BỘ NỘI VỤ TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN XÃ ĐỨC TIẾN, HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
Khóa luận tốt nghiệp ngành : VĂN HÓA DU LỊCH Ngƣời hƣớng dẫn Sinh viên thực hiện Mã SV Khóa Lớp
: THS. NGUYỄN QUANG TRUNG : PHAN THỊ THÊU : 1805VDLA053 : 2018 - 2022 : ĐH VDLA 18A
HÀ NỘI - 2022
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài khóa luận này, tôi vô cùng biết ơn sự giúp đỡ rất
nhiệt tình từ phía các thầy cô giáo, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè cả về tinh
thần cũng như kiến thức khoa học.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới THS. Nguyễn
Quang Trung – người thầy tâm huyết đã hướng dẫn tận tình, tạo cho tác giả
động lực mạnh mẽ, say mê nghiên cứu với ý thức làm việc nghiêm túc suốt
thời gian qua.
Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban chủ nhiệm,
các thầy giáo, cô giáo trong khoa Quản lý xã hội – Trường đại học Nội Vụ Hà
Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến. Tôi xin cảm
ơn tất cả các anh chị và cô chú trong ban quản lý khu di tích Đền Trần tại tỉnh
Thái Bình đã cung cấp những tài liệu cần thiết, quý báu để tôi hoàn thành bài
khóa luận.
Cuối cùng tác giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến đồng nghiệp, bạn
bè và gia đình đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tác giả vượt qua khó
khăn nhất.
Tác giả thực hiện
Phan Thị Thêu
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “ Hoạt động du lịch văn hóa
tâm linh tại quần thể di tích đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà,
tỉnh Thái Bình” là một công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân. Tất cả
những sự giúp đỡ cho việc hoàn thành bài khóa luận này đều được trích dẫn
đầy đủ và ghi rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.
Tác giả thực hiện
Phan Thị Thêu
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
UBND Ủy Ban Nhân Dân
VHTT & DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch
HĐQT Hội đồng quản trị
DTLSVH Di tích lịch sử văn hóa.
BQL Ban quản lý
NXB Nhà xuất bản
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc UNESCO
KHXH Khoa học xã hội
GS Giáo sư
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số lượng khách du lịch đến tham quan tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện
Hưng Hà .................................................................................................................... 43
Bảng 2.1: Danh sách nhân lực du lịch tại quần thể đền Trần, xã Tiến Đức ............. 50
Bảng 2.3: Các hạng mục quần thể di tích đền thờ, lăng mộ các vua Trần xã Tiến
Đức- huyện Hưng Hà ................................................................................................ 53
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 2
4. Đối tƣợng nghiên cứu. .................................................................................... 2
5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 2
6. Nội dung nghiên cứu: ..................................................................................... 3
7. Phƣơng pháp nghiên cứu. .............................................................................. 3
8. Cấu trúc khóa luận ......................................................................................... 3
NỘI DUNG ................................................................................................................ 4
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH ................ 4
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài. ............................................. 4
1.2. Một số khái niệm liên quan. ....................................................................... 5
1.2.1. Văn hóa và du lịch văn hóa ...................................................................... 5
1.2.2. Khái niệm tâm linh .................................................................................... 7
1.2.3. Khái niệm về lễ hội .................................................................................. 10
1.2.4. Khái niệm văn hóa tâm linh .................................................................... 10
1.2.5. Quan niệm du lịch văn hóa tâm linh ...................................................... 11
1.3. Đặc điểm của hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại Việt Nam .......... 14
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 16
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH
TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN XÃ TIẾN ĐỨC, HUYỆN HƢNG HÀ,
TỈNH THÁI BÌNH .................................................................................................. 17
2.1. Khái quát về tỉnh Thái Bình ..................................................................... 17
2.1.1. Vị trí địa lý tự nhiên ................................................................................ 17
2.1.2. Tài nguyên du lịch văn hóa .................................................................... 17
2.1.3. Các lễ hội tại tỉnh Thái Bình .................................................................. 19
2.2. Văn hóa lịch sử nhà Trần và những ảnh hưởng tới vùng đất Thái Bình. .. 20
2.2.1. Văn hóa lịch sử nhà Trần với lịch sử Việt Nam .................................... 20
2.2.2. Nhà Trần tại mảnh đất Long Hưng tỉnh Thái Bình.............................. 20
2.3. Khái quát đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình. ... 24
2.3.1. Lịch sử hình thành .................................................................................. 24
2.3.2. Hệ thống đền thờ ..................................................................................... 26
2.4. Thực trạng hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền Trần, xã Tiến
Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình ............................................................ 28
2.4.1. Giá trị tín ngưỡng và tinh thần ............................................................... 28
2.4.2. Giá trị văn hóa lịch sử và huyền thoại. .................................................. 32
2.4.3. Giá trị nghệ thuật .................................................................................... 37
2.4.4. Giá trị tự nhiên, không gian, cảnh quan, môi trường. .......................... 40
2.5. Thực trạng tổ chức hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền Trần, xã
Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình. ................................................... 42
2.5.1. Thị trường và khách du lịch ................................................................... 42
2.5.2. Thực trạng về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất. ...................................... 46
2.5.3. Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch .......................................................... 49
2.5.4. Tổ chức quản lý khai thác ....................................................................... 50
2.5.5. Đầu tư và quy hoạch ............................................................................... 52
2.5.6. Sản phẩm du lịch văn hóa ...................................................................... 54
2.5.7. Hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch ................................................. 56
2.6. So sánh hoạt động du lịch tại một số di tích đền Trần khác ................. 58
2.6.1. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần Côn Sơn - Kiếp Bạc ( Hải
Dương) ............................................................................................................... 58
2.6.2. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần ( Nam Định ) ............................ 59
2.6.3. Hoạt động du lịch tại đền Trần Nhương ( Hà Nam) ............................. 60
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................. 63
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN
HÓA TÂM LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN, XÃ TIẾN ĐỨC
HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH ............................................................. 65
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ............................................................................ 65
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di
tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình. .................... 65
3.2.1. Đề cao trách nhiệm của quản lý khu di tích .......................................... 65
3.2.2. Đa dạng hóa về các sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản phẩm
du lịch đặc thù hơn. ........................................................................................... 66
3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân địa phương và ý thức bảo tồn
nguồn tài nguyên du lịch văn hóa. ................................................................... 67
3.2.4. Nâng cao giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. ............. 68
3.2.5. Giải pháp về thông tin truyền thông, tăng cường quảng bá xúc tiến về
du lịch ................................................................................................................. 71
3.3. Kiến nghị .................................................................................................... 72
3.3.1. Sở văn hóa và thể thao du lịch tỉnh Thái Bình ...................................... 72
3.3.2. Với ban quản lý khu di tích ..................................................................... 73
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................. 74
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 76
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 78
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thái Bình nằm ở vùng Đông Bắc Bộ, tuy còn là một tỉnh nghèo, chưa
phát triển mạnh về công nghiệp và ngành du lịch, song tỉnh Thái Bình đang
từng bước phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm linh bởi nơi đây là vùng
đất có mật độ các di tích lịch sử văn hóa được xếp vào loại cao nhất trong cả
nước. Nhờ vào những ưu thế đó mà những năm gần đây Thái Bình đang rất
tích cực đầu tư và quảng bá cho hoạt động du lịch của mình đặc biệt là du lịch
văn hóa tâm linh. Đáng kể nhất là các dự án đầu tư du lịch, tu bổ quần thể di
tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà nơi tôn miếu linh thiêng của một
dòng họ Trần, cũng là nơi lưu giữ dấu tích về một triều đại oai hùng trong lịch
sử Việt Nam, đó là triều đại nhà Trần.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Triều đại nhà Trần
(1226-1400) đã giữ một vị thế vô cùng quan trọng và những dấu ấn không
phai mờ trong lịch sử Việt Nam cũng như những ảnh hưởng đáng kể tới vùng
đất Thái Bình.
Qua các cuộc nghiên cứu và khảo cổ học, các nhà sử học và các nhà
khoa học đã đi đến một kết luận: “huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày
nay, nơi tọa lạc quần thể di tích đền Trần và lăng mộ thờ các vị vua quan
nhà Trần” và không chỉ là quê hương 4 đời của họ Trần kể từ đời vua Trần
Cảnh (Trần Thái Tông), mà còn là đất phát tích, sáng nghiệp của vương
triều nhà Trần.
Hiện nay, SVHTT & DL tỉnh Thái Bình đã và đang quy hoạch để phát
triển quần thể di tích này trở thành điểm du lịch văn hóa tâm linh, một thương
hiệu của tỉnh. Từ những nội dung trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Hoạt động
du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức,
huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình” nhằm tìm hiểu ý nghĩa của quần thể di
tích đối với một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, cũng như
1
những giá trị của quần thể di tích đối với sự phát triển du lịch của tỉnh Thái
Bình. Qua đó tác giả mong muốn giới thiệu tới mọi người một điểm đến du
lịch văn hóa tâm linh tại tỉnh Thái Bình.
2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm mục đích tìm hiểu giá trị du lịch văn hóa tâm linh tại di tích đền
Trần. Nội dung của đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp những thông tin, sự hiểu
biết cặn kẽ về những giá trị văn hóa tâm linh tới du khách thăm quan và du
lịch tại đền Trần
Nhằm đưa ra các biện pháp phát triển du lịch thông qua khai thác giá trị
văn hóa tâm linh tại quần thể di tích đền Trần , xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà,
tỉnh Thái Bình.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng nền tảng cơ sở lý luận về loại hình du lịch văn hóa tâm linh.
- Thực hiện khảo sát thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tâm linh ở
quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và
phát triển du lịch tại di tích này.
- Đề xuất các giải pháp để phát triển du lịch ở di tích này thông qua
hoạt động du lịch văn hóa tâm linh quảng bá các giá trị văn hóa và bảo tồn di
tích lịch sử tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
4. Đối tƣợng nghiên cứu.
Hoạt động kinh doanh du lịch tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình.
Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Các giá trị văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng tại khu di tích .
5. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn nghiên cứu : Quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện
Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
2
6. Nội dung nghiên cứu:
Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di tích đền Trần, xã
Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát triển du lịch ở di tích.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu.
- Phương pháp tổng hợp phân tích: để xây dựng khung lý thuyết của
đề tài
- Phương pháp điều tra: để thu thập số liệu thực tế.
- Phương pháp: thống kê, so sánh: để xử lý kết quả điều tra.
8. Cấu trúc khóa luận
Những mục đích và lý do kể trên, ngoài phần mở đầu và các phụ lục,
đề tài của tôi bao gồm 3 phần chính:
Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch văn hóa tâm linh;
Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại Quần thể
di tích đền Trần, Xã Tiến Đức, Huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái Bình;
Chương 3: Một số giải pháp đối với hoạt động du lịch văn hóa du lịch
tâm linh tại quần thể di tích Đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình.
3
NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài.
Hiện nay các công trình nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh đã có
rất nhiều sự đổi mới cụ thể như sau: .
Đầu tiên là nghiên cứu về lịch sử nhà Trần từ trước đến nay có rất
nhiều công trình nổi tiếng như : “cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Nguyên – Mông” của hai tác giả đại học tổng hợp Hà Nội là Hà Văn Tấn và
Đặng Thị Tâm in từ thập niên 60 của thế kỷ XX, để tìm hiểu thêm về nhà
Trần nhà xuất bản văn hóa thông tin ( 2006) đã cho xuất bản cuốn sách “ Trần
miếu di sản và tín ngưỡng dân gian” – cuốn sách này đã cho người đọc thông
tin hoàn chỉnh nhất về di tích nhà Trần cùng với những thông tin về lễ khai ấn
mùa xuân và lễ hội Đức Thánh Trần.
Một số tác phẩm liên quan đến du lịch văn hóa tâm linh ở Thái Bình đã
được đề cập trong loại hình du lịch văn hóa và phát triển bền vững các di sản
văn hóa ở vùng quê lúa như “Đất và người Thái Bình” của hai tác giả Phạm
Minh Đức và Bùi Duy Lan, bên cạnh đó một số bài viết tiêu biểu được đăng
lên tạp chí du lịch trong nước về du lịch Thái Bình. Trong đó “ Ngàn năm đất
và người Thái Bình” của SởVăn hóa –Thông tin Thái Bình, 1990 nói về văn
hóa, lịch sử và các giá trị tín ngưỡng tại vùng đất nơi đây, một số tài liệu luận
văn cấp học của trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cũng đã đi sâu
vào nghiên cứu du lịch Thái Bình ở nhiều góc độ khác nhau như Phạm Văn
Duy với đề tài: “nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái Bình ”
hoặc nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh của Trần Thị Dung với đề tài: “
giải pháp phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di tích Đền Trần, xã
Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình”. Các đề tài cũng chủ yếu tập
trung vào sự phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng và
những tác động của du lịch tới đời sống con người.
Tác giả chọn đề tài “Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di
4
tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình” bài viết còn
nhiều thiếu xót, rất mong được các tác giả quan tâm và hoàn thiện hơn trong
các công trình nghiên cứu sau.
1.2. Một số khái niệm liên quan.
1.2.1. Văn hóa và du lịch văn hóa
Hiện nay có hàng trăm khái niệm khác nhau về văn hóa. Tác giả xin
trích dẫn chứng một số định nghĩa cơ bản và quen thuộc, có liên quan đến đề
tài nghiên cứu như sau:
“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự
tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”
[11tr.25].
Khái niệm văn hóa được hiểu theo nghĩa nhân văn rất rộng. Nguyên
tổng giám đốc UNESCO (United Nations Educational Scientific and Cultural
Organiation), ông Mayo (F.Mayor), đưa ra một khái niệm về văn hóa vừa
mang tính khái quát vừa có tính đặc thù: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì
làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện
đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” [8
tr.798]
“Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời
sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất: là kết quả của hoạt
động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ
vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.
Khái niệm về du lịch:
“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá
tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác.” [ Luật du lịch
2017, chương 1, điều 3]
5
Qua đó, ta thấy quan niệm: “văn hóa du lịch”, là một hiện tượng khách
quan. Là sự thỏa mãn những hiện tượng trên trước môi trường tự nhiên và xã
hội gọi là văn hóa du lịch. Hay có nhiều cách hiểu khác nhau, du lịch văn hóa
là một khoa học nhằm nghiên cứu về các giá trị khác nhau. Văn hóa và du lịch
đều có những mối quan hệ mật thiết, chúng tương tác với nhau, cùng phát
triển duy trì sự bền vững. Du lịch và văn hóa có những mối tương tác qua lại
với nhau chúng được thể hiện như sau: Sự tương tác giữa văn hóa và du lịch
Các sản phẩm văn hóa khi phục vụ nhu cầu được làm vui và thỏa mãn
du khách qua việc mua sắm. Thỏa mãn nhu cầu của du khách về tinh thần,
văn hóa giao tiếp của con người bản địa. Nền nông nghiệp của một nước. Hệ
thống giáo dục của đất nước đến du khách.
Các thành tựu về khoa học kỹ thuật tiên tiến
Ngôn ngữ quốc gia đến các du khách quốc tế.
Hoạt động khí hậu của một quốc gia với du khách.
Tôn giáo và tín ngưỡng của một quốc gia.
Sự tương tác giữa ảnh hưởng từ du lịch vào văn hóa
Tôn giáo và tín ngưỡng của một quốc gia các giữa ảnh hướng từ du
lịch vào văn hóa
Có thể xâm hại với văn hóa bản địa của một quốc gia. Có thể do lợi ích
trước mắt mà người ta trình diễn văn hóa nghệ thuật sai lệch với ý nghĩa văn
hóa. Do sự thiếu nhiều hiểu biết, văn hóa bị thương mại hóa, kinh doanh các
sản phẩm văn hóa từ các loại hình du lịch.
(Nguồn: Tham khảo Bài giảng môn Nghiệp Vụ Văn Hóa Du Lịch, PGS.
Trần Thúy Anh)
1.2.1.1. Khái niệm hoạt động du lịch
Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân
kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên
quan đến du lịch. (luật du lịch 2017, điều 3 chương 1)
6
Hoạt động du lịch được hiểu là những trải nghiệm, khám phá trong
một chuyến du lịch. Tất cả những hoạt động đó được thực hiện trong
chuyến đi chính là hoạt động du lịch. Tuy nhiên, hoạt động du lịch không
nhất thiết phải di chuyển, cử động và hao phí sức lực mà thư giãn cũng là
một hoạt động du lịch.
Hoạt động du lịch là yếu tố quyết định trong chuyến du lịch đó vui và
bổ ích hay không. Tùy thuộc vào mục đích du lịch của mỗi người và có thể
lên lịch trình kế hoạch về các hoạt động du lịch sao cho hợp lý. Nếu muốn đi
du lịch để khám phá, tìm kiếm những điều kỳ thú thì lựa chọn các hoạt động
du lịch như: Leo núi, lặn biển, tham quan các địa điểm ít người biết tới,…
Còn muốn du lịch sinh thái để xả stress thì nên lựa chọn các hoạt động du lịch
như: Bơi lội, tắm nắng, đi dạo vãn cảnh,…
1.2.2. Khái niệm tâm linh
Khái niệm tâm linh
Lâu nay, quan niệm tâm linh thường mang đậm sắc màu huyền hoặc kỳ
bí. Nhắc đến tâm linh, chúng ta thường lập tức nghĩ đến linh hồn, sự tái sinh,
Nhân - Quả, Nguồn Năng lượng Tối cao,… như nguồn dữ liệu sẵn có bên
trong tiềm thức. Song chưa hiểu hết những triết lý tuyệt vời này, ý nghĩa quan
trọng của chúng đối với một cuộc sống bình an, hạnh phúc, viên mãn còn
củng cố sức mạnh đích thực, sức mạnh nội tâm. Đôi khi chúng ta cũng tin,
nhưng chỉ là một niềm tin… mù quáng. Đó là lý do vì sao con người vẫn còn
nếm trải những đau khổ trong cuộc sống.
Trong sách “Tâm linh Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Hinh quan
niệm rằng: “Tâm linh là thể nghiệm của con người (tâm) về cái Thiêng (linh)
trong tự nhiên và xã hội thông qua sống trải, thuộc dạng ý thức tiền logic
không phân biệt thiện ác.” [3,tr.52]
Tác giả giải thích tâm linh là một khát vọng trí tuệ của con người, quá
trình tồn tại, phát triển, con người không bằng lòng khai thác tự nhiên hái quả
7
săn mồi...sinh con đẻ cái như mọi động vật khác. Con người luôn khao khát
tìm hiểu và lý giải thiên nhiên (trời, đất, nước, muôn loài ...) và chính con
người để cải thiện cuộc sống. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa con người và
động vật. Qua kinh nghiệm cụ thể, về lâu dài, mỗi dân tộc đều có nét tâm linh
riêng biệt, nhưng cũng nhờ vào cách lý giải về trời, đất và con người. Giải
thích những lực vô hình tác động đến đời sống con người. Đấng quyền năng
và vô hình nên được gọi là thần thánh. Một số hiện tượng tâm linh chuyển
thành niềm tin có hoặc không có thờ cúng. Đó là tâm linh của tôn giáo, như
thờ tổ tiên, cúng hồn lúa… Còn tâm linh phát triển thành tâm linh tôn giáo,
người ta cho rằng tâm linh của một vị lãnh đạo tôn giáo nào đó có logic nhất
định chứ không phải tâm linh. Nhưng dù vậy, mỗi một nhóm người đều ít
nhiều có được linh khí của một vị giáo chủ nhờ linh tính của tín ngưỡng.
Qua những quan niệm trên có thể thấy rằng, tâm linh chỉ tồn tại ở con
người và là kết quả của những trải nghiệm của con người trong quá trình sống
trong một môi trường nhất định. Từ đó hình thành nên nét tâm linh riêng của
mỗi quốc gia. Tâm linh không phải là niềm tin tôn giáo, mà tâm linh bao trùm
họ. Niềm tin tôn giáo chỉ có thể tồn tại trong môi trường tâm linh, nơi con
người có niềm tin vào thần, phật, thần thánh và những điều linh thiêng khác.
Tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “Văn hóa tâm linh” về tâm linh
như sau: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là
niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”. Đó là cái thiêng
liêng cao cả, niềm tin ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm.
[4,tr.14]
Như vậy, từ các quan niệm trên ta có thể tạm hiểu về tâm linh như sau:
Tâm linh là một hình thái ý thức của con người.
Quan niệm Tâm linh là ngưỡng vọng của con người về những biểu
tượng, hình ảnh thiêng liêng.
8
Phân biệt tâm linh tín ngưỡng và mê tín dị đoan
Mê Tín dị Đoan Tín ngưỡng
Mê tín dị đoan là sự mê tín, dị đoan Quan niệm Tâm linh là một tín
và cách thức truyền bá rộng rãi. Tin ngưỡng tâm linh tồn tại ở nhiều khía
không có lý do, nó thậm chí không cạnh của đời sống tinh thần. Người cả
cần cuộc sống. Vì vậy, mê tín dị đoan đời tin Phật, Trời, đi tu, tin Đạo, niệm
chỉ tồn tại trong nền văn hóa khoa Phật, Trời thì sẽ thoát khỏi kiếp nạn.
học trình độ thấp, khi con người Hoặc những người không tin theo tôn
không đủ trình độ để phân tích, giải giáo nào, nhưng vẫn tin vào Phật
thích đúng sai, vô nghĩa. Hoặc lợi Thánh, hãy đến các thôn, xã, bản
dụng tình huống bất lực, tuyệt vọng, làng, chùa để thắp hương, lễ Phật, cầu
hoang mang của mọi người để ứng mong sự phù hộ, bình an, sức khỏe,
phó kịp thời. Hoặc trong phút thăng may mắn. Nó cũng xuất phát từ việc
hoa của lễ hội, phút say sưa dễ dẫn một số người muốn dựa vào thần
đến mê tín, mê tín đến mức phi lý. thánh để trục lợi, thương mại hóa
Ví dụ: Tín vào thuật bói toán, chữa niềm tin, bắt đầu nói ra nhiều phép lạ,
bệnh bằng phù phép. cúng dường cho người khác, khiến
người khác tin tưởng ảo tưởng, hành
động theo niềm tin đó, lãng phí sức
khỏe, lãng phí tiền của. vô ích, và
thậm chí gây nguy hiểm đến tính
mạng., đó là mê tín. Vì vậy, tâm linh
hay mê tín dị đoan muốn tồn tại đều
phải có niềm tin. Nhưng niềm tin mê
tín dị đoan không có định kiến và mù
quáng.
9
1.2.3. Khái niệm về lễ hội
Lễ hội là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính
của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con
người trước cuộc sống mà bản thân họ chauw có khả năng thực hiện. Lễ hội
là sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng hỗn dung nhiều tôn giáo của cộng đồng,
mong cầu bình yên, hạnh phúc cho con người, sự sinh sôi nảy nở của gia súc,
sự bội thu của mùa màng mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào
bốn chữ “ nhân khang, vật thịnh”. Lễ hội là hoạt động tập thể người, liên
quan đến tín ngưỡng và tôn giáo…[8,tr 894]
Khách du lịch về tham gia lễ hội được hòa nhập vào cộng đồng địa
phương, vào cảm xúc tâm linh, được bày tỏ lòng thành kính với các bậc thánh
thần. Đồng thời, họ cũng có dịp tìm hiểu, khám phá những giá trị văn hóa
truyền thống ẩn chứa trong những nghi lễ, những trò diễn dân gian đậm đà
bản sắc dân tộc. Đây chính là những yếu tố hấp dẫn và cuốn hút khách du lịch
từ đó tạo ra nguồn động lực cho loại hình du lịch lễ hội được phát triển.
