
501
Kinh tế số tại Việt Nam: Từ chính sách đến thực thi
Trần Quý, Ngô Hướng, Trần Đức Thanh, Vincent Lữ Thế Hùng, Nguyễn Xuân Hải
Tóm tắt
Kinh tế số đang trở thành một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế của các quốc gia trên toàn thế giới, và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Chính phủ Việt
Nam đã nhận thức được tiềm năng và tm quan trọng của kinh tế số và đã triển khai nhiều chính
sách và biện pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển trong lĩnh vực này. Trong bài báo này, chúng ta
sẽ tìm hiểu cụ thể về vai trò của chính sách và quá trình thực thi trong việc thúc đẩy kinh tế số
tại Việt Nam, từ khía cạnh lý thuyết đến thực tế. Bài báo này sẽ là một tài liệu tham khảo hữu
ích cho các nhà nghiên cứu, chính quyền, doanh nghiệp và những ai quan tâm đến sự phát triển
của kinh tế số tại Việt Nam.
Từ khóa: Kinh tế số, Việt Nam, chính sách, thực thi
1. Khái niệm và quan trọng của kinh tế số
Kinh tế số đại diện cho hoạt động kinh tế trong đó công nghệ số và dữ liệu số đóng vai trò
quan trọng. Nó bao gồm việc sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông, như Internet, trí tuệ
nhân tạo, big data, IoT và trí tuệ nhân tạo, nhưng không chỉ giới hạn ở việc áp dụng công nghệ
vào các hoạt động kinh doanh truyền thống. Kinh tế số mở ra một không gian hoạt động mới,
được gọi là môi trường số, nơi mà công nghệ số là trung tâm.
Môi trường số trong kinh tế số cho phép các doanh nghiệp sử dụng các công cụ số, hệ
thống thông tin và dữ liệu số để tăng cường hiệu suất và năng suất lao động. Các quy trình kinh
doanh có thể được tự động hóa, dẫn đến giảm thiểu lỗi và tăng cường sự chính xác. Hơn nữa,
sự kết hợp giữa công nghệ và dữ liệu số mở ra khả năng đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu
hóa cấu trúc nền kinh tế. Trong kinh tế số, các doanh nghiệp có thể sử dụng big data và phân
tích dữ liệu để hiểu rõ hơn về thị trường và khách hàng. Điều này giúp tạo ra những sản phẩm
và dịch vụ phù hợp hơn với nhu cu của khách hàng và tăng cường sự cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra, công nghệ số cũng giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân phối, giảm thiểu lãng
phí và tăng cường hiệu quả.
Tuy nhiên, triển khai kinh tế số không chỉ là việc áp dụng công nghệ và dữ liệu vào các
hoạt động kinh doanh. Nó đòi hỏi sự thay đổi về tư duy, quản lý và cấu trúc tổ chức để tận dụng
hết tiềm năng của kinh tế số. Do đó, chính sách và thực thi đóng vai trò quan trọng trong việc
thúc đẩy sự phát triển kinh tế số tại Việt Nam, bằng cách xây dựng một môi trường thuận lợi,
hỗ trợ hạ tng, đào tạo nguồn nhân lực và tạo ra khung pháp lý để khuyến khích sự đổi mới và
sựchuyển đổi trong các doanh nghiệp và tổ chức.
Trên cơ sở này, việc triển khai kinh tế số tại Việt Nam đòi hỏi sự phối hợp giữa các nhà
lãnh đạo chính phủ, doanh nghiệp và các cơ quan liên quan. Chính phủ cn thiết lập các chính
sách và quy định phù hợp để thúc đẩy sự chuyển đổi kỹ thuật số và khuyến khích đu tư vào hạ
tng công nghệ thông tin và viễn thông. Doanh nghiệp cn nhận thức về tiềm năng của kinh tế
số và sẵn sàng thay đổi mô hình kinh doanh để phù hợp với môi trường số. Cùng với đó, cn

502
đu tư vào đào tạo và phát triển nguồn nhân lực có kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông
tin và quản lý dự án kỹ thuật số.
