TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA: KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ ĐỐI NGOẠI ---------------
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
TÁI BẢO HIỂM VÀ ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM
Hà Nội 11/2007
Họ và tên sinh viên : Nguyễn Minh Thu Lớp : A2 Khoá : K42 A - KT& KDQT Giáo viên hướng dẫn: ThS. Phạm Thị Mai Khanh
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Danh mục từ viết tắt
Tái bảo hiểm TBH
Excess of loss – hợp đồng bảo hiểm vượt mức bồi thường XOL
Petro Vietnam Insurance Company – Công ty bảo hiểm Dầu PVIC
khí Việt Nam
PJICO Petrolimex Joint Stock Insurance Company – Công ty cổ phần
bảo hiểm Petrolimex
VINARE Vietnam National Reinsurance Company – Công ty tái bảo
hiểm Quốc gia Việt Nam
WOE West Of England – Hội bảo hiểm tương hỗ của các chủ tàu
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
1
miền Tây nước Anh
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Mục lục
Danh mục từ viết tắt ........................................................................................ 1
Mục lục ........................................................................................................... 2
Lời mở đầu ...................................................................................................... 5
Chương I. Lý thuyết chung về TBH ............................................................. 7
I. Các khái niệm chung về TBH .................................................................. 7
1. TBH và sự ra đời của TBH ....................................................................... 7
1.1 Lịch sử ra đời ........................................................................................ 7
1.2 Sự cần thiết khách quan của TBH.......................................................... 9
1.3 Khái niệm, ưu nhược điểm .................................................................. 11
2. Tác dụng của TBH .................................................................................. 13
2.1 Với công ty nhượng TBH (Cendant) ................................................... 14
2.2 Với người được bảo hiểm (Insured)..................................................... 14
2.3 Với công ty nhận TBH (Reinsurer)...................................................... 15
3. Nguyên tắc pháp lý trong bảo hiểm ........................................................ 15
II. Phân loại TBH ..................................................................................... 17
1. Phân loại theo hình thức TBH................................................................. 18
1.1 TBH tạm thời (Facultative Reinsurance) ............................................. 18
1.2 TBH cố định (Treaty) .......................................................................... 20
1.3 TBH lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory Reinsurance). ......... 22
2. Phân loại theo phương thức TBH............................................................ 23
2.2 TBH phi tỷ lệ ...................................................................................... 27
2.3 TBH kết hợp........................................................................................ 31
III. Các bước ký kết hợp đồng TBH. ......................................................... 32
Chương II. Thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam ...................................... 35
I. Tóm tắt quá trình hình thành và phát triển của thị trường TBH Việt Nam.35
1. Trước khi ban hành nghị định 100/CP về họat động kinh doanh bảo hiểm35
2. Sau khi ban hành nghị định 100/CP ........................................................ 36
3. Sau khi ban hành Luật bảo hiểm 2001 .................................................... 37
II. Các chủ thể tham gia thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam ............. 38
1. Công ty bảo hiểm gốc ............................................................................. 39
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
2
1.1 Công ty Bảo Việt Việt Nam ................................................................ 40
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
1.3 Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - PJICO ................................... 42
1.4 Công ty bảo hiểm Dầu khí - PVI ......................................................... 43
2. Công ty TBH .......................................................................................... 44
2.1 Tổng công ty Cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam - VINARE ............... 44
2.2 Công ty bảo hiểm và TBH nước ngoài ................................................ 46
3. Môi giới TBH ......................................................................................... 47
III. Tình hình phát triển của thị trường TBH phi nhân thọ trong những năm ............................................................................................................ 48 qua
1 Đặc điểm thị trường bảo hiểm gốc .......................................................... 48
1.1 Thị trường tăng trưởng nhanh .............................................................. 48
1.2 Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ngày một gay gắt .... 51
2. Thị trường TBH ...................................................................................... 53
2.1 Tổng quan toàn thị trường ................................................................... 53
2.2 Tổng quan theo nghiệp vụ ................................................................... 58
Chương III: Những cơ hội và thách thức với thị trường TBH trong thời kỳ hội nhập .............................................................................................................. 70
I. Cam kết của Việt Nam về mở cửa thi trường trong thời kỳ hội nhập ...... 70
1. Cam kết khi gia nhập WTO .................................................................... 70
2 Cam kết tại hiệp định thương mại song phương Việt – Mỹ (Phụ lục G) .. 71
Những cơ hội và thách thức mới với thị trường TBH trong thời kỳ hội
II. nhập. 73
1 Cơ hội ..................................................................................................... 73
1.1 Qui mô thị trường tăng nhanh, đa dạng hóa sản phẩm. ........................ 73
1.2 Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ BH và TBH theo chuẩn quốc tế ......... 75
2 Thách thức .............................................................................................. 75
III. Một số giải pháp để phát triển thị trường TBH Việt Nam .................... 79
1 Từ phía cơ quan quản lý nhà nước .......................................................... 79
1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm .................... 79
1.2 Hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước về mặt kỹ thuật, nghiệp vụ. ............................................................................................ 80
1.3 Nâng cao ý thức của người dân về bảo hiểm ....................................... 81
2 Từ phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ..................................... 82
2.1 Không ngừng cải tiến, thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới ...................... 82
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
3
2.2 Chú trọng hơn nữa vào hoạt động đầu tư ............................................. 83
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
2.3 ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình cấp đơn, quản lý, khai thác, bồi thường ............................................................................................ 84
2.4 Có chính sách phát triển và xây dựng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp mình ............................................................................................................ 85
3 Giải pháp cho công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam VINARE ........ 87
Kết luận ......................................................................................................... 89
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
4
Danh mục tài liệu tham khảo ......................................................................... 90
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Lời mở đầu
Bảo hiểm là một ngành kinh doanh có nguồn gốc từ rất xa xưa và cùng với nó
TBH cũng đã ra đời đã từ rất lâu và là một bộ phận không thể thiếu trong ngành bảo
hiểm. TBH mang lại những lợi ích rõ ràng cho các nhà bảo hiểm, người được bảo
hiểm và cả nền kinh tế trong môi trường kinh tế – xã hội toàn cầu không ngừng biến
động và tiềm ẩn nhiều rủi ro cần được bảo hiểm. Hiện nay, trên thế giới bất kỳ một
công ty bảo hiểm nào cũng cần đến hoạt động TBH và số lượng các nhà TBH
chuyên nghiệp cũng ngày một tăng với trình độ chuyên môn và khả năng tài chính
ngày càng cao như Swiss Re, Munich Re, Alianz Re, Aon Re....
Tại Việt Nam hoạt động bảo hiểm chính thức ra đời năm 1965 đánh dấu bằng
việc thành lập của Công ty bảo hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt). Nhưng mãi đến
năm 1994 Công ty TBH quốc gia mới ra mắt và cho đến nay vẫn là công ty TBH
chuyên nghiệp duy nhất tại Việt Nam. Có thể nói, bảo hiểm Việt Nam so với bảo
hiểm thế giới còn rất non trẻ, và TBH Việt Nam mới chỉ có hơn chục năm phát triển
tính đến thời điểm hiện nay.
Tuy vậy, bối cảnh kinh tế xã hội của nước ta đang có nhiều thay đổi và ngành
bảo hiểm cũng đang có những bước tiến ngoạn mục trong những năm qua mà điển
hình là sự lớn mạnh của các dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ với mức tăng trưởng hai
con số trong 5 năm trở lại đây. Việt Nam đang chứng tỏ là một thị trường bảo hiểm
đầy tiềm năng và hấp dẫn không ít các nhà kinh doanh dịch vụ tài chính nước ngoài.
Cùng với nguyên nhân thị trường bảo hiểm thế giới đang có xu hướng bão hòa, các
nhà bảo hiểm quốc tế đang chờ đón ngày thị trường bảo hiểm Việt Nam chính thức
mở cửa vào năm 2008. TBH vốn là một lĩnh vực kinh doanh mang tính quốc tế cao
chắc chắn sẽ có nhiều biến động sau sự kiện này. Các doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm và TBH nói chung cần phải chuẩn bị những gì để có thể chủ động hội nhập và
nắm bắt những cơ hội mới hay đơn giản là để đứng vững và giữ được thị phần ngay
trong thị trường bảo hiểm nội địa. Đó là một bài toán không hề đơn giản nhưng rất
đáng được quan tâm. Người viết vì vậy đã cố gắng nghiên cứu thêm về TBH và đã
mạnh dạn chọn đề tài “TBH và áp dụng tại thị trường Việt Nam” làm nội dung
cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
5
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Những nghiên cứu của khóa luận xoay quanh việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng
nghiệp vụ TBH tại thị trường Việt Nam về. Khóa luận tập trung vào: mức độ và
trình độ triển khai nghiệp vụ TBH tại các công ty trong nước; những điều các nhà
bảo hiểm và TBH Việt Nam đã làm được và cần phải làm tốt hơn trước những
chuyển biến nhanh chóng của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong thời gian qua;
tìm hiểu cơ hội, thách thức với các công ty bảo hiểm trong nước và cuối cùng là
những đề xuất của người viết để góp phần tăng tính chủ động của các công ty bảo
hiểm và TBH Việt Nam trong thời kỳ mới.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, khóa luận được chia thành 3 chương như sau:
Chương I. Lý thuyết chung về TBH
Chương II. Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam
Chương III. Những cơ hội và thách thức với thị trường TBH phi nhân thọ
trong thời kỳ hội nhập.
Cuối cùng, cho phép người viết được gửi lời cảm ơn chân thành đến Thạc sỹ
Phạm Thị Mai Khanh – giảng viên trường Đại học Ngoại Thương, người đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi trong quá trình viết khóa luận và đã đưa ra những góp ý quý báu để
bài khóa luận có thể tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Tuy vậy, do bản thân
người viết chỉ là một sinh viên không thuộc chuyên ngành bảo hiểm, thêm vào đó là
trình độ nghiên cứu còn hạn chế, khóa luận chắc hẳn không tránh khỏi nhiều sai sót.
Rất mong được các thầy cô chỉ bảo thêm.
Hà nội, tháng 11 năm 2006
Nguyễn Minh Thu
Lớp A2 K42A KTNT
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
6
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
CHƢƠNG I. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ TBH
I. CÁC KHÁI NIỆM CHUNG VỀ TBH
1.
TBH và sự ra đời của TBH
1.1 Lịch sử ra đời
TBH ra đời muộn hơn so với bảo hiểm. Những dấu hiệu cổ xưa nhất về
bảo hiểm đã xuất hiện từ thế kỷ thứ V trước công nguyên, nhưng TBH với vị
trí là một ngành bổ trợ chỉ hình thành khi bảo hiểm đã phát triển đến một mức
độ nhất định. Vào cuối thời trung cổ, hoạt động giao thương bằng thuyền vượt
đại dương đã diễn ra khá sôi nổi tại Châu Âu. Những chuyến đi biển dài ngày
chứa đựng vô vàn rủi ro và vì vậy các ông chủ thuyền buôn đã có thói quen
mua bảo hiểm cho tàu và hàng trước mỗi chuyến đi, các tổ chức kinh doanh
bảo hiểm vào thời này cũng đã xuất hiện và hoạt động kinh doanh của họ đều
tập trung vào bảo hiểm hàng hải.
Bản giao ước cổ nhất có tính chất pháp lý như một hợp đồng bảo hiểm
được ký kết vào năm 1370 tại Genoa – Italy. Khi đó, một nhà bảo hiểm có tên
Guilano Grillo sau khi nhận bảo hiểm cho một con tàu chở hàng đi từ Genoa
đến Sluys đã ký tiếp một hợp đồng TBH toàn bộ đoạn hành trình nguy hiểm
nhất từ Cadiz qua vịnh Biscay dọc bờ biển nước Pháp cho hai nhà bảo hiểm khác là Gofferdo Benaina và Martino Sacco.1
Trong những năm sau đó, những thỏa thuận kiểu này xuất hiện ngày
càng nhiều đặc biệt là trong đầu thế kỷ XVIII khi trung tâm thương mại
chuyển dần từ Địa Trung Hải đến Bắc Âu, ngành hàng hải Anh lớn mạnh
nhanh chóng, kéo theo nhu cầu về bảo hiểm và TBH hàng hải gia tăng. TBH
trong thời kỳ này đã bị các nhà bảo hiểm gốc lạm dụng đến mức chính phủ
1 Edwin W. Kopf – Note on the origin and development of reinsurance
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
7
Hoàng Gia Anh phải ra lệnh cấm hoạt động TBH hàng hải từ năm 1746 đến
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
năm 1864. Tuy nhiên các hoạt động TBH vẫn phát triển ở những mảng nghiệp
vụ khác như bảo hiểm cháy, bảo hiểm nhân thọ; TBH hàng hải cũng chuyển
phạm vi sang các nước khác như Đức, Áo, Thụy Sỹ...
Và cũng chính trong thời kỳ này, tại nước Đức, hợp đồng TBH cố định
đầu tiên (treaty) được ra đời vào năm 1825 cho nghiệp vụ TBH cháy. Trước
đó, các hợp đồng TBH tạm thời, và đồng bảo hiểm vẫn chiếm ưu thế. Các nhà
bảo hiểm gốc thường cũng chính là những nhà TBH, họ cung cấp dịch vụ
TBH cho các nhà bảo hiểm trong và cả ngoài nước Đức. Cho đến năm 1852,
Công ty TBH đầu tiên là Cologne Reinsurance mới được thành lập bởi ông
Mevissen. Chỉ trong 3 năm đầu thành lập, công ty này đã nhanh chóng mở
rộng hoạt động kinh doanh của mình ra các nước Đức, Áo, Thụy Sỹ, Bỉ, Hà
Lan.... Sự ra đời của Cologne đã đánh dấu một bước ngoặt trong việc kinh
doanh tái bao hiểm. Từ thời điểm này, TBH đã chính thức trở thành một
ngành kinh doanh độc lập và có hệ thống. Sau Cologne là sự ra đời của hàng
loạt các công ty TBH chuyên nghiệp khác:
Công ty TBH Thụy Sĩ (Swiss Re) năm 1863.
Công ty TBH London (London Guarantee Reinsurance Co.,Ltd)
năm 1869.
Công ty TBH Munich (Munchenes Ruck AG) năm 1880.2
Việc thành lập các công ty TBH chuyên nghiệp là một sự kiện có tính
chất quan trọng trong việc phát triển của ngành bảo hiểm. Bằng cách TBH,
các công ty bảo hiểm đã có sẵn trong tay nguồn đảm bảo đắc lực cho hoạt
động kinh doanh của họ. Do đó, khả năng cạnh tranh của các công ty bảo
hiểm gốc và khả năng phục vụ của các công ty TBH cũng được cải tiến bằng
việc mở rộng TBH cho các loại hình bảo hiểm với các thị trường bảo hiểm
nước ngoài. Hai cuộc chiến tranh thế giới làm ảnh hưởng tới sự phát triển của
2 PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
8
ngành bảo hiểm nói chung và TBH nói riêng, nhất là các công ty TBH ở Đức.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Đặc biệt là chiến tranh thế giới lần thứ II đã ảnh hưởng đến nền kinh tế các
nước là rất lớn, làm cho hoạt động bảo hiểm và TBH bị ngưng trệ, thậm chí ở
một số nước, nhà cầm quyền còn trưng dụng cả quỹ bảo hiểm để phục vụ
chiến tranh. Vì vậy mà hoạt động TBH gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên,
hoạt động bảo hiểm và TBH ở Thụy Sĩ vẫn rất phát triển.
Sau chiến tranh thế giới lần thứ II, cục diện Thế giới đã thay đổi, hệ
thống xã hội chủ nghĩa đã ra đời và phát triển, phong trào giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa giành nhiều thắng lợi, kinh tế các nước tư bản chủ nghĩa
bị khủng hoảng đã ảnh hưởng rất nhiều tới hoạt động TBH. Cụ thể là thời kỳ
này hoạt động TBH trên thế giới có 3 đặc điểm sau:
Sự phục hồi các công ty TBH của cộng hoà liên bang Đức.
Thành lập các công ty TBH của các nước xã hội chủ nghĩa với đặc
điểm thực hiện độc quyền về TBH và hạn chế các mối quan hệ với
các nước tư bản.
Các nước chậm phát triển mới giành độc lập cũng thực hiện độc
quyền TBH như Achentina, Brazil, Chile, Thổ Nhĩ Kỳ, Ai Cập và
một số nước ở Châu Phi, Đông Nam Á... làm thu hẹp thị trường
TBH quốc tế.
Ngày nay, đã phát triển rất mạnh mẽ, rộng khắp và trở thành một hệ
thống mang tính quốc tế cao cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Chắc chắn rằng với những đặc điểm riêng có của mình, hoạt động TBH trên
phạm vi toàn cầu nói chung sẽ ngày càng phát triển hơn nữa cũng như ngày
càng biến chuyển phù hợp hơn với yêu cầu đặt ra của một nền kinh tế toàn
cầu hội nhập, cởi mở nhưng cũng hết sức khó tính.
1.2 Sự cần thiết khách quan của TBH
Trước tiên người viết xin khẳng định lại vai trò của bảo hiểm trong nền
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
9
kinh tế hiện nay. Ngay từ khi con người biết sản xuất và có của cải thặng dư,
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
người ta đã có nhu cầu đảm bảo tài sản của họ khỏi những rủi ro không lường
trước được và điều đó chính là tiền đề cho sự xuất hiện của ngành bảo hiểm
trong hơn một thiên niên kỷ trước. Ngày nay, khi lượng của cải xã hội ngày
càng nhiều, và sản xuất không ngừng mở rộng, nhu cầu này trở nên phổ biến
hơn bao giờ hết. Thêm vào đó, tình hình kinh tế xã hội toàn cầu nói chung và
tại Việt Nam nói riêng đang tiềm ẩn những bất ổn từ nhiều phía: bất ổn chính
trị, khủng bố, thiên tai.... Trong thời đại toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, một
tổn thất dù xảy ra tại bất kỳ điểm nào trên thế giới ngày càng phẳng này cũng
có thể làm ngưng trệ cả chuỗi giá trị toàn cầu. Điều đó lý giải tại sao quỹ bảo
hiểm tại các nước phát triển nhất thế giới hiện nay lên đến 10% GDP.
Bảo hiểm và TBH có mối liên hệ rất chặt chẽ. Bảo hiểm là tiền đề của
TBH, và ngược lại TBH giúp bảo hiểm mở rộng phạm vi của mình. Trong
quá trình kinh doanh các công ty bảo hiểm thường xuyên bị đe dọa phá sản
bởi nhiều nguyên nhân như:
Do đối tượng tham gia bảo hiểm có giá trị quá lớn mà khả năng tài
chính của công ty bảo hiểm lại có hạn. Điều này đặc biệt phổ biến ở các
nền kinh tế đang phát triển, nơi có hệ thống tài chính còn yếu kém.
Do nhiều tổn thất lớn xảy ra liên tục trong một thời gian ngắn vì tác
động của thiên tai, lụt lội, đặc biệt là trong bối cảnh khí hậu toàn biến
chuyển ngày càng xấu, tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường.
Do phương pháp và kỹ thuật xác định phí bảo hiểm không chính xác,
thu không đủ bù chi dẫn đến phá sản.
Do đối tượng tham gia bảo hiểm hoạt động ở địa bàn quá xa, công ty
không đủ khả năng kiểm soát và quản lý rủi ro.
Để đối phó với nguy cơ phá sản mà vẫn tiếp tục nhận được các đơn bảo
hiểm với giá trị lớn, các công ty bảo hiểm đã phải tìm cách chia sẻ rủi ro với
nhau. Có hai phương pháp được các nhà bảo hiểm áp dụng là đồng bảo hiểm
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
10
và TBH.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Đồng bảo hiểm là việc nhiều công ty bảo hiểm cùng bảo hiểm cho một
đối tượng tham gia, như vậy mỗi công ty chỉ phải chịu một phần rủi ro nếu
đối tượng tham gia bảo hiểm gặp tổn thất. Tuy nhiên hình thức này có hai
nhược điểm lớn là:
Việc kí hợp đồng thường kéo dài do đặc thù của loại hợp đồng này là
hợp đồng đa bên nên đòi hỏi đàm phán nhiều, gây khó khăn và tốn
kém, làm mất cơ hội kinh doanh của người tham gia.
Nếu tổn thất xảy ra, việc bồi thường rất khó tập trung dẫn đến tình
trạng đối tượng tham gia bảo hiểm nghi ngờ khả năng tài chính của
công ty bảo hiểm.
TBH đã khắc phục được hai nhược điểm trên của đồng bảo hiểm.
Trong hình thức này công ty bảo hiểm ban đầu là công ty gốc (hay công ty
nhượng TBH) đóng vai trò người tham gia bảo hiểm trong hợp đồng TBH,
các công ty còn lại là các công ty TBH (hay công ty nhận TBH). Nhờ có hình
thức TBH này mà các công ty bảo hiểm sẽ được đảm bảo an toàn tài chính và
có thể bảo hiểm cho các rủi ro có giá trị lớn thông qua việc chuyển bớt trách
nhiệm bảo hiểm và rủi ro sang công ty TBH. Ngoài ra các công ty bảo hiểm
tiến hành TBH để nhận được sự trợ giúp của công ty bảo hiểm về mặt kỹ
thuật tính phí, đánh giá rủi ro, giải quyết bồi thường và hỗ trợ nhân viên của
mình….
Như vậy, sự ra đời của TBH là một tất yếu khách quan nhằm mục đích
thúc đẩy sự phát triển hơn nữa của thị trường bảo hiểm, góp phần đảm bảo
cho nền kinh tế toàn cầu giữ được ổn định và phát triển
1.3 Khái niệm, ưu nhược điểm
1.3.1 Khái niệm.
TBH là một loại nghiệp vụ mà người bảo hiểm sử dụng để chuyển một
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
11
phần trách nhiệm đã chấp nhận với người được bảo hiểm cho người bảo hiểm
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
khác, trên cơ sở nhượng lại cho người bảo hiểm đó một phần phí bảo hiểm thông qua hợp đồng TBH.3
Thực tế TBH được hình thành trên cơ sở bảo hiểm gốc nên nó luôn gắn
liền với nghiệp vụ bảo hiểm gốc
Như vậy, nếu như bảo hiểm là hình thức dàn trải tổn thất của một ít
người cho nhiều người cùng chịu thì TBH là hình thức dàn trải một lần nữa
những tổn thất mà các công ty bảo hiểm phải gánh chịu. Nói cách khác, TBH
là bảo hiểm cho các nhà bảo hiểm.
TBH được chia thành hai phần tùy theo góc độ nghiên cứu là: TBH đi
và TBH nhận.
TBH đi (Outward Reinsurance): hay còn gọi là nhượng TBH tức là một
công ty bảo hiểm gốc (là công ty khai thác dịch vụ bảo hiểm trực tiếp từ
khách hàng) phân tán rủi ro cho các công ty TBH . Trong trường hợp này
công ty bảo hiểm gốc phải chuyển bớt một phần phí cho các công ty TBH và
nhận được từ họ yếu tố đảm bảo và ổn định kinh doanh của mình.
Quá trình ngược lại được gọi là TBH nhận (Inward Reinsurance) hay
còn gọi là nhận TBH.
