BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Minh Khôi
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ
TRÊN KIẾN TRÚC THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 - 1925)
TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội - 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
Nguyễn Minh Khôi
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ
TRÊN KIẾN TRÚC THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 - 1925)
TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Ngành: Lý luận và lịch sử mỹ thuật
Mã số: 9210101
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Quốc Hùng
Hà Nội - 2022
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản Luận án tiến sĩ Nghệ thuật trang trí khảm sành sứ
trên kiến trúc thời Khải Định (1916 – 1925) tại Quần thể di tích Cố đô Huế là
công trình nghiên cứu do tôi viết và chưa công bố. Các kết quả nghiên cứu cũng
như kết luận trong luận án này là trung thực. Trong quá trình thực hiện luận án,
tôi đã kế thừa nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu đi trước và thực hiện trích
dẫn cũng như ghi nguồn đầy đủ theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận án
Nguyễn Minh Khôi
ii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .............................................................................................. i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................... iv
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ...................................... 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ................................................................ 9
1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến Quần thể di tích Cố đô Huế dưới thời
Khải Định (1916-1925) ..................................................................................... 9
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật trang trí triều Nguyễn .... 14
1.1.3. Những nghiên cứu liên qua đến nghệ thuật trang trí khảm sành sứ triều
Nguyễn ............................................................................................................. 19
1.2. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 26
1.2.1. Khái niệm và thuật ngữ ......................................................................... 26
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu ............................................................................. 38
1.3. Khái quát về đối tượng nghiên cứu .......................................................... 43
1.3.1. Bối cảnh (lịch sử, văn hóa) hình thành đối tượng nghiên cứu ............. 43
1.3.2. Hệ thống trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định .......... 48
Tiểu kết ............................................................................................................ 56
Chương 2. BIỂU HIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ
TRÊN KIẾN TRÚC THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 – 1925) TẠI QUẦN THỂ DI
TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ ......................................................................................... 58
2.1. Đề tài, kiểu thức sử dụng trong trang trí .................................................. 59
2.1.1. Đề tài trang trí ...................................................................................... 60
2.1.2. Kiểu thức trang trí ................................................................................. 60
2.2. Bố cục tổng thể của hệ thống trang trí ..................................................... 66
2.2.1. Vị trí trên kiến trúc của các đồ án trang trí .......................................... 67
2.2.2. Sắp xếp đề tài, kiểu thức của các đồ án trang trí trên kiến trúc ........... 71
2.2.3. Hướng của các đồ án trang trí .............................................................. 76
iii
2.3. Tổ chức không gian tổng thể của hệ thống trang trí ................................ 80
2.3.1. Tổ chức không gian trang trí ngoại thất ............................................... 81
2.3.2. Tổ chức không gian trang trí nội thất ................................................... 84
2.4. Hình thức biểu đạt của đồ án trang trí ...................................................... 87
2.4.1. Tạo hình trang trí .................................................................................. 88
2.4.2. Chất liệu và màu sắc ............................................................................. 96
2.4.3. Thủ pháp thể hiện ................................................................................ 101
Tiểu kết .......................................................................................................... 107
Chương 3. ĐẶC TRƯNG, GIÁ TRỊ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ BÀN
LUẬN VỀ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ TRÊN KIẾN
TRÚC THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 – 1925) TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ
HUẾ ............................................................................................................... 109
3.1. Đặc trưng ................................................................................................ 109
3.1.1. Sự cách tân trên cơ sở kế thừa truyền thống ...................................... 109
3.1.2. Sử dụng yếu tố phương Tây trong hình thức biểu đạt ........................ 120
3.1.3. Sự sáng tạo và sự tinh xảo .................................................................. 125
3.2. Giá trị văn hóa nghệ thuật ...................................................................... 131
3.2.1. Giá trị văn hóa .................................................................................... 131
3.2.2. Giá trị nghệ thuật ................................................................................ 135
3.3. Bàn luận về nghệ thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
(1916 – 1925) tại Quần thể di tích cố đô Huế ............................................... 145
3.3.1. Sự kế thừa ............................................................................................ 145
3.3.2. Sự phát huy giá trị ............................................................................... 148
Tiểu kết .......................................................................................................... 153
KẾT LUẬN ................................................................................................... 155
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ...... 158
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ....................................................... 158
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 159
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT ......................................... 172
iv
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ
L’Association des Amis du Vieux Huế AAVH
(Hội Những người bạn cố đô Huế)
Bảng B.
Bulletin des Amis du Vieux Hue BAVH
(Tạp chí Những người bạn cố đô Huế)
BTDT Bảo tồn di tích
BTCT Bê tông cốt thép
H. Hình
HĐQG Hội đồng quốc gia
KHCN Khoa học công nghệ
KTCĐ Kiến trúc cung đình
NCS Nghiên cứu sinh
NTTT Nghệ thuật trang trí
Nxb. Nhà xuất bản
PL. Phụ lục
TĐBK Từ điển bách khoa
Tp. Thành phố
tr. Trang
TTKT Trang trí kiến trúc
TTKSS Trang trí khảm sành sứ
QTDT Quần thể di tích
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quần thể kiến trúc cung đình (KTCĐ) triều Nguyễn, còn gọi là
Quần thể di tích Cố đô Huế (QTDT Cố đô Huế), trang trí kiến trúc (TTKT)
đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành giá trị nghệ thuật của mỗi công
trình. Bên cạnh chức năng thẩm mỹ, TTKT trong KTCĐ triều Nguyễn còn mang
theo những thông điệp của người xưa với những đồ án trang trí mà theo tác giả
Nguyễn Hữu Thông, chứa đựng “tinh thần, tâm lý, phong cách, chất biểu cảm,
biểu lý và những gởi gắm thể hiện trong ngôn ngữ hình họa” [99, tr.7].
Năm 1916, vua Khải Định lên ngôi trong bối cảnh quá trình giao lưu văn
hóa Đông - Tây đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam. Dưới triều đại của mình,
từ 1916 - 1925, ông đã cho tu bổ và xây dựng nhiều công trình trong QTDT Cố
đô Huế, mà trong đó, có sự xuất hiện của các công trình kiến trúc phương Tây
với kết cấu BTCT. Cùng với đó, về mặt TTKT, đa phần các công trình này sử
dụng hình thức trang trí khảm sành sứ (TTKSS). Theo các tác giả Trần Đức
Anh Sơn và Phan Thanh Hải, các KTCĐ triều Nguyễn giai đoạn Khải Định -
Bảo Đại (1916 - 1945) đã “góp phần tạo nên một diện mạo mới cho quần thể
di tích kiến trúc ở kinh đô” [87].
Trong thời gian gần đây, nhiều công trình quan trọng có liên quan đến
vua Khải Định đã và đang được quan tâm phục hồi, tu bổ như điện Kiến Trung,
điện Thái Hòa và trong tương lai có thể là điện Cần Chánh hay Cửu Tư Đài.
Do đó, bên cạnh các lĩnh vực kiến trúc, kết cấu, đòi hỏi cần phải có các nghiên
cứu về mỹ thuật, đặc biệt là hệ thống TTKSS, để xây dựng cơ sở khoa học cho
công tác bảo tồn. Các yêu cầu thực tiễn cho thấy, các vấn đề cần quan tâm, chú
ý đối với hệ thống TTKSS thời Khải Định bao gồm: những yếu tố chính trị, xã
hội, văn hóa ảnh hưởng đến nghệ thuật trang trí (NTTT) cung đình triều Nguyễn
những năm đầu thế kỷ XX; đề tài, kiểu thức trang trí, sự kết hợp và hình thức
2
biểu đạt của các đồ án trang trí trên công trình.
Trên cơ sở các yêu cầu nghiên cứu trên, NCS đã tiến hành tổng hợp và
đối chiếu các công trình nghiên cứu về mỹ thuật Huế theo ba hướng: thứ nhất,
những nghiên cứu liên quan đến QTDT Cố đô Huế ở giai đoạn 1916-1925 dưới
thời Khải Định; thứ hai, những nghiên cứu liên quan đến NTTT triều Nguyễn;
thứ ba, những nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật TTKSS triều Nguyễn. Từ
những công trình nghiên cứu này, NCS nhận thấy chưa có nghiên cứu nào đi
sâu về những đặc trưng TTKT cung đình triều Nguyễn giai đoạn 1916 - 1945
trong bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây, trong đó có nghệ thuật TTKSS
trên kiến trúc thời Khải Định với các vấn đề nghiên cứu cần giải quyết đó là:
bối cảnh hình thành, sự kết hợp, cách bài trí và hình thức biểu đạt (tạo hình,
chất liệu, màu sắc, thủ pháp…) của hệ thống TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định. Để qua những nghiên cứu này, xác định đặc trưng, giá trị văn hóa nghệ
thuật cũng như sự kế thừa và phát triển của loại hình nghệ thuật này trong
QTDT Cố đô Huế. Chính vì vậy, NCS lựa chọn đề tài Nghệ thuật trang trí khảm
sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định (1916 – 1925) tại Quần thể di tích Cố đô
Huế nhằm giải quyết, làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu đã trình bày, đồng thời
tạo cơ sở khoa học cho công tác bảo tồn di sản và đóng góp một phần tư liệu
cho bề dày nghiên cứu mỹ thuật truyền thống Huế.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án làm rõ những đặc trưng, giá trị và sự kế thừa, phát triển của nghệ
thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 - 1925) tại QTDT Cố đô Huế
trong bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây trên cơ sở nghiên cứu sự kết hợp và
hình thức biểu đạt của các đồ án TTKT cung đình triều Nguyễn ở giai đoạn này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng hợp, phân tích các tài liệu nghiên cứu để làm rõ tình hình nghiên
cứu và các vấn đề cần tiếp tục giải quyết, cơ sở lý luận, đồng thời xác định bối
3
cảnh hình thành và khái quát về nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định (1916 – 1925) tại QTDT Cố đô Huế.
Khảo sát điền dã kết hợp với phân tích, đối chiếu tư liệu để từ đó hệ thống
hóa các biểu hiện của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 -
1925) tại QTDT Cố đô Huế ở các nội dung: sự kết hợp, cách bài trí và hình
thức biểu đạt của các đồ án trang trí.
Phân tích, xác định các đặc trưng, từ đó nhận diện, đánh giá giá trị, sự kế
thừa và phát triển của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 -
1925) tại QTDT Cố đô Huế.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận án là nghệ thuật TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định (1916 – 1925) tại QTDT Cố đô Huế thông qua phân tích,
nghiên cứu hệ thống các đồ án TTKSS trên những công trình KTCĐ được vua
Khải Định cho xây dựng và tu bổ từ năm 1916 đến năm 1925.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi không gian nghiên cứu chính: là các công trình KTCĐ thuộc
QTDT Cố đô Huế, nơi chứa đựng các đồ án trang trí.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: là giai đoạn 1916 - 1925, khoảng thời gian
mà các hệ thống đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT Cố đô
Huế được hình thành. Để làm rõ các nội dung nghiên cứu, luận án sẽ mở rộng
phạm vi thời gian xuyên suốt lịch sử hình thành của QTDT Cố đô Huế. Trong
đó, lưu ý đến giai đoạn 1885 - 1916 (đời Đồng Khánh - Duy Tân), là khoảng
thời gian chuyển tiếp trước thời Khải Định.
4
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Câu hỏi 1: Nghệ thuật TTKSS biểu hiện như thế nào trên KTCĐ thời
Khải Định?
- Câu hỏi 2: Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 -
1925) tại QTDT Cố đô Huế thể hiện những đặc trưng nghệ thuật gì?
- Câu hỏi 3: Giá trị văn hóa nghệ thuật của nghệ thuật TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định (1916 - 1925) tại QTDT Cố đô Huế được thể hiện như thế
nào? Những giá trị này được kế thừa, tiếp nối và phát triển như thế nào?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
- Giả thuyết 1:
Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định được biểu hiện thông
qua việc sử dụng đề tài và kiểu thức trang trí (thể hiện tính thống nhất về nội
dung truyền tải và kiểu thức thể hiện), các nguyên tắc bố cục (thể hiện tính hướng
tâm, tính đối xứng và vị trí của mỗi đồ án trang trí dựa trên tính chất của biểu
tượng trang trí) và tổ chức không gian trang trí (thể hiện tính ước lệ và tính nhịp
điệu đối với không gian trang trí ngoại thất và tính mô phỏng trong không gian
trang trí nội thất).
Hình thức biểu đạt trên của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định được biểu hiện thông qua các yếu tố tạo hình trang trí (thể hiện vừa có
tính ước lệ và vừa có tính tả thức dưới ba loại hình tượng tròn, phù điêu và
khảm phẳng), chất liệu (các mảnh ghép sành sứ, thủy tinh màu, thủy tinh trong),
màu sắc (vừa kế thừa hệ thống màu ngũ sắc truyền thống và được bổ sung thêm
các màu do chất liệu mới mang đến) và thủ pháp thể hiện (thể hiện sự phát triển
về tư duy không gian, tư duy thị giác của người nghệ nhân xưa).
- Giả thuyết 2: Trong bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây, từ vai trò
phụ, TTKSS trên kiến trúc đã trở thành hình thức TTKT chính trong KTCĐ
5
thời Khải Định với những đặc trưng riêng bao gồm: sự cách tân trên cơ sở kế
thừa truyền thống (sử dụng kiểu thức và bố cục trang trí tổng thể), sử dụng yếu
tố phương Tây trong hình thức biểu đạt (tạo hình, chất liệu và màu sắc), sự sáng
tạo và tinh xảo (thủ pháp và kỹ thuật thể hiện).
- Giả thuyết 3:
Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định chứa đựng các yếu tố
hình thành giá trị văn hóa nghệ thuật. Ở góc độ văn hóa, chúng phản ánh bối
cảnh chính trị, xã hội đương thời, thể hiện cách thức tiếp nhận và chuyển hóa
những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng mỹ thuật truyền thống. Với sự tích tụ ba lớp
văn hóa dân gian, cung đình và phương Tây, chúng thể hiện tư tưởng hiện đại
hóa nhưng không tách rời truyền thống của triều đình Nguyễn. Ở góc độ nghệ
thuật, chúng là yếu tố hình thành đặc trưng của TTKT cung đình giai đoạn 1916
- 1945, tích hợp ba lớp nền của trang trí truyền thống Huế (bản địa, cung đình,
phương Tây). Chúng là yếu tố mỹ thuật “bản địa hóa” các công trình kiến trúc
hiện đại, biến những ảnh hưởng của phương Tây trở thành những yếu tố mang
bản sắc truyền thống. Nhiều đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định được
nâng tầm lên như một tác phẩm nghệ thuật độc lập trên kiến trúc.
Cho đến nay, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT
Cố đô Huế tiếp tục được kế thừa và phát triển. Trong lòng di sản Huế, TTKSS
trên kiến trúc thời Khải Định luôn được coi là yếu tố làm nên giá trị nghệ thuật
của mỗi di tích và được ưu tiên quan tâm bảo tồn, bảo vệ. Nghề nề ngõa, khảm
sành sứ được kế thừa, tiếp nối qua nhiều thế hệ nghệ nhân. Sau hơn 100 năm
tồn tại, từ cung đình, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định liên tục
được bồi đắp thêm những hình thức biểu hiện mới và đã lan tỏa vào dân gian,
đến nhiều vùng miền khác trên đất nước.
6
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cách tiếp cận
Luận án vận dụng cách tiếp cận liên ngành để nhìn nhận đối tượng nghiên
cứu ở các góc độ khác nhau như mỹ thuật, lịch sử, văn hóa, kiến trúc… Qua
đó, NCS sẽ có được cái nhìn đa chiều về đối tượng nghiên cứu về bối cảnh hình
thành, ý nghĩa của các các biểu tượng trang trí, vai trò đối với kiến trúc, những
biểu hiện về tạo hình nhằm phát hiện, làm rõ những đặc trưng và giá trị của đối
tượng nghiên cứu.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu: thu thập và tổng hợp các
tài liệu, bài viết, công trình khoa học có liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
Qua đó, phân tích và xác định các vấn đề nghiên cứu cần làm rõ, bối cảnh hình
thành của đối tượng nghiên cứu, các luận điểm và kết quả nghiên cứu được kế
thừa. Ngoài ra, QTDT Cố đô Huế hiện lưu giữ nhiều bức ảnh tư liệu được chụp
vào những năm đầu thế kỷ XX. NCS sử dụng nguồn tư liệu này để đối đối chiếu
những thay đổi về diện mạo kiến trúc, trang trí ở những công trình được vua
Khải Định cho tu bổ, trong trường hợp những thông tin này không được ghi
chép trong sử liệu. Bên cạnh đó, nhiều công trình dưới thời Khải Định giờ chỉ
còn là phế tích, thông tin về TTKT chỉ còn được lưu trữ trên ảnh tư liệu (điện
Kiến Trung, Cửu Tư Đài…). Ở góc độ mỹ thuật, dù là ảnh đen trắng, nhưng
ảnh tư liệu sẽ cung cấp những thông tin về kiểu thức, không gian, bố cục của
các đồ án TTKT. Đó cũng là những thông tin hữu ích góp phần làm rõ những
biểu hiện của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp khảo sát điền dã: là phương pháp tiếp cận trực tiếp đối
tượng nghiên cứu tại vị trí nó đang tồn tại. Trước tiên, tiến hành đo vẽ, ghi chép,
chụp ảnh nhằm ghi nhận những thông tin thực nhất về đối tượng nghiên cứu
trên thực tế về sự kết hợp của các đồ án trang trí và các yếu tố tạo hình. Từ đó,
7
tiến hành thống kê, phân loại hoặc so sánh, đối chiếu để làm rõ những biểu hiện
và đặc trưng của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê và phân loại: đối tượng nghiên cứu được hình
thành bởi tập hợp các đồ án trang trí nằm trên nhiều công trình kiến trúc khác
nhau và vì vậy, phương pháp này sẽ giúp NCS tập hợp chúng một cách có hệ
thống. Sau đó, phân loại theo đề tài, kiểu thức, không gian, bố cục và tạo hình
trang trí nhằm làm rõ những biểu hiện của đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu: trên cơ sở thông tin từ các nguồn tư
liệu, các kết quả khảo sát thực địa, thống kê và phân loại, NCS sẽ so sánh, đối
chiếu để làm rõ những vấn đề mà nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra. Nhằm tìm ra
những đặc trưng nổi bật, sự khác biệt của đối tượng nghiên cứu trong NTTT
trên kiến trúc và nghệ thuật TTKSS.
- Phương pháp chuyên gia: Đề tài của luận án nghiên cứu về những vấn
đề liên quan đến TTKT cung đình. Trong đó, các đồ án trang trí được thực hiện
bởi những người thợ kép - nghệ nhân nề ngõa, khảm sành sứ. Hiện nay, có rất
nhiều phường thợ đang tiếp tục duy trì nghề nề ngõa truyền thống. Do đó, bên
cạnh việc thu thập thông tin từ các đồ án trang trí trên thực tế, NCS sử dụng
phương pháp chuyên gia để bổ sung dữ liệu làm rõ hơn các vấn đề cần nghiên
cứu, đặc biệt là việc kế thừa và phát triển nghệ thuật TTKSS thời Khải Định.
6. Những đóng góp mới của luận án
6.1. Đóng góp về mặt khoa học
Luận án góp phần làm rõ sự hình thành và phát triển của nghệ thuật
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 - 1925) tại QTDT Cố đô Huế. Đóng
góp vào việc nghiên cứu những yếu tố làm nên đặc trưng của NTTT trên KTCĐ
triều Nguyễn giai đoạn 1916 - 1925 trong bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây.
Luận án chứng minh, làm rõ đặc trưng, giá trị và sự kế thừa, phát triển của
nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 - 1925), góp phần khẳng
8
định hiệu quả thẩm mỹ trong việc kết hợp giữa nghệ thuật trang trí và nghệ thuật
kiến trúc tại QTDT Cố đô Huế.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Luận án góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc nhận diện “yếu tố
trang trí Khải Định” trên kiến trúc, qua đó xác định yếu tố hình thành giá trị
nghệ thuật của những công trình KTCĐ thuộc QTDT Cố đô Huế. Đồng thời,
luận án cũng là cơ sở để triển khai công tác bảo tồn hệ thống TTKSS trên những
công trình này.
Luận án góp phần vào việc kế thừa và phát huy nghề nề ngõa, khảm sành
sứ truyền thống, một di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc của Huế.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu (08 trang), Kết luận (03 trang), Tài liệu tham khảo
(13 trang) và Phụ lục (124 trang), nội dung của luận án gồm 3 chương.
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về đối tượng nghiên cứu (49 trang).
- Chương 2: Biểu hiện của nghệ thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến
trúc thời Khải Định (1916 - 1925) tại Quần thể di tích Cố đô Huế (51 trang).
- Chương 3: Đặc trưng, giá trị văn hóa nghệ thuật và bàn luận về nghệ
thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định (1916 - 1925) tại
Quần thể di tích Cố đô Huế (46 trang).
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Thực tiễn công tác bảo tồn phần mỹ thuật tại các di tích có liên quan đến
vua Khải Định cho thấy, các vấn đề cần quan tâm, chú ý bao gồm: những yếu
tố chính trị, xã hội, văn hóa ảnh hưởng đến TTKT; đề tài, kiểu thức trang trí và
sự kết hợp của các đồ án trang trí trên công trình; đặc trưng tạo hình của nghệ
thuật TTKSS dưới thời Khải Định. Từ những yêu cầu nghiên cứu trên, trong
tổng quan tình hình nghiên cứu, NCS phân chia các tài liệu, công trình nghiên
cứu liên quan đến đề tài luận án làm ba nhóm: một là, những nghiên cứu liên
quan đến QTDT Cố đô Huế dưới thời Khải Định, giai đoạn 1916 - 1925; hai là,
những nghiên cứu liên quan đến NTTT triều Nguyễn; ba là, những nghiên cứu
về nghệ thuật TTKSS triều Nguyễn và chất liệu sành sứ.
1.1.1. Những nghiên cứu liên quan đến Quần thể di tích Cố đô Huế
dưới thời Khải Định (1916-1925)
Các bộ sử liệu và những ghi chép, nghiên cứu về triều Nguyễn giai đoạn
cuối thế kỷ XIX đầu XX cung cấp những thông tin về bối cảnh chính trị, xã hội
cùng với những tư tưởng, chính sách của triều đình Nguyễn. Có thể kể đến các
bộ sách do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn như Đại Nam thực lục chính
biên đệ lục kỷ (Chính biên đệ lục kỷ) [79], Đại Nam thực lục chính biên đệ lục
kỷ phụ biên (Chính biên đệ lục kỷ phụ biên) [80], Đồng Khánh - Khải Định
chính yếu [82]. Các bộ sách này ghi chép các sự kiện xảy ra dưới các đời vua
Đồng Khánh (1885 - 1888), Thành Thái (1889 - 1907), Duy Tân (1908 - 1916)
và Khải Định (từ năm 1916 đến năm 1923). Thông tin từ các sử liệu giúp cho
NCS có cái nhìn khái quát về tình hình chính trị, xã hội, ảnh hưởng của thực
10
dân Pháp đến triều đình Nguyễn trong các giai đoạn trước và sau thời Khải
Định, từ đó xây dựng bối cảnh hình thành đối tượng nghiên cứu.
Bộ sách Đại Nam thực lục chính biên đệ thất kỷ (Chính biên đệ thất kỷ)
do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn năm 1939 đã cung cấp thông tin về
quá trình hoạt động của triều đình Nguyễn kể từ lúc vua Khải Định lên ngôi
(1916) cho đến khi ông qua đời (1925) [81]. Theo dịch giả Cao Tự Thanh, giá
trị của tác phẩm đó là “phản ảnh các quá trình và xu thế, các quá trình và xu thế
này là sản phẩm của tiến trình lịch sử Việt Nam từ 1916 trở đi trong đó, triều
Nguyễn vừa là người trong cuộc vừa là kẻ chứng nhân” [81, tr.17]. Cuốn sách
giúp cho NCS hình dung rõ hơn về bối cảnh chính trị, xã hội, tư tưởng hiện đại
hóa trên cơ sở duy trì các giá trị truyền thống của triều đình Nguyễn dưới thời
Khải Định. Đồng thời, từ những ghi chép về quá trình xây dựng và tu bổ các
công trình thuộc QTDT Cố đô Huế được ghi chép trong tác phẩm, NCS có thể
xây dựng được bối cảnh hình thành đối tượng nghiên cứu cho luận án của mình.
Năm 1944, trong bài viết “Phác thảo những giai đoạn chính của lịch sử
mỹ thuật An Nam” [61], L.Bezacier đã chia lịch sử mỹ thuật truyền thống nước
ta làm bốn giai đoạn chính. Trong đó, mỹ thuật triều Nguyễn được ông xếp vao
giai đoạn cuối cùng, từ thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Tiếp đó, ông tiếp tục
chia giai đoạn này thành hai thời kỳ với thời kỳ thứ nhất là toàn bộ thế kỷ XIX,
chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Trung Quốc và thời kỳ thứ hai bắt đầu từ khi
vua Khải Định lên ngôi, ảnh hưởng Trung Quốc được thay thế một phần của
nghệ thuật tân cổ điển phương Tây. Nhận định này tiếp tục được tác giả đề cập
trong sách L’art Vietnamien xuất bản năm 1954, khi ông đánh giá thời kỳ thứ
hai của mỹ thuật Nguyễn là giai đoạn Tân cổ điển (le néo - classique) [118,
tr.195, 196]. Sự phân định thời kỳ của L.Bezacier chính là gợi ý để NCS tìm
hiểu những đặc trưng riêng của mỹ thuật Nguyễn dưới thời Khải Định thông
11
qua một đối tượng mỹ thuật ở giai đoạn này là các đồ án TTKSS tại các công
trình được vua Khải Định cho xây dựng và tu bổ trong QTDT Cố đô Huế.
Năm 1970, cuốn sách Lược sử mỹ thuật Việt Nam của Nguyễn Phi Hoanh
được xuất bản [42]. Đây là một công trình nghiên cứu một cách có hệ thống
toàn bộ lịch sử mỹ thuật Việt Nam, giúp người đọc hình dung một cách đầy đủ
diện mạo mỹ thuật nước ta từ thời nguyên thủy, thời đồng thau, thời Bắc thuộc,
qua các triều đại phong kiến, thời Pháp thuộc cho đến thời điểm giành được
độc lập. Cuốn sách đã dành một chương để đánh giá về mỹ thuật triều Nguyễn
về các mặt kiến trúc, nghệ thuật tạo hình và đồ sứ Huế. Theo tác giả, mỹ thuật
phong kiến Nguyễn “đi từ chỗ yếu ớt của các đời vua đầu đến chỗ suy đồi đến
cực điểm trong các đời vua chót” [42, tr.121]. Đối với giai đoạn 1916 - 1925,
tác giả đánh giá những công trình mà vua Khải Định cho xây dựng là “chỗ phô
trương của một nền mỹ thuật nô dịch, hòa hợp Đông - Tây theo kiểu lố lăng
nhất” [42, tr.124]. Theo một số nhà nghiên cứu, những đánh giá trên của Nguyễn
Phi Hoanh về mỹ thuật Nguyễn là dựa trên góc nhìn chính trị với quan niệm
“một triều đại phản động về chính trị chỉ có thể đẻ ra một nền nghệ thuật kém
cỏi và phản tiến bộ” [21, tr.10]. Sự tham gia của yếu tố phương Tây trong trang
trí mỹ thuật cung đình Nguyễn thời Khải Định cũng chính là vấn đề mà NCS
quan tâm trong hướng nghiên cứu của mình. Chính vì vậy, thông qua việc nghiên
cứu TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT Cố đô Huế, trong bối cảnh
giao lưu văn hóa Đông - Tây, NCS mong muốn đánh giá một cách khách quan
giá trị của mỹ thuật Nguyễn giai đoạn 1916 - 1925 dưới góc nhìn mỹ thuật.
Năm 1992, trong phần “Mở đầu” của công trình nghiên cứu Mỹ thuật
Huế, tác giả Nguyễn Tiến Cảnh đã đưa ra những đánh giá tổng quan về vai trò,
giá trị của mỹ thuật Huế trong lịch sử mỹ thuật truyền thống Việt Nam [21,
tr.07 - 15]. Tác giả đã xác định, QTDT Cố đô Huế “khi nói chúng với tư cách
những sản phẩm mỹ thuật, người ta quen lấy địa danh gọi là Mỹ thuật Huế, hay
12
quen lấy tên vương triều tương ứng gọi là Mỹ thuật Nguyễn”. Đồng thời, tác
giả cũng đã khẳng định mỹ thuật Huế là “giai đoạn cuối cùng của lịch sử mỹ
thuật cổ Việt Nam” [21, tr.14]. Những kết quả nghiên cứu này sẽ được NCS kế
thừa để xây dựng cơ sở lý luận cho luận án. Ngoài ra, tác giả cũng đồng quan
điểm với L.Bezacier trong việc phân chia mỹ thuật Nguyễn thành 2 thời kỳ mà
trong đó, giai đoạn 1916 - 1925 dưới thời Khải Định thuộc thời kỳ thứ hai -
thời kỳ chịu ảnh hưởng của phương Tây [21, tr.9, 11]. Đây là cơ sở giúp NCS
tiếp tục củng cố hướng nghiên cứu của luận án về nghệ thuật TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định nhằm xác định yếu tố làm nên đặc trưng, giá trị của mỹ
thuật Nguyễn ở giai đoạn này.
Tương tự như các nghiên cứu về lịch sử mỹ thuật Huế, thời gian trị vì
của vua Khải Định cũng được coi là cột mốc trong việc phân chia thời kỳ trong
những nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của QTDT Cố đô Huế.
Trong bài viết “Những giá trị của Di sản kiến trúc Huế” năm 1999 [58], tác giả
Hoàng Đạo Kính, bên cạnh việc xác định các giá trị nổi bật của di sản kiến trúc
Huế, đã phân chia quá trình phát triển của di sản kiến trúc Huế bao gồm hai
thời kỳ: thời kỳ thứ nhất, từ đầu thế kỷ XIX đến cuối thế kỷ XIX, kiến trúc Huế
đậm nét của nền kiến trúc dân tộc; thời kỳ thứ hai, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu
thế kỷ XX, kiến trúc Huế tiếp nhận những thành tựu mới của kiến trúc châu
Âu. Ông đánh giá lăng Khải Định “cần được nhìn nhận như một thành công
trong sự tìm tòi để kết hợp các truyền thống kiến trúc Đông - Tây, thành công
kỳ diệu của những người thợ nề ngõa, đặc biệt thợ ghép sành sứ và thủy tinh”.
Tiếp đó, trong bài viết “Quần thể di tích Cố đô Huế - Hai thế kỷ nhìn lại”
năm 2002 [87], các tác giả Trần Đức Anh Sơn và Phan Thanh Hải đã chia lịch
sử của QTDT Cố đô Huế thành ba thời kỳ: thời kỳ hình thành và phát triển
(1802 - 1945); thời kỳ khủng hoảng và suy thoái (1946 - 1981); thời kỳ khôi
phục (1982 đến nay). Trong đó, đối với thời kỳ hình thành và phát triển, các tác
13
giả lại tiếp tục chia thành hai giai đoạn: giai đoạn 1802 – 1917 là giai đoạn vận
dụng kiến trúc truyền thống kết hợp với khuôn mẫu Trung Hoa; giai đoạn 1917
- 1945 là giai đoạn phát triển bổ sung các công trình kiến trúc theo phong cách
châu Âu và đánh giá những công trình kiến trúc trong giai đoạn này đã “góp
phần tạo nên một diện mạo mới cho quần thể di tích kiến trúc ở kinh đô” và “là
một cách phản ánh những biến chuyển của hiện thực lịch sử xã hội vào lịch sử
kiến tạo và đô thị hóa kinh đô Huế”.
Đến năm 2004, tác giả Phan Thuận An hoàn thành cuốn sách Quần thể
di tích Huế [4]. Nội dung sách bao gồm hai phần chính: phần 1 trình bày bối
cảnh lịch sử và địa – văn hóa vùng Huế; phần 2 trình bày diện mạo và giá trị
quần thể di tích Huế. Theo tác giả, lịch sử xây dựng tại khu vực Hoàng thành
và Tử Cấm thành của QTDT Cố đô Huế trải qua năm giai đoạn: Gia Long (1802
- 1819), Minh Mạng (1820 - 1840), Thiệu Trị (1841 - 1847), Tự Đức - Duy Tân
(1848 - 1916), Khải Định - Bảo Đại (1916 - 1945). Trong đó, giai đoạn cuối
cùng, Khải Định - Bảo Đại, là giai đoạn hình thành “trong bối cảnh nền văn
hóa phương Tây ồ ạt tràn vào Việt Nam” [4, tr.52-57].
Như vậy, các nghiên cứu về lịch sử hình thành và phát triển của QTDT
Cố đô Huế của Hoàng Đạo Kính, Trần Đức Anh Sơn, Phan Thanh Hải và Phan
Thuận An đều xác định thời gian trị vì của vua Khải Định nằm trong một giai
đoạn riêng và chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Ngoài ra, một số nghiên
cứu riêng về một công trình được xây dựng ở thời Khải Định như “Di tích kiến
trúc nghệ thuật cung An Định” của Trần Huy Thanh [94], “Lầu Kiến Trung
trong Hoàng cung Huế” của Phan Thuận An [3] cũng khẳng định luận điểm
này. Đây chính là hướng mở để NCS đi sâu vào phân tích những ảnh hưởng
của phương Tây đến mỹ thuật cung đình triều Nguyễn dưới thời Khải Định trên
cơ sở nghiên cứu hệ thống TTKSS trên kiến trúc ở những công trình mà nhà
vua cho xây dựng và tu bổ tại QTDT Cố đô Huế.
14
Liên quan trực tiếp đến chủ thể sáng tạo đối tượng nghiên cứu, vua Khải
Định, là cuốn sách Vua Khải Định, hình ảnh và sự kiện của tác giả Võ Hương
An xuất bản năm 2016 [1]. Trong nội dung cuốn sách, tác giả đã tổng hợp về
cuộc đời của vua Khải Định và những hoạt động chính của ông trong thời gian
đứng đầu triều Nguyễn từ khi lên ngôi cho đến khi ông qua đời (1916 - 1925).
Qua đó, giúp cho NCS có được cái nhìn tổng quát về nhà vua, những ảnh hưởng
của phương Tây đến ông và những công trình KTCĐ mà ông cho xây dựng,
góp phần xác định bối cảnh hình thành của đối tượng nghiên cứu.
1.1.2. Những nghiên cứu liên quan đến nghệ thuật trang trí triều Nguyễn
Bộ sách Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ (Hội điển) do Nội các triều
Nguyễn biên soạn cung cấp thông tin về những thiết chế và hoạt động của bộ
máy nhà nước Việt Nam dưới triều đình Nguyễn [69]. Trong đó, các quyển 205
(cung điện), 206 (hành cung), 207 (qui chế đàn miếu), 210 (dinh thự ở kinh sư)
và 216 (lăng tẩm) quy định quy chế xây dựng liên quan đến QTDT Cố đô Huế
[68, tr.20 - 94, 150 - 176, 317 - 342]. Mặc dù quy định chi tiết về quy cách xây
dựng, kiến trúc, nhưng những thông tin về NTTT trên KTCĐ trong điển chế là
khá giới hạn, chủ yếu là kiểu thức và bố cục trang trí ở khu vực mái. Tuy nhiên,
đây lại là những thông tin hết sức quý giá để NCS so sánh, đối chiếu nhằm xác
định sự kế thừa những quy tắc truyền thống cũng như những cách tân về bố cục
trang trí tổng thể của các đồ án TTKSS trên những công trình KTCĐ thời Khải
Định trong bối cảnh hiện đại hóa đương thời.
Trong tạp chí BAVH 1915, tác giả P.Albrecht có bài viết “Những họa
tiết của nghệ thuật trang trí ở Huế: con rồng” [70]. Tuy chỉ nghiên cứu về một
hình tượng trong trang trí Huế nhưng giá trị của bài viết nằm ở những phân tích
liên quan đến biểu tượng “hóa” trong trang trí thông qua các dạng biến thể (hóa)
của rồng như: cây lá hóa rồng, hồi văn hóa rồng, mây hóa rồng… Biểu tượng
“hóa” cũng đã được Phạm Minh Hải, trong bài viết “Ý nghĩa các biểu tượng
15
hóa trong trang trí mỹ thuật thời Nguyễn” năm 2021, mở rộng nghiên cứu để
xác định những nét đặc trưng, ý nghĩa và giá trị đối với mỹ thuật Huế [33].
Những kết quả nghiên cứu này sẽ được NCS kế thừa để xây dựng cơ sở lý luận
và đối chiếu để xác định sự kết hợp của các đồ án TTKSS thời Khải Định về
mặt đề tài, kiểu thức.
Một trong những công trình nghiên cứu công phu đầu tiên liên quan đến
trang trí tại quần thể Huế là Mỹ thuật Huế (L’art Hue) của L.Cadiere. Ban đầu,
nghiên cứu này được in trong sách BAVH tập VI - 1919 [62]. Sau đó, được tái
bản dưới dạng đặc san chuyên khảo vào năm 1930 [119]. Hai phần quan trọng
của nghiên cứu này bao gồm bài viết “Mỹ thuật ở Huế” và tuyển tập “Các mô-
típ mỹ thuật An Nam”. Bài viết “Mỹ thuật ở Huế” là những bàn luận của tác
giả về mỹ thuật Huế trong đó có vai trò của trang trí đối với kiến trúc. Theo
ông: “Tất cả các thể tài mà người nghệ sĩ An Nam đã thể hiện từ gỗ hoặc đồng,
những gì họ đặt trên mái nhà, trên thành tường, tất cả đều thực hiện cho mục
đích trang trí… và người nghệ sĩ An Nam đã biết rút tỉa từ những mẫu thức ấy
để sử dụng cho có hiệu quả đẹp nhất” [63, tr.9]. Trong tuyển tập “Các mô-típ
mỹ thuật An Nam”, ông đã tập hợp và phân loại một cách hệ thống các kiểu
thức trang trí Huế với nhiều kiểu thức được lấy từ hệ thống các đồ án trang trí
tại các công trình KTCĐ Huế. Tuy nhiên, nghiên cứu của ông chưa đề cập đến
việc các đồ án trang trí được kết hợp như thế nào trên một công trình kiến trúc.
Đây chính là vấn đề mà NCS sẽ tiếp tục đi sâu, làm rõ trong luận án của mình.
Năm 1979, bài viết “Huế, mỹ thuật Nguyễn, những cái riêng” của tác giả
Trần Lâm Biền đặt một trong những bước đi đầu tiên trong việc nhận diện các
giá trị của mỹ thuật Huế [8]. Nội dung bài viết đã nêu lên một số đặc trưng của
mỹ thuật Huế thể hiện ở bộ vì kèo mái, các lầu - cổng, hệ thống lăng tẩm, hệ
thống đao mác trang trí, trang trí bia đá… Trong những đặc trưng này, tác giả
đặc biệt chú ý tới “tính phổ biến của ô hộc trong trang trí” trên các công trình
16
kiến trúc tại Huế, đồng thời đưa ra một số nhận xét về cách thức bố cục, sử
dụng đề tài trong ô hộc trang trí. Trong một nghiên cứu tiếp theo, chương “Nghệ
thuật trang trí” nằm trong cuốn sách Mỹ thuật Huế năm 1992 [21, tr.47 - 79],
tác giả tiếp tục đưa ra những phân tích về cách thức bố cục của mảng trang trí
và ô hộc trang trí trên KTCĐ triều Nguyễn. Đồng thời, ông cũng đã hệ thống
và giải thích ý nghĩa của một số đề tài, kiểu thức điển hình trong trang trí Huế
như hệ thống linh vật, biểu tượng và cây cỏ… Đây chính là những thông tin có
giá trị để NCS xây dựng cơ sở lý luận về đề tài, kiểu thức trang trí cho luận án
của mình. Bên cạnh đó, những nghiên cứu về bố cục trang trí của tác giả chính
là điểm gợi mở để NCS tiếp tục nghiên cứu về sự kết hợp của các đồ án trang
trí trên KTCĐ thông qua hệ thống TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
Bài viết “Những kiểu thức trang trí Huế” năm 1999 của tác giả Vĩnh Phối
đem tới một cái nhìn tổng quát về hệ thống các đề tài, kiểu thức và chất liệu
được sử dụng trong trang trí truyền thống Huế [73]. Trong đó, tác giả đã phân
tích ý nghĩa biểu trưng của mỗi đề tài, kiểu thức được sử dụng trong NTTT.
Đồng thời, các chất liệu sử dụng trong trang trí cũng được ông giới thiệu, phân
tích. Mặc dù sự kết hợp của các đồ án trang trí trên kiến trúc chưa được tác giả
đề cập đến nhưng những kết quả nghiên cứu của bài viết là những thông tin hữu
ích để NCS xây dựng cơ sở lý luận cho luận án của mình.
Một nghiên cứu quan trọng về nghệ thuật trang trí là Trang trí trong mỹ
thuật truyền thống của người Việt của tác giả Trần Lâm Biền xuất bản năm
2001 [7]. Thông qua những nghiên cứu về trang trí của người Việt ở các giai
đoạn tiền sử, sơ sử cho đến thời tự chủ, tác giả đã cung cấp những kiến thức
bao quát về các đề tài trang trí truyền thống, các lớp ý nghĩa của hệ thống các
biểu tượng, hoa văn trang trí. Bên cạnh đó, tác giả đã tổng hợp và hệ thống hóa
trang trí truyền thống theo bốn chủ đề chính đó là: biểu tượng về lực lượng tự
nhiên và triết học; linh vật trang trí trên di tích; hoa văn cây cỏ và hình tượng
17
con người. Tác giả cũng đã nhấn mạnh đến giá trị nghệ thuật mang tính biểu
trưng mà người xưa đưa vào các hình tượng trang trí trên các công trình kiến
trúc. Từ kết quả nghiên cứu tổng hợp này, NCS có thể kế thừa để đối chiếu, tìm
ra những đặc trưng riêng cho nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định,
trong đó có sự kết hợp của các đồ án trang trí trên kiến trúc.
Cũng trong năm 2001, cuốn sách Mỹ thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa
và biểu tượng trang trí của Nguyễn Hữu Thông được xuất bản [99]. Phần chính
của nghiên cứu, tác giả đã hệ thống và phân loại các hệ đề tài và kiểu thức được
sử dụng trong trang trí Huế. Đồng thời, ông cũng đưa ra những phân tích, nhận
định về ý nghĩa, giá trị của hệ thống các đề tài, kiểu thức trang trí này và giới
thiệu những chất liệu thể hiện chúng. Đây là một công trình quan trọng trong
nghiên cứu mỹ thuật Huế, từ công trình này, NCS có thể kế thừa các khái niệm,
tên gọi liên quan đến biểu tượng, đề tài và kiểu thức trang trí cùng với những ý
nghĩa mà chúng truyền tải. Tuy nhiên, do đây là một công trình nghiên cứu có
tính bao quát, các đối tượng nghiên cứu không chỉ lấy từ các công trình kiến
trúc mà còn ở các vật dụng, đồ vật trong sinh hoạt và do đó, sự kết hợp của các
đồ án trang trí trên kiến trúc chưa được tác giả bàn luận, phân tích sâu. Vấn đề
này sẽ được NCS tiếp tục giải quyết trong luận án của mình.
Trong luận án tiến sĩ Điêu khắc trang trí trên kiến trúc Hoàng thành Huế
năm 2018 [66], tác giả Trần Thanh Nam đã xác định hình thức biểu đạt, đặc
điểm và giá trị của điêu khắc trang trí trên kiến trúc Hoàng thành Huế. Luận án
cũng đã nghiên cứu, phân tích về những thành tố cơ bản của điêu khắc trang trí
trên kiến trúc bao gồm hệ đề tài, bố cục và nội dung truyền tải của các đồ án
trang trí. Tác giả nhấn mạnh: “Bố cục điêu khắc trang trí trên kiến trúc Hoàng
thành Huế chịu sự chi phối của kiến trúc, đó là sự phân bổ về không gian kiến
trúc mà chúng hiện hữu” [66, tr.43]. Đồng thời, ông cũng nhận định về bố cục
ô hộc trang trí như là một “hình thức trang trí kiến trúc độc đáo, mang dấu ấn
18
rất riêng của mỹ thuật Nguyễn” [66, tr.45]. Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào
phân tích, đánh giá sự kết hợp của các đồ án trang trí để hình thành nên tổng
thể trang trí mỹ thuật cho một công trình KTCĐ. Vì vậy, NCS sẽ tiếp tục bổ
sung và làm rõ vấn đề đề này trên cơ sở tiếp thu, kế thừa các kết quả nghiên
cứu của tác giả.
Năm 2019, cuốn sách Mỹ thuật Nguyễn của Nguyễn Hữu Thông được
xuất bản [100]. Trong công trình này, tác giả đã tổng hợp những đặc trưng của
mỹ thuật Nguyễn ở các mặt: kiến trúc, hội họa - đồ họa, điêu khắc, nghệ thuật
trang trí và đưa ra một số nhận định về vị trí của mỹ thuật Nguyễn trong di sản
nghệ thuật tạo hình Việt Nam. Tác giả đã xác định nghệ thuật trang trí Nguyễn
chịu ảnh hưởng của ba tầng văn hóa: tầng thứ nhất, tầng bản địa với chiều sâu
của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước; tầng thứ hai, tầng giao lưu, ảnh hưởng,
cũng như bị áp đặt bởi văn hóa phương bắc; tầng thứ ba, tầng ảnh hưởng từ
phương Tây. Trong đó, tầng văn hóa thứ hai chính là cơ sở hình thành hệ thống
các đề tài sử dụng trong NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn. Kết quả nghiên cứu
của tác giả giúp cho NCS hiểu được các tầng ý nghĩa mà các đồ án trang trí
truyền tải, bao gồm cả TTKT, để qua đó, xây dựng cơ sở lý luận cho luận án.
Những kết quả bảo tồn thực tế các di tích tại QTDT Cố đô Huế cũng
cung cấp nhiều thông tin liên quan đến việc sử dụng đề tài, bố cục trong TTKT.
Trong đó, có một số công trình được vua Khải Định cho xây dựng hoặc tu bổ.
Đó là, các báo cáo Báo cáo phục hồi phần trang trí trên mái công trình Phu
Văn Lâu của Trung tâm BTDTCĐ Huế [104], Lý luận hoàn nguyên và các giải
pháp áp dụng trong Tu bổ phục hồi di tích Nghinh Lương Đình của Viện KHCN
Xây dựng [114] hay bài viết “Tính đăng đối về bố cục và chủ đề trang trí các ô
hoa văn trên mái công trình điện Thái Hòa” của Nguyễn Tiến Bình và Lê Phước
Tân [18]. Các kết quả nghiên cứu kể trên là cơ sở dữ liệu giúp NCS có thêm
19
thông tin để tập hợp, phân tích, xác định sự kết hợp của các đồ án TTKSS trên
các công trình KTCĐ dưới thời Khải Định.
1.1.3. Những nghiên cứu liên qua đến nghệ thuật trang trí khảm sành
sứ triều Nguyễn
Năm 1986, trong bài viết “Vài nét quanh các bức phù điêu ở Huế”, trên
cơ sở khảo sát phần trang trí trên các bức phù điêu ở di tích Huế, tác giả Trần
Lâm Biền đã đưa ra bốn vấn đề cần quan tâm đối với trang trí phù điêu ở Huế
[9]. Trong đó, vấn đề thứ tư được ông đề cập đó là “nền nghệ thuật tạo hình ở
Huế, nhất là ở phù điêu, vào khoảng cuối thế kỷ 19 và mấy chục năm đầu của
thế kỷ 20, thực sự đã có những bước phát triển mới” và “sản phẩm chạm khắc
và khảm sành sứ ở giai đoạn này đã đạt được những thành quả nhất định cả về
nghệ thuật lẫn kỹ thuật”. “Những mảng khảm sành sứ tuyệt tác ở lăng Khải
Định” đã được tác giả đưa ra là một trong các dẫn chứng đưa ra để minh họa
cho nhận định của mình. Từ những nhận xét của tác giả, NCS nhận thấy rằng,
cần có những nghiên cứu tiếp nối để làm rõ những đặc trưng làm nên bước phát
triển mới của nghệ thuật TTKSS trên hệ thống các công trình KTCĐ được xây
dựng và tu bổ ở thời Khải Định.
Trong chương “Điêu khắc và tranh” của cuốn sách Mỹ thuật Huế năm
1992 [21, tr.81 - 117], tác giả Chu Quang Trứ đã xếp khảm sành sứ vào mục
tranh Huế với tên gọi Tranh ghép kính và sứ và đưa ra một số phân tích, đánh
giá. Theo tác giả, kỹ thuật khảm gắn sành sứ đã đạt đến đỉnh cao ở lăng Khải
Định [21, tr.116] và “những hình gắn sành – sứ - kính ở trong điện Khải Thành
thực sự trở thành tranh hay có thể xem như một loại tranh khảm tường
(mosaique)… Nó thực sự là một loạt tranh nghệ thuật, một đặc sắc của Huế”
[21, tr.117]. Từ đánh giá trên cho thấy, bên cạnh việc nghiên cứu vai trò và giá
trị thẩm mỹ đối với kiến trúc, những đồ án TTKSS thời Khải Định cũng cần
được nhìn nhận ở góc độ một tác phẩm nghệ thuật độc lập.
20
Một nghiên cứu khác về mỹ thuật Huế năm 1992 là công trình Mỹ thuật
thời Nguyễn trên đất Huế do Nguyễn Hữu Thông chủ biên [98]. Trong cuốn
sách này, qua nghiên cứu các đồ án TTKSS tại lăng Khải Định, tác giả đánh
giá đó là “những kiệt tác gần như duy nhất của Việt Nam, thậm chí cả khu vực
và thế giới về nghệ thuật khảm sành sứ [98, tr.146]. Theo ông, nghệ thuật khảm
sành sứ đã vươn tới đỉnh cao dù vương triều Nguyễn đang tồn tại trong những
năm cuối cùng [96, tr.148] và những đồ án này mang đến “sự rực rỡ rất riêng
của “không gian Khải Định”” [98, tr.150]. Ngoài ra, tác giả cũng có một số so
sánh về sự khác biệt giữa kỹ thuật khảm mảnh trước và sau thời Khải Định [98,
tr.148]. Liên quan đến hướng nghiên cứu của luận án, tác giả đã cung cấp cho
NCS những thông tin ban đầu về giá trị và sự khác biệt của TTKSS thời Khải
Định so với các đời vua trước. Qua đó, NCS sẽ mở rộng nghiên cứu đối với các
công trình KTCĐ khác liên quan đến vua Khải Định để xác định những đặc
trưng riêng của loại hình TTKT này.
Trong bài viết “Mấy nhận xét về trang trí nội thất lăng Khải Định” năm
1992 [89], tác giả Trần Đức Anh Sơn đã đưa ra một số nhận xét về TTKT trong
nội thất Thiên Định Cung, lăng Khải Định, trong đó chủ yếu liên quan đến nghệ
thuật TTKSS. Từ kết quả phân tích việc sử dụng đề tài, bố cục, những ưu điểm
của chất liệu, màu sắc trang trí và thủ pháp tạo hình, tác giả đã đánh giá NTTT
tại Thiên Định Cung thể hiện ở sự phong phú về đề tài trang trí, sự cách tân
trong phong cách thể hiện và sự dung hòa của nhiều hệ tư tưởng. Ông cũng đưa
ra nhận định rằng “lăng Khải Định đã đạt đến trình độ nghệ thuật tuyệt vời
trong cả kiến trúc lẫn trang trí”. Những kết quả nghiên cứu của tác giả chính là
nguồn dữ liệu mà NCS có thể kế thừa trong việc xác định những biểu hiện của
đối tượng nghiên cứu về cả bố cục và tạo hình. Đồng thời, NCS cũng sẽ mở
rộng nghiên cứu đến những công trình liên quan khác để so sánh, đối chiếu
21
nhằm xác định những đặc trưng và giá trị tiêu biểu nhất của nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định tại QTDT Cố đô Huế.
Năm 1994, bài viết “Xác định và phân loại gốm sứ Nguyễn” của tác giả
Nguyễn Quốc Hùng đã xác định nguồn gốc các loại gốm, sứ dùng ở thời
Nguyễn bao gồm cả gốm sứ dùng trong xây dựng và nghệ thuật TTKT [49].
Nội dung bài viết cũng cho thấy sự xuất hiện của gốm sứ châu Âu trong TTKT
triều Nguyễn mà theo tác giả “Gốm sứ gia dụng khá đa dạng gồm cả đồ faience
(sành xốp) và porcelaine (sứ), men màu hoặc men trắng vẽ lam, vẽ màu… Gốm
sứ xây dựng gồm những mảng trang trí men xanh lục, xanh tím…”. Đây là
thông tin hữu ích để NCS phân tích sự phát triển của nghệ thuật TTKSS thời
Khải Định về mặt sử dụng chất liệu, màu sắc trong trang trí.
Trong bài viết “Nghệ thuật khảm sành sứ trang trí kiến trúc cung đình
Huế” năm 2002, tác giả Phan Thanh Bình đã cung cấp những kiến thức cơ bản
về kỹ thuật khảm sành sứ, những đề tài được sử dụng trong trang trí và hiệu
quả của màu sắc trong trang trí [12]. Thông qua cảm nhận từ công trình tiêu
biểu là lăng Khải Định, tác giả đã nhận định “tiếp nhận những thành tựu chế
tác màu men hiện đại, tạo được sự phong phú về màu và độ bền vật liệu, nghệ
thuật khảm sứ dưới thời Khải Định đã có những bước ngoặt lớn lao, vừa tiếp
thu yếu tố truyền thống, đồng thời tận dụng những phương pháp, kỹ thuật mới
để khảm sứ màu”. Nghiên cứu này đã chỉ ra một số yếu tố tạo nên sự thay đổi
về mặt tạo hình của nghệ thuật TTKSS như chất liệu, màu sắc và kỹ thuật. Đây
chính là cơ sở để NCS tiếp tục mở rộng nghiên cứu trên các công trình liên
quan đến thời Khải Định nhằm làm rõ những đặc trưng làm nên sự khác biệt
của nghệ thuật TTKSS thời kỳ này so với các thời kỳ trước.
Năm 2007, tác giả Đỗ Thị Thanh Mai có bài viết “Nghệ thuật khảm sành
sứ thời Nguyễn nhìn từ một chiếc cổng” [65]. Đây là một nghiên cứu toàn diện
về TTKSS tại cổng Chương Đức, một công trình được xây dựng dưới thời Khải
22
Định, từ sự kết hợp đến tạo hình của các đồ án trang trí. Đồng thời, tác giả cũng
đưa ra một số nhận định về lịch sử của nghệ thuật TTKSS thời Nguyễn và vai
trò của cổng Chương Đức trong các công trình sử dụng hình thức TTKT này ở
thời Khải Định. Tác giả đánh giá “nghệ thuật khảm sành sứ tuy là một cả một
quá trình dài nhưng nó chỉ thật sự thăng hoa dưới thời Khải Định với sự ra đời
của một loạt công trình nổi tiếng”. Từ nội dung của bài viết, bên cạnh việc kế
thừa các kết quả phân tích của tác giả, NCS sẽ tiếp tục mở rộng nghiên cứu
nhằm làm rõ bối cảnh ra đời, sự phát triển, khác biệt, những đặc trưng riêng của
nghệ thuật TTKSS thời Khải Định so với các đời vua trước.
Năm 2009, tác giả Phan Thanh Bình tiếp tục có bài viết “Hiệu quả tạo
hình của các chất liệu nề họa - khảm sứ trang trí KTCĐ thời Nguyễn” [13]. Nội
dung bài viết giới thiệu về hai chất liệu nề họa và khảm sành sứ trong TTKT
và phân tích hiệu quả của sự kết hợp, vai trò của từng chất liệu trên một đồ án
trang trí. Trong đó, nề họa đóng vai trò hỗ trợ cho hiệu quả tạo hình của khảm
sành sứ. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy, một đồ án TTKSS, để đạt được hiệu
quả cao nhất về mặt thẩm mỹ, cần có sự kết hợp với chất liệu nề họa. Từ luận
điểm này, NCS sẽ kế thừa và tiếp tục đi sâu tìm hiểu sự kết hợp về mặt chất liệu
trong trang trí để làm rõ bước phát triển về tạo hình của đối tượng nghiên cứu.
Năm 2010, tác giả Phan Thanh Bình hoàn thành luận án tiến sĩ Nghiên
cứu nghệ thuật khảm sành sứ trong mỹ thuật cung đình thời Nguyễn, một trong
những nghiên cứu quan trọng nhất về nghệ thuật khảm sành sứ Huế [16]. Luận
án đã cung cấp những thông tin tổng quát nhất, cơ bản nhất về nghệ thuật khảm
sành sứ cung đình triều Nguyễn, bao gồm: Cơ sở hình thành nghệ thuật khảm
sành sứ thời Nguyễn; Tính năng đặc điểm chất liệu và các kiểu thức tạo hình
tiêu biểu của nghệ thuật khảm sành sứ; Những giá trị cơ bản và hiệu quả tạo
hình của nghệ thuật khảm sành sứ. Đồng thời, tác giả cũng đánh giá thời Khải
Định nằm trong giai đoạn thứ hai và là giai đoạn phát triển nhất của loại hình
23
nghệ thuật này mà “mà đỉnh cao là nghệ thuật khảm sứ ở lăng Khải Định” [16,
tr.185]. Kết quả nghiên cứu của luận án đã cung cấp cho NCS nhiều kiến thức
có giá trị về nghệ thuật khảm sành sứ như: lịch sử hình thành; hệ thống khái
niệm, thuật ngữ; các thông tin về vật liệu và hệ thống đề tài, kiểu thức; các luận
điểm về vai trò và giá trị của trang trí, thông qua nghệ thuật khảm sành sứ, đối
với các không gian nội, ngoại thất của kiến trúc. Đây chính là những kiến thức
nền để NCS xây dựng bối cảnh hình thành của đối tượng nghiên cứu, cơ sở lý
luận và các giá trị của nghệ thuật khảm sành sứ Nguyễn. Trên cơ sở đó, NCS
sẽ phân tích, đối chiếu và so sánh để phát hiện thêm những đặc trưng và giá trị
mới của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định trong bối cảnh giao lưu văn hóa
Đông - Tây, thông qua các vấn đề cần tiếp tục giải quyết như: sự kết hợp của
các đồ án trang trí trên kiến trúc; sự khác biệt, cách tân của khảm sành sứ thời
Khải Định so với các đời trước.
Năm 2016, trong bài viết “Bảo tồn những giá trị đặc sắc của Cố đô Huế
- đỉnh cao của kho tàng di sản văn hóa triều Nguyễn ở Việt Nam”, tác giả
Trương Quốc Bình đã xác định vai trò lịch sử của nhà Nguyễn cùng với sự phát
triển văn hóa của Việt Nam thời Nguyễn [11]. Tác giả cũng đã tổng hợp các
giá trị của kho tàng di sản văn hóa cung đình và những nỗ lực, kết quả của công
cuộc bảo tồn và phát huy di sản. Đồng thời, cùng với việc điểm lại những di
sản phi vật thể đã được ghi danh là di sản thế giới, tác giả cũng đã kiến nghị
việc tiếp tục nghiên cứu xác định những giá trị văn hóa cung đình đặc sắc tại
Huế để đưa vào danh sách di sản văn hóa quốc gia và quốc tế, trong đó, bao
gồm các tác phẩm nghệ thuật khảm sành sứ. Theo tác giả, những tác phẩm này
“được phát triển mạnh mẽ, rộng khắp vào thời Nguyễn, và đạt đến đỉnh cao
dưới triều vua Khải Định và cho đến nay vẫn đang tiếp tục được duy trì tại
Huế”. Nhận định này cho thấy khảm sành sứ không những chứa đựng những
giá trị văn hóa, nghệ thuật của một vùng đất mà còn mang tầm cỡ quốc gia và
24
thế giới. Đây chính là gợi mở để NCS tiếp tục tìm tòi, phát hiện những đặc
trưng, giá trị mới và chứng minh sự kế thừa và phát triển của loại hình nghệ
thuật này thông qua hệ thống các TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, trong
bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây tại thời điểm chúng được hình thành.
Năm 2020, Dư địa chí Thừa Thiên Huế, bộ sách nghiên cứu tổng hợp về
tỉnh Thừa Thiên Huế, trong “Phần văn hóa” cũng đã đưa nghệ thuật khảm sành
sứ là một trong những đặc điểm chính của nghệ thuật tao hình Huế và nhận xét
“khi nói đến khảm sành sứ là biết ngay đó là nghệ thuật trang trí phổ biến ở
Huế” [111, tr.505]. Nghiên cứu cũng xác định tạo hình khảm sành sứ phát triển
đến đỉnh cao dưới thời Khải Định. Vì vậy, việc nghiên cứu, làm rõ những đặc
trưng riêng của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định vừa góp phần
bổ sung những yếu tố mới cấu thành giá trị của nghệ thuật khảm sành sứ vừa
xác định yếu tố làm nên đặc trưng riêng của mỹ thuật Huế giai đoạn 1916 -
1945 và sức sống, sự lan tỏa chúng trong cuộc sống cho đến nay. Đó cũng chính
là một trong những mục đích nghiên cứu của luận án.
Bên cạnh các nghiên cứu đã được trình bày ở trên, một số nghiên cứu về
một công trình KTCĐ được vua Khải Định cho xây dựng hoặc tu bổ trong
QTDT Cố đô Huế cũng cho thấy vai trò của nghệ thuật TTKSS đối với việc
hình thành diện mạo và giá trị kiến trúc nghệ thuật của những công trình này.
Có thể kể đến các bài viết “Cổng, cửa trong KTCĐ Huế - loại hình và cách bài
trí” của Phan Thanh Hải [34], “Áp dụng phương pháp anastylosis trong việc tu
bổ các tác phẩm khảm sành sứ trang trí công trình Thái Bình Lâu” của Nguyễn
Thế Sơn [93], “Trùng tu di tích Phu Văn Lâu” và “Nghinh Lương Đình, những
thay đổi về hình dáng kiến trúc trong các giai đoạn lịch sử” của Phan Thanh
Hải và Nguyễn Tiến Bình [36] [37]. Những nghiên cứu này cung cấp cho NCS
thông tin liên quan đến sự hình thành và biểu hiện của đối tượng nghiên cứu
trên các kiến trúc tại QTDT Cố đô Huế dưới đời vua Khải Định.
25
Đánh giá chung
Qua kết quả tổng hợp và phân tích những tài liệu liên quan đến hướng
nghiên cứu của luận án đã cho thấy một số vấn đề cần tiếp tục giải quyết sau:
- Những nghiên cứu liên quan đến QTDT Cố đô Huế ở giai đoạn 1916-
1925 dưới thời Khải Định đã cung cấp những thông tin về bối cảnh chính trị,
xã hội, tư tưởng trị quốc, chính sách của vua Khải Định và triều đình Nguyễn,
hoạt động xây dựng và tu bổ trong QTDT Cố đô Huế. Bên cạnh đó, các nghiên
cứu cũng đã xác định giai đoạn 1916 - 1925 nằm trong một giai đoạn riêng của
lịch sử mỹ thuật Huế cũng như QTDT Cố đô Huế với sự ảnh hưởng của văn
hóa phương Tây. Tuy nhiên, chưa có một nghiên cứu cụ thể nào để làm rõ
những yếu tố làm nên đặc trưng mỹ thuật của giai đoạn này cũng như những
ảnh hưởng của giao lưu văn hóa Đông - Tây đến lĩnh vực này, trong đó, bao
gồm cả nghệ thuật TTKSS và các hình thức TTKT được sử dụng nhiều tại các
công trình KTCĐ dưới thời Khải Định.
- Những nghiên cứu liên quan đến NTTT triều Nguyễn đã hệ thống hóa
và phân loại hệ thống đề tài, kiểu thức được sử dụng trong trang trí, bao gồm
cả TTKT. Đồng thời, các nghiên cứu cũng đã chỉ ra các ý nghĩa, các tầng văn
hóa mà các đề tài, kiểu thức trang trí chứa đựng. Ngoài ra, một số nghiên cứu
cũng đã đề cập đến bố cục ô hộc trang trí như là một trong những đặc trưng của
trang trí Nguyễn. Tuy nhiên, chưa có những nghiên cứu làm rõ sự kết hợp của
các đồ án trang trí về các mặt sử dụng đề tài và kiểu thức trên kiến trúc, tổ chức
không gian và bố cục trang trí tổng thể, trong đó bao gồm cả hệ thống TTKSS
ở các công trình KTCĐ thời Khải Định.
- Những nghiên cứu về nghệ thuật TTKSS triều Nguyễn và chất liệu sành
sứ đã xác định lịch sử hình thành và giá trị của loại hình nghệ thuật này, coi đây
là một trong những loại hình nghệ thuật đặc sắc của Cố đố Huế với với tiềm năng
trở thành di sản phi vật thể cấp quốc gia và quốc tế. Mặc dù hầu hết các nghiên
26
cứu đã thống nhất thời Khải Định là giai đoạn mà nghệ thuật khảm sành sứ phát
triển đến đỉnh cao nhưng chưa có nghiên cứu nào tách biệt các đặc trưng làm nên
sự nổi trội, bước phát triển của nghệ thuật TTKSS ở giai đoạn này so với giai
đoạn trước đó cũng như xác định vai trò của nghệ thuật TTKSS đối với việc hình
thành một giai đoạn riêng trong QTDT Cố đô Huế về trang trí mỹ thuật.
