Viên thuốc thông minh - Cuộc cách mạng

ngành dược khoa thế kỷ XXI

Năm 2008 giải thưởng “Công nghệ thiên niên kỷ” ( của Viện Công nghệ Phần lan,

coi như một giải Nobel không chính thức trong lĩnh vực công nghệ trên toàn thế

giới) được trao cho GS. Robert Langer, 59 tuổi thuộc Viện Công nghệ

Massachusetts ( MIT - Mỹ) với công trình “Nghiên cứu vật liệu sinh học thế hệ

mới dùng để phân phối thuốc có kiểm soát”. Ông đã tìm ra các chất liệu dùng để

sản xuất những bộ phận gắn với cơ thể bệnh nhân, cho phép sử dụng chính xác

liều lượng và kiểm soát được sự giải phóng dược phẩm vào cơ thể.

Công trình nghiên cứu của GS. Langer được bắt đầu vào năm 1974, khi ông

cùng GS. Judah Folkman tìm cách ngăn không cho các mạch máu phát triển (để

chữa trị các khối ung thư) thì hai ông đã nghĩ ra các vật liệu này. Đầu những năm

1990, các dạng polymer do ông chế tạo bắt đầu được sử dụng để bọc các loại dược

phẩm đưa thuốc trực tiếp vào não của bệnh nhân ung thư. Màng xốp này có kích

thước như một đồng xu, có thể phân phối dần dần thuốc chống ung thư trong vùng

khối u đã được cắt bỏ và tiêu diệt các tế bào ung thư còn lại. Vì những ưu điểm

vượt trội đó nên giới khoa học đã gọi những thuốc này là “ viên thuốc thông

minh”. Cho đến nay, trên toàn thế giới đã có khoảng hơn 50 triệu người sử dụng

viên thuốc thông minh dựa vào nguyên lý do ông sáng chế. Chủ tịch Hội đồng

bình chọn giải thưởng “Công nghệ thiên niên kỷ” đã đánh giá: “Những công nghệ

mới của Giáo sư Langer đã cứu sống và cải thiện cuộc sống hàng chục triệu bệnh

nhân. Đây sẽ là cuộc cách mạng ngành Dược khoa trong thế kỷ XXI và tương lai”.

Viên nhộng Ipill (Hãng Philips - Hà Lan) đo được lượng acid bằng thiết bị

cảm biến để xác định chính xác vị trí của nó trong ruột, sau đó phóng thích

dược chất. Ipill rất có hiệu quả trong điều trị các bệnh lý đường ruột

Viên thuốc thông minh thực chất là một “tổ hợp nhạy” bao gồm một bình

chứa dược chất gắn với một siêu chíp. Toàn bộ tổ hợp cỡ viên con nhộng, có thể

nuốt được hoặc được gắn vào răng. Bình chứa có dung tích khoảng 25 phần tỷ lít,

bên trong có nhiều ngăn để chứa cùng lúc nhiều loại dược phẩm cần thiết cho điều

trị một hoặc nhiều bệnh. Viên thuốc có van đóng mở điện tử để tự giải phóng

thuốc khi đến vị trí thích hợp trong bộ máy tiêu hoá. Toàn bộ đường đi của thuốc

đều được theo dõi và điều khiển bằng từ trường của một điều khiển bên ngoài cơ

thể hay theo một chương trình đã được cài đặt sẵn. Những viên thuốc thông minh

này có thể được cấy vào miệng hoặc uống vào cơ thể. Dưới tác dụng của từ trường

(điện thế 0,5 – 1,5 vol), thuốc thông minh có thể tự bơm ra dược chất kháng sinh,

hocmon, chống ung thư, điều trị tim mạch, huyết áp… theo đúng chương trình đã

dự định. Dược chất để nạp vào bình chứa có thể ở dạng lỏng, dạng bột,… Đến địa

điểm đã định trước và thời gian hẹn sẵn, “cánh cửa” trên viên thuốc sẽ tự mở và

một liều thuốc được bơm ra, nhanh chóng phát huy tác dụng ngay tại chỗ hoặc hấp

thu vào máu, thẩm thấu vào mao mạch… Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, nó sẽ tự

tiêu huỷ và tự đào thải ra ngoài, không ảnh hưởng gì đến mọi chức năng trong cơ

thể.

