BỘ NỘI VỤ TRƢỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA QUẢN LÝ XÃ HỘI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN XÃ ĐỨC TIẾN, HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

Khóa luận tốt nghiệp ngành : VĂN HÓA DU LỊCH Ngƣời hƣớng dẫn Sinh viên thực hiện Mã SV Khóa Lớp

: THS. NGUYỄN QUANG TRUNG : PHAN THỊ THÊU : 1805VDLA053 : 2018 - 2022 : ĐH VDLA 18A

HÀ NỘI - 2022

LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành bài khóa luận này, tôi vô cùng biết ơn sự giúp đỡ rất

nhiệt tình từ phía các thầy cô giáo, gia đình, đồng nghiệp và bạn bè cả về tinh

thần cũng như kiến thức khoa học.

Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới THS. Nguyễn

Quang Trung – người thầy tâm huyết đã hướng dẫn tận tình, tạo cho tác giả

động lực mạnh mẽ, say mê nghiên cứu với ý thức làm việc nghiêm túc suốt

thời gian qua.

Đồng thời, tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới Ban chủ nhiệm,

các thầy giáo, cô giáo trong khoa Quản lý xã hội – Trường đại học Nội Vụ Hà

Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ, hướng dẫn, đóng góp những ý kiến. Tôi xin cảm

ơn tất cả các anh chị và cô chú trong ban quản lý khu di tích Đền Trần tại tỉnh

Thái Bình đã cung cấp những tài liệu cần thiết, quý báu để tôi hoàn thành bài

khóa luận.

Cuối cùng tác giả xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến đồng nghiệp, bạn

bè và gia đình đã luôn bên cạnh động viên, giúp đỡ tác giả vượt qua khó

khăn nhất.

Tác giả thực hiện

Phan Thị Thêu

LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan đề tài nghiên cứu: “ Hoạt động du lịch văn hóa

tâm linh tại quần thể di tích đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà,

tỉnh Thái Bình” là một công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân. Tất cả

những sự giúp đỡ cho việc hoàn thành bài khóa luận này đều được trích dẫn

đầy đủ và ghi rõ nguồn gốc rõ ràng và được phép công bố.

Tác giả thực hiện

Phan Thị Thêu

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

UBND Ủy Ban Nhân Dân

VHTT & DL Văn hóa, Thể thao và Du lịch

HĐQT Hội đồng quản trị

DTLSVH Di tích lịch sử văn hóa.

BQL Ban quản lý

NXB Nhà xuất bản

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc UNESCO

KHXH Khoa học xã hội

GS Giáo sư

DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Số lượng khách du lịch đến tham quan tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện

Hưng Hà .................................................................................................................... 43

Bảng 2.1: Danh sách nhân lực du lịch tại quần thể đền Trần, xã Tiến Đức ............. 50

Bảng 2.3: Các hạng mục quần thể di tích đền thờ, lăng mộ các vua Trần xã Tiến

Đức- huyện Hưng Hà ................................................................................................ 53

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC BẢNG BIỂU

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1

2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 2

4. Đối tƣợng nghiên cứu. .................................................................................... 2

5. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................ 2

6. Nội dung nghiên cứu: ..................................................................................... 3

7. Phƣơng pháp nghiên cứu. .............................................................................. 3

8. Cấu trúc khóa luận ......................................................................................... 3

NỘI DUNG ................................................................................................................ 4

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH ................ 4

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài. ............................................. 4

1.2. Một số khái niệm liên quan. ....................................................................... 5

1.2.1. Văn hóa và du lịch văn hóa ...................................................................... 5

1.2.2. Khái niệm tâm linh .................................................................................... 7

1.2.3. Khái niệm về lễ hội .................................................................................. 10

1.2.4. Khái niệm văn hóa tâm linh .................................................................... 10

1.2.5. Quan niệm du lịch văn hóa tâm linh ...................................................... 11

1.3. Đặc điểm của hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại Việt Nam .......... 14

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 .................................................................................. 16

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH

TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN XÃ TIẾN ĐỨC, HUYỆN HƢNG HÀ,

TỈNH THÁI BÌNH .................................................................................................. 17

2.1. Khái quát về tỉnh Thái Bình ..................................................................... 17

2.1.1. Vị trí địa lý tự nhiên ................................................................................ 17

2.1.2. Tài nguyên du lịch văn hóa .................................................................... 17

2.1.3. Các lễ hội tại tỉnh Thái Bình .................................................................. 19

2.2. Văn hóa lịch sử nhà Trần và những ảnh hưởng tới vùng đất Thái Bình. .. 20

2.2.1. Văn hóa lịch sử nhà Trần với lịch sử Việt Nam .................................... 20

2.2.2. Nhà Trần tại mảnh đất Long Hưng tỉnh Thái Bình.............................. 20

2.3. Khái quát đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình. ... 24

2.3.1. Lịch sử hình thành .................................................................................. 24

2.3.2. Hệ thống đền thờ ..................................................................................... 26

2.4. Thực trạng hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền Trần, xã Tiến

Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình ............................................................ 28

2.4.1. Giá trị tín ngưỡng và tinh thần ............................................................... 28

2.4.2. Giá trị văn hóa lịch sử và huyền thoại. .................................................. 32

2.4.3. Giá trị nghệ thuật .................................................................................... 37

2.4.4. Giá trị tự nhiên, không gian, cảnh quan, môi trường. .......................... 40

2.5. Thực trạng tổ chức hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền Trần, xã

Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình. ................................................... 42

2.5.1. Thị trường và khách du lịch ................................................................... 42

2.5.2. Thực trạng về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất. ...................................... 46

2.5.3. Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch .......................................................... 49

2.5.4. Tổ chức quản lý khai thác ....................................................................... 50

2.5.5. Đầu tư và quy hoạch ............................................................................... 52

2.5.6. Sản phẩm du lịch văn hóa ...................................................................... 54

2.5.7. Hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch ................................................. 56

2.6. So sánh hoạt động du lịch tại một số di tích đền Trần khác ................. 58

2.6.1. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần Côn Sơn - Kiếp Bạc ( Hải

Dương) ............................................................................................................... 58

2.6.2. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần ( Nam Định ) ............................ 59

2.6.3. Hoạt động du lịch tại đền Trần Nhương ( Hà Nam) ............................. 60

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 .................................................................................. 63

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN

HÓA TÂM LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN, XÃ TIẾN ĐỨC

HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH ............................................................. 65

3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp ............................................................................ 65

3.2. Giải pháp phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di

tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình. .................... 65

3.2.1. Đề cao trách nhiệm của quản lý khu di tích .......................................... 65

3.2.2. Đa dạng hóa về các sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản phẩm

du lịch đặc thù hơn. ........................................................................................... 66

3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân địa phương và ý thức bảo tồn

nguồn tài nguyên du lịch văn hóa. ................................................................... 67

3.2.4. Nâng cao giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. ............. 68

3.2.5. Giải pháp về thông tin truyền thông, tăng cường quảng bá xúc tiến về

du lịch ................................................................................................................. 71

3.3. Kiến nghị .................................................................................................... 72

3.3.1. Sở văn hóa và thể thao du lịch tỉnh Thái Bình ...................................... 72

3.3.2. Với ban quản lý khu di tích ..................................................................... 73

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .................................................................................. 74

KẾT LUẬN .............................................................................................................. 75

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 76

PHỤ LỤC ................................................................................................................. 78

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thái Bình nằm ở vùng Đông Bắc Bộ, tuy còn là một tỉnh nghèo, chưa

phát triển mạnh về công nghiệp và ngành du lịch, song tỉnh Thái Bình đang

từng bước phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm linh bởi nơi đây là vùng

đất có mật độ các di tích lịch sử văn hóa được xếp vào loại cao nhất trong cả

nước. Nhờ vào những ưu thế đó mà những năm gần đây Thái Bình đang rất

tích cực đầu tư và quảng bá cho hoạt động du lịch của mình đặc biệt là du lịch

văn hóa tâm linh. Đáng kể nhất là các dự án đầu tư du lịch, tu bổ quần thể di

tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà nơi tôn miếu linh thiêng của một

dòng họ Trần, cũng là nơi lưu giữ dấu tích về một triều đại oai hùng trong lịch

sử Việt Nam, đó là triều đại nhà Trần.

Trong quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, Triều đại nhà Trần

(1226-1400) đã giữ một vị thế vô cùng quan trọng và những dấu ấn không

phai mờ trong lịch sử Việt Nam cũng như những ảnh hưởng đáng kể tới vùng

đất Thái Bình.

Qua các cuộc nghiên cứu và khảo cổ học, các nhà sử học và các nhà

khoa học đã đi đến một kết luận: “huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày

nay, nơi tọa lạc quần thể di tích đền Trần và lăng mộ thờ các vị vua quan

nhà Trần” và không chỉ là quê hương 4 đời của họ Trần kể từ đời vua Trần

Cảnh (Trần Thái Tông), mà còn là đất phát tích, sáng nghiệp của vương

triều nhà Trần.

Hiện nay, SVHTT & DL tỉnh Thái Bình đã và đang quy hoạch để phát

triển quần thể di tích này trở thành điểm du lịch văn hóa tâm linh, một thương

hiệu của tỉnh. Từ những nội dung trên, tôi quyết định chọn đề tài: “Hoạt động

du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức,

huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình” nhằm tìm hiểu ý nghĩa của quần thể di

tích đối với một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam, cũng như

1

những giá trị của quần thể di tích đối với sự phát triển du lịch của tỉnh Thái

Bình. Qua đó tác giả mong muốn giới thiệu tới mọi người một điểm đến du

lịch văn hóa tâm linh tại tỉnh Thái Bình.

2. Mục đích nghiên cứu

Nhằm mục đích tìm hiểu giá trị du lịch văn hóa tâm linh tại di tích đền

Trần. Nội dung của đề tài nghiên cứu nhằm cung cấp những thông tin, sự hiểu

biết cặn kẽ về những giá trị văn hóa tâm linh tới du khách thăm quan và du

lịch tại đền Trần

Nhằm đưa ra các biện pháp phát triển du lịch thông qua khai thác giá trị

văn hóa tâm linh tại quần thể di tích đền Trần , xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà,

tỉnh Thái Bình.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Xây dựng nền tảng cơ sở lý luận về loại hình du lịch văn hóa tâm linh.

- Thực hiện khảo sát thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tâm linh ở

quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình và

phát triển du lịch tại di tích này.

- Đề xuất các giải pháp để phát triển du lịch ở di tích này thông qua

hoạt động du lịch văn hóa tâm linh quảng bá các giá trị văn hóa và bảo tồn di

tích lịch sử tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Đối tƣợng nghiên cứu.

Hoạt động kinh doanh du lịch tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng

Hà, tỉnh Thái Bình.

Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện

Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

Các giá trị văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng tại khu di tích .

5. Phạm vi nghiên cứu

- Địa bàn nghiên cứu : Quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện

Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

2

6. Nội dung nghiên cứu:

Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di tích đền Trần, xã

Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát triển du lịch ở di tích.

7. Phƣơng pháp nghiên cứu.

- Phương pháp tổng hợp phân tích: để xây dựng khung lý thuyết của

đề tài

- Phương pháp điều tra: để thu thập số liệu thực tế.

- Phương pháp: thống kê, so sánh: để xử lý kết quả điều tra.

8. Cấu trúc khóa luận

Những mục đích và lý do kể trên, ngoài phần mở đầu và các phụ lục,

đề tài của tôi bao gồm 3 phần chính:

Chương 1: Cơ sở lý luận về du lịch văn hóa tâm linh;

Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại Quần thể

di tích đền Trần, Xã Tiến Đức, Huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái Bình;

Chương 3: Một số giải pháp đối với hoạt động du lịch văn hóa du lịch

tâm linh tại quần thể di tích Đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh

Thái Bình.

3

NỘI DUNG

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DU LỊCH VĂN HÓA TÂM LINH

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu của đề tài.

Hiện nay các công trình nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh đã có

rất nhiều sự đổi mới cụ thể như sau: .

Đầu tiên là nghiên cứu về lịch sử nhà Trần từ trước đến nay có rất

nhiều công trình nổi tiếng như : “cuộc kháng chiến chống quân xâm lược

Nguyên – Mông” của hai tác giả đại học tổng hợp Hà Nội là Hà Văn Tấn và

Đặng Thị Tâm in từ thập niên 60 của thế kỷ XX, để tìm hiểu thêm về nhà

Trần nhà xuất bản văn hóa thông tin ( 2006) đã cho xuất bản cuốn sách “ Trần

miếu di sản và tín ngưỡng dân gian” – cuốn sách này đã cho người đọc thông

tin hoàn chỉnh nhất về di tích nhà Trần cùng với những thông tin về lễ khai ấn

mùa xuân và lễ hội Đức Thánh Trần.

Một số tác phẩm liên quan đến du lịch văn hóa tâm linh ở Thái Bình đã

được đề cập trong loại hình du lịch văn hóa và phát triển bền vững các di sản

văn hóa ở vùng quê lúa như “Đất và người Thái Bình” của hai tác giả Phạm

Minh Đức và Bùi Duy Lan, bên cạnh đó một số bài viết tiêu biểu được đăng

lên tạp chí du lịch trong nước về du lịch Thái Bình. Trong đó “ Ngàn năm đất

và người Thái Bình” của SởVăn hóa –Thông tin Thái Bình, 1990 nói về văn

hóa, lịch sử và các giá trị tín ngưỡng tại vùng đất nơi đây, một số tài liệu luận

văn cấp học của trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cũng đã đi sâu

vào nghiên cứu du lịch Thái Bình ở nhiều góc độ khác nhau như Phạm Văn

Duy với đề tài: “nghiên cứu khai thác lễ hội đền Trần Hưng Hà Thái Bình ”

hoặc nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh của Trần Thị Dung với đề tài: “

giải pháp phát triển du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di tích Đền Trần, xã

Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình”. Các đề tài cũng chủ yếu tập

trung vào sự phát triển du lịch nói chung và du lịch văn hóa nói riêng và

những tác động của du lịch tới đời sống con người.

Tác giả chọn đề tài “Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại quần thể di

4

tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình” bài viết còn

nhiều thiếu xót, rất mong được các tác giả quan tâm và hoàn thiện hơn trong

các công trình nghiên cứu sau.

1.2. Một số khái niệm liên quan.

1.2.1. Văn hóa và du lịch văn hóa

Hiện nay có hàng trăm khái niệm khác nhau về văn hóa. Tác giả xin

trích dẫn chứng một số định nghĩa cơ bản và quen thuộc, có liên quan đến đề

tài nghiên cứu như sau:

“Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do

con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự

tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”

[11tr.25].

Khái niệm văn hóa được hiểu theo nghĩa nhân văn rất rộng. Nguyên

tổng giám đốc UNESCO (United Nations Educational Scientific and Cultural

Organiation), ông Mayo (F.Mayor), đưa ra một khái niệm về văn hóa vừa

mang tính khái quát vừa có tính đặc thù: “Văn hóa bao gồm tất cả những gì

làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện

đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động” [8

tr.798]

“Văn hóa vật thể là một bộ phận của văn hóa nhân loại, thể hiện đời

sống tinh thần của con người dưới hình thức vật chất: là kết quả của hoạt

động sáng tạo, biến những vật và chất liệu trong thiên nhiên thành những đồ

vật có giá trị sử dụng và thẩm mĩ nhằm phục vụ cuộc sống con người.

Khái niệm về du lịch:

“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người

ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục

nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá

tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác.” [ Luật du lịch

2017, chương 1, điều 3]

5

Qua đó, ta thấy quan niệm: “văn hóa du lịch”, là một hiện tượng khách

quan. Là sự thỏa mãn những hiện tượng trên trước môi trường tự nhiên và xã

hội gọi là văn hóa du lịch. Hay có nhiều cách hiểu khác nhau, du lịch văn hóa

là một khoa học nhằm nghiên cứu về các giá trị khác nhau. Văn hóa và du lịch

đều có những mối quan hệ mật thiết, chúng tương tác với nhau, cùng phát

triển duy trì sự bền vững. Du lịch và văn hóa có những mối tương tác qua lại

với nhau chúng được thể hiện như sau: Sự tương tác giữa văn hóa và du lịch

Các sản phẩm văn hóa khi phục vụ nhu cầu được làm vui và thỏa mãn

du khách qua việc mua sắm. Thỏa mãn nhu cầu của du khách về tinh thần,

văn hóa giao tiếp của con người bản địa. Nền nông nghiệp của một nước. Hệ

thống giáo dục của đất nước đến du khách.

Các thành tựu về khoa học kỹ thuật tiên tiến

Ngôn ngữ quốc gia đến các du khách quốc tế.

Hoạt động khí hậu của một quốc gia với du khách.

Tôn giáo và tín ngưỡng của một quốc gia.

Sự tương tác giữa ảnh hưởng từ du lịch vào văn hóa

Tôn giáo và tín ngưỡng của một quốc gia các giữa ảnh hướng từ du

lịch vào văn hóa

Có thể xâm hại với văn hóa bản địa của một quốc gia. Có thể do lợi ích

trước mắt mà người ta trình diễn văn hóa nghệ thuật sai lệch với ý nghĩa văn

hóa. Do sự thiếu nhiều hiểu biết, văn hóa bị thương mại hóa, kinh doanh các

sản phẩm văn hóa từ các loại hình du lịch.

(Nguồn: Tham khảo Bài giảng môn Nghiệp Vụ Văn Hóa Du Lịch, PGS.

Trần Thúy Anh)

1.2.1.1. Khái niệm hoạt động du lịch

Hoạt động du lịch là hoạt động của khách du lịch, tổ chức, cá nhân

kinh doanh du lịch và cơ quan, tổ chức, cá nhân, cộng đồng dân cư có liên

quan đến du lịch. (luật du lịch 2017, điều 3 chương 1)

6

Hoạt động du lịch được hiểu là những trải nghiệm, khám phá trong

một chuyến du lịch. Tất cả những hoạt động đó được thực hiện trong

chuyến đi chính là hoạt động du lịch. Tuy nhiên, hoạt động du lịch không

nhất thiết phải di chuyển, cử động và hao phí sức lực mà thư giãn cũng là

một hoạt động du lịch.

Hoạt động du lịch là yếu tố quyết định trong chuyến du lịch đó vui và

bổ ích hay không. Tùy thuộc vào mục đích du lịch của mỗi người và có thể

lên lịch trình kế hoạch về các hoạt động du lịch sao cho hợp lý. Nếu muốn đi

du lịch để khám phá, tìm kiếm những điều kỳ thú thì lựa chọn các hoạt động

du lịch như: Leo núi, lặn biển, tham quan các địa điểm ít người biết tới,…

Còn muốn du lịch sinh thái để xả stress thì nên lựa chọn các hoạt động du lịch

như: Bơi lội, tắm nắng, đi dạo vãn cảnh,…

1.2.2. Khái niệm tâm linh

Khái niệm tâm linh

Lâu nay, quan niệm tâm linh thường mang đậm sắc màu huyền hoặc kỳ

bí. Nhắc đến tâm linh, chúng ta thường lập tức nghĩ đến linh hồn, sự tái sinh,

Nhân - Quả, Nguồn Năng lượng Tối cao,… như nguồn dữ liệu sẵn có bên

trong tiềm thức. Song chưa hiểu hết những triết lý tuyệt vời này, ý nghĩa quan

trọng của chúng đối với một cuộc sống bình an, hạnh phúc, viên mãn còn

củng cố sức mạnh đích thực, sức mạnh nội tâm. Đôi khi chúng ta cũng tin,

nhưng chỉ là một niềm tin… mù quáng. Đó là lý do vì sao con người vẫn còn

nếm trải những đau khổ trong cuộc sống.

Trong sách “Tâm linh Việt Nam” của tác giả Nguyễn Duy Hinh quan

niệm rằng: “Tâm linh là thể nghiệm của con người (tâm) về cái Thiêng (linh)

trong tự nhiên và xã hội thông qua sống trải, thuộc dạng ý thức tiền logic

không phân biệt thiện ác.” [3,tr.52]

Tác giả giải thích tâm linh là một khát vọng trí tuệ của con người, quá

trình tồn tại, phát triển, con người không bằng lòng khai thác tự nhiên hái quả

7

săn mồi...sinh con đẻ cái như mọi động vật khác. Con người luôn khao khát

tìm hiểu và lý giải thiên nhiên (trời, đất, nước, muôn loài ...) và chính con

người để cải thiện cuộc sống. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa con người và

động vật. Qua kinh nghiệm cụ thể, về lâu dài, mỗi dân tộc đều có nét tâm linh

riêng biệt, nhưng cũng nhờ vào cách lý giải về trời, đất và con người. Giải

thích những lực vô hình tác động đến đời sống con người. Đấng quyền năng

và vô hình nên được gọi là thần thánh. Một số hiện tượng tâm linh chuyển

thành niềm tin có hoặc không có thờ cúng. Đó là tâm linh của tôn giáo, như

thờ tổ tiên, cúng hồn lúa… Còn tâm linh phát triển thành tâm linh tôn giáo,

người ta cho rằng tâm linh của một vị lãnh đạo tôn giáo nào đó có logic nhất

định chứ không phải tâm linh. Nhưng dù vậy, mỗi một nhóm người đều ít

nhiều có được linh khí của một vị giáo chủ nhờ linh tính của tín ngưỡng.

Qua những quan niệm trên có thể thấy rằng, tâm linh chỉ tồn tại ở con

người và là kết quả của những trải nghiệm của con người trong quá trình sống

trong một môi trường nhất định. Từ đó hình thành nên nét tâm linh riêng của

mỗi quốc gia. Tâm linh không phải là niềm tin tôn giáo, mà tâm linh bao trùm

họ. Niềm tin tôn giáo chỉ có thể tồn tại trong môi trường tâm linh, nơi con

người có niềm tin vào thần, phật, thần thánh và những điều linh thiêng khác.

Tác giả Nguyễn Đăng Duy trong cuốn “Văn hóa tâm linh” về tâm linh

như sau: “Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong cuộc sống đời thường, là

niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo”. Đó là cái thiêng

liêng cao cả, niềm tin ấy được đọng lại ở những biểu tượng, hình ảnh, ý niệm.

[4,tr.14]

Như vậy, từ các quan niệm trên ta có thể tạm hiểu về tâm linh như sau:

Tâm linh là một hình thái ý thức của con người.

Quan niệm Tâm linh là ngưỡng vọng của con người về những biểu

tượng, hình ảnh thiêng liêng.

8

Phân biệt tâm linh tín ngưỡng và mê tín dị đoan

Mê Tín dị Đoan Tín ngưỡng

Mê tín dị đoan là sự mê tín, dị đoan Quan niệm Tâm linh là một tín

và cách thức truyền bá rộng rãi. Tin ngưỡng tâm linh tồn tại ở nhiều khía

không có lý do, nó thậm chí không cạnh của đời sống tinh thần. Người cả

cần cuộc sống. Vì vậy, mê tín dị đoan đời tin Phật, Trời, đi tu, tin Đạo, niệm

chỉ tồn tại trong nền văn hóa khoa Phật, Trời thì sẽ thoát khỏi kiếp nạn.

học trình độ thấp, khi con người Hoặc những người không tin theo tôn

không đủ trình độ để phân tích, giải giáo nào, nhưng vẫn tin vào Phật

thích đúng sai, vô nghĩa. Hoặc lợi Thánh, hãy đến các thôn, xã, bản

dụng tình huống bất lực, tuyệt vọng, làng, chùa để thắp hương, lễ Phật, cầu

hoang mang của mọi người để ứng mong sự phù hộ, bình an, sức khỏe,

phó kịp thời. Hoặc trong phút thăng may mắn. Nó cũng xuất phát từ việc

hoa của lễ hội, phút say sưa dễ dẫn một số người muốn dựa vào thần

đến mê tín, mê tín đến mức phi lý. thánh để trục lợi, thương mại hóa

Ví dụ: Tín vào thuật bói toán, chữa niềm tin, bắt đầu nói ra nhiều phép lạ,

bệnh bằng phù phép. cúng dường cho người khác, khiến

người khác tin tưởng ảo tưởng, hành

động theo niềm tin đó, lãng phí sức

khỏe, lãng phí tiền của. vô ích, và

thậm chí gây nguy hiểm đến tính

mạng., đó là mê tín. Vì vậy, tâm linh

hay mê tín dị đoan muốn tồn tại đều

phải có niềm tin. Nhưng niềm tin mê

tín dị đoan không có định kiến và mù

quáng.