Từ những phân tích trên, NCS nhận thấy rằng chưa có công trình nghiên
cứu về Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định (1916 - 1925) tại QTDT
Cố đô Huế trong bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây nhằm giải quyết vấn đề
nghiên cứu trên. Từ đó, xác định những đặc trưng riêng có và các giá trị của
hình thức trang trí này trong tổng thể trang trí KTCĐ triều Nguyễn nói riêng và
mỹ thuật Huế nói chung. Đó cũng chính là “khoảng trống” để NCS tìm tòi, phát
hiện những yếu tố mới trong đề tài nghiên cứu của mình.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Khái niệm và thuật ngữ
1.2.1.1. Khái niệm về nghệ thuật trang trí khảm sành sứ
* Nghệ thuật
Theo Từ điển tiếng Việt, nghệ thuật là “hình thái ý thức xã hội đặc biệt,
dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền
đạt tư tưởng, tình cảm” [115, tr.676]. Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông
định nghĩa, nghệ thuật là “các phương pháp tiến hành để làm ra các sản phẩm
chứng tỏ tài khéo léo, sự suy nghĩ, trí tưởng tượng, cảm xúc và sự sáng tạo của
con người… phản ánh các tiêu chuẩn đẹp, khéo và sáng tạo…” [67, tr.110].
Từ hai định nghĩa nêu trên, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, khái
niệm nghệ thuật được xác định là những hoạt động có tính sáng tạo để truyền
tải và thể hiện tư tưởng, bối cảnh của hiện thực xã hội thông qua cảm xúc, trí
tưởng tượng và sự khéo léo của đôi bàn tay của con người.
27
* Trang trí
Theo định nghĩa của Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông, trang trí là
“nghệ thuật làm đẹp, phục vụ cho đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Nhờ những yếu tố trang trí, các vật dụng vừa có giá trị thẩm mỹ, vừa nâng cao
được giá trị sử dụng” [67, tr.134]. Theo Từ điển tiếng Việt, trang trí là “trình
bày, bố trí các vật có hình khối, đường nét, màu sắc khác nhau sao cho tạo ra
một sự hài hòa, làm đẹp mắt một khoảng không gian nào đó” [115, tr.1023].
Liên quan đến hướng nghiên cứu của luận án, NCS xác định khái niệm
trang trí là sự sắp xếp, bố cục các vật thể có hình khối, đường nét và màu sắc
(yếu tố hình) lên một vật thể khác (yếu tố nền) nhằm tạo nên tính thẩm mỹ cho
vật thể đó. Đối với nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, yếu tố
hình ở đây là các đồ án trang trí còn yếu tố nền là công trình kiến trúc.
* Nghệ thuật trang trí
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa khái niệm NTTT như sau:
Theo nghĩa hẹp, NTTT là nghệ thuật sử dụng hình thức ước lệ, cách
điệu của đường nét và màu sắc sử dụng sắp đặt quy củ và trật tự về
bố cục, để làm đẹp các vật thể… Theo nghĩa rộng, NTTT đồng nghĩa
với mỹ thuật ứng dụng, chức năng của nó là kết hợp các yếu tố nghệ
thuật với yếu tố vật liệu và công nghệ, để hình thành những sản phẩm
mang tính thẩm mĩ, tính công năng, tính kinh tế; tạo ra không gian
môi trường có chất lượng văn hóa cao, đáp ứng nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người [45, tr.104, 105].
Như vậy, nếu như khái niệm về trang trí chỉ đơn thuần là “sự sắp xếp, bố
cục các vật thể có hình khối, đường nét và màu sắc” thì khái niệm về nghệ thuật
trang trí đã được mở rộng thông qua “sự kết hợp các yếu tố nghệ thuật với yếu
tố vật liệu và công nghệ”, đồng thời, nghệ thuật trang trí còn tạo ra một không
gian thẩm mỹ bao quanh con người.
28
Các nghiên cứu về mỹ thuật cổ Việt Nam nói chung và mỹ thuật Huế nói
riêng đều thống nhất quan điểm trang trí bên cạnh tính thẩm mỹ còn mang tính
biểu tượng, truyền tải tư tưởng, triết lý của người xưa. Tác giả Trần Lâm Biền
đã nhận định “Hoa văn trên dải đất chữ S không chỉ nhằm mục đích đơn thuần
để trang trí cho kiến trúc hoặc các hiện vật nào đó, mà chúng là sự kết tinh
“muôn đời muôn thủa” của dân tộc Việt” [7, tr.8]. Còn theo tác giả Nguyễn
Hữu Thông, đó là “cả thế giới tràn ngập những ước vọng với những biểu thức
dàn trải trên hệ kiểu thức trang trí, mà ở Huế, trong kiến trúc lẫn vật dụng, ở
đâu chúng ta cũng có thể nhìn thấy” [99, tr.177].
Kết hợp những định nghĩa trên, cùng với các khái niệm về nghệ thuật và
về trang trí, trong phạm vi nghiên cứu của luận án, nghệ thuật trang trí được
xác định là: sự sắp xếp, bố cục các vật thể có hình khối, đường nét và màu sắc
(yếu tố hình) lên một vật thể khác (yếu tố nền) một cách sáng tạo và khéo léo
nhằm tạo nên tính thẩm mỹ và đồng thời, truyền tải những tư tưởng, triết lý
mang tính biểu tượng. Từ đó, hình thành nên những không gian thẩm mỹ đáp
ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
* Khảm sành sứ
Khảm sành sứ là sử dụng các mảnh vỡ từ các vật dụng bằng sành sứ,
thủy tinh để gắn, ghép lên một bề mặt phục vụ cho mục đích trang trí.
Về cấu trúc, một đồ án TTKSS sẽ gồm hai phần chính: phần cốt hay phần
thô là những khối hình học nề vữa đã được tạo hình cơ bản; phần hoàn thiện
chính là lớp sành sứ được khảm, gắn vào phần thô bởi hỗn hợp vữa kết dính.
Về chất liệu, sành sứ là tên gọi chung để chỉ các chất liệu được sử dụng
trong TTKSS. Chúng được lấy từ những vật dụng trong sinh hoạt như bát, đĩa,
chai, lọ…, sau đó đập hoặc cắt thành những mảnh nhỏ để sử dụng trong trang
trí, như tác giả Phan Thanh Bình đã xác định, “bản chất thực tế của nghệ thuật
khảm sành sứ là sử dụng các vật liệu sành sứ vỡ thành mảnh vỡ, mảnh vụn chứ
29
không phải là sử dụng sản phẩm sành sứ với tư cách là đồ vật nguyên thể” [16,
tr.83]. Như vậy, hình dạng của các mảnh ghép không được định hình trước từ
quá trình sản xuất mà được tạo tác trong quá trình gia công dựa trên ý đồ thể
hiện của người nghệ nhân từ những đồ vật sẵn có. Các mảnh ghép có thể là các
mảnh vỡ tự nhiên hoặc các mảnh được cắt tỉa cẩn thận có hình dạng cụ thể như
cánh hoa, lá cây, vảy rồng, lông vũ…
Về kỹ thuật, tác giả Phan Thanh Bình mô tả như sau: “Trước hết, người
thợ sử dụng những mảng màu sắc bên ngoài mảnh vỡ của sành sứ để khảm
ghép vào nền vữa, các mảnh sành sứ sẽ được tiếp mí với nhau rất đa dạng, rãnh
tiếp nối sẽ phủ tô màu sao cho bố cục, nhịp điệu ánh sáng tự nhiên” [16, tr.90].
Trên thế giới, từ xa xưa đã xuất hiện loại hình nghệ thuật tranh ghép mảnh,
tranh khảm với tên gọi Mosaic. Về tổng quan, kỹ thuật của tranh ghép mảnh
Mosaic cũng tương đồng với tranh khảm sảnh sứ. Theo Từ điển thuật ngữ mỹ
thuật phổ thông, tranh khảm (mosaic, mosaique) là “loại tranh được ghép hay
gắn từ những mảnh kính, cẩm thạch màu, mảnh gốm màu hoặc những vật liệu
thích hợp khác lên bề mặt rắn chắc … để tạo thành một bố cục nghệ thuật” [67,
tr.139]. Tại Việt Nam, ngay những năm đầu thế kỷ XX, tranh ghép mảnh Mosaic
đã xuất hiện trên các công trình kiến trúc. Một công trình có liên quan đến các
vị vua triều Nguyễn sử dụng trang trí Mosaic còn tồn tại đến ngày nay là Bạch
Dinh được xây dựng năm 1898 ở Vũng Tàu, từng là nơi giam giữ vua Thành
Thái từ năm 1906 - 1917 [86, tr.15 - 18]. Đây là công trình có kiểu kiến trúc
Pháp với TTKT sử dụng kết hợp nhiều hình thức trong đó có trang trí Mosaic
với các các chủ đề thể hiện đến từ phương Tây [PL.5, H.26, tr.225].
Theo tác giả Phan Thanh Bình, từ “mosaic” cũng được sử dụng khi dịch
thuật ngữ khảm sành sứ ra ngôn ngữ quốc tế [16, tr.50]. Tuy nhiên, theo ông,
khảm sành sứ trong tâm thức nghệ thuật và văn hóa Huế, “không có cách tư
duy và cách gọi loại thể trang trí bằng mảnh sành sứ này là tranh ghép mảnh”
[16, tr.48]. Tác giả đã xác định, “ thuật ngữ khảm sành sứ được hiểu đó là nghệ
30
thuật sử dụng mảnh sành sứ, thủy tinh màu (và một số ít các chất khác như
mảnh gốm đất nung, mảnh đá, gỗ, gạch, ngà, xương, đồ dùng vật dụng) trang
trí các công trình kiến trúc thời Nguyễn”, đồng thời cũng là “cách gọi truyền
thống của người Huế về nghệ thuật trang trí độc đáo vừa dân gian vừa cung
đình này, khi dùng thuật ngữ khảm sành sứ đã bao hàm trong đó các thuộc tính
của gắn, ghép trang trí” [16, tr.50].
Tranh ghép mảnh Mosaic
Trang trí khảm sành sứ
Giống nhau Sử dụng các mảnh ghép tráng men để hình thành đồ án trang trí Khác nhau
Mảnh ghép được sản xuất phục vụ cho mục đích trang trí Mảnh ghép có bề mặt phẳng. Đa phần có kích thước và hình dạng tương đồng
Các mảnh ghép được đập vỡ hoặc cắt tỉa từ những vật dụng sinh hoạt Mảnh ghép có bề mặt cong, thậm chí lồi. Kích thước và hình dạng phụ thuộc vào ý đồ tạo hình Sử dụng cho tạo hình tượng tròn, phù điêu, gắn (khảm) phẳng Các mảnh ghép tham gia vào tạo hình hình khối của tác phẩm Có sự kết hợp của nề họa trong việc tô nhấn giữa các mí ghép
Sử dụng chủ yếu cho tạo hình trên mặt phẳng Các mảnh ghép được xếp, gắn đồng phẳng với nhau Không có sự kết hợp của hình thức trang trí khác Ghi chú: Trong bảng đối chiếu này, ngoài Bạch Dinh ở Vũng Tàu, NCS có sử dụng thêm
một số tranh ghép mảnh được dẫn chứng trong Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông
[PL.5, H.25, tr.225] và một đoạn phim mô tả quá trình sản xuất tranh ghép mảnh [132])
So sánh tranh ghép mảnh Mosaic và TTKSS (Nguồn: NCS thực hiện)
Đồng quan điểm với tác giả, đối với TTKSS triều Nguyễn, NCS nhận
thấy rằng cần phân biệt khảm sành sứ với tranh ghép mảnh Mosaic [PL.5, H.27,
tr.226]. Thông qua việc đối chiếu, so sánh các bức tranh ghép mảnh tại Bạch
Dinh với TTKSS triều Nguyễn (xem bảng), có thể thấy rằng giữa hai loại hình
này có sự khác biệt mà ở đó, TTKSS triều Nguyễn có những đặc trưng riêng
mà tranh ghép mảnh Mosaic không có được. Từ góc độ lịch sử cho thấy, khảm
sành sứ triều Nguyễn là loại hình nghệ thuật truyền thống đã có bề dày tích tụ
31
hàng trăm năm và phát triển lên đỉnh cao ở thời Khải Định. Những yếu tố mới
nếu có, không phải là sao chép nguyên từ một loại hình nghệ thuật nước ngoài
mà là tiếp nhận những điểm có lợi trên cơ sở cái nền truyền thống để cách tân
và phát triển.
* Kiến trúc
Theo định nghĩa của Từ điển bách khoa Việt Nam, đứng ở góc độ nghệ
thuật, kiến trúc là một ngành nghệ thuật tổng hợp, chứa đựng những yếu tố của
các ngành nghệ thuật khác như điêu khắc, hội họa và trang trí… Ở góc độ văn hóa
tinh thần, kiến trúc tham gia hình thành môi trường thẩm mỹ của cuộc sống, thể
hiện quan điểm thẩm mỹ đương thời và phản ảnh tư tưởng của thời đại [44, tr.569].
Tác giả Tạ Trường Xuân, trong sách Nguyên lí thiết kế kiến trúc, cũng đã
định nghĩa kiến trúc là “nghệ thuật và khoa học thiết kế, xây dựng các công
trình và các tổ hợp công trình theo những tiêu chuẩn thẩm mỹ và chức năng…
Một tác phẩm kiến trúc được tạo nên bởi sự kết hợp chặt chẽ giữa chức năng
sử dụng và tác dụng thẩm mỹ. Nó không chỉ đơn thuần là một sản phẩm ứng
dụng khoa học - kỹ thuật, mà còn là một sáng tạo nghệ thuật” [117, tr.5, 6].
Như vậy, các định nghĩa đã nêu đã chỉ ra kiến trúc bên cạnh chức năng
chính là đáp ứng nhu cầu sử dụng của con người, còn mang những giá trị nghệ
thuật và phản ảnh tư tưởng của thời đại. Kiến trúc chính là vật thể làm nên yếu
tố nền của NTTT. KTCĐ ở thời Khải Định khá đa dạng về hình thức và kết cấu
với điểm chung là phần lớn các công trình sử dụng khảm sành sứ trong TTKT.
Do đó, ở góc độ kiến trúc, những đặc trưng, giá trị nghệ thuật của hệ thống các
đồ án TTKSS cũng chính là những yếu tố làm nên đặc trưng, giá trị nghệ thuật
cho mỗi công trình KTCĐ thời Khải Định.
* Nghệ thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc
Từ kết quả tiếp cận và phân tích, thao tác hóa các khái niệm nghệ thuật,
trang trí, nghệ thuật trang trí, khảm sành sứ và kiến trúc, khái niệm về nghệ
32
thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc sử dụng trong luận án được xác định
như sau: là nghệ thuật tổ chức, sắp xếp, bố cục các yếu tố trang trí (hình khối,
đường nét, chất liệu, màu sắc) lên công trình kiến trúc bằng hình thức khảm
sành sứ với các thủ pháp thể hiện sự sáng tạo và khéo léo của người thực hiện.
Kết quả của công việc này tạo nên không gian thẩm mỹ cho kiến trúc đồng thời
truyền tải tư tưởng, triết lý của hiện thực xã hội đương thời. Đối chiếu với đối
tượng nghiên cứu, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT
Cố đô Huế, các yếu tố trang trí được coi là yếu tố hình và các công trình KTCĐ
chính là yếu tố nền của tổng thể hệ thống trang trí.
Khái niệm trên là cơ sở để NCS tiếp tục phân tích, xác định biểu hiện
của đối tượng nghiên cứu thông qua các nguyên tắc bố cục và tổ chức không
gian trang trí, hình thức biểu đạt của đối tượng nghiên cứu (tạo hình, chất liệu
màu sắc và thủ pháp). Đồng thời, cũng dựa trên khái niệm này, NCS có thể xác
định những đặc trưng của đối tượng nghiên cứu thông qua sự cách tân, sự tiếp
thu cái mới, sự sáng tạo, khéo léo cũng như nhìn nhận đối tượng nghiên cứu ở
góc độ một tác phẩm nghệ thuật độc lập.
1.2.1.2. Khái niệm về Quần thể di tích Cố đô Huế
Quần thể KTCĐ triều Nguyễn hay QTDT Cố đô Huế là “những di tích
lịch sử - văn hóa do triều Nguyễn chủ trương xây dựng trong khoảng thời gian
từ đầu thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX trên địa bàn kinh đô Huế và vùng
phụ cận” [87]. Năm 1993, QTDT Cố đô Huế đã được công nhận là Di sản Văn
hóa Thế giới. Hình ảnh của QTDT Cố đô Huế hiện tại không phải là hình ảnh
tại một thời điểm, một giai đoạn nhất định mà là hành trình xây dựng và bồi
đắp liên tục của nhiều thời kỳ trong quá khứ. Nó chứa đựng những giá trị nổi
bật toàn cầu về lịch sử, văn hóa, kiến trúc và nghệ thuật. Liên quan đến hướng
nghiên cứu của luận án, NCS giới thiệu khái quát QTDT Cố đô Huế ở các khía
cạnh quy hoạch, kiến trúc (các yếu tố nền) và các hình thức TTKT (yếu tố hình).
33
* Khái quát về quy hoạch tổng thể QTDT Cố đô Huế [PL1, H.1, tr.100]
QTDT Cố đô Huế được phân bổ ở hai bên bờ bắc và bờ nam sông Hương
[PL5, H1.1, tr.211]. Tại bờ bắc, hệ thống các di tích được bố trí tập trung tại ba
vòng thành là Kinh thành, Hoàng thành và Tử Cấm thành là những công trình
có công năng phục vụ cho các hoạt động của triều đình và sinh hoạt của hoàng
gia. Cùng với đó, các công trình quan trọng nhất của QTDT Cố đô Huế được
bố trí trên trục Dũng đạo (là trục trung tâm của khu vực Kinh thành) [PL5,
H1.2, 1.3, tr.212, 213]. Tại bờ nam, hệ thống các di tích được bố trí phân tán
theo từng cụm công trình như hệ thống các lăng tẩm và một số các công trình
nghi lễ, tín ngưỡng.
Quy hoạch tổng thể hình thành nên không gian kiến trúc - cảnh quan cho
QTDT Cố đô Huế. Đây chính là phần “nền cảnh quan” của hệ thống các đồ án
TTKT, thể hiện sự kết nối giữa các yếu tố nhân tạo và thiên tạo, khi mà các bộ
đề tài vũ trụ - thiên nhiên, tứ thời, quả được sử dụng trên rất nhiều công trình.
* Khái quát về kiến trúc trong QTDT Cố đô Huế
Về công năng, các công trình KTCĐ triều Nguyễn được sử dụng cho
chức năng nghi lễ, hoạt động của triều đình và sinh hoạt của hoàng tộc.
Về kết cấu, đa phần các công trình có kết cấu gỗ. Đến giai đoạn Đồng
Khánh - Duy Tân, bắt đầu xuất hiện các công trình kết cấu BTCT.
Hình thức kiến trúc của hệ thống KTCĐ triều Nguyễn rất đa dạng, từ
kiến trúc “trùng thiềm điệp ốc” kết cấu gỗ, tam quan kết cấu gạch cho đến
những hình thức kiến trúc phương Tây đăng đối kết cấu BTCT.
Nếu như không gian kiến trúc cảnh quan của hệ thống các cung điện tạo
nên phần “nền cảnh quan” thì các công trình kiến trúc chính là phần “khung
hình” của các đồ án TTKT.
34
* Khái quát về các hình thức TTKT trong QTDT Cố đô Huế
Trong nghiên cứu và bảo tồn Di sản Huế, hình thức TTKT thường được
phân loại dựa trên chất liệu (ví dụ: trang trí nề vữa) kết hợp kỹ thuật thể hiện
(ví dụ: trang trí chạm khắc gỗ). Có thể kể đến các hình thức TTKT chính được
sử dụng trong QTDT Cố đô Huế bao gồm: trang trí pháp lam (đồng tráng men),
trang trí chạm khắc gỗ, trang trí sơn thếp (sơn son thếp vàng), trang trí nề họa,
trang trí nề vữa, trang trí khảm ngà, xương, trang trí chạm khắc đá và TTKSS.
Thông tin cơ bản của các hình thức TTKT nói trên được thiết lập chi tiết ở phần
Phụ lục [PL3, tr. 186].
Hình thức TTKT là yếu tố làm nên phần “hình” của tổng thể trang trí mỹ
thuật trên kiến trúc. Cùng với đó, sự đa dạng về hình thức kiến trúc cho thấy
vai trò quan trọng của TTKT, một yếu tố mỹ thuật, trong việc kết nối chúng về
một phong cách chung.
1.2.1.3. Khái niệm về kiến trúc cung đình thời Khải Định
Là các công trình KTCĐ thuộc QTDT Cố đô Huế được vua Khải Định
cho xây dựng và tu bổ dưới triều đại của mình.
Về chức năng, các công trình trên có chức năng khác nhau từ những công
trình quan trọng như điện Thái Hòa (lễ Đại triều), điện Kiến Trung (làm việc
và sinh hoạt), lăng Khải Định (lăng tẩm) cho đến những nhà đọc sách, giải trí
(Thái Bình Lâu, Cửu Tư Đài) hoặc lối ra vào cung điện (cửa Chương Đức, Hiển
Nhơn) [PL1, tr.173 - 183].
Về kiến trúc, chúng cũng mang nhiều kiểu thức khác nhau như trùng
thiềm điệp ốc (điện Thái Hòa), phương đình (Phu Văn Lâu), tam quan (cửa
Chương Đức) và có sự xuất hiện của các kiến trúc kiểu phương Tây kết cấu
BTCT (điện Kiến Trung) [PL1, tr.173 - 183].
Về trang trí mỹ thuật, ngoại trừ Khải Tường Lâu - cung An Định hoàn
toàn sử dụng trang trí nề họa (được xây dựng khi vua Khải Định chưa lên ngôi),
35
hầu hết các công trình còn lại đều sử dụng khảm sành sứ trong TTKT [PL4,
B.2, tr.189 - 191].
Về vị trí, hầu hết các công trình trên trục Dũng đạo, trục quan trọng nhất
của Kinh thành Huế, từ Nghinh Lương Đình cho đến lầu Tứ Phương Vô Sự,
đều có sự can thiệp của vua Khải Định [PL5, H.1.2, 1.3, tr.212, 213]. Một số
công trình khác cũng nằm ở vị trí dễ nhận biết như các cửa, cổng ra vào Hoàng
thành. Ngoài phạm vi Kinh thành, phía bờ nam sông Hương, các kiến trúc thời
Khải Định lại tập trung thành những quần thể lớn như lăng Khải Định, cung An
Định. Từ đó, có thể đối sánh, nhận biết nếu có những sự thay đổi, khác biệt về
kiến trúc hoặc mỹ thuật của KTCĐ giai đoạn này so với các giai đoạn trước đó.
Như đã phân tích ở phần tổng quan, các nhà nghiên cứu cũng đều thống
nhất giai đoạn 1916 - 1945 (tương ứng với các thời Khải Định, Bảo Đại) là một
giai đoạn riêng trong các nghiên cứu về lịch sử xây dựng, kiến trúc và mỹ thuật
của QTDT Cố đô Huế và là giai đoạn chịu ảnh hưởng của phương Tây, với thời
Khải Định (1916 - 1925) là khoảng thời gian mở đầu. Đối với TTKSS, đây cũng
là giai đoạn mà loại hình TTKT này được đánh giá là đạt đến đỉnh cao.
1.2.1.4. Thuật ngữ liên quan
* Loại hình trang trí
- Loại hình trang trí con giống [PL5, H.1.24, tr.224]
Đây là đồ án điêu khắc trang trí có tạo hình dưới dạng tượng tròn hoặc
phù điêu hai mặt, đứng độc lập trong không gian và được gắn lên các chi tiết
kiến trúc của công trình như bờ mái, bậc cấp. Về thuật ngữ, theo sách Thuật
ngữ kiến trúc truyền thống nhà rường Huế, con giống là “từ chung để chỉ các
chi tiết làm bằng vôi vữa, có khi có cẩn mảnh sành sứ, dung để trang trí ở đầu
các bờ nóc, bờ mái, bờ quyết” [113, tr.80]. Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
12603:2018 - Bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích kiến trúc nghệ thuật – thi công
và nghiệm thu phần nề ngõa định nghĩa con giống là “Tứ linh (rồng, lân, rùa,
phượng) hoặc một số linh vật trang trí khác gắn trên công trình” [19, tr.6]. Trong
36
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, trang trí con giống thường được sử dụng
cho các đồ án trang trí thể hiện đề tài vũ trụ - thiên nhiên, tứ linh - linh thú.
- Loại hình trang trí ô hộc [PL5, H.1.24, tr.224]
Trong kiến trúc truyền thống Huế, các thành phần, chi tiết kiến trúc có
diện tích hoặc chiều dài lớn thường được chia ô, có khung viền trên bề mặt kiến
trúc, gọi là các ô hộc. Các đồ án trang trí sẽ được bố trí trong các ô hộc này.
Thuật ngữ ô hộc cũng được TCVN 12603:2018 định nghĩa “là phần công trình
có khung/gờ bao quanh, bên trong có các chi tiết trang trí” [19, tr.7]. Thuật ngữ
này cũng được nhiều nhà nghiên cứu mỹ thuật như Trần Lâm Biền, Nguyễn
Hữu Thông, Trần Thanh Nam sử dụng khi nghiên cứu về mỹ thuật Huế.
Bản chất của ô hộc trong TTKT cung đình triều Nguyễn là những khoảng
trống được đóng khung có dạng hình vuông, chữ nhật. Vì vậy, nghiên cứu các
đồ án trang trí ô hộc cũng thực chất là nghiên cứu các họa tiết bên trong các
hình nói trên. Tuy nhiên, tại di tích Huế, thuật ngữ trang trí ô hộc được sử dụng
phổ biến trong công tác bảo tồn cũng như nghiên cứu mỹ thuật. Do đó, NCS sử
dụng thuật ngữ trang trí ô hộc để giải quyết các vấn đề cần nghiên cứu của luận
án. Từ “ô hộc” ở đây thể hiện cách gọi đặc trưng vùng miền đối với các đồ án
trang trí hình vuông, hình chữ nhật được sắp xếp liên hoàn.
Trong TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, trang trí ô hộc thường sử
dụng trong các đồ án trang trí thể hiện hầu hết các bộ đề tài trang trí truyền
thống Huế nhưng tập trung nhiều vào các bộ tứ thời, bát bửu, quả, chữ Hán.
- Loại hình trang trí bề mặt kiến trúc [PL5, H.1.24, tr.224]
Là các mặt phẳng (tường, cột vuông) hoặc mặt cong (cột tròn) của công
trình kiến trúc mà trên đó, các đồ án trang trí được thiết lập. Trong TTKSS trên
kiến trúc thời Khải Định, trang trí bề mặt kiến trúc thường sử dụng trong các
đồ án trang trí tứ linh - linh thú, chữ Hán, các hoa văn trang trí theo dải.
37
* Kiểu thức trang trí
Về tên gọi, kiểu thức là một trong những cách dịch sang tiếng Việt của
thuật ngữ motif của phương Tây. Trong cuốn sách Mỹ thuật Huế, nhìn từ góc
độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí, tác giả Nguyễn Hữu Thông đã sử dụng thuật
ngữ kiểu thức thay thay thế cho motif và được hiểu là “những đề tài, họa tiết,
hoa văn, chủ đề được trình bày trong bộ môn trang trí, … mang những đặc
trưng tiêu biểu về mặt hình tượng và trở thành những đồ án, bố cục, họa tiết
đậm tính điển hình và thường đi kèm với những tên gọi cụ thể trong quá trình
đề cập hoặc mô tả chúng” [99, tr.45, 46].
Đối với TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, NCS sử dụng thuật ngữ
kiểu thức để chỉ những họa tiết mô tả các hình tượng thuộc các bộ đề tài trang
trí truyền thống Huế. Ví dụ: kiểu thức rồng thuộc bộ đề tài tứ linh, kiểu thức
cái quạt thuộc bộ đề tài Bát bửu…
* Bố cục trang trí
Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa, bố cục trong tác phẩm mỹ thuật
là “sự sắp xếp các yếu tố tạo hình (hình khối, đường nét, ánh sáng, màu sắc…)
tuân theo một số điều kiện nhất định, theo khung hình (khung hình chữ nhật,
khung hình tròn…), theo vị trí (tượng để bên trong hay bên ngoài nhà), theo thể
loại (tranh liên hoàn hay tranh đơn chiếc” [43, tr.256].
Từ các định nghĩa nêu trên, đối với nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời
Khải Định, NCS sẽ tiếp cận bố cục trang trí của đối tượng nghiên cứu trên ba
khía cạnh. Thứ nhất, bố cục của các hình khối, đường nét bên trong bên trong
khung hình của mỗi đồ án trang trí (bố cục theo tạo hình và khung hình). Thứ
hai, bố cục tổng thể của các đồ án trang trí trên kiến trúc (bố cục theo vị trí)
dựa trên mối quan hệ giữa trang trí (yếu tố hình) và công trình (yếu tố nền).
Thứ ba, bố cục của đề tài trang trí trong các dải ô hộc trên kiến trúc (bố cục
theo thể loại), vì trang trí trong các dải ô hộc này bản chất là các bức tranh liên
hoàn được xếp nối tiếp nhau.
38
* Không gian trang trí
Theo Từ điển tiếng Việt, không gian là “hình thức tồn tại cơ bản của mọi
vật chất (cùng với thời gian), trong đó các vật thể có độ dài và độ lớn khác
nhau, cái nọ ở cách cái kia” và là “khoảng không bao trùm mọi vật xung quanh
con người” [115, tr.511].
Trong mối quan hệ hình - nền giữa trang trí và kiến trúc, vì kiến trúc là
một hình khối ba chiều, do đó các đồ án trang trí bố trí trên nó sẽ tạo nên một
tổng thể trang trí mỹ thuật có chiều sâu “thực” khác với chiều sâu “ảo” của bức
tranh hai chiều. Ở đây, kiến trúc được coi là yếu tố nền để thể hiện yếu tố hình
là những đồ án trang trí. Từ đó, ở góc độ mỹ thuật, khái niệm không gian trang
trí ở đây được hiểu là: cấu trúc, cách thức tổ chức của các đồ án trang trí mỹ
thuật theo ba chiều dài, rộng, cao trên bề mặt kiến trúc. Về công năng, nếu như
không gian kiến trúc phục vụ cho chức năng sử dụng thì không gian trang trí
phục vụ cho chức năng thẩm mỹ của công trình.
Trong KTCĐ triều Nguyễn nói chung và ở thời Khải Định nói riêng, các
đồ án TTKT được bố trí ở gần như tất cả các bộ phận của công trình. Chúng
hình thành nên những không gian có tính mỹ thuật để cùng với kiến trúc tạo
nên giá trị kiến trúc - nghệ thuật cho công trình. Đối với TTKSS trên kiến trúc
thời Khải Định, NCS tiếp cận chúng ở dựa trên cách thức tổ chức các đồ án
theo ba chiều của không gian nhằm xác định những đặc điểm riêng về mặt tổng
thể trang trí mỹ thuật cho TTKT cung đình ở thời kỳ này.
1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu
1.2.2.1. Lý thuyết tiếp biến văn hóa
Đối tượng nghiên cứu của luận án được hình thành trong bối cảnh giao lưu
văn hóa Đông - Tây, do đó, luận án vận dụng lý thuyết Tiếp biến văn hóa để lý
giải những điểm nổi trội, sự phát triển của TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
Tiếp biến văn hóa (Cultural Acculturation) là lý thuyết được hình thành
từ đầu thế kỷ XX và được đề xuất đầu tiên bởi W.I.Thomas và F.W.Znaniecki
39
với “ba dạng thức tiếp biến văn hóa” gồm có: (1) Loại hình Bohemian: chấp
nhận nền văn hóa chủ nhà và từ bỏ văn hóa gốc; (2) Loại hình Philistine: không
chấp nhận nền văn hóa chủ nhà, giữ văn hóa gốc; (3) Loại hình sáng tạo: thích
ứng với văn hóa chủ nhà, vẫn giữ được văn hóa gốc. Tiếp theo, J.W.Berry đề
xuất mô hình “four fold” (bốn nếp gấp) phân loại các chiến lược tiếp biến văn
hóa theo hai hướng. Một hướng duy trì hoặc từ chối văn hóa bản địa hoặc văn
hóa thiểu số. Một hướng khác chấp nhận hoặc từ chối văn hóa của nhóm ưu thế
hoặc văn hóa chủ nhà [39, tr.54-55].
Theo định nghĩa của Lý Tùng Hiếu:
Tiếp biến văn hóa là sự tiếp thu, biến đổi các yếu tố văn hóa du nhập
từ bên ngoài, đồng thời biến đổi các yếu tố văn hóa bên trong để thích
nghi, làm cho văn hóa của một hoặc cả hai nhóm cộng đồng người
có quan hệ tiếp xúc với nhau sẽ biến đổi dần dần hay nhanh chóng.
Theo định nghĩa này, tiếp biến văn hóa là sự biến đổi cả lượng và
chất trong nền văn hóa của một nhóm hoặc cả hai nhóm có tiếp xúc
với nhau [39, tr.76].
Theo tác giả Phạm Đức Dương, tiếp xúc văn hóa giúp phát hiện những
dấu ấn, những yếu tố văn hóa nội sinh và ngoại sinh tác động lẫn nhau. Trong
văn hóa Việt Nam, các yếu tố ngoại sinh được Việt Nam hóa, còn các yếu tố
nội sinh được hiện đại hóa. Trong quá trình tiếp xúc giữa hai nền văn hóa, để
cho văn hóa tiếp nhận có thể chấp nhận các sản phẩm văn hóa, giá trị văn hóa
mới, cần phải có thời gian. Và để được chấp nhận, những yếu tố văn hóa mới
du nhập không thể mâu thuẫn đối chọi mà cần phù hợp hoặc sẽ được biến đổi
phù hợp với văn hóa truyền thống của cộng đồng người tiếp nhận [dẫn lại từ
Lý Tùng Hiếu, 39, tr.14].
Vận dụng lý thuyết tiếp biến văn hóa, trong luận án, đối tượng nghiên
cứu sẽ được nhìn nhận là yếu tố nội sinh và đặt trong sự tương tác với yếu tố
40
ngoại sinh là những ảnh hưởng của văn hóa, kiến trúc, mỹ thuật phương Tây.
Sự tương tác giữa hai yếu tố nội, ngoại sinh sẽ được xem xét theo hai chiều.
Chiều thứ nhất là sự tiếp nhận của yếu tố nội sinh đối với yếu tố ngoại sinh,
nhằm lý giải những yếu tố được kế thừa, những yếu tố tạo nên sự khác biệt của
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định. Chiều thứ hai xem xét sự tác động ngược
lại của yếu tố nội sinh đối với yếu tố ngoại sinh. Từ đó, xác định các yếu tố
phương Tây đã được tiếp nhận và bản địa hóa bởi yếu tố trang trí như thế nào.
Từ những kết quả nói trên, NCS tiếp tục đối chiếu với các nghiên cứu
của nhóm tác giả Trần Quốc Vượng về hình thức và mức tiếp biến văn hóa ở
Việt Nam [116] và Lê Thanh Sơn về hiện tượng cộng sinh văn hóa trong kiến
trúc [92] nhằm đi đến việc xác định những đặc trưng và giá trị của TTKSS trên
kiến trúc thời Khải Định.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Trần Quốc Vượng chỉ ra rằng, trong mối
quan hệ giữa yếu tố nội sinh và yếu tố ngoại sinh có sự tiếp nhận đơn thuần và
sự tiếp nhận sáng tạo. Sự tiếp nhận sáng tạo được các tác giả phân thành ba
mức độ từ chọn lọc thích hợp đến mô phỏng và biến thể [116, tr.51, 52]. Luận
điểm này là cơ sở để NCS đánh giá mức độ kế thừa, tiếp nhận các yếu tố mới
của TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định trong quá trình tiếp biến văn hóa. Từ
đó, xác định những đặc trưng riêng cũng như vai trò, giá trị của nó trong TTKT
và mỹ thuật giai đoạn 1916 - 1945 tại QTDT Cố đô Huế.
Tác giả Lê Thanh Sơn cũng đưa ra ba trường hợp của quá trình cộng sinh
đó là: nội sinh áp đảo ngoại sinh; ngoại sinh áp đảo nội sinh; nội sinh ngoại
sinh trùng phùng (giao hòa) [92, tr.166]. Luận điểm này của tác giả cũng sẽ là
cơ sở để NCS giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa TTKSS và các công trình
KTCĐ kiểu phương Tây ở thời Khải Định. Đó là trang trí đóng vai trò tăng tính
thẩm mỹ cho kiến trúc, hay kiến trúc là phông nền để trang trí thể hiện giá trị
thẩm mỹ, hoặc có sự cân bằng giữa trang trí và kiến trúc trong việc hình thành
41
diện mạo tổng thể của công trình. Qua đó, nhận diện một khía cạnh hình thành
nên giá trị của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
1.2.2.2. Luận điểm về nghiên cứu biểu tượng
Kết quả xác định khái niệm về nghệ thuật TTKSS sử dụng trong luận án
cho thấy, hình ảnh của hệ thống TTKSS trên kiến trúc phản ảnh những tư tưởng,
triết lý của hiện thực xã hội. Theo chiều ngược lại, những tư tưởng, triết lý
đương thời sẽ quyết định biểu hiện của các đồ án TTKSS trên kiến trúc. Điều
này đặt ra yêu cầu xác định mối quan hệ giữa hình thức biểu đạt và nội dung
truyền tải của đối tượng nghiên cứu. NCS nhận thấy, có thể vận dụng các luận
điểm về nghiên cứu biểu tượng để giải quyết vấn đề này.
Tổng kết định nghĩa về biểu tượng, tác giả Đinh Hồng Hải đã tóm lược:
“Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng ta có thể chia làm hai nghĩa chính
là biểu hình và biểu ý” [32, tr.128]. Tác giả Nguyễn Hữu Thông, khi nghiên
cứu về mỹ thuật Huế, đã định nghĩa biểu tượng “là những hình ảnh, từ ngữ,
màu sắc, âm thanh, điệu bộ… nhằm gởi gắm, thông báo, quy ước hay những
phản ảnh thông qua các dạng hoạt động thuộc lĩnh vực tư duy, nghi lễ, nghệ
thuật, sinh hoạt văn hóa” [99, tr.51].
Qua các định nghĩa trên, luận án sẽ vận dụng biểu tượng như một yếu tố
trung gian trong việc phân tích đối tượng nghiên cứu. Có nghĩa là, nội dung
được thể hiện qua biểu tượng và biểu tượng được thể hiện qua các ngôn ngữ
tạo hình. Ví dụ: mùa xuân được thể hiện thông qua biểu tượng cây mai, cây mai
được thể hiện lên bề mặt trang trí thông qua các yếu tố hình khối, đường nét,
chất liệu và màu sắc.
Ở góc độ ký hiệu học, biểu tượng sẽ được nhìn nhận như một ngôn ngữ
ký hiệu đặc thù, được hình thành từ mối quan hệ giữa các yếu tố hình thức là
“cái biểu đạt” và nội dung là “cái được biểu đạt” [123] với các mô hình từ đơn
giản đến phức tạp của F.D. Saussure và R.Barthes.
42
Cái biểu đạt (Signifier)
Ký hiệu (Sign)
Cái được biểu đạt (Signfied)
Mô hình cấu trúc ký hiệu của F.D. Saussure (Nguồn: [123])
1. Cái biểu đạt (Signifier)
2. Cái được biểu đạt (Signfied)
Ngôn ngữ (Languege)
Thần thoại (Mythology)
II. CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT (SIGNIFIED)
3. Ký hiệu (Sign) I. CÁI BIỂU ĐẠT (SIGNIFIER)
III. KÝ HIỆU (SIGN)
Mô hình cấu trúc ký hiệu của R.Barthes (Nguồn: [123])
Đối chiếu hai mô hình cấu trúc ký hiệu nói trên với trường hợp cây mai
ở ví dụ trên, theo mô hình của F.D. Saussure, nếu coi cây mai là ký hiệu thì cái
được biểu đạt là mùa xuân (nội dung) và cái biểu đạt (hình thức) là các yếu tố
tạo hình. Với mô hình của R.Barthes, chúng ta có thể tìm hiểu sâu hơn nữa về
mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. Khi đó, cây mai sẽ được đóng vai trò
của CÁI BIỂU ĐẠT để thể hiện cho CÁI ĐƯỢC BIỂU ĐẠT là sự luân chuyển
của thời gian, ước muốn mưa thuận gió hòa thông qua KÝ HIỆU là mùa xuân
của bộ đề tài trang trí tứ thời.
Từ các kết quả đối chiếu trên, NCS nhận thấy, thông qua các luận điểm
về nghiên cứu biểu tượng, có thể phân tích đối tượng nghiên cứu ở ba khía
cạnh: (1) ký hiệu - biểu tượng; (2) Cái được biểu đạt - nội dung; (3) Cái biểu
đạt - hình thức. Đối chiếu với NTTT truyền thống Huế, cái được biểu đạt chính
là các bộ đề tài trang trí, ký hiệu chính là các kiểu thức trang trí nằm trong mỗi
bộ đề tài và cái biểu đạt chính là các yếu tố tạo hình để thể hiện chúng.
Trong giả thuyết nghiên cứu, NCS đã đặt ra vấn đề cần xem xét đối tượng
nghiên cứu ở góc độ tác phẩm nghệ thuật độc lập trên kiến trúc. Các kết quả
xác định khái niệm vận dụng trong luận án đã cung cấp một số yếu tố hình
43
thành nên tác phẩm nghệ thuật như tính sáng tạo và chủ thể sáng tạo. Bên cạnh
đó, một tác phẩm nghệ thuật sẽ có ý nghĩa hơn và giá trị hơn khi nó phản ảnh
tinh thần, tình cảm của hiện thực xã hội tại thời điểm mà nó được hình thành.
Đối với vấn đề này, tác giả Đinh Hồng Hải đã nhìn nhận tác phẩm nghệ thuật
ở góc độ nghiên cứu biểu tượng như sau: “mỗi tác phẩm nghệ được hình thành
trên một cấu trúc chung nhất đó là cái biểu đạt (CBĐ) và cái được biểu đạt
(CĐBĐ)… Nếu coi mỗi đối tượng mô tả trong tác phẩm nghệ thuật là một CBĐ
thì mục tiêu sáng tạo mà nó hướng tới chính là CĐBĐ” [124]. Do đó, NCS sẽ
vận dụng luận điểm này để phân tích, làm rõ các đồ án TTKSS trên kiến trúc
thời Khải Định ở góc độ tác phẩm nghệ thuật độc lập trên kiến trúc nhằm tìm tòi,
phát hiện thêm những giá trị nghệ thuật mà hình thức TTKT này chứa đựng.
1.3. Khái quát về đối tượng nghiên cứu
1.3.1. Bối cảnh (lịch sử, văn hóa) hình thành đối tượng nghiên cứu
1.3.1.1. Bối cảnh lịch sử
Bước vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đất nước ở trong
hoàn cảnh vô cùng khó khăn, phong trào Cần vương đã chấm dứt, thực dân
Pháp bắt đầu chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam [85, tr.564]. Tại Huế,
sau sự kiện thất thủ kinh đô vào năm 1885 [83, tr.151], triều đình nhà Nguyễn
đã hoàn toàn chịu lệ thuộc và không nắm giữ thực quyền. Các cơ quan quan
trọng của triều đình Huế như Hội đồng Cơ Mật và Tôn Nhơn Phủ đều thuộc
quyền chủ tọa của viên Khâm sứ Trung Kì người Pháp [85, 568]. Cùng với đó,
trong giai đoạn từ 1885 – 1916 (Đồng Khánh – Duy Tân), chính sách của triều
đình Nguyễn, mà theo dịch giả Cao Tự Thanh nhận xét, đó là “chọn chủ trương
lấy sự tồn tại của chính mình làm mục đích hoạt động tối hậu” [80, tr.24]. Cũng
trong giai đoạn này, quá trình quốc tế hóa - hiện đại hóa cùng với các thành tựu
của khoa học kỹ thuật phương Tây đã bắt đầu được tiếp nhận tại Huế tạo tiền
đề cho công cuộc canh tân, hiện đại hóa ở các đời vua sau này. Một số sự kiện
44
lớn đã được ghi chép trong Chính biên đệ lục kỷ phụ biên như: xây dựng đường
sắt từ kinh sư đến Bắc kỳ [80, tr.158], xây dựng bệnh viện [80, tr.236], xây
dựng cầu sắt bắc qua sông Hương (cầu Trường Tiền) [80, tr.278], xây dựng
trường Quốc học [80, tr.280], đặt máy dẫn nước quanh kinh thành [80, tr.521].
Trong QTDT Cố đô Huế, kiến trúc phương Tây cũng bắt đầu xuất hiện. Chính
biên đệ lục kỷ phụ biên ghi nhận: “Lại dựng lầu Minh Viễn theo kiểu Tây…
vua phê đặt lại tên là lầu Du Cửu” [80, tr.353, 688].
Sau khi hai vị vua yêu nước Thành Thái (1889-1907) và Duy Tân (1907-
1916) lần lượt bị bắt giữ và lưu đày [83, tr.307, 308], thực dân Pháp và triều
đình Huế đưa Phụng Hóa công Bửu Đảo, một người con của vua Đồng Khánh
lên ngôi, lấy niên hiệu là Khải Định [1, tr.22]. Là người được giáo dục theo
cách thức truyền thống [81, tr.612], dù bản thân không có quyền tự quyết,
nhưng vua Khải Định dường như vẫn còn muốn níu kéo chế độ quân chủ trong
thế cuộc đã tàn, với quan điểm giữ đạo trung dung thể hiện nhiều nhất là sự cân
bằng Đông - Tây, kim - cổ. Dịch giả Cao Tự Thanh nhận xét:
…trái ngược với nhiều sách báo trước nay chỉ coi nhân vật này chủ
yếu như một gã cờ bạc, một loại bù nhìn, đây là người có bề sâu góc
cạnh nhất trong chín ông vua của triều Nguyễn sau đời Tự Đức, thậm
chí là còn phù hợp nhất với phương án nhân vật trung tâm mà triều
Nguyễn đưa ra trên ý hướng duy trì sự tồn tại của mình từ đời Đồng
Khánh trở đi… Khải Định cũng bước vào cuộc đấu tranh giữ gìn sự
tồn tại trên danh nghĩa của triều Nguyễn tuy biết rằng đây là một
cuộc chơi sinh tử vì sự tồn tại ấy hoàn toàn phụ thuộc vào kẻ thống
trị ngoại nhân… [81, tr.20, 21].
Người Pháp cũng nhận xét về ông như sau “…hoàng đế Khải Định có
đầu óc cởi mở với tất cả những sự mới lạ của Tây phương…” [81, tr.613]. Thời
kỳ này, đất nước cũng bắt đầu có những thay đổi theo hướng hiện đại hóa nhằm
45
phục vụ lợi ích của người Pháp. Theo đó, “Triều đình Khải Định cũng phải hòa
mình vào tiến trình hiện đại hóa, phải tìm sức mạnh mới trong sinh hoạt xã hội
đương thời để có thể sống còn” [81, tr.38]. Bản thân vua Khải Định cũng đã từng
nói “Trẫm không lúc nào không nghĩ đến chính sách cải lương” [81, tr.134].
Trong QTDT Cố đô Huế, sự tiếp nhận kiến trúc phương Tây từ các thời
Thành Thái, Duy Tân đã phát triển mạnh mẽ vào thời Khải Định với những
công trình kết cấu BTCT to lớn, đồ sộ còn lại cho đến ngày nay như: điện Kiến
Trung, cung An Định, lăng Khải Định… Theo tác giả Nguyễn Đắc Xuân, đích
thân vua Khải Định đã ngự bút việc xây dựng điện Kiến Trung theo kiểu kết
hợp Á – Âu [129]. Đó cũng có thể là một trong những biểu hiện cho những cố
gắng canh tân, thể hiện dấu ấn của nền quân chủ trong thế cục đã tàn.
Năm 1922, vua Khải Định đã có chuyến thăm nước Pháp với một trong
những mục đích là quan sát trực tiếp những thành tựu của văn minh phương
Tây. Theo Ngự giá như Tây ký của Nguyễn Cao Tiêu, vua Khải Định đã đi thăm
nhiều kiến trúc và danh thắng nổi tiếng ở Pháp như: điện Verseille, Musée
Louvre (bảo tàng Louvre), Musée du Luxembourg (bảo tàng Luxembourg),
Khải hoàn môn, tháp Eiffel, các thắng cảnh và xưởng làm đồ sứ ở Paris, vườn
hoa ở Lyon và tham gia hội đấu xảo ở Marseille [101, tr.42-55]. Sau khi trở về
nước, công trình quan trọng nhất dưới thời Khải Định trong Tử Cấm Thành là
điện Kiến Trung được hoàn thành [81, tr.411].
Năm 1925, sau 9 năm tại vị, vua Khải Định qua đời, kế vị là vua Bảo
Đại. Mặc dù chỉ giữ ngôi vua trong một thời gian ngắn, lại ở tình thế phụ thuộc
về quyền lực và khó khăn về kinh tế, nhưng ông đã có những đóng góp đáng
kể trong việc tu bổ và xây dựng quần thể KTCĐ triều Nguyễn. Nổi bật hơn cả
là những công trình với kiến trúc châu Âu làm chủ, bộ mặt được thể hiện bởi
hệ thống trang trí mỹ thuật truyền thống có pha trộn nhiều chi tiết Tây phương.
Và trong sự nghèo nàn về vật chất, sự cố gắng sáng tạo trong TTKT đã làm nên
46
một bước tiến nghệ thuật đáng kể. Điều này không chỉ thể hiện trên những công
trình mới, mà ngay cả trên những công trình cũ với hình thức kiến trúc truyền
thống. Chúng đã được kiến tạo những hình thức trang trí mỹ thuật mang đậm
chất Khải Định với vai trò chủ đạo của TTKSS mà theo tác giả Võ Hương An,
người dân Huế đã tặng vua Khải Định tên gọi “vua mảnh sành” [1, tr.163].
1.3.1.2. Giao lưu văn hóa Đông – Tây và những ảnh hưởng đến mỹ thuật
Huế và Quần thể di tích Cố đô Huế
Văn hóa phương Tây bắt đầu tiếp xúc với văn hóa Việt Nam theo chân
những nhà truyền đạo từ thế kỷ XVII và ảnh hưởng mạnh mẽ vào những năm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tác giả Trần Ngọc Thêm nhận định: “trong
mấy thế kỷ tiếp xúc, văn hóa phương Tây đã ảnh hưởng một cách sâu rộng vào
nhiều lĩnh vực của văn hóa Việt Nam” và “người Việt Nam có thể chấp nhận
hay chống đối, nhưng cuối cùng bao giờ cũng là sự thâu hóa linh hoạt, tiếp nhận
những gì có ích và biến đổi cho phù hợp” [96, tr.291]. Còn theo tác giả Phan
Ngọc: “Mặc dầu thời gian chịu ảnh hưởng trực tiếp của văn hóa Pháp chỉ sáu
mươi năm, có thể nói văn hóa Việt Nam đã thay đổi rõ rệt hơn thời gian dài tiếp
xúc với văn hóa Hán trên hai nghìn năm” [68, tr.100].
Trong lĩnh vực kiến trúc nghệ thuật, xuất hiện những kiểu kiến trúc Tân
Cổ điển hay những trào lưu nghệ thuật phương Tây (Baroque, Roccoco, Art
Décor, Art Neuveau…) cùng với các hình thức TTKT như: đầu cột, dây lá,
phào chỉ… Về mỹ thuật, xuất hiện bút pháp tả thực với những kỹ thuật thể hiện
mới về bố cục, màu sắc, bút pháp, luật xa gần… Ngoài ra, xuất hiện những vật
liệu trang trí công trình mới như: kính, thủy tinh màu, gạch men, xi măng trắng,
ngói, màu sơn dầu…
Tại Huế, trung tâm chính trị của xứ Trung Kỳ, những ảnh hưởng của
phương Tây đến mọi mặt cuộc sống trong đó có mỹ thuật là tất yếu. Theo tác
giả Đặng Mậu Tựu: “Phải nói đến triều Nguyễn, dưới ảnh hưởng từ những nền
47
văn hóa giao tiếp nhất là các trào lưu Mỹ thuật phương Tây, Hội họa và Điêu
khắc Việt Nam mới có những biến chuyển tích cực” [110]. Trong bối cảnh gặp
gỡ giữa các nền hội họa, đã xuất hiện các họa sĩ Việt Nam tiếp nhận phong cách
hội họa phương Tây mà tiên phong là họa sĩ Lê Văn Miến. Là nhân viên Tư
nghiệp của trường Quốc Tử Giám, ông là người Việt Nam đầu tiên sang Pháp
học về hội họa. Các tác phẩm sơn dầu của ông còn lại đến ngày nay là các bức
Chân dung cụ Tú Mền và Bình văn (hiện treo tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
[98, tr.170], [PL5, H.1.10, tr.217]. Tạp chí Những người bạn Cố đô Huế - BAVH
xuất bản từ 1914 - 1944 là nơi lưu giữ nhiều tranh minh họa vẽ theo bút pháp
phương Tây. Trong đó, nhiều bộ sưu tập minh họa của tạp chí được đánh giá
cao về giá trị nghệ thuật tiêu biểu như tuyển tập Các mô-típ mỹ thuật An Nam
[62]. Tác giả Nguyễn Thị Hòa đã tổng hợp và thống kê các họa sĩ Việt Nam và
Pháp tham gia minh họa. Theo tác giả, tranh của các họa sĩ Việt Nam chiếm
90,6% số lượng minh họa cụ thể như Nguyễn Thứ, Lê Văn Tùng, Tôn Thất Sa,
Trần Văn Phềnh… [41, tr.34]. Đặc biệt, trong các năm 2013 và 2019, các bộ
tranh của họa sĩ truyền thần Nguyễn Văn Nhân, ký lục tòa Khâm sứ Trung Kì,
là Đại lễ phục Việt Nam (1802-1945) và Triều đình Huế đã lần lượt được Trần
Đình Sơn [91] và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam giới thiệu [130]. Những thông tin
trên đã cho thấy rõ những ảnh hưởng của mỹ thuật phương Tây đến mỹ thuật
tại Huế trong những năm đầu thế kỷ XX.
Trong kiến trúc và trang trí mỹ thuật tại Huế, quá trình giao lưu tiếp biến
văn hóa Đông - Tây là dung hợp giữa các yếu tố mỹ thuật truyền thống và yếu
tố phương Tây. Đối với QTDT Cố đô Huế, sự xuất hiện của phong cách mỹ
thuật phương Tây thể hiện rõ ở các bức bức tranh tường của Khải Tường Lâu -
cung An Định [PL5, H.1.11, tr.217]. Đây là 06 bức tranh sơn dầu vẽ lăng tẩm
triều Nguyễn nằm ở sảnh chính của công trình, cùng với tranh là các trang trí
hoa văn mang phong cách phương Tây phủ kín hầu như các bức tường và trần.
48
Tác giả Chu Quang Trứ đã đánh giá “lối xây dựng trang ở đây theo luật viễn
cận châu Âu mà có phần nào kết hợp với lối nhìn sinh động phương Đông” [21,
tr.146]. Theo tác giả Phan Thuận An, những bức trang này “đánh dấu giai đoạn
giao thoa nghệ thuật Đông – Tây vào những thập niên đầu thế kỷ XX trong lịch
sử của nền hội họa nước ta” [5].
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Tiến Cảnh cũng đã nhận định rằng, mỹ thuật
Huế luôn chứa đựng tinh thần dân tộc với Nho giáo là phương tiện truyền tải
cho dù chịu ảnh hưởng của Trung Hoa hay phương Tây. “Cho nên ngay khi chủ
nghĩa tư bản Pháp xâm nhập mạnh mẽ vào xã hội Việt Nam… nhưng mỹ thuật
Huế vẫn không thay đổi bao nhiêu về nội dung cũng như về hình thức, mà chỉ
tiếp thu những kỹ thuật nhất định trong chế tác và thể hiện” [21, tr.11]. Nhận
định của ông được thể hiện trên chính những công trình KTCĐ thời Khải Định.
Ở đó, những ảnh hưởng của phương Tây đã các nghệ nhân Việt Nam tiếp nhận.
Kết hợp với nền tảng nghệ thuật truyền thống sẵn có, họ đã tạo nên những hình
thức trang trí mỹ thuật trên kiến trúc pha trộn các yếu tố Á - Âu độc đáo, đặc
sắc và làm phong phú thêm kho tàng mỹ thuật truyền thống ở nước ta.
1.3.2. Hệ thống trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
1.3.2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật trang
trí khảm sành sứ trên kiến trúc cung đình triều Nguyễn
Khảm sành sứ có mặt ở trang trí KTCĐ ngay từ giai đoạn đầu triều
Nguyễn. Theo tác giả Phan Thanh Bình “tại nhiều phủ đệ, nhà vườn và đặc biệt
là ở các lăng mộ của các chúa Nguyễn, ta vẫn còn thấy bóng dáng, dấu tích
khảm sành sứ” [16, tr.51]. Còn theo tác giả Đỗ Thị Thanh Mai, “đầu thời
Nguyễn, tương ứng với thời Gia Long (1802-1820), lối trang trí bằng sành sứ
được đưa vào áp dụng khá ồ ạt; hầu như các công trình xây dựng bằng vật liệu
gạch, ngói, đá có nhu cầu trang trí thì sành sứ đều được đưa vào”. Đồng thời,
TTKSS ở thời kỳ này thể hiện tính dân gian với kỹ thuật còn thô mộc, chưa tinh
49
xảo [PL5, H.1.12, tr.218]. Từ thời Minh Mạng (1820-1841) đến hết thời Tự Đức
(1848-1883), do tính quy chuẩn của kiến trúc và trang trí cung đình đã trở nên
chặt chẽ, hoàn thiện, phạm vi sử dụng của trang trí sành sứ đã bị thu hẹp, thay
vào đó là các loại hình trang trí khác, đặc biệt là trang trí pháp lam [65].
Ở các đời vua trước, các công trình KTCĐ triều Nguyễn hầu hết đều có
kết cấu gỗ và tường bao xây gạch với các hình thức TTKT chủ đạo là pháp lam,
chạm khắc gỗ kết hợp với sơn thếp truyền thống. Tác giả Trần Đức Anh Sơn
đã nhận định, “Ở vào buổi bình minh của triều Nguyễn, những chất liệu như
gỗ, đồng, pháp lam, xà cừ… chiếm ưu thế trong trang trí” [90, tr.423]. Trong
đó, pháp lam là loại hình trang trí quý và có tính bền vững nên được sử dụng
cho trang trí ngoài nhà tại khu vực mái. Chạm khắc gỗ, sơn thếp được sử dụng
ở bên trong với vị trí ở khu vực tiền điện và chính điện. Đó đều là những vị trí
quan trọng nhất cả về công năng và thẩm mỹ kiến trúc của KTCĐ triều Nguyễn.
Các công trình quan trọng của hệ thống lăng tẩm triều Nguyễn như điện Sùng
Ân (lăng Minh Mạng), điện Biểu Đức (lăng Thiệu Trị), điện Hòa Khiêm (lăng
Tự Đức) đều thể hiện cách thức trang trí nói trên. Ở những công trình này,
TTKSS chỉ đóng vai trò thứ yếu và có hình thức biểu hiện đơn giản là vẽ màu,
ốp sứ. Ví dụ điện Biểu Đức, chỉ có hai con giao lá khảm sành sứ có kích thước
nhỏ nằm ở phần mái lưa tiền điện. Một công trình khác là điện Lương Khiêm,
mặc dù có hình thức TTKT chính là khảm sành sứ nhưng chỉ là công trình phụ
phía sau của điện Hòa Khiêm (chính tẩm của lăng Tự Đức) [PL5, H.1.13, tr.218].
Bắt đầu từ đời Đồng Khánh (1885-1889) trở về sau, “cùng với việc đánh
mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp và sự bất lực trong việc quản lý đất nước
về kinh tế xã hội, các quy chuẩn cung đình của triều Nguyễn trong kiến trúc,
trang trí cũng ngày càng bị lung lay”, tạo điều kiện cho các ngành nghệ thuật
dân gian thâm nhập mạnh mẽ vào chốn cung đình, trong đó có trang trí sành sứ
[65] [PL5, H.1.14, tr.219]. Nhận định này tương đồng với đánh giá của tác giả
50
Trần Lâm Biền trước đó: “Vào đầu thế kỷ XX, khi mà uy thế triều đình bị giảm
sút nhiều thì nghệ thuật dân gian đã xuất hiện ở cả di tích cung đình” [21, tr.70].
Đến thời Khải Định, TTKSS bắt đầu xuất hiện nhiều và chiếm vai trò
chủ đạo trên kiến trúc [PL5, H.1.15, tr.219]. Theo quan sát của Henri Gourdon
vào thời điểm 1931, TTKSS “được sử dụng hạn chế cho tới tận những năm gần
đây, loại tranh ghép này đã trở thành một yếu tố cơ bản trong hình thức trang
trí hiện đại” [38, tr.52]. Đối với trang trí ngoại thất, qua khảo sát 02 công trình
được tu sửa dưới thời Khải Định là lầu Ngũ Phụng và điện Thái Hòa có thể
thấy, hệ thống pháp lam trang trí ô hộc vẫn được giữ nguyên, nhưng toàn bộ
trang trí con giống bờ mái đã sử dụng TTKSS [PL1, tr.173 - 183] [PL5, H.1.4
- 1.7, tr.214, 215]. Những công trình kiến trúc gỗ được tu sửa dưới thời Khải
Định khác như Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu thì TTKSS được sử dụng
toàn bộ cho phần trang trí ngoại thất [PL4, B4, tr.196]. Phần lớn các công trình
được xây mới như điện Kiến Trung, Thái Bình Lâu, Nhật Thành Lâu, lầu Tứ
Phương Vô Sự, cửa Chương Đức, cửa Hiển Nhơn đều sử dụng hình thức trang
trí chính là TTKSS cho không gian ngoại thất (tập trung ở khu vực mái) [PL4,
B4, tr.196]. TTKSS cũng lần đầu tiên xuất hiện trong không gian nội thất
KTCĐ ở các công trình được xây mới dưới thời Khải Định. Cụ thể là nội thất
Thiên Định Cung và nội thất của Cửu Tư Đài, khi mà các đồ án TTKSS xuất
hiện dày đặc trong không gian trang trí nội thất của hai công trình này [PL4,
B4, tr.196]. Đây là những công trình có kết cấu BTCT và do đó, những bề mặt
dành cho TTKT chạm khắc gỗ không còn. Thay thế vào đó là những bề mặt nề
vữa phù hợp với việc sử dụng TTKSS. Có thể thấy, ở KTCĐ triều Nguyễn thời
Khải Định, TTKSS từ việc đóng vai trò thứ yếu đã trở thành hình thức trang trí
chủ đạo trong trang trí KTCĐ triều Nguyễn.
51
1.3.2.2. Đặc điểm của trang trí khảm sành sứ đối với trang trí kiến trúc
cung đình thời Khải Định
Ngay ở những thời kế trước thời gian trị vì của vua Khải Định, khảm
sành sứ đã bắt đầu có vai trò là hình thức TTKT chính ở một số công trình
KTCĐ. Hai công trình tiêu biểu cho sự “trở lại” của hình thức TTKSS là Minh
Kính Điện - điện Hòn Chén (được xây dựng dưới thời Đồng Khánh) và điện
Long An (bộ khung kiến trúc thời Thiệu Trị, được tu sửa, cải tạo phần nề ngõa
thời Duy Tân). Ở hai công trình này, gần như toàn bộ phần ngoại thất sử dụng
hình thức TTKSS. Bên cạnh đó, ở lăng Kiên Thái Vương, đã bắt đầu xuất hiện
ở một tỷ lệ thấp cách mảnh thủy tinh màu và sứ nhập ngoại [20]. Cũng ở khoảng
thời gian này, thủ pháp và kỹ thuật thể hiện đã bắt đầu thể hiện những bước
phát triển, như con phụng ở Minh Kính Điện được tạo hình quay đầu hướng về
trung tâm bờ nóc [PL5, H.1.14, tr.219] hoặc con rồng điện Long An được tạo
hình dạng tượng tròn, cùng với sự xuất hiện cùng lúc nhiều kiểu thức của đề tài
linh thú trong trang trí mái.
Một trong những nguyên nhân tạo điều kiện cho sự lựa chọn hình thức
TTKSS là sự thất truyền của kỹ thuật sản xuất pháp lam. Là hình thức TTKT
quan trọng trong KTCĐ, pháp lam phát triển cực thịnh vào giai đoạn Minh
Mạng - Tự Đức và xuất hiện trên những cung điện quan trọng nhất ở thời kỳ
này. Những điện chính của ba lăng Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức là điện Sùng
Ân, điện Biểu Đức, điện Hòa Khiêm đều sử dụng trang trí pháp lam ở vị trí mặt
tiền, cao nhất và trang trọng nhất là khu vực mái. Các nhà nghiên cứu cũng gọi
pháp lam là chất liệu “quý phái”, “quý tộc”, “cao cấp” trong các chất liệu trang
trí ở quần thể KTCĐ triều Nguyễn [73], [88], [99, tr.36]. Tuy nhiên, theo tác
giả Trần Đức Anh Sơn, cho đến thời kỳ Đồng Khánh, kỹ thuật chế tác pháp lam
đã thoái trào rồi thất truyền [88]. Do đó, đối với những công trình KTCĐ liên
52
quan đến thời Khải Định, cần phải tìm một hình thức TTKT thay thế cho pháp
lam và TTKSS chính là lựa chọn phù hợp vì những lý do sau:
- TTKSS cũng tương đồng với pháp lam về bề mặt hoàn thiện (lớp men phủ)
nên cũng thể hiện được những ưu điểm về sự lộng lẫy và rực rỡ của chất liệu này.
- TTKSS kế thừa hòa sắc của pháp lam, đồng thời cũng bổ sung thêm
nhiều màu sắc, sắc độ do có sự bổ sung của thủy tinh màu, sứ nhập ngoại.
- Các đồ án TTKSS có khả năng liên kết tốt với kiến trúc ở khu vực mái
(bờ mái, ô hộc, tường cổ diềm) do có cùng cấu tạo nề vữa. Đó là các vị trí
thường được trang trí bằng pháp lam ở các thời kỳ trước.