1.2.4. Khái niệm văn hóa tâm linh
Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh trong cuốn “ Tâm linh Việt Nam” thì:
“Văn hóa tâm linh là một mặt hoạt động văn hóa xã hội của con người, được
biểu hiện ra những khía cạnh vật chất hoặc tinh thần, mang những giá trị
thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng
trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo, thể hiện nhận thức, thái độ (e dè, sợ
hãi hay huyền diệu) của con người”. [3,tr.27]
Văn hóa tâm linh bao gồm cả văn hóa vô hình và văn hóa hữu hình.
Văn hóa hữu hình như không gian tâm linh như nhà thờ, đình, chùa, miếu,
đền...hay các biểu tượng như tượng phật, tượng chúa…Văn hóa tinh thần là
những ý niệm linh thiêng trong mỗi con người chúng ta có ý niệm đó được
thể hiện qua hành động của họ, văn hóa tâm linh còn được thể hiện qua
hành động.
10
1.2.5. Quan niệm du lịch văn hóa tâm linh
Du lịch văn hóa tâm linh là một thực thể đã tồn tại hàng trăm năm trên
thế giới. Trước đây, người ta thường dùng từ hành hương để nói về những
chuyến du lịch của mình. Tuy nhiên, từ hành hương không thể hiện hết bản
chất, ý nghĩa và mục đích của chuyến đi. Hành hương mang nhiều ý nghĩa
tâm linh, nhưng không phải mỗi chuyến đi của mọi người đều mang mục đích
duy nhất là ý nghĩa tôn giáo mà một bộ phận họ tham gia hành hương nhưng
thích du lịch hơn là tín ngưỡng. Ngay cả những người đi du lịch với niềm tin
tâm linh là mục đích chính của họ, không thể không nảy sinh tâm trạng thú vị
cho du khách để thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên và tiếp xúc với
những nơi đẹp nhất trên thế giới. Cư dân, tận hưởng tiện ích của các dịch vụ
du lịch. Vì vậy, du lịch đó cần có một khái niệm phù hợp hơn, trong đó phải
bao hàm cả yếu tố du lịch và tâm linh.
Du lịch văn hóa tâm linh là sự kết hợp giữa của du lịch và văn hóa tâm
linh. Đây là hai nhu cầu cần thiết trong cuộc sống của con người, nhằm làm
đẹp cuộc sống, đồng thời thăng hoa trong tâm hồn. Du lịch nhằm mở mang
kiến thức về thiên nhiên, con người nơi đến và giúp xả căng thẳng rất hiệu
quả. Theo tác giả Tâm linh ở đó có nghĩa là nói về tôn giáo. Tín ngưỡng bao
gồm tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian nhằm thỏa mãn niềm tin vào
những biểu tượng thiêng liêng mà họ tôn thờ. Vì vậy, các địa điểm du lịch
thường là những nơi linh thiêng và ý nghĩa. Các tôn giáo, tín ngưỡng, như
đền, miếu, thánh đường hay phế tích ... Ở nơi đó, họ không chỉ có được thông
tin đầy đủ về nguồn gốc tín ngưỡng của mình mà trong chuyến hành hương,
họ còn được sống cùng nhau trong một môi trường tâm linh: thờ cúng, cầu
nguyện và hành trì an lạc, rèn luyện tinh thần, tạo sức mạnh cho niềm tin,
chuyển hóa ý thức.
Tóm lại, du lịch văn hóa tâm linh cũng là một loại hình du lịch văn hóa
chỉ ứng dụng các đối tượng tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh vào hoạt động du
11
lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và tham quan. Nâng cao nhận
thức của du khách. Du lịch tâm linh và văn hóa cũng có thể sử dụng các khái
niệm thay thế như du lịch tín ngưỡng tâm linh, du lịch tôn giáo, du lịch đó
phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bảo tồn các giá trị văn hóa, bao gồm cả
giá trị vật chất và tinh thần. Tiếp tục bảo quản các hiện vật có ý nghĩa tôn giáo
như bảo tháp, xã, chùa, nhà thờ họ ... hoặc các nghi lễ.
Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh
Theo quan điểm Marketing:“Điểm đến du lịch là một địa điểm mà
chúng ta có thể cảm nhận được bằng đường biên giới về địa lý, chính trị,
kinh tế, có tài nguyên du lịch hấp dẫn, khả năng thu hút và đáp ứng nhu cầu
của khách du lịch”.
Điểm đến du lịch là nơi chủ yếu tập trung chính một loại hình du lịch
văn hóa tâm linh nào nhằm phục vụ du lịch và loại hình du lịch văn hóa tâm
linh. Trong đó điểm đến là các di tích gắn với tôn giáo và tín ngưỡng như
chùa, đình, đền...
Di tích tôn giáo
Chùa ( Tự) ở Việt Nam có lẽ Chùa là nhiều nhất. Chùa là nơi thờ tự
Phật, tín ngưỡng dân gian, nhưng gian chính phải thờ Phật.Chùa là những di
tích cổ nhất còn lại Việt Nam, đặc biệt miền Bắc, Ba miền, phong cách chùa
cũng rất khác nhau.
Ví dụ: Chùa Ba Vàng, chùa Tam Chúc, Chùa Hương…
Nhà thờ: là của đạo Thiên Chúa, có thể gọi là Giáo đường, Thánh
đường, có các cấp bậc hẳn hoi: Vương cung thánh đường, Chính tòa, Tông
tòa, nhà thờ xứ, nhà thờ họ. Nơi thờ tự của Hồi giáo cũng gọi là Giáo đường.
Ví dụ: Nhà thờ đá Sa Pa ( Lào Cai), nhà thờ lớn, Hà Nội, nhà thờ Phát
Diệm, Ninh Bình, nhà thờ Gỗ (Kon Tum).
Di tích tín ngưỡng
Đền ( Từ): thờ Thần, Thánh. Có thể là Thiên Thần, Nhiên Thần, Địa
12
thần, Địa thần, Nhân thần.
Ví dụ: Đền Trần, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…
Đình: Thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi tụ họp, bàn việc
làng, là tính túy của làng xã.
Ví dụ: Đình Bảng ( Bắc Ninh) , Đình So ( Quốc Oai), Đình Tân Đông (
Tiền Giang)…
Miếu: thờ Thánh nhân, Hoàng tộc, cho đến các tiểu thần, tổ nghề,
hoặc cả Mẫu nữa.
Ví dụ:Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam (An Giang), Miếu Ba Cô (đèo Bảo
Lộc, Lâm Đồng), Thượng Công Miếu (Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí
Minh)…
Phủ/ Điện: Thờ Mẫu trong đạo Mẫu, là tôn giáo bản địa. Miền Trung
gọi là Điện.
Ví dụ: Phủ Tây Hồ…
Cơ sở vật chất, kỹ thuật của du lịch văn hóa tâm linh
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm: cơ sở vật chất của ngành du
lịch (dịch vụ nhà hàng, vui chơi, giải trí…là yếu tố then chốt đối với việc
đảm bảo điều kiện cho các dịch vụ du lịch cung ứng nhu cầu của du khách.
Các yếu tố này có ý nghĩa rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai
thác tài nguyên, phục vụ khách du lịch, đồng thời góp phần quyết định độ dài
thời gian lưu trú và mức chi tiêu của du khách trải nghiệm du lịch.
Sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh
Luật du lịch Việt Nam 2017 (điều 3 chương 1):“ Sản phẩm du lịch là
tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa
mãn nhu cầu của khách du lịch”
Các yếu tố của sản phẩm du lịch bao gồm: điểm thu hút khách, tài
nguyên du lịch của điểm đến; dịch vụ của điểm đến, hình ảnh của điểm đến,
giá cả hàng hóa, dịch vụ của điểm đến.
13
Khách du lịch với mục đích văn hóa tâm linh
Theo Luật du lịch 2017 (Chương 1, điều 3): “ Khách du lịch là người
đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu
nhập ở nơi đến”.
Khách đi du lịch với mục đích trải nghiệm văn hóa tâm linh hoặc đi với
động cơ là nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần, có thể đi với mục đích tham quan,
nghiên cứu, học tập về văn hóa hoặc kết hợp với mục đích khác như công vụ,
hội nghị, hội thảo.
Khách du lịch tâm linh ở Việt Nam thường hội tụ về các địa điểm như:
đền, chùa, đình, đài, lăng tẩm, tòa thánh, khu thờ tự, tưởng niệm và những
vùng đất linh thiêng gắn với phong cảnh đặc sắc, gắn kết với văn hóa truyền
thống, lối sống địa phương.
1.3. Đặc điểm của hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại Việt Nam
Điều làm nên nét độc đáo của du lịch văn hoá tâm linh Việt Nam so với
phần còn lại của thế giới là:
Du lịch văn hoá tâm linh liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng. Trong số
đó, ở Việt Nam tôn giáo Phật giáo có số lượng lớn nhất và cùng tồn tại với
các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo, Đạo Cao đài, Đạo Hòa Hảo. Các giá
trị triết học, tín ngưỡng, Phật pháp, vật thể và phi vật thể phương Đông.
Du lịch văn hoá tâm linh Việt Nam gắn với cơ sở di tích tín ngưỡng thờ
cúng, suy tôn tri ân các anh hùng dân tộc, Thành Hoàng Làng có công với đất
nước, dân tộc, trở thành du lịch cội nguồn dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ
nguồn”. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng ở Việt Nam đã được UNESCO công
nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại.
Du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam liên quan đến tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên, dòng họ, lòng biết ơn và lòng hiếu thảo với cha mẹ.
Du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam liên quan đến các hoạt động thể
14
thao tâm linh như thiền định, yoga cân bằng, tịnh tâm và siêu thoát trong đời
sống tâm linh. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là nét đặc trưng, tiêu biểu của
Việt Nam mà không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác.Du lịch văn hóa tâm
linh ở Việt Nam còn bao gồm các hoạt động liên quan đến yếu tố linh thiêng,
huyền bí (thờ Mẫu Tam Phủ)
Trên thế giới, có một số lễ hội đã trở thành quốc tế, giúp xây dựng
thương hiệu du lịch, đưa hình ảnh đất nước đến nhiều nơi nhưng vẫn giữ được
giá trị nguyên bản, chẳng hạn như lễ hội Songkran. Lễ hội truyền thống
Songkran ở Thái Lan hay lễ hội Chol Chnam ở Campuchia, lễ hội Carnival ở
Brazil, lễ hội Oktoberfest ở Đức, lễ Phục sinh, Giáng sinh…
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhiều tỉnh, thành phố trên cả
nước thường xuyên tổ chức các lễ hội, sự kiện văn hóa kỷ niệm vào các dịp
lễ, Tết, kỷ niệm các sự kiện đặc biệt. Vai trò quan trọng của nhà nước và địa
phương để đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhân dân được hưởng thụ đời
sống văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh, phục vụ phát triển du lịch. Để phục vụ lễ
hội, nhiều di sản văn hóa phi vật thể, nhất là lễ hội truyền thống đã được phục
dựng, tái hiện với quy mô rất lớn, góp phần tạo nên “bức tranh lễ hội” của
Việt Nam.
Ngược lại, do thiếu hiểu biết về di sản văn hóa, do xu hướng thương
mại hóa, xã hội hóa các hoạt động lễ hội, nên việc khôi phục, tái hiện lễ hội
truyền thống còn thiếu sót, dễ nảy sinh tiêu cực, cộng đồng.
15
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh hiện đang là một hình thức phát
triển rất mạnh ở nhiều nơi trên khắp thế giới, trong đó có quốc gia Việt Nam.
Du khách trải nghiệm theo loại hình du lịch này thường tìm đến các đình,
chùa, các thắng tích tôn giáo, tín ngưỡng để thăm quan, cúng bái, cầu nguyện.
Tại đây, du khách hòa vào dòng tín ngưỡng để cảm nhận vẻ yên bình, thanh
thản, an nhiên. Du lịch văn hóa tâm linh luôn gắn với đức tin và hướng thiện
lành của con người.
Tóm lại, đây cũng là mục đích cao nhất của du lịch văn hóa tâm linh.
Ngoài ra, hoạt động du lịch đó phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bảo tồn
các giá trị văn hóa cả vật chất và tinh thần. Nghi lễ, lễ hội, văn hóa nghệ thuật,
ẩm thực… vì họ là đối tượng chính trong việc tạo ra sản phẩm du lịch văn hóa
Văn hóa tâm linh thu hút du khách đến với mọi nơi đến.
Tác giả khóa luận chương 1 là chương kiến thức nền tảng với vấn đề cơ
bản của tổ chức hoạt động du lịch văn hóa tâm linh và nội dung liên quan đến
văn hóa tâm linh tại đền Trần, nhằm mục đích giải thích, hỗ trợ nội dung rõ
hơn các chương tiếp theo là chương 2, chương 3, cùng phần nội dung khác
trong đề tài khóa luận nghiên cứu.
16
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM
LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN XÃ TIẾN ĐỨC, HUYỆN
HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
2.1. Khái quát về tỉnh Thái Bình
2.1.1. Vị trí địa lý tự nhiên
Thái bình là tỉnh thuộc ven biển và thuộc khu vực Đồng bằng Sông
Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.
Vị trí địa lý: Nằm ở phía đông nam đồng bằng sông Hồng. Phía bắc
giáp các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng, phía tây và tây nam giáp
các tỉnh Nam Định, Hà Nam; phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ.
Diện tích tự nhiên: 1.546,54 km và địa hình: Thái Bình là tỉnh đồng
bằng có địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc dưới 1%, độ cao phổ biến từ 1
đến 2m so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam.
Thái Bình được bao quanh bởi hệ thống sông và biển khép kín. Đường
bờ biển dài hơn 50 km, có 4 con sông lớn chảy qua tỉnh: sông Hóa dài 35,3
km ở phía bắc và đông bắc, sông Luộc (một phụ lưu của sông Hồng) ở phía
bắc và tây bắc, với tổng chiều dài 53 km, và hạ lưu sông Hồng ở phía tây và
nam., với tổng chiều dài 67 km. Sông Trà Lý (phụ lưu chính của sông Hồng)
chảy qua miền trung của tỉnh từ từ tây sang đông, với tổng chiều dài khoảng
1000 mét. 65 km. Đồng thời có 5 cửa biển lớn (Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt,
Trà Lý, Lân).
2.1.2. Tài nguyên du lịch văn hóa
2.1.2.1. Tài nguyên du lịch văn hóa vật thể
Hiện nay tại Thái Bình có một số di tích nổi tiếng như:
Di tích cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng: Một trong những di tích lịch
sử tiêu biểu thời kỳ lịch sử này là đền Tiên La tại huyện Hưng Hà thờ Bát
Nạn Đại tướng quân Vũ Thị Thục.
Di tích về vua Lý Nam Đế và nhà nước Vạn Xuân: Đình Tử Các - miếu
Đồn tại huyện Thái Thụy, miếu Hai Thôn tại huyệnVũ Thư…
17
Di tích nhà Đinh: Các di tích phản ánh về thời kỳ này tiêu biểu là
đình Lạc Đạo tại thành phố Thái Bình, từ đường Bùi Quang Dũng tại
huyện Vũ Thư…
Di tích nhà Lý: chùa làng Riệc tại huyện Hưng Hà, chùa Keo tại huyện
Vũ Thư, chùa Phúc Thắng tại huyện Vũ Thư… là những địa danh tiêu biểu
còn lại từ thời Lý.
Di tích thời nhà Trần: Các di tích lịch sử phản ánh về thời đại nhà Trần
chiếm tỉ lệ lớn nhất ở Thái Bình, chủ yếu tập trung tại xã Tiến Đức, huyện Hưng
Hà. Tiêu biểu khu di tích là: khu lăng tẩm - đền thờ các vua Trần, lăng mộ,
đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh từ Trần Thị Dung…
Di tích lịch sử của các danh nhân: Theo như thống kê của tỉnh Thái
Bình có 111 vị đỗ Tiến sĩ và các di tích còn lại đến nay thờ tự 66 vị Tiến sĩ
đại khoa tại từ đường, đền và miếu tại Thái Bình.
Di tích khảo cổ Thái Bình
Thái Bình hiện nay còn khá nhiều di tích khảo cổ học chưa được
nghiên cứu và khai quật. Tập trung phân bố nhiều ở vùng ven sông Luộc,
sông Hồng, sông Hóa.
Tài nguyên du lịch văn hóa phi vật thể
Lễ hội dân gian
Lễ hội truyền thống ở quê hương Thái Bình được xem là tiêu biểu về số
lượng, đa dạng về loại hình, nghệ thuật.
Hội làng Thái Bình có nội dung khá phong phú, lễ hội đặc sắc có đủ
mọi loại hình (lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử, lễ hội làng
nghề…) và ở loại hình nào cũng có thể tìm được những lễ hội hấp dẫn và lễ
hội ở Thái Bình có bốn nội dung: tái hiện cuộc sống nông nghiệp, tôn vinh
các anh hùng dân tộc, tái hiện phong tục, tập quán, tín ngưỡng, hội thi tài.
Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Thái Bình
Nghệ thuật chèo: Thái Bình nổi tiếng với ba vùng chèo là chèo Hà Xá
tại huyện Hưng Hà, chèo Khuốc tại huyện Đông Hưng và chèo Sáo Đền t ại
huyện Vũ Thư. Đây là những dòng chèo đặc trưng của địa phương.
18
Múa rối nước: Thái Bình Có 7 phường hội cổ truyền ở các làng
Nguyễn, Tăng, Tuộc, Đống, Kỳ Hội, Bắc Lạng, Tây Trong, Tây Ngoài của
huyện Đông Hưng; mà nay nổi tiếng hơn cả là làng Nguyên Xá.
Văn học dân gian
Văn học dân gian lưu truyền ở Thái Bình là một sản phẩm tinh thần của
nhân dân trong quá trình lao động và sản xuất, sinh hoạt cộng đồng và đấu
tranh với thiên nhiên cả thù trong giặc ngoài chống xâm lược. Nó là trí tuệ
được kết tinh vừa mang tính địa phương vừa mang tính phổ quát của một
vùng đồng bằng đông dân cư châu thổ sông Hồng, rất đa dạng và phong phú
bao gồm cả ca dao, tục ngữ, truyền thuyết.
2.1.3. Các lễ hội tại tỉnh Thái Bình
Trong đời sống cộng đồng lễ hội được coi là một trong những hiện
tượng văn hóa tín ngưỡng và các lễ hội được mở ra để tỏ lòng tưởng nhớ, biết
ơn và thể hiện lòng mong ước của mình đến các vị thần.
Một số lễ hội nổi tiếng tại tỉnh Thái Bình.
STT Tên lễ hội Địa điểm
Lễ hội chùa Keo 1
xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
Lễ hội Đền Trần Thời gian ( Âm lịch) Hội xuân: 4/1 Hội thu: 13,14,15/9 13- 18/1 2
3 10/2
4 Lễ hội Đình, đền, bến tượng A Sào. Lễ hội Đền Tiên La. 17/3
5 Lễ hội đền Đồng Bằng. 20/8
6 Lễ hội làng Lộng Khê 23-25/3
7 Lễ hội làng Quang Lang. 14/4
8 Lễ hội Sáo Đền 20-27/3
xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Thôn A Sào, Quỳnh Phụ, Thái Bình Đoan Hùng, Hưng Hà, Thái Bình An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình An Khê, Quỳnh Phụ, Thái Bình xã Thụy Vân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xã Song An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình
19
Các loại hình nghệ thuật đặc sắc: Hát chèo, múa rối nước, hát tuồng,
tục kể vè và những trò chơi dân gian.
Văn hóa ẩm thực: Thái Bình có nhiều đặc sản nổi tiếng: Gỏi cá, bánh
cáy Làng Nguyễn, bánh gai Đại Đồng, cá nướng Thái Xuyên, chè mét, hương
đậu làng kênh, canh cá và bánh canh Quỳnh Côi đó là những đặc sản nổi tiếng
tại Thái Bình mà ai từng đặt chân tới đây nhất định phải thử.
2.2. Văn hóa lịch sử nhà Trần và những ảnh hƣởng tới vùng đất
Thái Bình.
2.2.1. Văn hóa lịch sử nhà Trần với lịch sử Việt Nam
Theo Dân Tộc Đại Việt tóm gọn lịch sử nhà Trần: khi nhà Lý bắt đầu
suy yếu, người đứng đầu của dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái
Tông) nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là
Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi
ép Lý Chiêu Hoàng lúc 7 tuổi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lúc 8 tuổi,
năm1218 - 1277 thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.
Trong khoảng 175 năm cai trị đất nước vì nhà Trần đã lãnh đạo nhân
dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thành công vào
các năm 1258, 1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể từ đời vua
Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự
nhu nhược và yếu kém của hệ thống quan lại nhà Trần. Cuối cùng vào năm
1400 Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, chấm dứt 175 năm trị vì của dòng
họ này và nhà Hồ lên ngôi.
2.2.2. Nhà Trần tại mảnh đất Long Hưng tỉnh Thái Bình
Quê hương, nơi phát tích- khởi nghiệp của nhà Trần đã được sử sách
ghi chép nhưng có phần không rõ ràng, do đó vậy có nhiều ý kiến dị biệt khác
nhau về sự tranh luận. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, ít nhất các
vấn đề này đã được nhà sử học, chuyên gia lĩnh vực nghiên cứu đề cập đến
nhiều trong 4 cuộc hội nghị khoa học. Hội nghị về “Nhà Trần” tổ chức tại Hà
20
Nam Ninh vào năm đầu của thập kỷ 80, hội nghị “Thái Bình với sự nghiệp
nhà Trần” tổ chức ở Thái Bình năm 1986, hội nghị về” Thời Trần với Hưng
Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà” năm 1995 và hội
nghị “ Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn và quê hương
Nam Định” năm 2000, đều được tổ chức tại Nam Định.
Theo nhà sử học Lê Văn Lan trong bài Bàn về đất phát tích nhà Trần: “
theo một cách hiểu thông thường: đất phát tích của dòng họ là nơi mà tổ tiên
trực tiếp của dòng họ ấy sinh sống. Thực tiễn đời sống cổ truyền của dân tộc
cùng văn minh đất nước, từ lâu đã hình thành một tiêu chí dựa trên quy luật
của mối liên quan giữa nơi sống và nơi chết của người xưa: “Sống ngâm da,
chết ngâm xương,” để các đời sau con cháu có thể nhận ra nơi sống của đời
trước ở chính chỗ chỉ còn lại dấu vết ký gửi thân xác của họ. Đó là những bãi
tha ma, nghĩa địa trở thành chỗ để xác định nơi đã sống của một cộng đồng
dân cư, còn mộ tổ thì chính là một điểm chuẩn để có thể tìm kiếm đất phát
tích của một dòng họ, một gia đình, là vì như vậy.” ( Nhà Trần và con người
thời Trần, Viện sử học, hội khoa học lịch sử Việt Nam, Sở VHTT&DL tỉnh
Thái Bình tái bản, 2010) [14 tr.27]
Nhắc đến tài liệu chính sử cổ nhất nói về cội nguồn nhà Trần là Đại
Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. Trong quyển V,
mở đầu Kỷ nhà Trần, viết”...Có người tên Kinh đến hương Tức Mặc, phủ
Thiên Trường sinh ra Hấp, Hấp sinh Lý, Lý sinh ra Thừa đời đời làm nghề
đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16/6 năm Mậu Dần,
Kiến Gia thứ 8 triều Lý” ( Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH,
H.1998,T2,tr.7). Theo đoạn trích này, Trần Kinh là ông tổ đời thứ 5 tính từ
Trần Cảnh( Trần Kinh – Trần Hấp- Trần Lý – Trần Thừa – Trần Cảnh) đã đến
ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường tức là vùng Mỹ Lộc, Nam Định ngày
nay và bốn đời làm nghề đánh cá.