9

1.2.3. Khái niệm về lễ hội

Lễ hội là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính

của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con

người trước cuộc sống mà bản thân họ chauw có khả năng thực hiện. Lễ hội

là sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng hỗn dung nhiều tôn giáo của cộng đồng,

mong cầu bình yên, hạnh phúc cho con người, sự sinh sôi nảy nở của gia súc,

sự bội thu của mùa màng mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào

bốn chữ “ nhân khang, vật thịnh”. Lễ hội là hoạt động tập thể người, liên

quan đến tín ngưỡng và tôn giáo…[8,tr 894]

Khách du lịch về tham gia lễ hội được hòa nhập vào cộng đồng địa

phương, vào cảm xúc tâm linh, được bày tỏ lòng thành kính với các bậc thánh

thần. Đồng thời, họ cũng có dịp tìm hiểu, khám phá những giá trị văn hóa

truyền thống ẩn chứa trong những nghi lễ, những trò diễn dân gian đậm đà

bản sắc dân tộc. Đây chính là những yếu tố hấp dẫn và cuốn hút khách du lịch

từ đó tạo ra nguồn động lực cho loại hình du lịch lễ hội được phát triển.

1.2.4. Khái niệm văn hóa tâm linh

Theo tác giả Nguyễn Duy Hinh trong cuốn “ Tâm linh Việt Nam” thì:

“Văn hóa tâm linh là một mặt hoạt động văn hóa xã hội của con người, được

biểu hiện ra những khía cạnh vật chất hoặc tinh thần, mang những giá trị

thiêng liêng trong cuộc sống đời thường và biểu hiện niềm tin thiêng liêng

trong cuộc sống tín ngưỡng tôn giáo, thể hiện nhận thức, thái độ (e dè, sợ

hãi hay huyền diệu) của con người”. [3,tr.27]

Văn hóa tâm linh bao gồm cả văn hóa vô hình và văn hóa hữu hình.

Văn hóa hữu hình như không gian tâm linh như nhà thờ, đình, chùa, miếu,

đền...hay các biểu tượng như tượng phật, tượng chúa…Văn hóa tinh thần là

những ý niệm linh thiêng trong mỗi con người chúng ta có ý niệm đó được

thể hiện qua hành động của họ, văn hóa tâm linh còn được thể hiện qua

hành động.

10

1.2.5. Quan niệm du lịch văn hóa tâm linh

Du lịch văn hóa tâm linh là một thực thể đã tồn tại hàng trăm năm trên

thế giới. Trước đây, người ta thường dùng từ hành hương để nói về những

chuyến du lịch của mình. Tuy nhiên, từ hành hương không thể hiện hết bản

chất, ý nghĩa và mục đích của chuyến đi. Hành hương mang nhiều ý nghĩa

tâm linh, nhưng không phải mỗi chuyến đi của mọi người đều mang mục đích

duy nhất là ý nghĩa tôn giáo mà một bộ phận họ tham gia hành hương nhưng

thích du lịch hơn là tín ngưỡng. Ngay cả những người đi du lịch với niềm tin

tâm linh là mục đích chính của họ, không thể không nảy sinh tâm trạng thú vị

cho du khách để thưởng thức vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên và tiếp xúc với

những nơi đẹp nhất trên thế giới. Cư dân, tận hưởng tiện ích của các dịch vụ

du lịch. Vì vậy, du lịch đó cần có một khái niệm phù hợp hơn, trong đó phải

bao hàm cả yếu tố du lịch và tâm linh.

Du lịch văn hóa tâm linh là sự kết hợp giữa của du lịch và văn hóa tâm

linh. Đây là hai nhu cầu cần thiết trong cuộc sống của con người, nhằm làm

đẹp cuộc sống, đồng thời thăng hoa trong tâm hồn. Du lịch nhằm mở mang

kiến thức về thiên nhiên, con người nơi đến và giúp xả căng thẳng rất hiệu

quả. Theo tác giả Tâm linh ở đó có nghĩa là nói về tôn giáo. Tín ngưỡng bao

gồm tín ngưỡng tôn giáo và tín ngưỡng dân gian nhằm thỏa mãn niềm tin vào

những biểu tượng thiêng liêng mà họ tôn thờ. Vì vậy, các địa điểm du lịch

thường là những nơi linh thiêng và ý nghĩa. Các tôn giáo, tín ngưỡng, như

đền, miếu, thánh đường hay phế tích ... Ở nơi đó, họ không chỉ có được thông

tin đầy đủ về nguồn gốc tín ngưỡng của mình mà trong chuyến hành hương,

họ còn được sống cùng nhau trong một môi trường tâm linh: thờ cúng, cầu

nguyện và hành trì an lạc, rèn luyện tinh thần, tạo sức mạnh cho niềm tin,

chuyển hóa ý thức.

Tóm lại, du lịch văn hóa tâm linh cũng là một loại hình du lịch văn hóa

chỉ ứng dụng các đối tượng tôn giáo, tín ngưỡng tâm linh vào hoạt động du

11

lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo và tham quan. Nâng cao nhận

thức của du khách. Du lịch tâm linh và văn hóa cũng có thể sử dụng các khái

niệm thay thế như du lịch tín ngưỡng tâm linh, du lịch tôn giáo, du lịch đó

phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bảo tồn các giá trị văn hóa, bao gồm cả

giá trị vật chất và tinh thần. Tiếp tục bảo quản các hiện vật có ý nghĩa tôn giáo

như bảo tháp, xã, chùa, nhà thờ họ ... hoặc các nghi lễ.

Điểm đến của du lịch văn hóa tâm linh

Theo quan điểm Marketing:“Điểm đến du lịch là một địa điểm mà

chúng ta có thể cảm nhận được bằng đường biên giới về địa lý, chính trị,

kinh tế, có tài nguyên du lịch hấp dẫn, khả năng thu hút và đáp ứng nhu cầu

của khách du lịch”.

Điểm đến du lịch là nơi chủ yếu tập trung chính một loại hình du lịch

văn hóa tâm linh nào nhằm phục vụ du lịch và loại hình du lịch văn hóa tâm

linh. Trong đó điểm đến là các di tích gắn với tôn giáo và tín ngưỡng như

chùa, đình, đền...

Di tích tôn giáo

Chùa ( Tự) ở Việt Nam có lẽ Chùa là nhiều nhất. Chùa là nơi thờ tự

Phật, tín ngưỡng dân gian, nhưng gian chính phải thờ Phật.Chùa là những di

tích cổ nhất còn lại Việt Nam, đặc biệt miền Bắc, Ba miền, phong cách chùa

cũng rất khác nhau.

Ví dụ: Chùa Ba Vàng, chùa Tam Chúc, Chùa Hương…

Nhà thờ: là của đạo Thiên Chúa, có thể gọi là Giáo đường, Thánh

đường, có các cấp bậc hẳn hoi: Vương cung thánh đường, Chính tòa, Tông

tòa, nhà thờ xứ, nhà thờ họ. Nơi thờ tự của Hồi giáo cũng gọi là Giáo đường.

Ví dụ: Nhà thờ đá Sa Pa ( Lào Cai), nhà thờ lớn, Hà Nội, nhà thờ Phát

Diệm, Ninh Bình, nhà thờ Gỗ (Kon Tum).

Di tích tín ngưỡng

Đền ( Từ): thờ Thần, Thánh. Có thể là Thiên Thần, Nhiên Thần, Địa

12

thần, Địa thần, Nhân thần.

Ví dụ: Đền Trần, đền Bạch Mã, đền Kim Liên, đền Quán Thánh…

Đình: Thờ Thành hoàng của các làng, đồng thời là nơi tụ họp, bàn việc

làng, là tính túy của làng xã.

Ví dụ: Đình Bảng ( Bắc Ninh) , Đình So ( Quốc Oai), Đình Tân Đông (

Tiền Giang)…

Miếu: thờ Thánh nhân, Hoàng tộc, cho đến các tiểu thần, tổ nghề,

hoặc cả Mẫu nữa.

Ví dụ:Miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam (An Giang), Miếu Ba Cô (đèo Bảo

Lộc, Lâm Đồng), Thượng Công Miếu (Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí

Minh)…

Phủ/ Điện: Thờ Mẫu trong đạo Mẫu, là tôn giáo bản địa. Miền Trung

gọi là Điện.

Ví dụ: Phủ Tây Hồ…

Cơ sở vật chất, kỹ thuật của du lịch văn hóa tâm linh

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm: cơ sở vật chất của ngành du

lịch (dịch vụ nhà hàng, vui chơi, giải trí…là yếu tố then chốt đối với việc

đảm bảo điều kiện cho các dịch vụ du lịch cung ứng nhu cầu của du khách.

Các yếu tố này có ý nghĩa rất quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến việc khai

thác tài nguyên, phục vụ khách du lịch, đồng thời góp phần quyết định độ dài

thời gian lưu trú và mức chi tiêu của du khách trải nghiệm du lịch.

Sản phẩm du lịch văn hóa tâm linh

Luật du lịch Việt Nam 2017 (điều 3 chương 1):“ Sản phẩm du lịch là

tập hợp các dịch vụ trên cơ sở khai thác giá trị tài nguyên du lịch để thỏa

mãn nhu cầu của khách du lịch”

Các yếu tố của sản phẩm du lịch bao gồm: điểm thu hút khách, tài

nguyên du lịch của điểm đến; dịch vụ của điểm đến, hình ảnh của điểm đến,

giá cả hàng hóa, dịch vụ của điểm đến.

13

Khách du lịch với mục đích văn hóa tâm linh

Theo Luật du lịch 2017 (Chương 1, điều 3): “ Khách du lịch là người

đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc để nhận thu

nhập ở nơi đến”.

Khách đi du lịch với mục đích trải nghiệm văn hóa tâm linh hoặc đi với

động cơ là nghỉ ngơi, thư giãn tinh thần, có thể đi với mục đích tham quan,

nghiên cứu, học tập về văn hóa hoặc kết hợp với mục đích khác như công vụ,

hội nghị, hội thảo.

Khách du lịch tâm linh ở Việt Nam thường hội tụ về các địa điểm như:

đền, chùa, đình, đài, lăng tẩm, tòa thánh, khu thờ tự, tưởng niệm và những

vùng đất linh thiêng gắn với phong cảnh đặc sắc, gắn kết với văn hóa truyền

thống, lối sống địa phương.

1.3. Đặc điểm của hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại Việt Nam

Điều làm nên nét độc đáo của du lịch văn hoá tâm linh Việt Nam so với

phần còn lại của thế giới là:

Du lịch văn hoá tâm linh liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng. Trong số

đó, ở Việt Nam tôn giáo Phật giáo có số lượng lớn nhất và cùng tồn tại với

các tôn giáo khác như Thiên chúa giáo, Đạo Cao đài, Đạo Hòa Hảo. Các giá

trị triết học, tín ngưỡng, Phật pháp, vật thể và phi vật thể phương Đông.

Du lịch văn hoá tâm linh Việt Nam gắn với cơ sở di tích tín ngưỡng thờ

cúng, suy tôn tri ân các anh hùng dân tộc, Thành Hoàng Làng có công với đất

nước, dân tộc, trở thành du lịch cội nguồn dân tộc với đạo lý “uống nước nhớ

nguồn”. Tín ngưỡng thờ cúng Vua Hùng ở Việt Nam đã được UNESCO công

nhận là di sản phi vật thể đại diện của nhân loại.

Du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam liên quan đến tín ngưỡng thờ

cúng tổ tiên, dòng họ, lòng biết ơn và lòng hiếu thảo với cha mẹ.

Du lịch văn hóa tâm linh ở Việt Nam liên quan đến các hoạt động thể

14

thao tâm linh như thiền định, yoga cân bằng, tịnh tâm và siêu thoát trong đời

sống tâm linh. Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử là nét đặc trưng, tiêu biểu của

Việt Nam mà không thể tìm thấy ở bất kỳ nơi nào khác.Du lịch văn hóa tâm

linh ở Việt Nam còn bao gồm các hoạt động liên quan đến yếu tố linh thiêng,

huyền bí (thờ Mẫu Tam Phủ)

Trên thế giới, có một số lễ hội đã trở thành quốc tế, giúp xây dựng

thương hiệu du lịch, đưa hình ảnh đất nước đến nhiều nơi nhưng vẫn giữ được

giá trị nguyên bản, chẳng hạn như lễ hội Songkran. Lễ hội truyền thống

Songkran ở Thái Lan hay lễ hội Chol Chnam ở Campuchia, lễ hội Carnival ở

Brazil, lễ hội Oktoberfest ở Đức, lễ Phục sinh, Giáng sinh…

Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhiều tỉnh, thành phố trên cả

nước thường xuyên tổ chức các lễ hội, sự kiện văn hóa kỷ niệm vào các dịp

lễ, Tết, kỷ niệm các sự kiện đặc biệt. Vai trò quan trọng của nhà nước và địa

phương để đáp ứng nhu cầu của người dân. Nhân dân được hưởng thụ đời

sống văn hóa, tín ngưỡng, tâm linh, phục vụ phát triển du lịch. Để phục vụ lễ

hội, nhiều di sản văn hóa phi vật thể, nhất là lễ hội truyền thống đã được phục

dựng, tái hiện với quy mô rất lớn, góp phần tạo nên “bức tranh lễ hội” của

Việt Nam.

Ngược lại, do thiếu hiểu biết về di sản văn hóa, do xu hướng thương

mại hóa, xã hội hóa các hoạt động lễ hội, nên việc khôi phục, tái hiện lễ hội

truyền thống còn thiếu sót, dễ nảy sinh tiêu cực, cộng đồng.

15

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Hoạt động du lịch văn hóa tâm linh hiện đang là một hình thức phát

triển rất mạnh ở nhiều nơi trên khắp thế giới, trong đó có quốc gia Việt Nam.

Du khách trải nghiệm theo loại hình du lịch này thường tìm đến các đình,

chùa, các thắng tích tôn giáo, tín ngưỡng để thăm quan, cúng bái, cầu nguyện.

Tại đây, du khách hòa vào dòng tín ngưỡng để cảm nhận vẻ yên bình, thanh

thản, an nhiên. Du lịch văn hóa tâm linh luôn gắn với đức tin và hướng thiện

lành của con người.

Tóm lại, đây cũng là mục đích cao nhất của du lịch văn hóa tâm linh.

Ngoài ra, hoạt động du lịch đó phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng và bảo tồn

các giá trị văn hóa cả vật chất và tinh thần. Nghi lễ, lễ hội, văn hóa nghệ thuật,

ẩm thực… vì họ là đối tượng chính trong việc tạo ra sản phẩm du lịch văn hóa

Văn hóa tâm linh thu hút du khách đến với mọi nơi đến.

Tác giả khóa luận chương 1 là chương kiến thức nền tảng với vấn đề cơ

bản của tổ chức hoạt động du lịch văn hóa tâm linh và nội dung liên quan đến

văn hóa tâm linh tại đền Trần, nhằm mục đích giải thích, hỗ trợ nội dung rõ

hơn các chương tiếp theo là chương 2, chương 3, cùng phần nội dung khác

trong đề tài khóa luận nghiên cứu.

16

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH VĂN HÓA TÂM

LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN XÃ TIẾN ĐỨC, HUYỆN

HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

2.1. Khái quát về tỉnh Thái Bình

2.1.1. Vị trí địa lý tự nhiên

Thái bình là tỉnh thuộc ven biển và thuộc khu vực Đồng bằng Sông

Hồng, nằm trong vùng ảnh hưởng trực tiếp của tam giác tăng trưởng kinh tế:

Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh.

Vị trí địa lý: Nằm ở phía đông nam đồng bằng sông Hồng. Phía bắc

giáp các tỉnh Hưng Yên, Hải Dương và Hải Phòng, phía tây và tây nam giáp

các tỉnh Nam Định, Hà Nam; phía đông giáp Vịnh Bắc Bộ.

Diện tích tự nhiên: 1.546,54 km và địa hình: Thái Bình là tỉnh đồng

bằng có địa hình tương đối bằng phẳng, độ dốc dưới 1%, độ cao phổ biến từ 1

đến 2m so với mực nước biển, thấp dần từ tây bắc xuống đông nam.

Thái Bình được bao quanh bởi hệ thống sông và biển khép kín. Đường

bờ biển dài hơn 50 km, có 4 con sông lớn chảy qua tỉnh: sông Hóa dài 35,3

km ở phía bắc và đông bắc, sông Luộc (một phụ lưu của sông Hồng) ở phía

bắc và tây bắc, với tổng chiều dài 53 km, và hạ lưu sông Hồng ở phía tây và

nam., với tổng chiều dài 67 km. Sông Trà Lý (phụ lưu chính của sông Hồng)

chảy qua miền trung của tỉnh từ từ tây sang đông, với tổng chiều dài khoảng

1000 mét. 65 km. Đồng thời có 5 cửa biển lớn (Văn Úc, Diêm Điền, Ba Lạt,

Trà Lý, Lân).

2.1.2. Tài nguyên du lịch văn hóa

2.1.2.1. Tài nguyên du lịch văn hóa vật thể

Hiện nay tại Thái Bình có một số di tích nổi tiếng như:

Di tích cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng: Một trong những di tích lịch

sử tiêu biểu thời kỳ lịch sử này là đền Tiên La tại huyện Hưng Hà thờ Bát

Nạn Đại tướng quân Vũ Thị Thục.

Di tích về vua Lý Nam Đế và nhà nước Vạn Xuân: Đình Tử Các - miếu

Đồn tại huyện Thái Thụy, miếu Hai Thôn tại huyệnVũ Thư…

17

Di tích nhà Đinh: Các di tích phản ánh về thời kỳ này tiêu biểu là

đình Lạc Đạo tại thành phố Thái Bình, từ đường Bùi Quang Dũng tại

huyện Vũ Thư…

Di tích nhà Lý: chùa làng Riệc tại huyện Hưng Hà, chùa Keo tại huyện

Vũ Thư, chùa Phúc Thắng tại huyện Vũ Thư… là những địa danh tiêu biểu

còn lại từ thời Lý.

Di tích thời nhà Trần: Các di tích lịch sử phản ánh về thời đại nhà Trần

chiếm tỉ lệ lớn nhất ở Thái Bình, chủ yếu tập trung tại xã Tiến Đức, huyện Hưng

Hà. Tiêu biểu khu di tích là: khu lăng tẩm - đền thờ các vua Trần, lăng mộ,

đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ và Linh từ Trần Thị Dung…

Di tích lịch sử của các danh nhân: Theo như thống kê của tỉnh Thái

Bình có 111 vị đỗ Tiến sĩ và các di tích còn lại đến nay thờ tự 66 vị Tiến sĩ

đại khoa tại từ đường, đền và miếu tại Thái Bình.

Di tích khảo cổ Thái Bình

Thái Bình hiện nay còn khá nhiều di tích khảo cổ học chưa được

nghiên cứu và khai quật. Tập trung phân bố nhiều ở vùng ven sông Luộc,

sông Hồng, sông Hóa.

Tài nguyên du lịch văn hóa phi vật thể

Lễ hội dân gian

Lễ hội truyền thống ở quê hương Thái Bình được xem là tiêu biểu về số

lượng, đa dạng về loại hình, nghệ thuật.

Hội làng Thái Bình có nội dung khá phong phú, lễ hội đặc sắc có đủ

mọi loại hình (lễ hội nông nghiệp, lễ hội tôn giáo, lễ hội lịch sử, lễ hội làng

nghề…) và ở loại hình nào cũng có thể tìm được những lễ hội hấp dẫn và lễ

hội ở Thái Bình có bốn nội dung: tái hiện cuộc sống nông nghiệp, tôn vinh

các anh hùng dân tộc, tái hiện phong tục, tập quán, tín ngưỡng, hội thi tài.

Nghệ thuật biểu diễn truyền thống Thái Bình

Nghệ thuật chèo: Thái Bình nổi tiếng với ba vùng chèo là chèo Hà Xá

tại huyện Hưng Hà, chèo Khuốc tại huyện Đông Hưng và chèo Sáo Đền t ại

huyện Vũ Thư. Đây là những dòng chèo đặc trưng của địa phương.

18

Múa rối nước: Thái Bình Có 7 phường hội cổ truyền ở các làng

Nguyễn, Tăng, Tuộc, Đống, Kỳ Hội, Bắc Lạng, Tây Trong, Tây Ngoài của

huyện Đông Hưng; mà nay nổi tiếng hơn cả là làng Nguyên Xá.

Văn học dân gian

Văn học dân gian lưu truyền ở Thái Bình là một sản phẩm tinh thần của

nhân dân trong quá trình lao động và sản xuất, sinh hoạt cộng đồng và đấu

tranh với thiên nhiên cả thù trong giặc ngoài chống xâm lược. Nó là trí tuệ

được kết tinh vừa mang tính địa phương vừa mang tính phổ quát của một

vùng đồng bằng đông dân cư châu thổ sông Hồng, rất đa dạng và phong phú

bao gồm cả ca dao, tục ngữ, truyền thuyết.

2.1.3. Các lễ hội tại tỉnh Thái Bình

Trong đời sống cộng đồng lễ hội được coi là một trong những hiện

tượng văn hóa tín ngưỡng và các lễ hội được mở ra để tỏ lòng tưởng nhớ, biết

ơn và thể hiện lòng mong ước của mình đến các vị thần.

Một số lễ hội nổi tiếng tại tỉnh Thái Bình.

STT Tên lễ hội Địa điểm

Lễ hội chùa Keo 1

xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình

Lễ hội Đền Trần Thời gian ( Âm lịch) Hội xuân: 4/1 Hội thu: 13,14,15/9 13- 18/1 2

3 10/2

4 Lễ hội Đình, đền, bến tượng A Sào. Lễ hội Đền Tiên La. 17/3

5 Lễ hội đền Đồng Bằng. 20/8

6 Lễ hội làng Lộng Khê 23-25/3

7 Lễ hội làng Quang Lang. 14/4

8 Lễ hội Sáo Đền 20-27/3

xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình Thôn A Sào, Quỳnh Phụ, Thái Bình Đoan Hùng, Hưng Hà, Thái Bình An Lễ, Quỳnh Phụ, Thái Bình An Khê, Quỳnh Phụ, Thái Bình xã Thụy Vân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình xã Song An, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình

19

Các loại hình nghệ thuật đặc sắc: Hát chèo, múa rối nước, hát tuồng,

tục kể vè và những trò chơi dân gian.

Văn hóa ẩm thực: Thái Bình có nhiều đặc sản nổi tiếng: Gỏi cá, bánh

cáy Làng Nguyễn, bánh gai Đại Đồng, cá nướng Thái Xuyên, chè mét, hương

đậu làng kênh, canh cá và bánh canh Quỳnh Côi đó là những đặc sản nổi tiếng

tại Thái Bình mà ai từng đặt chân tới đây nhất định phải thử.

2.2. Văn hóa lịch sử nhà Trần và những ảnh hƣởng tới vùng đất

Thái Bình.

2.2.1. Văn hóa lịch sử nhà Trần với lịch sử Việt Nam

Theo Dân Tộc Đại Việt tóm gọn lịch sử nhà Trần: khi nhà Lý bắt đầu

suy yếu, người đứng đầu của dòng họ Trần ở đây là Trần Cảnh (Trần Thái

Tông) nhưng người đặt nền móng cho sự ra đời chính thức của nhà Trần là

Trần Thủ Độ. Nhà Lý suy vi, quyền lực rơi hết vào tay Trần Thủ Độ. Sau khi

ép Lý Chiêu Hoàng lúc 7 tuổi nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh lúc 8 tuổi,

năm1218 - 1277 thì thời đại của nhà Trần chính thức bắt đầu năm 1225.

Trong khoảng 175 năm cai trị đất nước vì nhà Trần đã lãnh đạo nhân

dân Đại Việt ba lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông thành công vào

các năm 1258, 1285 và 1288, nhưng trong những năm sau này, kể từ đời vua

Dụ Tông thì triều đại nhà Trần đã suy yếu đi vì nhiều lý do, chủ yếu là do sự

nhu nhược và yếu kém của hệ thống quan lại nhà Trần. Cuối cùng vào năm

1400 Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà Trần, chấm dứt 175 năm trị vì của dòng

họ này và nhà Hồ lên ngôi.

2.2.2. Nhà Trần tại mảnh đất Long Hưng tỉnh Thái Bình

Quê hương, nơi phát tích- khởi nghiệp của nhà Trần đã được sử sách

ghi chép nhưng có phần không rõ ràng, do đó vậy có nhiều ý kiến dị biệt khác

nhau về sự tranh luận. Bắt đầu từ những năm 80 của thế kỷ trước, ít nhất các

vấn đề này đã được nhà sử học, chuyên gia lĩnh vực nghiên cứu đề cập đến

nhiều trong 4 cuộc hội nghị khoa học. Hội nghị về “Nhà Trần” tổ chức tại Hà

20

Nam Ninh vào năm đầu của thập kỷ 80, hội nghị “Thái Bình với sự nghiệp

nhà Trần” tổ chức ở Thái Bình năm 1986, hội nghị về” Thời Trần với Hưng

Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn trên quê hương Nam Hà” năm 1995 và hội

nghị “ Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Trần Quốc Tuấn và quê hương

Nam Định” năm 2000, đều được tổ chức tại Nam Định.