1.3.2 Quan hệ giữa các bên tham gia
Trong một nghiệp vụ TBH cơ bản có những bên tham gia chính sau:
Ngƣời đƣợc bảo hiểm: là người ký kết hợp đồng bảo hiểm thông
thường với công ty bảo hiểm gốc để bảo hiểm cho đối tượng được bảo
hiểm khỏi những rủi ro được xác định trong hợp đồng bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm gốc: là công ty cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho
3 PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
12
người được bảo hiểm, thu phí bảo hiểm và nhận trách nhiệm bồi
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
thường cho người được bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra với đối tượng
bảo hiểm như trong hợp đồng.
Công ty TBH: là công ty ký hợp đồng TBH với công ty bảo hiểm gốc,
nhận một phần phí bảo hiểm của công ty bảo hiểm gốc nhượng sang và
đảm bảo chi trả một phần trách nhiệm tương ứng với phần phí nhượng
sang đó. Ngoài ra công ty TBH còn trả hoa hồng khai thác cho công ty
bảo hiểm gốc. Trong một thương vụ bảo hiểm có thể có hơn một nhà
TBH tham gia.
Ngoài ra còn có thể kể đến sự góp mặt của các công ty môi giới bảo
hiểm, các công ty đồng bảo hiểm và công ty TBH của các công ty TBH
nói trên (nếu nhà TBH tiếp tục nhượng tái một phần rủi ro cho một nhà
tái khác).
Như vậy có hai hợp đồng bảo hiểm tồn tại song song trong một thương
vụ liên quan đến tái bảo hiểm: hợp đồng bảo hiểm gốc ký giữa người tham
gia bảo hiểm và nhà bảo hiểm gốc; và hợp đồng TBH ký giữa nhà bảo hiểm
gốc và nhà TBH. Đây là hai hợp đồng có nghĩa vụ và trách nhiệm riêng biệt,
song hợp đồng TBH chỉ có thể tồn tại dựa trên một hợp đồng bảo hiểm gốc.
Nói cách khác, hợp đồng bảo hiểm gốc là tiền đề cho hợp đồng TBH.
1.3.3 Ƣu, nhƣợc điểm của TBH
Ưu điểm: tạo tâm lý an toàn cho các công ty bảo hiểm, cân bằng các
dịch vụ bảo hiểm, bảo vệ các dịch vụ đó khỏi ảnh hưởng của các sự cố lớn có
tính thảm họa, đảm bảo về mặt tài chính cho các công ty bảo hiểm.
Nhược điểm: TBH có liên quan đến việc chuyển một phần, thậm chí là
một phần lớn phí bảo hiểm cho các công ty TBH. Do đó, TBH có thể làm tăng
hoặc giảm một cách đáng kể chỉ tiêu tài chính của một công ty bảo hiểm.
2.
Tác dụng của TBH
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
13
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Tại các phần trước của chương này, người viết đã hơn một lần khẳng
định vai trò quan trọng của TBH trong ngành bảo hiểm nói chung và trong
nền kinh tế nói riêng. Dưới đây, người viết xin trình bày rõ hơn về tác dụng
của TBH cho từng đối tượng cụ thể
2.1 Với công ty nhượng TBH (Cendant)
Tác dụng đầu tiên là TBH giúp cho công ty nhượng TBH tăng khả năng
nhận bảo hiểm và có thể nhận bảo hiểm những rủi ro lớn mà không cần tăng
thêm vốn. Công ty nhượng TBH có thể kinh doanh dựa vào vốn của công ty
nhận TBH. Nếu không có TBH thì công ty nhượng chỉ có thể nhận bảo hiểm
cho những rủi ro tương đương với số vốn của mình.
Thứ hai, TBH giúp công ty nhượng có thể phân tán rủi ro một cách
rộng rãi, đặc biệt là các thảm họa tự nhiên có thể đe doạ cho nền kinh tế quốc
dân như động đất, bão lụt …
Thứ ba, là TBH giúp đảm bảo khả năng thanh toán tiền bồi thường
trong trường hợp xảy ra những thiệt hại lớn hay những rủi ro mang tính thảm
họa. Nhờ đó tình hình tài chính cả công ty nhượng TBH được đảm bảo tính
ổn định hơn.
Thứ tư, TBH có thể giúp người bảo hiểm sửa chữa tính bất thường, đột
biến của rủi ro. Người bảo hiểm cũng có thể nhận được sự tư vấn nghiệp vụ từ
những nhà nhận TBH.
Cuối cùng, sau khi chuyển phần phí TBH cho công ty nhận TBH, công
ty bảo hiểm gốc còn nhận được một khoản tiền hoa hồng cho các dịch vụ mà
mình khai thác được. Nhiều khi đây là yếu tố quan trọng để các công ty bảo
hiểm gốc quyết định sẽ ký hợp đồng TBH với công ty TBH nào.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
14
2.2 Với người được bảo hiểm (Insured)
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Người được bảo hiểm sẽ được đảm bảo rằng số tiền tổn thất sẽ được
thanh toán khi số tiền bảo hiểm và số tiền tổn thất là quá lớn.
Nghiệp vụ TBH sẽ hạn chế xu hướng gia tăng phí bảo hiểm vì nếu
không có TBH thì công ty bảo hiểm gốc sẽ phải thu một khoản phí bảo hiểm
rất lớn để đề phòng bị phá sản khi có thảm hoạ xảy ra.
2.3 Với công ty nhận TBH (Reinsurer).
Đối với công ty nhận TBH chuyên nghiệp: Một công ty nhận TBH
chuyên nghiệp thường có một nhóm các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực bảo
hiểm và TBH khác nhau. Đối với các công ty này, việc nhận TBH là vấn đề
sống còn của họ và đó cũng là công việc chính để họ sử dụng nguồn vốn và
kỹ thuật chuyên môn nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Nhận TBH cũng là nghiệp vụ không thể thiếu đối với bất kỳ một công
ty bảo hiểm nào vì:
- Nhận TBH giúp cho công ty bảo hiểm có thể tăng thêm thu nhập
- Giảm tỷ trọng chi phí quản lý
- Có thể dùng phí TBH thu được để đầu tư thu lợi nhuận
- Việc nhận TBH xét trên phương diện quốc tế có thể coi là chiếc cửa
sổ mà thông qua đó công ty nhận TBH biết được sự phát triển của
thị trường bảo hiểm và thị trường TBH Thế giới.
2.4 Với nền kinh tế quốc dân
Hoạt động TBH diễn ra giữa nhiều tổ chức TBH của nhiều nước. Như
vậy, một thiệt hại có tính thảm họa ở một nước thông qua TBH sẽ được bù
đắp từ những khoản tiền bồi thường mang tính quốc tế. Tổn thất được phân
tán trên một phạm vi rộng, việc gánh chịu trở nên dễ dàng hơn.
3. Nguyên tắc pháp lý trong bảo hiểm
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
15
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Hợp đồng TBH chỉ có thể được thiết lập và tồn tại khi có một hợp đồng
bảo hiểm đang có hiệu lực. Hay nói cách khác là không thể có hợp đồng TBH
nếu không có hợp đồng bảo hiểm gốc. Có một định nghĩa rất cổ điển về TBH
do luật gia nổi tiếng Lord Man – Field’s đưa ra vào năm 1807: “TBH là một
sự đảm bảo mới, bị chi phối bởi một đơn bảo hiểm mới, cho cùng một rủi ro
đã được bảo hiểm trước, nhằm bồi thường cho người được bảo hiểm theo mức thoả thuận và cả hai đơn bảo hiểm phải tồn tại đồng thời”4. Định nghĩa
này đã chỉ rõ rằng:
- Hợp đồng TBH cũng mang tính chất như một hợp đồng bảo hiểm.
- Người được bảo hiểm gốc là người thứ ba trong hợp đồng TBH.
- Hợp đồng bảo hiểm gốc và hợp đồng TBH phải tồn tại song song.
Như vậy có nghĩa là nếu công ty nhận TBH bị phá sản thì công ty
nhượng TBH vẫn có trách nhiệm đối với toàn bộ số tiền bảo hiểm ghi trên
đơn bảo hiểm. Nhưng nếu công ty nhượng TBH bị phá sản thì người được
bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm gốc không có quyền khiếu nại đối với
công ty nhận TBH. Tuy nhiên, hệ thống luật Anh – Mỹ vẫn cho phép người
được bảo hiểm gốc có quyền được hưởng bồi thường trực tiếp từ người nhận
TBH trong một số trường hợp đặc biệt nhưng phải có điều khoản “ Cut –
through clause” trong hợp đồng TBH. Điều khoản này cho phép người được
bảo hiểm gốc có thể trực tiếp yêu cầu công ty nhận TBH thanh toán một phần
tổn thất trong trường hợp công ty bảo hiểm không có khả năng thanh toán
hoặc bị phá sản.
Mọi nguyên tắc pháp lý áp dụng cho hợp đồng bảo hiểm cũng đều được
áp dụng tương tự cho hợp đồng TBH giữa công ty nhượng và nhận TBH.
Nguyên tắc tín nhiệm tuyệt đối (The Utmost Good Faith) là nét đặt
4 PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến – Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
16
trưng trong TBH. Trong hợp đồng TBH, nguyên tắc này phải đặc biệt được
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
tôn trọng. Cụ thể là công ty nhượng TBH phải cung cấp đầy đủ mọi thông tin
liên quan tới đối tượng bảo hiểm cho công ty nhận TBH biết, nếu có rủi ro
xảy ra thì phải thông báo và tính toán tổn thất một cách trung thực. Ngược lại,
công ty nhận TBH cũng phải trung thực trong việc đưa ra những thống kê tổn
thất trên thị trường thế giới để tính đúng phí bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường (Principle of Indemnity) cho phép công ty
nhượng TBH được toàn quyền hành động trong việc giải quyết khiếu nại, trừ
khi có quy định khác trong hợp đồng TBH. Kết quả của việc giải quyết khiếu
nại sẽ được công ty nhận TBH chấp thuận. Tuy nhiên, theo nguyên tắc này,
khi công ty nhượng TBH muốn đòi bồi thường từ công ty nhận TBH thì phải
chứng minh được tổn thất rơi vào phạn vi họp đồng TBH. Cách thức tính toán
và thanh toán bồi thường tuỳ thuộc vào từng phương thức TBH và điều khoản
thanh toán được quy định cụ thể trong hợp đồng.
TBH
TBH cè ®Þnh
TBH t¹m thêi
Ph ¬ng thøc TBH
TBH phi tû lÖ
T¸i bao hiÓm theo tû lÖ
TBH møc d«i (surplus)
TBH sè thµnh (quota share)
TBH v ît tû lÖ båi th êng (stop loss)
TBH v ît møc båi th êng (Excesss of loss)
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
17
II. PHÂN LOẠI TBH
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
1.
Phân loại theo hình thức TBH
Có 2 hình thức TBH chính là TBH tạm thời và TBH cố định. Xét về
xuất xứ thì TBH tạm thời ra đời trước, tuy nhiên hình thức này dần bộc lộ
nhiều nhược điểm khiến nó được sử dụng ít đi và thay vào đó là hình thức
TBH cố định. Ngoài ra còn có một hình thức TBH nữa là sự kết hợp giữa 2
hình thức trên gọi là TBH lựa chọn-bắt buộc.
1.1 TBH tạm thời (Facultative Reinsurance)
1.1.1 Khái niệm
TBH tạm thời hay còn gọi là TBH tuỳ ý lựa chọn, là hình thức TBH cơ
bản và cổ điển nhất. Theo hình thức này, công ty bảo hiểm gốc chuyển
nhượng cho công ty TBH từng dịch vụ hay từng đơn bảo hiểm một cách riêng
lẻ. Về phần mình, công ty TBH có quyền nhận hay từ chối dịch vụ và đơn bảo
hiểm đó. Công ty bảo hiểm gốc có toàn quyền quyết định TBH cho dịch vụ
nào, với tỷ lệ bao nhiêu, cho công ty TBH nào là tuỳ họ. Mặt khác công ty
TBH có quyền nhận hay từ chối hoặc chỉ nhận TBH với một tỷ lệ mà họ cho
là thích hợp.
Công ty bảo hiểm gốc có nghĩa vụ phải cung cấp cho công ty TBH mọi
thông tin có liên quan đến dịch vụ được bảo hiểm. Trên thực tế nhà TBH cũng
tiến hành đánh giá mức độ rủi ro của dịch vụ rồi quyết định có nhận TBH hay
không mà không cần đầy đủ các chi tiết.
1.1.2 Ưu nhược điểm
* Ưu điểm:
Cho phép các công ty bảo hiểm nhỏ, với kinh nghiệm tương đối hạn
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
18
chế có thể cạnh tranh để nhận những dịch vụ lớn nằm ngoài khả năng
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
của mình, bởi vì họ có thể sử dụng được chuyên môn nghiệp vụ và khả
năng vốn của các thị trường TBH quốc tế.
Cho phép công ty bảo hiểm gốc nhận những dịch vụ nằm ngoại phạm
vi khai thác thông thường của mình. Những dịch vụ như vậy chủ yếu là
theo yêu cầu đặc biệt của khách hàng mà công ty bảo hiểm gốc phải
chấp nhận để giữ uy tín cho mình.
Một nhóm các công ty bảo hiểm gốc có quan hệ thân thiết có khả năng
trao đổi các rủi ro được đánh giá là tốt trên cơ sở tạm thời để tiến hành
phân tán rủi ro và đảm bảo doanh thu ổn định.
* Nhược điểm
Đòi hỏi nhiều thời gian vì mỗi dịch vụ phải được giải quyết riêng lẻ.
Công ty bảo hiểm gốc phải thu xếp TBH tạm thời trước khi nhận một
dịch vụ, do đó việc quyết định nhận bảo hiểm sẽ bị chậm lại cho đến
khi thu xếp xong toàn bộ TBH tạm thời. Như vậy, công ty bảo hiểm
gốc có khả năng phải nhường dịch vụ cho những đối thủ cạnh tranh lớn
mạnh hơn, hoặc nhận bảo hiểm mà không được bảo vệ đầy đủ bằng
TBH và đôi khi làm mất thiện chí với khách hàng do chậm trễ.
Những công việc liên quan đến đàm phán, soạn thảo hợp đồng và thanh
toán rất tốn kém và do đó giảm lợi nhuận thu được.
Trước mỗi thời kỳ TBH tiếp tục, công ty bảo hiểm gốc lại phải lặp lại
toàn bộ quy trình đàm phán trước khi trao đổi với khách hàng của
mình. Chưa kể việc hủy bỏ hay thay đổi có thể gây ra thêm nhiều công
việc khác không cần thiết.
Sự cần thiết phải tiết lộ những thông tin về dịch vụ nhận bảo hiểm có
thể dẫn đến việc rò rỉ tin tức cho các đối thủ cạnh tranh.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
19
1.1.3 Trường hợp áp dụng hình thức TBH tạm thời
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Mặc dù TBH tạm thời xuất hiện cùng với sự ra đời của bảo hiểm và có
những nhược điểm như trên, song ngày nay nó vẫn được sử dụng trong một số
trường hợp.
Nhà bảo hiểm gốc không hiểu biết đầy đủ về một loại rủi ro nào đó và
yêu cầu công ty TBH giúp đỡ. Khi ấy nhà TBH sẽ là người xác định
mức phí, các điều khoản và điều kiện bảo hiểm cũng như những hạn
chế cần thiết cho dịch vụ của nhà bảo hiểm gốc.
Những thỏa thuận TBH tự động hiện có của công ty bảo hiểm gốc
không bao gồm một số rủi ro hay một phần những rủi ro nào đó. Nếu
nhà bảo hiểm gốc vẫn quyết định nhận bảo hiểm cho rủi ro đó thì phải
tiến hành thu xếp TBH tạm thời.
Rủi ro nhận bảo hiểm có thể có giá trị vượt quá phạm vi những thỏa
thuận TBH tự động. Do đó phải thu xếp TBH tạm thời cho phần giá trị
vượt quá này.
Công ty bảo hiểm gốc cũng có thể muốn tránh không đưa những dịch
vụ có nguy cơ tổn thất cao vào những thỏa thuận TBH tự động hiện có
của mình. Do đó, họ phải tiến hành thu xếp TBH tạm thời trước để
giảm bớt khả năng tổn thất trước khi đưa vào hợp đồng TBH tự động.
1.2 TBH cố định (Treaty)
1.2.1 Khái niệm
TBH cố định hay còn gọi là TBH bắt buộc, là hình thức TBH mà theo
đó công ty nhượng phải nhượng cho nhà TBH tất cả các đơn vị rủi ro bảo
hiểm gốc mà hai bên đã thoả thuận và quy định trong hợp đồng. Ngược lại,
nhà TBH cũng buộc phải chấp nhận bảo hiểm toàn bộ các rủi ro đó.
1.2.2 Ưu, nhược điểm
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
20
* Ưu điểm:
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Giúp công ty nhượng chủ động chấp nhận, định phí bảo hiểm cho
rủi ro bảo hiểm gốc mà không phải mất thời gian tham khảo ý kiến
của của nhà TBH, do đó hợp đồng bảo hiểm sẽ nhanh chóng được
ký kết.
Công ty nhượng được nhà TBH bảo vệ cho mọi rủi ro thuộc phạm vi
hợp đồng, do đó khả năng an toàn của công ty bảo hiểm được đảm
bảo.
Việc nhận TBH theo hợp đồng cố định cho phép công ty TBH nhận
được nhiều dịch vụ hơn so với việc nhận từng hợp đồng tạm thời
đơn lẻ. Nhà TBH có điều kiện thu được phí lớn, phù hợp với nguyên
tắc "quy luật số đông" giúp nhà TBH có điều kiện đẩy mạnh tiến bộ
kỹ thuật của ngành bảo hiểm bằng việc chấp nhận rủi ro mới.
* Nhược điểm:
Thông thường TBH cố định có tính ổn định cho một giai đoạn nhất
định, do đó thiếu tính linh hoạt trước những thay đổi của công ty
chuyển nhượng.
Vì mọi rủi ro phải đem tái đi cho nên đứng về phía công ty nhượng
những đơn vị rủi ro có số tiền bảo hiểm nhỏ vẫn phải đem tái đi
trong khi khả năng tài chính của họ vẫn có khả năng đảm đương
được.
Nếu công ty nhượng thiếu kinh nghiệm, đặc biệt sơ suất việc ký kết
hợp đồng bảo hiểm gốc thì hậu quả đối với các nhà TBH rất khó
lường trước được.
1.2.3 Trường hợp áp dụng
Mang tính chất toàn diện nên hình thức này có thể áp dụng với tất cả
các loại nghiệp vụ. TBH cố định đã khắc phục được hầu hết các nhược điểm
của TBH tạm thời (phức tạp, và tốn kém) nên ngày nay TBH cố định ngày
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
21
càng được dùng phổ biến thay thế TBH tạm thời. Hầu hết các công ty bảo
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
hiểm hoạt động trên thị trường hiện nay đều có những hợp đồng TBH cố định
ký với một nhà TBH khác. Thực tế, chỉ khi nào trách nhiệm bảo hiểm vượt
quá giới hạn của hợp đồng cố định thì công ty bảo hiểm gốc mới thu xếp phần
vượt quá đó vào hợp đồng tạm thời.
1.3 TBH lựa chọn - bắt buộc (Facultative-Obligatory Reinsurance).
1.3.1 Khái niệm
TBH hiểm lựa chọn - bắt buộc là một hình thức bảo hiểm mà công ty
nhượng không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch vụ mà mình nhận bảo
hiểm, nhưng ngược lại nhà TBH bắt buộc phải chấp nhận các dịch vụ mà
công ty nhượng đã đưa vào thoả thuận này với điều kiện là những dịch vụ đó
phải phù hợp với nội dung và điều khoản đã qui ước của hợp đồng TBH thoả
thuận. Các bên tham gia hợp đồng TBH tuỳ ý lựa chọn- bắt buộc cần phải có
sự trung thực tuyệt đối để đảm bảo lợi ích cho các nhà nhận TBH.
1.3.2 Ưu, nhược điểm
* Ưu điểm:
Công ty nhượng TBH không bắt buộc phải nhượng tất cả những dịch
vụ mà mình nhận bảo hiểm. Họ có lựa chọn dịch vụ để chào TBH từng
phần trách nhiệm vượt quá khả năng giữ lại của mình cho một hoặc
một số nhà TBH mà họ lựa chọn, thay vì đem phân chia toàn bộ các
phần vượt quá khả năng ấy cho các nhà TBH. Tuy nhiên, công ty
nhượng không được lợi dụng hình thức TBH này để lựa chọn những rủi
ro xảy ra tổn thất đưa vào hợp đồng và giữ lại những rủi ro có độ an
toàn cao hơn. Để phòng ngừa trường hợp này xảy ra, nhà TBH phải
nắm được ý đồ của công ty nhượng, xem xét kỹ các rủi ro mà công ty
nhượng đem TBH và thường xuyên canh chừng diễn biến của thoả ước
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
22
mà mình đã ký kết.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Người nhận TBH có điều kiện thu được một nguồn phí TBH lớn hơn và
có phần thăng bằng hơn so với các hình thức TBH tạm thời.
Công ty nhượng TBH có điều kiện đem chào TBH bảo hiểm từng phần
trách nhiệm thặng dư so với khả năng tự giữ lại của mình cho một nhà
TBH duy nhất hay cho một số nhà TBH mà họ lựa chọn thay cho việc
phải đem phân chia tất cả phần thặng dư so với khả năng tự giữ lại của
mình cho các nhà TBH. Tuy nhiên, cách TBH như thế này thường chỉ
có thể thực hiện được bằng cách chào cho các nhà TBH có tiềm lực thật
lớn vì chỉ có họ mới có thể nhận các giá trị bảo hiểm cao.
* Nhược điểm:
Nhà TBH không có quyền từ chối nhưng rủi ro mà người TBH chuyển
cho họ. Tuy nhiên, những rủi ro đó phải phù hợp với nội dung và điều
khoản đã quy ước trong hợp đồng TBH cố định.
Hình thức này không thuận lợi lắm cho các nhà TBH, bởi vì nguồn dịch
vụ đưa vào hợp đồng này không thường xuyên và tổn thất gây ra rất
thất thường. Các bên tham gia hợp đồng cần phải có sự trung thực tuyệt
đối để đảm bảo cho các nhà TBH nhận được các dịch vụ hợp lý.
Trường hợp công ty nhượng có nhiều đơn vị rủi ro cần đem TBH thì
chi phí hành chính cho việc áp dụng hình thức này rất tốn kém.
1.3.3 Trường hợp áp dụng
Hình thức này thường được áp dụng khi khả năng nhận TBH trong các
hợp đồng số thành và mức dôi (xem phương thức TBH) đã không thể đáp ứng
được. Nó cũng được áp dụng trong trường hợp rủi ro giá trị lớn hoặc các dịch
vụ mà hợp đồng TBH số thành và mức dôi không cho phép đưa vào 100%
giới hạn trách nhiệm của hợp đồng.
2.
Phân loại theo phƣơng thức TBH
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
23
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
TBH theo tỷ lệ (TBH theo số tiền bảo hiểm).
TBH phi tỷ lệ (TBH theo mức bồi thường).
2.1 TBH theo tỷ lệ
TBH theo tỷ lệ hay còn gọi là TBH theo số tiền bảo hiểm, là phương
thức TBH mà trong đó trách nhiệm của công ty nhượng tái bảo hiểm và nhà
TBH đối với đơn vị rủi ro được bảo hiểm phân bố theo tỷ lệ tham gia của mỗi
bên trên cơ sở số tiền được bảo hiểm. Phương thức này được chia làm hai
loại:
TBH số thành.
TBH mức dôi.