Viên thuốc thông minh là sự lựa chọn tối ưu cho bệnh nhân Alzheimer (mất

trí nhớ), ung thư, huyết áp-tim mạch, bệnh nội tiết… Với bệnh nhân Alzheimer

thường xuyên quên uống thuốc hoặc tiêm thuốc, viên thuốc thông minh là một giải

pháp tuyệt vời. Đến giờ, theo đúng lập trình của bác sỹ, viên thuốc này sẽ tự động

tiết một liều dược chất vào cơ thể. Thay vì phải có người nhắc hoặc cho uống

thuốc, tự những viên thuốc giờ đây đã có thể đảm trách công việc đó đồng thời với

chức năng chữa bệnh. Đối với bệnh nhân mắc bệnh ung thư, cho đến nay đa số

thuốc điều trị ung thư đều là những hợp chất có tác dụng phụ rất độc hại. Ngoài

việc tiêu diệt tế bào ung thư, chúng còn huỷ hoại cả những tế bào sống mạnh khoẻ.

Vì thế, thế hệ thuốc thông minh hoàn toàn có thể giúp giảm thiểu tác dụng phụ,

đồng thời phát huy hiệu quả cao nhất tiêu diệt khối ung thư nhờ cơ chế kích hoạt

đặc biệt và điều trị nhằm đích của nó. Gần đây, lần đầu tiên hãng Roche (Pháp) đã

sản xuất thành công Xeloda – một thuốc điều trị ung thư. Không giống như hoá

chất chống ung thư thông thường như hiện nay, Xeloda chỉ tìm kiếm tấn công các

tế bào ung thư mà không đụng đến các tế bào lành trong cơ thể, tránh thương tổn

kiểu “vạ lây”. Theo các nhà nghiên cứu, viên thuốc thông minh cũng rất lý tưởng

cho bệnh nhân bị bệnh cấp tính như đột quỵ, động kinh, hen suyễn, huyết áp - tim

mạch, đặc biệt những người hay đổ bệnh vào lúc nửa đêm. Viên thuốc có thể được

lập trình để nhả dược chất ra bất cứ lúc nào khi bệnh tái phát. Không những thế,

các nhà nghiên cứu cũng có thể lập trình thời gian và khả năng giải phóng thuốc

tuỳ theo tuổi tác, giới tính, cân nặng, tiền sử bệnh án của bệnh nhân…

Mặc dù có rất nhiều ưu điểm, giá thành cũng không phải là đắt nhưng viên

thuốc thông minh còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Nhược điểm lớn nhất là

không phải dược chất nào cũng tương thích với bình chứa. Ngoài ra, bệnh nhân

cũng có thể dị ứng với thành phần cấu tạo của bình chứa khi đưa chúng vào cơ thể.

Do đó việc tìm ra loại vật liệu thích hợp để chế tác các loại bình chứa dùng chuyên

biệt cho từng loại dược chất đang là mục tiêu lớn nhất của các nhà khoa học. Bài

toán này được giải đáp sẽ thật sự dẫn đến những thay đổi mang tính cách mạng

cho ngành Dược khoa trong thế kỷ XXI và tương lai.

Ths.Ds. Vũ Hồng Minh – Khoa Dược, Bệnh viện Mắt TW

Thiếu vitamin A và khô mắt ở trẻ em

Việc phòng bệnh và phát hiện sớm bệnh để điều trị kịp thời cho trẻ là rất quan

trọng, quyết định con trẻ sẽ có đôi mắt trong sáng hay sẽ bị mù loà suốt đời. Vì

vậy, các bậc cha mẹ trẻ, cô giáo nuôi dạy trẻ và mọi người cần biết rõ cách phòng

bệnh, cách phát hiện sớm bệnh và cách xử trí đúng khi trẻ bị mắc bệnh để bảo vệ

đôi mắt trong sáng cho trẻ thơ.

Biểu hiện sớm nhất của bệnh là quáng gà: buổi tối, trẻ nhỏ đi lại khó khăn, hay

va vấp phải các đồ vật trong nhà, hoặc phải lần theo tường để đi. Trẻ lớn hơn

không dám chạy theo bạn đùa nghịch, thường ngồi yên ở góc nhà hoặc bậc cửa.

