112 Nguyễn Văn Minh T
KIỂU NHÂN VẬT NỮ ĐI TÌM CĂN TÍNH
TRONG NGỌN PHÁO BÔNG CỦA NGUYỄN THỊ THỤY
THE TYPE OF FEMALE CHARACTER SEARCHING FOR IDENTITY
IN NGON PHAO BONG BY NGUYEN THI THUY VU
Nguyễn Văn Minh Trí*
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Việt Nam
1
*Tác giả liên hệ / Corresponding author: tri2806037@gmail.com
(Nhận bài / Received: 12/02/2025; Sửa bài / Revised: 06/3/2025; Chấp nhận đăng / Accepted: 20/3/2025)
DOI: 10.31130/ud-jst.2025.23(8A).055
Tóm tắt - Nguyễn ThThy Vũ y bút nữ văn xuôi nổi bật trong
dòng văn học miền Nam Việt Nam. Các ng tác của nữ nhà văn
thường tập trung vào đối tượng nhân vật nữ nhìn từ góc độ đời tư.
Đi tìm căn tính hành trình dài bất tận trước dòng đời mông mênh.
Truyện dài Ngọn pháo bông của đã xây dựng hình ảnh những
người phụ nữ làm nghề tại các quán snack bar. Cuộc sống thực tại
luônsự đối lập nhất định với cuộc sống mà họ mong ước. Ti
tim của họ chứa đựng những khát vọng to lớn về con đường kiến
giải sự sống thực. Từ góc nhìn căn nh,i viết tập trung khai thác
nhân vật nữ dựa trên ba phương diện: (1) những khủng hoảng về sự
bất định của cuộc đời - tự chất vấn với con người cá nhân, (2) yếu
tố thân xác - một biểu hiện về sự đối thoại với căn tính nhân,
(3) đim bản ngã - ý thức về sự hin hữu của bản tn.
Abstract - Nguyen Thi Thuy Vu is a prominent female writer in
Southern Vietnamese literature. Her works often focus on female
characters, particularly their personal aspects. The quest for
identity is an endless journey amidst the vast flow of life. Her long
story Ngon phao bong (literal translation: The firework) portrays
women working in snack bars. Their reality always stands in stark
contrast to the life they desire. Their hearts are filled with great
aspirations to understand the true meaning of life. From an
identity perspective, this article focuses on analyzing the female
characters based on three aspects: (1) crises of life's uncertainty –
self-questioning the individual, (2) the body an expression of
the dialogue with personal identity, (3) the search for the self – an
awareness of one’s existence.
Từ khóa - Nhân vật nữ; căn tính; cô đơn; thân xác; tình yêu
Key words - Female characters; identity; loneliness; body; love
1. M đầu
Việc xuất bản lại các tác phẩm của những hiện tượng
văn chương miền Nam đã mở ra những con đường đầy tiềm
năng, giúp bạn đọc có cơ hội được tiếp nhận với một vùng
văn học đầy khác biệt. Đây là một việc làm có ý nghĩa, tạo
ra một bước đi mới trong việc tìm về những hiện tượng văn
học miền Nam tgiai đoạn 1954-1975. Các tác phẩm của
Nguyễn Thị Thụy như: các truyện dài Khung rêu,
Nhang tàn thắp khuya, Thú hoang, Như thiên đường lạnh,
Ngọn báo bông,… một số tập truyện ngắn n Mèo
đêm, Lao vào lửa, Chiều mênh mông,… đã được ra mắt
độc giả trong vài năm trở lại. Công chúng đã đón nhận tác
phẩm của nữ nhà văn bằng sự đồng cảm, chia sẻ về những
trang văn ghi dấu khoảng thời gian đã qua. Nhìn về văn
chương miền Nam, qua văn chương của Nguyễn Thị Thy
, bạn đọc đưc chiêm nghiệm về cuc đời của mỗi con
người, đặc biệt là số phận của nhân vật nữ. Hầu hết, c tác
phẩm của bà đều xoay quanh cuộc đời của các nhân vật nữ
đi từ làng quê miền Tây sông ớc đến các cô gái thành thị
ồn ào, tấp nập. Mỗi nhân vật nữ là một cảnh đời riêng, một
tính riêng. Đó những nhân vật nữ không ngừng “trở
mình” đi tìm cuộc đời, “định nghĩa” mình, khi, còn
sự đối chọi lại với hoàn cảnh những ràng buộc vvăn
hoá. Sức sống tưởng nquyền cũng vì thế đi vào trong
văn chương của một cách chân thực, tự nhiên nhất.
Truyện dài Ngọn pháo bông viết về thân phận gái m
việc tại c quán snack bar. Từ c nhìn căn tính, bài viết
1
The University of Danang - University of Science and Education, Vietnam (Nguyen Van Minh Tri)
tập trung khai thác cách thức xây dựng nhân vật Thắm -
nhân vật nữ chính trong truyện dài Ngọn pháo bông đi từ
những khủng hoảng về sự bất định của cuộc đời - tự cht
vấn với con người nhân đến yếu tthân xác - một biểu
hiện về sự đối thoại với căn tính cá nhân và đi tìm bản ngã
- ý thức về sự hiện hữu của bản thân.
