
TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(45), THÁNG 3 – 2025
19
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ VỀ QUẢN LÝ ĐÀO TẠO NGHỀ
THEO HƯỚNG GẮN KẾT VỚI DOANH NGHIỆP
VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
INTERNATIONAL EXPERIENCES IN VOCATIONAL TRAINING MANAGEMENT
THROUGH BUSINESS ENGAGEMENT: LESSONS FOR VIETNAM
MAI VĂN XUÂN, xuanmv@vimaru.edu.vn
Trường Cao đẳng VMU, thành phố Hải Phòng.
THÔNG TIN
TÓM TẮT
Ngày nhận: 02/01/2025
Ngày nhận lại: 10/03/2025
Duyệt đăng: 18/03/2025
Mã số: TCKH-S01T03-2025-B03
ISSN: 2354 - 0788
Nghiên cứu xác định vai trò của quản lý đào tạo nghề tại các trường
cao đẳng theo hướng gắn kết với doanh nghiệp trong việc nâng cao
chất lượng đào tạo giáo dục nghề nghiệp. Trên thế giới, có nhiều quốc
gia đã chú trọng công tác quản lý đào tạo nghề tại nhà trường và gắn
kết với doanh nghiệp như: Na Uy, Đức, Liên bang Nga, Hoa Kỳ,
Ôxtrâylia… theo các mô hình, hình thức gắn kết: đào tạo lý thuyết tại
trường và thực hành tại doanh nghiệp (mô hình 2+2, 1+3); kết hợp
đào tạo lý thuyết, thực hành tại trường và doanh nghiệp đan xen hoặc
doanh nghiệp tham gia vào việc thiết kế chương trình đào tạo, cung
cấp nguồn tài trợ và thậm chí cung cấp giảng viên; doanh nghiệp đóng
vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin về xu hướng mới,
công nghệ mới, kĩ năng cần thiết cho người lao động và đánh giá, đề
xuất các cải tiến để chương trình đào tạo nhanh và linh hoạt hơn.
Từ khóa:
Kinh nghiệm quốc tế, Quản lý đào
tạo nghề, gắn kết với doanh
nghiệp, giáo dục nghề nghiệp.
Keywords:
International experience,
vocational training management,
business engagement, vocational
education and training.
ABSTRACT
This study examines the role of vocational training management in
colleges, particularly in fostering strong linkages with businesses to
enhance the quality of vocational education and training. Globally,
many countries, including Norway, Germany, Russia, the United
States, and Australia, have emphasized integrating vocational training
with industry through various models. These include theoretical
training at educational institutions combined with hands-on practice
in enterprises (e.g., the 2+2 or 1+3 models), alternating in-school and
workplace training, or direct business involvement in designing
curricula, providing funding, and even supplying instructors.
Businesses also play a crucial role in identifying emerging trends,
advancing technologies, and essential workforce skills while
contributing to the evaluation and continuous improvement of training
programs to ensure they remain responsive and adaptable.
1. Đặt vấn đề
Trước đây, vấn đề về quản lý giáo dục nghề
nghiệp ít được chú ý nghiên cứu. Tuy nhiên, từ
giữa thế kỷ 20, khi giáo dục - đào tạo phát triển
nhanh chóng, trở thành một loại hình dịch vụ đặc
biệt và bắt đầu vận hành theo cơ chế thị trường
thì vấn đề quản lý quá trình đào tạo bắt đầu được
nghiên cứu nhiều. Trong lĩnh vực đào tạo giáo
dục nghề nghiệp, đặc biệt là ở các trường cao
đẳng đã có nhiều giải pháp và mô hình quản lý
được đưa ra và thực hiện. Nhiều thập kỷ qua,
một số nước phát triển trên thế giới như Na Uy,
Đức, Liên bang Nga, Hoa Kỳ, Ôxtrâylia… đã
chú ý đến công tác quản lý đào tạo nghề trong
hệ thống giáo dục quốc dân của mình. Loại hình
giáo dục này nhằm đào tạo nguồn nhân lực có
trình độ trung cấp, kỹ thuật viên, nhân viên
nghiệp vụ, công nhân kỹ thuật nhằm đáp ứng sự
phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Đặc biệt,
đội ngũ nhân lực trung cấp là trình độ nằm trong
một diện rộng, từ công nhân và nhân viên có
trình độ sơ cấp đến trình độ tương đương với cao
đẳng, trình độ của họ thấp hay cao phụ thuộc vào
yêu cầu của từng ngành nghề, từng trường quy
định và ở mỗi nước khác nhau.