Năm 1209, một sự kiện lịch sử vào những năm cuối vương triều Lý,
21
trong buổi loạn lạc Quách Bốc, đã được các văn bản sử học ghi chép như một
tài liệu đương đại của Đại Việt sử ký toàn thư: “ Hoàng thái tử Sảm( tức Lý
Huệ Tông sau này) đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp nghe tiếng con gái của Trần
Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ có nghề đánh bắt cá nên
giàu, người quanh vùng theo về, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đã lấy con gái
của Lý, trao cho Lý tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô
Trung Từ làm điện tiền chỉ huy sứ”. [ Đại Việt sử ký toàn thư,T1, 9 t.334]
Như vậy, muộn nhất là từ đời Trần Lý đã sinh sống ở thôn Lưu Gia,
Hải Ấp và vẫn tiếp tục nghề đánh cá. Mặt khác, sách Đại Nam nhất thống chí
có chép: “ Mộ tổ nhà Trần ở xã Tiến Đức,Thái Đường, Hưng Nhân”, tức thôn
Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay, cùng
với một truyền thuyết nói rằng Trần Hấp đã được một thầy địa lý tìm cho gò
hỏa tinh để táng mộ cha mình là Trần Kinh. Theo thầy địa lý ở nơi đó , ngôi
mộ được táng ở một thế đất mà sau này trong họ sẽ có người do nhan sắc mà
lấy được thiên hạ. Quả nhiên sau này, Trần Thị Dung đã được làm hoàng hậu,
nhờ đó thế lực nhà Trần bắt đầu lớn mạnh cho tới khi Trần Cảnh được Lý
Chiêu Hoàng nhường ngôi, chính thức là vị vua đầu tiên của nhà Trần.
Cũng ở Đại Việt sử ký toàn thư quyển VI phần viết năm 1299: “
Thượng hoàng ( Trần Nhân Tông) từng ngự cung Trùng Quang, vua ( Trần
Anh Tông) đến chầu, có Quốc công, Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: “
Nhà ta vốn người hạ lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, thường xăm hình
rồng vào đùi, nếu nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ ra không
quên gốc.” Đây là một đoạn sử, chép lời vị nhân vương lớn, lại có sự chứng
kiến của Quốc công Quốc Tuấn và đương kim hoàng đế nên hàm chứa nhiều
thông tin hiển minh.
Vì thế có thể khẳng định rằng nhà Trần gốc vùng biển, nói đúng hơn là
gốc dân chài vùng ven biển. Vì nghề gốc là chài lưới, chỗ ở không ổn định,
nay đây mai đó, đâu cũng là nhà nên chưa kể đến việc phát tán các chi họ- chỉ
22
tính dòng trực hệ cũng có sự lưu động, phiêu bạt của tổ tiên nhà Trần. Hoàn
toàn có thể tin tưởng là tổ thứ nhất họ Trần( Trần Kinh) đầu tiên cư ngụ ở Tức
Mặc( Hà Nam Ninh) như Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều gia phả, thần phả
chép. Tuy nhiên, cũng hoàn toàn đúng là đến đời tổ thứ hai( Trần Hấp) thì do
lối sống của nghề chài, thêm với sức hút của thuật phong thủy, họ Trần đã dời
sang Thái Đường và phụ cận (Thái Bình) để rồi ở đó và từ đó các đời tổ thứ
ba, thứ tư( Trần Lý, Trần Thừa) cùng anh em con cháu họ hàng là Trần Thị
dung, Trần Tự Khánh, Tô Trung Từ,... và các thế lực trực thuộc, bước vào
chính trường, thành công. Và cũng có ít nhất một trong các vị vua khai sáng
nhà Trần( Trần Cảnh - Trần Thái Tông) sinh ra ở đây. Vì vậy, có thể nói rằng
Long Hưng là đất phát tích của nhà Trần.
Giáo sư Lê Văn Lan cũng đưa ra một công thức có dạng về toán học để
lý giải cho hiện tượng văn hóa này:
Đất lăng mộ = Đất phát tích
Theo GS: Các vua nhà Lý chết ở Thăng Long đều đưa về chôn ở châu
Cổ Pháp ( phủ Thiên Đức), cùng Bắc Ninh ngày nay. Các vua nhà Lê cũng
chết ở Thăng Long và đều được đem về an táng ở Lam Sơn ( Lam Kinh)
thuộc huyện Thọ Xuân, Tỉnh Thanh Hóa bây giờ. Cổ Pháp là đất phát tích nhà
Lý, Lam Sơn là đất phát tích nhà Lê, đó là điều không cần tranh cãi. Văn hóa
học- lịch sử học đúc kết: các triều Lý, Lê đưa các nhà vua của mình về đất
phát tích an táng là để biểu thị ý thức nhớ nguồn và hành động về nguồn, ý
thức và hành động truyền thống của Việt Nam. Nhà Trần, tồn tại giữa nhà Lý
và nhà Lê, không và không có biểu hiện gì ngoại lệ. Vì vậy ý nghĩa hoàn toàn
có thể rút ra được ở đây là: Chọn phủ Long Hưng làm nơi xây cất lăng mộ của
các vị vua đầu của mình, triều Trần đã tự bộ lộ và khẳng định rằng đất phát
tích của mình là ở đây. ( Giáo sư Lê Văn Lan, Bàn về đất phát tích nhà Trần,
Nhà Trần và con người thời Trần, 2010,tr32)
Năm 1277, vị vua đầu tiên của nhà Trần: Trần Thái tông, mất ở cung
23
Vạn Thọ, thành Thăng Long. Thái Tông được đưa đi chôn ở Chiêu Lăng.
Năm 1288, tháng 4 sách Đại Việt sử ký toàn thư nói đến Chiêu LĂng như
sau: “ Hai vua ( Thánh Tông và Nhân Tông từ Bạch Đằng) trở về phủ Long
Hưng. Ngày 17, đem các tướng của giặc bị bắt la Tích Lệ Cơ Ngọc và Ô Mã
Chi làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.
Từ đó có thể thấy rằng, sau khi nắm giữ vương quyền, toạ lạc, các vị
vua Trần chọn Thăng Long làm kinh thành, chọn Tức Mặc là nơi xây dựng
hành cung, nhưng đã chọn Long Hưng là nơi xây miếu của các vị vua đầu tiên
triều Trần, cùng một số hoàng hậu và các công chúa. Bởi Long Hưng là nơi
đặt mộ tổ, là đất phát tích- sáng nghiệp- dựng nghiệp của nhà Trần.
2.3. Khái quát đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái
Bình.
2.3.1. Lịch sử hình thành
Mỗi triều đại phong kiến thường tôn lên hai thứ giá trị cao nhất, coi là
hai mục tiêu có ý nghĩa cốt tử ngang nhau đối với vận mệnh của vương triều
đó là: tôn miếu và xã tắc.
Xã tắc là đất đai, cượng vực cộng với sức dân trăm họ, đó là cái sở hữu
của vương triều. Xã tắc an hay nguy- nghĩa là đất đai vương quốc hình yên
hay xâm lấn, lòng dân thuận hay oán- thì vương triều vững hay nghiêng. Tôn
miếu là lăng tẩm cùng đền miếu thờ tổ tiên và các tiên đế, tiên hậu- theo quan
niệm của vương triều là khí thiêng, ân trạch, là lực lượng tinh thần thiêng
liêng để thống trị tinh thần cả trăm quan, trăm họ. Tôn miếu hưng hay phế,
mồ mả tổ tiên an toàn hay bị đào bới thì vương triều vinh hay nhục.
Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn có nhấn mạnh: “Không những xã
tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng
bị đào bới”.
Xét trên khía cạnh đó, thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà
hay Thái Đường mà thời Trần gọi là hương Tinh Cương, phủ Long Hưng là
24
nơi đặt mộ tổ, là đất phát tích và sau đó đã được các vua Trần chọn làm nơi
xây dựng tôn miếu sau khi lên ngôi, Thăng Long được chọn làm kinh đô và
Tức Mặc là nơi xây dựng hành cung để nghỉ ngơi.
Các vị vua nhà Trần chọn Long Hưng làm nơi dựng lăng miếu vì nơi
đây không những là nơi đặt mộ tổ- đất phát tích của dòng họ, mặt khác còn vì
Long Hưng có một vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông , phát triển kinh tế
cũng như quân sự. Long Hưng là bãi biển mới được bồi đắp do phù sa các
sông lớn, nhất là sông Hồng tạo nên. Do đó đất đai màu mỡ, sản xuất nông
nghiệp phát triển. Là nơi sông nhiều, thuận lợi cho nghề sông nước, cho giao
thông vận tải, sản xuất nông nghiệp.
Do nhiều lý do mà trước đây khu di tích này đã bị hủy hoại dấu tích.
Song cùng từng được tu tạo và duy trì trong cá triều đại sau đó. Sau khi cuộc
Hội thảo và khai quật khảo cổ học chứng minh Tam Đường là đất phát tích nhà
Trần, khu di tích này đã nhận được rất nhiều sự quan tâm từ các cấp nhằm tái
tạo lại nó. Năm 1990, Khu di tích đã được Bộ Văn hóa- thông tin, thể thao và
Du lịch công nhận là Khu Di tích Khảo cổ học và Di tích Lịch sử Quốc gia.
Ngay sau khi xếp hạng, được sự giúp đỡ của Bộ VHTT & DL và
UBND tỉnh , Sở VHTT & DL đã chỉ đạo Bảo tàng tỉnh bước đầu khôi phục
nơi thờ các vị vua Triều Trần trên di chỉ khảo cổ này, nhằm mục đích tôn vinh
một triều đại oanh liệt trong lịch sử dân tộc, nhằm khẳng định vai trò, vị trí
của đất Tam Đường và cả vừng đất Thái Bình là nơi đặt mộ tổ, đất phát tích,
quê hương thứ hai của vua Trần, vùng hậu phương lớn của nhà Trần trong ba
lần kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên.
Năm 1992, Bảo tàng Thái Bình đã xây dựng một công trình kiến trúc
gỗ lim kết cấu chữ nhất, không có hậu cung, 7 gian, mái chảy, hồi văn 5 đấu,
vì kèo chống đấu hoa sen, nguyên là một ngôi đình cũ, được tôn dựng làm nơi
thờ các vị vua Trần. Vị trí ngôi đền ấy nằm ở phía Bắc đường liên xã, quay về
hướng Nam, cách đường 50m.
25
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về giữ gìn và phát huy
các giá trị di sản văn hoá dân tộc, đồng thời nhằm giáo dục truyền thống cho
các thế hệ mai sau và đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo quần chúng nhân
dân trong và ngoài tỉnh, từ năm 1999 dự án đầu tư quy hoạch tu bổ, tôn tạo di
tích đền thờ và lăng mộ các vua Trần đã được Đảng và Nhà nước quan tâm,
UBND tỉnh phê duyệt với tổng mức đầu tư trên 25 tỷ đồng. Lễ yên vị thánh
tượng các vua đầu triều Trần và Thái sư Trần Thủ Độ, Linh từ Quốc mẫu
Trần Thị Dung đã được long trọng tổ chức tại đền Trần Hưng Hà.
Để có cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử di tích Lăng mộ và đền
thờ các vị vua triều Trần, UBND tỉnh Thái Bình đã chỉ đạo Sở VHTT&DL phối
hợp với UBND huyện Hưng Hà lập hồ sơ Di tích quốc gia đặc biệt, đề nghị Bộ
VHTT&DL xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Ngày 31/12/2014, Thủ tướng đã ký Quyết định số 2408/QĐ-TTg xếp
hạng Di tích quốc gia đặc biệt Khu di tích Lăng mộ và đền thờ các vị vua
triều Trần tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
2.3.2. Hệ thống đền thờ
Các công trình kiến trúc được bố trí theo hệ trục chính, chia thành các
không gian như: không gian nội tự đền, không gian hành lễ, không gian vườn
cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến
trúc dân tộc và kiến trúc đình làng. Đặc biệt riêng Toà hậu cung Đền Trần là
một phần trong tổng thể kiến trúc có kết cấu hình chữ đinh, gồm hai toà tám
gian, trên diện tích 359m2 đã được xây dựng bởi sự tài hoa, điêu luyện của
những người thợ điêu khắc, sự góp mặt của đá trong hợp thể kiến trúc tôn
vinh vẻ uy nghi tráng lệ của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ
tinh vi, sống động.
Bố trí thờ tự nội thất của đền Trần như sau:
Tòa hậu cung:
Chính cung thờ sắp xếp theo thứ tự :
26
1. Linh vị cụ Trần Kinh ( Truy tôn mục tổ Hoàng Đế)
2. Linh vị cụ Trần Hấp ( Truy tôn linh tổ Hoàng đế)
3. Linh vị Nguyên Tổ Trần Lý ( Truy tôn nguyên tổ Hoàng đế)
4. Thánh Tượng Thái Tổ Trần Thừa ( Truy tôn thái tổ Hoàng đế).
Năm Bính Tuất ( 1226) ông chính thức vào ngôi Thượng Hoàng; năm
Giáp Ngọ ( 1234) ngày 18 tháng Giêng, băng hà ở cung Phụ Thiên, mộ táng ở
Thọ Lăng- Thái Đường.
Bên phải thờ Thánh Tượng Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ.
Bên trái thờ Thánh Tượng Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung.
Tòa Đệ Nhị:
Ban thờ Thánh Tượng vua Trần Thái Tông là ở chính giữa. ( Miếu hiệu của
Trần Cảnh 1218 – 1277). Bên trái thờ Thánh Tượng vua Trần Thánh Tông. ( Miếu
hiệu của Trần Hoảng 1240 – 1290). Bên phải thờ Thánh Tượng vua Trần Nhân
Tông. ( Miếu hiệu của Trần Khâm 1258 – 1308).
Tòa Bái Đường:
Thờ Ngai và Bài vị của hội đồng các quan, Tả thờ Văn Quan, Hữu thờ
Võ Tướng Triều Trần.
Bên cạnh những công trình trên, sáng ngày 10/12/2009 tại quần thể di
tích cấp quốc gia đặc biệt khu lăng tẩm các vua Trần xã Tiến Đức huyện
Hưng Hà đã diễn ra lễ khai trương thư viện Đền Trần.
Thư viện đền Trần là thư viện công cộng cấp xã, được hình thành có sự
hỗ trợ của thư viện KHTH tỉnh, huyện và Ban liên lạc họ Trần,...Thư viện
Đền Trần góp phần tôn vinh lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang, hào
hùng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thời đại nhà Trần. Đáp ứng nhu cầu
nghiên cứu, mở rộng hiểu biết cho nhân dân. Thư viện được đặt tại dải vũ bên
phải, gồm ba giá sách, 1500 đầu sách về lịch sử nhà Trần, sách chính trị xã
hội, văn hộc nghệ thuật,...
Bên cạnh đó, ngày 31/12/2009, UBND huyện Hưng Hà tổ chức lễ khởi
27
công xây dựng tòa Ngũ Tiền Môn - Cổng chính khu di tích đền thờ - lăng mộ
các vua Trần, cho đến nay đã hoàn thành. Tiếp đó, UBND huyện Hưng Hà đã
hoàn thành xây dựng tuyến đường trục thần đạo, bãi đỗ xe và đường ra các
mộ vua đầu nhà Trần, Tòa Phương Đình trên trục thần đạo trong khuôn viên
di tích.
Hiện tại, vẫn còn một số hạng mục công trình khác đang chờ nguồn
vốn đầu tư để tiếp tục xây dựng trong thời gian tới để phát triển khu di tích.
Cùng với quần thể di tích đền Trần ở thôn Tam Đường, còn có Lăng
thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung tại xã Liên Hiệp
và nhiều di tích thờ Hoàng thân quốc thích, Hoàng hậu, công chúa nhà
Trần tại xã Tiến Đức, chùa Hội Đồng và các xã khác trong huyện của tỉnh
Thái Bình.
2.4. Thực trạng hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền Trần, xã
Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình
2.4.1. Giá trị tín ngưỡng và tinh thần
Vào thời kỳ lịch sử các vua Trần lập nghiệp từ đất Long Hưng và chọn
Long Hưng là hậu phương lớn, cung cấp sức người sức của trong ba cuộc
kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Các vua Trần rất quan tâm, chăm lo
cho nhân dân nhân Long Hưng. Ngược lại, nhân dân Long Hưng cũng làm hết
nghĩa vụ của những thần dân với nhà Trần trong sự nghiệp xây dựng đất nước
và bảo vệ Tổ quốc. Vua Trần đã tin cậy người Long Hưng và Thiên Trường
vào các đội quân cấm vệ, bảo vệ vua và cơ mật viện của triều đình. Để thể
hiện sự biết ơn, của nhà Trần với nhân dân Long Hưng, những lần chiến
thắng quân xâm lược Mông - Nguyên, vua Trần thường về tế tôn miếu ở
Long Hưng.
Bên cạnh đó, nhằm khẳng định giá trị di sản văn hóa nhà Trần ở Thái
Bình và thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, thiết thực lập thành tích chào
mừng những ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh trong năm 2010 và đặc biệt là
28
để thu hút khách du lịch đến với Thái Bình, dần hình thành các tour, tuyến du
lịch góp phần phát triển du lịch tâm linh tỉnh nhà, UBND tỉnh Thái Bình đã tổ
chức thực hiện thành công tuần Văn hóa thể thao và Du lịch năm 2010 tại
khu di tích đền thờ các vua Trần- xã Tiến Đức- huyện Hưng Hà từ ngày
27/02/2010 đến ngày 01/03/2010 ( tức ngày 13/1 đến 18/1 âm lịch).
Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND huyện Hưng Hà
chỉ đạo cho Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh và Trung tâm văn hóa - Thông tin
thể thao huyện Hưng Hà phối hợp tổ chức khôi phục một số hoạt động văn
hóa dân gian, trò chơi dân gian mà cách đây gần 100 năm nhân dân địa
phương đã tổ chức hoạt động trong các lễ hội hàng năm tại khu di tích lịch sử
đền Trần.
Tài liệu sử sách và những thông tin người dân cung cấp thì tại Thái
Đường xưa, nay là làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái
Bình, hàng năm nhân dân đều tổ chức lễ hội tại khu đền thờ các vua Trần với
các hoạt động tế, lễ, rước; các trò chơi như: chọi gà, thả diều, múa kỳ lân sư
tử, các cuộc thi đấu thể thao như : vật, kéo co, cờ người, bóng chuyền,... các
hoạt động văn hóa ẩm thực như: cỗ cá, bánh chưng, bánh dày; các hoạt động
văn nghệ như: hát ca trù, trầu văn, hầu đồng, hát chèo,...
Năm 2010 là lần đầu tiên khôi phục lại lễ hội cổ truyền này. Trong đó,
tâm điểm là lễ khai ấn đầu xuân tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà.
Theo dân gian truyền tụng, sau khi chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất, vào
ngày 14 tháng Giêng, vua Trần đã mở tiệc chiêu đãi tại phủ Thiên Trường và
phong chức cho các quan, quân có công lớn giết giặc và bảo vệ đất nước. Cứ
vào ngày này, đúng giờ Tý ( 23 giờ), các vua Trần lại “ khai ấn” đánh dấu sự
trở lại việc quốc sự của vua quan sau kỳ nghỉ Tết. Theo thông lệ, lễ khai ấn
đền Trần tại làng Tam Đường được tổ chức bắt đầu từ 23h00 ngày 13/1 âm
lịch. Phần lễ tổ chức vào sáng ngày 14, sau phần lễ khai mạc và lễ dâng
hương với sự tham gia của các các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà Nước,
29
Tỉnh ủy Thái Bình, UBND huyện Hưng Hà, xã Tiến Đức cùng rất đông du
khách thập phương trong nước và ngoài nước và người dân trong xã là phần
biểu diễn màn sử thi “ Âm vang hào khí Đông A” do hàng nghìn diễn viên
chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp biểu diễn tạo nên các tiết mục đặc
sắc. Sau đó, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trồng cây lưu niệm
trước đền tưởng nhớ công ơn.
Buổi chiều ngày 14 và 15 là các hoạt động như : thi kéo co, thi đấu cờ
người, thi chọi gà, biểu diễn rồng, lân, sư tử, giao lưu thơ nhân ngày Thơ Việt
Nam ( 15 tháng Giêng âm lịch) và liên hoan diễn xướng chầu văn do các
huyện, thành phố trong toàn tỉnh tham gia. Đặc biệt lần đầu tiên khôi phục cỗ
cá do dân làng Tam Đường dâng lên Vua vào chiều ngày 14, có 3 kiệu cỗ cá
với đầy đủ nghi lễ trang nghiêm và trân trọng do gần trăm người lễ phục
chỉnh tề, cờ , lọng, trống, chiêng, kiệu chấp kích, bát bửu, giáo mác hành lễ tại
sân Vua nhà Trần.
Tiếp theo chiều ngày 15 tháng Giêng đền Trần tổ chức diễn xướng chầu
văn của 8 huyện, thành phố với hơn 20 bài hát văn, hát ca trù đã thu hút đông
đảo nhân dân tới dự. Đây thực sự là buổi biểu diễn nghệ thuật mang lại hiệu
quả cao được nhân dân đánh giá cao và khen ngợi.
Điểm nổi bật nhất trong Lễ khai ấn đền Trần tại xã Tiến Đức huyện
Hưng Hà là Tục lễ cỗ cá Thái Đường. Năm 2012, dân làng Tam Đường, xã
Tiến Đức, huyện Hưng Hà đã dâng lên đền Trần 3 mâm cỗ cá để làm lễ cúng
các vị tiên đế, các vua Trần và các hoàng hậu, công chúa. Đây là tấm lòng của
nhân dân địa phương đối với các vị tiên đế nhà Trần và là bước đầu khôi phục
một tục lệ nét văn hóa ẩm thực của tiền nhân nhà Trần.
Theo lời kể của cụ Trần Văn Chuyện, làng Thái Đường, xã Tiến Đức:
Cỗ cá bắt nguồn từ tục giao hảo giữa hai làng Thái Đường ( nay là Tam
Đường) và Vân Đài. Hàng năm, cứ đến ngày 15/2 âm lịch ngày giỗ công chúa
chị là Diệu Từ Ân ở làng Thái Đường- Tiến Đức ( Hưng Hà) , ngày 15/9-
30
ngày giỗ công chúa em là Diệu Từ Dong ở làng Vân Đài – Chí Hòa ( Hưng
Hà). Tiền lệ tình hai chị em hai làng Thái Đường và Vân Đài giao hảo “ nhất
niên nhị lệ tháng 2 tháng 9” và “ nhất Vãng, nhất Lai”. Lệ hai làng quy định
trước khi về ăn giỗ, dân làng phải nghị những người không có tang tóc, bụi
bặm mới được về ăn giỗ.
Sáng ngày 15 giỗ chị Diệu Từ Ân công chúa, dân làng Thái Đường tổ
chức đội tế, lễ ( tế nam) đội phù giá khăn quàng áo đỏ, đai xanh thắt lưng, xà
cạp bao chân, đi giầy, đầu đội nón chóp rứa khiêng kiệu, cờ, quạt, chiêng ,
trống, bát biểu, gươm đao; 4 nữ tỳ 4 cành phướn, 4 quạt đi sau kiệu, 4 lọng
che kiệu, có người dịch loa để nhắc nhở mọi người và thông báo cho dân biết
tục lệ. Đoàn rước đến địa điểm đã bố trí sẵn để đón đoàn Vân Đài lên ăn giỗ.