2. Ni dung
2.1. Căn tính kiểu nhân vật đi tìm căn tính trong văn
xuôi Việt Nam hiện đại
Cho đến nay, việc dịch thuật khái niệm căn tính/ căn
c/ bản sắc theo nguyên gốc tiếng Anh identity.
phương Tây, nhà nghiên cứu Jonathan Culler định nghĩa:
“Bản sắc sản phẩm một chuỗi những sự đồng nhất,
không bao giờ hoàn tất” [1, tr. 174]. vậy, có thể xem căn
tính là một tiến trình hoàn thiện bản ngã, bất biến không
cố định trong một đơn vthời gian. ới góc độ văn hoá
dân tộc, Đỗ Lai Thuý cho rằng: “Căn tính/ căn cước/ bản
sắc (identité/identity) của một tộc người nhằm chỉ một đặc
tính hình thành từ thuở xa xưa và chi phối sự phát triển của
tộc người ấy một cách lâu dài trong lịch sử[2, tr. 10]. Khái
quát lại, có thể rút ra được, căn tính là những biểu hiện đặc
trưng cho thấy, sự khác biệt của một cá nhân so với nhng
người khác tồn tại trong xã hội. Ngày nay, trong hội hiện
đại, n tính ng được nhìn nhận giữa một thời đại vận
hành không ngừng, các bạn trẻ khát khao khẳng định du
ấn của cá nhân.
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - ĐẠI HC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 8A, 2025 113
Căn tính đi vào trong văn hc được pt triển theo
nhiều ớng tiếp cận. Con ngưi đi ợng trung tâm
của n học. “Tác phẩm văn hc có đặc trưng tái hiện cá
thể, do đó cuc đấu tranh v bản sắc những cuộc đu
tranh n trong thvà giữa cá thvới nhóm: nhân vt
đấu tranh chống lại hoặc thohiệp với nhng chuẩn mực
hay yêu cầu ca hội[1, tr. 169-170]. Nghiên cứu n
tính trong văn học được nhìn nhận từ nhiều phương din
khác nhau. Nguyễn Hồng Anh trong bài viết Căn tính
trong văn hc - Một số bình diện nghiên cứu [3] đã trình
y mt ch khái quát vnhng ớng tiếp cận tgóc
nhìn căn tính trong một tác phẩm văn học. Tác giả đã quan
tâm đến hướng xây dựng hình ợng nhân vật “tự định
nghĩađến việc hình tượng nhân vật đặt trong căn tính
của cộng đồng vmột mẫu hình cthứng với bối cnh
lịch sử, văn hoá, xã hội và nhng mảnh vvề c khi
lạc trong một ng không gian khác trong ngh thuật k
chuyện. Vậy n, xem con người ch th trung tâm là
một hướng tiếp cận kh dĩ trong vic nghn cứu cănnh
trong một tác phẩm văn học c thể. Trong văn học Vit
Nam hiện đại, ý thc vcon người nhân kiến tạo cuộc
đời bt đầu trthành kiểu nhân vật trung tâm trong các
tác phẩm. Stiếp nhận của nền văn hoá phương Tây là h
quả tất yếu cho xu thế hiện đại hoá văn học cũng như thay
đổi quan nim nghệ thuật về con người. Đó là nỗi cô đơn,
lạc lối nng dấy lên niềm ham sống, và đi tìm căn tính
mặc những rào cản về điểm chung của một nm hi
tính khu bit về giới và văn hoá trong một số tác phm
của Nhất Linh (ớm trắng), Khái Hưng (Nửa chừng
xuân, Hồn bướm tiên,…). Tạm dng lại với những ý
thức vi i”, trong kng khí đu tranh chống giặc
ngoại xâm ở hai cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, hình
ợng con ngưi cộng đồng ớng về cái “ta” mang tinh
thần dân tộc. Đó nhng thế hệ thanh nn xung phong
lên đường ra trận. Đọc tác phẩm của Nguyên Ngc,
Nguyễn Minh Châu, Minh Khuê,…, các n văn đã
y dng nhân vt những con người sử thi mang tầm
c của thời đại. Mai Văn Phấn đã nhìn nhận: “Căn tính
n tộc nằm trong mi cá thcủa cộng đồng, được hình
thành phát trin từ trong lòng mẹ, trong quá trình ln
lên nhận thức v thế giới xung quanh, trong s rèn
luyện và tích lũy đhình thành duy, lối sống, tưởng
thẩm mĩ…” [4]. Mặt kc, trong mt số tác phẩm văn
xuôi hải ngoại, vấn đề vcănnh dân tc cũng được bàn
luận i ni. Đó là những nhân vt kt khao trvvi
ng máu lạc hng, với những ức rời rạc gắn vi
thức tập thể (C.Jung) được biểu hiện qua một số tác phẩm
của Linda Lê (ợt sóng), Đoàn Minh Phượng ( khi tro
bụi), Viet Thanh Nguyen (tp truyện ngn Người tị nạn),
Ocean Vuong (Một thng ta rực rỡ nhân gian),…
Nếu vùng không gian văn học miền Bắc hướng đến
i “ta” của con ni theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa,
thì vùng văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954 đến
1975 tiếp tục y dựng kiu con người đi tìm căn tính.