Theo nhà sử học Lê Văn Lan trong bài Bàn về đất phát tích nhà Trần: “

theo một cách hiểu thông thường: đất phát tích của dòng họ là nơi mà tổ tiên

trực tiếp của dòng họ ấy sinh sống. Thực tiễn đời sống cổ truyền của dân tộc

cùng văn minh đất nước, từ lâu đã hình thành một tiêu chí dựa trên quy luật

của mối liên quan giữa nơi sống và nơi chết của người xưa: “Sống ngâm da,

chết ngâm xương,” để các đời sau con cháu có thể nhận ra nơi sống của đời

trước ở chính chỗ chỉ còn lại dấu vết ký gửi thân xác của họ. Đó là những bãi

tha ma, nghĩa địa trở thành chỗ để xác định nơi đã sống của một cộng đồng

dân cư, còn mộ tổ thì chính là một điểm chuẩn để có thể tìm kiếm đất phát

tích của một dòng họ, một gia đình, là vì như vậy.” ( Nhà Trần và con người

thời Trần, Viện sử học, hội khoa học lịch sử Việt Nam, Sở VHTT&DL tỉnh

Thái Bình tái bản, 2010) [14 tr.27]

Nhắc đến tài liệu chính sử cổ nhất nói về cội nguồn nhà Trần là Đại

Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. Trong quyển V,

mở đầu Kỷ nhà Trần, viết”...Có người tên Kinh đến hương Tức Mặc, phủ

Thiên Trường sinh ra Hấp, Hấp sinh Lý, Lý sinh ra Thừa đời đời làm nghề

đánh cá. Vua là con thứ của Thừa, mẹ họ Lê, sinh ngày 16/6 năm Mậu Dần,

Kiến Gia thứ 8 triều Lý” ( Đại Việt sử ký toàn thư, NXB KHXH,

H.1998,T2,tr.7). Theo đoạn trích này, Trần Kinh là ông tổ đời thứ 5 tính từ

Trần Cảnh( Trần Kinh – Trần Hấp- Trần Lý – Trần Thừa – Trần Cảnh) đã đến

ở hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường tức là vùng Mỹ Lộc, Nam Định ngày

nay và bốn đời làm nghề đánh cá.

Năm 1209, một sự kiện lịch sử vào những năm cuối vương triều Lý,

21

trong buổi loạn lạc Quách Bốc, đã được các văn bản sử học ghi chép như một

tài liệu đương đại của Đại Việt sử ký toàn thư: “ Hoàng thái tử Sảm( tức Lý

Huệ Tông sau này) đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp nghe tiếng con gái của Trần

Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ có nghề đánh bắt cá nên

giàu, người quanh vùng theo về, cùng nổi lên làm giặc. Thái tử đã lấy con gái

của Lý, trao cho Lý tước minh tự, phong cho cậu người con gái ấy là Tô

Trung Từ làm điện tiền chỉ huy sứ”. [ Đại Việt sử ký toàn thư,T1, 9 t.334]

Như vậy, muộn nhất là từ đời Trần Lý đã sinh sống ở thôn Lưu Gia,

Hải Ấp và vẫn tiếp tục nghề đánh cá. Mặt khác, sách Đại Nam nhất thống chí

có chép: “ Mộ tổ nhà Trần ở xã Tiến Đức,Thái Đường, Hưng Nhân”, tức thôn

Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày nay, cùng

với một truyền thuyết nói rằng Trần Hấp đã được một thầy địa lý tìm cho gò

hỏa tinh để táng mộ cha mình là Trần Kinh. Theo thầy địa lý ở nơi đó , ngôi

mộ được táng ở một thế đất mà sau này trong họ sẽ có người do nhan sắc mà

lấy được thiên hạ. Quả nhiên sau này, Trần Thị Dung đã được làm hoàng hậu,

nhờ đó thế lực nhà Trần bắt đầu lớn mạnh cho tới khi Trần Cảnh được Lý

Chiêu Hoàng nhường ngôi, chính thức là vị vua đầu tiên của nhà Trần.

Cũng ở Đại Việt sử ký toàn thư quyển VI phần viết năm 1299: “

Thượng hoàng ( Trần Nhân Tông) từng ngự cung Trùng Quang, vua ( Trần

Anh Tông) đến chầu, có Quốc công, Quốc Tuấn đi theo. Thượng hoàng nói: “

Nhà ta vốn người hạ lưu, đời đời ưa chuộng hùng dũng, thường xăm hình

rồng vào đùi, nếu nhà theo nghề võ, nên xăm rồng vào đùi để tỏ ra không

quên gốc.” Đây là một đoạn sử, chép lời vị nhân vương lớn, lại có sự chứng

kiến của Quốc công Quốc Tuấn và đương kim hoàng đế nên hàm chứa nhiều

thông tin hiển minh.

Vì thế có thể khẳng định rằng nhà Trần gốc vùng biển, nói đúng hơn là

gốc dân chài vùng ven biển. Vì nghề gốc là chài lưới, chỗ ở không ổn định,

nay đây mai đó, đâu cũng là nhà nên chưa kể đến việc phát tán các chi họ- chỉ

22

tính dòng trực hệ cũng có sự lưu động, phiêu bạt của tổ tiên nhà Trần. Hoàn

toàn có thể tin tưởng là tổ thứ nhất họ Trần( Trần Kinh) đầu tiên cư ngụ ở Tức

Mặc( Hà Nam Ninh) như Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều gia phả, thần phả

chép. Tuy nhiên, cũng hoàn toàn đúng là đến đời tổ thứ hai( Trần Hấp) thì do

lối sống của nghề chài, thêm với sức hút của thuật phong thủy, họ Trần đã dời

sang Thái Đường và phụ cận (Thái Bình) để rồi ở đó và từ đó các đời tổ thứ

ba, thứ tư( Trần Lý, Trần Thừa) cùng anh em con cháu họ hàng là Trần Thị

dung, Trần Tự Khánh, Tô Trung Từ,... và các thế lực trực thuộc, bước vào

chính trường, thành công. Và cũng có ít nhất một trong các vị vua khai sáng

nhà Trần( Trần Cảnh - Trần Thái Tông) sinh ra ở đây. Vì vậy, có thể nói rằng

Long Hưng là đất phát tích của nhà Trần.

Giáo sư Lê Văn Lan cũng đưa ra một công thức có dạng về toán học để

lý giải cho hiện tượng văn hóa này:

Đất lăng mộ = Đất phát tích

Theo GS: Các vua nhà Lý chết ở Thăng Long đều đưa về chôn ở châu

Cổ Pháp ( phủ Thiên Đức), cùng Bắc Ninh ngày nay. Các vua nhà Lê cũng

chết ở Thăng Long và đều được đem về an táng ở Lam Sơn ( Lam Kinh)

thuộc huyện Thọ Xuân, Tỉnh Thanh Hóa bây giờ. Cổ Pháp là đất phát tích nhà

Lý, Lam Sơn là đất phát tích nhà Lê, đó là điều không cần tranh cãi. Văn hóa

học- lịch sử học đúc kết: các triều Lý, Lê đưa các nhà vua của mình về đất

phát tích an táng là để biểu thị ý thức nhớ nguồn và hành động về nguồn, ý

thức và hành động truyền thống của Việt Nam. Nhà Trần, tồn tại giữa nhà Lý

và nhà Lê, không và không có biểu hiện gì ngoại lệ. Vì vậy ý nghĩa hoàn toàn

có thể rút ra được ở đây là: Chọn phủ Long Hưng làm nơi xây cất lăng mộ của

các vị vua đầu của mình, triều Trần đã tự bộ lộ và khẳng định rằng đất phát

tích của mình là ở đây. ( Giáo sư Lê Văn Lan, Bàn về đất phát tích nhà Trần,

Nhà Trần và con người thời Trần, 2010,tr32)

Năm 1277, vị vua đầu tiên của nhà Trần: Trần Thái tông, mất ở cung

23

Vạn Thọ, thành Thăng Long. Thái Tông được đưa đi chôn ở Chiêu Lăng.

Năm 1288, tháng 4 sách Đại Việt sử ký toàn thư nói đến Chiêu LĂng như

sau: “ Hai vua ( Thánh Tông và Nhân Tông từ Bạch Đằng) trở về phủ Long

Hưng. Ngày 17, đem các tướng của giặc bị bắt la Tích Lệ Cơ Ngọc và Ô Mã

Chi làm lễ dâng thắng trận ở Chiêu Lăng.

Từ đó có thể thấy rằng, sau khi nắm giữ vương quyền, toạ lạc, các vị

vua Trần chọn Thăng Long làm kinh thành, chọn Tức Mặc là nơi xây dựng

hành cung, nhưng đã chọn Long Hưng là nơi xây miếu của các vị vua đầu tiên

triều Trần, cùng một số hoàng hậu và các công chúa. Bởi Long Hưng là nơi

đặt mộ tổ, là đất phát tích- sáng nghiệp- dựng nghiệp của nhà Trần.

2.3. Khái quát đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái

Bình.

2.3.1. Lịch sử hình thành

Mỗi triều đại phong kiến thường tôn lên hai thứ giá trị cao nhất, coi là

hai mục tiêu có ý nghĩa cốt tử ngang nhau đối với vận mệnh của vương triều

đó là: tôn miếu và xã tắc.

Xã tắc là đất đai, cượng vực cộng với sức dân trăm họ, đó là cái sở hữu

của vương triều. Xã tắc an hay nguy- nghĩa là đất đai vương quốc hình yên

hay xâm lấn, lòng dân thuận hay oán- thì vương triều vững hay nghiêng. Tôn

miếu là lăng tẩm cùng đền miếu thờ tổ tiên và các tiên đế, tiên hậu- theo quan

niệm của vương triều là khí thiêng, ân trạch, là lực lượng tinh thần thiêng

liêng để thống trị tinh thần cả trăm quan, trăm họ. Tôn miếu hưng hay phế,

mồ mả tổ tiên an toàn hay bị đào bới thì vương triều vinh hay nhục.

Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn có nhấn mạnh: “Không những xã

tắc, tôn miếu của ta bị người khác dày xéo, mà mồ mả cha mẹ các ngươi cũng

bị đào bới”.

Xét trên khía cạnh đó, thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà

hay Thái Đường mà thời Trần gọi là hương Tinh Cương, phủ Long Hưng là

24

nơi đặt mộ tổ, là đất phát tích và sau đó đã được các vua Trần chọn làm nơi

xây dựng tôn miếu sau khi lên ngôi, Thăng Long được chọn làm kinh đô và

Tức Mặc là nơi xây dựng hành cung để nghỉ ngơi.

Các vị vua nhà Trần chọn Long Hưng làm nơi dựng lăng miếu vì nơi

đây không những là nơi đặt mộ tổ- đất phát tích của dòng họ, mặt khác còn vì

Long Hưng có một vị trí địa lý thuận lợi cho giao thông , phát triển kinh tế

cũng như quân sự. Long Hưng là bãi biển mới được bồi đắp do phù sa các

sông lớn, nhất là sông Hồng tạo nên. Do đó đất đai màu mỡ, sản xuất nông

nghiệp phát triển. Là nơi sông nhiều, thuận lợi cho nghề sông nước, cho giao

thông vận tải, sản xuất nông nghiệp.

Do nhiều lý do mà trước đây khu di tích này đã bị hủy hoại dấu tích.

Song cùng từng được tu tạo và duy trì trong cá triều đại sau đó. Sau khi cuộc

Hội thảo và khai quật khảo cổ học chứng minh Tam Đường là đất phát tích nhà

Trần, khu di tích này đã nhận được rất nhiều sự quan tâm từ các cấp nhằm tái

tạo lại nó. Năm 1990, Khu di tích đã được Bộ Văn hóa- thông tin, thể thao và

Du lịch công nhận là Khu Di tích Khảo cổ học và Di tích Lịch sử Quốc gia.

Ngay sau khi xếp hạng, được sự giúp đỡ của Bộ VHTT & DL và

UBND tỉnh , Sở VHTT & DL đã chỉ đạo Bảo tàng tỉnh bước đầu khôi phục

nơi thờ các vị vua Triều Trần trên di chỉ khảo cổ này, nhằm mục đích tôn vinh

một triều đại oanh liệt trong lịch sử dân tộc, nhằm khẳng định vai trò, vị trí

của đất Tam Đường và cả vừng đất Thái Bình là nơi đặt mộ tổ, đất phát tích,

quê hương thứ hai của vua Trần, vùng hậu phương lớn của nhà Trần trong ba

lần kháng chiến chống giặc Mông – Nguyên.

Năm 1992, Bảo tàng Thái Bình đã xây dựng một công trình kiến trúc

gỗ lim kết cấu chữ nhất, không có hậu cung, 7 gian, mái chảy, hồi văn 5 đấu,

vì kèo chống đấu hoa sen, nguyên là một ngôi đình cũ, được tôn dựng làm nơi

thờ các vị vua Trần. Vị trí ngôi đền ấy nằm ở phía Bắc đường liên xã, quay về

hướng Nam, cách đường 50m.

25

Thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII về giữ gìn và phát huy

các giá trị di sản văn hoá dân tộc, đồng thời nhằm giáo dục truyền thống cho

các thế hệ mai sau và đáp ứng lòng mong mỏi của đông đảo quần chúng nhân

dân trong và ngoài tỉnh, từ năm 1999 dự án đầu tư quy hoạch tu bổ, tôn tạo di

tích đền thờ và lăng mộ các vua Trần đã được Đảng và Nhà nước quan tâm,

UBND tỉnh phê duyệt với tổng mức đầu tư trên 25 tỷ đồng. Lễ yên vị thánh

tượng các vua đầu triều Trần và Thái sư Trần Thủ Độ, Linh từ Quốc mẫu

Trần Thị Dung đã được long trọng tổ chức tại đền Trần Hưng Hà.

Để có cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị lịch sử di tích Lăng mộ và đền

thờ các vị vua triều Trần, UBND tỉnh Thái Bình đã chỉ đạo Sở VHTT&DL phối

hợp với UBND huyện Hưng Hà lập hồ sơ Di tích quốc gia đặc biệt, đề nghị Bộ

VHTT&DL xem xét, trình Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Ngày 31/12/2014, Thủ tướng đã ký Quyết định số 2408/QĐ-TTg xếp

hạng Di tích quốc gia đặc biệt Khu di tích Lăng mộ và đền thờ các vị vua

triều Trần tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

2.3.2. Hệ thống đền thờ

Các công trình kiến trúc được bố trí theo hệ trục chính, chia thành các

không gian như: không gian nội tự đền, không gian hành lễ, không gian vườn

cây xanh, là một công trình kiến trúc kế thừa và phát huy truyền thống kiến

trúc dân tộc và kiến trúc đình làng. Đặc biệt riêng Toà hậu cung Đền Trần là

một phần trong tổng thể kiến trúc có kết cấu hình chữ đinh, gồm hai toà tám

gian, trên diện tích 359m2 đã được xây dựng bởi sự tài hoa, điêu luyện của

những người thợ điêu khắc, sự góp mặt của đá trong hợp thể kiến trúc tôn

vinh vẻ uy nghi tráng lệ của hậu cung với hệ thống rồng đá được chạm trổ

tinh vi, sống động.

Bố trí thờ tự nội thất của đền Trần như sau:

Tòa hậu cung:

Chính cung thờ sắp xếp theo thứ tự :

26

1. Linh vị cụ Trần Kinh ( Truy tôn mục tổ Hoàng Đế)

2. Linh vị cụ Trần Hấp ( Truy tôn linh tổ Hoàng đế)

3. Linh vị Nguyên Tổ Trần Lý ( Truy tôn nguyên tổ Hoàng đế)

4. Thánh Tượng Thái Tổ Trần Thừa ( Truy tôn thái tổ Hoàng đế).

Năm Bính Tuất ( 1226) ông chính thức vào ngôi Thượng Hoàng; năm

Giáp Ngọ ( 1234) ngày 18 tháng Giêng, băng hà ở cung Phụ Thiên, mộ táng ở

Thọ Lăng- Thái Đường.

Bên phải thờ Thánh Tượng Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ.

Bên trái thờ Thánh Tượng Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung.

Tòa Đệ Nhị:

Ban thờ Thánh Tượng vua Trần Thái Tông là ở chính giữa. ( Miếu hiệu của

Trần Cảnh 1218 – 1277). Bên trái thờ Thánh Tượng vua Trần Thánh Tông. ( Miếu

hiệu của Trần Hoảng 1240 – 1290). Bên phải thờ Thánh Tượng vua Trần Nhân

Tông. ( Miếu hiệu của Trần Khâm 1258 – 1308).

Tòa Bái Đường:

Thờ Ngai và Bài vị của hội đồng các quan, Tả thờ Văn Quan, Hữu thờ

Võ Tướng Triều Trần.

Bên cạnh những công trình trên, sáng ngày 10/12/2009 tại quần thể di

tích cấp quốc gia đặc biệt khu lăng tẩm các vua Trần xã Tiến Đức huyện

Hưng Hà đã diễn ra lễ khai trương thư viện Đền Trần.

Thư viện đền Trần là thư viện công cộng cấp xã, được hình thành có sự

hỗ trợ của thư viện KHTH tỉnh, huyện và Ban liên lạc họ Trần,...Thư viện

Đền Trần góp phần tôn vinh lịch sử dựng nước và giữ nước vẻ vang, hào

hùng của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là thời đại nhà Trần. Đáp ứng nhu cầu

nghiên cứu, mở rộng hiểu biết cho nhân dân. Thư viện được đặt tại dải vũ bên

phải, gồm ba giá sách, 1500 đầu sách về lịch sử nhà Trần, sách chính trị xã

hội, văn hộc nghệ thuật,...

Bên cạnh đó, ngày 31/12/2009, UBND huyện Hưng Hà tổ chức lễ khởi

27

công xây dựng tòa Ngũ Tiền Môn - Cổng chính khu di tích đền thờ - lăng mộ

các vua Trần, cho đến nay đã hoàn thành. Tiếp đó, UBND huyện Hưng Hà đã

hoàn thành xây dựng tuyến đường trục thần đạo, bãi đỗ xe và đường ra các

mộ vua đầu nhà Trần, Tòa Phương Đình trên trục thần đạo trong khuôn viên

di tích.

Hiện tại, vẫn còn một số hạng mục công trình khác đang chờ nguồn

vốn đầu tư để tiếp tục xây dựng trong thời gian tới để phát triển khu di tích.

Cùng với quần thể di tích đền Trần ở thôn Tam Đường, còn có Lăng

thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung tại xã Liên Hiệp

và nhiều di tích thờ Hoàng thân quốc thích, Hoàng hậu, công chúa nhà

Trần tại xã Tiến Đức, chùa Hội Đồng và các xã khác trong huyện của tỉnh

Thái Bình.

2.4. Thực trạng hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền Trần, xã

Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình

2.4.1. Giá trị tín ngưỡng và tinh thần

Vào thời kỳ lịch sử các vua Trần lập nghiệp từ đất Long Hưng và chọn

Long Hưng là hậu phương lớn, cung cấp sức người sức của trong ba cuộc

kháng chiến chống quân Mông - Nguyên. Các vua Trần rất quan tâm, chăm lo

cho nhân dân nhân Long Hưng. Ngược lại, nhân dân Long Hưng cũng làm hết

nghĩa vụ của những thần dân với nhà Trần trong sự nghiệp xây dựng đất nước

và bảo vệ Tổ quốc. Vua Trần đã tin cậy người Long Hưng và Thiên Trường

vào các đội quân cấm vệ, bảo vệ vua và cơ mật viện của triều đình. Để thể

hiện sự biết ơn, của nhà Trần với nhân dân Long Hưng, những lần chiến

thắng quân xâm lược Mông - Nguyên, vua Trần thường về tế tôn miếu ở

Long Hưng.

Bên cạnh đó, nhằm khẳng định giá trị di sản văn hóa nhà Trần ở Thái

Bình và thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, thiết thực lập thành tích chào

mừng những ngày lễ lớn của đất nước, của tỉnh trong năm 2010 và đặc biệt là

28

để thu hút khách du lịch đến với Thái Bình, dần hình thành các tour, tuyến du

lịch góp phần phát triển du lịch tâm linh tỉnh nhà, UBND tỉnh Thái Bình đã tổ

chức thực hiện thành công tuần Văn hóa thể thao và Du lịch năm 2010 tại

khu di tích đền thờ các vua Trần- xã Tiến Đức- huyện Hưng Hà từ ngày

27/02/2010 đến ngày 01/03/2010 ( tức ngày 13/1 đến 18/1 âm lịch).

Sở Văn hóa – Thể thao và Du lịch phối hợp với UBND huyện Hưng Hà

chỉ đạo cho Nhà văn hóa Trung tâm tỉnh và Trung tâm văn hóa - Thông tin

thể thao huyện Hưng Hà phối hợp tổ chức khôi phục một số hoạt động văn

hóa dân gian, trò chơi dân gian mà cách đây gần 100 năm nhân dân địa

phương đã tổ chức hoạt động trong các lễ hội hàng năm tại khu di tích lịch sử

đền Trần.

Tài liệu sử sách và những thông tin người dân cung cấp thì tại Thái

Đường xưa, nay là làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái

Bình, hàng năm nhân dân đều tổ chức lễ hội tại khu đền thờ các vua Trần với

các hoạt động tế, lễ, rước; các trò chơi như: chọi gà, thả diều, múa kỳ lân sư

tử, các cuộc thi đấu thể thao như : vật, kéo co, cờ người, bóng chuyền,... các

hoạt động văn hóa ẩm thực như: cỗ cá, bánh chưng, bánh dày; các hoạt động

văn nghệ như: hát ca trù, trầu văn, hầu đồng, hát chèo,...

Năm 2010 là lần đầu tiên khôi phục lại lễ hội cổ truyền này. Trong đó,

tâm điểm là lễ khai ấn đầu xuân tại đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà.

Theo dân gian truyền tụng, sau khi chiến thắng quân Nguyên lần thứ nhất, vào

ngày 14 tháng Giêng, vua Trần đã mở tiệc chiêu đãi tại phủ Thiên Trường và

phong chức cho các quan, quân có công lớn giết giặc và bảo vệ đất nước. Cứ

vào ngày này, đúng giờ Tý ( 23 giờ), các vua Trần lại “ khai ấn” đánh dấu sự

trở lại việc quốc sự của vua quan sau kỳ nghỉ Tết. Theo thông lệ, lễ khai ấn

đền Trần tại làng Tam Đường được tổ chức bắt đầu từ 23h00 ngày 13/1 âm

lịch. Phần lễ tổ chức vào sáng ngày 14, sau phần lễ khai mạc và lễ dâng

hương với sự tham gia của các các đồng chí lãnh đạo của Đảng, Nhà Nước,

29

Tỉnh ủy Thái Bình, UBND huyện Hưng Hà, xã Tiến Đức cùng rất đông du

khách thập phương trong nước và ngoài nước và người dân trong xã là phần

biểu diễn màn sử thi “ Âm vang hào khí Đông A” do hàng nghìn diễn viên

chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp biểu diễn tạo nên các tiết mục đặc

sắc. Sau đó, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước trồng cây lưu niệm

trước đền tưởng nhớ công ơn.

Buổi chiều ngày 14 và 15 là các hoạt động như : thi kéo co, thi đấu cờ

người, thi chọi gà, biểu diễn rồng, lân, sư tử, giao lưu thơ nhân ngày Thơ Việt

Nam ( 15 tháng Giêng âm lịch) và liên hoan diễn xướng chầu văn do các

huyện, thành phố trong toàn tỉnh tham gia. Đặc biệt lần đầu tiên khôi phục cỗ

cá do dân làng Tam Đường dâng lên Vua vào chiều ngày 14, có 3 kiệu cỗ cá

với đầy đủ nghi lễ trang nghiêm và trân trọng do gần trăm người lễ phục

chỉnh tề, cờ , lọng, trống, chiêng, kiệu chấp kích, bát bửu, giáo mác hành lễ tại

sân Vua nhà Trần.

Tiếp theo chiều ngày 15 tháng Giêng đền Trần tổ chức diễn xướng chầu

văn của 8 huyện, thành phố với hơn 20 bài hát văn, hát ca trù đã thu hút đông

đảo nhân dân tới dự. Đây thực sự là buổi biểu diễn nghệ thuật mang lại hiệu

quả cao được nhân dân đánh giá cao và khen ngợi.

Điểm nổi bật nhất trong Lễ khai ấn đền Trần tại xã Tiến Đức huyện

Hưng Hà là Tục lễ cỗ cá Thái Đường. Năm 2012, dân làng Tam Đường, xã

Tiến Đức, huyện Hưng Hà đã dâng lên đền Trần 3 mâm cỗ cá để làm lễ cúng

các vị tiên đế, các vua Trần và các hoàng hậu, công chúa. Đây là tấm lòng của

nhân dân địa phương đối với các vị tiên đế nhà Trần và là bước đầu khôi phục

một tục lệ nét văn hóa ẩm thực của tiền nhân nhà Trần.