2.1.1 TBH số thành - Quota share
Trong phương thức này, công ty nhượng buộc phải nhượng và công ty
nhận buộc phải nhận một tỷ lệ (thường được thể hiện dưới dạng đơn vị phần
trăm) đã ấn định trước đối với tất cả các dịch vụ mà công ty nhượng khai thác
được, trong mỗi loại hình đã được thỏa thuận. Thông thường có một mức giới
hạn cho số tiền bảo hiểm tối đa với tỷ lệ phân chia đã ấn định trước. Phí bảo
hiểm và trách nhiệm bồi thường được chia sẻ giữa công ty nhượng và nhà
TBH theo theo tỷ lệ tham gia của mỗi bên và số tiền bảo hiểm.
Ví dụ:
Công ty bảo hiểm A thu xếp một hợp đồng TBH số thành cho các đơn
bảo hiểm xe cơ giới với công ty TBH B trong năm 2006. Trong năm đó, phí
bảo hiểm mà công ty A thu được là 10 triệu USD và tổn thất phải trả cho
người được bảo hiểm là 6 triệu USD. Phí nhượng tái và mức đòi bồi thường
đơn vị: triệu USD
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
24
nhà TBH trong trường hợp này được tính như sau:
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
1 Phí bảo hiểm gốc
10
2 Phí nhượng tái (25%)
2.5
3 Bồi thường bảo hiểm gốc
6
4 Đòi bồi thường từ TBH (25%)
1.5
Như vậy trong thương vụ này, công ty bảo hiểm A giữ lại được 7.5
triệu USD tiền phí bảo hiểm gốc và phải trả bồi thường là 4.5 triệu USD.
* Đối với công ty nhượng TB
Ưu điểm: Công việc tính toán đơn giản, chi phí quản lý thấp, hoa hồng
cao hơn so với tất cả các loại hợp đồng TBH khác do tính chất rủi ro được dàn
trải nhiều hơn, hợp đồng thường có lợi nhuận cao hơn nên vì vậy người nhận
TBH trả cho công ty nhượng TBH mức hoa hồng cao hơn.
Nhược điểm: Công ty nhượng TBH không có lựa chọn trong việc giữ
lại nên phải TBH cả những rủi ro nhỏ có thể giữ lại, làm giảm đáng kể doanh
thu của công ty nhượng tái. Bên cạnh đó, hợp đồng TBH số thành không hạn
chế được trách nhiệm tuyệt đối với công ty bảo hiểm gốc, vì thế nếu có tổn
thất lớn xảy ra trong năm thì công ty bảo hiểm gốc sử dụng loại hình TBH
này vẫn không thể giảm thiểu đáng kể rủi ro về phía mình.
* Đối với công ty nhận TBH
Ưu điểm: Khả năng nhận TBH và tỷ lệ chia lãi của người nhận TBH
luôn lớn hơn so với các loại hợp đồng khác.
Nhược điểm: Công ty nhận TBH phải trả một mức hoa hồng cao hơn
các hợp đồng TBH khác.
2.1.2. TBH mức dôi - Surplus
Đặc trưng của của TBH mức dôi là công ty nhượng ấn định mức giữ lại
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
25
(mức trách nhiệm giữ lại) tuyệt đối, số dôi ra tái đi. Phần tái đi được thu xếp
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
bằng một số lần của mức giữ lại. Do đó phí bảo hiểm và số tiền bảo hiểm bồi
thường vẫn được phân bổ theo tỷ lệ tương ứng giữa công ty nhượng tái và nhà
TBH (vì vậy vẫn là phương thức TBH theo tỷ lệ). Nhà nhượng tái được quyền
chọn mức giữ lại tùy theo loại rủi ro.
Ví dụ:
Một công ty bảo hiểm A ký kết hợp đồng TBH mức dôi với công ty
bảo hiểm B nghiệp vụ bảo hiểm cháy: mức giữ lại của A là 10 triệu USD và
hợp đồng TBH 5 lines (10 lần). Trong năm kinh doanh, công ty A đã cấp các
đơn bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lần lượt là: 9 triệu USD, 15 triệu USD, 45
triệu USD và 75 triệu USD. Mức phí bảo hiểm tái đi và tỷ lệ tái được tính như
đơn vị: triệu USD
Số tiền hiểm gốc 9 15 45 75
Số tiền bảo hiểm giữ lại 9 10 10 10
Số tiền bảo hiểm tái đi 0 5 35 50
Tỷ lệ tái 0% 33% 78% 66.67%
Số lần (lines) 0 line 0.5 lines 3.5 lines 5 lines (*)
sau:
(*) Trong trường hợp cuối với số tiền bảo hiểm là 75 triệu USD, số tiền bảo
hiểm tái đi không thể vượt quá số lines đã thỏa thuận (5 lines - tức 50 triệu
USD), nên sau khi tái theo hợp đồng surplus, công ty A vẫn phải giữ lại thêm
một phần trách nhiệm là 15 triệu USD.
Nhìn vào ví dụ trên có thể thấy tuy cũng là TBH theo tỷ lệ nhưng tỷ lệ
TBH trong hợp đồng mức dôi đã linh hoạt hơn nhiều. Với những đơn bảo
hiểm nhỏ, công ty nhượng tái có thể giữ lại toàn bộ cho mình còn với những
đơn lớn hơn, công ty bảo hiểm gốc vẫn có thể ổn định được mức giữ lại phù
hợp với khả năng tài chính của công ty. Tuy vậy, để có thể tính toán hợp lý
mức giữ lại cho mỗi loại rủi ro, công ty bảo hiểm gốc cần phải có kinh
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
26
nghiệm và trình độ cũng như có một nền số liệu phân tích đáng tin cậy. Điều
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
này không hề đơn giản với những nước chưa có điều kiện áp dụng công nghệ
thông tin vào quản lý và thống kê bảo hiểm.
Về phía nhà TBH, việc đảm bảo cân đối khi nhận TBH trở nên khó
khăn hơn. Trong nhiều trường hợp, tỷ lệ trách nhiệm và số phí thu được là rất
lớn. Vì thế các nhà TBH thường giới hạn số lines (chính là bội số tối đa của
mức giữ lại) trong các hợp đồng bảo hiểm mức dôi (xem trường hợp cuối
cùng trong ví dụ trên). Bên cạnh đó, nhà TBH cũng phải lợi dụng quy luật số
nhiều, nhận nhiều hợp đồng bảo hiểm để cân bằng tài chính cho mình.
2.2 TBH phi tỷ lệ
TBH phi tỷ lệ hay còn gọi là TBH theo mức bồi thường bảo hiểm, là
một phương thức TBH mà trong đó công ty nhượng TBH ấn định giới hạn bồi
thường bằng một số tiền mà họ có thể tự gánh chịu cho tổn thất, là hậu quả
của từng sự cố đối với một hoặc nhiều loại bảo hiểm mà mình đảm trách, còn
phần tổn thất vượt quá mức giới hạn đó được chuyển cho nhà TBH gánh chịu.
Các phương thức TBH theo tỷ lệ liên quan đến các mức tỷ lệ của giá trị đối
tượng chịu rủi ro. Trong khi các phương thức TBH phi tỷ lệ nhìn nhận theo
cách khác và được dựa trên các tổn thất chứ không phải là số tiền bảo hiểm.
Có hai phương thức TBH cơ bản sau:
TBH vượt mức bồi thường.
TBH vượt tỷ lệ bồi thường.
2.2.1 TBH vượt mức bồi thường - Excess of Loss
TBH vượt mức bồi thường là phương thức trong đó công ty TBH đồng
ý bồi thường cho công ty bảo hiểm gốc phần tổn thất vượt quá giới hạn nào
đó cho một rủi ro hay một sự cố. Theo phương pháp này, các bên thỏa thuận
là công ty nhượng TBH thanh toán số tiền cố định đầu tiên cho các tổn thất
phát sinh từ một sự cố và công ty nhận TBH thanh toán số tiền vượt quá mức
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
27
bồi thường giữ lại.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Trong phương thức TBH vượt mức bồi thường có thể phân ra thành hai
loại nhỏ hơn:
TBH vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ: theo hợp đồng TBH
vượt mức bồi thường đảm bảo nghiệp vụ, nhà TBH sẽ bồi thường cho
một tổn thất bất kỳ của một đơn vị rủi ro vượt quá phần tổn thất giữ
lại của công ty bảo hiểm gốc và trong phạm vi giới hạn định mức. Phần
tổn thất này phải được xác định vào thời điểm bắt đầu ký kết hợp đồng.
TBH vượt mức bồi thường tích tụ rủi ro: (Cat XOL) hợp đồng này bảo
hiểm cho nhiều tổn thất do một sự cố đơn nhất xảy ra, ví dụ như một
trận động đất, một cơn bão hay những thiên tai khác. Theo hợp đồng
này, công ty nhượng tái có thể gộp tất cả các tổn thất phát sinh từ một
sự cố đơn nhất và được nhận bồi thường từ nhà TBH cho toàn bộ phần
tổn thất vượt quá mức giữ lại (còn gọi là mức miễn thường). Như vậy,
ngay cả khi công ty nhượng tái phải gánh chịu nhiều tổn thất của nhiều
rủi ro nhận bảo hiểm, tổn thất của công ty này cũng chỉ giới hạn ở phần
giữ lại. Toàn bộ phần tổn thất vượt quá mức giữ lại cho tới giới hạn
trách nhiệm của hợp đồng TBH sẽ được thu hồi lại từ nhà TBH. Giới
hạn trách nhiệm và mức giữ lại sẽ được quy định ngay từ lúc ký kết
hợp đồng.
Dưới đây là một ví dụ về hợp đồng TBH vượt mức bồi thường đảm bảo
nghiệp vụ:
Ví dụ:
Công ty bảo hiểm A thu xếp một hợp đồng TBH cố đinh vượt mức bồi
thường với công ty TBH B cho 2000 đơn bảo hiểm hàng hải. Hợp đồng
TBH có mức giới hạn là 200 000 USD và mức miễn thường là 50 000
USD. Không có giới hạn nào về số vụ tổn thất có thể khiếu nại và phí
nhượng TBH là 20% tổng phí bảo hiểm gốc. Trong năm kinh doanh, có
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
28
những tổn thất xảy ra trong 2000 đơn bảo hiểm hàng hải như sau:
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
(a) 5 tàu bị thiệt hại mỗi tàu 45 000 USD
(b) 3 tàu mỗi tàu bị thiệt hại 100 000 USD
(c) 1 tàu bị thiệt hại 300 000 USD
Tổng phí bảo hiểm thu được cho nghiệp vụ trên trong năm bảo hiểm là
2 triệu USD.
Ta sẽ xem xét cách tính phí bảo hiểm nhượng đi, và số tiền thu hồi
khiếu nại từ nhà TBH:
(a) Trường hợp này công ty A không thể thu đòi nhà TBH vì cả 3
khiếu nại đều dưới mức miễn thường (50 000 USD)
(b) Trường hợp này công ty A thu lại từ nhà TBH B:
50 000 x 3 = 150 000 (USD)
(c) Tổn thất trong trường hợp này đã vượt mức giới hạn là, như vậy
nhà TBH B sẽ trả đúng bằng mức giới hạn là 200 000 USD, còn lại
100000 USD công ty bảo hiểm gốc tự gánh chịu.
(*) Phí bảo hiểm phải trả cho nhà TBH là:
20% x 2 000 000 = 400 000 (USD)
TBH vượt mức bồi thường là phương thức TBH hiện đại, khắc phục
được nhiều khuyết điểm của các phương thức TBH trước đó.
Phương thức này có thể đảm bảo cho một rủi ro hoặc một sự cố cho
nên nó đem lại cho công ty nhượng TBH một sự đảm bảo về ổn định tài
chính khi có nhiều đối tượng cùng tổn thất một lúc.
Công ty nhượng TBH còn có thể quyết định mức trách nhiệm tối đa
phải bồi thường – là yếu tố liên quan trực tiếp đến khả năng thanh toán
của công ty (ở phương thức TBH mức dôi, công ty nhượng tái chỉ có
thể quyết định tỷ số tiền bảo hiểm giữ lại, bất kể đối tượng bảo hiểm có
xảy ra tổn thất hay không). Điều khác biệt đáng chú ý ở đây là hợp
đồng TBH vượt mức bồi thường không phải là để bảo hiểm cho những
rủi ro lớn với tiềm năng tổn thất lớn mà là những tổn thất thực tế phải
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
29
gánh chịu, không kể đến quy mô của đối tượng được bảo hiểm.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Tuy vậy, TBH vượt mức bồi thường cũng có những nhược điểm:
Phí TBH phải trả ngay vào lúc bắt đầu hợp đồng, hoặc phải trả tiền đặt
cọc tương ứng với số phí đó
Việc định phí và xác định mức miễn thường rất phức tạp, nếu công ty
nhượng tái không tính toán hợp lý thì họ có thể mất đi một khoản
doanh thu phí nhượng tái đáng kể.
Phương thức bảo hiểm này thường được áp dụng cho các nghiệp vụ bảo
hiểm tài sản, bảo hiểm hàng hóa và tàu là những nghiệp vụ bảo hiểm chịu
nhiều ảnh hưởng của thiên tai.
2.2.2 TBH vượt tỷ lệ bồi thường - Stop Loss
Theo phương thức này, công ty nhượng khống chế trách nhiệm bồi
thường một tỷ lệ nhất định, tỷ lệ bồi thường vượt quá mức quy định được
chuyển giao cho nhà TBH. Phương pháp này giúp cho công ty nhượng chống
lại sự gia tăng đột biến của tỷ lệ bồi thường trong một ngành bảo hiểm hay
một dạng dịch vụ bảo hiểm nào đó trong một thời gian quy định, bất luận tình
trạng đó do nguyên nhân nào xảy ra.
Số tiền bồi thường Tỷ lệ bồi thường = Phí thu
Phí nhượng tái trong phương thức TBH này được tính toán trên cơ sở
ước tính chi phí cho các khiếu nại vượt quá phần giữ lại của công ty bảo hiểm
gốc.
Ví dụ:
Công ty bảo hiểm A thu xếp một hợp đồng TBH vượt tỷ lệ bồi thường
với công ty TBH B cho 2000 đơn bảo hiểm. Trong năm kinh doanh, tổng phí
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
30
bảo hiểm gốc mà công ty A thu được là 1 triệu USD.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Công ty TBH B đồng ý nhận bồi thường cho các đơn bảo hiểm có tỷ lệ
bồi thường vượt quá 105% sau khi các điều khoản về TBH khác đã được thực
hiện. Hợp đồng TBH cũng quy định mức bồi thường tối đa dựa trên tỷ lệ bồi
thường là 120%. Số tiền khiếu nại sau khi đã tính toán hết số tiền thu từ các
hợp đồng TBH khác còn 1,100,000 USD. Trong trường hợp này số tiền bồi
thường có thể thu lại từ nhà TBH được tính toán như sau:
1,100,000 Tỷ lệ bồi thường = = 110 % 1,000,000
Do tỷ lệ bồi thường dưới mức giới hạn (120%) và vượt tỷ lệ bồi thường
(105%), nên công ty bảo hiểm A có thể thu đòi nhà TBH phần vượt tỷ lệ là
5% số phí bảo hiểm tương đương 50,000 USD.
Với phương thức TBH vượt tỷ lệ bồi thường, các công ty bảo hiểm có
thể tránh được sự gia tăng đột biến tỷ lệ bồi thường của một nghiệp vụ bảo
hiểm nào đó trong một thời gian quy định song hình thức này có nhược điểm
lớn là không đảm bảo lợi nhuận cho các công ty bảo hiểm bởi khả năng xảy ra
bồi thường vượt tỷ lệ là không nhiều mà phí bảo hiểm thì phải đóng ngay khi
ký kết hợp đồng bảo hiểm.
Vì thế phương thức này thường được áp dụng trong những loại nghiệp
vụ có tính chất tổn thất thất thường, do thiên tai không thường xuyên gây ra
như: cháy, bão lũ, mưa đá.... Trên thực tế dạng TBH này ít được sử dụng vì
việc định phí phức tạp và thiếu chính xác. Nó thường chỉ được dùng để bổ
sung cho các dạng TBH tỷ lệ và phi tỷ lệ sẵn có.
2.3 TBH kết hợp
Từ phương pháp TBH nói trên, người ta kết hợp hai phương pháp với
nhau và hình thành nên 3 phương pháp TBH kết hợp sau:
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
31
* TBH kết hợp số thành - mức dôi
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Theo phương pháp này công ty nhượng sẽ phải TBH số thành trước,
còn lại sẽ TBH theo mức dôi.
Việc phân chia trách nhiệm và quyền lợi giữa các bên được tiến
hành theo trình tự từng hợp đồng và căn cứ vào số tiền bảo hiểm.
* TBH kết hợp số thành - vượt mức bồi thường
Theo phương pháp này việc phân chia trách nhiệm giữa các bên trước
hết là theo tỉ lệ trong hợp đồng TBH số thành.
Khi tổn thất xảy ra công ty nhận TBH vượt mức sẽ bảo vệ công ty
nhượng và công ty nhận TBH số thành cho một mức khống chế nhất
định.
* TBH kết hợp mức đôi - vượt mức bồi thường
Theo phương pháp này việc phân chia trách nhiệm ban đầu được tiến
hành cho hợp đồng TBH mức dôi.
Khi tổn thất xảy ra, công ty nhận TBH vượt mức bồi thường sẽ bảo vệ
cho công ty nhượng và công ty nhận TBH mức dôi.
Như vậy, qua các hình thức TBH trên đều có những ưu điểm và hạn
chế riêng, việc lựa chọn phương pháp TBH nào phù hợp với khả năng tài
chính, kỹ thuật và điều kiện sẵn có là rất cần thiết và tuỳ thuộc vào từng công
ty.
III. CÁC BƢỚC KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TBH.
Ký kết hợp đồng TBH qua môi giới
Hiện nay, trên thị trường bảo hiểm và TBH hầu như mọi hoạt động đều
thông qua môi giới, do vậy các bước thu xếp hợp đồng đều do môi giới đảm
nhận. Quy trình ký kết một hợp đồng TBH qua môi giới gồm những bước
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
32
sau:
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Bước 1: Công ty nhượng TBH gửi đơn chào TBH cho môi giới hoặc
gửi Schedule để môi giới thảo đơn chào. Đơn chào TBH phải bao gồm những
điều khoản cơ bản nhất của hợp đồng TBH. Điều quan trọng là môi giới có
chấp nhận mức phí TBH và hoa hồng TBH đưa ra hay không, vì nếu hoa hồng
cao cộng với phí môi giới sẽ không hấp dẫn đối với với các công ty nhận
TBH. Ở đây, môi giới thay mặt cho công ty nhận TBH quyết định có đồng ý
với đơn chào hay phải thoả thuận lại.
Bước 2: Môi giới TBH sẽ chào TBH tới nhiều công ty bảo hiểm và
TBH khác trên thị trường. Môi giới TBH phải là người có quan hệ rộng rãi thì
mới biết được ai là người có khả năng đứng đầu nhận TBH vì một người đứng
đầu nhận TBH có kinh nghiệm và có uy tín sẽ dễ dàng cho việc thu xếp hoạt
động khác trong đơn chào. Sau đó môi giới sẽ tiếp tục chào TBH tới nhiều
công ty khác, công ty nào đồng ý với các điều khoản của đơn chào thì sẽ nhận
một phần trách nhiệm thông báo danh sách các công ty nhận TBH cùng với
mức trách nhiệm của họ cho người đứng đầu nhận TBH và cho công ty
nhượng TBH biết. Nếu đồng ý thì công ty nhượng TBH sẽ xác nhận lại.
Bước 3: Môi giới TBH sẽ lập ra Cover Note trong đó ghi lại tất cả
những điều khoản trong đơn chào đã được các bên đồng ý và gửi lại bản
Cover Note này cho tất cả các bên có liên quan.
Bước 4: Môi giới sẽ thảo ra một văn bản hợp đồng TBH (Reinsurance
Contract) bao gồm tất cả các điều khoản như trong Cover Note hoặc đã được
sửa đổi và gửi cho công ty nhượng và các công ty nhận TBH. Các công ty này
đều ký tên vào trang cuối cùng của hợp đồng và gửi lại môi giới. Như vậy,
hợp đồng TBH đã có hiệu lực.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
33
Ký kết hợp đồng TBH trực tiếp
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Việc ký kết hợp đồng TBH trực tiếp hiện nay ít được sử dụng, nếu có
thì công ty nhượng TBH phải thực hiện mọi công việc mà môi giới TBH phải
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
34
làm.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
CHƢƠNG II. THỊ TRƢỜNG TBH PHI NHÂN THỌ VIỆT NAM
I. TÓM TẮT QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA
THỊ TRƢỜNG TBH VIỆT NAM.
Quá trình phát triển của TBH phi nhân thọ Việt Nam gắn liền với quá
trình hình hình thành và phát triển của ngành bảo hiểm gốc. Có thể chia quá
trình này thành 3 giai đoạn chính gắn với ba mốc là trước khi có nghị định
100CP, sau khi có nghị định 100CP đến trước Luật bảo hiểm 2001, từ khi có
luật bảo hiểm 2001 đến nay.
1.
Trƣớc khi ban hành nghị định 100/CP về họat động kinh
doanh bảo hiểm
Trong thời kỳ này, thị trường TBH Việt Nam theo đúng nghĩa vẫn chưa
hình thành. Vì hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam chỉ do một công ty
nhà nước duy nhất đảm trách là Công ty Bảo hiểm Việt Nam (là tập đoàn Bảo
Việt hiện nay). Vào thời kỳ đầu thành lập (từ năm 1965 đến năm 1975) Bảo
Việt chỉ kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ với một số nghiệp vụ như: bảo
hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển; sau năm 1975 có mở rộng
thêm các nghiệp vụ bảo hiểm cháy, bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Do thị trường bảo hiểm gốc vẫn chưa phát triển nên chưa thể nói đến sự
phát triển của TBH. Hoạt động TBH trong thời kỳ này hầu hết là nhượng
TBH cho các đối tác nước ngoài. Phí nhượng tái chiếm đến 35 -40% phí bảo
hiểm gốc. Các đối tác nhận TBH của Việt Nam lúc đó chủ yếu là các công ty
bảo hiểm Trung Quốc và một số ít các công ty bảo hiểm Ba Lan, Triều Tiên.
Sau khi Bảo Việt trở thành thành viên của Liên đoàn bảo hiểm và TBH Á-Phi
thì quan hệ với các nhà tái khác trên thế giới cũng dần được mở rộng hơn.
Tuy còn chưa phát triển, nhưng nhìn chung hoạt động nhượng tái vẫn liên tục
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
35
có lãi.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Hoạt động nhận TBH cũng bắt đầu được triển khai sau năm 1987
nhưng tỏ ra kém hiệu quả, thua lỗ nhiều mà điển hình là năm 1993: bồi
thường nhận TBH lên đến 113% phí nhận tái. Nguyên nhân chính là do năm
này có nhiều tổn thất xảy ra thuộc trách nhiệm của hợp đồng nhận tái, và quan
trọng hơn do năng lực thu xếp hợp đồng, định phí, xác định rủi ro của tao còn
yếu kém cộng với việc năng lực tài chính của ta còn yếu kém nên thu không
đủ bù chi.
2.
Sau khi ban hành nghị định 100/CP
Nghị định 100/CP được chính phủ ban hành vào ngày 17/2/1993 và
chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/1994 quy định về hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, đáp ứng nhu cầu bức thiết về mở rộng và đa dạng hóa ngành kinh
doanh bảo hiểm ở Việt Nam cả về nghiệp vụ lẫn đối tượng tham gia. Đây là
nền tảng pháp lý đầu tiên cho ngành kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam. Nghị
định 100CP thực sự là một bước ngoặt lớn.