Đảng, Nhà nước ta xác định: “Nâng cao
hiệu quả liên kết, hợp tác về giáo dục nghề
nghiệp giữa Nhà nước - nhà trường - doanh

MAI VĂN XUÂN
20
nghiệp. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chủ
động hợp tác đào tạo với doanh nghiệp, tăng thời
gian đào tạo, thực hành cho người học trong
doanh nghiệp. Khuyến khích doanh nghiệp tham
gia giáo dục nghề nghiệp từ khâu tuyển sinh, đào
tạo đến sử dụng, thành lập các cơ sở thực hành
tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Hoàn thiện
hệ thống thông tin thị trường lao động, gắn kết
cung - cầu lao động với giáo dục nghề nghiệp”.
Việc nghiên cứu mô hình tổ chức và quản
lý giáo dục nghề nghiệp gắn với doanh nghiệp ở
một số nước sẽ giúp chúng ta so sánh và suy
nghĩ, vận dụng một cách sáng tạo vào cách thức
quản lý đào tạo nghề tại các trường cao đẳng
theo hướng gắn kết với doanh nghiệp ở nước ta
hiện nay.
2. Kết quả nghiên cứu
2.1. Kinh nghiệm của một số nước về quản lý
đào tạo nghề gắn với doanh nghiệp
2.1.1. Đào tạo nghề tại Na Uy
Na Uy được xem là quốc gia sở hữu nhiều mô
hình dạy nghề tiên tiến trên thế giới, lại giàu kinh
nghiệm trong việc quản lý hệ thống dạy nghề,
chính vì vậy trong nhiều năm qua chất lượng đào
tạo nghề tại quốc gia này liên tục tăng cao, đáp ứng
hiệu quả yêu cầu hội nhập và phát triển.
Hệ thống giáo dục - dạy nghề của Na Uy
đang sử dụng mô hình 2+2, tức là 2 năm học ở
trường và 2 năm học thực tế tại nhà máy hoặc
doanh nghiệp. Tuy nhiên theo hướng linh hoạt
hơn, việc thực tập không nhất thiết phải là 2 năm
cuối cùng mà do doanh nghiệp và nhà trường lập
kế hoạch đan xen trong quá trình 4 năm học.
Ngoài ra, dựa trên mô hình chung này, các tổ chức
đào tạo nghề Na Uy đã thiết lập và xây dựng thêm
nhiều mô hình biến thể linh hoạt và uyển chuyển
như “mô hình 1+ 3” (1 năm học tại trường và 3
năm học nghề), “mô hình 0+4” (cả 4 năm đều học
nghề); qua đó mang lại hiệu quả cao trong công tác
đào tạo và dạy nghề tại quốc gia này.
Về nguyên tắc đào tạo: những người lựa chọn
con đường học nghề sẽ ký hợp đồng với một doanh
nghiệp đào tạo trực tuyến. Doanh nghiệp đó phải
bảo đảm nguyên tắc: Năm 1 các công nhân lành
nghề sẽ hướng dẫn về kỹ thuật. Năm 2 giảm bớt
hướng dẫn, tăng việc tự học. Học viên sẽ được
hưởng lương học việc trong cả 2 năm học. Sau khi
kết thúc học việc, học viên sẽ được trao chứng chỉ
và bắt đầu có thể tìm kiếm việc làm.