Theo lời kể của cụ Trần Văn Chuyện, làng Thái Đường, xã Tiến Đức:

Cỗ cá bắt nguồn từ tục giao hảo giữa hai làng Thái Đường ( nay là Tam

Đường) và Vân Đài. Hàng năm, cứ đến ngày 15/2 âm lịch ngày giỗ công chúa

chị là Diệu Từ Ân ở làng Thái Đường- Tiến Đức ( Hưng Hà) , ngày 15/9-

30

ngày giỗ công chúa em là Diệu Từ Dong ở làng Vân Đài – Chí Hòa ( Hưng

Hà). Tiền lệ tình hai chị em hai làng Thái Đường và Vân Đài giao hảo “ nhất

niên nhị lệ tháng 2 tháng 9” và “ nhất Vãng, nhất Lai”. Lệ hai làng quy định

trước khi về ăn giỗ, dân làng phải nghị những người không có tang tóc, bụi

bặm mới được về ăn giỗ.

Sáng ngày 15 giỗ chị Diệu Từ Ân công chúa, dân làng Thái Đường tổ

chức đội tế, lễ ( tế nam) đội phù giá khăn quàng áo đỏ, đai xanh thắt lưng, xà

cạp bao chân, đi giầy, đầu đội nón chóp rứa khiêng kiệu, cờ, quạt, chiêng ,

trống, bát biểu, gươm đao; 4 nữ tỳ 4 cành phướn, 4 quạt đi sau kiệu, 4 lọng

che kiệu, có người dịch loa để nhắc nhở mọi người và thông báo cho dân biết

tục lệ. Đoàn rước đến địa điểm đã bố trí sẵn để đón đoàn Vân Đài lên ăn giỗ.

Làng Thái Đường tổ chức 8 giáp, mỗi giáp làm 3 mâm cỗ đưa lên chùa thi cỗ.

Cõ 3 giải: giải nhất 5 hào, giải nhì 3 hào, giải ba 2 hào. Thi xong vào tế lễ, tế

lễ xong ra lấy cỗ về các giáp thụ lộc. Cách thức làm cỗ cá: có 2 loại cỗ gồm

cỗ đơn và cỗ kép.

Cỗ kép: có 1 con cá trắm đen từ 3 kg trở lên ( mỗi con bằng chiều

ngang 1 bàn tay khép vào), 4 con cá mè, mỗi con trên 1 kg. Cá xát muối, rửa

sạch rồi lại xát muối lại và treo lên 2 tiếng cho khô, sau đó ấn lá sung vào

bụng cá cho căng như khi sống, lấy lá chuối hơ mềm gói cá lại cho thật thẳng

rồi đặt vào phên rọ, không được để trật vẩy, gẫy vẩy, gẫy đuôi. Khi đun nước

nóng già lên rồi mới cho cá vào nồi; khi đặt cá vào nồi đốt một tuần hương

đen to, dài; khi hết hương mới vớt cá ra, nắn ruỗi cá thẳng, để nguội giữ hình

dáng cá như ban đầu. Cá trắm, chép, mè đều làm như vậy. Khi bầy cỗ thì cá

trắm, cá chép, cá mè đặt trên gắng ( bằng phên gỗ đóng đẹp), cắm hoa mẫu

đơn vào miệng và mang cá, rải lá đinh lăng chung quanh. Cá trắm ở giữa, 4 cá

mè 4 góc, bụng úp xuống dưới, lưng cá quay lên trên ( không đặt cá nằm

nghiêng), phủ vải đều lên trên.

Tầng dưới là 4 bát tàu đựng thịt lợn luộc thái phay bằng cái lược đặt ở

31

4 góc đỡ gắng đựng cá trắm ở trên. Tầng dưới còn có 2 đĩa giò lụa, mỗi đĩa 2

khoanh 4 lạng, 2 đĩa giò pha mỗi đĩa 2 khoanh 4 lạng, 1 đĩa chả chìa có thịt

rán, 1 đĩa nem 4 quả, 1 đĩa dưa hành, 1 bát mọc miến, 1 bát ninh 2 chân giò, 1

đĩa xôi.

Cỗ đơn : gồm cá chép từ 3 kg trở lên, 4 con cá mè từ 1 kg trở lên. Cách

làm và bầy cõ cũng như cỗ kép, chỉ khác là không có cá trắm đen.

Tục lệ giao hảo hai làng hiện vẫn đang duy trì đều đặn hàng năm cho

đến nay và vẫn lưu giữ một số nghi thức chính

Từ đó có thể thấy rằng, quần thể di tích này là nơi để các tầng lớp nhân

dân bày tỏ và thể hiện một phần thiêng liêng và sâu kín nhất trong tâm tư, tình

cảm và nguyện vọng của mình cầu mình cầu mong một cuộc sống tốt đẹp

hơn. Sự tồn tại của di tích đền Trần nhằm thỏa mãn các nhu cầu tinh thần của

một số bộ phận các tầng lớp nhân dân, củng cố niềm tin tưởng hy vọng ở

tương lai tốt đẹp, đồng thời góp phần khơi dậy và củng cố tính thiện lành

trong mỗi con người. Tất cả những điều này thể hiện trong nghi lễ với một

thái độ thành kính, trân trọng dành cho những đối tượng được thờ cúng tại

đền Trần.

2.4.2. Giá trị văn hóa lịch sử và huyền thoại.

Sau các nghiên cứu lịch văn hóa, tìm hiểu tài liệu và các cuộc khảo cổ

học, các nhà khoa học và sử học đã kết luận rằng: khu vực thôn Tam Đường,

xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày nay thuộc khu vực phủ lộ Long Hưng thời

Trần, nơi đây chính là đất phát tích, sang nghiệp của triều Trần.

Trong sách Đại Nam nhất thống chí chép cụ thể rằng : “Mộ tổ nhà Trần

ở xã Thái Đường, huyện Hưng Nhân, trước kia có bia nhưng từ sau khi Tây

Sơn nổi lên thì bia này đã mất chỉ còn lại con rùa. ở đây có miếu thờ vua Trần

: Thái Tổ, Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông”.(tr.315)

Tếp theo là sách Đồng Khánh ngựu lãm địa dư chí lược ghi cụ thể hơn :

“Miếu thờ các vua Trần ở xã Thái Đường, hướng Nam, trước miếu có 3 gò ấn

32

kiếm, sau miếu có 7 gò thất tinh”. ( Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược_

Ngô Đức Thọ dịch, Thư viện Tổng Hợp Thái Bình, ký hiệu ĐV179)

Trong số 4 vị hoàng hậu nhà Trần thì 2 vị được ghi rõ ở Thái Đường,

phủ Long Hưng, là Khâm Từ Bo Khánh Hoàng Thái Hậu ( vợ vua Nhân

Tông) và Tuyên Từ Hoàng Thái Hậu ( em gái Khâm Từ).

Theo các nhà khảo cổ học, Thái Đường xưa, Tam Đường nay là khu

mộ địa thời Trần (Trịnh Cao Tưởng – Phan Tiến Đa – Bùi Duy Lan – Nguyễn

mạnh Cường : Báo cáo điều tra khai quật Tam Đường 2 năm 1979- 1980; Đỗ

Văn Ninh : Ngôi mộ lạ ở Tam Đường – Tạp chí Khảo cổ học số 1- 1969;

Trịnh Cao Tưởng – Đặng Kim Ngọc – Nguyễn Ngọc Phát : Khai quật mộ

phần Cựu – Thông báo khảo cổ học 1980)

Tam Đường chia thành hai khu vực Nam và Bắc, lấy đường xuyên xã

làm trục, sẽ thấy xuất hiện các nấm phần sau:

Phía Nam gồm có các phần (tức mộ ) : Trung, Thính, Bụt, Đa, Cựu,

Mả, Tít. Mả Tít nằm gần sông Thái Sư ( xóm Bến), có tên gọi là Vườn Màn.

Ngôi mộ này đã bị phá hủy nghiêm trọng. riêng mộ Phần Cự đã được khai

quật chữa cháy năm 1979.

Phía Bắc gồm nhiều phần mộ nằm rải rác trong các khu dân cư, các

phần lớn hầu như đã bị phá hủy : Phần Lợn, Phần Quang, Phần Mao, Mộ

Phần Mao được khai quật năm 1968.

Đầu năm 1975, nhân dân Long Hưng đã phá hủy phần mộ có tên : “Mả

bà già”. Toàn bộ những nấm phần còn tồn tại hoặc đã bị phá hủy là những

ngôi mộ từ thời Trần và có quy mô lớn lại nằm trong khu di tích “ Tiền Tham

thai, hậu thất Tinh” của đất Thái Đường xưa nay thuộc Hưng Hà.

Khi nghiên cứu về cấu trúc mộ ở Tam Đường, đặc biệt là mộ Nấm Sỏi

hay còn gọi là Phần Bụt nằm ở khu Tam Thai như nhân dân truyền tụng, các

nhà nghiên cứu đã phát hiện ra chính ngay trên mộ ấy xuất hiện những viên

gạch kiến trúc tháp, kích thước, phong cách tráng lệ và rất giống với gạch

33

tháo Phổ Minh ( Nam Định).

Đồng thời, Tam Đường còn bảo lưu rất nhiều phế tích kiến trúc

thời Trần.

Tháng 12- 1972, nhân dân đã lấy đất đường và nhà mẫu giáo tìm thấy

hang trăm viên gạch chỉ, ở mặt cạnh in nổi hang chữ “Vĩnh Ninh Trường”,

cạnh đó còn tìm thấy nhiều phiến gỗ lớn, nhiều ngói lợp, chứng tỏ dấu tích

kiến trúc bị sập đổ.

Mùa xuân năm 1973, cách khu vực nói trên 200m về phía Đông là bãi

tha ma và được san lấp làm sân vận động của xã đã bật lên nhiều gạch ngói,

gốm sứ tại thời Trần nhân dân ta đã phát hiện một hang gạch bó vải có chữ “

Vĩnh Ninh Trường” phái Tây của dải đất này, đối diện với Phần Cựu, có địa

danh là Phần Bia, nhân dân đã thu lượm được một số lượng lớn đầu rồng bằng

đất nung, gạch hoa, ngói bồ, có đắp nổi hình rồng phượng, ngói mũi hài có

gắn lá đề lợp hiên, trong đó có mô hình nhà bằng đất nung cùng nhiều viên

gạch hoa cỡ lớn, sạch để trơn hình chữ nhật.

Trong hai năm liền 1979-1980, nhà Viện Khảo cổ học đã phối hợp với

Sở Văn Hóa Thông tin tỉnh Thái Bình ( nay là Sở VHTT & DL), đã khai quật

khu vực Cồn Nhãn và khu Phần Bia. Với trên sáu trăm mét vuông, các nhà

khảo cổ đã thu được 296 hiện vật lớn và hàng ngàn hiện vật gốm, đất nung

gồm các nhóm: vật liệu kiến trúc (ngói chiếu, ngói bò nóc, ngói mũi hài,…),

vật liệu trang trí kiến trúc ( ngói hiên gắn lá đề, ngói có trang trí hình rồng

phượng,…), nhóm tượng tròn trang trí kiến trúc ( đầu rồng tả thực, đầu rồng

đuôi tôm, đầu chim phượng), nhóm đồ gốm sứ (đĩa men ngọc và nậm rượu

men nâu, có niên đại từ Trần đến Lê).

Cho đến trước năm 1945, Tam Đường còn giữ được nét cổ kính, uy

linh, tráng lệ của một làng quê ven dòng Nhị Hà. Khu dân cư và khu trước

cửa UBND xã cao hơn rất nhiều so với khu canh tác. Khu Bia, Khu Cồn

Nhãn, Khu Dậm được san bạt những năm gần đây. Trong làng có hang vạn

34

cây đại thụ. Chính khu vực phía Nam đường trục bây giờ, trước đây là khu

nghĩa địa kéo dài đến tận các nấm phần. cây cối xum xuê đượm màu thần bí

linh thiêng. Phần Sỏi cao ngất, cây cối um tùm, chỉ có một con đường nhỏ lên

tới đỉnh Phần Trung, Phần Đa, Phần Cựu.

Phía Bắc Tam Đường còn có một địa danh là Hành Cung. Ở đây đã đào

được những ống thoát nước bằng đất nung thời Trần và phế tích kiến trúc dày

đặc lòng đất. Khu vực xóm Bến bên cạnh dòng Thái Sư, còn có tên là Bến

Ngự, Vườn Màn. Tục truyền từ thời nhà Trần các tiên đế và triều thần tứ kinh

đô theo dòng Nhị Hà vào sông Thái Sư để bái yết lăng miếu tiên tổ, đều ghé

thuyền ở bến này, nên được gọi là Bến Ngự.

Dựa vào kết quả nghiên cứu khảo cổ học qua nhiều lần khai quật, kết

quả nghiên cứu qua các tài liệu thư tịch, tài liệu điền dã sưu tầm dân tộc học,

đã xác định được ý nghĩa to lớn của khu vực khảo cổ học này trong lịch sử

quốc gia Đại Việt thế kỷ XII – XIV trên đất Thái Bình. Sở VHTT & DL Thái

Bình, Bảo Tàng Thái Bình đã lập hồ sơ đề nghị Bộ VHTT & DL xếp hạng di

tích Khảo cổ học Tam Đường là di tích cấp quốc gia năm 1990- quyết định

xếp hạng số 1214/QĐBT – 1990, 30/10/1990)

Những thông tin có được từ hệ thống di tích và kho tàng di vật chứa

đựng đó đã giúp cho các thế hệ sau hiểu được “một phần lịch sử được viết

bằng nét và hình khối, đó là những trang sử sống động được viết bằng hiện

vật” về nhà Trần là nơi tôn vinh và lưu giữ những giá trị đặc sắc về vật chất

và tinh thần của cha ông ta đã hình thành nên trong suốt tiến trình lịch sử

dựng nước và giữ nước của dân tộc đại Việt. (Di tích lịch sử - văn hóa và

danh thắng Việt Nam, Nxb ĐHQG) [7 tr.67]

Bên cạnh đó, du khách khi tới thăm đền Trần sẽ được các thành viên

trong Ban quản lý di tích cũng như những người dân tại đây kể lại một câu

chuyện mang tính huyền thoại, truyền thuyết về việc chọn đất đặt mộ tổ của

họ Trần. Câu chuyện này cũng được in trên tập giới thiệu của khu di tích.

35

Theo sử sách lưu truyền thì “chuyện kể rằng”:

Ông tổ họ Trần (Trần Kinh) đến ở Hương Tức Mặc ( Nam Định ngày

nay), rất thạo sông nước, sống bằng nghề chài lưới lênh đênh trên sông Nhị

Hà, chỗ nào cũng là nhà, lấy người con gái ở Hương ấy sinh ra Trần Hấp. Vào

thời Lý Thần Tông (1128- 1138) có một thầy địa lý đi xem tướng đất, thấy ở

Hương Tinh Cương, xã Thái Đường, huyện Ngự Thiên, phủ Long Hưng có

một Gò Hỏa Tinh, thầy cười mà nói rằng : Ở nơi bằng phẳng lại nổi lên một

gò lớn, hẳn không phải là hoang địa.

Thầy vào làng bên nghỉ trọ trong một gia đình, biết thầy là người giỏi

xem đất, gia đình này ngỏ ý muốn nhờ thầy tìm giúp nới đặt mộ. cảm ơn việc

đối xử tốt của gia đình, thầy địa lý đồng ý giúp, song đề phòng bất trắc thầy

dặn sau này khi trời mưa to sấm chớp tahasy trên mặt mộ có màu đỏ thì phải

chuyển mộ ngay, nếu không gia đình sẽ bị triệt diệt. xong việc đặt mộ, sợ

người khác biết được, gia đình ấy đem lòng bội bạc đã trói thầy địa lý quẳng

xuống sông. May thay gặp lúc thủy triều xuống và lúc đó Trần Hấp đang đánh

cá gần đó, thấy người kêu cứu liền tới đem thuyền và hỏi duyên cơ. Cảm ơn

đã cứu thoát nạn, xin tìm nơi cát địa để báo ơn”. Thầy địa lý bèn hướng dẫn

Trần Hấp nấu một nồi nước nâu, nhân khi trời mưa to gió lớn đem đổ lên mặt

mộ gia đình kia. Gia đình kia thấy trên mặt mộ của nhà mình như thầy địa lý

dặn bèn vội vàng chuyển mộ đi nơi khác.

Theo sự chỉ dẫn của thầy, giờ lành ngày Tân Dậu tháng Đinh Tỵ năm

Quý Sửu, Trần Hấp di mộ cha từ Tức Mặc về đặt tại gò Hỏa Tinh, tiền của

tốn phí hơn nghìn hốt. Mộ đặt tại hướng Càn ( Bắc), nhìn ra ngã ba sông lớn,

tục gọi là Cửa Vàng. Phía sau gối lên cổ bi phục tượng, tả hữa la liệt cờ trống.

Thế đất đặt mộ cha của Trần Hấp theo thầy địa lý là “Phấn đại đương giao

chiếu, liên hoa đối diện sinh, tha nhật dĩ sắc đắc thiên hạ” – phấn son cùng

chiếu rọi, trước mặt nở hoa sen, sau này có người do nhan sắc lấy được thiên

hạ, lại nói “Nữ nhập cung phi, nam cư phụ chính”

36

Tác giả thấy rằng “theo dòng thời gian, càng lùi xa trong quá khứ, mọi

sự thật hiện hữu sẽ càng được huyền thoại hóa dưới sự cảm nhận của người

dân”. Những huyền thoại, truyền thuyết này khiến các di tích lịch sử trở thành

trung tâm trong chúng, cho thấy cách hành xử của người đời đối với chúng.

2.4.3. Giá trị nghệ thuật

Đền Trần tọa lạc trên diện tích hơn 32ha, phía trước có 3 gò ấn kiếm(

phần Đa, phần Bụt và phần Trung) còn gọi là mả vua. Phía sau tựa vào làng

Tam Đường tục truyền có 7 gò thất tinh. Hai bên tả hữa có sông Thái Sư và

sông Hồng như vòng tay ôm ấp.

Từ xa, du khách đã nhận ra tứ trụ nghi môn của ngôi đền dài 11m, cao

6,5m. tứ trụ nghi môn hay còn gọi là “Nghinh môn” là cửa để đón tiếp, đồng

thời cũng là dấu hiệu để thông báo với người đời rằng phía sau cổng này có

một nơi tôn nghiêm, cần có thái độ tôn trọng, kính cẩn.

Nghi môn được xây theo kiểu tam quan cuốn vòm, mái chảy chồng

diêm hai tầng, đao song loan cách điệu. Xưa kia, chỉ có nhà vua được đi cổng

giữa, quan lại và người dân phải đi hai cổng bên cạnh. Tứ trụ nghi môn được

xây dựng uy nghi hoành tráng, có trụ biểu lồng đèn được cách điệu hình

phượng lá lật, nghê chầu nơi sơn thủy tối linh. Trong tâm thức người Việt

cũng như trong kiến trúc đền chùa, con nghê là một linh vật đặc biệt. Nó có

thể phân biệt người tốt và kẻ xấu, chính với tà. Con nghê còn có tác dụng tấn

áp tà khí, mang đến những điềm lành, ví thế miệng của nó thường há to để

trán áp mọi hung khí, không cho lọt vào bên trong không gian ngôi đền. Du

khách bước qua cổng nghi môn sẽ thấy ngỡ ngàng trước không gian kiến trúc

trải rộng của sân đền 550 , hai bên có giếng ngọc tạo nên sự cân đối hài hòa

trong không gian kiến trúc.

Tòa Bái Đường của ngôi đền rộng 330 gồm 7 gian, hai tầng mái

kiểu chồng diêm. Mái tầng hai kiểu chéo đao tàu gốc, đao song loan cách

điệu, nâng cao bay bổng với hệ thống chắn phong gỗ tiện nhẹ nhàng thanh

37

thoát. Bộ cửa lim phục hồi phong cách thời Lê với hình ảnh hai con rồng oai

hung, hung dũng, ẩn hiện trong những đám mây. Hệ thống bẩy kẻ, vì kèo

trạm trổ tứ quý, tứ linh, có niên đại thời Nguyễn tạo cảm giác thanh tao, nhẹ

nhàng, thuần khiết.

Tòa đại bái của đền Trần là công trình kiến trúc gỗ rộng lớn, hoành

tráng bởi chiều cao kiến trúc với hai mái chồng diêm cổ các, những hang cột

gỗ lim vững chắc, của thông gió giữa hai mái thoáng đãng, đảm bảo ánh sang

cho không gian. Đôi rồng đá đứng trên thềm của tòa Bái Đường tạo thế uy

nghi tối linh.Ở tòa Đại Bái có những câu đối như:

“Xã tắc trung hưng hiến sử ức niên sinh diện mục

Thái Bình thử lực Nam thiên tong cổ ngưỡng thần minh”

“Vạn cổ thử giang sơn

Thái Bình tu nỗ lực”

“Nam thiên thắng nghĩa đức trường minh

Trần đại tiên công truong vĩnh kỹ”

Ngoài ra còn có một quả chuông đồng lớn đường kính khoảng 80cm,

cao cả quai khoảng 1,1m, nặng gần 300kg, do ông Trần Nhượng- chủ tịch

HĐQT cty CP An Phúc Châu (APC) thành phố Hồ Chí Minh tiến cúng. Hai

bên tả hữu tòa Đại Bái có cổn ra vào nối tường bao viên ngăn cách công

trình thành hai khu riêng biệt.

Qua tòa Bái Đường, là sân Chầu lát gạch rộng bốn trăm mét vuông.

Một không gian hành lễ thoáng rộng được bao viên khép kín bởi hai tòa giải

vũ Đông, Tấy. mỗi tòa 5 gian, kết cấu kiến trúc gỗ lim, mái chảy, vì kèo chồng

đấu hoa sen, hồi văn 5 đấu. Sân chầu là nơi diễn ra những hoạt động lễ nghi

như đang hương, sửa kễ trước khi vào chầu cửa Thánh tòa Đệ Nhị và Hậu

Cung của đền Trần. Ở đây có cây đèn bằng đá trạm trổ tinh xảo, có lô nhang

bằng đá xanh tạo không gian thiêng liêng ngay trước cửa đền. hai đôi rồng

bằng đá lớn mang phong cách Rồng thế kỷ XV, phủ phục trước của tòa Đệ

38

Nhị. Rồng được tạc từ những phiến đá lớn vùng Ninh Bình. Những họa tiết trên

đầu, than, đuôi rồng đã biểu hiện nghệ thuật điêu khắc tài hoa đương đại.

Tòa Đệ Nhị và Hậu Cung kết cấu theo kiểu chữ Đinh (J). tòa Đệ Nhị

rộng 270 là công trình kiến trúc nối tòa Bái Đường và sân chầu; gồm 5

gian, mái chảy, chéo đao tàu gố hoành tráng như một ngôi đình. Kết cấu kiến

trúc gỗ lim, cột, xà kẻ, bộ vì, bẩy hiên được trang trí tinh tế với các họa tiết tứ

linh, tứ quý. Mái của tòa Đệ Nhị trải rộng , không có cảm giác nằng nề mà lại

vô cùng thanh thoát. Phía bên trong không gian hành lễ của tòa Đệ Nhị có các

án thờ, câu đối, đại tự cửa võng, y môn bằng gỗ sơn son thiếp vàng lộng lẫy.

Tại gian chính cung là cỗ khám lớn trạm long đề tài tứ quý, tứ linh, hoành

tráng rực rỡ đứng trên ban thờ. Trên khám có bức đại tự : Đông A hào khí.

Hai cột cái gian chính cung treo hai câu đối lòng máng :

“Long Hưng khởi nghiệp lưu Hoàng Sử

Bạch Đằng chiến tích động Thiên Nam.”

Hai cột quân cùng bộ vì kèo treo câu đối:

“Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã

Sơn hà thiên cổ điện kim âu.”

Đây là nơi đặt ban thờ, ngai thờ và thánh tượng Trần Thái Tông - Trần

Cảnh, vị vua đầu tiên của nhà Trần. phía bên trái có bàn thờ, ngai thờ, thánh

tượng vị vua thứ hai – Trần Thánh Tông. Phía bên phải có bàn thờ, ngai thờ,

thánh tượng vua Trần Nhân Tông – vị vua thứ ba của nhà Trần. tất cả đều

được sơn son thiếp vàng, thể hiện thần thái uy nghiêm của các vị hoàng đế

nhà Trần.

Tòa hậu cung có diện tích 90 , kiến trúc gỗ lim, mái chảy, bộ vì kèo

chồng đấu hoa sen và nhiều họa tiết trạm khắc có niên đại thời nhà Nguyễn.

tòa nhà này có nền cao hơn 1m, thâm nghiêm, uy linh. Tại tòa Hậu Cung,

chính giữa thờ linh vị cụ Trần Kinh, Trần Hấp, nguyên tổ Trần Lý và Thánh

tượng Thái tổ Trần Thừa. phía trên có treo bức đại tự : “Thánh cung vạn tuế”

39

do trung tướng Nguyễn Thế Long, phó chủ nhiệm chính trị quân sự khu 3

cúng tiến. bên phải thờ thánh tượng của Thống Quốc Thái Sư Trần Thủ Độ.