Làng Thái Đường tổ chức 8 giáp, mỗi giáp làm 3 mâm cỗ đưa lên chùa thi cỗ.
Cõ 3 giải: giải nhất 5 hào, giải nhì 3 hào, giải ba 2 hào. Thi xong vào tế lễ, tế
lễ xong ra lấy cỗ về các giáp thụ lộc. Cách thức làm cỗ cá: có 2 loại cỗ gồm
cỗ đơn và cỗ kép.
Cỗ kép: có 1 con cá trắm đen từ 3 kg trở lên ( mỗi con bằng chiều
ngang 1 bàn tay khép vào), 4 con cá mè, mỗi con trên 1 kg. Cá xát muối, rửa
sạch rồi lại xát muối lại và treo lên 2 tiếng cho khô, sau đó ấn lá sung vào
bụng cá cho căng như khi sống, lấy lá chuối hơ mềm gói cá lại cho thật thẳng
rồi đặt vào phên rọ, không được để trật vẩy, gẫy vẩy, gẫy đuôi. Khi đun nước
nóng già lên rồi mới cho cá vào nồi; khi đặt cá vào nồi đốt một tuần hương
đen to, dài; khi hết hương mới vớt cá ra, nắn ruỗi cá thẳng, để nguội giữ hình
dáng cá như ban đầu. Cá trắm, chép, mè đều làm như vậy. Khi bầy cỗ thì cá
trắm, cá chép, cá mè đặt trên gắng ( bằng phên gỗ đóng đẹp), cắm hoa mẫu
đơn vào miệng và mang cá, rải lá đinh lăng chung quanh. Cá trắm ở giữa, 4 cá
mè 4 góc, bụng úp xuống dưới, lưng cá quay lên trên ( không đặt cá nằm
nghiêng), phủ vải đều lên trên.
Tầng dưới là 4 bát tàu đựng thịt lợn luộc thái phay bằng cái lược đặt ở
31
4 góc đỡ gắng đựng cá trắm ở trên. Tầng dưới còn có 2 đĩa giò lụa, mỗi đĩa 2
khoanh 4 lạng, 2 đĩa giò pha mỗi đĩa 2 khoanh 4 lạng, 1 đĩa chả chìa có thịt
rán, 1 đĩa nem 4 quả, 1 đĩa dưa hành, 1 bát mọc miến, 1 bát ninh 2 chân giò, 1
đĩa xôi.
Cỗ đơn : gồm cá chép từ 3 kg trở lên, 4 con cá mè từ 1 kg trở lên. Cách
làm và bầy cõ cũng như cỗ kép, chỉ khác là không có cá trắm đen.
Tục lệ giao hảo hai làng hiện vẫn đang duy trì đều đặn hàng năm cho
đến nay và vẫn lưu giữ một số nghi thức chính
Từ đó có thể thấy rằng, quần thể di tích này là nơi để các tầng lớp nhân
dân bày tỏ và thể hiện một phần thiêng liêng và sâu kín nhất trong tâm tư, tình
cảm và nguyện vọng của mình cầu mình cầu mong một cuộc sống tốt đẹp
hơn. Sự tồn tại của di tích đền Trần nhằm thỏa mãn các nhu cầu tinh thần của
một số bộ phận các tầng lớp nhân dân, củng cố niềm tin tưởng hy vọng ở
tương lai tốt đẹp, đồng thời góp phần khơi dậy và củng cố tính thiện lành
trong mỗi con người. Tất cả những điều này thể hiện trong nghi lễ với một
thái độ thành kính, trân trọng dành cho những đối tượng được thờ cúng tại
đền Trần.
2.4.2. Giá trị văn hóa lịch sử và huyền thoại.
Sau các nghiên cứu lịch văn hóa, tìm hiểu tài liệu và các cuộc khảo cổ
học, các nhà khoa học và sử học đã kết luận rằng: khu vực thôn Tam Đường,
xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày nay thuộc khu vực phủ lộ Long Hưng thời
Trần, nơi đây chính là đất phát tích, sang nghiệp của triều Trần.
Trong sách Đại Nam nhất thống chí chép cụ thể rằng : “Mộ tổ nhà Trần
ở xã Thái Đường, huyện Hưng Nhân, trước kia có bia nhưng từ sau khi Tây
Sơn nổi lên thì bia này đã mất chỉ còn lại con rùa. ở đây có miếu thờ vua Trần
: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông”.(tr.315)
Tếp theo là sách Đồng Khánh ngựu lãm địa dư chí lược ghi cụ thể hơn :
“Miếu thờ các vua Trần ở xã Thái Đường, hướng Nam, trước miếu có 3 gò ấn
32
kiếm, sau miếu có 7 gò thất tinh”. ( Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược_
Ngô Đức Thọ dịch, Thư viện Tổng Hợp Thái Bình, ký hiệu ĐV179)
Trong số 4 vị hoàng hậu nhà Trần thì 2 vị được ghi rõ ở Thái Đường,
phủ Long Hưng, là Khâm Từ Bo Khánh Hoàng Thái Hậu ( vợ vua Nhân
Tông) và Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu ( em gái Khâm Từ).
Theo các nhà khảo cổ học, Thái Đường xưa, Tam Đường nay là khu
mộ địa thời Trần (Trịnh Cao Tưởng – Phan Tiến Đa – Bùi Duy Lan – Nguyễn
mạnh Cường : Báo cáo điều tra khai quật Tam Đường 2 năm 1979- 1980; Đỗ
Văn Ninh : Ngôi mộ lạ ở Tam Đường – Tạp chí Khảo cổ học số 1- 1969;
Trịnh Cao Tưởng – Đặng Kim Ngọc – Nguyễn Ngọc Phát : Khai quật mộ
phần Cựu – Thông báo khảo cổ học 1980)
Tam Đường chia thành hai khu vực Nam và Bắc, lấy đường xuyên xã
làm trục, sẽ thấy xuất hiện các nấm phần sau:
Phía Nam gồm có các phần (tức mộ ) : Trung, Thính, Bụt, Đa, Cựu,
Mả, Tít. Mả Tít nằm gần sông Thái Sư ( xóm Bến), có tên gọi là Vườn Màn.
Ngôi mộ này đã bị phá hủy nghiêm trọng. riêng mộ Phần Cự đã được khai
quật chữa cháy năm 1979.
Phía Bắc gồm nhiều phần mộ nằm rải rác trong các khu dân cư, các
phần lớn hầu như đã bị phá hủy : Phần Lợn, Phần Quang, Phần Mao, Mộ
Phần Mao được khai quật năm 1968.
Đầu năm 1975, nhân dân Long Hưng đã phá hủy phần mộ có tên : “Mả
bà già”. Toàn bộ những nấm phần còn tồn tại hoặc đã bị phá hủy là những
ngôi mộ từ thời Trần và có quy mô lớn lại nằm trong khu di tích “ Tiền Tham
thai, hậu thất Tinh” của đất Thái Đường xưa nay thuộc Hưng Hà.
Khi nghiên cứu về cấu trúc mộ ở Tam Đường, đặc biệt là mộ Nấm Sỏi
hay còn gọi là Phần Bụt nằm ở khu Tam Thai như nhân dân truyền tụng, các
nhà nghiên cứu đã phát hiện ra chính ngay trên mộ ấy xuất hiện những viên
gạch kiến trúc tháp, kích thước, phong cách tráng lệ và rất giống với gạch
33
tháo Phổ Minh ( Nam Định).
Đồng thời, Tam Đường còn bảo lưu rất nhiều phế tích kiến trúc
thời Trần.
Tháng 12- 1972, nhân dân đã lấy đất đường và nhà mẫu giáo tìm thấy
hang trăm viên gạch chỉ, ở mặt cạnh in nổi hang chữ “Vĩnh Ninh Trường”,
cạnh đó còn tìm thấy nhiều phiến gỗ lớn, nhiều ngói lợp, chứng tỏ dấu tích
kiến trúc bị sập đổ.
Mùa xuân năm 1973, cách khu vực nói trên 200m về phía Đông là bãi
tha ma và được san lấp làm sân vận động của xã đã bật lên nhiều gạch ngói,
gốm sứ tại thời Trần nhân dân ta đã phát hiện một hang gạch bó vải có chữ “
Vĩnh Ninh Trường” phái Tây của dải đất này, đối diện với Phần Cựu, có địa
danh là Phần Bia, nhân dân đã thu lượm được một số lượng lớn đầu rồng bằng
đất nung, gạch hoa, ngói bồ, có đắp nổi hình rồng phượng, ngói mũi hài có
gắn lá đề lợp hiên, trong đó có mô hình nhà bằng đất nung cùng nhiều viên
gạch hoa cỡ lớn, sạch để trơn hình chữ nhật.
Trong hai năm liền 1979-1980, nhà Viện Khảo cổ học đã phối hợp với
Sở Văn Hóa Thông tin tỉnh Thái Bình ( nay là Sở VHTT & DL), đã khai quật
khu vực Cồn Nhãn và khu Phần Bia. Với trên sáu trăm mét vuông, các nhà
khảo cổ đã thu được 296 hiện vật lớn và hàng ngàn hiện vật gốm, đất nung
gồm các nhóm: vật liệu kiến trúc (ngói chiếu, ngói bò nóc, ngói mũi hài,…),
vật liệu trang trí kiến trúc ( ngói hiên gắn lá đề, ngói có trang trí hình rồng
phượng,…), nhóm tượng tròn trang trí kiến trúc ( đầu rồng tả thực, đầu rồng
đuôi tôm, đầu chim phượng), nhóm đồ gốm sứ (đĩa men ngọc và nậm rượu
men nâu, có niên đại từ Trần đến Lê).
Cho đến trước năm 1945, Tam Đường còn giữ được nét cổ kính, uy
linh, tráng lệ của một làng quê ven dòng Nhị Hà. Khu dân cư và khu trước
cửa UBND xã cao hơn rất nhiều so với khu canh tác. Khu Bia, Khu Cồn
Nhãn, Khu Dậm được san bạt những năm gần đây. Trong làng có hang vạn
34
cây đại thụ. Chính khu vực phía Nam đường trục bây giờ, trước đây là khu
nghĩa địa kéo dài đến tận các nấm phần. cây cối xum xuê đượm màu thần bí
linh thiêng. Phần Sỏi cao ngất, cây cối um tùm, chỉ có một con đường nhỏ lên
tới đỉnh Phần Trung, Phần Đa, Phần Cựu.
Phía Bắc Tam Đường còn có một địa danh là Hành Cung. Ở đây đã đào
được những ống thoát nước bằng đất nung thời Trần và phế tích kiến trúc dày
đặc lòng đất. Khu vực xóm Bến bên cạnh dòng Thái Sư, còn có tên là Bến
Ngự, Vườn Màn. Tục truyền từ thời nhà Trần các tiên đế và triều thần tứ kinh
đô theo dòng Nhị Hà vào sông Thái Sư để bái yết lăng miếu tiên tổ, đều ghé
thuyền ở bến này, nên được gọi là Bến Ngự.
Dựa vào kết quả nghiên cứu khảo cổ học qua nhiều lần khai quật, kết
quả nghiên cứu qua các tài liệu thư tịch, tài liệu điền dã sưu tầm dân tộc học,
đã xác định được ý nghĩa to lớn của khu vực khảo cổ học này trong lịch sử
quốc gia Đại Việt thế kỷ XII – XIV trên đất Thái Bình. Sở VHTT & DL Thái
Bình, Bảo Tàng Thái Bình đã lập hồ sơ đề nghị Bộ VHTT & DL xếp hạng di
tích Khảo cổ học Tam Đường là di tích cấp quốc gia năm 1990- quyết định
xếp hạng số 1214/QĐBT – 1990, 30/10/1990)
Những thông tin có được từ hệ thống di tích và kho tàng di vật chứa
đựng đó đã giúp cho các thế hệ sau hiểu được “một phần lịch sử được viết
bằng nét và hình khối, đó là những trang sử sống động được viết bằng hiện
vật” về nhà Trần là nơi tôn vinh và lưu giữ những giá trị đặc sắc về vật chất
và tinh thần của cha ông ta đã hình thành nên trong suốt tiến trình lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc đại Việt. (Di tích lịch sử - văn hóa và
danh thắng Việt Nam, Nxb ĐHQG) [7 tr.67]
Bên cạnh đó, du khách khi tới thăm đền Trần sẽ được các thành viên
trong Ban quản lý di tích cũng như những người dân tại đây kể lại một câu
chuyện mang tính huyền thoại, truyền thuyết về việc chọn đất đặt mộ tổ của
họ Trần. Câu chuyện này cũng được in trên tập giới thiệu của khu di tích.
35
Theo sử sách lưu truyền thì “chuyện kể rằng”:
Ông tổ họ Trần (Trần Kinh) đến ở Hương Tức Mặc ( Nam Định ngày
nay), rất thạo sông nước, sống bằng nghề chài lưới lênh đênh trên sông Nhị
Hà, chỗ nào cũng là nhà, lấy người con gái ở Hương ấy sinh ra Trần Hấp. Vào
thời Lý Thần Tông (1128- 1138) có một thầy địa lý đi xem tướng đất, thấy ở
Hương Tinh Cương, xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng có
một Gò Hỏa Tinh, thầy cười mà nói rằng : Ở nơi bằng phẳng lại nổi lên một
gò lớn, hẳn không phải là hoang địa.
Thầy vào làng bên nghỉ trọ trong một gia đình, biết thầy là người giỏi
xem đất, gia đình này ngỏ ý muốn nhờ thầy tìm giúp nới đặt mộ. cảm ơn việc
đối xử tốt của gia đình, thầy địa lý đồng ý giúp, song đề phòng bất trắc thầy
dặn sau này khi trời mưa to sấm chớp tahasy trên mặt mộ có màu đỏ thì phải
chuyển mộ ngay, nếu không gia đình sẽ bị triệt diệt. xong việc đặt mộ, sợ
người khác biết được, gia đình ấy đem lòng bội bạc đã trói thầy địa lý quẳng
xuống sông. May thay gặp lúc thủy triều xuống và lúc đó Trần Hấp đang đánh
cá gần đó, thấy người kêu cứu liền tới đem thuyền và hỏi duyên cơ. Cảm ơn
đã cứu thoát nạn, xin tìm nơi cát địa để báo ơn”. Thầy địa lý bèn hướng dẫn
Trần Hấp nấu một nồi nước nâu, nhân khi trời mưa to gió lớn đem đổ lên mặt
mộ gia đình kia. Gia đình kia thấy trên mặt mộ của nhà mình như thầy địa lý
dặn bèn vội vàng chuyển mộ đi nơi khác.
Theo sự chỉ dẫn của thầy, giờ lành ngày Tân Dậu tháng Đinh Tỵ năm
Quý Sửu, Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc về đặt tại gò Hỏa Tinh, tiền của
tốn phí hơn nghìn hốt. Mộ đặt tại hướng Càn ( Bắc), nhìn ra ngã ba sông lớn,
tục gọi là Cửa Vàng. Phía sau gối lên cổ bi phục tượng, tả hữa la liệt cờ trống.
Thế đất đặt mộ cha của Trần Hấp theo thầy địa lý là “Phấn đại đương giao
chiếu, liên hoa đối diện sinh, tha nhật dĩ sắc đắc thiên hạ” – phấn son cùng
chiếu rọi, trước mặt nở hoa sen, sau này có người do nhan sắc lấy được thiên
hạ, lại nói “Nữ nhập cung phi, nam cư phụ chính”
36
Tác giả thấy rằng “theo dòng thời gian, càng lùi xa trong quá khứ, mọi
sự thật hiện hữu sẽ càng được huyền thoại hóa dưới sự cảm nhận của người
dân”. Những huyền thoại, truyền thuyết này khiến các di tích lịch sử trở thành
trung tâm trong chúng, cho thấy cách hành xử của người đời đối với chúng.
2.4.3. Giá trị nghệ thuật
Đền Trần tọa lạc trên diện tích hơn 32ha, phía trước có 3 gò ấn kiếm(
phần Đa, phần Bụt và phần Trung) còn gọi là mả vua. Phía sau tựa vào làng
Tam Đường tục truyền có 7 gò thất tinh. Hai bên tả hữa có sông Thái Sư và
sông Hồng như vòng tay ôm ấp.
Từ xa, du khách đã nhận ra tứ trụ nghi môn của ngôi đền dài 11m, cao
6,5m. tứ trụ nghi môn hay còn gọi là “Nghinh môn” là cửa để đón tiếp, đồng
thời cũng là dấu hiệu để thông báo với người đời rằng phía sau cổng này có
một nơi tôn nghiêm, cần có thái độ tôn trọng, kính cẩn.
Nghi môn được xây theo kiểu tam quan cuốn vòm, mái chảy chồng
diêm hai tầng, đao song loan cách điệu. Xưa kia, chỉ có nhà vua được đi cổng
giữa, quan lại và người dân phải đi hai cổng bên cạnh. Tứ trụ nghi môn được
xây dựng uy nghi hoành tráng, có trụ biểu lồng đèn được cách điệu hình
phượng lá lật, nghê chầu nơi sơn thủy tối linh. Trong tâm thức người Việt
cũng như trong kiến trúc đền chùa, con nghê là một linh vật đặc biệt. Nó có
thể phân biệt người tốt và kẻ xấu, chính với tà. Con nghê còn có tác dụng tấn
áp tà khí, mang đến những điềm lành, ví thế miệng của nó thường há to để
trán áp mọi hung khí, không cho lọt vào bên trong không gian ngôi đền. Du
khách bước qua cổng nghi môn sẽ thấy ngỡ ngàng trước không gian kiến trúc
trải rộng của sân đền 550 , hai bên có giếng ngọc tạo nên sự cân đối hài hòa
trong không gian kiến trúc.
Tòa Bái Đường của ngôi đền rộng 330 gồm 7 gian, hai tầng mái
kiểu chồng diêm. Mái tầng hai kiểu chéo đao tàu gốc, đao song loan cách
điệu, nâng cao bay bổng với hệ thống chắn phong gỗ tiện nhẹ nhàng thanh
37
thoát. Bộ cửa lim phục hồi phong cách thời Lê với hình ảnh hai con rồng oai
hung, hung dũng, ẩn hiện trong những đám mây. Hệ thống bẩy kẻ, vì kèo
trạm trổ tứ quý, tứ linh, có niên đại thời Nguyễn tạo cảm giác thanh tao, nhẹ
nhàng, thuần khiết.
Tòa đại bái của đền Trần là công trình kiến trúc gỗ rộng lớn, hoành
tráng bởi chiều cao kiến trúc với hai mái chồng diêm cổ các, những hang cột
gỗ lim vững chắc, của thông gió giữa hai mái thoáng đãng, đảm bảo ánh sang
cho không gian. Đôi rồng đá đứng trên thềm của tòa Bái Đường tạo thế uy
nghi tối linh.Ở tòa Đại Bái có những câu đối như:
“Xã tắc trung hưng hiến sử ức niên sinh diện mục
Thái Bình thử lực Nam thiên tong cổ ngưỡng thần minh”
“Vạn cổ thử giang sơn
Thái Bình tu nỗ lực”
“Nam thiên thắng nghĩa đức trường minh
Trần đại tiên công truong vĩnh kỹ”
Ngoài ra còn có một quả chuông đồng lớn đường kính khoảng 80cm,
cao cả quai khoảng 1,1m, nặng gần 300kg, do ông Trần Nhượng- chủ tịch
HĐQT cty CP An Phúc Châu (APC) thành phố Hồ Chí Minh tiến cúng. Hai
bên tả hữu tòa Đại Bái có cổn ra vào nối tường bao viên ngăn cách công
trình thành hai khu riêng biệt.
Qua tòa Bái Đường, là sân Chầu lát gạch rộng bốn trăm mét vuông.
Một không gian hành lễ thoáng rộng được bao viên khép kín bởi hai tòa giải
vũ Đông, Tấy. mỗi tòa 5 gian, kết cấu kiến trúc gỗ lim, mái chảy, vì kèo chồng
đấu hoa sen, hồi văn 5 đấu. Sân chầu là nơi diễn ra những hoạt động lễ nghi
như đang hương, sửa kễ trước khi vào chầu cửa Thánh tòa Đệ Nhị và Hậu
Cung của đền Trần. Ở đây có cây đèn bằng đá trạm trổ tinh xảo, có lô nhang
bằng đá xanh tạo không gian thiêng liêng ngay trước cửa đền. hai đôi rồng
bằng đá lớn mang phong cách Rồng thế kỷ XV, phủ phục trước của tòa Đệ
38
Nhị. Rồng được tạc từ những phiến đá lớn vùng Ninh Bình. Những họa tiết trên
đầu, than, đuôi rồng đã biểu hiện nghệ thuật điêu khắc tài hoa đương đại.
Tòa Đệ Nhị và Hậu Cung kết cấu theo kiểu chữ Đinh (J). tòa Đệ Nhị
rộng 270 là công trình kiến trúc nối tòa Bái Đường và sân chầu; gồm 5
gian, mái chảy, chéo đao tàu gố hoành tráng như một ngôi đình. Kết cấu kiến
trúc gỗ lim, cột, xà kẻ, bộ vì, bẩy hiên được trang trí tinh tế với các họa tiết tứ
linh, tứ quý. Mái của tòa Đệ Nhị trải rộng , không có cảm giác nằng nề mà lại
vô cùng thanh thoát. Phía bên trong không gian hành lễ của tòa Đệ Nhị có các
án thờ, câu đối, đại tự cửa võng, y môn bằng gỗ sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
Tại gian chính cung là cỗ khám lớn trạm long đề tài tứ quý, tứ linh, hoành
tráng rực rỡ đứng trên ban thờ. Trên khám có bức đại tự : Đông A hào khí.
Hai cột cái gian chính cung treo hai câu đối lòng máng :
“Long Hưng khởi nghiệp lưu Hoàng Sử
Bạch Đằng chiến tích động Thiên Nam.”
Hai cột quân cùng bộ vì kèo treo câu đối:
“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã
Sơn hà thiên cổ điện kim âu.”
Đây là nơi đặt ban thờ, ngai thờ và thánh tượng Trần Thái Tông - Trần
Cảnh, vị vua đầu tiên của nhà Trần. phía bên trái có bàn thờ, ngai thờ, thánh
tượng vị vua thứ hai – Trần Thánh Tông. Phía bên phải có bàn thờ, ngai thờ,
thánh tượng vua Trần Nhân Tông – vị vua thứ ba của nhà Trần. tất cả đều
được sơn son thiếp vàng, thể hiện thần thái uy nghiêm của các vị hoàng đế
nhà Trần.
Tòa hậu cung có diện tích 90 , kiến trúc gỗ lim, mái chảy, bộ vì kèo
chồng đấu hoa sen và nhiều họa tiết trạm khắc có niên đại thời nhà Nguyễn.
tòa nhà này có nền cao hơn 1m, thâm nghiêm, uy linh. Tại tòa Hậu Cung,
chính giữa thờ linh vị cụ Trần Kinh, Trần Hấp, nguyên tổ Trần Lý và Thánh
tượng Thái tổ Trần Thừa. phía trên có treo bức đại tự : “Thánh cung vạn tuế”
39
do trung tướng Nguyễn Thế Long, phó chủ nhiệm chính trị quân sự khu 3
cúng tiến. bên phải thờ thánh tượng của Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ.
Bên trái thờ Thánh tượng Linh Từ Quốc Mẫu TRần Thị Dung.