Về nội dung chương trình dạy nghề: dựa
trên triết lý của cựu Thủ tướng Na Uy - Gro
Harlem Brundtland: “Mục tiêu chung của tất cả
hệ thống giáo dục đào tạo nghề là phải cung cấp
được kiến thức đồng bộ giữa lý thuyết và thực
hành để người học có thể ứng dụng những kinh
nghiệm thực tế vào cuộc sống”.
2.1.2. Đào tạo nghề tại Đức
Đức là một quốc gia phát triển ở trình độ
cao nhờ làm tốt chiến lược phát triển nguồn nhân
lực. Tại Đức, hệ thống đào tạo nghề kép được
xem là mô hình đào tạo hiệu quả hàng đầu thế
giới. Hệ thống đào tạo nghề kép nhờ tập trung
vào chất lượng đào tạo và chế độ đãi ngộ tốt nên
thu hút được giáo viên nghề chất lượng cao. Đội
ngũ giáo viên nghề được chọn kỹ trên cơ sở đáp
ứng các tiêu chuẩn khắt khe, như ít nhất phải có
kinh nghiệm làm việc 5 năm, có đủ năng lực sư
phạm và chuyên môn để tham gia giảng dạy. Tiêu
chuẩn năng lực sư phạm và chuyên môn đối với
giáo viên nghề về cơ bản gồm chứng chỉ thợ chính
thức của ngành, 1,5 năm đào tạo thêm vào buổi tối
tại trường kỹ thuật và vượt qua kỳ thi tốt nghiệp.
Hệ thống dạy nghề có các bậc như bậc 1 sơ
đẳng, bậc này đào tạo 3 năm. Học viên học về
sản xuất, thuế…; bậc 2 học về cách thức quản lý,
tạo mạng lưới, sản xuất quy mô, kỹ năng về
nhân lực, quản lý. Bậc 3, cao nhất, học viên sẽ
được học cách quản lý, giải quyết các xung đột
trong quá trình sản xuất… Ở trình độ này, có thể
coi nông dân đã có bằng “thợ cả”, người này có
đủ điều kiện để điều hành xí nghiệp, hợp tác xã
hoặc làm công tác tư vấn, đào tạo.
Các chương trình đào tạo nghề luôn cập
nhật các xu hướng phát triển của thời đại, cũng
như xu hướng xuất hiện nghề mới. Hay nói cách
khác, những thay đổi của nền kinh tế Đức đều
được đưa vào các cơ sở nghề. Những thay đổi
của nền kinh tế Đức đều được đưa vào các cơ sở
đào tạo nghề thông qua sự phối hợp chặt chẽ
giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo nghề.
Về vấn đề tuyển sinh: công tác tuyển sinh
được thực hiện dựa trên danh sách của trường phổ
thông cung cấp và được lựa chọn thực hiện kỹ
dựa trên bảng điểm, thái độ đối với nghề. Việc
học cũng được trả lương theo thỏa thuận. Kết thúc
khóa học, học viên được kiểm tra các kiến thức
liên quan nghề. Một điều lưu ý là các kỹ năng làm
việc được đào tạo khá nghiêm ngặt. Dựa trên kiến
thức học được, học viên phải tự thực hiện các
công đoạn, từ việc lập kế hoạch, triển khai kế
hoạch, tự đánh giá và làm báo cáo thực hiện. Điều
này giúp học viên nâng cao sự tự chủ, khả năng
linh hoạt trong việc tìm kiếm tài liệu, nguyên liệu
thực hành trong khóa học, tinh thần chịu trách
nhiệm trong công việc.
