Lịch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long
Trang 3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG
Bồn trũng Cửu Long nằm chủ yếu trên thềm lục địa phía Nam Việt Nam một phần
đất liền thuộc khu vực cửa sông Kông. Bồn hình bầu dục, vồng ra về phía biển đồng
thời nằm dọc theo bờ biển Vũng Tàu Bình Thuận. Bồn Cửu Long được coi bồn khép kín
điển hình của Việt Nam. Bồn có diện tích khoảng 86000 km2, bao gồm các lô: 9, 15, 16, 17
một phần của các lô: 1, 2, 25 và 31. Bồn được lấp đầy chủ yếu bởi các trầm tích lục nguyên Đệ
Tam, chiều dày lớn nhất của chúng tại trung tâm bồn có thể đạt tới 7 – 8 km.
Công tác khảo t địa
vật tại bồn Cửu Long được
tiến hành từ thập niên 70. Đến
năm 1975 tại giếng khoan tìm
kiếm đầu tiên BH-1X đã phát
hiện được dòng dầu công
nghiệp đầu tiên trong cát kết
Miocene hạ. Kể từ đó công tác
thăm địa chất dầu khí được
triển khai một cách mạnh mẽ.
Hầu hết các đã được
chia đều chiều dày trầm
tích từ khoảng 2000m trở lên
đang được thăm dò, khai
thác bởi các công ty dầu như:
Vietsovpetro, JVPC, PCV,
Conoco, Cuu Long JOC,
Hoàng Long, Hoàn Vũ, Lam -
Sơn JOC, VRJ. Đến nay bồn
Hình 1: Sơ đồ phân bố các bồn trũng trên thềm lục địa
Việt Nam.
Lịch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long
Trang 4
Cửu Long được xem như bồn chứa dầu lớn nhất tại Việt Nam với các mỏ đang được khai thác
như: Bạch Hổ, Rồng, Rạng Đông, Ruby, Sư Tử Đen.
HLJOC 16-1
PVEP (41%), SOCO
(28.5%),
PTTEP HL (28.5%), OPECO
(2%),
HLJ
OC (0%)
CONOCO 16-2
CONOCO (40%),
KNOC (30%), PVEP
(30%)
VIETSOV 9-1
VIETSOV
HVJOC 9-2
PVEP (50%), SOCO (25%),
PTTEP HV (25%), HVJOC
(0%)
PETRONAS 2
PETRONAS V (85%), PVEP
(15%)
JVPC – Phuong Dong, Rang Dong
JVPC (46.5%), CONOCO GM
(36%),
PVEP (17.5%)
PETRONAS 1
PETRONAS V
(85%),
PVEP (15%)
CLJOC 15-1
PVEP (50%), CONOCO (23.25%), KNOC
(14.25%),
SK CORP (9%), GEOPET SA (3.5%)
LSJOC 1/97
PETRONAS O (50%), PVEP
(50%),
LSJOC (0%)
VRJ Petroleum Corp 9-3
(VRJ = Vietnam,Russian,Japan)
ZARUBEZ N (50%), PVEP (35%), IDEMITSU
OPERATOR BLOCK
INTEREST HOLDERS
Hình 2: Sơ đồ các lô thuộc bồn trũng Cửu Long và các công ty đang thăm dò
khai thác trong bồn.
Lịch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long
Trang 5
CHƯƠNG II: LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU, TÌM KIẾM,
THĂMVÀ KHAI THÁC DẦU K
Lịch sử tìm kiếm tmkhai thác dầu khí bồn trũng Cửu Long gắn liền với lịch sử
tìm kiếm thăm dò, khai thác dầu kcủa thềm lục địa Nam Việt Nam. Căn cứ vào quy mô,
mốc lịch sử kết quả thăm dò, lịch sử tìm kiếm, thăm khai thác dầu khí bồn trũng Cửu
Long được chia làm 4 giai đoạn sau:
Giai đoạn trước năm 1975.
Giai đoạn 1975 – 1979.
Giai đoạn 1980 – 1988.
Giai đoạn 1989 đến nay.
I. Giai đoạn trước năm 1975:
Đây thời kkhảo sát địa vt khu vực như: từ, trọng lực địa chấn để chuẩn b
cho công tác đấu thầu các lô.
Năm 1967: U.S Nauy Oceanographic Office tiến hành khảo sát từ hàng không gần khắp
lãnh thổ miền Nam.
Năm 1967-1968: hai tàu Ruth Santa Maria của Alping Geophysical Corporation đã
tiến hành đo 19500 km tuyến địa chấn phía Nam biển Đông trong đó tuyến cắt qua b
Cửu Long.
Năm 1969: công ty Ray Geophysical Mandreel đã tiến hành đo địa vật lý bằng tàu N.V.
