
Để lãi suất hạ, doanh nghiệp cần “tự
hoàn thiện”
DN duy trì, phát triển sản xuất - kinh doanh, cũng như gia tăng khả năng cạnh
tranh. Về mặt lý thuyết, để kiềm chế lạm phát thì phải thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ, phải duy trì một mức lãi suất cao hơn lạm phát và rút tiền trong lưu
thông. Tuy nhiên, theo quan sát và đánh giá của cá nhân tôi thì lạm phát ở Việt
Nam giai đoạn này chủ yếu là do chi phí đẩy, chứ không phải do cầu kéo.
Vì vậy, việc NHNN đang một mặt kiểm soát chặt chẽ cung tiền và tăng trưởng tín
dụng thông qua việc đặt ra giới hạn tăng trưởng tín dụng theo năng lực của từng
nhóm ngân hàng, khống chế tăng trưởng tín dụng đối với những lĩnh vực không
khuyến khích để hướng dòng tín dụng vào sản xuất - kinh doanh, cùng với từng
bước thực thi việc hạ lãi suất là giải pháp phù hợp để góp phần giảm lạm phát.
Như vậy, để đảm bảo hiệu quả chống lạm phát thì đi đôi với hạ lãi suất, Chính phủ
và NHNN cần phải đẩy nhanh và thực hiện quyết liệt, hiệu quả việc tái cơ cấu nền
kinh tế, đặc biệt tái cơ cấu DN mà trọng tâm là DNNN, cũng như nâng cao chuẩn
mực, chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng. Có như vậy, đồng vốn tín
dụng với mức lãi suất thấp mới phát huy hiệu quả tối đa vào công cuộc phát triển
kinh tế đất nước, mà không tạo sức ép lên lạm phát.
Vậy theo ông, phản ứng của người gửi tiền sẽ như thế nào khi lãi suất huy
động hạ xuống? Liệu người dân có rút tiền khi lãi suất không còn hấp dẫn?
Lẽ đương nhiên là người gửi tiền bao giờ cũng muốn lãi suất cao. Nhưng mức lãi
suất cao ấy phải hợp lý trong sự hài hòa tổng thể của nền kinh tế, chứ không thể kỳ
vọng một cái gì đó quá xa được, vì như thế sẽ dẫn đến sự bất ổn. Chẳng hạn như