Hiện nay, hệ thống các con đường bao quanh 3 ngôi mộ đã được hoàn
thành, tiện cho du khách tới thắp hương và chiêm ngưỡng. đồng thời nó cũng
tạo cho toàn bộ công trình một dáng dấp mới, có quy mô rộng lớn hơn và quy
hoạch các hạng mục kiến trúc rõ ràng hơn.
2.4.4. Giá trị tự nhiên, không gian, cảnh quan, môi trường.
Đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà đã được nhà nước công
nhận là khu di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1990, năm 2014 là di
tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đặc biệt và năm 2015 là di sản văn hóa phi
vật thể. Di tích lịch sử này tọa lạc tại vị trí thôn Tam Đường, xã Tiến Đức,
huyện Hưng Hà một vùng đất cổ xưa của tỉnh Thái Bình, được hình thành
trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn.
Hưng Hà là một vùng quê được bồi đắp bởi 3 con sông lớn: sông Hồng,
sông Luộc, sông Trà Lý. Vì vậy đã tạo nên cho nơi đây những cánh đồng đất
đai phì nhiêu màu mỡ, các hệ thống giao thông nông thôn khá hoàn thiện.
Bên cạnh đó, Hưng Hà cũng là huyện có bề dày truyền thống giá trị văn
hóa lịch sử, văn hiến, yêu nước và cách mạng
Trong truyền thống đó, không chỉ có bề dày văn hóa vật thể mà văn hóa
phi vật thể khá đậm đà: Chèo Hà Xá- một trong ba chiếu chèo nổi tiếng của
Thái Bình đang được phát huy; Hội Long Vân trước kia chỉ có ở xã Độc Lập
nay đã phát triển ra nhiều xã; hội thi cỗ cá đã được phục hổi tại dịp lễ hội
hang năm tại đền Trần xã tiến Đức; pháo đất tại xã Chi Lăng, Hòa Bình; múa
tứ linh, đi cầu kiều, chọi gà, cờ tướng, vật và hang chục trò chơi khác đã và
dang được phục hồi và phát triển lưu truyền.
Tồn tại và là một trong những trung tâm của không gian văn hóa đó, tại
xã Tiến Đức thấm nhuần những giá trị văn hóa của một vùng đất địa linh nhân
40
kiệt, nơi đã được vị tổ đời thứ hai của triều Trần là Trần Hấp chọn thế đất để
táng mộ của dòng họ mình, và sau đó chính là nơi phát tích lên một vương
triều làm rạng danh cho lịch sử Việt Nam. Ở trung tâm của nơi đó, tọa lạc một
quần thể kiến trúc quy mô không gian lớn nhưng tinh tế, hài hòa với thiên
nhiên của một vùng quê mang đậm dấu ấn làng quê Duyên Hải Bắc Bộ.
Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, Hưng
Hà cũng ngày một vươn xa với các cụm công nghiệp và song song với nó là
quá trình đô thị hóa, các khu nhà cao tầng mọc lên ven những con đường liên
xã, liên huyện,… nhưng, thu mình trong một không gian yên tĩnh, quần thể di
tích đền Trần dường như cách biệt hẳn với không gian ồn ào bên ngoài.
Nằm bên cạnh dòng sông Hồng và sông Thái Sư chiến tích về huyền
thoại một dòng họ, một vương triều hùng mạnh, quần thể di tích đền Trần
đang mời gọi du khách tới đây chiêm ngưỡng và khám phá vẻ đẹp kiến trúc
nghệ thuật tại nơi đó. Phía trước mặt là cánh đồng thẳng cánh cò bay, cứ mỗi
dịp lúa vào thì cả không gian xanh mướt một màu, hương lúa thấm đượm
từng viên gạch, hang ngói. Năm tháng qua đi, vật đổi sao rời. Song, ba ngôi
mộ các vị vua đầu tiên Triều Trần vẫn sừng sững đứng giữa không gian đó,
như một giá trị không thể phai mờ.
Với những mái ngói đỏ đã nhuốm rêu phong cùng những đầu đao cong
vút, quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà vẫn chứa đựng
những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc từ những bàn tay tài hoa của chính
những con người vùng đất này. Những đường nét đục đẽo, chạm khắc của các
nghệ nhân dân gian này đã thể hiện được ước mơ cũng như lòng kính trọng
đối với nhà Trần oai hùng.
Theo nghiên cứu của PGS.TS Dương Văn Sáu trong cuốn Giáo trình Di
tích lịch sử- văn hóa và danh lam thắng cảnh Việt Nam đã nhận xét: “Nơi có
di tích và danh thắng là những nơi có môi trường tự nhiên và xã hội tốt do
được lựa chọn cẩn thận vị trí trước khi xây dựng để đạt được yêu cầu địa
41
linh- nhận kiệt. Đây thường là những nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp,
khí hậu ôn hòa, chưa hoặc ít chịu sự xâm lược, tác động của con người”. ( Di
tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh Việt Nam, TS Dương Văn Sáu,
Nxb ĐHQG) [7 tr.65]
Quần thể di tích đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà là một trong
những địa điểm tiêu biểu tạo nên các nghệ thuật trên. Những công trình kiến
trúc này đã “hòa vào với thiên nhiên, tô điểm cho thiên nhiên, trở thành thiên
nhiên thứ hai” và “thực sự có ý nghĩa, cả về hiện thực lẫn ý nghĩa biểu
tượng”.
2.5. Thực trạng tổ chức hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền
Trần, xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình.
2.5.1. Thị trường và khách du lịch
Năm 2014 lễ hội tại đền Trần tỉnh Thái Bình được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch cấp bằng chứng nhận “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và
đến năm 2015, “Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần” được Nhà
nước công nhận là “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt.” . Cho đến
nay, lượng khách về thăm quan, hành hương tại đây tăng lên đáng kể. đặc biệt
trong đêm khai mạc lễ hội năm 2016, với sự góp mặt của. phó Thủ tướng
Chính phủ Vũ Văn Ninh, Ủy viên Bộ Chính trị Trần Quốc Vượng, Chủ nhiệm
Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cùng lãnh đạo các bộ ngành, các sở ban ngành
trong tỉnh và một số các lãnh đạo UBND huyện của các tỉnh lân cận... Tại
buổi lễ, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, phó Thủ tướng Chính
phủ Vũ Văn Ninh trao Bằng công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới cho
huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; buổi lễ đã diễn rất trang trọng và thu hút một
lượng khách lớn lên đến hàng trăm nghìn người.
42
Bảng 2.1: Số lƣợng khách du lịch đến tham quan tại đền Trần, xã
Tiến Đức, huyện Hƣng Hà
Tổng lượng khách đến ( người) Năm
2016 15.000
2017 20270
2018 24300
2019 28.850
Nguồn: BQL di tích Đền Trần
Theo như lời của BQL di tích đền Trần, lượng khách đến thăm quan
hàng năm ước tính từ 25 nghìn đến 30 nghìn người/ năm. Lượng khách đến
đền Trần tập trung từ tháng 8 đến tháng 3 âm lịch năm sau. Chủ yếu vào mùa
xuân khi diễn ra lễ khai ấn với các tục lệ và trò chơi dân gian. Thời gian còn
lượng khách du lịch cũng tương đối ổn định và tăng đều theo các năm. Đặc
biệt vào các dịp nghỉ lễ 10/3; 30/4-1/5 với khoảng thời gian nghỉ tương đối
dài. Đặc biệt, vào ngày 10/3 âm lịch năm 2016 UBND huyện Hưng Hà tổ
chức đón bằng chứng nhận lễ hội Tiên La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2016 và khai mạc lễ hội Tiên La. Sự
kiện này đã thu hút hàng nghìn khách du lịch về trẩy hội, hành hương tại đây.
Song song đó, thúc đẩy lượng khách đến tham quan tại khu di tích đền Trần
xã Tiến Đức hơn mọi năm.
Thị trường khách du lịch
Khách du lịch đến thăm quan tại đền Trần chủ yếu là khách nội địa
chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối trong tổng lượng khách. Khách du lịch hầu hết
đến từ các tỉnh lân cận như Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội và một số
tỉnh lân cận. Vào mùa lễ hội trong đó có đêm khai ấn còn có nhiều khách du
lịch đến từ những nơi xa xôi khác như Lạng Sơn, Tuyên Quang, Điện Biên,
Quảng Ninh, Huế,…. Hiện tại, vì chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức lễ hội
nên BQL di tích chưa thống kê được con số chi tiết lượng khách cũng như
43
tỉnh, thành phố có du khách đến tham quan đền Trần.
- Cơ cấu khách du lịch
Khách du lịch tới đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà với mục đích
chính là tham quan, lễ hội, tín ngưỡng ngoài ra cũng có những đối tượng
khách kết hợp tham quan với nghiên cứu, tìm hiểu khu di tích lịch sử, cũng
như những ảnh hưởng của nhà Trần tới vùng đất này. Tuy nhiên, mức độ lưu
trú của khách du lịch tại đây còn tương đối thấp, do sự hạn chế của các dịch
vụ cũng như cung đường chưa thuận lợi.
6%
7%
A. Du lịch tâm linh
31%
B. Tham quan di tích
C. Nghiên cứu
56%
D. Mục đích khác
( Nguồn: khảo sát thực tế)
Hình 1.2. Biểu đồ thể hiện mục đích chuyến đi tham quan
của khách du lịch.
Đặc điểm khách du lịch văn hóa tâm linh đến đền Trần:
Như đã phân tích ở trên, khách du lịch đến Thái Bình chiếm phần lớn là
khách du lịch văn hóa tâm linh,du lịch lễ hội, trong đó khu du lịch đền Trần
trở thành điểm đến thường xuyên,với số lượng khách năm sau cao hơn năm
trước, cụ thể: Dựa trên quan sát và quá trình khảo sát thực địa tại các điểm di
44
sản văn hóa tâm linh đền Trần, tôi nhận thấy khách du lịch văn hóa tâm linh
đến khu di tích này có các đặc điểm sau:
Độ tuổi: Những người tham gia du lịch văn hóa tâm linh đến đền Trần
chủ yếu ở độ tuổi trung niên từ 36 đến 55 chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây là lứa tuổi
trung niên, họ đã đạt những mặt ổn định nhất định về gia đình,công việc, kinh
tế và thời gian tương đối thoải mái. Bên cạnh thu nhập hàng tháng, họ đã có
những khoản dư thừa để phục vụ cho những nhu cầu vật chất và tinh thần.
Trong đó, việc cải thiện sức khỏe và nâng cao đời sống tinh thần được ưu tiên
hàng đầu. Do vậy, họ thường chọn du lịch làm hoạt động để thỏa mãn các nhu
cầu về tinh thần. Đặc điểm của đối tượng khách này là không thích sự ồn ào,
náo nhiệt hay mạo hiểm nên họ thường chọn các điểm đến có không gian yên
tĩnh, khí hậu mát mẻ, không khí trong lành như các di tích tôn giáo, danh lam
thắng cảnh như đình, chùa, đền…để cảm nhận không gian thanh bình, tĩnh
tâm…phù hợp với tâm lý tuổi trung niên. Ngoài ra, các điểm du lịch văn hóa
tâm linh tại Thái Bình còn thu hút một lượng lớn khách du lịch trẻ tuổi là học
sinh, sinh viên, khoảng từ 20 đến 35 tuổi. Đối tượng khách này là những người
trẻ, năng động, thích đi đây đó để tìm hiểu cuộc sống xung quanh. Nhóm khách
này thường đến đền Trần vào các dịp hội chính để hòa mình vào không khí náo
nhiệt nơi đây.
Giới tính: Các điểm du lịch văn hóa tâm linh thường có sức hút với nữ
giới hơn nam giới vì xét theo khía cạnh tâm lý, nam giới được coi là phái mạnh,
cứng rắn, mạnh mẽ, sống thiên về lý trí còn nữ giới là phái yếu, cả tin, sống thiên
về tình cảm nhiều hơn nên dễ có cảm giác lệ thuộc vào tâm linh hơn.
Học vấn, nghề nghiệp: Theo thông tin của BQL di tích đền Trần, hì du
khách đến đây có trình độ học vấn, nghề nghiệp rất đa dạng. Trong đó,
chiếm phần lớn là công nhân, viên chức (khoảng 50%). Họ là những người có
trình độ học vấn cao, có sự trải nghiệm cuộc sống và am hiểu nhất định về các
yếu tố văn hóa lịch sử địa phương. Những người làm kinh doanh buôn bán
45
cũng chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 20%). Họ đến với mục đích tín ngưỡng
tâm linh rõ ràng và không quan tâm nhiều đến chất lượng dịch vụ và môi
trường cảnh quan. Bên cạnh đó, di tích đền Trần còn thu hút đối tượng học
sinh sinh viên, khách hưu trí và các đối tượng khác.
Mục đích du lịch: Du khách đến các điểm du lịch văn hóa tâm linh với
mục đích chính là thăm quan di tích, thư giãn, tín ngưỡng. Trong đó, đối
tượng khách du lịch buôn bán thường thiên về mục đích tín ngưỡng văn hóa
tâm linh nhiều hơn. Hoạt động chính của họ khi đến các điểm di tích là lễ bái,
cầu khấn… Trái lại, đối tượng khách học sinh, sinh viên thì chủ yếu đến để
tham gia các hoạt động náo nhiệt của lễ hội, sau đó là cầu thi cử, học hành,
cầu duyên. Còn đối tượng khách hưu trí thì thường đi với mục đích chiêm
nghiệm cuộc sống, đến để tìm sự bình yên trong tâm hồn của họ. Họ cũng tin
vào Đức Thánh Trần, nhưng niềm tin không đến mức cuồng tín.
Thời điểm đi du lịch: Với quan niệm “tháng giêng là tháng ăn chơi”, đi
lễ đầu năm để cả năm được may mắn. Chính vì vậy, thời điểm du lịch văn hóa
tâm linh tập trung vào dịp đầu năm từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch hằng
năm.
Hình thức du lịch: Phần lớn lượng khách tham gia hoạt động du lịch
văn hóa tâm linh đều đi về trong ngày và thường tự tổ chức chuyến đi chứ ít
mua tour của các công ty du lịch. Họ ít sử dụng các dịch vụ tại điểm du lịch,
nếu có chủ yếu là ăn uống, mua sắm đồ lễ hoặc quà lưu niệm, đặc sản quê
hương.
2.5.2. Thực trạng về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất.
Cơ sở vật chất về du lịch bao gồm các lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí,
thể thao, phương tiện vận chuyển và các dịch vụ khác.
Trước đây, đền Trần chỉ là một ngôi đền nhỏ tại thôn Tam Đường, nằm
im lìm ở một làng quê hẻo lánh bên bờ sông Hồng. Ít ai biết trong những gian
nhà nhỏ bé cũ kỹ kia, bài vị của các vị tổ tiên khai sáng ra vương triều Trần
46
vẫn ngày đêm nghi ngút khói hương. Kể từ khi có các cuộc điều tra, nghiên
cứu khảo cổ học, khẳng định rằng mảnh đất Tam Đường này là nơi phát tích -
sáng nghiệp của nhà Trần đã có một sự thay đổi lớn. Hệ thống các công trình
đã được tu sửa tôn tạo để xứng tầm là nơi lăng mộ của các vị vua đầu triều
Trần, là mảnh đất sinh ra một vương triều hùng mạnh, hào kiệt.
Tuy nhiên, quần thể di tích đền Trần mới chỉ thực sự thu hút được sự
quan tâm, chú ý của khách du lịch thập phương kế từ sau Tuần văn hóa, thể
thao và du lịch tại khu di tích nhà Trần- Thái Bình năm 2010, mà tâm điểm là
Lễ khai ấn đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày 13 và 14 tháng giêng
năm 2010, sau đó là lễ đón bằng chứng nhận quần thể đền Trần là Di tích
quốc gia đặc biệt vào năm 2014 và Bằng chứng nhận di tích văn hóa phi vật
thể vào tháng 1/2015. Nhìn chung, đền Trần vẫn đang trong quá trình hoàn
thành xây dựng các hạng mục còn lại chưa hoan thiện, vì thế cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch tại đây còn nghèo nàn và đơn sơ. Trong quá trình khảo
sát đề tài này, tác giả xin phép được đưa ra một vài ý kiến về thực trạng cơ sở
vật chất kỹ thuật tại đây như sau:
Hệ thống cơ sở lưu trú
Trong những năm gần đây, hệ thống các cơ sở lưu trú tại huyện Hưng
Hà đang từng bước phát triển và nâng cao. Nhưng nhìn chung cơ sở lưu trú
vẫn còn khá nghèo nàn và đơn sơ.
Về số lượng : Theo thống kê của Phòng văn hóa - TT huyện Hưng Hà
năm 2019, toàn huyện có 46 cơ sở lưu trú với 280 phòng. Các cơ sở lưu trú
nằm rải rác khắp toàn huyện, không tập trung tại bất kỳ một điểm cụ thể nào.
Đặc biệt là tại khu di tích đền Trần chỉ tồn tại một vài nhà nghỉ vừa và nhỏ.
Về chất lượng: nhìn vào số liệu thống kế trên ta có thể thấy, các cơ sở
lưu trú hầu hết là nhà nghỉ, nhà trọ tư nhân tự phát không có quy hoạch cụ
thể. Với số lượng buồng phòng khá ít ỏi và nghèo nàn, chất lượng phòng chưa
cao, chất lượng phục vụ thấp. Nhìn chung chỉ có thể giải quyết tạm thời nhu
47
cầu ăn nghỉ của khách nhưng về lâu dài đây sẽ là một tồn tại khó khắc phục,
đa phần lượng khách trong thời gian này chỉ mới dừng lại là khách thăm
viếng trong ngày, chưa có như cầu lưu trú dừng chân thăm quan dài ngày.
Cơ sở kinh doanh ăn uống
Phần lớn cơ sở chỉ dựng tạm thời, phục vụ hoạt động kinh doanh trong
dịp lễ hội nên hầu hết dưới dạng xe đẩy, lều bạt, lán lá thiếu thẩm mỹ và mất
vệ sinh an toàn thực phẩm và trong những khoảng thời gian không có lễ hội,
tính cho đến thời điểm này cách khu vực đền Trần không xa chỉ có 1 vài cơ sở
kinh doanh ăn uống quy mô nhỏ lẻ, tự phát. Nếu các đoàn khách đông sẽ phải
đặt trước xuất ăn để chủ cửa hàng chuẩn bị trước về thực phẩm cũng như các
dụng cụ phục vụ ăn uống, các món ăn được bài trí đơn giản, giá cả phải chăng
và chất lượng các món ăn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân, tuy
nhiên món ăn chưa phong phú và hấp dẫn. Các cơ sở này do mặt bằng hẹp,
thiếu cây xanh , chỗ đỗ xe nên ít đón được đoàn khách lớn.
Nhìn chung các cơ sở kinh doanh ăn uống còn nghèo nàn, chưa đáp
ứng được nhu cầu của khách du lịch đặc biệt khi có dịp lễ hội.
Phương tiện vận chuyển khách du lịch
Hiện tại trong địa bàn huyện Hưng Hà chưa có doanh nghiệp vận tải
chuyên chở khách du lịch. Chỉ có một số hãng xe tư nhân tự phát phục vụ
khách theo hợp đồng, không nằm trong danh sách quản lý của huyện. Bên
cạnh đó, toàn tỉnh hiện có 9 hãng taxi uy tín chuyên chở phục vụ khách du
lịch.
Nhìn chung, các phương tiện vận chuyển khách du lịch tại đây còn
nghèo nàn, chất lượng thấp, dịch vụ không đảm bảo số lượng đủ vận chuyển
khách mùa cao điểm như mùa lễ hội.
Cơ sở vui chơi giải trí
Mọc lên một cách tự phát trong quá trình tổ chức lễ hội, chưa có quy
hoạch cụ thể do các hạng mục công trình phía bên ngoài quần thể vẫn đang
48
trong quá trình xây dựng, chưa phân luồng các khu đây cũng là nguyên nhân
chính không giữ được khách du lịch lưu trú dài ngày và mức chi tiêu của
khách du lịch không cao.
Hệ thống vệ sinh công cộng đã được xây dựng trong khuôn viên của
đền, sạch sẽ và tiện lợi hơn cho du khách du lịch.
Cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu niệm
Cũng ở tình trạng trên, chủ yếu là các xe bán hàng rong, lều bạt, quán
lá ở cạnh đường dẫn vào đền. Hàng hóa được bày bán ở đây hầu hết là đồ thờ
tự như hương, hoa quả, hàng mã, bánh kẹo,… Ngoài ra, cũng bày bán Bánh
Cáy làng Nguyễn, Đông Hưng đặc sản nổi bật tại Thái Bình. Tuy nhiên,
những sản phẩm này chưa thực sự hấp dẫn khách du lịch.
Trong khuôn viên đền hiện có bán những ấn phẩm sách lịch sử giới
thiệu chi tiết về quần thể đền Trần, lịch sử các vị vua nhà Trần và Triều đại
nhà Trần và một số quyển sách liên quan đến nhà Trần. Khách du lịch có thể
mua để tham khảo, tìm hiểu thêm.
Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tại địa bàn xã Tiến
Đức, huyện Hưng Hà vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu của du khách du lịch và
chưa tạo điều kiện khai thác tối đa các thế mạnh du lịch nói chung và du lịch
văn hóa tâm linh nói riêng. Cơ sở lưu trú, ăn uống thiếu về số lượng và hạn
chế về chất lượng; chưa có khách sạn có phòng, buồng được bày trí đặc biệt
để phục vụ riêng loại hình khách du lịch tín ngưỡng, tôn giáo; huyện chưa có
công ty lữ hành hoạt động; phương tiện vận tải chưa thực sự đa dạng; cơ sở
vui chơi, giải trí, mua sắm quá ít, quy mô nhỏ hẹp và không có sức hấp dẫn.
Tóm lại, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nhiệm vụ cấp
bách của du lịch huyện Hưng Hà trong thời gian tới để phát triển du lịch và
thu hút khách du lịch.
2.5.3. Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch
- Về số lượng:
49
Hiện tại đội ngũ cán bộ quản lý tại quần thể di tích đền Trần xã Tiến
Đức có tổng 28 người, trong đó trưởng ban quản lý kiêm Trưởng phòng Văn
hóa huyện Hưng Hà - ông Nguyễn Công Khanh. Có 2 phó ban là ông Hoàng
Đình Nhưng kiêm chủ tịch xã quản lý địa bàn xã Tiến Đức và ông Vũ Văn
Bích - phụ trách quản lý trực tiếp tại di tích đền Trần. Những người còn lại
phụ trách giúp ghi sổ sách công đức, viết giấy sớ, thu dọn chân hương, vệ
sinh tại khuôn viên đền Trần,…
Bảng 2.1: Danh sách nhân lực du lịch tại quần thể đền Trần, xã
Tiến Đức
STT Ban quản lý Số lƣợng (ngƣời)
1 Trưởng ban 1
2 Phó ban 2
3 Thủ nhang phần lễ 1
4 Ban ghi công đức 9
5 Tổ bảo vệ 7
6 Tổ vệ sinh môi trường 8
Nguồn: BQL di tích đền Trần- xã Tiến Đức- huyện Hưng Hà
- Về chất lượng:
Hiện tại, không có đội ngũ hướng dẫn viên tại khu di tích, điều này gây
khó khăn cho hoạt động du lịch của khách. Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch
tại đây hiện là lao động phổ thông, chưa được đào tạo bài bản, thiếu chuyên
nghiệp.