Đây cũng là hệ quả của sự ảnh hưng trực tiếp từ văn hoá
phương Tây. Trào lưu hiện sinh xuất hiện mnh mẽ min
Nam từ thp niên 60 của thế ktrước. Thế hệ thanh niên
miền Nam sống trong bầu kng khí hin sinh đã kng
ngừng tạo nên những nét khác biệt, sống hết mình với
cuộc đời. Vi quan niệm tôi hiện hữu nghĩa i đang
sống, thanh niên miền Nam đã thoát li khi những ràng
buộc của hội và tri dậy phá vỡ mọi giới hạn để đi tìm
n tính của chính mình. Tựu trung lại, đi tìm n tính
ng là một biểu hiện của hiện sinh. Cũng tđây, du n
hiện sinh xut hiện trong nhiều tác phẩm văn xuôi. Có thể
kể đến một số tác phm nổi bật của Nguyễn Thị Hoàng,
Tuý Hồng, Trần ThNgH, Nguyễn ThThụy,Nhìn
về văn học miền Nam, vốn trước đây còn khá dặt bởi
một số yếu tố khách quan, thì giđây, trong không khí
hội nhập, cởi mở, bạn đc cơ hi ớng v một ng
n hc nước nhà ởng chừng như chìm vào lãng quên.
Chính Phạm Xuân Nguyên đã khai mở vùng đất từng b
cấm kị này trong văn học: “việci phục dựng, trở lại của
n học miền Nam 1954 - 1975 là một tất yếu kch quan,
đáp ứng đòi hỏi của khoa học và cả câu chuyện của lương
tâm, đạo đức, bất chp rào cản ngăn trcủa định kiến
hội” [5].
Như đã đề cập, căn tính có thể thay đổi theo thời gian,
không bt biến, thế, h nh lp lại cũng lúc văn
học bướco quỹ đạo mi cũng như vấn đề về con ngưi
tiếp tục được nhìn nhận lại theo nhiều c đ khác nhau.
Căn tính của mi nhân thêm một lần na được lật lại.
Văn xuôi Việt Nam sau Đổi Mới đã có những thay đổi c
nhìn trong quan niệm nghệ thut v con người. Nguyn
Thị Bình trong công trình Văn xuôi Việt Nam sau 1975 đã
“pt hiện con người phức tạp, con ngưi lưỡng diện, con
người kng nht quán vi chính mình[6, tr. 67] hin
tồn trong c c phm n xuôi. Vi quan niệm cuộc
sống nhng mảnh vỡ, các nhà văn như Nguyễn Bình
Phương (Kxong rồi đi, Một ví dụ xng,…), Tạ Duy Anh
(Giã biệt ng tối, Đi tìm nhân vật,…), Phạm ThHoài
(Thiên sứ), Đỗ Hoàng Diệu (Lam Vỹ), Y Ban (Iam đàn
), Nguyễn Khc Ngân Vi (Đàn bà hư ảo), đã y
dựng hình tượng nhân vt vừa có “độ nhoè” về nhân dạng,
không tên, vừa truy m cuc đời chính nh. Đó mt
cuộc sống mờ ảo, vỡ vụn, thật - ảo xen lẫn, nhân vật đứng
trơ trọi giữa một thực tại mong manh, len lỏi khắp vùng
không gian khác nhau để đi tìm câu trả lời cho shin
hữu của chính mình với cuộc sống. Mỗi một khoảng thi
gian, căn tính được biểu hiện theo những cách khác nhau,
với n học Việt Nam, đó n s chi phi của hoàn
cảnh lịch sử, chính trị và thiết chế hội.
2.2. Những con đường đi tìm n tính của nhân vật nữ
trong truyện dài Ngọn pháo bông
2.2.1. Những khủng hoảng về sự bất định của cuộc đời - tự
chất vấn với con người cá nhân
Khủng hoảng căn tính (identity crisis) được khái quát
là hiện trạng không “tự định nghĩa” được bản thân. Cá thể
không nắm bắt được chính con người bên trong của mình.
Những cảm giác vcuộc sống xa vời với tưởng
thớng đến. Nhịp sống rời khỏi quỹ đạo, lạc trong một
mê cung không lối thoát. Đó là những cá thể liên tục kiếm
tìm con người bên trong. Họ phó thác số phận cho sự đy
đưa dòng đời, cũng có khi là sự trốn chạy với bản thể, tồn
tại như không tồn tại, mặc thời gian lặng lẽ trôi.