Robray I vùng thềm lục địa miền Nam vùng phía Nam Biển Đông với tổng số 3482 km
trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Trong tháng 6-8, 1969 U.S Nauy Oceanographic cũng tiến hành đo song song 20000
km tuyến địa chấn bằng 2 tàu R/V E.V Hunt vịnh Thái Lan phía Nam của biển Đông
trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Lịch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long
Trang 6
Đầu 1970 công ty Ray Geophysical Mandreel lại tiến hành đo đợt hai ở Nam biển Đông
và dọc bờ biển 8639 km, đảm bảo mạng lưới cỡ 30 km x 50 km, kết hợp các phương pháp từ,
trọng lực và hàng không trong đó có tuyến cắt qua bể Cửu Long.
Năm 1973, xuất hiện các công ty bản đấu thầu trên các được phân chia ở thềm lục
địa Nam Việt Nam, cũng trong khoảng thời gian này các công ty trúng thầu đã tiến hành khảo
sát địa vật chủ yếu địa chấn phản xạ trên các và các diện tích triển vọng. Những kết
quả nghiên cứu của địa vật lý đã khẳng định khả năng có dầu của bồn trũng Cửu Long.
Trong khoảng 1973-1974 đã đấu thầu trên 11 lô, trong đó 3 thuộc bể Cửu Long
09, 15 16. Năm 1974, công ty trúng thầu trên 09 Mobil, đã tiến hành khảo sát địa vật
lý, chủ yếu là địa chấn phản xạ, có từ và trọng lực với khối lượng là 3000 km tuyến.
Vào cuối 1974 đầu 1975, công ty Mobil đã khoan giếng khoan m kiếm đầu tiên trong
bể Cửu Long, BH-1X, phần đỉnh của cấu tạo Bạch Hổ. Giếng khoan này khi khoan tới độ
sâu 3026 (m) đã gặp nhiều lớp cát kết chứa dầu độ sâu 2755 (m) 2819 (m) tại các cấu tạo
đứt gãy thuộc Miocene Hạ và Oligocene. Cuộc thử vỉa thứ nhất ở độ sâu 2819 (m) đã thu được
430 thùng dầu 200000 bộ khối khí ngưng tụ. Thử vỉa lần 2 độ sâu 2755 (m) cho 2400
thùng dầu và 860000 bộ khối khí ngày và đêm.
II. Giai đoạn 1975 – 1979:
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tháng 11/1975 Tổng cục dầu k(tiền thân
của Petrovietnam ngày nay) quyết định thành lập công ty dầu khí Nam Việt Nam. Công ty đã
tiến hành đánh giá lại triển vọng dầu khí thềm lục địa Nam Việt Nam nói chung và từng lô nói
riêng.
Năm 1976, Công ty địa vật lý CGG của Pháp khảo sát 1210.9 km theo các con sông của
đồng bằng sông Cửu Long vùng ven biển Vũng Tàu Côn Sơn. Kết quả của công tác khảo
sát địa chấn đã y dựng các tầng phản xạ và bước đầu xác lập các mặt cắt trầm tích khu vực.
Cũng trong đợt nghiên cứu này đã phát hiện ra sự tồn tại của các Graben ở phần Tây Nam bồn.
Năm 1978, công ty Geco (Nauy) thu nổ địa chấn 2D trên các 10, 09, 16, 19, 20, 21
với tổng số 11898.5 km làm rõ chi tiết trên cấu tạo Bạch Hổ với mạng tuyến 2*2 và 1*1 km.
Lịch sử nghiên cứu bồn trũng Cửu Long
Trang 7
Hình 3: Sơ đồ mặt cắt địa chấn bồn trũng Cửu Long
Trên 15 cấu tạo Cửu Long (nay mỏ Rạng Đông), công ty Deminex Geco đã
khảo sát 3221.7 km tuyến địa chấn mạng lưới 3.5*3.5 km.
Trong đợt thăm này, công ty Daminex đã khoan được 4 giếng khoan m kiếm trên
các cấu tạo triển vọng nhất Trà Tân (15A-1X), Sông Ba (15B-1X), Cửu Long (15C-1X)
Đồng Nai (15G-1X). Kết quả khoan các giếng khoan này đều gặp các biểu hiện dầu khí trong
cát kết tuổi Miocene sớm và Oligocene nhưng không có ý nghĩa công nghiệp.
Trong giai đoạn này, Công ty dầu kII (Petrovietnam II) đã xây dựng một số cấu tạo
theo thời gian tỉ lệ 1/200000 cho một số (09, 10, 16) chủ yếu xây dựng bản đồ cấu tạo
địa phương tỉ lệ 1/50000 1/25000 phục v
trực tiếp cho công tác sản xuất.
III. Giai đoạn 1980 – 1988:
Hiệp định hữu nghị hợp tác m
kiếm thăm dò khai thác dầu khí ở thềm lục địa
Nam Việt Nam được kết giữa Việt Nam
Liên Xô, đã m ra một giai đoạn mới trong
lịch sử phát triển ngành công nghiệp dầu khí
Việt Nam với sự ra đời của nghiệp liên
Hình 4: Cần cẩu “Trường Sa” hoạt động tại mỏ Bạch Hổ