Ở doanh nghiệp, học viên phải học việc như
một công nhân thực thụ và được giao công việc
từ đơn giản đến phức tạp. Nhờ đó, các kiến thức
học ở trường được thực hành ngay tại doanh
nghiệp và được bổ sung thực hành những kiến
thức công nghệ mới. Học viên sau khi tốt nghiệp
được làm ở doanh nghiệp, hoặc có thể tìm việc

TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(45), THÁNG 3 – 2025
21
ở công ty khác. Nhờ vậy mà tỷ lệ thất nghiệp
trong thanh niên ở Đức rất thấp.
2.1.3. Đào tạo nghề tại Liên bang Nga
Liên bang Nga không chỉ là quốc gia lớn
nhất thế giới mà còn là nước có diện tích đất
nông nghiệp cũng lớn nhất thế giới (trên 210
triệu héc-ta, chiếm 7% đất nông nghiệp toàn
cầu), có khả năng sản xuất sản phẩm nông
nghiệp nuôi sống toàn bộ dân số trên trái đất.
Để có được những người nông dân tương
lai gắn bó với nghề trên đồng ruộng, Chính phủ
Liên bang Nga cũng như chính phủ các nước
cộng hòa trong Liên bang đã chú ý phát triển
nhiều hình thức đào tạo nghề khác nhau. Trước
hết, chú trọng cung cấp những kiến thức cơ bản
về nghề nông cho học sinh trung học năm cuối
phổ thông, gọi là hình thức đào tạo chuyên
nghiệp sơ cấp, tại các trường cao đẳng chuyên
nghiệp. Học sinh có nhu cầu học nghề phải làm
đơn nhập học theo quy chế đào tạo chung của
nhà nước. Những người được tuyển thường là
học sinh đã tốt nghiệp phổ thông. Sau khi được
tuyển vào học, các em sẽ được học nghề từ 1 đến
3 năm tùy thuộc vào trình độ học vấn phổ thông
của mình. Có hai hình thức đào tạo: chính quy
(ban ngày) và không chính quy (ban đêm).
2.1.4. Đào tạo nghề tại Hoa Kỳ
Hệ thống đào tạo nghề nghiệp tích hợp với
doanh nghiệp ở Hoa Kỳ có một số đặc điểm sau:
có mối liên kết chặt chẽ với doanh nghiệp, trong
đó doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong
việc xây dựng và cập nhật chương trình học;
Doanh nghiệp được mời tham gia vào việc thiết
kế chương trình đào tạo, cung cấp nguồn tài trợ,
và thậm chí cung cấp giáo viên hoặc giảng viên
(với tư cách đối tác); Doanh nghiệp đóng vai trò
quan trọng trong việc cung cấp thông tin về xu
hướng mới, công nghệ mới, kĩ năng cần thiết cho
người lao động; Tham gia vào việc đánh giá, đề
xuất các cải tiến để chương trình đào tạo nhanh và
linh hoạt hơn. Mô hình đào tạo nghề nghiệp tích
hợp với doanh nghiệp này có nhiều ưu điểm như:
- Chương trình học thích ứng, hệ thống này
thường có chương trình học linh hoạt, được điều
chỉnh, cập nhật nhanh chóng và tập trung vào
việc cung cấp các chương trình ngắn hạn như
chứng chỉ và chứng chỉ chuyên nghiệp để nhanh
chóng gia nhập vào thị trường lao động.
- Cơ hội thực tập đa dạng: hệ thống này
thường tạo cơ hội thực tập đa dạng cho sinh viên,
giúp họ áp dụng kiến thức học được vào môi
trường làm việc thực tế. Doanh nghiệp chủ động
hỗ trợ sinh viên thực tập bằng cách cung cấp
hướng dẫn, cơ hội học hỏi và tạo ra mối quan hệ
làm việc lâu dài.
Hệ thống đào tạo nghề nghiệp tích hợp ở
Hoa Kỳ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ nghề nghiệp
như tư vấn nghề nghiệp, chuẩn bị hồ sơ xin việc
và các sự kiện liên quan đến việc tìm kiếm việc
làm. Trong đó, doanh nghiệp thường là thành
viên quan trọng của các mạng lưới quan hệ, cung
cấp cơ hội gặp gỡ và kết nối cho sinh viên.