Căn tính cá nhân gắn chặt với bản sắc nhóm (J.Culler)
thường được đồng nhất với nó. Trong truyện i Ngn
pháong, nhân vt Thắm không th kiến tạo được cuc
sống. Thắm cũng không thnắm bắt thực sự về bản
114 Nguyễn Văn Minh T
ngã, chỉ thể được nhìn nhận qua góc nhìn trong các
mối quan hthân cận, nàng chúa hách dịch trong
đám chem ở đây” [7, tr. 29]; “Trong gii ăn chơi, Thm
nổi tiếng v nhan sắc thì ít, pơng din và đanh ác
thì nhiu” [7, tr. 33]. Suốt tuổi trẻ nàng chỉ gắn với những
danh xưng, lời đồn thổi của những cô gái cùng hành ngh
với nàng. Sâu trong mắt của h, Thắm hiện lên vừa mang
vẻ thách thức, va đanh gt, cay nghiệt nhưng đẫm mt
sự lạc lối dài tận Những cặp mắt chìmu trong vin
mực đen n ghét nhìn nàng” [7, tr. 40]. Sựhồ với bn
ngã không được nhìn nhận từ cnh chủ thể - Thắm. Hình
ảnh của nàng gần như được quy đnh ttrong mối quan
hệ kc.
ng không gian sinh hot cũng sẽ tác động đến nhn
thức của cá nhân đi với cuộc đời. Vai trò của mi không
gian kéo theo những thay đổi trong suy nghĩ hành
động. Điều này dn đến việc n tính mỗi cá nhân th
thay đổi theo thời gian, hoàn cảnh sống cũng sẽ tác
động đến cuộc đời của chính h. Thắm một gái ri
thôn q n thành phố. Cuc đi thành ph khác hoàn
toàn với quá kh nàng đã đi qua. Tch rời với
hội, Thắm đắm chìm trong trng thái cô đơn với bản ngã
biểu hin thường gặp với những con người đi tìm căn
tính. “Một khi đã ý thc sâu xa vnh chất độc đáo hin
sinh của mình, con người tự cảm thy đơn: chính i
sẽ chết i chết của i, không ai chết giúp tôi được” [8,
tr. 55]. thế, quá khvà thực tại là ni trăn trcủa
thkhi nhìn vchính mình. Nỗi nhọc nhằn hiện tại đy
con nời băn khoăn vcuộc đi và thường có xu hướng
nhìn v những giai đoạn đã sống. Thắm trong Ngọn pháo
ng luôn trong trạng thái nhìn vnhững ức đã qua.
Đó st lại vdòng đời mà nàng đã từng tri. Thi
gian lặng ltrôi để lại bao thương tổn trong lòng nàng.
Thực tại vốn đìu hiu, tâm hồn k cặn, niềm tin về lẽ sống
hoá tro tàn: “Hình như nàng chợt nghe tiếng thời gian gõ
ng đểo thức nàng phải nn lại quãng thi gian đã
đi qua” [7, tr. 46]. Như một lẽ tờng tình, quãng thi
gian đó đã đọng lại những ức khó phai. Đó nhng
m tháng tui thơ êm đềm bên quê hương xanh mát,
trong tui hồn nhiên thơ ngây, vô lo: Thắm chợt
nhtới ngày nào đó xa lm, c còn nquê, nàng gi
c với c bồ kết i ngai ngái, mc mạc… Thắm lắc
đầu” [7, tr. 30]; “Thm chợt nhnhững đêm Noel trong
c tấm carte. Bối cảnh là một đêm xanh mênh ng
chiếm hết diện tích. Những chm sao sáng và y thông
trơ trụi mọc cheo leo trên đồi, lúc nào nhìn cảnh đó, Thắm
ng ờng ợng vthời thơ u xa vi” [7, tr. 70-71].
Quá khứ di vbất chợt trên con đường Thắm đang đi
như một ch ngăn chng li đnghiệm suy về dòng đi
ng đã chọn. Sđan xen giữa quá kh- thc tại
một sự nhắc nhở về ý nghĩa đời nời. Chết trong
ởng điều đáng sợ nhất của mt con người. Thắm đã
chạy trốn chính mình để tạm t o không gian tp nập,
rộn rã nhm quên đi nhng ni buồn thầm kín hiện diện
trong sự cô độc khi màn đêm buông. Thm lựa chọn sòng
bạc, tờng đua nga như một sự lựa chọn nhm kc
từ đi bản ngã. Đó cách quên đi snhàn ri trong cuc
sống khiến con ngưi ta tìm kiếm một cuộc vui như chôn
giấu đi nỗi bất lực trong hiện tại. Cuộc chơi chỉ mang tính
lâm thi. Con người đâu thể chng lại ý nghĩa đã nảy sinh
trong tâm trí v hành trình cuc đời. Càng trốn chy vào
thú vui, con người càng trôi dạt với hiện tại. Thng chốc,
Thắm đã quay mặt về phía mình, trực diện o trong
ơng mà đối thoại với bản ngã khi “không tạo cho mình
hứng thú không đưc bao nhiêu nỗi chán chường ùn
ùn o tới vây khốn nàng[7, tr. 64]. Lạc trôi giữa ng
đời, Thm hoảng strước nỗi đơn. đơn như ng
ma đeo đuổi suốt cả một đi trong tuổi ng xế chiều t
nhạt, lạnh lẽo. Thắm “gt cái cảnh một nh, một bóng
đi trên vỉa hè rộng thênh thang c n cầu thang
nhớp nhúa ơng lnh” [7, tr. 72].