Một nguyên nhân khác dẫn tới sự lựa chọn TTKSS là sự xuất hiện của
các kiểu thức kiến trúc mới trong quần thể KTCĐ triều Nguyễn. Những công
trình kiến trúc kiểu phương Tây tạo nên những không gian, vị trí trang trí mới
không có ở kiến trúc gỗ truyền thống. Những công trình này có kết cấu BTCT,
tường xây gạch và hoàn thiện bằng vữa xây chính là những vật liệu có cấu tạo
tương đồng với cấu tạo của đồ án TTKSS. Do đó, việc sử dụng hình thức
TTKSS cho những công trình này là hoàn toàn phù hợp.
1.3.2.3. Vai trò của vua Khải Định trong việc lựa chọn hình thức trang
trí chính cho kiến trúc cung đình
Lý giải nguyên nhân khảm sành sứ được lựa chọn là hình thức TTKT
chính ở KTCĐ thời Khải Định, không thể không xét đến vai trò của nhà vua,
vì ông chính là chủ thể quyết định sự hình thành của chúng. Khi còn là một
hoàng tử, những yếu tố trang trí truyền thống không đóng vai trò quan trọng
trên kiến trúc của vua Khải Định. Công trình quan trọng nhất mà ông xây dựng
trước khi lên ngôi là Khải Tường Lâu thuộc cung An Định. Công trình này gần
như ảnh hưởng hoàn toàn phong cách châu Âu, với kiến trúc BTCT đăng đối
kiểu Tân Cổ Điển kết hợp với hệ thống trang trí mang phong cách Baroque cả
ở ngoại thất và nội thất. Những yếu tố trang trí truyền thống, bao gồm cả các
53
đồ án TTKSS, chỉ nằm ở các công trình phụ như cổng và ngôi đình phía trước
Khải Tường Lâu (đình Trung Lập). Tuy nhiên, theo tác giả Đỗ Thị Thanh Mai,
“do quy mô còn hạn chế, nên những đặc điểm nổi bật của nghệ thuật trang trí
sành sứ thời Khải Định chưa thể hiện rõ” [65].
Sau khi lên ngôi, vua Khải Định đã thể hiện sự quan tâm đến nghệ thuật
nhưng ở một ý nghĩa khác. Chính biên đệ thất kỷ đã ghi chép lời dụ của nhà
vua khi thành lập Khải Định tàng cổ viện (điện Long An) như sau: “Trước nay
văn minh của mỗi dân tộc đều thể hiện qua mỹ thuật. Mỹ thuật là tiêu biểu cho
giao thông, điển lễ, chính trị và tâm lý của dân tộc ấy” [81, tr.421]. Theo tác
giả Võ Hương An, vua Khải Định “là một người có cảm quan nghệ thuật cao
nhã” [1, tr.163]. Về chính sách, vua Khải Định cùng triều đình Huế luôn thể
hiện mong muốn duy trì vương quyền với những giá trị Nho - Lão truyền thống
cân bằng với tư tưởng canh tân, hiện đại hóa, tư tưởng trung dung (cân bằng
kim - cổ, dung hòa Đông - Tây). Đồng thời cũng thể hiện vị thế của nhà vua
trong thời cuộc: không thể bỏ truyền thống hẳn, cũng không thể Tây hoá hẳn.
Tác giả Nguyễn Hữu Thông đã nhận xét vua Khải Định là “một vị vua không
còn thực quyền với những bi kịch về bản thân và triều đại của mình trị vì, ông
đã hướng đời mình vào nghệ thuật như một lối thoát - một lối thoát đặng chẳng
đừng” [98, tr.150]. Về mặt xây dựng, những hình thức TTKT hoặc hoàn toàn
truyền thống hoặc hoàn toàn Tây phương đều không thể đáp ứng đầy đủ các
điều kiện trên. Cùng lúc đó, TTKSS với nhiều ưu điểm mới bắt đầu quay trở
lại trên TTKT trong quần thể KTCĐ. TTKSS vừa có khả năng biểu hiện những
giá trị triết lý phương Đông phù hợp với quan điểm trị quốc, vừa linh hoạt, đa
dạng trong tạo hình để có thể thay đổi, làm mới theo tư tưởng canh tân và sở
thích nghệ thuật của nhà vua. Đó chắc chắn là một sự lựa chọn phù hợp nhất
đối với vua Khải Định cho những công trình mà ông có dự định xây dựng và tu
bổ trong quần thể KTCĐ triều Nguyễn.
54
Có thể nhận định rằng, dưới thời Khải Định, xét trên các góc độ lịch sử
và sự xuất hiện của các kiểu thức kiến trúc hiện đại, TTKSS chính là sự lựa
chọn tất yếu, phù hợp nhất cho TTKT ở các công trình KTCĐ triều Nguyễn.
Đồng thời, vua Khải Định là người tiếp tục bồi đắp để đưa loại hình trang trí
này phát triển đến đỉnh cao.
1.3.2.4. Những thông tin cơ bản về hệ thống trang trí khảm sành sứ trên
kiến trúc thời Khải Định
Các thông tin cơ bản của đối tượng nghiên cứu sẽ được giới thiệu về các
mặt: hệ thống các công trình KTCĐ thời Khải Định sử dụng TTKSS, loại hình
trang trí cùng với những khu vực, bộ phận kiến trúc được trang trí. Phần phân
tích liên quan đến biểu hiện về sự kết hợp và hình thức biểu đạt của các đồ án
trang trí sẽ được NCS trình bày ở chương 2 của luận án.
Các công trình kiến trúc cung đình thời Khải Định sử dụng hình thức
trang trí khảm sành sứ
Hệ thống các công trình KTCĐ sử dụng TTKSS gồm có các công trình
được xây dựng ở các đời vua trước sau đó được vua Khải Định cho tu sửa trong
đó bao gồm hệ thống TTKT và các công trình được ông cho xây dựng mới.
Đông thời, tại phần phụ lục, NCS đã làm rõ lịch sử hình thành, công năng, khái
quát về kiến trúc mỹ thuật cũng như tình trạng bảo tồn, tu bổ. Từ đó, xác định
thông tin về đối tượng nghiên cứu mà NCS sẽ sử dụng trong luận án [PL1,
tr.173 - 183]. Cụ thể bao gồm các công trình sau:
- Các công trình tu sửa dưới đời vua Khải Định bao gồm [PL1, tr.174 -
178]: lầu Ngũ Phụng - Ngọ Môn, điện Thái Hòa, Nghinh Lương Đình, Phu Văn
Lâu, Trường An Môn - cung Trường Sanh.
- Các công trình xây mới dưới đời vua Khải Định bao gồm [PL1, tr.178
- 183]: Thái Bình Lâu, Thiên Định Cung - lăng Khải Định, điện Kiến Trung,
cửa Chương Đức, cửa Hiển Nhơn, lầu Tứ Phương Vô Sự, một số hạng mục
55
thuộc cung An Định là cổng chính, đình Trung Lập, Cửu Tư Đài và nhà bia
lăng Kiên Thái Vương.
Các khu vực, bộ phận kiến trúc sử dụng các đồ án trang trí khảm sành sứ
Trên KTCĐ triều Nguyễn thời Khải Định, TTKSS được sử dụng ở cả ba
bộ phận chính của công trình: khu vực đế nền, khu vực thân và khu vực mái
[PL4, B.4, tr.196]. Điểm đáng lưu ý là, khi TTKSS được sử dụng ở không gian
ngoại thất thì sẽ không được sử dụng ở nội thất và ngược lại.
Khu vực đế nền
Ở các công trình KTCĐ thời Khải Định, các bậc cấp đa phần sử dụng
chất liệu đá hoặc nề vữa (với màu sắc là màu tự thân của vật liệu). TTKSS chỉ
được sử dụng duy nhất ở điện Kiến Trung với đồ án trang trí con giống ở thành
(lan can) của bậc cấp [PL4, B.5, tr.197].
Khu vực thân nhà
Ở khu vực thân nhà, các công trình kết cấu gỗ không sử dụng TTKSS để
trang trí. Hình thức trang trí này chủ yếu được sử dụng trong các công trình kết
cấu BTCT hoặc kết cấu gạch. Trong đó, với các công trình như điện Kiến
Trung, tiền sảnh của Thái Bình Lâu, cửa Chương Đức, cửa Hiển Nhơn và cửa
Trường An, TTKSS được sử dụng ở không gian ngoại thất. Với các công trình
Thiên Định Cung, Cửu Tư Đài, TTKSS được sử dụng ở không gian nội thất.
Khu vực thân nhà chủ yếu sử dụng loại hình trang trí bề mặt kiến trúc kết hợp
với trang trí ô hộc [PL4, B.5, tr.197].
Khu vực mái nhà
Mái nhà là nơi các đồ án TTKSS được sử dụng nhiều nhất khi chúng xuất
hiện ở tất cả các loại hình công trình từ kết cấu gỗ, BTCT cho đến kết cấu gạch.
Tại khu vực mái, trừ mặt mái lợp, TTKSS được bố trí tại tất cả các bộ phận
kiến trúc hình thành nên không gian mái như hệ thống bờ mái, tường cổ diềm,
tường đầu hồi và tường chắn mái. Tuy nhiên, như đã nêu, những công trình sử
56
dụng TTKSS ở nội thất sẽ không sử dụng ở phần mái như Thiên Định Cung và
Cửu Tư Đài. Khu vực mái nhà chủ yếu sử dụng loại hình trang trí con giống
kết hợp với trang trí ô hộc [PL4, B.5, tr.197].
Tiểu kết
Ở tổng quan tình hình nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu được tiếp cận ở
ba hướng chính. Hướng nghiên cứu liên quan đến QTDT Cố đô Huế ở giai đoạn
1916-1925 dưới thời Khải Định cung cấp những thông tin về bối cảnh hình
thành của đối tượng nghiên cứu. Đồng thời, đặt ra những yêu cầu tìm hiểu,
nghiên cứu những đặc trưng mỹ thuật và TTKT cung đình thời Khải Định, trong
đó có cả TTKSS trên kiến trúc. Những nghiên cứu liên quan đến NTTT triều
Nguyễn cung cấp các nghiên cứu nền tảng để từ đó, tiếp tục đi sâu, làm rõ sự kết
hợp của các đồ án trang trí trên KTCĐ, thông qua nghiên cứu TTKSS đời Khải
Định. Hướng nghiên cứu về nghệ thuật TTKSS triều Nguyễn cung cấp những
kiến thức nền tổng quát về lịch sử, giá trị của nghệ thuật này, từ đó, đặt ra vấn
đề nghiên cứu về những yếu tố làm nên đặc trưng, sự khác biệt của nó ở thời
Khải Định so với thời kỳ trước đó.
Về cơ sở lý luận, hệ thống khái niệm, thuật ngữ được xây dựng trên cơ
sở các yếu tố cấu thành đối tượng nghiên cứu gồm có nghệ thuật TTKSS trên
kiến trúc, QTDT Cố đô Huế và các công trình KTCĐ thời Khải Định, trong đó
có phân biệt những điểm khác biệt cơ bản giữa khảm sành sứ và tranh ghép
mảnh Mosaic. Đây là cơ sở để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra cho luận
án. Về lý thuyết nghiên cứu, luận án lựa chọn lý thuyết tiếp biến văn hóa và các
luận điểm về nghiên cứu biểu tượng để giải quyết các vấn đề nghiên cứu. Trong
đó, lý thuyết tiếp biến văn hóa được vận dụng lý giải những điểm nổi trội, sự
phát triển của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định đối tượng nghiên
cứu được hình thành trong bối cảnh giao lưu văn hóa Đông - Tây. Các luận
điểm nghiên cứu biểu tượng được vận dụng để phân tích đối tượng nghiên cứu,
57
đồng thời, tìm tòi, phát hiện thêm những giá trị nghệ thuật của hình thức TTKT
này ở góc độ tác phẩm nghệ thuật độc lập.
Về bối cảnh hình thành đối tượng nghiên cứu, những năm đầu thế kỷ XX
là giai đoạn triều đình Nguyễn đã mất quyền tự chủ. Tuy nhiên, chính sách của
triều đình và vua Khải Định lúc này là cố gắng duy trì nền quân chủ kết hợp
với canh tân, hiện đại hóa, trong đó bao gồm cả việc tu sửa những kiến trúc cũ
và xây dựng những công trình mới to lớn, đồ sộ theo ảnh hưởng của phương
Tây. Trong đó, khảm sành sứ đóng vai trò trang trí chủ đạo trong TTKT. Cũng
trong giai đoạn này, quá trình giao lưu văn hóa Đông - Tây đã ảnh hưởng đến
Việt Nam trên nhiều lĩnh vực. Đối với mỹ thuật Huế, đó là sự dung hợp giữa
các yếu tố truyền thống sẵn có và yếu tố hiện đại tiếp nhận từ phương Tây.
Thông tin khái quát về đối tượng nghiên cứu được xác định trên cơ sở
lịch sử hình thành và phát triển của nghệ thuật TTKSS trên KTCĐ triều
Nguyễn, vai trò của nghệ thuật TTKSS đối với NTTT cung đình thời Khải Định
và vai trò của vua Khải Định trong việc lựa chọn hình thức trang trí chính cho
KTCĐ. Các công trình KTCĐ chứa đựng đối tượng nghiên cứu là những công
trình được vua Khải Định cho xây dựng và tu bổ dưới triều đại của mình. Trên
những công trình này, các đồ án trang trí được sử dụng ở cả ba bộ phận chính
của công trình: khu vực đế nền, khu vực thân và khu vực mái.
58
Chương 2
BIỂU HIỆN CỦA NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ
TRÊN KIẾN TRÚC THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 – 1925)
TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
“Muôn loài, muôn vật mà người nghệ sĩ An Nam tạc vào vật liệu gỗ hay
đồng, được thể hiện trên mái nhà hay tạo hình trên một mảng tường, đều vì mục
đích trang trí… Người nghệ nhân An Nam, với sự chuyên tâm chuyên chú như
thế bộc lộ rõ ở khắp mọi nơi, đã biết khai thác những hiệu ứng mỹ mãn nhất từ
những họa tiết” [63, tr.153]. Nhận xét trên của L.Cadiere đã cho thấy sự coi
trọng vai trò của trang trí đối với kiến trúc của những người nghệ nhân Huế
xưa. Đứng ở góc độ nghệ thuật, có thể nhìn nhận vai trò này trong mối quan hệ
hình và nền, mà trong đó, hệ thống các đồ án trang trí đóng vai trò tạo thành
yếu tố hình, còn kiến trúc cùng với không gian cảnh quan phủ lên nó chính là
nền của tác phẩm. Như vậy, những biểu hiện của hệ thống trang trí mỹ thuật
trên một công trình kiến trúc sẽ được hình thành bởi hai yếu tố: biểu hiện riêng
của từng đồ án trang trí và biểu hiện chung của cả hệ thống các đồ án trang trí
khi chúng được bố trí trên một cùng một mặt nền - công trình kiến trúc.
Như đã nêu, nếu coi kiến trúc là yếu tố nền của một tác phẩm nghệ thuật
thì các đồ án trang trí chính là các yếu tố tạo nên phần hình của tác phẩm đó.
Sự kết hợp của các đồ án trang trí sẽ cho thấy nội dung nghệ thuật được thể
hiện trên công trình kiến trúc. Trong thực tiễn nghiên cứu bảo tồn KTCĐ triều
Nguyễn nói chung và thời Khải Định nói riêng, khi tiếp cận hệ thống trang trí
mỹ thuật của mỗi di tích, trước tiên, cần xác định những kiểu thức nào được sử
dụng cho các đồ án TTKT. Tiếp đó, cần xác định những những đồ án này này
được bố trí, sắp xếp ở đâu trên công trình. Ở đây có hai khía cạnh cần quan tâm,
thứ nhất, về bố cục, các đồ án được bố trí ở vị trí nào trên kiến trúc và dựa trên
những nguyên tắc nào Thứ hai, vì kiến trúc là hình khối ba chiều và do đó, về
59
mặt không gian, các đồ án sẽ được tổ chức như thế nào để hình thành không gian
mỹ thuật cho công trình. Cuối cùng, khi đã xác định được vị trí và sự kết hợp
của các đồ án trên kiến trúc, cần tìm hiểu những thông tin liên qua đến hình thức
biểu đạt của mỗi đồ án trang về tạo hình, chất liệu màu sắc và thủ pháp thể hiện.
Các phân tích nêu trên sẽ được trình bày cụ thể ở các phần dưới đây của luận án.
2.1. Đề tài, kiểu thức sử dụng trong trang trí
Các kiểu thức trang trí được sử dụng trong NTTT trên kiến trúc triều
Nguyễn nói chung và nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định nói riêng
cũng chính là những thông điệp mà nhà Nguyễn muốn truyền tải trên các công
trình kiến trúc [PL4, B.3, tr.192 - 195]. Theo tác giả Nguyễn Hữu Thông, đó là
“thế giới tràn ngập những ước vọng với những biểu tượng dàn trải trên hệ kiểu
thức trang trí, đó chính là đặc điểm nổi bật nhất, mà ở Huế, trong kiến trúc lẫn
vật dụng, ở đâu chúng ta cũng có thể nhìn thấy” [99, tr.177]. Chúng là biểu
tượng của vương quyền, tư tưởng trị quốc, những giá trị triết lý Nho – Lão –
Phật, đồng thời cũng phản ánh những mong muốn, khát vọng về sự trường tồn,
phú quý, thái bình, mong muốn vạn vật sinh sôi, mưa thuận gió hòa… Chúng
cũng đại diện cho hình ảnh của kẻ sĩ, người quân tử, ca ngợi sự thanh cao, nhàn
hạ, sự trung thành, đức hạnh. Tác giả Nguyễn Tiến Cảnh đã nhận xét “những
hoa văn này chỉ xuất hiện dưới dạng điển hình và phổ biến duy nhất ở thế kỷ
XIX. Ý nghĩa biểu trưng của chúng cũng chỉ trở nên rõ ràng và hòa hợp với
những đường nét ngay thẳng của kiến trúc cung đình Huế” [22].
Trong thực tiễn công tác bảo tồn di sản Huế, yêu cầu đầu tiên khi tiếp
cận hệ thống trang trí mỹ thuật trên mỗi công trình KTCĐ đó là xác định những
kiểu thức trang trí được sử dụng trên công trình đó. Bởi vì, bên cạnh vẻ đẹp
thẩm mỹ mà chúng mang tới, chúng chính là những hình ảnh đại diện của tư
tưởng, chính sách được truyển tải trên nền kiến trúc. Để phân tích, tìm hiểu tình
hình sử dụng kiểu thức trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
60
tại QTDT Cố đô Huế, NCS hệ thống và phân loại dựa trên các loại hình trang
trí là trang trí con giống, trang trí ô hộc và trang trí trên bề mặt kiến trúc.
2.1.1. Đề tài trang trí
2.1.1.1. Đề tài sử dụng trong loại hình trang trí con giống
Trong loại hình trang trí con giống, các đề tài vũ trụ - thiên nhiên, tứ linh
- linh thú được sử dụng cho hầu hết các đồ án trên hệ thống TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định. Riêng trường hợp của Thái Bình Lâu, một công trình
không thuộc trục Dũng đạo, bên cạnh các bộ đề tài nói trên, còn có sự xuất hiện
của đề tài cát tường tự văn [PL4, B.6, tr.198].
2.1.1.2. Đề tài sử dụng trong loại hình trang trí ô hộc
Trong trang trí ô hộc, các đề tài được sử dụng phổ biến là tứ thời, đồ vật,
quả, thơ văn và cát tường tự văn. Ngoài các đề tài trên, đề tài nhân vật - điển
tích cũng được sử dụng ở một số công trình không thuộc trục Dũng đạo như
Thái Bình Lâu và Trường An Môn [PL4, B.6, tr.198].
2.1.1.3. Đề tài sử dụng trong loại hình trang trí trên bề mặt kiến trúc
Các đề tài mà nghệ thuật TTKSS thời Khải Định sử dụng trong trang trí
bề mặt kiến trúc là tứ linh - linh thú, đồ vật, Cát tường tự văn và các dạng Hoa
văn trang trí kết hợp với linh thú, đồ vật.
2.1.2. Kiểu thức trang trí
2.1.2.1. Kiểu thức sử dụng trong loại hình trang trí con giống
Kiểu thức trang trí sử dụng trong trang trí con giống của mỗi bộ đề tài cụ
thể như sau [PL4, B.7, tr.199 - 202]:
- Kiểu thức trong đề tài vũ trụ - thiên nhiên: các kiểu thức được sử dụng
là bình thiên mệnh (hồ lô), viên ngọc, mặt trời, mặt trăng. Các kiểu thức này sẽ
được kết hợp với một kiểu thức phụ trợ như mây hoặc hổ phù (còn gọi là rồng
hàm thọ hoặc la hầu) để tạo thành tổ hợp kiểu thức bình thiên mệnh - mây ngũ
sắc, hổ phù đội mặt trời… [PL6, H.2.1 - 2.4, tr.228, 229].
61
- Kiểu thức trong đề tại tứ linh - linh thú: bộ tứ linh xuất hiện đầy đủ bốn
con vật là rồng, lân, rùa, phượng. Trong đó, rồng và lân có mặt ở hầu hết các
công trình. Nghinh Lương Đình và Thái Bình Lâu sử dụng cả bốn linh thú trong
bộ tứ linh. Đối với các linh thú khác, các kiểu thức được sử dụng phổ biến là
hổ phù, long mã. Ngoài ra, còn xuất hiện cả dơi, cá trong các đồ án trang trí con
giống. Thái Bình Lâu là công trình sử dụng nhiều kiểu thức linh thú nhất, khi
tất cả các con vật đã được liệt kê ở trên đều có mặt trong các đồ án trang trí con
giống ở công trình này [PL6, H.2.5 - 2.12, tr.230 - 233].
- Kiểu thức trong đề tài cát tường tự văn: sử dụng kiểu thức chữ Thọ
được thể hiện dưới dạng Triện thư [PL6, H.2.21, tr.238].
2.1.2.2. Kiểu thức sử dụng trong loại hình trang trí ô hộc
Kiểu thức sử dụng trong trang trí ô hộc của mỗi bộ đề tài cụ thể như sau:
- Kiểu thức trong đề tài tứ thời: Các kết quả khảo sát về đề tài tứ thời trong
TTKSS ở các công trình cửa Chương Đức [PL4, B.8, tr.203, 204], lầu Ngũ Phụng
[PL4, B.9, tr.205, 206], điện Thái Hòa [PL4, B.10, tr.207, 208], Thiên Định Cung
[PL4, B.11, tr.209] cho thấy, có nhiều bộ tứ thời được sử dụng trong nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định. Các kiểu thức tứ thời phổ biến đại diện cho bốn mùa
xuân, hạ, thu, đông gồm có: mai (xuân); sen, lan, trúc (hạ); cúc (thu); trúc, liễu,
tùng (đông). Trong đó, bộ tứ thời nội thất Thiên Định Cung được nhắc tới như
là bộ tứ thời tiêu biểu của Huế: mai (xuân) - sen (hạ) - cúc (thu) - liễu (đông).
Bên cạnh cây và hoa, thì bộ tứ thời trong NTTT truyền thống Huế nói
chung và nghệ thuật TTKSS thời Khải Định nói riêng thường được bổ sung
thêm kiểu thức động vật tạo thành tổ hợp thực - động vật về mặt hình ảnh. Mỗi
loại cây, hoa nói trên lại đi kèm riêng với một loại động vật, chim hoặc thú như:
(1) Mai - điểu: hoa mai và chim; (2) Mai - hạc: hoa mai và chim hạc; (3) Lan -
điệp: hoa lan và con bướm; (4) Cúc - điệp: hoa cúc và con bướm; (5) Cúc - kê:
hoa cúc và con gà; (6) Trúc - hổ: cây trúc và con hổ; (7) Trúc - yến: cây trúc và
62
chim én; (8) Trúc - điểu/trúc - tước: cây trúc và chim; (9) Liên - áp: hoa sen và
con vịt; (10) Tùng - lộc: cây tùng và con hươu; (11) Tùng - hạc: cây tùng và
chim hạc; (12) Liễu - mã: cây liễu và con ngựa [63, tr.453 - 455].
Ngoài những kiểu thức kể trên, còn có sự xuất hiện nhiều của kiểu thức
mẫu đơn (tổ hợp mẫu đơn-trĩ) và kiểu thức ngô đồng (tổ hợp ngô đồng-phụng).
Trong đó, mẫu đơn xuất hiện tại các công trình cửa Chương Đức, cửa Hiển
Nhơn, lầu Ngũ Phụng, Thiên Định Cung. Tuy nhiên, nếu trong bộ tứ thời Trung
Quốc, mẫu đơn biểu hiện cho mùa xuân [31] thì ở các công trình nói trên lại có
một chút khác biệt. Ở cửa Hiển Nhơn (mặt ngoài), bộ tứ thời là các kiểu thức
tùng (đông) - mẫu đơn - mai (xuân) - liễu (thu): kiểu thức mẫu đơn ở đây có
thể biểu hiện cho mùa hạ. Ở cửa Chương Đức (mặt ngoài), bộ tứ thời là các
kiểu thức liễu (thu) - tùng (đông) - mẫu đơn - ngô đồng [PL6, H.2.13, tr.234].
Trong bộ tứ thời này, ngô đồng có thể biểu hiện cho mùa hạ cũng là mùa ngô
đồng nở hoa (đầu hạ), còn mẫu đơn đại diện cho mùa xuân. Như vậy, trong
nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, mẫu đơn có thể biểu hiện cho mùa xuân và
mùa hạ (trường hợp có sự xuất hiện của mai). Đối với ngô đồng, ngoài cửa
Chương Đức, còn xuất hiện trong bộ tứ thời ở Thiên Định Cung là ngô đồng -
tùng (đông) - trúc (hạ) - mai (xuân). Ở đây, ngô đồng biểu hiện cho mùa thu.
Ngoài 2 kiểu thức mẫu đơn và ngô đồng, ở Trường An Môn, còn bắt gặp 02
kiểu thức ít gặp là lê (tổ hợp lê - dương) và hướng dương (tổ hợp hướng dương
- thỏ) trong bộ trúc - lê - liễu - hướng dương. Một kiểu thức ít gặp khác là chuối
(tổ hợp tiêu - tượng), là kiểu thức có tính bản địa, trong bộ mai - tiêu - trúc -
liễu tại cửa Chương Đức [PL6, H.2.14, tr.234]. Ngoài ra, chuối còn xuất hiện ở
trang trí ô hộc ở lầu Ngũ Phụng.
- Kiểu thức trong đề tài đồ vật: trang trí ô hộc đề tài đồ vật trong nghệ
thuật TTKSS thời Khải Định bao gồm hai loại. Loại thứ nhất là các ô hộc thể
63
hiện một hoặc một cặp đồ vật. Loại thứ hai là các ô hộc thể hiện từ ba đồ vật
trở lên.
Ở loại thứ nhất, qua kết quả khảo sát đề tài đồ vật tại các công trình nội
thất Thiên Định Cung [PL4, B.12, tr.210], điện Thái Hòa [PL4, B.10, tr.207,
208] và Trường An Môn cho thấy, nghệ thuật TTKSS thời Khải Định sử dụng
các kiểu thức thuộc cả ba bộ bát bửu Nho - Lão - Phật trong trang trí truyền
thống Huế. Trong đó, các kiểu thức liên quan đến bộ Nho giáo được sử dụng
nhiều nhất với các kiểu thức có tỷ lệ xuất hiện cao như cuốn thư, sách - bút,
đàn…[PL6, H.2.16, tr.235]. Đối với bộ Lão giáo, hai kiểu thức thường được sử
dụng là tiêu và cặp sanh. Bên cạnh đó, còn có những kiểu thức thuộc cả hai bộ
Nho, Lão như quạt, bầu và gươm (hoặc kiếm). Đối với bộ Bát bửu Phật giáo,
xuất hiện các kiểu thức ốc tù và, lọng và dây nút thắt (nút thắt vô tận). Ngoài
các kiểu thức cổ đồ nói trên, trên các đồ án TTKSS thời Khải Định còn xuất
hiện những đồ vật phương Tây hiện đại đương thời. Kiểu thức xuất hiện nhiều
là ly rượu khi ngoài điện Thái Hòa và Thiên Định Cung, nó còn được sử dụng
cả ở Thái Bình Lâu. Cùng với đó là các kiểu thức khung ảnh, cuốn sổ da - bút
chì, kính lúp, kính râm [PL6, H.2.17, tr.236]. Các kiểu thức phương Tây xuất
hiện nhiều nhất ở nội thất Thiên Định Cung và chiếm tỷ lệ 14,5% tổng số lượng
ô hộc thể hiện chủ đề Đồ vật. Các kiểu thức đồ vật, bao gồm cả Bát bửu và
phương Tây, thường được kết hợp với một kiểu thức phụ như một nhành cây
hoặc một dải lụa để hình thành kiểu thức “cổ đồ triền chi”.
Đối với các ô hộc trang trí sử dụng nhiều hơn ba loại đồ vật: các kiểu
thức thường được sử dụng là bình hoa, đỉnh, các đồ vật thuộc bộ bát bửu và
mâm ngũ quả. Các đồ vật này thường được đặt trên các kiểu thức Kệ tam sơn
hoặc Kệ cao đề kỷ [PL6, H.2.15, tr.235]. Kiểu thức phương Tây cũng có mặt
trong tổ hợp kiểu thức này, đó là chiếc đồng hồ báo thức trang trí ô hộc tại nội
thất của Thiên Định Cung [PL7, H.3.8, tr.247].
64
- Kiểu thức trong đề tài quả: các kết quả khảo sát sử dụng kiểu thức quả
tại lầu Ngũ Phụng [PL4, B.9, tr.205, 206], điện Thái Hòa [PL4, B.10, tr.207,
208], cửa Chương Đức [PL4, B.8, tr.203, 204] cho thấy, những quả được sử
dụng phổ biến trong TTKSS thời Khải Định gồm có: phật thủ, đào, lựu, lê,
mãng cầu [PL6, H.2.18, tr.236]. Đây cũng là các loại quả được đặt trong bộ ngũ
quả là kiểu thức quan trọng, thường được đặt trong các ô hộc trung tâm của
kiến trúc [PL6, H.2.19, tr.237]. Ngoài ra còn thấy xuất hiện măng cụt, nho, bầu
cũng là những loại quả thuộc bộ bát quả.
- Kiểu thức trong đề tài thơ văn: các kiểu thức thơ văn sử dụng trong
TTKSS thời Khải Định đều là chữ Hán và được thể hiện dưới dạng Khải thư,
Lệ thư [PL6, H.2.20, tr.237].
- Kiểu thức trong đề tài cát tường tự văn: kiểu thức cát tường tự văn trong
TTKSS thời Khải Định chủ yếu là các chữ Hán thể hiện dưới dạng Triện thư,
Khải thư [PL6, H.2.21, tr.238].
- Kiểu thức trong đề tài nhân vật - điển tích [PL6, H.2.22, tr.238]: Các
kiểu thức trang trí tại ba công trình Thái Bình Lâu, cửa Trường An và Cửu Tư
Đài tập trung xung quanh các điển tích được thể hiện trong các đồ án trang trí
của các công trình nói trên. Ở Thái Bình Lâu là Phúc - Lộc - Thọ, Hải Ốc Thiêm
Trù và một số cảnh mô tả hoạt động của Nho sĩ xưa, ở cửa Trường An là Bát
tiên, Ngư Tiều Canh Độc và Sỹ Nông Công Thương còn ở Cửu Tư Đài là Phúc
Lộc Thọ.
2.1.2.3. Kiểu thức sử dụng trong loại hình trang trí trên bề mặt kiến trúc
Kiểu thức sử dụng trong trang trí trên bề mặt kiến trúc cụ thể như sau:
- Kiểu thức trong đề tài tứ linh - linh thú: tương tự như trang trí con
giống, kiểu thức thuộc đề tài tứ linh trong trang trí trên bề mặt kiến trúc là bốn
linh thú rồng, lân, phụng, rùa. Trong đó, Trường An Môn là công trình xuất
hiện đủ bốn loại nói trên. Các công trình khác như điện Kiến Trung, các cửa
65
Chương Đức, Hiển Nhơn chủ yếu là sử dụng rồng và các biến thể của rồng. Về
linh thú khác, hai linh thú phổ biến được sử dụng trong trang trí trên bề mặt
kiến trúc là hổ phù và dơi. Hổ phù được sử dụng tại điện Kiến Trung, Cửu Tư
Đài, nội thất Thiên Định Cung, các cửa Chương Đức và Hiển Nhơn. Nếu như
ở trang trí con giống, hổ phù chỉ là kiểu thức phụ trợ cho kiểu thức chính của
đề tài vũ trụ - thiên nhiên thì ở trang trí bề mặt kiến trúc, nó đã trở thành kiểu
thức trang trí chính với vị trí tại các đỉnh vòm cửa. Dơi được thấy ở các công
trình cửa Chương Đức, Hiển Nhơn và Trường An. Ngoài ra, cũng xuất hiện
một số kiểu thức khác như long mã (Trường An Môn), hạc (Cửu Tư Đài).
- Kiểu thức trong đề tài đồ vật: kiểu thức đồ vật chủ yếu dùng trong trang
trí bề mặt kiến trúc là cuốn thư. Kiểu thức này được dùng cho hầu hết các công
trình có sử dụng hình thức TTKSS ở phần thân nhà như điện Kiến Trung, Cửu
Tư Đài, các cửa Chương Đức, Hiển Nhơn và Trường An Môn. Bên cạnh đó,
các kiểu thức của bộ bát bửu cũng được sử dụng kết hợp với các kiểu thức của
đề tài hoa văn (mặt võng, hồi văn) để trang trí các chi tiết kiến trúc theo dải như
đố phân vị ô hộc, hay các đường diềm khung của mặt phẳng. Ngoài ra, tương
tự như trang trí ô hộc, các đồ án TTKSS trên bề mặt KTCĐ thời Khải Định
cũng sử dụng một số kiểu thức đồ vật phương Tây như bình hoa (điện Kiến
Trung, Trường An Môn) hay mũ đèn điện (điện Kiến Trung) và chúng cũng
được kết hợp với những kiểu thức dây lá truyền thống phụ trợ.
- Kiểu thức trong đề tài cát tường tự văn: tương tự như trang trí con giống,
kiểu thức cát tường tự văn ở trang trí bề mặt kiến trúc thường sử dụng chữ Thọ
thể hiện dưới dạng Triện thư. Kiểu thức này được sử dụng ở nội thất Thiên
Định Cung và Trường An Môn.
- Kiểu thức trong đề tài hoa văn, hồi văn: đề tài hoa văn, hồi văn xuất
hiện trên tất cả các công trình KTCĐ thời Khải Định sử dụng TTKSS. Các kiểu
thức chủ yếu là hoa văn dây lá, hồi văn chữ S, hồi văn chữ Công, hồi văn chữ
66
Vạn… Các kiểu thức này sẽ kết hợp với các kiểu thức linh thú hoặc bát bửu để
tạo thành các dải TTKSS.
Đánh giá chung
Từ các phân tích về việc sử dụng đề tài, có thể thấy rằng, các đề tài chính
được sử dụng trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định là vũ trụ -
thiên nhiên, tứ linh - linh thú, tứ thời, bát bửu, quả và cát tường tự văn. Cùng
với đó là các đề tài hoa văn, hồi văn trang trí. Đề tài nhân vật - điển tích cũng
được sử dụng nhưng không phổ biến. Mặc dù các công trình KTCĐ có hình
thức kiến trúc khác nhau nhưng việc lựa chọn đề tài và kiểu thức trang trí đã
cho thấy sự thống nhất về cả nội dung truyền tải và hình thức biểu hiện, đặc
biệt là đối với các công trình trên trục Dũng đạo. Tuy nhiên, bên cạnh những
kiểu thức trang trí truyền thống, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định ghi nhận sự xuất hiện của các kiểu thức trang trí phương Tây đương thời
trong đề tài đồ vật. Đây là một trong những điểm khác biệt của hình thức
TTKSS trong KTCĐ mà NCS sẽ phân tích, đối chiếu và làm rõ ở chương 3 của
luận án.
2.2. Bố cục tổng thể của hệ thống trang trí
Trong mối quan hệ hình nền giữa trang trí và kiến trúc, bố cục của các
đồ án trang trí đóng vai trò quan trọng, vì nó quyết định sự hài hòa, biểu cảm
và các thông điệp được truyền tải trên kiến trúc thông qua mỹ thuật. Đánh giá
về bố cục trong NTTT nói chung và nghệ thuật TTKSS nói riêng tại QTDT Cố
đô Huế, theo tác giả Nguyễn Hữu Thông: “trang trí có bố cục toàn diện, chỉnh
thể, hệ thống, gồm các mảng tác động lẫn nhau, trong đó có điểm trọng tâm”
[98, tr.163], còn theo tác giả Phan Thanh Bình “trang trí khảm sành sứ cung
đình thời Nguyễn đã đồng thời thể hiện nhiều nguyên tắc bố cục, vận dụng tỷ
lệ hình khối khảm sành sứ đa dạng, mỗi hình khối, bố cục không gian đều xuất
phát từ những yêu cầu thực tiễn của chức năng kiến trúc” [16, tr.142].
67
Đối với hệ thống các đồ án TTKSS thời Khải Định, từ các kết quả xác
định những kiểu thức được sử dụng trong trang trí, NCS sẽ tiếp tục làm rõ các
bố cục của chúng trên các công trình KTCĐ ở giai đoạn này. Trình tự thực hiện
là: (1) trước tiên, làm rõ các đồ án sẽ được bố trí ở những vị trí nào trên kiến
trúc; (2) tiếp theo, tại các vị trí đã xác định này, những đề tài trang trí nào được
lựa chọn sử dụng và các kiểu thức trang trí trong cùng một bộ đề tài sẽ được
sắp xếp như thế nào; (3) cuối cùng, hướng của các đồ án trang trí được xác định
ra sao trên công trình. Các phân tích cụ thể sẽ được trình bày dưới đây [PL6,
H.2.23 - 2.28, tr.239 - 243].
2.2.1. Vị trí trên kiến trúc của các đồ án trang trí
2.2.1.1. Vị trí trên kiến trúc của đồ án trang trí con giống
Trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, các đồ án trang
trí con giống tập trung ở khu vực đế nền và khu vực mái nhà. Trong đó, khu
vực đế nền chỉ ghi nhận duy nhất một trường hợp là điện Kiến Trung sử dụng
trang trí con giống ở vị trí thành bậc cấp của công trình. Ở khu vực mái, các đồ
án trang trí con giống được sử dụng tại hệ thống bờ mái. Vị trí cụ thể của các
đồ án tại từng loại bờ mái được sắp xếp như sau:
- Bờ nóc: chính giữa đỉnh bờ nóc, đồng thời cũng là điểm trung tâm và
cao nhất của mái, bố trí 01 đồ án (con giống trung tâm). Hai đầu đỉnh bờ nóc,
sát với vị trí tường hồi, bố trí 02 đồ án (con giống đỉnh nóc đầu hồi) đối xứng
nhau qua đồ án trung tâm. Đối với những công trình có bờ nóc dài như điện
Thái Hòa hay điện Kiến Trung, khoảng giữa đồ án con giống trung tâm và đồ
án con giống đầu hồi được bố trí thêm một số đồ án (con giống nóc bên) và
cũng đối xứng về vị trí qua đồ án con giống trung tâm. Theo quan sát của NCS,
sự bổ sung của các đồ án hai bên đồ án con giống trung tâm phụ thuộc vào số
bước gian của kiến trúc. Đối với các công trình ba gian hai chái (lầu Ngũ
Phụng), ba gian chái vảy (Nghinh Lương Đình), một gian hai chái (lầu Tứ
68
Phương Vô Sự) thì chỉ có đồ án con giống trung tâm và đồ án con giống hai
bên hồi. Đối với trường hợp của điện Thái Hòa, mái tiền điện của công trình 07
gian chái vảy, chính điện 05 gian 02 chái nhiều hơn các công trình đã nêu 02
gian và do đó, bổ sung thêm 02 đồ án đối xứng hai bên đồ án con giống trung
tâm. Đối với trường hợp của điện Kiến Trung, thông qua hệ thống cửa phân chia
mặt đứng, mái của công trình là 09 gian 02 chái nên được bổ sung 04 đồ án đối
xứng hai bên đồ án con giống trung tâm. Ngoài ra, tại nhiều công trình như điện
Thái Hòa, Nghinh Lương Đình, Thái Bình Lâu, lầu Tứ Phương Vô Sự vị trí chân
hai đầu bờ nóc cũng được bố trí các đồ án trang trí (con giống chân nóc đầu hồi).
- Bờ chảy: tại vị trí đuôi bờ chảy, phần tiếp giáp với bờ quyết, bố trí 01
đồ án (con giống bờ chảy). Đồng thời, đối xứng trước, sau, trái, phải qua đồ án
con giống trung tâm, bố trí các đồ án trang trí ở vị trí tương ứng.
- Bờ quyết: tại vị trí đuôi bờ quyết, phần sát với mép mái, bố trí 01 đồ án
trên đỉnh bờ mái (con giống đỉnh bờ quyết). Trong một số trường hợp, như Thái
Bình Lâu, chân bờ quyết ở vị trí này cũng được bố trí 01 đồ án (con giống chân
bờ quyết). Tương tự như trang trí con giống bờ chảy, đối xứng trước, sau, trái,
phải qua đồ án trung tâm, bố trí các đồ án trang trí ở vị trí tương ứng.
Ngoài hệ thống bờ mái, đối với công trình có kiến trúc dạng chóp (bốn
mặt mái giao nhau tại một điểm), bố trí 01 đồ án trang trí ở vị trí đỉnh chóp.
Sự xuất hiện của kiến trúc phương Tây đi cùng với sự xuất hiện của các
bộ phận, chi tiết kiến trúc mới không có ở công trình kiến trúc gỗ truyền thống.
Đó là các tiền sảnh (điện Kiến Trung, Thái Bình Lâu) hoặc hệ thống tường chắn
mái (điện Kiến Trung). Trên đỉnh của các bộ phận và chi tiết này cũng được bố
trí trang trí con giống với nguyên tắc tương tự như ở bờ nóc mái.
2.2.1.2. Vị trí trên kiến trúc của đồ án trang trí ô hộc
Trang trí ô hộc được đánh giá là một trong những nét đặc sắc của NTTT
trên KTCĐ triều Nguyễn. Theo tác giả Nguyễn Hữu Thông, những dải ô hộc
69
đóng kín thể hiện “sự hoàn chỉnh, chặt chẽ, trọn vẹn được khoanh lại trên từng
mảng và từng mảng lại hỗ trợ nhau để làm nên một khuôn mặt” [98, tr.154].
Các ô hộc chính là những “khung hình” chứa đựng các mảng TTKSS để hình
thành một đồ án trang trí. Khác với trang trí con giống, vị trí của các đồ án trang
trí ô hộc trong TTKSS thời Khải Định, cũng như TTKT triều Nguyễn nói
chung, đã được định vị sẵn trên kiến trúc vì hệ thống các ô hộc được hình thành
cùng với quá trình một công trình KTCĐ được xây dựng.
Trong nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, việc bố trí đồ án trang trí trong
hệ thống ô hộc có một số đặc điểm chính sau:
- Hệ thống ô hộc được thiết lập ở của bề mặt của hệ thống bờ mái, tường
cổ diềm. Bên cạnh đó, ô hộc cũng được phân chia ngay trên bề mặt tường của
phần thân kiến trúc như trường hợp của nội thất Thiên Định Cung hay nội thất
Cửu Tư Đài [PL6, H.2.29, 2.30, tr.243]. Hệ thống cột, mái sảnh của các tiền
sảnh ở điện Kiến Trung, Thái Bình Lâu [PL6, H.2.37, tr.246] hay cột giả phân
vị mặt đứng ở cổng Chương Đức, Hiển Nhơn cũng được phân chia ô hộc để bố
trí các đồ án trang trí phía trong [PL6, H.2.31, tr.244]. Ngoài ra, đối với những
đồ án trang trí có kích thước lớn, ô hộc cũng được phân chia ngay trong các chi
tiết tạo hình kiểu thức ở những đồ án này. Ví dụ như các đồ án trang trí bề mặt
tường điện Kiến Trung, bên trong kiểu thức cuốn thư, tiếp tục được phân chia ô
hộc để bố trí các đồ án trang trí nhỏ hơn [PL6, H.2.80, tr.272].
- Đối với các dải ô hộc nằm ngang: các ô hộc được bố trí đan xen nhau
về mặt kích thước theo nguyên tắc ô lớn nối tiếp ô nhỏ. Đồng thời, các ô hộc
cũng được bố trí đối xứng nhau qua một đồ án ô hộc trung tâm (thường là ô hộc
lớn) ở chính giữa chi tiết hoặc bộ phận kiến trúc.
- Đối với các ô hộc đứng như trong nội thất Thiên Định Cung: có hai
cách sắp xếp. Cách thứ nhất là xếp liền các ô hộc có cùng kích thước [PL6,
70
H.2.35, tr.245], cách thứ hai là sắp xếp theo cụm một ô hộc có kích thước lớn
nằm giữa và hai ô hộc nhỏ đối xứng hai bên [PL6, H.2.29, tr.243].
- Về hình học, có 02 dạng ô hộc bao gồm:
+ Ô hộc có hai cạnh bằng nhau bao gồm ô hộc vuông (đối với bờ nóc)
và ô hộc hình thoi (đối với bờ chảy và bờ quyết). Đây là loại ô hộc có kích
thước nhỏ nhất trong hệ thống ô hộc.
+ Ô hộc có hai cạnh không bằng nhau bao gồm ô hộc chữ nhật (đối với
bờ nóc) và ô hộc hình bình hành (đối với bờ chảy và bờ quyết). Loại ô hộc này
lại có 2 dạng: ô hộc chữ nhật ngắn (cạnh dài lớn hơn cạnh ngắn 1,5 - 2,5 lần);
ô hộc chữ nhật dài (cạnh dài lớn hơn cạnh ngắn từ 2,5 lần trở lên).
2.2.1.3. Vị trí trên kiến trúc của đồ án trang trí bề mặt
Đối với các đồ án trang trí trên bề mặt kiến trúc, có 02 vị trí thường được
bố trí trang trí trên hầu hết các công trình. Đó là mảng tường đầu hồi ở khu vực
mái (01 đồ án) và các đỉnh vòm cửa ở khu vực thân công trình (01 đồ án). Hai
bên đồ án đỉnh vòm cửa, nếu có đủ khoảng trống, sẽ được bố trí một cặp đồ án
đối xứng với đồ án đỉnh vòm. Ngoài ra, tại hầu hết các công trình KTCĐ được
vua Khải Định cho xây mới, hệ thống đố phân vị ô hộc, đều được trang trí các
dải hoa văn.
Các vị trí khác tùy vào cấu trúc của kiến trúc mà người xưa bổ sung các
đồ án trang trí như các trường hợp của điện Kiến Trung và Cửu Tư Đài, giữa
các khoảng trống của hai vòm cửa liên tiếp đều bố trí trang trí. Trong trường
hợp bề mặt kiến trúc được thiết lặp các trụ giả bán nguyệt như ở nội thất Thiên
Định Cung, mặt bên của điện Kiến Trung hay Trường An Môn, thì trên bề mặt
trụ đều được thiết lập các đồ án trang trí.
Nhìn chung, về mặt vị trí, trong cả ba loại hình trang trí, các đồ án trang
trí đều được bố trí đối xứng nhau về mặt vị trí thông qua một đồ án trung tâm.
71
Cùng với tính đối xứng về mặt kiến trúc, nó tạo nên sự cân bằng về thị giác cho
tổng thể trang trí mỹ thuật trên mỗi công trình KTCĐ thời Khải Định.
2.2.2. Sắp xếp đề tài, kiểu thức của các đồ án trang trí trên kiến trúc
2.2.2.1. Sắp xếp đề tài, kiểu thức của đồ án trang trí con giống
Từ các kết quả phân tích về vị trí các đồ án trang trí con giống trên kiến
trúc, các kiểu thức trang trí được sắp xếp dựa trên nguyên tắc sau:
- Các đồ án con giống trung tâm bờ nóc, mái sảnh, tường chắn mái và
đỉnh chóp mái sử dụng đề tài vũ trụ - thiên nhiên. Các kiểu thức sử dụng là bình
thiên mệnh (bờ nóc lầu Ngũ Phụng, tiền điện điện Thái Hòa, các đỉnh chóp mái
của điện Kiến Trung), viên ngọc (bờ nóc chính điện điện Thái Hòa), mặt trời
(bờ nóc điện Kiến Trung, chính doanh Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, lầu
Tứ Phương Vô Sự, các cổng cửa), mặt trăng (bờ nóc tiền doanh, hậu doanh
Nghinh Lương Đình). Với ý nghĩa là sự trường tồn, sự sinh hình thành vạn vật,
đây chính là những đồ án quan trọng nhất của TTKSS trên những công trình
KTCĐ thời Khải Định. Ngoài ra, đề tài cát tường tự văn cũng được sử dụng
cho đồ án con giống trung tâm bờ nóc mái và xuất hiện tại hệ thống TTKSS
của Thái Bình Lâu cả ở bờ nóc mái hậu doanh và chính doanh. Trong đó, chính
doanh sử dụng một kiểu thức chữ Thọ dạng Triện thư lớn kết hợp với kiểu thức
phụ trợ là dơi (tượng trưng cho chữ Phúc) và dây hoa lá (tượng trưng cho chữ
Lộc). Hậu doanh sử dụng ba chữ Thọ và hai chữ Vạn kết hợp với một con rồng
và một cặp phụng. Như vậy, mặc dù không sử dụng các kiểu thức vũ trụ - thiên
nhiên như những công trình khác, nhưng đồ án trang trí bờ nóc của Thái Bình
Lâu vẫn giữ nguyên ý nghĩa mà người xưa muốn truyền tải thông qua đồ án
trang trí con giống trung tâm. Đó là sự trường tồn, vĩnh cửu và mong muốn
hạnh phúc, thái bình.
- Các đồ án trang trí con giống bờ nóc, mái sảnh, tường chắn mái ở hai
bên đồ án trung tâm sử dụng đề tài tứ linh. Cũng như vị trí, chúng cũng được
72
sắp xếp đối xứng với đồ án trung tâm cả về đề tài và kiểu thức. Kiểu thức chính
được sử dụng là rồng (hồi long, rồng chầu). Điều này cho thấy tính thống nhất
trong việc thể hiện biểu tượng của vương quyền trên kiến trúc. Tại Trường An
Môn, vốn là cổng của cung Trường Sanh, một cung điện của các bà hoàng và
do đó, kiểu thức chính của các đồ án con giống hai bên đồ án trung tâm bờ nóc
là phượng (kiểu thức đại diện cho nữ giới). Ngoài ra, đồ án con giống chân nóc
đầu hồi sử dụng kiểu thức lân (điện Thái Hòa, Nghinh Lương Đình, lầu Tứ
Phương Vô Sự).
- Các đồ án trang trí con giống bờ chảy sử dụng đề tài tứ linh. Về kiểu
thức, đa phần các đồ án TTKSS của các công trình sử dụng kiểu thức giao “hóa”
(mây hóa rồng hoặc dây lá hóa rồng, chữ hóa rồng). Một số ít trường hợp, như
điện Kiến Trung, sử dụng rồng trong trang trí con giống bờ chảy.
- Các đồ án trang trí con giống bờ quyết sử dụng đề tài tứ linh kết hợp
với các linh thú khác. Kiểu thức chính được sử dụng là rồng (lầu Ngũ Phụng,
điện Thái Hòa, lầu Tứ Phương Vô Sự, Trường An Môn), phụng (Nghinh Lương
Đình, Thái Bình Lâu, Trường An Môn), long mã (Nghinh Lương Đình, lầu Tứ
Phương Vô Sự), giao hóa (Phu Văn Lâu, các cổng Chương Đức, Hiển Nhơn).
Bên cạnh những linh thú trên, lân và cá cũng được sử dụng cho các đồ án con
giống chân bờ quyết của Thái Bình Lâu.
- Đối với bậc cấp của điện Kiến Trung, kiểu thức long mã được sử dụng
cho trang trí con giống thành bậc cấp của công trình này.
- Trong trang trí con giống, bên cạnh việc đối xứng về đề tài, thì các đồ
án cũng đối xứng cả về kiểu thức.
2.2.2.2. Sắp xếp đề tài, kiểu thức của đồ án trang trí ô hộc
Từ các kết quả phân tích về vị trí các đồ án trang trí ô hộc trên kiến trúc,
nguyên tắc sắp xếp đề tài của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định được xác định
như sau:
73
- Ô hộc trung tâm sử dụng đề tài quả kết hợp đồ vật hoặc biến thể của đề
tài tứ linh (liên đằng, long đằng). Về kiểu thức sử dụng, đề tài quả - đồ vật sử dụng
tổ hợp các kiểu thức là mâm ngũ quả (bao gồm năm loại quả là đào, lựu, phật thủ,
lê, mãng cầu), lư đồng (hoặc đỉnh trầm), bình hoa và có thể có thêm một số đồ vật
thuộc bộ bát bửu. Trong một số công trình, tiêu biểu là nội thất Thiên Định Cung,
những kiểu thức này được đặt trên kệ tam sơn hoặc kệ cao đề kỷ.
- Đối với các ô hộc còn lại, việc sắp xếp đề tài dựa trên các nguyên tắc
chung như sau:
+ Các ô hộc đứng liền kề nhau có đề tài khác nhau.
+ Các ô hộc đối xứng về mặt đề tài qua đồ án ô hộc trung tâm.
+ Sử dụng các bố cục là các bức tranh liên tiếp (bố cục “họa - họa”) hoặc
một chữ đại tự xen kẽ với một bức tranh (bố cục “nhất tự - nhất họa”).
+ Đối với bố cục các bức tranh liên tiếp, thứ tự bố cục các đề tài theo kích
thước ô hộc từ nhỏ đến lớn sẽ là: quả - đồ vật (cổ đồ triền chi) - tứ thời. Trong
đó, trường hợp ở dải ô hộc sử dụng 2 đề tài quả - tứ thời: đề tài quả sẽ được bố
trí ở ô hộc nhỏ, đề tài tứ thời được bố trí ở ô hộc lớn [PL6, H.2.34, tr.245]. Trường
hợp sử dụng 2 đề tài đồ vật - quả: đề tài quả sẽ được bố trí ở ô hộc nhỏ, đề tài đồ
vật với kiểu thức “cổ đồ triền tri” được bố trí ở ô hộc lớn [PL6, H.2.33, tr.244].
Trường hợp sử dụng 2 đề tài đồ vật - tứ thời: đề tài đồ vật sẽ được bố trí ở ô hộc
nhỏ, đề tài tứ thời được bố trí ở ô hộc lớn [PL6, H.2.32, tr.244].
+ Đối với bố cục “nhất tự - nhất họa”: đề tài cát tường tự văn sẽ được sử
dụng cho ô hộc nhỏ. Với các ô hộc lớn, sẽ sử dụng các đề tài đồ vật hoặc tứ
thời. Bố cục “nhất tự - nhất họa” thường sử dụng cho các dải ô hộc có số lượng
ít. Phổ biến nhất là 03 ô hộc với một bức tranh lớn ở giữa và 02 ô hộc đại tự hai
bên [PL6, H.2.36, tr.246].
Về nguyên tắc sắp xếp kiểu thức trong trang trí ô hộc, qua kết quả khảo
sát hệ thống TTKSS thời Khải Định, NCS nhận thấy có một số đặc điểm sau:
74
- Nguyên tắc chung: khác với trang trí con giống, dù đối xứng về mặt đề
tài nhưng các kiểu thức được sử dụng trang trí ô hộc trong TTKSS thời Khải
Định không hoàn toàn đối xứng. Trong trường hợp số lượng ô hộc cho một đề
tài không quá nhiều, mỗi ô hộc sẽ sử dụng một kiểu thức khác nhau trong bộ
đề tài chung. Ví dụ như trường hợp của cổng Chương Đức, 04 ô hộc nằm trong
bốn trụ giả của công trình đối xứng về mặt đề tài tứ thời và sử dụng nguyên bộ
tứ thời đại diện bốn mùa. Hoặc 04 ô hộc chân trụ của công trình này sử dụng
bốn loại quả đào - lê - lựu - măng cụt [PL4, B.8, tr.203, 204].
- Nguyên tắc sắp xếp kiểu thức của đề tài tứ thời: kết quả khảo sát trên
các công trình KTCĐ thời Khải Định cho thấy, trước mắt có thể nhận định,
người xưa sắp bộ tứ thời không theo một quy luật cố định, chủ yếu chỉ cần hội
tụ đủ bốn mùa. Theo kinh nghiệm của các nghệ nhân, bộ tứ thời được bố trí
phụ thuộc vào màu sắc nền của ô hộc cụ thể như sau: mùa xuân - xanh lam,
mùa hạ - hồng, mùa thu -vàng, mùa đông - trắng xám.
- Nguyên tắc sắp xếp kiểu thức của đề tài đồ vật: tương tự như đề tài tứ
thời, không có thứ tự trong sắp xếp các đồ vật của bộ bát bửu trong trang trí ô
hộc. Trên một dải ô hộc, như trường hợp của nội thất Thiên Định Cung, xuất
hiện cùng lúc các kiểu thức của cả ba bộ bát bửu Nho, Lão, Phật, đi kèm với đó
là sự xuất hiện của một số kiểu thức phương Tây. Như đã phân tích ở mục 2.1,
một số kiểu thức có tỷ lệ xuất hiện nhiều như cái quạt, sách - bút, đàn, cuốn thư
so với các kiểu thức khác [PL4, B.12, tr.210].
+ Đối với đề tài quả: những kết quả khảo sát các đồ án trang trí ô hộc
quả tại điện Thái Hòa, lầu Ngũ Phụng hay cửa Chương Đức cho thấy, không
có thứ tự trong sắp xếp đối với các kiểu thức trong đề tài này. Kiểu thức sử
dụng chủ yếu là các loại quả có tần suất xuất hiện cao như đã thống kê ở mục
2.1 là đào, lựu, phật thủ, lê. Tiếp theo là mãng cầu, măng cụt, nho.
75
+ Đối với đề tài thơ văn: Tại nội thất Thiên Định Cung, các câu thơ không
được bố trí trong ô hộc riêng mà được đặt bên trong các ô hộc tứ thời. Cùng
với đó là hệ thống các câu đối. Tại sảnh đón của Thái Bình Lâu, các đồ án thơ
văn bao là các câu đối đặt trong các ô hộc đứng của cột sảnh và bài Ngự chế
của vua Khải Định ở mái sảnh. Theo tác giả Phan Thuận An, đây là một trong
ba bài Ngự chế của vua Khải Định được sử dụng trong TTKT. Hai bài còn lại
được đặt ở Khải Tường Lâu, cung An Định [6]. Đồ án thơ văn sử dụng cho
cổng chính cung An Định là cặp đôi câu đối nằm trên trụ giả phía trước và sau
công trình. Các công trình Thái Bình Lâu, cửa Chương Đức, Hiển Nhơn,
Trường An, cổng chính cung An Định còn có các ô hộc đại tự để tên công trình.
2.2.2.3. Sắp xếp đề tài, kiểu thức của đồ án trang trí bề mặt kiến trúc
Từ các kết quả phân tích về vị trí các đồ án trang trí bề mặt kiến trúc,
nguyên tắc sắp xếp kiểu thức của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định được xác định như sau:
- Đồ án tường đầu hồi sử dụng đề tài linh thú với kiểu thức hổ phù hoặc
dơi (đối xứng cả đề tài và kiểu thức). Riêng trường hợp hậu doanh của Thái
Bình Lâu, tường đầu hồi sử dụng đề tài nhân vật với các điển tích Hải Ốc Thiêm
Trù, Phúc – Lộc – Thọ đối xứng qua trục trung tâm công trình (đối xứng đề tài,
không đối xứng kiểu thức).
- Đồ án đỉnh vòm cửa sử dụng các đề tài linh thú và đồ vật. Linh thú phổ
biến sử dụng ở đỉnh vòm cửa là hổ phù. Các đồ vật được sử dụng ở đỉnh vòm
cửa lại là các đồ vật kiểu phương Tây như cái bình hoa (điện Kiến Trung,
Trường An Môn) hay cái đèn điện (điện Kiến Trung). Riêng trường hợp khu
vực mộ vua Khải Định tại nội thất Thiên Định Cung sử dụng kiểu thức mặt trời
ở đỉnh vòm, dưới đỉnh vòm dùng kiểu thức chữ Thọ dạng Triện thư.
- Các đồ án trang trí đố phân vị ô hộc sử dụng các đề tài hoa văn kết hợp
với các đồ vật của bộ bát bửu hoặc các loại hoa với kiểu thức “triền chi”.
76
- Các đồ án đối xứng hai bên đồ án đỉnh vòm thường sử dụng đề tài linh
thú với các kiểu thức rồng ổ (điện Kiến Trung, nội thất Cửu Tư Đài), dây lá hóa
rồng và dơi (cửa Chương Đức, cửa Hiển Nhơn). Đối với khu vực mộ vua Khải
Định tại nội thất Thiên Định Cung, sử dụng đôi rồng chầu hợp với đồ án mặt
trời đỉnh vòm tạo thành tổ hợp lưỡng long triều nhật.
- Các đồ án giữa các vòm cửa thường sử dụng kiểu thức cuốn thư và bên
trong cuốn thư này sẽ được tiếp tục phân vị ô hộc để trang trí.
Có thể thấy rằng, việc sắp xếp các đề tài, kiểu thức trong nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định vừa có tính đối xứng vừa phụ thuộc vào tầm quan trọng
của đề tài, kiểu thức mà người xưa muốn thể hiện trên kiến trúc. Các kiểu thức
của đề tài vũ trụ - thiên nhiên luôn có mặt ở vị trí trung tâm của kiến trúc. Kế
đến là kiểu thức rồng của đề tài tứ linh -linh thú. Các kiểu thức linh thú, tứ thời,
đồ vật khác đóng vai trò phụ trợ. Đây là nguyên tắc xuyên suốt thể hiện trên
nghệ thuật TTKSS của tất cả công trình KTCĐ thời Khải Định.
2.2.3. Hướng của các đồ án trang trí
2.2.3.1. Hướng của đồ án trang trí con giống
Trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, các đồ án linh
thú được thể hiện rất chi tiết về tạo hình, đặc biệt là mắt và hướng chuyển động,
tạo nên hướng cho các đồ án. Chính vì vậy, nguyên tắc sắp xếp hướng của các
đồ án trang trí cũng cần được quan tâm, làm rõ khi nghiên cứu về nghệ thuật
TTKSS ở giai đoạn này. Qua khảo sát, phân tích hướng của các đồ án trang trí
con giống trên KTCĐ thời Khải Định, NCS nhận thấy chúng được sắp xếp dựa
trên một số nguyên tắc sau:
- Đồ án con giống trung tâm: các kiểu thức mặt trời, mặt trăng luôn có
hướng nhìn chính diện hoặc đa hướng như bình thiên mệnh, viên ngọc. Một số
kiểu thức của đề tài linh thú như hổ phù ở điện Thái Hòa hay con rồng bờ nóc
Thái Bình Lâu cũng được tạo hình có hướng đối diện với người quan sát.
77
- Các đồ án con giống ở những vị trí khác:
Đối với những đồ án ở vị trí bờ nóc, mái sảnh, tường chắn mái luôn có
hướng nhìn về phía đồ án con giống trung tâm với hai trường hợp. Trường hợp
thứ nhất là các con giống ở hai đầu bờ mái. Con thú sẽ có hướng nhìn quay đầu
theo chiều ngược lại chiều chuyển động của thân như các kiểu thức hồi long,
hồi phụng. Trường hợp thứ hai là các con giống ở gần hai bên con giống trung
tâm. Hướng nhìn của chúng sẽ cùng chiều chuyển động với thân như các kiểu
thức rồng chầu, phụng chầu. Đồng thời, hai đồ án này sẽ kết hợp với đồ án con
giống trung tâm bờ nóc hình thành tổ hợp kiểu thức lưỡng long triều nhật, lưỡng
long tranh châu hay song phụng triều dương…
Các đồ án ở vị trí bờ quyết và bờ chảy của khu vực mái, nhìn chung,
cũng sử dụng các kiểu thức có hướng nhìn về trung tâm tương tự như các kiểu
thức hồi long, hồi phụng. Tuy nhiên, ở một số công trình KTCĐ được vua Khải
Định cho xây dựng mới như điện Kiến Trung, lầu Tứ Phương Vô Sự, đình
Trung Lập (cung An Định), các đồ án con giống bờ quyết, bờ chảy lại sử dụng
kiểu thức rồng có hướng nhìn ra ngoài (rồng xô).
Nhìn chung, về tổng thể, các đồ án trang trí con giống trong nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định được sắp xếp theo nguyên tắc hướng tâm, đặc biệt tại
vị trí bờ nóc. Mặc dù tại một số công trình, con giống bờ chảy hoặc bờ quyết
có hướng nhìn ra ngoài, nhưng đây là các vị trí phụ của kiến trúc nên không
ảnh hưởng nhiều đến tính hướng tâm của toàn bộ hệ thống trang trí.
2.2.3.2. Hướng của đồ án trang trí ô hộc và trang trí trên bề mặt kiến trúc
Trong trang trí ô hộc, tương tự các đồ án trang trí con giống, các đồ án
trang trí ô hộc trung tâm cũng có hướng chính diện. Ở hai bên, các ô hộc đề tài
quả và cát tường tự văn, các kiểu thức quả thông thường cũng có hướng chính
diện. Đối với các ô hộc đề tài đồ vật, tứ thời hoặc quả kết hợp với rồng “hóa”, hướng
của đồ vật, cây và con rồng “hóa” sẽ nghiêng về phía đồ án ô hộc trung tâm.