Bên trái thờ Thánh tượng Linh Từ Quốc Mẫu TRần Thị Dung.

Hiện nay, hệ thống các con đường bao quanh 3 ngôi mộ đã được hoàn

thành, tiện cho du khách tới thắp hương và chiêm ngưỡng. đồng thời nó cũng

tạo cho toàn bộ công trình một dáng dấp mới, có quy mô rộng lớn hơn và quy

hoạch các hạng mục kiến trúc rõ ràng hơn.

2.4.4. Giá trị tự nhiên, không gian, cảnh quan, môi trường.

Đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà đã được nhà nước công

nhận là khu di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1990, năm 2014 là di

tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia đặc biệt và năm 2015 là di sản văn hóa phi

vật thể. Di tích lịch sử này tọa lạc tại vị trí thôn Tam Đường, xã Tiến Đức,

huyện Hưng Hà một vùng đất cổ xưa của tỉnh Thái Bình, được hình thành

trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn.

Hưng Hà là một vùng quê được bồi đắp bởi 3 con sông lớn: sông Hồng,

sông Luộc, sông Trà Lý. Vì vậy đã tạo nên cho nơi đây những cánh đồng đất

đai phì nhiêu màu mỡ, các hệ thống giao thông nông thôn khá hoàn thiện.

Bên cạnh đó, Hưng Hà cũng là huyện có bề dày truyền thống giá trị văn

hóa lịch sử, văn hiến, yêu nước và cách mạng

Trong truyền thống đó, không chỉ có bề dày văn hóa vật thể mà văn hóa

phi vật thể khá đậm đà: Chèo Hà Xá- một trong ba chiếu chèo nổi tiếng của

Thái Bình đang được phát huy; Hội Long Vân trước kia chỉ có ở xã Độc Lập

nay đã phát triển ra nhiều xã; hội thi cỗ cá đã được phục hổi tại dịp lễ hội

hang năm tại đền Trần xã tiến Đức; pháo đất tại xã Chi Lăng, Hòa Bình; múa

tứ linh, đi cầu kiều, chọi gà, cờ tướng, vật và hang chục trò chơi khác đã và

dang được phục hồi và phát triển lưu truyền.

Tồn tại và là một trong những trung tâm của không gian văn hóa đó, tại

xã Tiến Đức thấm nhuần những giá trị văn hóa của một vùng đất địa linh nhân

40

kiệt, nơi đã được vị tổ đời thứ hai của triều Trần là Trần Hấp chọn thế đất để

táng mộ của dòng họ mình, và sau đó chính là nơi phát tích lên một vương

triều làm rạng danh cho lịch sử Việt Nam. Ở trung tâm của nơi đó, tọa lạc một

quần thể kiến trúc quy mô không gian lớn nhưng tinh tế, hài hòa với thiên

nhiên của một vùng quê mang đậm dấu ấn làng quê Duyên Hải Bắc Bộ.

Cùng với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, Hưng

Hà cũng ngày một vươn xa với các cụm công nghiệp và song song với nó là

quá trình đô thị hóa, các khu nhà cao tầng mọc lên ven những con đường liên

xã, liên huyện,… nhưng, thu mình trong một không gian yên tĩnh, quần thể di

tích đền Trần dường như cách biệt hẳn với không gian ồn ào bên ngoài.

Nằm bên cạnh dòng sông Hồng và sông Thái Sư chiến tích về huyền

thoại một dòng họ, một vương triều hùng mạnh, quần thể di tích đền Trần

đang mời gọi du khách tới đây chiêm ngưỡng và khám phá vẻ đẹp kiến trúc

nghệ thuật tại nơi đó. Phía trước mặt là cánh đồng thẳng cánh cò bay, cứ mỗi

dịp lúa vào thì cả không gian xanh mướt một màu, hương lúa thấm đượm

từng viên gạch, hang ngói. Năm tháng qua đi, vật đổi sao rời. Song, ba ngôi

mộ các vị vua đầu tiên Triều Trần vẫn sừng sững đứng giữa không gian đó,

như một giá trị không thể phai mờ.

Với những mái ngói đỏ đã nhuốm rêu phong cùng những đầu đao cong

vút, quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà vẫn chứa đựng

những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc từ những bàn tay tài hoa của chính

những con người vùng đất này. Những đường nét đục đẽo, chạm khắc của các

nghệ nhân dân gian này đã thể hiện được ước mơ cũng như lòng kính trọng

đối với nhà Trần oai hùng.

Theo nghiên cứu của PGS.TS Dương Văn Sáu trong cuốn Giáo trình Di

tích lịch sử- văn hóa và danh lam thắng cảnh Việt Nam đã nhận xét: “Nơi có

di tích và danh thắng là những nơi có môi trường tự nhiên và xã hội tốt do

được lựa chọn cẩn thận vị trí trước khi xây dựng để đạt được yêu cầu địa

41

linh- nhận kiệt. Đây thường là những nơi có cảnh quan thiên nhiên tươi đẹp,

khí hậu ôn hòa, chưa hoặc ít chịu sự xâm lược, tác động của con người”. ( Di

tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh Việt Nam, TS Dương Văn Sáu,

Nxb ĐHQG) [7 tr.65]

Quần thể di tích đền Trần xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà là một trong

những địa điểm tiêu biểu tạo nên các nghệ thuật trên. Những công trình kiến

trúc này đã “hòa vào với thiên nhiên, tô điểm cho thiên nhiên, trở thành thiên

nhiên thứ hai” và “thực sự có ý nghĩa, cả về hiện thực lẫn ý nghĩa biểu

tượng”.

2.5. Thực trạng tổ chức hoạt động du lịch tại quần thể di tích đền

Trần, xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình.

2.5.1. Thị trường và khách du lịch

Năm 2014 lễ hội tại đền Trần tỉnh Thái Bình được Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch cấp bằng chứng nhận “Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và

đến năm 2015, “Khu lăng mộ và đền thờ các vị vua triều Trần” được Nhà

nước công nhận là “Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia đặc biệt.” . Cho đến

nay, lượng khách về thăm quan, hành hương tại đây tăng lên đáng kể. đặc biệt

trong đêm khai mạc lễ hội năm 2016, với sự góp mặt của. phó Thủ tướng

Chính phủ Vũ Văn Ninh, Ủy viên Bộ Chính trị Trần Quốc Vượng, Chủ nhiệm

Ủy ban Kiểm tra Trung ương, cùng lãnh đạo các bộ ngành, các sở ban ngành

trong tỉnh và một số các lãnh đạo UBND huyện của các tỉnh lân cận... Tại

buổi lễ, được sự ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, phó Thủ tướng Chính

phủ Vũ Văn Ninh trao Bằng công nhận huyện đạt chuẩn nông thôn mới cho

huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; buổi lễ đã diễn rất trang trọng và thu hút một

lượng khách lớn lên đến hàng trăm nghìn người.

42

Bảng 2.1: Số lƣợng khách du lịch đến tham quan tại đền Trần, xã

Tiến Đức, huyện Hƣng Hà

Tổng lượng khách đến ( người) Năm

2016 15.000

2017 20270

2018 24300

2019 28.850

Nguồn: BQL di tích Đền Trần

Theo như lời của BQL di tích đền Trần, lượng khách đến thăm quan

hàng năm ước tính từ 25 nghìn đến 30 nghìn người/ năm. Lượng khách đến

đền Trần tập trung từ tháng 8 đến tháng 3 âm lịch năm sau. Chủ yếu vào mùa

xuân khi diễn ra lễ khai ấn với các tục lệ và trò chơi dân gian. Thời gian còn

lượng khách du lịch cũng tương đối ổn định và tăng đều theo các năm. Đặc

biệt vào các dịp nghỉ lễ 10/3; 30/4-1/5 với khoảng thời gian nghỉ tương đối

dài. Đặc biệt, vào ngày 10/3 âm lịch năm 2016 UBND huyện Hưng Hà tổ

chức đón bằng chứng nhận lễ hội Tiên La (huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình) là

Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2016 và khai mạc lễ hội Tiên La. Sự

kiện này đã thu hút hàng nghìn khách du lịch về trẩy hội, hành hương tại đây.

Song song đó, thúc đẩy lượng khách đến tham quan tại khu di tích đền Trần

xã Tiến Đức hơn mọi năm.

Thị trường khách du lịch

Khách du lịch đến thăm quan tại đền Trần chủ yếu là khách nội địa

chiếm tỷ lệ gần như tuyệt đối trong tổng lượng khách. Khách du lịch hầu hết

đến từ các tỉnh lân cận như Nam Định, Hưng Yên, Hà Nam, Hà Nội và một số

tỉnh lân cận. Vào mùa lễ hội trong đó có đêm khai ấn còn có nhiều khách du

lịch đến từ những nơi xa xôi khác như Lạng Sơn, Tuyên Quang, Điện Biên,

Quảng Ninh, Huế,…. Hiện tại, vì chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức lễ hội

nên BQL di tích chưa thống kê được con số chi tiết lượng khách cũng như

43

tỉnh, thành phố có du khách đến tham quan đền Trần.

- Cơ cấu khách du lịch

Khách du lịch tới đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà với mục đích

chính là tham quan, lễ hội, tín ngưỡng ngoài ra cũng có những đối tượng

khách kết hợp tham quan với nghiên cứu, tìm hiểu khu di tích lịch sử, cũng

như những ảnh hưởng của nhà Trần tới vùng đất này. Tuy nhiên, mức độ lưu

trú của khách du lịch tại đây còn tương đối thấp, do sự hạn chế của các dịch

vụ cũng như cung đường chưa thuận lợi.

6%

7%

A. Du lịch tâm linh

31%

B. Tham quan di tích

C. Nghiên cứu

56%

D. Mục đích khác

( Nguồn: khảo sát thực tế)

Hình 1.2. Biểu đồ thể hiện mục đích chuyến đi tham quan

của khách du lịch.

Đặc điểm khách du lịch văn hóa tâm linh đến đền Trần:

Như đã phân tích ở trên, khách du lịch đến Thái Bình chiếm phần lớn là

khách du lịch văn hóa tâm linh,du lịch lễ hội, trong đó khu du lịch đền Trần

trở thành điểm đến thường xuyên,với số lượng khách năm sau cao hơn năm

trước, cụ thể: Dựa trên quan sát và quá trình khảo sát thực địa tại các điểm di

44

sản văn hóa tâm linh đền Trần, tôi nhận thấy khách du lịch văn hóa tâm linh

đến khu di tích này có các đặc điểm sau:

Độ tuổi: Những người tham gia du lịch văn hóa tâm linh đến đền Trần

chủ yếu ở độ tuổi trung niên từ 36 đến 55 chiếm tỷ lệ cao nhất. Đây là lứa tuổi

trung niên, họ đã đạt những mặt ổn định nhất định về gia đình,công việc, kinh

tế và thời gian tương đối thoải mái. Bên cạnh thu nhập hàng tháng, họ đã có

những khoản dư thừa để phục vụ cho những nhu cầu vật chất và tinh thần.

Trong đó, việc cải thiện sức khỏe và nâng cao đời sống tinh thần được ưu tiên

hàng đầu. Do vậy, họ thường chọn du lịch làm hoạt động để thỏa mãn các nhu

cầu về tinh thần. Đặc điểm của đối tượng khách này là không thích sự ồn ào,

náo nhiệt hay mạo hiểm nên họ thường chọn các điểm đến có không gian yên

tĩnh, khí hậu mát mẻ, không khí trong lành như các di tích tôn giáo, danh lam

thắng cảnh như đình, chùa, đền…để cảm nhận không gian thanh bình, tĩnh

tâm…phù hợp với tâm lý tuổi trung niên. Ngoài ra, các điểm du lịch văn hóa

tâm linh tại Thái Bình còn thu hút một lượng lớn khách du lịch trẻ tuổi là học

sinh, sinh viên, khoảng từ 20 đến 35 tuổi. Đối tượng khách này là những người

trẻ, năng động, thích đi đây đó để tìm hiểu cuộc sống xung quanh. Nhóm khách

này thường đến đền Trần vào các dịp hội chính để hòa mình vào không khí náo

nhiệt nơi đây.

Giới tính: Các điểm du lịch văn hóa tâm linh thường có sức hút với nữ

giới hơn nam giới vì xét theo khía cạnh tâm lý, nam giới được coi là phái mạnh,

cứng rắn, mạnh mẽ, sống thiên về lý trí còn nữ giới là phái yếu, cả tin, sống thiên

về tình cảm nhiều hơn nên dễ có cảm giác lệ thuộc vào tâm linh hơn.

Học vấn, nghề nghiệp: Theo thông tin của BQL di tích đền Trần, hì du

khách đến đây có trình độ học vấn, nghề nghiệp rất đa dạng. Trong đó,

chiếm phần lớn là công nhân, viên chức (khoảng 50%). Họ là những người có

trình độ học vấn cao, có sự trải nghiệm cuộc sống và am hiểu nhất định về các

yếu tố văn hóa lịch sử địa phương. Những người làm kinh doanh buôn bán

45

cũng chiếm tỷ lệ khá cao (khoảng 20%). Họ đến với mục đích tín ngưỡng

tâm linh rõ ràng và không quan tâm nhiều đến chất lượng dịch vụ và môi

trường cảnh quan. Bên cạnh đó, di tích đền Trần còn thu hút đối tượng học

sinh sinh viên, khách hưu trí và các đối tượng khác.

Mục đích du lịch: Du khách đến các điểm du lịch văn hóa tâm linh với

mục đích chính là thăm quan di tích, thư giãn, tín ngưỡng. Trong đó, đối

tượng khách du lịch buôn bán thường thiên về mục đích tín ngưỡng văn hóa

tâm linh nhiều hơn. Hoạt động chính của họ khi đến các điểm di tích là lễ bái,

cầu khấn… Trái lại, đối tượng khách học sinh, sinh viên thì chủ yếu đến để

tham gia các hoạt động náo nhiệt của lễ hội, sau đó là cầu thi cử, học hành,

cầu duyên. Còn đối tượng khách hưu trí thì thường đi với mục đích chiêm

nghiệm cuộc sống, đến để tìm sự bình yên trong tâm hồn của họ. Họ cũng tin

vào Đức Thánh Trần, nhưng niềm tin không đến mức cuồng tín.

Thời điểm đi du lịch: Với quan niệm “tháng giêng là tháng ăn chơi”, đi

lễ đầu năm để cả năm được may mắn. Chính vì vậy, thời điểm du lịch văn hóa

tâm linh tập trung vào dịp đầu năm từ tháng giêng đến tháng 3 âm lịch hằng

năm.

Hình thức du lịch: Phần lớn lượng khách tham gia hoạt động du lịch

văn hóa tâm linh đều đi về trong ngày và thường tự tổ chức chuyến đi chứ ít

mua tour của các công ty du lịch. Họ ít sử dụng các dịch vụ tại điểm du lịch,

nếu có chủ yếu là ăn uống, mua sắm đồ lễ hoặc quà lưu niệm, đặc sản quê

hương.

2.5.2. Thực trạng về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất.

Cơ sở vật chất về du lịch bao gồm các lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí,

thể thao, phương tiện vận chuyển và các dịch vụ khác.

Trước đây, đền Trần chỉ là một ngôi đền nhỏ tại thôn Tam Đường, nằm

im lìm ở một làng quê hẻo lánh bên bờ sông Hồng. Ít ai biết trong những gian

nhà nhỏ bé cũ kỹ kia, bài vị của các vị tổ tiên khai sáng ra vương triều Trần

46

vẫn ngày đêm nghi ngút khói hương. Kể từ khi có các cuộc điều tra, nghiên

cứu khảo cổ học, khẳng định rằng mảnh đất Tam Đường này là nơi phát tích -

sáng nghiệp của nhà Trần đã có một sự thay đổi lớn. Hệ thống các công trình

đã được tu sửa tôn tạo để xứng tầm là nơi lăng mộ của các vị vua đầu triều

Trần, là mảnh đất sinh ra một vương triều hùng mạnh, hào kiệt.

Tuy nhiên, quần thể di tích đền Trần mới chỉ thực sự thu hút được sự

quan tâm, chú ý của khách du lịch thập phương kế từ sau Tuần văn hóa, thể

thao và du lịch tại khu di tích nhà Trần- Thái Bình năm 2010, mà tâm điểm là

Lễ khai ấn đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà ngày 13 và 14 tháng giêng

năm 2010, sau đó là lễ đón bằng chứng nhận quần thể đền Trần là Di tích

quốc gia đặc biệt vào năm 2014 và Bằng chứng nhận di tích văn hóa phi vật

thể vào tháng 1/2015. Nhìn chung, đền Trần vẫn đang trong quá trình hoàn

thành xây dựng các hạng mục còn lại chưa hoan thiện, vì thế cơ sở vật chất kỹ

thuật phục vụ du lịch tại đây còn nghèo nàn và đơn sơ. Trong quá trình khảo

sát đề tài này, tác giả xin phép được đưa ra một vài ý kiến về thực trạng cơ sở

vật chất kỹ thuật tại đây như sau:

Hệ thống cơ sở lưu trú

Trong những năm gần đây, hệ thống các cơ sở lưu trú tại huyện Hưng

Hà đang từng bước phát triển và nâng cao. Nhưng nhìn chung cơ sở lưu trú

vẫn còn khá nghèo nàn và đơn sơ.

Về số lượng : Theo thống kê của Phòng văn hóa - TT huyện Hưng Hà

năm 2019, toàn huyện có 46 cơ sở lưu trú với 280 phòng. Các cơ sở lưu trú

nằm rải rác khắp toàn huyện, không tập trung tại bất kỳ một điểm cụ thể nào.

Đặc biệt là tại khu di tích đền Trần chỉ tồn tại một vài nhà nghỉ vừa và nhỏ.

Về chất lượng: nhìn vào số liệu thống kế trên ta có thể thấy, các cơ sở

lưu trú hầu hết là nhà nghỉ, nhà trọ tư nhân tự phát không có quy hoạch cụ

thể. Với số lượng buồng phòng khá ít ỏi và nghèo nàn, chất lượng phòng chưa

cao, chất lượng phục vụ thấp. Nhìn chung chỉ có thể giải quyết tạm thời nhu

47

cầu ăn nghỉ của khách nhưng về lâu dài đây sẽ là một tồn tại khó khắc phục,

đa phần lượng khách trong thời gian này chỉ mới dừng lại là khách thăm

viếng trong ngày, chưa có như cầu lưu trú dừng chân thăm quan dài ngày.

Cơ sở kinh doanh ăn uống

Phần lớn cơ sở chỉ dựng tạm thời, phục vụ hoạt động kinh doanh trong

dịp lễ hội nên hầu hết dưới dạng xe đẩy, lều bạt, lán lá thiếu thẩm mỹ và mất

vệ sinh an toàn thực phẩm và trong những khoảng thời gian không có lễ hội,

tính cho đến thời điểm này cách khu vực đền Trần không xa chỉ có 1 vài cơ sở

kinh doanh ăn uống quy mô nhỏ lẻ, tự phát. Nếu các đoàn khách đông sẽ phải

đặt trước xuất ăn để chủ cửa hàng chuẩn bị trước về thực phẩm cũng như các

dụng cụ phục vụ ăn uống, các món ăn được bài trí đơn giản, giá cả phải chăng

và chất lượng các món ăn đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người dân, tuy

nhiên món ăn chưa phong phú và hấp dẫn. Các cơ sở này do mặt bằng hẹp,

thiếu cây xanh , chỗ đỗ xe nên ít đón được đoàn khách lớn.

Nhìn chung các cơ sở kinh doanh ăn uống còn nghèo nàn, chưa đáp

ứng được nhu cầu của khách du lịch đặc biệt khi có dịp lễ hội.

Phương tiện vận chuyển khách du lịch

Hiện tại trong địa bàn huyện Hưng Hà chưa có doanh nghiệp vận tải

chuyên chở khách du lịch. Chỉ có một số hãng xe tư nhân tự phát phục vụ

khách theo hợp đồng, không nằm trong danh sách quản lý của huyện. Bên

cạnh đó, toàn tỉnh hiện có 9 hãng taxi uy tín chuyên chở phục vụ khách du

lịch.

Nhìn chung, các phương tiện vận chuyển khách du lịch tại đây còn

nghèo nàn, chất lượng thấp, dịch vụ không đảm bảo số lượng đủ vận chuyển

khách mùa cao điểm như mùa lễ hội.

Cơ sở vui chơi giải trí

Mọc lên một cách tự phát trong quá trình tổ chức lễ hội, chưa có quy

hoạch cụ thể do các hạng mục công trình phía bên ngoài quần thể vẫn đang

48

trong quá trình xây dựng, chưa phân luồng các khu đây cũng là nguyên nhân

chính không giữ được khách du lịch lưu trú dài ngày và mức chi tiêu của

khách du lịch không cao.

Hệ thống vệ sinh công cộng đã được xây dựng trong khuôn viên của

đền, sạch sẽ và tiện lợi hơn cho du khách du lịch.

Cơ sở kinh doanh dịch vụ lưu niệm

Cũng ở tình trạng trên, chủ yếu là các xe bán hàng rong, lều bạt, quán

lá ở cạnh đường dẫn vào đền. Hàng hóa được bày bán ở đây hầu hết là đồ thờ

tự như hương, hoa quả, hàng mã, bánh kẹo,… Ngoài ra, cũng bày bán Bánh

Cáy làng Nguyễn, Đông Hưng đặc sản nổi bật tại Thái Bình. Tuy nhiên,

những sản phẩm này chưa thực sự hấp dẫn khách du lịch.

Trong khuôn viên đền hiện có bán những ấn phẩm sách lịch sử giới

thiệu chi tiết về quần thể đền Trần, lịch sử các vị vua nhà Trần và Triều đại

nhà Trần và một số quyển sách liên quan đến nhà Trần. Khách du lịch có thể

mua để tham khảo, tìm hiểu thêm.

Như vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch tại địa bàn xã Tiến

Đức, huyện Hưng Hà vẫn chưa đáp ứng tốt nhu cầu của du khách du lịch và

chưa tạo điều kiện khai thác tối đa các thế mạnh du lịch nói chung và du lịch

văn hóa tâm linh nói riêng. Cơ sở lưu trú, ăn uống thiếu về số lượng và hạn

chế về chất lượng; chưa có khách sạn có phòng, buồng được bày trí đặc biệt

để phục vụ riêng loại hình khách du lịch tín ngưỡng, tôn giáo; huyện chưa có

công ty lữ hành hoạt động; phương tiện vận tải chưa thực sự đa dạng; cơ sở

vui chơi, giải trí, mua sắm quá ít, quy mô nhỏ hẹp và không có sức hấp dẫn.

Tóm lại, việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nhiệm vụ cấp

bách của du lịch huyện Hưng Hà trong thời gian tới để phát triển du lịch và

thu hút khách du lịch.

2.5.3. Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch

- Về số lượng:

49

Hiện tại đội ngũ cán bộ quản lý tại quần thể di tích đền Trần xã Tiến

Đức có tổng 28 người, trong đó trưởng ban quản lý kiêm Trưởng phòng Văn

hóa huyện Hưng Hà - ông Nguyễn Công Khanh. Có 2 phó ban là ông Hoàng

Đình Nhưng kiêm chủ tịch xã quản lý địa bàn xã Tiến Đức và ông Vũ Văn

Bích - phụ trách quản lý trực tiếp tại di tích đền Trần. Những người còn lại

phụ trách giúp ghi sổ sách công đức, viết giấy sớ, thu dọn chân hương, vệ

sinh tại khuôn viên đền Trần,…

Bảng 2.1: Danh sách nhân lực du lịch tại quần thể đền Trần, xã

Tiến Đức

STT Ban quản lý Số lƣợng (ngƣời)

1 Trưởng ban 1

2 Phó ban 2

3 Thủ nhang phần lễ 1

4 Ban ghi công đức 9

5 Tổ bảo vệ 7

6 Tổ vệ sinh môi trường 8

Nguồn: BQL di tích đền Trần- xã Tiến Đức- huyện Hưng Hà

- Về chất lượng:

Hiện tại, không có đội ngũ hướng dẫn viên tại khu di tích, điều này gây

khó khăn cho hoạt động du lịch của khách. Đội ngũ nhân lực phục vụ du lịch

tại đây hiện là lao động phổ thông, chưa được đào tạo bài bản, thiếu chuyên

nghiệp.

