hải. Hợp đồng

TBH có mức giới hạn là 200 000 USD và mức miễn thường là 50 000

USD. Không có giới hạn nào về số vụ tổn thất có thể khiếu nại và phí

nhượng TBH là 20% tổng phí bảo hiểm gốc. Trong năm kinh doanh, có

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

28

những tổn thất xảy ra trong 2000 đơn bảo hiểm hàng hải như sau:

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 (a) 5 tàu bị thiệt hại mỗi tàu 45 000 USD

 (b) 3 tàu mỗi tàu bị thiệt hại 100 000 USD

 (c) 1 tàu bị thiệt hại 300 000 USD

 Tổng phí bảo hiểm thu được cho nghiệp vụ trên trong năm bảo hiểm là

2 triệu USD.

 Ta sẽ xem xét cách tính phí bảo hiểm nhượng đi, và số tiền thu hồi

khiếu nại từ nhà TBH:

 (a) Trường hợp này công ty A không thể thu đòi nhà TBH vì cả 3

khiếu nại đều dưới mức miễn thường (50 000 USD)

 (b) Trường hợp này công ty A thu lại từ nhà TBH B:

 50 000 x 3 = 150 000 (USD)

 (c) Tổn thất trong trường hợp này đã vượt mức giới hạn là, như vậy

nhà TBH B sẽ trả đúng bằng mức giới hạn là 200 000 USD, còn lại

100000 USD công ty bảo hiểm gốc tự gánh chịu.

 (*) Phí bảo hiểm phải trả cho nhà TBH là:

 20% x 2 000 000 = 400 000 (USD)

TBH vượt mức bồi thường là phương thức TBH hiện đại, khắc phục

được nhiều khuyết điểm của các phương thức TBH trước đó.

 Phương thức này có thể đảm bảo cho một rủi ro hoặc một sự cố cho

nên nó đem lại cho công ty nhượng TBH một sự đảm bảo về ổn định tài

chính khi có nhiều đối tượng cùng tổn thất một lúc.

 Công ty nhượng TBH còn có thể quyết định mức trách nhiệm tối đa

phải bồi thường – là yếu tố liên quan trực tiếp đến khả năng thanh toán

của công ty (ở phương thức TBH mức dôi, công ty nhượng tái chỉ có

thể quyết định tỷ số tiền bảo hiểm giữ lại, bất kể đối tượng bảo hiểm có

xảy ra tổn thất hay không). Điều khác biệt đáng chú ý ở đây là hợp

đồng TBH vượt mức bồi thường không phải là để bảo hiểm cho những

rủi ro lớn với tiềm năng tổn thất lớn mà là những tổn thất thực tế phải

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

29

gánh chịu, không kể đến quy mô của đối tượng được bảo hiểm.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Tuy vậy, TBH vượt mức bồi thường cũng có những nhược điểm:

 Phí TBH phải trả ngay vào lúc bắt đầu hợp đồng, hoặc phải trả tiền đặt

cọc tương ứng với số phí đó

 Việc định phí và xác định mức miễn thường rất phức tạp, nếu công ty

nhượng tái không tính toán hợp lý thì họ có thể mất đi một khoản

doanh thu phí nhượng tái đáng kể.

Phương thức bảo hiểm này thường được áp dụng cho các nghiệp vụ bảo

hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hóa và tàu là những nghiệp vụ bảo hiểm chịu

nhiều ảnh hưởng của thiên tai.

2.2.2 TBH vượt tỷ lệ bồi thường - Stop Loss

Theo phương thức này, công ty nhượng khống chế trách nhiệm bồi

thường một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ bồi thường vượt quá mức quy định được

chuyển giao cho nhà TBH. Phương pháp này giúp cho công ty nhượng chống

lại sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay

một dạng dịch vụ bảo hiểm nào đó trong một thời gian quy định, bất luận tình

trạng đó do nguyên nhân nào xảy ra.

Số tiền bồi thường Tỷ lệ bồi thường = Phí thu

Phí nhượng tái trong phương thức TBH này được tính toán trên cơ sở

ước tính chi phí cho các khiếu nại vượt quá phần giữ lại của công ty bảo hiểm

gốc.

Ví dụ:

Công ty bảo hiểm A thu xếp một hợp đồng TBH vượt tỷ lệ bồi thường

với công ty TBH B cho 2000 đơn bảo hiểm. Trong năm kinh doanh, tổng phí

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

30

bảo hiểm gốc mà công ty A thu được là 1 triệu USD.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Công ty TBH B đồng ý nhận bồi thường cho các đơn bảo hiểm có tỷ lệ

bồi thường vượt quá 105% sau khi các điều khoản về TBH khác đã được thực

hiện. Hợp đồng TBH cũng quy định mức bồi thường tối đa dựa trên tỷ lệ bồi

thường là 120%. Số tiền khiếu nại sau khi đã tính toán hết số tiền thu từ các

hợp đồng TBH khác còn 1,100,000 USD. Trong trường hợp này số tiền bồi

thường có thể thu lại từ nhà TBH được tính toán như sau:

1,100,000 Tỷ lệ bồi thường = = 110 % 1,000,000

Do tỷ lệ bồi thường dưới mức giới hạn (120%) và vượt tỷ lệ bồi thường

(105%), nên công ty bảo hiểm A có thể thu đòi nhà TBH phần vượt tỷ lệ là

5% số phí bảo hiểm tương đương 50,000 USD.

Với phương thức TBH vượt tỷ lệ bồi thường, các công ty bảo hiểm có

thể tránh được sự gia tăng đột biến tỷ lệ bồi thường của một nghiệp vụ bảo

hiểm nào đó trong một thời gian quy định song hình thức này có nhược điểm

lớn là không đảm bảo lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm bởi khả năng xảy ra

bồi thường vượt tỷ lệ là không nhiều mà phí bảo hiểm thì phải đóng ngay khi

ký kết hợp đồng bảo hiểm.

Vì thế phương thức này thường được áp dụng trong những loại nghiệp

vụ có tính chất tổn thất thất thường, do thiên tai không thường xuyên gây ra

như: cháy, bão lũ, mưa đá.... Trên thực tế dạng TBH này ít được sử dụng vì

việc định phí phức tạp và thiếu chính xác. Nó thường chỉ được dùng để bổ

sung cho các dạng TBH tỷ lệ và phi tỷ lệ sẵn có.

2.3 TBH kết hợp

Từ phương pháp TBH nói trên, người ta kết hợp hai phương pháp với

nhau và hình thành nên 3 phương pháp TBH kết hợp sau:

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

31

* TBH kết hợp số thành - mức dôi

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 Theo phương pháp này công ty nhượng sẽ phải TBH số thành trước,

còn lại sẽ TBH theo mức dôi.

 Việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên được tiến

hành theo trình tự từng hợp đồng và căn cứ vào số tiền bảo hiểm.

* TBH kết hợp số thành - vượt mức bồi thường

 Theo phương pháp này việc phân chia trách nhiệm giữa các bên trước

hết là theo tỉ lệ trong hợp đồng TBH số thành.

 Khi tổn thất xảy ra công ty nhận TBH vượt mức sẽ bảo vệ công ty

nhượng và công ty nhận TBH số thành cho một mức khống chế nhất

định.

* TBH kết hợp mức đôi - vượt mức bồi thường

 Theo phương pháp này việc phân chia trách nhiệm ban đầu được tiến

hành cho hợp đồng TBH mức dôi.

 Khi tổn thất xảy ra, công ty nhận TBH vượt mức bồi thường sẽ bảo vệ

cho công ty nhượng và công ty nhận TBH mức dôi.

Như vậy, qua các hình thức TBH trên đều có những ưu điểm và hạn

chế riêng, việc lựa chọn phương pháp TBH nào phù hợp với khả năng tài

chính, kỹ thuật và điều kiện sẵn có là rất cần thiết và tuỳ thuộc vào từng công

ty.

III. CÁC BƢỚC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TBH.

Ký kết hợp đồng TBH qua môi giới

Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm và TBH hầu như mọi hoạt động đều

thông qua môi giới, do vậy các bước thu xếp hợp đồng đều do môi giới đảm

nhận. Quy trình ký kết một hợp đồng TBH qua môi giới gồm những bước

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

32

sau:

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Bước 1: Công ty nhượng TBH gửi đơn chào TBH cho môi giới hoặc

gửi Schedule để môi giới thảo đơn chào. Đơn chào TBH phải bao gồm những

điều khoản cơ bản nhất của hợp đồng TBH. Điều quan trọng là môi giới có

chấp nhận mức phí TBH và hoa hồng TBH đưa ra hay không, vì nếu hoa hồng

cao cộng với phí môi giới sẽ không hấp dẫn đối với với các công ty nhận

TBH. Ở đây, môi giới thay mặt cho công ty nhận TBH quyết định có đồng ý

với đơn chào hay phải thoả thuận lại.

Bước 2: Môi giới TBH sẽ chào TBH tới nhiều công ty bảo hiểm và

TBH khác trên thị trường. Môi giới TBH phải là người có quan hệ rộng rãi thì

mới biết được ai là người có khả năng đứng đầu nhận TBH vì một người đứng

đầu nhận TBH có kinh nghiệm và có uy tín sẽ dễ dàng cho việc thu xếp hoạt

động khác trong đơn chào. Sau đó môi giới sẽ tiếp tục chào TBH tới nhiều

công ty khác, công ty nào đồng ý với các điều khoản của đơn chào thì sẽ nhận

một phần trách nhiệm thông báo danh sách các công ty nhận TBH cùng với

mức trách nhiệm của họ cho người đứng đầu nhận TBH và cho công ty

nhượng TBH biết. Nếu đồng ý thì công ty nhượng TBH sẽ xác nhận lại.

Bước 3: Môi giới TBH sẽ lập ra Cover Note trong đó ghi lại tất cả

những điều khoản trong đơn chào đã được các bên đồng ý và gửi lại bản

Cover Note này cho tất cả các bên có liên quan.

Bước 4: Môi giới sẽ thảo ra một văn bản hợp đồng TBH (Reinsurance

Contract) bao gồm tất cả các điều khoản như trong Cover Note hoặc đã được

sửa đổi và gửi cho công ty nhượng và các công ty nhận TBH. Các công ty này

đều ký tên vào trang cuối cùng của hợp đồng và gửi lại môi giới. Như vậy,

hợp đồng TBH đã có hiệu lực.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

33

Ký kết hợp đồng TBH trực tiếp

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Việc ký kết hợp đồng TBH trực tiếp hiện nay ít được sử dụng, nếu có

thì công ty nhượng TBH phải thực hiện mọi công việc mà môi giới TBH phải

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

34

làm.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

CHƢƠNG II. THỊ TRƢỜNG TBH PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM

I. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA

THỊ TRƢỜNG TBH VIỆT NAM.

Quá trình phát triển của TBH phi nhân thọ Việt Nam gắn liền với quá

trình hình hình thành và phát triển của ngành bảo hiểm gốc. Có thể chia quá

trình này thành 3 giai đoạn chính gắn với ba mốc là trước khi có nghị định

100CP, sau khi có nghị định 100CP đến trước Luật bảo hiểm 2001, từ khi có

luật bảo hiểm 2001 đến nay.

1.

Trƣớc khi ban hành nghị định 100/CP về họat động kinh

doanh bảo hiểm

Trong thời kỳ này, thị trường TBH Việt Nam theo đúng nghĩa vẫn chưa

hình thành. Vì hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam chỉ do một công ty

nhà nước duy nhất đảm trách là Công ty Bảo hiểm Việt Nam (là tập đoàn Bảo

Việt hiện nay). Vào thời kỳ đầu thành lập (từ năm 1965 đến năm 1975) Bảo

Việt chỉ kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ với một số nghiệp vụ như: bảo

hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển; sau năm 1975 có mở rộng

thêm các nghiệp vụ bảo hiểm cháy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt.

Do thị trường bảo hiểm gốc vẫn chưa phát triển nên chưa thể nói đến sự

phát triển của TBH. Hoạt động TBH trong thời kỳ này hầu hết là nhượng

TBH cho các đối tác nước ngoài. Phí nhượng tái chiếm đến 35 -40% phí bảo

hiểm gốc. Các đối tác nhận TBH của Việt Nam lúc đó chủ yếu là các công ty

bảo hiểm Trung Quốc và một số ít các công ty bảo hiểm Ba Lan, Triều Tiên.

Sau khi Bảo Việt trở thành thành viên của Liên đoàn bảo hiểm và TBH Á-Phi

thì quan hệ với các nhà tái khác trên thế giới cũng dần được mở rộng hơn.

Tuy còn chưa phát triển, nhưng nhìn chung hoạt động nhượng tái vẫn liên tục

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

35

có lãi.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Hoạt động nhận TBH cũng bắt đầu được triển khai sau năm 1987

nhưng tỏ ra kém hiệu quả, thua lỗ nhiều mà điển hình là năm 1993: bồi

thường nhận TBH lên đến 113% phí nhận tái. Nguyên nhân chính là do năm

này có nhiều tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm của hợp đồng nhận tái, và quan

trọng hơn do năng lực thu xếp hợp đồng, định phí, xác định rủi ro của tao còn

yếu kém cộng với việc năng lực tài chính của ta còn yếu kém nên thu không

đủ bù chi.

2.

Sau khi ban hành nghị định 100/CP

Nghị định 100/CP được chính phủ ban hành vào ngày 17/2/1993 và

chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/1994 quy định về hoạt động kinh doanh

bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu bức thiết về mở rộng và đa dạng hóa ngành kinh

doanh bảo hiểm ở Việt Nam cả về nghiệp vụ lẫn đối tượng tham gia. Đây là

nền tảng pháp lý đầu tiên cho ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Nghị

định 100CP thực sự là một bước ngoặt lớn.

Việc thực hiện nghị định trên của Chính phủ đã tạo hướng đi mới cho

thị trường bảo hiểm – TBH ở Việt Nam. Trước hết là sự thành lập Công ty

TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) ngày 23/8/1994, mở đường cho sự ra đời

của hàng loạt các công ty bảo hiểm khác như Bảo Minh (1994), PJICO

(1995), PVIC (1996)....

Nhiều gương mặt mới xuất hiện đã khiến cho thị trường bảo hiểm gốc

trở lên ngày càng sôi động. Các sản phẩm bảo hiểm được đa dạng hóa, số

lượng đối tác bảo hiểm – TBH nước ngoài có uy tín ngày càng tăng giúp các

công ty trong nước có cơ hội tranh thủ sự hỗ trợ về nghiệp vụ và đảm bảo an

toàn kinh doanh. Thị trường TBH cũng theo đó mà phát triển do nhu cầu TBH

cho các đơn bảo hiểm giá trị lớn xuất hiện ngày càng nhiều (nhờ các công

trình xây dựng, lắp đặt được triển khai tại khắp các địa phương trên toàn

quốc). Tuy phí bảo hiểm chuyển nhượng ra nước ngoài ngày càng tăng nhưng

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

36

tỷ trọng của nó so với tổng phí bảo hiểm gốc lại giảm đi. Điều này có được là

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

nhờ sự có mặt của VINARE như một đối tác bắt buộc (nhà nước quy định các

doanh nghiệp bảo hiểm phải tái 20% cho VINARE trước khi tái tiếp cho các

đối tác nước ngoài) và nhờ các doanh nghiệp trong nước đã nhận TBH lẫn

nhau. Tuy vậy điều đáng lưu tâm hơn khi thị trường TBH đang phát triển

nhanh là việc quản lý cạnh tranh, kiếm soát các phương thức cạnh tranh

không lành mạnh và đảm bảo khả năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo

hiểm.

3.