Khi ăn, có thể trẻ xúc trượt đĩa thức ăn. Trẻ bé hơn có thể hay theo nhầm người

khác tưởng là mẹ.

Thiếu vitamin A và bệnh khô mắt trẻ em là một vấn đề thiếu dinh dưỡng quan

trọng ở nhiều nước đang phát triển, đặc biệt ở các nước nghèo. Tổ chức Y tế thế

giới ước tính hàng năm có khoảng hơn 3,1 triệu trẻ em dưới 5 tuổi bị mắc bệnh

khô mắt, hơn nửa triệu trẻ em bị mù do thiếu vitamin A, một nửa triệu trẻ em

khác tử vong do khô mắt và coi đây là một trong 5 nguyên nhân gây mù chủ yếu

cho nhân loại.

Trước đây ở nước ta, bệnh khô mắt do thiếu vitamin A đã tồn tại dai dẳng và khá

trầm trọng. Năm 1985-1988, tỷ lệ mắc bệnh khô mắt và thiếu vitamin A ở trẻ em

nước ta là 0,78% trong số trẻ dưới 5 tuổi và là nguyên nhân hàng đầu gây mù ở trẻ

em. Từ năm 1989, chương trình phòng chống bệnh khô mắt và thiếu vitamin A ở

Việt nam đã được Bộ Y tế triển khai rộng khắp cả nước với sự giúp đỡ của quốc tế

bằng các biện pháp chủ yếu là cho trẻ uống vitamin A liều cao định kỳ 6 tháng 1

lần, giáo dục truyền thông về nuôi con bổ sung vitamin A trong khẩu phần ăn hàng

ngày cho trẻ, kết hợp với các chương trình chăm sóc sức khoẻ ban đầu khác như

tiêm chủng phòng sởi, chống tiêu chảy. Sau nhiều năm tiến hành chương trình,

hiện nay bệnh khô mắt và thiếu vitamin A ở trẻ em Việt nam đã không còn mang ý

nghĩa sức khoẻ xã hội, chỉ còn rải rác ở các vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Tuy

vậy, chương trình vẫn cần tiếp tục tiến hành trong một thời gian nữa cho đến khi

bệnh khô mắt hoàn toàn được thanh toán ở nước ta.

Các triệu chứng của bệnh khô mắt như sau:

1. Biểu hiện sớm nhất của bệnh là quáng gà: buổi tối, trẻ nhỏ đi lại khó khăn,

hay va vấp phải các đồ vật trong nhà, hoặc phải lần theo tường để đi. Trẻ lớn hơn

không dám chạy theo bạn đùa nghịch, thường ngồi yên ở góc nhà hoặc bậc cửa.

Khi ăn, có thể trẻ xúc trượt đĩa thức ăn. Trẻ bé hơn có thể hay theo nhầm người

khác tưởng là mẹ.

2. Giai đoạn khô kết mạc (tức là khô lòng trắng mắt): Bình thường lòng trắng mắt

của trẻ phải ướt đều, bóng láng, trong suốt. Khi bị khô mắt, lòng trắng mắt bị khô,

trở nên sần sùi, sừng hoá, không còn ướt bóng nữa. Dần dần, lòng trắng mắt trở

nên mờ đục, đổi thành màu vàng nhạt hoặc xám nhạt, nhăn nheo. Trên lòng trắng

xuất hiện những đám bọt xốp màu trắng như bọt xà phòng. Lúc này trẻ hay chớp

mắt, hay cụp mắt nhìn xuống khi ra sáng.

3. Giai đoạn khô nhuyễn giác mạc (khô lòng đen): Bình thường lòng đen phải

nhẵn bóng, ướt đều, trong suốt, trông đen nhánh. Khi bị khô mắt, lòng đen mắt trở

nên mờ đục, sần sùi, trông lờ mờ như tấm kính bị bám hơi nước. Nếu không được

điều trị kịp thời, rất nhanh chóng, chỉ trong vài ngày lòng đen mắt bị nhuyễn nát,

loét ra, tạo thành ổ loét có màu vàng bẩn, rồi mắt bị thủng và nhiễm khuẩn. Nếu

đến giai đoạn này mới đưa trẻ đi bệnh viện khám chữa bệnh thì đã muộn, nhất

định sẽ để lại sẹo giác mạc gây mù loà cho trẻ, thậm chí có thể khoét bỏ nhãn cầu.