78
Tương tự, đối với trang trí bề mặt kiến trúc, các đồ án ở tường đầu hồi,
đỉnh vòm cửa cũng đều có hướng chính diện. Trong khi đó, các đồ án đối xứng
hai bên những đồ án này cũng đều có hướng quay về đồ án trung tâm.
Đánh giá chung
Qua các kết quả phân tích về các mặt bố trí vị trí, sắp xếp đề tài, kiểu
thức, hướng đồ án trên kiến trúc, NCS nhận thấy, bố cục tổng thể của nghệ
thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định có một số đặc điểm sau:
- Tính hướng tâm và điểm nhấn trong bố cục trang trí
Nghệ thuật TTKSS thời Khải Định thể hiện tính hướng tâm trong bố cục
trang trí trên kiến trúc. Theo Nguyễn Hồng Hưng, “với mọi giao diện, thị giác
luôn có hành vi tức khắc nhìn vùng tâm trước khi nhìn những vùng khác trên
giao diện đó” [54, tr.268]. Như vậy, đối với bờ nóc mái hay bất cứ một bộ phận
kiến trúc nào của công trình, vị trí đầu tiên mà người quan sát nhìn vào (vô
thức) khi tiếp cận hệ thống TTKT của công trình chính là các đồ án trang trí
trung tâm. Từ vị trí này, như đã phân tích, các đồ án còn lại nằm ở hai bên sẽ
được bố trí hướng về, từ đó, hình thành lực hút thị giác về phía nó trên kiến
trúc. Đó chính là điểm chính tâm của một bố cục mà theo tác giả Nguyễn Hồng
Hưng, “điểm chính tâm của mọi hình phẳng luôn có lực hút thị giác mạnh nhất”
[55, tr.26]. Đồng thời, nó cũng tạo nên điểm nhấn của công trình về mặt TTKT
như là “một trong những cách góp phần hài hòa bố cục và tạo ra kích thích thị
giác với mục đích thẩm mỹ” [54, tr.276].
- Tính đối xứng và sự cân bằng thị giác
Theo tác giả Nguyễn Hồng Hưng, “đối xứng là trạng thái cân bằng qua
một hệ trục. Thị giác vốn quen thuộc và dễ cảm thụ những hình thể đối xứng
tương tự như cấu trúc đối xứng của cơ thể người” [54, tr.133]. Tác giả Phan
Thanh Bình cũng đã nhận định “Sự cân xứng dễ tạo ra cảm giác ổn định, bền
vững trong các công trình cung điện, lăng tẩm, đền miếu và vì vậy, khảm sành
79
sứ phải tuân thủ tính biểu hiện chung đó” [16, tr.143]. Trong các đồ án TTKSS
trên kiến trúc thời Khải Định, bố cục đối xứng của tổng thể hệ thống trang trí
được vận dụng dựa trên ba nguyên tắc: đối xứng về vị trí, đối xứng về hướng
và đối xứng về đề tài và kiểu thức.
Nguyên tắc đối xứng về vị trí có nghĩa là, nếu đồ án trang trí phía bên
phải trục trung tâm công trình được bố trí ở vị trí nào thì bên trái sẽ được bố trí
đồ án trang trí ở vị trí tương ứng.
Nguyên tắc đối xứng về đề tài và kiểu thức có nghĩa là, các đồ án trang
trí đối xứng về vị trí sẽ có cùng đề tài và cùng kiểu thức trong bộ đề tài đó.
Trong đó, đối với trang trí con giống và trang trí bề mặt kiến trúc, các đồ án
TTKSS sẽ tiếp tục được tạo hình kiểu thức giống nhau, tức là những đồ án này
sẽ đối xứng tuyệt đối từ vị trí, hướng, đề tài, kiểu thức cho đến hình thức biểu
đạt. Đối với trang trí ô hộc, trong một số trường hợp công trình có số lượng ô hộc
ít sẽ không đối xứng về kiểu thức mà sẽ sử dụng những kiểu thức khác nhau trong
cùng một bộ đề tài như trường hợp của cổng Chương Đức, Hiển Nhơn…
Ở nguyên tắc đối xứng về hướng, hai đồ án đối xứng về vị trí cũng sẽ đối
xứng về hướng có nghĩa là chiều của đồ án ngược nhau thông qua trục trung
tâm. Nguyên tắc đối xứng về hướng này cũng tương tự như bố cục hướng tâm
của TTKT khi mà thông thường, các đồ án thường có hướng nhìn về trung tâm
công trình. Tuy nhiên, khác với nguyên tắc hướng tâm, trong nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định nhiều cặp đồ án đối xứng có hướng nhìn ra ngoài hoặc hướng
chính diện.
Ba nguyên tắc đối xứng nói trên của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định
là thống nhất đối với tất cả các công trình KTCĐ ở giai đoạn này, từ các loại
kiểu thức kiến trúc gỗ (trùng thiềm điệp ốc, phương đình) cho đến các kiểu kiến
trúc phương Tây, các cửa cổng. Chúng mang đến sự cân bằng thị giác cho tổng
thể hệ thống TTKT trên các công trình KTCĐ thời Khải Định mà theo Nguyễn
80
Hồng Hưng “thói quen thị giác cứ thấy cấu trúc đăng đối ở bất kỳ dạng nào
cũng cho tâm lý thị giác có cảm thụ cân bằng qua trục đối xứng” [54, tr.450].
- Sự sắp xếp kiểu thức trên kiến trúc dựa vào tầm quan trọng của biểu
tượng trang trí
Sự sắp xếp theo tầm quan trọng của biểu tượng là một trong những yếu
tố làm nên mối quan hệ chính - phụ về mặt tổng thể của hệ thống các đồ án
trang trí. Yếu tố này đã được Lê Huy Văn và Trần Từ Thành đưa vào trong sơ
đồ khung của khái niệm về hình thức cảm thụ thị giác [112, tr.41]. Đối với hệ
thống các đồ án TTKSS thời Khải Định, sự sắp xếp chính phụ dựa trên tầm
quan trọng của các đồ án trang trí được thể hiện rất rõ rệt. Trong trang trí con
giống, vị trí quan trọng nhất của hệ thống này là đỉnh bờ nóc mái, vị trí cao nhất
của trục nằm trên trục trung tâm của công trình. Đây chính là vị trí đặt đồ án
mang tính biểu tượng có ý nghĩa cao nhất trên kiến trúc với đề tài được sử dụng
là vũ trụ - thiên nhiên. Các đồ án thuộc đề tài tứ linh - linh thú nằm đối xứng
với đồ án này nhằm mục đích tôn vinh cũng như hỗ trợ nó hình thành nên điểm
nhấn trên kiến trúc. Trong trang trí ô hộc hay bề mặt kiến trúc, nguyên tắc sắp
xếp các đồ án trang trí dựa trên tính chất của biểu tượng cũng được tuân thủ với
đồ án trung tâm là những kiểu thức mang tính đại diện cho vương quyền và là
những đồ án quan trọng nhất của bố cục tổng thể.
2.3. Tổ chức không gian tổng thể của hệ thống trang trí
Khác với không gian kiến trúc có chức năng sử dụng, không gian của các
đồ án trang trí mang chức năng thẩm mỹ cho mỗi công trình. Liên quan đến
không gian trang trí của KTCĐ triều Nguyễn, theo tác giả Trần Thanh Nam,
“Bố cục điêu khắc trang trí trên kiến trúc Hoàng thành Huế chịu sự chi phối
của kiến trúc, đó là sự phân bổ về không gian kiến trúc mà chúng hiện hữu”
[66, tr.43]. Từ luận điểm này, kết hợp với các kết quả khảo sát, điền dã, NCS
nhận thấy, trong TTKT cung đình triều Nguyễn, các đồ án trang trí nằm trên
81
một khối hình học ba chiều của không gian thực là các công trình kiến trúc. Do
đó, sự phân bổ về mặt không gian của các đồ án phụ thuộc vào cấu trúc hình
khối, đặc điểm kiến trúc của mỗi công trình. Cùng với đó, bản thân mỗi đồ án
trang trí lại là một đối tượng mỹ thuật riêng lẻ. Chính vì vậy, việc tổ chức không
gian tổng thể cho hệ thống TTKT là rất quan trọng, vì nó đảm bảo kết nối các
đồ án đơn lẻ thành một thể thống nhất, đồng thời phát huy được tối đa giá trị
thẩm mỹ của mỗi đồ án cấu thành hệ thống trang trí.
Trong KTCĐ thời Khải Định, hình thức TTKSS được sử dụng cho cả
không gian ngoại thất và không gian nội thất. Qua thống kê, đa phần các công
trình sử dụng hình thức trang trí này cho ngoại diện kiến trúc, chỉ có hai trường
hợp là Thiên Định Cung và Cửu Tư Đài là có sự xuất hiện của hình thức TTKSS
bên trong công trình [PL4, B.4, tr.196]. Việc nghiên cứu tìm hiểu không gian
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định cho biết cách thức mà người xưa kết hợp
giữa trang trí mỹ thuật và kiến trúc để từ đó, góp phần nhận diện đặc trưng và
giá trị của hình thức TTKT này trong mối quan hệ của nó với KTCĐ triều
Nguyễn.
2.3.1. Tổ chức không gian trang trí ngoại thất
Quan sát sự kết hợp của các đồ án trang trí trên cả ba chiều không gian
của công trình kiến trúc, NCS nhận thấy, không gian trang trí ngoại thất của
nghệ thuật TTKSS thời Khải Định đều có điểm chung là được hình thành bởi
các lớp trang trí, bất kể chúng được kết hợp với hình thức kiến trúc nào. Để làm
rõ nhận định này, NCS sẽ tiến hành phân tích không gian hệ thống TTKSS của
03 công trình: điện Thái Hòa (kiến trúc gỗ trùng thiềm điệp ốc), Thái Bình Lâu
(kiến trúc gỗ có bổ sung một bộ phận kiến trúc phương Tây), điện Kiến Trung
(kiến trúc phương Tây).
Không gian trang trí ngoại thất điện Thái Hòa [PL6, H.2.39, tr.247]
82
Ở điện Thái Hòa, nếu nhìn từ chính diện, có thể xác định không gian của
hệ thống TTKSS được hình thành bởi 04 lớp trang trí, gồm có 03 lớp của khu
vực mái tiền điện và 01 lớp của khu vực mái chính điện:
- Lớp đầu tiên là các đồ án trang trí con giống bờ quyết của mái hạ tiền
điện. Lớp này chỉ bao gồm 02 đồ án hồi long khảm sành sứ ở hai góc của công
trình, khoảng giữa là không gian rỗng nhìn về trung tâm.
- Lớp thứ hai là các đồ án trang trí con giống bờ quyết của mái thượng
kết hợp với các đồ án trang trí ô hộc tường cổ diềm của tiền điện. Lớp này là
một mảng trang trí trải dài gồm 02 đồ án hồi long khảm sành sứ phía trên thuộc
bờ quyết và dải ô hộc pháp lam phía dưới thuộc tường cổ diềm.
- Lớp thứ ba là các đồ án trang trí con giống kết hợp với các đồ án trang
trí ô hộc trên bờ nóc mái thượng tiền điện. Tương tự lớp thứ hai, lớp này cũng
là một mảng trang trí trải dài gồm các đồ án trang trí con giống khảm sành sứ
phía trên và dải ô hộc phía dưới nằm trên bề mặt bờ nóc.
- Ba lớp trang trí tiền điện được kết nối bởi các dải trang trí ô hộc khảm
sành sứ bờ quyết mái hạ, ô hộc bờ quyết và bờ chảy mái thượng.
- Do cấu trúc của kiến trúc trùng thiềm điệp ốc, khối nhà chính điện có
chiều cao lớn hơn khối nhà tiền điện và từ đó, hình thành lớp trang trí thứ tư.
Tương tự như bờ nóc mái thượng tiền điện, lớp trang trí này là các đồ án trang
trí con giống bờ nóc và ô hộc của mái thượng chính điện. Lớp này cũng có cấu
trúc trang trí tương tự như lớp thứ ba.
Không gian trang trí ngoại thất Thái Bình Lâu [PL6, H.2.40, tr.248]
Thái Bình Lâu cũng là một kiến trúc gỗ trùng thiềm điệp ốc tương tự như
điện Thái Hòa. Tuy nhiên, khối nhà chính doanh của công trình được bổ sung
thêm một tiền sảnh BTCT và nó được trang trí bằng TTKSS. Nếu nhìn từ hướng
tiền sảnh (mặt trước công trình), không gian của hệ thống TTKSS của Thái
83
Bình Lâu cũng được hình thành bởi 04 lớp trang trí, gồm có 01 lớp của khu vực
tiền sảnh và 03 lớp của khu vực mái chính doanh:
- Lớp thứ nhất là các đồ án trang trí con giống đỉnh mái sảnh kết hợp với
trang trí ô hộc trụ và bề mặt mái sảnh.
- Ba lớp trang trí của khu vực mái chính doanh cũng có cấu trúc tương
tự như các lớp trang trí của khu vực mái tiền điện điện Thái Hòa với các tuyến
kết nối là các dải trang trí ô hộc của hệ thống bờ quyết, bờ chảy.
Không gian trang trí ngoại thất điện Kiến Trung [PL6, H.2.41, tr.249]
Điện Kiến Trung là một công trình kiến trúc BTCT kiểu phương Tây.
Công trình được hình thành bởi sự kết hợp của các khối kiến trúc đăng đối. Tuy
nhiên, phần mái của công trình lại được thiết kế tương tự như mái của một công
trình KTCĐ truyền thống. Nếu nhìn từ hướng chính diện, không gian của hệ
thống TTKSS của điện Kiến Trung cũng bao gồm 04 lớp trang trí là 01 lớp của
khu vực các tiền sảnh, 03 lớp của mặt đứng chính diện và khu vực mái:
- Lớp thứ nhất, tương tự như Thái Bình Lâu, là các đồ án trang trí con
giống đỉnh mái sảnh kết hợp với trang trí ô hộc trụ và bề mặt các tiền sảnh.
- Lớp thứ hai là hệ thống các đồ án trang trí con giống, ô hộc của mặt
đứng chính diện gồm các khối kiến trúc chính và các khối chóp hai bên..
- Lớp thứ ba là hệ thống các đồ án trang trí ô hộc của tường chắn mái, bề
mặt tường của khối kiến trúc lõm vào bên trong kết hợp với các đồ án trang trí
con giống bờ quyết mái. Theo nhận định của NCS, các đồ án trang trí ô hộc
tường chắn mái này có chức năng thẩm mỹ tương đương với các đồ án trang trí
ô hộc tường cổ diềm của điện Thái Hòa.
- Lớp thứ tư là các đồ án trang trí con giống bờ nóc mái kết hợp với các
đồ án trang trí ô hộc trên bề mặt của bờ nóc.
84
Đánh giá chung
Như vậy, không gian trang trí ngoại thất của hệ thống TTKSS điện Thái
Hòa, Thái Bình Lâu và điện Kiến Trung, những công trình có kiểu thức kiến
trúc khác nhau, ngoài việc được hình thành bởi các lớp trang trí, chúng còn có
một số đặc điểm chung khác như sau:
- Tính ước lệ về mặt không gian: các lớp trang trí, bên cạnh phần nền
chính là kiến trúc, chúng còn có các phần nền phụ là không gian cảnh quan bao
trùm lên công trình. Đồng thời, các lớp trang trí phía sau lại chính là nền cho
các lớp trang trí phía trước.
- Tính nhịp điệu: yếu tố hình (các đồ án trang trí) trong các lớp trang trí
có cấu trúc tương đồng được thiết lập từ thấp đến cao và “được biểu hiện lặp
lại với tỉ lệ và số lượng đủ để thị giác có thể liên tưởng, nối kết thành hệ thống
đặc trưng của tín hiệu” [54, tr.584] để qua đó, tạo nên tính nhịp điệu cho không
gian trang trí.
- Với nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, từ điện Thái Hòa đến điện Kiến
Trung, hay nói cách khác là từ kiến trúc gỗ truyền thống đến kiến trúc phương
Tây, không gian trang trí đã lan từ khu vực mái xuống đến phần thân của kiến trúc.
2.3.2. Tổ chức không gian trang trí nội thất
Trong trang trí nội thất bốn công trình BTCT mà vua Khải Định cho xây
dựng tại QTDT Cố đô Huế, hai công trình sử dụng chất liệu nề họa và phong
cách trang trí kiểu châu Âu là Khải Tường Lâu và điện Kiến Trung. Hai công
trình còn lại, Thiên Định Cung và Cửu Tư Đài, là nơi mà mỹ thuật truyền thống
phương Đông được thể hiện thông qua các đồ án TTKSS. Nếu so sánh không
gian trang trí nội thất của Khải Tường Lâu với Thiên Định Cung, có thể thấy
đó là hai không gian hoàn toàn khác biệt về phong cách mỹ thuật dẫu cho chúng
cùng kiểu thức kiến trúc hiện đại và cùng chung một chủ thể sáng tạo. Do đó,
NCS sẽ tiến hành phân tích từng trường hợp của Thiên Định Cung và Cửu Tư
85
Đài để đi tìm điểm chung cho không gian trang trí nội thất của TTKSS thời
Khải Định.
Không gian trang trí nội thất Thiên Định Cung [PL6, H.2.43, tr.250]
Tại nội thất Thiên Định Cung, có 03 không gian sử dụng hình thức
TTKSS là điện Khải Thành (nơi để án thờ), khu vực bửu tán và mộ phần, khu
vực khám thờ bài vị. Ở đây, NCS sẽ phân tích không gian trang trí của điện
Khải Thành, một trong những không gian được đánh giá là “đậm chất Khải
Định” nhất trong TTKT cung đình triều Nguyễn.
Điện Khải Thành là một khối rỗng hình hộp có kích thước vượt nhịp lớn
mà các công trình kiến trúc gỗ không có được. Phần trần của công trình sử dụng
hình thức trang trí nề họa với bức tranh nổi tiếng “Cửu long ẩn vân” của nghệ
nhân Phan Văn Tánh. Bề mặt các mảng tường ở phần thân được phân chia thành
một hệ thống các ô hộc. Trong đó bao gồm các hàng ô hộc đứng có kích thước
lớn ở phía dưới và dải ô hộc ngang ở sát trần. Về trang trí mỹ thuật, các đồ án
TTKSS được bố trí phủ kín bốn mặt tường của không gian nội thất công trình.
Chúng nằm trong hệ thống ô hộc và có mặt cả ở các đố phân vị của hệ thống
này. Qua đó cho thấy, hệ thống TTKSS nội thất điện Khải Thành sử dụng toàn
bộ không gian kiến trúc để hình thành không gian của trang trí mỹ thuật.
Về công năng, điện Khải Thành là nơi đặt án thờ và chân dung vua Khải
Định, có chức năng tương đương như một không gian tẩm điện tại các lăng vua đời
trước như điện Sùng Ân - lăng Minh Mạng hay điện Biểu Đức - lăng Thiệu Trị. Do
đó, NCS tiến hành đối chiếu không gian kiến trúc nội thất của điện Khải Thành và
không gian kiến trúc nội thất của điện Sùng Ân và nhận thấy hai không gian này có
sự tương đồng. Tại điện Sùng Ân, không gian chính điện (nơi thờ cúng và đặt bài
vị) được hình thành bởi hệ thống liên ba, đố bản, ván vách gỗ và được tổ chức thành
các ô hộc đứng và ô hộc ngang như tại điện Khải Thành. Về TTKT, không giống
điện Khải Thành, điện Sùng Ân chỉ có trang trí ở các dải ô hộc liên ba trên cao và
86
hệ thống cột. Ở phần thân, chỉ có khu vực cửa ra vào là có trang trí, còn các mảng
ô hộc đứng có diện tích lớn đều không có họa tiết trang trí với hình thức TTKT
được sử dụng là chạm khắc gỗ và sơn son thếp vàng [PL6, H.2.42, tr.250].
Không gian trang trí nội thất Cửu Tư Đài [PL6, H.2.45, tr.251]
Nhà hát Cửu Tư Đài cũng là một công trình kiến trúc kiểu phương Tây.
Mặc dù đã sụp đổ nhưng thông tin từ các bức ảnh tư liệu cho phép xác định nội
thất công trình sử dụng hình thức TTKSS. Xét về mặt công năng, đây là công
trình có chức năng hoạt động biểu diễn và giải trí. Cấu trúc bốn mặt của không
gian kiến trúc nội thất Cửu Tư Đài được hình thành bởi các hàng cột lớn được
thiết kế thành những cửa vòm cuốn. Về trang trí, hình thức TTKSS cũng được
sử dụng ở cả bốn mặt và trên tất cả các bộ phận kiến trúc của không gian nội
thất. Trong đó, hệ thống cột được phân chia ô hộc và bố trí đồ án trang trí phía
trong. Các vòm cuốn sử dụng các đồ án trang trí trên bề mặt kiến trúc. Như vậy,
tương tự điện Khải Thành, Cửu Tư Đài cũng sử dụng không gian kiến trúc để
hình thành không gian trang trí cho nội thất công trình.
Trong khu vực Hoàng thành Huế, hiện còn lại một công trình có công
năng tương tự là nhà hát Duyệt Thị Đường, một công trình có kiểu thức kiến
trúc gỗ truyền thống [PL6, H.2.44, tr.251]. Về không gian kiến trúc, nội thất
Duyệt Thị Đường cũng được hình thành bởi hệ thống các hàng cột và các dải ô
hộc phía trên cột. Cấu trúc này là tương đồng với Cửu Tư Đài về không gian.
Về trang trí, Duyệt Thị Đường chỉ có trang trí ở hệ thống cột với hình thức
trang trí sơn son thếp vàng.
Đánh giá chung
Các phân tích trên cho thấy, không gian kiến trúc nội thất điện Khải
Thành và Cửu Tư Đài, những không gian của kiến trúc phương Tây kết cấu
BTCT, được tổ chức tương tự như một không gian của một kiến trúc gỗ truyền
thống có công năng tương đồng. Trong đó, hệ thống TTKSS sử dụng trực tiếp
87
các khung hình (hệ thống ô hộc, mảng tường phẳng) từ kết quả phân chia mặt
đứng để bố trí các đồ án trang trí, từ đó hình thành không gian trang trí cho nội
thất công trình. Như vậy, không gian trang trí ở nội thất điện Khải Thành -
Thiên Định Cung và Cửu Tư Đài sử dụng toàn bộ không gian kiến trúc (mô
phỏng theo không gian kiến trúc tương đồng ở các thời kỳ trước) với các đồ án
TTKSS được sắp xếp theo các nguyên tắc bố cục tổng thể trên bốn mặt của nội
thất công trình. Xét về mặt công năng, không gian nội thất của Thiên Định
Cung và Cửu Tư Đài được sử dụng cho những mục đích khác nhau. Đối với
Thiên Định Cung, đó là không gian tưởng niệm, còn đối với Cửu Tư Đài, đó là
không gian công cộng (phục vụ giải trí). Sự tham gia của nghệ thuật TTKSS
mang đến sự trang nghiêm và sang trọng cho những không gian này. Trong đó,
sự trang nghiêm được thể hiện thông qua sự chặt chẽ, thứ tự trong bố cục, sắp
xếp các đồ án trang trí. Cùng với đó, sự sang trọng được thể hiện thông qua ý
nghĩa mà các đề tài trang trí thể hiện (biểu tượng vương quyền, sự cao nhã của
thông qua các biểu tượng Nho - Lão - Phật, mong muốn hạnh phúc, trường tồn).
Ngoài ra, sự sang trọng còn được thể hiện mang tới từ những yếu tố tạo hình
như hình khối, đường nét và màu sắc. Những điều này làm nên giá trị nghệ
thuật cho không gian trang trí nội thất của các công trình KTCĐ thời Khải Định
sử dụng hình thức TTKSS.
2.4. Hình thức biểu đạt của đồ án trang trí
Thực tiễn tiếp cận một đồ án TTKSS trong nghiên cứu bảo tồn di sản Huế
cho thấy, các dữ liệu liên quan đến mỗi đồ án trang trí cần thu thập bao gồm:
- Các yếu tố tạo hình gồm có: (1) tạo hình hình khối để xác định sự chiếm
lĩnh trong ba chiều không gian của đồ án; (2) tạo hình đường nét nhằm xác định
chi tiết của các đồ án trên mặt phẳng hai chiều.
- Các loại chất liệu, màu sắc: nhằm xác định các chất liệu, màu sắc được
sử dụng và sự kết hợp của chúng trên đồ án trang trí.
88
- Các thủ pháp thể hiện: nhằm xác định cách mà đồ án được gia công,
chế tạo hoàn thiện.
Ở chiều ngược lại, đây cũng là các yêu cầu cần có trong quá trình gia
công, chế tác một đồ án TTKSS. Trong đó, phần tạo hình đường nét, lựa chọn
và màu sắc sẽ được người họa sĩ thực hiện trên bản vẽ thiết kế trang trí. Sau đó,
họ sẽ cùng với các nghệ nhân nề ngõa hiện thực hóa bản vẽ thành thực tế thông
qua các thủ pháp thể hiện [PL6, H.2.46 - 48, tr.252 - 254].
2.4.1. Tạo hình trang trí
2.4.1.1. Tạo hình hình khối của đồ án trang trí
Trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, tùy thuộc vào
loại hình, kiểu thức và vị trí kiến trúc mà các đồ án trang trí được tạo hình ở ba
hình thức tượng tròn, phù điêu và khảm phẳng.
* Tạo hình tượng tròn [PL6, H.2.49, tr.255]
Ở tạo hình tượng tròn, vật thể sẽ chiếm lĩnh cả ba chiều không gian và
do đó, nó phù hợp cho những đồ án trang trí đứng độc lập trên kiến trúc. Vì
vậy, tượng tròn thường được sử dụng cho các đồ án thuộc loại hình trang trí
con giống với các kiểu thức thuộc bộ đề tài tứ linh và linh thú.
Về vị trí, tượng tròn luôn xuất hiện ở các đồ án hai bên đồ án trang trí
con giống trung tâm bờ nóc mái, tường chắn mái, mái sảnh và đồ án trang trí
con giống của các bờ quyết mái. Các đồ án đề tài tứ linh ở điện Thái Hòa, Thái
Bình Lâu hay điện Kiến Trung là những ví dụ tiêu biểu cho tạo hình tượng tròn
trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
Về cấu trúc, trong TTKSS, cách mảnh ghép không thể tham gia vào việc
tạo thành hình khối của đồ án trang trí mà đó là công việc của nền ngõa. Hình
khối cơ bản của đồ án trang trí phải được chế tác trước bằng các vật liệu nề vữa,
sau đó mới phủ lên hình khối này lớp hoàn thiện khảm sành sứ. Bên cạnh đó,
các mảnh ghép còn được cắt tỉa để tham gia vào hoàn thiện chi tiết của tác
89
phẩm. Ví dụ ở đồ án trang trí con rồng chầu bờ mái [PL6, H.2.64, tr.267], các
chi tiết phần đầu như mắt, bờm, râu, miệng đều có sự tham gia hoàn thiện của
khảm sành sứ. Đặc biệt, kỹ thuật “điểm mắt” đòi hỏi tay nghề thợ rất cao vì đây
chính là linh hồn của tác phẩm. Tương tự, phần thân của đồ án được hình thành
bởi các lớp vảy xếp chồng so le nhau trên nền trơn của khối tạo hình nề vữa.
Đây chính là sự khác biệt của hình thức TTKSS với các hình thức TTKT có
màu sắc khác trong KTCĐ triều Nguyễn như nề họa hay chạm khắc gỗ kết hợp
với sơn thếp. Ở những hình thức TTKT này, phần hình khối đã được chế tác
chi tiết, lớp phủ màu sắc chỉ đóng vai trò tạo màu mà không tham gia vào tạo
hình như khảm sành sứ.
* Tạo hình phù điêu [PL6, H.2.50, 2.51, tr.255, 256]
Đối với tạo hình phù điêu tạo nên những đồ án trang trí có chiều dày, có
độ nổi nhưng chủ yếu chỉ là các khối hình học hai chiều. Các đồ án sử dụng tạo
hình này phù hợp với cả hai vị các vị trí đứng độc lập trên kiến trúc (do chúng
có chiều dày và độ nổi) hoặc gắn lên bề mặt nền của công trình (do chúng là
những hình khối hai chiều). Vì vậy, phù điêu được sử dụng phổ biến trong nghệ
thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, nó có mặt trên cả ba loại hình trang
trí con giống, trang trí ô hộc và trang trí trên bề mặt kiến trúc.
Trong trang trí con giống, tạo hình phù điêu thường được sử dụng cho
các đồ án trang trí con giống trung tâm bờ nóc với các kiểu thức của đề tài vũ
trụ - thiên nhiên. Những kiểu thức phụ trợ cho đồ án như hổ phù, mây ngũ sắc
cũng được tạo hình dạng phù điêu để đồ án có hướng nhìn chính diện. Trong
hai đồ án trang trí bờ nóc chính điện của điện Thái Hòa, đồ án trang trí con
giống bờ nóc tiền điện là tổ hợp của hai phù điêu bình thiên mệnh và hổ phù.
Đồ án trang trí bờ nóc con giống chính điện là tổ hợp của hai phù điêu viên
ngọc và mây ngũ sắc. Tạo hình phù điêu cũng được sử dụng cho các kiểu thức
“hóa” của rồng được bố trí ở vị trí bờ chảy của khu vực mái. Các đồ án trang
90
trí con giống bờ chảy của điện Thái Hòa, Nghinh Lương Đình, Thái Bình Lâu
hay với Phu Văn Lâu là cả bờ chảy và bờ quyết đều sử dụng các con rồng “hóa”
tạo hình phù điêu.
Trong trang trí ô hộc, tạo hình phù điêu được sử dụng cho hầu hết các ô
hộc thể hiện các bộ đề tài linh thú, tứ thời, bát bửu và quả. Tiêu biểu nhất cho
tạo hình phù điêu của các đề tài này có thể kế đến các bộ tứ thời và bát bửu ở
nội thất Thiên Định Cung. Đồng thời, các đồ án trang trí tứ thời, quả ở hai các
cổng Chương Đức, Hiển Nhơn, Trường An cũng đều là những đồ án có tạo
hình phù điêu. Bên cạnh đó, hình thức tạo hình này cũng được sử dụng cho các
đồ án trang trí đề tài nhân vật - điển tích. Các đồ án trang trí ô hộc sử dụng hình
tượng người ở Thái Bình Lâu hay Trường An Môn đều có tạo hình dạng phù điêu.
Trong trang trí trên bề mặt kiến trúc, tạo hình phù điêu cũng được sử
dụng cho các đồ án trang trí thuộc đề tài tứ linh, linh thú hay đồ vật tại tất cả
các vị trí xuất hiện những kiểu thức trong các bộ đề tài nói trên. Những đồ án
trang trí tường đầu hồi của hầu hết các công trình KTCĐ thời Khải Định hay
trên đỉnh vòm cửa, các đồ án kết nối các ô trống cửa, cột giả… của điện Kiến
Trung, Cửu Tư Đài, cửa Chương Đức, Hiển Nhơn, Trường An đều có tạo hình
dạng phù điêu.
Trong nhiều đồ án trang trí được tạo hình phù điêu, đặc biệt là các đồ án
thể hiện đề tài tứ linh, một số bộ phận của đồ án được thể hiện gần như tạo hình
tượng tròn. Những đồ án dạng này có thể tìm thấy ở các con rồng, phượng cuốn
cột ở nội thất Thiên Định Cung, Trường An Môn hay mặt hổ phù ở Thái Bình
Lâu, cửa Chương Đức.
Về cấu trúc, tương tự như tạo hình tượng tròn, do phù điêu cũng là dạng
tạo hình có chiều dày nên cũng cần phải có phần hình khối cơ bản bằng nề vữa
và các mảnh ghép sành sứ cũng tham gia vào tạo hình chi tiết của tác phẩm. Tuy
nhiên, cũng có nhiều phù điêu có độ nổi rất lớn có thể coi gần tương đương như
91
tượng tròn như các đồ án hổ phù ở đỉnh vòm cửa hoặc tường hồi và điểm khác
biệt chủ yếu thể hiện ở việc chúng không chiếm lĩnh ba chiều của không gian.
* Tạo hình khảm phẳng [PL6, H.2.52, tr.256]
Tạo hình khảm phẳng là hình thức đơn giản nhất của nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định. Ở hình thức tạo hình này, các mảnh ghép được gắn trực tiếp
lên phía trên bề mặt nền cần trang trí và do đó, chúng phù hợp khi sử dụng để
trang trí trên các bề mặt đồng phẳng trên kiến trúc. Tạo hình khảm phẳng được
sử dụng chủ yếu cho loại hình trang trí trên bề mặt kiến trúc nhằm thể hiện các
kiểu thức thuộc đề tài hoa văn trang trí. Ngoài ra, trong loại hình trang trí ô hộc,
khảm phẳng được dùng đối với các ô hộc đề tài thơ văn, cát tường tự văn. Đó
là các câu thơ được kết hợp trong ô hộc đề tài tứ thời ở nội thất Thiên Định Cung,
câu đối tại cột sảnh Thái Bình Lâu, các chữ đại tự tên công trình, các chữ Triện
thư trong trang trí ô hộc nhất tự nhất họa tại Thiên Định Cung các cửa cổng.
Ngoài ra, người nghệ nhân còn sử dụng các mảnh ghép thủy tinh được chế tác
theo các hoa văn mặt võng, hồi văn để làm nền cho các ô hộc trang trí dạng phù
điêu như ở nội thất Thiên Định Cung hay Thái Bình Lâu.
Trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, nhiều đồ án trang
trí là sự kết hợp của cả ba hình thức tạo hình nói trên. Tiêu biểu có thể kể đến
đồ án trang trí con giống bờ nóc hậu doanh của Thái Bình Lâu [PL7, H.3.23,
tr.254]. Trong đồ án này, con rồng được tạo hình tượng tròn, các con phụng
được tạo hình phù điêu và các đồ án chữ Thọ sử dụng tạo hình khảm phẳng.
Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến chiếc Bửu tán ở nội thất Thiên Định
Cung [PL6, H.2.67, tr.268]. Trong đồ án này, các bộ phận (đồ án rồng) ở góc
phía trên nhô lên (tương ứng với phần khung mái của bửu tán gỗ hoặc vải) được
tạo hình tượng tròn, bốn mặt khung phía dưới (tương ứng với phần rủ xuống
của bửu tán gỗ hoặc vải) được tạo hình phù điêu với hình thức chạm lộng, phần
đường diềm tiếp xúc giữa mái và khung Bửu tán được tạo hình khảm phẳng.
92
2.4.1.2. Tạo hình đường nét của kiểu thức trang trí
Như đã phân tích về mặt sử dụng đề tài, toàn bộ hệ thống TTKSS trên
kiến trúc thời Khải Định chỉ tập trung vào một số đề tài chính. Tuy nhiên, về
mặt tạo hình đường nét, các kiểu thức của mỗi bộ đề tài lại được thể hiện hết
sức đa dạng. Hai bộ tứ thời mặt trước và mặt sau cửa Chương Đức là trùng
nhau cả về đề tài và kiểu thức (mẫu đơn - ngô đồng - liễu - tùng) nhưng có tạo
hình hoàn toàn khác nhau. Tương tự, trong 24 ô hộc thể hiện đề tài tứ thời ở
nội thất Thiên Định Cung, có nhiều ô hộc trùng lặp về kiểu thức, ví dụ như ô
hộc thể hiện kiểu thức sen đều được thể hiện khác nhau về tạo hình [PL6,
H.2.53, tr.257]. Sự đa dạng về tạo hình kiểu thức cũng thể hiện rõ ở các kiểu
thức đồ vật. Những kết quả thống kê các kiểu thức bát bửu sử dụng tại dải ô
hộc của nội thất Thiên Định Cung cho thấy, nhiều đồ vật được sử dụng từ hai
lần trở lên như quạt, bút, ống sáo, cuốn thư, tù và, hồ lô… và chũng cũng đều
có những tạo hình khác nhau [PL6, H.2.53, tr.257]. Ngoài ra, ở các đồ án trang
trí đề tài tứ linh, các kiểu thức linh thú tạo hình rất sinh động và đa dạng khi
chúng được mô tả đầy đủ và chi tiết các bộ phận cơ thể. Sau đây, NCS xin trình
bày tạo hình đường nét một số kiểu thức tiêu biểu của các bộ đề tài sử dụng
trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
* Tạo hình đường nét kiểu thức trang trí thuộc đề tài vũ trụ - thiên nhiên
Các kiểu thức trang trí của đề tài vũ trụ - thiên nhiên chủ yếu là các đồ
án không có hướng để phù hợp với vị trí ở trung tâm công trình. Về hình dạng
tổng thể, do là những đồ án vô hướng nên chúng thường được tạo hình đối xứng
qua trục trung tâm. Các đồ án sử dụng kiểu thức mặt trời, mặt trăng được thể
hiện dưới dạng một vòng tròn và được bao bọc xung quanh bởi các tia lửa (mặt
trời) hoặc các vân xoắn (mặt trăng). Trong khi đó, tạo hình của các đồ án mây
ngũ sắc là những vòng xoắn kết hợp, chồng xếp lên nhau. Kiểu thức bình thiên
93
mệnh được tạo hình tương tự như một bình hồ lô giống với kiểu thức hồ lô
trong bộ bát bửu [PL6, H.2.54, tr.258].
* Tạo hình đồ họa kiểu thức trang trí thuộc đề tài tứ thời
Trong đề tài tứ thời, như đã trình bày ở phần sử dụng kiểu thức trang trí,
các đồ án trang trí tứ thời là sự kết hợp của các kiểu thức cây đại diện cho mùa
và một con chim hoặc thú đi kèm. Ngoài hai kiểu thức chính trên, tạo hình của
đồ án tứ thời còn có thêm các chi tiết phụ như núi hoặc nước. Trong đó, cây,
hoa và thú được tạo hình trên cơ sở mô tả những đặc điểm chính để người quan
sát có thể nhận biết, còn chi tiết núi và nước là các kiểu thức mang tính đại diện
như tam sơn (núi) hoặc thủy ba (nước). Ở các ô hộc nằm ngang ở bờ mái của
phần lớn, vì các kiểu thức cây (kiểu thức chính của đồ án) phải được “uốn” theo
thế nằm ngang của khung hình, từ đó, tạo ra hướng cho các đồ án đề tài tứ thời.
Chúng thường được thể hiện chéo theo khung hình của ô hộc với đi từ góc dưới
của một bên khung hình (phần gốc cây) đến góc trên của phía còn lại (phần
ngọn cây). Đồng thời, ở các ô hộc hình bình hành của các bờ mái chéo như bờ
quyết hay bờ chảy, “đường chéo” cũng được thiết lập từ thấp lên cao theo chiều
của khung hình trang trí. Cách bố trí này vừa đảm bảo sự vững trãi về hình họa,
vừa đáp ứng được nguyên tắc hướng tâm của bố cục trang trí tổng thể. Khoảng
trống mà “đường chéo” của kiểu thức cây chính là nơi bố trí các chi tiết còn lại
như chim, thú, giả sơn... [PL6, H.2.57, tr.261]. Trong khi đó ở các ô hộc đứng,
do kiểu thức cây được tạo hình vươn cao lên theo chiều đứng của khung hình,
đồ án tứ thời được cảm nhận gần như có hướng chính diện.
* Tạo hình đường nét kiểu thức trang trí đề tài bát bửu [PL6, H.2.58, tr.262]
Đối với đề tài bát bửu, tương tự như đề tài tứ thời, các đồ vật được thể
hiện khái quát những đặc điểm chính để người quan sát có thể nhận diện. Trong
kiểu thức “cổ đồ triền chi”, đồ vật được cuốn vào dải lụa hoặc dây lá. Trong
nhiều trường hợp, người xưa sử dụng cùng lúc cả dải lụa và dây lá làm kiểu
94
thức phụ cuốn quanh đồ vật. Trong đề tài bát bửu, các đồ vật luôn được tạo
hình nằm nghiêng chéo so với khung hình trang trí và vì vậy, tạo nên hướng
cho đồ án trang trí cả khi chúng được sử dụng trong các ô hộc đứng hay ô hộc
ngang. Bên cạnh đó, đồ vật luôn được đặt chính giữa các họa tiết phụ “triền
chi”, tạo nên sự cân bằng cho bố cục trong khung hình. Như vậy, nếu như tạo
hình của đề tài tứ thời là tạo hình có hướng nhưng không cân bằng thì tạo hình
của đề tài bát bửu lại vừa có hướng, vừa có tính cân bằng trong hình họa.
* Tạo hình đường nét kiểu thức trang trí đề tài quả [PL6, H.2.59, tr.263]
Trong tạo hình đề tài quả, các loại quả được thể hiện dưới dạng một hoặc
một cặp quả. Quả bao giờ cũng đi kèm với một nhành cây có lá gắn ở đáy quả.
Đồng thời, phần lớn các chi tiết có tạo hình không có hướng hoặc độ chéo của
chúng là không đáng kể so với chiều ngang của khung hình. Tuy nhiên, với các
đồ án quả nằm trong ô hộc chữ nhật đòi hỏi chiều dài của họa tiết trang trí, như
tại cổng Chương Đức hoặc Hiển Nhơn, nhành cây được tạo hình dưới dạng kiểu
thức dây lá hóa rồng và hướng của đồ án lại được hình thành từ chi tiết phụ này
[PL6, H.2.18, tr.236]. Mỗi loại quả thường có một tạo hình riêng biệt để dễ nhận
dạng. Dưới đây là tạo hình của năm loại quả phổ biến:
- Quả đào có hình bầu, đáy tròn và thuôn dần về đỉnh.
- Quả lê cũng tương tự như đào nhưng tròn đỉnh.
- Quả phật thủ thì thon đáy và mở rộng ở phần đầu, đồng thời, phần đỉnh
được tạo hình giống như năm ngón tay.
- Quả lựu thân bầu, đáy tròn, thuôn dần về đỉnh và phần đỉnh xòe cánh
hoa. Một số đồ án phần xòe cánh hoa để lộ phần hạt bên trong.
- Quả mãng cầu có thể nhận diện qua các đường đan chéo ở thân quả.
* Tạo hình đường nét kiểu thức trang trí đề tài tứ linh
Các con thú trong đề tài tứ linh - linh thú [PL6, H.2.55,2.56, tr.259, 260]
được thể hiện rất sinh động thông qua việc mô tả đầy đủ và chi tiết các bộ phận
95
cơ thể (đầu, thân, chân và đuôi) cùng với các tư thế và hướng chuyển động của
chúng, tiêu biểu là các kiểu tạo hình rồng. Thông qua các phân tích một số kiểu
thức rồng, NCS sẽ làm rõ những nét đặc sắc của tạo hình đường nét của đề tài
tứ linh trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
Con rồng trong NTTT triều Nguyễn thường được phân loại theo thế
chuyển động. Ở phần bố cục, NCS đã điểm qua 03 loại rồng được sử dụng đối
với nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định là:
- Rồng chầu (triều long) sử dụng cho bờ nóc, tường chắn mái, mái sảnh.
Con rồng này có hướng nhìn cùng chiều với chiều chuyển động của thân.
- Rồng quay đầu (hồi long) sử dụng cho bờ nóc và bờ quyết. Con rồng
này có hướng nhìn quay đầu ngược với chiều chuyển động của thân.
- Rồng xô sử dụng cho bờ quyết. Con rồng này có hướng nhìn cùng chiều
với chiều chuyển động của thân tương tự như rồng chầu.
Về cấu tạo, đồ án rồng bao gồm đầu, thân, đuôi và được điểm xuyết bởi
những đám mây nhỏ để tạo hình ảnh đang bay lên. Cấu tạo chi tiết của từng bộ
phận như sau:
- Phần đầu được mô tả rõ mắt, mũi, râu (gồm các tua râu cằm và hai sợi
râu sát mũi), bờm (thường là năm tua bờm), răng (hai hàm trên dưới đều có
răng nanh), cặp sừng.
- Phần thân được mô tả như thân rắn uốn hình sin ba khúc, mức độ uốn
khúc giảm dần về phía đuôi tạo nên chiều chuyển động cho thân. Bề mặt thân
có ghép vảy và có vây lưng. Bốn chân gắn bốn chân theo các tư thế khác nhau,
chân rồng có năm móng và thường được thể hiện quắp vào một đám mây nhỏ.
- Phần đuôi gắn với thân có xoáy âm dương với các dải tua đuôi. Số
lượng dải tua đuôi là từ năm đến chín tua. Các con rồng ở Phu Văn Lâu, Nghinh
Lương Đình có số tua đuôi là năm, rồng ở lầu Ngũ Phụng có số tua đuôi là bảy.
Trong khi đó, rồng ở điện Thái Hòa có số tua đuôi là chín.
96
Như vậy, tạo hình đường nét của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định vừa
thể hiện tính ước lệ vừa thể hiện tính tả thực. Về tính ước lệ, trong tạo hình các
kiểu thức thuộc đề tài tứ thời, đồ vật, quả, tính ước lệ thể hiện khi mà các kiểu
thức không được mô tả sát với sự vật thực tế mà chỉ dựa trên những đặc điểm
tổng quát để nhận biết. Trong đề tài tứ linh - linh thú, với đa phần là các con thú
thần thoại, tính ước lệ thể hiện ở việc các bộ phận cơ thể của con thú được mô tả
một cách quy ước. Về tính tả thực, tất cả các kiểu thức đều được thể hiện hết sức
chi tiết giúp cho người xem có được cái nhìn cụ thể và sát thực nhất có thể.
2.4.2. Chất liệu và màu sắc
2.2.2.1. Chất liệu
* Chất liệu hoàn thiện
Như đã phân tích ở chương 1, vật liệu để hình thành nên một đồ án
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định là các mảnh ghép sành sứ. Trong đó, các
chất liệu sành sứ trắng, men lam… đã được sử dụng ở các đời vua trước vẫn
tiếp tục được kế thừa. Bên cạnh đó, giai đoạn này xuất hiện thêm chất liệu thủy
tinh màu và thủy tinh trong và các loại sành sứ màu đa dạng hơn thời kỳ trước.
Theo tác giả Trần Đức Anh Sơn, kính và thủy tinh màu được đặt mua ở Pháp,
sành sứ tốt được mua ở Trung Hoa, Nhật Bản và sành ngang được lấy từ phía
Bắc [89]. Tác giả Vĩnh Phối cũng cung cấp thông tin “mảnh sứ tốt được nhập
từ Trung Hoa, Nhật Bản nhiều màu sắc quý đẹp như màu cam, màu ngọc…
Một chất liệu mới là thủy tinh màu như màu nâu chai và các màu khác nhập từ
Pháp” [73]. Trong nghiên cứu về các loại gốm sứ triều Nguyễn, đối với các loại
gốm sứ châu Âu ngoại nhập, tác giả Nguyễn Quốc Hùng cũng đề cập đến “Gốm
sứ xây dựng gồm những mảng trang trí men xanh lục, xanh tím…” [49].
Về sự kết hợp của các loại chất liệu trong đồ án trang trí, các loại sành
cổ mang đến sắc độ trầm cho mảng trang trí. Ngược lại, sứ và thủy tinh màu sẽ
tạo nên sự rực rỡ và lung linh cho các mảng trang trí. Sự kết hợp giữa các nhóm
97
chất liệu sành, sứ và thủy tinh mang đến sự tương phản về tông độ cho mỗi đồ
án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, cho thấy khả năng lựa chọn, xử lý
chất liệu một cách hài hòa trong nghệ thuật trang trí của người nghệ nhân xưa.
Bên cạnh đó, thủy tinh màu là chất liệu trong suốt và do đó, người nghệ
nhân có thể tùy chỉnh lớp màu lót phía dưới lớp thủy tinh để mang lại những
tông màu khác nhau cho mảng trang trí [PL6, H.2.75, tr.270]. Ngoài ra, với
thủy tinh màu, người nghệ nhân xưa còn sử dụng phương án “trộn màu” có
nghĩa là lớp nề vữa phía dưới được sử dụng một tông màu khác với tông màu
của mảnh thủy tinh để tạo ra một tông màu mới theo ý đồ mong muốn. Ở những
công trình như nội thất Thiên Định Cung hay Thái Bình Lâu, thủy tinh còn
được sử dụng cho lớp nền phía sau các họa tiết chính của đồ án và đồng thời,
cũng là lớp bảo vệ bề mặt nề vữa của những đồ án này [PL6, H.2.52, tr.256].
Một đồ án TTKSS thời Khải Định không đơn thuần chỉ bao gồm các
mảnh ghép sành, sứ hay thủy tinh mà nó còn có sự hỗ trợ của chất liệu nề họa.
Nề họa được sử dụng tạo đường viền cho một mảng trang trí hoặc phủ lên
đường ghép giữa các mảnh sành sứ. Đồng thời nó sẽ giúp điều chỉnh tông màu
của mảng trang trí. Ví dụ: nếu mảng trang trí có tông màu sáng, người thợ sẽ
dùng màu trầm để tô lên các đường ghép và ngược lại. Trong trang trí ô hộc,
nề họa được sử dụng trong phần nền phía sau các họa tiết chính của khung hình.
Trong trang trí con giống, nề họa được sử dụng tại các vị trí khuất của đồ án.
Ví dụ như trường hợp con rồng khảm sành sứ, nề họa sẽ được sử dụng phía
trong miệng rồng, các phần làm nên chiều dày của vây lưng, tua đuôi hay phần
yếm của rồng. Tác giả Phan Thanh Bình đã nhận xét: “ngoài việc góp phần làm
tôn vẻ đẹp của khảm sứ, tiếp ứng cho các họa tiết trang trí hay chi tiết hình
tượng, nề họa còn tạo ra phần nền và lớp không gian phẳng cho khảm sứ” [13].
98
* Chất liệu kết dính
Đối với chất liệu kết dính, tác giả Phan Thanh Bình đã làm rõ chất liệu
kết dính trong nghệ thuật khảm sành sứ triều Nguyễn là hỗn hợp vôi (chủ yếu
là vôi hàu), cát và cốt liệu sợi (giấy bản, rơm giã nhuyễn) và có thể có sự tham
gia của mật mía [16, tr.87, 88]. Qua kết quả khảo sát thực tế, NCS nhận thấy,
so với các thời kỳ trước, việc sử dụng chất kết dính ở các đồ án TTKSS thời
Khải Định có một số vấn đề cần lưu tâm như sau:
- Có thêm sự xuất hiện của xi măng trong thành phần của vữa kết dính,
mà ở đây chính là vữa tam hợp (vôi, cát, xi măng) thay thế cho vữa truyền thống
như đã nêu trên. Ưu điểm của loại vữa này là vừa có độ dẻo của vôi lại vừa có
độ bền và độ bám dính của xi măng. Như đã nêu, mảnh ghép trong nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định không chỉ là lớp hoàn thiện mà còn tham gia vào tạo
hình của đồ án và do đó, tính năng trên của vữa kết dính đảm bảo cho mảnh
ghép được liên kết chắc chắn với khối xây thô.
- Việc xuất hiện của thủy tinh đòi hỏi vữa kết dính bên cạnh vai trò liên
kết còn phải tham gia vào tạo nên màu sắc của mảng trang trí. Chính vì vậy,
trong hỗn hợp vữa liên kết còn có sự tham gia của chất tạo màu.
- Quan sát quá trình chế tác các đồ án TTKSS trong thời gian gần đây,
NCS nhận thấy có sự tham gia của xi măng trắng. Đây là loại vật liệu vừa có
độ bám dính, vừa có độ dẻo lại rất phù hợp với việc trộn màu để làm lớp nền
cho mảng ghép thủy tinh.
2.2.2.2. Màu sắc
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu về mỹ thuật, hội họa đã đúc rút ra
nhiều tổ hợp màu được sử dụng trong việc NTTT triều Nguyễn như họa sĩ Phạm
Đăng Trí tìm ra bảng màu ngũ sắc Huế (đỏ, xanh lam, vàng, lục, tím). Đồng
thời, ông cũng chỉ ra sự vận dụng hòa sắc tương phản trong trang trí. Theo ông,
đó là cách hòa màu phù hợp với phương thức “tổng hợp gia tăng” và tạo ra một
99
ấn tượng vừa quý, nhã, lại vừa lộng lẫy [103]. Cũng dựa trên sự tương phản
trong hòa sắc, Vĩnh Phối đưa ra các hệ màu nóng lạnh như các cặp màu đỏ nâu,
đỏ cam, lục lam, lục tím, nâu đen, xanh đen, đen trắng, trắng ngà, Chu Quang
Trứ nhấn mạnh về các cặp màu trắng xám và lục đen [dẫn lại từ Phan Thanh
Bình, 121]. Hầu hết các nhà nghiên cứu đều có nhận xét màu sắc trang trí trong
KTCĐ Huế đó là chấp nhận dùng màu "tự thân"/màu sắc tự nhiên của mẫu vật
trang trí như màu ngói, màu gạch, màu của mảnh sành, thủy tinh... kết hợp với
bột vôi màu (đỏ, xanh lam, vàng, trắng) để trang trí.
Màu sắc trong TTKSS thời Khải Định, theo tác giả Vĩnh Phối, về cơ bản
vẫn sử dụng hệ màu ngũ sắc phương Đông và có hòa sắc tương phản hòa đồng
tạo sắc tươi không gắt [73]. Sự xuất hiện của các chất liệu ngoại nhập cũng bổ
sung thêm nhiều màu sắc cho nghệ thuật TTKSS thời Khải Định. Quá trình
khảo sát màu sắc ở các đồ án trang trí tại nội thất Thiên Định Cung, NCS đã
thống kê có 16 loại sành sứ, thủy tinh màu, thủy tinh trong thường được sử
dụng bao gồm: (1) Sành trắng điểm hoa văn xanh dương (sành cổ); (2) Sành
trắng điểm hoa văn đỏ cam (sành cổ); (3) Sành trắng ẩn sắc xanh; (4) Sành màu
xanh ngọc bích đậm; (5) Sành màu xanh ngọc bích nhạt; (6) Sành màu đỏ cam;
(7) Sành màu vàng cam; (8) Sành màu trắng sáng; (9) Sành màu đen; (10) Thủy
tinh màu vàng hổ phách; (11) Thủy tinh màu nâu đậm; (12) Thủy tinh màu nâu
nhạt; (13) Thủy tinh màu xanh lục đậm; (14) Thủy tinh màu xanh lục nhạt; (15)
Thủy tinh màu xanh tím; (16) Thủy tinh trong/không màu [PL6, H.2.60, tr.264].
Các đồ án trang trí thường sử dụng các cặp màu tương phản ở mức độ
nhẹ về màu hoặc dùng sắc độ đậm nhạt để thể hiện, đó là: xanh ngọc bích
nhạt/xanh lục nhạt - đỏ cam, xanh ngọc bích đậm/xanh lục đậm - nâu,
trắng/điểm xanh - đỏ đậm/xanh đậm/lục đen. Tác giả Vĩnh Phối cũng đưa ra
một số cặp màu tương phản được sử dụng ở nội thất Thiên Đinh Cung như “đỏ
100
- lục xanh (bích ngọc), lục - tím đỏ (da lang), xanh - cam vàng (hỏa hoàng),
vàng - tím xanh (chàm), tím - vàng lục (lát gừng)” [73].
Màu sắc trong đề tài trang trí vận dụng linh hoạt các cặp màu tương phản,
các tổ hợp màu trên để bố trí và có một số nguyên tắc nhất định:
- Đồ án tứ linh: đối với việc sử dụng màu sắc trong các đồ án tứ linh,
NCS lựa chọn 02 kiểu thức thường được sử dụng là các đồ án trang trí rồng và
phụng để khảo sát. Cụ thể như sau: (1) Đồ án trang trí rồng: Phần thân cơ bản
màu vàng cam. Các chi tiết còn lại (đầu, sừng, bờm, đuôi…) có màu tổng thể
là màu sáng, điểm xuyết các màu có tông đậm (xanh đậm, đỏ nâu, lục đậm…)
[PL6, H.2.64, tr.267]. (2) Đồ án trang trí phụng: Phần đầu có bờm màu sáng,
đầu, mào, tích, mắt, mỏ… điểm xuyết màu đậm. Phần thân có lông vũ màu
sáng, cánh xếp lớp, tông cơ bản màu sáng, xen kẽ màu đậm nhạt, đuôi có tông
màu sáng. Các chi tiết phụ khác là tổ hợp của nhiều màu đậm nhạt để nổi bật
đồ án chính [PL6, H.2.65, tr.267].
- Đồ án tứ thời: Đối với các loại cây thân mộc như tùng, mai, liễu: thường
sử dụng màu nâu làm thân, lá màu xanh lục đậm/nhạt; Đối với cây thân thảo
như lan, cúc, trúc xanh, sen: thường sử dụng màu xanh lục; Hoa màu trắng,
điểm nhụy vàng/cam [PL6, H.2.61, tr.265].
- Đồ án đồ vật “cổ đồ triền chi”: Cổ đồ: màu đậm/hòa sắc tương
phản/đậm nhạt; Triền chi: màu nhạt/hòa sắc tương đồng [PL6, H.2.62, tr.265].
- Đồ án quả, bát bửu, liên đằng, ... chi tiết chính màu đậm/hòa sắc tương
phản/đậm nhạt, chi tiết phụ hòa sắc tương đồng/màu trung tính (nhạt).
- Diềm, gờ phào, phào: dùng màu đậm nhạt, thường gặp nhất là trắng - nền
lục đen/đỏ sẫm và xanh ngọc bích nhạt nền lục đen, chỉ trắng [PL6, H.2.63, tr.266].
Một số chủ đề trang trí khác cũng tuân theo quy luật phối màu đậm/nhạt,
nóng/lạnh hay dùng màu tương phản để thể hiện. Trong đó, đồ án chính trong
hình thường rất nổi bật cả về mảng miếng, hình khối, màu sắc. Các chi tiết phụ
101
điểm xuyết, kết hợp với sự xuất hiện dày đặc các mảng ốp sành hay thủy tinh
màu trong một bề mặt trang trí tạo nên các nhóm hòa sắc.
Do đặc tính trong suốt, các mảng trang trí tạo thành bởi chất liệu thủy
tinh có độ sâu về màu bởi chúng được tạo thành bởi hai lớp màu (lớp màu nề
vữa phía trong và lớp màu của thủy tinh bên ngoài). Đồng thời, việc điều chỉnh,
thay đổi sắc độ của màu sắc lớp màu nề vữa sẽ dẫn đến sự thay đổi về màu sắc
của hoạ tiết qua lớp thủy tinh phía ngoài từ đó dẫn đến sự linh hoạt, đa dạng về
sắc độ cho mảng trang trí, tạo điều kiện thực hiện các cho thủ pháp “vờn màu”,
“chuyển tông” cho mảng trang trí. Có thể thấy, từ sự xuất hiện của một chất
liệu mới, màu sắc trong nghệ thuật TTKSS thời Khải Định không chỉ được bổ
sung thêm về số lượng mà còn được bổ sung thêm về chiều sâu, tông màu và
sắc độ mang đến hiệu quả thị giác mới cho NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn.
Như vậy, về sử dụng màu sắc, bên cạnh các màu ngũ sắc theo quy định
cũ, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định đã được bổ sung nhiều
màu sắc hơn nâng cao sự đa dạng, sinh động. Việc phối màu theo thủ pháp
“tương phản” cho phép nổi bật chủ đề, đối chọi màu giữa nền và họa tiết tác
động mạnh vào thị giác. Việc dùng thuỷ tinh tạo nên chiều sâu cho lớp màu,
đồng thời cho phép triển khai màu sắc, dùng tông màu theo ý muốn cũng là một
sáng tạo. Tất cả các yếu tố trên góp phần nâng cao tính thẩm mỹ, sự nổi trội
của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
2.4.3. Thủ pháp thể hiện
Ở thời Khải Định, các đồ án TTKSS có thể thể hiện tất cả các dạng hình
khối từ 2 chiều tới 3 chiều. Đồng thời, chúng cũng có thể thể hiện tất cả các
dạng hình học mà mọi hình thức TTKT ở các đời trước có thể miêu tả. Có thể
nói, thủ pháp thể hiện chính là một trong những nét đặc sắc, tạo nên sự mới lạ
của nghệ thuật TTKSS. Trong đó, một số thủ pháp thể hiện nổi bật bao gồm:
102
Đắp nổi, khảm sành sứ tương tự hình thức chạm lộng của chạm khắc gỗ
Chạm lộng là một trong những hình thức biểu hiện đặc sắc của trang trí
chạm khắc gỗ tại KTCĐ triều Nguyễn. Theo tác giả Nguyễn Thiện Đức, chạm
lộng là “chạm theo lối đục thủng nền chừa lại hình trang trí” [28, tr.22]. Một
trong những đồ án tiêu biểu của hình thức chạm lộng của trang trí chạm khắc
gỗ là bộ vì chạm rồng tiền điện điện Long An [PL6, H.2.66, tr.268]. Tác giả
Nguyễn Thiện Đức đánh giá: “với lối chạm trổ tinh tế uyển chuyển, cấu kiện
chịu lực này trở thành tác phẩm chạm khắc ấn tượng ở vị trí trang trọng thu hút
thị giác người xem, vừa giải quyết được vấn đề thẩm mỹ cho không gian nội
thất vừa chuyển tải được yếu tố ý nghĩa của đề tài” [28, tr.54]. Trong nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định, nhiều đồ án trang trí được thể hiện tương tự như hình
thức chạm lộng của chạm khắc gỗ. Có thể kể đến đồ án mặt hổ phù trong trang
trí ô hộc án thờ nội thất Thiên Định Cung [PL6, H.2.66, tr.268]. Nếu so sánh
đồ án này với bộ vì chạm rồng tiền điện điện Long An, có thể thấy chúng tương
tự nhau về tạo hình khi cả hai đồ án đều có độ nổi khối, các mảng “thủng” trên
bề mặt trang trí. Hình thức “chạm lộng” trong nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định xuất hiện trên hầu hết các công trình KTCĐ ở giai đoạn này như các mặt
hổ phù ở tường đầu hồi, đỉnh vòm cửa, các đồ án tứ thời trong trang trí ô hộc…
Đắp nổi, khảm sành sứ để mô tả chất liệu khác
Ở cách thể hiện này, các nghệ nhân lựa chọn các mảnh sành sứ có màu
sắc và sắc độ khác nhau, sau đó sắp xếp tạo cho mảng trang trí hình khối, màu
sắc của chất liệu được mô tả như gỗ, kim loại, vải lụa, hoa, lá …
Trong quần thể KTCĐ Huế hiện còn một số chiếc bửu tán ở điện Thái
Hòa, Hưng Miếu và nội thất Thiên Định Cung. Trong quá khứ, bửu tán ban đầu
được làm bằng vải như những chiếc bửu tán ở điện Cần Chánh, điện Càn Thành.
Sau đó, bửu tán được làm bằng gỗ mô phỏng những chiếc bửu tán vải và hoàn
thiện bằng trang trí sơn son thếp vàng như ở Hưng Miếu. Thời kỳ Khải Định,
103
chất liệu sành sứ với cấu tạo BTCT đã được sử dụng thay thế cho chất liệu sơn
son thếp vàng cốt gỗ. Những chiếc bửu tán khảm sành sứ xuất hiện ở nội thất
Thiên Định Cung và nội thất Cửu Tư Đài. Trong đó, bửu tán ở Thiên Định
Cung hiện vẫn còn tồn tại [PL6, H.2.67, tr.268]. Ở đây, nếu như các tua vải ở
bửu tán Hưng Miếu vẫn sử dụng chất liệu sơn son thếp vàng thì các tua vải trên
bửu tán Thiên Định Cung, thông qua chất liệu thô cứng của mảnh sành sứ, được
thể hiện như các chất liệu vải thật. Có thể thấy rằng, với thủ pháp mô tả chất
liệu, chiếc bửu tán ở Thiên Định Cung vừa có sự vững chãi của phần cốt BTCT
lại vừa có sự mềm mại mà lớp hoàn thiện khảm sành sứ đem lại. Điều này
không chỉ đem lại hiệu quả thẩm mỹ cho vật thể được trang trí làm nên sự độc
đáo, khác biệt của nghệ thuật TTKSS so với các hình thức trang trí khác của
NTTT triều Nguyễn.
Cũng tại nội thất Thiên Định Cung, khi thể hiện những đồ vật kim loại
như đỉnh, lư, các nghệ nhân cũng đã tạo tác hình khối, lựa chọn và gắn ghép
các mảnh sành tương tự như chất liệu đồng [PL6, H.2.67, tr.268]. Các đồ vật
bằng gỗ như kệ tam sơn hay kệ cao đề kỷ hoặc các thân cây gỗ cũng được lựa
chọn màu sắc, sắc độ để mô tả chất liệu gỗ [PL6, H.2.69, tr.269]. Đối với các
họa tiết có tạo hình phức tạp như bông hoa, chim, thú, các nghệ nhân cũng lựa
chọn các mảnh ghép và cắt tỉa tỉ mỉ để sắp xếp, gắn ghép thành hình những
cánh hoa, vảy rồng hay lông chim [PL6, H.2.68, tr.269]. Các đồ vật phương
Tây cũng được mô tả sát thực với đồ vật trên thực tế như quyển sổ được mô tả
có bìa da, cây bút chì thân màu vàng vót nhọn đầu, ly rượu thủy tinh, chiếc
đồng hồ báo thức vỏ kim loại… [PL6, H.2.17, tr.236].
Đắp nổi, khảm sành sứ tạo chủ đề nhỏ trong chủ đề lớn
Đây là gắn sành sứ cách tạo một chủ đề khác bên trong một chủ đề chính.
Nguyên nhân là do sự xuất hiện của các công trình kiến trúc phương Tây dẫn
đến sự xuất hiện những mảng tường lớn, từ đó, tạo ra những ô hộc có diện tích
104
lớn. Qua đó, các vật thể được thể hiện nằm trong các ô hộc này cũng sẽ có sự
gia tăng về kích thước. Điều này dẫn đến yêu cầu phải tiếp tục xử lý về mặt tạo
hình phía trong các vật thể này để tăng sự sinh động, giảm sự đơn điệu. Thủ
pháp thể hiện này xuất hiện gần như ở tất cả các ô hộc lớn ở nội thất Thiên Định
Cung. Ví dụ như trang trí ô hộc của một chiếc đỉnh đồng, mà chiếc đỉnh này lại
nằm trong đồ án trang trí ô hộc lớn [PL6, H.2.71, tr.269]. Một ví dụ khác là các
cuốn thư nằm giữa hệ thống cửa của điện Kiến Trung. Bản thân các cuốn thư
được thiết lập để trang trí bề mặt tường cho công trình này. Tuy nhiên, phía bên
trong cuốn thư lại được phân chia thành các ô hộc để tiếp tục bố trí các đồ án
trang trí của đề tài tứ thời [PL6, H.2.80, tr.272].