Sau khi ban hành Luật bảo hiểm 2001

Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 8 thông

qua vào ngày 9/12/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001 là một bước tiến

quan trọng sau nghị định 100/CP. Luật này cho phép các doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài cũng được tham gia thị trường bảo hiểm dưới hai hình thức

là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, luật có cả

qui định về hoạt động kinh doanh TBH, hoạt động môi giới bảo hiểm. Nếu so

sánh với nghị định 100/CP, Luật bảo hiểm không chỉ có tính pháp lý cao hơn

mà nội dung còn thể hiện thiện chí cải cách rõ rệt của Đảng và Chính phủ

Việt Nam.

Ngoài Luật kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ đã ban hành thêm nhiều

văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường và các doanh nghiệp bảo

hiểm. Đó là:

 NĐ 42/2001/NĐ-CP và 45/2007/NĐ-CP chi tiết một số điều của

Luật kinh doanh bảo hiểm,

 NĐ 43/2001/NĐ-CP và 46/2007/NĐ-CP qui định về chế độ tài

chính với doanh nghiệp bảo hiểm.

Bộ tài chính cũng đã ban hành các thông thư hướng dẫn chi tiết các nghị

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

37

định trên đó là:

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 Thông tư 98/2004/TT-BTC hướng dẫn thi hành luật kinh doanh

bảo hiểm

 Thông tư 99/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định

43/2001/NĐ-CP

 Quyết định 150/2001/QĐ-BTC bổ sung sửa đổi chế độ kế toán với

các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.

Từ khi có thể chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh, số lượng các công ty

bảo hiểm được cấp phép hoạt động đã tăng lên nhanh chóng và hiện đã lên

đến trên 30 công ty, trong đó có cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài. Thị trường bảo hiểm gốc ở cả hai lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và

nhân thọ có những bước tăng trưởng mạnh mẽ chưa từng thấy. Vì thế hoạt

động TBH cũng sôi động lên rất nhiều, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân

thọ trong nước hầu như đều sử dụng nghiệp vụ TBH như một công cụ hữu

hiệu để ổn định kinh doanh. Đối tượng nhận TBH cũng phong phú hơn: tái

bảo hiểm trong nước, ngoài nước đặc biệt là tái bảo hiểm qua môi giới đang

ngày càng phát triển.

II. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƢỜNG TBH PHI NHÂN

THỌ VIỆT NAM

Các chủ thể đang tham gia thị trường TBH phi nhân thọ cơ bản gồm 4

nhóm: các công ty bảo hiểm gốc, công ty TBH, môi giới TBH và các công ty

bảo hiểm và TBH quốc tế.

Tính đến 31/4/2007 trên thị trường Việt Nam có 19 doanh nghiệp đang

hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có 7 doanh nghiệp

có vốn đầu tư nước ngoài; 9 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm (4 doanh nghiệp

5 Theo www.mof.gov.vn

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

38

có vốn đầu tư nước ngoài) và 1 công ty TBH chuyên nghiệp là Công ty TBH quốc gia Việt Nam (VINARE)5

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

1. Công ty bảo hiểm gốc

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Trong hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh nghiệp trong nước

vẫn chiếm ưu thế (đóng góp 80% doanh thu toàn thị trường) vì hiện chính phủ

vẫn chưa cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài kinh doanh bảo

hiểm phi nhân thọ tại thị trường Việt Nam. TBH ở thị trường Việt Nam hầu

như là hoạt động nhượng tái, các doanh nghiệp bảo hiểm gốc lớn có tiềm

năng tài chính đủ mạnh hiện cũng tham gia nhận TBH đó là Bảo Việt, Bảo

Minh, PJICO, PVI. Các doanh nghiệp còn lại có ít thị phần (và ảnh hưởng)

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

39

đến thị trường bảo hiểm và TBH (xem biểu đồ 2.1).

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Bảng 2.1 CHỈ SỐ TÀI CHÍNH NĂM 2006 CỦA MỘT SỐ CÔNG TY BH PHI NHÂN THỌ CHÍNH

Đơn vị: triệu đồng

Bảo Việt

Bảo Minh

PJICO

PVI

Vốn chủ sở hữu

569,693.70

555,610.18

193,011.79

718,215.90

Tổng nguồn vốn kinh doanh

2,358,002.09

1,439,210.98

581,014.29

1,195,284.02

Doanh thu

1,786,548.42

948,537.62

563,218.99

306,759.24

Lợi nhuận

82,978.33

3,258.22

354.17

6,400.24

0.18%

0.89%

14.57%

0.59%

Tỷ suất lợi nhuận/ vốn CSH

Nguồn:Báo cáo tài chính 2006 - Bảo Việt, Bảo Minh, PJCO, PVI

1.1 Công ty Bảo Việt Việt Nam

Bảo Việt Việt Nam (BVVN) là một trong 4 đơn vị thành viên thuộc tập

đoàn tài chính – bảo hiểm Bảo Việt (trước là Tổng công ty bảo hiểm Việt

Nam) hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy mới tách ra từ

năm 2002, nhưng về bản chất, BVVN đã có lịch sử phát triển hơn 40 năm từ

khi Bảo Việt ra đời năm 1965. Hiện tại, BVVN có 65 công ty con hạch toán

phụ thuộc trên toàn quốc và mạng lưới đại lý bảo hiểm rộng khắp các cả nước

cung cấp mọi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ, từ những đơn bảo hiểm lớn

hàng chục triệu đô la đến những đơn bảo hiểm nhỏ như bảo hiểm học sinh,

bảo hiểm xe cơ giới....Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay, BVVN

vẫn là công ty xếp thứ nhất cả về qui mô vốn, số lượng sản phẩm dịch vụ,

doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên, thị phần của Bảo Việt trong những năm

qua đang ngày càng thu hẹp do sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm mới

trên thị trường (xem biểu đồ 2.1).

Hoạt động TBH tại Bảo Việt được triển khai ở hầu hết các nghiệp vụ:

bảo hiểm cháy; bảo hiểm hàng hải (thân tàu và TNDS của chủ tàu); bảo hiểm

xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm hàng không, dầu

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

40

khí và một số lĩnh vực bảo hiểm khác như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

hiểm xe cơ giới.... Năm 2006 phí bảo hiểm nhượng tái từ Bảo Việt Việt Nam

là hơn 600 tỷ đồng (chiếm 1/4 tổng phí nhượng của toàn thị trường). Bảo Việt

cũng nhận tái từ các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài, phí nhận tái

năm 2006 là: 4,7 tỷ đồng.

Bảo Việt Việt Nam sẽ chính thức chuyển từ công ty nhà nước thành

công ty cổ phần vào ngày 15/10/2007 và dự định sẽ niêm yết trên sàn giao

dịch chứng khoán vào đầu năm 2008 tới. Vốn điều lệ của tập đoàn Bảo Việt

sau khi cổ phần hóa sẽ tăng lên khoảng 6800 tỷ đồng, tương đương với qui

mô của một trong năm ngân hàng nhà nước lớn nhất hiện nay. Cùng với việc

gấp rút triển lộ trình cổ phần hóa, Bảo Việt Việt Nam cũng đang nỗ lực đổi

mới, nâng cấp mô hình quản lý, phát triển thêm dịch vụ mới để giữ vững ngôi

vị quán quân trong làng bảo hiểm phi nhân thọ.

1.2 Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh - Bảo Minh

Được thành lập ngày 28/11/1994 ngay sau quyết định 100CP của chính

phủ, Bảo Minh cũng là một trong những doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ

lâu năm nhất trên thị trường. Từ khi mới thành lập cho đến năm 2004, Bảo

Minh là công ty 100% vốn nhà nước trực thuộc Bộ tài chính, từ tháng

10/2004 Bảo Minh chuyển thành công ty cổ phần bảo hiểm chuyên hoạt động

trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và đầu tư tài chính. Mạng lưới hoạt

động của Bảo Minh cũng trải khắp cả nước với 57 công ty con hạch toán phụ

thuộc và hơn 8000 đại lý và cộng tác viên. Lĩnh vực hoạt động chính của Bảo

Minh là: bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm tài

sản, trách nhiệm, bảo hiểm con người. Đặc biệt Bảo Minh là một trong 3

doanh nghiệp được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm hàng không

(cùng với Bảo Việt và GIC), và là nhà bảo hiểm đứng đầu trong lĩnh vực này.

Năm 2007, Bảo Minh đã chính thức trở thành nhà bảo hiểm gốc cho Vietnam

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

41

Airlines và hợp đồng bảo hiểm này là sự cộng tác dài hạn từ hai phía.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Bảo Minh cũng là nhà bảo hiểm gốc lớn trên thị trường TBH. Phí bảo

hiểm gốc tái ra thị trường của Bảo Minh trong năm 2006 là 526,22 tỷ đồng

đứng thứ 2 sau Bảo Việt. Các nghiệp vụ liên quan đến TBH ở Bảo Minh đáng

kể nhất là bảo hiểm hàng không và bảo hiểm hàng hải. Bảo Minh cũng nhận

tái từ thị trường trong nước với số phí nhận năm 2006 là 81,45 tỷ đồng. Nhìn

chung tình hình doanh thu và thị phần của Bảo Minh 4 năm qua vẫn tăng

nhưng lợi nhuận từ kinh doanh bảo hiểm đều rất khiêm tốn.

Nhìn trên bảng 2.1, ta nhận thấy Bảo Minh là doanh nghiệp đứng thứ 2

về vốn và doanh thu, nhưng lại có lợi nhuận xếp thứ 3 trong số 4 nhà kinh

doanh bảo hiểm hàng đầu. Nguyên nhân là do chi phí bồi thường mà Bảo

Minh phải chi trả chiếm phần lớn doanh thu phí bảo hiểm gốc (năm 2006 là

gần 50% - lớn hơn rất nhiều so với mức trung bình của thị trường). Có thể

Bảo Minh đang thực hiện chiến lược cạnh tranh là mở rộng thị phần nên chưa

chú trọng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, nhưng với kết quả không mấy

khả quan trên, Bảo Minh cần phải xem xét lại về chính sách, hoặc trình độ

nghiệp vụ của mình, bởi nếu các đơn bảo hiểm đều có tỷ lệ bồi thường cao

như vậy chứng tỏ phí thu còn thấp, việc thu xếp TBH sẽ gặp nhiều khó khăn.

1.3 Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - PJICO

Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) thành lập ngày 15/6/1995

gồm 7 cổ đông sáng lập đều là các tổ chức kinh tế lớn của nhà nước như:

Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) với số cổ phần áp đảo là 51%;

ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam(Vietcombank) 10%; Công ty TBH quốc

gia Việt Nam (VINARE) 8%; Tổng công ty thép Việt Nam 6% ....

Hiện PJICO có 48 chi nhánh và khoảng 4500 đại lý trên toàn quốc, thị

phần của PJICO năm 2006 là 10,54% đứng thứ 4 trên thị trường. Các sản

phẩm bảo hiểm chủ yếu của PJICO là: xe cơ giới, xây dựng – lắp đặt, xăng

dầu, hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm tàu thủy, bảo hiểm con người. Kết quả

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

42

hoạt động kinh doanh của PJICO trong những năm qua cũng rất khó khăn: thị

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

phần giảm mạnh, tỷ lệ bồi thường cao, lợi nhuận thấp. Năm 2006 tỷ suất lợi

nhuận/ vốn chủ sở hữu của PJICO chỉ đạt 0,18% (xem bảng 2.1) thấp hơn rất

nhiều so với các doanh nghiệp cùng ngành.

Về hoạt động TBH, năm 2006 PJICO nhượng ra thị trường 106,7 tỷ

đồng. Các nghiệp vụ liên quan đến TBH ở PJICO thường là: bảo hiểm xăng

dầu, bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Tuy vậy chưa có một mảng nghiệp vụ nào

PJICO chiếm ưu thế vượt trội so với các doanh nghiệp cùng ngành. Hoạt

động nhận TBH của PJICO phần lớn là do VINARE chuyển sang.

PJICO là một công ty cổ phần từ khi mới thành lập nhưng cho đến nay

vẫn chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, các hoạt động của PJICO

không thực sự ấn tượng như tiềm năng về vốn và lịch sử kinh doanh lâu năm

của doanh nghiệp này. Với tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, những

doanh nghiệp như PJCO sẽ khó tránh khỏi gặp nhiều khó khăn trong những

năm tới.

1.4 Công ty bảo hiểm Dầu khí - PVI

Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI) là thành viên

của tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, được thành lập năm 1996. PVI hoạt

động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và mới đây mở rộng hoạt động

sang lĩnh vực đầu tư tài chính. Hiện PVI có 16 đơn vị thành viên và văn

phòng đại diện trên toàn quốc. Mạng lưới hoạt động của PVI so với các công

ty bảo hiểm gốc nói trên có vẻ bó hẹp nhưng thực chất lại rất phù hợp với

hoạt động kinh doanh của công ty bởi lĩnh vực kinh doanh chính của PVI là ở

nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm hàng hải và bảo hiểm công nghiệp.

Cuối năm 2006, thị phần của PVI trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là thứ

3, nhưg cho đến quý 2 năm 2007, PVI đã vượt lên trên Bảo Minh xếp thứ 2

với thị phần 26,91% và là doanh nghiệp bảo hiểm đi đầu trong lĩnh vực bảo

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

43

hiểm công nghiệp.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

PVI là doanh nghiệp hoạt động mạnh nhất trong hoạt động TBH xét về

cả nhượng tái và nhận tái. Phí nhượng tái của PVI ra thị trường năm 2006 là

hơn 800 tỷ đồng – cao hơn cả Bảo Việt (600 tỷ đồng). Cùng năm đó, doanh

nghiệp đã nhận TBH từ thị trường hơn 46 tỷ đồng. Con số này thấp hơn Bảo

Việt khá nhiều (152 tỷ đồng) nhưng điều đáng nói là PVI đã thu xếp được các

hoạt động nhận TBH từ nước ngoài cho các dự án về dầu khí tại Triều Tiên,

Trung Quốc. Uy tín của PVI trên thị trường bảo hiểm quốc tế đang dần được

nâng cao và triển vọng của PVI tronh những năm tới là khá sáng sủa bởi PVI

có vẻ là doanh nghiệp bảo hiểm năng động nhất trong 4 doanh nghiệp bảo

hiểm gốc dẫn đầu.

2. Công ty TBH

2.1 Tổng công ty Cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam - VINARE

Được thành lập ngày 23/8/1994, cho đến nay VINARE vẫn là doanh

nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp duy nhất trên thị trường Việt Nam.

Tính đến hết năm 2006, tổng nguồn vốn kinh doanh của VINARE đã lên đến

874,73 tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 423,46 tỷ đồng.

Mục đích ban đầu khi Chính phủ thành lập VINARE là để điều tiết hoạt

động TBH trong nước, giảm lượng phí bảo hiểm bảo hiểm chảy ra nước

ngoài; tham mưu tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm về kỹ thuật bảo

hiểm, TBH như: khai thác bảo hiểm, giải quyết bồi thường; là đầu mối thông

tin bảo hiểm và TBH giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và thị

trường quốc tế; và cuối cùng là đạo tạo nâng cao nghiệp vụ bho các cán bộ

bảo hiểm trong nước.