2.5.4. Tổ chức quản lý khai thác

Vấn đề quản lý khai thác và bảo tồn các di tích phục vụ cho các hoạt

động văn hóa, tín ngưỡng từ lâu nay đã được các ngành các cấp ở trung ương

và địa phương quan tâm. Hiện nay, đang bàn tới mô hình quản lý di tích và

hoạt động lễ hội tại nơi đó. Thông thường, nếu không phải là các di tích mang

50

tính quốc gia như đền Hùng thường có hai mô hình chính

Cộng đồng dân cư thôn hay xã đứng ra quản lý di tích và hoạt động

nghi lễ ví dụ như đền Bà Chúa Kho ở tỉnh Bắc Ninh

Tư nhân đứng ra quản lý điều hành dưới sự chỉ đạo của chính quyền địa

phương luôn có trách nhiệm đóng góp cho công quỹ địa phương và các công

việc phúc lợi khác ví dụ như Phủ Dầy ở Nam Định hay một số nơi khác. Mỗi

mô hình đều có mặt mạnh và mặt yếu, phụ thuộc vào thực tế của mỗi địa

phương. Chủ trương của Đảng và nhà nước hiện nay là xã hội hóa công tác

bảo tồn, đa dạng hóa các hình thức, mô hình quản lý, tổ chức lễ hội dân gian

và miễn sao thông qua các cơ quan chức năng của các tỉnh, các huyện, xã.

Tiếp theo nhà nước sẽ định hướng, giám sát để các di tích và các hoạt động lễ

hội đi đúng hướng, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa

dân tộc.

Đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà đã được công nhận là Di tích

quốc gia đặc biệt năm 2014 và năm 2015 là Di sản văn hóa phi vật thể. Hiện

nay, khu di tích này thuộc sự quản lý của UBND tỉnh Thái Bình mà cơ quan

trực tiếp là Sở VHTT & DL tỉnh Thái Bình. Bên cạnh đó, tại đền Trần cũng

có một Ban quản lý riêng.

Hiện nay tại di tích đền Trần, để tránh tình trạng thất thoát tiền công

đức do dân đóng góp phục vụ cho nhu cầu hương hoa, quả, đèn nhang, bảo

dưỡng tu bổ, đã được ghi chép lại đầy đủ trong một quyển sổ riêng đồng thời

mỗi cá nhân khi công đức tiền, vật chất cho đền đều được ký nhận vào sổ

công đức của nhà đền và được gửi tặng một tờ giấy biên nhận công đức. Tiếp

theo đối với hòm công đức đặt tại đền Trần, mỗi lần mở hòm đều có sự chứng

kiến của đại diện huyện Hưng Hà, đại diện của xã Tiến Đức và đại diên Ban

quản lý di tích.

Hiện tại, khu vực kinh doanh và bãi gửi xe được đặt tạm phía trước đền

nằm dưới sự quản lý của an ninh xã, vì thế đến thời điểm này, việc quản lý

51

khai thác tại khu di tích đền Tần xã Tiến Đức đang diễn ra đứng theo sự chỉ

đạo của Tỉnh ủy, không có hiện tượng đấu thầu các dịch vụ nhằm tạo ra nhiều

lợi nhuận.

2.5.5. Đầu tư và quy hoạch

Xác định được tầm nhìn và vị trí quan trọng của khu di tích đền Trần

tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà đối với sự phát triển của

du lịch văn hóa của tỉnh, UBND tỉnh Thái Bình đã có những kế hoạch đầu tư

và quy hoạch tổng thể nhằm biến nơi đây thành một địa điểm du lịch mới hấp

dẫn, thu hút khách du lịch tới tham quan.

Ngay sau khi đền Trần, xã Tiến Đức được xếp hạng là khu di tích lịch

sử - văn hóa cấp quốc gia năm 1990, được sự giúp đỡ của Bộ VHTT & DL và

UBND tỉnh Thái Bình, Sở VHTT & DL tỉnh đã chỉ đạo Bảo tàng, tỉnh bước

đầu khôi phục nơi thờ tự các vị vua triều Trần. Đến năm 1992, Bảo tàng tỉnh

tiếp tục cho xây dựng một công trình kiến trúc gỗ lim kết cấu chữ nhất, không

có hậu cung với 7 gian nhà được làm hoàn toàn bằng gỗ lim, nguyên là một

ngôi đình cũ được tôn dựng làm nơi thờ các vị vua nhà Trần.

Từ năm 1992 đến năm 1999, Bảo tàng Tỉnh và Sở VHTT & DL đã tiếp

tục xây dựng dự án đầu tư “ Quy hoạch bảo tồn, tu bổ, tôn tạo khu di tích nhà

Trần xã Tiến Đức và Liên Hiệp, huyện Hưng Hà vào tháng 5/1999 đến năm

2000”. Trong khoảng thời gian này, không những khu đền thờ các vua nhà

Trần mà cả lăng Thống Quốc Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ Quốc mẫu

Trần Thị Dung được sửa chữa và tôn tạo.

Sau gần 5 năm khởi công, đến năm 2005, đền Trần đã hoàn thành các

hạng mục theo thiết kế các công trình kiến trúc, đồ tế khí và di vật đã cơ bản

hoàn thiện tiếp sau đó, năm 2005 đến 2010, tiếp tục tu bổ, tôn tạo khu vực

lăng mộ, đền Trần Hưng Đạo,…

Sáng ngày 31/12/2009, UBND huyện Hưng Hà đã tổ chức lễ khởi công

xây dựng tòa Ngũ Thiên Môn cổng chính khu di tích đền Trần với kinh phí dự

52

kiến 6 tỷ đồng.

Tính đến thời điểm hiện tại, năm 2020 thì các hạng mục: như Cổng

chính, khu di tích Ngũ Thiên Môn, Đường trục Đông Tây, khu Đường ra các

mộ, tòa Phương Đình trong khuôn viên đền Trần đã được hoàn thiện và đưa

vào khai thác, phục vụ hoạt động du lịch.

Bên cạnh đó, còn rất nhiều các hạng mục công trình dự kiến chưa có

nguồn vốn để khởi công xây dựng như : chùa Bến, đền Trình,…

Bảng 2.3: Các hạng mục quần thể di tích đền thờ, lăng mộ các vua

Trần xã Tiến Đức- huyện Hƣng Hà

Các hạng mục công trình

Tổng vốn (tỷ đồng) Diện tích( )

6.500 6.010 6.000 38.210 15.640 4.000 26.385 1.200

ST T Các hạng mục công trình đã hoàn thành 42,5 1 Đền Vua 35 2 Đền Thánh 35 3 Đền Mẫu 25 4 Tu bổ 3 ngôi mộ vua đầu triều Trần 11,5 5 Cổng chính Ngũ Thiên Môn 11,5 6 Sân Lễ hội 5,25 7 Đường trục Thần Đạo 13,05 8 Bãi Đỗ xe 2,5 Đường ra các mộ vua đầu triều Trần 9 10 Tòa Phương Đình trên trục Thần Đạo 11,5 Các hạng mục công trình chưa có nguồn vốn để tổ chức khởi công xây dựng 1 2 3 4 5 6 7 8 800 Cổng Đông Tây 6.740 Chùa Bến 3.300 Đền Trình 1.800 Nhà làm việc BQL di tích 7.300 Các khu dịch vụ Hệ thống hồ nước và máng dẫn nước bao quanh 20.155 4.000 Nhà khách và khu dịch vụ tổng hợp 31.200 Khu khảo cổ, nhà trưng bày ngoài trời 7,5 45 2 10 30 20 20 20

Nguồn: BQL Di tích đền Trần xã Tiến Đức

53

Quần thể di tích cấp Quốc gia đền thờ, lăng mộ các vua Trần tại xã

Tiến Đức đã được UBND tỉnh phê duyệt với tổng diện tích 32,4ha; diện tích

hiện nay đang sử dụng là 22ha bao gồm 18 hạng mục chính. Tổng kinh phí dự

kiến: 345,3 tỷ đồng.

Trong những năm vừa qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các

Bộ, ngành Trung ương, tỉnh ủy HĐND, UBND, các Sở, Ban, ngành tỉnh Thái

Bình cùng với sự nỗ lực của Đảng bộ, nhân dân trong huyện, lòng hảo tâm

của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân trong và ngoài tỉnh, các công trình

thuộc quần thể di tích cấp Quốc gia đền thờ, lăng mộ các vua Trần xã Tiến

Đức đang từng bước hoàn thiện, ngày càng khang trang, to đẹp.

Để các công trình được hoàn thiện, ngày càng xứng với công lao, hùng

tích của Vương triều Trần, BQL Di tích đền thờ, lăng mộ các vua Trần tại xã

Tiến Đức đang kêu gọi sự tiếp tục hỗ trợ kinh phí của các doanh nghiệp, các tổ

chức và các nhân trong và ngoài tỉnh để hoàn thành nốt các hạng mục còn lại.

2.5.6. Sản phẩm du lịch văn hóa

Du lịch tôn giáo, tín ngưỡng.

Loại hình này thể hiện qua các hoạt động chiêm nghiệm, tham quan,

nghiên cứu... Tại khu di tích đền Trần Thái Bình du khách trực tiếp chiêm

ngưỡng, tìm hiểu kiến trúc, mỹ thuật, cảnh quan, hệ thống tượng thờ, phù

điêu, các cổ vật... Đối với khu di tích đền Trần hàm chứa nhiều giá trị lịch sử

khoa học nghệ thuật. Khi tham quan kiến trúc, tìm hiểu tượng thờ hay các

cổ vật, du khách có thể khám phá được các giá trị đó. Quan trọng hơn, ý

niệm linh thiêng của họ về các đối tượng tâm linh cũng được thỏa mãn khi

tham gia dưới dạng thức này. Bởi vì ngoài hoạt động quan sát, chiêm

ngưỡng họ còn kết hợp với việc niềm tin, cầu khấn các biểu tượng thiêng

liêng tại di tích.

54

Ưu điểm của sản phẩm này không phụ thuộc vào thời vụ mà có thể tổ

chức quanh năm. Du khách có tham gia vào chuyến đi vào bất cứ thời điểm

nào họ mong muốn.

Du lịch lễ hội.

Du khách được tham gia trực tiếp các hoạt động tại đền Trần với

không khí náo nhiệt và sống động. Các hoạt động đó được tái tạo qua những

hoạt động sống của sinh hoạt lễ hội. Thông qua các thành tố của lễ hội bao

gồm các nghi thức, nghi lễ, vũ điệu, trang phục, ẩm thực... họ có thể cảm nhận

giá trị văn hóa một cách sống động.

Lễ hội đền Trần được tổ chức từ ngày 13 -18 tháng Giêng âm lịch, với

nhiều nội dung phong phú và có nhiều nét khác biệt so với địa phương khác,

thu hút đông đảo nhân dân và du khách thập phương. Lễ hội nhằm khẳng định

và tôn vinh công lao dựng nước, giữ nước của nhà Trần, là dịp để nhân dân

thể hiện đạo lý “ Uống nước nhớ nguồn”, lòng tri ân với các bậc liệt tổ, các vị

vua, tướng sĩ, hoàng thân quốc thích nhà Trần. Qua đó giáo dục thế hệ trẻ

truyền thống yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc. Lễ hội cũng là nơi đáp

ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân và du khách, đồng thời

việc tổ chức lễ hội đền Trần đã tạo điều kiện thuận lợi để Thái Bình có thể

làm tốt hơn nữa nhiệm vụ bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa đặc sắc của lễ

hội đền Trần và các di sản thời Trần trên mảnh đất Hưng Hà.

Lễ hội bao gồm phần lễ được cử hành trang trọng, uy nghi và tôn kính

như: lễ tế mở cửa đền, lễ rước nước thiêng từ ngã 3 sông Hồng về đền Trần,

lễ tế mộ, đặc biệt có lễ bái yết được tổ chức nhằm khôi phục lại nghi lễ xa xưa

các vua Trần thường làm lễ bái yết tổ tiên mỗi khi có sự kiện trọng đại… Bên

cạnh đó, phần hội cũng được tổ chức sôi nổi với những trò chơi mang đậm

tính dân gian như: thi cỗ cá, thi nấu cơm cần, thi vật cầu, kéo co, pháo đất, cờ

tướng...

55

Không chỉ được biết đến là một vương triều với võ công oanh liệt,

giỏi đánh giặc, nhà Trần còn để lại cho hậu thế những nét sinh hoạt văn hóa

rất riêng biệt, đặc sắc, đó là lễ giao chạ (kết nghĩa anh em) giữa 2 làng Vân

Đài (xã Chí Hòa) và làng Tam Đường (xã Tiến Đức) đã tồn tại hơn 7 thế kỷ,

lễ rước nước và thi cỗ cá độc đáo thể hiện đậm nét phương thức sống của cư

dân vùng sông nước và mang tính nhân văn sâu sắc nhằm giáo dục, nhắc nhở

thế hệ sau tưởng nhớ tới thuở hàn vi tổ tiên nhà Trần sống chủ yếu bằng nghề

đánh cá. Đây thực sự là những nét sinh hoạt mang giá trị đặc sắc về văn hóa,

lịch sử không dễ tìm thấy ở bất kỳ địa phương nào trên cả nước.

2.5.7. Hoạt động xúc tiến và quảng bá du lịch

Hoạt động tuyên truyền, quảng bá hình ảnh của khu di tích đền Trần, xã

Tiến Đức, huyện Hưng Hà nhận được rất nhiều sự quan tâm của UBND tỉnh

Thái Bình mà trực tiếp là Sở VHTT & DL và Bảo tàng tỉnh, UBND huyện

Hưng Hà cũng như Ban quản lý di tích.

Nhận thức được tầm quan trọng của xúc tiến, quảng bá du lịch đối với

sự phát triển du lịch văn hóa tâm linh, cũng như sự tăng trưởng của khách du

lịch đến với quần thể di tích đền Trần xã Tiến Đức, Sở VHTT & DL tỉnh Thái

Bình cùng UBND huyện Hưng Hà cùng BQL di tích đã và đang nỗ lực cố

gắng quảng bá hình ảnh của khu di tích này tới đông đảo khách du lịch thập

phương thông qua các hình thức như:

Tổ chức các cuộc hội thảo khoa học nghiên cứu về nhà Trần và những

ảnh hưởng tới vùng đất Thái Bình, có sự góp mặt của các Bộ, ngành Trung

ương, các tỉnh bạn, các doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh nhằm tuyên truyền

các chính sách của tỉnh khuyến khích các tổ chức, cá nhân đầu tư vào lĩnh vực

hoạt động, kinh doanh du lịch tại khu vực đền Trần, xã Tiến Đức, huyện

Hưng Hà.

Xuất bản đĩa CD giới thiệu những hình ảnh về con người thái Bình, sự

phát triển kinh tế, các điểm du lịch nổi tiếng của tỉnh Thái Bình.

56

Xây dựng các tờ rơi, banner tuyên truyền hình ảnh, truyền thuyết, hệ

thống các công trình của đền Trần.

Tổ chức gắn biển quảng cáo, biển chỉ đường, giới thiệu về khu di tích

tại các tuyến chỉ đường dẫn vào đền.

Xuất bản và tái bản các cuốn sách, kỷ yếu của các hội thảo về nhà Trần

và ảnh hưởng tới Thái Bình cũng như giới thiệu về quần thể di tích, lăng mộ

của nhà Trần tại thôn Tam Đường, xã Tiến Đức, huyên Hưng Hà.

Tận dụng các ưu thế về công nghệ thông tin, những năm qua các thông

tin tuyên truyền, quảng bá về du lịch văn hóa Thái Bình còn thường xuyên

được đăng tải trên Báo, Đài trung ương và địa phương, tờ rơi, tập gấp và trên

trang thông tin điện tử của ngành. Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch tỉnh

Thái Bình đã kết hợp với các đài truyền hình địa phương và trung ương như:

Truyền hình Thông tấn xã Việt Nam, VTV1,VTV3, VTV4, VTC10, Đài

tiếng nói Việt Nam, Trung tâm Điện ảnh thể thao du lịch (Bộ Văn hóa, Thể

thao và Du lịch)…làm các chương trình giới thiệu về du lịch Thái Bình. Đặc

biệt làm các video, clip giới thiệu về khu di tích lăng mộ các vua Trần xã Tiến

Đức, huyện Hưng Hà và đăng tải trên các trang mạng internet, mạng xã

hội,…Tuy nhiên, công tác tuyên truyền quảng bá du lịch của sở VHTT & DL

tỉnh Thái Bình dành cho khu di tích đền Trần còn nhiều hạn chế do kinh phí

cấp cho hoạt động này còn ít, nhân lực còn thiếu nhiều. Việc này dẫn đến tình

trạng thông tin cung cấp nhiều khi chưa đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu nhu

cầu của du khách để phục vụ du lịch và chưa có các trung tâm thông tin du

lịch, văn phòng đại diện du lịch tại các tỉnh bạn.

Về phía Ban quản lý di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà,

hoạt động tuyên truyền, quảng bá cũng rất được quan tâm, thông các hình

thức như:

Xây dựng các loại hình tuyên truyền tại chỗ : treo các băng rôn quảng

cáo, các loại cờ trang trí, băng đài tuyên truyền, khẩu hiệu, pa nô.

57

Tuyên truyền, giới thiệu những bài viết, cuốn sách, tư liệu về đền

Trần, tuyên truyền những giá trị đích thực của điểm di tích qua các bài

thuyết minh.

Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Tuyên truyền cho người dân địa phương về lòng tự hào, tự trọng và ý

thức trách nhiệm trong ứng xử giao tiếp có văn hóa với du khách du lịch.

Tuy nhiên, hoạt động tuyên truyền, quảng bá của Ban quản lý di tích

mới chỉ chú trọng trong phạm vi, trách nhiệm của ngành VHTT mà chưa chú

trọng đến bản chất thực sự của hoạt động Marketing du lịch. Trong khi đó, nội

dung Marketing du lịch bao gồm nhiều vấn đề rộng lớn như: tìm hiểu thị

trường và nghiên cứu nhu cầu, thị hiếu của khách du lịch; đánh giá tình hình

kinh doanh, giá trị của các dịch vụ, công tác tuyên truyền quảng cáo.

2.6. So sánh hoạt động du lịch tại một số di tích đền Trần khác

2.6.1. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần Côn Sơn - Kiếp Bạc (

Hải Dương)

Đền Kiếp Bạc thuộc địa phận tại hai thôn Dược Sơn và Vạn Kiếp của

xã Hưng Đạo, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Di tích đền Kiếp Bạc là tên

ghép của hai vùng Vạn Yên tại làng Kiếp và Dược Sơn tại làng Bạc của tỉnh

Hải Dương. Đền Kiếp Bạc là nơi Trần Quốc Tuấn lập căn cứ địa, tích trữ

lương thực, huấn luyện binh sĩ trong cuộc chiến chống quân xâm lược

Nguyên Mông thế kỉ XIII.

Một số người theo thiên về phong thủy cho rằng đây chính là nơi tụ khí

để gây dựng cơ nghiệp ở đền Kiếp Bạc. Tại khu vực đền Kiếp Bạc là một

thung lũng trù phú được bao bọc bởi dãy núi Rồng, một phía là Lục Đầu

Giang. Dãy núi tạo thành thế rồng chầu, hổ phục và sông tạo thành minh

đường rộng rãi. Trên trán cổng mặt ngoài có 4 chữ “Hưng thiên vô cực”. Qua

cổng lớn, bên trái có giếng Ngọc mắt rồng linh thiêng.

Tòa điện ngoài cùng của đền thờ Phạm Ngũ Lão, toà thứ hai thờ Hưng

58

Đạo Vương. Tòa cuối cùng thờ phu nhân của Trần Hưng Đạo và hai con gái.

Tại nơi đây có đặt 7 pho tượng của 7 vị: Trần Hưng Đạo, Phu nhân và hai con

gái, con rể Phạm Ngũ Lão cùng Nam Tào, Bắc Đẩu. Bên cạnh đó là 4 bài vị

thờ con trai ông và hai vị tướng là Yết Kiêu và Dã Tượng.

Lễ hội truyền thống diễn ra vào mùa xuân

Lễ hội mùa xuân diễn ra tại Côn Sơn Kiếp Bạc từ lâu đã trở thành một

tập quán đẹp. Mở đầu là lễ khai hội tổ chức vào 16 tháng Giêng hàng năm.

Trong không khí linh thiêng của lễ hội, chiếc lư lớn của chùa Côn Sơn được

tỏa mùi hương trầm thơm ngát cả khu đền. Lễ hội vẫn duy trì các nghi lễ

truyền thống. Dâng hương khai hội, tế khai xuân, rước nước, khai hội mùa

xuân, tế trên núi Ngũ Nhạc, lễ giỗ Đệ tam tổ Trúc Lâm Huyền Quang Tôn

giả, lễ đàn mông sơn thí thực.

Lễ hội có những nghi lễ truyền thống như lễ dâng hương và tế cáo yết;

lễ khai ấn và ban ấn đền Kiếp Bạc, lễ giỗ Đức Thánh Trần. Lễ tưởng niệm

ngày mất của các anh hùng dân tộc, các vị danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn

Trãi, lễ cầu an, hội hoa đăng… Phần hội là các trò chơi dân gian truyền thống

như múa rối nước, đua thuyền…

2.6.2. Hoạt động du lịch tại di tích đền Trần ( Nam Định )

Khu di tích đền Trần thuộc thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng,

thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định là cụm di tích tiêu biểu trong hệ

thống di tích thời Trần, gắn liền với những nhân vật lịch sử triều đại nhà

Trần của tỉnh Nam Định.

Theo sử sách ghi lại, đền Trần Nam Định là nơi thờ các vị vua Trần,

cùng các quan lại có công phù tá nhà Trần dựng nước. Di tích đền Trần xây

dựng trên nền Thái miếu cũ của nhà Trần, đã bị quân Minh phá hủy vào thế

kỷ thứ 15. Đền Trần Nam Định gồm 3 công trình kiến trúc chính: đền Thiên

Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Cả 3 đền

đều có các kiến trúc chung và quy mô ngang nhau và gồm tòa trung đường 5

59

gian và tòa chính tẩm 3 gian, tòa tiền đường 5 gian. Trong đó, đền Thiên

Trường là nơi thờ 14 vị hoàng đế nhà Trần. Đền Cố Trạch là nơi đặt bài vị

của vua Trần Hưng Đạo, gia đình và gia tướng. Đền Trùng Hoa được xây

trên nền cung Trùng Hoa xưa - nơi các đương kim hoàng đế nhà Trần về

tham vấn các vị thái thượng hoàng, nay là nơi đặt ngai và bài vị thờ hội

đồng các quan…

Không chỉ là một khu di tích lịch sử, và nghệ thuật kiến trúc độc đáo,

đây cũng là một trung tâm tôn giáo, tín ngưỡng văn hóa lớn ở khu vực châu

thổ sông Hồng, với nhiều lễ hội và các hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian

đặc sắc, nhằm ghi nhớ và tôn vinh , tưởng nhớ công ơn thời đại nhà Trần.

Lễ hội truyền thống đền Trần là một trong những lễ hội truyền thống

lớn, niềm tự hào của mỗi người dân Nam Định nói riêng, của nhân dân cả

nước nói chung. Lễ hội truyền thống đền Trần ở Nam Định gồm có lễ khai Ấn

đền Trần, diễn ra giữa đêm 14, rạng sáng 15 tháng giêng âm lịch, tại Khu di

tích đền Trần phường Lộc Vượng, TP Nam Định. Sau lễ khai Ấn đầu năm, tại

đền Cố Trạch và Thiên Trường còn có lễ hội lớn được mở trong khoảng thời

gian từ ngày 15 đến 20 tháng 8 âm lịch hàng năm, nhằm tưởng nhớ ngày mất

của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo. Các nghi lễ tại di tích đền Trần từ

lâu đã lưu giữ được các phong tục cổ truyền của dân tộc, phần nào tái hiện

được một thời kỳ lịch sử hào hùng của dân tộc, nuôi dưỡng bồi đắp tinh thần

yêu nước, ý chí bất khuất chống ngoại xâm, tâm thức uống nước nhớ nguồn

của mỗi người Việt Nam.

Những giá trị đặc biệt về lịch sử kiến trúc và di tích, giá trị đặc biệt về

lịch sử và kiến trúc nghệ thuật độc đáo, cụm di tích đền Trần đã được Nhà

nước xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt và lễ hội đền Trần tại Nam Định

được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.

2.6.3. Hoạt động du lịch tại đền Trần Nhương ( Hà Nam)

Đền Trần Thương thuộc thôn Trần Thương xã Nhân Đạo, huyện Lý

60

Nhân, tỉnh Hà Nam. Đây là di tích nổi tiếng của tỉnh Hà Nam và cả nước hội

tụ nhiều giá trị lịch sử, văn hoá, nghệ thuật, tâm linh và lâu nay đã được nhiều

người biết tiếng. Đền thờ vị anh hùng dân tộc là Quốc công tiết chế Hưng Đạo

Đại vương Trần Quốc Tuấn cùng các gia quyến và các Bộ tướng có công

trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông thế kỷ XIII.