Việt Nam đã chứng kiến những thành tựu đáng kể trong việc triển khai kinh tế số, như tăng
trưởng GDP, sự phát triển của các ngành công nghiệp công nghệ, và sự phổ biến của các dịch
vụ trực tuyến. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức cn được vượt qua, bao gồm việc xây dựng
hạ tng mạng, đảm bảo an ninh thông tin và bảo vệ quyền riêng tư. Đồng thời, cn tăng cường
việc hợp tác giữa các bên liên quan và tạo ra môi trường cạnh tranh và thúc đẩy sự sáng tạo.
Kinh tế số là hoạt động kinh tế sử dụng công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đu vào
chính, sử dụng môi trường số làm không gian hoạt động chính, sử dụng công nghệ thông tin -
viễn thông để tăng năng suất lao động, đổi mới mô hình kinh doanh và tối ưu hóa cấu trúc nền
kinh tế.
(Theo Cục Kinh Tế số - Xã hội số - Bộ Thông tin Truyền Thông)
Như thể hiện ở hình trên, kinh tế số bao gồm 3 cấu phn: Kinh tế số ICT, Kinh tế số nền
tảng, và Kinh tế số ngành, trong đó:
- Kinh tế số ICT là công nghiệp công nghệ thông tin và dịch vụ viễn thông, gồm các hoạt
động như: sản xuất sản phẩm điện tử, sản xuất phn cứng, sản xuất phn mềm, sản xuất nội
dung số, cung cấp dịch vụ CNTT và cung cấp dịch vụ viễn thông;
- Kinh tế số nền tảng là hoạt động kinh tế của các nền tảng số, hệ thống trực tuyến, sử dụng
công nghệ số và dữ liệu số làm yếu tố đu vào chính, gồm các hoạt động như: kinh doanh bằng
nền tảng số, kinh doanh dựa trên dữ liệu số, kinh doanh các dịch vụ số trực tuyến, …
- Kinh tế số ngành là hoạt động kinh tế gia tăng đáng kể của các ngành, lĩnh vực nhờ đu
vào công nghệ số và dữ liệu số, với môi trường số là không gian hoạt động chính, gồm các hoạt
động như: quản trị điện tử, thương mại điện tử, nông nghiệp thông minh, sản xuất thông minh,
du lịch thông minh v.v…;
Kinh tế số đã mang lại nhiều lợi ích và cơ hội đáng kể cho việc phát triển kinh tế tại Việt
Nam. Một ví dụ rõ ràng về lợi ích của kinh tế số là sự phát triển của ngành công nghiệp công
nghệ tại Việt Nam: trong vòng 10 năm (2010-2020), doanh thu của ngành công nghiệp công
nghệ tại Việt Nam đã tăng trung bình 25% mỗi năm, đạt 120 tỷ USD vào năm 2020 (nguồn:
Báo cáo "Digital Economy Report 2021", UNCTAD). Các doanh nghiệp công nghệ nổi tiếng
như FPT, VNG và Vingroup đã ghi nhận những bước phát triển đáng kể và đóng góp quan
trọng vào nền kinh tế của đất nước.

503
Kinh tế số cũng đã tạo ra cơ hội mở rộng thị trường cho các doanh nghiệp Việt Nam. Ví
dụ, số lượng người dùng Internet tại Việt Nam đã tăng lên hơn 70 triệu người vào cuối năm
2020, chiếm hơn 70% dân số (nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông). Điều này tạo ra một thị
trường tiềm năng lớn cho các doanh nghiệp hoạt động trong kinh tế số. Các doanh nghiệp Việt
Nam đã tận dụng kỹ thuật số và nền tảng trực tuyến để tiếp cận khách hàng quốc tế và mở rộng
hoạt động xuất khẩu.