Thể hiện họa tiết vượt ra khỏi phạm vi khung hình trang trí
Trang trí ô hộc được coi là một trong những nét đặc sắc của TTKT cung
đình triều Nguyễn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng cho rằng, việc “đóng
khung” phạm vi trang trí trong các ô hộc mang đến sự gò bó cho việc thể hiện
các đồ án trang trí. Theo tác giả Trần Lâm Biền, “đường chia ô đã tạo cho các
đề tài nằm trong một không gian chật hẹp, khiến nó bị gò bó, mất hẳn vẻ động
mà trở nên cứng nhắc và thiếu sức sống” [21, tr.49]. Trong nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định, để giảm bớt sự gò bó của những đường khung viền ô hộc, các
họa tiết chính của đồ án trang trí đã được thể hiện vượt ra ngoài giới hạn của
khung hình ô hộc. Có thể thấy thủ pháp thể hiện này thông qua các ô hộc tứ
thời ở cổng Chương Đức hay cổng Hiển Nhơn [PL6, H.2.70, tr.269]. Ở những
đồ án trang trí đó, các họa tiết thân cây cỏ đã được tạo hình nổi theo hình thức
“chạm lộng” và vượt hẳn ra ngoài khung chữ nhật của của ô hộc.
Không chỉ trong trang trí ô hộc, mà ở trang trí con giống, có một trường
hợp họa tiết trang trí cũng dường như rời ra khỏi vị trí trang trí vốn có của nó.
Đó là con rồng trong đồ án trung tâm bờ nóc hậu doanh của Thái Bình Lâu
[PL7, H.3.23, tr.254]. Ở đồ án này, chi tiết chính là các chữ Thọ vẫn có vị trí
105
trên đỉnh bờ nóc, tuy nhiên, con rồng, một thành phần của đồ án, được tạo tác
như bò từ đỉnh bờ nóc xuống đến mặt mái để hướng về phía người quan sát.
Thể hiện họa tiết gần như giữ nguyên dạng vật thể ban đầu
Đây là thủ pháp thường được sử dụng cho tạo hình phù điêu của các đồ
án trang trí ô hộc. Như đã biết, các mảnh ghép được lấy từ các đồ vật sinh hoạt
sẵn có như bát, đĩa, chai, bình… Trong nhiều trường hợp, một số đồ vật này lại
có kiểu dáng phù hợp với ý đồ sáng tạo của người nghệ nhân. Tuy nhiên, chúng
là những vật thể ba chiều và vì vậy, để đưa chúng vào đồ án trang trí, người nghệ
nhân xưa phá vỡ chúng để lấy những mảnh ghép chính, sau đó khảm, gắn chúng
vào đồ án dưới hình thức phù điêu với các đường ghép mảnh rất nhỏ. Thủ pháp
này sẽ giữ lại được cơ bản hình dạng ban đầu của bản thân vật thể trước khi được
đưa vào đồ án trang trí và cải biến theo hình dạng yêu cầu của tạo hình đồ án
trang trí. Đồng thời, thủ pháp này vừa giữ được đặc trưng của khảm sành sứ là
ghép mảnh, lại vừa tạo cảm giác đồ vật nguyên bản được ấn chìm vào trong
khung hình trang trí. Đây là thủ pháp xuất hiện rất nhiều tại nội thất Thiên Định
Cung như chiếc bình hoa trong trang trí ô hộc [PL6, H.2.74, tr.270].
Sử dụng thủy tinh vụn để thể hiện mặt nước, mặt cỏ
Trong trang trí sơn son thếp vàng, có một thủ pháp thể hiện rất độc đáo.
Đó là vỗ nhẹ các mảnh vàng vụn (vàng cám) vào bề mặt sơn để tạo thành một
lớp màng màu mờ khi thể hiện mây hoặc mặt nước. Điểm đặc biệt của thủ pháp
này là sự tham gia của hai chất liệu vàng và sơn trong việc hình thành sắc độ
của mảng trang trí. Đây là điều không thấy ở các hình thức TTKT nề họa, gỗ
hay pháp lam. Tuy nhiên, đối với hình thức TTKSS thời Khải Định, các nghệ
nhân đã “tái hiện” được thủ pháp trên bằng các mảnh vụn sành sứ. Trên các ô
hộc tứ thời của nội thất Thiên Định Cung có thể thấy, các nghệ nhân đã sử dụng
thủy tinh vụn nhiều sắc độ gắn vào phần nền nề họa để tạo thành không những
các mảng mặt nước mà còn cả các mảng mặt cỏ [PL6, H.2.72, 2.73, tr.270].
106
Sử dụng màu nền vữa và gắn thủy tinh ở bên ngoài
Ở thủ pháp thể hiện này, màu được tô vẽ lên trên lớp nền nề vữa sau đó
dùng thủy tinh trong gắn bên ngoài. Thủ pháp này tạo nên sự đa dạng về màu
sắc và sắc độ. Đồng thời, các nghệ nhân có thể tạo nên màu và sắc độ theo ý
muốn của mình mà không cần lệ thuộc vào màu của sành sứ và thủy tinh màu
có sẵn [PL6, H.2.75, tr.270].
Sử dụng hình nghịch lý
Theo Nguyễn Hồng Hưng, hình nghịch lý là “một dạng không gian ba
chiều thể hiện trên mặt phẳng hai chiều nhưng không thể mang sao chép ra
không gian ba chiều của môi trường thực” [54, tr.329]. Hình nghịch lý “luôn
được vẽ cùng một lúc hai phối cảnh đúng trùng khớp không gian của nhau qua
việc nối liền các nét trùng khít hướng định vị… mọi văn bản mô tả khác ngoài
hình ảnh đều không thể diễn giải cho người nghe, hay người đọc hiểu được
hình nghịch lý” [54, tr.329, 335] [PL6, H.2.76, tr.271].
Trong mỹ thuật truyền thống Huế, hình nghịch lý phổ biến nhất là kiểu
thức “nút thắt huyền bí” hoặc “nút thắt vô tận”, là kiểu thức nằm trong bộ Bát
bửu Phật giáo. Trong NTTT triều Nguyễn nói chung, “nút thắt huyền bí”
thường sử dụng trong trang trí lan can, đường diềm dưới dạng các hình thoi
lồng vào nhau và có kích thước nhỏ nên khó nhận biết và ít gây ấn tượng về thị
giác. Đến nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, bên cạnh việc tiếp tục sử dụng ở
trang trí diềm, đố phân vị trên rất nhiều công trình [PL6, H.2.77, tr.271], thì đã
xuất hiện nhiều đồ án sử dụng kiểu thức “nút thắt huyền bí” có kích thước lớn
như ở trang trí ô hộc của Cửu Tư Đài [PL6, H.2.78, tr.271] hoặc dải trang trí
bờ quyết chính doanh Thái Bình Lâu [PL6, H.2.79, tr.271]. Đặc biệt ở điện
Kiến Trung, hầu hết các cuốn thư trang trí bề mặt tường của công trình này
được thể hiện dưới dạng hình nghịch lý [PL6, H.2.80, tr.272]. Các cuốn thư này
phủ kín các diện tường công trình ở cả hai tầng của công trình và do đó, sẽ dễ
dạng nhận biết và gây ấn tượng mạnh về thị giác.
107
Những thủ pháp thể hiện đa dạng của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc
thời Khải Định đã cho thấy sự phát triển về tư duy không gian, tư duy thị giác
của những người nghệ nhân xưa. Đó là minh chứng cho việc những quy tắc về
sử dụng đề tài, kiểu thức và bố cục trong TTKT cung đình cũng không thể hạn
chế được khả năng sáng tạo của những người thợ - người nghệ sĩ dân gian.
Tiểu kết
Đối chiếu mối quan hệ hình - nền của một tác phẩm nghệ thuật với trang
trí và kiến trúc, có thể coi yếu tố hình là hệ thống các đồ án trang trí, còn yếu
tố nền chính là công trình kiến trúc cùng với không gian bao quanh. Việc nghiên
cứu những biểu hiện của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định dựa
trên hai yếu tố: biểu hiện chung của cả hệ thống các đồ án trang trí và biểu hiện
riêng của từng đồ án trang trí.
Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định vẫn kế thừa các đề tài
truyền thống, thể hiện sự cẩn trọng, kỹ lưỡng về lựa chọn đề tài và kiểu thức đảm
bảo nội dung truyền tải và hình thức thể hiện là đồng nhất trên tất cả các công trình
KTCĐ ở thời kỳ này, với các đề tài chính được sử dụng là vũ trụ - thiên nhiên, tứ
linh - linh thú, tứ thời, bát bửu, quả và cát tường tự văn. Ngoài ra, có sự xuất hiện
của các kiểu thức trang trí phương Tây và kiểu thức trang trí dân gian.
Bố cục tổng thể của hệ thống TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định thể
hiện tính hướng tâm và có điểm nhấn trong bố cục (các đồ án trang trí hướng
về đồ án trung tâm nằm ở vị trí cao nhất chính giữa công trình), tính đối xứng
tạo nên sự cân bằng thị giác (dựa trên ba nguyên tắc đối xứng về vị trí, hướng,
đề tài), sự sắp xếp, vị trí của kiểu thức trên kiến trúc dựa vào tính chất của biểu
tượng trang trí (các đồ án có ý nghĩa quan trọng nhất luôn được đặt ở vị trí quan
trọng nhất của kiến trúc).
Về tổ chức không gian trang trí, dựa trên cấu trúc của kiến trúc, không
gian trang trí ngoại thất của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định được hình thành
bởi các lớp trang trí. Chúng tạo nên tính ước lệ về mặt không gian và tính nhịp
108
điệu cho tổng thể hệ thống các đồ án TTKSS trên kiến trúc. Cùng với đó, sự
xuất hiện của các công trình kiến trúc phương Tây đã tạo điều kiện để không
gian trang trí đã từ khu vực mái lan xuống phần thân của kiến trúc. Không gian
trang trí nội thất của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định được hình thành dựa
trên sự mô phỏng theo không gian kiến trúc tương đồng ở các thời kỳ trước,
sau đó, bố trí, sắp xếp các đồ án trang trí theo các nguyên tắc bố cục tổng thể
trên bốn mặt của nội thất công trình.
Hình thức biểu đạt của một đồ án trang trí được thể hiện dựa trên ba yếu
tố: tạo hình, chất liệu - màu sắc và thủ pháp thể hiện. Về mặt tạo hình, hình khối
của các đồ án TTKSS thời Khải Định được thể hiện cả ở ba hình thức tượng
tròn (sử dụng chủ yếu trong trang trí con giống), phù điêu (sử dụng nhiều trong
trang trí ô hộc, trang trí trên bề mặt kiến trúc và có sử dụng trong trang trí con
giống) và khảm phẳng (sử dụng chủ yếu trong trang trí trên bề mặt kiến trúc).
Tạo hình đường nét của các đồ án TTKSS thời Khải Định thể hiện tính ước lệ
khi các đồ án được tạo hình dựa trên những đặc điểm cơ bản để nhận biết nhưng
lại cũng thể hiện tính tả thực thể hiện chi tiết đem lại cảm giác thực nhất về sự
vật. Về chất liệu và màu sắc, chất liệu chủ đạo của nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định là các mảnh sành sứ và được bổ sung thêm sứ, thủy tinh màu, thủy tinh
trong ngoại nhập. Đồng thời, ngoài sành sứ, còn có sự tham gia của nề họa với
vai trò hỗ trợ để làm nổi bật các họa tiết chính. Màu sắc của nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định kế thừa hệ thống màu ngũ sắc truyền thống và được bổ sung
thêm các màu do các chất liệu mới mang đến. Các đồ án trang trí được thể hiện
dựa trên hòa sắc tương phản, sự đối chọi giữa màu nền và họa tiết chính và sự
chuyển tông màu của lớp thủy tinh trong. Về thủ pháp thể hiện, nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định có thể thể hiện nhiều dạng hình học như ở các hình thức
trang trí khác với nhiều thủ pháp thể hiện đa dạng cho thấy sự phát triển về tư
duy không gian, tư duy thị giác của những người sáng tạo ra chúng.
109
Chương 3
ĐẶC TRƯNG, GIÁ TRỊ VĂN HÓA NGHỆ THUẬT VÀ BÀN LUẬN
VỀ NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ TRÊN KIẾN TRÚC
THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 – 1925) TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
3.1. Đặc trưng
Như đã trình bày ở chương 1, trong những năm đầu thế kỷ XX, Việt Nam
nói chung và Huế nói riêng chịu ảnh hưởng của quá trình quốc tế hóa - hiện đại
hóa và giao lưu văn hóa Đông - Tây. Triều đình Nguyễn, đứng đầu là vua Khải
Định, đã lựa chọn sách lược cố gắng duy trì sự tồn tại trên danh nghĩa của nền
quân chủ (tính biểu tượng) kết hợp với tư tưởng hiện đại hóa. Trong bối cảnh
đó, từ xuất phát vai trò phụ trên kiến trúc, TTKSS đã từng bước phát triển để trở
thành hình thức TTKT chính trong các công trình KTCĐ quan trọng mà vua
Khải Định cho xây dựng và tu bổ. Cùng với các công trình kiến trúc phương Tây,
chúng tạo nên một diện mạo mới cho QTDT Cố đô Huế ở giai đoạn 1916 - 1925.
Các kết quả khảo sát, phân tích hệ thống TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định bước đầu đã nhận diện được một số “dấu hiệu” của tư tưởng cân bằng
kim - cổ và văn hóa phương Tây ảnh hưởng đến những biểu hiện của các đồ án
trang trí. Đó là sự xuất hiện của các kiểu thức phương Tây trong đề tài bát bửu
truyền thống, bố cục, không gian trang trí kết hợp Đông - Tây, tạo hình tả thực,
chất liệu sứ, thủy tinh màu với sự đa dạng về màu sắc… Từ những yếu tố ban
đầu này, mở rộng so sánh với NTTT cung đình ở các đời vua trước về sự kết hợp
của các đồ án trang trí và hình thức biểu đạt, có thể xác định được những đặc
trưng riêng biệt của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT
Cố đô Huế.
3.1.1. Sự cách tân trên cơ sở kế thừa truyền thống
Những thông tin khái quát về lịch sử hình thành và phát triển của nghệ
thuật khảm sành sứ triều Nguyễn đã cho thấy, nghệ thuật TTKSS thời Khải
110
Định những năm đầu thế kỷ XX chính là sự tiếp nối của loại hình trang trí
TTKT cung đình đã có từ hàng trăm năm. Hình thức biểu hiện của nó thể hiện
đầy đủ những đặc trưng, đặc điểm của nghệ thuật TTKSS triều Ngyễn để phân
biệt với tranh ghép mảnh Mosaic nước ngoài, vốn cũng đã du nhập vào Việt
Nam ở giai đoạn này. Tuy nhiên, trên cơ sở kế thừa truyền thống đó, với bước
đệm là giai đoạn Đồng Khánh - Duy Tân (1889 - 1916), nghệ thuật TTKSS trên
kiến trúc thời Khải Định đã có những phát triển, cách tân đối với cả hệ thống
trang trí và trong từng đồ án trang trí. Sự phát triển và cách tân được thể hiện ở
hai phương diện: sử dụng kiểu thức trang trí và bố cục tổng thể của hệ thống
trang trí.
3.1.1.1. Sự cách tân về sử dụng kiểu thức trang trí
Nhìn chung, nghệ thuật TTKSS thời Khải Định vẫn sử dụng các đề tài
trang trí truyền thống Huế như vũ trụ - thiên nhiên, tứ linh - linh thú, tứ thời,
bát bửu, quả… Đồng thời, những kiểu thức điển hình trong các bộ đề tài vẫn
chiếm đa số trên các đồ án trang trí. Điều đó cho thấy, ý nghĩa mà trang trí
truyền tải trên KTCĐ vẫn được duy trì một cách xuyên suốt theo đúng tinh thần
duy trì, tiếp nối nền quân chủ trong bối cảnh chịu lệ thuộc. Tuy nhiên, trên cái
nền tiếp nối, kế thừa truyền thống đó, việc các đề tài, kiểu thức trang trí được
sử dụng trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định vẫn có những
đặc trưng riêng biệt để nhận diện chúng trong tổng thể TTKT cung đình triều
Nguyễn, đó là:
* Sử dụng cùng lúc nhiều kiểu thức tứ linh, linh thú trong trang trí con giống
Đối với hệ thống trang trí tại khu vực mái, nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định vẫn tuân thủ theo quy chế được ghi chép trong Hội điển. Như trường hợp
của điện Thái Hòa, các đồ án trang trí con giống mái được tu sửa dưới thời Khải
Định vẫn tuân thủ theo các qui định trên với viên ngọc ở trang trí trung tâm bờ
nóc và các con rồng ở hai bên bờ nóc, bờ chảy và bờ quyết tương tự như ghi chép
111
trong Hội điển [69, tr.28]. Ngoài ra, ở các công trình khác dưới thời Khải Định,
các đồ án trung tâm bờ nóc với những kiểu thức của đề tài vũ trụ - thiên nhiên
như bình thiên mệnh, mặt trời vẫn được duy trì nghiêm ngặt.
Đối với các đồ án con giống của đề tài tứ linh - linh thú, ở TTKT của các
đời trước, như điện Sùng Ân hay điện Biểu Đức, đa phần chỉ sử dụng kiểu thức
rồng và biến thể của nó như con giao lá. Đến thời Khải Định, tuy rồng vẫn đóng
vai trò chủ đạo trên hầu hết các công trình, nhưng nhiều kiểu thức khác thuộc
bộ tứ linh - linh thú khác cũng đã hiện diện cùng lúc trên KTCĐ. Ngay tại điện
Thái Hòa, qua so sánh hai bức hình tư liệu trước và sau khi tu bổ dưới thời Khải
Định [PL5, H.6, 7, tr.215], cũng đã xuất hiện thêm con lân trong trang trí con
giống bờ nóc, bờ quyết. Không những vậy, tại điện Kiến Trung, long mã còn
thay thế cho rồng khi được sử dụng là kiểu thức trang trí thành bậc cấp, vị trí
mà ở KTCĐ các đời vua trước, chỉ có rồng hoặc những biến thể “hóa” của nó
mới được sử dụng [PL6, H.2.49, tr.255]. Không chỉ có lân, phụng, một biểu
tượng của các bà hoàng, thường chỉ dùng cho TTKT các công trình thuộc phái
nữ như các đồ án chim phụng ở cung Diên Thọ, cũng đã xuất hiện trong nghệ
thuật TTKSS thời Khải Định. Ở các công trình trên trục Dũng đạo như Nghinh
Lương Đình, điện Kiến Trung, phụng xuất hiện như là một phần quan trọng của
dải trang trí bờ mái [PL6, H.2.28, tr.242]. Cũng trên trục Dũng đạo, con long
mã còn được sử dụng tại lầu Tứ Phương Vô Sự [PL6, H.2.24, tr.239]. Nghinh
Lương Đình được ghi nhận cùng lúc xuất hiện đủ bộ tứ linh. Đặc biệt, Thái Bình
Lâu, một kiến trúc bên trong Tử Cấm Thành, là công trình sử dụng nhiều kiểu
thức linh thú nhất, khi có tổng cộng 08 kiểu thức linh thú (rồng, lân, phượng, rùa,
long mã, dơi, cá, hổ phù) có mặt trong các đồ án TTKSS ở công trình này.
* Sử dụng kiểu thức trang trí dân gian
Bên cạnh việc kế thừa các kiểu thức trang trí cung đình ở các đời vua
trước, không thể không nhắc đến sự “xâm nhập” của các kiểu thức dân gian
112
trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định. Nhiều kiểu thức động
vật trong các đồ án ô hộc ngang tứ thời ở nội thất Thiên Định Cung được tác
giả Trần Đức Anh Sơn đánh giá là có tính dân gian như gà, vịt, sóc, vẹt, dê…
[90, tr.421]. Các loại cây đi kèm với con thú như khế (tổ hợp khế - vẹt/két), lê
(tổ hợp lê - dê/dương), nho (tổ hợp nho - sóc) cũng đều là những loại cây mang
màu sắc của cuộc sống bình dân thường nhật. Chúng được bố trí xen lẫn với
các kiểu thức mai, trúc, cúc, tùng… của bộ tứ thời truyền thống mà các nhà
nghiên cứu đã thống kê. Ngoài những kiểu thức trên, cũng cần xét đến tổ hợp
tiêu - tượng (chuối - voi) được sử dụng trong bộ đề tài tứ thời ở lầu Ngũ Phụng
và cổng Chương Đức. Tổ hợp này đã được tác giả Trần Lâm Biền nhắc đến khi
nói tới tính dân gian trong NTTT cung đình [21, tr.70]. Nếu so sánh với các
KTCĐ ở các đời vua trước, lấy ví dụ ngay tại hai dải trang trí pháp lam bờ nóc
của lầu Ngũ Phụng và điện Thái Hòa (phần trang trí được giữ lại khi vua Khải
Định cho tu bổ hai công trình này), những kiểu thức dân gian như trên không
thấy xuất hiện [PL7, H3.4, tr.274].
Lý giải sự xuất hiện của các kiểu thức dân gian, NCS cho rằng, những
người nghệ nhân chế tác nên những đồ án TTKSS đều xuất phát từ bình dân và
bản thân họ đã sẵn có những ngôn ngữ đậm tính chất dân gian thường nhật.
Trong khi đó, ở triều ngược lại, tư tưởng tiếp thu cái mới của triều đình Nguyễn
và vua Khải Định tạo điều kiện cho sự tiếp nhận cái mới vào TTKT cung đình.
Bản thân vua Khải Định cũng lại thể hiện sự trân trọng đối với mỹ thuật truyền
thống khi ông đã nói “mỹ thuật là tiêu biểu cho giao thông, điển lễ, chính trị và
tâm lý của dân tộc ấy” [81, tr.421]. Chính vì vậy, sự xuất hiện của các kiểu thức
dân gian trong các đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định vừa cho thấy sự
thoát ra khỏi những bó buộc trong TTKT cung đình nhưng cũng vừa thể hiện
sự kế thừa cái nền của trang trí truyền thống bản địa. Đồng thời, những kiểu
thức trang trí dân gian vừa tạo nên sự mới mẻ cho TTKT thời Khải Định lại
113
vừa tăng cường bản sắc truyền thống cho chính những công trình mà chúng
được sử dụng.
* Sự trở lại của đề tài nhân vật, điển tích
Việc sử dụng hình tượng người trong NTTT truyền thống ở Huế nói
chung là rất hạn chế. Trong KTCĐ triều Nguyễn nói chung, các đề tài nhân vật
- điển tích sử dụng xuất hiện trên kiên trúc thường đi theo cốt truyện Nho - Lão,
thể hiện một cách cụ thể nội dung của theo một bố cục quy ước nhất định. Do
vậy, nó không phù hợp trong việc đóng vai trò là biểu tượng chốn hoàng cung,
thể hiện hoài bão, ước vọng mà người xưa muốn thể hiện trên KTCĐ. Trong
KTCĐ triều Nguyễn ở các đời từ Gia Long đến Tự Đức, rất hiếm công trình sử
dụng hình tượng người trong TTKT. Trong khu vực Hoàng thành Huế, chỉ ghi
nhận duy nhất Triệu Miếu sử dụng đề tài nhân vật trong TTKT với điển tích
Nhị thập tứ hiếu. Công trình này được xây dựng năm 1804 vào thời Gia Long,
khi mà Hoàng thành Huế mới bắt đầu triển khai xây dựng và các thiết chế, quy
tắc vẫn chưa quá khắt khe [77]. Trên hệ thống lăng tẩm của các vị vua đầu triều,
đề tài nhân vật chỉ xuất hiện ở các tượng đá đứng chầu trước lăng và hầu như
không xuất hiện trên kiến trúc. Tuy nhiên, bắt đầu từ thời Đồng Khánh, đề tài
nhân vật đã xuất hiện trở lại trang trí KTCĐ với những đồ án TTKT sử dụng
đề tài nhân vật ở điện Ngưng Hy (lăng Đồng Khánh). Tiếp đến đời Duy Tân,
đề tài nhân vật đã được nhìn thấy ở ô hộc mặt bên chính điện điện Long An.
Những năm đầu tiên thời Khải Định, đề tài người lại tiếp tục được tiếp nối ở bi
đình của lăng Kiên Thái Vương và cũng đã được tác giả Phan Thanh Bình ghi
nhận [16, tr.116 - 120]. Tiếp đó, từ lăng tẩm, đề tài nhân vật đã có mặt trong
khu vực Hoàng thành và Tử Cấm thành Huế, cụ thể là Thái Bình Lâu và Trường
An Môn. Ngoài ra, còn có nhà hát Cửu Tư Đài thuộc cung An Định bên bờ nam
sông Hương. Như đã phân tích ở chương 2, các chủ đề nhân vật sử dụng trong
nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định cũng vẫn xoay quanh các điển
114
tích Nho - Lão với mong cầu trường thọ, phú quý, an nhàn. Tuy nhiên, các công
trình sử dụng đề tài nhân vật nói trên đều là những công trình có tính chất phụ
trợ (nhà hát, nhà đọc sách, cổng), không nằm trên trục chính của quần thể
KTCĐ triều Nguyễn. Ở những khu vực quan trọng nhất như trục Dũng đạo của
Kinh thành, không một công trình nào xuất hiện hình tượng người trên kiến
trúc. Do đó, những quy tắc về TTKT được thiết lập ở các đời vua trước nhìn
chung vẫn được tuân thủ. Dẫu vậy, với tiền đề từ thời Đồng Khánh, việc sử
dụng đề tài nhân vật cũng tạo nên nét riêng biệt của nghệ thuật TTKSS thời
Khải Định so với các đời trước. Đó cũng là sự khác biệt đối với các hình thức
TTKT khác trong khu vực Hoàng thành Huế nói riêng và toàn bộ quần thể
KTCĐ triều Nguyễn nói chung.
* Sử dụng kiểu thức cát tường tự văn trong trang trí con giống bờ nóc
Cát tự tường văn cũng đã bắt đầu xuất hiện ở loại hình trang trí con giống
vào đời Thành Thái - Duy Tân. Đó là đồ án trang trí trung tâm bờ nóc tam quan
khu lăng của lăng Dục Đức, xây dựng vào năm 1890 [80, tr.117, 118] [PL7,
H3.1, tr.273]. Sau đó, kiểu thức này bắt đầu xuất hiện tại Kinh thành khi có mặt
ở đồ án trang trí con giống bờ nóc chính doanh Di Luân Đường xây dựng thời
Duy Tân [80, tr.560] [PL7, H.3.2, tr.273]. Đến thời Khải Định, thì kiểu thức
này đã được đưa vào trong các đồ án trang trí bờ nóc ở nơi cung cấm của Hoàng
thành và Tử Cấm thành khi nó xuất hiện ở Thái Bình Lâu [PL7, H.3.3, tr.273]
và bình phong phía sau Trường An Môn. Đối với các cung điện, mặc dù chỉ
xuất hiện duy nhất tại Thái Bình Lâu, nhưng việc sử dụng kiểu thức chữ Thọ
thay thế cho các kiểu thức đã qui định trong Hội điển như viên ngọc, bình thiên
mệnh, mặt trời cũng đã cho thấy sự cách tân về sử dụng kiểu thức trong nghệ
thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định. Về ý nghĩa, chữ Thọ vẫn duy trì hàm
ý về sự trường tồn như các kiểu thức của đề tài vũ trụ - thiên nhiên. Tuy nhiên về
tạo hình, nó mang đến một nét mới cho NTTT triều Nguyễn. Đồng thời, nó cũng
115
cho thấy khả năng vận dụng linh hoạt kiểu thức trang trí của người nghệ nhân xưa
mà vẫn không làm thay đổi mục đích muốn trang trí truyền tải trên kiến trúc.
* Sử dụng kiểu thức trang trí phương Tây
Sự xuất hiện của các kiểu thức đồ vật phương Tây cũng là một trong
những điểm khác biệt của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định so
với NTTT ở các đời trước trong QTDT Cố đô Huế. Hình ảnh của những đồ vật
phương Tây trên KTCĐ, vốn khác biệt hẳn với các vật dụng truyền thống
phương Đông, thực sự mang đến sự mới lạ cho TTKT cung đình. Những kiểu
thức phương Tây trong trong đề tài đồ vật tại nội thất Thiên Định Cung đã được
tác giả Trần Đức Anh Sơn ghi nhận là “lần đầu tiên trong lịch sử trang trí thời
Nguyễn… bên cạnh những đồ án trích rút từ kinh điển Nho giáo” [89].
Nếu nói rằng vua Khải Định hiếu kỳ và chuộng cái lạ thì tại sao chỉ có
đồ vật mà không có các kiểu thức phương Tây ở các đề tài khác (động vật hoặc
chữ viết) có mặt trong những đồ án TTKSS? Theo nhận định của NCS, các kiểu
thức đồ vật hiện đại được sử dụng đều có lý do riêng và có thể giải thích dưới
góc độ nghiên cứu biểu tượng. Như đã phân tích, chủ trương của triều đình
Nguyễn trong giai đoạn này là duy trì nền quân chủ và do đó, những biểu tượng
của quyền lực, hoàng gia thể hiện trên các đề tài vũ trụ - thiên nhiên, tứ linh -
linh thú là “bất khả xâm phạm”. Tuy nhiên, nhà Nguyễn vẫn lựa chọn hiện đại
hóa là một trong những biện pháp để tồn tại, mà tiến trình này không chỉ tác
động đến các vấn đề chính trị, xã hội, khoa học kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến
những sinh hoạt, công việc thường nhật. Vua Khải Định cũng đã nói: “Ngày
nay phong hội đều thay đổi, lễ số không nên quá trói buộc” [81, tr.435]. Đồng
thời, Chính biên đệ thất kỷ cho biết, năm 1921, điện thoại được lắp đặt “từ lầu
Kiến Trung tới Nội các, từ Nội các tới Cơ mật viện, lại từ viện đến các sở Hội
lý của Tòa Khâm sứ” [81, tr.341]. Trong khi đó, những kiểu thức cuốn sổ, bút
chì, kính lúp, đồng hồ… đều là những đồ vật thông dụng, cần thiết của cuộc
116
sống hiện đại. Có thể trong TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, trong phạm
vi cho phép, chúng được bổ sung vào bộ đề tài bát bửu truyền thống như để
phản ảnh tư tưởng hiện đại hóa của nhà vua nhưng đặt trong sự kiểm soát của
các hình tượng truyền thống. Hay nói cách khác, chúng là hình ảnh của “thời
đại” trong TTKT cung đình truyền thống và ý nghĩa mà chúng mang lại cũng
không thể lấn át được những biểu tượng vương quyền, biểu tượng Nho - Lão
mà vua Khải Định vẫn cố gắng duy trì. Ngoài ra, sự xuất hiện của các kiểu thức
mới này cũng đã góp phần làm phong phú thêm các hình mẫu kiểu thức cho đề
tài, giúp cho tránh được sự lặp lại khi cùng thể hiện trên một công trình.
3.1.1.2. Sự cách tân về bố cục tổng thể hệ thống trang trí
Về cơ bản, bố cục của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
tuân thủ theo TTKT của các đời vua trước về thể hiện trên các nguyên tắc đối
xứng, hướng tâm và sự sắp xếp dựa trên tính quan trọng của biểu tượng trang
trí. Trên cơ sở kế thừa truyền thống, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định vẫn có những đổi mới để tạo nên những đặc trưng, dấu ấn riêng của chúng
về mặt bố cục trang trí tổng thể so với các hình thức TTKT khác cũng như chính
hình thức TTKSS ở các thời kỳ trước. Sự khác biệt đó thể hiện ở những khía
cạnh sau:
* Sự gia tăng tính hướng tâm và lực hút thị giác về điểm nhấn trung tâm
ở trang trí bờ nóc mái
Ở TTKT cung đình các đời trước, bờ nóc mái thường chỉ có 03 đồ án
trang trí con giống với đồ án trung tâm và 02 đồ án ở hai góc bên hồi. Có thể
thấy cách thức bố cục này vẫn hiện diện trên các công trình như Thế Miếu, điện
Sùng Ân, điện Biểu Đức cho đến tận ngày nay. Việc bố trí số lượng đồ án ít
trên một dải bờ mái dài, đặc biệt như Thế Miếu là tòa nhà 11 gian 2 chái, sẽ
gây cảm giác “trống chải”, giảm đi lực hút thị giác về phía đồ án trung tâm, dẫn
đến điểm nhấn trung tâm không được nhấn mạnh.
117
Ngay từ giai đoạn Đồng Khánh - Duy Tân, việc giảm bớt sự “trống chải”
trong bố cục trang trí con giống bờ nóc đã được quan tâm. Những công trình
quan trọng của thời kỳ này như điện Ngưng Hy, điện Hòn Chén (đời Đồng
Khánh) và điện Long An (thời Duy Tân) đều đã bắt đầu được bổ sung thêm 02
đồ án ở hai bên đồ án con giống trung tâm. Nguyên tắc này tiếp tục được phát
triển ở hệ thống các đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định khi những công
trình có dải bờ mái kéo dài từ 5 gian trở lên (điện Thái Hòa, điện Kiến Trung,
Thái Bình Lâu) đều có ít nhất 05 con giống trang trí ở bờ nóc. Riêng đối với
điện Kiến Trung, một công trình kiến trúc phương Tây, khi mà bờ nóc trải dài
trên 9 gian theo phân vị mặt đứng, có tổng cộng 07 đồ án chính và 04 đồ án phụ
được thiết lập phủ kín dải bờ mái [PL6, H.2.26, tr.240]. Trường hợp Thái Bình
Lâu, đồ án con giống trung tâm (năm đĩa tròn chữ Thọ và rồng) và 02 đồ án hai
bên (đôi phụng chầu) được tích hợp thành một đồ án tạo thành một tổ hợp trên
đỉnh bờ nóc [PL7, H.3.23, tr.282].
Như vậy, bằng cách tăng thêm số lượng đồ án trang trí hướng về đồ án
trung tâm, lực hút thị giác hướng về đồ án này trở nên mạnh hơn, từ đó tăng
khả năng nhận diện cũng như làm mạnh hơn ý nghĩa mà người xưa muốn nó
thể hiện thông qua nghệ thuật TTKSS trên KTCĐ thời Khải Định.
* Đảo chiều hướng của đồ án trang trí bờ chảy, bờ quyết mái
Thông thường, trong TTKT cung đình triều Nguyễn, vị trí con giống bờ
chảy, bờ quyết thường sử dụng các con hồi long (hướng đầu ngược chiều với
hướng chuyển động của thân). Tuy nhiên, ở một số đồ án TTKSS trên kiến trúc
thời Khải Định, tại các vị trí này trên nhiều công trình, con hồi long được thay
thế bằng con rồng xô (hướng đầu cùng chiều với hướng chuyển động của thân).
Điều này có nghĩa là, hướng của đồ án trang trí ở các vị trí nói trên không nhìn
về phía trung tâm của kiến trúc mà hướng ra bốn phía của không gian xung
quanh. Con rồng xô bờ quyết xuất hiện ngay ở một trong những công trình đầu
118
tiên mà vua Khải Định cho xây dựng là đình Trung Lập ở cung An Định [PL7,
H.3.6, tr.275]. Sau đó, nó tiếp tục hiện diện trong khu vực Hoàng thành trên
những công trình nằm trên trục Dũng đạo như lầu Tứ Phương Vô Sự [PL7, H.3.5,
tr.275] và điện Kiến Trung [PL7, H.3.7, tr.275]. Không chỉ trong TTKSS, tại
lăng Khải Định, rồng xô còn được sử dụng ở bi đình và ngoại thất Thiên Định
Cung, những công trình sử dụng hình thức TTKT nề vôi vữa. Có thể nói, rồng
có hướng nhìn ra ngoài chính là một đặc điểm riêng chỉ có ở TTKT cung đình
thời Khải Định. Khi được đặt ở bờ quyết hay bờ chảy, rồng xô được tạo hình
vươn ra bên ngoài như đang chuẩn bị sẵn sang đón nhận những điều mới mẻ. Rất
có thể, tư tưởng tiếp thu cái mới, hiện đại hóa của vua Khải Định đã được thể
hiện qua hình ảnh con rồng xô bờ quyết. Tuy nhiên, nó vẫn chỉ được bố trí ở vị
trí phụ, thấp hơn vì ở các vị trí cao nhất trên bờ nóc, các nguyên tắc bố cục trang
trí truyền thống vẫn được tuân thủ như chính mục đích duy trì nền quân chủ của
triều đình.
* Sử dụng kiểu thức “thi trong họa” thay thế cho bố cục tranh liên hoàn
“nhất thi - nhất họa” trong trang trí ô hộc
Trước thời Khải Định, dấu ấn của hai bố cục “nhất thi nhất họa” và “nhất
tự nhất họa” vẫn còn lưu lại trên các công trình quan trọng trong khu vực Đại
Nội và các lăng tẩm như Thế Miếu, điện Thái Hòa, điện Sùng Ân, điện Biểu
Đức. Đến đời Tự Đức, do lấy chữ “Khiêm” để tự răn mình nên nhà vua không
tiếp tục duy trì cách thức bố cục này [35]. Chúng chỉ trở lại bắt đầu từ thời Đồng
Khánh và vẫn còn lưu dấu trên hệ thống trang trí ô hộc tại điện Ngưng Hy, lăng
Đồng Khánh và không được ghi nhận thêm ở bất cứ công trình được xây mới
nào trong hệ thống KTCĐ triều Nguyễn.
Qua khảo sát thực tế, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
vẫn duy trì sử dụng các đề tài liên quan đến chữ Hán. Những kiểu trang trí như
“nhất tự nhất họa”, cát tường tự văn, câu đối vẫn được kế thừa. Tuy nhiên, thơ
119
văn trên kiến trúc thì không được phổ biến như các thời kỳ trước. Trên các công
trình KTCĐ mà vua Khải Định cho tu bổ, như lầu Ngũ Phụng hay điện Thái
Hòa, bố cục “nhất thi nhất họa” còn lưu lại trên kiến trúc là của hai hình thức
trang trí pháp lam và trang trí chạm khắc gỗ kết hợp sơn thếp mà không phải là
hình thức TTKSS. Tham khảo thống kê của tác giả Nguyễn Phước Hải Trung,
không thấy xuất hiện thơ văn trên một ô hộc khảm sành sứ riêng biệt và đồng
thời, tỷ lệ thơ văn được thể hiện bằng khảm sành sứ là rất ít [107, tr.28].
Nếu cho rằng để chế tác một ô thơ khảm sành sứ đòi hỏi sự cầu kỳ, phức
tạp trong việc cắt, tỉa mảnh ghép thì chưa hẳn chính xác. Vì những chi tiết chữ
nhỏ vẫn xuất hiện trên các câu thơ nằm trong ô hộc ở nội thất Thiên Định Cung
hay bài Ngự chế của vua Khải Định ở Thái Bình Lâu. Hoặc việc xuất hiện các
kiểu thức kiến trúc phương Tây làm mất không gian dành cho “nhất thi nhất
họa” cũng không hoàn toàn hợp lý. Vì trên kiến trúc phương Tây, vẫn có những
chi tiết kiến trúc được thiết lập dành cho bố cục trang trí ô hộc truyền thống
như bờ nóc, tường chắn mái ở điện Kiến Trung hoặc dải ô hộc hai tầng ở nội
thất Thiên Định Cung. Do đó, việc bố cục “nhất thi nhất họa” không được sử
dụng trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định không đến từ các
lý do tạo hình và kiến trúc. Nhìn nhận từ góc độ lịch sử, theo tác giả Nguyễn
Phước Hải Trung: “Ở giai đoạn sau 1884, khi đất nước và triều Nguyễn đã
thuộc quyền “bảo hộ” của thực dân Pháp, kiến trúc cung đình Nguyễn đã đi vào
giai đoạn thoái trào. Những quy chuẩn, điển lệ không còn được áp dụng, việc
chạm khắc thơ trên kiến trúc có phần chiếu lệ” [107, tr.58]. Dường như, có thể
đó cũng chính là lý do mà bố cục “nhất thi nhất họa” không xuất hiện trong
nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
Việc lối trang trí “nhất thi nhất họa” không xuất hiện không có nghĩa là
sự kết hợp thi - họa trong NTTT cung đình đã không còn được sử dụng. Ở
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định. Ở những công trình mới xây dựng dưới
120
thời Khải Định, tại Thiên Định Cung vẫn duy trì cách trang trí kết hợp thi - họa
tại 24 ô hộc đứng trang trí đề tài Tứ thời nằm ở bốn mặt của điện Khải Thành.
Tuy nhiên, kiểu trang trí “nhất thi nhất họa” đã được thay thế bằng hình thức
kết hợp trực tiếp một bài thơ vào một bức tranh tạo thành kiểu “trong họa có
thi, trong thi có họa”.
Như đã phân tích ở mục 2.3.2, là một công trình kiến trúc phương Tây,
không gian kiến trúc nội thất điện Khải Thành - Thiên Định Cung được hình
thành dựa trên sự mô phỏng không gian kiến trúc nội thất tương đồng về công
năng của một tẩm điện kiến trúc gỗ (điện Sùng Ân, điện Biểu Đức…). Vì vậy,
bốn mặt tường của điện Khải Thành được phân chia thành tương tự cách phân
chia hệ thống ván, vách của không gian thờ cúng trong kiến trúc gỗ. Từ đó,
hình thành nên hệ thống những ô hộc đứng có kích thước lớn, tạo nên nhiều
khoảng trống có thể đưa thêm họa tiết trang trí bên cạnh các đồ vật, cây cỏ,
động vật. Cùng với đó, những ô hộc đứng này có tỷ lệ khung hình phù hợp với
khung hình của một bức tranh thủy mặc trong mỹ thuật cổ phương Đông. Do đó,
những khoảng trống còn lại đã được người xưa đưa vào các câu thơ như lời đề từ
cho một bức tranh phong cảnh. Như vậy, ở góc độ mỹ thuật, các đồ án trang trí
trong ô hộc không chỉ đóng vai trò làm đẹp kiến trúc mà nó có thể được xem như
một tác phẩm nghệ thuật gắn trực tiếp trên bề mặt tường [PL6, H.2.35, tr.245].
3.1.2. Sử dụng yếu tố phương Tây trong hình thức biểu đạt
Không chỉ có kiến trúc, mà các thủ pháp của mỹ thuật phương Tây cũng
được tiếp nhận và thể hiện trong NTTT trên kiến trúc triều Nguyễn. Biểu hiện
rõ nhất cho sự xuất hiện của các yếu tố mỹ thuật phương Tây thuần túy là hệ
thống hoa văn trang trí tường, trần, khung cửa, khung tranh của Khải Tường
Lâu, cung An Định mang đậm nét của nghệ thuật trang trí Baroque. Cùng với
đó là sáu bức tranh tường vẽ theo lối tả thực phương Tây ở ngay sảnh khánh
tiết của công trình.
121
Đến thời Khải Định, thông qua nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc, các yếu
tố phương Tây vẫn tiếp tục được tiếp nhận nhưng chúng đã được biến đổi để
kết hợp với các yếu tố truyền thống và thể hiện rất rõ bên trong các đồ án trang
trí thông qua các yếu tố tạo hình, chất liệu và màu sắc.
3.1.2.1. Yếu tố phương Tây trong tạo hình
Yếu tố phương Tây trong tạo hình của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định
được nhìn nhận theo hai chiều. Ở chiều thứ nhất, đó là sự tiếp nhận và chuyển
hóa các kiểu thức phương Tây thành những tạo hình có tính truyền thống. Ở
chiều ngược lại, đó là sử dụng các thủ pháp tạo hình của phương Tây để thể
hiện các họa tiết trang trí của phương Đông. Sự tiếp nhận yếu tố phương Tây ở
cả hai chiều nói trên đều đem đến sự mới lạ cho tạo hình của nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định.
* Chuyển hóa kiểu thức phương Tây thành kiểu thức có tính truyền thống
Khải Tường Lâu, công trình được xây dựng khi vua Khải Định chưa lên
ngôi, là một kiến trúc chịu ảnh hưởng của phương Tây hoàn toàn từ kiến trúc tới
trang trí mỹ thuật, từ các không gian trang trí nội, ngoại thất cho đến họa tiết trang
trí trên kiến trúc. Sau công trình này, những yếu tố mỹ thuật phương Tây được
đưa vào KTCĐ triều Nguyễn đều được xử lý để đưa chúng về gần gũi với truyền
thống phương Đông bằng cách kết hợp với những yếu tố mỹ thuật bản địa.
Như đã phân tích, sử dụng kiểu thức phương Tây đã là một trong những
yếu tố hình thành nên đặc trưng của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
Định. Tuy nhiên, khi so sánh với các kiểu thức phương Tây thuần túy ở Khải
Tường Lâu, chúng có hình ảnh hoàn toàn khác biệt [PL7, H.3.8, tr.276]. Sự
khác biệt đó chính là bởi chúng đã được “hóa” trong một phông nền trang trí
đậm đặc tính truyền thống mà người xưa đã xử lý thông qua hai cách:
- Thứ nhất, về tạo hình, đi cùng với các đồ vật phương Tây luôn luôn có
các chi tiết truyền thống kèm theo. Các kiểu thức “cổ đồ triền chi” trong trang
122
trí ô hộc tại lăng Khải Định chính là minh chứng rõ nhất của cách thức này.
Những kính lúp, kính mát, cuốn sổ da… được cuốn quanh bởi những dải lụa
hay dây lá cũng giống như những cuốn thư, đàn, ống sáo, hồ lô… khiến chúng
như thể là một phần của bộ bát bửu truyền thống mà như Trần Đức Anh Sơn
đã nhận xét là bộ bát bửu “mở rộng” [89] [PL7, H.3.13, tr.277]. Tương tự, ở
các kiểu thức trang trí đỉnh vòm cửa, chiếc bình ở Trường An Môn, dù là kiểu
thức chính, cũng được bao quanh bởi các chi tiết truyền thống như linh thú, dải
lụa, dây lá và cả những họa tiết vân xoắn thường được sử dụng cho con rồng
“hóa” [PL7, H.3.10, tr.277]. Hoặc cái đèn điện ở điện Kiến Trung, ngoài việc
được cuốn xung quanh bởi dây lá, các mặt kính của nó được biến thành các ô
hộc để đưa vào đó các kiểu thức trang trí truyền thống [PL7, H.3.12, tr.277].
- Thứ hai, về bố cục các họa tiết trong khung hình của ô hộc, các đồ vật
phương Tây thường được đặt chung với các đồ vật truyền thống phương Đông.
Trong trang trí ô hộc tại nội thất Thiên Định Cung, cái đồng hồ báo thức kiểu
Tây được đặt cùng với đỉnh trầm, bình hoa, hòn non bộ là các kiểu thức phương
Đông [PL7, H.3.9, tr.276]. Mở rộng ra bố cục trang trí tổng thể của cả hệ thống
đồ án trang trí, các đồ vật phương Tây được bố trí xen kẽ với các đồ vật của bộ
bát bửu phương Đông. Những cách bố trí trên khiến cho những đồ vật hiện đại
đó dường như “chìm” hẳn vào trong không gian trang trí truyền thống mà như
cách nói của tác giả Nguyễn Hữu Thông, “chúng yên ổn tồn tại trong cuộc sống
chung với không gian riêng có của mình” [100, tr,198] [PL7, H.3.9, 3.13,
tr.276, 277]. Ở một số trường hợp khác, như đối với các kiểu thức đỉnh vòm
cửa ở điện Kiến Trung, Trường An Môn, không gian đậm đặc tính truyền thống
phương Đông bao quanh khiến chúng như thể chỉ là những điểm nhấn sinh
động, thể hiện sự mới mẻ, tính “thời đại” biểu hiện trên toàn bộ hệ thống TTKT.
123
* Sử dụng thủ pháp phương Tây để thể hiện họa tiết truyền thống
Theo tác giả L.Cadiere, các kiểu thức trang trí Huế nói chung thường
được mô tả “một cách ước lệ, không chỉ những trang trí vật dụng từ đường kẻ,
mà ngay cả với hình ảnh những đám mây, muông thú, vật vô tri [“tĩnh vật”, “cổ
đồ”], biển cả hay những khối đá” [63, tr.154].
Đến thời Khải Định, mặc dù tính ước lệ vẫn được duy trì nhưng với thủ
tạo hình tả thực của phương Tây đã được sử dụng để mô tả các kiểu thức trang
trí. Như đối với kiểu thức rồng, ngoài việc mô tả một cách chi tiết các bộ phận
của cơ thể, một điểm làm nên nét đặc sắc của chúng trong tạo hình đó chính là
tư thế chuyển động của chúng. Rồng trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc
thời Khải Định được thể hiện rất sinh động thông qua các trạng thái “tĩnh”,
“động”. Ở trạng thái “tĩnh”, đầu rồng ép sát xuống thân, độ lượn sóng của thân
thấp, các tua đuôi trong thế như đang cụp lại. Ở trạng thái “động”, đầu rồng
ngẩng lên và vươn cao so với thân, độ lượn sóng của thân cao, các tua đuôi
trong thế đang xòe ra. Ví dụ rõ ràng nhất về hai thế “tĩnh” và “động” của rồng
là các đồ án hồi long ở bờ quyết mái thượng và mái hạ của điện Thái Hòa [PL7,
H.3.14, tr.278]. Trong khi con rồng bờ quyết mái thượng nằm ép xuống bờ mái
thì con rồng bờ quyết mái hạ, ở vị trí thấp hơn, như đang muốn vươn lên để cùng
nhìn về phía đồ án trung tâm.
Tính tả thực trong nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định còn
được thể hiện trong việc mô tả chất liệu của vật thể được trang trí mà NCS đã
nêu ví dụ là chiếc bửu tán ở nội thất Thiên Định Cung. Dù có phần cốt tạo hình
từ loại vật liệu thô cứng là BTCT, nhưng lớp phủ là những mảng TTKSS đã
biến nó chở nên mềm mại, tạo cảm giác cho người xem đang chiêm ngưỡng
một chiếc bửu tán được làm từ vải thật. Ngay trong những đồ án cây cỏ, đồ vật
được vốn thường được mô tả theo quy ước, thì người nghệ nhân cũng cố gắng
thể hiện nó chân thật nhất với sự vật thực như sự mềm mại của những cánh hoa,
124
dải lụa, sự rắn chắc của bình hoa, đỉnh đồng hay sự sống động của những con
chim, thú.
3.1.2.2. Yếu tố phương Tây trong trong chất liệu và màu sắc
Chất liệu chính là minh chứng rõ nhất cho sự góp mặt của yếu tố phương
Tây trong mỗi đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định. Đó chính là các loại
sứ, thủy tinh màu, thủy tinh trong được nhập từ Pháp, Trung Hoa và Nhật Bản.
Những chất liệu này kết hợp cùng với các loại sành sứ cổ sẵn có để cùng nhau
hình thành bề mặt cho mỗi đồ án trang trí. Sự kết hợp của hai nhóm chất liệu
Đông - Tây này làm cho mỗi đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định vừa
có sự trầm mặc của sành cổ, vừa có sự lung linh rực rỡ của sứ, thủy tinh màu,
tạo nên sự cân bằng, hài hòa về tông độ. Như tác giả Chu Quang Trứ đã nhận
định: “Nghệ nhân đã lợi dụng được màu men, màu hoa văn của mảnh sành sứ,
với những thủy tinh màu trong suốt, tạo sự tương phản giữa cái trầm, đanh với
cái óng ả, trong trẻo và được làm phong phú do sự phản quang qua lại, làm cho
các hình đã đẹp ở nét và mảng lại đẹp ở màu nữa” [21, tr.117].
Từ chất liệu dẫn đến màu sắc, đó là hệ màu ngũ sắc truyền thống của
những mảnh sành cổ và những màu sắc mới đến từ sứ và thủy tinh ngoại nhập.
Chính sự tham gia của những màu sắc mới này và sự quan tâm đến hòa sắc (đặc
biệt là hòa sắc tương phản), phối màu, tổ hợp màu để mô tả một cách trung thực
nhất vật thể muốn thể hiện đã khoác lên những đồ án TTKSS trên kiến trúc thời
Khải Định một bộ mặt mới mẻ so với các hình thức TTKT khác. Ví dụ như
trang trí pháp lam, màu sắc sử dụng chỉ xoay quanh các màu ngũ sắc của pháp
lam Huế [PL5, H.1.16, tr.220]. Tương tự là trang trí sơn thếp chủ yếu là các
màu đỏ son, xanh, vàng hoặc trắng (bao gồm màu của vàng và bạc thếp) [PL5,
H.1.18, tr.221]. Ngoài ra, các trang trí chạm khắc gỗ, đá chủ yếu sử dụng màu
sắc tự thân của vật liệu [PL5, H.1.17, 1.23, tr.220, 223]. Ngay đối với TTKSS
125
ở các đời trước đó, chủ yếu sử dụng màu sắc sẵn có, tự thân của các mảnh ghép
để mô tả sự vật mà không quan tâm đến màu sắc thực tế của chúng.
3.1.3. Sự sáng tạo và sự tinh xảo
Trong TTKT cung đình triều Nguyễn, trước thời Khải Định, tính thẩm
mỹ, sự tỉ mỉ được thể hiện trên các đồ án trang trí bởi bàn tay khéo léo của
những người thợ thủ công đã được đánh giá rất cao. Đến thời Khải Định, sự
tiếp nhận các yếu tố mới về kiểu thức, thủ pháp tạo hình, chất liệu màu sắc…
cùng với những không gian mới của kiến trúc phương Tây đòi hỏi người thợ
phải tìm giải pháp hợp lý để tiếp nhận, chuyển hóa nhằm đảm bảo vừa giữ được
tư tưởng truyền thống lại vừa thể hiện được tính thời đại cho hệ thống các đồ
án trang trí trên công trình kiến trúc. Đồng thời, khảm sành sứ là một kỹ thuật
phức tạp và vì vậy, để thể hiện được những cái mới về tạo hình nói trên, cũng
đặt ra yêu cầu khắt khe về tay nghề của người thực hiện. Những điều nói trên
đã làm nên sự sáng tạo và tinh xảo cho nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời
Khải Định.
3.1.3.1. Sự sáng tạo
NTTT truyền thống Huế được đánh giá là khá nghèo nàn về đề tài. Tuy
nhiên, tác giả Trần Thanh Nam đã chỉ ra rằng “sự gò bó của đề tài đã thách thức
tư duy sáng tạo của các nghệ nhân, sự hạn chế của nội dung trở thành đòn bẩy
cho những tìm tòi hình thức biểu hiện mới” [66, tr.138]. Hệ thống các đồ án
TTKSS thời Khải Định là minh chứng rõ nét cho luận điểm của tác giả với nhiều
đồ án trang trí được thể hiện một cách sáng tạo và tinh tế. Bên cạnh việc sáng
tạo ra nhiều dạng tạo hình để mô tả cùng một chủ đề, kiểu thức thì nghệ thuật
TTKSS thời Khải Định cũng có một số thủ pháp thể hiện chỉ có ở riêng nó.
Trước tiên phải kể đến kỹ thuật “điểm mắt” trong các đồ án trang trí rồng.
Trong trang trí các con vật của đề tài linh thú nói chung, mắt, tuy chỉ là một chi
tiết nhỏ, lại là một yếu tố rất quan trọng quyết định sự hoàn thiện của đồ án.
126
Tạo hình mắt bao giờ cũng được thực hiện ở công đoạn cuối cùng và nó đem
lại “thần thái” cho con thú, đặc biệt đối với các đồ án ở khu vực mái đa số có
hướng nhìn về trung tâm kiến trúc. Đến thời Khải Định, tạo hình mắt đã có
bước phát triển, gọi là kỹ thuật “điểm mắt” [PL7, H.3.15, tr.278]. Nhờ có sự
xuất hiện của thủy tinh, mắt con giống lúc này được cấu tạo bởi hai lớp. Lớp
thủy tinh tròng mắt phủ ngoài và lớp con ngươi ở phía trong. Trong đó, lớp
tròng mắt có thể là thủy tinh màu hoặc thủy tinh trong, lớp con ngươi có thể là
lớp nề vữa điểm màu, điểm sành, thủy tinh hoặc thậm chí là miếng giấy đen,
kim loại. Đây là kỹ thuật rất phức tạp, đòi hỏi tay nghề, sức sáng tạo và khả
năng cảm thụ nghệ thuật của người thực hiện. Kỹ thuật “điểm mắt” trong nghệ
thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định mang lại sức sống cho các đồ án
trang trí thời kỳ này. Những ví dụ tiêu biểu có thể kể đến là con rồng bờ nóc
Thái Bình Lâu, các con rồng ở điện Thái Hòa hay Thiên Định Cung.
Sự sáng tạo còn được thể hiện trong việc tổ chức các không gian trang
trí. Đó là việc tổ chức các lớp trang trí trên chiều sâu hình khối của những kiểu
thức kiến trúc khác nhau (trùng thiềm điệp ốc, phương đình, kiến trúc phương
Tây) hay kết nối những cấu trúc có kết cấu khác nhau về một thể thống nhất
(sảnh BTCT và kiến trúc gỗ ở Thái Bình Lâu). Cùng với đó trong nội thất, là
việc biến đổi những không gian rộng lớn của kiến trúc phương Tây trở về những
không gian trang trí mang tính truyền thống. Những công việc này thể hiện tư
duy về không gian và đòi hỏi sự sáng tạo của những người thực hiện.
Sự sáng tạo còn được thể hiện thông qua việc tiếp nhận các kiểu thức
trang trí mới, đặc biệt là các kiểu thức phương Tây và “hóa” chúng trở thành
những hình ảnh quen thuộc của trang trí truyền thống hay việc thể hiện những
tạo hình khác nhau của cùng một kiểu thức trang trí.
Việc tiếp nhận những chất liệu mới để từ đó bổ sung thêm các màu sắc,
vận dụng hòa sắc tương phản, tạo nên chiều sâu, tông màu, sắc độ cho mảng
127
trang trí cũng chính là những yếu tố làm nên tính sáng tạo của nghệ thuật
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định.
Không thể không nhắc đến những thủ pháp thể hiện đầy tính sáng tạo
khác của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định như để họa tiết vượt ra khỏi phạm
vi khung hình trang trí, sử dụng hình nghịch lý. Cách thể hiện họa tiết vượt ra
khỏi phạm vi khung hình trang trí tạo nên chiều sâu không gian cho đồ án trang
trí, thể hiện sự khoáng đạt của người chế tác. Không chỉ vậy, trong nhiều đồ án
tứ thời, các thân cây còn được thể hiện khuyết đi một phần như thể nó bị “che”
khuất ở phía sau khung hình của ô hộc [PL6, H.2.35, tr.245]. Những điều này
thể hiện khả năng cảm thụ không gian rất cao những người nghệ nhân. Đối với
việc sử dụng hình nghịch lý, có thể nói, tạo hình cuốn thư dạng hình nghịch lý
là một trường độc đáo, duy nhất không những cho nghệ thuật TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định và còn cả ở NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn nói chung, thể
hiện sự phát triển rất cao về tư duy thị giác của những người kiến tạo nên chúng.
Có thể nhận định rằng, sự sáng tạo không những cho thấy sự phát triển
của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định từ trang trí truyền thống mà còn bổ sung
thêm một số đặc điểm để phân biệt nghệ thuật khảm sành sứ triều Nguyễn với
tranh ghép mảnh Mosaic, cụ thể đó là:
- Việc sử dụng hai lớp màu để tạo hình trong kỹ thuật “điểm mắt” là điểm
mà các bức tranh ghép mảnh Mosaic không thể thực hiện được. Quan sát tạo
hình mắt trong tranh Mosaic [PL5, H.1.25, tr.225], dù nó vẫn đầy đủ các bộ phận
như tròng mắt, con ngươi nhưng có thể thấy nó chỉ được hình thành bởi các mảnh
ghép phẳng. Trong khi đó, mắt của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định được xử
lý như cấu tạo của con mắt thật, có hình khối, có chiều sâu và do đó, có thể cảm
nhận nó có thần thái sống động hơn so với con mắt được thể hiện trong tranh
Mosaic.
128
- Các thủ pháp thể hiện của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định khó có thể
thực hiện được đối với tranh ghép mảnh Mosaic. Bởi vì, các mảnh ghép của tranh
Mosaic chủ yếu chỉ kết hợp với nhau để tạo nên hình ảnh hai chiều phẳng, chúng
không được phối hợp để tạo nên những khối hình học phức tạp, chồng lớp như ở
nghệ thuật TTKSS thời Khải Định. Chính vì vậy, chiều sâu, độ dày không gian
của tranh ghép mảnh Mosaic (nếu có) là từ cách thức lựa chọn mảnh ghép để
chuyển tông màu trên mặt phẳng chứ không phải chiều sâu không gian thực của
nghệ thuật TTKSS thời Khải Định.
3.1.3.2. Sự tinh xảo
Trong các đồ án TTKSS thời Khải Định, kỹ thuật đắp nổi gắn mảnh sành
sứ đã gần như hoàn thiện chứ không còn đơn giản, dung dị theo kiểu “tận dụng”
để trang trí. Kỹ thuật “ghép vảy” chính là điểm đặc biệt minh chứng cho sự tinh
xảo của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, khi mà hàng trăm thậm
chí hàng ngàn chiếc vảy rồng đều được cắt tỉa tỉ mỉ và đều nhau, sau đó người
nghệ nhân sẽ gắn, xếp so le từng chiếc vảy lên trên bề mặt thân rồng đã được tạo
hình khối cơ bản trước đó [PL7, H.3.19, tr.280]. Tương tự là các kỹ thuật ghép
cánh hoa, ghép lá đều đòi hỏi phải tính toán chi tiết từng mảnh ghép, sau đó được
gắn theo các tầng - lớp trong mỗi mảng trang trí để đạt được ý đồ tạo hình [PL7,
H.3.20, tr.280].
Quá trình tạo tác các mảnh ghép trong nghệ thuật TTKSS thời Khải Định
đã có sự tính toán trong việc mài, cắt, ghép để gắn các mảnh nhỏ lên đồ án trang
trí để mô tả thực nhất vật thể cần thể hiện. Đối với những đồ án trang trí khác,
các mí ghép giữa các mảnh vỡ còn được tô màu để liên kết các mảnh ghép. Để
minh họa cho những nhận định trên, NCS tiến hành so sánh kỹ thuật thể hiện
đề tài tứ thời và đề tài quả giữa thời Khải Định và đời Tự Đức. Phương pháp
thực hiện là dựa trên cơ sở ảnh chụp đồ án trên thực tế, sau đó đồ lại hình dạng
của các mảnh ghép bằng phần mềm đồ họa máy tính và tiến hành so sánh.
129
- So sánh đồ án trang trí cây cúc thời Khải Định (ô hộc điện Khải Thành)
[hình thực tế xem PL7, H.3.18, tr.280] và thời Tự Đức (ô hộc điện Lương Khiêm-
lăng Tự Đức) [hình thực tế xem PL7, H.3.18, tr.280] trong chủ đề Tứ thời:
+ Về kỹ thuật thể hiện lá:
Thời Khải Định
Cách thể hiện lá bằng sành thời Khải Định là hình
thức giống lá thật (hay cách điệu đường nét là cho
đẹp). Kỹ thuật cắt và mài sành công phu tạo nên
đường nét như ý muốn nghệ nhân.
[Nguồn NCS]
Thời Tự Đức
Cách thể hiện lá bằng sành sứ đời Tự Đức là hình
thức cắt một cách ngẫu hứng gần như không mài
dũa.
[Nguồn NCS]
+ Về kỹ thuật thể hiện thân cây:
Thời Khải Định
Sử dụng thủy tinh màu (màu lục và màu nâu) thể
hiện thân cây gần như tả thực. Cách lựa chọn và
cắt sành cũng tỉ mỉ, công phu, thường chọn thủy
tinh (hoặc sành sứ) có độ cong bằng tỉ lệ độ cong
thân cây muốn thể hiện và thủy tinh (sành sứ)
[Nguồn NCS]
được gắn kín trên bề mặt thân cây.
Thời Tự Đức
Sử dụng thủy sành xanh dương, vàng hay trắng.
Nét cắt sành theo kiểu đập vỡ sành ngẫu nhiên.
Tỉ lệ sành trên vữa thân cây không kín như thời
[Nguồn NCS]
Khải Định.
130
+ Kỹ thuật thể hiện núi và hoa cũng được thể hiện tương tự như lá và
thân đã phân tích.
- So sánh đồ án trang trí quả giữa thời Khải Định (ô hộc điện Thái Hòa)
và thời Tự Đức (ô hộc điện Lương Khiêm) [PL7, H.3.17, tr.279]: Ở thời Khải
Định, sự trau chuốt thể hiện rõ từ vữa đắp nổi đến cách gắn sành tạo cho chủ
đề có hình dáng giống thật, màu sắc sành sứ nhiều màu sinh động (sắp đặt sành
sứ theo đậm nhạt). Trong khi cách thể hiện sành sứ của thời Tự Đức và cả các
thời trước thường rất ít màu sắc và kỹ thuật đơn giản.