VINARE thực hiện vai trò là nhà điều tiết hoạt động TBH trên thị

trường nhờ vào qui định về TBH bắt buộc. Theo quy định này, các công ty

bảo hiểm gốc đang hoạt động tại thị trường Việt Nam phải tái 20% cho

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

44

VINARE trước khi nhượng tái ra thị trường nước ngoài. Năng lực tài chính

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

của VINARE không cao (số vốn ban đầu là 40 tỷ VND và cho đến nay cũng

chỉ hơn 400 tỷ đồng) nhưng VINARE có quan hệ với tất cả các công ty bảo

hiểm trên thị trường Việt Nam và rất nhiều công ty TBH có uy tín trên thế

giới, sau khi nhận TBH từ các công ty trong nước, VINARE sẽ tính toán để

giữ lại một mức độ phù hợp cho mình và tái đi tối đa có thể cho các công ty

bảo hiểm trong nước (tùy vào khả năng tài chính của mỗi công ty); sau đó

VINARE mới tiếp tục thu xếp TBH với các nhà tái nước ngoài. Theo cách

này, doanh thu phí bảo hiểm được giữ lai nhiều hơn, các công ty bảo hiểm

vừa và nhỏ cũng có khả năng để chia sẻ doanh thu (và cả rủi ro) từ các công

ty bảo hiểm lớn hơn và nhờ đó mà phát triển.

Năm 2006, doanh thu nhận TBH của VINARE là 782,84 tỷ đồng (chiếm

1/3 nhu cầu nhượng TBH trong nước); phí bảo hiểm tái đi là 624,68 tỷ đồng.

Thông qua hoạt động nhận – nhượng TBH của mình, VINARE đã giữ lại

được hơn 300 tỷ đồng phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Những con số trên đã

cho thấy sự đóng góp của VINARE trong hoạt động điều tiết thị trường TBH

Việt Nam. Hoạt động nhận TBH từ nước ngoài ở VINARE cũng đang dần

phát triển, phí nhận tái từ thị trường nước ngoài trong hai năm 2005 và 2006

là 50,19 tỷ đồng (chiếm gần 1/3 tổng phí nhận tái từ nước ngoài của toàn thị

trường).

VINARE đã chính thức trở thành công ty cổ phần từ ngày 1/1/2005 và

cổ phiếu của VINARE đã được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng

khoán Hà Nộ vào ngày 13/3/2006. Mục tiêu hoạt động của VINARE giờ đây

không đơn giản là một đơn vị kinh doanh của nhà nước với vai trò điều tiết,

phát triển thị trường là chủ yếu mà đã tập trung hơn vào mục tiêu lợi nhuận.

Tuy nhiên vai trò của VINARE đang có nguy cơ bị mờ nhạt dần, do xu hướng

của các nhà bảo hiểm gốc hiện nay muốn nâng mức giữ lại để tăng lợi nhuận

và một phần do các nhà môi giới TBH nước ngoài đang hoạt động ngày càng

mạnh trên thị trường, kết nối các nhà bảo hiểm gốc đến thẳng các nhà TBH

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

45

hàng đầu thế giới. Thêm vào đó, sau một năm gia nhập WTO, qui định về

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

TBH bắt buộc sẽ bị dỡ bỏ, điều chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể doanh thu của

doanh nghiệp này.

Tuy tình hình thị trường có nhiều bất lợi, song nhờ vào nền tảng 13 năm

hoạt động, cùng với mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp bảo hiểm trong

nước và quốc tế, VINARE vẫn là đối tác đáng tin cậy của nhiều doanh nghiệp

bảo hiểm trong nước. Bằng chứng là nhiều doanh nghiệp cho biết, họ vẫn sẽ

tiếp tục cộng tác với VINARE ngay cả khi qui định về TBH bắt buộc hết hiệu

lực.

2.2 Công ty bảo hiểm và TBH nước ngoài

Các công ty bảo hiểm nước ngoài cho đến nay chưa được phép hoạt

động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và họ tham gia thị trường TBH phi

nhân thọ với tư cách là nhà nhận TBH. Các công ty này thường có quan hệ

chắc chẽ và lâu dài với các nhà bảo hiểm gốc nội địa. Trong số này phải kể

đến Swiss Re, Munich Re. Đây là hai nhà TBH hàng đầu thế giới hiện nay và

đã có quan hệ với Bảo Việt từ sau năm 1975. Hội bảo hiểm tương hỗ West of

England cũng tham gia thị trường Việt Nam từ rất sớm và hiện là nhà TBH

TNDS của chủ tàu chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, nhận 52% của hầu hết các

đơn bảo hiểm của nghiệp vụ này trên thị trường Việt Nam. Ngoài ra, các công

ty TBH và bảo hiểm nước ngoài còn tham gia thị trường TBH Việt Nam với

Bảng 2.2 MỘT SỐ CHỈ SỐ TÀI CHÍNH CỦA CÁC TẬP ĐOÀN TÁI BẢO HIỂM TRÊN TG

tư cách là nhà TBH chỉ định như: XL Hongkong.

Đơn vị: triệu USD

SWISS RE

MUNICH RE

WOE

Tổng tài sản

176,332

263,261 715.08

Phí bảo hiểm nhận tái

17,866 45,654 251.36

Lợi nhuận

3,545 6,700

6.54

Nguồn: Swiss Re, Munich Re, WOE Annual Report 2006

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

46

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Nhìn trên bảng 2.2, có thể thấy năng lực tài chính của các công ty này

vượt xa các công ty bảo hiểm trong nước. Dù có mạng lưới chi nhánh và văn

phòng trên khắp thế giới nhưng hiện nay chưa có tập đoàn nào trong số 3 tập

đoàn kể trên có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Hiện tại các nhà bảo hiểm

gốc Việt Nam vẫn nhượng tái cho các nhà TBH này thông qua môi giới hoặc

các văn phòng tại các nước trong khu vực. Dù có quan hệ lâu dài nhưng các

công ty này chưa lập văn phòng đại diện tại Việt Nam bởi “so sánh với các

nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore... thì nhu cầu

TBH của Việt Nam còn quá ít ỏi” - ông Edouard Schmid, Giám đốc kỹ thuật

TBH khu vực châu Á - Thái Bình Dương của công ty TBH Thụy Sĩ (Swiss

Re) nói. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng ấn tượng của thị trường bảo hiểm

phi nhân thọ của Việt Nam trong những năm qua, chắc chắn các công ty này

đều có dự định sẽ mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.

3. Môi giới TBH

Hiện trên thị trường Việt Nam có 8 công ty môi giới bảo hiểm: 4 công ty

nước ngoài và 4 doanh nghiệp cổ phần trong nước.

Nếu như trong hoạt động bảo hiểm gốc, doanh nghiệp trong nước chiếm

ưu thế thì hoạt động môi giới hoàn toàn ngược lại. Với kinh nghiệm và

chuyên môn vượt trội hơn, các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn

nước ngoài hiện đang nắm giữ đến 83,77% thị trường) trong đó hai đại diện

lớn là AON và Marsh. Các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài là

nhân vật chính trong hầu hết các hợp đồng môi giới TBH trên thị trường.

Hoạt động môi giới bảo hiểm chuyên nghiệp đến mức các doanh nghiệp môi

giới trực tiếp đứng ra định phí, nhận tái với danh nghĩa của chính mình sau đó

sẽ tự tái ra thị trường thế giới. Nói là công ty môi giới TBH, nhưng thực tế,

với các công ty bảo hiểm gốc trong nước, các công ty này có vai trò gần giống

VINARE của Việt Nam. AON nhận khoảng 1/6 trong số hơn 300 tỷ phí

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

47

nhượng TBH của Bảo Việt hai quý đầu năm 2007 (VINARE nhận tái khoảng

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

1/3 tổng phí nhượng tái). Về phía các công ty cổ phần môi giới bảo hiểm

trong nước với số vốn điều lệ khiêm tốn khoảng 6 tỷ đồng hầu hết chỉ dừng

lại ở hoạt động môi giới bảo hiểm gốc chứ chưa tham gia môi giới TBH.

Từ những phân tích trên, ta thấy thị trường bảo hiểm và TBH Việt Nam

vốn là sân chơi của một số ít các doanh nghiệp nhà nước. Song tình hình

những năm gần đây có nhiều thay đổi: trên thị trường xuất hiện thêm nhiều

doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm và bắt đầu có sự xuất hiện của các doanh

nghiệp bảo hiểm nước ngoài; các doanh nghiệp nhà nước đang tiến hành cổ

phần hóa và tích cực đổi mới để giữ vững được chỗ đứng của mình trên thị

trường tuy vậy thị phần của các doanh nghiệp dẫn đầu này cũng đang bị thu

hẹp. Trong hoạt động môi giới bảo hiểm thì hiện các doanh nghiệp nước

ngoài đang chiếm ưu thế. Riêng về TBH, VINARE hiện vẫn là doanh nghiệp

kinh doanh TBH chuyên nghiệp duy nhất và hiện đang thực hiện khá tốt vai

trò của mình. Song nếu so sánh với các công ty bảo hiểm và TBH quốc tế

khác thì năng lực tài chính và nghiệp vụ của các doanh nghiệp trong nước còn

thua kém khá xa.

III. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƢỜNG TBH PHI NHÂN

THỌ TRONG NHỮNG NĂM QUA

Trong phần này, người viết sẽ trình bày cụ thể hơn về tình hình tăng

trưởng và cạnh tranh của thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam trong

khoảng 5 năm trở lại đây.

1

Đặc điểm thị trƣờng bảo hiểm gốc

1.1 Thị trường tăng trưởng nhanh

Phí bảo hiểm gốc

Bảng 2.3: TỐC ĐỘ TĂNG TRƢỞNG DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ GỐC QUA CÁC NĂM Năm 2001

2000

2003

2002

2005

2004

2006

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

48

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Phí bảo hiểm gốc (tỷ đồng)

1,786

2,162

3,153

3,976

4,764

5,486

6,358

45.84

26.10

19.82

15.16

21.05

15.90

Tốc độ tăng trưởng (%) Nguồn: Vinare Annual Report 2006

Từ bảng 2.3 ta thấy, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có những bước

tăng trưởng nhanh và vững chắc trong vòng 5 năm trở lại đây. Chỉ trong vòng

6 năm (từ năm 2001 đến năm 2006), doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đã

tăng tới 3.5 lần. Tuy tăng trưởng cao nhưng phí bảo hiểm gốc của cả hai bộ

phận bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ mới chỉ chiếm khoảng 1,67% GDP

(năm 2006), tỷ lệ này ở các nước phát triển là từ 5% đến 10%. Điều này cho

thấy, tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường

bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất dồi dào.

Nếu đem so sánh với thị trường bảo hiểm nhân thọ thì con số này có vẻ

khiêm tốn (tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ trung bình đạt đến

42% trong thời kỳ này) nhưng nhìn vào xu hướng, ta có thể thấy thị trường

bảo hiểm nhân thọ đang chững lại, trong hai năm 2005 và 2006 doanh thu phí

bảo hiểm nhân thọ không tăng nhiều (4% năm 2005 và 6% năm 2006) trong

khi đó thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn chưa hề có dấu hiệu yếu đi. Dự

báo đà tăng trưởng này sẽ còn được duy trì trong vòng vài năm tới, chỉ tính

riêng 2 quý đầu năm 2007 doanh thu phí bảo hiểm gốc trên thị trường bảo

hiểm phi nhân thọ ước tính đạt 3600 tỷ VND, tăng 20% so với cùng kỳ năm

2006 - đây là con số tăng trưởng cùng kỳ cao nhất trong vòng 5 năm trở lại

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

49

đây.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

BẢNG 2.4 Båi th êng tæn thÊt qua c¸c n¨m

đơn vị: tỷ đồng

Tình hình bồi thường:

2004

2005

2006

Phí bảo hiểm gốc

4,764

5,486

6,358

Số tiền bồi thường

1920.09

2166.37

2489.95

Tỷ lệ bồi thường

40.30%

39.49%

39.16%

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Tình hình bồi thường tổn thất trong các năm qua diễn biến phức tạp ở

từng nghiệp vụ (xin được trình bày trong phần sau) nhưng nhìn chung toàn thị

trường thì tỷ lệ bồi thường vẫn khá ổn định trung bình vào khoảng 40% phí

bảo hiểm gốc (xem bảng 2.4). Điều này là niềm phấn khởi chung của mọi

doanh nghiệp tham gia thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, hầu hết các công ty

hoạt động trong lĩnh vực này đều có lãi và cũng là sự lý giải vì sao ngày càng

nhiều doanh nghiệp muốn tham gia thị trường được xem là “ít rủi ro” này.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

50

Tuy vậy điều này cũng chính là nguyên nhân tại sao các doanh nghiệp bảo

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

hiểm chỉ chú trọng vào việc cạnh tranh lẫn nhau bằng cách hạ phí và tăng hoa

hồng mà quên đi việc nâng cao chất lương dịch vụ và nghiệp vụ quản lý rủi

ro.

Những thống kê gần nhất cho hay, mặc dù doanh thu phí năm 2007 vẫn

tăng trưởng ổn định nhưng tình hình tổn thất đang diễn biến rất phức tạp,

trong năm đã diễn ra nhiều vụ tổn thất lớn chỉ tính riêng 7 vụ tổn thất lớn đầu

năm 2007 giá trị thiệt hại ước tính đã lên đến 187.2 tỷ đồng. Cuối năm, tình

hình thời tiết diễn biến phức tạp, lại cộng thêm những vụ tai nạn lao động

nghiêm trọng mà điển hình là vụ sập 2 nhịp cầu dẫn cầu Cần Thơ cũng đã dẫn

đến thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng chưa kể đến thiệt hại về người. Các công ty

bảo hiểm chắc chắn sẽ có trách nhiệm không nhỏ trong việc bồi thường cho

các tổn thất nêu trên.

Như vậy, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường

bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong những năm qua là khá tốt và ổn định.

Tuy vậy, tình hình tổn thất trong những năm tới đang phức tạp dần lên, thị

trường cũng vẫn còn một số tồn tại mà đáng kể nhất là tình hình cạnh tranh

thiếu lành mạnh sẽ được trình bày ngay sau đây.

1.2 Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ngày một gay gắt

Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang ngày càng mở rộng về quy mô

và đa dạng hóa về sản phẩm, dịch vụ. Nhưng cùng với đó là số lượng các

doanh nghiệp tham gia trên thị trường cũng ngày một tăng. Vì vậy, cạnh tranh

trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng vô cùng gay gắt, thậm chí có dấu

hiệu không lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến cả hoạt động TBH toàn thị

trường.

Các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường không thể ngồi yên khi thị

phần trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện còn rất chênh lệch. Tuy nói

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

51

rằng 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm 94.9% thị phần, nhưng

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

thực chất, thị phần doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tập trung chủ yếu

vào các doanh nghiệp lớn như Bảo Việt: 34,9%, Bảo Minh 21,3%, PVI

18,1%, PJICO 10.5%. 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chia nhau thị

phần 5.1% còn lại. Không bằng lòng trước sự "chênh lệch" quá lớn này, các

doanh nghiệp mới ra nhập thị trường đang làm mọi cách để cạnh tranh mà hai

công cụ chính họ lựa chọn chính là: tăng hoa hồng và hạ giá phí.

Về vấn đề hoa hồng, theo quy định của bộ tài chính doanh nghiệp kinh

doanh bảo hiểm không được chi không quá 12% hoa hồng tùy loại hợp đồng

cho đại lý bảo hiểm hoặc tối đa không quá 15% cho doanh nghiệp môi giới

(thông thư 98/TT/BTC). Những đối tượng khác như người không phải kinh

doanh đại lý, môi giới bảo hiểm; khách mua bảo hiểm, cán bộ nhân viên của

doanh nghiệp kinh doanh đều không được phép nhận chi trả hoa hồng. Nhưng

thực tế việc chi trả hoa hồng đã được thực hiện một cách quá mức và biến

tướng dưới nhiều hình thức khác nhau. Chi phí hoa hồng khai thác đã đội chi

phí hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm lên quá cao khiến cho doanh nghiệp

bảo hiểm càng làm càng lỗ. Ông Trịnh Quang Tuyến, Chủ tịch Hiệp hội Bảo

hiểm Việt Nam trong cuộc họp với bộ Tài chính và 37 doanh nghiệp bảo hiểm

phi nhân thọ trong tháng 4 năm 2007 nhận định: "Với tình trạng cạnh tranh

như hiện nay, hoa hồng chi cao dẫn đến phí bảo hiểm thấp và như vậy không

đủ chi trả bồi thường cho khách hàng. Hiện đẫ có doanh nghiệp bảo hiểm chỉ

đạt doanh thu hơn 1000 tỷ đồng/năm nhưng lợi nhuận chỉ còn 1 tỷ đồng. Nếu

xảy ra tổn thất phải bồi thường thì coi như hết lãi. Kinh tế phát triển mà lợi

nhuận kinh doanh bảo hiểm ngày càng đi xuống".