2.5.4. Tổ chức quản lý khai thác
Vấn đề quản lý khai thác và bảo tồn các di tích phục vụ cho các hoạt
động văn hóa, tín ngưỡng từ lâu nay đã được các ngành các cấp ở trung ương
và địa phương quan tâm. Hiện nay, đang bàn tới mô hình quản lý di tích và
hoạt động lễ hội tại nơi đó. Thông thường, nếu không phải là các di tích mang
50
tính quốc gia như đền Hùng thường có hai mô hình chính
Cộng đồng dân cư thôn hay xã đứng ra quản lý di tích và hoạt động
nghi lễ ví dụ như đền Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh
Tư nhân đứng ra quản lý điều hành dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa
phương luôn có trách nhiệm đóng góp cho công quỹ địa phương và các công
việc phúc lợi khác ví dụ như Phủ Dầy ở Nam Định hay một số nơi khác. Mỗi
mô hình đều có mặt mạnh và mặt yếu, phụ thuộc vào thực tế của mỗi địa
phương. Chủ trương của Đảng và nhà nước hiện nay là xã hội hóa công tác
bảo tồn, đa dạng hóa các hình thức, mô hình quản lý, tổ chức lễ hội dân gian
và miễn sao thông qua các cơ quan chức năng của các tỉnh, các huyện, xã.
Tiếp theo nhà nước sẽ định hướng, giám sát để các di tích và các hoạt động lễ
hội đi đúng hướng, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa
dân tộc.
Đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà đã được công nhận là Di tích
quốc gia đặc biệt năm 2014 và năm 2015 là Di sản văn hóa phi vật thể. Hiện
nay, khu di tích này thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Thái Bình mà cơ quan
trực tiếp là Sở VHTT & DL tỉnh Thái Bình. Bên cạnh đó, tại đền Trần cũng
có một Ban quản lý riêng.
Hiện nay tại di tích đền Trần, để tránh tình trạng thất thoát tiền công
đức do dân đóng góp phục vụ cho nhu cầu hương hoa, quả, đèn nhang, bảo
dưỡng tu bổ, đã được ghi chép lại đầy đủ trong một quyển sổ riêng đồng thời
mỗi cá nhân khi công đức tiền, vật chất cho đền đều được ký nhận vào sổ
công đức của nhà đền và được gửi tặng một tờ giấy biên nhận công đức. Tiếp
theo đối với hòm công đức đặt tại đền Trần, mỗi lần mở hòm đều có sự chứng
kiến của đại diện huyện Hưng Hà, đại diện của xã Tiến Đức và đại diên Ban
quản lý di tích.
Hiện tại, khu vực kinh doanh và bãi gửi xe được đặt tạm phía trước đền
nằm dưới sự quản lý của an ninh xã, vì thế đến thời điểm này, việc quản lý
51
khai thác tại khu di tích đền Tần xã Tiến Đức đang diễn ra đứng theo sự chỉ
đạo của Tỉnh ủy, không có hiện tượng đấu thầu các dịch vụ nhằm tạo ra nhiều
lợi nhuận.
2.5.5. Đầu tư và quy hoạch
Xác định được tầm nhìn và vị trí quan trọng của khu di tích đền Trần
tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà đối với sự phát triển của
du lịch văn hóa của tỉnh, UBND tỉnh Thái Bình đã có những kế hoạch đầu tư
và quy hoạch tổng thể nhằm biến nơi đây thành một địa điểm du lịch mới hấp
dẫn, thu hút khách du lịch tới tham quan.
Ngay sau khi đền Trần, xã Tiến Đức được xếp hạng là khu di tích lịch
sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1990, được sự giúp đỡ của Bộ VHTT & DL và
UBND tỉnh Thái Bình, Sở VHTT & DL tỉnh đã chỉ đạo Bảo tàng, tỉnh bước
đầu khôi phục nơi thờ tự các vị vua triều Trần. Đến năm 1992, Bảo tàng tỉnh
tiếp tục cho xây dựng một công trình kiến trúc gỗ lim kết cấu chữ nhất, không
có hậu cung với 7 gian nhà được làm hoàn toàn bằng gỗ lim, nguyên là một
ngôi đình cũ được tôn dựng làm nơi thờ các vị vua nhà Trần.
Từ năm 1992 đến năm 1999, Bảo tàng Tỉnh và Sở VHTT & DL đã tiếp
tục xây dựng dự án đầu tư “ Quy hoạch bảo tồn, tu bổ, tôn tạo khu di tích nhà
Trần xã Tiến Đức và Liên Hiệp, huyện Hưng Hà vào tháng 5/1999 đến năm
2000”. Trong khoảng thời gian này, không những khu đền thờ các vua nhà
Trần mà cả lăng Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu
Trần Thị Dung được sửa chữa và tôn tạo.
Sau gần 5 năm khởi công, đến năm 2005, đền Trần đã hoàn thành các
hạng mục theo thiết kế các công trình kiến trúc, đồ tế khí và di vật đã cơ bản
hoàn thiện tiếp sau đó, năm 2005 đến 2010, tiếp tục tu bổ, tôn tạo khu vực
lăng mộ, đền Trần Hưng Đạo,…
Sáng ngày 31/12/2009, UBND huyện Hưng Hà đã tổ chức lễ khởi công
xây dựng tòa Ngũ Thiên Môn cổng chính khu di tích đền Trần với kinh phí dự
52
kiến 6 tỷ đồng.
Tính đến thời điểm hiện tại, năm 2020 thì các hạng mục: như Cổng
chính, khu di tích Ngũ Thiên Môn, Đường trục Đông Tây, khu Đường ra các
mộ, tòa Phương Đình trong khuôn viên đền Trần đã được hoàn thiện và đưa
vào khai thác, phục vụ hoạt động du lịch.
Bên cạnh đó, còn rất nhiều các hạng mục công trình dự kiến chưa có
nguồn vốn để khởi công xây dựng như : chùa Bến, đền Trình,…
Bảng 2.3: Các hạng mục quần thể di tích đền thờ, lăng mộ các vua
Trần xã Tiến Đức- huyện Hƣng Hà
Các hạng mục công trình
Tổng vốn (tỷ đồng) Diện tích( )
6.500 6.010 6.000 38.210 15.640 4.000 26.385 1.200
ST T Các hạng mục công trình đã hoàn thành 42,5 1 Đền Vua 35 2 Đền Thánh 35 3 Đền Mẫu 25 4 Tu bổ 3 ngôi mộ vua đầu triều Trần 11,5 5 Cổng chính Ngũ Thiên Môn 11,5 6 Sân Lễ hội 5,25 7 Đường trục Thần Đạo 13,05 8 Bãi Đỗ xe 2,5 Đường ra các mộ vua đầu triều Trần 9 10 Tòa Phương Đình trên trục Thần Đạo 11,5 Các hạng mục công trình chưa có nguồn vốn để tổ chức khởi công xây dựng 1 2 3 4 5 6 7 8 800 Cổng Đông Tây 6.740 Chùa Bến 3.300 Đền Trình 1.800 Nhà làm việc BQL di tích 7.300 Các khu dịch vụ Hệ thống hồ nước và máng dẫn nước bao quanh 20.155 4.000 Nhà khách và khu dịch vụ tổng hợp 31.200 Khu khảo cổ, nhà trưng bày ngoài trời 7,5 45 2 10 30 20 20 20
Nguồn: BQL Di tích đền Trần xã Tiến Đức
53
Quần thể di tích cấp Quốc gia đền thờ, lăng mộ các vua Trần tại xã
Tiến Đức đã được UBND tỉnh phê duyệt với tổng diện tích 32,4ha; diện tích
hiện nay đang sử dụng là 22ha bao gồm 18 hạng mục chính. Tổng kinh phí dự
kiến: 345,3 tỷ đồng.
Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các
Bộ, ngành Trung ương, tỉnh ủy HĐND, UBND, các Sở, Ban, ngành tỉnh Thái
Bình cùng với sự nỗ lực của Đảng bộ, nhân dân trong huyện, lòng hảo tâm
của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh, các công trình
thuộc quần thể di tích cấp Quốc gia đền thờ, lăng mộ các vua Trần xã Tiến
Đức đang từng bước hoàn thiện, ngày càng khang trang, to đẹp.
Để các công trình được hoàn thiện, ngày càng xứng với công lao, hùng
tích của Vương triều Trần, BQL Di tích đền thờ, lăng mộ các vua Trần tại xã
Tiến Đức đang kêu gọi sự tiếp tục hỗ trợ kinh phí của các doanh nghiệp, các tổ
chức và các nhân trong và ngoài tỉnh để hoàn thành nốt các hạng mục còn lại.
2.5.6. Sản phẩm du lịch văn hóa
Du lịch tôn giáo, tín ngưỡng.
Loại hình này thể hiện qua các hoạt động chiêm nghiệm, tham quan,
nghiên cứu... Tại khu di tích đền Trần Thái Bình du khách trực tiếp chiêm
ngưỡng, tìm hiểu kiến trúc, mỹ thuật, cảnh quan, hệ thống tượng thờ, phù
điêu, các cổ vật... Đối với khu di tích đền Trần hàm chứa nhiều giá trị lịch sử
khoa học nghệ thuật. Khi tham quan kiến trúc, tìm hiểu tượng thờ hay các
cổ vật, du khách có thể khám phá được các giá trị đó. Quan trọng hơn, ý
niệm linh thiêng của họ về các đối tượng tâm linh cũng được thỏa mãn khi
tham gia dưới dạng thức này. Bởi vì ngoài hoạt động quan sát, chiêm
ngưỡng họ còn kết hợp với việc niềm tin, cầu khấn các biểu tượng thiêng
liêng tại di tích.
54
Ưu điểm của sản phẩm này không phụ thuộc vào thời vụ mà có thể tổ
chức quanh năm. Du khách có tham gia vào chuyến đi vào bất cứ thời điểm
nào họ mong muốn.
Du lịch lễ hội.
Du khách được tham gia trực tiếp các hoạt động tại đền Trần với
không khí náo nhiệt và sống động. Các hoạt động đó được tái tạo qua những
hoạt động sống của sinh hoạt lễ hội. Thông qua các thành tố của lễ hội bao
gồm các nghi thức, nghi lễ, vũ điệu, trang phục, ẩm thực... họ có thể cảm nhận
giá trị văn hóa một cách sống động.
Lễ hội đền Trần được tổ chức từ ngày 13 -18 tháng Giêng âm lịch, với
nhiều nội dung phong phú và có nhiều nét khác biệt so với địa phương khác,
thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Lễ hội nhằm khẳng định
và tôn vinh công lao dựng nước, giữ nước của nhà Trần, là dịp để nhân dân
thể hiện đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn”, lòng tri ân với các bậc liệt tổ, các vị
vua, tướng sĩ, hoàng thân quốc thích nhà Trần. Qua đó giáo dục thế hệ trẻ
truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Lễ hội cũng là nơi đáp
ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân và du khách, đồng thời
việc tổ chức lễ hội đền Trần đã tạo điều kiện thuận lợi để Thái Bình có thể
làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của lễ
hội đền Trần và các di sản thời Trần trên mảnh đất Hưng Hà.
Lễ hội bao gồm phần lễ được cử hành trang trọng, uy nghi và tôn kính
như: lễ tế mở cửa đền, lễ rước nước thiêng từ ngã 3 sông Hồng về đền Trần,
lễ tế mộ, đặc biệt có lễ bái yết được tổ chức nhằm khôi phục lại nghi lễ xa xưa
các vua Trần thường làm lễ bái yết tổ tiên mỗi khi có sự kiện trọng đại… Bên
cạnh đó, phần hội cũng được tổ chức sôi nổi với những trò chơi mang đậm
tính dân gian như: thi cỗ cá, thi nấu cơm cần, thi vật cầu, kéo co, pháo đất, cờ
tướng...
55
Không chỉ được biết đến là một vương triều với võ công oanh liệt,
giỏi đánh giặc, nhà Trần còn để lại cho hậu thế những nét sinh hoạt văn hóa
rất riêng biệt, đặc sắc, đó là lễ giao chạ (kết nghĩa anh em) giữa 2 làng Vân
Đài (xã Chí Hòa) và làng Tam Đường (xã Tiến Đức) đã tồn tại hơn 7 thế kỷ,
lễ rước nước và thi cỗ cá độc đáo thể hiện đậm nét phương thức sống của cư
dân vùng sông nước và mang tính nhân văn sâu sắc nhằm giáo dục, nhắc nhở
thế hệ sau tưởng nhớ tới thuở hàn vi tổ tiên nhà Trần sống chủ yếu bằng nghề
đánh cá. Đây thực sự là những nét sinh hoạt mang giá trị đặc sắc về văn hóa,
lịch sử không dễ tìm thấy ở bất kỳ địa phương nào trên cả nước.
2.5.7. Hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch
Hoạt động tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của khu di tích đền Trần, xã
Tiến Đức, huyện Hưng Hà nhận được rất nhiều sự quan tâm của UBND tỉnh
Thái Bình mà trực tiếp là Sở VHTT & DL và Bảo tàng tỉnh, UBND huyện
Hưng Hà cũng như Ban quản lý di tích.
Nhận thức được tầm quan trọng của xúc tiến, quảng bá du lịch đối với
sự phát triển du lịch văn hóa tâm linh, cũng như sự tăng trưởng của khách du
lịch đến với quần thể di tích đền Trần xã Tiến Đức, Sở VHTT & DL tỉnh Thái
Bình cùng UBND huyện Hưng Hà cùng BQL di tích đã và đang nỗ lực cố
gắng quảng bá hình ảnh của khu di tích này tới đông đảo khách du lịch thập
phương thông qua các hình thức như:
Tổ chức các cuộc hội thảo khoa học nghiên cứu về nhà Trần và những
ảnh hưởng tới vùng đất Thái Bình, có sự góp mặt của các Bộ, ngành Trung
ương, các tỉnh bạn, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nhằm tuyên truyền
các chính sách của tỉnh khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực
hoạt động, kinh doanh du lịch tại khu vực đền Trần, xã Tiến Đức, huyện
Hưng Hà.
Xuất bản đĩa CD giới thiệu những hình ảnh về con người thái Bình, sự
phát triển kinh tế, các điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Thái Bình.
56
Xây dựng các tờ rơi, banner tuyên truyền hình ảnh, truyền thuyết, hệ
thống các công trình của đền Trần.
Tổ chức gắn biển quảng cáo, biển chỉ đường, giới thiệu về khu di tích
tại các tuyến chỉ đường dẫn vào đền.
Xuất bản và tái bản các cuốn sách, kỷ yếu của các hội thảo về nhà Trần
và ảnh hưởng tới Thái Bình cũng như giới thiệu về quần thể di tích, lăng mộ
của nhà Trần tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyên Hưng Hà.
Tận dụng các ưu thế về công nghệ thông tin, những năm qua các thông
tin tuyên truyền, quảng bá về du lịch văn hóa Thái Bình còn thường xuyên
được đăng tải trên Báo, Đài trung ương và địa phương, tờ rơi, tập gấp và trên
trang thông tin điện tử của ngành. Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch tỉnh
Thái Bình đã kết hợp với các đài truyền hình địa phương và trung ương như:
Truyền hình Thông tấn xã Việt Nam, VTV1,VTV3, VTV4, VTC10, Đài
tiếng nói Việt Nam, Trung tâm Điện ảnh thể thao du lịch (Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch)…làm các chương trình giới thiệu về du lịch Thái Bình. Đặc
biệt làm các video, clip giới thiệu về khu di tích lăng mộ các vua Trần xã Tiến
Đức, huyện Hưng Hà và đăng tải trên các trang mạng internet, mạng xã
hội,…Tuy nhiên, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch của sở VHTT & DL
tỉnh Thái Bình dành cho khu di tích đền Trần còn nhiều hạn chế do kinh phí
cấp cho hoạt động này còn ít, nhân lực còn thiếu nhiều. Việc này dẫn đến tình
trạng thông tin cung cấp nhiều khi chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu nhu
cầu của du khách để phục vụ du lịch và chưa có các trung tâm thông tin du
lịch, văn phòng đại diện du lịch tại các tỉnh bạn.
Về phía Ban quản lý di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà,
hoạt động tuyên truyền, quảng bá cũng rất được quan tâm, thông các hình
thức như:
Xây dựng các loại hình tuyên truyền tại chỗ : treo các băng rôn quảng
cáo, các loại cờ trang trí, băng đài tuyên truyền, khẩu hiệu, pa nô.
57
Tuyên truyền, giới thiệu những bài viết, cuốn sách, tư liệu về đền
Trần, tuyên truyền những giá trị đích thực của điểm di tích qua các bài
thuyết minh.
Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Tuyên truyền cho người dân địa phương về lòng tự hào, tự trọng và ý
thức trách nhiệm trong ứng xử giao tiếp có văn hóa với du khách du lịch.
Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, quảng bá của Ban quản lý di tích
mới chỉ chú trọng trong phạm vi, trách nhiệm của ngành VHTT mà chưa chú
trọng đến bản chất thực sự của hoạt động Marketing du lịch. Trong khi đó, nội
dung Marketing du lịch bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn như: tìm hiểu thị
trường và nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch; đánh giá tình hình
kinh doanh, giá trị của các dịch vụ, công tác tuyên truyền quảng cáo.
2.6. So sánh hoạt động du lịch tại một số di tích đền Trần khác
2.6.1. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần Côn Sơn - Kiếp Bạc (
Hải Dương)
Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận tại hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp của
xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Di tích đền Kiếp Bạc là tên
ghép của hai vùng Vạn Yên tại làng Kiếp và Dược Sơn tại làng Bạc của tỉnh
Hải Dương. Đền Kiếp Bạc là nơi Trần Quốc Tuấn lập căn cứ địa, tích trữ
lương thực, huấn luyện binh sĩ trong cuộc chiến chống quân xâm lược
Nguyên Mông thế kỉ XIII.
Một số người theo thiên về phong thủy cho rằng đây chính là nơi tụ khí
để gây dựng cơ nghiệp ở đền Kiếp Bạc. Tại khu vực đền Kiếp Bạc là một
thung lũng trù phú được bao bọc bởi dãy núi Rồng, một phía là Lục Đầu
Giang. Dãy núi tạo thành thế rồng chầu, hổ phục và sông tạo thành minh
đường rộng rãi. Trên trán cổng mặt ngoài có 4 chữ “Hưng thiên vô cực”. Qua
cổng lớn, bên trái có giếng Ngọc mắt rồng linh thiêng.
Tòa điện ngoài cùng của đền thờ Phạm Ngũ Lão, toà thứ hai thờ Hưng
58
Đạo Vương. Tòa cuối cùng thờ phu nhân của Trần Hưng Đạo và hai con gái.
Tại nơi đây có đặt 7 pho tượng của 7 vị: Trần Hưng Đạo, Phu nhân và hai con
gái, con rể Phạm Ngũ Lão cùng Nam Tào, Bắc Đẩu. Bên cạnh đó là 4 bài vị
thờ con trai ông và hai vị tướng là Yết Kiêu và Dã Tượng.
Lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa xuân
Lễ hội mùa xuân diễn ra tại Côn Sơn Kiếp Bạc từ lâu đã trở thành một
tập quán đẹp. Mở đầu là lễ khai hội tổ chức vào 16 tháng Giêng hàng năm.
Trong không khí linh thiêng của lễ hội, chiếc lư lớn của chùa Côn Sơn được
tỏa mùi hương trầm thơm ngát cả khu đền. Lễ hội vẫn duy trì các nghi lễ
truyền thống. Dâng hương khai hội, tế khai xuân, rước nước, khai hội mùa
xuân, tế trên núi Ngũ Nhạc, lễ giỗ Đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang Tôn
giả, lễ đàn mông sơn thí thực.
Lễ hội có những nghi lễ truyền thống như lễ dâng hương và tế cáo yết;
lễ khai ấn và ban ấn đền Kiếp Bạc, lễ giỗ Đức Thánh Trần. Lễ tưởng niệm
ngày mất của các anh hùng dân tộc, các vị danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn
Trãi, lễ cầu an, hội hoa đăng… Phần hội là các trò chơi dân gian truyền thống
như múa rối nước, đua thuyền…
2.6.2. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần ( Nam Định )
Khu di tích đền Trần thuộc thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng,
thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định là cụm di tích tiêu biểu trong hệ
thống di tích thời Trần, gắn liền với những nhân vật lịch sử triều đại nhà
Trần của tỉnh Nam Định.
Theo sử sách ghi lại, đền Trần Nam Định là nơi thờ các vị vua Trần,
cùng các quan lại có công phù tá nhà Trần dựng nước. Di tích đền Trần xây
dựng trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần, đã bị quân Minh phá hủy vào thế
kỷ thứ 15. Đền Trần Nam Định gồm 3 công trình kiến trúc chính: đền Thiên
Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Cả 3 đền
đều có các kiến trúc chung và quy mô ngang nhau và gồm tòa trung đường 5
59
gian và tòa chính tẩm 3 gian, tòa tiền đường 5 gian. Trong đó, đền Thiên
Trường là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần. Đền Cố Trạch là nơi đặt bài vị
của vua Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Đền Trùng Hoa được xây
trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các đương kim hoàng đế nhà Trần về
tham vấn các vị thái thượng hoàng, nay là nơi đặt ngai và bài vị thờ hội
đồng các quan…
Không chỉ là một khu di tích lịch sử, và nghệ thuật kiến trúc độc đáo,
đây cũng là một trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng văn hóa lớn ở khu vực châu
thổ sông Hồng, với nhiều lễ hội và các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian
đặc sắc, nhằm ghi nhớ và tôn vinh , tưởng nhớ công ơn thời đại nhà Trần.
Lễ hội truyền thống đền Trần là một trong những lễ hội truyền thống
lớn, niềm tự hào của mỗi người dân Nam Định nói riêng, của nhân dân cả
nước nói chung. Lễ hội truyền thống đền Trần ở Nam Định gồm có lễ khai Ấn
đền Trần, diễn ra giữa đêm 14, rạng sáng 15 tháng giêng âm lịch, tại Khu di
tích đền Trần phường Lộc Vượng, TP Nam Định. Sau lễ khai Ấn đầu năm, tại
đền Cố Trạch và Thiên Trường còn có lễ hội lớn được mở trong khoảng thời
gian từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhằm tưởng nhớ ngày mất
của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Các nghi lễ tại di tích đền Trần từ
lâu đã lưu giữ được các phong tục cổ truyền của dân tộc, phần nào tái hiện
được một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, nuôi dưỡng bồi đắp tinh thần
yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm, tâm thức uống nước nhớ nguồn
của mỗi người Việt Nam.
Những giá trị đặc biệt về lịch sử kiến trúc và di tích, giá trị đặc biệt về
lịch sử và kiến trúc nghệ thuật độc đáo, cụm di tích đền Trần đã được Nhà
nước xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt và lễ hội đền Trần tại Nam Định
được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
2.6.3. Hoạt động du lịch tại đền Trần Nhương ( Hà Nam)
Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương xã Nhân Đạo, huyện Lý
60
Nhân, tỉnh Hà Nam. Đây là di tích nổi tiếng của tỉnh Hà Nam và cả nước hội
tụ nhiều giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tâm linh và lâu nay đã được nhiều
người biết tiếng. Đền thờ vị anh hùng dân tộc là Quốc công tiết chế Hưng Đạo
Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng các gia quyến và các Bộ tướng có công
trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.