- So sánh đồ án trang trí rồng thời Khải Định (hồi long điện Thái Hòa)
và thời Tự Đức (hồi long điện Lương Khiêm) [PL7, H.3.16, tr.279]: Khác biệt
lớn nhất giữa 02 đồ án trang trí nằm ở thân rồng. Nếu như rồng thời Tự Đức sử
dụng mảnh vỡ tự nhiên của vật liệu để mô tả phần thân thì rồng thời Khải Định
được tạo thành từ rất nhiều mảnh ghép. Ngoài ra, về màu sắc, thời Khải Định
cũng được thể hiện đa dạng hơn, đặc biệt là ở phần đầu rồng, khi các bộ phận
trán, mắt, mũi, hàm được phân định rõ bằng các mảnh ghép. Đánh giá về rồng
thời Nguyễn, theo tác giả Bùi Thị Thanh Mai: “Kỹ thuật ghép mảnh trong trang
trí mỹ thuật Huế là bước nhảy đột biến tạo nên sắc thái riêng cho rồng Nguyễn.
Từ thời Gia Long đã bắt đầu xuất hiện nghệ thuật này, song đến triều Khải Định
thì phát triển mạnh mẽ” [64, tr.161].
Tương tự như sự sáng tạo, sự tinh xảo trong nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định cũng mang đến sự khác biệt giữa nghệ thuật khảm sành sứ triều Nguyễn
và tranh ghép mảnh Mosaic. Không thể phủ nhận rằng, tranh ghép mảnh Mosaic
được thực hiện rất tỉ mỉ và công phu khi mà một bức tranh được tạo nên từ hàng
ngàn mảnh ghép. Cùng với đó, ở những họa tiết phức tạp (mắt, mô tả chiều sâu
không gian trên mặt phẳng), những mảnh ghép này cũng vẫn phải được gia
công cắt tỉa để phù hợp với ý đồ tạo hình. Tuy nhiên, sự đòi hỏi kỹ thuật là đơn
giản hơn khi các mảnh ghép của tranh Mosaic đa phần là những hình đa giác
131
hoặc có ít góc cạnh và phù hợp với việc gắn, ghép trên mặt phẳng hai chiều.
Ngược lại, ở nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, các mảnh ghép không chỉ là
lớp phủ màu hoàn thiện mà nó còn tham gia vào hình khối chi tiết của đồ án.
Vì vậy, nó phải được cắt tỉa theo hình dạng hình học của chi tiết mà nó mô tả
như cánh của bông hoa cúc, lá của cây hay sự đan xen, chồng lớp của các mảnh
ghép để hiện thực hóa các các thủ pháp thể hiện rất phức tạp. Việc vừa đáp ứng
được yêu cầu về hình khối lại vừa phải gắn dính mảnh ghép trên đồ án trang trí
cũng đòi hỏi người thợ phải tính toán một cách cẩn thận về hình dạng của mảnh
ghép. Kết quả của công đoạn này sẽ quyết định hiệu quả thẩm mỹ của đồ án
trang trí bên cạnh việc lựa chọn màu sắc của mảnh ghép. Như vậy, bên cạnh sử
tỉ mỉ và công phu, sự tinh xảo, điêu luyện về tay nghề của người thực hiện cũng
là yêu cầu bắt buộc để biến sự thô cứng của chất liệu thành những họa tiết trang
trí mềm mại. Đó là điều chưa thể hiện ở tranh ghép mảnh Mosaic.
3.2. Giá trị văn hóa nghệ thuật
Được hình thành và kế thừa từ một hình thức TTKT truyền thống, hệ
thống các đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định đã tiếp thu những yếu tố
dân gian và hiện đại để tạo nên những đặc trưng riêng, làm nên giá trị nghệ
thuật của chúng trong trang trí mỹ thuật cung đình triều Nguyễn. Bên cạnh giá
trị nghệ thuật, TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định còn chứa trong mình những
yếu tố tạo nên giá trị lịch sử, văn hóa khi chúng được ra đời trong bối cảnh
chính trị - xã hội nhiều biến chuyển cùng với quá trình giao lưu văn hóa Đông
- Tây trong những năm đầu thế kỷ XX tại Việt Nam.
3.2.1. Giá trị văn hóa
Là một đối tượng mỹ thuật nhưng nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời
Khải Định cũng chứa đựng bên trong nó những yếu tố mang giá trị lịch sử.
Trong mỹ thuật Nguyễn nói chung, như nhận xét của tác giả Trần Lâm Biền,
132
“đã phản ánh được nhiều mặt về lịch sử và xã hội mà nó chở theo. Trong những
khía cạnh tưởng như tiêu cực, nó vẫn lấp ló nhiều ý nghĩa tích cực lý tính” [8].
Trong bối cảnh lịch sử xã hội đầu thế kỷ XX, so với các hình thức TTKT
khác (pháp lam, gỗ, đá, sơn thếp, nề vữa…), khảm sành sứ được sử dụng rộng
rãi trong TTKT cung đình khi cùng lúc đáp ứng được nhiều điều kiện đặt ra
như hiệu quả tạo hình, độ bền, sự phù hợp khi kết hợp với kiến trúc ở cả hai
loại hình truyền thống và hiện đại, mang đến giá trị nghệ thuật cao. Nói cách
khác, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định chỉ có thể hình thành
vào giai đoạn này chứ không phải một giai đoạn nào khác trong suốt lịch sử
triều Nguyễn.
Những yếu tố của phản ảnh sự thay đổi của xã hội thế kỷ XX luôn xuất
hiện trong bản thân trong mỗi đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định. Đó
là các kiểu thức, chất liệu, màu sắc đi kèm với những thủ pháp tạo hình mới mẻ
và hiện đại mà người nghệ nhân xưa được tiếp nhận. Nó là hình ảnh của giai
đoạn chuyển tiếp giữa nghệ thuật tạo hình truyền thống và nghệ thuật tạo hình
mới như nhận định của tác giả Chu Quang Trứ “biểu hiện sự đổi mới, cách tân
một thói quen cơ bản dựa trên hiện tại có khai thác vốn cũ” [21, tr.111]. Đó là
một sự thay đổi mà tiến trình lịch sử mang đến, ngay cả khi trang trí vốn là yếu tố
vốn luôn được kế thừa. Qua từng bước phát triển của nghệ thuật TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định, chúng ta có thể nhận biết được từng giai đoạn của lịch sử: sự
kế thừa quy tắc TTKT của thời Gia Long - Tự Đức, sự chuẩn bị của thời Đồng
Khánh - Duy Tân để từ đó chuyển tiếp đến đỉnh cao vào thời Khải Định - Bảo Đại.
Với những công trình kiến trúc phương Tây hiện đại, khi nhìn nhận trong
mối quan hệ giữa trang trí (hình) và kiến trúc (nền), sự “bản địa hóa” những
khối BTCT đồ sộ bằng hệ thống TTKSS cũng thể hiện rõ cách ứng xử của
người xưa để kế thừa và gìn giữ truyền thống trước làn sóng hiện đại hóa
phương Tây. Ở đây, có thể nhìn nhận rằng, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc
133
thời Khải Định tiếp nhận yếu tố phương Tây, với những không gian kiến trúc
to lớn, để có thể mở rộng quy mô và phạm vi tráng trí nhằm tăng cường sự biểu
hiện vương quyền và những giá trị tư tưởng phương Đông.
Với nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, chúng ta có thể nhận
biết được rằng, nhiều công trình KTCĐ triều Nguyễn còn tồn tại cho đến nay là
tổng hợp của quá trình hình thành, xây dựng và tu bổ của nhiều thời kỳ, cũng như
xác định được giá trị của từng thời điểm thay đổi. Các nghiên cứu về diễn biến
kiến trúc của Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu của Phan Thanh Hải và Nguyễn
Tiến Bình đều đánh giá thời Khải Định với hình thức TTKSS mang đến giá trị cao
nhất cho các công trình trên [36] [37]. Hoặc như lầu Ngũ Phụng, điện Thái Hòa là
kết quả của quá trình bồi đắp từ những đời vua đầu triều cho đến thời Khải Định
với hệ thống TTKSS tham gia vào hình thành giá trị nghệ thuật của mỗi công trình.
Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, dù có những thay đổi,
cách tân về bố cục, hình thức biểu đạt, nhưng về công năng trên kiến trúc, như
NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn nói chung, vẫn thể hiện vai trò “mang tính chất
biểu trưng, thể hiện sự cao sang quyền quý của chốn cung đình” [21, tr.34].
Trên cơ sở một hình thức TTKT sẵn có, nó đã kế thừa và tiếp nối những thành tựu
của mỹ thuật truyền thống để từ đó phát triển và hình thành nên những giá trị mới
nhưng vẫn đảm bảo duy trì tư tưởng của triều đại đã sản sinh ra nó. Điều này rất
quan trọng khi ở thời điểm những năm đầu thế kỷ XX, thực quyền của triều đình
không còn và do đó, dấu ấn của nền quân chủ chỉ có thể thể hiện được trên hệ
thống cung điện, lễ nghi, trang phục. Triều đình Nguyễn chọn triết lý Nho - Lão
là tư tưởng trị quốc và trong trang trí và chúng được thể hiện thông qua các bộ đề
tài trang trí truyền thống. Với nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định,
các đề tài này vẫn được kế thừa. Mặc dù xuất hiện các yếu tố mới về kiểu thức
(phương Tây, dân gian) nhưng chúng có tỷ lệ thấp, lại được đặt trong các bộ đề
tài cung đình truyền thống nên không có nhiều ảnh hưởng về nội dung. Vì vậy,
134
những gì mà NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn đã thể hiện trong quá khứ vẫn tiếp
tục được duy trì ở thời Khải Định.
Bên cạnh đó, có thể nói, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
chính là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Đông - Tây, mà ở đó, những
ưu điểm có lợi của văn hóa phương Tây đã được tiếp thu sáng tạo để làm phong
phú thêm cho bề dày văn hóa truyền thống. Chỉ có qua giao lưu văn hóa Đông
- Tây thì những đồ vật phương Tây như đồng hồ, kính lúp, kính mát, cuốn sổ,
đèn điện… mới xuất hiện ở nước ta. Cùng với đó là những chất liệu mới như
sứ, thủy tinh màu, thủy tinh trong hay các thủ pháp tạo hình như cách vẽ tả
thực, hòa sắc. Tất cả đã được những người thợ của vua Khải Định tiếp nhận và
chuyển hóa vào trong các đồ án TTKSS. Ngoài ra, những ảnh hưởng của phương
Tây đến cuộc sống theo hướng hiện đại của nhà vua cũng đòi hỏi những không
gian kiến trúc mới có công năng phù hợp. Từ đó dẫn đến sự xuất hiện của những
công trình BTCT hiện đại trong KTCĐ triều Nguyễn với những không gian kiến
trúc hoàn toàn khác biệt. Không gian kiến trúc này đã được tiếp nhận như một
phần nền cho các đồ án TTKSS, để sau đó, biến đổi, chuyển hóa thành những
không gian trang trí mang đậm chất phương Đông truyền thống. Xét về chiều
tiếp nhận, đứng ở góc độ tiếp biến văn hóa, có thể coi đó là sự tác động ngược
lại của các yếu tố nội sinh (trang trí truyền thống) đối với yếu tố ngoại sinh (kiến
trúc phương Tây) và biến đổi nó phù hợp với truyền thống của mình.
Trong bài viết “Giữ lấy những cái duy nhất của di sản kiến trúc Huế”,
tác giả Hoàng Đạo Kính đã đánh giá: “Di sản văn hóa xứ Huế không chỉ phong
phú, không chỉ đặc sắc, mà còn kiệt xuất, bởi nó sở hữu rất nhiều những cái
duy nhất” [59]. Ở nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT
Cố đô Huế, với hình thức biểu đạt được cấu thành từ ba yếu tố dân gian, cung
đình, phương Tây, nó là hình thức TTKT cung đình duy nhất tích tụ được ba
lớp văn hóa bên trong (lớp văn hóa bình dân bản địa, lớp văn hóa Nho - Lão
135
của cung đình và lớp văn hóa hiện đại Tây phương), đóng góp thêm một “cái
duy nhất” trong rất nhiều “cái duy nhất” mà Di sản Huế đang sở hữu.
3.2.2. Giá trị nghệ thuật
3.2.2.1. Yếu tố hình thành nên đặc trưng của trang trí kiến trúc cung đình
giai đoạn 1916 - 1925
Giai đoạn Khải Định - Bảo Đại (1916 - 1945) được đánh giá là một giai
đoạn riêng của QTDT Cố đô Huế đứng ở góc độ mỹ thuật. Đồng thời, đây cũng
là giai đoạn mà nghệ thuật khảm sành sứ Huế được đánh giá là đạt đến đỉnh cao.
Theo nhận định của NCS, hai đánh giá trên có mối quan hệ mật thiết với nhau vì
khảm sành sứ là hình thức TTKT chính của KTCĐ triều Nguyễn thời Khải Định.
Như đánh giá của các nhà nghiên cứu, QTDT Cố đô Huế ở giai đoạn
Khải Định - Bảo Đại là giai đoạn chịu ảnh hưởng của phương Tây và điều này
cũng được thể hiện trên nghệ thuật TTKSS. Tuy nhiên, nghệ thuật TTKSS trên
kiến trúc thời Khải Định còn có sự kế thừa các yếu tố trang trí cung đình chịu
ảnh hưởng của Trung Hoa và sự du nhập của các yếu tố trang trí dân gian. Vì
vậy, hình thức biểu đạt của nó mang đầy đủ ba lớp cấu thành NTTT truyền
thống Huế mà tác giả Nguyễn Hữu Thông đã tổng kết, đó là: tầng bản địa với
chiều sâu của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước [100, tr.176] được những
người nghệ nhân dân gian đưa vào KTCĐ triều Nguyễn, tầng giao lưu ảnh
hưởng, cũng như bị áp đặt bởi văn hóa phương Bắc [100, tr.178] kế thừa trực
tiếp từ TTKT cung đình và tầng ảnh hưởng từ phương Tây [100, tr.197] được
tiếp nhận trong bối cảnh quá trình hiện đại hóa diễn ra đầy sôi động. Có thể
thấy rằng, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định không sao chép các
kiểu thức trang trí, thủ pháp tạo hình phương Tây mà nó chỉ tiếp nhận những gì
cần thiết trên cơ sở kế thừa truyền thống sẵn có để cách tân và làm mới chính
mình phù hợp với quan điểm cân bằng Đông - Tây, kim - cổ của vua Khải Định.
Đứng ở góc độ tiếp biến văn hóa, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải
136
Định thể hiện sự tiếp nhận sáng tạo mà các tác giả của Cơ sở văn hóa Việt Nam
đã đề xuất [116, tr.52]. Về kiểu thức trang trí, đó là sự chọn lọc những yếu tố
thích hợp. Về hình thức biểu đạt, đó là tiếp nhận các yếu tố tạo hình phương
Tây nhưng đã có sự điều chỉnh, chuyển hóa để phù hợp với những giá trị truyền
thống muốn truyền tải.
Theo định nghĩa của tác giả Graham Collier, kiến trúc là một trong bốn
loại nền của nhận thức thị giác [29, tr.93]. Tuy nhiên, khác với nền của một bức
tranh, nó là loại nền có hình khối. Đó là “bề mặt hai chiều của bức tường, nơi
sẽ được ghi dấu bằng việc lắp đặt cửa ra vào, cửa sổ, đường “phào” trang trí,
và nó còn là không gian ba chiều mà tòa nhà - giống như tác phẩm điêu khắc
cỡ lớn - chiếm chỗ và định hình” [29, tr.93]. KTCĐ triều Nguyễn thời Khải
Định có rất nhiều loại hình và kiểu thức từ kiến trúc gỗ truyền thống đến kiến
trúc phương Tây đồ sộ và các đồ án TTKSS như là một sợi dây xuyên suốt kết
nối kết nối chúng về một phong cách chung. Ở công trình Thái Bình Lâu, một
sự kết hợp giữa kiến trúc gỗ được bổ sung một bộ phận kiến trúc phương Tây,
nhờ sự có mặt của khảm sành sứ mà hai khối kiến trúc khác biệt này hòa thành
một. Người ta dường như chỉ quan tâm đến các đồ án TTKSS ở mái sảnh BTCT
của công trình mà không quan tâm nó là một yếu tố kiến trúc phương Tây được
bổ sung vào. Cùng với đó, với kiến trúc gỗ truyền thống, nghệ thuật TTKSS
mang đến cho chúng một diện mạo mới mẻ. Ví dụ như điện Thái Hòa, trước và
sau khi tu bổ thời Khải Định, là hai bộ mặt khác nhau về trang trí mỹ thuật. Với
những kiến trúc phương Tây hiện đại, nghệ thuật TTKSS đưa chúng trở lại về
gần với truyền thống mà nội thất Thiên Định Cung là một minh chứng điển hình.
Có thể nói, nghệ thuật TTKSS mang đến một sự dung hòa giữa quá khứ và hiện
tại cho KTCĐ triều Nguyễn thời Khải Định.
Đứng trước mỗi công trình KTCĐ triều Nguyễn, chúng ta có thể nhận
biết được “dấu ấn Khải Định” thông qua hệ thống đồ án TTKSS trên những
137
công trình này. Thêm vào đó, với sự tích hợp của cả ba yếu tố cung đình,
phương Tây và dân gian, chúng thể hiện những nét riêng biệt mà không hình
thức TTKT nào trong KTCĐ triều Nguyễn có được. Nghệ thuật TTKSS thời
Khải Định chính là ví dụ tiêu biểu minh họa cho nhận định của tác giả Phan
Thanh Bình về nghệ thuật tạo hình thời Nguyễn, “thể hiện đầy thuyết phục về
sự không chỉ tiếp nhận, chuyển hóa, nuôi dưỡng những giá trị nghệ thuật truyền
thống mà còn có khả năng cải biến, chuyển tiếp, bảo lưu được những giá trị đó
và giữ mãi sự lắng đọng, tỏa sáng đến ngày nay” [17]. Có thể nói, khi nhắc đến
KTCĐ thời Khải Định là nhắc đến nghệ thuật TTKSS và ngược lại, khi nhắc
đến nghệ thuật TTKSS là có thể nghĩ về KTCĐ thời Khải Định. Chúng hoàn
toàn xứng đáng là một trong những yếu tố hình thành nên đặc trưng của NTTT
trên KTCĐ ở giai đoạn 1916 - 1925 và của cả giai đoạn Khải Định - Bảo Đại
(1916 - 1945).
3.2.2.2. Yếu tố mỹ thuật tạo nên tính bản địa cho kiến trúc hiện đại dưới
thời Khải Định
Những công trình kiến trúc phương Tây đồ sộ mà vua Khải Định cho xây
dựng mang đến những hình ảnh mới cho KTCĐ triều Nguyễn, hoàn toàn trái
ngược với những công trình kiến trúc gỗ đã tồn tại trăm năm. Ngay từ những
năm 1940, tác giả đương thời L.Bezacier đánh giá rằng: “… đáng buồn là những
thử nghiệm đầu tiên nhằm hiện đại hóa nghệ thuật An Nam không thành công
lắm, do nhiều nhà xây dựng giai đoạn này bỏ không dùng phần lớn những yếu
tố tốt đẹp nhất của nghệ thuật An Nam mà thay thế rất vụng bằng một số yếu
tố của kiến trúc Pháp…” [61]. Tiếp đó, tác giả Nguyễn Phi Hoanh cũng đánh
giá ba cung điện (lăng Khải Định, điện Kiến Trung, cung An Định) mà vua
Khải Định cho xây dựng là “ba chỗ phô trương của một nền mỹ thuật nô dịch,
hòa hợp Đông, Tây theo kiểu lố lăng nhất” [42, tr.124].
138
Tuy nhiên, khi nhìn nhận về những đánh giá nói trên, tác giả Nguyễn
Tiến Cảnh cho rằng: “lăng Khải Định là một vật chứng tiêu biểu được nhiều
người công nhận về ảnh hưởng sâu đậm nhất của Âu - Tây… Đột biến hơn cả
chỉ là cái vỏ kiến trúc của lăng do điều kiện vật liệu xây dựng mới, khiến người
xem hơi ngỡ ngàng khác với cảm thụ trước kỹ thuật ghép mảnh, pháp lam…”
[21, tr.11]. Tương tự, tác giả Trần Thanh Nam cũng lý giải: “Mọi hình thức
biểu hiện mới… đều là nhu cầu tự thân, hợp với quy luật phát triển để hướng
đến giá trị thẩm mỹ cao hơn. Tuy nhiên, không phải cái mới nào cũng được
chấp nhận ngay, hay đạt những giá trị nghệ thuật cao” [66, tr.143].
Rõ ràng trong các công trình kiến trúc phương Tây thời Khải Định, ngoại
trừ Khải Tường Lâu, tất cả đều có sự tham gia của các đồ án TTKSS ở nội thất
hoặc ngoại thất công trình. Ngay đối với Thiên Định Cung - lăng Khải Định,
mặc dù còn nhiều ý kiến khen chê về ngoại thất công trình với hình thức trang
trí nề vôi vữa, nhưng khi vào đến bên trong nội thất, hệ thống TTKSS luôn dành
được sự khen ngợi và thán phục như nhận xét của tác giả Chu Quang Trứ: “lên
tầng cao gặp điện Khải Thành xa lạ với kiến trúc truyền thống, một cảm giác
căng thẳng nảy sinh, thì ngay sau đó, vào hẳn trong điện ta lại cảm thấy dễ chịu
đến bất ngờ” [21, tr.116].
Những nhận xét trên đã cho thấy công dụng của nghệ thuật TTKSS trong
việc biến đổi sự “nặng nề” của một công trình kiến trúc phương Tây về với
không gian phương Đông quen thuộc. Thiên Định Cung là một công trình
BTCT có kích thước to lớn hơn hẳn các cung điện kết cấu gỗ truyền thống.
TTKT cả ở nội và ngoại thất của công trình này đều tương đồng đề tài và bố
cục. Những đánh giá khác nhau về nội, ngoại thất Thiên Định Cung nằm ở hình
thức TTKT khi nội thất là TTKSS còn ngoại thất là TTKT nề vữa màu xám
trắng. Màu xám của chất liệu nề vữa cộng thêm việc mái công trình lợp ngói
Ác-đoa (ardoise) màu đen đã tạo ra một khối kiến trúc đồ sộ, tối màu và nặng
139
nề. Từ đó, tạo nên một hình ảnh hoàn toàn khác biệt trong một không gian cảnh
quan tự nhiên vốn dĩ quen thuộc đối với một kiến trúc gỗ truyền thống mái ngói
lưu ly, sơn son thếp vàng. Cũng ở công trình kiến trúc hiện đại đó, nhưng với
hình thức TTKSS, không gian nội thất được đánh giá hoàn toàn ngược lại. Kết
hợp với sự mô phỏng một không gian kiến trúc tương đồng của công trình gỗ,
các đồ án TTKSS đã biến không gian của một công trình kiến trúc phương Tây
đồ sộ trở thành một không gian nội thất đậm chất phương Đông, thể hiện sự kết
hợp hài hòa giữa kiến trúc và trang trí, giữa cái hiện đại của phương Tây và vẻ
đẹp truyền thống phương Đông.
Ở góc độ cộng sinh văn hóa trong kiến trúc những năm đầu thế kỷ XX,
theo tác giả Lê Thanh Sơn, “bản địa hóa” kiến trúc phương Tây là một khuynh
hướng quan trọng nhất ở giai đoạn này, góp phần tạo nên những điểm sáng
trong lịch sử kiến trúc Việt Nam hiện đại [92, tr.139]. Có thể thấy rõ vấn đề
này thông qua phân tích sự kết hợp, chuyển hóa các yếu tố kiến trúc phương
Tây của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định.
Ở dạng đơn giản, đó là việc bổ sung thêm một bộ phận kiến trúc phương
Tây vào công trình kiến trúc gỗ truyền thống. Ví dụ tiêu biểu cho sự kết hợp
này là tiền sảnh BTCT của Thái Bình Lâu, một công trình có kiến trúc chính là
kiểu nhà gỗ trùng thiềm điệp ốc. Xét về mặt công năng, tiền sảnh này chỉ có tác
dụng như một điểm nghỉ trước khi bước vào công trình. Tuy nhiên, đứng ở góc
độ hình khối, do được bố trí cân đối ở chính giữa công trình, nó tạo nên một
điểm nhấn cho kiến trúc. Trong TTKSS, ưu điểm này đã được tận dụng để bố
trí các đồ án trang trí tăng tính thẩm mỹ cho công trình, cũng như bổ sung thêm
một điểm nhấn thu hút thị giác ở vị trí thấp hơn bên cạnh đồ án trung tâm của
bờ nóc ở trên cao. Điểm nhấn này là đồ án ở vị trí chính giữa của đỉnh mái sảnh
với các đồ án ở hai bên hướng về vị trí trung tâm này. Việc có thêm một điểm
nhấn thị giác ở vị trí thấp hơn, phù hợp với tầm quan sát của con người, giúp
140
cho công trình tăng thêm tín hiệu nhận diện về mặt trang trí, dẫn đến tăng thêm
khả năng truyền tải thông tin đến người quan sát. Với sự kết nối của hệ thống
các đồ án TTKSS từ thân đến mái, khối BTCT hiện đại đã được hợp nhất vào
kiến trúc gỗ trùng thiềm điệp ốc truyền thống.
Nếu như việc bổ sung thêm một bộ phận kiến trúc phương Tây làm tăng
thêm điểm nhấn thị giác ở trục trung tâm thì việc sử dụng trực tiếp các kiến trúc
phương Tây sẽ mở ra các diện trang trí trải dài theo mặt đứng kiến trúc và bổ
sung thêm những trục trung tâm phụ ở hai bên trục chính của công trình. Trong
trường hợp điện Kiến Trung, mặc dù vẫn là kiểu thức kiến trúc đăng đối, nhưng
do cấu trúc công năng của kiến trúc phương Tây, mặt đứng kiến trúc của điện
Kiến Trung được chia thành năm giao diện. Từ đó, bên cạnh trục trung tâm
chính, còn có những trục trung tâm phụ và các diện trang trí được hình thành
bởi các bộ phận kiến trúc chính và phụ của công trình. Trên những giao diện
này, hệ thống các đồ án TTKSS đều được sắp xếp theo các nguyên tắc chung
về bố cục, phủ lên bề mặt kiến trúc BTCT lớp trang trí mỹ thuật truyền thống,
tạo nên nhiều điểm nhấn thị giác, mang đến nét Á Đông cho một công trình
kiến trúc phương Tây đồ sộ và hiện đại. Tác giả D. Grandclément đã nhắc đến
điện Kiến Trung khi vua Bảo Đại về Việt Nam kế thừa ngôi báu như sau: “Bên
ngoài nét kiến trúc cung điện truyền thống Á Đông vẫn được duy trì nhưng bên
trong thay đổi để thoáng đãng rộng rãi, hợp vệ sinh và tiện dụng hơn, tờ Asie
nouvelle (châu Á mới) miêu tả: Một thoáng Paris giữa đế đô” [122].
Một ví dụ khác là nội thất Thiên Định Cung - lăng Khải Định. Ở công
trình này, việc mô phỏng theo không gian kiến trúc tương đồng về công năng
chưa đủ để làm nó trở về với hình ảnh của phương Đông. Chính nhờ có sự tham
gia của hệ thống TTKSS, những yếu tố chứa đựng những giá trị tư tưởng truyền
thống lại được thể hiện bằng chất liệu phù hợp với kết cấu kiến trúc, chúng mới
trở thành không gian mang bản sắc phương Đông. Thêm vào đó, chính những
141
yếu tố phương Tây nằm trong mỗi đồ án TTKSS lại là những gạch nối làm nên
sự hài hòa giữa trang trí truyền thống và kiến trúc hiện đại. Ở chiều ngược lại,
ưu thế của BTCT là tạo nên những không gian vượt nhịp rộng lớn, chúng tạo nên
những không gian lý tưởng để khai thác tối đa vẻ đẹp của các đồ án TTKSS, do
không bị mất tầm nhìn bởi hệ thống cột giữa nhà của kiến trúc gỗ. Khi đánh giá
về nội thất của Thiên Định Cung, tác giả Phan Thanh Bình đã nhận xét đó là
“Không có một công trình nào trước và sau cung Thiên Định đạt đến trình độ
tinh xảo, tạo lập được một hệ màu đa sắc, nhưng hài hòa với yêu cầu thẩm mỹ
kiến trúc, phù hợp với không gian tưởng niệm ở lăng tẩm như vậy” [16, tr.75].
Từ những phân tích trên, có thể thấy rằng, các không gian kiến trúc
phương Tây được chủ động tiếp nhận để làm nền cho NTTT trên kiến trúc
truyền thống, cụ thể là nghệ thuật TTKSS phát huy tính thẩm mỹ. Từ đó, tạo
nên những không gian mỹ thuật đậm chất phương Đông dù được chứa đựng
bởi cái vỏ kiến trúc mới mẻ. Đồng thời, chính những đồ án TTKSS, một yếu tố
mỹ thuật, đã “bản địa hóa” một loại hình kiến trúc khác lạ cả về hình thức và
kết cấu. Nó thể hiện tư tưởng hiện đại hóa, tiếp thu cái mới của triều đình
Nguyễn thông qua kiến trúc nhưng vẫn giữ gìn bản sắc truyền thống thông qua
trang trí mỹ thuật. Đứng ở góc độ cộng sinh văn hóa trong kiến trúc, nó thể hiện
cấp độ giao hòa giữa yếu tố nội sinh với yếu tố ngoại sinh, khi mà giữa trang
trí và kiến trúc có sự cân bằng trong việc hình thành diện mạo tổng thể công
trình. Đứng ở góc độ giao lưu và tiếp biến văn hóa, nó thể hiện mức độ tiếp
nhận sáng tạo cao nhất [116, tr.52], đó là sự biến thể, thu nhận những thành tựu
của kiến trúc - nghệ thuật phương Tây để biến chúng trở thành những giá trị
mang bản sắc truyền thống Việt Nam. NCS cho rằng, cũng như cách gọi các
công trình KTCĐ ở các đời vua trước là KTCĐ kết cấu gỗ, hoàn toàn có thể
gọi những công trình Tây phương đã được “bản địa hóa” bởi nghệ thuật TTKSS
là KTCĐ kết cấu BTCT.
142
3.2.2.3. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc
Trên thế giới, có nhiều đồ án TTKT được đánh giá như một tác phẩm
nghệ thuật độc lập. Nhiều tác phẩm thậm chí còn được đánh giá cao hơn cả
phần nền kiến trúc. Về điêu khắc, có thể kể đến 06 bức tượng đá nữ thần tại
đền thờ Erechtheion ở Hy Lạp [PL7, H.3.21, tr.281]. Về hội họa, là các bức
bích họa trang trí trần của nhà nguyện Sistine ở Vatican. Đối với kiến trúc cổ
Việt Nam, các đồ án TTKT cũng được đánh giá rất cao về giá trị nghệ thuật và
được nhìn nhận như một tác phẩm độc lập. Tiêu biểu có thể kể đến Bảo vật
quốc gia Bộ cánh cửa gỗ chạm rồng của tam quan nội chùa Keo hiện đang được
trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam [PL7, H.3.22, tr.281]. Bên cạnh giá
trị nghệ thuật của chính bản thân tác phẩm, chúng còn là hình ảnh đại diện của
công trình kiến trúc chứa đựng chúng.
Trong nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, nhiều đồ án là độc bản và mang
tính biểu tượng để nhận diện công trình kiến trúc. Có thể kể đến các bộ Tứ thời
ở nội thất Thiên Định Cung hay đồ án trang trí con giống bờ nóc hậu doanh của
Thái Bình Lâu. Về sự hình thành một tác phẩm nghệ thuật, theo tác giả Đinh
Hồng Hải, vai trò của tính biểu tượng trong mỗi tác phẩm nghệ thuật được đặt
ở vị trí trung gian trong tương quan giữa tác phẩm với các yếu tố lịch sử, yếu
tố xã hội và yếu tố nghệ thuật [124]. Đối chiếu luận điểm trên với nghệ thuật
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, có thể thấy, các đồ án trang trí ở nội thất
Thiên Định Cung, Thái Bình Lâu hay điện Thái Hòa mang đầy đủ các yếu tố
của một/một bộ tác phẩm nghệ thuật độc lập nằm trên kiến trúc.
Ở đồ án trang trí bờ nóc hậu doanh Thái Bình Lâu, cấu trúc chính đồ án
bao gồm 05 đĩa tròn sắp xếp theo hình mũi tên hướng lên cao. Bên trong là 3
chữ Thọ ở phía trên, 2 chữ Vạn ở phía dưới. Khoảng trống giữa các đĩa tròn là
con rồng và hai bên là cặp phụng chầu. Đây là đồ án có tổ hợp kiểu thức duy
nhất trong TTKT triều Nguyễn [PL7, H.3.23, tr.282]. Về tạo hình hình khối,
143
các kiểu thức cát tường tự văn và phụng chầu được tạo hình dạng phù điêu như
làm bật lên đồ án rồng được tạo hình tượng tròn. Điều đáng nói ở đồ án rồng
này, bên cạnh tạo hình tượng tròn, là sự chiếm lĩnh không gian ở cả ba chiều
(đứng, ngang, dọc) khi nó như chuyển động về phía trước, với thân uốn lượn
bám theo phương ngang của bờ nóc tạo cảm giác bò xuống phía dưới mặt mái.
Tương tự như bộ tứ thời ở Thiên Định Cung, đồ án trang trí bờ nóc Thái Bình
Lâu cũng chứa đựng các yếu tố lịch sử - xã hội khi nó kế thừa các kiểu thức
trang trí truyền thống nhưng lại được thể hiện với bộ mặt mới mẻ có tính thời
đại đương thời và truyền tải mong ước của những người sáng tạo ra chúng. Ở
góc độ nghệ thuật, chúng là tổ hợp kiểu thức chưa từng xuất hiện trong TTKT
cung đình với các yếu tố tạo hình mới mẻ từ tả thực đến sự kết hợp của chất
liệu, màu sắc và thủ pháp thể hiện. Chúng là minh chứng cho sự phát triển về
sự sáng tạo và tư duy tạo hình, tư duy không gian của những người nghệ nhân
thủ công truyền thống.
Đối với trường trường hợp bộ tứ thời (mai - sen - cúc - liễu) được thể hiện
trong bốn ô hộc đứng, có kích thước lớn trên nền tường của ở nội thất Thiên
Định Cung [PL7, H.3.24, tr.283]. Về mặt lịch sử - xã hội, tứ thời là một đề tài
được kế thừa từ trang trí truyền thống Huế, đại diện cho những tư tưởng mà triều
đình Nguyễn muốn truyền tải trên kiến trúc… Về nghệ thuật, tỷ lệ hình khối, thủ
pháp tạo hình, sử dụng chất liệu, màu sắc, kỹ thuật chế tác đã làm nên một bộ
tranh tứ thời hết sức tinh xảo cho thấy sức sáng tạo của những người tạo ra chúng.
Đồng thời kiểu trang trí “thi trong họa” cũng khiến cho bộ tứ thời này giống như
một bộ tranh cổ được treo nhà như tác giả Chu Quang Trứ đã nhận xét: “nó thực
sự là một loạt tranh nghệ thuật, một đặc sắc của Huế” [21, tr.117].
Nếu như các bộ tứ thời ở nội thất được coi là những bức tranh thủy mặc
thì hệ thống đồ án trang trí con giống trên mái của điện Thái Hòa mang đến
một bộ sưu tập các tác phẩm điêu khắc về biểu tượng rồng [PL7, H.3.25 - 3.28,
144
tr.284 - 287]. Trên hệ thống bờ mái của công trình quan trọng bậc nhất Đại Nội
này, có tổng cộng 20 con rồng chia thành 10 cặp đối xứng nhau được phân bổ
ở mái thượng, mái hạ cả ở tiền điện và chính điện của công trình. Về mặt lịch
sử - xã hội, rồng, con thú đứng đầu bộ tứ linh, chính là biểu tượng đại diện cho
vương quyền, nó cho thấy sự tiếp nối lịch sử, giữ gìn truyền thống của triều đình
Nguyễn và vua Khải Định, dù chỉ là về hình thức, trong bối cảnh chịu lệ thuộc
và trước làn sóng hiện đại hóa của phương Tây. Về mặt nghệ thuật, có thể coi
đây là những tác phẩm điêu khắc điển hình về rồng triều Nguyễn trong NTTT
trên kiến trúc. Về kiểu thức, chúng bao gồm những con rồng chầu, hồi long (rồng
quay đầu). Về trạng thái, chúng được tạo hình cả ở trạng thái “tĩnh” và “động”.
Ngoài ra, dựa vào sự đối xứng theo cặp, chúng được tạo hình với 8 phiên bản
khác nhau, dù về cơ bản chúng vẫn có chung những đặc điểm của con rồng khảm
sành sứ thời Khải Định. Đồng thời, chúng cũng tạo nên đường viền kiến trúc để
có thể nhận biết công trình mà chúng được chứa đựng. Có thể nói, các đồ án rồng
khảm sành sứ ở điện Thái Hòa chính những là biểu hiện cụ thể nhất cho sự sáng
tạo, tinh xảo của những người đã chế tác nên chúng.
Như vậy, ở đồ án trang trí bờ nóc Thái Bình Lâu, bộ đồ án trang trí tứ
thời nội thất Thiên Định Cung hay bộ đồ án rồng bờ mái điện Thái Hòa, những
ý nghĩa lịch sử, xã hội truyền thống được kế thừa và thể hiện bằng phương pháp
tạo hình mang đậm dấu ấn của thời đại sáng tạo ra chúng. Điều này thể hiện
những cố gắng hiện đại hóa, cách tân, làm mới trên nền tảng của những giá trị
truyền thống phương Đông của triều đình Nguyễn và vua Khải Định. Đồng
thời, nó cũng chính là những minh chứng cho sự sáng tạo của những người nghệ
nhân xưa, mà theo như tác giả Chu Quang Trứ, “về mặt kỹ thuật thực sự là những
nghệ nhân, về mặt nghệ thuật thực sự là những nghệ sĩ… do thói quen, lại vốn
tính làm thuê và tinh thần dân chủ cộng đồng mà họ không ký tên lên tác phẩm.
Hiện tượng vô danh ở đây thực ra chỉ là hình thức” [108, tr.9]. Với những người
145
nghệ sĩ khuyết danh này, nhiều đồ án TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định đã
được nâng tầm lên thành những tác phẩm nghệ thuật độc lập với kiến trúc.
3.3. Bàn luận về nghệ thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc
thời Khải Định (1916 – 1925) tại Quần thể di tích cố đô Huế
Sau năm 1945, dù đã lùi vào quá khứ, triều đình Nguyễn đã để lại một di
sản văn hóa nghệ thuật mà theo tác giả Trương Quốc Bình là “khổng lồ, vĩ đại
mà không có triều đại nào trong lịch sử có thể sánh được” [11], trong đó có
QTDT Cố đô Huế, Di sản văn hóa thế giới đầu tiên của Việt Nam. Là một bộ
phận tham gia hình thành nên diện mạo các công trình KTCĐ triều Nguyễn,
nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định không những vẫn được bảo
lưu trên các di sản kiến trúc Cố đô Huế mà còn lan tỏa vào dân gian, tiếp tục
phát triển những hình thức biểu hiện mới qua bàn tay tài hoa của những người
nghệ nhân nề ngõa và đi đến nhiều vùng miền khác trên đất nước.
3.3.1. Sự kế thừa
3.3.1.1. Bảo tồn trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
Sự kế thừa của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định, trước
tiên, được thể hiện trên chính những công trình KTCĐ triều Nguyễn được nhà
vua cho xây dựng và tu bổ. Là hình thức TTKT có độ bền với thời gian, nên so
với các loại hình khác, nếu không chịu những tác động chủ quan của con người,
các đồ án TTKSS sẽ tồn tại gần như nguyên vẹn mà hệ thống các đồ án trang
trí nội thất tại Thiên Định Cung là một ví dụ tiêu biểu. Thậm chí, ở những kiến
trúc bị hư hại nặng, trong những gì còn lại của di sản, dấu tích của TTKSS là
rõ nét và dễ nhận diện nhất [PL7, H.3.29, tr.288]. Trong nhiều năm vừa qua,
cùng với công cuộc bảo tồn, trùng tu tại QTDT Cố đô Huế, một số công trình
KTCĐ thời Khải Định đã từng bước được nghiên cứu, bảo tồn mà trong đó, hệ
thống TTKSS luôn là hạng mục được ưu tiên hàng đầu, vì chúng được coi là
yếu tố gốc thể hiện giá trị nghệ thuật cao nhất của mỗi di tích. Ngay trong những
146
năm đầu tiên sau khi Quần thể Huế được công nhận Di sản văn hóa thế giới,
cùng với những hạng mục kiến trúc khác thuộc lăng Khải Định, hệ thống
TTKSS ở nội thất Thiên Định Cung đã được tu bổ, sửa chữa những hư hỏng
nhỏ [PL7, H.3.30, tr.288]. Sau đó, hệ thống TTKSS trên những công trình
KTCĐ thời Khải Định khác như Thái Bình Lâu, cửa Chương Đức, lầu Tứ
Phương Vô Sự, Phu Văn Lâu và Nghinh Lương Đình tiếp tục được nghiên cứu
bảo tồn. Công việc được thực hiện một cách cẩn trọng, đối chiếu tư liệu, hiện
trạng để đưa ra biện pháp can thiệp phù hợp nhất nhằm thể hiện tối đa hiệu quả
thẩm mỹ của hình thức trang trí này trên kiến trúc. Không chỉ được nhìn nhận
ở góc độ di sản vật thể, nghệ thuật TTKSS thời Khải Định cũng được nhiều nhà
nghiên cứu nhìn nhận dưới góc độ tác phẩm nghệ thuật, góc độ phi vật thể.
Trong công trình Mỹ thuật Huế năm 1992, các đồ án trang trí tại lăng Khải
Định được tác giả Chu Quang Trứ xếp trong mục “Tranh ghép kính và sứ” của
phần “Điêu khắc và tranh” [21]. Tác giả Trương Quốc Bình coi đây là các “tác
phẩm nghệ thuật khảm sành sứ” và đồng thời kiến nghị tôn vinh chúng như là
một “di sản văn hóa phi vật thể được vật thể hóa” [11]. Cùng với đó, Dư địa
chí Thừa Thiên Huế do Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xuất bản cũng
đã công nhận khảm sành sứ là một trong những đặc điểm chính của nghệ thuật
tạo hình Huế [111, tr.505]. Những thông tin trên cho thấy, nghệ thuật TTKSS
trên kiến trúc thời Khải Định vẫn được kế thừa, gìn giữ trong lòng QTDT Cố
đô Huế, mỹ thuật Huế và luôn được trân trọng, quan tâm nghiên cứu, bảo tồn
và phát huy giá trị.
Bên cạnh việc bảo tồn hệ thống TTKSS trên mỗi công trình KTCĐ tại
QTDT Huế, việc kế thừa loại hình nghệ thuật giá trị này còn có thể thực hiện
qua những công việc như: (1) Đào tạo chuyên gia, thợ thủ công trong trong hoạt
động lĩnh vực nghệ thuật này; (2) Tiêu chuẩn hóa quy trình thực hiện nhằm
phục vụ công tác bảo tồn; (3) Tăng cường quảng bá giá trị của loại hình nghệ
147
thuật này thông qua các cuộc triển lãm hoặc các chuyên đề nghiên cứu, ấn phẩm
nghệ thuật; (4) Giới thiệu, khuyến khích các nhà điêu khắc, họa sĩ sử dụng chất
liệu khảm sành sứ trong sáng tác các tác phẩm nghệ thuật.
3.3.1.2. Nghề nề ngõa và nghệ nhân khảm sành sứ
Nói đến sự kế thừa của TTKSS thời Khải Định, không thể không nhắc
đến vai trò của những người thợ “kép” - những nghệ sĩ dân gian và nghề nề
ngõa truyền thống mà họ đang giữ gìn. Công cuộc bảo tồn Di sản Huế không
chỉ trực tiếp bảo vệ các di tích kiến trúc mà còn góp phần khôi phục, đưa trở lại
di sản những ngành nghề thủ công truyền thống, trong đó có khảm ghép sành
sứ. Trong các nghiên cứu về TTKT cung đình triều Nguyễn, Nê ngõa tượng
cục của triều đình và những người thợ “kép” của vua Khải Định đã được nhiều
tác giả đề cập tới. Hình ảnh của họ cũng đã được ghi lại trong các bức ảnh tư
liệu của quá trình chế tác các đồ án TTKSS ở Thiên Định Cung [PL7, H.3.31,
tr.289]. Tác giả Phan Thanh Bình cho biết: “để đáp ứng nhu cầu xây dựng và
trang trí kiến trúc cung đình, nhà Nguyễn đã lập ra Nê ngõa tượng cục từ sự
trưng tập các thợ và các phường thợ giỏi trong nước… dưới thời Khải Định và
Bảo Đại, đã có nhiều nghệ nhân được phong bát phẩm, cửu phẩm” với các nghệ
nhân nổi tiếng như cụ Bát Mười, cụ Cửu Lập, nghệ nhân Phan Văn Tánh [16,
tr.55 - 57]. Theo tác giả Nguyễn Hữu Thông cũng cho biết thêm, hiện nay tại
Huế vẫn còn xóm Ngõa tượng với Nê ngõa tượng đường nơi thờ vị tổ sư ngành
nề và làm ngói [97].
Ngày nay, sự tài hoa của các bậc cha anh đã được rất nhiều thế hệ tiếp
nối. Đầu tiên có thể kể đến nghệ nhân Trương Văn Ấn, con của cụ Cửu Lập.
Ông là một trong những người đầu tiên tham gia vào quá trình bảo tồn hệ thống
TTKSS tại nội thất Thiên Định Cung [PL7, H.3.32, tr.290]. Sự tham gia của
ông trong bảo tồn các di tích KTCĐ triều Nguyễn cũng được tác giả Chu Quang
Trứ ghi lại trong chuyến tham quan công trường tu bổ cung Diên Thọ năm 1998
148
[109, tr.262]. Các học trò của ông, như các nghệ nhân Trần Minh Lực, Trần
Viết Xảo [PL7, H.3.33, 3.34, tr.290, 291], cũng đã tham gia rất tích cực vào
công cuộc bảo tồn Di sản Huế, trong đó có hệ thống TTKSS trên kiến trúc thời
Khải Định. Một số người trong số họ đã được công nhận là nghệ nhân dân gian.
Họ chính là những “tư liệu sống” lưu trữ và phát triển những tinh hoa của nghề
nề ngõa, khảm sành sứ và mang nghề truyền thống lan tỏa ra mọi miền đất
nước, minh chứng cho sự kế thừa, sức sống của TTKSS triều Nguyễn nói chung
và thời Khải Định nói riêng.
3.3.2. Sự phát huy giá trị
Bên cạnh KTCĐ triều Nguyễn, dấu ấn của nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định còn có mặt tại các ngôi đình làng, ngôi chùa, đền miếu không chỉ ở trong
phạm vi Huế mà còn ở một số nơi trên cả nước. Theo thống kê vào năm 2014
của Trần Phương Thảo, tại khu vực miền Nam có khoảng 21 công trình kiến
trúc cổ sử dụng nghệ thuật TTKSS [95, tr.34]. Ở đây, NCS lựa chọn giới thiệu
những công trình có lịch sử rõ ràng, đã được các nhà nghiên cứu tìm hiểu, làm
rõ và hệ thống TTKT tại những công trình này thể hiện được những đặc trưng
riêng có của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định đồng thời cũng thể hiện sự tiếp
nối, bồi đắp, phát triển mặt tạo hình của loại hình nghệ thuật này.
Đình làng Kim Long ở thành phố Huế
Theo tác giả Chu Quang Trứ: “những đình ở Huế, hiện trạng về kiến trúc
và trang trí đều thuộc phong cách cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”. Trong đó,
đình làng Kim Long ghi rõ “Khải Định, Canh Thân đại tu bổ” tức là năm 1920
thời Khải Định [109, tr.191]. Theo khảo sát mới nhất năm 2018 của nhóm tác
giả Hayashi Hideaki và Phạm Đăng Nhật Thái thì sau thời điểm trên, đình
không ghi nhận thêm đợt tu bổ lớn nào khác [30, tr.17]. Trên thực tế hiện trạng,
dù màu sắc đã phai nhưng dấu tích của nghệ thuật TTKSS vẫn còn được lưu lại
trên kiến trúc chính, cổng tứ trụ và đặc biệt là bức bình phong của ngôi đình
149
[PL7, H.3.35, tr.291]. Bức bình phong này thể hiện đề tài linh thú với kiểu thức
long mã cõng hà đồ (mặt trước) và hổ phù (mặt sau) là những kiểu thức được
sử dụng ở NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn. Dấu ấn rõ nhất thể hiện mối liên
quan giữa TTKSS thời Khải Định trong QTDT Cố đô Huế với TTKSS của đình
làng Kim Long được thể hiện thông qua sự xuất hiện thủy tinh màu (kết hợp
với sành sứ cổ). Điều này cho thấy, chất liệu ngoại nhập này đã có mặt TTKT
dân gian cùng thời điểm với TTKT cung đình. Thủy tinh màu được ghi nhận là
đã được sử dụng ở lăng Kiên Thái Vương [20], tức là đã xuất hiện vào đời Đồng
Khánh khi theo Đồng Khánh, Khải Định chính yếu, lăng này được xây vào năm
1888 [81, tr.72, 73]. Đến thời Khải Định thì một trong những công trình sớm
nhất mà vua Khải Định cho khởi công, theo Chính biên đệ thất kỷ, là Thái Bình
Lâu vào năm 1919 [81, tr.335]. Như vậy, rất có thể, ngay trong thời điểm nghệ
thuật TTKSS với những biểu hiện mới được hình thành ở thời Khải Định, nó đã
bắt đầu lan ra TTKT dân gian ngược chiều với những yếu tố dân gian xâm nhập
vào NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn.
Cổng chùa Vĩnh Tràng ở thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang
Di tích quốc gia chùa Vĩnh Tràng là một trong những danh lam nổi tiếng
nhất tại tỉnh Tiền Giang, trong đó, hai cổng vào của chùa (cổng Phương Tiện
và cổng Tịnh Độ) sử dụng hình thức TTKSS. Sư thầy Thích Huệ Phát cho biết
“Cổng được xây theo lối kiến trúc cổ lầu, quy mô và tráng lệ do những nghệ
nhân xứ Huế thực hiện vào năm 1933 theo ý tưởng của Hòa thượng Minh
Đàn… Nét độc đáo của hai cổng này thể hiện ở chỗ ghép mảnh sành sứ, …cẩn
miểng chai nổi màu sắc óng ánh rất đẹp” [72, tr.44] [PL7, H.3.36, tr.292]. Ngoài
ra, trên mặt cổng cũng có một mảng trang trí nhỏ đề số “1933” để thể hiện năm
xây dựng. Mặc dù được xây dựng đã gần 90 năm, nhưng cho đến nay, hệ thống
TTKSS trên hai chiếc cổng còn gần như nguyên vẹn và chúng thể hiện rất rõ
những đặc trưng của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định nhưng đồng thời cũng
150
lại cho thấy sự sáng tạo, phóng khoáng của người nghệ nhân dân gian khi không
còn bị bó buộc bởi những quy tắc chốn cung đình. Trước tiên là về mặt đề tài,
mặc dù là hai chiếc cổng của Phật giáo nhưng các đề tài Nho - Lão trong NTTT
trên KTCĐ triều Nguyễn lại được sử dụng khá nhiều như tứ linh, tứ thời, cổ đồ,
quả. Yếu tố Phật giáo có lẽ chỉ nằm ở một số ô hộc sử dụng trên nội dung các
câu đối, cảnh bốn thày trò Đường Tăng trong truyện Tây Du Ký hoặc một số vị
Phật, Bồ tát nằm xen kẽ và kể cả hai bức tượng Phật bằng BTCT [PL7, H.3.37,
tr.292]. Về bố cục, có thể tìm thấy ở đây những con linh thú có hướng nhìn ra
ngoài như trong sự cách tân về bố cục trang trí tổng thể của nghệ thuật TTKSS
thời Khải Định. Về tạo hình, những cách thức thể hiện như tạo hình dạng chạm
lộng, họa tiết vượt khỏi phạm vi trang trí, mô tả chất liệu, sử dụng thủy tinh
vụn, bố cục trong bố cục đều có mặt trong các đồ án TTKSS ở hai chiếc cổng
này. Cùng với đó, sự xuất hiện của chất liệu thủy tinh màu kết hợp với sành cổ và
hòa sắc tương phản là không thể thiếu. Hơn thế nữa, đề tài được sử dụng vô cùng
phong phú với sự xuất hiện một số lượng lớn các đồ án hình tượng người cả ở
trang trí con giống và trang trí ô hộc. Có thể nói, đây chính là một “bản sao” mang
tính dân gian của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định ở vùng đất Tây Nam Bộ.
Lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt ở thành phố Hồ Chí Minh
Lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt hay còn gọi là lăng Ông Bà Chiểu cũng là
một di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng ở thành phố Hồ Chí Minh và đã được công
nhận là di tích quốc gia. Những kiến trúc chính của lăng, Thượng Công Linh
Miếu, khu Đông Lang, Tây Lang là những tòa nhà có kiến trúc kết hợp Đông -
Tây với kết cấu BTCT sử dụng mái lợp ngói âm dương và nhiều chi tiết kiến
trúc truyền thống với các đồ án khảm sành sứ trong TTKT. Theo tác giả Bùi
Thị Ngọc Trang, Thượng Công Linh Miếu là “một kiến trúc được hoàn chỉnh
sau nhiều giai đoạn xây dựng - từ năm 1925 đến năm 1973” [102, tr.69], còn
hai khu Đông Lang và Tây Lang được xây dựng và hoàn chỉnh vào các năm
151
1937 và 1949. Tác giả cũng cho biết, “riêng nghệ thuật khảm sành sứ ở di tích
là một kỹ thuật tiếp thu từ những công trình kiến trúc ở Cố đô Huế” [102,
tr.133]. Ngoài ra, theo tác giả, TTKT ở đây có sự tham gia của các họa sĩ như
là cụ Nguyễn Văn Cứng (giáo sư trường Mỹ thuật Gia Định) và giáo sư hội họa
Nguyễn Văn Long [102, tr.136]. Theo tác giả Trần Phương Thảo, TTKSS ở
lăng Tả Quân chịu ảnh hưởng trực tiếp của TTKSS thời Khải Định, “so sánh
vật liệu dùng để khảm cũng hoàn toàn tương đồng với thời vua Khải Định (có
thêm vật liệu khảm là thủy tinh màu)” [95, tr.32]. Qua khảo sát thực tế, hệ thống
TTKSS ở lăng Tả Quân thể hiện rất rõ những đặc trưng của hình thức TTKT
này ở thời Khải Định tại QTDT Cố đô Huế. Không những vậy, với sự tham gia
của các giáo sư hội họa, chúng còn được bổ sung thêm các yếu tố mỹ thuật hiện
đại đương thời khiến cho chúng vừa thể hiện sự kế thừa lại vừa thể hiện nét
tươi mới, theo đúng tinh thần mà nghệ thuật TTKSS thời Khải Định đã cách
tân, biến đổi từ truyền thống. Bên cạnh hệ thống các đề tài, kiểu thức truyền
thống (tứ linh, tứ thời, bát bửu, bát quả…), TTKSS tại lăng Tả Quân đã xuất
hiện các chủ đề hoàn toàn Tây phương (không có kết hợp với bất cứ kiểu thức
truyền thống nào) thể hiện trong trang trí ô hộc [PL7, H.3.39, tr.293]. Nguyên
tắc bố cục đặc trưng của nghệ thuật TTKSS thời Khải Định, rồng xô hướng
nhìn ra ngoài, cũng có mặt trên tòa miếu chính [PL7, H.3.41, tr.293]. Về mặt
tạo hình, tất cả những đặc trưng trong tạo hình của nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định đều được thể hiện đầy đủ tại lăng Tả Quân. Các bức khảm trang trí linh
thú, tứ thời tại đây vô cùng tinh xảo và cũng xứng đáng được coi là những tác
phẩm nghệ thuật trên kiến trúc [PL7, H.3.38, tr.293]. Hơn thế nữa, chúng còn
được bổ sung thêm những cách thể hiện mới lạ khác, ví dụ như dải bờ nóc mái
của tòa miếu chính. Ở chi tiết kiến trúc này, thay vì được phân vị ô hộc, nó đã
được biến đổi thành một dải trang trí nổi hẳn lên trên đường sống mái với chủ
đề hoàn toàn phương Tây (hai con công thay thế cho các con rồng ở hai đầu bờ
152
mái, ở giữa là cây cỏ, hoa lá và chim muông) [PL7, H.3.41, tr.294]. Điều này
cho thấy, khảm sành sứ cũng thể hiện hiệu quả những đề tài phương Tây thuần
túy. Ngoài ra, trong trang trí ô hộc, cùng với cách thức thể hiện theo kiểu chạm
lộng thì cũng xuất hiện những ô hộc được tạo tác theo kiểu “chạm thủng”, có
nghĩa là những ô hộc “rỗng” và sử dụng trang trí có hình khối tượng tròn [PL7,
H.3.40, tr.293]. Có thể nói, với những đồ án TTKT tại lăng Tả Quân Lê Văn
Duyệt, nghệ thuật TTKSS thời Khải Định không những đã được kế thừa mà
tiếp tục được bồi đắp thêm những nét độc đáo mới, thể hiện tiềm năng phát
triển về mặt nghệ thuật của hình thức TTKT này.
Khu thực cảnh Tinh hoa Việt Nam ở Phú Quốc
Năm 2021, để xây dựng bối cảnh cho chương trình thực cảnh Tinh hoa
Việt Nam tại Phú Quốc, các nhà sản xuất đã lựa chọn những nghề thủ công
truyền thống trên nhiều lĩnh vực trong cuộc sống để đưa vào 15 công trình -
gian trưng bày và nghệ thuật khảm sành sứ Huế là một trong những lựa chọn.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Minh Thái, chương trình Tinh hoa Việt Nam
“bao gồm những lát cắt độc đáo nhất về đời sống sinh hoạt văn hóa Việt…
những gian hàng, đại diện cho những làng nghề thủ công Việt Nam, từ làng
nghề dệt, gốm sứ, chế tạo con rối, trang phục, thuốc nam, phở... Tại đây, các
câu hỏi về văn hóa Việt truyền thống đều có thể tìm được câu trả lời thỏa đáng
bằng nghệ thuật…” [126]. Được đặt hàng để thực hiện, nghệ nhân Trần Viết
Xảo đã lựa chọn mô phỏng các đồ án tứ thời và những con rồng cuốn cột trong
TTKSS nội thất Thiên Định Cung [PL7, H.3.43, tr.295]. Sử dụng hệ thống
khung xương, lưới thép vảy vữa để tạo nền, những đồ án trên đã được chế tác
ngay tại xưởng gia công mà không cần trực tiếp thực hiện trên kiến trúc [PL7,
H.3.44, tr.295]. Đến đây, với sự ứng dụng của kỹ thuật, nghệ thuật TTKSS thời
Khải Định lại tiếp tục bổ sung thêm một bước phát triển mới, khi nó chính thức
153
bước ra khỏi bề mặt kiến trúc để trở thành những bức tranh, những tác phẩm
nghệ thuật khảm sành sứ độc lập đúng nghĩa [PL7, H.3.45, tr.295].
Ngoài những công trình kể trên, nghệ thuật TTKSS với ít nhiều “dấu ấn
Khải Định” còn được nhìn thấy ở nhiều chùa chiền, đình làng, từ đường trong
và ngoài phạm vi Huế như chùa Từ Đàm, chùa Từ Hiếu (Huế) [PL7, H.3.46,
tr.296] hay chùa Linh Phước (Đà Lạt) [PL7, H.3.47, tr.296].
Từ đình làng Kim Long cho đến khu thực cảnh Tinh hoa Việt Nam, từ
Huế cho đến vùng biển đảo Phú Quốc, qua hành trình 100 năm, có thể thấy sức
sống bền bỉ của TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tại QTDT Cố đô Huế.
Khởi thủy từ dân gian, du nhập vào cung đình rồi cuối cùng lại trở về với cuộc
sống bình nhật, qua bàn tay tài hoa và sự sáng tạo của nhiều thế hệ nghệ nhân,
nó đã được kế thừa và tiếp tục được bồi đắp, phát triển thêm những hình thức
biểu hiện mới để lan tỏa đi khắp mọi miền tổ quốc.
Tiểu kết
Trong bối cảnh chính trị - xã hội và giao lưu văn hóa Đông - Tây của
những năm đầu thế kỷ XX, tại QTDT Cố đô Huế, nghệ thuật TTKSS trên kiến
trúc thời Khải Định đã được hình thành từ cái gốc nghệ thuật TTKSS ở các thời
kỳ trước. Từ kết quả khảo sát, phân tích những biểu hiện của nghệ thuật TTKSS
trên kiến trúc thời Khải Định, dựa trên cơ sở hệ thống lý luận và lý thuyết, các
đặc trưng và giá trị của loại hình nghệ thuật này đã bước đầu được xác định.
Đồng thời, ở giai đoạn hiện nay, nó còn tiếp tục được kế thừa, gìn giữ và liên
tục được bổ sung những hình thức biểu đạt mới về mặt mỹ thuật.
Kế thừa từ nghệ thuật TTKSS truyền thống, nghệ thuật TTKSS thời Khải
Định đã được phát triển, làm mới để hình thành nên những đặc trưng riêng biệt.
Trước tiên, đó là sự cách tân trên cơ sở kế thừa truyền thống thể hiện ở việc sử
dụng kiểu thức trong trang trí và bố cục trang trí tổng thể. Tiếp đó, là việc sử
dụng yếu tố phương Tây trong hình thức biểu đạt các đồ án trang trí truyền thống
154
ở các mặt tạo hình, chất liệu và màu sắc. Và cuối cùng, đó là sự sáng tạo và tinh
xảo trong chế tác các đồ án trang trí thể hiện bởi các thủ pháp và kỹ thuật thể
hiện, bổ sung thêm những điểm khác biệt của nghệ thuật TTKSS triều Nguyễn
nói chung và TTKSS thời Khải Định nói riêng với tranh ghép mảnh Mosaic.
Từ những đặc trưng đã được xác định, kết hợp với những luận điểm đánh
giá liên quan, những yếu tố hình thành giá trị văn hóa nghệ thuật của nghệ thuật
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tiếp tục được nhận diện. Về giá trị văn
hóa, đó là hình ảnh phản chiếu bối cảnh chính trị, xã hội đương thời, thể hiện
cách ứng xử của người xưa với sự xâm nhập của yếu tố bên ngoài. Đồng thời,
đó cũng chính là sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Đông - Tây, thể hiện
tư tưởng hiện đại hóa nhưng không tách rời truyền thống của triều đình Nguyễn.
Về giá trị nghệ thuật, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định tham gia
hình thành đặc trưng của TTKT cung đình giai đoạn 1916 - 1925, “bản địa hóa”
các công trình kiến trúc hiện đại và góp phần nâng tầm một số đồ án trang trí
thành tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc.
Sau hơn 100 hình thành, cho đến nay, hệ thống các đồ án TTKSS luôn
được coi là yếu tố làm nên giá trị nghệ thuật của mỗi công trình KTCĐ liên
quan đến thời Khải Định, được ưu tiên trong nghiên cứu bảo tồn. Các thế hệ
nghệ nhân nề ngõa, khảm sành luôn có ý thức kế thừa và phát triển nghề truyền
thống. Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định liên tục được bồi đắp
thêm những hình thức biểu hiện mới và từ cung đình, đã lan tỏa vào dân gian,
đến nhiều vùng miền khác trên đất nước.
155
KẾT LUẬN
Đầu thế kỷ XX, sau khi thời gian trị vì của hai vị vua yêu nước Thành
Thái và Duy Tân kết thúc, triều đình Nguyễn đã chấp nhận chịu lệ thuộc vào
thực dân Pháp với chủ trương duy trì nền quân chủ. Cũng trong thời gian này,
quá trình giao lưu văn hóa Đông - Tây diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam nói chung
và Huế nói riêng và ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống trong đó có
kiến trúc và mỹ thuật. Là người kế vị ngai vàng, vua Khải Định cũng đã thể
hiện những cố gắng duy trì, củng cố quyền lực theo hướng canh tân, hiện đại
hóa dựa trên kế thừa các tư tưởng truyền thống. Một trong những biểu hiện đó
là việc ông cho tu sửa và xây dựng mới nhiều công trình KTCĐ với sự xuất
hiện của các kiến trúc phương Tây hiện đại. Tuy nhiên, vào lúc này, hình thức
TTKT chính của KTCĐ triều Nguyễn là pháp lam đã thoái trào và thất truyền.
Cùng với đó, các công trình kiến trúc phương Tây hiện đại và đồ sộ cũng đòi
hỏi cần phải có một hình thức TTKT phù hợp. Trong bối cảnh đó, trên hình
thức TTKSS lựa chọn, từ đó, hình thành nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời
Khải Định tại QTDT Cố đô Huế.
Xuất phát từ một vai trò phụ trên kiến trúc ở các thời kỳ trước, nghệ thuật
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định đã được bồi đắp và phát triển để hình
thành nên những đặc trưng riêng có trong NTTT trên KTCĐ triều Nguyễn. Đặc
trưng thứ nhất là sự cách tân trên cơ sở kế thừa trang trí truyền thống. Đó là
việc sử dụng cùng lúc nhiều kiểu thức tứ linh, linh thú, sử dụng kiểu thức trang
trí phương Tây, kiểu thức trang trí dân gian, sử dụng trở lại các kiểu thức của
đề tài nhân vật và sử dụng kiểu thức cát tường tự văn. Bên cạnh đó, trong bố
cục trang trí tổng thể, đó là sự gia tăng tính hướng tâm và lực hút thị giác về
điểm nhấn trung tâm ở trang trí bờ nóc mái, sự đảo chiều hướng của đồ án trang
trí bờ chảy, bờ quyết mái và sử dụng kiểu thức “thi trong họa” thay thế cho bố
cục tranh liên hoàn “nhất thi - nhất họa” trong trang trí ô hộc. Đặc trưng thứ
156
hai là sự tham gia của những yếu tố phương Tây trong hình thức biểu đạt các
đồ án trang trí. Trong tạo hình, chúng cho thấy sự chuyển hóa kiểu thức phương
Tây thành kiểu thức trang trí có tính truyền thống và sử dụng thủ pháp phương
Tây để thể hiện họa tiết truyền thống. Trong chất liệu và màu sắc, chúng sử
dụng các chất liệu ngoại nhập như sứ, thủy tinh và từ đó, bổ sung thêm những
màu sắc mới từ những loại vật liệu mới này. Đặc trưng thứ ba là sự sáng tạo và
tinh xảo trong trang trí. Về sự sáng tạo, bên cạnh vai trò là lớp màu hoàn thiện,
các mảnh ghép trong nghệ thuật TTKSS thời Khải Định còn tham gia vào tạo hình
chi tiết của đồ án trang trí, với những thủ pháp thể hiện chỉ có ở thời kỳ này, cho
thấy sự phát triển về tư duy tạo hình và tư duy thị giác. Về sự tinh xảo, các mảnh
ghép đã được tính toán chi tiết và cắt, gọt một cách tỉ mỉ, sau đó được xếp, gắn
theo các tầng - lớp trong mỗi mảng trang trí để đạt được ý đồ tạo hình phức tạp.
Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định chứa đựng những yếu
tố cấu thành giá trị văn hóa nghệ thuật. Về giá giá trị văn hóa, nghệ thuật
TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định chỉ có thể hình thành vào giai đoạn này
chứ không phải một giai đoạn nào khác trong suốt lịch sử triều Nguyễn. Trong
mỗi đồ án TTKSS thời Khải Định, luôn xuất hiện những yếu tố phản ảnh sự
thay đổi của xã hội thế kỷ XX. Đồng thời, chúng thể hiện rõ cách ứng xử của
người xưa để kế thừa, gìn giữ truyền thống trước làn sóng hiện đại hóa phương
Tây. Nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định là sản phẩm của quá
trình giao lưu văn hóa Đông - Tây và tích tụ bên trong ba lớp văn hóa (bình dân
bản địa, Nho - Lão của cung đình và hiện đại Tây phương), thể hiện tư tưởng
hiện đại hóa nhưng không tách rời truyền thống của triều đình Nguyễn. Về giá
trị nghệ thuật, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định là yếu tố hình
thành nên đặc trưng của NTTT trên KTCĐ giai đoạn 1916 - 1925. Chúng mang
đến sự dung hòa giữa quá khứ và hiện tại cho KTCĐ triều Nguyễn. Bên cạnh
đó, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định là yếu tố “bản địa hóa” các
157
công trình kiến trúc hiện đại, mà ở đó, các không gian kiến trúc phương Tây
được chủ động tiếp nhận và chuyển hóa trở thành những yếu tố mang bản sắc
truyền thống. Ngoài ra, với nghệ thuật TTKSS, nhiều đồ án trang trí trên KTCĐ
thời Khải Định đã được nâng tầm thành các tác phẩm nghệ thuật độc lập trên
kiến trúc. Đó là những đồ án độc bản và là biểu tượng để nhận diện công trình
kiến trúc, ẩn chứa trong đó những ý nghĩa lịch sử, xã hội truyền thống và thể
hiện bằng phương pháp tạo hình của mới mẻ.
Trải qua hơn 100 năm, nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
đã luôn được coi trọng, kế thừa và phát triển. Trong QTDT Cố đô Huế, chúng
được coi là yếu tố gốc thể hiện giá trị nghệ thuật cao nhất của mỗi di tích. Công
cuộc bảo tồn đã góp phần đưa trở lại di sản Huế nghề thủ công truyền thống
khảm ghép sành sứ. Sự tài hoa của các nghệ nhân đi trước đã được các thế hệ
sau tiếp nối. Đó là những “tư liệu sống” lưu trữ và giữ gìn những tinh hoa của
nghề nề ngõa, khảm sành sứ. Qua bàn tay tài hoa và sự sáng tạo, họ tiếp tục bồi
đắp, phát triển thêm những hình thức biểu hiện mới và đồng thời, những giá trị
của nghệ thuật TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định đã đã lan ra cuộc sống
thường nhật, không chỉ trong phạm vi Huế mà còn ở nhiều địa phương khác
trên cả nước.
Luận án Nghệ thuật trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
(1916 – 1925) tại Quần thể di tích Cố đô Huế là một tập hợp có hệ thống chuyên
sâu về NTTT trong một giai đoạn của lịch sử mỹ thuật Huế và KTCĐ triều
Nguyễn. Luận án góp phần lý giải, làm rõ yếu tố làm nên đặc trưng của NTTT
trên KTCĐ triều Nguyễn giai đoạn 1916 - 1925 trong bối cảnh giao lưu văn
hóa Đông - Tây. Đồng thời, luận án cũng góp phần cung cấp cơ sở khoa học
cho công tác bảo tồn hệ thống TTKSS tại các công trình KTCĐ thời Khải Định
cũng như bảo tồn, gìn giữ và quảng bá nghề nề ngõa, khảm sành sứ, một di sản
phi vật thể của Cố đô Huế.
158
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Minh Khôi (2018), “Một số biểu hiện giao lưu và tiếp biến
trong trang trí mỹ thuật trên kiến trúc cung đình thời Khải Định”, Kỷ yếu Hội
nghị nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh năm 2017, Nxb Thế giới, Hà
Nội, tr.323-329.
2. Nguyễn Minh Khôi (2020), “Đề tài tứ thời trong trang trí mỹ thuật trên
kiến trúc triều Nguyễn thời Khải Định”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học
của nghiên cứu sinh năm 2019, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.320-331.
3. Nguyễn Minh Khôi (2021), “Sành sứ trong trang trí kiến trúc thời Khải
Định tại Huế”, Kỷ yếu Hội nghị nghiên cứu khoa học của nghiên cứu sinh năm
2020, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.269-282.
4. Nguyễn Minh Khôi (2021), “Fine art decoration on Khai Dinh
Dynasty’s royal architecture in Hue”, Polish – Vietnamese Experience in
Preservation and Conservation of Architectural Heritage, Science and
Technics Publishing House, Kielce - Hanoi, pp.182 - 190.
5. Nguyễn Minh Khôi (2022), “Giá trị của trang trí kiến trúc khảm sành
sứ thời Khải Định tại Quần thể di tích Cố đô Huế”, Tạp chí Khoa học trường
Đại học Sư phạm Hà Nội 2, số 79, tr.70 - 83.
159
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Võ Hương An (2016), Vua Khải Định, hình ảnh và sự kiện (1916-1925),
Nxb Văn hóa Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
2. Phan Thuận An (1986), “Điêu khắc, hội họa, trang trí, thủ công mỹ nghệ
Huế cố”, Kỷ yếu Viện Bảo tàng Mỹ thuật, số 6, Số chuyên đề về tham
luận khoa học nhân kỷ niệm 20 năm Viện Bảo tàng Mỹ thuật, Hà Nội,
tr.62 - 72.
3. Phan Thuận An (2003), “Lầu Kiến Trung trong Hoàng cung Huế”, Tạp
chí Nghiên cứu Huế, tập 5, tr.149 - 161.
4. Phan Thuận An (2004), Quần thể di tích Huế, Nxb Trẻ, Hà Nội.
5. Phan Thuận An (2008), “Cung An Định”, Tạp chí Nghiên cứu Huế, tập 6,
Huế, tr.119 - 142.
6. Phan Thuận An (2016), “Ba bài văn ngự chế trang trí trên kiến trúc thời
Khải Định”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1 (127), tr.3 - 11.
7. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong mỹ thuật truyền thống của người
Việt, Nxb Văn hóa Dân tộc - Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội.
8. Trần Lâm Biền (2013), “Huế, Mỹ thuật Nguyễn, những cái riêng”, Con
đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.119 - 139.
9. Trần Lâm Biền (2013), “Vài nét về các bức phù điêu ở Huế”, Con đường
tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.140 - 144.
10. Trương Quốc Bình (1998), “Cuộc vận động quốc tế bảo tồn khu di tích
Huế - Di sản Thế giới đầu tiên tại Việt Nam”, Huế -Di sản văn hóa
Thế giới, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế, tr. 33 - 35.
11. Trương Quốc Bình (2016), “Bảo tồn những giá trị đặc sắc của Cố đô Huế
- đỉnh cao của kho tàng di sản văn hóa triều Nguyễn ở Việt Nam”,
Hội thảo quốc tế “Di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn - Nghiên
160
cứu, bảo tồn và phát huy giá trị”, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và
Trung tâm BTDT Cố đô Huế, Huế, tr.142 - 156.
12. Phan Thanh Bình (2002), “Nghệ thuật khảm sành sứ trang trí kiến trúc
cung đình Huế”, Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn,
Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tr. 325 - 328.
13. Phan Thanh Bình (2009), “Hiệu quả tạo hình của các chất liệu nề họa –
khảm sứ trang trí kiến trúc cung đình thời Nguyễn”, Thông tin Mỹ
thuật (25-26), Đại học Mỹ thuật Tp Hồ Chí Minh, tr.10 - 14.
14. Phan Thanh Bình (2010), “Bộ đề tài Tứ thời trên di sản mỹ thuật thời
Nguyễn tại Huế”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4(33), tr.89 - 91.
15. Phan Thanh Bình (2010), “Khảm sành sứ - Một điểm nổi của di sản văn
hóa Huế”, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 4(33), tr. 92 - 96.
16. Phan Thanh Bình (2010), Nghiên cứu nghệ thuật khảm sành sứ trong mỹ
thuật cung đình thời Nguyễn, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
17. Phan Thanh Bình (2020), “Nghệ thuật tạo hình thời Nguyễn, những giá trị
hình thành từ yếu tố văn hóa vùng”, Tạp chí Khoa học Đại học Huế:
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 129, số 6E, tr.67 - 73.
18. Nguyễn Tiến Bình, Lê Phước Tân (2018), “Tính đăng đối về bố cục và
chủ đề trang trí các ô hoa văn trên mái công trình điện Thái Hòa”, Tạp
chí Di sản văn hóa, số 4(65), tr.43 - 46.
19. Bộ Khoa học Công nghệ (2018), Tiêu chuẩn Quốc gia TCVN 12603:2018
Bảo quản, tu bổ, phục hồi di tích kiến trúc nghệ thuật - Thi công và
nghiệm thu phần nề ngõa, Hà Nội.
20. BS.Gaide và H.Peyssonneaux (2002), “Những lăng tẩm ở Huế - Lăng
hoàng tử Kiên Thái Vương”, Những người bạn Cố đô Huế BAVH, tập
XII (1925), Hà Xuân Liêm dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.5 - 88.
161
21. Nguyễn Tiến Cảnh (chủ biên), Nguyễn Du Chi, Trần Lâm Biền, Chu
Quang Trứ (1992), Mỹ thuật Huế, Viện Mỹ thuật - Trung tâm Bảo tồn
Di tích Cố đô Huế, Huế.
22. Nguyễn Tiến Cảnh (2002), “Mỹ thuật Huế, trung tâm mỹ thuật Việt Nam
thế kỷ XIX”, Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Tạp
chí Nghiên cứu và Phát triển, tr. 299 - 302.
23. Từ Chi, Nguyễn Quốc Hùng (1985), "Thăm lại di tích Huế", Tạp chí Sông
Hương, số 12, tr.82 - 85.
24. Trần Thị Hoài Diễm (2015), “Về hình tượng chim phụng trong di sản văn
hóa Huế”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 2(51), tr.38 - 41.
25. Trần Thị Hoài Diễm (2019), Nghệ thuật chạm khắc đá tại lăng các
bà hoàng thời Nguyễn ở Huế, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
26. Phạm Đức Thành Dũng, Lê Thị An Hòa (2020), “Một di sản vô giá của
dân tộc: Thơ văn trên kiến trúc cung đình Huế”, Di sản văn hóa Huế
- Nghiên cứu và bảo tồn, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế,
tr.332 - 346.
27. Trần Minh Đức (2016), “Dự án phục hồi điện Kiến Trung và những vấn
đề phục hồi di tích kiến trúc”, Hội thảo quốc tế Di sản văn hóa cung
đình thời Nguyễn – Nghiên cứu, bảo tồn và phát huy giá trị, UBND
tỉnh Thừa Thiên Huế và Trung tâm BTDT Cố đô Huế, Huế, tr.90-100.
28. Nguyễn Thiện Đức (2019), Nghệ thuật chạm khắc gỗ điện Long An tại Cố
đô Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
29. Graham Collier (2022), Hình, không gian và cách nhìn, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
30. Hayashi Hideaki, Phạm Đăng Nhật Thái (2018), Kiến trúc đình làng tỉnh
Thừa Thiên Huế, Nxb Thuận Hóa, Huế.
162
31. Đinh Hồng Hải (2005), “Hình tượng “Tứ quý” trong văn hóa Việt Nam”,
Tạp chí Văn hóa Dân gian, số 01, Hà Nội, tr. 29 - 33.
32. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng – một số hướng tiếp cận lý
thuyết, Nxb Thế giới, Hà Nội.
33. Phạm Minh Hải (2021), “Ý nghĩa các biểu tượng hóa trong trang trí mỹ
thuật thời Nguyễn”, Tạp chí Sông Hương, số 385.
34. Phan Thanh Hải (2003), “Cổng, cửa trong kiến trúc cung đình Huế - loại
hình và cách bài trí”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4, tr.36 - 43.
35. Phan Thanh Hải, Lê Thị An Hòa, Phạm Đức Thành Dũng (2015), “Hệ
thống thơ văn chữ Hán trên kiến trúc cung đình Huế”, Tạp chí Di sản
văn hóa, số 2(51), tr.19 - 27.
36. Phan Thanh Hải, Nguyễn Tiến Bình (2015), “Trùng tu di tích Phu Văn
Lâu”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4(53), tr.55 - 59.
37. Phan Thanh Hải, Nguyễn Tiến Bình (2018), “Nghinh Lương Đình, những
thay đổi về hình dáng kiến trúc trong các giai đoạn lịch sử”, Tạp chí
Di sản văn hóa, số 1(62), tr.49 - 54.
38. Henri Gourdon (2020), Nghệ thuật xứ An Nam, Trương Quốc Toàn dịch,
Nxb Thế Giới - Công ty Văn hóa Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội.
39. Lý Tùng Hiếu (2019), Giao lưu tiếp biến văn hóa và sự biến đổi văn hóa
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
40. Lý Tùng Hiếu (2019), Văn hóa Việt Nam, tiếp cận hệ thống – liên ngành,
Nxb Văn hóa Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
41. Nguyễn Thị Hòa (2020), Nghệ thuật tranh minh họa trong tạp chí “Những
người bạn Cố đô Huế”, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn hóa
Nghệ thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
42. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
163
43. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn TĐBK Việt Nam (1995), Từ điển Bách
khoa Việt Nam, tập 1, Trung tâm biên soạn TĐBK Việt Nam, Hà Nội.
44. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn TĐBK Việt Nam (2002), Từ điển
Bách khoa Việt Nam, tập 2, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
45. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn TĐBK Việt Nam (2003), Từ điển
Bách khoa Việt Nam, tập 3, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
46. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn TĐBK Việt Nam (2005), Từ điển
Bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
47. Nguyễn Quốc Hùng (1988), “Tìm hiểu kiến trúc Huế thế kỷ XIX”, Tạp
chí Khảo cổ học, số 1-2, tr 107 - 115.
48. Nguyễn Quốc Hùng (1993), “Góp bàn về đồ sứ men lam Huế”, Tạp chí
Nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, số 3, tr 60 - 61.
49. Nguyễn Quốc Hùng (1994), “Xác định và phân loại gốm sứ Huế”, Thông
báo khoa học Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, Hà Nội, tr.92 - 98.
50. Nguyễn Quốc Hùng (1995), “Đồ sứ men lam Huế, một nét văn hóa
Nguyễn”, Những vấn đề văn hóa thời Nguyễn, Viện KHXH Tp Hồ
Chí Minh - Viện Bảo tàng Lịch sử Tp Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học
Xã hội, tr 193 - 197.
51. Nguyễn Quốc Hùng (2003), “Hành trình mười năm của di sản văn hóa Huế-
Di sản văn hóa thế giới”, Tạp chí Huế Xưa và Nay, số 60, tr 20 - 27.
52. Nguyễn Quốc Hùng (2004), “Một số vấn đề khoa học trong nghiên cứu
khảo cổ học góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di tích Huế”, Kỷ yếu
hội thảo Khảo cổ học tại di tích Huế với vấn đề bảo tồn và phát huy
giá trị di tích, Cục Di sản văn hóa - Trung tâm Bảo tồn Di tích cố đô
Huế - Bảo tàng lịch sử Việt Nam, tr 94 - 101.
53. Nguyễn Quốc Hùng (2009), “Bảo tồn di tích cố đô Huế: cơ hội và thách
thức”, Tạp chí Di sản văn hóa, số 3 (28), tr.65 - 70.
164
54. Nguyễn Hồng Hưng (2016), Nguyên lý design thị giác, Nxb Đại học Quốc
gia Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
55. Nguyễn Hồng Hưng (2017), Bố cục thị giác, Nxb Đại học Quốc gia Tp
Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí Minh.
56. J. Chevalier, A. Gheerbrant (1997), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới,
Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
57. Thái Văn Kiểm (1960), Cố đô Huế, Lịch sử - Cổ tích – Thắng cảnh, Nha
văn hóa Bộ Giáo dục Quốc gia xuất bản, Sài Gòn.
58. Hoàng Đạo Kính (1999), “Những giá trị của di sản kiến trúc Huế”, Huế -
Di sản văn hóa thế giới, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế,
tr. 28 - 31.
59. Hoàng Đạo Kính (2012), “Giữ lấy cái duy nhất của di sản kiến trúc Huế”,
Văn hóa kiến trúc, Nxb Tri thức, Hà Nội, tr.24 - 30.
60. Đoàn Sỹ Lạng, Hồ Trần Nguyên Khanh (2008), “Kiểu trang trí kỷ hà trong
mỹ thuật Huế thế kỷ XIX”, Tuyển tập báo cáo Hội nghị Khoa học
cán bộ trẻ lần thứ X, Kỷ niệm 45 năm thành lập Viện KHCN Xây dựng
(1963-2008), Viện KHCN Xây dựng, Hà Nội, tr.381 - 389.
61. L.Bezacier (2019), “Phác thảo những giai đoạn chính của lịch sử mỹ thuật
An Nam”, Việt Nam qua tuần san Indochine 1041-1944, Nxb Thế
Giới, Hà Nội, tr.358 - 366.
62. L.Cadiere (1998), “Mỹ thuật ở Huế”, Những người bạn Cố đô Huế, tập
VI-1919 - Mỹ thuật ở Huế, Hà Xuân Liêm, Phan Xuân Sanh dịch,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
63. L.Cadiere (2019), Nghệ thuật và Nghệ nhân vùng Kinh thành Huế, Lê Đức
Quang dịch và chú giải, Nxb Hà Nội - Công ty sách Thái Hà, Hà Nội.
165
64. Bùi Thị Thanh Mai (2007), Biểu tượng rồng trong mỹ thuật truyền thống
của người Việt, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
65. Đỗ Thị Thanh Mai (2007), “Nghệ thuật khảm sành sứ thời Nguyễn nhìn
từ một chiếc cổng”, Khoa học công nghệ bảo tồn, trùng tu di tích kiến
trúc, Phân viện Khoa học Công nghệ Xây dựng Miền Trung, Huế, tr.
201 - 209.
66. Trần Thanh Nam (2018), Điêu khắc trang trí trên kiến trúc Hoàng thành
Huế, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia
Việt Nam, Hà Nội.
67. Đặng Bích Ngân chủ biên (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ thuật phổ thông,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
68. Phan Ngọc (2018), Sự tiếp xúc của văn hóa Việt Nam với Pháp, Nxb Thế
giới, Hà Nội.
69. Nội các triều Nguyễn (1993), Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ, tập 13,
Ngô Hữu Tạo, Nguyễn Mạnh Quân dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế.
70. P.Albrecht (2017), “Những họa tiết của nghệ thuật trang trí ở Huế: Con
rồng”, Những người bạn Cố đô Huế BAVH, Tập II (1915), Đặng Như
Tùng dịch, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.05 - 19.
71. Hồ Tấn Phan, Hồ Thị Nhiên Hạnh (1999), “Danh và hiệu các vua nhà
Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu Huế, tập 1, tr.64 - 115.
72. Thích Huệ Phát (2017), Chùa Vĩnh Tràng: Một ngôi chùa nhiều mỹ hiệu,
Nxb Tôn giáo, Hà Nội.
73. Vĩnh Phối (1999), “Những kiểu thức trang trí Huế”, Tạp chí Nghiên cứu
Huế, tập 1, tr.116 - 132.
74. Vĩnh Phối (2001), “Sự hình thành và các loại pháp lam Huế”, Tạp chí
Nghiên cứu Huế, tập 2, tr.84 - 89.
166
75. Phùng Phu (1998), “Bảo tồn Di tích kiến trúc triều Nguyễn ở Huế”, Huế -
Di sản văn hóa Thế giới, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Huế,
tr.37 - 39.
76. Đỗ Xuân Phú (2018), Sơn truyền thống trong nghệ thuật trang trí quần
thể di tích Cố đô Huế, Luận án tiến sĩ Nghệ thuật, Viện Văn hóa Nghệ
thuật quốc gia Việt Nam, Hà Nội.
77. Hoàng Thị Hải Quế, Hồ Trần Nguyên Khanh (2013), “Nghiên cứu phục
hồi trang trí mái Triệu Miếu”, Hội nghị Khoa học kỷ niệm 50 năm
ngày thành lập Viện KHCN Xây dựng, Hà Nội.
78. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 3, Viện Sử học
dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
79. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 9, Viện Sử học
dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
80. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục chính biên đệ lục
kỷ phụ biên, Cao Tự Thanh dịch, Nxb Văn hóa Văn nghệ, Tp. Hồ Chí
Minh.
81. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2013), Đại Nam thực lục chính biên đệ thất
kỷ, Cao Tự Thanh dịch, Nxb Văn hóa Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.
82. Quốc Sử Quán triều Nguyễn (2010), Đồng Khánh, Khải Định chính yếu,
Nguyễn Văn Nguyên dịch, Nxb Thời đại - Trung tâm văn hóa ngôn
ngữ Đông Tây, Hà Nội.
83. Dương Kinh Quốc (2003), Việt Nam - những sự kiện lịch sử (1858-1918),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
84. Dương Trung Quốc (2003), Việt Nam - những sự kiện lịch sử (1919-1945),
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
85. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn (2008), Đại cương
lịch sử Việt Nam toàn tập, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
167
86. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Vũng Tàu (2021), Thuyết minh Di
tích và Danh thắng tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Bà Rịa - Vũng Tàu.
87. Trần Đức Anh Sơn, Phan Thanh Hải (2002), “Quần thể di tích Cố đô Huế
- hai thế kỷ nhìn lại”, Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều
Nguyễn, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, tr. 131 - 141.
88. Trần Đức Anh Sơn (2018), “Phụ lục: Pháp lam Huế-những nhận thức mới”,
Huế - Triều Nguyễn Một cái nhìn, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.311-331.
89. Trần Đức Anh Sơn (2018), “Mấy nhận xét về trang trí nội thất lăng Khải
Định”, Huế - Triều Nguyễn Một cái nhìn, Nxb Thế giới, Hà Nội,
tr.359 - 368.
90. Trần Đức Anh Sơn (2018), “Vài suy nghĩ về tính dân gian trong trang trí
thời Nguyễn”, Huế - Triều Nguyễn Một cái nhìn, Nxb Thế giới, Hà
Nội, tr.416 - 425.
91. Trần Đình Sơn (2013), Đại lễ phục Việt Nam thời Nguyễn (1802 -1945),
Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
92. Lê Thanh Sơn (2019), Kiến trúc và Hiện tượng cộng sinh văn hóa, Nxb
Xây dựng, Hà Nội.
93. Nguyễn Thế Sơn (2016), “Áp dụng phương pháp anastylosis trong việc tu
bổ các tác phẩm khảm sành sứ trang trí công trình Thái Bình Lâu”,
Hội thảo quốc tế Di sản văn hóa cung đình thời Nguyễn – Nghiên cứu,
bảo tồn và phát huy giá trị, UBND tỉnh Thừa Thiên Huế và Trung
tâm BTDT Cố đô Huế, Huế, tr.122 - 126.
94. Trần Huy Thanh (2002), “Di tích kiến trúc nghệ thuật cung An Định”,
Tuyển tập Những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Tạp chí Nghiên
cứu và Phát triển, tr. 178 - 182.
168
95. Trần Phương Thảo (2014), Nghệ thuật khảm sành sứ Nam bộ, Luận văn
thạc sỹ mỹ thuật, Trường Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh,
Tp Hồ Chí Minh.
96. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
97. Nguyễn Hữu Thông (1984), “Nê ngõa tượng cục với các công trình kiến
trúc Huế”, Tạp chí Sông Hương, số 10.
98. Nguyễn Hữu Thông chủ biên (1992), Mỹ thuật thời Nguyễn trên đất Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
99. Nguyễn Hữu Thông (2001), Mỹ thuật Huế nhìn từ góc độ ý nghĩa và biểu
tượng trang trí, Nxb Thuận Hóa, Huế.
100. Nguyễn Hữu Thông (2019), Mỹ thuật Nguyễn, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí
Minh, Tp Hồ Chí Minh.
101. Nguyễn Cao Tiêu (1923), Ngự giá như Tây ký, IMPRIMERIE Đắc Lập
xuất bản, Huế.
102. Bùi Thị Ngọc Trang (2004), Lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt: nghệ thuật kiến
trúc - trang trí và lễ hội, Nxb Tổng hợp Tp Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí
Minh.
103. Phạm Đăng Trí (2016), “Quanh pháp lam Huế suy nghĩ về màu sắc”, Tạp
chí Sông Hương, số 333.
104. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (2015), Báo cáo phục hồi phần
trang trí trên mái công trình Phu Văn Lâu, Huế.
105. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, Viện Khoa học Công nghệ Xây
dựng (2016), Báo cáo đề tài Quy trình triển khai và những phát hiện
mới trong quá trình thực hiện Dự án Tu bổ, phục hồi di tích Phu Văn
Lâu, Huế.
106. Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế (2021), Dự án bảo tồn, tu bổ tổng
thể di tích điện Thái Hòa, Huế.
169
107. Nguyễn Phước Hải Trung (2019), Thế giới nghệ thuật trong thơ trên kiến
trúc cung đình Huế, Luận án tiến sĩ ngôn ngữ, văn học và văn hóa
Việt Nam, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế, Huế.
108. Chu Quang Trứ (1996), Kiến trúc dân gian truyền thống Việt Nam, Nxb
Mỹ thuật, Hà Nội.
109. Chu Quang Trứ (2000), Văn hóa - Mỹ thuật Huế, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
110. Đặng Mậu Tựu (2015), “Dòng chảy mỹ thuật Huế”, Tạp chí Sông Hương,
số đặc biệt, Huế.
111. Ủy ban nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế (2020), “Nghệ thuật tạo hình và
nhiếp ảnh, điện ảnh”, Dư địa chí Thừa Thiên Huế, phần Văn hóa, tập
2, Nxb Thuận Hóa, Huế, tr.491 - 611.
112. Lê Huy Văn, Trần Từ Thành (2006), Cơ sở tạo hình, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
113. Nguyễn Thúy Vi (chủ biên), Vũ Hữu Minh, Lê Vĩnh An, Nguyễn Thanh
Toản, Phan Thuận Ý (2010), Thuật ngữ kiến trúc nhà rường Huế,
Nxb Thuận Hóa, Huế.
114. Viện Khoa học Công nghệ Xây dựng (2019), Lý luận hoàn nguyên và các giải
pháp áp dụng trong Tu bổ phục hồi di tích Nghinh Lương Đình, Huế.
115. Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng - Trung tâm
từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
116. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Tô Ngọc Thanh, Nguyễn Chí Bền, Lâm Mỹ
Dung, Trần Thuý Anh (2004), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
117. Tạ Trường Xuân (2009), Nguyên lý thiết kế kiến trúc, Nxb Xây dựng, Hà Nội.
Tài liệu tiếng nước ngoài
118. L.Bezacier (1954), L’art Vietnamien (Nghệ thuật Việt Nam), Editions de
l'Union francaise, Paris.
119. L. Cadiere (2013), L’Art à Hué (Nghệ thuật Huế), Nxb Thế giới, Huế.
170
120. Phạm Đăng Trí (1986), Ngo Mon, la Porte du Midi aux propotions idéales
(Ngọ Môn, với những tỉ lệ lý tưởng), Estudes Vietnamiennes, Numero
Special sur Hue (II), pp. 47-75.
Tài liệu Internet
121. Phan Thanh Bình (2010), Sắc màu thời gian trên di tích kiến trúc thời
Nguyễn, http://hueworldheritage.org.vn/ (truy cập 20/7/2021).
122. D. Grandclément, Bảo Đại, hay những ngày cuối cùng của vương quốc
An Nam, quyển 1-chương 7, https://truyenfull.vn/ (truy cập
20/7/2021).
123. Đinh Hồng Hải (2012), Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: từ ký
hiệu học đến nhân học biểu tượng, https://www.vanchuongviet.org/
(truy cập 20/7/2021).
124. Đinh Hồng Hải (2012), Tính biểu tượng trong nghệ thuật, https://www.
academia.edu/2347972/Tính_biểu_tượng_trong_nghệ_thuật_Symbo
lism_in_Literature_and_Arts_ (truy cập 20/7/2021).
125. Phan Thanh Hải (2011), Tứ Phương Vô Sự và khát vọng hòa bình,
http://www.hueworldheritage.org.vn/Di-san/Chi-tiet/tid/TU- PHUONG-
VO-SU-VA-KHAT-VONG-HOA-BINH/ (truy cập 20/7/2021).
126. Nhật Lệ (2021), “Tinh hoa Việt Nam” là chương trình thực cảnh đặc sắc
về văn hóa Việt Nam, https://vanhoavaphattrien.vn/tinh-hoa-viet-
nam-la-chuong-trinh-thuc-canh-dac-sac-ve-van-hoa-viet-nam-
a7027.html (truy cập 20/4/2022).
127. Trần Hậu Yên Thế (2016), Đi tìm nguồn gốc của Hổ phù trong Mỹ thuật
của người Việt, https://kienviet.net/2016/03/28/di-tim-nguon-goc-
cua-ho-phu-trong-my-thuat-cua-nguoi-viet/ (truy cập 20/7/2021).
171
128. Trần Đức Anh Sơn, Lăng Khải Định (Ứng Lăng), http://www.hueworld
heritage.org.vn/Di-san/Chi-tiet/pid/2312/cid/87?tid=Lang-Khai-
Dinh-Ung-Lang.html (truy cập 20/7/2021).
129. Nguyễn Đắc Xuân, Tìm thấy hai mươi trang Ngự bút của vua Khải Định,
http://huehoc.com/lich-su/nha-nguyen/tim-thay-hai-muoi-trang-ngu-
but-cua-vua-khai-dinh/ (truy cập 20/4/2022).
130. https://dulich.laodong.vn/tren-duong-thien-ly/trieu-dinh-hue-bo-tranh-
doc-dao-cua-nghe-nhan-nguyen-van-nhan-746120.html (truy cập
20/7/2021).
131. https://mosaic.com.vn/nghe-thuat-kham-gom-su-mosaic-tai-viet-nam/
132. https://www.youtube.com/watch?v=TZ3Ht8OXkuA
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ KHẢM SÀNH SỨ
TRÊN KIẾN TRÚC THỜI KHẢI ĐỊNH (1916 - 1925)
TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
PHỤ LỤC LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
Hà Nội - 2022
172
MỤC LỤC
Phụ lục 1. Tổng hợp các công trình kiến trúc cung đình triều Nguyễn
thời Khải Định sử dụng trong luận án……………………….. 173
Phụ lục 2. Một số thuật ngữ quy hoạch, kiến trúc liên quan đến Quần
thể Di tích Cố đô Huế sử dụng trong luận án……………………….. 184
Phụ lục 3. Các hình thức trang trí kiến trúc tại Quần thể Di tích Cố
đô Huế .…………………………...………………………………….. 186
Phụ lục 4. Bảng thống kê số liệu sử dụng trong luận án……………… 188
Phụ lục 5. Hình minh họa phần mở đầu và chương 1……………….. 211
Phụ lục 6. Hình minh họa chương 2…………………………………. 228
Phụ lục 7. Hình minh họa chương 3…………………………………. 273
173
Phụ lục 1
TỔNG HỢP CÁC CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC CUNG ĐÌNH TRIỀU
NGUYỄN THỜI KHẢI ĐỊNH SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Xét về tình trạng bảo tồn, hệ thống TTKSS trên các công trình KTCĐ
thời Khải Định nói riêng tồn tại ở các mức độ khác nhau. Ở một số công trình
ít bị hư hỏng như Thiên Định Cung, hệ thống TTKSS là nguyên bản, những tu
sửa nếu có chỉ là dặm vá, không ảnh hưởng đến tính nguyên vẹn về mặt tổng
thể. Trên những công trình này, có thể thu thập được tất cả những thông tin cần
thiết liên quan đến đối tượng nghiên cứu, từ sự kết hợp của đồ án trang trí đến
hình thức biểu hiện. Ngược lại, nhiều di tích cũng chỉ còn là phế tích như điện
Kiến Trung, hệ thống TTKSS chỉ có thể nhìn thấy qua ảnh tư liệu. Như vậy,
thông tin liên quan đến đối tượng nghiên cứu chỉ dừng lại ở mức độ mà ảnh tư
liệu có thể cung cấp, chủ yếu là những thông tin liên quan đến kiểu thức sử
dụng trong trang trí, bố cục tổng thể của hệ thống trang trí. Những thông tin về
hình thức biểu đạt (nếu có) chỉ là ở tạo hình và một số thủ pháp thể hiện có thể
phân tích từ ảnh tư liệu. Một trường hợp khác là những công trình đã qua bảo
tồn và trùng tu, khiến cho hệ thống TTKSS có thể ít nhiều không còn nguyên
bản. Tuy nhiên, nguyên tắc của bảo tồn là phải dựa trên yếu tố gốc để can thiệp
vào di tích, do đó, các nội dung liên quan đến sự kết hợp của hệ thống trang trí
(kiểu thức, bố cục, không gian) vẫn đảm bảo tính nguyên gốc. Với các nội dung
liên quan đến hình thức biểu đạt (tạo hình, chất liệu - màu sắc, thủ pháp), chỉ
duy nhất chất liệu và màu sắc là những yếu tố của thời điểm trùng tu, còn tạo
hình và nề ngõa, về cơ bản, vẫn được những người thợ tái hiện trung thực trên
kiến trúc, vì họ là những người được truyền nghề từ thế hệ những nghệ nhân đi
trước. Trong phần phụ lục Tổng hợp các công trình KTCĐ triều Nguyễn thời
174
Khải Định sử dụng trong luận án, NCS sẽ xác định các thông tin cơ bản liên
quan đến mỗi công trình về vị trí, công năng, lịch sử xây dựng, hình thức kiến
trúc, trang trí và tình trạng bảo tồn. Qua đó, xác định những thông tin về hệ
thống TTKSS trên mỗi công trình có thể sử dụng để nghiên cứu.
1. Các công trình tu sửa dưới thời Khải Định
* Lầu Ngũ Phụng, Ngọ Môn
- Vị trí: Hoàng thành, Đại nội Huế. Công trình thứ tư của trục Dũng đạo
và đầu tiên nếu tính trong khu vực Hoàng thành.
- Công năng: lầu Ngũ Phụng “được xem như một lễ đài, dùng để tổ chức
các một số cuộc lễ hàng năm của triều đình” [4, tr.91].
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: xây dựng năm 1833 dưới đời vua Minh Mạng
[78, tr.460]; năm 1900, công trình được trùng tu dưới đời Thành Thái [80,
tr,374]. Năm 1920, công trình được trùng tu dưới thời Khải Định [81, tr.225].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: lầu Ngũ Phụng gồm một tòa nhà chính kiến trúc gỗ, ba gian
hai chái, bốn góc là bốn tòa nhà phụ kết nối bởi hệ thống hành lang.
+ Trang trí: nội thất trang trí chạm khắc gỗ, sơn thếp. Ngoại thất trang trí
pháp lam (đồ án trang trí con giống trung tâm và các đồ án trang trí ô hộc bờ
nóc nhà chính), trang trí khảm sành sứ (các đồ án trang trí con giống bờ nóc,
bờ quyết, hệ thống ô hộc bờ chảy, bờ quyết nhà chính và toàn bộ hệ thống trang
trí bờ mái các khối nhà phụ). Trong các đợt tu sửa của Ngọ Môn, sử liệu không
ghi rõ công trình được can thiệp như thế nào. Qua so sánh 02 bức ảnh tư liệu
năm 1919 [PL5, H.1.4, tr.214] và 1925 [PL5, H.1.5, tr.214], có thể thấy kiến
trúc lầu Ngũ Phụng vẫn được giữ nguyên, chỉ có những thay đổi về mặt trang
trí. Đối với một trong hai loại hình TTKT có mặt trên ngoại thất công trình là
pháp lam, theo nghiên cứu của tác giả Trần Đức Anh Sơn, hình thức trang trí
175
này đã thất truyền vào đời Đồng Khánh [88] và do đó, có thể đây là các đồ án
TTKT pháp lam từ những giai đoạn trước được giữ lại. Điều này cũng phù hợp
vì trang trí pháp lam có mặt ở công trình chủ yếu nằm ở trang trí ô hộc là vị trí
rất khó bị hư hỏng khi tu sửa kiến trúc. Sự thay đổi về trang trí qua ảnh tư liệu
có thể thấy rõ là ở trang trí con giống, mà trên hiện trạng hiện nay, những đồ
án này là TTKSS. Vì vậy, có thể nhận định, những can thiệp của vua Khải Định
về mặt trang trí đối với lầu Ngũ Phụng là ở hệ thống TTKSS.
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã được
trùng tu cơ bản về kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí.
Hình thức biểu hiện về tạo hình của các đồ án trang trí.
* Điện Thái Hòa
- Vị trí: Hoàng thành, Đại nội Huế. Công trình thứ năm của trục Dũng
đạo và thứ hai nếu tính trong khu vực Hoàng thành..
- Công năng: nơi đặt ngai vàng, tổ chức nghi lễ Đại triều (lễ Đại triều
nghi) và các nghi lễ quan trọng khác [4, tr.78, 78].
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: điện Thái Hòa với vị trí hiện nay được xây
dựng vào năm 1833 đời Minh Mạng, cùng thời điểm với Ngọ Môn [78, tr.460].
Đến thời Khải Định, điện liên tục được tu bổ hai lần vào các năm 1917 và 1922
[106, tr.3].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: trùng thiềm điệp ốc, kết cấu gỗ, hợp thành bởi tiền điện và
chính điện.
+ Trang trí: nội thất trang trí chạm khắc gỗ, sơn thếp. Ngoại thất trang trí
pháp lam (các đồ án trang trí ô hộc bờ nóc tiền điện và chính điện), trang trí
khảm sành sứ (toàn bộ các đồ án trang trí con giống và hệ thống ô hộc bờ chảy,
176
bờ quyết tiền điện và chính điện). Đối chiếu ảnh tư liệu điện Thái Hòa trước và
sau khi tu bổ thời Khải Định [PL5, H.1.6, 1.7, tr.215], có thể thấy sự can thiệp
chủ yếu vào hệ thống mái và trang trí mái. Tương tự như lầu Ngũ Phụng, sự
thay đổi về trang trí có thể thấy rõ là ở trang trí con giống, mà trên hiện trạng
hiện nay, những đồ án này là TTKSS.Vì vậy, có thể nhận định, những can thiệp
của vua Khải Định về mặt trang trí đối với điện Thái Hòa là ở hệ thống TTKSS.
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát, điền dã, công trình chưa có
những can thiệp lớn.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục, không gian
trang trí. Hình thức biểu hiện của các đồ án trang trí.
* Nghinh Lương Đình
- Vị trí: công trình đầu tiên của trục Dũng đạo nằm bên bờ bắc sông
Hương phía nam Kinh thành Huế.
- Công năng: nhà nghỉ mát và sân khấu trình diễn kịch hát cho công
chúng xem trong các ngày lễ lớn [37].
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: theo kết quả nghiên cứu của các tác giả Phan
Thanh Hải và Nguyễn Tiến Bình, tiền thân của Nghinh Lương Đình là Lương
tạ, vốn là một công trình tạm đã xuất hiện từ đời Minh Mạng. Đến năm 1894
đời Thành Thái, nó bắt đầu được xây cố định ở vị trí hiện nay. Năm Khải Định
thứ 3 (1918), công trình được tu bổ và có tên chính thức như hiện nay [37].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: trùng thiềm điệp ốc, kết cấu gỗ, hợp thành bởi 03 nhà (tiền
doanh, chính doanh, hậu doanh).
+ Trang trí: nội thất trang trí sơn thếp. Ngoại thất TTKSS. Các tác giả
Phan Thanh Hải và Nguyễn Tiến Bình đã chứng minh, đây là hình thức TTKT
được thiết lập ở thời Khải Định [37].
177
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn
thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí.
* Phu Văn Lâu
- Vị trí: công trình thứ hai của trục Dũng đạo sau Nghinh Lương Đình
bên bờ bắc sông Hương, phía nam Kinh thành Huế.
- Công năng: là nơi niêm yết chiếu thư, chỉ dụ quan trọng của hoàng đế và
triều đình nhà Nguyễn, nơi công bố kết quả các kỳ thi do triều đình tổ chức [36].
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: Theo lạc khoản tại hoành phi Phu Văn Lâu,
công trình được xây dựng năm 1819 dưới đời vua Gia Long. Năm 1905 đời
Thành Thái, công trình được xây dựng lại. Năm 1922 thời Khải Định, công
trình được trùng tu [105, tr.16].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: nhà phương đình 02 tầng, kết cấu gỗ.
+ Trang trí: nội thất trang trí chạm khắc gỗ, sơn thếp. Ngoại thất sử dụng
TTKSS, là hình thức trang trí được thiết lập dưới thời Khải Định [105, tr.25, 26].
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn
thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí.
* Trường An Môn
- Vị trí: phía bắc Hoàng thành, Đại nội Huế, bên phải trục Dũng đạo.
- Công năng: cổng vào chính của cung Trường Sanh.
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: Chính biên đệ thất kỷ cho biết, cổng được
sửa chữa vào năm 1920 [81, tr.308] và được đổi tên thành Trường An Môn từ
tên cũ Trường Sinh năm 1923 [81, tr.445].
178
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: kiến trúc tam quan, kết cấu gạch.
+ Trang trí: sử dụng hình thức TTKSS.
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn
thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí.
Hình thức biểu hiện về tạo hình và thủ pháp của các đồ án trang trí.
2. Các công trình xây dựng dưới thời Khải Định
* Thái Bình Lâu
- Vị trí: Tử Cấm thành, Đại nội Huế. Công trình nằm bên tay trái của trục
Dũng đạo.
- Công năng: là nơi vua dùng để thư giãn, đọc sách [4, tr.157].
- Lịch sử xây dựng: xây dựng năm 1919 đến năm 1921 [81, tr.335].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: trùng thiềm điệp ốc, kết cấu gỗ, hợp bởi chính doanh và hậu
doanh. Bổ sung thêm một tiền sảnh kết cấu BTCT phía trước chính doanh.
+ Trang trí: Nội thất sử dụng trang trí chạm khắc gỗ. Ngoại thất sử dụng
TTKSS.
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn
thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Sự kết hợp của các đồ án trang trí (Đề
tài, kiểu thức, bố cục, không gian). Hình thức biểu hiện về tạo hình, thủ pháp của
các đồ án trang trí. Quan sát về chất liệu ở Thái Bình Lâu, NCS nhận thấy, nhiều
mảnh ghép sành sứ là nguyên gốc (các vị trí nguyên gốc được giữ lại không can
thiệp) và do đó, có thể tham khảo về chất liệu - màu sắc ở những đồ án này.
179
* Thiên Định Cung:
- Vị trí: núi Ứng Thuận, xã Châu Chữ, huyện Hương Thủy [81, tr.297].
Nay là xã Thủy Bằng, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Công năng: theo tác giả Trần Đức Anh Sơn, Thiên Định Cung tích hợp
ba công năng chính “phía trước là điện Khải Thành, nơi có án thờ và chân dung
vua Khải Định; chính giữa là bửu tán, pho tượng nhà vua và mộ phần phía dưới;
trong cùng là khám thờ bài vị của ông vua quá cố” [128].
- Lịch sử xây dựng: Chính biên đệ thất kỷ cho biết lăng được khởi công
vào năm 1920 [81, tr.297]. Lăng tiếp tục được xây dựng sau khi ông mất và
hoàn thành năm 1931 [4, tr.267] [128].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: kiến trúc phương Tây, kết cấu BTCT.
+ Trang trí: Ngoại thất sử dụng TTKT nề vữa. Nội thất sử dụng TTKSS.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Sự kết hợp của các đồ án trang trí (Đề
tài, kiểu thức, bố cục, không gian). Hình thức biểu hiện (tạo hình, chất liệu -
màu sắc, thủ pháp) của các đồ án trang trí.
* Điện Kiến Trung
- Vị trí: Tử Cấm thành, Đại nội Huế. Công trình cuối cùng nằm trên trục
Dũng đạo của Tử Cấm thành.
- Công năng: nơi ở và làm việc của vua Khải Định và sau này là cả gia
đình vua Bảo Đại [3] [81].
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: xây dựng năm 1921 và hoàn thành năm
1923 [81, tr.411].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: kiến trúc phương Tây, 2 tầng, kết cấu BTCT.
+ Trang trí: Nội thất sử dụng trang trí nề họa. Ngoại thất sử dụng TTKSS.
180
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, điện Kiến Trung chỉ
còn là phế tích, do công trình bị phá hủy vào năm 1947 [3]. Tuy nhiên, nguồn
ảnh tư liệu về điện Kiến Trung rất phong phú, có nguồn gốc rõ ràng, có chất
lượng tốt. Hệ thống TTKSS trong những bức hình này có thể quan sát và phân
tích để thu thập thông tin [PL5, H.1.8, tr.216].
- Thông tin sử dụng trong luận án: Từ hệ thống ảnh tư liệu, có thể xác
định hệ thống đề tài, kiểu thức, bố cục của các đồ án của các loại hình trang trí
con giống và trang trí trên bề mặt kiến trúc.
* Cửa Chương Đức và cửa Hiển Nhơn:
- Vị trí: phía tây và đông Hoàng thành, Đại nội Huế.
- Công năng: cửa vào phía tây và đông Hoàng thành Huế.
- Lịch sử xây dựng: theo tác giả Phan Thanh Hải, hai chiếc cổng này được
xây dựng vào năm 1804 đời Gia Long. Đến thời Khải Định, chúng lần lượt được
làm lại vào năm 1921 (cửa Chương Đức) và 1923 (cửa Hiển Nhơn) [34].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: tam quan kết cấu gạch.
+ Trang trí: sử dụng hình thức TTKSS và được đánh giá là “những công
trình tiêu biểu cho phong cách thời Khải Định” [34].
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn
thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí.
Hình thức biểu hiện về tạo hình và thủ pháp của các đồ án trang trí.
* Lầu Tứ Phương Vô Sự
- Vị trí: Hoàng thành, Đại nội Huế. Công trình cuối cùng nằm trên trục
Dũng đạo của Hoàng thành.
181
- Công năng: theo tác giả Phan Thanh Hải, “dẫu chủ quyền triều đại
không còn bao nhiêu, nhà vua vẫn dựng tòa Tứ Phương Vô Sự để bày tỏ khát
vọng đất nước được yên ổn, hòa bình” [125].
- Lịch sử xây dựng: Chính biên đệ thất kỷ cho biết lầu Tứ Phương Vô Sự
hoàn thành và được đặt tên vào năm 1924 [81, tr.450]. Mốc này cũng phù hợp
với thời điểm xây dựng năm 1923 mà một số tài liệu cung cấp [57, tr.45] [125].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: nhà phương đình, 2 tầng, kết cấu gỗ, có pha trộn nét kiến
trúc phương Tây ở tường bao.
+ Trang trí: chủ yếu là TTKSS ở phần ngoại thất.
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn
thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến trúc và trang trí.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí.
Hình thức biểu hiện về tạo hình và thủ pháp của các đồ án trang trí.
* Cung An Định (Cổng chính, đình Trung Lập, Cửu Tư Đài)
- Vị trí: nằm ở bờ nam sông Hương. Hiện nay là số 97, đường Phan Đình
Phùng, thành phố Huế.
- Công năng: Cổng là lối vào chính cung An Định; đình Trung Lập có
chức năng là một nhà hóng mát; Cửu Tư Đài có chức năng là một nhà hát.
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: theo tác giả Phan Thuận An, cổng chính và
đình Trung Lập được xây dựng trong khoảng 2 năm 1917 - 1918 cùng thời điểm
với Khải Tường Lâu (công trình chính của cung) [4, tr.328]. Nhà hát Cửu Tư
Đài có niên đại xây dựng muộn hơn, khoảng 1922 - 1923, và được nối trực tiếp
vào Khải Tường Lâu [4, tr.335].
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Cổng chính: cổng có kết cấu gạch, một cửa, sử dụng hình thức TTKSS.
182
+ Đình Trung Lập: đình có kiến trúc phương đình bát giác, kết cấu
BTCT. Sử dụng hình thức TTKSS.
+ Cửu Tư Đài: kiến trúc phương Tây, kết cấu BTCT. Ngoại thất trang trí
nề vữa màu, nội thất TTKSS.
+ Tình trạng bảo tồn: Đối với cổng chính và đình Trung Lập, tại thời
điểm khảo sát điền dã, công trình đã hoàn thành công tác bảo tồn, trùng tu kiến
trúc và trang trí. Đối với Cửu Tư Đài, tương tự như điện Kiến Trung, do công
trình đã bị triệt giải nên các thông tin liên quan đến TTKT công trình chỉ có thể
xác định qua ảnh tư liệu [PL5, H.1.9, tr.216]. Từ hệ thống ảnh tư liệu này, có
thể xác định các thông tin liên quan đến hệ thống đề tài, kiểu thức, bố cục của
các đồ án trang trí ô hộc và trang trí trên bề mặt kiến trúc.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Đối với cổng chính và đình Trung
Lập, đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí. Hình thức biểu hiện của các đồ án trang
trí. Riêng đối với Cửu Tư Đài, từ hệ thống ảnh tư liệu của công trình, có thể
xác định các thông tin liên quan đến hệ thống đề tài, kiểu thức, bố cục của các
đồ án thuộc loại hình trang trí ô hộc và trang trí trên bề mặt kiến trúc.
* Hai nhà bia thuộc lăng Kiên Thái Vương
- Vị trí: thuộc phường Thủy Xuân, thành phố Huế.
- Công năng: nơi đặt bia đá tôn vinh Kiên Thái Vương. Ông là người
sinh ra ba vị vua Kiến Phúc, Hàm Nghi và Đồng Khánh.
- Lịch sử xây dựng và tu bổ: theo Đồng Khánh - Khải Định chính yếu,
năm 1888, vua Đồng Khánh cho xây dựng lăng Kiên Thái Vương là cục Vạn
Niên Thiên Thành [82, tr.72, 73]. Một điểm độc đáo của lăng Kiên Thái Vương
là khu lăng này có tới 2 nhà bia. Qua các nguồn sử liệu, có thể nhận thấy, chúng
không được xây dựng cùng thời điểm. Về nhà bia thứ nhất, cũng vào năm 1888,
thời Đồng Khánh, “vua ngự giá thăm viếng điện Truy Tư, sai đưa tấm bia khắc
183
huy hiệu vào dựng ở trong nhà bia” [82, tr.131]. Điều này có nghĩa là, nhà bia
đã có mặt cùng thời điểm khi khu lăng được xây dựng. Trong bài viết “Những
lăng tẩm ở Huế - Lăng hoàng tử Kiên Thái Vương” [20] của BS.Gaide và
H.Peyssonneaux năm 1925, cung cấp thông tin về tấm bia thời Đồng Khánh
được dựng năm 1888 đúng với sử liệu. Cũng trong nghiên cứu này, sự hình
thành của nhà bia còn lại được hé lộ. Đó là thông tin về tấm bia do vua Khải
Định dựng năm 1917, đồng nghĩa với ngôi nhà bia thứ hai xuất hiện vào thời
gian này, thời Khải Định. Đồng thời, nghiên cứu của BS.Gaide và
H.Peyssonneaux cũng cho thấy sự có mặt của các chất liệu nhập ngoại cho các
đồ án khảm sành sứ và sự xuất hiện một cách giới hạn của thủy tinh màu ở khu
lăng. Từ những phân tích trên, NCS nhận thấy, có thể sử dụng thông tin về hệ
thống TTKSS của hai nhà bia lăng Kiên Thái Vương trong luận án. Vì nó sẽ
làm rõ sự kế thừa của TTKSS thời Khải Định từ giai đoạn chuyển tiếp là thời
kỳ Đồng Khánh – Duy Tân (1885 - 1916).
- Khái quát về kiến trúc và trang trí:
+ Kiến trúc: nhà phương đình, kết cấu gỗ.
+ Trang trí: chủ yếu là TTKSS ở phần ngoại thất.
+ Tình trạng bảo tồn: tại thời điểm khảo sát điền dã, công trình chưa có
can thiệp về trùng tu.
- Thông tin sử dụng trong luận án: Trên hiện trạng ở thời điểm khảo sát,
hệ thống TTKT của công trình bị hư hại khá nặng. Tuy nhiên, có thể xác định
những thông tin về đề tài, kiểu thức, bố cục trang trí. Về hình thức biểu hiện,
mặc dù các đồ án TTKSS đã hư hỏng, mất mát khá nhiều, nhưng những dấu tích
còn lại trên kiến trúc chỉ cho phép tham khảo về tạo hình, chất liệu trang trí.
184
Phụ lục 2
MỘT SỐ THUẬT NGỮ QUY HOẠCH, KIẾN TRÚC LIÊN QUAN ĐẾN
QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
- Kinh thành: là chủ thể trong quy hoạch tổng thể Kinh đô triều Nguyễn.
Kinh thành là vòng thành bảo vệ hệ thống KTCĐ, bộ máy chính quyền, các
hoạt động của triều đình và hoàng tộc trong phạm vi bao phủ của nó [4, tr.39].
- Hoàng thành và Tử Cấm thành: là hai vòng thành phía trong Kinh thành,
trong đó, Tử Cấm thành là một bộ phận nằm trong Hoàng thành. Ngoài ra, tác
giả Phan Thuận An cho biết, từ thế kỷ XX, toàn bộ khu vực bên trong Hoàng
thành (bao gồm cả Tử Cấm thành) còn được gọi dưới cái tên “Đại nội” [4, tr.49].
Hoàng thành bao gồm 06 khu vực: (1) khu cử hành đại lễ của triều đình;
(2) khu vực thờ phụng các vua chúa nhà Nguyễn; (3) khu vực ăn ở của Hoàng
thái hậu và Thái hoàng thái hậu; (4) khu vực phủ nội vụ; (5) khu vực vườn Cơ
Hạ và điện Khâm Văn; (6) Tử Cấm thành [4, tr.57, 58]. Trong đó, Tử Cấm
thành là chốn cung cấm dành riêng cho vua và hoàng gia [4, tr.58].
- Trục Dũng đạo: trục kiến trúc chính của Kinh thành theo hướng bắc -
nam với núi Ngự Bình là bình phong và sông Hương là minh đường [87]. Theo
phân tích của tác giả Nguyễn Du Chi: “Những công trình lớn và quan trọng
nhất làm thành tuyến chính chạy dài theo trục dũng đạo, rồi từ đó mà quy chiếu
những công trình khác của toàn bộ khu vực” [21, tr.27].
- Kiến trúc “trùng thiềm điệp ốc”: theo tác giả Nguyễn Du Chi, “kiểu
thức cấu trúc ghép hai bộ khung của hai sườn nhà liền mái lại với nhau, tạo
không gian nội thất của chúng thành một khối thống nhất trong một ngôi điện,
thuật ngữ kiến trúc cổ gọi là “trùng thiềm điệp ốc”” [21, tr.29].
185
- Kiến trúc phương đình: cũng theo tác giả Nguyễn Du Chi, phương đình
là “loại nhà có cấu trúc theo kiểu bố cục vuông, các cột và kèo của nó được
phát triển rộng cả bốn mặt” [21, tr.32]. Ngoài nhà hình vuông, KTCĐ triều
Nguyễn còn ghi nhận các kiểu thức phương đình lục giác và bát giác.
- Bờ nóc: Theo tác giả Nguyễn Thúy Vi, bờ nóc là “phần xây bằng gạch có
trát vữa dọc theo đòn đôông, …để cố định hàng ngói trên cùng của mái nhà và che
phủ nóc mái. Hai đầu bờ nóc này nối tiếp với đỉnh của đầu hồi” [113, tr.67].
- Bờ quyết: cũng theo định nghĩa của Nguyễn Thúy Vi, bờ quyết là phần
xây bằng gạch có trát vữa dọc theo kèo quyết,… để giữ ngói và che phủ phần
quyết. Đầu trên của bờ quyết nối liền với bờ mái đầu hồi, đầu dưới thường
dduocj vuốt cong lên…” [113, tr.67].
- Bờ chảy (bờ cảnh): là đoạn bờ mái nối đầu bờ nóc với đầu trên của bờ
quyết (chảy từ nóc xuống quyết), chạy phía trên đỉnh của tường hồi.
- Tường hồi (khu đĩ): theo tác giả Nguyễn Thúy Vi, khu đĩ “là phần vách
xây theo chiều đứng có hình tam giác ở hai đầu hồi mái nhà được giới hạn bởi
hai đượng bờ mái và đường đỉnh mái chái” [113, tr.67].
- Tường cổ diềm: trong trường hợp KTCĐ sử dụng hai tầng mái (mái
thượng, mái hạ) thì đoạn tường thấp xây gạch để phân tầng mái được gọi là
tường cổ diềm.
- Tường chắn mái: là đoạn tường chắn nước ở khu vực mái của các công
trình kiến trúc phương Tây, kết cấu BTCT.
- Bậc cấp: các tầng nhỏ xây ở rìa của một nền cao để bước lên nền này.
Thành bậc cấp là các chi tiết bằng vữa hoặc bằng đá nằm hai bên một hệ thống
bậc cấp để trang trí [113, tr.70].
186
Phụ lục 3
CÁC HÌNH THỨC TRANG TRÍ KIẾN TRÚC
TẠI QUẦN THỂ DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
Trong TTKT ở QTDT Cố đô Huế, bên cạnh TTKSS, còn có các hình
thức trang trí khác như pháp lam (đồng tráng men), gốm, gỗ, sơn, nề họa, xà
cừ, xương, sừng, đá… Cụ thể thông tin cơ bản của từng loại như sau:
- Trang trí pháp lam [PL5, H.1.16, tr.220]: là hình thức TTKT sử dụng
vật liệu đồng đỏ tráng men màu. Trong đó, pháp lam tấm phẳng được dùng
trong trang trí ô hộc (gắn lên bề mặt), pháp lam phù điêu được sử dụng cho
trang trí con giống (buộc vào phần cốt chôn sẵn ở bờ mái). Về ưu điểm, pháp
lam là sản phẩm cao cấp và là chất liệu có tính bền vững nên thường sử dụng
trong TTKT ngoại thất ở khu vực mái kiến trúc. Thứ nhất, nó sẽ đảm bảo duy
trì sự bền lâu của đồ án trang trí. Thứ hai, khu vực mái chính là “vị trí trang
trọng tôn nghiêm nhất, gây ấn tượng mạnh vào thị giác của mọi người” [74].
- Trang trí chạm khắc gỗ [PL5, H.1.17, tr.220]: gỗ là vật liệu chính trong
kết cấu kiến trúc của đa số các công trình KTCĐ triều Nguyễn. Hình thức biểu
đạt của TTKT chạm khắc gỗ là chạm khắc lên bề mặt nền của cấu kiện (bộ vì
kèo, trến…) hoặc chi tiết kiến trúc (liên ba, ván vách…) rồi sau đó kết hợp với
các hình thức TTKT khác như sơn thếp hoặc cẩn, khảm các vật liệu khác lên
gỗ để tạo nên ngôn ngữ thẩm mỹ [28, tr.17].
- Trang trí sơn thếp truyền thống [PL5, H.1.18, tr.221]: Sơn ta là vật liệu,
trước hết, được sử dụng để bảo vệ cho kết cấu gỗ và do đó, chủ yếu được sử
dụng trong nội thất công trình. Đồng thời, sơn son thếp vàng còn là hình thức
TTKT chính sử dụng trong nội thất của KTCĐ triều Nguyễn. Theo tác giả Đỗ
187
Xuân Phú: “chúng làm tăng vẻ đẹp trang nghiêm và ấm cúng trong mỹ thuật
cung đình triều Nguyễn một thời” [76, tr.148].
- Trang trí nề họa [PL5, H.1.19, tr.221]: là hình thức TTKT sử dụng màu
tô, vẽ lên nền vôi vữa còn ẩm. Tương tự như khảm sành sứ, phần nền của trang
trí nề họa bao gồm các diện ô hộc phẳng, các mảng tường phẳng hoặc hình khối
đắp nổi trong trang trí con giống [99, tr.31, 32]. Trong TTKT cung đình triều
Nguyễn, nề họa được sử dụng trong cả ngoại thất lẫn nội thất ở các vị trí mái,
các diện tường phẳng, ô hộc, trần… Ngoài ra, nề họa còn tham gia hỗ trợ cho
sành sứ để tạo thành một đồ án TTKSS hoàn chỉnh [13].
- Trang trí nề vữa [PL5, H.1.20, tr.222]: là hình thức TTKT tương tự nề
họa và thường sử dụng cho các họa tiết đắp nổi. Trong đó, họa tiết chỉ sử dụng
một màu duy nhất có thể tương tự hoặc phân biệt với màu nền.
- Trang trí gốm đất nung [PL5, H.1.21, tr.222]: là các loại gạch men hoa
văn vàng (hoàng lưu ly) và xanh (thanh lưu ly), hoặc các đồ án trang trí được
tạo tác từ trước trên đất sau đó phủ men và nung thành phẩm [99, tr.34].
- Trang trí khảm ngà, xương, sừng, trai [PL5, H.1.22, tr.223]: là hình
thức TTKT sử dụng kết hợp với TTKT chạm khắc gỗ. Đây là các mảnh ngà,
xương, sừng, trai được cẩn, khảm vào bề mặt gỗ.
- Trang trí chạm khắc đá [PL5, H.1.23, tr.224]: trang trí trên đá là sử dụng
kỹ thuật chạm khắc trên bề mặt loại vật liệu này “để tạo ra hình ảnh thị giác, hình
tượng nghệ thuật” [25, tr.22]. Đá sử dụng thường là đá Thanh (đá xanh).
188
Phụ lục 4
BẢNG THỐNG KÊ SỐ LIỆU SỬ DỤNG TRONG LUẬN ÁN
Bảng 1. Các đời vua triều Nguyễn
(Nguồn: Hồ Tấn Phan, Hồ Thị Nhiên Hạnh [71])
STT Niên hiệu Giai đoạn
1 Gia Long 1802 - 1819
2 Minh Mạng 1820 - 1840
Thiệu Trị 3 1841 - 1847
Tự Đức 4 1847 - 1883
Dục Đức 5 1883
Hiệp Hòa 6 1883
Kiến Phúc 7 1883 - 1884
Hàm Nghi 8 1884 - 1885
9 Đồng Khánh 1885 - 1889
10 Thành Thái 1889 - 1907
11 Duy Tân 1907 - 1916
12 Khải Định 1916 - 1925
13 Bảo Đại 1925 - 1945
189
Bảng 2. Danh mục các công trình KTCĐ triều Nguyễn sử dụng trong luận án
(Nguồn: NCS tổng hợp)
Hình thức kiến
Hình thức
Kết
STT
Tên công trình
Lịch sử xây dựng
trúc
trang trí kiến trúc
cấu
Giai đoạn Gia Long - Tự Đức (1804 - 1883)
1
Triệu Miếu
Xây dựng đời Gia Long (1804)
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ KSS, gỗ, sơn thếp, đá
Xây dựng thời Minh Mạng – Thiệu
2 Điện Sùng Ân
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
Pháp lam, gỗ, sơn thếp, đá
Trị (1840-1843)
3 Điện Biểu Đức
Xây dựng thời Tự Đức (1848)
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
Pháp lam, gỗ, sơn thếp, đá
4 Điện Hòa Khiêm
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
Pháp lam, gốm, gỗ, đá
Xây dựng thời Tự Đức (1864)
5 Điện Lương Khiêm
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ KSS, gốm, gỗ, đá
Giai đoạn Đồng Khánh - Duy Tân (1885 - 1916)
Xây dựng
thời Đồng Khánh
Pháp lam, KSS, gốm, gỗ,
6 Điện Ngưng Hy
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
(1888)
sơn thếp, đá
KSS, gỗ, sơn thếp, nề họa,
Mở rộng thời Minh Mạng (1832)
7 Điện Minh Kính
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
Tu sửa thời Đồng Khánh (1886)
đá
8 Cổng lăng Dục Đức Xây dựng thời Thành Thái (1889)
Tam quan
Gạch KSS, nề họa
9 Điện Long An
Xây dựng thời Duy Tân (1909)
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ KSS, gốm, gỗ, đá
190
10 Di Luân Đường
Xây dựng thời Duy Tân (1909)
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ KSS, gốm, gỗ, đá
Giai đoạn Khải Định (1916 - 1925)
Xây dựng thời Minh Mạng (1833)
KSS, pháp lam, gỗ, sơn
11 Lầu Ngũ Phụng
Tổ hợp 5 kiến trúc
Gỗ
thếp, đá
Tu sửa thời Khải Định (1919)
KSS, pháp lam, gỗ, sơn
Xây dựng thời Gia Long (1805)
12 Điện Thái Hòa
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
thếp, đá
Tu sửa thời Khải Định (1923)
Xây dựng thời Minh Mạng (trước
Nghinh
Lương
KSS, gỗ, nề vữa màu, sơn
1826)
13
Trùng thiềm điệp ốc Gỗ
Đình
thếp, đá
Tu bổ thời Khải Định (1918)
Xây dựng thời Gia Long (1819)
14 Phu Văn Lâu
Phương đình
Gỗ KSS, gỗ, sơn thếp, đá
Tu bổ thời Khải Định (1922)
15 Thiên Định Cung
Xây dựng thời Khải Định (1920)
K/trúc phương Tây BTCT Nề vữa, KSS
16 Điện Kiến Trung
Xây dựng thời Khải Định (1921)
K/trúc phương Tây BTCT KSS, nề họa
K/trúc phương Tây BTCT Nề vữa, nề họa
17 Khải Tường Lâu
Xây dựng thời Khải Định (1917 -
Cổng
Gạch KSS
18 Cổng cung An Đinh
1918)
Phương đình bát giác BTCT KSS
19 Đình Trung Lập
Xây dựng thời Khải Định (khoảng
BTCT
20 Cửu Tư Đài
K/trúc phương Tây
Nề vữa, KSS
1922)
191
Trùng thiềm điệp ốc
Gỗ -
21 Thái Bình Lâu
Xây dựng thời Khải Định (1919)
kết hợp tiền sảnh
KSS, gỗ, đá
BTCT
kiểu phương Tây
Lầu Tứ Phương Vô
22
Xây dựng thời Khải Định (1923)
Phương đình
Gỗ KSS, gỗ, nề vữa màu, đá
Sự
Tam quan
Gạch KSS
23 Cửa Chương Đức Xây dựng thời Khải Định (1921-
1923)
24 Cửa Hiển Nhơn
Tam quan
Gạch KSS
Trường An Môn và
Tu bổ thời Khải Định (1923)
Tam quan
Gạch KSS
25
bình phong
02 Nhà bia lăng
01 xây vào thời Đồng Khánh (1888)
26
Phương đình
Gạch KSS
01 xây vào thời Khải Định (1917)
Kiên Thái Vương Ghi chú: KSS - Khảm sành sứ
192
Bảng 3. Bảng tổng hợp đề tài, kiểu thức trang trí trong mỹ thuật truyền thống Huế
(Nguồn: NCS tổng hợp)
STT
Đề tài
Kiểu thức
Ý nghĩa
Nguồn
1
Vũ trụ -
Vòng thái cực, bầu trời (nhật), mặt trăng
Sự hình thành vạn vật, sự tuần hoàn
[7, tr.113-136]
thiên nhiên
(nguyệt), mây, núi, nước, gió, viên ngọc
trường cửu của trời đất, tín hiệu báo
[97; tr.56-63]
điềm lành, sự trường tồn, hạnh phúc,
thái bình
2
Linh thú
- Bộ tứ linh:
+ Rồng (long)
- Biểu tượng vương quyền, khát vọng
[7, tr.137-177]
mưa thuận gió hòa, cuộc sống sung túc.
