
Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán
Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán (Audit Expectation Gap) không phải là
một vấn đề mới trong lĩnh vực kiểm toán. Nó được xem như một hình ảnh xấu
cho kiểm toán nói chung và kiểm toán độc lập nói riêng.
Khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán
Bài viết này trình bày bản chất và các nguyên nhân hình thành khoảng cách kỳ
vọng kiểm toán trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Qua đó để giảm bớt
khoảng cách kỳ vọng kiểm toán thì cần nâng cao trách nhiệm và thực hành kiểm
toán từ phía các kiểm toán viên và công ty kiểm toán; nâng cao nhận thức của
những người sử dụng báo cáo tài chính; và hoàn thiện hệ thống luật pháp.
Khái niệm khoảng cách kỳ vọng kiểm toán
Theo Liggio (1974), khoảng cách kỳ vọng kiểm toán là sự khác biệt giữa mức độ
dự định thực hiện theo nhận thức của KTV và của những người sử dụng BCTC. Ủy
ban Cohen (1978) về trách nhiệm của KTV mở rộng khái niệm này bằng việc xem
xét xem có khoảng cách nào tồn tại giữa những gì mà công chúng kỳ vọng và
những gì mà KTV có thể và nên dự định thực hiện.
Theo Guy và Sullivan (1988), có sự khác biệt giữa những gì mà công chúng và
những người sử dụng BCTC tin tưởng KTV chịu trách nhiệm và những gì mà KTV
tin tưởng họ chịu trách nhiệm. Godsel (1992) mô tả khoảng cách kỳ vọng là
khoảng cách mà công chúng tin tưởng về nhiệm vụ và trách nhiệm của KTV và
thông điệp thể hiện trong Báo cáo kiểm toán.

Monroe và Woodliff (1003) cho rằng khoảng cách kỳ vọng kiểm toán là sự khác
biệt về niềm tin giữa KTV và công chúng về nhiệm vụ và trách nhiệm mà KTV
đảm nhận và thông điệp trình bày trong báo cáo kiểm toán. Theo Viện Kế toán
viên Công chứng Hoa Kỳ (1993), khoảng cách kỳ vọng đề cập đến sự khác biệt
giữa những gì mà công chúng và người sử dụng BCTC tin rằng trách nhiệm của
KTV phải làm và những gì mà KTV tin rằng trách nhiệm họ phải làm. Viện Kế
toán viên Công chúng Úc (1994) cho rằng khoảng cách kỳ vọng là sự khác biệt về
kỳ vọng của người sử dụng BCTC và chất lượng lập BCTC & chất lượng dịch vụ
kiểm toán.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng mặc dù các khái niệm với các từ ngữ khác nhau
nhưng các khái niệm trên đều đề cập đến khoảng cách về sự nhận thức hoạt động
thực tế của KTV và kỳ vọng mà KTV phải thực hiện; và tồn tại sự khác biệt về
nhận thức giữa KTV, người sử dụng BCTC và xã hội.
Trên thực tế, lúc nào cũng có sự khác biệt về nhận thức giữa KTV và công ty kiểm
toán thực hiện hoạt động kiểm toán, và sự nhận thức của những người sử dụng
BCTC và xã hội đối với hoạt động kiểm toán. Tuy nhiên, khi hoạt động kiểm toán
ngày càng trở nên phổ biến thì khoảng cách này lại có sự thu hẹp qua thời gian.
Chính do xuất hiện khoảng cách kỳ vọng trong kiểm toán mà sự mâu thuẫn và hiểu
lầm giữa KTV và Công ty kiểm toán, và những người sử dụng BCTC thường
xuyên xảy ra. Sự xuất hiện khoảng cách kỳ vọng kiểm toán này, xét một cách
khách quan, được hình thành từ cả phía KTV và Công ty kiểm toán; và chính từ
phía những người sử dụng BCTC.
Nguyên nhân hình thành khoảng cách kỳ vọng kiểm toán
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành khoảng cách kỳ vọng kiểm toán.