Căn tính cá nhân được kiến tạo qua quá trình va chạm,
u thuẫn với xã hội. Thắm trong Ngọn pháo bông kng
thnhìn nhận về con người nh khi những chuỗi ngày
ngi vào trạng thái bt động.ức của nàng bám tr
chlà những khong thời gian thu ấu thơ với một cuc
sống vốn êm đềm. Đến vi một khung tri mới, nàng đã
đẩy mình vào kng gian mo, kng gian ca sự tha
hoá, của những cuộc chơi bất kđêm ngày nhưng sau tt
cả, trong nàng là một khong trống i vào quên lãng, dần
tách ri khi mạch vận động của cuộc sống, chới với
trưc thực tại đầy cám dỗ, dần xa lạ với chính con ngưi
ng.
2.2.2. Yếu tố thân xác - một biểu hiện về sự đối thoại với
căn tính cá nhân
Với các tác giả nữ, viết vthân xác một cách đnói
thực với lòng, giải phóng phụ nữ khỏi những khuôn khổ từ
những quan niệm xưa . “Con người tự nhiên lúc chống
lại con người đạo lí, tiếng nói của bản năng khi mạnh
hơn trí” [6, tr. 94]. Yếu tố thân xác xuất hiện dày đc
trong văn chương của Nguyễn Thị Thy . Bởi lẽ, thân
xác với bà như một sự trốn chạy với thực tại chai sạn trong
tâm hồn. Nhân vật nữ trong văn chương của nnhà văn
hiến dâng đời mình cho nam giới. Như Thái Phan Vàng
Anh nhận đnh: “Trong văn học miền Nam đương thời,
chưa ai đưa những gái làm nghề bán thân xác - một mảng
khuất của đời sống trthành trung tâm, chiếm ngự nhiu
trang viết như Thụy Vũ. Nhà văn đã phản ánh chân thật,
bóc trần cuộc sống cũng như tâm trạng của những người
phn“dưới đáy hội” bằng niềm cảm thông đầy tính
nhân bản” [9, tr. 53].
Cuc sống của Thắm vốn đã bó hẹp trong những quán
bar chớp ny ánh đèn mảo, cuộc đời cứ thế càng thêm
nhạt nhoà, tìm đến tình dục như tìm kiếm một chỗ dựa
ơng nhờ tâm hồn. Sự không tự định nghĩa về mình đy
nhân vt Thm (Ngọn pháo bông) trong trạng thái tho
hiệp với thân xác. Là một i làm qun quán Eva
bar, kng gian tồn tại của Thắm chquanh quẩn trong
không gian những ánh đèn mờ, nhng chiếc ly rượu,
những tên lính Mỹ. Tui xuân của nàng chôn vùi trong s
thoả hiệp với thân thể mình. Sống giữa một cuộc đời lạc
lối, vô vị, bất định, Thắm dần chấp nhận thc tại như một
sự trốn tránh với cuộc đời, quên đi ni chênh vênh. Sự
thoả hiệp với thân c đã đẩy nhân vật nchấp nhận số
phận. Nhưng đó chhoàn cảnh thực tại. Sđồng tình
y xut phát từ quá khứ của Thắm. Quá khứ bị hãm hiếp
từ tuổi đôi mươi đeo đẳng lên tâm hồn nàng. Những chn
thương vtinh thân đã đlại những khoảng trống trong
lòng Thm. Đời sống trẻ thơ có mối quan hệ mật thiết với
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - ĐẠI HC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 8A, 2025 115
sự khát dục. Nhà phân tâm hc Freud đã truy tìm vnguồn
gốc của những biểu hiện khát dục n nguyên bắt ngun
từ các yếu tố bn đó là “yếu tố di truyền và yếu tố thu
được trong thời thơ ấu đầu tiên” [10, tr. 308]. Đó là những
chứng bịnh thần kinh gắn với sự định cư của kt dục đ
“tìm được một con đường qua các sự dồn ép” [10, tr. 307].
Freud càng nhấn mạnh tầm quan trọng ca yếu tố thi u
thơ sẽ tác động trực tiếp chthể đến khi trưởng thành. Từ
đây, Freud đã đưa ra những bng chứng v nhng nh
ởng của thời con trẻ khi chứng kiến hoặc là người tham
gia trải nghiệm với những hành động thuc vthân xác.
Đặc biệt, ông quan m đến sự quyến của các bạn nam
lớn hơn với các bạn n đương trong giai đoạn trưởng
thành. Điều này sẽ trthành mt vết tích trong cuộc đời
o theo đó skhát dục điều kiện đduy trì. Ứng
với những thử nghiệm của Freud, Thm trở thành gái quán
bar thâm niên trong ngh đều là những hu qu đ
lại tc thucon gái: “Khi va mới lớn, nàng b hiếp
m, ri làm gái bao cho mt sĩ quan gngưi Pháp[7,
tr. 36]. Chấn thương tinh thần đọng lại trong Thắm là
những ni buồn, nỗi đau đn không th làm gì khi hin
thực khắc nghiệt, thm thương: “nàng có một cảm tưởng
tủi nhục và thấy rõ trước mắt mình b mt tên lính
ơng hãm hiếp hi t18 năm về trước” [7, tr. 38]. Bao
mất mát từ trong những tơng tổn gng mắc trongng
của Thắm. Từ đây, Thắm đã bán mình cho những điều xấu
xa, đầy đau đớn, như một stha nhận về một cuộc đời
vốn đã như thế. Khi xây dng c nhân vt n, Nguyn
ThThy đi sâu vào trong cuộc đời của mỗi nn.