Một lợi ích quan trọng khác của kinh tế số là cải thiện quản lý và dịch vụ công. Hệ thống
Cổng thông tin điện tử quốc gia và Cổng thông tin Đăng ký kinh doanh trực tuyến đã được triển
khai để cung cấp dịch vụ công trực tuyến thuận tiện cho doanh nghiệp và người dân. Theo Báo
cáo cải cách hành chính năm 2020, hơn 98% các thủ tục hành chính cấp trung ương đã được
điện tử hóa và giao dịch điện tử.
Ngoài ra, kinh tế số còn tạo ra tiềm năng trong lĩnh vực khởi nghiệp công nghệ. Số lượng
startup công nghệ tại Việt Nam đang gia tăng đáng kể, với sự xuất hiện của các doanh nghiệp
như Grab, Tiki và VNPay. Theo báo cáo "Vietnam Tech Investment Report 2020" của Vietnam
Ventures, Việt Nam đã thu hút hơn 1 tỷ USD đu tư vào các công ty khởi nghiệp công nghệ
vào năm 2020.
Kinh tế số đã cải thiện chất lượng cuộc sống và dịch vụ công cho người dân Việt Nam:
dịch vụ giao hàng và mua sắm trực tuyến như Grab, Shopee và Lazada đã tạo điều kiện thuận
lợi cho người dân tiếp cận các sản phẩm và dịch vụ, từ thực phẩm đến hàng tiêu dùng và dịch
vụ y tế. Ứng dụng thanh toán điện tử như MoMo, ZaloPay và ViettelPay,... đã giúp đơn giản
hóa quá trình thanh toán và tăng cường tiện ích cho người dùng.
Kinh tế số của Việt Nam theo đánh giá của các tổ chức quốc tế đã có những bước phát
triển nhanh, nhiều triển vọng so với khu vực và thế giới. Theo Báo cáo e-Conomy SEA năm
2021, chỉ tính riêng cấu phn kinh tế số Internet/nền tảng, Việt Nam đã đạt 21 tỷ USD, đứng
thứ 3 Asean, với mức tăng trưởng năm 2021 đạt 31% (xem hình). Báo cáo này cũng dự báo đến
năm 2025 kinh tế số Internet/nền tảng Việt Nam sẽ đạt mức 56 tỷ USD.
Việc đo lường, thống kê số liệu đy đủ về kinh tế số hiện là một thách thức lớn đối với hu
như tất cả các nước và cả Việt Nam. Tổng cục Thống kê đang rất nỗ lực phối hợp cùng các cơ
quan liên quan nghiên cứu xây dựng các chỉ tiêu cụ thể để tổ chức điều tra, thống kê về lĩnh
vực mới này. Mặc dù chưa có số liệu chính thức, đy đủ về kinh tế số Việt Nam nhưng qua
tổng hợp sơ bộ từ các báo cáo trong và ngoài nước, có thể ước tính kinh tế số Việt Nam năm

504
2021 có tổng doanh thu chung của kinh tế số đạt khoảng 185 tỷ USD, tăng trưởng chung gn
14%, đóng góp khoảng 9,6% GDP, trong đó: Kinh tế số ICT/VT đạt khoảng 139 tỷ USD, tăng
trưởng 10,5%, đóng góp khoảng 6,1% GDP; Kinh tế số internet/nền tảng đạt khoảng 21 tỷ
USD, tăng trưởng 31%, đóng góp khoảng 1,6% GDP; Kinh tế số ngành/lĩnh vực đạt khoảng 25
tỷ USD, tăng trưởng 20%, đóng góp khoảng 1,9% GDP.
2. Chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế số tại Việt Nam
Chính phủ Việt Nam đã áp dụng nhiều chương trình và chính sách quan trọng nhằm thúc
đẩy kinh tế số trong nước:
Chiến lược phát triển kinh tế số: Chính phủ đã thông qua "Chiến lược phát triển kinh tế
số Việt Nam đến năm 2030, tm nhìn đến năm 2045". Theo đó, chiến lược tập trung vào việc
tăng cường cơ sở hạ tng công nghệ thông tin, đào tạo nhân lực, đổi mới mô hình kinh doanh
và tăng cường quản lý và an ninh thông tin. Đây là một cơ sở quan trọng để xây dựng một nền
kinh tế số bền vững và đạt được mục tiêu phát triển.
Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin: Chính phủ đã đu tư mạnh mẽ vào phát triển hạ
tng công nghệ thông tin. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, vào cuối năm 2020, Việt Nam
đã có hơn 73 triệu người dùng Internet, chiếm gn 74% dân số. Đồng thời, Việt Nam đã xây
dựng và nâng cấp mạng lưới viễn thông, cải thiện quy trình đăng ký tên miền và xây dựng trung
tâm dữ liệu quốc gia. Các nỗ lực này đã tạo ra cơ sở hạ tng vững chắc để hỗ trợ việc triển khai
các dịch vụ và ứng dụng kinh tế số.
Khuyến khích đổi mới công nghệ và khởi nghiệp công nghệ: Chính phủ đã tạo ra các
chương trình khuyến khích đổi mới công nghệ và khởi nghiệp công nghệ. Ví dụ, chương trình
"Khởi nghiệp sáng tạo và Đổi mới công nghệ" đã được triển khai với mục tiêu tạo điều kiện
thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ. Ngoài ra, chương trình "Công nghệ 4.0
và khởi nghiệp" cung cấp hỗ trợ tài chính, đào tạo, mentorship và hỗ trợ pháp lý cho các doanh
nghiệp khởi nghiệp công nghệ. Theo báo cáo "Vietnam Tech Investment Report 2020" của
Vietnam Ventures, Việt Nam đã thu hút hơn 1 tỷ USD đu tư vào các công ty khởi nghiệp công
nghệ vào năm 2020.
Thúc đẩy thanh toán điện tử: Chính phủ đã thúc đẩy sử dụng thanh toán điện tử thông
qua việc hỗ trợ phát triển các dịch vụ thanh toán điện tử và xây dựng hệ thống thanh toán trực
tuyến an toàn và tiện ích. Theo Bộ Công Thương, vào cuối năm 2020, số lượng ví điện tử đã
tăng lên 73 triệu tài khoản. Các ứng dụng thanh toán điện tử như MoMo, ZaloPay và ViettelPay
đã nhận được sự hỗ trợ và khuyến khích từ chính phủ. Ví dụ, MoMo đã trở thành ứng dụng ví
điện tử phổ biến nhất tại Việt Nam với hơn 20 triệu người dùng (nguồn: Vietnam E-payment
2020 Report).
Phát triển e-commerce và thương mại điện tử: Chính phủ đã đẩy mạnh phát triển e-
commerce và thương mại điện tử thông qua việc xây dựng và cải thiện hệ thống pháp lý, bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng và tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng. Theo Báo cáo thương
mại điện tử Việt Nam 2020, doanh thu thương mại điện tử tại Việt Nam đã đạt 11,8 tỷ USD vào
năm 2020, tăng 18% so với năm trước đó. Các doanh nghiệp bán lẻ trực tuyến như Shopee, Tiki
và Lazada đã phát triển mạnh mẽ và đóng góp quan trọng vào sự tăng trưởng của ngành thương
mại điện tử.
Đầu tư vào nền tảng công nghệ: Chính phủ đã đu tư vào nền tảng công nghệ để xây
dựng cơ sở hạ tng vững chắc cho kinh tế số. Ví dụ, Chương trình "Kế hoạch quốc gia phát

505
triển công nghệ thông tin và viễn thông giai đoạn 2021-2025" đã được triển khai với mục tiêu
xây dựng hệ thống truyền thông quốc gia, mạng lưới viễn thông và trung tâm dữ liệu quốc gia.
Điều này đảm bảo an ninh thông tin và cung cấp nền tảngcho việc triển khai các dịch vụ và ứng
dụng kinh tế số.
