
4
- Ban hành và áp dụng LSCB từ tháng 5/2000 thay thế quy định về trần lãi suất cho vay. Theo đó,
lãi suất cho vay của các NHTM không được vượt quá biên độ dao động cho phép (0,3%/tháng đối với
lãi suất vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với lãi suất vay trung và dài hạn). Thực chất việc quản lý hoạt
động ngân hàng thông qua LSCB cộng biên độ dao động hoàn toàn tương tự như việc quy định trần
lãi suất cho vay được áp dụng trong giai đoạn trước. Việc khống chế lãi suất cho vay đã làm cho lãi
suất không phản ánh đúng quan hệ cung - cầu vốn trên thị trường. Cụ thể là LSCB và lãi suất cho vay
của các NHTM đều giảm trong năm 2000 và 2001, tuy nhiên, cạnh tranh giữa các ngân hàng đã dẫn
tới sự gia tăng lãi suất huy động vốn (lãi suất cho vay không tăng do LSCB được điều chỉnh giảm để
kích cầu và khắc phục tình trạng giảm phát). Điều này đã làm giảm rõ rệt khoản chênh lệch giữa lãi
suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các NHTM, tạo nên áp lực rất lớn cho hệ thống NHTM.
- Thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng của các NHTM vào giữa năm 2002.
Trong đó, các NHTM được phép xác định lãi suất cho vay trên cơ sở cung - cầu vốn trên thị trường
(giữa người đi vay và người cho vay). Tuy nhiên, NHNN vẫn tiến hành công bố LSCB để định hướng
thị trường. Việc thay đổi cơ chế điều hành LSCB vào giữa năm 2002 có tác động phần nào tháo gỡ
khó khăn cho huy động vốn của NHTM đáp ứng nhu cầu vay vốn ở mức cao. Giai đoạn 2000 - 2005
được đánh giá là giai đoạn kinh tế Việt Nam có nhiều biến chuyển tích cực trong tăng trưởng GDP và
lạm phát được kiểm soát ở mức thấp. Tuy nhiên, đây cũng được xem là giai đoạn châm ngòi cho một
thời kì lạm phát cao 2007. Việc hạn chế mức tăng trưởng tín dụng của các NHTM kết hợp với tốc độ
lạm phát có xu hướng gia tăng, tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, nhu cầu rút tiền và vay tiền tăng mạnh
đã thúc đẩy các NHTM chạy đua nâng lãi suất huy động để cân đối nguồn vốn cho hoạt động tín dụng.
Mặt bằng lãi suất tiền gửi xoay quanh mức 9%/năm vào thời điểm cuối năm 2005 và tiếp tục gia tăng
cho đến năm 2012. Mức LSCB 7,8%/năm được NHNN duy trì đến cuối năm 2005 thấp hơn rất nhiều
so với mức lãi suất cho vay cao nhất của NHTM, thậm chí có lúc còn thấp hơn cả lãi suất huy động.
Rõ ràng, việc điều hành LSCB của NHNN trong giai đoạn này bắt đầu trở nên kém hiệu quả và mờ
nhạt. Tuy nhiên, sự ra đời của Luật Dân sự năm 2005 đánh dấu một vai trò mới của LSCB, trong đó,
lãi suất cho vay trong các hợp đồng tín dụng không được vượt quá 150% LSCB (Điều 476). Điều này
đã không khuyến khích ngân hàng phát triển những sản phẩm dịch vụ mới, nhất là những mảng có tỉ
lệ rủi ro cao. Như vậy, LSCB trong giai đoạn này đóng vai trò là cơ sở để các NHTM tham khảo và
xác định lãi suất kinh doanh, nhưng hầu như ít có tác dụng đến thị trường, kể cả vai trò định hướng.
3. Giai đoạn khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2008:
Trong năm 2007:
Đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục duy trì các mức lãi suất chủ đạo; áp lực tăng lãi suất
trên thị trường thế giới cũng giảm bớt, đặc biệt là lãi suất USD. Nhưng lãi suất vẫn tăng, mở đầu
năm kinh doanh mới, nhiều ngân hàng cổ phần lần lượt điều chỉnh lãi suất huy động, tạo nên một áp
lực cạnh tranh mới với những sắc thái mới. Mở hàng lãi suất năm 2007 là Ngân hàng Kỹ thương
(Techcombank) với quyết định tăng lãi suất “Tiết kiệm điện tử”, áp dụng ngay từ ngày đầu tiên của
năm (1/1/2007). Lãi suất “Tiết kiệm điện tử” tiền VND của Techcombank tăng mạnh nhất ở kỳ hạn
12 tháng với mức tăng từ từ 0,12%/năm đến 0,17%/năm, lên 9,42%năm,9,45%/năm và 9,48%/năm,
tương ứng với các mức tiền gửi dưới 50 triệu VND, 50 - 200 triệu VND và từ 200 triệu
VND. Nhưng nhìn chung, lãi suất năm 2007 không có biến động nhiều giữa các tháng trong năm.
Lãi suất vẫn duy trì ở mức 9.5%/năm