Khai thác triệt đtừng khía cạnh của cuộc đời là chìa khoá
mở ra một cánh cổng bước vào thế giới nội tâm i bt
nguồn về những u chuyện đời - một bức tranh tổng
thể v người nữ - Thắm trên con đưng đi tìm căn tính.
Từ những câu chuyện trong quá khứ, Thắm say mê với
dục vng và sự khoái cảm của bn thân. Erich Fromm đã
nghiên cứu cảm xúc của bản ngã trong tình yêu cho
rằng “ham muốn tình dục th bch thích bi nỗi lo
lắng về sự cô đơn, bởi ước muốn được chinh phục, bởi
huyễn [vanity], bi thèm muốn gây tổn thương, thậm chí
hudit” [11, tr. 101]. Đê vi dục vọng, với sự tho
n thân xác, Thắm đắm mình trong những mối tình bất
chợt, đến rồi đi, và đi Thắm chỉ là cuộc mua vui bởi đàn
ông ngoi quốc: “Thắm ưa đắm mình trong một mtình
cảm lộn xộn mơ hồ” [7, tr. 33]; ng hu như bcun
o cuc săn đui tình nhân trong la tuổi hoàngn ca
đời người” [7, tr. 35]. Cứ thế trong lứa tuổi bóng chiều,
Thắm vẫn mê man với những người tình ăn nằm với nàng
để tìm thấy cái o ảnh quyến của tui mười tám đôi
ơi” [7, tr. 37]. Thắm đã ước một người đàn ông kề cận
n nàng - sẵn sàng dang bvai tht rộng cho ng ta
nh quên đi ni đơn côi “phải chi mt thằng b Vit
Nam i v n m s thì ấm áp biết bao” [7, tr. 46].
Những cuộc tình chp nhoáng kinh qua đi Thắm như
một cuc chơi thân xác, một sđánh đổi trong m trạng
quạnh quẽ trước cuộc đời. Dẫu ng hiểu, đặt n cho từng
kẻ đàn ông đến vi nàng - những kđê tiện chbiết bám
riết đồng tiền của Thắm. Nhưng ri sau tất cả, Thắm lại
“đắm mình trong cô đơn, nhìn lại số n trang hao hụt
trong chiếc hộp sắt nhìn lại ni thèm khát gia tăng
chồng cht” [7, tr. 47]. Thắm chấp nhận sống th, sống
với Cưng - một người đàn ông gặp ở trường đua.ờng
đã bào mòn tin của nàng. Nàng hiểu, nàng biết, nhưng
ng vẫn hy sinh thân nh khi cuc tình đang dn đà đi
o ncụt. Những hưng phấn nhất thi sớm tan đi. Và
“Thắm chán nản, cô đơn (…). Thm sống trong hạnh pc
thường bị đe doạ. Cuộc sống như vậy skéo dài bao lâu”
[7, tr. 79] khi ái tình không phải là sự tiên quyết mà Thm
kiếm tìm bấy lâu. Một cuộc chơi v gia đình đâu mấy khi
vẹn tròn. Quãng thi gian sau, Thắm lại cô đơn với chính
nh, khi người tình chỉ là sự trốn chạy nhất thời mà ng
chọn la.
Một góc nhìn khác mà bạn đọc thấu cảm được qua việc
khắc hoạ Thắm nói riêng các nhân vật nữ trong các
truyện ngắn của Nguyễn Thị Thụy Vũ khi viết về thân xác
chính là việc những thoả mãn về thân xác đâu chỉ là những
biểu hiện của con người tự nhiên, đó những mnh
ghép khác nhau của một cuộc đời đi qua những biến động,
đi qua mùa rụng của tâm hồn, từ đó, nhấn mạnh một
thể vụn vỡ từ trong nỗi đau để rồi quên lãng đi căn tính cá
nhân.
2.2.3. Đi tìm bản ngã - ý thức về sự hiện hữu của bản thân
Mỗi cá th tồn tại trong thế giới luôn có s mâu thuẫn
nhất định vi hình ảnh bản thân trong tâm thức cộng đồng.
Nga n tính của con ngưi được đặt ra tlăng kính
của một nhóm hi định nghĩa. trong i viết n
tính trong văn hc Một s bình din nghn cứu, Nguyn
Hồng Anh đã chrõ căn tính của hình tượng nhân vt
thgắn vi “s“tự/ được định nghĩacủa căn tính xut
phát từ cơ chế “đồng nht” “cnh tranh” giữa các
thể với nhau hay giữa cá thể và nhóm” [3, tr. 1236]. Thm
sđối chọi nht định so với những cộng đồng nghĩ
về ng. phần 2.1, tác giđã đcập đến việc hình ảnh
của Thm được giới thiệu thông qua các mi quan hmà
ng tiếp xúc hằng ngày. Nhân vật xuất hiện vi đa đim
nhìn kc nhau. Nhưng điểm chung đều sự đồng nht
gắn với căn tính của một nhóm xã hi màng đang hiện
diện. Đó hình nh một gái làm quán bar, một chị
đại dữ tợn trong ngày khiến người khác né tránh. Tuy vậy,
cuộc sống Thắm đâu chquanh quẩn trong mt hình nh
đưc định nghĩa đầy thụ động dành cho nàng. Những nỗi
buồn dài dằng dặc trong đời Thắm khiến nàng thao thc
với chính nh. Đi Thắm vốn vị nay càng lạnh lẽo.