Không chỉ cạnh tranh bằng hoa hồng diễn ra quá mức mà cả việc cạnh

tranh phí cũng bị các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm lạm dụng. Có những

đơn bảo hiểm phí đã giảm tới 30 – 40%, thậm chí còn hạ tới dưới mức sàn mà

các công ty bảo hiểm đưa ra, đó là điều không thể chấp nhận được. Chưa hết,

tình trạng cạnh tranh quyết liệt hiện nay đã khiến nhiều doanh nghiệp liễu lĩnh

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

52

gia tăng phạm vi quyền lợi bảo hiểm mà chưa có những nghiên cứu kỹ cũng

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

như chưa tham khảo ý kiến của các nhà TBH nước ngoài. Các sản phẩm bảo

hiểm vốn có tính tương đồng và tính quốc tế rất cao, nếu các doanh nghiệp

mới ra nhập thị trường cứ tự ý phá giá như vậy thì các doanh nghiệp bảo hiểm

khác trong và ngoài nước sẽ không thể nhận TBH cho đơn bảo hiểm có mức

phí bị hạ thấp quá mức; điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp khai thác

bảo hiểm gốc sẽ không phân tán được rủi ro, nếu tổn thất lớn xảy ra, khả năng

tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam (trung bình khoảng 20 triệu

USD) sẽ không thể gánh vác nổi.

Rõ ràng tăng hoa hồng và hạ giá phí có thể mang lại doanh thu trước

mắt, nhưng về lâu dài đây không thể là phương thức cạnh tranh hiệu quả.

Việc các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh không lành mạnh như vậy là một

điểm bất lợi cho các hoạt động TBH, đặc biệt là nhượng TBH, vốn là hoạt

động chính của thị trường TBH Việt Nam.

Qua những phân tích trên, ta có thể nhận định rằng, thị trường bảo phi

nhân thọ Việt Nam nhìn chung đang có những bước tăng trưởng đáng khích lệ

trong những năm qua. Tuy vậy thị trường hiện nay đang có những biểu hiện

xấu cần phải điều chỉnh mà điển hình là hoạt động cạnh tranh thiếu lành mạnh

của các doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Để có thể giữ vững được đà tăng trưởng

và tạo đà cho thị trường TBH phát triển, những vướng mắc trên cần được xử

lý thỏa đáng.

2.

Thị trƣờng TBH

2.1 Tổng quan toàn thị trường

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

53

2.1.1 Nhượng TBH

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Về qui mô nhượng tái:

Qua biểu đồ 2.3, ta thấy trong 3 năm trở lại đây phí nhượng TBH ra

nước ngoài tăng cả về qui mô lẫn tỷ trọng so với phí bảo hiểm khai thác trong

nước. Giải thích cho tình trạng này có thể xem xét đến một số nguyên nhân

chính sau:

 Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang ngày càng mở rộng, nhiều đơn

bảo hiểm có giá trị bảo hiểm lớn được cấp mà hầu hết là các đơn bảo

hiểm xây dựng lắp đặt cho các công trình giao thông, thủy điện, nhiệt

điện. Những công trình loại này có giá trị bảo hiểm vượt xa khả năng

tài chính của công ty khai thác bảo hiểm trong nước. Một công trình có

giá trị bảo hiểm lên tới 50 triệu đô la trong khi các doanh nghiệp có vốn

pháp định chưa đến 300 tỷ đồng (gần 20 triệu USD) nếu không TBH ra

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

54

nước ngoài thì khi xảy ra tổn thất, nguy cơ phá sản là rất cao.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 Những công trình xây dựng lắp đặt có quy mô lớn, số tiền bảo hiểm cao

và tình hình rủi ro phức tạp. Để định phí cho những công trình có tầm

cỡ như vậy, trình độ chuyên môn về thẩm định của các nhà bảo hiểm

trong nước còn hạn chế, các doanh nghiệp trong nước vì thế phải

thương thảo với các nhà tái có uy tín trên quốc tế để được trợ giúp về

mặt kỹ thuật để định phí rồi mới có thể cấp đơn bảo hiểm. Trên thực tế,

với những công trình có vốn đầu tư nước ngoài, chủ công trình do buộc

phải mua bảo hiểm từ các công ty trong nước nên họ đã chỉ định nhà

TBH nước ngoài để đảm bảo độ tin cậy về khả năng thanh toán cho đối

tượng bảo hiểm. Trong những trường hợp như vậy, tỷ lệ tái thường rất

cao (có khi lên đến 100%) và các công ty bảo hiểm Việt Nam chỉ hoạt

động như một nhà môi giới bảo hiểm để nhận hoa hồng.

 Số doanh nghiệp khai thác bảo hiểm gốc ngày càng nhiều, trong khi cả

nước mới có duy nhất một công ty TBH chuyên nghiệp là VINARE.

Tuy rằng các công ty hoạt động bảo hiểm gốc trong nước cũng nhận

TBH lẫn nhau, nhưng tỷ lệ này không đáng kể. Các công ty sau khi

nhận tái từ thị trường trong nước thường vẫn tiếp tục tái ra thị trường

bảo hiểm quốc tế. Thêm vào đó, từ khi Bộ tài chính bãi bỏ quy định bắt

buộc các doanh nghiệp trong nước TBH cho VINARE, nhiều doanh

nghiệp bảo hiểm gốc đã không ngần ngại tìm đến các nhà TBH có uy

tín trên thế giới, đặc biệt là các công ty có mạng lưới môi giới hoạt

động ngày càng mạnh tại thị trường Việt Nam.

Kết quả kinh doanh nhượng tái:

Kết quả kinh doanh nhượng TBH nhìn chung là lỗ, tỷ lệ thu đòi từ nhà

TBH luôn thấp hơn so với số phí bảo hiểm tái đi. Nhưng cũng xin nhắc lại

rằng, mục tiêu chính của hoạt động nhượng TBH là để đảm bảo ổn định kinh

doanh chứ không phải là để gia tăng lợi nhuận. Nếu không có hoạt động

nhượng tái, thì các doanh nghiệp trong nước cũng không thể nhận những đơn

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

55

bảo hiểm có giá trị lớn. Hiện nay hầu hết các đơn bảo hiểm phi nhân thọ lớn

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

đều liên quan đến TBH, nếu chúng ta không tính đến số đơn bảo hiểm có phát

sinh tái này, thì doanh thu gốc của toàn thị trường phải giảm đi đáng kể. Vì

vậy, xét cho cùng hoạt động TBH hiện vẫn đi đúng hướng. Muốn giảm tỷ lệ

TBH trong lúc này, biện pháp tốt nhất (và duy nhất) là tăng cường năng lực

tài chính và trình độ nghiệp vụ cho các công ty bảo hiểm trong nước để các

công ty này có khả năng đảm đương các đơn bảo hiểm có giá trị lớn mà

không cần phải tìm đến nhà TBH.

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Nhận TBH

Nhìn trên biểu đồ 2.4, ta thấy trong 3 năm qua, hoạt động nhận TBH đã

tăng trưởng khá nhanh đặc biêt là năm 2005, doanh thu nhận TBH nước ngoài

tăng 116% so với năm 2004, tốc độ này đã chậm dần lại vào các năm sau đó.

Năm 2007, doanh thu phí nhận TBH toàn thị trường ước tính đạt 106.1 tỷ

đồng (tăng 7.1% so với năm 2006). Thị trường nhận TBH của Việt Nam chủ

yếu là Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Hàn Quốc và gần đây có mở rộng sang cả thị

trường Nhật Bản. Các công ty bảo hiểm Việt Nam nhận TBH hầu hết là qua

môi giới. Một số nhà môi giới chính có thể kể đến là INGOSSTRAKH (Nga),

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

56

JB BODA (Ấn Độ), JIANG TAI (Trung Quốc), KOREA RE (Hàn Quốc).

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Bảng 2.3 BỒI THƯỜNG NHẬN TBH NGOÀI NƯỚC TOÀN THỊ TRƯỜNG

2004

2005

2006

Phí nhận tái (tỷ đồng)

283.87

362.48

457.21

Bồi thường (tỷ đồng)

11.87

19.02

119.98

Tỷ lệ bồi thường (%)

4.18%

5.25%

26.24%

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam

Kết quả kinh doanh nhận TBH ngoài nước trong những năm gần đây đã

khả quan hơn trước nhiều. Nếu như trong những năm đầu nhận TBH, thu

không đủ bù chi thì hiện nay tỷ lệ bồi thường so với phí nhận tái là tương đối

thấp (xem bảng 2.3), các hoạt động nhận tái hầu hết đều đem lại lợi nhuận.

Nhận TBH nước ngoài vì thế cũng bắt đầu nhận được sự quan tâm của các

doanh nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp và không chuyên. Trong những

năm tới, chắc chắn đây sẽ là một mảng hoạt động rất có tiềm năng trong lĩnh

vực TBH.

Tuy vậy, kinh doanh TBH tại Việt Nam vẫn tỏ ra rất mất cân bằng nếu

đem so sánh hoạt động nhận tái với hoạt động nhượng tái (xem biểu đồ 2.5).

Doanh thu từ nhận TBH nước ngoài chưa đến 10% phí TBH ra nước ngoài.

Những con số trên đã chứng tỏ rằng, thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam

chỉ có nhượng tái là chủ yếu, hoạt động nhận tái từ nước ngoài tuy đã bắt đầu

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

57

phát triển nhưng còn rất mờ nhạt.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Sở dĩ có xu hướng này là do thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong

nước đang phát triển rất nhanh mà khả năng tài chính của các công ty kinh

doanh bảo hiểm thì chưa theo kịp, nên việc nhượng tái vẫn là xu hướng chính.

Thêm vào đó, Việt Nam chi có duy nhất một công ty TBH chuyên nghiệp là

VINARE, còn các công ty bảo hiểm gốc khác chưa coi nhận TBH là hoạt

động kinh doanh chính của mình nên chưa chú trọng mà chỉ quan tâm đến

việc khai thác bảo hiểm gốc. Về phần VINARE, với số vốn pháp định chỉ vào

khoảng 335 tỷ đồng , công ty này chưa thể đảm nhiệm hết nhu cầu nhượng tái

của các công ty bảo hiểm trong nước, nên hoạt động nhận TBH còn chưa

được chú trọng. Khả năng tài chính hạn chế cũng chỉ là một phần, để có thể

phát triển hoạt động nhận TBH, các doanh nghiệp còn cần có trình độ tốt để

thẩm định, đánh giá rủi ro, điều này không đơn giản vì đối tượng bảo hiểm

trong hoạt động nhượng tái nằm ở nước ngoài, các doanh nghiệp của ta lại

chưa có mạng lưới đại lý và môi giới rộng khắp. Nếu cứ nhận TBH thiếu tính

toán có thể dẫn đến tình cảnh "lịch sử lặp lại" như những năm đầu của thập kỷ

90, hoạt động nhận tái chỉ mang lại thua lỗ.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

58

2.2 Tổng quan theo nghiệp vụ

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Ở phần trước, khóa luận đã trình bày tình hình phát triển chung của

toàn thị trường trong những năm qua, phần 2.2 này sẽ đi vào phân tích sâu

hơn về TBH ở từng nghiệp vụ. Người viết chỉ chọn ra đây 6 nghiệp vụ bảo

hiểm phi nhân thọ có liên quan nhiều nhất đến TBH (xem biểu đồ 2.6), đó là:

 TBH cháy nổ và mọi rủi ro tài sản

 TBH hàng hóa vận chuyển

 TBH thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu

 TBH xây dựng – lắp đặt

 TBH dầu khí

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

59

 TBH hàng không

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Bảng 2.4 TỶ LỆ NHƢỢNG TBH THEO NGHIỆP VỤ NĂM 2006

(Đơn vị/ Unit: 1 000 000 VNĐ)

Nghiệp vụ bảo hiểm lines of Insurance

Nhƣợng TBH trong nƣớc. Domestic reinsur.ced ed

Nhƣợng TBH ngoài nƣớc Overseas reinsur. ceded

Phí bảo hiểm gốc Direct insur. premium

Tỷ lệ nhƣợng TBH ngoài nƣớc Ceding ratio

TT

BH hàng hóa vận chuyển/ Insurance of goods transported

529,178.00 108,600.00 118,257.00 22.35%

1

333,249.00 177,389.00 128,683.00 38.61%

2

633,652.00 175,231.00 272,076.00 42.94%

3

BH hàng không/Aviation Insurance Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản/Fire,Explosion and property all risk Insurance. BH thân tàu và TNDS chủ tàu/ Hull and P&I Insurance

621,759.00

94,613.00 229,232.00 36.87%

4

BH XDLĐ/Car & EAR insurance

670,138.00 174,936.00 281,074.00 41.94%

5

BH dầu khí/Oil & gas insurance

395,228.00 113,350.00 275,005.00 69.58%

6

Toàn thị trƣờng

6,357,930.00 987,004.00

1,504,494.00 23.66%

Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm

2.2.1 Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển/ Insurance of goods transported

 Thị trường bảo hiểm gốc

Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển là nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ lâu

đời nhất tại Việt Nam và hiện vẫn là một trong những nghiệp vụ chính trên thị

trường. Doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa vận chuyển hàng năm vẫn chiếm

khoảng 8% tổng doanh thu của toàn thị trường. Với tình hình tăng trưởng kim

ngạnh xuất khẩu trên 20%/năm như hiện nay, tiềm năng khai thác của nghiệp

vụ bảo hiểm này là rất lớn. Tuy vậy, năm 2006 con số này mới đạt 529 tỷ

đồng, tăng 19,8% so với năm 2005, chưa phù hợp với tốc độ tăng trưởng của

kim ngạch xuất nhập khẩu (22%) và tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển

trong nước.

Nguyên nhân làm trì trệ sự tăng trưởng của mảng nghiệp vụ này chính là

do tình hình cạnh tranh quá gay gắt và không lành mạnh. Mọi doanh nghiệp

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

60

bảo hiểm đều có thể tham gia thị trường bảo hiểm hàng hóa và đây chính là

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

mảng nghiệp vụ có tính cạnh tranh cao nhất. Khách hàng lợi dụng tình hình

cạnh tranh đã gây sức ép buộc các doanh nghiệp bảo hiểm gốc phải hạ giá

phí, nới rộng phạm vi bảo hiểm. Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường

vì muốn tăng thị phần đã không ngần ngại đáp ứng yêu sách của khách hàng.

Có những đơn bảo hiểm hàng hóa thậm chí còn bảo hiểm cả container.

Tình hình tổn thất trong năm 2006 của loại hình nghiệp vụ này vào

khoảng 60 đến 65% (cao hơn mức tổn thất trung bình của toàn thị trường là

40%).

 TBH hàng hóa vận chuyển

Về TBH hàng hóa vận chuyển, phí nhượng tái ra nước ngoài cũng vào

khoảng 8% tổng phí nhượng tái của toàn thị trường do tỷ lệ TBH của nghiệp

vụ này khoảng trên 20% (tương đương với thị lệ nhượng tái của toàn thị

trường). Tỷ lệ nhượng tái như vậy là thấp nhất so với các loại hình nghiệp vụ

chủ yếu khác (xem bảng 2.4), nguyên nhân là do các doanh nghiệp trong nước

cũng có khả năng tự san sẻ rủi ro bằng cách TBH lẫn nhau.

