Để lãi suất hạ, doanh nghiệp cần “t
hoàn thin”
DN duy trì, phát triển sản xuất - kinh doanh, cũng như gia tăng kh năng cạnh
tranh. V mặt lý thuyết, đ kiềm chế lạm phát thì phải thực hiện chính sách thắt
chặt tiền tệ, phải duy trì một mức lãi suất cao hơn lạm phát và rút tiền trong lưu
thông. Tuy nhiên, theo quan sát và đánh giá của cá nhân tôi thì lạm phát Việt
Nam giai đoạn này ch yếu là do chi phí đẩy, ch không phải do cầu kéo.
Vì vậy, việc NHNN đang một mặt kiểm soát chặt ch cung tiền và tăng trưởng tín
dụng thông qua việc đặt ra giới hạn ng trưởng tín dụng theo năng lực của từng
nhóm ngân hàng, khống chế tăng trưởng tín dụng đối với những lĩnh vc không
khuyến khích để hướng dòng tín dụng vào sản xuất - kinh doanh, cùng với từng
bước thực thi việc h lãi suất là giải pháp phù hợp để góp phn gim lm phát.
Như vậy, để đảm bảo hiệu qu chống lạm phát thì đi đôi với h lãi suất, Chính ph
và NHNN cần phải đẩy nhanh và thực hiện quyết liệt, hiệu qu việc tái cấu nền
kinh tế, đặc biệt tái cu DN mà trọngm là DNNN, cũng như nâng cao chuẩn
mực, chất lượng hoạt động của h thống ngân hàng. như vậy, đồng vốn tín
dụng với mức lãi suất thấp mới phát huy hiệu qu tối đa vào công cuộc phát triển
kinh tế đất nước, mà không tạo sức ép lên lạm phát.
Vậy theo ông, phản ứng của người gửi tiền s như thế nào khi lãi suất huy
động h xuống? Liệu người dân có rút tiền khi lãi suất không còn hấp dẫn?
L đương nhiên là người gửi tiền bao gi cũng muốn lãi suất cao. Nhưng mức lãi
suất cao ấy phải hptrong s hài hòa tổng th của nền kinh tế, ch không th k
vọng một cái gì đó quá xa được, vì như thế s dẫn đến s bất ổn. Chng hạn như
năm 2008, lãi suất huy động nhiều thời điểm lên tới trên 20%/năm, nhưng lm
phát năm đó cũng lên tới trên 20%, thì mức lãi suất đó cũng không phảicao.
Còn năm nay, Chính ph quyết tâm khống chế lạm phát mức một con số, thậm
chí một s t chức quốc tế d báo lạm phát năm nay ch vào khoảng 8 - 8,5%, thì
việc h lãi sut huy động xuống 10 - 12% là hoàn toàn bình thường và xét v thực
chất, lãi suất thực hưởng của người gửi tiềnkhi còn cao hơn mức lãi suất
20%/năm của năm 2008.
Hơn thế, trong điều kiện nền kinh tế trong nước và quốc tế còn nhiều kkhăn
hiện nay, với trải nghiệm rủi ro các kênh đầu khác như chứng khoán, vàng,
bất động sản trong thi gian qua, tôi cho rằng, nhu cầu gửi tiết kiệm vẫns lựa
chọn của phần đông những người tiết kiệm và có dòng tiền nhàn rỗi.
Kinh doanh là nói v tương lai, tương lai là nói v k vọng, k vọngnói v nim
tin, những chuyện đó phải rất rõ. Chính ph đặt ra mục tiêu điều hành, th hiện
niềm tin và s quyết tâm của mình trong chính sách và phải truyền tải niềm tin đến
cho người dân, cho DN và mọi người phải đồng thuận cùng nhau hp sức biến
điều đó tr thành hiện thực. Nếu chúng ta càng có được nhiều s đồng thuận của
người dân và DN thì việc thực thi các mục tiêu chính sách càng d dàng hơn.
Nhưng dường như để tạo được niềm tin đó, cần một quá trình?
Như tôi đã nói, muốn thực hiện chính sách thành công, người dân cùng doanh
nghiệp phải đồng thuận. Muốn vậy, ngoài việc chính sách đưa ra phải đúng, trúng,
việc thực thi quyết liệt, nghiêm túc, thì công tác tuyên truyền để người dân, DN
hiểu cũng rất quan trọng. Tôi cho rằng, công tác tuyên truyền nhiều khi chưa được
tốt.