Việc thực hiện nghị định trên của Chính phủ đã tạo hướng đi mới cho
thị trường bảo hiểm – TBH ở Việt Nam. Trước hết là sự thành lập Công ty
TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) ngày 23/8/1994, mở đường cho sự ra đời
của hàng loạt các công ty bảo hiểm khác như Bảo Minh (1994), PJICO
(1995), PVIC (1996)....
Nhiều gương mặt mới xuất hiện đã khiến cho thị trường bảo hiểm gốc
trở lên ngày càng sôi động. Các sản phẩm bảo hiểm được đa dạng hóa, số
lượng đối tác bảo hiểm – TBH nước ngoài có uy tín ngày càng tăng giúp các
công ty trong nước có cơ hội tranh thủ sự hỗ trợ về nghiệp vụ và đảm bảo an
toàn kinh doanh. Thị trường TBH cũng theo đó mà phát triển do nhu cầu TBH
cho các đơn bảo hiểm giá trị lớn xuất hiện ngày càng nhiều (nhờ các công
trình xây dựng, lắp đặt được triển khai tại khắp các địa phương trên toàn
quốc). Tuy phí bảo hiểm chuyển nhượng ra nước ngoài ngày càng tăng nhưng
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
36
tỷ trọng của nó so với tổng phí bảo hiểm gốc lại giảm đi. Điều này có được là
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
nhờ sự có mặt của VINARE như một đối tác bắt buộc (nhà nước quy định các
doanh nghiệp bảo hiểm phải tái 20% cho VINARE trước khi tái tiếp cho các
đối tác nước ngoài) và nhờ các doanh nghiệp trong nước đã nhận TBH lẫn
nhau. Tuy vậy điều đáng lưu tâm hơn khi thị trường TBH đang phát triển
nhanh là việc quản lý cạnh tranh, kiếm soát các phương thức cạnh tranh
không lành mạnh và đảm bảo khả năng thanh toán của các doanh nghiệp bảo
hiểm.
3.
Sau khi ban hành Luật bảo hiểm 2001
Luật kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 8 thông
qua vào ngày 9/12/2000 và có hiệu lực từ ngày 1/4/2001 là một bước tiến
quan trọng sau nghị định 100/CP. Luật này cho phép các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài cũng được tham gia thị trường bảo hiểm dưới hai hình thức
là doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, luật có cả
qui định về hoạt động kinh doanh TBH, hoạt động môi giới bảo hiểm. Nếu so
sánh với nghị định 100/CP, Luật bảo hiểm không chỉ có tính pháp lý cao hơn
mà nội dung còn thể hiện thiện chí cải cách rõ rệt của Đảng và Chính phủ
Việt Nam.
Ngoài Luật kinh doanh bảo hiểm, Chính phủ đã ban hành thêm nhiều
văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trường và các doanh nghiệp bảo
hiểm. Đó là:
NĐ 42/2001/NĐ-CP và 45/2007/NĐ-CP chi tiết một số điều của
Luật kinh doanh bảo hiểm,
NĐ 43/2001/NĐ-CP và 46/2007/NĐ-CP qui định về chế độ tài
chính với doanh nghiệp bảo hiểm.
Bộ tài chính cũng đã ban hành các thông thư hướng dẫn chi tiết các nghị
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
37
định trên đó là:
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Thông tư 98/2004/TT-BTC hướng dẫn thi hành luật kinh doanh
bảo hiểm
Thông tư 99/2004/TT-BTC hướng dẫn thực hiện nghị định
43/2001/NĐ-CP
Quyết định 150/2001/QĐ-BTC bổ sung sửa đổi chế độ kế toán với
các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm.
Từ khi có thể chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh, số lượng các công ty
bảo hiểm được cấp phép hoạt động đã tăng lên nhanh chóng và hiện đã lên
đến trên 30 công ty, trong đó có cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Thị trường bảo hiểm gốc ở cả hai lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và
nhân thọ có những bước tăng trưởng mạnh mẽ chưa từng thấy. Vì thế hoạt
động TBH cũng sôi động lên rất nhiều, các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân
thọ trong nước hầu như đều sử dụng nghiệp vụ TBH như một công cụ hữu
hiệu để ổn định kinh doanh. Đối tượng nhận TBH cũng phong phú hơn: tái
bảo hiểm trong nước, ngoài nước đặc biệt là tái bảo hiểm qua môi giới đang
ngày càng phát triển.
II. CÁC CHỦ THỂ THAM GIA THỊ TRƢỜNG TBH PHI NHÂN
THỌ VIỆT NAM
Các chủ thể đang tham gia thị trường TBH phi nhân thọ cơ bản gồm 4
nhóm: các công ty bảo hiểm gốc, công ty TBH, môi giới TBH và các công ty
bảo hiểm và TBH quốc tế.
Tính đến 31/4/2007 trên thị trường Việt Nam có 19 doanh nghiệp đang
hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, trong đó có 7 doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài; 9 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm (4 doanh nghiệp
5 Theo www.mof.gov.vn
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
38
có vốn đầu tư nước ngoài) và 1 công ty TBH chuyên nghiệp là Công ty TBH quốc gia Việt Nam (VINARE)5
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
1. Công ty bảo hiểm gốc
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Trong hoạt động bảo hiểm phi nhân thọ, các doanh nghiệp trong nước
vẫn chiếm ưu thế (đóng góp 80% doanh thu toàn thị trường) vì hiện chính phủ
vẫn chưa cho phép các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài kinh doanh bảo
hiểm phi nhân thọ tại thị trường Việt Nam. TBH ở thị trường Việt Nam hầu
như là hoạt động nhượng tái, các doanh nghiệp bảo hiểm gốc lớn có tiềm
năng tài chính đủ mạnh hiện cũng tham gia nhận TBH đó là Bảo Việt, Bảo
Minh, PJICO, PVI. Các doanh nghiệp còn lại có ít thị phần (và ảnh hưởng)
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
39
đến thị trường bảo hiểm và TBH (xem biểu đồ 2.1).
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Bảng 2.1 CHỈ SỐ TÀI CHÍNH NĂM 2006 CỦA MỘT SỐ CÔNG TY BH PHI NHÂN THỌ CHÍNH
Đơn vị: triệu đồng
Bảo Việt
Bảo Minh
PJICO
PVI
Vốn chủ sở hữu
569,693.70
555,610.18
193,011.79
718,215.90
Tổng nguồn vốn kinh doanh
2,358,002.09
1,439,210.98
581,014.29
1,195,284.02
Doanh thu
1,786,548.42
948,537.62
563,218.99
306,759.24
Lợi nhuận
82,978.33
3,258.22
354.17
6,400.24
0.18%
0.89%
14.57%
0.59%
Tỷ suất lợi nhuận/ vốn CSH
Nguồn:Báo cáo tài chính 2006 - Bảo Việt, Bảo Minh, PJCO, PVI
1.1 Công ty Bảo Việt Việt Nam
Bảo Việt Việt Nam (BVVN) là một trong 4 đơn vị thành viên thuộc tập
đoàn tài chính – bảo hiểm Bảo Việt (trước là Tổng công ty bảo hiểm Việt
Nam) hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Tuy mới tách ra từ
năm 2002, nhưng về bản chất, BVVN đã có lịch sử phát triển hơn 40 năm từ
khi Bảo Việt ra đời năm 1965. Hiện tại, BVVN có 65 công ty con hạch toán
phụ thuộc trên toàn quốc và mạng lưới đại lý bảo hiểm rộng khắp các cả nước
cung cấp mọi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ, từ những đơn bảo hiểm lớn
hàng chục triệu đô la đến những đơn bảo hiểm nhỏ như bảo hiểm học sinh,
bảo hiểm xe cơ giới....Trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện nay, BVVN
vẫn là công ty xếp thứ nhất cả về qui mô vốn, số lượng sản phẩm dịch vụ,
doanh thu và lợi nhuận. Tuy nhiên, thị phần của Bảo Việt trong những năm
qua đang ngày càng thu hẹp do sự xuất hiện của các công ty bảo hiểm mới
trên thị trường (xem biểu đồ 2.1).
Hoạt động TBH tại Bảo Việt được triển khai ở hầu hết các nghiệp vụ:
bảo hiểm cháy; bảo hiểm hàng hải (thân tàu và TNDS của chủ tàu); bảo hiểm
xây dựng lắp đặt, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm hàng không, dầu
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
40
khí và một số lĩnh vực bảo hiểm khác như: bảo hiểm trách nhiệm dân sự, bảo
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
hiểm xe cơ giới.... Năm 2006 phí bảo hiểm nhượng tái từ Bảo Việt Việt Nam
là hơn 600 tỷ đồng (chiếm 1/4 tổng phí nhượng của toàn thị trường). Bảo Việt
cũng nhận tái từ các công ty bảo hiểm trong nước và nước ngoài, phí nhận tái
năm 2006 là: 4,7 tỷ đồng.
Bảo Việt Việt Nam sẽ chính thức chuyển từ công ty nhà nước thành
công ty cổ phần vào ngày 15/10/2007 và dự định sẽ niêm yết trên sàn giao
dịch chứng khoán vào đầu năm 2008 tới. Vốn điều lệ của tập đoàn Bảo Việt
sau khi cổ phần hóa sẽ tăng lên khoảng 6800 tỷ đồng, tương đương với qui
mô của một trong năm ngân hàng nhà nước lớn nhất hiện nay. Cùng với việc
gấp rút triển lộ trình cổ phần hóa, Bảo Việt Việt Nam cũng đang nỗ lực đổi
mới, nâng cấp mô hình quản lý, phát triển thêm dịch vụ mới để giữ vững ngôi
vị quán quân trong làng bảo hiểm phi nhân thọ.
1.2 Công ty bảo hiểm thành phố Hồ Chí Minh - Bảo Minh
Được thành lập ngày 28/11/1994 ngay sau quyết định 100CP của chính
phủ, Bảo Minh cũng là một trong những doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
lâu năm nhất trên thị trường. Từ khi mới thành lập cho đến năm 2004, Bảo
Minh là công ty 100% vốn nhà nước trực thuộc Bộ tài chính, từ tháng
10/2004 Bảo Minh chuyển thành công ty cổ phần bảo hiểm chuyên hoạt động
trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và đầu tư tài chính. Mạng lưới hoạt
động của Bảo Minh cũng trải khắp cả nước với 57 công ty con hạch toán phụ
thuộc và hơn 8000 đại lý và cộng tác viên. Lĩnh vực hoạt động chính của Bảo
Minh là: bảo hiểm xe cơ giới, bảo hiểm hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm tài
sản, trách nhiệm, bảo hiểm con người. Đặc biệt Bảo Minh là một trong 3
doanh nghiệp được cấp phép hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm hàng không
(cùng với Bảo Việt và GIC), và là nhà bảo hiểm đứng đầu trong lĩnh vực này.
Năm 2007, Bảo Minh đã chính thức trở thành nhà bảo hiểm gốc cho Vietnam
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
41
Airlines và hợp đồng bảo hiểm này là sự cộng tác dài hạn từ hai phía.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Bảo Minh cũng là nhà bảo hiểm gốc lớn trên thị trường TBH. Phí bảo
hiểm gốc tái ra thị trường của Bảo Minh trong năm 2006 là 526,22 tỷ đồng
đứng thứ 2 sau Bảo Việt. Các nghiệp vụ liên quan đến TBH ở Bảo Minh đáng
kể nhất là bảo hiểm hàng không và bảo hiểm hàng hải. Bảo Minh cũng nhận
tái từ thị trường trong nước với số phí nhận năm 2006 là 81,45 tỷ đồng. Nhìn
chung tình hình doanh thu và thị phần của Bảo Minh 4 năm qua vẫn tăng
nhưng lợi nhuận từ kinh doanh bảo hiểm đều rất khiêm tốn.
Nhìn trên bảng 2.1, ta nhận thấy Bảo Minh là doanh nghiệp đứng thứ 2
về vốn và doanh thu, nhưng lại có lợi nhuận xếp thứ 3 trong số 4 nhà kinh
doanh bảo hiểm hàng đầu. Nguyên nhân là do chi phí bồi thường mà Bảo
Minh phải chi trả chiếm phần lớn doanh thu phí bảo hiểm gốc (năm 2006 là
gần 50% - lớn hơn rất nhiều so với mức trung bình của thị trường). Có thể
Bảo Minh đang thực hiện chiến lược cạnh tranh là mở rộng thị phần nên chưa
chú trọng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh, nhưng với kết quả không mấy
khả quan trên, Bảo Minh cần phải xem xét lại về chính sách, hoặc trình độ
nghiệp vụ của mình, bởi nếu các đơn bảo hiểm đều có tỷ lệ bồi thường cao
như vậy chứng tỏ phí thu còn thấp, việc thu xếp TBH sẽ gặp nhiều khó khăn.
1.3 Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex - PJICO
Công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex (PJICO) thành lập ngày 15/6/1995
gồm 7 cổ đông sáng lập đều là các tổ chức kinh tế lớn của nhà nước như:
Tổng công ty xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) với số cổ phần áp đảo là 51%;
ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam(Vietcombank) 10%; Công ty TBH quốc
gia Việt Nam (VINARE) 8%; Tổng công ty thép Việt Nam 6% ....
Hiện PJICO có 48 chi nhánh và khoảng 4500 đại lý trên toàn quốc, thị
phần của PJICO năm 2006 là 10,54% đứng thứ 4 trên thị trường. Các sản
phẩm bảo hiểm chủ yếu của PJICO là: xe cơ giới, xây dựng – lắp đặt, xăng
dầu, hàng hóa vận chuyển, bảo hiểm tàu thủy, bảo hiểm con người. Kết quả
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
42
hoạt động kinh doanh của PJICO trong những năm qua cũng rất khó khăn: thị
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
phần giảm mạnh, tỷ lệ bồi thường cao, lợi nhuận thấp. Năm 2006 tỷ suất lợi
nhuận/ vốn chủ sở hữu của PJICO chỉ đạt 0,18% (xem bảng 2.1) thấp hơn rất
nhiều so với các doanh nghiệp cùng ngành.
Về hoạt động TBH, năm 2006 PJICO nhượng ra thị trường 106,7 tỷ
đồng. Các nghiệp vụ liên quan đến TBH ở PJICO thường là: bảo hiểm xăng
dầu, bảo hiểm xây dựng lắp đặt. Tuy vậy chưa có một mảng nghiệp vụ nào
PJICO chiếm ưu thế vượt trội so với các doanh nghiệp cùng ngành. Hoạt
động nhận TBH của PJICO phần lớn là do VINARE chuyển sang.
PJICO là một công ty cổ phần từ khi mới thành lập nhưng cho đến nay
vẫn chưa niêm yết trên thị trường chứng khoán, các hoạt động của PJICO
không thực sự ấn tượng như tiềm năng về vốn và lịch sử kinh doanh lâu năm
của doanh nghiệp này. Với tình hình cạnh tranh gay gắt như hiện nay, những
doanh nghiệp như PJCO sẽ khó tránh khỏi gặp nhiều khó khăn trong những
năm tới.
1.4 Công ty bảo hiểm Dầu khí - PVI
Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm dầu khí Việt Nam (PVI) là thành viên
của tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam, được thành lập năm 1996. PVI hoạt
động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và mới đây mở rộng hoạt động
sang lĩnh vực đầu tư tài chính. Hiện PVI có 16 đơn vị thành viên và văn
phòng đại diện trên toàn quốc. Mạng lưới hoạt động của PVI so với các công
ty bảo hiểm gốc nói trên có vẻ bó hẹp nhưng thực chất lại rất phù hợp với
hoạt động kinh doanh của công ty bởi lĩnh vực kinh doanh chính của PVI là ở
nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí, bảo hiểm hàng hải và bảo hiểm công nghiệp.
Cuối năm 2006, thị phần của PVI trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ là thứ
3, nhưg cho đến quý 2 năm 2007, PVI đã vượt lên trên Bảo Minh xếp thứ 2
với thị phần 26,91% và là doanh nghiệp bảo hiểm đi đầu trong lĩnh vực bảo
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
43
hiểm công nghiệp.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
PVI là doanh nghiệp hoạt động mạnh nhất trong hoạt động TBH xét về
cả nhượng tái và nhận tái. Phí nhượng tái của PVI ra thị trường năm 2006 là
hơn 800 tỷ đồng – cao hơn cả Bảo Việt (600 tỷ đồng). Cùng năm đó, doanh
nghiệp đã nhận TBH từ thị trường hơn 46 tỷ đồng. Con số này thấp hơn Bảo
Việt khá nhiều (152 tỷ đồng) nhưng điều đáng nói là PVI đã thu xếp được các
hoạt động nhận TBH từ nước ngoài cho các dự án về dầu khí tại Triều Tiên,
Trung Quốc. Uy tín của PVI trên thị trường bảo hiểm quốc tế đang dần được
nâng cao và triển vọng của PVI tronh những năm tới là khá sáng sủa bởi PVI
có vẻ là doanh nghiệp bảo hiểm năng động nhất trong 4 doanh nghiệp bảo
hiểm gốc dẫn đầu.
2. Công ty TBH
2.1 Tổng công ty Cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam - VINARE
Được thành lập ngày 23/8/1994, cho đến nay VINARE vẫn là doanh
nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp duy nhất trên thị trường Việt Nam.
Tính đến hết năm 2006, tổng nguồn vốn kinh doanh của VINARE đã lên đến
874,73 tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu là 423,46 tỷ đồng.
Mục đích ban đầu khi Chính phủ thành lập VINARE là để điều tiết hoạt
động TBH trong nước, giảm lượng phí bảo hiểm bảo hiểm chảy ra nước
ngoài; tham mưu tư vấn giúp đỡ các doanh nghiệp bảo hiểm về kỹ thuật bảo
hiểm, TBH như: khai thác bảo hiểm, giải quyết bồi thường; là đầu mối thông
tin bảo hiểm và TBH giữa các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và thị
trường quốc tế; và cuối cùng là đạo tạo nâng cao nghiệp vụ bho các cán bộ
bảo hiểm trong nước.
VINARE thực hiện vai trò là nhà điều tiết hoạt động TBH trên thị
trường nhờ vào qui định về TBH bắt buộc. Theo quy định này, các công ty
bảo hiểm gốc đang hoạt động tại thị trường Việt Nam phải tái 20% cho
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
44
VINARE trước khi nhượng tái ra thị trường nước ngoài. Năng lực tài chính
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
của VINARE không cao (số vốn ban đầu là 40 tỷ VND và cho đến nay cũng
chỉ hơn 400 tỷ đồng) nhưng VINARE có quan hệ với tất cả các công ty bảo
hiểm trên thị trường Việt Nam và rất nhiều công ty TBH có uy tín trên thế
giới, sau khi nhận TBH từ các công ty trong nước, VINARE sẽ tính toán để
giữ lại một mức độ phù hợp cho mình và tái đi tối đa có thể cho các công ty
bảo hiểm trong nước (tùy vào khả năng tài chính của mỗi công ty); sau đó
VINARE mới tiếp tục thu xếp TBH với các nhà tái nước ngoài. Theo cách
này, doanh thu phí bảo hiểm được giữ lai nhiều hơn, các công ty bảo hiểm
vừa và nhỏ cũng có khả năng để chia sẻ doanh thu (và cả rủi ro) từ các công
ty bảo hiểm lớn hơn và nhờ đó mà phát triển.
Năm 2006, doanh thu nhận TBH của VINARE là 782,84 tỷ đồng (chiếm
1/3 nhu cầu nhượng TBH trong nước); phí bảo hiểm tái đi là 624,68 tỷ đồng.
Thông qua hoạt động nhận – nhượng TBH của mình, VINARE đã giữ lại
được hơn 300 tỷ đồng phí bảo hiểm chảy ra nước ngoài. Những con số trên đã
cho thấy sự đóng góp của VINARE trong hoạt động điều tiết thị trường TBH
Việt Nam. Hoạt động nhận TBH từ nước ngoài ở VINARE cũng đang dần
phát triển, phí nhận tái từ thị trường nước ngoài trong hai năm 2005 và 2006
là 50,19 tỷ đồng (chiếm gần 1/3 tổng phí nhận tái từ nước ngoài của toàn thị
trường).
VINARE đã chính thức trở thành công ty cổ phần từ ngày 1/1/2005 và
cổ phiếu của VINARE đã được niêm yết trên trung tâm giao dịch chứng
khoán Hà Nộ vào ngày 13/3/2006. Mục tiêu hoạt động của VINARE giờ đây
không đơn giản là một đơn vị kinh doanh của nhà nước với vai trò điều tiết,
phát triển thị trường là chủ yếu mà đã tập trung hơn vào mục tiêu lợi nhuận.
Tuy nhiên vai trò của VINARE đang có nguy cơ bị mờ nhạt dần, do xu hướng
của các nhà bảo hiểm gốc hiện nay muốn nâng mức giữ lại để tăng lợi nhuận
và một phần do các nhà môi giới TBH nước ngoài đang hoạt động ngày càng
mạnh trên thị trường, kết nối các nhà bảo hiểm gốc đến thẳng các nhà TBH
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
45
hàng đầu thế giới. Thêm vào đó, sau một năm gia nhập WTO, qui định về
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
TBH bắt buộc sẽ bị dỡ bỏ, điều chắc chắn sẽ làm giảm đáng kể doanh thu của
doanh nghiệp này.
Tuy tình hình thị trường có nhiều bất lợi, song nhờ vào nền tảng 13 năm
hoạt động, cùng với mối quan hệ lâu dài với các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước và quốc tế, VINARE vẫn là đối tác đáng tin cậy của nhiều doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước. Bằng chứng là nhiều doanh nghiệp cho biết, họ vẫn sẽ
tiếp tục cộng tác với VINARE ngay cả khi qui định về TBH bắt buộc hết hiệu
lực.
2.2 Công ty bảo hiểm và TBH nước ngoài
Các công ty bảo hiểm nước ngoài cho đến nay chưa được phép hoạt
động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và họ tham gia thị trường TBH phi
nhân thọ với tư cách là nhà nhận TBH. Các công ty này thường có quan hệ
chắc chẽ và lâu dài với các nhà bảo hiểm gốc nội địa. Trong số này phải kể
đến Swiss Re, Munich Re. Đây là hai nhà TBH hàng đầu thế giới hiện nay và
đã có quan hệ với Bảo Việt từ sau năm 1975. Hội bảo hiểm tương hỗ West of
England cũng tham gia thị trường Việt Nam từ rất sớm và hiện là nhà TBH
TNDS của chủ tàu chiếm lĩnh thị trường Việt Nam, nhận 52% của hầu hết các
đơn bảo hiểm của nghiệp vụ này trên thị trường Việt Nam. Ngoài ra, các công
ty TBH và bảo hiểm nước ngoài còn tham gia thị trường TBH Việt Nam với
Bảng 2.2 MỘT SỐ CHỈ SỐ TÀI CHÍNH CỦA CÁC TẬP ĐOÀN TÁI BẢO HIỂM TRÊN TG
tư cách là nhà TBH chỉ định như: XL Hongkong.