- Sự đánh giá liên tục: hệ thống thường
xuyên đánh giá và theo dõi hiệu suất của sinh
viên, từ đó cung cấp phản hồi cho doanh nghiệp
và trường học để cải thiện chất lượng đào tạo.
- Đánh giá sự hài lòng của doanh nghiệp: sự
hài lòng của doanh nghiệp với người lao động
được đào tạo là một phần quan trọng của quá
trình đánh giá và cải thiện.
Như vậy, có thể thấy rằng, ở Hoa Kỳ, hệ
thống đào tạo nghề nghiệp tích hợp với doanh
nghiệp thường xuyên tập trung vào việc tối ưu
hóa sự kết hợp giữa kiến thức chuyên môn và kĩ
năng thực tế. Mối quan hệ chặt chẽ giữa doanh
nghiệp và trường học giúp đảm bảo người học
nhanh chóng và tự tin chuyển đổi từ giáo dục
sang thị trường lao động, tạo ra lợi ích đối với cả
sinh viên và doanh nghiệp.
2.1.5. Đào tạo nghề tại Ôxtrâylia
Ở Ôxtrâylia (Australia), trong khoảng ba thập
kỷ vừa qua, ngành đào tạo nghề luôn nỗ lực phát
triển các phương thức kết hợp đào tạo nghề tại
trường và doanh nghiệp sản xuất. Vào những năm
80, ngành công nghiệp được bổ sung hệ thống học
việc (Apprenticeship System) để đào tạo đội ngũ
lao động kỹ thuật ở một số ngành nghề cần sử
dụng. Để giải quyết vấn đề đặt ra, hệ thống Modern
Australian Apprenticeship and Training System
(MAATS - Hệ thống đào tạo và học việc hiện đại
Ôxtrâylia) được nghiên cứu và đề xuất năm 1989
và đã đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Tuy nhiên, ngày
nay hệ thống MAATS đang được nghiên cứu hoàn
thiện phù hợp hơn với sự phát triển của kinh tế - xã
hội. Kết hợp đào tạo tại trường và doanh nghiệp
sản xuất đã được nghiên cứu tại các nước đang
phát triển ở khu vực Mỹ-Latinh.
Như vậy, việc đào tạo nghề theo hướng gắn
kết với doanh nghiệp ở các nước có rất nhiều ưu
điểm như: doanh nghiệp được tham gia thiết kế
chương trình đào tạo, cung cấp giảng viên giảng
dạy kỹ năng thực hành nghề nghiệp, hỗ trợ tài
chính… và đặc biệt là việc bố trí, cung cấp các
trang thiết bị, công nghệ mới cho người học,
giúp người học dễ dàng làm việc ngay tại doanh
nghiệp hoặc tự tạo việc làm sau khi tốt nghiệp.
Ở Việt Nam thời gian gần đây đã có một số
trường đại học thực hiện chương trình đào tạo
theo hướng gắn kết với doanh nghiệp nhưng mới
chỉ dừng lại ở xây dựng môn học “thực tập
doanh nghiệp”. Một số trường cao đẳng thực
hiện đào tạo gắn kết với doanh nghiệp trên cơ sở
chương trình đào tạo được chuyển giao từ nước
ngoài do Tổng cục Giáo dục nghề nghiệp hỗ trợ

MAI VĂN XUÂN
22
như: trường CĐ Kỹ nghệ II, trường CĐ Công
nghệ Quốc tế Liilama 2, trường CĐ Cơ giới và
Thủy lợi với khoảng 40% thời gian thực hành tại
doanh nghiệp. Trong đó, mô hình đào tạo kép
trình độ cao đẳng chất lượng cao nghề công nghệ
ô tô giữa trường cao đẳng Lý Tự Trọng với Công
ty TNHH Sản xuất và Kinh doanh Vinfast (mô
hình 30 tháng: 15 tháng tại trường và 15 tháng
tại doanh nghiệp) được đánh giá là phù hợp
nhưng số lượng tuyển sinh và đào tạo chưa được
nhiều học viên. Do đó, để công tác đào tạo giáo
dục nghề nghiệp đạt hiệu quả hơn trong thời gian
tới, cần nghiên cứu và đưa ra được các mô hình,
giải pháp gắn kết nhà trường với doanh nghiệp
chặt chẽ, thiết thực hơn nữa.