Đồng thời, cần phải kiểm soát được k vọng. Do k vọng của con người thường
ngắn hạn, nên trong quá trình thực thi các giải pháp phải làm bật lên những kết
qu ngắn hạn. Ví dụ, Thống đốc NHNN đặt ra 5 mục tiêu cho nhiệm k của ông,
một trong những mục tiêu ấyổn định giá tr VND, giảm tình trng đô la hóa
trong nền kinh tế, đưa dần mặt bằng lãi suất xuống... Mặctất c những việc ấy
cần phải có thời gian, song phải cho người dân, DN thấy được những n lực thực
thi và kết qu của nó.
Trên thực tế, việc t giá ổn định trong một thi gian dài vừa qua đã xóa b tâm
găm gi ngoại tệ, nh đó cung - cầu ngoại t được cải thiện, t giá càng ổn định,
thậm chí còn có xu hướng gim. Rõ ràng, đâynhững thành qu ngắn hạn đã
được trin khai. Và những việc đó chúng ta phải truyền thông để mọi người thấy
rõ.
Tuy vậy, vẫn còn những băn khoăn v vấn đề thanh khoản, đặc biệt của các
ngân hàng nh khi h lãi suất huy động. Bởi lẽ, tình trạng vượt trần lãi suất
14%/năm được cho là vẫn đang rải rác xảy ra?
Những ngân hàng yếu kém hoặckkhăn v thanh khoản thường tìm cách lách
lãi suất bằng cách này cách khác, vì tình thế ép buộc phải như vậy. Tuy nhiên,
NHNN đã lường trước vấn đề này và có những giải pháp c thể. Chẳng hạn,
NHNN xác định và khoanh vùng các ngân hàng yếu kém, không cho những ngân
hàng yếu kém được tăng trưởng tín dụng, cũng như kiểm soát chặt ch hoạt động
của các ngân hàng này. Bên cạnh đó, NHNN s theo dõi sát để kịp thời h tr
thanh khoản cho ngân hàng, cũng như kim soát chặt th trường và x lý nghiêm
những trường hợp vi phm. vậy, việc các ngân hàng này chạy đua huy động
vốn là khó có th xảy ra.
NHNN vừa điều chỉnh trần lãi suất huy động t 14%/năm xuống 13%/năm,
qua đó các ngân hàng điều kiện giảm lãi suất cho vay. Nhiều DN cho rằng,
mức h lãi suất như vậy“không đáng kể”, thưa ông?
Ngay c lãi suất huy động giảm thấp n nữa thì lãi suất cho vay cao hay thấp còn
tùy thuc vào chính bản thân DN. Nhiều người nghĩ rằng, ngân hàng không muốn
h lãi suất cho vay là để gia tăng lợi nhuận. Điều đó không đúng.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, huy động vốn vào thì phải cho vay ra và lãi
suất đầu vào và đầu ra phải phù hợp thì ngân hàng mới kiếm được lợi nhuận. Nếu
lãi suất cho vay quá cao s không th cho vay ra được, vốn dồn ngân hàng thì
không th có lãi để tr người gửi tiền.
Tuy nhiên, vấn đề quan trọng hàng đầu đối với các ngân hàng là bảo đảm an toàn
cho đồng vốn. Có nghĩa vấn đề đây là phải cân bằng được rủi ro và li nhuận,
tức là DN phải đạt được những tiêu chí như thế nào mới được cho vay và lãi suất
s tương ứng với mức độ rủi ro của các món vay, mức độ rủi ro của từng khách
hàng. Nhiều khi lãi suất b đẩy lên bởi phương án kinh doanh của DN còn nhiều
vấn đề, tiềm ẩn nhiều rủi ro. L đương nhiên là ngân hàng luôn mong muốn DN
chất lượng cao, s dụng vốn hiệu qu, có kh năng tr được n gốc và lãi đầy đủ.
Với những DN như vậy, tất nhiên lãi suất bao gi cũng mức ưu đãi. Tuy nhiên,
hiện những DN đạt được tiêu chuẩn đó tại Việt Nam rất ít, hầu hết là những DN
không đạt chuẩn, nên ngân hàng buộc phải nâng lãi suất cho vay cao lên. Vì vậy,
để lãi suất h thấp, bản thân các DN cũng cần t hoàn thiện” mình.