Từng giây trôi qua, Thắm dốc lực muốn đổi thay cuộc đời
nh, mong muốn cuộc sống của ng phải hoàn toàn
khác, thay đổi cả về lối sống và bắt đầu nhìn về tương lai.
Bun nôn với thực tại, Thm loay hoay kiếm tìm cuộc đời
như là stái sinh. Định nga vềnh tht trắc trở nng
Thắm giữ một niềm tin và dậy lên những hạt mầm sự sống
ớng tới một không gian sống tốt hơn: “Phi có một biến
cố nào thay đổi cuộc sống của nàng, thay đổi luôn tâm
linh bất ổn của nàng [7, tr. 81]. Đó còn là sự đối thoi lại
với cuộc đời khi “nhìn mbáo ngổn ngang trên bàn đêm
ng muốn ngáp… Phải làm gì bây giờ, kẻo nàng điên
lên mất” [7, tr. 115]. Nhưng rồi ng li ttrn an nh
buông trôi “Tt ccái nhám nhúa, try trụa ca cuộc đời
sẽ tr lại an lành, ổn thovào ngày hôm sau” [7, tr. 103].
thoáng nghĩ về sự giải tht cho đi mình, Thắm sợ
o dài cuộc sống” [7, tr. 135]. Sự giằng xé trong ni tâm
giữa “đồng nhất và “cạnh tranh liên tục xảy đến với
116 Nguyễn Văn Minh T
Thắm. Điều kiện sống vốn đã kng cho ng hi,
ng vẫn lặn sâu trong dòng nưc sâu hoắc như một cuc
đời không đáy. Nguyễn ThThy Vũ đặt ra những câu hỏi
lớn, căn tính của một con nời được tìm lại liệu th
được hồi sinh, nếu i trường thực tại bất động không lay
chuyển bởi cng đã đưc cộng đồng định nghĩa. Nếu
thể, Thm cần lật lại đời mình, rời xa không gian ngt
ngạt, hoặc clăn lộn vi trạng thái mất cân bằng sđẩy
ng nhấn chìm trong hố sâu của cuộc đi.
Erich Fromm trong Nghệ thuật yêu đã đt ra vấn đ
ng tự yêu mình (self-love). Giữa tự yêu mình u mt
người khác sự khác biệt: “Khi i tự khẳng định cuc
sống của tôi, hạnh phúc của tôi, strưởng thành và sự tự
do của i thì điều khẳng định y bắt r từ kh năng yêu
chính i” [11, tr. 110]. Không bằng ng vi cuộc sống
thực là điều hiển nhiên vi nhân vt đầy lạc lối. Lạc li
với chính mình, nhân vật luôn hy vọng sự đổi thay của
không gian. Vùng không gian sống của Thắm chỉ gói gọn
trong không gian quán bar đến không gian căn nhà, đơn
điệu nchính cuộc đời nàng. Nguyễn Th Thụy Vũ đã
dựng n một không gian tâm trạng u ám, mờ mịt, rũ
ợng trưng cho cuc đời của Thm. Kng gian y cần
được xây đắp lại, bi đp một tìnhu, mt cuộc sống đủ
đầy: “Khi giàu có, nàng sẽ từ giã cảnh sống hiện tại. Nàng
không còn phải xin khách ngoi kiều từng ly trà Sài Gòn,
không n ngi yên như pho ợng đbọn người bỏ tin
ra nhào nắn cơ thể mình như nhào bt” [7, tr. 53]. Nơi đó,
Thắm mới được trở về với mình, như mt sự xa lánh trước
cuộc sống mà nàng đã tn ti. Ước vọng vcuc sống đủ
đầy thổi phồng trong trái tim của Thắm, bởi hiện tại quá
chênh vênh, bt định, Thắm mong mỏi tìm v một không
gian bình yên, i nương ta của tâm hồn: “Nàng smua
biệt th nằm giữa khu vườn cây ăn trái. Trong ờn,
Thắm sẽ đặt nhữngi băng đá màu huyết dụ ới những
ng cây. Trong n, nàng ssắm mọi ththật tiện nghi
cần thiết: máy lạnh, máy sấy tóc, máy t mn, tlạnh,
tuyến truyền hình, y tẩm qut” [6, tr. 59]. Thắm mảy
may một chút niềm an ủi, một niềm tin yêu bất cht, một
niềm mơ ước nhỏ nhoi nhưng quá xa vi khi nàng đã vt
mất mình. Hạnh phúc của nàng ti hiện tại bắt nguồn t
ng tự yêu mình.