Phương thức TBH thường được áp dụng trong nghiệp vụ bảo hiểm

hàng hóa là TBH cố định vượt mức bồi thường (excess of loss – XOL) với lý

do các tổn thất xảy ra với hàng hóa chuyên chở (trên biển là chủ yếu) chịu

nhiều tác dụng của thiên tai, nên đơn bảo hiểm XOL là phù hợp để bảo đảm

cho những tổn thất lớn, mang tính thảm họa có thể xảy đến với nhà bảo hiểm

gốc.

2.2.2 Bảo hiểm hàng không.

 Thị trường bảo hiểm gốc

Doanh thu phí bảo hiểm gốc của nghiệp vụ bảo hiểm hàng không chiếm

khoảng 5% doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn thị trường. Trong những năm

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

61

qua doanh thu gốc phí bảo hiểm hàng không khá ổn định quanh mức 300 tỷ

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

đồng. Hiện các hãng hàng không trong nước đang có kế hoạch mở rộng dịch

vụ bằng cách mua thêm máy bay, tăng chuyến bay. Trong năm nay, Vietnam

Airlines có kế hoạch mua mới 8 máy bay Boeing 777, và cho đến năm 2010

sẽ tăng thêm 18 chiếc nữa. Dịch vụ hành khách cũng ngày càng được nâng

cao. Tất cả những dấu hiệu tăng trưởng của ngành hàng không dân dụng trong

nước cũng là dấu hiệu khả quan cho ngành bảo hiểm hàng không trong thời

gian tới.

Kinh doanh bảo hiểm hàng không thế giới trong 6 năm trở lại đây (kể

từ sau ngày 9/11/2001) vẫn liên tục có lãi dù các vụ tổn thất máy bay diễn

biến ngày càng phức tạp nhưng do nhu cầu đi lại nhiều, nên “qui luật số

đông” trong bảo hiểm tỏ ra có kết quả. Riêng tại thị trường Việt Nam, không

có vụ tổn thất nào về hàng không quá lớn trong vòng 5 năm qua, chỉ có một

số vụ tổn thất nhỏ về sức khỏe, hành lý của hành khách... (hầu hết là dưới

mức miễn thường) do các công ty bảo hiểm gốc tự chi trả. Nhờ tình hình tổn

thất tốt, nên hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng không Việt Nam nhìn

chung khá phát đạt.

 TBH hàng không.

Đơn bảo hiểm hàng không tuy ít nhưng lại có giá trị bảo hiểm rất lớn

và đều liên quan đến TBH. Nói cách khác, nhờ có hoạt động nhượng TBH mà

các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam mới có thể nhận các đơn bảo hiểm hàng

không có giá trị lên đến hàng chục triệu đô la. Các doanh nghiệp bảo hiểm

gốc trong nước khi nhận bảo hiểm hàng không đều tái đi đến 90% trách

nhiệm (có những hợp đồng bảo hiểm còn tái đến 99%) trong đó thị trường

trong nước nhận tái khoảng hơn 50% còn lại là tái ra nước ngoài. (xem bảng

2.4)

Phương thức TBH thường được sử dụng là TBH cố định số thành, vì

nghiệp vụ bảo hiểm hàng không có số tiền bảo hiểm lớn và tương đối đồng

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

62

nhất, các công ty bảo hiểm Việt Nam lại chưa có nhiều kinh nghiệm trong

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

nghiệp vụ bảo hiểm này. TBH cố định số thành giúp đơn giản việc theo dõi và

tranh thủ sự giúp đỡ của công ty TBH trong các vẫn đề về kỹ thuật và chuyên

môn.

2.2.3 Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản/ Fire, Explosion and property

all risk Insurance.

 Thị trường bảo hiểm gốc.

Bảo hiểm cháy cũng là một trong những loại hình bảo hiểm phi nhân

thọ được triển khai rất sớm ở Việt Nam. Doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ

này chiếm đến 10% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường.

Trong 3 năm qua, tăng trưởng doanh thu của toàn thị trường khoảng

15%/năm. Sáu tháng đầu năm 2007, doanh thu phí đã đạt 417,68 tỷ đồng

(bằng 65% doanh thu cả năm 2006). Chính phủ cũng mới ban hành NĐ 130

qui định về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc trong đó có 16 đối tượng phải mua bảo

hiểm bắt buộc cháy nổ và 16 loại trừ bảo hiểm. Qui tắc này chắc chắn sẽ có

tác động tốt dến doanh thu bảo hiểm cháy nổ trong thời gian tới.

Tình hình bồi thường tổn thất với nghiệp vụ bảo hiểm cháy biến động

quanh mức 30%/năm, tương đương với mức trung bình của toàn thị trường

bảo hiểm phi nhân thọ. Thực chất thiệt hại cháy nổ do thiên tai và tai nạn

hàng năm lớn hơn rất nhiều so với số bồi thường từ các nhà bảo hiểm. Tổn

thất sau cơn bão Xangsen năm 2006 lên đến hơn 10 ngàn tỷ đồng nhưng số

bồi thường mà bảo hiểm chi trả chỉ chiếm khoảng trên dưới 200 tỷ đồng

(chiếm khoảng 2%). Nhìn chung, bảo hiểm cháy nổ đang trải qua những năm

làm ăn không được suôn sẻ; tình hình tổn thất với nghiệp vụ cháy nổ diễn

biến phức tạp trong những năm gần đây nhưng phí bảo hiểm cháy nổ lại đang

có xu hướng giảm do cạnh tranh trên thị trường ngày càng ngay gắt.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

63

 TBH cháy nổ và mọi rủi ro tài sản

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Bảo hiểm cháy nổ cũng là một lĩnh vực có sự tham gia mạnh của

nghiệp vụ nhượng tái. Trong mảng kinh doanh nhượng TBH cháy nổ chiếm

đến 18% tổng phí nhượng ra nước ngoài của toàn thị trường chỉ dưới bảo

hiểm xây dựng – lắp đặt. Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 633,65

tỷ đồng thì các nhà bảo hiểm gốc đã tái đi đến 447,31 tỷ đồng (71%) trong đó

nhượng tái ra nước ngoài chiếm đến 42,94% (xem bảng 2.4). Tỷ lệ tái đi lớn

như vậy cũng do qui mô tổn thất với loại hình bảo hiểm này vượt quá khả

năng tài chính của các doanh nghiệp trong nước và tính chất phức tạp của rủi

ro cháy trong những năm gần đây.

Phương thức TBH được áp dụng chủ yếu trong nghiệp vụ bảo hiểm

cháy nổ và mọi rủi ro tài sản là phương thức TBH cố định mức dôi, các nhà

bảo hiểm gốc thường cũng ký thêm các hợp đồng TBH vượt mức bồi thường

để đảm bảo cho các tổn thất cháy nổ xảy ra có liên quan đến thiên tai, mang

tính thảm họa.

2.2.4 Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu/ Hull and P&I

Insurance

 Thị trường bảo hiểm gốc.

Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 621,76 tỷ đồng (tăng 18%

so với năm 2005) chiếm 10% tổng doanh thu toàn thị trường. Cùng với sự

phát triển của ngành hàng hải và đóng tàu Việt Nam trong những năm qua,

kinh doanh bảo hiểm thân tàu và TNDS của chủ tàu cũng tăng trưởng tốt

nhưng chưa tương xứng. Giá trị bảo hiểm thân tàu tăng từ 50 đến 150% (tùy

từng đội tàu) nhưng phí bảo hiểm chỉ tăng có 15 – 20%. Nguyên nhân cũng

do tình hình cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp bảo hiểm đua nhau hạ

phí.

Tỷ lệ tổn thất ở nghiệp vụ này thuộc loại cao nhất trong toàn ngành. Tỷ

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

64

lệ tổn thất năm 2006 là 53,9%; năm 2005 là 62,88% và năm 2004 là 46,31%.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Với các doanh nghiệp con ít kinh nghiệm trên thị trường, tỷ lệ chi bồi thường

còn cao hơn rất nhiều như trường hợp Bảo hiểm Bưu điện (PTI): 115%; Bảo

Long 105% (số liệu năm 2005 - Hiệp hội bảo hiểm). Trước tình hình kinh

doanh diễn biến xấu như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như các hiệp

hội bảo hiểm tương hỗ chắc chắn sẽ gây sức ép buộc tăng phí bảo hiểm trong

những năm tới.

 TBH thân tàu và TNDS của chủ tàu

Tỷ lệ nhượng TBH ra nước ngoài ở nghiệp vụ này vào khoảng 36,87%

- tương đối cao và ổn định trong 5 năm trở lại đây. Năm 2006, hoạt động kinh

doanh nhượng tái ra nước ngoài ở nghiệp vụ này đạt 229,23 tỷ đồng - chiếm

15% toàn thị trường (trong khi bảo hiểm gốc chỉ chiếm 10% - xem biểu đồ

2.6).

Phương thức TBH thường được áp dụng với nghiệp vụ bảo hiểm thân

tàu là TBH vượt mức bồi thường, với những đối tác TBH có tính chất chia sẻ

rủi ro thì TBH số thành vẫn được áp dụng. Còn bảo hiểm TNDS của chủ tàu

vẫn được thực hiện với các hội bảo hiểm tương hỗ như West of England,

London Pool (Anh), Gard (Nauy), thực chất việc “TBH” cho các hội này

mang tính chất của đồng bảo hiểm quốc tế hơn là TBH vì các doanh nghiệp

bảo hiểm gốc không nhận được hoa hồng khi chuyển phí nhượng tái. Tỷ lệ tái

cho các hội bảo hiểm tương hỗ là 52%, còn lại các công ty bảo hiểm gốc có

thế tiếp tục nhượng cho các doanh nghiệp kinh doanh TBH khác và nhận hoa

hồng bình thường.

2.2.5 Bảo hiểm xây dựng lắp đặt.

 Thị trường bảo hiểm gốc

Bảo hiểm xây dựng lắp đặt năm 2006 đạt doanh thu hơn 670 tỷ đồng

(xem bảng 2.4) (tăng 36,5% so với năm 2005) đóng góp 11% tổn phí bảo

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

65

hiểm toàn thị trường phi nhân thọ. Tốc độ tăng trưởng này vẫn được giữ vững

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

trong những năm qua và được dự báo sẽ còn tiếp tục phát huy trong những

năm tới do tốc độ giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ

phát triển (ODA) vẫn ổn định. Đối tượng của bảo hiểm xây dựng, lắp đặt

không chỉ có các công trình trọng điểm quốc gia, mà các dự án khu công

nghiệp, khu thương mại, đô thị do khu vực tư nhân đầu tư cũng ngày càng

nhiều.

Tỷ lệ bồi thường ở mảng nghiệp vụ này năm 2006 là 7,24%; năm 2005

là 12,09% và năm 2004 là 11,14%. Với tỷ lệ bồi thường tương đối thấp như

vậy, lẽ ra kết quả kinh doanh ở bảo hiểm xây dựng – lắp dặt là khá khả quan.

Nhưng, vấn đề mà ngành gặp phải ở nghiệp vụ này chính là tình trạng cạnh

tranh không lành mạnh. Các đơn bảo hiểm cho các dự án lớn thường phải đấu

thầu, và các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm gốc thì rất “chiều” khách

hàng vì số phí bảo hiểm thường là rất lớn; cũng chính vì vậy mà việc nhiều

doanh nghiệp tự ý tăng hoa hồng, trả hoa hồng dưới nhiều hình thức khác

nhau, hạ phí bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm hết mức. Việc kinh doanh

bảo hiểm xây dựng, lắp đặt vì vậy ngày càng trở nên khó khăn và tốn kém.

 TBH xây dựng lắp đặt

Tỷ lệ nhượng TBH ra nước ngoài chiếm khoảng 42%, với tỷ lệ tái cao

và doanh thu gốc cũng tương đối lớn, nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng – lắp đặt

hiện là mảng nghiệp vụ có lượng phí bảo hiểm tái ra nước ngoài lớn nhất thị

trường (chiếm 20% tổng phí nhượng đi). Nguyên nhân của việc tỷ lệ tái đi

nhiều như vậy ngoài việc khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm gốc

còn hạn chế và cũng phải kể đến việc TBH chỉ định được áp dụng nhiều

trong các hợp đồng bảo hiểm xây dựng – lắp đặt. Khi đấu thầu một đơn bảo

hiểm cho một công trình có vốn đầu tư nước ngoài, chủ đầu tư có thể yêu cầu

các công ty bảo hiểm tham gia phải tái đi một tỷ lệ nhất định cho bên nhận tái

nước ngoài nào đó vì họ tin tưởng vào khả năng tài chính của đối tác nước

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

66

ngoài, hoặc đối tác đó là đối tác chiến lược của chủ đầu tư.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Phương tức TBH thường được sử dụng cho các đơn bảo hiểm xây dựng

– lắp đặt thường là TBH tạm thời, theo tỷ lệ bởi mỗi công trình có đặc thù

riêng, tình hình rủi ro khác nhau, và thời gian cũng khác nhau, các bên tham

gia bảo hiểm gốc thường phải ngồi lại cùng với nhà TBH để cùng thống nhất

các điều khoản, mức phí. Việc đàm phán nhiều như vậy là khá tốn kém nhưng

xứng đáng với các đơn bảo hiểm có giá trị lớn và thời gian bảo hiểm dài như

bảo hiểm xây dựng – lắp đặt.

2.2.6 Bảo hiểm dầu khí/ Oil & gas Insurance.

 Thị trường bảo hiểm gốc

Xét về doanh thu gốc, bảo hiểm dầu khí chiếm khoảng 6% tổng doanh

thu bảo hiểm phi nhân thọ. Thị trường bảo hiểm dầu khí có nhiều biến động

trong vòng 5 năm qua, sau năm tăng trưởng 2002 (tăng 78%), toàn thị trường

chứng kiến 3 năm ảm đạm sau đó: doanh thu sụt giảm, số đơn bảo hiểm mới

hầu như không tăng thêm. Đến năm 2006, tình hình lại khởi sắc trở lại với

mức tăng trưởng 76%. Xu hướng này vẫn tiếp tục được giữ vững trong năm

2007, chỉ riêng 2 quý đầu năm, doanh thu bảo hiểm ở nghiệp vụ bảo hiểm dầu

khí đã đạt 409,71 tỷ đồng (trong khi doanh thu của cả năm 2006 mới đạt

395,23 tỷ đồng). Nguyên nhân thúc đẩy tăng trưởng của nghiệp vụ bảo hiểm

dầu khí trong hai năm qua là nhờ các dự án xây dựng đường ống dẫn dầu,

giếng dầu và các dự án khai thác thăm dò đang được gấp rút triển khai tại

nhiều nơi dọc đường bờ biển. Những dự án lớn có thể kể tên là: dự án đường

ống dẫn dầu Nam Côn Sơn của, dự án khu khai thác Cửu Long JOC, giếng

khoan ngoài khơi của BP; các dự án thăm dò khai thác của các nhà thầu nước

ngoài như PIDC, VRJ, Idemitsu, Premier Oil...

Tổn thất trong ngành dầu khí không nhiều, tỷ lệ bồi thường trên phí bảo

hiểm gốc trong năm 2004, 2005 và 2006 lần lượt là: 1,24%; 5,18% và

21,91%. Đầu năm 2007 chưa có vụ tổn thất nào đáng kể xảy ra với ngành dầu

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

67

khí, tính đến hết quý 2, số tiền bồi thường thuộc trách nhiệm bảo hiểm mới

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

chiếm 0,11% số tiền bảo hiểm gốc. Bảo hiểm dầu khí cũng như bảo hiểm

hàng không, là lĩnh vực mang lại không ít lợi nhuận cho các nhà kinh doanh

bảo hiểm.