Đền Trần Thương là một mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền
đời: “cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại
đền: “Trần Thương dư phúc địa, hoa thảo tứ thời xuân” (đất Trần Thương lắm
phúc, hoa cỏ bốn mùa xuân). Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê
đầu” (đầu 6 khe nước). Ngược sông Hồng đi Thăng Long hoặc xuôi dòng về
Hành cung Thiên Trường rồi ra biển, qua sông Hồng về phía Đông khoảng
3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ của nhà Trần,
về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần - chùa Tháp (Nam Định). Đền Trần
Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước nơi thờ chính Hưng Đạo Đại
vương Trần Quốc Tuấn. Ngôi đền thầm nghiêm, cổ kính toạ lạc trên thế đất
thiêng “Hình nhân bái tướng”, “Ngũ mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thuỷ
quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại,
nghi môn nội, 5 toà, 15 gian, chia thành 3 cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và
hai giải vũ, 5 giếng... Kiến trúc độc đáo và cảnh quan tự nhiên của đền Trần
Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người với vũ trụ trong một không
gian văn hoá thiêng.
Những giá trị về lịch sử, văn hoá đặc sắc vào năm 1989 đền Trần
Thương đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn
hóa cấp Quốc gia.
Lễ hội đền Trần Thương “Tháng 8 giỗ cha, Tháng 3 giỗ mẹ”. Từ bao
đời nay, nơi đây cùng các địa phương thờ Trần Hưng Đạo, mở hội vào dịp
trung tuần tháng 8 (âm lịch), đặc biệt là ngày 20 tháng 8, ngày Đại vương qua
đời. Trong dân gian từ xưa có câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê
61
hương Bảo Lộc”. Vào ngày lễ hội, từ Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) đến
đền Trần Thương ( Lý Nhân, Hà Nam) về đền Bảo Lộc (Nam Định), khách
hành hương theo lộ trình chiêm bái, tôn vinh người anh hùng dân tộc, đã được
truy tôn là bậc “Thánh”, ban những điều tốt lành, mong làm việc thiện. Đền
Trần Thương hàng năm mở hội từ 18 đến một lễ hội vùng tiêu biểu đông đảo
nhân dân và ngày lễ hội diễn ra nhiều tục thi đặc sắc, độc đáo thi bơi chải trên
sông. mang ý nghĩa cầu cho tháng 8 (âm lịch)- một lễ hội vùng của tỉnh Hà
Nam, thu hút đông đảo du khách thập phương. Trong lễ hội diễn, hoạt động
văn hoá dân gian, tục thi độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải - Các
nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cổ mưa thuận, gió hoà, “Phong đãng, hoà
cốc Quốc thái, dân an”, nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời
gợi nhớ nguồn - của dòng tộc nhà Trần. Bên cạnh đó, còn tổ chức diễn xướng
Thanh đồng, một nghi lễ đặc sắc đó từ lâu đời của đền Trần Thương với sự
tham gia đông đảo của các cơ cánh” đến từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng.
Để bảo tồn và phát huy các giá trị đặc sắc của di tích, năm 2009, Bộ
Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã phê duyệt quy hoạch tổng thể và chi tiết di
tích Lịch sử - Văn hoá đền Trần Thương giai đoạn 2009 - 2015, với 5 khu
chức năng chính, gồm: Khu vực bảo tồn các di tích Lịch sử - Văn hoá: Đền
Trần Thương, đình Tróc, chùa Di, đến Khu Hoàng; Khu du lịch thương mại;
Khu du lịch sinh thái, Khu vực lễ hội và Khu các trò chơi dân gian với tổng
diện tích quy hoạch 100 héc ta. Năm 2009, đền Trần Thương đã được Nhà
nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo lớn toàn bộ kiến trúc chính: Cung đệ
nhất, Đệ nhị, Đệ tam, hai giải vũ, giếng, đường vào đền và nghi môn với
nguồn vốn trên 16 tỷ đồng. Đồng thời đầu tư, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng,
làm đường giao thông mới vào di tích. Tương lai không xa, trên mảnh đất này
sẽ có cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nam với các tỉnh Thái Bình,
Hải Dương, Hải Phòng ... Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để khu di tích
Lịch sử -Văn hoá, tâm linh đền Trần Thương phát huy tốt các giá trị, trở thành
62
điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Hà Nam, là điểm đến
của khách du lịch trong và ngoài nước.
Trên lộ trình về đền Trần Thượng du khách còn được tham quan các di
tích cấp Quốc gia tiêu biểu: đình Vĩnh Trụ, đình Văn Xá, đền Bà Vũ, đình
Trác Nội, thăm quê hương nhà văn - liệt sỹ Nam Cao. Di tích đền Trần
Thương là điểm quy tụ để nhân dân, khách thập phương xa gần, hành hương
tưởng nhớ về nguồn cội, chiêm ngưỡng di tích lịch sử văn hoá và cầu nguyện
may mắn trong cuộc sống của mỗi người.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Có thể thấy, huyện Hưng Hà có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa tâm
linh phong phú, hấp dẫn du khách, đặc biệt là quần thể di tích đền thờ, lăng
mộ các vua Trần xã Tiến Đức. Qua đây, xác định được vai trò quan trọng của
loại hình du lịch này trong sự phát triển kinh tế du lịch địa phương cũng
như phát triển kinh tế toàn tỉnh Thái Bình. Tại điểm di tích tâm linh đền
Trần, hoạt động khai thác các dịch vụ phục vụ du khách cũng như công
tác quản lý di tích, lễ hội truyền thống, việc bảo tồn trùng tu di tích đều
được quan tâm nhằm phát huy tốt giá trị di sản văn hóa. Khách du lịch thăm
quan, chiêm ngưỡng văn hóa tâm linh không ngừng tăng nhanh qua các
năm tạo thêm doanh thu cho ngành du lịch của tỉnh Thái Bình. Sự đầu tư
phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và hệ thống cơ sở hạ tầng đặt
nền móng cho việc phát triển nền kinh tế của tỉnh trong đó có du lịch là
kinh tế mũi nhọn.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu khả quan còn thấy quá nhiều
những bất cập từ các lễ hội truyền thống, vấn đề môi trường, an ninh, an toàn
du khách. Hoạt động du lịch phải luôn song hành với công tác bảo tồn di sản,
khai thác tối đa giá trị di tích mà không làm mất đi nguyên bản của lễ hội
truyền thống. Đồng thời cũng phải có một chiến lược xúc tiến hiệu quả đối
với thị trường khách du lịch mục tiêu. Có như vậy, du lịch văn hóa tâm linh
63
tại quần thể di tích đền Trần mới tạo được vị thế, duy trì được hình ảnh của
mình đối với du khách, từ đó mới góp phần thu hút khách du lịch trong và
ngoài tỉnh, cũng như kéo dài thời gian lưu trú của các đối tượng khách.
Từ những phân tích đánh giá thực trạng về hoạt động du lịch văn hóa
tâm linh tại quần thể đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình
phục vụ cho việc tổ chức du lịch tại tỉnh Thái Bình, nhằm nghiên cứu và đưa
ra giải pháp hữu hiệu đồng bộ, đẩy mạnh hoạt động bảo tồn giá trị văn hóa –
tín ngưỡng và khai thác giá trị văn hóa phục vụ du lịch sẽ được trình bày rõ
trong phần nội dung tiếp theo là chương 3 giải pháp.
64
Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH
VĂN HÓA TÂM LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN, XÃ
TIẾN ĐỨC HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH
3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp
Để có cơ sở đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển khu di tích đền
Trần tác giả đã dựa vào các cơ sở khoa học sau:
Trên cơ sở kết quả khảo sát thực địa, phân tích số liệu cùng những
thông tin thu thập được để so sánh, tổng hợp và đánh giá các nguồn lực phát
triển du lịch của tỉnh đặc biệt là tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh cùng
những gì đang có tại lễ hội Đền Trần để đánh giá hiện trạng phát triển của tài
nguyên du lịch.
Quy hoạch tổng thể để phát triển tài nguyên du lịch của tỉnh sau đó
triển khai tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh.
3.2. Giải pháp phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại
quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình.
3.2.1. Đề cao trách nhiệm của quản lý khu di tích
Để phát triển tốt loại hình du lịch này cần có một ban quản lý có tinh
thần và trách nhiệm cao trong công tác bảo tồn và tổ chức lễ hội tại khu di
tích Đền Trần chuyên trách về du lịch văn hóa tâm linh. Ban quản lý cần có
sự phối hợp chặt chẽ với ban tôn giáo chính phủ Thái Bình. Có trách nhiệm tổ
chức điều phối các tour tham quan du lịch đối với đền Trần tại tỉnh. Lên
chương trình du lịch cùng công tác bao tồn tôn tạo khu di tích đồng thời đào
tạo các cán bộ hướng dẫn viên cho khu di tích tâm linh…
Bên cạnh đó ban tổ chức còn phải huy động nguồn đầu tư vào di tích,
tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng tiếp cận kkhu du lịch và hệ thống cơ sở
dịch vụ đảm bảo chất lượng, tiện nghi và sự hài lỏng của du khách khi đến
khu di tích Đền Trần.
65
3.2.2. Đa dạng hóa về các sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản
phẩm du lịch đặc thù hơn.
Chất lượng sản phẩm du lịch là một trong những yếu tố quan trọng
hàng đầu trong việc thu hút khách du lịch cũng như giữ chân khách lại nơi
đây vào mỗi dịp lễ hội hằng năm. Điều này đã đặt ra một dấu hỏi lớn với các
cơ quan chức năng, sở ban nghành trong tỉnh trong việc đảm bảo chất lượng
phục vụ trong dịp lễ hội. Để đạt được điều đó chúng ta phải tập trung xây
dựng thành công các chương trình về du lịch văn hóa, du lịch tham quan và
du lịch văn hóa tâm linh.
Đi lễ hội đầu năm không chỉ để cầu mong mạnh khỏe, bình an, làm ăn
thăng tiến, đi lễ hội cũng không chỉ là để dâng lễ mà nhiều người đến với lễ
hội còn bởi các hoạt động mang đậm chất dân gian qua các trò chơi truyền
thống. Chúng ta không nên để quá nhiều hoạt động chỉ có ở hiện đại vào trong
lễ hội mà thay vào đó là sự kết hợp của nhiều trò chơi dân gian các hoạt động
đầu năm như xin chữ, chơi cờ thẻ, múa bài bông… để đảm bảo tính truyền
thống của lễ hội.
Phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch nhưng vẫn tập trung vào sản
phẩm du lịch đặc thù có ý nghĩa vô cùng quan trọng then chốt. Đây là yếu tố
quan trọng giúp thu hút khách du lịch đến với địa điểm du lịch văn hóa tâm
linh Đền Trần, giảm thiểu sức cạnh tranh với các địa danh khác tại các khu
vực lân cận qua đó còn thu hút được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các đầu
tư phát triển kinh tế. Qua đó tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các
hoặt động phục vụ du lịch, giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động tại địa phương góp phần nhỏ phát triển du lịch bền vững cả về kinh tế và
xã hội.
Hiện nay, hoạt động của cụm di tích đền Trần mới chỉ tập trung khai
thác vào các loại hình du lịch phổ biến sau:
Du lịch văn hóa tâm linh
66
Du lịch lễ hội
Do điều kiện kinh tế còn hạn chế, hẹp về nguồn hỗ trợ, việc đầu tư phát
triển du lịch của cụm di tích Đền Trần chỉ đầu tư vào trung tâm Đền Trần. Vì
chưa hình thành nên các tuyến điểm than quan đầy đủ cụm di tích nên trong
thời gian tới cần tập trung đầu tư vào một số điểm di tích xung quanh để mở
rộng phạm vi đối tượng tham quan cho du khách.
Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng: khai thác nguồn tài nguyên
du lịch sẵn có trong cụm di tích để tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa
độc đáo. Thông qua những sản phẩm du lịch nhằm tuyên truyền đến khách
những giá trị tôn giáo tín ngưỡng vừa kết hợp tham quan vừa có thể tham gia
vào đời sống sinh hoạt cộng đồng của người dân địa phương tại các điểm du
lịch như:
Cụm di tích tâm linh Đền Trần
Chương trình vui hội Đền Trần
Chương trình hội xuân khai ấn Đền Trần
3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân địa phương và ý thức bảo
tồn nguồn tài nguyên du lịch văn hóa.
Người dân Việt Nam với tâm lý đi chùa, lễ hội cầu may mắn bình an
nhưng không hẳn ai cũng đến những nơi thanh tịnh này để cầu may cả. Ta có
thể dùng đến từ “a dua” để nói về tình trạng chung của người dân khi đến các
đình chùa các đền nhất là tại lễ khai ấn đền Trần. Thấy mọi người đi lễ nhiều
người cũng đổ xô đi cho theo phong trào mà không biết mình đến đó làm gì
và với mục đích gì. Chen lấn xô đẩy nhau để cướp ấn, cướp đồ lễ trên bàn thờ
với hy vọng may mắn trong năm. Mọi người hầu như chưa ý thức được việc
đi lễ như thế nào cho đúng cả nên việc thực hiện tuyên truyền, giáo dục ý thức
người dân là điều vô cũng cần thiết để phát triển du lịch tâm linh nói chung và
tại Đền Trần nói riêng.
Đối với người dân địa phương nơi di tích :
67
Thứ nhất đề cao hơn nữa những giá trị văn hóa tốt đẹp.Tuyên truyền
quảng bá cho người dân địa phương nhận thức được ý nghĩa phát triển của
hoạt động du lịch và nguồn lợi từ du lịch mang lại.
Giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội cho người dân từ đó giúp họ có ý
thức bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng nếp sống văn hóa
gia đình. Đó chính là yếu tố hình thành nên nguồn tài nguyên du lịch văn hóa
quan trọng.
Đối với khách du lịch đến di tích đền Trần
Đầu tiên phải nâng cao ý thức bảo tồn giá trị tài nguyên di sản văn hóa
của dân tộc và du khách rất cần tới vai trò của hướng dẫn viên và cán bộ
quản lý khu di tích.
Cần có những biển chỉ dẫn, nghiêm cấm cho du khách nhằm hướng
dẫn, cảnh báo. Tăng ý thức bảo tồn nguồn tài nguyên di sản văn hóa chung.
3.2.4. Nâng cao giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.
Con người – nhân tố quan trọng đóng góp vào bất kỳ sự thành công nào
trong cuộc sống. Con người là một trong những nhân tố quyết định đến sự
sống còn và thành công của một sự phát triển nào đó trong cuộc sống. Nhân
tố con người chính là lực lượng chính đóng góp vào nguồn lao động nhất là
lao động phục vụ trong lĩnh vực du lịch lại không thể thay thế bằng máy móc
như các nghành công nghiệp khác. Nhân viên trong du lịch dù chưa qua
trường lớp đào tạo hay chưa vẫn có thể hoạt động được trong lĩnh vực du lịch
nhưng với một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ được
đào tạo thì sẽ làm việc có chuyên môn hơn và đạt được thành công dễ hơn
trong việc chăm sóc khách hàng và mang lại lợi ích kinh tế không những cho
ngành mà còn cho toàn sự phát triển chung của nền kinh tế.
Một nhân viên du lịch khi được đào tạo sẽ có trình độ và chuyên môn
trong nghề hơn về kiến thức lịch sử, văn hóa, ngoại ngữ, khả năng giao tiếp
và thêm vào đó là các hiểu biết về môi trường xung quanh, về phong tục tập
68
quán riêng của người dân từng vùng về bản sắc văn hóa từng địa phương
không phải ai cũng nắm rõ và nhất là khả năng biết làm hài lòng khách du lịch
qua đó giúp họ có ý thức hơn, hiểu biết hơn về nơi đến nhất là nhận thức đúng
về môi trường thiên nhiên, về những giá trị văn hóa truyền thống. Qua đây ta
có thể thấy việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm vô cùng
cần thiết và quan trọng nhất là trong việc thúc đẩy phát triển du lịch tại địa
phương, vùng du lịch. Đây là một việc làm vô cùng cần thiết nhất là trong giai
đoạn hiện nay.
Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nhất là việc phát triển đào tạo đội
ngũ hướng dẫn viên có trình độ chuyên môn, am hiểu văn hóa không chỉ của
đất nước nói chung mà còn là của từng vùng từng địa phương. Nhất là với đội
ngũ hướng dẫn viên tại điểm cần có một sự hiểu biết sâu rộng và cặn kẽ từng
chi tiết liên quan đến điểm mình hướng dẫn. Có như vậy mới truyền đạt được
hết nội dung và ý nghĩa của điểm đến với du khách. Đây là một nội dung quan
trọng trong công tác tổ chức chuyến đi cho du khách, chuyến đi có thành công
hay không phụ thuộc rất nhiều vào người hướng dẫn viên.
Để đạt được mục tiêu kế hoạch phát triển du lịch bền vững và lâu dài
ngoài việc thực hiện định hướng các chiến lược phát triển quy hoạch khu du
lịch các dự án quy hoạch tổng thể còn phải chú trọng đến công tác đào tạo
phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên nguồn nhân lực du lịch cả nước nói
chung hay khu di tích Đền Trần nói riêng chưa được chú trọng đào tạo bài
bản về trình độ cũng như chuyên môn nghiệp vụ, đa số đều chuyển từ các
nghành nghề khác sang nên một số nhỏ chưa có chuyên môn trong công tác
quản lý cũng như tổ chức, thiếu kinh nghiệm quản lý, khả năng kinh doanh
du lịch còn yếu kém, một số nhỏ thiếu năng động nhất là trong nền kinh tế
thị trường hội nhập như ngày nay. Đây chính là điểm yếu, là rào cản chính
làm chậm sự phát triển của nghành du lịch. Để khắc phục tình trạng trên
chúng ta cần:
69
Tiến hành điều tra khảo sát, đánh giá phân loại nguồn lao động của
tổng thể nhân viên du lịch để từ đó lên kế hoạch xây dựng các chương trình
đào tạo lại nguồn cán bộ. Việc đào tạo phải dưạ vào kết quả điều tra và đào
tạo theo từng cấp khác nhau, các chuyên nghành khác nhau cho phù hợp với
từng đối tượng và nhu cầu kiến thức để phục vụ khách. Mở các lớp đào tạo về
xu hướng phát triển du lịch bền vững nhất là các hướng dẫn viên du
lịch.Trước mắt là mở các lớp đào tạo tại chỗ với các nhân viên có trình độ
chuyên môn kém hoặc mới vào nghề chưa có kinh nghiệm. Thường xuyên có
các chương trình ngoại khóa để trao đổi về kinh nghiệm trong công tác phục
vụ khách qua đó rút ra bài học và phương án phát triển tối ưu trong du lịch.
Ngoài tổ chức các lớp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chúng ta cũng
cần có các chính sách và kế hoạch đào tạo cho các sinh viên du lịch ngay khi
còn ngồi trên ghế nhà trường, tạo điều kiện khuyến khích sinh viên tham gia
vào hoạt động du lịch nhất là địa phương nơi có tuyến điểm du lịch để sau này
có lượng nhân viên có kinh nghiệm cao hơn. Thực hiện các chính sách và kế
hoạch đào tạo mới và tuyển dụng các cán bộ có năng lực cho đội ngũ quản lý
và điều hành hoạt động du lịch dưới hình thức đào tạo chính quy phục vụ
không chỉ trong nước mà còn nước ngoài. Thường xuyên tổ chức các khóa
học nâng cao về cách ứng xử với khách du lịch và công tác bảo vệ môi
trường. Thường xuyên tăng cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các cơ
sở đào tạo du lịch và các điểm du lịch để nâng cao chất lượng nguồn du lịch
nắm bắt nhu cầu khách hàng ngày một cao hơn.
Mời các chuyên gia có trình độ cao trong du lịch về giảng dạy tại các
trường cao đẳng, đại học. Liên kết với các doanh nghiệp du lịch lữ hành và
khách sạn trên địa bàn để sinh viên có cơ hội cọ sát với thực tế và nâng cao
trình độ chuyên môn tích lũy kinh nghiệm.
70
3.2.5. Giải pháp về thông tin truyền thông, tăng cường quảng bá xúc
tiến về du lịch
Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin mà các sản
phẩm du lịch được truyền bá không còn khó khăn gì. Việc xúc tiến quảng cáo
là cách đưa thông tin đến với khách hàng một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.
Việc xúc tiến quảng cáo rất quan trọng với sự phát triển du lịch. Đây là cách
đưa thông tin đến khách và thu hút sự chú ý của khách làm tăng khả năng
cạnh tranh giữa các sản phẩm du lịch, các công ty du lịch và các loại hình du
lịch khác nhau. . Việc quảng cáo sản phẩm du lịch giúp công ty du lịch tiếp
cận thị trường khách du lịch, giúp công ty đưa sản phẩm du lịch đến với
khách hàng, những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm hơn sẽ nâng cao sự tôn
trọng khách hàng đối với môi trường tự nhiên, văn hóa và xã hội đồng thời
làm tăng sự thỏa mãn của khách du lịch với thông tin du lịch mà công ty du
lịch cung cấp. Những thông tin càng đầy đủ bao nhiêu thì khách hàng tìm đến
với công ty để tìm hiểu thêm càng nhiều hơn. Việc cung cấp thông tin không
chính xác hay không đầy đủ sẽ làm ảnh hưởng đến sự tin tưởng của khách
hàng và làm ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của hoạt động du lịch của
công ty.
Chính vì vậy việc quảng bá tiếp thị du lịch cần phải được đảm bảo nhất
là về thông tin công ty cung cấp sản phẩm du lịch, điểm du lịch, chương trình
du lịch khách được cung cấp chính xác và đầy đủ để đảm bảo tính bền vững
của việc phát triển du lịch nhất là phát triển bền vững và lâu dài. Hiện nay có
rất nhiều cách để công ty du lịch thực hiện công tác quảng bá tiếp thị du lịch
Phát hành tờ rơi và mang một thông tin cần thiết về từng di tích trong
cụm di tích Đền Trần như lễ khai ấn, lễ hội Đền Trần bằng ít nhất hai ngôn
ngữ (tiếng Việt, tiếng Anh).
Sử dụng các thông tin đại chúng như báo đài, truyền hình là các
phương tiện có khả năng truyền thông tin nhanh chóng và rộng rãi đến mọi du
71
khách trong và ngoài nước.
Tổ chức các buổi hội thảo khoa học, triển lãm văn hóa nghệ thuật nhằm
thu hút, giới thiệu hình ảnh của khu di tích với du khách trong và ngoài nước.
Kết hợp với một số điểm du lịch khác của tỉnh để tăng sức hấp dẫn cho
khu di tích. Xây dựng và lập kế hoạch quảng bá cho các sản phẩm du lịch của
khu di tích Đền Trần trước khi sản phẩm đó được giới thiệu và bán cho du
khách.
Đưa thông tin của cụm di tích lên các trang Web của ngành du lịch tỉnh
Thái Bình và các trang thông tin văn hóa xã hội khác của tỉnh.
3.3. Kiến nghị
3.3.1. Sở văn hóa và thể thao du lịch tỉnh Thái Bình
Thu hút sự đầu tư và hỗ trợ từ các cấp để xây dựng tu bổ và bảo dưỡng
khu di tích nhưng không làm mất đi vẻ cổ kính và văn hóa từ ngàn xưa của
công trình kiến trúc. Xây dựng các chương trình hỗ trợ phát triển du lịch tâm
linh tại các đền chùa.
- Thường xuyên nâng cấp cơ sở hạ tầng tại khu di tích và xung quanh
khu di tích đảm bảo chất lượng, tiện nghi, hài hòa với không gian và tính chất
khu, điểm du lịch tâm linh.