Đơn vị: triệu USD
SWISS RE
MUNICH RE
WOE
Tổng tài sản
176,332
263,261 715.08
Phí bảo hiểm nhận tái
17,866 45,654 251.36
Lợi nhuận
3,545 6,700
6.54
Nguồn: Swiss Re, Munich Re, WOE Annual Report 2006
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
46
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Nhìn trên bảng 2.2, có thể thấy năng lực tài chính của các công ty này
vượt xa các công ty bảo hiểm trong nước. Dù có mạng lưới chi nhánh và văn
phòng trên khắp thế giới nhưng hiện nay chưa có tập đoàn nào trong số 3 tập
đoàn kể trên có văn phòng đại diện tại Việt Nam. Hiện tại các nhà bảo hiểm
gốc Việt Nam vẫn nhượng tái cho các nhà TBH này thông qua môi giới hoặc
các văn phòng tại các nước trong khu vực. Dù có quan hệ lâu dài nhưng các
công ty này chưa lập văn phòng đại diện tại Việt Nam bởi “so sánh với các
nước khác trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Singapore... thì nhu cầu
TBH của Việt Nam còn quá ít ỏi” - ông Edouard Schmid, Giám đốc kỹ thuật
TBH khu vực châu Á - Thái Bình Dương của công ty TBH Thụy Sĩ (Swiss
Re) nói. Tuy nhiên, với tốc độ tăng trưởng ấn tượng của thị trường bảo hiểm
phi nhân thọ của Việt Nam trong những năm qua, chắc chắn các công ty này
đều có dự định sẽ mở văn phòng đại diện tại Việt Nam.
3. Môi giới TBH
Hiện trên thị trường Việt Nam có 8 công ty môi giới bảo hiểm: 4 công ty
nước ngoài và 4 doanh nghiệp cổ phần trong nước.
Nếu như trong hoạt động bảo hiểm gốc, doanh nghiệp trong nước chiếm
ưu thế thì hoạt động môi giới hoàn toàn ngược lại. Với kinh nghiệm và
chuyên môn vượt trội hơn, các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm 100% vốn
nước ngoài hiện đang nắm giữ đến 83,77% thị trường) trong đó hai đại diện
lớn là AON và Marsh. Các doanh nghiệp môi giới bảo hiểm nước ngoài là
nhân vật chính trong hầu hết các hợp đồng môi giới TBH trên thị trường.
Hoạt động môi giới bảo hiểm chuyên nghiệp đến mức các doanh nghiệp môi
giới trực tiếp đứng ra định phí, nhận tái với danh nghĩa của chính mình sau đó
sẽ tự tái ra thị trường thế giới. Nói là công ty môi giới TBH, nhưng thực tế,
với các công ty bảo hiểm gốc trong nước, các công ty này có vai trò gần giống
VINARE của Việt Nam. AON nhận khoảng 1/6 trong số hơn 300 tỷ phí
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
47
nhượng TBH của Bảo Việt hai quý đầu năm 2007 (VINARE nhận tái khoảng
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
1/3 tổng phí nhượng tái). Về phía các công ty cổ phần môi giới bảo hiểm
trong nước với số vốn điều lệ khiêm tốn khoảng 6 tỷ đồng hầu hết chỉ dừng
lại ở hoạt động môi giới bảo hiểm gốc chứ chưa tham gia môi giới TBH.
Từ những phân tích trên, ta thấy thị trường bảo hiểm và TBH Việt Nam
vốn là sân chơi của một số ít các doanh nghiệp nhà nước. Song tình hình
những năm gần đây có nhiều thay đổi: trên thị trường xuất hiện thêm nhiều
doanh nghiệp cổ phần bảo hiểm và bắt đầu có sự xuất hiện của các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài; các doanh nghiệp nhà nước đang tiến hành cổ
phần hóa và tích cực đổi mới để giữ vững được chỗ đứng của mình trên thị
trường tuy vậy thị phần của các doanh nghiệp dẫn đầu này cũng đang bị thu
hẹp. Trong hoạt động môi giới bảo hiểm thì hiện các doanh nghiệp nước
ngoài đang chiếm ưu thế. Riêng về TBH, VINARE hiện vẫn là doanh nghiệp
kinh doanh TBH chuyên nghiệp duy nhất và hiện đang thực hiện khá tốt vai
trò của mình. Song nếu so sánh với các công ty bảo hiểm và TBH quốc tế
khác thì năng lực tài chính và nghiệp vụ của các doanh nghiệp trong nước còn
thua kém khá xa.
III. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƢỜNG TBH PHI NHÂN
THỌ TRONG NHỮNG NĂM QUA
Trong phần này, người viết sẽ trình bày cụ thể hơn về tình hình tăng
trưởng và cạnh tranh của thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam trong
khoảng 5 năm trở lại đây.
1
Đặc điểm thị trƣờng bảo hiểm gốc
1.1 Thị trường tăng trưởng nhanh
Phí bảo hiểm gốc
Bảng 2.3: TỐC ĐỘ TĂNG TRƢỞNG DOANH THU PHÍ BẢO HIỂM PHI NHÂN THỌ GỐC QUA CÁC NĂM Năm 2001
2000
2003
2002
2005
2004
2006
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
48
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Phí bảo hiểm gốc (tỷ đồng)
1,786
2,162
3,153
3,976
4,764
5,486
6,358
45.84
26.10
19.82
15.16
21.05
15.90
Tốc độ tăng trưởng (%) Nguồn: Vinare Annual Report 2006
Từ bảng 2.3 ta thấy, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có những bước
tăng trưởng nhanh và vững chắc trong vòng 5 năm trở lại đây. Chỉ trong vòng
6 năm (từ năm 2001 đến năm 2006), doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ đã
tăng tới 3.5 lần. Tuy tăng trưởng cao nhưng phí bảo hiểm gốc của cả hai bộ
phận bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ mới chỉ chiếm khoảng 1,67% GDP
(năm 2006), tỷ lệ này ở các nước phát triển là từ 5% đến 10%. Điều này cho
thấy, tiềm năng của thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng còn rất dồi dào.
Nếu đem so sánh với thị trường bảo hiểm nhân thọ thì con số này có vẻ
khiêm tốn (tăng trưởng doanh thu phí bảo hiểm nhân thọ trung bình đạt đến
42% trong thời kỳ này) nhưng nhìn vào xu hướng, ta có thể thấy thị trường
bảo hiểm nhân thọ đang chững lại, trong hai năm 2005 và 2006 doanh thu phí
bảo hiểm nhân thọ không tăng nhiều (4% năm 2005 và 6% năm 2006) trong
khi đó thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn chưa hề có dấu hiệu yếu đi. Dự
báo đà tăng trưởng này sẽ còn được duy trì trong vòng vài năm tới, chỉ tính
riêng 2 quý đầu năm 2007 doanh thu phí bảo hiểm gốc trên thị trường bảo
hiểm phi nhân thọ ước tính đạt 3600 tỷ VND, tăng 20% so với cùng kỳ năm
2006 - đây là con số tăng trưởng cùng kỳ cao nhất trong vòng 5 năm trở lại
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
49
đây.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
BẢNG 2.4 Båi th êng tæn thÊt qua c¸c n¨m
đơn vị: tỷ đồng
Tình hình bồi thường:
2004
2005
2006
Phí bảo hiểm gốc
4,764
5,486
6,358
Số tiền bồi thường
1920.09
2166.37
2489.95
Tỷ lệ bồi thường
40.30%
39.49%
39.16%
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Tình hình bồi thường tổn thất trong các năm qua diễn biến phức tạp ở
từng nghiệp vụ (xin được trình bày trong phần sau) nhưng nhìn chung toàn thị
trường thì tỷ lệ bồi thường vẫn khá ổn định trung bình vào khoảng 40% phí
bảo hiểm gốc (xem bảng 2.4). Điều này là niềm phấn khởi chung của mọi
doanh nghiệp tham gia thị trường bảo hiểm phi nhân thọ, hầu hết các công ty
hoạt động trong lĩnh vực này đều có lãi và cũng là sự lý giải vì sao ngày càng
nhiều doanh nghiệp muốn tham gia thị trường được xem là “ít rủi ro” này.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
50
Tuy vậy điều này cũng chính là nguyên nhân tại sao các doanh nghiệp bảo
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
hiểm chỉ chú trọng vào việc cạnh tranh lẫn nhau bằng cách hạ phí và tăng hoa
hồng mà quên đi việc nâng cao chất lương dịch vụ và nghiệp vụ quản lý rủi
ro.
Những thống kê gần nhất cho hay, mặc dù doanh thu phí năm 2007 vẫn
tăng trưởng ổn định nhưng tình hình tổn thất đang diễn biến rất phức tạp,
trong năm đã diễn ra nhiều vụ tổn thất lớn chỉ tính riêng 7 vụ tổn thất lớn đầu
năm 2007 giá trị thiệt hại ước tính đã lên đến 187.2 tỷ đồng. Cuối năm, tình
hình thời tiết diễn biến phức tạp, lại cộng thêm những vụ tai nạn lao động
nghiêm trọng mà điển hình là vụ sập 2 nhịp cầu dẫn cầu Cần Thơ cũng đã dẫn
đến thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng chưa kể đến thiệt hại về người. Các công ty
bảo hiểm chắc chắn sẽ có trách nhiệm không nhỏ trong việc bồi thường cho
các tổn thất nêu trên.
Như vậy, tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp trên thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam trong những năm qua là khá tốt và ổn định.
Tuy vậy, tình hình tổn thất trong những năm tới đang phức tạp dần lên, thị
trường cũng vẫn còn một số tồn tại mà đáng kể nhất là tình hình cạnh tranh
thiếu lành mạnh sẽ được trình bày ngay sau đây.
1.2 Cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ ngày một gay gắt
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang ngày càng mở rộng về quy mô
và đa dạng hóa về sản phẩm, dịch vụ. Nhưng cùng với đó là số lượng các
doanh nghiệp tham gia trên thị trường cũng ngày một tăng. Vì vậy, cạnh tranh
trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ cũng vô cùng gay gắt, thậm chí có dấu
hiệu không lành mạnh và ảnh hưởng xấu đến cả hoạt động TBH toàn thị
trường.
Các doanh nghiệp mới gia nhập thị trường không thể ngồi yên khi thị
phần trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ hiện còn rất chênh lệch. Tuy nói
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
51
rằng 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm 94.9% thị phần, nhưng
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
thực chất, thị phần doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tập trung chủ yếu
vào các doanh nghiệp lớn như Bảo Việt: 34,9%, Bảo Minh 21,3%, PVI
18,1%, PJICO 10.5%. 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chia nhau thị
phần 5.1% còn lại. Không bằng lòng trước sự "chênh lệch" quá lớn này, các
doanh nghiệp mới ra nhập thị trường đang làm mọi cách để cạnh tranh mà hai
công cụ chính họ lựa chọn chính là: tăng hoa hồng và hạ giá phí.
Về vấn đề hoa hồng, theo quy định của bộ tài chính doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm không được chi không quá 12% hoa hồng tùy loại hợp đồng
cho đại lý bảo hiểm hoặc tối đa không quá 15% cho doanh nghiệp môi giới
(thông thư 98/TT/BTC). Những đối tượng khác như người không phải kinh
doanh đại lý, môi giới bảo hiểm; khách mua bảo hiểm, cán bộ nhân viên của
doanh nghiệp kinh doanh đều không được phép nhận chi trả hoa hồng. Nhưng
thực tế việc chi trả hoa hồng đã được thực hiện một cách quá mức và biến
tướng dưới nhiều hình thức khác nhau. Chi phí hoa hồng khai thác đã đội chi
phí hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm lên quá cao khiến cho doanh nghiệp
bảo hiểm càng làm càng lỗ. Ông Trịnh Quang Tuyến, Chủ tịch Hiệp hội Bảo
hiểm Việt Nam trong cuộc họp với bộ Tài chính và 37 doanh nghiệp bảo hiểm
phi nhân thọ trong tháng 4 năm 2007 nhận định: "Với tình trạng cạnh tranh
như hiện nay, hoa hồng chi cao dẫn đến phí bảo hiểm thấp và như vậy không
đủ chi trả bồi thường cho khách hàng. Hiện đẫ có doanh nghiệp bảo hiểm chỉ
đạt doanh thu hơn 1000 tỷ đồng/năm nhưng lợi nhuận chỉ còn 1 tỷ đồng. Nếu
xảy ra tổn thất phải bồi thường thì coi như hết lãi. Kinh tế phát triển mà lợi
nhuận kinh doanh bảo hiểm ngày càng đi xuống".
Không chỉ cạnh tranh bằng hoa hồng diễn ra quá mức mà cả việc cạnh
tranh phí cũng bị các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm lạm dụng. Có những
đơn bảo hiểm phí đã giảm tới 30 – 40%, thậm chí còn hạ tới dưới mức sàn mà
các công ty bảo hiểm đưa ra, đó là điều không thể chấp nhận được. Chưa hết,
tình trạng cạnh tranh quyết liệt hiện nay đã khiến nhiều doanh nghiệp liễu lĩnh
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
52
gia tăng phạm vi quyền lợi bảo hiểm mà chưa có những nghiên cứu kỹ cũng
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
như chưa tham khảo ý kiến của các nhà TBH nước ngoài. Các sản phẩm bảo
hiểm vốn có tính tương đồng và tính quốc tế rất cao, nếu các doanh nghiệp
mới ra nhập thị trường cứ tự ý phá giá như vậy thì các doanh nghiệp bảo hiểm
khác trong và ngoài nước sẽ không thể nhận TBH cho đơn bảo hiểm có mức
phí bị hạ thấp quá mức; điều này đồng nghĩa với việc doanh nghiệp khai thác
bảo hiểm gốc sẽ không phân tán được rủi ro, nếu tổn thất lớn xảy ra, khả năng
tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam (trung bình khoảng 20 triệu
USD) sẽ không thể gánh vác nổi.
Rõ ràng tăng hoa hồng và hạ giá phí có thể mang lại doanh thu trước
mắt, nhưng về lâu dài đây không thể là phương thức cạnh tranh hiệu quả.
Việc các doanh nghiệp bảo hiểm cạnh tranh không lành mạnh như vậy là một
điểm bất lợi cho các hoạt động TBH, đặc biệt là nhượng TBH, vốn là hoạt
động chính của thị trường TBH Việt Nam.
Qua những phân tích trên, ta có thể nhận định rằng, thị trường bảo phi
nhân thọ Việt Nam nhìn chung đang có những bước tăng trưởng đáng khích lệ
trong những năm qua. Tuy vậy thị trường hiện nay đang có những biểu hiện
xấu cần phải điều chỉnh mà điển hình là hoạt động cạnh tranh thiếu lành mạnh
của các doanh nghiệp bảo hiểm gốc. Để có thể giữ vững được đà tăng trưởng
và tạo đà cho thị trường TBH phát triển, những vướng mắc trên cần được xử
lý thỏa đáng.
2.
Thị trƣờng TBH
2.1 Tổng quan toàn thị trường
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
53
2.1.1 Nhượng TBH
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Về qui mô nhượng tái:
Qua biểu đồ 2.3, ta thấy trong 3 năm trở lại đây phí nhượng TBH ra
nước ngoài tăng cả về qui mô lẫn tỷ trọng so với phí bảo hiểm khai thác trong
nước. Giải thích cho tình trạng này có thể xem xét đến một số nguyên nhân
chính sau:
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang ngày càng mở rộng, nhiều đơn
bảo hiểm có giá trị bảo hiểm lớn được cấp mà hầu hết là các đơn bảo
hiểm xây dựng lắp đặt cho các công trình giao thông, thủy điện, nhiệt
điện. Những công trình loại này có giá trị bảo hiểm vượt xa khả năng
tài chính của công ty khai thác bảo hiểm trong nước. Một công trình có
giá trị bảo hiểm lên tới 50 triệu đô la trong khi các doanh nghiệp có vốn
pháp định chưa đến 300 tỷ đồng (gần 20 triệu USD) nếu không TBH ra
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
54
nước ngoài thì khi xảy ra tổn thất, nguy cơ phá sản là rất cao.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Những công trình xây dựng lắp đặt có quy mô lớn, số tiền bảo hiểm cao
và tình hình rủi ro phức tạp. Để định phí cho những công trình có tầm
cỡ như vậy, trình độ chuyên môn về thẩm định của các nhà bảo hiểm
trong nước còn hạn chế, các doanh nghiệp trong nước vì thế phải
thương thảo với các nhà tái có uy tín trên quốc tế để được trợ giúp về
mặt kỹ thuật để định phí rồi mới có thể cấp đơn bảo hiểm. Trên thực tế,
với những công trình có vốn đầu tư nước ngoài, chủ công trình do buộc
phải mua bảo hiểm từ các công ty trong nước nên họ đã chỉ định nhà
TBH nước ngoài để đảm bảo độ tin cậy về khả năng thanh toán cho đối
tượng bảo hiểm. Trong những trường hợp như vậy, tỷ lệ tái thường rất
cao (có khi lên đến 100%) và các công ty bảo hiểm Việt Nam chỉ hoạt
động như một nhà môi giới bảo hiểm để nhận hoa hồng.
Số doanh nghiệp khai thác bảo hiểm gốc ngày càng nhiều, trong khi cả
nước mới có duy nhất một công ty TBH chuyên nghiệp là VINARE.
Tuy rằng các công ty hoạt động bảo hiểm gốc trong nước cũng nhận
TBH lẫn nhau, nhưng tỷ lệ này không đáng kể. Các công ty sau khi
nhận tái từ thị trường trong nước thường vẫn tiếp tục tái ra thị trường
bảo hiểm quốc tế. Thêm vào đó, từ khi Bộ tài chính bãi bỏ quy định bắt
buộc các doanh nghiệp trong nước TBH cho VINARE, nhiều doanh
nghiệp bảo hiểm gốc đã không ngần ngại tìm đến các nhà TBH có uy
tín trên thế giới, đặc biệt là các công ty có mạng lưới môi giới hoạt
động ngày càng mạnh tại thị trường Việt Nam.
Kết quả kinh doanh nhượng tái:
Kết quả kinh doanh nhượng TBH nhìn chung là lỗ, tỷ lệ thu đòi từ nhà
TBH luôn thấp hơn so với số phí bảo hiểm tái đi. Nhưng cũng xin nhắc lại
rằng, mục tiêu chính của hoạt động nhượng TBH là để đảm bảo ổn định kinh
doanh chứ không phải là để gia tăng lợi nhuận. Nếu không có hoạt động
nhượng tái, thì các doanh nghiệp trong nước cũng không thể nhận những đơn
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
55
bảo hiểm có giá trị lớn. Hiện nay hầu hết các đơn bảo hiểm phi nhân thọ lớn
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
đều liên quan đến TBH, nếu chúng ta không tính đến số đơn bảo hiểm có phát
sinh tái này, thì doanh thu gốc của toàn thị trường phải giảm đi đáng kể. Vì
vậy, xét cho cùng hoạt động TBH hiện vẫn đi đúng hướng. Muốn giảm tỷ lệ
TBH trong lúc này, biện pháp tốt nhất (và duy nhất) là tăng cường năng lực
tài chính và trình độ nghiệp vụ cho các công ty bảo hiểm trong nước để các
công ty này có khả năng đảm đương các đơn bảo hiểm có giá trị lớn mà
không cần phải tìm đến nhà TBH.
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Nhận TBH
Nhìn trên biểu đồ 2.4, ta thấy trong 3 năm qua, hoạt động nhận TBH đã
tăng trưởng khá nhanh đặc biêt là năm 2005, doanh thu nhận TBH nước ngoài
tăng 116% so với năm 2004, tốc độ này đã chậm dần lại vào các năm sau đó.
Năm 2007, doanh thu phí nhận TBH toàn thị trường ước tính đạt 106.1 tỷ
đồng (tăng 7.1% so với năm 2006). Thị trường nhận TBH của Việt Nam chủ
yếu là Nga, Trung Quốc, ấn Độ, Hàn Quốc và gần đây có mở rộng sang cả thị
trường Nhật Bản. Các công ty bảo hiểm Việt Nam nhận TBH hầu hết là qua
môi giới. Một số nhà môi giới chính có thể kể đến là INGOSSTRAKH (Nga),
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
56
JB BODA (Ấn Độ), JIANG TAI (Trung Quốc), KOREA RE (Hàn Quốc).
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Bảng 2.3 BỒI THƯỜNG NHẬN TBH NGOÀI NƯỚC TOÀN THỊ TRƯỜNG
2004
2005
2006
Phí nhận tái (tỷ đồng)
283.87
362.48
457.21
Bồi thường (tỷ đồng)
11.87
19.02
119.98
Tỷ lệ bồi thường (%)
4.18%
5.25%
26.24%
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam
Kết quả kinh doanh nhận TBH ngoài nước trong những năm gần đây đã
khả quan hơn trước nhiều. Nếu như trong những năm đầu nhận TBH, thu
không đủ bù chi thì hiện nay tỷ lệ bồi thường so với phí nhận tái là tương đối
thấp (xem bảng 2.3), các hoạt động nhận tái hầu hết đều đem lại lợi nhuận.
Nhận TBH nước ngoài vì thế cũng bắt đầu nhận được sự quan tâm của các
doanh nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp và không chuyên. Trong những
năm tới, chắc chắn đây sẽ là một mảng hoạt động rất có tiềm năng trong lĩnh
vực TBH.
Tuy vậy, kinh doanh TBH tại Việt Nam vẫn tỏ ra rất mất cân bằng nếu
đem so sánh hoạt động nhận tái với hoạt động nhượng tái (xem biểu đồ 2.5).
Doanh thu từ nhận TBH nước ngoài chưa đến 10% phí TBH ra nước ngoài.
Những con số trên đã chứng tỏ rằng, thị trường TBH phi nhân thọ Việt Nam
chỉ có nhượng tái là chủ yếu, hoạt động nhận tái từ nước ngoài tuy đã bắt đầu
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
57
phát triển nhưng còn rất mờ nhạt.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Sở dĩ có xu hướng này là do thị trường bảo hiểm phi nhân thọ trong
nước đang phát triển rất nhanh mà khả năng tài chính của các công ty kinh
doanh bảo hiểm thì chưa theo kịp, nên việc nhượng tái vẫn là xu hướng chính.