2.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo nghề theo hướng gắn kết với doanh nghiệp
Để nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các
trường theo hướng gắn kết với doanh nghiệp,
cần thực hiện tốt một số giải pháp sau:
Một là, nhà trường gắn kết với doanh
nghiệp trong việc xây dựng tiêu chí tuyển sinh,
phương thức, kế hoạch truyền thông tuyển sinh,
thành lập tổ tư vấn và triển khai tuyển sinh đến
người học. Đây là nội dung quan trọng bước đầu
trong tiến trình đào tạo, trong đó trường cao
đẳng chú ý đưa ra các quy chuẩn, quy định về
điều kiện tuyển sinh theo quy định của nhà
trường và tuân thủ pháp luật; doanh nghiệp bổ
sung các tiêu chí cần đảm bảo học tập được nghề
và làm việc phù hợp theo quy định của doanh
nghiệp và nhu cầu xã hội.
Hai là, nhà trường gắn kết với doanh
nghiệp trong việc xây dựng nội dung chương
trình đào tạo, phương pháp giảng dạy và đánh
giá kết quả học tập của sinh viên gắn với mục
tiêu đào tạo của nhà trường và các tiêu chí chuẩn
đầu ra mong muốn của doanh nghiệp, đảm bảo
chất lượng và hiệu quả đào tạo. Giải pháp này
đảm bảo sản phẩm đào tạo ra được chấp thuận
bởi doanh nghiệp và nhu cầu xã hội theo thực
tiễn sản xuất và cập nhật bổ sung công nghệ mới;
phù hợp với điều kiện nhà trường và nhu cầu của
doanh nghiệp.
Ba là, nhà trường gắn kết với doanh nghiệp
trong việc bố trí nguồn lực để triển khai quản lý
đào tạo nghề như: nhân lực tham gia quản lý và
giảng dạy, cơ sở vật chất và trang thiết bị thực
hành, kinh phí… Doanh nghiệp của cán bộ kỹ
thuật tham gia giảng dạy và quản lý người học
cùng nhà trường đảm bảo quá trình đào tạo đúng
mục tiêu đề ra và bố trí cơ sở vật chất, thiết bị
thực hành kỹ năng giúp người học không mất
thời gian đào tạo lại tại doanh nghiệp mà có thể
bố trí công việc làm ngay tại doanh nghiệp sau
khi tốt nghiệp.
Bốn là, nhà trường và doanh nghiệp cùng
xây dựng mô hình gắn kết đào tạo nghề, xác định
thời gian và nội dung (lý thuyết, thực hành) đào
tạo tại nhà trường và doanh nghiệp.
Năm là, nhà trường và doanh nghiệp gắn
kết trong việc hiện đại hoá nâng cao năng lực
quản lý và đào tạo nghề, đổi mới quản lý sinh
viên bằng công nghệ thông tin hoặc chuyển đổi
số như: số hoá hệ thống quản lý dữ liệu người
học, môn học/mô-đun đào tạo, hình thức đào tạo
trực tuyến - online (nếu có), quản lý đánh giá
điểm học tập và rèn luyện… đảm bảo người học
tiếp cận được công nghệ mới và thuận lợi trong
quá trình học tập.