Đền Trần Thương là một mảnh đất địa linh, trù phú như câu ca truyền

đời: “cá Nhân Đạo, gạo Trần Thương” và câu thơ khắc ghi trên bức châm tại

đền: “Trần Thương dư phúc địa, hoa thảo tứ thời xuân” (đất Trần Thương lắm

phúc, hoa cỏ bốn mùa xuân). Trước đây, Trần Thương là trung tâm “Lục khê

đầu” (đầu 6 khe nước). Ngược sông Hồng đi Thăng Long hoặc xuôi dòng về

Hành cung Thiên Trường rồi ra biển, qua sông Hồng về phía Đông khoảng

3km là khu Tam Đường (Hưng Hà, Thái Bình), nơi đặt lăng mộ của nhà Trần,

về phía Nam khoảng 20 km là đền Trần - chùa Tháp (Nam Định). Đền Trần

Thương là một trong 3 ngôi đền lớn của cả nước nơi thờ chính Hưng Đạo Đại

vương Trần Quốc Tuấn. Ngôi đền thầm nghiêm, cổ kính toạ lạc trên thế đất

thiêng “Hình nhân bái tướng”, “Ngũ mã thất tinh”, được xây kiểu “Tứ thuỷ

quy đường”. Tổng thể kiến trúc cảnh quan ngôi đền gồm nghi môn ngoại,

nghi môn nội, 5 toà, 15 gian, chia thành 3 cung: Đệ nhất, Đệ nhị, Đệ tam và

hai giải vũ, 5 giếng... Kiến trúc độc đáo và cảnh quan tự nhiên của đền Trần

Thương như nhập đời vào đạo, nhập con người với vũ trụ trong một không

gian văn hoá thiêng.

Những giá trị về lịch sử, văn hoá đặc sắc vào năm 1989 đền Trần

Thương đã được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng là di tích Lịch sử - Văn

hóa cấp Quốc gia.

Lễ hội đền Trần Thương “Tháng 8 giỗ cha, Tháng 3 giỗ mẹ”. Từ bao

đời nay, nơi đây cùng các địa phương thờ Trần Hưng Đạo, mở hội vào dịp

trung tuần tháng 8 (âm lịch), đặc biệt là ngày 20 tháng 8, ngày Đại vương qua

đời. Trong dân gian từ xưa có câu: “Sinh Kiếp Bạc, thác Trần Thương, quê

61

hương Bảo Lộc”. Vào ngày lễ hội, từ Kiếp Bạc (Chí Linh, Hải Dương) đến

đền Trần Thương ( Lý Nhân, Hà Nam) về đền Bảo Lộc (Nam Định), khách

hành hương theo lộ trình chiêm bái, tôn vinh người anh hùng dân tộc, đã được

truy tôn là bậc “Thánh”, ban những điều tốt lành, mong làm việc thiện. Đền

Trần Thương hàng năm mở hội từ 18 đến một lễ hội vùng tiêu biểu đông đảo

nhân dân và ngày lễ hội diễn ra nhiều tục thi đặc sắc, độc đáo thi bơi chải trên

sông. mang ý nghĩa cầu cho tháng 8 (âm lịch)- một lễ hội vùng của tỉnh Hà

Nam, thu hút đông đảo du khách thập phương. Trong lễ hội diễn, hoạt động

văn hoá dân gian, tục thi độc đáo nhất là lễ rước nước và thi bơi chải - Các

nghi thức trên vừa mang ý nghĩa cổ mưa thuận, gió hoà, “Phong đãng, hoà

cốc Quốc thái, dân an”, nhắc nhở đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, đồng thời

gợi nhớ nguồn - của dòng tộc nhà Trần. Bên cạnh đó, còn tổ chức diễn xướng

Thanh đồng, một nghi lễ đặc sắc đó từ lâu đời của đền Trần Thương với sự

tham gia đông đảo của các cơ cánh” đến từ các tỉnh đồng bằng sông Hồng.

Để bảo tồn và phát huy các giá trị đặc sắc của di tích, năm 2009, Bộ

Văn hoá - Thể thao và Du lịch đã phê duyệt quy hoạch tổng thể và chi tiết di

tích Lịch sử - Văn hoá đền Trần Thương giai đoạn 2009 - 2015, với 5 khu

chức năng chính, gồm: Khu vực bảo tồn các di tích Lịch sử - Văn hoá: Đền

Trần Thương, đình Tróc, chùa Di, đến Khu Hoàng; Khu du lịch thương mại;

Khu du lịch sinh thái, Khu vực lễ hội và Khu các trò chơi dân gian với tổng

diện tích quy hoạch 100 héc ta. Năm 2009, đền Trần Thương đã được Nhà

nước quan tâm đầu tư tu bổ, tôn tạo lớn toàn bộ kiến trúc chính: Cung đệ

nhất, Đệ nhị, Đệ tam, hai giải vũ, giếng, đường vào đền và nghi môn với

nguồn vốn trên 16 tỷ đồng. Đồng thời đầu tư, cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng,

làm đường giao thông mới vào di tích. Tương lai không xa, trên mảnh đất này

sẽ có cây cầu lớn bắc qua sông Hồng nối liền Hà Nam với các tỉnh Thái Bình,

Hải Dương, Hải Phòng ... Đây sẽ là điều kiện hết sức thuận lợi để khu di tích

Lịch sử -Văn hoá, tâm linh đền Trần Thương phát huy tốt các giá trị, trở thành

62

điểm du lịch tâm linh, tín ngưỡng quan trọng của tỉnh Hà Nam, là điểm đến

của khách du lịch trong và ngoài nước.

Trên lộ trình về đền Trần Thượng du khách còn được tham quan các di

tích cấp Quốc gia tiêu biểu: đình Vĩnh Trụ, đình Văn Xá, đền Bà Vũ, đình

Trác Nội, thăm quê hương nhà văn - liệt sỹ Nam Cao. Di tích đền Trần

Thương là điểm quy tụ để nhân dân, khách thập phương xa gần, hành hương

tưởng nhớ về nguồn cội, chiêm ngưỡng di tích lịch sử văn hoá và cầu nguyện

may mắn trong cuộc sống của mỗi người.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Có thể thấy, huyện Hưng Hà có nguồn tài nguyên du lịch văn hóa tâm

linh phong phú, hấp dẫn du khách, đặc biệt là quần thể di tích đền thờ, lăng

mộ các vua Trần xã Tiến Đức. Qua đây, xác định được vai trò quan trọng của

loại hình du lịch này trong sự phát triển kinh tế du lịch địa phương cũng

như phát triển kinh tế toàn tỉnh Thái Bình. Tại điểm di tích tâm linh đền

Trần, hoạt động khai thác các dịch vụ phục vụ du khách cũng như công

tác quản lý di tích, lễ hội truyền thống, việc bảo tồn trùng tu di tích đều

được quan tâm nhằm phát huy tốt giá trị di sản văn hóa. Khách du lịch thăm

quan, chiêm ngưỡng văn hóa tâm linh không ngừng tăng nhanh qua các

năm tạo thêm doanh thu cho ngành du lịch của tỉnh Thái Bình. Sự đầu tư

phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch và hệ thống cơ sở hạ tầng đặt

nền móng cho việc phát triển nền kinh tế của tỉnh trong đó có du lịch là

kinh tế mũi nhọn.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu khả quan còn thấy quá nhiều

những bất cập từ các lễ hội truyền thống, vấn đề môi trường, an ninh, an toàn

du khách. Hoạt động du lịch phải luôn song hành với công tác bảo tồn di sản,

khai thác tối đa giá trị di tích mà không làm mất đi nguyên bản của lễ hội

truyền thống. Đồng thời cũng phải có một chiến lược xúc tiến hiệu quả đối

với thị trường khách du lịch mục tiêu. Có như vậy, du lịch văn hóa tâm linh

63

tại quần thể di tích đền Trần mới tạo được vị thế, duy trì được hình ảnh của

mình đối với du khách, từ đó mới góp phần thu hút khách du lịch trong và

ngoài tỉnh, cũng như kéo dài thời gian lưu trú của các đối tượng khách.

Từ những phân tích đánh giá thực trạng về hoạt động du lịch văn hóa

tâm linh tại quần thể đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình

phục vụ cho việc tổ chức du lịch tại tỉnh Thái Bình, nhằm nghiên cứu và đưa

ra giải pháp hữu hiệu đồng bộ, đẩy mạnh hoạt động bảo tồn giá trị văn hóa –

tín ngưỡng và khai thác giá trị văn hóa phục vụ du lịch sẽ được trình bày rõ

trong phần nội dung tiếp theo là chương 3 giải pháp.

64

Chƣơng 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG DU LỊCH

VĂN HÓA TÂM LINH TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH ĐỀN TRẦN, XÃ

TIẾN ĐỨC HUYỆN HƢNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

3.1. Cơ sở đề xuất giải pháp

Để có cơ sở đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển khu di tích đền

Trần tác giả đã dựa vào các cơ sở khoa học sau:

Trên cơ sở kết quả khảo sát thực địa, phân tích số liệu cùng những

thông tin thu thập được để so sánh, tổng hợp và đánh giá các nguồn lực phát

triển du lịch của tỉnh đặc biệt là tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh cùng

những gì đang có tại lễ hội Đền Trần để đánh giá hiện trạng phát triển của tài

nguyên du lịch.

Quy hoạch tổng thể để phát triển tài nguyên du lịch của tỉnh sau đó

triển khai tài nguyên du lịch văn hóa tâm linh.

3.2. Giải pháp phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm linh tại

quần thể di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hƣng Hà, tỉnh Thái Bình.

3.2.1. Đề cao trách nhiệm của quản lý khu di tích

Để phát triển tốt loại hình du lịch này cần có một ban quản lý có tinh

thần và trách nhiệm cao trong công tác bảo tồn và tổ chức lễ hội tại khu di

tích Đền Trần chuyên trách về du lịch văn hóa tâm linh. Ban quản lý cần có

sự phối hợp chặt chẽ với ban tôn giáo chính phủ Thái Bình. Có trách nhiệm tổ

chức điều phối các tour tham quan du lịch đối với đền Trần tại tỉnh. Lên

chương trình du lịch cùng công tác bao tồn tôn tạo khu di tích đồng thời đào

tạo các cán bộ hướng dẫn viên cho khu di tích tâm linh…

Bên cạnh đó ban tổ chức còn phải huy động nguồn đầu tư vào di tích,

tập trung đầu tư vào cơ sở hạ tầng tiếp cận kkhu du lịch và hệ thống cơ sở

dịch vụ đảm bảo chất lượng, tiện nghi và sự hài lỏng của du khách khi đến

khu di tích Đền Trần.

65

3.2.2. Đa dạng hóa về các sản phẩm du lịch, chú trọng phát triển sản

phẩm du lịch đặc thù hơn.

Chất lượng sản phẩm du lịch là một trong những yếu tố quan trọng

hàng đầu trong việc thu hút khách du lịch cũng như giữ chân khách lại nơi

đây vào mỗi dịp lễ hội hằng năm. Điều này đã đặt ra một dấu hỏi lớn với các

cơ quan chức năng, sở ban nghành trong tỉnh trong việc đảm bảo chất lượng

phục vụ trong dịp lễ hội. Để đạt được điều đó chúng ta phải tập trung xây

dựng thành công các chương trình về du lịch văn hóa, du lịch tham quan và

du lịch văn hóa tâm linh.

Đi lễ hội đầu năm không chỉ để cầu mong mạnh khỏe, bình an, làm ăn

thăng tiến, đi lễ hội cũng không chỉ là để dâng lễ mà nhiều người đến với lễ

hội còn bởi các hoạt động mang đậm chất dân gian qua các trò chơi truyền

thống. Chúng ta không nên để quá nhiều hoạt động chỉ có ở hiện đại vào trong

lễ hội mà thay vào đó là sự kết hợp của nhiều trò chơi dân gian các hoạt động

đầu năm như xin chữ, chơi cờ thẻ, múa bài bông… để đảm bảo tính truyền

thống của lễ hội.

Phát triển đa dạng các sản phẩm du lịch nhưng vẫn tập trung vào sản

phẩm du lịch đặc thù có ý nghĩa vô cùng quan trọng then chốt. Đây là yếu tố

quan trọng giúp thu hút khách du lịch đến với địa điểm du lịch văn hóa tâm

linh Đền Trần, giảm thiểu sức cạnh tranh với các địa danh khác tại các khu

vực lân cận qua đó còn thu hút được đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, các đầu

tư phát triển kinh tế. Qua đó tạo điều kiện cho người dân tham gia vào các

hoặt động phục vụ du lịch, giúp giải quyết công ăn việc làm cho người lao

động tại địa phương góp phần nhỏ phát triển du lịch bền vững cả về kinh tế và

xã hội.

Hiện nay, hoạt động của cụm di tích đền Trần mới chỉ tập trung khai

thác vào các loại hình du lịch phổ biến sau:

Du lịch văn hóa tâm linh

66

Du lịch lễ hội

Do điều kiện kinh tế còn hạn chế, hẹp về nguồn hỗ trợ, việc đầu tư phát

triển du lịch của cụm di tích Đền Trần chỉ đầu tư vào trung tâm Đền Trần. Vì

chưa hình thành nên các tuyến điểm than quan đầy đủ cụm di tích nên trong

thời gian tới cần tập trung đầu tư vào một số điểm di tích xung quanh để mở

rộng phạm vi đối tượng tham quan cho du khách.

Xây dựng các sản phẩm du lịch đặc trưng: khai thác nguồn tài nguyên

du lịch sẵn có trong cụm di tích để tạo nên những sản phẩm du lịch văn hóa

độc đáo. Thông qua những sản phẩm du lịch nhằm tuyên truyền đến khách

những giá trị tôn giáo tín ngưỡng vừa kết hợp tham quan vừa có thể tham gia

vào đời sống sinh hoạt cộng đồng của người dân địa phương tại các điểm du

lịch như:

Cụm di tích tâm linh Đền Trần

Chương trình vui hội Đền Trần

Chương trình hội xuân khai ấn Đền Trần

3.2.3. Nâng cao nhận thức của người dân địa phương và ý thức bảo

tồn nguồn tài nguyên du lịch văn hóa.

Người dân Việt Nam với tâm lý đi chùa, lễ hội cầu may mắn bình an

nhưng không hẳn ai cũng đến những nơi thanh tịnh này để cầu may cả. Ta có

thể dùng đến từ “a dua” để nói về tình trạng chung của người dân khi đến các

đình chùa các đền nhất là tại lễ khai ấn đền Trần. Thấy mọi người đi lễ nhiều

người cũng đổ xô đi cho theo phong trào mà không biết mình đến đó làm gì

và với mục đích gì. Chen lấn xô đẩy nhau để cướp ấn, cướp đồ lễ trên bàn thờ

với hy vọng may mắn trong năm. Mọi người hầu như chưa ý thức được việc

đi lễ như thế nào cho đúng cả nên việc thực hiện tuyên truyền, giáo dục ý thức

người dân là điều vô cũng cần thiết để phát triển du lịch tâm linh nói chung và

tại Đền Trần nói riêng.

Đối với người dân địa phương nơi di tích :

67

Thứ nhất đề cao hơn nữa những giá trị văn hóa tốt đẹp.Tuyên truyền

quảng bá cho người dân địa phương nhận thức được ý nghĩa phát triển của

hoạt động du lịch và nguồn lợi từ du lịch mang lại.

Giải quyết các vấn đề phúc lợi xã hội cho người dân từ đó giúp họ có ý

thức bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống và xây dựng nếp sống văn hóa

gia đình. Đó chính là yếu tố hình thành nên nguồn tài nguyên du lịch văn hóa

quan trọng.

Đối với khách du lịch đến di tích đền Trần

Đầu tiên phải nâng cao ý thức bảo tồn giá trị tài nguyên di sản văn hóa

của dân tộc và du khách rất cần tới vai trò của hướng dẫn viên và cán bộ

quản lý khu di tích.

Cần có những biển chỉ dẫn, nghiêm cấm cho du khách nhằm hướng

dẫn, cảnh báo. Tăng ý thức bảo tồn nguồn tài nguyên di sản văn hóa chung.

3.2.4. Nâng cao giải pháp về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực.

Con người – nhân tố quan trọng đóng góp vào bất kỳ sự thành công nào

trong cuộc sống. Con người là một trong những nhân tố quyết định đến sự

sống còn và thành công của một sự phát triển nào đó trong cuộc sống. Nhân

tố con người chính là lực lượng chính đóng góp vào nguồn lao động nhất là

lao động phục vụ trong lĩnh vực du lịch lại không thể thay thế bằng máy móc

như các nghành công nghiệp khác. Nhân viên trong du lịch dù chưa qua

trường lớp đào tạo hay chưa vẫn có thể hoạt động được trong lĩnh vực du lịch

nhưng với một lực lượng lao động có trình độ chuyên môn nghiệp vụ được

đào tạo thì sẽ làm việc có chuyên môn hơn và đạt được thành công dễ hơn

trong việc chăm sóc khách hàng và mang lại lợi ích kinh tế không những cho

ngành mà còn cho toàn sự phát triển chung của nền kinh tế.

Một nhân viên du lịch khi được đào tạo sẽ có trình độ và chuyên môn

trong nghề hơn về kiến thức lịch sử, văn hóa, ngoại ngữ, khả năng giao tiếp

và thêm vào đó là các hiểu biết về môi trường xung quanh, về phong tục tập

68

quán riêng của người dân từng vùng về bản sắc văn hóa từng địa phương

không phải ai cũng nắm rõ và nhất là khả năng biết làm hài lòng khách du lịch

qua đó giúp họ có ý thức hơn, hiểu biết hơn về nơi đến nhất là nhận thức đúng

về môi trường thiên nhiên, về những giá trị văn hóa truyền thống. Qua đây ta

có thể thấy việc chú trọng đào tạo nguồn nhân lực là một việc làm vô cùng

cần thiết và quan trọng nhất là trong việc thúc đẩy phát triển du lịch tại địa

phương, vùng du lịch. Đây là một việc làm vô cùng cần thiết nhất là trong giai

đoạn hiện nay.

Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực nhất là việc phát triển đào tạo đội

ngũ hướng dẫn viên có trình độ chuyên môn, am hiểu văn hóa không chỉ của

đất nước nói chung mà còn là của từng vùng từng địa phương. Nhất là với đội

ngũ hướng dẫn viên tại điểm cần có một sự hiểu biết sâu rộng và cặn kẽ từng

chi tiết liên quan đến điểm mình hướng dẫn. Có như vậy mới truyền đạt được

hết nội dung và ý nghĩa của điểm đến với du khách. Đây là một nội dung quan

trọng trong công tác tổ chức chuyến đi cho du khách, chuyến đi có thành công

hay không phụ thuộc rất nhiều vào người hướng dẫn viên.

Để đạt được mục tiêu kế hoạch phát triển du lịch bền vững và lâu dài

ngoài việc thực hiện định hướng các chiến lược phát triển quy hoạch khu du

lịch các dự án quy hoạch tổng thể còn phải chú trọng đến công tác đào tạo

phát triển nguồn nhân lực. Tuy nhiên nguồn nhân lực du lịch cả nước nói

chung hay khu di tích Đền Trần nói riêng chưa được chú trọng đào tạo bài

bản về trình độ cũng như chuyên môn nghiệp vụ, đa số đều chuyển từ các

nghành nghề khác sang nên một số nhỏ chưa có chuyên môn trong công tác

quản lý cũng như tổ chức, thiếu kinh nghiệm quản lý, khả năng kinh doanh

du lịch còn yếu kém, một số nhỏ thiếu năng động nhất là trong nền kinh tế

thị trường hội nhập như ngày nay. Đây chính là điểm yếu, là rào cản chính

làm chậm sự phát triển của nghành du lịch. Để khắc phục tình trạng trên

chúng ta cần:

69

Tiến hành điều tra khảo sát, đánh giá phân loại nguồn lao động của

tổng thể nhân viên du lịch để từ đó lên kế hoạch xây dựng các chương trình

đào tạo lại nguồn cán bộ. Việc đào tạo phải dưạ vào kết quả điều tra và đào

tạo theo từng cấp khác nhau, các chuyên nghành khác nhau cho phù hợp với

từng đối tượng và nhu cầu kiến thức để phục vụ khách. Mở các lớp đào tạo về

xu hướng phát triển du lịch bền vững nhất là các hướng dẫn viên du

lịch.Trước mắt là mở các lớp đào tạo tại chỗ với các nhân viên có trình độ

chuyên môn kém hoặc mới vào nghề chưa có kinh nghiệm. Thường xuyên có

các chương trình ngoại khóa để trao đổi về kinh nghiệm trong công tác phục

vụ khách qua đó rút ra bài học và phương án phát triển tối ưu trong du lịch.

Ngoài tổ chức các lớp đào tạo chuyên môn nghiệp vụ chúng ta cũng

cần có các chính sách và kế hoạch đào tạo cho các sinh viên du lịch ngay khi

còn ngồi trên ghế nhà trường, tạo điều kiện khuyến khích sinh viên tham gia

vào hoạt động du lịch nhất là địa phương nơi có tuyến điểm du lịch để sau này

có lượng nhân viên có kinh nghiệm cao hơn. Thực hiện các chính sách và kế

hoạch đào tạo mới và tuyển dụng các cán bộ có năng lực cho đội ngũ quản lý

và điều hành hoạt động du lịch dưới hình thức đào tạo chính quy phục vụ

không chỉ trong nước mà còn nước ngoài. Thường xuyên tổ chức các khóa

học nâng cao về cách ứng xử với khách du lịch và công tác bảo vệ môi

trường. Thường xuyên tăng cường hợp tác và trao đổi kinh nghiệm với các cơ

sở đào tạo du lịch và các điểm du lịch để nâng cao chất lượng nguồn du lịch

nắm bắt nhu cầu khách hàng ngày một cao hơn.

Mời các chuyên gia có trình độ cao trong du lịch về giảng dạy tại các

trường cao đẳng, đại học. Liên kết với các doanh nghiệp du lịch lữ hành và

khách sạn trên địa bàn để sinh viên có cơ hội cọ sát với thực tế và nâng cao

trình độ chuyên môn tích lũy kinh nghiệm.

70

3.2.5. Giải pháp về thông tin truyền thông, tăng cường quảng bá xúc

tiến về du lịch

Ngày nay cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin mà các sản

phẩm du lịch được truyền bá không còn khó khăn gì. Việc xúc tiến quảng cáo

là cách đưa thông tin đến với khách hàng một cách nhanh nhất và đầy đủ nhất.

Việc xúc tiến quảng cáo rất quan trọng với sự phát triển du lịch. Đây là cách

đưa thông tin đến khách và thu hút sự chú ý của khách làm tăng khả năng

cạnh tranh giữa các sản phẩm du lịch, các công ty du lịch và các loại hình du

lịch khác nhau. . Việc quảng cáo sản phẩm du lịch giúp công ty du lịch tiếp

cận thị trường khách du lịch, giúp công ty đưa sản phẩm du lịch đến với

khách hàng, những thông tin đầy đủ và có trách nhiệm hơn sẽ nâng cao sự tôn

trọng khách hàng đối với môi trường tự nhiên, văn hóa và xã hội đồng thời

làm tăng sự thỏa mãn của khách du lịch với thông tin du lịch mà công ty du

lịch cung cấp. Những thông tin càng đầy đủ bao nhiêu thì khách hàng tìm đến

với công ty để tìm hiểu thêm càng nhiều hơn. Việc cung cấp thông tin không

chính xác hay không đầy đủ sẽ làm ảnh hưởng đến sự tin tưởng của khách

hàng và làm ảnh hưởng đến sự phát triển lâu dài của hoạt động du lịch của

công ty.

Chính vì vậy việc quảng bá tiếp thị du lịch cần phải được đảm bảo nhất

là về thông tin công ty cung cấp sản phẩm du lịch, điểm du lịch, chương trình

du lịch khách được cung cấp chính xác và đầy đủ để đảm bảo tính bền vững

của việc phát triển du lịch nhất là phát triển bền vững và lâu dài. Hiện nay có

rất nhiều cách để công ty du lịch thực hiện công tác quảng bá tiếp thị du lịch

Phát hành tờ rơi và mang một thông tin cần thiết về từng di tích trong

cụm di tích Đền Trần như lễ khai ấn, lễ hội Đền Trần bằng ít nhất hai ngôn

ngữ (tiếng Việt, tiếng Anh).

Sử dụng các thông tin đại chúng như báo đài, truyền hình là các

phương tiện có khả năng truyền thông tin nhanh chóng và rộng rãi đến mọi du

71

khách trong và ngoài nước.

Tổ chức các buổi hội thảo khoa học, triển lãm văn hóa nghệ thuật nhằm

thu hút, giới thiệu hình ảnh của khu di tích với du khách trong và ngoài nước.

Kết hợp với một số điểm du lịch khác của tỉnh để tăng sức hấp dẫn cho

khu di tích. Xây dựng và lập kế hoạch quảng bá cho các sản phẩm du lịch của

khu di tích Đền Trần trước khi sản phẩm đó được giới thiệu và bán cho du

khách.

Đưa thông tin của cụm di tích lên các trang Web của ngành du lịch tỉnh

Thái Bình và các trang thông tin văn hóa xã hội khác của tỉnh.

3.3. Kiến nghị

3.3.1. Sở văn hóa và thể thao du lịch tỉnh Thái Bình

Thu hút sự đầu tư và hỗ trợ từ các cấp để xây dựng tu bổ và bảo dưỡng

khu di tích nhưng không làm mất đi vẻ cổ kính và văn hóa từ ngàn xưa của

công trình kiến trúc. Xây dựng các chương trình hỗ trợ phát triển du lịch tâm

linh tại các đền chùa.