Thêm vào đó, Việt Nam chi có duy nhất một công ty TBH chuyên nghiệp là
VINARE, còn các công ty bảo hiểm gốc khác chưa coi nhận TBH là hoạt
động kinh doanh chính của mình nên chưa chú trọng mà chỉ quan tâm đến
việc khai thác bảo hiểm gốc. Về phần VINARE, với số vốn pháp định chỉ vào
khoảng 335 tỷ đồng , công ty này chưa thể đảm nhiệm hết nhu cầu nhượng tái
của các công ty bảo hiểm trong nước, nên hoạt động nhận TBH còn chưa
được chú trọng. Khả năng tài chính hạn chế cũng chỉ là một phần, để có thể
phát triển hoạt động nhận TBH, các doanh nghiệp còn cần có trình độ tốt để
thẩm định, đánh giá rủi ro, điều này không đơn giản vì đối tượng bảo hiểm
trong hoạt động nhượng tái nằm ở nước ngoài, các doanh nghiệp của ta lại
chưa có mạng lưới đại lý và môi giới rộng khắp. Nếu cứ nhận TBH thiếu tính
toán có thể dẫn đến tình cảnh "lịch sử lặp lại" như những năm đầu của thập kỷ
90, hoạt động nhận tái chỉ mang lại thua lỗ.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
58
2.2 Tổng quan theo nghiệp vụ
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Ở phần trước, khóa luận đã trình bày tình hình phát triển chung của
toàn thị trường trong những năm qua, phần 2.2 này sẽ đi vào phân tích sâu
hơn về TBH ở từng nghiệp vụ. Người viết chỉ chọn ra đây 6 nghiệp vụ bảo
hiểm phi nhân thọ có liên quan nhiều nhất đến TBH (xem biểu đồ 2.6), đó là:
TBH cháy nổ và mọi rủi ro tài sản
TBH hàng hóa vận chuyển
TBH thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu
TBH xây dựng – lắp đặt
TBH dầu khí
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
59
TBH hàng không
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Bảng 2.4 TỶ LỆ NHƢỢNG TBH THEO NGHIỆP VỤ NĂM 2006
(Đơn vị/ Unit: 1 000 000 VNĐ)
Nghiệp vụ bảo hiểm lines of Insurance
Nhƣợng TBH trong nƣớc. Domestic reinsur.ced ed
Nhƣợng TBH ngoài nƣớc Overseas reinsur. ceded
Phí bảo hiểm gốc Direct insur. premium
Tỷ lệ nhƣợng TBH ngoài nƣớc Ceding ratio
TT
BH hàng hóa vận chuyển/ Insurance of goods transported
529,178.00 108,600.00 118,257.00 22.35%
1
333,249.00 177,389.00 128,683.00 38.61%
2
633,652.00 175,231.00 272,076.00 42.94%
3
BH hàng không/Aviation Insurance Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản/Fire,Explosion and property all risk Insurance. BH thân tàu và TNDS chủ tàu/ Hull and P&I Insurance
621,759.00
94,613.00 229,232.00 36.87%
4
BH XDLĐ/Car & EAR insurance
670,138.00 174,936.00 281,074.00 41.94%
5
BH dầu khí/Oil & gas insurance
395,228.00 113,350.00 275,005.00 69.58%
6
Toàn thị trƣờng
6,357,930.00 987,004.00
1,504,494.00 23.66%
Nguồn: Hiệp hội Bảo hiểm
2.2.1 Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển/ Insurance of goods transported
Thị trường bảo hiểm gốc
Bảo hiểm hàng hóa vận chuyển là nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ lâu
đời nhất tại Việt Nam và hiện vẫn là một trong những nghiệp vụ chính trên thị
trường. Doanh thu phí bảo hiểm hàng hóa vận chuyển hàng năm vẫn chiếm
khoảng 8% tổng doanh thu của toàn thị trường. Với tình hình tăng trưởng kim
ngạnh xuất khẩu trên 20%/năm như hiện nay, tiềm năng khai thác của nghiệp
vụ bảo hiểm này là rất lớn. Tuy vậy, năm 2006 con số này mới đạt 529 tỷ
đồng, tăng 19,8% so với năm 2005, chưa phù hợp với tốc độ tăng trưởng của
kim ngạch xuất nhập khẩu (22%) và tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển
trong nước.
Nguyên nhân làm trì trệ sự tăng trưởng của mảng nghiệp vụ này chính là
do tình hình cạnh tranh quá gay gắt và không lành mạnh. Mọi doanh nghiệp
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
60
bảo hiểm đều có thể tham gia thị trường bảo hiểm hàng hóa và đây chính là
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
mảng nghiệp vụ có tính cạnh tranh cao nhất. Khách hàng lợi dụng tình hình
cạnh tranh đã gây sức ép buộc các doanh nghiệp bảo hiểm gốc phải hạ giá
phí, nới rộng phạm vi bảo hiểm. Những doanh nghiệp mới tham gia thị trường
vì muốn tăng thị phần đã không ngần ngại đáp ứng yêu sách của khách hàng.
Có những đơn bảo hiểm hàng hóa thậm chí còn bảo hiểm cả container.
Tình hình tổn thất trong năm 2006 của loại hình nghiệp vụ này vào
khoảng 60 đến 65% (cao hơn mức tổn thất trung bình của toàn thị trường là
40%).
TBH hàng hóa vận chuyển
Về TBH hàng hóa vận chuyển, phí nhượng tái ra nước ngoài cũng vào
khoảng 8% tổng phí nhượng tái của toàn thị trường do tỷ lệ TBH của nghiệp
vụ này khoảng trên 20% (tương đương với thị lệ nhượng tái của toàn thị
trường). Tỷ lệ nhượng tái như vậy là thấp nhất so với các loại hình nghiệp vụ
chủ yếu khác (xem bảng 2.4), nguyên nhân là do các doanh nghiệp trong nước
cũng có khả năng tự san sẻ rủi ro bằng cách TBH lẫn nhau.
Phương thức TBH thường được áp dụng trong nghiệp vụ bảo hiểm
hàng hóa là TBH cố định vượt mức bồi thường (excess of loss – XOL) với lý
do các tổn thất xảy ra với hàng hóa chuyên chở (trên biển là chủ yếu) chịu
nhiều tác dụng của thiên tai, nên đơn bảo hiểm XOL là phù hợp để bảo đảm
cho những tổn thất lớn, mang tính thảm họa có thể xảy đến với nhà bảo hiểm
gốc.
2.2.2 Bảo hiểm hàng không.
Thị trường bảo hiểm gốc
Doanh thu phí bảo hiểm gốc của nghiệp vụ bảo hiểm hàng không chiếm
khoảng 5% doanh thu phí bảo hiểm gốc toàn thị trường. Trong những năm
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
61
qua doanh thu gốc phí bảo hiểm hàng không khá ổn định quanh mức 300 tỷ
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
đồng. Hiện các hãng hàng không trong nước đang có kế hoạch mở rộng dịch
vụ bằng cách mua thêm máy bay, tăng chuyến bay. Trong năm nay, Vietnam
Airlines có kế hoạch mua mới 8 máy bay Boeing 777, và cho đến năm 2010
sẽ tăng thêm 18 chiếc nữa. Dịch vụ hành khách cũng ngày càng được nâng
cao. Tất cả những dấu hiệu tăng trưởng của ngành hàng không dân dụng trong
nước cũng là dấu hiệu khả quan cho ngành bảo hiểm hàng không trong thời
gian tới.
Kinh doanh bảo hiểm hàng không thế giới trong 6 năm trở lại đây (kể
từ sau ngày 9/11/2001) vẫn liên tục có lãi dù các vụ tổn thất máy bay diễn
biến ngày càng phức tạp nhưng do nhu cầu đi lại nhiều, nên “qui luật số
đông” trong bảo hiểm tỏ ra có kết quả. Riêng tại thị trường Việt Nam, không
có vụ tổn thất nào về hàng không quá lớn trong vòng 5 năm qua, chỉ có một
số vụ tổn thất nhỏ về sức khỏe, hành lý của hành khách... (hầu hết là dưới
mức miễn thường) do các công ty bảo hiểm gốc tự chi trả. Nhờ tình hình tổn
thất tốt, nên hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng không Việt Nam nhìn
chung khá phát đạt.
TBH hàng không.
Đơn bảo hiểm hàng không tuy ít nhưng lại có giá trị bảo hiểm rất lớn
và đều liên quan đến TBH. Nói cách khác, nhờ có hoạt động nhượng TBH mà
các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam mới có thể nhận các đơn bảo hiểm hàng
không có giá trị lên đến hàng chục triệu đô la. Các doanh nghiệp bảo hiểm
gốc trong nước khi nhận bảo hiểm hàng không đều tái đi đến 90% trách
nhiệm (có những hợp đồng bảo hiểm còn tái đến 99%) trong đó thị trường
trong nước nhận tái khoảng hơn 50% còn lại là tái ra nước ngoài. (xem bảng
2.4)
Phương thức TBH thường được sử dụng là TBH cố định số thành, vì
nghiệp vụ bảo hiểm hàng không có số tiền bảo hiểm lớn và tương đối đồng
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
62
nhất, các công ty bảo hiểm Việt Nam lại chưa có nhiều kinh nghiệm trong
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
nghiệp vụ bảo hiểm này. TBH cố định số thành giúp đơn giản việc theo dõi và
tranh thủ sự giúp đỡ của công ty TBH trong các vẫn đề về kỹ thuật và chuyên
môn.
2.2.3 Bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản/ Fire, Explosion and property
all risk Insurance.
Thị trường bảo hiểm gốc.
Bảo hiểm cháy cũng là một trong những loại hình bảo hiểm phi nhân
thọ được triển khai rất sớm ở Việt Nam. Doanh thu phí bảo hiểm từ nghiệp vụ
này chiếm đến 10% doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ toàn thị trường.
Trong 3 năm qua, tăng trưởng doanh thu của toàn thị trường khoảng
15%/năm. Sáu tháng đầu năm 2007, doanh thu phí đã đạt 417,68 tỷ đồng
(bằng 65% doanh thu cả năm 2006). Chính phủ cũng mới ban hành NĐ 130
qui định về bảo hiểm cháy nổ bắt buộc trong đó có 16 đối tượng phải mua bảo
hiểm bắt buộc cháy nổ và 16 loại trừ bảo hiểm. Qui tắc này chắc chắn sẽ có
tác động tốt dến doanh thu bảo hiểm cháy nổ trong thời gian tới.
Tình hình bồi thường tổn thất với nghiệp vụ bảo hiểm cháy biến động
quanh mức 30%/năm, tương đương với mức trung bình của toàn thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ. Thực chất thiệt hại cháy nổ do thiên tai và tai nạn
hàng năm lớn hơn rất nhiều so với số bồi thường từ các nhà bảo hiểm. Tổn
thất sau cơn bão Xangsen năm 2006 lên đến hơn 10 ngàn tỷ đồng nhưng số
bồi thường mà bảo hiểm chi trả chỉ chiếm khoảng trên dưới 200 tỷ đồng
(chiếm khoảng 2%). Nhìn chung, bảo hiểm cháy nổ đang trải qua những năm
làm ăn không được suôn sẻ; tình hình tổn thất với nghiệp vụ cháy nổ diễn
biến phức tạp trong những năm gần đây nhưng phí bảo hiểm cháy nổ lại đang
có xu hướng giảm do cạnh tranh trên thị trường ngày càng ngay gắt.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
63
TBH cháy nổ và mọi rủi ro tài sản
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Bảo hiểm cháy nổ cũng là một lĩnh vực có sự tham gia mạnh của
nghiệp vụ nhượng tái. Trong mảng kinh doanh nhượng TBH cháy nổ chiếm
đến 18% tổng phí nhượng ra nước ngoài của toàn thị trường chỉ dưới bảo
hiểm xây dựng – lắp đặt. Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 633,65
tỷ đồng thì các nhà bảo hiểm gốc đã tái đi đến 447,31 tỷ đồng (71%) trong đó
nhượng tái ra nước ngoài chiếm đến 42,94% (xem bảng 2.4). Tỷ lệ tái đi lớn
như vậy cũng do qui mô tổn thất với loại hình bảo hiểm này vượt quá khả
năng tài chính của các doanh nghiệp trong nước và tính chất phức tạp của rủi
ro cháy trong những năm gần đây.
Phương thức TBH được áp dụng chủ yếu trong nghiệp vụ bảo hiểm
cháy nổ và mọi rủi ro tài sản là phương thức TBH cố định mức dôi, các nhà
bảo hiểm gốc thường cũng ký thêm các hợp đồng TBH vượt mức bồi thường
để đảm bảo cho các tổn thất cháy nổ xảy ra có liên quan đến thiên tai, mang
tính thảm họa.
2.2.4 Bảo hiểm thân tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu/ Hull and P&I
Insurance
Thị trường bảo hiểm gốc.
Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm gốc đạt 621,76 tỷ đồng (tăng 18%
so với năm 2005) chiếm 10% tổng doanh thu toàn thị trường. Cùng với sự
phát triển của ngành hàng hải và đóng tàu Việt Nam trong những năm qua,
kinh doanh bảo hiểm thân tàu và TNDS của chủ tàu cũng tăng trưởng tốt
nhưng chưa tương xứng. Giá trị bảo hiểm thân tàu tăng từ 50 đến 150% (tùy
từng đội tàu) nhưng phí bảo hiểm chỉ tăng có 15 – 20%. Nguyên nhân cũng
do tình hình cạnh tranh quyết liệt, các doanh nghiệp bảo hiểm đua nhau hạ
phí.
Tỷ lệ tổn thất ở nghiệp vụ này thuộc loại cao nhất trong toàn ngành. Tỷ
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
64
lệ tổn thất năm 2006 là 53,9%; năm 2005 là 62,88% và năm 2004 là 46,31%.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Với các doanh nghiệp con ít kinh nghiệm trên thị trường, tỷ lệ chi bồi thường
còn cao hơn rất nhiều như trường hợp Bảo hiểm Bưu điện (PTI): 115%; Bảo
Long 105% (số liệu năm 2005 - Hiệp hội bảo hiểm). Trước tình hình kinh
doanh diễn biến xấu như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng như các hiệp
hội bảo hiểm tương hỗ chắc chắn sẽ gây sức ép buộc tăng phí bảo hiểm trong
những năm tới.
TBH thân tàu và TNDS của chủ tàu
Tỷ lệ nhượng TBH ra nước ngoài ở nghiệp vụ này vào khoảng 36,87%
- tương đối cao và ổn định trong 5 năm trở lại đây. Năm 2006, hoạt động kinh
doanh nhượng tái ra nước ngoài ở nghiệp vụ này đạt 229,23 tỷ đồng - chiếm
15% toàn thị trường (trong khi bảo hiểm gốc chỉ chiếm 10% - xem biểu đồ
2.6).
Phương thức TBH thường được áp dụng với nghiệp vụ bảo hiểm thân
tàu là TBH vượt mức bồi thường, với những đối tác TBH có tính chất chia sẻ
rủi ro thì TBH số thành vẫn được áp dụng. Còn bảo hiểm TNDS của chủ tàu
vẫn được thực hiện với các hội bảo hiểm tương hỗ như West of England,
London Pool (Anh), Gard (Nauy), thực chất việc “TBH” cho các hội này
mang tính chất của đồng bảo hiểm quốc tế hơn là TBH vì các doanh nghiệp
bảo hiểm gốc không nhận được hoa hồng khi chuyển phí nhượng tái. Tỷ lệ tái
cho các hội bảo hiểm tương hỗ là 52%, còn lại các công ty bảo hiểm gốc có
thế tiếp tục nhượng cho các doanh nghiệp kinh doanh TBH khác và nhận hoa
hồng bình thường.
2.2.5 Bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Thị trường bảo hiểm gốc
Bảo hiểm xây dựng lắp đặt năm 2006 đạt doanh thu hơn 670 tỷ đồng
(xem bảng 2.4) (tăng 36,5% so với năm 2005) đóng góp 11% tổn phí bảo
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
65
hiểm toàn thị trường phi nhân thọ. Tốc độ tăng trưởng này vẫn được giữ vững
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
trong những năm qua và được dự báo sẽ còn tiếp tục phát huy trong những
năm tới do tốc độ giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và viện trợ
phát triển (ODA) vẫn ổn định. Đối tượng của bảo hiểm xây dựng, lắp đặt
không chỉ có các công trình trọng điểm quốc gia, mà các dự án khu công
nghiệp, khu thương mại, đô thị do khu vực tư nhân đầu tư cũng ngày càng
nhiều.
Tỷ lệ bồi thường ở mảng nghiệp vụ này năm 2006 là 7,24%; năm 2005
là 12,09% và năm 2004 là 11,14%. Với tỷ lệ bồi thường tương đối thấp như
vậy, lẽ ra kết quả kinh doanh ở bảo hiểm xây dựng – lắp dặt là khá khả quan.
Nhưng, vấn đề mà ngành gặp phải ở nghiệp vụ này chính là tình trạng cạnh
tranh không lành mạnh. Các đơn bảo hiểm cho các dự án lớn thường phải đấu
thầu, và các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm gốc thì rất “chiều” khách
hàng vì số phí bảo hiểm thường là rất lớn; cũng chính vì vậy mà việc nhiều
doanh nghiệp tự ý tăng hoa hồng, trả hoa hồng dưới nhiều hình thức khác
nhau, hạ phí bảo hiểm, mở rộng phạm vi bảo hiểm hết mức. Việc kinh doanh
bảo hiểm xây dựng, lắp đặt vì vậy ngày càng trở nên khó khăn và tốn kém.
TBH xây dựng lắp đặt
Tỷ lệ nhượng TBH ra nước ngoài chiếm khoảng 42%, với tỷ lệ tái cao
và doanh thu gốc cũng tương đối lớn, nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng – lắp đặt
hiện là mảng nghiệp vụ có lượng phí bảo hiểm tái ra nước ngoài lớn nhất thị
trường (chiếm 20% tổng phí nhượng đi). Nguyên nhân của việc tỷ lệ tái đi
nhiều như vậy ngoài việc khả năng tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm gốc
còn hạn chế và cũng phải kể đến việc TBH chỉ định được áp dụng nhiều
trong các hợp đồng bảo hiểm xây dựng – lắp đặt. Khi đấu thầu một đơn bảo
hiểm cho một công trình có vốn đầu tư nước ngoài, chủ đầu tư có thể yêu cầu
các công ty bảo hiểm tham gia phải tái đi một tỷ lệ nhất định cho bên nhận tái
nước ngoài nào đó vì họ tin tưởng vào khả năng tài chính của đối tác nước
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
66
ngoài, hoặc đối tác đó là đối tác chiến lược của chủ đầu tư.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Phương tức TBH thường được sử dụng cho các đơn bảo hiểm xây dựng
– lắp đặt thường là TBH tạm thời, theo tỷ lệ bởi mỗi công trình có đặc thù
riêng, tình hình rủi ro khác nhau, và thời gian cũng khác nhau, các bên tham
gia bảo hiểm gốc thường phải ngồi lại cùng với nhà TBH để cùng thống nhất
các điều khoản, mức phí. Việc đàm phán nhiều như vậy là khá tốn kém nhưng
xứng đáng với các đơn bảo hiểm có giá trị lớn và thời gian bảo hiểm dài như
bảo hiểm xây dựng – lắp đặt.
2.2.6 Bảo hiểm dầu khí/ Oil & gas Insurance.
Thị trường bảo hiểm gốc
Xét về doanh thu gốc, bảo hiểm dầu khí chiếm khoảng 6% tổng doanh
thu bảo hiểm phi nhân thọ. Thị trường bảo hiểm dầu khí có nhiều biến động
trong vòng 5 năm qua, sau năm tăng trưởng 2002 (tăng 78%), toàn thị trường
chứng kiến 3 năm ảm đạm sau đó: doanh thu sụt giảm, số đơn bảo hiểm mới
hầu như không tăng thêm. Đến năm 2006, tình hình lại khởi sắc trở lại với
mức tăng trưởng 76%. Xu hướng này vẫn tiếp tục được giữ vững trong năm
2007, chỉ riêng 2 quý đầu năm, doanh thu bảo hiểm ở nghiệp vụ bảo hiểm dầu
khí đã đạt 409,71 tỷ đồng (trong khi doanh thu của cả năm 2006 mới đạt
395,23 tỷ đồng). Nguyên nhân thúc đẩy tăng trưởng của nghiệp vụ bảo hiểm
dầu khí trong hai năm qua là nhờ các dự án xây dựng đường ống dẫn dầu,
giếng dầu và các dự án khai thác thăm dò đang được gấp rút triển khai tại
nhiều nơi dọc đường bờ biển. Những dự án lớn có thể kể tên là: dự án đường
ống dẫn dầu Nam Côn Sơn của, dự án khu khai thác Cửu Long JOC, giếng
khoan ngoài khơi của BP; các dự án thăm dò khai thác của các nhà thầu nước
ngoài như PIDC, VRJ, Idemitsu, Premier Oil...
Tổn thất trong ngành dầu khí không nhiều, tỷ lệ bồi thường trên phí bảo
hiểm gốc trong năm 2004, 2005 và 2006 lần lượt là: 1,24%; 5,18% và
21,91%. Đầu năm 2007 chưa có vụ tổn thất nào đáng kể xảy ra với ngành dầu
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
67
khí, tính đến hết quý 2, số tiền bồi thường thuộc trách nhiệm bảo hiểm mới
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
chiếm 0,11% số tiền bảo hiểm gốc. Bảo hiểm dầu khí cũng như bảo hiểm
hàng không, là lĩnh vực mang lại không ít lợi nhuận cho các nhà kinh doanh
bảo hiểm.
TBH dầu khí
Tỷ lệ TBH ra nước ngoài ở nghiệp vụ bảo hiểm dầu khí từ trước đến nay
vẫn là cao nhất trong số các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ. Năm 2006,
trong số 395,23 tỷ đồng phí bảo hiểm gốc, các doanh nghiệp bảo hiểm đã phải
tái đi 388,35 tỷ đồng (tương đương 98%) trong đó các doanh nghiệp trong
nước chỉ nhận tái được 28,68% số còn lại tái ra thị trường bảo hiểm quốc tế.
Tổng phí nhượng tái ra nước ngoài của bảo hiểm dầu khí vào khoảng 18% phí
nhượng tái ra nước ngoài của toàn thị trường – tương đương với phí nhượng
tái của nghiệp vụ bảo hiểm cháy nổ và mọi rủi ro tài sản là loại hình nghiệp
vụ có doanh thu gốc gần gấp rưỡi.
Phương thức TBH được sử dụng trong nghiệp vụ TBH dầu khí tương tự
như bảo hiểm xây dựng lắp đặt chủ yếu là đồng bảo hiểm kết hợp TBH tạm
thời.
Kết thúc chương II, khóa luận đã trình bày xong về thực tiễn việc áp
dụng TBH trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam, những nhận định
tóm tắt nhất có thể thấy là: thị trường bảo hiểm gốc và tái bảo hiểm những
năm gần đây đang phát triển nhanh về qui mô toàn thị trường cũng như số
lượng các doanh nghiệp tham gia; dù còn một số tồn tại mà hiện nóng bỏng
nhất là vấn đề cạnh tranh nhưng dự đoán đà tăng trưởng của thị trường vẫn
còn duy trì trong ít nhất vài năm tới; TBH hiện đang được áp dụng rộng rãi ở
nhiều loại nghiệp vụ khác nhau và tỏ ra là một phương pháp hữu hiệu để tăng
khả năng nhận bảo hiểm và san sẻ rủi ro của các nhà bảo hiểm gốc trong
nước; tuy vậy thị trường TBH Việt Nam vẫn tập trung vào nhượng TBH là
chính, chỉ có duy nhất một công ty Việt Nam hoạt động chuyên nghiệp trong
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
68
lĩnh vực nhận TBH, nếu so sánh với thị trường thế giới thì chúng ta còn thua
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
kém khá xa, nhưng sau tất cả những thành tựu mà chúng ta đạt được cũng là
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
69
rất đáng khích lệ với một thị trường TBH mới có hơn chục năm hoạt động.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
CHƢƠNG III: NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC VỚI THỊ
TRƢỜNG TBH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
Bắt đầu từ khi chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại
thế giới (WTO), nước ta đang bước những bước sâu hơn vào tiến trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Hội nhập là xu thế tất yếu và không loại trừ một ngành
sản xuất dịch vụ nào. Nó mang lại cho những doanh nghiệp những cơ hội mới
nhưng cũng buộc họ phải đối mặt với những thách thức thật sự. Ngành bảo
hiểm cũng không nằm ngoài xu thế đó.
I. CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỀ MỞ CỬA THI TRƢỜNG
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
1. Cam kết khi gia nhập WTO
Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới
Theo biểu cam kết cụ thể về dịch vụ của Ban công tác về việc gia nhập
WTO của Việt Nam, sau 5 năm gia nhập, doanh nghiệp nước ngoài sẽ được
thành lập các chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam.
