Lấy sỏi bàng quang qua đường niệu đạo

với sự hướng dẫn của camera

Từ tháng 10/2002 đến tháng 10/ 2004, Bệnh viện đại học y dược

TP.HCM thực hiện 47 trường hợp bóp sỏi bàng quang qua ngã niệu đạo dưới

sự hướng dẫn của camera.

Trong 47 trường hợp sỏi bàng quang có: 19 trường hợp kèm theo bướu

lành tuyến tiền liệt, 1 trường hợp hẹp cổ bàng quang, tỷ lệ 42,76%; 5 trường

hợp kèm theo sỏi thận hoặc sỏi niệu quản, tỷ lệ 10,53%. Số lượng sỏi từ 1 đến

12 viên. Đường kính sỏi từ 1 đến 4 cm.

Dụng cụ bóp sỏi có ống soi thấy rõ ràng bàng quang khi đầy nước để

tránh tổn thương bàng quang khi bóp sỏi. Không có biến chứng trong lúc

thực hiện thủ thuật. Thời gian nằm viện trung bình 2 ngày.

Sỏi bàng quang là một bệnh ít gặp hơn sỏi thận và sỏi niệu quản. Thông

thường sỏi bàng quang đi kèm theo những bệnh lý của đường tiểu dưới như bướu

lành tuyến tiền liệt, xơ chai cổ bàng quang, hẹp niệu đạo... Chẩn đoán sỏi bàng

quang dễ dàng dựa vào triệu chứng lâm sàng, siêu âm, X-quang. Điều trị sỏi bàng

quang tại nước ta cũng rất đơn giản, đa phần là mổ hở hoặc lấy sỏi bàng quang qua

da trên xương mu. Đôi lúc sỏi bàng quang cũng được lấy qua đường niệu đạo bằng

bóp sỏi mù hay tán sỏi bằng thủy lực.

Philip Crampton lần đầu tiên giới thiệu phương pháp lấy sỏi bàng quang

qua ngã niệu đạo, cũng bóp sỏi rồi súc rửa bàng quang tại Dublin (năm 1834)

nhưng không được chú ý. Henry J Bigelow (năm 1876) phổ biến phương pháp này

tại Harvard. Biến chứng rất nhiều vì chưa có kháng sinh, dụng cụ còn thô sơ nên

dễ thủng bàng quang, nhiễm trùng huyết, xuất huyết. Sau đó các nhà khoa học

phát minh máy tán sỏi bằng thủy lực, dùng để tán sỏi bàng quang mà tại nước

ta có sử dụng năm 1980, tại Hải Phòng.

Ngoài ra, bóp sỏi bàng quang mù cũng được áp dụng tại nước ta nhưng để

lại nhiều biến chứng tổn thương niêm mạc bàng quang, thủng bàng quang, xuất

huyết và dễ nhiễm trùng niệu.

Qua bốn thập niên sự phát triển khoa học kỹ thuật tiến bộ nhanh chóng,

nhiều phát minh về dụng cụ cho phép tán sỏi bàng quang qua ngã niệu đạo bằng

siêu âm, hơi, thủy lực kết quả tốt 92 - 100%. Đối với trẻ em có thể tán sỏi bàng

quang qua da trên xương mu thay vì phải mổ hở. Sỏi bàng quang rất dễ chẩn đoán

khi dựa trên lâm sàng, bệnh nhân thường tiểu khó, ngập ngừng, ngưng tiểu giữa

dòng. Hiện nay khi kết hợp với siêu âm có thể chẩn đoán ngay khi cho bệnh nhân

thay đổi tư thế. Trong 47 trường hợp của chúng tôi không có khó khăn khi chẩn

đoán là sỏi bàng quang.

Khi có dụng cụ bóp sỏi bàng quang qua ngã niệu đạo với ống soi 700,

chúng tôi đã thực hiện an toàn cho bệnh nhân, không có một biến chứng nào xảy

ra, thời gian nằm bệnh viện ngắn, trung bình 2 ngày.

Trong 20 trường hợp vừa có bướu lành tuyến tiền liệt và hẹp cổ bàng

quang, qua nội soi chúng tôi xử lý luôn nguyên nhân. Một số tác giả dùng đến

phương pháp lấy sỏi qua da trên xương mu nếu sỏi quá lớn sau khi cắt đốt nội soi

tuyến tiền liệt.

Sỏi bàng quang dù ít gặp hơn sỏi thận và sỏi niệu quản nhưng thường đi

kèm theo bệnh lý đường tiểu dưới như hẹp cổ bàng quang, bướu lành tuyến tiền

liệt, hẹp niệu đạo... mà sau khi giải quyết sỏi bàng quang chúng ta phải xử lý

nguyên nhân gây ra sỏi.

Chúng tôi giới thiệu một phương pháp đơn giản, ít xâm lấn và có kết quả

tốt, biến chứng hầu như không có. Qua đó kết hợp giải quyết luôn nguyên nhân

gây ra sỏi bàng quang có kết quả tối ưu cho người bệnh.