Tự cht vấn với con người bên trong là mt biểu hiện
của sự đi thoại vi căn tính. Thắm đã đẩy đưa thân xác
ng bên nhng nời đàn ông thng qua đi. Sau bao
phút ân ái, Thắm đã nếm trải những trạng thái cm c
của hai thân c va chạm vào nhau n lộn trên chiếc
giường mân mê thân thể. Tuy nhiên, “con ngưi đã làm
một điều vô cùng khó khăn th vừa sống n mt
con vật đi tìm khoái lạc va sng như mt con người
đủ trí” [10, tr. 318]. Lời thú tội với bản ngã đã đưa đến
ng mt sự đồng tình cao cả vthân xác. Phần hồn
c của nàng đã dần có sự kết nối. Không còn là những gì
rời rạc, Thắm nghĩ về xác thịt đã lấy đi cảm xúc của nàng
với nh yêu thc sự: “Hđến vi Thắm tiền bc vì
i thngồn ngồn sinh lực của nàng. Khi đã thon
hoàn toàn, h ra đi không buồn tgiã Thm” [7, tr. 54].
Thắm nhận ra, đi tìm tình u ng là đi tìm chính mình.
Bao ln Thắm đối thoi vớing mình đ tìm một bến đ
nh yên. Con người ta qua bao ni buồn cay đắng, qua
những cuộc vui thân xác, thì cũnglúc, họ ước vọng một
tình u nng nàn, đến từ những rung động tchính con
tim. Cuộc đời sẽ thêm một lần sống lại. Xác thịt trong tâm
thức của Thắm sđồng điệu trong tâm hồn: ng khao
khát tìm gặp sự ởng ng chân thành hơn sng
ch động tác” [7, tr. 66]. Những cuộc tình đến bên Thm
ch snhất thời. Những tên đàn ông đến với nàng đ
những muôn mặt khác nhau. Tình yêu với nàng tht nhỏ
. Trong mối quan hệ với Cường, nàng chmong “Cưng
đem lại cho nàng cái cảm tưởng là một người vợ, để nàng
được quyn nghĩ rằng mình chồng n ai” [7, tr. 119].
Soi chiếu đi nh vi đời ngưi đàn có chồng, nàng
chua chát “thèm khát địa vị người đàn bà đang ngồi. Hơn
hai mươi năm rồi, điều mơ ước giản dđó chợt đến nhc
nhnàng bao nhiêu t rồi” [7, tr. 127]. Thm chỉ
m mơ đến một ai đó để săn sóc từng miếng ăn từng
giấc ngủ đnàng tìm được cái ảo tưởng mình mt ngưi
đàn bà thực thụ, sống khuôn thước” [7, tr. 75]. Đàn bà với
Thắm nghe thực xa vời. Thắm chbiết đến mình như mt
i quán bar. T“đàn bà” với nàng thật truyn thống, gin
dị. Phải chăng đó mt mẫu hình người nnết na, thuỳ
mị, vừa người v hiền, nời dâu thảo, người m tảo
tần. Thắm đã th dài trên nhng con dốc cuộc đi mà
ng dấn thân.
Thắm đã rời xa thế giới trong ngỡ ngàng đlại những
khoảng trống trong độc giả. Một cuộc đời vốn đầy biến
động trong nội tâm. Nguyễn ThThụy với một phong
cách viết không “lên gân”, mà với giọng văn đều đặn, mt
nỗi buồn mê man, một lời tâm sự chất dày cứ thế kéo đến
cho bạn đọc một nỗi bâng khuâng, một niềm tiếc nuối,
khi một nỗi hụt hẫng. Nhưng nhìn lại, đã cho chúng
ta một con đường để chúng ta ngẫm lại thân phận những
gái làm nghquán bar - đó là sự thanh minh cho cuộc đời
vốn bị khinh miệt. Thắm đã thấm cả đời của mình, và nàng
đã không quên tìm lại căn tính riêng.
2.3. Kết luận
Sau lời giới thiệu chung vcun sách, hai câu thơ ca
Xuân Diệu được in với t chnhnng, khoan khi
“Tmt phút huy hoàng ri cht tắt/ Còn hơn buồn le
i suốt trăm năm [7, tr. 9]. Hai câu thơ đưc dẫn trưc
khi c o thế gii của câu chuyện. ờng như đây là
dự báo của Nguyễn Thị Thụy vnhững nhân vật mà
sviết, đó là những con ngưi giữ một ngọn lửa yêu
tin vmột sự to sáng - ngọn lửa của sự sống chmt
lần. Lối kể chuyện như lời tâm tự, lời độc thoi đã trải dài
sut 159 trang trong truyện i Ngọn po bông, nữ nhà
n đã đưa Thắm trở về với đúng nghĩa cuộc sống thực.
Căn tính của mỗi nhân là một quá trình dài, đúc kết từ
những kinh nghiệm, trải nghiệm cũng như ảnh hưởng một
phần không nhtcuc sống chung quanh. Suốt khoảng
thời gian sống viết, Nguyễn ThThy đã dịp
được tiếp xúc với những người phnữ làm gái quán bar
như Thắm. hi miền Nam bấy giờ không khi tránh
được những cái - mới. Khi lối sống mới còn xộc xệch,
dẫn đến con người cũng lc lối vng đi chính mình.
Thắm đã để cuộc đời rời khỏi bàn tay của nàng. T nhng
khủng hoảng v cuc sống đến những chấn tơng về tình
dục thuniên thiếu cùng hoàn cảnh éo le đã đẩy Thm
o con đường tru lạc. Sau bao nỗi buồn dâng lên, Thắm