Xây dựng sản phẩm du lịch tâm linh riêng biệt của vùng để tạo sức hấp
- Xây dựng sản phẩm du lịch tâm linh theo quy hoạch, phát triển các
dẫn với du khách và tạo điểm nhấn cho chương trình du lịch
khu điểm du lịch đạt đến độ tinh tế đáp ứng nhu cầu tâm linh của du khách,
kết nối hình thành các tuyến tâm linh quốc gia . Tập trung phát triển khu,
- Tổ chức công tác nghiên cứu thị trường phát triển sản phẩm, quảng bá
điểm du lịch tâm linh trong danh mục.
du lịch và tạo liên kết giữa các điểm du lịch trong và ngoài vùng. Phối hợp
cùng nhau phát triển. Tăng cường lực lượng tham gia phục vụ du lịch tại khu
du lịch tâm linh. Phát huy vai trò cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho nhân
72
dân tham gia làm du lịch, mang lại sự hưởng lợi tối đa cho cộng đồng dân cư
- Xây dựng thêm các tuyến du lịch liên kết di sản văn hóa tín ngưỡng
địa phương tại nơi có điểm du lịch
tâm linh tại Đền Trần với các khu du lịch khác hay các điểm du lịch văn hóa
sinh thái trên đại bàn tỉnh Thái Bình cũng như các tỉnh lân cận.
3.3.2. Với ban quản lý khu di tích
Tạo điều kiện để khách du lịch đến thăm khu di tích vào mọi thời gian
trong năm.
Xây dựng các chương trình dân gian tại các lễ hội truyền thống như
hát chèo, chầu văn ca trù… và các trò chơi dân gian trong dịp lễ hội để tăng
sức thu hút hấp dẫn khách du lịch.
Xây dựng các chương trình quảng bá du lịch, quảng bá hình ảnh giá trị
văn hóa lịch sử của điểm đến.
Tăng cường công tác của các tổ chức quản lý.
Tổ chức cung cấp các dịch vụ thiết yếu tại điểm du lịch như nhu cầu ăn
uống ngủ nghỉ của du khách. Tăng cường công tác quản lý đảm bảo cung cấp
dịch vụ an toàn cho khách du lịch.
Có kế hoạch cơ chế xây dựng đầu tư tu bổ công trình bằng tiền công
đức của nhân dân.
Phát huy vai trò cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho nhân dân tham
gia làm du lịch, mang lại sự hưởng lợi tối đa cho cộng đồng dân cư địa
phương tại khu di tích.
Ban hành các quy chế bảo vệ khu di tích.
73
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Khu di tích đền Trần là di sản văn hóa quý giá của quốc gia và là tài
nguyên du lịch văn hóa quan trọng của tỉnh Thái Bình. Đây là điểm du lịch
văn hóa lớn nhất trong khu vực và đã trở thành điểm du lịch quốc gia. Ngày
càng có nhiều người đến dự lễ khai trương đầu xuân. Quần thể di tích văn hóa
đền Trần ở Thái Bình đã và đang được nhà nước quan tâm chăm sóc, ngày
càng dành nhiều không gian để làm đẹp. Để tiếp tục thực hiện các hoạt động
du lịch văn hóa tâm linh tại khu di tích đền Trần, cần thực hiện các giải pháp
quy hoạch tổng thể, tôn tạo và bảo vệ, phát huy giá trị gia tăng, phát triển và
sử dụng tài nguyên du lịch văn hóa, tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng. , và
hình thành các tuyến du lịch đa dạng. để thu hút khách du lịch. Đầu tư cơ sở
hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động du lịch, đồng thời tích cực
quảng bá, quảng bá các khu di sản cũng là một giải pháp khả thi để thu hút du
khách trong và ngoài nước.
Những điều kiện trên cho thấy huyện Hưng Hà nhìn thấy thị trường du
lịch và tiêu thụ hàng hóa lớn, song cũng là thách thức lớn trong cuộc cạnh
tranh thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa tâm
linh mà quần thể Di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà là một điểm
du lịch điển hình.
Với những giải pháp nêu trên, hi vọng các Ban ngành, tổ chức và cá
nhân tích cực xây dựng, tu bổ cơ sở vật chất kỹ thuật, hoàn thiện các hạng
mục công trình còn lại trong quần thể khu di tích đền Trần để có thể đáp ứng
nhu cầu khách du lịch trong những mùa lễ hội tiếp theo. Bên cạnh đó, cần duy
trì và gìn giữ những nghi lễ truyền thống, các trò chơi dân gian đặc trưng tại
đây để thu hút khách du lịch, góp phần phát triển du lịch văn hóa tâm linh
trong địa bàn huyện Hưng Hà và tỉnh Thái Bình.
74
KẾT LUẬN
Tài nguyên du lịch nhân văn, được thể hiện bởi hệ thống các di tích
văn hóa tín ngưỡng dân gian, tạo nên những di sản văn hóa ở Thái Bình, hầu
hết đều có nhiều tiềm năng khai thác, phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm
linh. Khai thác được các tài nguyên du lịch đó sẽ góp phần định hướng cho sự
phát triển các ngành dịch vụ - thương mại.
Tổ chức hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của di tích đền Trần tại xã
Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình được đề cập sẽ đưa đến cho khách
du lịch những cảm xúc, hiểu biết mới về tín ngưỡng, lịch sử, văn hóa, mĩ
thuật, kiến trúc, nghệ thuật dân gian, và góp phần xây dựng các chương trình
du lịch, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường thiên nhiên, xã hội ở quanh
khu di tích thiêng liêng.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo các tài liệu lịch
sử, văn hóa, Hán tự, khảo sát thực tế tại một số đền nổi tiếng thờ các vị vua
Trần, tiếp cận đề tài bằng nhiều phương pháp khoa học và chuyên môn. Đặc
biệt, là tác giả đã nhận được sự hướng nhiệt tình của Thạc sĩ Nguyễn Quang
Trung – người đã định hướng chuyên môn và hướng dẫn tận tình trong quá
trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này. Đồng thời, tác giả khóa luận
xin cảm sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Quản lý xã hội… đã nhiệt tình
giúp đỡ tác giả về tài liệu tham khảo để thực hiện đề tài này.
Đồng thời tác giả khóa luận cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ban
quản lý di tích đền Trần, các thủ nhang đồng đền tại tỉnh Thái Bình và lân cận
đã tận tình, thân thiện hợp tác và cung cấp thông tin quý giá về văn hóa tâm
linh tại đền Trần, đã giúp đề tài khóa luận hoàn thành yêu cầu nghiên cứu.
Tiếp đó, tác giả xin gửi tới gia đình, bạn bè, các anh, chị khóa trên đã
giúp đỡ về nguồn tư liệu và nghiệp vụ hoàn thành đề tài này.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tay của tác giả. Chính vì vậy, nội
dung luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và cách trình bày chưa
được hấp dẫn. Kính mong Hội đồng khoa học có những đánh giá nhận xét, chỉ
dẫn thêm cho tác giả khóa luận.
75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb.Tổng hợp
Đồng Tháp, 1998.
2. Luật du lịch năm 2017
3. Nguyễn Duy Hinh, Tâm Linh Việt Nam, Nxb.Từ điển bách
khoa,2008
4. Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh, Nxb.Văn Hóa Thông Tin,
2002
5. Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng (1983), Các triều đại Việt
Nam,Nxb.Thanh Niên.
6. Nguyễn Bích Ngọc (2009), Nhà Trần trong văn hóa Việt
Nam,Nxb.Thanh Niên.
7. TS.Dương Văn Sáu (2007), Di tích Lịch sử -Văn hóa và Danh thắng
Việt Nam,Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.
8. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (
2005), Từ điển Bách Khóa Việt Nam, tập 1, 2,3,4, Nxb Từ điển bách khoa
Việt Nam, Hà Nội.
9. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb.KHXH, H.1998, Tập I, II
10. Đặng Hùng, Long Hưng- đất phát nghiệp Vương triều Trần, Nxb
Văn hóa- thông tin Hà Nội, 2011
11. Trần Ngọc Thêm ( 1995), Cơ sở văn hóa Việt Nam, trường ĐHTH,
Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Giáo Dục,
12. Tổng cụ du lịch Việt Nam trung tâm công nghệ thông tin du lịch (
2008), Non nước Việt Nam, NXB Tổng cục du lịch Việt Nam
13. Ngàn năm đất và người Thái Bình, SởVăn hóa –Thông tin Thái
Bình, 1990.
14. Nhà Trần và con người thời Trần, Viện Sử học Hội khoa học
Lịch sử Việt Nam, SởVHTT&DL Thái Bình,2009.
76
15. Vũ Đức Thơm & Phạm Tất Lượng,Đền Trần và Thái Đường lăng,
Ban Tuyên giáo huyện ủy Hưng Hà, 2005.
Nguồn từ các webise
https://sovhttdl.thaibinh.gov.vn
https://www.mpi.gov.vn
https://thaibinh
http://hungha.gov.vn
77
PHỤ LỤC
Phụ lục 1 : Phiếu khảo sát điều tra
Phiếu khảo sát điều tra về thực trạng phát triển du lịch văn hóa tâm linh
tại Đền Trần Thái Bình
Xin trân trọng kính chào quý anh (chị)
Hiện nay tác giả đang làm khóa luận về đề tài „Hoạt động du lịch văn
hóa tâm linh tai quần thể Di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh
Thái Bình” và dưới đây là bảng điều tra câu hỏi về các hoat động du lịch tâm
linh đối với khách du lich khi đến Đền Trần và những nhân xét, đánh giá về
cách khai thác, phát triển du lịch tâm linh tại nơi đây.
Với mỗi câu hỏi anh chi hãy lựa chọn câu trả lời đúng nhất bằng cách
khoanh tròn vào đáp án đúng nhất theo suy nghĩ và cảm nhân của anh chi.
Những thông tin mà anh chi cung cấp chính là những thông tin cần thiết giúp
chúng tôi có đươc thông tin chính xác nhất về thưc trang du lich tâm linh nơi
đây để đưa ra các biên pháp phát triển môt cách hơp lý nhất.
Kính mong anh chi trả lời câu hỏi môt cách khách quan nhất
1. Thông tin cá nhân
1.1 Ho và tên: (không bắt buôc)
1.2 Đô tuổi:
1.3 Giới tính:
1.4 Nghề nghiêp:
2. Câu hỏi trắc nghiệm
2.1 Mục đích của anh chi khi đến Đền Trần là gì?
A. Du lich tâm linh
B. Tham quan di tích
C. Nghiên cứu
D. Muc đích khác
2.2 Đây là lần thứ bao nhiêu anh, chị đến với khu di tích?
78
A. 1
B. 2
C. 3
D. > 4
2.3 Anh Chị thích đến Đền Trần vào khoảng thời gian nào?
A. Thời điểm lễ hội
B. Thời điểm ngoài lễ hội
C. Cả hai thời gian trên
2.4 Anh chi nhân xét gì về thức trạng khai thác và bảo tồn di tích
A. Đang được khai thác ở mức đô rất tốt
B. Đang được khai thác ở mức đô tốt
C. Đang được khai thác ở mức đô bình thường
D. Đang được khai thác ở mức đô kém
2.5 Cơ sở vất chất khu di tích có đƣơc đảm bảo không
A. Bảo tồn ở mức đô rất tốt
B. Bảo tồn ở mức đô tốt
C. Bảo tồn ở mức đô bình thường
D. Bảo tồn ở mức đô kém
2.6 Các cơ sở tham quan giải trí mua sắm phuc vụ cho lễ hội diễn
ra nhƣ thế nào
A. Các điểm tham quan giải trí phục vụ cho lễ hội diễn ra theo đúng
truyền thống đảm bảo an ninh trật tự
B. Các điểm tham quan giải trí phục vụ lễ hội diễn ra không theo trât
tự, mất kiểm soát an ninh
2.7 Anh chị nhận xét về mức độ và cách tổ chức lễ hội tại đền Trần
A. Hê thống tổ chức lễ hội tại đền trần diễn ra theo đúng như truyền
thống với mức độ trang nghiêm, trât tư rất cao
B. Hê thống tổ chức lễ hôi tại đền trần diễn ra theo đúng như truyền
79
thống với mức độ trang nghiêm, trật tư cao
C. Hê thống tổ chức lễ hội tại đền Trần diễn ra theo đúng như truyền
thống với mức độ trang nghiêm, trật tư trung bình
D. Hê thống tổ chức lễ hội tại đền trần diễn ra theo đúng như truyền
thống với mức độ trang nghiêm, trật tự kém
2.8 Nhân xét của anh chị về cách quản lý lễ hội của ban tổ chức lễ
hội
A. Quản lý đưồng đều, thống nhất từ trên xuống
B. Quản lý không đồng đều, thống nhất
2.9 Anh chị là ngƣời địa phƣơng hay từ nơi khác đến Đền Trần
A. Người địa phương
B. Nơi khác
2.10 Anh chị có theo đạo phật không
A. Có
B. Không
2.11 Anh chi sẽ quay lại vào dip lễ hôi năm sau hay không
A. Có
B. Không
Cảm ơn anh chi về những ý kiến đã đóng góp!
80
Phụ lục 2: Xây dựng chƣơng trình tour tiêu biểu
Tour 01: thành phố Thái Bình- Hưng Hà- thành phố Thái Bình (2
ngày 1 đêm)
Ngày 1:
- 08h00: đoàn khởi hành tới thăm DTLSVH đền Tiên La- thờ nữ tướng
anh hùng của thời Hai Bà Trưng – Bát nàn tướng quân Vũ Thị Thục
- 11h30: Xe đưa quý khách đi ăn trưa, thưởng thức đặc sản địa phương
với những món ăn dân dã thông quê
- 13h30: xe đưa đoàn đến thăm quan di tích đền Trần- mảnh đất Thái
Đường xua- nơi phát tích, đất lăng mộ tôn miếu của một dòng họ, một triều
đại gần 800 năm về trước đã làm vẻ vang lịch sử phong kiến nước nhà.
- 15h30: Xe đưa đoàn rời đền Trần, đến thăm làng nghề hiếu Hới- nơi
phát triển nghề dệt chiếu từ thế kỷ X, thăm quan đền Quan Trạng- thờ Quan
Trạng Phạm Đôn Lễ ( thế kỷ XV)- người có công lao lớn canh tân nghề dệt
chiếu cổ truyền của làng.
- 18h30: xe đưa đoàn về khách sạn, nhận phòng, ăn tối, nghỉ ngơi tại
khách sạn
Ngày 02:
- 08h00: xe đưa đoàn tham quan Nhà lưu niệm Bác Hồ, từ đường Lê
Quý Đôn của nhà bác học lỗi lạc lớn nhất Việt Nam thế kỷ XVII
- 11h30: xe đưa đoàn đi ăn trưa, nghỉ ngơi tại khách sạn
- 13h30: xe đưa đoàn tham quan Làng nghề dệt Phương La, mua sắm
đồ lưu niệm. sau đó đoàn lên xe trở về thành phố Thái Bình
- 17h00: đoàn có mặt tại thành phố Thái Bình- kết thúc chuyến tham
quan.
81
Tour 2: Du lịch tâm linh - hành hương về quê lúa : Hà Nội – Thái
Bình- Hà Nội ( 2 ngày 1 đêm)
Ngày 01:
- 06h00: đoàn khởi hành từ Hà Nội về Thái Bình theo hướng cầu Triều
Dương đi qua tỉnh Hưng Yên
- 08h00: Thăm quan làng chiếu Hới- xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà( ngay
sát cầu Triều Dương) – quê hương của Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ.
- 9h30: Thăm quan và dâng hương tại đền Trần- thôn Tam Đường- xã
Tiến Đức, huyện Hưng Hà - gồm Đền thờ và lăng mộ thờ các vua quan nhà
Trần, nơi đây chính là nơi quê hương, phát tích của triều đại Nhà Trần trong
lịch sử Việt Nam, trải nghiệm các trò chơi dân gian và ẩm thực tại lễ hội đền
Trần Thái Bình.
- 12h00: xe đưa đoàn đi ăn trưa và nghỉ ngơi tại thị trấn Hưng Hà.
- 13h30: Xe đưa đoàn tới tham quan đền Tiên La- nơi lưu giữ rất nhiều
giá trị văn hóa đặc sắc, đồng thời là nơi thờ Bát nàn tướng quân Vũ Thị Thục
Nương.
- 16h00: xe đưa đoàn thăm quan làng dệt khăn Phương La – Thái
Phương, hay làng Mẹo theo tên cổ.
- 18h00; xe đưa đoàn quay về thị trấn Hưng Hà, ăn tối và nghỉ đêm.
Ngày 02:
- 7h30: xe khởi hành đến thăm đền Đồng Bằng- huyện Quỳnh Phụ. Tới
đền Đồng Bằng, Quý khách vào thăm nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động
Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập ấp
xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đây là quần thể di tích lớn với
nhiều đền nhỏ thờ quan lớn đệ nhất, đệ nhị, đệ tam. Quý khách cùng cầu tài
lộc và 1 năm thuận hòa.
- 10h00: xe đưa đoàn thăm quan làng nghề làm bánh Cáy ở làng
Nguyễn- Đông Hưng- một đặc sản nổi tiếng Thái Bình.
82
Tour 3: Du lịch tâm linh- hành hương về quê lúa : Hà Nội – Thái
Bình- Hà Nội ( 2 ngày 1 đêm)
Ngày 01:
- 06h00: đoàn khởi hành từ Hà Nội về Thái Bình theo hướng cầu Triều
Dương đi qua tỉnh Hưng Yên
- 08h00: Thăm quan làng chiếu Hới- xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà( ngay
sát cầu Triều Dương) – quê hương của Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ.
- 9h30: Thăm quan và dâng hương tại đền Trần huyện Hưng Hà bao
gồm Đền thờ và lăng mộ thờ các vua quan nhà Trần, nơi đây chính là nơi quê
hương, phát tích của triều đại Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam
- 12h00: xe đưa đoàn đi ăn trưa và nghỉ ngơi tại thị trấn Hưng Hà.
- 13h30: Xe đưa đoàn tới tham quan đền Tiên La- nơi lưu giữ rất nhiều
giá trị văn hóa đặc sắc, đồng thời là nơi thờ Bát nàn tướng quân Vũ Thị Thục
Nương.
- 16h00: xe đưa đoàn thăm quan làng dệt khăn Phương La – Thái
Phương, hay làng Mẹo theo tên cổ.
- 18h00; xe đưa đoàn quay về thị trấn Hưng Hà, ăn tối và nghỉ đêm.
Ngày 02:
- 7h30: xe khởi hành đến thăm đền Đồng Bằng tại huyện Quỳnh Phụ.
Tới đền Đồng Bằng, Quý khách vào thăm nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải
Động Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập
ấp xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đây là quần thể di tích lớn với nhiều
đền nhỏ thờ quan lớn đệ nhất, đệ nhị, đệ tam. Quý khách cùng cầu tài lộc và 1 năm
thuận hòa.
- 10h00: xe đưa đoàn thăm quan làng nghề làm bánh Cáy ở làng
Nguyễn- Đông Hưng- một đặc sản nổi tiếng Thái Bình.
- 11h30: xe đưa đoàn về thành phố Thái Bình ăn trưa, nghỉ ngơi.
- 13h30: xe đưa đoàn thăm quan chùa Keo- huyện Vũ Thư- một trong
83
những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.
- 16h00: xe đưa đoàn khởi hành về Hà Nội- kết thúc chuyến tham quan
Tour 4: Từ Kinh đô về thăm thái miếu: Hà Nội- Nam Định- Thái
Bình- Hà Nội
( 2 ngày 1 đêm)
Ngày 01:
- 6h30: xe xuất phát từ Hà Nội đến tham quan đền Trần – Nam Định.
- 8h30: đoàn xuống xe thăm quan, thắp hương tại đền Trần- Nam Định
- 11h30: Xe khởi hành về thành phố Thái Bình ăn trưa và nghỉ ngơi
- 13h30: xe đưa đoàn thăm quan chùa Keo – huyện Vũ Thư- Thái Bình
một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.
- 16h00: xe đưa đoàn đến thăm làng vườn Bách Thuận- huyện Vũ Thư-
Thái Bình.
- 18h00: Xe đưa đoàn về thành phố Thái Bình, ăn tối, nghỉ ngơi.
Ngày 02:
- 7h00: xe khởi hành đi thăm đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hưng
Hà- gồm Đền thờ và lăng mộ thờ các vua quan nhà Trần, nơi đây chính là nơi
quê hương, phát tích của triều đại Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam
- 10h30: xe đưa đoàn đến tham quan lăng Thái sư Trần Thủ Độ và Linh
từ quốc mẫu Trần Thị dung tại xã Liên Hiệp- huyện Hưng Hà.
- 12h00: xe đưa đoàn ăn trưa tại thị trấn Hưng Hà
- 13h30: đoàn khởi hành đi thăm quan đền Tiên La - nơi lưu giữ rất
nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, đồng thời là nơi thờ Bát nàn tướng quân Vũ Thị
Thục Nương.
- 16h00: đoàn đi thăm quan làng chiếu Hới- nơi phát triển nghề dệt
chiếu từ thế kỷ X.
- 17h30: xe khởi hành về Hà Nội theo lối cầu Triều Dương, đi qua tỉnh
Hưng Yên- kết thúc hành trình.
84
Tour 5: Du lịch lễ hội: Hà Nội- đền Trần Thái Bình- đền Bát Ngàn-
Tiên La Linh tự- Hà Nội ( 1 ngày)
- 07h00: Xe đón quý khách tại điểm hẹn khởi hành đi lễ đầu xuân Đền
Trần Hưng Hà - Thái Bình "Đền thờ và Lăng mộ các vua Trần - Xã Tiến Đức,
Huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái Bình" Trên đường đi xe dừng trên dọc đường cho
Quý khách nghỉ ngơi ăn sáng, sau đó tiếp tục lên xe
- 09h00: Đến Đền Trần, Quý khách sửa sang và sắp lễ, quý khách tự do
dâng lễ cầu Lộc cầu Tài và Cầu sức khỏe...
Sau đó quý khách tham quan và chiêm ngưỡng cảnh đẹp làng quê bên
sông
- 11h30: Xe đưa quý khách đi ăn trưa, thưởng thức đặc sản địa phương
với những món ăn dân dã thôn quê.
- 13h30: Xe đưa quý khách về lại điểm đón ban đầu, trên đường quý
khách, tham quan Đó là đền Tiên La (Tiên La linh từ) di tích lịch sử văn hoá
cấp Quốc gia - nơi thờ Bát Nạn Tướng quân Vũ Thị Thục (thường gọi là Thục
Nương) là danh tướng triều Hai Bà Trưng.
Quý khách tự do tham quan và làm lễ dâng hương.
- 15h30: Xe khởi hành về Hà Nội. Quý khách nghỉ ngơi tại Tp Hưng
Yên , tự do mua sắm đặc sản địa phương. Về lại điểm đón ban đầu
Kết thúc chương trình.
85
Phụ lục 3: Sơ đồ khu di tích
Hệ thống công trình tại
quần thể Di tích đền
Trần, xã Tiến Đức,
huyện Hƣng Hà
1. Cổng Đền
2. Giếng Ngọc
3. Sân Đền
4. Tòa Bái Đường
5. Sân Chầu
6. Hai Tòa Giả Vũ
7. Tòa Đệ Nghị
8. Tòa Hậu Cung
SƠ ĐỒ TOÀN CẢNH
ĐỀN TRẦN (Cũ)
86
Phụ lục 4: Một số hình ảnh
Cổng ngũ thiên môn
87
Lăng mộ các vị vua nhà Trần
Tứ trụ nghi môn
Tòa phƣơng đình trên trục thần đạo
Lễ hội khai ấn
88