Trong các nghiên cứu của Guy và Sullivan (1988), Godsel (1992), Monroe và
Woodliff (1993) và các nghiên cứu khác khẳng định rằng sự hình thành khoảng
cách kỳ vọng kiểm toán xuất phát phổ biến từ phía KTV và công ty kiểm toán và
từ phía những người sử dụng BCTC.
Thứ nhất, từ phía KTV và công ty kiểm toán. Cụ thể, các dịch vụ kiểm toán do
KTV và công ty kiểm toán cung cấp chưa thực sự hoàn hảo và chưa thỏa mãn nhu
cầu và kỳ vọng của những người sử dụng BCTC. Dịch vụ kiểm toán chưa hoàn hảo
có thể do:
- Năng lực nghề nghiệp của KTV thực hiện cuộc kiểm toán chưa cao do vậy chưa
phát hiện được các sai phạm trọng yếu vẫn còn tồn tại trong BCTC đã được kiểm

toán;
- Tính độc lập của KTV bị vi phạm như KTV chưa độc lập đầy đủ về quan hệ xã
hội và quan hệ kinh tế với đơn vị được kiểm toán và chưa độc lập trong việc thu
thập và đánh giá các bằng chứng kiểm toán;
- Không phải lúc nào KTV cũng kiểm tra 100% các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
cho nên hoạt động kiểm toán lúc nào cũng tồn tại rủi ro;
- Môi trường luật pháp về kiểm toán chưa thực sự đồng bộ và đầy đủ.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện các cuộc kiểm toán bao gồm cả cuộc kiểm toán
BCTC, các KTV và Công ty kiểm toán chưa thông báo và giải thích hoặc có thông
báo và giải thích không đầy đủ cho những người sử dụng BCTC như Ban Giám
đốc công ty khách hàng và các bộ phận có liên quan trong đơn vị được kiểm toán
như phòng Kế toán … về bản chất của cuộc kiểm toán. Cụ thể, người sử dụng
BCTC vẫn chưa hiểu thấu đáo cơ sở tiến hành kiểm toán; đối tượng kiểm toán;
phạm vi kiểm toán; ý kiến kiểm toán, mức trọng yếu, các loại rủi ro có liên quan …
Hơn nữa, ý kiến chấp nhận từng phần có ngoại trừ bị lạm dụng và được nhiều KTV
và công ty kiểm toán đưa ra. Mục đích của việc đưa ra ý kiến này là để giảm thiểu
trách nhiệm của KTV về BCTC đã được kiểm toán. Theo Chuẩn mực kiểm toán
Việt Nam số 700 và 705, ý kiến chấp nhận từng phần được được áp dụng trong
trường hợp KTV kết luận là các sai sót, xét riêng lẻ hay tổng hợp lại, có ảnh hưởng
trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC; hoặc KTV không thể thu thập được
đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến kiểm toán,
nhưng KTV kết luận rằng những ảnh hưởng có thể có của các sai sót chưa được
phát hiện (nếu có) có thể là trọng yếu nhưng không lan tỏa đối với BCTC.
Thứ hai, từ phía chính những người sử dụng BCTC. Vẫn còn nhiều quan niệm
cho rằng (i) trách nhiệm của KTV là bảo đảm BCTC được kiểm toán là chính xác
tuyệt đối và không có bất cứ sai sót nào tồn tại; và (ii) KTV cần phải kiểm tra
100% các nghiệp vụ kinh tế và phát hiện tất cả các sai sót và gian lận qua đó cảnh
báo tất cả các rủi ro có thể xảy ra đến doanh nghiệp; và (iii) BCTC phải trình bày
tất cả các thông tin có liên quan đến mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Nhiều người sử dụng BCTC cho rằng BCTC đã được kiểm toán là sự bảo đảm
tuyệt đối các thông tin phản ánh trên BCTC của doanh nghiệp. Nhiều người sử
dụng BCTC đã được kiểm toán cũng kỳ vọng rằng số liệu mà KTV xác nhận trên
BCTC phải giống như số liệu mà các cơ quan khác thanh quyết toán BCTC của