Các trẻ bị khô mắt thường kèm theo các bệnh nặng toàn thân khác như suy dinh

dưỡng, tiêu chảy, rối loạn tiêu hoá kéo dài, viêm phổi viêm phế quản, sởi..., có thể

dẫn đến tử vong nhanh chóng

Thái độ xử trí như sau:

Khi trẻ có các triệu chứng kể trên, ngay lập tức, cần cho trẻ đi khám bệnh ở cơ sở

y tế gần nhất khám mắt và toàn thân để điều trị kịp thời bằng cách cho uống ngay

1 liều vitamin A liều cao 200.000 đv. Nếu không có sẵn vitamin A 200,000 đv ta

có thể cho trẻ uống 4 viên vitamin A 50.000 đv, thuốc này thường có bán sẵn tại

các hiệu thuốc. ở những vùng xa xôi hẻo lánh, nếu không thể có vitamin A, ta có

thể cho trẻ ăn ngay mỗi ngày 1-2 lạng gan lợn hoặc bò nấu chín ( nấu cháo, xào,

rán...). Cần cho trẻ vào điều trị ở khoa nhi các bệnh viện để kết hợp điều trị suy

dinh dưỡng và các bệnh nhiễm khuẩn khác cho trẻ .

Phòng bệnh Khô mắt thiếu vitamin A:

1. Khi có thai và trong thời kỳ cho con bú, các bà mẹ cần được ăn đủ lượng và đủ

chất hàng ngày, uống nước nhiều và nghỉ ngơi đầy đủ để đảm bảo cho con sinh ra

được khoẻ mạnh. Cần chú ý trong thời gian 3 tháng đầu khi mới có thai, phụ nữ

không được uống vitamin A liều cao vì có thể xảy ra dị dạng bẩm sinh cho thai nhi.

2. Cần nuôi con bằng sữa mẹ ngay từ khi mới đẻ cho đến khi trẻ được 24 tháng

tuổi. Từ tháng thứ 4 trở đi cần cho trẻ ăn đủ vitamin A, chất đạm và chất béo và

muối khoáng hàng ngày. Vitamin A có nhiều trong các thức ăn có nguồn gốc

động vật như gan, lòng đỏ trứng, cá, sữa nhưng có rất ít trong thịt nạc. Tiền

vitamin A có chứa nhiều trong các loại rau có màu xanh sẫm như rau ngót, rau cải,

rau mồng tơi, rau dền, rau đay, rau lang, thì là ....và cũng có nhiều trong các loại

quả, củ có màu đỏ hoặc màu vàng sẫm như gấc, bí ngô, xoài, hồng, khoai lang

nghệ, quả trứng gà, củ nghệ...

3. Khi trẻ từ 6 tháng tuổi trở đi, cần cho trẻ đi uống vitamin A liều cao bổ sung

định kỳ 6 tháng 1 lần khi có các đợt cho trẻ em uống vitamin A hàng loạt ở các địa

phương, lượng vitamin A này sẽ dự trữ trong gan của cơ thể trẻ được khoảng 4-6

tháng.

4. Khi trẻ được 9 tháng tuổi, cần cho trẻ đi tiêm chủng phòng sởi. Nếu được tiêm

phòng sởi, nguy cơ mắc thiếu vitamin A và khô mắt sẽ giảm đi 50%. Cần giữ vệ

sinh khi cho trẻ ăn uống để đề phòng tiêu chảy. Khi trẻ bị tiêu chảy, cần cho trẻ

uống ngay Oresol thay nước uống và đưa trẻ đi khám bệnh ngay ở các cơ sở y tế

để điều trị đúng đắn và kịp thời

5. Khi trẻ có các dấu hiệu thiếu vitamin A đầu tiên như quáng gà, khô lòng trắng

mắt, gia đình cần chú ý phát hiện sớm và đưa trẻ đến ngay các cơ sở y tế gần nhất

để khám bệnh và được uống vitamin A kịp thời sẽ phòng tránh được mù loà cho

trẻ.