Sáu là, nhà trường và doanh nghiệp gắn kết
trong việc tư vấn định hướng nghề nghiệp và bố
trí việc làm cho sinh viên sau tốt nghiệp. Đây
được xem là vấn đề quan trọng, cốt lõi của tiến
trình đào tạo nghề nghiệp. Việc tư vấn và bố trí
việc làm phù hợp với tiêu chí tuyển sinh ban đầu
giúp sinh viên yên tập học tập, có mục tiêu rõ
ràng để phấn đấu và lập nghiệp.
3. Kết luận
Trong xu thế toàn cầu và hội nhập, các cơ
sở giáo dục nghề nghiệp (trường cao đẳng) đã có
sự chủ động hợp tác với doanh nghiệp trong đào
tạo để không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo
nghề theo hướng đáp ứng nhu cầu của doanh
nghiệp. Đã có nhiều hướng đi đúng, cách làm
hay của các trường cao đẳng nhằm tăng cường
hợp tác với các doanh nghiệp trong đào tạo tại
các khu công nghiệp. Tuy nhiên, do sự biến động
liên tục của nền kinh tế quốc tế luôn tác động
trực tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp, cũng như những cơ chế chính
sách luôn có sự thay đổi để thích ứng đã tạo nên
một môi trường gắn kết (hợp tác) không mang
tính ổn định. Điều này khiến cho các hoạt động
quản lý nhằm tăng cường gắn kết với doanh
nghiệp trong đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề
nghiệp chưa thực sự thích ứng và đầy đủ. Do
vậy, việc nghiên cứu để hoàn thiện và đổi mới
các biện pháp quản lý hoạt động liên kết đào tạo
giữa trường nghề và doanh nghiệp nhằm không
ngừng tăng cường hợp tác các bên để nâng cao
chất lượng đào tạo nghề theo hướng phù hợp với
nhu cầu của các doanh nghiệp là rất cần thiết.
Gắn kết đào tạo giữa nhà trường với các doanh
nghiệp là một trong những giải pháp để thực
hiện nguyên lý giáo dục “Học đi đôi với hành”,
“Lý luận gắn liền với thực tiễn”, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và đào tạo ra đội ngũ lao
động lành nghề, đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế xã hội. Việc
tổng kết hoạt động gắn kết quản lý đào tạo giữa
Nhà trường và doanh nghiệp cần được triển khai,

TẠP CHÍ KHOA HỌC QUẢN LÝ GIÁO DỤC SỐ 01(45), THÁNG 3 – 2025
23
nhằm đánh giá kết quả và rút kinh nghiệm để
tiếp tục hoạt động gắn kết, đồng thời có những
điều chỉnh, bổ sung cho phù hợp với tình hình
mới và ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo
giáo dục nghề nghiệp tại các trường cao đẳng
hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Bí thư Trung ương Đảng CS Việt Nam. (2023). Chỉ thị 21-CT/TW về tiếp tục đổi mới, phát
triển và nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Bộ LĐTB và XH. (2012). Kinh nghiệm từ mô hình đào tạo và dạy nghề ưu tú của Na Uy
https://molisa.gov.vn/baiviet/19543?tintucID=19543.
Quân. L. (2018). Đào tạo nghề chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập và Cách mạng công
nghiệp 4.0; https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quan-triet-va-thuc-hien-nghi-quyet-dai-
hoi-xiii-cua-dang/-/2018/815936/view_content
Học viện sở hữu trí tuệ. (2016). Kinh nghiệm xây dựng mô hình đào tạo nghề của một số nước
trên thế giới. https://iipa.edu.vn/nghien-cuu-khoa-hoc/kinh-nghiem-xay-dung-mo-hinh-dao-tao-
nghe-cua-mot-so-nuoc-tren-the-gioi-57.html
Brown. C., & Michael .R. (1997). Developing skills and pay through career ladders: Lessons
from Japanese and US companies, California Management Review 39.2, p.124-144.