Đào tạo và phát triển ngun nhân lực: Chính phủ đã tăng cường đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực với kiến thức và kỹ năng về công nghệ thông tin và kinh tế số. Theo Bộ Giáo
dục và Đào tạo, đã có các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật số và công nghệ thông
tin được triển khai ở các trường đại học và trung học chuyên nghiệp. Điều này đảm bảo sự
chuẩn bị và nâng cao năng lực của nguồn nhân lực trong việc áp dụng công nghệ số và kinh tế
số.
Các chương trình và chính sách trên đã tạo ra những tiến bộ đáng kể trong việc thúc đẩy
kinh tế số tại Việt Nam. Chính phủ tiếp tục cam kết và triển khai các biện pháp để tạo ra một
môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững của kinh tế số trong tương lai.
3. Thực thi chính sách và thành tựu đã đạt được
Đánh giá hiệu quả của việc thực thi chính sách kinh tế số là một quá trình phức tạp và có
thể dựa trên nhiều yếu tố khác nhau. Các số liệu và chỉ số kinh tế chỉ là một phn trong việc
đánh giá toàn diện và cn được xem xét kết hợp với các yếu tố khác như mức độ thụ động của
người dân, sự phát triển của hạ tng, chất lượng nhân lực, và nhận thức của cộng đồng về kinh
tế số. Việc đánh giá hiệu quả của việc thực thi chính sách kinh tế số tại Việt Nam có thể dựa
trên một số số liệu và chỉ số kinh tế liên quan:
Tăng trưởng GDP: Một chỉ số quan trọng để đánh giá hiệu quả của chính sách kinh tế số
là tăng trưởng GDP. Việt Nam đã duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế ổn định trong nhiều năm
qua. Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, tăng trưởng GDP của Việt Nam vào năm 2020 là
2,9%, trong khi nhiều nước khác trên thế giới gặp khó khăn do ảnh hưởng của đại dịch COVID-
19. Đây là một dấu hiệu tích cực cho thấy việc thực thi chính sách kinh tế số đã góp phn tăng
cường sự phục hồi và phát triển kinh tế của Việt Nam.
Chỉ số GII (Global Innovation Index): Chỉ số GII đánh giá khả năng đổi mới và sáng tạo
của một quốc gia. Việt Nam đã có sự tiến bộ đáng kể trong chỉ số này. Theo Báo cáo Chỉ số
Đổi mới Toàn cu năm 2020, Việt Nam đã leo lên vị trí thứ 42 trong số 131 quốc gia được đánh
giá, vượt qua nhiều nước trong khu vực và trở thành quốc gia hàng đu trong số các nước có
thu nhập thấp và trung bình. Điều này cho thấy chính sách kinh tế số đã tạo điều kiện thuận lợi
cho sự đổi mới và sáng tạo trong kinh tế Việt Nam.
Số lượng và giá trị thương vụ trực tuyến: Kinh tế số cung cấp cơ hội cho việc phát triển
thương mại điện tử. Việt Nam đã ghi nhận sự tăng trưởng đáng kể trong số lượng và giá trị
thương vụ trực tuyến. Theo Báo cáo Thương mại Điện tử Toàn cu năm 2021 của Liên minh
Quốc tế về Viễn thông (ITU), giá trị thương mại điện tử ở Việt Nam đã tăng từ 9,4 tỷ USD vào
năm 2015 lên tới hơn 17 tỷ USD vào năm 2020. Điều này cho thấy chính sách kinh tế số đã tạo
ra cơ hội kinh doanh mới và thúc đẩy sự phát triển của thị trường trực tuyến.
Số lượng người dùng Internet và sử dụng di động: Một chỉ số quan trọng để đánh giá
hiệu quả của chính sách kinh tế số là số lượng người dùng Internet và sử dụng di động. Theo
số liệu của Bộ Thông tin và Truyền thông Việt Nam, tính đến tháng 12 năm 2021, Việt Nam có
hơn 76 triệu người dùng Internet và hơn 147 triệu người sử dụng di động. Số liệu này cho thấy