 TBH dầu khí

Tỷ lệ TBH ra nước ngoài ở nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí từ trước đến nay

vẫn là cao nhất trong số các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2006,

trong số 395,23 tỷ đồng phí bảo hiểm gốc, các doanh nghiệp bảo hiểm đã phải

tái đi 388,35 tỷ đồng (tương đương 98%) trong đó các doanh nghiệp trong

nước chỉ nhận tái được 28,68% số còn lại tái ra thị trường bảo hiểm quốc tế.

Tổng phí nhượng tái ra nước ngoài của bảo hiểm dầu khí vào khoảng 18% phí

nhượng tái ra nước ngoài của toàn thị trường – tương đương với phí nhượng

tái của nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản là loại hình nghiệp

vụ có doanh thu gốc gần gấp rưỡi.

Phương thức TBH được sử dụng trong nghiệp vụ TBH dầu khí tương tự

như bảo hiểm xây dựng lắp đặt chủ yếu là đồng bảo hiểm kết hợp TBH tạm

thời.

Kết thúc chương II, khóa luận đã trình bày xong về thực tiễn việc áp

dụng TBH trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, những nhận định

tóm tắt nhất có thể thấy là: thị trường bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm những

năm gần đây đang phát triển nhanh về qui mô toàn thị trường cũng như số

lượng các doanh nghiệp tham gia; dù còn một số tồn tại mà hiện nóng bỏng

nhất là vấn đề cạnh tranh nhưng dự đoán đà tăng trưởng của thị trường vẫn

còn duy trì trong ít nhất vài năm tới; TBH hiện đang được áp dụng rộng rãi ở

nhiều loại nghiệp vụ khác nhau và tỏ ra là một phương pháp hữu hiệu để tăng

khả năng nhận bảo hiểm và san sẻ rủi ro của các nhà bảo hiểm gốc trong

nước; tuy vậy thị trường TBH Việt Nam vẫn tập trung vào nhượng TBH là

chính, chỉ có duy nhất một công ty Việt Nam hoạt động chuyên nghiệp trong

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

68

lĩnh vực nhận TBH, nếu so sánh với thị trường thế giới thì chúng ta còn thua

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

kém khá xa, nhưng sau tất cả những thành tựu mà chúng ta đạt được cũng là

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

69

rất đáng khích lệ với một thị trường TBH mới có hơn chục năm hoạt động.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

CHƢƠNG III: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI THỊ

TRƢỜNG TBH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP

Bắt đầu từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại

thế giới (WTO), nước ta đang bước những bước sâu hơn vào tiến trình hội

nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập là xu thế tất yếu và không loại trừ một ngành

sản xuất dịch vụ nào. Nó mang lại cho những doanh nghiệp những cơ hội mới

nhưng cũng buộc họ phải đối mặt với những thách thức thật sự. Ngành bảo

hiểm cũng không nằm ngoài xu thế đó.

I. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ MỞ CỬA THI TRƢỜNG

TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP

1. Cam kết khi gia nhập WTO

 Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới

Theo biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Ban công tác về việc gia nhập

WTO của Việt Nam, sau 5 năm gia nhập, doanh nghiệp nước ngoài sẽ được

thành lập các chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.

Tuy nhiên, ngay từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, các hãng bảo

hiểm nước ngoài đã được tham gia thị trường Việt Nam qua phương thức

"cung cấp qua biên giới". Tức là doanh nghiệp bảo hiểm ở một nước thành

viên WTO được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các cá nhân, và pháp nhân

Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Các dịch vụ này bao gồm: dịch vụ bảo

hiểm phi nhân thọ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người

nước ngoài làm việc tại Việt Nam, được cung cấp dịch vụ TBH và môi giới

TBH, dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

70

 Cam kết hiện diện thương mại và điều kiện kinh doanh bắt buộc

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Việt Nam cam kết không hạn chế việc thành lập pháp nhân của công ty

bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ trường hợp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ

mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào ngày 1/1/2008. Các loại hình

bảo hiểm bắt buộc bao gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,

bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy nổ

trên đường thủy nội địa, bảo hiểm cháy nổ, bên cạnh đó là các loại bảo hiểm

người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng – lắp đặt, người sử dụng

lao động trong hoạt động xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây

nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo ban

hành và nếu có sẽ được thực hiện vào cuối năm 2007. Việt Nam cho phép

công ty nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể

từ khi gia nhập WTO và không cho phép thành lập chi nhánh bảo hiểm nhân

thọ.

 Cam kết xóa bỏ tỷ lệ TBH bắt buộc sau 1 năm

Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện TBH ra nước ngoài

đều phải thực hiện TBH bắt buộc tối thiểu 20% cho Tổng công ty cổ phần

TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) nhưng sau 1 năm gia nhập WTO, quy

định này sẽ bị bãi bỏ.

2

Cam kết tại hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt – Mỹ

(Phụ lục G)

Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 2001 cũng đã có những qui định về mở

cửa thị trường tài chính trong đó có mở cửa thị trường bảo hiểm với các

doanh nghiệp Mỹ có vốn đầu tư tại Việt Nam và cả những doanh nghiệp

không có pháp nhân tại thị trường Việt Nam.

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

71

Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ không hoạt động tại Việt Nam

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

 Được cung cấp: dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp nước ngoài và

người nước ngoài hoạt động và làm việc tại Việt Nam;

 Cung cấp dịch vụ TBH, môi giới bảo hiểm và môi giới TBH;

 Cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế;

 Cung cấp dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro.

Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ thành lập và hoạt động tại Việt Nam:

 Việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng Luật kinh

doanh bảo hiểm (khi ký hiệp định thương mại song phương – ngày

13/7/2000, Luật kinh doanh bảo hiểm chưa được ban hành).

 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực (ngày 10/11/2001) được thành lập

công ty liên doanh – phía Mỹ không quá 50% vốn. 5 năm sau khi hiệp

định có hiệu lực được thành lập công ty 100% vốn Hoa Kỳ.

 Các công ty vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các loại dịch vu đại lý

bảo hiểm. Các công ty có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch

vụ bảo hiểm bắt buộc (hạn chế này sẽ được bãi bỏ với công ty liên

doanh là 3 năm, công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi Hiệp định

có hiệu lực).

 Các công ty bảo hiểm Hoa Kỳ thành lập tại Việt Nam cũng phải TBH

bắt buộc ít nhất 20% (nếu có phát sinh nhượng tái) và qui định này sẽ

được bãi bỏ sau 5 năm Hiệp định có hiệu lực.

Với nội dung hai cam kết như trên, có thể thấy bảo hiểm là mảng dịch

vụ tài chính có lộ trình mở cửa nhanh nhất so với các dịch vụ tài chính ngân

hàng khác. Nếu như các rào cản với ngành ngân hàng chỉ được gỡ bỏ hoàn

toàn vào năm 2010, thì ngay từ 1/1/2008, về cơ bản các ràng buộc về khai

thác thị trường và đãi ngộ quốc gia trong ngành bảo hiểm đã không còn. Các

doanh nghiệp bảo hiểm sẽ gặp phải những cơ hội và đối mặt với những thách

thức gì trong những năm tới. Các nội dung này sẽ được phân tích trong các

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

72

phần tiếp theo.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC MỚI VỚI THỊ TRƢỜNG

TBH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP.

1

Cơ hội

1.1 Qui mô thị trường tăng nhanh, đa dạng hóa sản phẩm.

Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thực sự

là một cú hích với cả nền kinh tế. GDP trong những năm qua tăng trưởng trên

8%/năm và xu hướng này còn giữ vững trong khoảng 4, 5 năm tới. Cơ cấu

kinh tế cũng đang có chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng trưởng mạnh ở

các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, tăng trưởng ở ngành nông – lâm –

thủy sản chậm hơn. FDI vào Việt Nam trong năm 2006 đã lên đến 10,2 tỷ

USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 29,6 tỷ USD; nhập khẩu 40 tỷ USD, doanh

thu ngành du lịch cũng tăng 28,5% với 3,56 triệu lượt khách trong năm 2006.

Nửa năm đầu 2007, kinh tế đã tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái –

mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Dù có nhiều khó khăn về dịch

bệnh, thiên tai, nhưng tốc độ tăng trưởng mà nền kinh tế Việt Nam trong

những năm tới được dự báo là vẫn rất khả quan.

Nền kinh tế phát triển nhanh như vậy chắc chắn sẽ tăng tiềm năng cho

thị trường bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.

Các chuyên gia bảo hiểm đều nhận định 95% tiềm năng thị trường bảo hiểm

Việt Nam còn chưa được khai thác. Doanh thu phí bảo hiểm tuy tăng trưởng

nhanh trong những năm qua nhưng mới chỉ đạt gần 2% GDP, trong khi mức

trung bình trên thế giới là 7,7%.

Trong số phí bảo hiểm thu được, bảo hiểm nhân thọ vẫn chiếm tỷ lệ lớn

hơn (năm 2006 doanh thu phí bảo hiểm nhân chiếm 57% toàn thị trường)

nhưng xu hướng thị trường trong những năm qua đang cho thấy cơ cấu đang

dịch chuyển sang lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Các ngành công nghiệp,

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

73

xây dựng, thương mại, du lịch phát triển sẽ tạo động lực để nhiều sản phầm

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

bảo hiểm phi nhân thọ hiện tại phát triển thêm và cả các dịch vụ bảo hiểm mới

như bảo hiểm du lịch, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ công trình, bảo

hiểm tiền gửi, bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm lãi suất đầu tư...

Lộ trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ kết thúc vào năm

2009, số lượng các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tăng trong đó tập quán

mua bảo hiểm để đảm bảo an toàn và ổn định cho sản xuất kinh doanh của

nhà đầu tư nước ngoài sẽ lan rộng trong khối các tổ chức xã hội. Ở khu vực

khách hàng cá nhân, với trình độ dân trí và mức thu nhập ngày càng cao, các

tầng lớp nhân dân sẽ ngày càng quan tâm hơn đến nhu cầu về bảo hiểm con

người, bảo hiểm tài sản, tiền gửi tiết kiệm, chăm sóc sức khỏe y tế xã hội

ngày càng tăng.

Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài khi tham gia lĩnh vực bảo hiểm

phi nhân thọ chắc chắn sẽ góp phần tích cực vào việc khai thác mới trên thị

trường. Nhớ lại khi các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài đầu

tiên vào Việt Nam cuối những năm 90 của thập kỷ trước, thị trường bảo hiểm

nhân thọ đã trải qua những năm tăng trưởng ấn tượng, các sản phẩm bảo hiểm

nhân thọ trước đây cũng chỉ bó hẹp ở bảo hiểm tính mạng, bảo hiểm an sinh

giáo dục, bảo hiểm hưu trí... đến nay chủng loại bảo hiểm nhân thọ đã lên đến

hơn 100, ngoài các sản phâm nhân thọ chính như bảo hiểm và tiết kiệm, bảo

hiểm trọng đơn bảo hiểm từ kỳ, niên kim... còn có các sản phẩm bảo hiểm đi

kèm để tăng mức độ phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Những

thay đổi tương tự hoàn toàn có thể kỳ vọng với thị trường bảo hiểm và TBH

phi nhân thọ khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia khai thác thị trường.

Chế độ quản lý nhà nước về bảo hiểm ngày càng hoàn thiện hơn cũng là

cơ sở pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động và cạnh

tranh lành mạnh hơn, người dân tin tưởng hơn vào doanh nghiệp và theo đó

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

74

số đơn bảo hiểm cũng tăng lên.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Cơ hội tiếp cận thị trường là cho cả hai phía, và các doanh nghiệp trong

nước khi đủ bản lĩnh cũng sẽ có điều kiện khai thác thị trường bảo hiểm ở các

nước thành viên WTO

1.2 Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ BH và TBH theo chuẩn quốc tế

Các tập đoàn bảo hiểm và TBH uy tín nước ngoài tham gia thị trường

Việt Nam chắc chắn sẽ là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp trong nước học

hỏi về mô hình quản lý khai thác, bồi thường, nghiệp vụ định phí, đánh giá rủi

ro và giám định. Các chuyên gia bảo hiểm Việt Nam sẽ có cơ hội được đào

tạo và học hỏi những kiến thức tiên tiến nhất về bảo hiểm quốc tế. Đối với

TBH, vì là một nghiệp vụ còn rất mới tại Việt Nam nên việc học hỏi từ các

công ty TBH thế giới để hoàn thiện trình độ lại càng cấp thiết. Tất nhiên các

doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam với mục đích kinh

doanh, với mục tiêu là lợi nhuận chứ không phải là để "phát triển nền bảo

hiểm ở một nước đang phát triển" nhưng xét cho cùng muốn kinh doanh thành

công, họ buộc phải vận dụng những kinh nghiệm của mình, buộc phải đào tạo

đội ngũ lao động có chất lượng cao hơn, hợp chuẩn với mô hình quốc tế của

mình. Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước dưới áp lực cạnh tranh sẽ buộc

phải học hỏi, cải tiến và đối mới để có thể trụ vững trên thị trường nội địa.

Còn để vươn ra thị trường thế giới, các doanh nghiệp này cần xây dựng mô

hình hoạt động theo chuẩn quốc tế bởi bảo hiểm là một lĩnh vực có độ đồng

nhất cao trên toàn thị trường. Cạnh tranh tất sẽ có kẻ thắng, người thua, nhưng

2

sau tất cả, cạnh tranh chính là động lực để cả thị trường phát triển đi lên.

Thách thức

Thách thức với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm Việt Nam trong

thời hội nhập chính là áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp

Việt Nam phải đối mặt với hai nhóm đối thủ chính là: doanh nghiệp có vốn

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

75

đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam, và doanh nghiệp nước ngoài được

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

phép khai thác thị trường Việt Nam theo thỏa thuận về cung cấp dịch vụ qua

biên giới.

Tương quan về số lượng giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh

nghiệp FDI hiện tại đang nghiêng về doanh nghiệp trong nước vì số lượng các

doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh trên thị trường hiện chỉ mới có hai công

ty vừa xuất hiện là Liberty và ACE (đều của Hoa Kỳ). Nhưng khi Việt Nam

gia nhập WTO, Chính phủ các nước cùng với doanh nghiệp bảo hiểm của họ

chắc chắn sẽ gây sức ép để được hoạt động tại thị trường Việt Nam, nhất là

những doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã đáp ứng được đầy đủ điều kiện

ghi trong Luật kinh doanh bảo hiểm và Chiến lược phát triển thị trường bảo

hiểm Việt Nam. Điều này rất dễ hiểu bởi thị trường bảo hiểm Việt Nam đầy

hứa hẹn khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao mà tiềm năng của thị trường

bảo hiểm thì còn chưa được khai thác hết. Như vậy lợi thế về số lượng của

các doanh nghiệp nội địa chắc chắn không giữ được lâu.

Phải cạnh tranh với nhiều đối thủ hơn, nhưng các doanh nghiệp bảo

hiểm trong nước lại không còn nhận được sự bảo hộ như xưa của chính phủ.

Thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, mọi doanh nghiệp của nước thành

viên WTO khi thành lập và hoạt động tại Việt Nam đều được đối xử công

bằng như các doanh nghiệp nội địa. Những hạn chế cuối cùng về cung cấp

dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cũng sẽ được gỡ bỏ vào đầu năm 2008. Các doanh

nghiệp Việt Nam được cung cấp dịch vụ gì thì doanh nghiệp FDI được cung

cấp dịch vụ đó, chưa kể số lượng dịch vụ mà các doanh nghiệp FDI mang tới

và thiết kế mới còn đa dạng hơn các dịch vụ hiện có trên thị trường.

Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh

bảo hiểm phi nhân thọ có lợi thế lớn là mối quan hệ với các doanh nghiệp

trong nước trong đó có các tổng công ty nhà nước hoạt động trong các lĩnh

vực có nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng như: xây dựng, giao thông, khai

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

76

thác, vận tải đường biển, hàng không.... Các doanh nghiệp này là những

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

khách hàng rất tiềm năng trên thị trường và hiện vẫn có thói quen mua bảo

hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, lợi thế này không còn

tồn tại được lâu bởi các Tổng công ty kể trên cũng đang gấp rút tiến hành cổ

phần hóa, sắp xếp lại, đi kèm với nó là cơ cấu tổ chức, quản lý thay đổi, các

doanh nghiệp sau cổ phần hóa trước sức ép từ cổ đông luôn đặt mục tiêu lợi

ích của công ty lên trên, việc chọn mua bảo hiểm không chỉ đơn giản phụ

thuộc vào mối quan hệ như trước. Thêm vào đó, họ có nhiều lựa chọn hơn là

các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế mà trong đó phải kể

đến những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.

Lợi thế đầu tiên mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm có vốn đầu

tư nước ngoài chính là tiềm lực vốn mạnh. Với một doanh nghiệp kinh doanh

bảo hiểm, thì tiềm lực vốn phần nào đồng nghĩa với độ tin cậy của doanh

nghiệp đó bởi kỳ vọng của một cá nhân hay tổ chức khi mua bảo hiểm là để

công ty bảo hiểm có thể chi trả cho họ những tổn thất không may xảy ra với

đối tượng bảo hiểm, để họ có thể ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh.

Trong suy nghĩ thông thường của mọi khách hàng, công ty bảo hiểm có tiềm

lực vốn lớn, khả năng tài chính mạnh đương nhiên sẽ đảm nhận tốt hơn nhiệm

vụ bồi thường cho khách hàng. Lợi thế tiếp theo là các doanh nghiệp này

được sự hỗ trợ về nghiệp vụ từ công ty mẹ – thường là những tập đoàn bảo

hiểm có hàng trăm năm kinh nghiệm trên thị trường thế giới. Tuy thị trường

Việt Nam với họ còn rất mới mẻ nhưng như ông Evan G. Greenberg, Giám

đốc tập đoàn bảo hiểm ACE đã tuyên bố với Thời báo kinh tế Việt Nam:

“ACE có đủ điều kiện và khả năng để có thể cung cấp tất cả những sản phẩm phi nhân thọ theo nhu cầu của thị trường Việt Nam”6. Ngoài sự tiến bộ về

nghiệp vụ, các công ty này còn có mô hình quản lý tiên tiến hơn với công ty

trong nước, với các chiêu thức quảng bá và tiềm lực kinh tế tốt họ có khả

năng lôi kéo được lực lượng nhân sự trình độ tốt từ các doanh nghiệp Việt

6 Nguyên Thành – “ACE Việt Nam có thể cung cấp mọi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ” – www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

77

Nam về đầu quân cho họ, làm xuất hiện một trào lưu chảy máu chất xám

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

trong ngành bảo hiểm – một ngành vốn đang thiếu nhân lực trầm trọng trong

thời kỳ mới.

Có thể nói doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xét về tương quan

lực lượng sẽ là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

trong nước. Nếu các doanh nghiệp trong nước không kịp thời đổi mới, cải

cách thì nguy cơ mất thị phần, mất nhân lực là rất rõ ràng. Nhớ lại những gì

đã xảy ra với thị trường bảo hiểm nhân thọ vài năm về trước. Các doanh

nghiệp bảo hiểm nước ngoài dù gia nhập thị trường sau nhưng đến hết năm

2006, hơn 64% thị phần bảo hiểm nhân thọ đang nằm trong tay các doanh

nghiệp nước ngoài, Bảo Việt với hơn lịch sử hoạt động hơn 40 năm đã phải

nhường ngôi vị quán quân trên thị trường bảo hiểm nhân thọ cho Prudential

với 41,6% thị phần (doanh nghiệp này được cấp phép hoạt động vào năm

1999).

Một khi các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bảo hiểm gốc không

thuận lợi, tác động tiêu cực ắt sẽ xảy ra với thị trường tái bảo hiểm mà hiện tại

mới có VINARE là đại diện. Các công ty bảo hiểm nước ngoài với mối quan

hệ rộng rãi trên thị trường quốc tế nếu cần tái bảo hiểm chắc chắn sẽ tìm đến

những nhà tái bảo hiểm ruột, là những công ty tái bảo hiểm uy tín và có tiềm

lực lớn. Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm trong nước sẽ bị mất đi một lượng

khách hàng không nhỏ.

Điều đáng lo ngại hơn là cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới của

Việt Nam, với cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm và TBH nước ngoài

không cần phải lập chi nhánh, hay thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam cũng có thể khai thác thị trường. Đặc biệt trong lĩnh vực

TBH, lĩnh vực mà khách hàng trực tiếp là các doanh nghiệp bảo hiểm gốc chứ

không phải là bộ phận người dân hay doanh nghiệp, thì các khoảng cách về

địa lý, hay các trở ngại về tập quán không phát huy tác dụng. Khi qui định về

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

78

tỷ lệ TBH bắt buộc đã không còn, và các nhà TBH được phép khai thác thị

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

trường Việt Nam thì dòng phí bảo hiểm thu được chuyển ra nước ngoài chắc

chắn sẽ tăng lên.

Như vậy, cơ hội có nhiều nhưng thách thức cũng không ít, doanh nghiệp

Việt Nam cần phải làm những gì để nắm bắt tốt những cơ hội và sẵn sàng đối

phó với các thách thức nêu trên. Phần giải pháp xin đưa ra một vài gợi ý.

III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TBH

VIỆT NAM

1

Từ phía cơ quan quản lý nhà nƣớc

1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm

Như đã trình bày ở đầu chương II, từ năm 2001 đến nay, không ít các

văn bản pháp lý đã được soạn thảo, ban hành để điều chỉnh và hướng dẫn hoạt

động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thị trường Việt Nam. Ngoài

các văn bản luật, nghị định, thông tư điều chỉnh hoạt động của các doanh

nghiệp kinh doanh bảo hiểm, các bộ luật liên quan của các ngành khác có liên

quan cũng được ban hành và hoàn thiện như Luật hàng hải, Luật thương mại,

Luật hàng không dân dụng, sắp tới là Luật du lịch, Luật bảo hiểm tiền gửi....

Có thể thấy Chính phủ hiện đang rất nỗ lực để xây dựng một hành lang

pháp lý tốt nhất cho các doanh nghiệp yên tâm hoạt động, tuy vậy so với thế

giới thì hệ thống luật pháp của ta còn hổng rất nhiều, đặc biệt là trong những

lĩnh vực mới như TBH. Trong số các văn bản luật nói trên, chỉ có Mục 3 -

nghị định 42 có đề cập đến TBH, nhưng cũng chỉ ở mức rất sơ sài, chưa có

các qui định dành cho doanh nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp, hay các

thủ tục cần thiết trong qui trình TBH. Nguyên nhân có thể là do hiện chỉ có

VINARE là doanh nghiệp chuyên kinh doanh TBH duy nhất và lại là doanh

nghiệp nhà nước, hoạt động của VINARE trước nay chỉ mang tính định

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

79

hướng thị trường, hoạt động kinh doanh TBH chưa vấp phải các xung đột,

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

khúc mắc về cạnh tranh cần phải điều chỉnh nên việc làm luật còn chậm trễ.

Nhưng trong những năm tới, do yêu cầu của thực tiễn, Chính phủ và bộ tài

chính còn phải tiếp tục xây dựng hệ thống luật bảo hiểm cho phù hợp.

1.2 Hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước về mặt

kỹ thuật, nghiệp vụ.

Theo ý kiến của tổng thư ký hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, ông Phùng

Đắc Lộc thì "dịch vụ bảo hiểm không những bồi thường kịp thời đầy đủ tổn

thất do thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ xảy ra mỗi năm hàng ngàn tỷ đồng mà

còn đầu tư vào nền kinh tế, thu hút hàng trăm ngàn lao động, nộp ngân sách

nhà nước lên đến 1000 tỷ đồng mỗi năm... nhưng chưa thực sự nhận được sự quan tâm thích đáng của các cấp các ngành và cơ quản công quyền"7.

Thật vậy, ngành bảo hiểm Việt Nam tuy không phải là một ngành quá

mới mẻ, nhưng so với trình độ của thế giới, chúng ta còn tụt hậu khá xa. Với

TBH, các doanh nghiệp thực hành bảo hiểm lại càng mù mờ hơn. Hiện nay

các hoạt động của họ đều dựa trên các tập quán quốc tế, chứ chưa có một luật

thành văn nào điều chỉnh. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hạn chế, tại

Việt Nam chưa có một tổ chức nào chuyên về kỹ thuật định phí và đánh giá

rủi ro (Acturial service) mà đây lại là điều sống còn với các doanh nghiệp

kinh doanh rủi ro là doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi

nhân thọ, và cả doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều trích lập dự phòng theo

thông tư hướng dẫn mà thực tế, thông tư hướng dẫn không thể bao quát hết

các vấn đề về kỹ thuật. Việc xây dựng một Học viện bảo hiểm hoặc một trung

tâm nghiên cứu chuyên về bảo hiểm vì thế là rất cần thiết để đào tạo ra một

đội ngũ chuyên gia có trình độ trung và cao cấp, phục vụ cho nhu cầu nhân

7 (trích: Thị trường bảo hiểm Việt Nam với việc gia nhập WTO – bài viết đăng trên website Hiệp hội bảo hiểm).

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

80

lực của ngành.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Để có thể làm được điều này, khó có thể trông mong sự đầu tư của một

doanh nghiệp bảo hiểm riêng lẻ bởi họ còn mải vật lộn với áp lực cạnh tranh

gay gắt trên thị trường, chính phủ cần đứng ra có tiếng nói kêu gọi sự hỗ trợ

của các tổ chức quốc tế, các hội nghề nghiệp và các trường đại học trên thế

giới. Mở các lớp tập huấn, nâng cao trình độ của cán bộ thực hành bảo hiểm

tại các doanh nghiệp và cả cán bộ quản lý bảo hiểm của nhà nước.

Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong những năm tới, việc giảng dạy bộ

môn bảo hiểm ở các trường đai học cũng cần phải nhanh chóng có những cái

tiến phù hợp như: xây dựng giáo trình, khung giảng dạy cho chuyên ngành

bảo hiểm, tách bảo hiểm thành các mảng nhỏ để nghiên cứu và đạo tạo

chuyên sâu như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, TBH, môi giới

bảo hiểm, định phí bảo hiểm... bởi mỗi một chuyên môn nhỏ này yêu cầu

những kiến thức nền tảng rất khác nhau chứ không đơn thuần là cộng thêm

một vài bộ môn cho các cử nhân kinh tế là có thể trở thành "chuyên gia bảo

hiểm". Thực tế cho thấy các sinh viên bảo hiểm ra trường chỉ có thể thực hiện

các nghiệp vụ với khách hàng còn việc tham gia thị trường bảo hiểm và TBH

quốc tế thì trình độ chưa đáp ứng được. Với một đội ngũ cán bộ như vậy, việc

cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài – những đối thủ sẽ cung cấp dịch

vụ bảo hiểm qua biên giới cho thị trường Việt Nam sẽ vấp phải rất nhiều khó

khăn. Vì thế nhiệm vụ đào tạo cán bộ chuyên sâu về bảo hiểm là rất cấp bách

và đòi hỏi sự ủng hộ từ chính phủ và đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa các

doanh nghiệp bảo hiểm với Bộ Giáo dục và Đào tạo.

1.3 Nâng cao ý thức của người dân về bảo hiểm

Ở Việt Nam, thói quen mua bảo hiểm trong doanh nghiệp và nhân dân

còn chưa phổ biến đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Người

dân thường chỉ chuộng các sản phẩm bảo hiểm mang tính chất tiết kiệm, còn

các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm phần nhiều cũng là do bắt buộc. Đó là do

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

81

quan niệm về sự cần thiết của bảo hiểm với đời sống kinh tế – xã hội còn

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

chưa được ý thức hết trong đại bộ phận nhân dân. Để khắc phục điều này,

ngoài việc các doanh nghiệp tự tiến hành quảng bá sản phẩm dịch vụ, nhà

nước cũng cần phải tích cực tuyên truyền dưới nhiều hình thức, phương tiện

thông tin đại chúng. Bên cạnh biện pháp tuyên truyền, Chính phủ cũng nên

ban hành các văn bản pháp quy mang tính cưỡng chế với các loại hình bảo

hiểm quan trọng như: bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ

công trình. Tuy thời gian đầu, các qui định này có thể không giành được sự

đồng thuận của toàn bộ nhân dân, nhưng dần dần người dân sẽ thấy được

đóng góp của bảo hiểm lớn thế nào trong việc khắc phục thảm họa, ổn định

đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.

Hiện tại các dự thảo về qui định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, qui định

bảo hiểm bắt buộc với chủ công trình, bảo hiệm trách nhiệm nghề nghiệp với

các ngành như bác sỹ, luật sư... cũng đang được Chính phủ xem xét để đưa

vào thực hiện.

2

Từ phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

2.1 Không ngừng cải tiến, thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới

Thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới là nhiệm vụ cần thiết của mọi doanh

nghiệp bảo hiểm nếu doanh nghiệp đó muốn thu hút được khách hàng. Hiện

nay thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có hơn 700 loại sản phẩm khác nhau,

đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân tổ chức và doanh nghiệp. Nhưng

nếu chỉ dừng lại ở việc thị trường có nhu cầu gì ta cung cấp sản phẩm đó thì

các doanh nghiệp sẽ không thể nhanh chóng mở rộng phạm vi khai thác của

mình. Chính các doanh nghiệp phải là người tạo ra nhu cầu và thúc đẩy nhu

cầu về bảo hiểm cho khách hàng, để khách hàng thấy được bảo hiểm mang lại

những lợi ích phù hợp và thiết thực cho họ chứ không phải việc mua bảo hiểm

là một hình thức bắt buộc. Có như vậy, nhận thức chung của người dân và

doanh nghiệp về bảo hiểm mới tăng lên, bảo hiểm mới phát huy được hết vai

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

82

trò to lớn của mình là bình ổn nền kinh tế còn các doanh nghiệp kinh doanh

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

bảo hiểm mới có thể mở rộng thêm thu nhập trong khi thị phần vẫn bị thu

hẹp.

Muốn tạo ra được những sản phẩm bảo hiểm mới, khơi dậy nhu cầu của

thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm nên có một bộ phận chuyên trách về

phát triển sản phẩm. Bộ phận này cần có liên kết chặt chẽ với bộ phận khai

thác, quan hệ với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu của họ từ đó thiết kế sản

phẩm cho phù hợp. Cũng không nên xem nhẹ việc học hỏi từ các doanh

nghiệp khác trên thị trường Việt Nam và thị trường quốc tế, bởi thị trường thế

giới thường phản ánh khá chính xác xu hướng phát triển của thị trường Việt

Nam.

2.2 Chú trọng hơn nữa vào hoạt động đầu tư

Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm là nơi có số vốn nhàn

rỗi rất lớn. Qui định tại Mục 3 – chương II – nghị định 43/2001/NĐ-CP đã chỉ

rõ các doanh nghiệp được sử dụng vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ

(chính là một phần giữ lại của phí bảo hiểm để chi trả cho khách hàng nếu có

tổn thất xảy ra) để đầu tư vào các lĩnh vực khác như:

 Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi

tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế;

 Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn

vào các doanh nghiệp khác tối đa 35% vốn nhàn rỗi từ dự phòng

nghiệp vụ bảo hiểm;

 Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức

tài chính - tín dụng tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ

bảo hiểm.