Tuy nhiên, ngay từ thời điểm Việt Nam gia nhập WTO, các hãng bảo
hiểm nước ngoài đã được tham gia thị trường Việt Nam qua phương thức
"cung cấp qua biên giới". Tức là doanh nghiệp bảo hiểm ở một nước thành
viên WTO được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các cá nhân, và pháp nhân
Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Các dịch vụ này bao gồm: dịch vụ bảo
hiểm phi nhân thọ cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam, được cung cấp dịch vụ TBH và môi giới
TBH, dịch vụ tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
70
Cam kết hiện diện thương mại và điều kiện kinh doanh bắt buộc
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Việt Nam cam kết không hạn chế việc thành lập pháp nhân của công ty
bảo hiểm nước ngoài, ngoại trừ trường hợp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ
mở cửa cho công ty 100% vốn nước ngoài vào ngày 1/1/2008. Các loại hình
bảo hiểm bắt buộc bao gồm: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới,
bảo hiểm bắt buộc người kinh doanh vận tải hành khách và hàng dễ cháy nổ
trên đường thủy nội địa, bảo hiểm cháy nổ, bên cạnh đó là các loại bảo hiểm
người Việt Nam du lịch lữ hành quốc tế, xây dựng – lắp đặt, người sử dụng
lao động trong hoạt động xây dựng, công trình dầu khí, công trình dễ gây
nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường đang chuẩn bị dự thảo ban
hành và nếu có sẽ được thực hiện vào cuối năm 2007. Việt Nam cho phép
công ty nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể
từ khi gia nhập WTO và không cho phép thành lập chi nhánh bảo hiểm nhân
thọ.
Cam kết xóa bỏ tỷ lệ TBH bắt buộc sau 1 năm
Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện TBH ra nước ngoài
đều phải thực hiện TBH bắt buộc tối thiểu 20% cho Tổng công ty cổ phần
TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE) nhưng sau 1 năm gia nhập WTO, quy
định này sẽ bị bãi bỏ.
2
Cam kết tại hiệp định thƣơng mại song phƣơng Việt – Mỹ
(Phụ lục G)
Hiệp định thương mại Việt – Mỹ 2001 cũng đã có những qui định về mở
cửa thị trường tài chính trong đó có mở cửa thị trường bảo hiểm với các
doanh nghiệp Mỹ có vốn đầu tư tại Việt Nam và cả những doanh nghiệp
không có pháp nhân tại thị trường Việt Nam.
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
71
Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ không hoạt động tại Việt Nam
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Được cung cấp: dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp nước ngoài và
người nước ngoài hoạt động và làm việc tại Việt Nam;
Cung cấp dịch vụ TBH, môi giới bảo hiểm và môi giới TBH;
Cung cấp dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế;
Cung cấp dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại, đánh giá rủi ro.
Doanh nghiệp bảo hiểm Mỹ thành lập và hoạt động tại Việt Nam:
Việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình xây dựng Luật kinh
doanh bảo hiểm (khi ký hiệp định thương mại song phương – ngày
13/7/2000, Luật kinh doanh bảo hiểm chưa được ban hành).
3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực (ngày 10/11/2001) được thành lập
công ty liên doanh – phía Mỹ không quá 50% vốn. 5 năm sau khi hiệp
định có hiệu lực được thành lập công ty 100% vốn Hoa Kỳ.
Các công ty vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các loại dịch vu đại lý
bảo hiểm. Các công ty có vốn Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch
vụ bảo hiểm bắt buộc (hạn chế này sẽ được bãi bỏ với công ty liên
doanh là 3 năm, công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi Hiệp định
có hiệu lực).
Các công ty bảo hiểm Hoa Kỳ thành lập tại Việt Nam cũng phải TBH
bắt buộc ít nhất 20% (nếu có phát sinh nhượng tái) và qui định này sẽ
được bãi bỏ sau 5 năm Hiệp định có hiệu lực.
Với nội dung hai cam kết như trên, có thể thấy bảo hiểm là mảng dịch
vụ tài chính có lộ trình mở cửa nhanh nhất so với các dịch vụ tài chính ngân
hàng khác. Nếu như các rào cản với ngành ngân hàng chỉ được gỡ bỏ hoàn
toàn vào năm 2010, thì ngay từ 1/1/2008, về cơ bản các ràng buộc về khai
thác thị trường và đãi ngộ quốc gia trong ngành bảo hiểm đã không còn. Các
doanh nghiệp bảo hiểm sẽ gặp phải những cơ hội và đối mặt với những thách
thức gì trong những năm tới. Các nội dung này sẽ được phân tích trong các
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
72
phần tiếp theo.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
II. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC MỚI VỚI THỊ TRƢỜNG
TBH TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP.
1
Cơ hội
1.1 Qui mô thị trường tăng nhanh, đa dạng hóa sản phẩm.
Sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) thực sự
là một cú hích với cả nền kinh tế. GDP trong những năm qua tăng trưởng trên
8%/năm và xu hướng này còn giữ vững trong khoảng 4, 5 năm tới. Cơ cấu
kinh tế cũng đang có chuyển dịch theo hướng tích cực, tăng trưởng mạnh ở
các ngành công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, tăng trưởng ở ngành nông – lâm –
thủy sản chậm hơn. FDI vào Việt Nam trong năm 2006 đã lên đến 10,2 tỷ
USD, kim ngạch xuất khẩu đạt 29,6 tỷ USD; nhập khẩu 40 tỷ USD, doanh
thu ngành du lịch cũng tăng 28,5% với 3,56 triệu lượt khách trong năm 2006.
Nửa năm đầu 2007, kinh tế đã tăng trưởng 7,9% so với cùng kỳ năm ngoái –
mức cao nhất trong vòng 5 năm trở lại đây. Dù có nhiều khó khăn về dịch
bệnh, thiên tai, nhưng tốc độ tăng trưởng mà nền kinh tế Việt Nam trong
những năm tới được dự báo là vẫn rất khả quan.
Nền kinh tế phát triển nhanh như vậy chắc chắn sẽ tăng tiềm năng cho
thị trường bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Các chuyên gia bảo hiểm đều nhận định 95% tiềm năng thị trường bảo hiểm
Việt Nam còn chưa được khai thác. Doanh thu phí bảo hiểm tuy tăng trưởng
nhanh trong những năm qua nhưng mới chỉ đạt gần 2% GDP, trong khi mức
trung bình trên thế giới là 7,7%.
Trong số phí bảo hiểm thu được, bảo hiểm nhân thọ vẫn chiếm tỷ lệ lớn
hơn (năm 2006 doanh thu phí bảo hiểm nhân chiếm 57% toàn thị trường)
nhưng xu hướng thị trường trong những năm qua đang cho thấy cơ cấu đang
dịch chuyển sang lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Các ngành công nghiệp,
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
73
xây dựng, thương mại, du lịch phát triển sẽ tạo động lực để nhiều sản phầm
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
bảo hiểm phi nhân thọ hiện tại phát triển thêm và cả các dịch vụ bảo hiểm mới
như bảo hiểm du lịch, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ công trình, bảo
hiểm tiền gửi, bảo hiểm tiền gửi, bảo hiểm lãi suất đầu tư...
Lộ trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước sẽ kết thúc vào năm
2009, số lượng các doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài tăng trong đó tập quán
mua bảo hiểm để đảm bảo an toàn và ổn định cho sản xuất kinh doanh của
nhà đầu tư nước ngoài sẽ lan rộng trong khối các tổ chức xã hội. Ở khu vực
khách hàng cá nhân, với trình độ dân trí và mức thu nhập ngày càng cao, các
tầng lớp nhân dân sẽ ngày càng quan tâm hơn đến nhu cầu về bảo hiểm con
người, bảo hiểm tài sản, tiền gửi tiết kiệm, chăm sóc sức khỏe y tế xã hội
ngày càng tăng.
Các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài khi tham gia lĩnh vực bảo hiểm
phi nhân thọ chắc chắn sẽ góp phần tích cực vào việc khai thác mới trên thị
trường. Nhớ lại khi các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài đầu
tiên vào Việt Nam cuối những năm 90 của thập kỷ trước, thị trường bảo hiểm
nhân thọ đã trải qua những năm tăng trưởng ấn tượng, các sản phẩm bảo hiểm
nhân thọ trước đây cũng chỉ bó hẹp ở bảo hiểm tính mạng, bảo hiểm an sinh
giáo dục, bảo hiểm hưu trí... đến nay chủng loại bảo hiểm nhân thọ đã lên đến
hơn 100, ngoài các sản phâm nhân thọ chính như bảo hiểm và tiết kiệm, bảo
hiểm trọng đơn bảo hiểm từ kỳ, niên kim... còn có các sản phẩm bảo hiểm đi
kèm để tăng mức độ phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Những
thay đổi tương tự hoàn toàn có thể kỳ vọng với thị trường bảo hiểm và TBH
phi nhân thọ khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia khai thác thị trường.
Chế độ quản lý nhà nước về bảo hiểm ngày càng hoàn thiện hơn cũng là
cơ sở pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động và cạnh
tranh lành mạnh hơn, người dân tin tưởng hơn vào doanh nghiệp và theo đó
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
74
số đơn bảo hiểm cũng tăng lên.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Cơ hội tiếp cận thị trường là cho cả hai phía, và các doanh nghiệp trong
nước khi đủ bản lĩnh cũng sẽ có điều kiện khai thác thị trường bảo hiểm ở các
nước thành viên WTO
1.2 Chuyên nghiệp hóa các dịch vụ BH và TBH theo chuẩn quốc tế
Các tập đoàn bảo hiểm và TBH uy tín nước ngoài tham gia thị trường
Việt Nam chắc chắn sẽ là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp trong nước học
hỏi về mô hình quản lý khai thác, bồi thường, nghiệp vụ định phí, đánh giá rủi
ro và giám định. Các chuyên gia bảo hiểm Việt Nam sẽ có cơ hội được đào
tạo và học hỏi những kiến thức tiên tiến nhất về bảo hiểm quốc tế. Đối với
TBH, vì là một nghiệp vụ còn rất mới tại Việt Nam nên việc học hỏi từ các
công ty TBH thế giới để hoàn thiện trình độ lại càng cấp thiết. Tất nhiên các
doanh nghiệp nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam với mục đích kinh
doanh, với mục tiêu là lợi nhuận chứ không phải là để "phát triển nền bảo
hiểm ở một nước đang phát triển" nhưng xét cho cùng muốn kinh doanh thành
công, họ buộc phải vận dụng những kinh nghiệm của mình, buộc phải đào tạo
đội ngũ lao động có chất lượng cao hơn, hợp chuẩn với mô hình quốc tế của
mình. Các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước dưới áp lực cạnh tranh sẽ buộc
phải học hỏi, cải tiến và đối mới để có thể trụ vững trên thị trường nội địa.
Còn để vươn ra thị trường thế giới, các doanh nghiệp này cần xây dựng mô
hình hoạt động theo chuẩn quốc tế bởi bảo hiểm là một lĩnh vực có độ đồng
nhất cao trên toàn thị trường. Cạnh tranh tất sẽ có kẻ thắng, người thua, nhưng
2
sau tất cả, cạnh tranh chính là động lực để cả thị trường phát triển đi lên.
Thách thức
Thách thức với các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm Việt Nam trong
thời hội nhập chính là áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các doanh nghiệp
Việt Nam phải đối mặt với hai nhóm đối thủ chính là: doanh nghiệp có vốn
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
75
đầu tư nước ngoài tại thị trường Việt Nam, và doanh nghiệp nước ngoài được
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
phép khai thác thị trường Việt Nam theo thỏa thuận về cung cấp dịch vụ qua
biên giới.
Tương quan về số lượng giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh
nghiệp FDI hiện tại đang nghiêng về doanh nghiệp trong nước vì số lượng các
doanh nghiệp nước ngoài kinh doanh trên thị trường hiện chỉ mới có hai công
ty vừa xuất hiện là Liberty và ACE (đều của Hoa Kỳ). Nhưng khi Việt Nam
gia nhập WTO, Chính phủ các nước cùng với doanh nghiệp bảo hiểm của họ
chắc chắn sẽ gây sức ép để được hoạt động tại thị trường Việt Nam, nhất là
những doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã đáp ứng được đầy đủ điều kiện
ghi trong Luật kinh doanh bảo hiểm và Chiến lược phát triển thị trường bảo
hiểm Việt Nam. Điều này rất dễ hiểu bởi thị trường bảo hiểm Việt Nam đầy
hứa hẹn khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao mà tiềm năng của thị trường
bảo hiểm thì còn chưa được khai thác hết. Như vậy lợi thế về số lượng của
các doanh nghiệp nội địa chắc chắn không giữ được lâu.
Phải cạnh tranh với nhiều đối thủ hơn, nhưng các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước lại không còn nhận được sự bảo hộ như xưa của chính phủ.
Thực hiện nguyên tắc đãi ngộ quốc gia, mọi doanh nghiệp của nước thành
viên WTO khi thành lập và hoạt động tại Việt Nam đều được đối xử công
bằng như các doanh nghiệp nội địa. Những hạn chế cuối cùng về cung cấp
dịch vụ bảo hiểm bắt buộc cũng sẽ được gỡ bỏ vào đầu năm 2008. Các doanh
nghiệp Việt Nam được cung cấp dịch vụ gì thì doanh nghiệp FDI được cung
cấp dịch vụ đó, chưa kể số lượng dịch vụ mà các doanh nghiệp FDI mang tới
và thiết kế mới còn đa dạng hơn các dịch vụ hiện có trên thị trường.
Doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm phi nhân thọ có lợi thế lớn là mối quan hệ với các doanh nghiệp
trong nước trong đó có các tổng công ty nhà nước hoạt động trong các lĩnh
vực có nhu cầu bảo hiểm ngày càng tăng như: xây dựng, giao thông, khai
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
76
thác, vận tải đường biển, hàng không.... Các doanh nghiệp này là những
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
khách hàng rất tiềm năng trên thị trường và hiện vẫn có thói quen mua bảo
hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam. Tuy nhiên, lợi thế này không còn
tồn tại được lâu bởi các Tổng công ty kể trên cũng đang gấp rút tiến hành cổ
phần hóa, sắp xếp lại, đi kèm với nó là cơ cấu tổ chức, quản lý thay đổi, các
doanh nghiệp sau cổ phần hóa trước sức ép từ cổ đông luôn đặt mục tiêu lợi
ích của công ty lên trên, việc chọn mua bảo hiểm không chỉ đơn giản phụ
thuộc vào mối quan hệ như trước. Thêm vào đó, họ có nhiều lựa chọn hơn là
các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc mọi thành phần kinh tế mà trong đó phải kể
đến những doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Lợi thế đầu tiên mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm có vốn đầu
tư nước ngoài chính là tiềm lực vốn mạnh. Với một doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm, thì tiềm lực vốn phần nào đồng nghĩa với độ tin cậy của doanh
nghiệp đó bởi kỳ vọng của một cá nhân hay tổ chức khi mua bảo hiểm là để
công ty bảo hiểm có thể chi trả cho họ những tổn thất không may xảy ra với
đối tượng bảo hiểm, để họ có thể ổn định đời sống và sản xuất kinh doanh.
Trong suy nghĩ thông thường của mọi khách hàng, công ty bảo hiểm có tiềm
lực vốn lớn, khả năng tài chính mạnh đương nhiên sẽ đảm nhận tốt hơn nhiệm
vụ bồi thường cho khách hàng. Lợi thế tiếp theo là các doanh nghiệp này
được sự hỗ trợ về nghiệp vụ từ công ty mẹ – thường là những tập đoàn bảo
hiểm có hàng trăm năm kinh nghiệm trên thị trường thế giới. Tuy thị trường
Việt Nam với họ còn rất mới mẻ nhưng như ông Evan G. Greenberg, Giám
đốc tập đoàn bảo hiểm ACE đã tuyên bố với Thời báo kinh tế Việt Nam:
“ACE có đủ điều kiện và khả năng để có thể cung cấp tất cả những sản phẩm phi nhân thọ theo nhu cầu của thị trường Việt Nam”6. Ngoài sự tiến bộ về
nghiệp vụ, các công ty này còn có mô hình quản lý tiên tiến hơn với công ty
trong nước, với các chiêu thức quảng bá và tiềm lực kinh tế tốt họ có khả
năng lôi kéo được lực lượng nhân sự trình độ tốt từ các doanh nghiệp Việt
6 Nguyên Thành – “ACE Việt Nam có thể cung cấp mọi loại hình bảo hiểm phi nhân thọ” – www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
77
Nam về đầu quân cho họ, làm xuất hiện một trào lưu chảy máu chất xám
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
trong ngành bảo hiểm – một ngành vốn đang thiếu nhân lực trầm trọng trong
thời kỳ mới.
Có thể nói doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xét về tương quan
lực lượng sẽ là một thách thức lớn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
trong nước. Nếu các doanh nghiệp trong nước không kịp thời đổi mới, cải
cách thì nguy cơ mất thị phần, mất nhân lực là rất rõ ràng. Nhớ lại những gì
đã xảy ra với thị trường bảo hiểm nhân thọ vài năm về trước. Các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài dù gia nhập thị trường sau nhưng đến hết năm
2006, hơn 64% thị phần bảo hiểm nhân thọ đang nằm trong tay các doanh
nghiệp nước ngoài, Bảo Việt với hơn lịch sử hoạt động hơn 40 năm đã phải
nhường ngôi vị quán quân trên thị trường bảo hiểm nhân thọ cho Prudential
với 41,6% thị phần (doanh nghiệp này được cấp phép hoạt động vào năm
1999).
Một khi các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh bảo hiểm gốc không
thuận lợi, tác động tiêu cực ắt sẽ xảy ra với thị trường tái bảo hiểm mà hiện tại
mới có VINARE là đại diện. Các công ty bảo hiểm nước ngoài với mối quan
hệ rộng rãi trên thị trường quốc tế nếu cần tái bảo hiểm chắc chắn sẽ tìm đến
những nhà tái bảo hiểm ruột, là những công ty tái bảo hiểm uy tín và có tiềm
lực lớn. Doanh nghiệp nhận tái bảo hiểm trong nước sẽ bị mất đi một lượng
khách hàng không nhỏ.
Điều đáng lo ngại hơn là cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới của
Việt Nam, với cam kết này, các doanh nghiệp bảo hiểm và TBH nước ngoài
không cần phải lập chi nhánh, hay thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam cũng có thể khai thác thị trường. Đặc biệt trong lĩnh vực
TBH, lĩnh vực mà khách hàng trực tiếp là các doanh nghiệp bảo hiểm gốc chứ
không phải là bộ phận người dân hay doanh nghiệp, thì các khoảng cách về
địa lý, hay các trở ngại về tập quán không phát huy tác dụng. Khi qui định về
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
78
tỷ lệ TBH bắt buộc đã không còn, và các nhà TBH được phép khai thác thị
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
trường Việt Nam thì dòng phí bảo hiểm thu được chuyển ra nước ngoài chắc
chắn sẽ tăng lên.
Như vậy, cơ hội có nhiều nhưng thách thức cũng không ít, doanh nghiệp
Việt Nam cần phải làm những gì để nắm bắt tốt những cơ hội và sẵn sàng đối
phó với các thách thức nêu trên. Phần giải pháp xin đưa ra một vài gợi ý.
III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN THỊ TRƢỜNG TBH
VIỆT NAM
1
Từ phía cơ quan quản lý nhà nƣớc
1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp lý cho doanh nghiệp bảo hiểm
Như đã trình bày ở đầu chương II, từ năm 2001 đến nay, không ít các
văn bản pháp lý đã được soạn thảo, ban hành để điều chỉnh và hướng dẫn hoạt
động kinh doanh bảo hiểm và tái bảo hiểm trên thị trường Việt Nam. Ngoài
các văn bản luật, nghị định, thông tư điều chỉnh hoạt động của các doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm, các bộ luật liên quan của các ngành khác có liên
quan cũng được ban hành và hoàn thiện như Luật hàng hải, Luật thương mại,
Luật hàng không dân dụng, sắp tới là Luật du lịch, Luật bảo hiểm tiền gửi....
Có thể thấy Chính phủ hiện đang rất nỗ lực để xây dựng một hành lang
pháp lý tốt nhất cho các doanh nghiệp yên tâm hoạt động, tuy vậy so với thế
giới thì hệ thống luật pháp của ta còn hổng rất nhiều, đặc biệt là trong những
lĩnh vực mới như TBH. Trong số các văn bản luật nói trên, chỉ có Mục 3 -
nghị định 42 có đề cập đến TBH, nhưng cũng chỉ ở mức rất sơ sài, chưa có
các qui định dành cho doanh nghiệp kinh doanh TBH chuyên nghiệp, hay các
thủ tục cần thiết trong qui trình TBH. Nguyên nhân có thể là do hiện chỉ có
VINARE là doanh nghiệp chuyên kinh doanh TBH duy nhất và lại là doanh
nghiệp nhà nước, hoạt động của VINARE trước nay chỉ mang tính định
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
79
hướng thị trường, hoạt động kinh doanh TBH chưa vấp phải các xung đột,
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
khúc mắc về cạnh tranh cần phải điều chỉnh nên việc làm luật còn chậm trễ.
Nhưng trong những năm tới, do yêu cầu của thực tiễn, Chính phủ và bộ tài
chính còn phải tiếp tục xây dựng hệ thống luật bảo hiểm cho phù hợp.
1.2 Hỗ trợ gián tiếp cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước về mặt
kỹ thuật, nghiệp vụ.
Theo ý kiến của tổng thư ký hiệp hội bảo hiểm Việt Nam, ông Phùng
Đắc Lộc thì "dịch vụ bảo hiểm không những bồi thường kịp thời đầy đủ tổn
thất do thiên tai, tai nạn, sự cố bất ngờ xảy ra mỗi năm hàng ngàn tỷ đồng mà
còn đầu tư vào nền kinh tế, thu hút hàng trăm ngàn lao động, nộp ngân sách
nhà nước lên đến 1000 tỷ đồng mỗi năm... nhưng chưa thực sự nhận được sự quan tâm thích đáng của các cấp các ngành và cơ quản công quyền"7.
Thật vậy, ngành bảo hiểm Việt Nam tuy không phải là một ngành quá
mới mẻ, nhưng so với trình độ của thế giới, chúng ta còn tụt hậu khá xa. Với
TBH, các doanh nghiệp thực hành bảo hiểm lại càng mù mờ hơn. Hiện nay
các hoạt động của họ đều dựa trên các tập quán quốc tế, chứ chưa có một luật
thành văn nào điều chỉnh. Các nghiên cứu trong lĩnh vực này còn hạn chế, tại
Việt Nam chưa có một tổ chức nào chuyên về kỹ thuật định phí và đánh giá
rủi ro (Acturial service) mà đây lại là điều sống còn với các doanh nghiệp
kinh doanh rủi ro là doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ, và cả doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ đều trích lập dự phòng theo
thông tư hướng dẫn mà thực tế, thông tư hướng dẫn không thể bao quát hết
các vấn đề về kỹ thuật. Việc xây dựng một Học viện bảo hiểm hoặc một trung
tâm nghiên cứu chuyên về bảo hiểm vì thế là rất cần thiết để đào tạo ra một
đội ngũ chuyên gia có trình độ trung và cao cấp, phục vụ cho nhu cầu nhân
7 (trích: Thị trường bảo hiểm Việt Nam với việc gia nhập WTO – bài viết đăng trên website Hiệp hội bảo hiểm).