- Thường xuyên nâng cấp cơ sở hạ tầng tại khu di tích và xung quanh

khu di tích đảm bảo chất lượng, tiện nghi, hài hòa với không gian và tính chất

khu, điểm du lịch tâm linh.

Xây dựng sản phẩm du lịch tâm linh riêng biệt của vùng để tạo sức hấp

- Xây dựng sản phẩm du lịch tâm linh theo quy hoạch, phát triển các

dẫn với du khách và tạo điểm nhấn cho chương trình du lịch

khu điểm du lịch đạt đến độ tinh tế đáp ứng nhu cầu tâm linh của du khách,

kết nối hình thành các tuyến tâm linh quốc gia . Tập trung phát triển khu,

- Tổ chức công tác nghiên cứu thị trường phát triển sản phẩm, quảng bá

điểm du lịch tâm linh trong danh mục.

du lịch và tạo liên kết giữa các điểm du lịch trong và ngoài vùng. Phối hợp

cùng nhau phát triển. Tăng cường lực lượng tham gia phục vụ du lịch tại khu

du lịch tâm linh. Phát huy vai trò cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho nhân

72

dân tham gia làm du lịch, mang lại sự hưởng lợi tối đa cho cộng đồng dân cư

- Xây dựng thêm các tuyến du lịch liên kết di sản văn hóa tín ngưỡng

địa phương tại nơi có điểm du lịch

tâm linh tại Đền Trần với các khu du lịch khác hay các điểm du lịch văn hóa

sinh thái trên đại bàn tỉnh Thái Bình cũng như các tỉnh lân cận.

3.3.2. Với ban quản lý khu di tích

Tạo điều kiện để khách du lịch đến thăm khu di tích vào mọi thời gian

trong năm.

Xây dựng các chương trình dân gian tại các lễ hội truyền thống như

hát chèo, chầu văn ca trù… và các trò chơi dân gian trong dịp lễ hội để tăng

sức thu hút hấp dẫn khách du lịch.

Xây dựng các chương trình quảng bá du lịch, quảng bá hình ảnh giá trị

văn hóa lịch sử của điểm đến.

Tăng cường công tác của các tổ chức quản lý.

Tổ chức cung cấp các dịch vụ thiết yếu tại điểm du lịch như nhu cầu ăn

uống ngủ nghỉ của du khách. Tăng cường công tác quản lý đảm bảo cung cấp

dịch vụ an toàn cho khách du lịch.

Có kế hoạch cơ chế xây dựng đầu tư tu bổ công trình bằng tiền công

đức của nhân dân.

Phát huy vai trò cộng đồng dân cư, tạo điều kiện cho nhân dân tham

gia làm du lịch, mang lại sự hưởng lợi tối đa cho cộng đồng dân cư địa

phương tại khu di tích.

Ban hành các quy chế bảo vệ khu di tích.

73

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Khu di tích đền Trần là di sản văn hóa quý giá của quốc gia và là tài

nguyên du lịch văn hóa quan trọng của tỉnh Thái Bình. Đây là điểm du lịch

văn hóa lớn nhất trong khu vực và đã trở thành điểm du lịch quốc gia. Ngày

càng có nhiều người đến dự lễ khai trương đầu xuân. Quần thể di tích văn hóa

đền Trần ở Thái Bình đã và đang được nhà nước quan tâm chăm sóc, ngày

càng dành nhiều không gian để làm đẹp. Để tiếp tục thực hiện các hoạt động

du lịch văn hóa tâm linh tại khu di tích đền Trần, cần thực hiện các giải pháp

quy hoạch tổng thể, tôn tạo và bảo vệ, phát huy giá trị gia tăng, phát triển và

sử dụng tài nguyên du lịch văn hóa, tạo ra các sản phẩm du lịch đặc trưng. , và

hình thành các tuyến du lịch đa dạng. để thu hút khách du lịch. Đầu tư cơ sở

hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động du lịch, đồng thời tích cực

quảng bá, quảng bá các khu di sản cũng là một giải pháp khả thi để thu hút du

khách trong và ngoài nước.

Những điều kiện trên cho thấy huyện Hưng Hà nhìn thấy thị trường du

lịch và tiêu thụ hàng hóa lớn, song cũng là thách thức lớn trong cuộc cạnh

tranh thu hút vốn đầu tư để phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch văn hóa tâm

linh mà quần thể Di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà là một điểm

du lịch điển hình.

Với những giải pháp nêu trên, hi vọng các Ban ngành, tổ chức và cá

nhân tích cực xây dựng, tu bổ cơ sở vật chất kỹ thuật, hoàn thiện các hạng

mục công trình còn lại trong quần thể khu di tích đền Trần để có thể đáp ứng

nhu cầu khách du lịch trong những mùa lễ hội tiếp theo. Bên cạnh đó, cần duy

trì và gìn giữ những nghi lễ truyền thống, các trò chơi dân gian đặc trưng tại

đây để thu hút khách du lịch, góp phần phát triển du lịch văn hóa tâm linh

trong địa bàn huyện Hưng Hà và tỉnh Thái Bình.

74

KẾT LUẬN

Tài nguyên du lịch nhân văn, được thể hiện bởi hệ thống các di tích

văn hóa tín ngưỡng dân gian, tạo nên những di sản văn hóa ở Thái Bình, hầu

hết đều có nhiều tiềm năng khai thác, phát triển hoạt động du lịch văn hóa tâm

linh. Khai thác được các tài nguyên du lịch đó sẽ góp phần định hướng cho sự

phát triển các ngành dịch vụ - thương mại.

Tổ chức hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của di tích đền Trần tại xã

Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình được đề cập sẽ đưa đến cho khách

du lịch những cảm xúc, hiểu biết mới về tín ngưỡng, lịch sử, văn hóa, mĩ

thuật, kiến trúc, nghệ thuật dân gian, và góp phần xây dựng các chương trình

du lịch, góp phần bảo vệ và cải thiện môi trường thiên nhiên, xã hội ở quanh

khu di tích thiêng liêng.

Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã tham khảo các tài liệu lịch

sử, văn hóa, Hán tự, khảo sát thực tế tại một số đền nổi tiếng thờ các vị vua

Trần, tiếp cận đề tài bằng nhiều phương pháp khoa học và chuyên môn. Đặc

biệt, là tác giả đã nhận được sự hướng nhiệt tình của Thạc sĩ Nguyễn Quang

Trung – người đã định hướng chuyên môn và hướng dẫn tận tình trong quá

trình thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này. Đồng thời, tác giả khóa luận

xin cảm sâu sắc tới các thầy cô giáo trong khoa Quản lý xã hội… đã nhiệt tình

giúp đỡ tác giả về tài liệu tham khảo để thực hiện đề tài này.

Đồng thời tác giả khóa luận cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ban

quản lý di tích đền Trần, các thủ nhang đồng đền tại tỉnh Thái Bình và lân cận

đã tận tình, thân thiện hợp tác và cung cấp thông tin quý giá về văn hóa tâm

linh tại đền Trần, đã giúp đề tài khóa luận hoàn thành yêu cầu nghiên cứu.

Tiếp đó, tác giả xin gửi tới gia đình, bạn bè, các anh, chị khóa trên đã

giúp đỡ về nguồn tư liệu và nghiệp vụ hoàn thành đề tài này.

Đây là công trình nghiên cứu đầu tay của tác giả. Chính vì vậy, nội

dung luận văn không thể tránh khỏi những thiếu sót và cách trình bày chưa

được hấp dẫn. Kính mong Hội đồng khoa học có những đánh giá nhận xét, chỉ

dẫn thêm cho tác giả khóa luận.

75

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb.Tổng hợp

Đồng Tháp, 1998.

2. Luật du lịch năm 2017

3. Nguyễn Duy Hinh, Tâm Linh Việt Nam, Nxb.Từ điển bách

khoa,2008

4. Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh, Nxb.Văn Hóa Thông Tin,

2002

5. Quỳnh Cư & Đỗ Đức Hùng (1983), Các triều đại Việt

Nam,Nxb.Thanh Niên.

6. Nguyễn Bích Ngọc (2009), Nhà Trần trong văn hóa Việt

Nam,Nxb.Thanh Niên.

7. TS.Dương Văn Sáu (2007), Di tích Lịch sử -Văn hóa và Danh thắng

Việt Nam,Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội.

8. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (

2005), Từ điển Bách Khóa Việt Nam, tập 1, 2,3,4, Nxb Từ điển bách khoa

Việt Nam, Hà Nội.

9. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb.KHXH, H.1998, Tập I, II

10. Đặng Hùng, Long Hưng- đất phát nghiệp Vương triều Trần, Nxb

Văn hóa- thông tin Hà Nội, 2011

11. Trần Ngọc Thêm ( 1995), Cơ sở văn hóa Việt Nam, trường ĐHTH,

Thành phố Hồ Chí Minh, NXB Giáo Dục,

12. Tổng cụ du lịch Việt Nam trung tâm công nghệ thông tin du lịch (

2008), Non nước Việt Nam, NXB Tổng cục du lịch Việt Nam

13. Ngàn năm đất và người Thái Bình, SởVăn hóa –Thông tin Thái

Bình, 1990.

14. Nhà Trần và con người thời Trần, Viện Sử học Hội khoa học

Lịch sử Việt Nam, SởVHTT&DL Thái Bình,2009.

76

15. Vũ Đức Thơm & Phạm Tất Lượng,Đền Trần và Thái Đường lăng,

Ban Tuyên giáo huyện ủy Hưng Hà, 2005.

Nguồn từ các webise

https://sovhttdl.thaibinh.gov.vn

https://www.mpi.gov.vn

https://thaibinh

http://hungha.gov.vn

77

PHỤ LỤC

Phụ lục 1 : Phiếu khảo sát điều tra

Phiếu khảo sát điều tra về thực trạng phát triển du lịch văn hóa tâm linh

tại Đền Trần Thái Bình

Xin trân trọng kính chào quý anh (chị)

Hiện nay tác giả đang làm khóa luận về đề tài „Hoạt động du lịch văn

hóa tâm linh tai quần thể Di tích đền Trần, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà, tỉnh

Thái Bình” và dưới đây là bảng điều tra câu hỏi về các hoat động du lịch tâm

linh đối với khách du lich khi đến Đền Trần và những nhân xét, đánh giá về

cách khai thác, phát triển du lịch tâm linh tại nơi đây.

Với mỗi câu hỏi anh chi hãy lựa chọn câu trả lời đúng nhất bằng cách

khoanh tròn vào đáp án đúng nhất theo suy nghĩ và cảm nhân của anh chi.

Những thông tin mà anh chi cung cấp chính là những thông tin cần thiết giúp

chúng tôi có đươc thông tin chính xác nhất về thưc trang du lich tâm linh nơi

đây để đưa ra các biên pháp phát triển môt cách hơp lý nhất.

Kính mong anh chi trả lời câu hỏi môt cách khách quan nhất

1. Thông tin cá nhân

1.1 Ho và tên: (không bắt buôc)

1.2 Đô tuổi:

1.3 Giới tính:

1.4 Nghề nghiêp:

2. Câu hỏi trắc nghiệm

2.1 Mục đích của anh chi khi đến Đền Trần là gì?

A. Du lich tâm linh

B. Tham quan di tích

C. Nghiên cứu

D. Muc đích khác

2.2 Đây là lần thứ bao nhiêu anh, chị đến với khu di tích?

78

A. 1

B. 2

C. 3

D. > 4

2.3 Anh Chị thích đến Đền Trần vào khoảng thời gian nào?

A. Thời điểm lễ hội

B. Thời điểm ngoài lễ hội

C. Cả hai thời gian trên

2.4 Anh chi nhân xét gì về thức trạng khai thác và bảo tồn di tích

A. Đang được khai thác ở mức đô rất tốt

B. Đang được khai thác ở mức đô tốt

C. Đang được khai thác ở mức đô bình thường

D. Đang được khai thác ở mức đô kém

2.5 Cơ sở vất chất khu di tích có đƣơc đảm bảo không

A. Bảo tồn ở mức đô rất tốt

B. Bảo tồn ở mức đô tốt

C. Bảo tồn ở mức đô bình thường

D. Bảo tồn ở mức đô kém

2.6 Các cơ sở tham quan giải trí mua sắm phuc vụ cho lễ hội diễn

ra nhƣ thế nào

A. Các điểm tham quan giải trí phục vụ cho lễ hội diễn ra theo đúng

truyền thống đảm bảo an ninh trật tự

B. Các điểm tham quan giải trí phục vụ lễ hội diễn ra không theo trât

tự, mất kiểm soát an ninh

2.7 Anh chị nhận xét về mức độ và cách tổ chức lễ hội tại đền Trần

A. Hê thống tổ chức lễ hội tại đền trần diễn ra theo đúng như truyền

thống với mức độ trang nghiêm, trât tư rất cao

B. Hê thống tổ chức lễ hôi tại đền trần diễn ra theo đúng như truyền

79

thống với mức độ trang nghiêm, trật tư cao

C. Hê thống tổ chức lễ hội tại đền Trần diễn ra theo đúng như truyền

thống với mức độ trang nghiêm, trật tư trung bình

D. Hê thống tổ chức lễ hội tại đền trần diễn ra theo đúng như truyền

thống với mức độ trang nghiêm, trật tự kém

2.8 Nhân xét của anh chị về cách quản lý lễ hội của ban tổ chức lễ

hội

A. Quản lý đưồng đều, thống nhất từ trên xuống

B. Quản lý không đồng đều, thống nhất

2.9 Anh chị là ngƣời địa phƣơng hay từ nơi khác đến Đền Trần

A. Người địa phương

B. Nơi khác

2.10 Anh chị có theo đạo phật không

A. Có

B. Không

2.11 Anh chi sẽ quay lại vào dip lễ hôi năm sau hay không

A. Có

B. Không

Cảm ơn anh chi về những ý kiến đã đóng góp!

80

Phụ lục 2: Xây dựng chƣơng trình tour tiêu biểu

Tour 01: thành phố Thái Bình- Hưng Hà- thành phố Thái Bình (2

ngày 1 đêm)

Ngày 1:

- 08h00: đoàn khởi hành tới thăm DTLSVH đền Tiên La- thờ nữ tướng

anh hùng của thời Hai Bà Trưng – Bát nàn tướng quân Vũ Thị Thục

- 11h30: Xe đưa quý khách đi ăn trưa, thưởng thức đặc sản địa phương

với những món ăn dân dã thông quê

- 13h30: xe đưa đoàn đến thăm quan di tích đền Trần- mảnh đất Thái

Đường xua- nơi phát tích, đất lăng mộ tôn miếu của một dòng họ, một triều

đại gần 800 năm về trước đã làm vẻ vang lịch sử phong kiến nước nhà.

- 15h30: Xe đưa đoàn rời đền Trần, đến thăm làng nghề hiếu Hới- nơi

phát triển nghề dệt chiếu từ thế kỷ X, thăm quan đền Quan Trạng- thờ Quan

Trạng Phạm Đôn Lễ ( thế kỷ XV)- người có công lao lớn canh tân nghề dệt

chiếu cổ truyền của làng.

- 18h30: xe đưa đoàn về khách sạn, nhận phòng, ăn tối, nghỉ ngơi tại

khách sạn

Ngày 02:

- 08h00: xe đưa đoàn tham quan Nhà lưu niệm Bác Hồ, từ đường Lê

Quý Đôn của nhà bác học lỗi lạc lớn nhất Việt Nam thế kỷ XVII

- 11h30: xe đưa đoàn đi ăn trưa, nghỉ ngơi tại khách sạn

- 13h30: xe đưa đoàn tham quan Làng nghề dệt Phương La, mua sắm

đồ lưu niệm. sau đó đoàn lên xe trở về thành phố Thái Bình

- 17h00: đoàn có mặt tại thành phố Thái Bình- kết thúc chuyến tham

quan.

81

Tour 2: Du lịch tâm linh - hành hương về quê lúa : Hà Nội – Thái

Bình- Hà Nội ( 2 ngày 1 đêm)

Ngày 01:

- 06h00: đoàn khởi hành từ Hà Nội về Thái Bình theo hướng cầu Triều

Dương đi qua tỉnh Hưng Yên

- 08h00: Thăm quan làng chiếu Hới- xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà( ngay

sát cầu Triều Dương) – quê hương của Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ.

- 9h30: Thăm quan và dâng hương tại đền Trần- thôn Tam Đường- xã

Tiến Đức, huyện Hưng Hà - gồm Đền thờ và lăng mộ thờ các vua quan nhà

Trần, nơi đây chính là nơi quê hương, phát tích của triều đại Nhà Trần trong

lịch sử Việt Nam, trải nghiệm các trò chơi dân gian và ẩm thực tại lễ hội đền

Trần Thái Bình.

- 12h00: xe đưa đoàn đi ăn trưa và nghỉ ngơi tại thị trấn Hưng Hà.

- 13h30: Xe đưa đoàn tới tham quan đền Tiên La- nơi lưu giữ rất nhiều

giá trị văn hóa đặc sắc, đồng thời là nơi thờ Bát nàn tướng quân Vũ Thị Thục

Nương.

- 16h00: xe đưa đoàn thăm quan làng dệt khăn Phương La – Thái

Phương, hay làng Mẹo theo tên cổ.

- 18h00; xe đưa đoàn quay về thị trấn Hưng Hà, ăn tối và nghỉ đêm.

Ngày 02:

- 7h30: xe khởi hành đến thăm đền Đồng Bằng- huyện Quỳnh Phụ. Tới

đền Đồng Bằng, Quý khách vào thăm nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải Động

Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập ấp

xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đây là quần thể di tích lớn với

nhiều đền nhỏ thờ quan lớn đệ nhất, đệ nhị, đệ tam. Quý khách cùng cầu tài

lộc và 1 năm thuận hòa.

- 10h00: xe đưa đoàn thăm quan làng nghề làm bánh Cáy ở làng

Nguyễn- Đông Hưng- một đặc sản nổi tiếng Thái Bình.

82

Tour 3: Du lịch tâm linh- hành hương về quê lúa : Hà Nội – Thái

Bình- Hà Nội ( 2 ngày 1 đêm)

Ngày 01:

- 06h00: đoàn khởi hành từ Hà Nội về Thái Bình theo hướng cầu Triều

Dương đi qua tỉnh Hưng Yên

- 08h00: Thăm quan làng chiếu Hới- xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà( ngay

sát cầu Triều Dương) – quê hương của Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ.

- 9h30: Thăm quan và dâng hương tại đền Trần huyện Hưng Hà bao

gồm Đền thờ và lăng mộ thờ các vua quan nhà Trần, nơi đây chính là nơi quê

hương, phát tích của triều đại Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam

- 12h00: xe đưa đoàn đi ăn trưa và nghỉ ngơi tại thị trấn Hưng Hà.

- 13h30: Xe đưa đoàn tới tham quan đền Tiên La- nơi lưu giữ rất nhiều

giá trị văn hóa đặc sắc, đồng thời là nơi thờ Bát nàn tướng quân Vũ Thị Thục

Nương.

- 16h00: xe đưa đoàn thăm quan làng dệt khăn Phương La – Thái

Phương, hay làng Mẹo theo tên cổ.

- 18h00; xe đưa đoàn quay về thị trấn Hưng Hà, ăn tối và nghỉ đêm.

Ngày 02:

- 7h30: xe khởi hành đến thăm đền Đồng Bằng tại huyện Quỳnh Phụ.

Tới đền Đồng Bằng, Quý khách vào thăm nơi thờ Đức Vua Cha Bát Hải

Động Đình, người có công lớn trong việc bình thục giữ nước và chiêu dân lập

ấp xây dựng giang sơn xã tắc từ buổi sơ khai. Đây là quần thể di tích lớn với nhiều

đền nhỏ thờ quan lớn đệ nhất, đệ nhị, đệ tam. Quý khách cùng cầu tài lộc và 1 năm

thuận hòa.

- 10h00: xe đưa đoàn thăm quan làng nghề làm bánh Cáy ở làng

Nguyễn- Đông Hưng- một đặc sản nổi tiếng Thái Bình.

- 11h30: xe đưa đoàn về thành phố Thái Bình ăn trưa, nghỉ ngơi.

- 13h30: xe đưa đoàn thăm quan chùa Keo- huyện Vũ Thư- một trong

83

những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.

- 16h00: xe đưa đoàn khởi hành về Hà Nội- kết thúc chuyến tham quan

Tour 4: Từ Kinh đô về thăm thái miếu: Hà Nội- Nam Định- Thái

Bình- Hà Nội

( 2 ngày 1 đêm)

Ngày 01:

- 6h30: xe xuất phát từ Hà Nội đến tham quan đền Trần – Nam Định.

- 8h30: đoàn xuống xe thăm quan, thắp hương tại đền Trần- Nam Định

- 11h30: Xe khởi hành về thành phố Thái Bình ăn trưa và nghỉ ngơi

- 13h30: xe đưa đoàn thăm quan chùa Keo – huyện Vũ Thư- Thái Bình

một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam.

- 16h00: xe đưa đoàn đến thăm làng vườn Bách Thuận- huyện Vũ Thư-

Thái Bình.

- 18h00: Xe đưa đoàn về thành phố Thái Bình, ăn tối, nghỉ ngơi.

Ngày 02:

- 7h00: xe khởi hành đi thăm đền Trần tại xã Tiến Đức, huyện Hưng

Hà- gồm Đền thờ và lăng mộ thờ các vua quan nhà Trần, nơi đây chính là nơi

quê hương, phát tích của triều đại Nhà Trần trong lịch sử Việt Nam

- 10h30: xe đưa đoàn đến tham quan lăng Thái sư Trần Thủ Độ và Linh

từ quốc mẫu Trần Thị dung tại xã Liên Hiệp- huyện Hưng Hà.

- 12h00: xe đưa đoàn ăn trưa tại thị trấn Hưng Hà

- 13h30: đoàn khởi hành đi thăm quan đền Tiên La - nơi lưu giữ rất

nhiều giá trị văn hóa đặc sắc, đồng thời là nơi thờ Bát nàn tướng quân Vũ Thị

Thục Nương.

- 16h00: đoàn đi thăm quan làng chiếu Hới- nơi phát triển nghề dệt

chiếu từ thế kỷ X.

- 17h30: xe khởi hành về Hà Nội theo lối cầu Triều Dương, đi qua tỉnh

Hưng Yên- kết thúc hành trình.

84

Tour 5: Du lịch lễ hội: Hà Nội- đền Trần Thái Bình- đền Bát Ngàn-

Tiên La Linh tự- Hà Nội ( 1 ngày)

- 07h00: Xe đón quý khách tại điểm hẹn khởi hành đi lễ đầu xuân Đền

Trần Hưng Hà - Thái Bình "Đền thờ và Lăng mộ các vua Trần - Xã Tiến Đức,

Huyện Hưng Hà, Tỉnh Thái Bình" Trên đường đi xe dừng trên dọc đường cho

Quý khách nghỉ ngơi ăn sáng, sau đó tiếp tục lên xe

- 09h00: Đến Đền Trần, Quý khách sửa sang và sắp lễ, quý khách tự do

dâng lễ cầu Lộc cầu Tài và Cầu sức khỏe...

Sau đó quý khách tham quan và chiêm ngưỡng cảnh đẹp làng quê bên

sông

- 11h30: Xe đưa quý khách đi ăn trưa, thưởng thức đặc sản địa phương

với những món ăn dân dã thôn quê.

- 13h30: Xe đưa quý khách về lại điểm đón ban đầu, trên đường quý

khách, tham quan Đó là đền Tiên La (Tiên La linh từ) di tích lịch sử văn hoá

cấp Quốc gia - nơi thờ Bát Nạn Tướng quân Vũ Thị Thục (thường gọi là Thục

Nương) là danh tướng triều Hai Bà Trưng.

Quý khách tự do tham quan và làm lễ dâng hương.

- 15h30: Xe khởi hành về Hà Nội. Quý khách nghỉ ngơi tại Tp Hưng

Yên , tự do mua sắm đặc sản địa phương. Về lại điểm đón ban đầu

Kết thúc chương trình.

85

Phụ lục 3: Sơ đồ khu di tích

Hệ thống công trình tại

quần thể Di tích đền

Trần, xã Tiến Đức,

huyện Hƣng Hà

1. Cổng Đền

2. Giếng Ngọc

3. Sân Đền

4. Tòa Bái Đường

5. Sân Chầu

6. Hai Tòa Giả Vũ

7. Tòa Đệ Nghị

8. Tòa Hậu Cung

SƠ ĐỒ TOÀN CẢNH

ĐỀN TRẦN (Cũ)

86

Phụ lục 4: Một số hình ảnh

Cổng ngũ thiên môn

87

Lăng mộ các vị vua nhà Trần

Tứ trụ nghi môn

Tòa phƣơng đình trên trục thần đạo

Lễ hội khai ấn

88