Tuy vậy, hoạt động đầu tư trước nay chưa nhận được sự quan tâm thích

đáng của các doanh nghiệp bảo hiểm, nhất là bảo hiểm phi nhân thọ. Chỉ

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

83

trong những năm gần đây, khi hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

lên cơn sốt, các doanh nghiệp bảo hiểm mới có làn sóng thành lập các quỹ

đầu tư bảo hiểm. Trên thế giới các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và

TBH đều rất chú trọng vào hoạt động đầu tư này thậm chí đầu tư mới thực sự

là hoạt động sinh lời của công ty bảo hiểm và TBH. Lấy ví dụ như trường hợp

của Swiss Re, năm 2006 trong khi lợi nhuận trước thuế của cả tập đoàn vào

khoảng 3,5 tỷ USD thì doanh thu từ hoạt động đầu tư lên đến 4,2 tỷ USD

chứng tỏ nếu không có hoạt động đầu tư thì lượng phí bảo hiểm thu được sau

khi trừ đi các chi phí bồi thường, chi phí khai thác và quản lý doanh nghiệp sẽ

không còn lợi nhuận. Phân tích như vậy để thấy được rằng đầu tư có vai trò

rất quan trọng với doanh nghiệp bảo hiểm.

Phí bảo hiểm ở Việt Nam so với các nước trong khu vực là tương đối

cao. Nguyên nhân là do số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm chưa nhiều,

nên qui luật số đông chưa phát huy tác dụng. Nếu tận dụng tốt các cơ hội đầu

tư thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể hạ phí bảo hiểm một cách hợp lý và khoa

học, mà vẫn duy trì được ổn định kinh doanh. Hạ phí tất nhiên sẽ tăng lợi thế

cạnh tranh cho doanh nghiệp và góp phần thu hút thêm người tham gia bảo

hiểm. Đến lúc này, qui luật san sẻ rủi ro cho số đông sẽ phát huy tác dụng và

đưa mức phí trung bình của cả thị trường giảm bớt, giảm gánh nặng cho

người mua bảo hiểm nhưng vẫn duy trì được ổn định của nền kinh tế.

2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình cấp đơn, quản lý, khai

thác, bồi thường

Không ai có thể nghi ngờ vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin

vào việc quản lý doanh nghiệp nói chung. Nhưng người viết vẫn muốn nhấn

mạnh rằng tại một ngành kinh doanh dịch vụ như kinh doanh bảo hiểm thì

việc áp dụng công nghệ thông tin lại càng quan trọng hơn nữa. Tác dụng của

nó có thể tóm gọn trong 3 ý như sau

Thứ nhất, ứng dụng công nghệ giúp giảm bớt chi phí. Hai loại chi phí

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

84

chủ yếu của doanh nghiệp bảo hiểm là chi phí bồi thường và chi phí quản lý

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

doanh nghiệp. Nếu như chi phí bồi thường vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố rủi

ro thì chi phí quản lý là điều mà tự doanh nghiệp có thể kiểm soát được và

cách hiệu quả nhất chính là áp dụng công nghệ thông tin, giúp giảm bớt lượng

cán bộ nhân viên hành chính, giấy tờ vốn không hề ít trong một doanh nghiệp

bảo hiểm. Thay vào đó, doanh nghiệp có thể tập trung hơn vào việc thuê thêm

những cán bộ có trình độ cao về thẩm định, đánh giá rủi ro...

Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin còn tạo điều kiện thuận lợi hơn

cho khách hàng. Với việc mạng internet ngày càng trở nên phổ dụng, doanh

nghiệp bảo hiểm có thể tiến hành cấp đơn bảo hiểm qua mạng, cho khách

hàng tự thiết kế sản phẩm bảo hiểm. Với khách hàng, việc cấp đơn qua mạng

không chỉ tạo thuận tiện về mặt thời gian mà còn là cách để họ có thể tìm thấy

sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Với doanh nghiệp bảo hiểm, mạng internet

là cách để duy trì quan hệ với khách hàng và tiếp nhận nhanh nhất các thông

tin phản hồi, làm cơ sở để thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với thị

hiếu của khách hàng.

Thứ ba, công nghệ thông tin là công cụ thống kê hữu hiệu cho các công

ty bảo hiểm. Một công ty bảo hiểm phải quản lý hàng vạn đơn bảo hiểm của

các khách hàng khác nhau, với các thời hạn khác nhau. Nếu không có sự can

thiệp của công nghệ thông tin thì việc theo dõi các đơn bảo hiểm này sẽ rất

vất vả mà vẫn không tránh khỏi sai sót. Các dữ liệu thống kê còn là nền tảng

quý giá để cho các công ty bảo hiểm có thể tính toán độ rủi ro, định phí và dự

đoán nhu cầu. Hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chưa thể tự trích

lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ theo tình hình của riêng doanh nghiệp mình

là do trở ngại lớn về thiếu số liệu thống kê.

2.4 Có chính sách phát triển và xây dựng nguồn nhân lực cho doanh

nghiệp mình

Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định thành công của mọi doanh

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

85

nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

không là ngoại lệ. Trước cơn khát nhân lực có thể dự báo trước, doanh nghiệp

bảo hiểm cần có những động thái sớm để có thể nâng cao được trình độ của

đội ngũ nhân viên hiện có đồng thời thu hút thêm người tài về làm việc cho

mình.

Đội ngũ nhân viên hiện có chính là tài sản và là lợi thế của doanh nghiệp

đang kinh doanh trên thị trường bảo hiểm. Bởi như đã phân tích ở trên, nhân

lực cho ngành bảo hiểm mang tính đặc thù chứ không thể lấy nhân lực của

các ngành hoạt động dịch vụ tài chính khác sang thay thế ngay được. Hơn thế,

hầu hết các ngành tài chính đều đang thiếu nhân lực có trình độ một cách trầm

trọng. Vì vậy, biện pháp thích hợp nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm phải

đầu tư đào tạo cán bộ nghiệp vụ của chính mình trước, để họ có thể bắt kịp

với yêu cầu cạnh tranh thời hội nhập.

Việc đào tạo đã khó, giữ được người tài ở doanh nghiệp mình lại càng

khó hơn. Để có thể níu chân những nhân viên giỏi có kinh nghiệm không

chuyển sang các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nơi sẵn sàng đãi ngộ họ

với một mức lợi nhuận cao hơn hẳn, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có

những chiến thuật quản lý nhân sự khôn ngoan hơn, quan tâm đến nguyện

vọng và nhu cầu phát triển của các nhân viên giỏi để khuyến khích họ gắn bó

lâu dài với doanh nghiệp.

Trong dài hạn, việc đào tạo và thu hút sinh viên mới ra trường là rất cần

thiết để phục vụ cho nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên

quan tâm hơn, hợp tác với các trường đại học và trung tâm đào tạo để góp

phần chỉnh sửa nội dung chương trình cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều

kiện cho các sinh viên thực tập tại doanh nghiệp mình, và có sự đầu tư thích

đáng cho những ứng viên xuất sắc.

Những giải pháp được nêu ở trên đều là để tập trung phát triển thị trường

bảo hiểm phi nhân thọ nói chung. Nhưng điều dễ hiểu là chỉ khi nào thị

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

86

trường bảo hiểm gốc phát triền, các công ty bảo hiểm gốc của Việt Nam đứng

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

vững trên thị trường thì TBH với vai trò là một nghiệp vụ bổ sung mới có thể

phát đạt. Riêng về giải pháp với công ty TBH, mà cụ thể ở Việt Nam là công

ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE), khóa luận cũng xin đưa ra

một vài góp ý để duy trì và phát huy hơn nữa vị trí hiện có của doanh nghiệp

TBH duy nhất này.

3

Giải pháp cho công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam

VINARE

Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung, VINARE cũng cần

phải chú trọng hơn vào hoạt động đầu tư, áp dụng công nghệ thông tin vào

hoạt động của mình và nhất là công tác đào tạo, xây dựng, và "giữ chân"

nguồn nhân lực có trình độ ở lại doanh nghiệp mình. Quan trọng hơn nữa với

một doanh nghiệp TBH chính là năng lực tài chính, các nhà bảo hiểm gốc

thường tìm đến (và tin tưởng) vào các nhà tái có khả năng tài chính dồi dào,

bởi mục tiêu của họ chính là để san sẻ rủi ro và ổn định tình hình kinh doanh.

Vì vậy VINARE nên có một lộ trình huy động vốn phù hợp để nâng cao năng

lực tài chính cho mình.

Nâng cao chất lượng dịch vụ TBH với khách hàng là các doanh nghiệp

nhượng TBH: cụ thể là thực hiện đúng và nghiêm túc các cam kết về thu phí,

trả hoa hồng, tích cực tham gia giải quyết bồi thường nhanh gọn và thỏa đáng;

cùng với nhà bảo hiểm gốc quản lý rủi ro cho đối tượng bảo hiểm...

Ngoài hoạt động nhận TBH trong nước, việc VINARE cũng nên chủ

động tìm đến các thị trường bảo hiểm khác trong khu vực. WTO là cơ hội của

cả hai phía, nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp TBH nước ngoài khai thác

thị trường Việt Nam nhưng cũng tạo điều kiện để một doanh nghiệp như

VINARE vươn ra thị trường thế giới. Bước đầu tiên để thực hiện việc mở

rộng thị trường là nhanh chóng thành lập các văn phòng đại diện tại nước

ngoài vừa để tìm hiểu thị trường, vừa để xây dựng mối quan hệ với các doanh

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

87

nghiệp bảo hiểm và TBH nước sở tại.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Tiếp tục duy trì và xây dựng mối quan hệ với các đối tác là doanh

nghiệp bảo hiểm gốc, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới thành lập

trên thị trường, giúp đỡ họ thông qua việc ưu tiên nhượng tái cho các doanh

nghiệp trong nước vừa để giữ lại đối ưu nguồn phí bảo hiểm vừa để tạo cơ hội

cho các doanh nghiệp nhỏ có được doanh thu và phát triển hơn. Bên cạnh việc

chuyển nhượng phí bảo hiểm, VINARE nên giúp đỡ các doanh nghiệp này về

đào tạo nghiệp vụ, cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng khác như giám định

tổn thất, định phí, đánh giá rủi ro...

Với các đối tác là nhà nhận TBH nước ngoài, thay vì cạnh tranh trực

diện, VINARE có thể đứng ra giữ vai trò môi giới TBH cho các doanh nghiệp

trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài. Với kinh nghiệm và mối quan

hệ rộng rãi của mình, nếu kinh doanh thêm lĩnh vực môi giới TBH thì

VINARE hoàn toàn có cơ sở để thành công. Hoạt động môi giới có ba tác

dụng: thứ nhất là tạo thêm thu nhập cho VINARE, thứ hai là tạo giúp

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

88

VINARE giữ lại thị phần cho mình và cho cả thị trường Việt Nam.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Kết luận

TBH có vai trò quan trọng với ngành bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và

cả nền kinh tế nói chung. TBH ở Việt Nam tuy mới hình thành với một đại

diện chính thức duy nhất là VINARE đã có những thành quả đáng kể là san sẻ

rủi ro, tăng mức giữ lại của thị trường nội địa và là cầu nối cho doanh nghiệp

bảo hiểm trong nước và thị trường bảo hiểm, TBH quốc tế.

Trong những gần đây, kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến

nhanh và tích cực, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang có những bước tăng

trưởng ấn tượng, hoạt động TBH vì vậy có được cơ hội để phát triển và chứng

tỏ hơn nữa vai trò của mình với ngành bảo hiểm và cả nền kinh tế. Nhưng bên

cạnh những dấu hiệu khả quan của thời kỳ đầu hội nhập, ngành đang phải đối

mặt với những thách thức thật sự đó chính là áp lực cạnh tranh với các doanh

nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cả các doanh nghiệp

ở nước ngoài khai thác thị trường bảo hiểm trong nước mà cả hai lực lượng

này đều có những thế mạnh vượt trội hơn so với doanh nghiệp bảo hiểm,

TBH Việt Nam về cả năng lực tài chính và trình độ nghiệp vụ. TBH Việt

Nam với một đại diện chính thức là VINARE chắc chắn phải nỗ lực rất nhiều

mới có thể giữ vững được thị phần và tăng mức giữ lại của bảo hiểm trong

nước.

Tuy thách thức cho ngành bảo hiểm là không ít nhưng đánh giá chung

về TBH Việt Nam trong thời kỳ này không quá bi quan. Bởi vì TBH vốn là

nghiệp vụ mang tính đồng nhất cao trên toàn thế giới, nên chính nhờ có TBH

mà ngành bảo hiểm đã sớm làm quen với làn gió hội nhập, phần nào am hiểu

tập quán bảo hiểm quốc tế và các thị trường bảo hiểm nước ngoài. Nếu được

sự quan tâm và chỉ đạo đúng đắn và hợp lý từ các ban ngành và cơ quan quản

lý nhà nước, bảo hiểm Việt Nam có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

89

doanh nghiệp nước ngoài trong thời kỳ mới.

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

Danh mục tài liệu tham khảo

Tiếng Việt:

1. “Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm” – website

TTX Việt Nam, cập nhật ngày 11/1/2007

2. “Tổng quan thị trường bảo hiểm năm 2003, 2004, 2005” - Website

Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam - www.avi.org.vn

3. “Thị trường bảo hiểm – những thuận lợi và thách thức” – bài phỏng

vẫn chủ tịch HĐQT Bảo Việt Lê Quang Bình được phóng viên

Anh Minh thực hiện ngày 15/1/2007

4. Bảo Minh – Báo cáo tài chính 2006

5. Hoàng Xuân – “Bảo hiểm sau khi vào WTO: chấp nhận cạnh tranh

sòng phẳng” - www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007

6. Nguyên Thành – “ACE Việt Nam có thể cung cấp mọi loại hình

bảo hiểm phi nhân thọ” – www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày

06/4/2007

7. Nguyễn Kim Phú – Công ty bảo hiểm Sài Gòn “Giải pháp phát

triển thị trường bảo hiểm với tiến trình hội nhập quốc tế”

8. PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến

– Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại

Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002.

9. PJICO – Báo cáo tài chính 2006

10. PVI – Báo cáo tài chính 2006

11. Tạp chí Bảo hiểm - TBH Việt Nam số 4/2006; số 1/2007; số 2/2007

12. Thùy Trang – Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 21/8/2007– “Bảo

hiểm đối mặt nhiều thách thức trước giờ G”

13. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo hiểm và tái bảo hiểm của

Việt Nam...

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

90

Tiếng Anh:

Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam

14. Bao Viet - Annual Report 2005, 2006

15. IISA - Reinsurance Practice - Explain Reinsurance as it is applied

in short term insurance

16. Munich Re - Annual Report 2006

17. Swiss Re - Annual Report 2006

18. Swiss Re – Understand Reinsurance hand book

19. Tony Allison - “Risks and rewards in China's insurance market” –

www.asiatime.com

20. US-Vietnam Bilateral Trade Agreement - US – Vietnam Trade

issue webpage - http://www.usvtc.org/trade/bta

21. Vinare - Annual Report 2002, 2003, 2004, 2005

22. WOE - Annual Report 2006

Một số websites tham khảo khác:

23. www.vinare.com.vn

24. www.baoviet.com.vn

25. www.baominh.com.vn

26. www.pvi.com.vn

27. www.pjico.com.vn

28. www.vneconomy.com.vn

29. www.taichinhvietnam.com.vn

30. www.asiatime.com

Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT

91

31. www.re-world.com