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
80
lực của ngành.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Để có thể làm được điều này, khó có thể trông mong sự đầu tư của một
doanh nghiệp bảo hiểm riêng lẻ bởi họ còn mải vật lộn với áp lực cạnh tranh
gay gắt trên thị trường, chính phủ cần đứng ra có tiếng nói kêu gọi sự hỗ trợ
của các tổ chức quốc tế, các hội nghề nghiệp và các trường đại học trên thế
giới. Mở các lớp tập huấn, nâng cao trình độ của cán bộ thực hành bảo hiểm
tại các doanh nghiệp và cả cán bộ quản lý bảo hiểm của nhà nước.
Để đáp ứng nhu cầu nhân lực trong những năm tới, việc giảng dạy bộ
môn bảo hiểm ở các trường đai học cũng cần phải nhanh chóng có những cái
tiến phù hợp như: xây dựng giáo trình, khung giảng dạy cho chuyên ngành
bảo hiểm, tách bảo hiểm thành các mảng nhỏ để nghiên cứu và đạo tạo
chuyên sâu như: bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm phi nhân thọ, TBH, môi giới
bảo hiểm, định phí bảo hiểm... bởi mỗi một chuyên môn nhỏ này yêu cầu
những kiến thức nền tảng rất khác nhau chứ không đơn thuần là cộng thêm
một vài bộ môn cho các cử nhân kinh tế là có thể trở thành "chuyên gia bảo
hiểm". Thực tế cho thấy các sinh viên bảo hiểm ra trường chỉ có thể thực hiện
các nghiệp vụ với khách hàng còn việc tham gia thị trường bảo hiểm và TBH
quốc tế thì trình độ chưa đáp ứng được. Với một đội ngũ cán bộ như vậy, việc
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài – những đối thủ sẽ cung cấp dịch
vụ bảo hiểm qua biên giới cho thị trường Việt Nam sẽ vấp phải rất nhiều khó
khăn. Vì thế nhiệm vụ đào tạo cán bộ chuyên sâu về bảo hiểm là rất cấp bách
và đòi hỏi sự ủng hộ từ chính phủ và đặc biệt là sự liên kết chặt chẽ giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm với Bộ Giáo dục và Đào tạo.
1.3 Nâng cao ý thức của người dân về bảo hiểm
Ở Việt Nam, thói quen mua bảo hiểm trong doanh nghiệp và nhân dân
còn chưa phổ biến đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ. Người
dân thường chỉ chuộng các sản phẩm bảo hiểm mang tính chất tiết kiệm, còn
các doanh nghiệp tham gia bảo hiểm phần nhiều cũng là do bắt buộc. Đó là do
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
81
quan niệm về sự cần thiết của bảo hiểm với đời sống kinh tế – xã hội còn
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
chưa được ý thức hết trong đại bộ phận nhân dân. Để khắc phục điều này,
ngoài việc các doanh nghiệp tự tiến hành quảng bá sản phẩm dịch vụ, nhà
nước cũng cần phải tích cực tuyên truyền dưới nhiều hình thức, phương tiện
thông tin đại chúng. Bên cạnh biện pháp tuyên truyền, Chính phủ cũng nên
ban hành các văn bản pháp quy mang tính cưỡng chế với các loại hình bảo
hiểm quan trọng như: bảo hiểm cháy nổ, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ
công trình. Tuy thời gian đầu, các qui định này có thể không giành được sự
đồng thuận của toàn bộ nhân dân, nhưng dần dần người dân sẽ thấy được
đóng góp của bảo hiểm lớn thế nào trong việc khắc phục thảm họa, ổn định
đời sống nhân dân và hoạt động sản xuất của doanh nghiệp.
Hiện tại các dự thảo về qui định bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, qui định
bảo hiểm bắt buộc với chủ công trình, bảo hiệm trách nhiệm nghề nghiệp với
các ngành như bác sỹ, luật sư... cũng đang được Chính phủ xem xét để đưa
vào thực hiện.
2
Từ phía các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
2.1 Không ngừng cải tiến, thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới
Thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới là nhiệm vụ cần thiết của mọi doanh
nghiệp bảo hiểm nếu doanh nghiệp đó muốn thu hút được khách hàng. Hiện
nay thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đã có hơn 700 loại sản phẩm khác nhau,
đáp ứng nhu cầu bảo hiểm của các cá nhân tổ chức và doanh nghiệp. Nhưng
nếu chỉ dừng lại ở việc thị trường có nhu cầu gì ta cung cấp sản phẩm đó thì
các doanh nghiệp sẽ không thể nhanh chóng mở rộng phạm vi khai thác của
mình. Chính các doanh nghiệp phải là người tạo ra nhu cầu và thúc đẩy nhu
cầu về bảo hiểm cho khách hàng, để khách hàng thấy được bảo hiểm mang lại
những lợi ích phù hợp và thiết thực cho họ chứ không phải việc mua bảo hiểm
là một hình thức bắt buộc. Có như vậy, nhận thức chung của người dân và
doanh nghiệp về bảo hiểm mới tăng lên, bảo hiểm mới phát huy được hết vai
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
82
trò to lớn của mình là bình ổn nền kinh tế còn các doanh nghiệp kinh doanh
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
bảo hiểm mới có thể mở rộng thêm thu nhập trong khi thị phần vẫn bị thu
hẹp.
Muốn tạo ra được những sản phẩm bảo hiểm mới, khơi dậy nhu cầu của
thị trường, các doanh nghiệp bảo hiểm nên có một bộ phận chuyên trách về
phát triển sản phẩm. Bộ phận này cần có liên kết chặt chẽ với bộ phận khai
thác, quan hệ với khách hàng để tìm hiểu nhu cầu của họ từ đó thiết kế sản
phẩm cho phù hợp. Cũng không nên xem nhẹ việc học hỏi từ các doanh
nghiệp khác trên thị trường Việt Nam và thị trường quốc tế, bởi thị trường thế
giới thường phản ánh khá chính xác xu hướng phát triển của thị trường Việt
Nam.
2.2 Chú trọng hơn nữa vào hoạt động đầu tư
Do đặc thù của ngành, các doanh nghiệp bảo hiểm là nơi có số vốn nhàn
rỗi rất lớn. Qui định tại Mục 3 – chương II – nghị định 43/2001/NĐ-CP đã chỉ
rõ các doanh nghiệp được sử dụng vốn nhàn rỗi từ quỹ dự phòng nghiệp vụ
(chính là một phần giữ lại của phí bảo hiểm để chi trả cho khách hàng nếu có
tổn thất xảy ra) để đầu tư vào các lĩnh vực khác như:
Mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh, gửi
tiền tại các tổ chức tín dụng không hạn chế;
Mua cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp không có bảo lãnh, góp vốn
vào các doanh nghiệp khác tối đa 35% vốn nhàn rỗi từ dự phòng
nghiệp vụ bảo hiểm;
Kinh doanh bất động sản, cho vay, ủy thác đầu tư qua các tổ chức
tài chính - tín dụng tối đa 20% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ
bảo hiểm.
Tuy vậy, hoạt động đầu tư trước nay chưa nhận được sự quan tâm thích
đáng của các doanh nghiệp bảo hiểm, nhất là bảo hiểm phi nhân thọ. Chỉ
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
83
trong những năm gần đây, khi hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
lên cơn sốt, các doanh nghiệp bảo hiểm mới có làn sóng thành lập các quỹ
đầu tư bảo hiểm. Trên thế giới các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và
TBH đều rất chú trọng vào hoạt động đầu tư này thậm chí đầu tư mới thực sự
là hoạt động sinh lời của công ty bảo hiểm và TBH. Lấy ví dụ như trường hợp
của Swiss Re, năm 2006 trong khi lợi nhuận trước thuế của cả tập đoàn vào
khoảng 3,5 tỷ USD thì doanh thu từ hoạt động đầu tư lên đến 4,2 tỷ USD
chứng tỏ nếu không có hoạt động đầu tư thì lượng phí bảo hiểm thu được sau
khi trừ đi các chi phí bồi thường, chi phí khai thác và quản lý doanh nghiệp sẽ
không còn lợi nhuận. Phân tích như vậy để thấy được rằng đầu tư có vai trò
rất quan trọng với doanh nghiệp bảo hiểm.
Phí bảo hiểm ở Việt Nam so với các nước trong khu vực là tương đối
cao. Nguyên nhân là do số lượng khách hàng tham gia bảo hiểm chưa nhiều,
nên qui luật số đông chưa phát huy tác dụng. Nếu tận dụng tốt các cơ hội đầu
tư thì doanh nghiệp bảo hiểm có thể hạ phí bảo hiểm một cách hợp lý và khoa
học, mà vẫn duy trì được ổn định kinh doanh. Hạ phí tất nhiên sẽ tăng lợi thế
cạnh tranh cho doanh nghiệp và góp phần thu hút thêm người tham gia bảo
hiểm. Đến lúc này, qui luật san sẻ rủi ro cho số đông sẽ phát huy tác dụng và
đưa mức phí trung bình của cả thị trường giảm bớt, giảm gánh nặng cho
người mua bảo hiểm nhưng vẫn duy trì được ổn định của nền kinh tế.
2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin vào quy trình cấp đơn, quản lý, khai
thác, bồi thường
Không ai có thể nghi ngờ vai trò của việc ứng dụng công nghệ thông tin
vào việc quản lý doanh nghiệp nói chung. Nhưng người viết vẫn muốn nhấn
mạnh rằng tại một ngành kinh doanh dịch vụ như kinh doanh bảo hiểm thì
việc áp dụng công nghệ thông tin lại càng quan trọng hơn nữa. Tác dụng của
nó có thể tóm gọn trong 3 ý như sau
Thứ nhất, ứng dụng công nghệ giúp giảm bớt chi phí. Hai loại chi phí
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
84
chủ yếu của doanh nghiệp bảo hiểm là chi phí bồi thường và chi phí quản lý
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
doanh nghiệp. Nếu như chi phí bồi thường vốn phụ thuộc vào nhiều yếu tố rủi
ro thì chi phí quản lý là điều mà tự doanh nghiệp có thể kiểm soát được và
cách hiệu quả nhất chính là áp dụng công nghệ thông tin, giúp giảm bớt lượng
cán bộ nhân viên hành chính, giấy tờ vốn không hề ít trong một doanh nghiệp
bảo hiểm. Thay vào đó, doanh nghiệp có thể tập trung hơn vào việc thuê thêm
những cán bộ có trình độ cao về thẩm định, đánh giá rủi ro...
Thứ hai, ứng dụng công nghệ thông tin còn tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho khách hàng. Với việc mạng internet ngày càng trở nên phổ dụng, doanh
nghiệp bảo hiểm có thể tiến hành cấp đơn bảo hiểm qua mạng, cho khách
hàng tự thiết kế sản phẩm bảo hiểm. Với khách hàng, việc cấp đơn qua mạng
không chỉ tạo thuận tiện về mặt thời gian mà còn là cách để họ có thể tìm thấy
sản phẩm bảo hiểm phù hợp nhất. Với doanh nghiệp bảo hiểm, mạng internet
là cách để duy trì quan hệ với khách hàng và tiếp nhận nhanh nhất các thông
tin phản hồi, làm cơ sở để thiết kế sản phẩm bảo hiểm mới phù hợp với thị
hiếu của khách hàng.
Thứ ba, công nghệ thông tin là công cụ thống kê hữu hiệu cho các công
ty bảo hiểm. Một công ty bảo hiểm phải quản lý hàng vạn đơn bảo hiểm của
các khách hàng khác nhau, với các thời hạn khác nhau. Nếu không có sự can
thiệp của công nghệ thông tin thì việc theo dõi các đơn bảo hiểm này sẽ rất
vất vả mà vẫn không tránh khỏi sai sót. Các dữ liệu thống kê còn là nền tảng
quý giá để cho các công ty bảo hiểm có thể tính toán độ rủi ro, định phí và dự
đoán nhu cầu. Hiện tại các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam chưa thể tự trích
lập các quỹ dự phòng nghiệp vụ theo tình hình của riêng doanh nghiệp mình
là do trở ngại lớn về thiếu số liệu thống kê.
2.4 Có chính sách phát triển và xây dựng nguồn nhân lực cho doanh
nghiệp mình
Nguồn nhân lực luôn là yếu tố quyết định thành công của mọi doanh
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
85
nghiệp kinh doanh dịch vụ trên thị trường. Doanh nghiệp bảo hiểm cũng
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
không là ngoại lệ. Trước cơn khát nhân lực có thể dự báo trước, doanh nghiệp
bảo hiểm cần có những động thái sớm để có thể nâng cao được trình độ của
đội ngũ nhân viên hiện có đồng thời thu hút thêm người tài về làm việc cho
mình.
Đội ngũ nhân viên hiện có chính là tài sản và là lợi thế của doanh nghiệp
đang kinh doanh trên thị trường bảo hiểm. Bởi như đã phân tích ở trên, nhân
lực cho ngành bảo hiểm mang tính đặc thù chứ không thể lấy nhân lực của
các ngành hoạt động dịch vụ tài chính khác sang thay thế ngay được. Hơn thế,
hầu hết các ngành tài chính đều đang thiếu nhân lực có trình độ một cách trầm
trọng. Vì vậy, biện pháp thích hợp nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm phải
đầu tư đào tạo cán bộ nghiệp vụ của chính mình trước, để họ có thể bắt kịp
với yêu cầu cạnh tranh thời hội nhập.
Việc đào tạo đã khó, giữ được người tài ở doanh nghiệp mình lại càng
khó hơn. Để có thể níu chân những nhân viên giỏi có kinh nghiệm không
chuyển sang các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài, nơi sẵn sàng đãi ngộ họ
với một mức lợi nhuận cao hơn hẳn, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có
những chiến thuật quản lý nhân sự khôn ngoan hơn, quan tâm đến nguyện
vọng và nhu cầu phát triển của các nhân viên giỏi để khuyến khích họ gắn bó
lâu dài với doanh nghiệp.
Trong dài hạn, việc đào tạo và thu hút sinh viên mới ra trường là rất cần
thiết để phục vụ cho nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên
quan tâm hơn, hợp tác với các trường đại học và trung tâm đào tạo để góp
phần chỉnh sửa nội dung chương trình cho phù hợp với thực tiễn, tạo điều
kiện cho các sinh viên thực tập tại doanh nghiệp mình, và có sự đầu tư thích
đáng cho những ứng viên xuất sắc.
Những giải pháp được nêu ở trên đều là để tập trung phát triển thị trường
bảo hiểm phi nhân thọ nói chung. Nhưng điều dễ hiểu là chỉ khi nào thị
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
86
trường bảo hiểm gốc phát triền, các công ty bảo hiểm gốc của Việt Nam đứng
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
vững trên thị trường thì TBH với vai trò là một nghiệp vụ bổ sung mới có thể
phát đạt. Riêng về giải pháp với công ty TBH, mà cụ thể ở Việt Nam là công
ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam (VINARE), khóa luận cũng xin đưa ra
một vài góp ý để duy trì và phát huy hơn nữa vị trí hiện có của doanh nghiệp
TBH duy nhất này.
3
Giải pháp cho công ty cổ phần TBH Quốc gia Việt Nam
VINARE
Cũng như các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung, VINARE cũng cần
phải chú trọng hơn vào hoạt động đầu tư, áp dụng công nghệ thông tin vào
hoạt động của mình và nhất là công tác đào tạo, xây dựng, và "giữ chân"
nguồn nhân lực có trình độ ở lại doanh nghiệp mình. Quan trọng hơn nữa với
một doanh nghiệp TBH chính là năng lực tài chính, các nhà bảo hiểm gốc
thường tìm đến (và tin tưởng) vào các nhà tái có khả năng tài chính dồi dào,
bởi mục tiêu của họ chính là để san sẻ rủi ro và ổn định tình hình kinh doanh.
Vì vậy VINARE nên có một lộ trình huy động vốn phù hợp để nâng cao năng
lực tài chính cho mình.
Nâng cao chất lượng dịch vụ TBH với khách hàng là các doanh nghiệp
nhượng TBH: cụ thể là thực hiện đúng và nghiêm túc các cam kết về thu phí,
trả hoa hồng, tích cực tham gia giải quyết bồi thường nhanh gọn và thỏa đáng;
cùng với nhà bảo hiểm gốc quản lý rủi ro cho đối tượng bảo hiểm...
Ngoài hoạt động nhận TBH trong nước, việc VINARE cũng nên chủ
động tìm đến các thị trường bảo hiểm khác trong khu vực. WTO là cơ hội của
cả hai phía, nó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp TBH nước ngoài khai thác
thị trường Việt Nam nhưng cũng tạo điều kiện để một doanh nghiệp như
VINARE vươn ra thị trường thế giới. Bước đầu tiên để thực hiện việc mở
rộng thị trường là nhanh chóng thành lập các văn phòng đại diện tại nước
ngoài vừa để tìm hiểu thị trường, vừa để xây dựng mối quan hệ với các doanh
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
87
nghiệp bảo hiểm và TBH nước sở tại.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Tiếp tục duy trì và xây dựng mối quan hệ với các đối tác là doanh
nghiệp bảo hiểm gốc, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, mới thành lập
trên thị trường, giúp đỡ họ thông qua việc ưu tiên nhượng tái cho các doanh
nghiệp trong nước vừa để giữ lại đối ưu nguồn phí bảo hiểm vừa để tạo cơ hội
cho các doanh nghiệp nhỏ có được doanh thu và phát triển hơn. Bên cạnh việc
chuyển nhượng phí bảo hiểm, VINARE nên giúp đỡ các doanh nghiệp này về
đào tạo nghiệp vụ, cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng khác như giám định
tổn thất, định phí, đánh giá rủi ro...
Với các đối tác là nhà nhận TBH nước ngoài, thay vì cạnh tranh trực
diện, VINARE có thể đứng ra giữ vai trò môi giới TBH cho các doanh nghiệp
trong nước và cả các doanh nghiệp nước ngoài. Với kinh nghiệm và mối quan
hệ rộng rãi của mình, nếu kinh doanh thêm lĩnh vực môi giới TBH thì
VINARE hoàn toàn có cơ sở để thành công. Hoạt động môi giới có ba tác
dụng: thứ nhất là tạo thêm thu nhập cho VINARE, thứ hai là tạo giúp
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
88
VINARE giữ lại thị phần cho mình và cho cả thị trường Việt Nam.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Kết luận
TBH có vai trò quan trọng với ngành bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng và
cả nền kinh tế nói chung. TBH ở Việt Nam tuy mới hình thành với một đại
diện chính thức duy nhất là VINARE đã có những thành quả đáng kể là san sẻ
rủi ro, tăng mức giữ lại của thị trường nội địa và là cầu nối cho doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước và thị trường bảo hiểm, TBH quốc tế.
Trong những gần đây, kinh tế Việt Nam đang có những chuyển biến
nhanh và tích cực, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang có những bước tăng
trưởng ấn tượng, hoạt động TBH vì vậy có được cơ hội để phát triển và chứng
tỏ hơn nữa vai trò của mình với ngành bảo hiểm và cả nền kinh tế. Nhưng bên
cạnh những dấu hiệu khả quan của thời kỳ đầu hội nhập, ngành đang phải đối
mặt với những thách thức thật sự đó chính là áp lực cạnh tranh với các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và cả các doanh nghiệp
ở nước ngoài khai thác thị trường bảo hiểm trong nước mà cả hai lực lượng
này đều có những thế mạnh vượt trội hơn so với doanh nghiệp bảo hiểm,
TBH Việt Nam về cả năng lực tài chính và trình độ nghiệp vụ. TBH Việt
Nam với một đại diện chính thức là VINARE chắc chắn phải nỗ lực rất nhiều
mới có thể giữ vững được thị phần và tăng mức giữ lại của bảo hiểm trong
nước.
Tuy thách thức cho ngành bảo hiểm là không ít nhưng đánh giá chung
về TBH Việt Nam trong thời kỳ này không quá bi quan. Bởi vì TBH vốn là
nghiệp vụ mang tính đồng nhất cao trên toàn thế giới, nên chính nhờ có TBH
mà ngành bảo hiểm đã sớm làm quen với làn gió hội nhập, phần nào am hiểu
tập quán bảo hiểm quốc tế và các thị trường bảo hiểm nước ngoài. Nếu được
sự quan tâm và chỉ đạo đúng đắn và hợp lý từ các ban ngành và cơ quan quản
lý nhà nước, bảo hiểm Việt Nam có khả năng cạnh tranh sòng phẳng với các
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
89
doanh nghiệp nước ngoài trong thời kỳ mới.
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiếng Việt:
1. “Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực bảo hiểm” – website
TTX Việt Nam, cập nhật ngày 11/1/2007
2. “Tổng quan thị trường bảo hiểm năm 2003, 2004, 2005” - Website
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam - www.avi.org.vn
3. “Thị trường bảo hiểm – những thuận lợi và thách thức” – bài phỏng
vẫn chủ tịch HĐQT Bảo Việt Lê Quang Bình được phóng viên
Anh Minh thực hiện ngày 15/1/2007
4. Bảo Minh – Báo cáo tài chính 2006
5. Hoàng Xuân – “Bảo hiểm sau khi vào WTO: chấp nhận cạnh tranh
sòng phẳng” - www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày 06/4/2007
6. Nguyên Thành – “ACE Việt Nam có thể cung cấp mọi loại hình
bảo hiểm phi nhân thọ” – www.vneconomy.com.vn cập nhật ngày
06/4/2007
7. Nguyễn Kim Phú – Công ty bảo hiểm Sài Gòn “Giải pháp phát
triển thị trường bảo hiểm với tiến trình hội nhập quốc tế”
8. PGS. TS Hoàng Văn Châu, TS Vũ Sĩ Tuấn, TS Nguyễn Như Tiến
– Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh - Trường Đại học Ngoại
Thương - NXB Khoa học và Kỹ thuật – 2002.
9. PJICO – Báo cáo tài chính 2006
10. PVI – Báo cáo tài chính 2006
11. Tạp chí Bảo hiểm - TBH Việt Nam số 4/2006; số 1/2007; số 2/2007
12. Thùy Trang – Thời báo kinh tế Việt Nam ngày 21/8/2007– “Bảo
hiểm đối mặt nhiều thách thức trước giờ G”
13. Các văn bản pháp luật liên quan đến bảo hiểm và tái bảo hiểm của
Việt Nam...
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
90
Tiếng Anh:
Tái bảo hiểm và áp dụng tại Việt Nam
14. Bao Viet - Annual Report 2005, 2006
15. IISA - Reinsurance Practice - Explain Reinsurance as it is applied
in short term insurance
16. Munich Re - Annual Report 2006
17. Swiss Re - Annual Report 2006
18. Swiss Re – Understand Reinsurance hand book
19. Tony Allison - “Risks and rewards in China's insurance market” –
www.asiatime.com
20. US-Vietnam Bilateral Trade Agreement - US – Vietnam Trade
issue webpage - http://www.usvtc.org/trade/bta
21. Vinare - Annual Report 2002, 2003, 2004, 2005
22. WOE - Annual Report 2006
Một số websites tham khảo khác:
23. www.vinare.com.vn
24. www.baoviet.com.vn
25. www.baominh.com.vn
26. www.pvi.com.vn
27. www.pjico.com.vn
28. www.vneconomy.com.vn
29. www.taichinhvietnam.com.vn
30. www.asiatime.com
Sinh viên: Nguyễn Minh Thu – A2 K42 KTNT
91
31. www.re-world.com

