
KHU BẢO TỒN BIỂN
MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THIẾT
LẬP KHU BẢO TỒN BIỂN
Khu bảo tồn biển là vùng đặc biệt được dành để bảo vệ và duy trì tính đa
dạng sinh học, các nguồn tài nguyên biển,các đặc điểm lịch sử, văn hóa đi
kèm được quản lý, duy trì và bảo vệ theo quy định của pháp luật hoặc các
phương thức hữu hiệu khác. Khu bảo tồn
biển thường được sử dụng như một thuật ngữ chung mô tả vùng biển hạn
chế hoạt động của con người để bảo vệ tài nguyên biển. Ở vùng biển nhiệt
đới, khái niệm các khu bảo tồn biển thường gắn với các hệ sinh thái như
rạn san hô, rừng ngập mặn, thảm cỏ biển. Đây là những quần cư có tính đa
dạng rất cao và đồng thời đóng vai trò quan trọng cho việc bảo vệ nguồn
lợi thủy sản và duy trì môi trường vùng biển.(Theo nghĩa hẹp, khu bảo tồn
biển còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh biển).
Các khu bảo tồn biển có vai trò quan trọng đối với nguồn lợi thủy sản, nơi

đây phải là nơi sinh sản và ương giống của các loài có giá trị cao. Đây là
vùng biển được thành lập nhằm quản lý, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và
cho những mục đích khác không gây tác động xấu đến môi trường. Khu
bảo tồn biển còn là nơi để bảo vệ, ương dưỡng giống quý, lưu giữ những
gen quý.
*MỤC ĐÍCH:
Việc thiết lập các khu bảo tồn nhằm “duy trì các quá trình sinh thái quan
trọng và các hệ thống nuôi dưỡng sự sống, đảm bảo việc sử dụng lâu bền
các loài sinh vật và các hệ sinh thái, và bảo tồn đa dạng sinh học”, “bảo tồn
một mô hình điển hình về đa dạng sinh học biển có tầm quan trọng quốc tế
và đang bị đe dọa”. Trước tình trạng khai thác quá mức như hiện nay, các
khu bảo tồn biển được thiết lập và quản lí tốt giúp cho nhiều loài sinh vật
biển trốn tránh sự huỷ diệt sinh thái. Khái niệm này liên quan đến tập tính
của nhiều loài sinh vật biển biết tìm quần cư trú ẩn trong những giai đoạn
nhạy cảm của vòng đời và nhờ vậy tránh được thảm hoạ bị tiêu diệt. Mặt
khác, thủy vực của các khu bảo tồn biển là nơi cuối cùng để các loài quí
hiếm hoặc bị đe doạ tìm nơi trú ẩn trước hoạt động khai thác ngày càng gia

tăng của con người. Các loài có giá trị cao này sẽ tìm được cơ hội phục hồi
khi có những nghiên cứu nhằm phát triển giống loài trong tương lai thông
qua các hoạt động như nhân giống, nuôi trồng đại trà. Bảo tồn tính đa dạng
cũng giúp duy trì các nguồn gen để sử dụng trong công nghệ sinh học nhằm
tạo ra những giống loài sinh vật biển có năng suất và chất lượng cao khi
điều kiện cho phép (Võ Sĩ Tuấn, 2003).
Việc thiết lập các khu bảo tồn nhằm "duy trì các quá trình sinh thái quan
trọng và các hệ thống nuôi dưỡng sự sống, đảm bảo việc sử dụng lâu bền
các loài sinh vật và các hệ sinh thái, và bảo tồn đa dạng sinh học".
C Mục đích cụ thể:
- Nghiên cứu khoa học;
- Bảo vệ các vùngbiển;
- Bảo vệ sự đa dạng loài và gen;
- Duy trì các lợi ích về môi trường từ thiên nhiên, đặc biệt là môi trường
biển;
- Bảo vệ các cảnh quan đặc biệt về thiên nhiên biển cũng như văn hoá biển;
- Sử dụng cho du lịch và giải trí;

- Giáo dục;
- Sử dụng hợp lí các tài nguyên biển từ các hệ sinh thái tự nhiên;
- Khu bảo tồn biển là những khu được bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ dành cho
các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và quan trắc môi trường. Các
khu bảo tồn biển này cho phép gìn giữ các quần thể của các loài cũng như
các quá trình của hệ sinh thái không hoặc ít bị nhiễu loạn.
Xây dựng khu bảo tồn biển để phát triển kinh tế
Cùng góp sức vào sự đổi mới, trong những năm qua kinh tế biển luôn
đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất
nước, trong đó đặc biệt phải kể đến sự đóng góp của nguồn lợi thuỷ
sản.
Tuy nhiên, đến nay việc bảo tồn các khu vực biển vẫn chưa được quan
tâm đúng mức, hệ thống các khu bảo tồn biển nước ta vẫn chưa được
coi là tồn tại chính thức. Vì vậy nhiều vùng biển đã và đang bị xâm hại
đến mức báo động. Nguyên nhân của tình trạng trên là do trong nhiều năm
liền chúng ta chỉ quan tâm đến khai thác lợi ích kinh tế-xã hội mà các vùng
biển này đem lại mà quên đi mất mặt trái của nền kinh tế thị trường tác
động đến khu bảo tồn này.
Thực trạng các khu bảo tồn biển ở Việt Nam

Năm 1962, Khu Bảo tồn Vườn Quốc gia Cúc Phương (tỉnh Ninh Bình)
được thiết lập với mục đích bảo tồn tài nguyên rừng và là khu bảo tồn đầu
tiên có mặt ở Việt Nam. Tiếp sau đó nhiều khu bảo tồn khác ra đời bao
gồm cả trên đất liền, ven biển và các hòn đảo trên thầm lục địa…
Nhưng mục tiêu chính của các khu bảo tồn là bảo vệ nguồn tài nguyên và
môi trường biển vẫn chưa được chú trọng và quan tâm một cách sâu sắc.
Đến năm 1986 Vườn Quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) được thành lập với
5.400 ha vùng nước, được coi là khu bảo tồn biển (KBTB) đầu tiên của
nước ta.
Và đến năm 1993, phân vùng bảo tồn đa dạng sinh học biển mới được đưa
vào nằm trong quy hoạch quản lý của Vườn Quốc gia Côn Đảo (tỉnh Rà
Rịa - Vũng Tàu). Tuy vậy, việc quản lý các khu bảo tồn vẫn chưa được đặt
ngang tầm với những lợi ích của nó đem lại cho sự phát triển kinh tế.
Đến nay, sau nhiều động thái tích cực của các cấp, ngành, các khu bảo tồn
biển cũng đón nhận được một số tin vui từ sự quan tâm, chú trọng đầu tư,
bảo vệ của các tổ chức vào vùng đảo này.
Còn đối với các khu vực dự trữ một khối lượng lớn về tài nguyên đa dạng
sinh học đang tồn tại trên các đảo như Phú Quốc, Cù Lao Chàm…dường
như vẫn còn bỏ ngỏ.