[24]
- Điềm lành, sự đường bệ, trường thọ,
[33]
+ Lân
hạnh phúc, may mắn, thái bình thịnh
[63, tr.331-
vượng, lòng trung thành.
443]
- Sự trường tồn, trường thọ, bền vững,
[70]
+ Rùa (quy)
hiền từ, khiêm tốn, khôn ngoan.
+ Phượng (phụng)
- Điềm lành, thái bình, sắc đẹp và đức
[99, tr.84-113]
hạnh của người phụ nữ.
- Linh thú khác: hổ phù, long mã, nghê, dơi,
- Theo Trần Hậu Yên Thế, hổ phù (hay
[127]
cá, hạc…
rồng hàm thọ) có liên quan đến hình
193
- Kiểu thức “hóa”: mây hóa rồng, quả hóa
tượng La Hầu (Rahu) của văn hóa Ấn
rồng, dây lá hóa rồng (liên đằng), cây hóa
Độ.
rồng, biến thể của lân từ quả lựu, phụng từ
hoa cúc, hoa dây, rùa từ trái bí với sóng nước,
hoa sen…
3
Cây, quả
- Bộ Tứ thời
- Sự luân chuyển của thời gian, của vạn
[7, tr.178-213]
+ Xuân: mai, đào
vật thiên nhiên theo thời gian, sự hòa
[14]
+ Hạ: sen, trúc, lan
quyện ý tưởng của con người với thiên
[31]
+ Thu: cúc, liễu
nhiên, khát vọng tới sự ấm no, hạnh
[63, tr.453-
+ Đông: tùng, trúc, liễu
phúc, thanh bình.
456]
+ Tổ hợp kiểu thức Tứ thời: Mai - điểu; Mai
[99, tr.63-84]
- hạc; Lan - điệp; Cúc - điệp; Cúc - kê; Trúc
- hổ; Trúc - yến; Trúc - điểu/tước; Liên - áp;
Tùng - lộc/ hạc; Liễu - mã
- Bát quả: đào, lựu, lê, phật thủ, mãng cầu
- Sự đông đúc, phú quý, an bình,
[63, tr.289-
(na), nho, bầu, hồng, măng cụt, mận…
trường tồn trường thọ, sinh sôi nảy nở
330]
- Ngũ quả: đào, lựu, lê, phật thủ, mãng cầu
của vạn vật.
[73]
- Mâm ngũ quả
- Thường sử dụng ở ô hộc trung tâm bờ
[99, tr. 63-84]
nóc hoặc tường cổ diềm hàm ý đại diện
cho vương quyền
194
4
Đồ vật
- Bát bửu:
- Biểu tượng của quyền uy, mong muốn
[7, tr.132-136]
+ Nho giáo: (1) Cái bầu, thanh gươm, thảo
hạnh phúc, no đủ, ca ngợi kẻ sĩ, sự
[16, tr.112]
sách, tháp viết, cuốn thư, cái đàn, cái quạt,
thanh cao, nhàn hạ
[63, tr.267-
288]
chữ Phất (phất trần); (2) Pho sách, cuốn thư,
[73]
lẵng hoa, bầu rượu, cái đàn, cái quạt, phất
[99, tr.123-
trần, cây như ý
140]
+ Lão giáo: Cái quạt, cặp roi, thanh gươm,
đôi xênh, bầu rượu, ống tiêu, lẵng hoa, đóa
hoa sen
+ Phật giáo: Xa luân, ốc tù và (loa), cái lọng,
cái tán, hoa sen, bảo bình, song ngư, dây nút
thắt
+ Kiểu thức “Cổ đồ triền chi” kết hợp đồ vật
với dây lá, dải lụa
- Thể hiện cho kẻ sĩ, người quân tử, sự
- Văn phòng tứ bửu: thỏi mực, giấy, bút,
tôn trọng tri thức, hiền tài.
nghiên
- Sự phú quý, thanh cao, trường thọ,
- Kệ tam sơn, kệ cao đề kỷ (đỉnh trầm, khánh,
sinh sôi vạn vật, lòng hiếu thảo.
bình hoa, mâm quả). Tổ hợp đông bình - tây
quả ở giữa là đỉnh/khánh.
195
5
Nhân vật Bát tiên; Nhị thập tứ hiếu; Ngư Tiều Canh
Sự phú quý, trường thọ, lòng hiếu thảo [16, tr.116-
Mục; Sỹ Nông Công Thương; Hải ốc thiêm
120]
trù; Phúc - Lộc - Thọ
[99, tr.114-
123]
6 Minh văn,
Thơ văn trên kiến trúc
- Diễn đạt tư tưởng trị quốc, ca ngợi
[25]
Cát tường
giang sơn cẩm tú, quốc thái dân an,
[35]
tự văn
mưa thuận gió hòa, ấm no hạnh phúc.
[99, tr.150-
Cát tường tự văn
- Niềm vui, điềm lành, sự trường tồn.
153]
Loại chữ: khải, hành, thảo, lệ, triện
[107, tr.61]
7
Hoa văn
- Trực tuyến: mặt võng, hồi văn chữ Công,
Phụ trợ cho các chủ đề chính
[60]
hồi văn chữ Vạn, nút thắt huyền bí
[99, tr.140-
- Vòng lượn: dây lá cách điệu, hồi văn chữ S
160]
196
Bảng 4. Bảng thống kê bộ phận của KTCĐ thời Khải Định sử dụng TTKSS
Phần thân
STT
Tên công trình
Kết cấu
Phần đế nền
Phần mái
Ngoại thất
Nội thất
1
Lầu Ngũ Phụng
Gỗ
Bờ mái, đầu hồi
2
Điện Thái Hòa
Gỗ
Bờ mái, đầu hồi
3
Nghinh Lương Đình
Gỗ
Bờ mái, đầu hồi
4
Phu Văn Lâu
Gỗ
Bờ mái, đầu hồi
5
Thiên Định Cung
BTCT
Tường, cột
6
Điện Kiến Trung
BTCT
Bậc cấp
Tường, sảnh
Bờ mái, đầu hồi
7
Cửu Tư Đài
BTCT
Tường, cột
8
Đình Trung Lập
BTCT
Bờ mái
9
Cổng cung An Định
Gạch
Tường
Bờ mái, đầu hồi
10 Thái Bình Lâu
Gỗ - BTCT
Sảnh
Bờ mái, đầu hồi
11 Lầu Tứ Phương Vô Sự
Gỗ
Bờ mái, đầu hồi
12 Cửa Chương Đức
Gạch
Tường
Bờ mái, đầu hồi
13 Cửa Hiển Nhơn
Gạch
Tường
Bờ mái, đầu hồi
14 Trường An Môn
Gạch
Tường
Bờ mái, đầu hồi
Nhà bia lăng Kiên Thái
15
Gạch
Tường
Bờ mái, đầu hồi
Vương
197
Bảng 5. Bảng thống kê loại hình trang trí và hình thức tạo hình sử dụng trong TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
STT
Tên công trình
1 2 3 4 5
Lầu Ngũ Phụng Điện Thái Hòa Nghinh Lương Đình Phu Văn Lâu Thiên Định Cung
Trang trí con giống Tượng tròn Phù điêu Bờ mái Bờ mái Bờ mái Bờ mái
Trang trí ô hộc Phù điêu Gắn phẳng Bờ mái Bờ mái Bờ mái Bờ mái NoTTN
Bờ mái Bờ mái Bờ mái Bờ mái NoTTN
Trang trí bề mặt Phù điêu Gắn phẳng Đầu hồi Đầu hồi Đầu hồi Đầu hồi NoTTN
Đầu hồi Đầu hồi Đầu hồi Đầu hồi NoTTN
6
Điện Kiến Trung
Bờ mái Sảnh
Bờ mái Sảnh
Đầu hồi NgTTN
Đầu hồi NgTTN
Bờ mái Sảnh
7
Cửu Tư Đài
NoTTN
NoTTN
NoTTN
NoTTN
8
Thái Bình Lâu
Bờ mái
Bờ mái
Đầu hồi
Đầu hồi
Bờ mái Bờ mái Bờ mái Bờ mái Bờ mái Sảnh Bậc cấp Bờ mái Sảnh Bờ mái
9
Lầu Tứ Phương Vô Sự
Bờ mái Sảnh Bờ mái
10 Cửa Chương Đức
Bờ mái
Bờ mái
11 Cửa Hiển Nhơn
Bờ mái
Bờ mái
Trường An Môn
Bờ mái
Bờ mái
12
Bờ mái Bờ mái NgTTN Bờ mái NgTTN Bờ mái NgTTN
Bờ mái Bờ mái NgTTN Bờ mái NgTTN Bờ mái NgTTN
Đầu hồi Đầu hồi NgTTN Đầu hồi NgTTN Đầu hồi NgTTN
Đầu hồi Đầu hồi NgTTN Đầu hồi NgTTN Đầu hồi NgTTN Ghi chú: NoTTN - Không gian nội thất phần thân nhà; NgTTN - Không gian ngoại thất phần thân nhà
198
Bảng 6. Bảng thống kê đề tài sử dụng trong TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
Tên công trình
STT 1 2 3 4
Lầu Ngũ Phụng Điện Thái Hòa Nghinh Lương Đình Phu Văn Lâu
Trang trí con giống Vũ trụ thiên nhiên, linh thú Vũ trụ thiên nhiên, linh thú Vũ trụ thiên nhiên, linh thú Vũ trụ thiên nhiên, linh thú
Trang trí bề mặt Linh thú, hồi văn Linh thú, hồi văn Linh thú, hồi văn Linh thú, hồi văn
5
Thiên Định Cung
-
Linh thú, hồi văn, CTTV
Trang trí ô hộc Tứ thời, quả Tứ thời, bát bửu, quả Tứ thời, bát bửu, quả Tứ thời, bát bửu, quả Linh thú, tứ thời, bát bửu, quả, minh văn, CTTV
6
Điện Kiến Trung
Vũ trụ thiên nhiên, linh thú
-
Linh thú, hồi văn, CTTV, kiểu thức phương Tây
7
-
Cửu Tư Đài
Linh thú, hồi văn, CTTV
8
Thái Bình Lâu
Linh thú, hồi văn, nhân vật
Vũ trụ thiên nhiên, linh thú, CTTV, nhân vật
9
Lầu Tứ Phương Vô Sự
Vũ trụ thiên nhiên, linh thú
Linh thú, hồi văn
Linh thú, tứ thời, bát bửu, quả, CTTV, nhân vật Linh thú, tứ thời, bát bửu, quả, minh văn, CTTV Linh thú, tứ thời, bát bửu, quả
10 Cửa Chương Đức
Vũ trụ thiên nhiên, linh thú
Tứ thời, quả, CTTV
11 Cửa Hiển Nhơn
Vũ trụ thiên nhiên, linh thú
Tứ thời, quả, CTTV
12
Trường An Môn
Vũ trụ thiên nhiên, linh thú
Linh thú, tứ thời, quả, nhân vật, CTTV
Linh thú, hồi văn, kiểu thức phương Tây Linh thú, hồi văn, kiểu thức phương Tây Linh thú, hồi văn, bát bửu, kiểu thức phương Tây
* CTTV: cát tường tự văn
199
Bảng 7. Bảng thống kê đề tài, kiểu thức trang trí con giống và trang trí tường hồi mái
trong TTKSS trên kiến trúc thời Khải Định
STT 1 1.1
Tên công trình Lầu Ngũ Phụng Tòa nhà chính
Vị trí Bờ nóc Bờ chảy Bờ quyết
1.2
Các tòa nhà phụ
Bờ nóc
Điện Thái Hòa
Bờ chảy Bờ quyết thượng Bờ quyết hạ
2
2.1
Tiền điện
Bờ nóc
Bờ chảy Bờ quyết thượng Tường hồi Bờ quyết hạ
Bờ nóc
2.2
Chính điện
Bờ chảy
Đề tài Tứ linh Tứ linh Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Minh văn Tứ linh Tứ linh Tứ linh Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên - linh thú Tứ linh Tứ linh Tứ linh Linh thú Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh
Kiểu thức Hồi long Dây lá hóa rồng Hồi long Mặt nhật, búp sen chữ Thọ Dây lá hóa rồng Dây lá hóa rồng Dây lá hóa rồng; Chữ hóa rồng Dây lá hóa rồng Rồng đội bình thiên mệnh Rồng chầu, hồi long, lân Dây lá hóa rồng Hồi long Hổ phù Hồi long, lân Viên ngọc – mây Rồng chầu, hồi long, lân Dây lá hóa rồng
200
2.3 3
Gian thừa lưu Nghinh Lương Đình
Bờ quyết thượng Tường hồi Bờ quyết hạ Miệng xối
3.1 Tiền doanh, hậu doanh
Bờ nóc
Bờ chảy Bờ quyết Tường hồi
3.2
Chính doanh
Bờ nóc
Bờ chảy Bờ quyết Tường hồi
4
Phu Văn Lâu
Bờ nóc
5
Điện Kiến Trung
Bờ chảy Bờ quyết thượng Bờ quyết hạ Tường hồi
5.1
Mái chính
Bờ nóc
Tứ linh Linh thú Tứ linh Linh thú Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Tứ linh Linh thú Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Tứ linh Linh thú Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Tứ linh Tứ linh Linh thú Vũ trụ thiên nhiên - linh thú Tứ linh
Hồi long Hổ phù Hồi long, lân Đầu rồng Mặt trời Hồi long, lân Dây lá hóa rồng Phụng chầu Dơi Mặt trời Hồi long Đầu cù Dây lá hóa rồng Dơi Mặt trời Hồi long Dây lá hóa rồng Dây lá hóa rồng Dây lá hóa rồng Dơi Rồng đội mặt trời - mây Rồng chầu, Hồi long
201
Bờ chảy
Tứ linh
5.2
Mái khối chóp
Bờ quyết Đỉnh mái Bờ quyết thượng Bờ quyết hạ
5.3
Lan can mái
Đoạn ở giữa
Hai đoạn hai bên
Đoạn bên hông
5.4
Tiền sảnh
5.5 6
Bậc cấp Thái Bình Lâu
Lan can đi lên Lan can hông
6.1
Chính doanh
Bờ nóc
6.2
Hậu doanh
Bờ chảy Bờ quyết thượng Tường hồi Bờ quyết hạ Bờ nóc
Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên - linh thú Tứ linh Linh thú Tứ linh Cát tường tự văn – linh thú Tứ linh Tứ linh Linh thú Tứ linh Tứ linh Cát tường tự văn – Tứ linh
Rồng xô (rồng hướng nhìn ra ngoài) Dây lá hóa rồng Bình thiên mệnh Rồng xô Rồng xô Mặt trăng – mây Hồi long Mặt trăng – mây Rồng chầu, hồi long Mặt trời Phụng chầu Rồng đội viên ngọc - mây Hồi long Long mã Rồng Chữ Thọ - dơi Hồi long Chữ hóa rồng Long mã, cá chép Mặt hổ phù Lân, phụng, rùa Chữ Thọ - rồng – phụng
202
Bờ chảy Bờ quyết Tường hồi
6.3
Tiền sảnh
Mái sảnh
Tường hồi
7
Lầu Tứ Phương Vô Sự
Bờ nóc
Bờ quyết thượng Tường hồi Bờ quyết hạ
8
Cửa Chương Đức
Bờ nóc
Bờ quyết thượng Bờ quyết hạ
9
Cửa Hiển Nhơn
Bờ nóc
Bờ quyết thượng Bờ quyết hạ
10
Trường An Môn
Bờ nóc
Bờ quyết thượng Bờ quyết hạ
Tứ linh Tứ linh, nhân vật Nhân vật Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Linh thú Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Linh thú Linh thú Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Tứ linh Vũ trụ thiên nhiên Tứ linh Tứ linh Tứ linh
Rồng chầu Rồng chầu, Tiên ông Phúc – Lộc – Thọ Mặt trời Hồi long Hổ phù Mặt trời - mây Hồi long Rồng xô Hổ phù Long mã Mặt trời Hồi long Dây lá hóa rồng Dây lá hóa rồng Mặt trời Hồi long Dây lá hóa rồng Dây lá hóa rồng Mặt trời Hồi phụng Rồng xô Hồi phụng
203
Bảng 8. Bảng thống kê đề tài, kiểu thức ô hộc sử dụng TTKSS
tại cổng Chương Đức (Nguồn: Đỗ Thị Thanh Mai)
STT
Vị trí
Đề tài
Kiểu thức
1 Ô hộc thân trụ cổng tầng 1
Mặt đông
Tứ thời
Liễu – mã; Mẫu đơn – trĩ; Tùng – lộc; Ngô đồng – phụng
Mặt tây
Tứ thời
Ngô đồng – phụng; Tùng – hạc; Mẫu đơn – trĩ; Liễu - mã
2 Ô hộc đỉnh trụ cổng tầng 1
Mặt đông
Tứ thời
Mai – điểu; Tùng – lộc; Lan – thố; Liên - áp
Mặt tây
Tứ thời
Trúc – Cúc – Cúc - Mẫu đơn
3 Ô hộc chân trụ cổng tầng 1
Mặt đông
Quả
Đào – Phật thủ - Lựu – Mãng cầu
Mặt tây
Quả
Mãng cầu – Lựu – Phật thủ - Đào
4 Ô hộc đỉnh tường vòm tầng 1
Mặt đông
Tứ thời
Trúc – hổ; Tiêu – tượng
Quả
Đào – phật thủ - lựu – mãng cầu – phật thủ - đào
Mặt tây
Tứ thời
Liễu – mã; Mai – điểu
Quả
Đào – phật thủ - lựu – mãng cầu – phật thủ - đào
5 Ô hộc thân trụ cổng tầng 2
Mặt đông
Tứ thời
Cúc – trúc – mai – mẫu đơn – tùng - mai
Mặt tây
Tứ thời
Liễu – trúc – mẫu đơn – mai – tùng - mai
204
6 Ô hộc đỉnh trụ cổng tầng 2
Mặt đông
Minh văn Chữ Triện (2 chữ)
Mặt tây
Minh văn Chữ Triện (2 chữ)
7 Ô hộc chân trụ cổng tầng 2
Mặt đông
Quả
Đào – Phật thủ - Lựu – Măng cụt
Mặt tây
Quả
Măng cụt – Lựu – Phật thủ - Đào
8 Ô hộc đỉnh tường vòm tầng 2
Mặt đông
Minh văn Chữ Triện (2 chữ)
Mặt tây
Minh văn Chữ Triện (2 chữ)
205
Bảng 9. Bảng thống kê đề tài, kiểu thức ô hộc sử dụng TTKSS
tại lầu Ngũ Phụng (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
Vị trí
Số liệu thống kê
Hướng đông
Hướng Tây
STT Đề tài Kiểu thức
Trong Ngoài Trong Ngoài
Số lượng
Tỷ lệ %
Bờ chảy, bờ quyết mái thượng
1
Tứ thời
Mai
1
2
0
2
5
7,14
2
Tứ thời Mai - trúc
1
0
0
0
1
1,43
3
Tứ thời
Cúc
0
0
2
0
2
2,86
4
Tứ thời Mẫu đơn
0
0
2
1
3
4,29
5
Quả
Lựu
1
1
0
0
2
2,86
6
Quả
Lê
1
2
0
0
3
4,29
7
Quả
Đào
0
0
0
2
2
2,86
8
Quả
Phật thủ
1
1
0
0
2
2,86
9
Tứ thời
Tùng
0
0
1
0
1
1,43
10
Tứ thời
Song kê
0
0
0
1
1
1,43
Bờ quyết mái hạ
11
Tứ thời
Mai
1
2
0
3
6
8,57
12
Tứ thời Mai – điểu
0
0
0
1
1
1,43
13
Tứ thời
Lan
0
0
0
1
1
1,43
14
Tứ thời
Cúc
1
1
3
4
9
12,86
15
Tứ thời Cây đào – quả
0
1
0
0
1
1,43
16
Tứ thời
Trúc
0
0
0
1
1
1,43
17
Tứ thời
Trúc–tước
1
0
0
0
1
1,43
18
Tứ thời
Tùng
0
2
0
0
2
2,86
19
Tứ thời Tùng – lộc
0
0
1
0
1
1,43
206
20
Tứ thời
Liễu
1
1
0
0
2
2,86
21
Tứ thời Mẫu đơn
3
3
3
1
10
14,29
22
Tứ thời Mẫu đơn - trĩ
0
0
1
1
2
2,86
23
Tứ thời
Sen
1
1
0
0
2
2,86
23
Tứ thời
Liên - áp
0
1
0
0
1
1,43
Cây lựu – quả
25
Quả
0
0
1
1
2
2,86
26
Quả
Nho
1
0
0
0
1
1,43
27
Quả
Lê
0
0
1
0
1
1,43
28
Quả
Đào
1
0
0
0
1
1,43
29
Tứ thời
Song kê
1
0
0
0
1
1,43
Tiêu – tượng
30
Tứ thời
0
1
1
0
2
2,86
Tổng cộng
70
100
207
Bảng 10. Bảng thống kê đề tài, kiểu thức ô hộc sử dụng TTKSS
tại điện Thái Hòa (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
Vị trí
Số liệu thống kê
Hướng đông
Hướng Tây
STT Đề tài Kiểu thức
Trong Ngoài Trong Ngoài
Số lượng
Tỷ lệ %
1 2 3 4 5 6 7 8 Bát bửu 9 Bát bửu 10 Bát bửu 11 Bát bửu 12 Bát bửu
Bờ chảy, bờ quyết mái thượng 1 Tứ thời 0 Quả 2 Quả 0 Quả 1 Quả 1 Quả 0 0 0 0 1 1
Cúc Lựu Lê Đào Mãng cầu Phật thủ Bát bửu Đàn tỳ bà Cuốn thư Cuốn sách Quạt Cái ly Bầu rượu
0 0 1 1 0 0 0 1 0 0 0 0
1 1 1 2 0 0 1 0 1 0 0 0
0 0 0 2 0 0 0 0 0 1 0 0
2 1 4 5 1 1 1 1 1 1 1 1
2,78 1,39 5,56 6,94 1,39 1,39 1,39 1,39 1,39 1,39 1,39 1,39
Bờ quyết mái hạ
13
Tứ thời
1
0
0
0
1
1,39
Mai – cúc – điểu
14
1
0
1
0
2
2,78
15
Tứ thời
0
0
0
1
1
1,39
16
Tứ thời
0
0
0
1
1
1,39
Tứ thời Mai – lan Mai – lan – điểu Mai – nho – điểu
17
1
0
0
0
1
1,39
18
Tứ thời
1
0
0
0
1
1,39
19
Tứ thời
0
2
0
0
2
2,78
20
Tứ thời
0
0
2
0
2
2,78
Tứ thời Mai - thú Cúc – tùng – lộc Cúc – đào – điểu Cúc – trúc – hổ
208
1
0
1
1,39
21
Tứ thời
0
0
Quả Quả Quả Quả
0 2 0 2 1 0 0
0 0 1 0 0 0 2
1 3 1 5 2 2 2
1,39 4,17 1,39 6,94 2,78 2,78 2,78
0 1 0 3 0 0 0
1 0 0 0 1 2 0
1
1
2
2,78
29 Bát bửu
0
0
0
2
3
4,17
30 Bát bửu
0
1
1
0
1
1,39
31 Bát bửu
0
0
0
2
2
2,78
32 Bát bửu
0
0
0
1
3
4,17
33 Bát bửu
0
2
2 0 0 1 0 0
0 1 0 0 0 0
Cúc – lan – thỏ Cặp sanh 22 Bát bửu Lựu 23 Lê 24 Đào 25 Mãng cầu 26 27 Bát bửu Đàn tỳ bà 28 Bát bửu Đàn nguyệt Thảo sách – bút Thảo sách Cuốn thư - bút Ống bút Đỉnh ba chân Hồ lô Cuốn thư Chuông Quạt Cây dù Tù và
34 Bát bửu 35 Bát bửu 36 Bát bửu 37 Bát bửu 38 Bát bửu 39 Bát bửu
2 2 1 0 0 1
1 1 0 0 1 0
5 4 1 1 1 1 72
6,94 5,56 1,39 1,39 1,39 1,39 100
Tổng cộng
209
Bảng 11. Bảng thống kê kiểu thức của đề tài Tứ thời ở dải ô hộc 2 tầng sử
dụng TTKSS tại nội thất Thiên Định Cung (điện Khải Thành)
Vị trí
Số liệu thống kê
STT Kiểu thức
Dải A
Dải B
Dải C
Dải D
Tỷ lệ %
Số lượng
1
1
1
1
2
5
10,42
2
0
2
0
1
3
6,25
1
0
3
0
1
2
4,17
4
1
4
2
2
9
18,75
1 2
1 1
5 6
0 0
0 1
2 4
4,17 8,33
1
0
7
0
0
1
2,08
0 0 0
0 0 0
Mai – điểu, hạc Lan – thỏ Liên – áp, hạc Cúc - kê, điệp Trúc - hổ Tùng - nai Ngô đồng- phụng 8 Khế - điểu Liễu - mã 9 10 Lựu - điểu
1 0 0
0 1 1
1 1 1
2,08 2,08 2,08
0
0
11
0
1
1
2,08
0
0
12
0
2
2
4,17
Phật thủ- điểu Mẫu đơn - trĩ
0 0
0 0
0 1
1 1
1 2
2,08 4,17
0
0
15
0
1
1
2,08
0
3
13 Đào - điểu 14 Nho - sóc Mãng cầu - thú 16 Linh thú
2
0
5
10,42
5
0
17
0
2
7
14,58
Cây (chưa xác định do khuất sau hoành phi)
Tổng cộng
48
100
210
Bảng 12. Bảng thống kê kiểu thức của đề tài Bát bửu ở dải ô hộc 2 tầng sử
dụng TTKSS tại nội thất Thiên Định Cung (điện Khải Thành)
Vị trí
Số liệu thống kê
STT Kiểu thức
Dải A
Dải B
Dải C
Dải D
Tỷ lệ %
Số lượng
1
1
3
1
3
8
16,67
Cái quạt và bút
0 1 0 0 0 0 0
2
0
1
0
0 1 0 1 1 2 1 3 1 1 1 0 0
1 1
1 2 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0
2 Khung ảnh 3 Bút lông 4 Đôn - bình 5 Cuốn sổ 6 Cặp tiêu 7 Cây đàn 8 Cái quạt 9 Cuốn thư 10 Kính lúp 11 Cặp sáo 12 Ốc (tù và) 13 Hộp bút 14 Bầu hồ lô
0 0 0 1 0 3 0 0 0 2 1 0 1
1 4 1 2 1 5 1 5 1 4 2 1 2
2,08 8,33 2,08 4,17 2,08 10,42 2,08 10,42 2,08 8,33 4,17 2,08 4,17
0
0
0
15
1
1
2,08
0 0 0
0 0 0
0 0 0
Kiếm- Cuốn thư 16 Bàn cờ 17 Kính râm 18 Cái ly
1 1 1
1 1 1
2,08 2,08 2,08
4
0
0
19
2
6
12,50
Bát bửu, đồ vật (chưa xác định do khuất sau hoành phi)
Tổng cộng
48
100
211
Phụ lục 5
HÌNH ẢNH MINH HỌA PHẦN MỞ ĐẦU VÀ CHƯƠNG 1
1.1. Hình ảnh tổng quan về quần thể KTCĐ triều Nguyễn tại Huế
Hình 1.1. Sơ đồ quần thể di tích Cố đô Huế (Nguồn: thuathienhue.gov.vn)
212
1. Nghinh Lương Đình; 2. Phu Văn Lâu; 3. Kỳ đài; 4. Ngọ Môn; 5. Điện Thái Hòa; 6. Điện Kiến Trung Hình 1.2. Không ảnh trục Dũng đạo Kinh thành năm 1932 (Nguồn: AAVH)
213
1. Kỳ đài; 2. Ngọ Môn; 3. Điện Thái Hòa; 4. Điện Cần Chánh; 5. Điện Càn Thành; 6. Điện Khôn Thái; 7. Điện Kiến Trung; 8. Lầu Tứ Phương Vô Sự Hình 1.3. Không ảnh trục Dũng đạo Hoàng thành và Tử Cấm thành năm 1932 (Nguồn: AAVH)
214
1.2. Ảnh tư liệu các công trình được tu sửa trước và sau thời Khải Định
Hình 1.4. Ngọ Môn năm 1919 (Nguồn: L’indochine Francaise I Annam 1919)
Hình 1.5. Ngọ Môn năm 1925 (Nguồn: AAVH) So sánh ảnh tư liệu lầu Ngũ Phụng trước và sau khi tu bổ thời Khải Định năm 1920 cho thấy, công trình được can thiệp vào hệ thống TTKT thể hiện rõ ở các đồ án trang trí con giống mái.
215
Hình 1.6. Điện Thái Hòa, khoảng 1896 - 1900 (Nguồn: manhhai, flickr.com)
Hình 1.7. Điện Thái Hòa, khoảng 1926 (Nguồn: AAVH) So sánh ảnh tư liệu điện Thái Hòa trước và sau khi tu bổ thời Khải Định năm 1922 cho thấy, công trình được can thiệp vào hệ thống TTKT thể hiện rõ ở các đồ án trang trí con giống mái.
216
1.3. Các công trình đã bị triệt giải nhưng vẫn xác định được thông tin qua
ảnh tư liệu
Hình 1.8. Điện Kiến Trung, khoảng 1929 (Nguồn: Terry Bennett do Phan Thuận An cung cấp)
Hình 1.9. Cửu Tư Đài, cung An Định, năm 1928 (Nguồn: AAVH) Thông tin từ ảnh tư liệu cho phép xác định đề tài, kiểu thức, nguyên tắc bố cục và tổ chức không gian TTKSS thời Khải Định
217
1.4. Ảnh hưởng của văn hóa phương Tây đến mỹ thuật truyền thống Huế
Hình 1.10. Tác phẩm “Bình văn” của Lê Văn Miến (Tế tửu Quốc tử giám) năm 1905 (Nguồn: Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam)
Hình 1.11. Tranh sơn dầu trên tường nội thất Khải Tường Lâu, năm 2008 (Nguồn: Lưu Ly)
218
1.5. Trang trí khảm sành sứ từ thời Gia Long đến thời Khải Định
Hình 1.12. TTKSS thời Gia Long (1802 - 1919) Bình phong lăng Trường Thái - chúa Nguyễn Phúc Khoát, năm 2015 (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
Hình 1.13. TTKSS giai đoạn Minh Mạng - Tự Đức (1820 - 1883) Con rồng bờ nóc điện Lương Khiêm, lăng Tự Đức, năm 2014 (Nguồn: NCS)
219
Hình 1.14. TTKSS giai đoạn Đồng Khánh - Duy Tân (1885 - 1916) Con phụng bờ quyết Minh Kính Điện, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 1.15. TTKSS thời Khải Định (1916 - 1925) Long Ngư Hý Thủy ô hộc nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
220
1.6. Các hình thức trang trí kiến trúc cung đình triều Nguyễn
Hình 1.16. Trang trí pháp lam Con rồng bờ nóc điện Hòa Khiêm, lăng Tự Đức, năm 2014 (Nguồn: NCS)
Hình 1.17. Trang trí chạm khắng gỗ Con rồng vì kèo tiền điện - điện Long An, năm 2019 (Nguồn: Nguyễn Thiện Đức)
221
Hình 1.18. Trang trí sơn son thếp vàng Vì giả thủ tiền điện điện Biểu Đức, năm 2011 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
Hình 1.19. Trang trí nề họa Tranh tường nội thất Minh Kính Điện, năm 2020 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
222
Hình 1.20. Trang trí nề vữa Bình hoa trang trí tường Khải Tường Lâu, cung An Định, năm 2001 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
Hình 1.21. Trang trí gốm đất nung Cúc - kê tại ô hộc bờ quyết điện Ngưng Hy, lăng Đồng Khánh, năm 2009 (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
223
Hình 1.22. Trang trí khảm trai, ngà, xương, sừng Ô hộc “nhất tự - nhất họa” tại điện Long An, năm 2019 (Nguồn: Nguyễn Thiện Đức)
Hình 1.23. Trang trí chạm khắc đá Rồng đá bậc cấp Bi đình, lăng Thiệu Trị, năm 2011 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
224
1.7. Các loại hình trang trí kiến trúc cung đình triều Nguyễn
Hình 1.24. Các loại hình TTKT cung đình triều Nguyễn TTKSS tầng 2 cổng Chương Đức (Nguồn: NCS thực hiện dựa trên bản vẽ của Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
(1): khu vực bờ mái là các đồ án loại hình trang trí con giống (2): khu vực thân phần trụ giả và đỉnh vòm gian giữa là các đồ án loại hình trang trí ô hộc (3) khu vực thân – khoảng trống giữa các trụ giả và vòm cửa, phần phào phân vị thân và mái là các đồ án loại hình trang trí bề mặt kiến trúc
225
1.8. So sánh trang trí khảm sành sứ triều Nguyễn với tranh ghép mảnh
Mosaic du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ XX
Hình 1.26. Tranh ghép mảnh Mosaic trong TTKT tại Việt Nam đầu thế kỷ XX tại Bạch Dinh - Vũng Tàu năm 2017 (Nguồn: NCS)
Hình 1.25. Trang ghép mảnh Mosaic trong TTKT Các bức tranh ghép mảnh ở Nhà thờ Thánh Xô – Phi (Ki - ép) (Nguồn:[66])
226
Chi tiết đồ án TTKSS tại nội thất Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
Chi tiết đồ án TTKT bằng trang ghép mảnh Mosaic tại Bạch Dinh (Nguồn: NCS) Hình 1.27. So sánh TTKSS và tranh ghép mảnh Mosaic
227
Hình 1.28. TTKSS triều Nguyễn mảnh ghép lấy từ đồ dùng sinh hoạt (Nguồn: NCS)
Hình 1.29. tranh ghép mảnh Mosaic mảnh ghép sản xuất phục vụ mục đích trang trí, ghép tranh (Nguồn: [132])
228
Phụ lục 6
HÌNH ẢNH MINH HỌA CHƯƠNG 2
2.1. Đề tài, kiểu thức trong trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
Hình 2.1. Đề tài vũ trụ - thiên nhiên, Hổ phù đội bình thiên hồ trang trí con giống bờ nóc tiền điện điện Thái Hòa, năm 2019 (Nguồn: NCS)
Hình 2.2. Đề tài vũ trụ - thiên nhiên, Mây ngũ sắc đội viên ngọc trang trí con giống bờ nóc chính điện điện Thái Hòa, năm 2019 (Nguồn: NCS)
229
Hình 2.3. Đề tài vũ trụ - thiên nhiên Mặt trời - mây ngũ sắc, trang trí con giống bờ nóc Phu Văn Lâu, năm 2016 (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
Hình 2.4. Đề tài vũ trụ - thiên nhiên, Mặt trời - mây ngũ sắc trang trí con giống bờ nóc tiền doanh Nghinh Lương Đình, năm 2019 (Nguồn: Viện KHCN Xây dựng)
230
Hình 2.5. Đề tài tứ linh Rồng chầu, trang trí con giống bờ nóc chính điện điện Thái Hòa, năm 2019 (Nguồn: NCS)
Hình 2.6. Đề tài tứ linh Lân, trang trí con giống bờ nóc chính điện điện Thái Hòa, năm 2019 (Nguồn: NCS)
231
Hình 2.7. Đề tài tứ linh Rùa, trang trí con giống bờ chảy chính doanh Nghinh Lương Đình, 2019 (Nguồn: Viện KHCN Xây dựng)
Hình 2.8. Đề tài tứ linh - Phụng, lân trang trí con giống bờ quyết chính doanh Thái Bình Lâu, năm 2020 (Nguồn: NCS)
232
Hình 2.9. Đề tài linh thú Long mã, trang trí con giống bờ quyết lầu Tứ Phương Vô Sự, năm 2010 (Nguồn: CEphoto, Uwe Aranas)
Hình 2.10. Đề tài linh thú Dơi, trang trí tường hồi Phu Văn Lâu, năm 2016 (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
233
Hình 2.11. Đề tài linh thú Rồng hổ phù, trang trí đỉnh vòm cửa cổng Chương Đức, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.12. Đề tài linh thú - Long Mã, Cá trang trí con giống bờ quyết chính doanh Thái Bình Lâu, năm 2020 (Nguồn: NCS)
234
Liễu - Mã
Tùng – Hạc
Mẫu đơn - Trĩ
Ngô đồng – Phụng
Dê, trang trí ô hộc nội thất Thiên Đinh Cung (điện Khải Thành)
Theo L.Cadiere, con dê sẽ đi kèm với cây lê trong tổ hợp lê - dương [63, tr.455]. Theo Trần Đức Anh Sơn, loại cây trong tổ hợp tại Thiên Định Cung là cây so đũa [88]
Tiêu - tượng, trang trí ô hộc cửa Chương Đức Hình 2.14. Đề tài tứ thời sử dụng kiểu thức dân gian, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.13. Đề tài tứ thời Bộ tứ thời ô hộc đứng cổng Chương Đức, năm 2016 (Nguồn: NCS)
235
Cái bầu
Thanh kiếm
Sách
Hộp bút
Cuốn thư
Đàn
Quạt
Phất trần – Gươm
Hình 2.15. Đề tài đồ vật Kệ tam sơn (bầu, đỉnh, bình đựng đồ vật, đỉnh, hộp, mâm ngũ quả, sách bút) Trang trí ô hộc nội thất Thiên Định Cung (điện Khải Thành), năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.16. Đề tài đồ vật - Bộ bát bửu Nho giáo Trang trí ô hộc nội thất Thiên Định Cung (khu mộ), năm 2020 (Nguồn: NCS)
236
Kính lúp - ô hộc nội thất Thiên Định Cung
Ly rượu - ô hộc Thái Bình Lâu
Kính mát - ô hộc nội thất Thiên Định Cung
Bút chì, sổ da - đố phân vị ô hộc nội thất Thiên Định Cung
Đào
Phật thủ
Hình 2.17. Đề tài đồ vật - Một số kiểu thức phương Tây, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Măng cụt
Lựu
Hình 2.18. Đề tài quả Các loại quả ở trang trí ô hộc cửa Chương Đức, năm 2020 (Nguồn: NCS)
237
Bài ngự chế của vua Khải Định tại mái sảnh Thái Bình Lâu
Thơ trong ô hộc tứ thời nội thất Thiên Định Cung (điện Khải Thành) Hình 2.20. Đề tài minh văn, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.19. Đề tài quả Mâm ngũ quả ở Trường An Môn, năm 2020 (Nguồn: NCS)
238
Trang trí con giống bờ nóc Thái Bình Lâu
Trang trí ô hộc Trường An Môn
Bát tiên, trang trí ô hộc Trường An Môn
Cảnh sinh hoạt của nho sĩ, trang trí ô hộc mái sảnh Thái Bình Lâu Hình 2.22. Đề tài nhân vật, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.21. Đề tài cát tường tự văn, năm 2020 (Nguồn: NCS)
239
2.2. Bố cục tổng thể của trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
Hình 2.23. Bố cục trang trí tổng thể mái Nghinh Lương Đình (Nguồn: Viện KHCN Xây dựng) Các đồ án đối xứng về vị trí, hướng, đề tài – kiểu thức Các đồ án đều có hướng nhìn về đồ án trung tâm
Hình 2.24. Bố cục trang trí tổng thể mái lầu Tứ Phương Vô Sự (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung) Các đồ án đối xứng về vị trí, hướng, đề tài – kiểu thức Các đồ án bờ nóc đồ án, bờ quyết mái hạ có hướng nhìn về đồ án trung tâm Các đồ án bờ quyết mái thượng hướng nhìn ra ngoài công trình
240
Hình 2.25. Bố cục trang trí tổng thể mái lầu Ngũ Phụng - Ngọ Môn (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung) Các đồ án đối xứng về vị trí, hướng, đề tài – kiểu thức Các đồ án đều có hướng nhìn về đồ án trung tâm
Hình 2.26. Bố cục trang trí mái tổng thể điện Kiến Trung (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung) Các đồ án đối xứng về vị trí, hướng, đề tài – kiểu thức Các đồ án khối nhà chính đều có hướng nhìn về đồ án trung tâm Các đồ án bờ quyết khối chóp hai bên hướng nhìn ra ngoài công trình
241
Mặt trước
Mặt bên Hình 2.27. Bố cục trang trí tổng thể mái điện Thái Hòa (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế) Các đồ án đối xứng về vị trí, hướng, đề tài – kiểu thức Các đồ án đều có hướng nhìn về đồ án trung tâm (mặt trước) và trụng trung tâm của mỗi khối nhà (mặt bên)
242
Mặt trước
Mặt sau Hình 2.28. Bố cục trang trí mái Thái Bình Lâu (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế) Các đồ án đối xứng về vị trí, hướng, đề tài – kiểu thức Các đồ án đều có hướng nhìn về đồ án trung tâm
243
Hình 2.29. Bố cục trang trí tổng thể nội thất Thiên Định Cung (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung) Dải ô hộc được sắp xếp liên tiếp, so le về kích thước, bên trong bố trí các đồ án trang trí, đề tài đối xứng qua từng cặp ô hộc
Hình 2.30. Bố cục trang trí tổng thể nội thất Cửu Tư Đài, khoảng 1924 (Nguồn: anom.archivesnationales.culture.gouv.fr) Cột sử dụng loại hình trang trí ô hộc Tường, vòm cuốn sử dụng loại hình trang trí trên bề mặt kiến trúc
244
Hình 2.31. Bố cục trang trí tổng thể phần thân cổng Chương Đức (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung) Cột, đỉnh vòm sử dụng loại hình trang trí ô hộc Tường, vòm cuốn sử dụng loại hình trang trí trên bề mặt kiến trúc
Hình 2.32. Bố cục trang trí ô hộc: tứ thời - cổ đồ Ô hộc ngang nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.33. Bố cục trang trí ô hộc: cổ đồ - quả Ô hộc ngang bờ chảy chính điện điện Thái Hòa, năm 2020 (Nguồn: NCS)
245
Hình 2.34. Bố cục trang trí ô hộc: tứ thời - quả Ô hộc ngang thân cổng Chương Đức, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.35. Kiểu trang trí ô hộc “thi trong họa” Ô hộc đứng nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
246
Hình 2.36. Bố cục trang trí ô hộc: nhất tự - nhất họa Ô hộc ngang đỉnh cửa nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.39. Bố cục trang trí ô hộc: câu đối Ô hộc đứng tiền sảnh Thái Bình Lâu, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.40. Bố cục trang trí ô hộc: cát tường tự văn Ô hộc ngang đỉnh cửa Trường An Môn, năm 2020 (Nguồn: NCS)
247
2.3. Không gian trang trí tổng thể của trang trí khảm sành sứ thời Khải Định
Hình 2.39. Cấu trúc không gian trang trí tổng thể ngoại thất điện Thái Hòa (Nguồn: NCS thực hiện dựa trên bản vẽ của Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
248
Hình 2.40. Cấu trúc không gian trang trí tổng thể ngoại thất Thái Bình Lâu (Nguồn: NCS thực hiện dựa trên bản vẽ của Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
249
Hình 2.41. Cấu trúc không gian trang trí tổng thể ngoại thất điện Kiến Trung (Nguồn: NCS thực hiện dựa trên bản vẽ của Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
250
Hình 2.44. Không gian trang trí tổng thể nội thất điện Sùng Ân, lăng Minh Mạng, năm 2022 (Nguồn: Kinh đô Huế)
Hình 2.43. Không gian trang trí tổng thể nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: Nguyễn Trần Trọng Nghĩa) Không gian TTKT nội thất Thiên Định Cung được thiết lập mô phỏng theo không gian kiến trúc nội thất điện Sùng Ân, sau đó bố trí các đồ án trang trí theo các nguyên tắc bố cục tổng thể về đề tài, kiểu thức và hướng.
251
Hình 2.44. Không gian trang trí tổng thể nội thất Duyệt Thị Đường, năm 2022 (Nguồn: NCS)
Hình 2.45. Không gian trang trí tổng thể nội thất Cửu Tư Đài, năm 1928 (Nguồn: AAVH) Không gian TTKT nội thất Cửu Tư Đài được thiết lập mô phỏng theo không gian kiến trúc nội thất Duyệt Thị Đường, sau đó bố trí các đồ án trang trí theo các nguyên tắc bố cục tổng thể về đề tài, kiểu thức và hướng.
252
2.4. Hình thức biểu đạt của trang trí khảm sành sứ thời Khải Định
Thiết kế bản vẽ đồ họa phần nét
Thiết kế bản vẽ đồ họa phần màu Hình 2.46. Các bước thực hiện một đồ án TTKSS Giai đoạn thiết kế (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
253
Dựng hình, căn chỉnh đồ án từ bản vẽ ra kích thước thực tế trên nền đất, gia công phần hình khối tổng thể của đồ án
Đắp nổi phần hình khối cơ bản của các bộ phận của đồ án Hình 2.47. Các bước thực hiện một đồ án TTKSS Giai đoạn gia công phần thô (Nguồn: NCS)
254
Khảm, gắn mảnh sành sứ lên phần thô của đồ án
Đồ án hoàn thiện Hình 2.48. Các bước thực hiện một đồ án TTKSS Giai đoạn hoàn thiện (Nguồn: NCS)
255
Hình 2.49. Tạo hình tượng tròn Long mã, trang trí con giống thành bậc cấp điện Kiến Trung, năm 1916 (Nguồn: Nguyễn Thúy Vi)
Hình 2.50. Tạo hình phù điêu Long mã, trang trí ô hộc Trường An Môn, năm 2020 (Nguồn: NCS)
256
Hình 2.51. Tạo hình phù điêu Chữ Thọ, trang trí con giống bờ nóc chính doanh Thái Bình Lâu, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.52. Tạo hình gắn phẳng Gắn phẳng bên trong mặt nền ô hộc và tại các đố phân vị ô hộc Bờ quyết mái hạ chính doanh Thái Bình Lâu, năm 2020 (Nguồn: NCS)
257
Các kiểu thức cây sen của đề tài tứ thời trong trang trí ô hộc nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Các kiểu thức cuốn thư trong trang trí ô hộc nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS) Hình 2.53. Sự đa dạng trong tạo hình
258
Viên ngọc - mây ngũ sắc Bờ nóc chính điện điện Thái Hòa
Hổ phù bình thiên mệnh Bờ nóc tiền điện điện Thái Hòa Hình 2.54. Tạo hình đồ họa của TTKSS thời Khải Định Các kiểu thức của đề tài vũ trụ - thiên nhiên (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
259
Rồng - Bờ nóc mái thượng chính doanh Thái Bình Lâu
Rùa - Bờ quyết mái hạ chính doanh Thái Bình Lâu Hình 2.55. Tạo hình đồ họa của TTKSS thời Khải Định Các kiểu thức của đề tài tứ linh - linh thú (1) (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
260
Phụng và Lân - Bờ quyết mái hạ chính doanh Thái Bình Lâu
Long mã và Cá - Bờ quyết mái thượng chính doanh Thái Bình Lâu Hình 2.56. Tạo hình đồ họa của TTKSS thời Khải Định Các kiểu thức của đề tài tứ linh - linh thú (2) (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
261
Mai – điểu Bờ quyết mái hạ điện Thái Hòa
Tùng – lộc Bờ quyết mái hạ điện Thái Hòa Hình 2.57. Tạo hình đồ họa của TTKSS thời Khải Định Một số kiểu thức của đề tài tứ thời (kết hợp cây, thú và giả sơn) (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
262
Hồ lô - Bờ chảy tiền điện điện Thái Hòa
Chuông - Bờ chảy tiền điện điện Thái Hòa Hình 2.58. Tạo hình đồ họa của TTKSS thời Khải Định Một số kiểu thức của đề tài tứ thời (kết hợp cây, thú và giả sơn) (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
263
Lê
Phật thủ
Đào
Bờ quyết mái thượng, mái hạ điện Thái Hòa Hình 2.59. Tạo hình đồ họa của TTKSS thời Khải Định Các kiểu thức của đề tài quả (Nguồn: Trung tâm BTDT Cố đô Huế)
Lựu
264
Sành trắng điểm hoa văn xanh dương (sành cổ)
Sành trắng điểm hoa văn đỏ cam (sành cổ)
Sành trắng ẩn sắc xanh rất nhạt
Sành màu đỏ cam
Sành màu xanh ngọc bích đậm
Sành màu xanh ngọc bích nhạt (phỉ thúy)
Sứ màu trắng sáng
Sứ màu đen
Thủy tinh màu nâu đậm
Thủy tinh màu nâu nhạt
Thủy tinh xanh lục đậm
Thủy tinh màu vàng hổ phách
Thủy tinh xanh lục nhạt
Thủy tinh trong
Thủy tinh màu xanh tím Hình 2.60. Màu sắc sành sứ, thủy tinh tại nội thất Thiên Định Cung (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
265
Chủ đề chính (cây, hoa) – nền: cặp màu tương phản (nâu đậm/xanh lục đậm – vàng nhạt; điểm trắng, xanh phỉ thúy) Chủ đề phụ (sóng nước, giả sơn): tổ hợp màu (trắng-xanh, xanh lục, xanh tím, nâu, xanh ngọc đậm, xanh phỉ thúy)
Hình 2.61. Hòa sắc một mảng trang trí chính trong ô hộc có kích thước lớn Ô hộc đứng chủ đề Tứ thời ở Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
Chủ đề chính (minh văn) – nền: cặp màu tương phản (nâu đậm – vàng nhạt; điểm trắng) Chủ đề phụ (con giống): tổ hợp màu (xanh ngọc đậm, nâu, xanh phỉ thúy, đỏ cam, điểm xuyết xanh tím)
Hình 2.62. Hòa sắc ô hộc kích thước nhỏ ô hộc ngang chủ đề cát tường tự văn ở Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
266
Xanh ngọc đậm - đỏ cam, điểm trắng xanh
Xanh phỉ thúy/lục đậm – nâu, điểm trắng xanh
Xanh ngọc đậm – nâu, điểm trắng xanh
Xanh phỉ thúy – nâu/vàng hổ phách/đỏ cam, điểm trắng xanh
Hình 2.63. Hòa sắc các mảng trang trí có diện tích nhỏ, lặp lại Đố phân vị ô hộc ở Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
267
Phần thân: màu vàng cam Đầu, sừng, bờm, đuôi: tổng thể màu sáng, điểm xuyết các tông màu đậm
Mắt và bờm
Vây lưng
Chân
Vảy
Hình 2.64. Hòa sắc đồ án trang trí con giống Con rồng bờ nóc điện Thái Hòa (Nguồn: NCS)
Phần đầu: có bờm màu sáng. Đầu, mào, tích, mắt, mỏ… điểm xuyết màu đậm. Phần thân: lông vũ màu sáng. Cánh: xếp lớp, tông cơ bản màu sáng, xen kẽ màu đậm nhạt. Đuôi: 03 dải, tông màu sáng.
Hình 2.65. Hòa sắc đồ án trang trí con giống Con phụng bờ quyết Thái Bình Lâu (Nguồn: NCS)
268
Hổ phù ô hộc nội thất Thiên Định Cung, 2020 (Nguồn: NCS)
Bửu tán nội thất Thiên Định Cung năm 2020
Rồng ngang vì tiền điện điện Long An, 2019 (Nguồn: Nguyễn Thiện Đức) Hình 2.66. Đắp nổi tương tự kỹ thuật chạm lộng của chạm khắc gỗ
Quạt lông, phướn nội thất Thiên Định Cung năm 2015
Hình 2.67. Mô tả chất liệu vải
Mô tả chất liệu đồng – Đỉnh đồng nội thất Thiên Định Cung, năm 2015 Hình 2.67. Đắp nổi, mô tả chất liệu (Nguồn: NCS)
269
Hình 2.68. Mô tả động vật - Thân chim ở Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS) Hình 2.69. Mô tả thực vật - Thân cây gỗ ở Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.70. Họa tiết vượt ra ngoài phạm vi khung hình ô hộc trang trí Tứ thời ô hộc cổng Chương Đức, năm 2015 (Nguồn: NCS)
Hình 2.71. Bố cục trong bố cục – Trang trí ô hộc trên chiếc đôn đặt bình hoa trong trang trí ô hộc đứng ở Thiên Định Cung, năm 2015 (Nguồn: NCS)
270
Hình 2.73. Sử dụng thủy tinh vụn mô tả mặt cỏ trong trang trí ô hộc đứng ở Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.72. Sử dụng thủy tinh vụn mô tả mặt nước trong trang trí ô hộc đứng ở Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 2.75. Thủy tinh trong ốp lên nền nề vữa màu - ô hộc ở nội thất Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
Hình 2.74. Gắn mảnh giữ nguyên dạng vật thể trong trang trí ô hộc đứng ở Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
271
Hình 2.76. Tam giác Penose (Nguồn: Nguyễn Hồng Hưng) Hình 2.77. Nút thắt vô tận trong trang trí đố phân vị ở Thiên Định Cung (Nguồn: NCS)
Hình 2.78. Nút thắt vô tận trong trang trí ô hộc ở Cửu Tư Đài, khoảng 1924 (Nguồn: anom.archivesnationales.culture.gouv.fr)
Hình 2.79. Nút thắt vô tận bờ quyết chính doanh Thái Bình Lâu, năm 2020 (Nguồn: NCS)
272
Cuốn thư bề mặt tường khối chóp
Cuốn thư bề mặt tường tầng 1
Bản vẽ cuốn thư bề mặt tường tạo hình phi logic Hình 2.80. Cuốn thư (tạo hình hình nghịch lý) ở điện Kiến Trung (Nguồn: ảnh – Phan Thuận An; bản vẽ - NCS)
273
Phụ lục 7
HÌNH ẢNH MINH HỌA CHƯƠNG 3
3.1. Đặc trưng của trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
Hình 3.1. Trang trí con giống bờ nóc đề tài cát tường tự văn ở cổng tam quan lăng Dục Đức (đời Thành Thái), năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 3.2. Trang trí con giống bờ nóc đề tài cát tường tự văn ở Di Luân Đường (đời Duy Tân), năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 3.3. Trang trí con giống bờ nóc đề tài cát tường tự văn ở Thái Bình Lâu (thời Khải Định), năm 2020 (Nguồn: NCS)
274
Bờ nóc lầu Ngũ Phụng
Bờ nóc tiền điện điện Thái Hòa
Bờ nóc chính điện điện Thái Hòa Hình 3.4. Sơ đồ bố cục trang trí pháp lam bờ nóc lầu Ngũ Phụng và điện Thái Hòa Các kiểu thức dân gian và phương Tây không xuất hiện trong trang trí kiến trúc trước thời Khải Định
(Nguồn: [105])
275
Hình 3.5. Trang trí con giống hướng nhìn ra ngoài công trình Rồng xô bờ quyết mái thượng lầu Tứ Phương Vô Sự, năm 2010 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
Hình 3.6. Trang trí con giống hướng nhìn ra ngoài công trình Rồng xô bờ quyết đình Trung Lập - cung An Định, năm 2001 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
Hình 3.7. Trang trí con giống hướng nhìn ra ngoài công trình Rồng xô chóp mái điện Kiến Trung, năm 1947 (Nguồn: Phan Thuận An)
276
Hình 3.8. Kiểu thức trang trí phương Tây Bình hoa tại Khải Tường Lâu - cung An Định, 2001 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
Hình 3.9. Kiểu thức phương Tây đặt trong đề tài truyền thống Đồng hồ báo thức trong bộ đồ vật kệ tam sơn tại nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 3.10. Kiểu thức phương Tây kết hợp với các chi tiết truyền thống Bình hoa tại Trường An Môn, năm 2020 (Nguồn: NCS)
277
Hình 3.11. Kiểu thức phương Tây kết hợp với các chi tiết truyền thống Bình hoa tại điện Kiến Trung, khoảng 1930 (Nguồn: delcampe.net)
Hình 3.12. Kiểu thức phương Tây kết hợp với các chi tiết truyền thống Đèn điện tại điện Kiến Trung, khoảng 1929 (Nguồn: Terry Bennett, do Phan Thuận An cung cấp)
Hình 3.13. Kiểu thức phương Tây kết hợp với các chi tiết truyền thống Một số kiểu thức ly rượu Tây “cổ đồ triền chi” tại nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
278
Mắt rồng hai lớp: tròng mắt thủy tinh màu bên ngoài, con ngươi nề họa bên trong
Hình 3.14. Rồng bờ quyết mái thượng, mái hạ chính điện điện Thái Hòa, năm 2020, (Nguồn: NCS) Rồng mái thượng, trạng thái “tĩnh”: đầu rồng ép sát xuống thân, độ lượn sóng của thân thấp, các tua đuôi trong thế như đang cụp lại. Rồng mái hạ, trạng thái “động”: đầu rồng ngẩng lên và vươn cao so với thân, độ lượn sóng của thân cao, các tua đuôi trong thế đang xòe ra.
Hình 3.15. Kỹ thuật “điểm mắt” trong TTKSS thời Khải Định Rồng cuốn cột tại nội thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
279
Rồng bờ nóc điện Lương Khiêm, năm 2014
Rồng bờ nóc điện Thái Hòa, năm 2020 Hình 3.16. So sánh kỹ thuật thể hiện rồng bờ nóc đời Tự Đức và thời Khải Định (Nguồn: NCS)
Quả đào đời Tự Đức
Quả đào thời Khải Định
Hình 3.17. So sánh kỹ thuật thể hiện quả thời Tự Đức và thời Khải Định (Nguồn: NCS)
280
Cây cúc trong ô hộc tại điện Lương Khiêm, năm 2014
Cây cúc trong ô hộc tại Thiên Định Cung, năm 2020 Hình 3.18. So sánh kỹ thuật thể hiện cây cúc trong đề tài tứ thời đời Tự Đức và thời Khải Định (Nguồn: NCS)
Hình 3.19. Kỹ thuật ghép vảy rồng (Nguồn: NCS)
Hình 3.20. Người thợ ngõa đang ghép cánh hóa, lá trên đồ án trang trí (Nguồn: NCS)
281
3.2. Giá trị của trang trí khảm sành sứ trên kiến trúc thời Khải Định
Hình 3.21. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Cột đá đền Erechtheion, Athen, Hy Lạp (Nguồn: Berthold Werner)
Hình 3.22. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Cánh cửa chạm rồng chùa Keo, Thái Bình (Nguồn: Bảo tàng mỹ thuật Việt Nam)
282
Hình 3.23. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Đồ án trang trí (kết hợp ba loại hình: tượng tròn, phù điêu, khảm phẳng) trên bờ nóc hậu doanh Thái Bình Lâu, năm 2015 (Nguồn: Đại Dương)
283
Hình 3.24. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Bộ Tứ thời (tranh) trong ô hộc đứng tại nôi thất Thiên Định Cung, năm 2020 (Nguồn: NCS)
284
Rồng chầu bờ nóc tiền điện
Hồi long bờ nóc tiền điện Hình 3.25. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Bộ rồng (tượng điêu khắc) trang trí bờ mái điện Thái Hòa, năm 2020 (1) (Nguồn: NCS)
285
Hồi long bờ quyết mái thượng tiền điện
Hồi long bờ quyết mái hạ tiền điện Hình 3.26. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Bộ rồng (tượng điêu khắc) trang trí bờ mái điện Thái Hòa, năm 2020 (2) (Nguồn: NCS)
286
Rồng chầu bờ nóc chính điện
Hồi long bờ nóc chính điện Hình 3.27. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Bộ rồng (tượng điêu khắc) trang trí bờ mái điện Thái Hòa, năm 2020 (3) (Nguồn: NCS)
287
Hồi long bờ quyết mái thượng chính điện
Hồi long bờ quyết mái hạ chính điện Hình 3.28. Tác phẩm nghệ thuật trên kiến trúc Bộ rồng (tượng điêu khắc) trang trí bờ mái điện Thái Hòa, năm 2020 (4) (Nguồn: NCS)
288
3.3. Sự kế thừa và phát triển của trang trí khảm sành sứ thời Khải Định
Hình 3.29. Dấu tích TTKSS thời Khải Định trên phế tích KTCĐ Mảnh sành sứ, thủy tinh màu còn lại trên cấu kiện kiến trúc Thái Bình Lâu, năm 1989 (Nguồn: Francoise De Mulder)
Hình 3.30. Tu bổ hệ thống TTKSS tại nội thất Thiên Định Cung năm 1997 ngay sau khi QTDT Cố đô Huế được công nhận Di sản Thế giới (Nguồn: Viện KHCN Xây dựng)
289
Hình 3.31. Những người nghệ nhân xưa đang chế tác các đồ án TTKSS nội thất Thiên Định Cung, khoảng 1916 – 1925 Nguyên văn chú thích ảnh tiếng Pháp: Temple de Van-Nien : soleil couchant en verre grenat au chevet de la chambre funéraire de l'Empereur Khai-Dinh (1916-25) (Nguồn: www.quaibranly.fr)
290
Hình 3.32. Nghệ nhân Trương Văn Ân tham gia quá trình tu bổ hệ thống TTKSS nội thất Thiên Định Cung năm 1997 (Nguồn: Phân viện KHCN Xây dựng Miền Trung)
Hình 3.33. Nghệ nhân Trần Minh Lực (góc phải ảnh) và hệ thống TTKSS tại tòa nhà Tổng hội Tiên Thiên Thánh Giáo (Huế) do ông tu bổ (Nguồn: Trần Minh Lực)
291
Hình 3.34. Nghệ nhân Trần Viết Xảo đươc UBND tỉnh Thừa Thiên Huế phong tặng nghệ nhân khảm sành sứ truyền thống (Nguồn: Trần Viết Xảo)
Hổ phù khảm sành sứ, thủy tinh màu
Con long mã khảm sành sứ, thủy tinh màu,
Hình 3.35. TTKSS tại bình phong đình làng Kim Long, Huế, năm 2022 (Nguồn: NCS)
292
Hình 3.36. TTKSS tại cổng chùa Vĩnh Tràng, Tiền Giang, năm 2022 (Nguồn: NCS)
Hình 3.37. TTKSS tại cổng chùa Vĩnh Tràng (2), Tiền Giang, năm 2022 (Nguồn: NCS)
293
Long mã, trang trí ô hộc mặt tiền Thượng Công Linh Miếu
Tứ thời, trang trí ô hộc mặt tiền Đông Lang
Hình 3.38. TTKSS tại lăng Tả Quân Lê Văn Duyệt, Tp Hồ Chí Minh, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 3.39. Đề tài phong cảnh phương Tây (ô hộc vuông) trong TTKSS tại lăng Tả Quân, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 3.40. Cách thức thể hiện “chạm lộng”, “chạm thủng” trong TTKSS tại lăng Tả Quân, năm 2020 (Nguồn: NCS)
294
Hình 3.41. Dải TTKSS thay thế trang trí ô hộc bờ nóc mái với đề tài phương Tây tại lăng Tả Quân, năm 2020 (Nguồn: NCS)
Hình 3.42. Con rồng xô, trang trí con giống bờ quyết tại lăng Tả Quân, năm 2020 (Nguồn: NCS)
295
Nội thất
Ngoại thất
Hình 3.43. TTKSS gian nhà “Khảm sành sứ Huế - Pháp lam” tại khu thực cảnh Tinh hoa Việt Nam, Phú Quốc do nghệ nhân Trần Viết Xảo thực hiện, năm 2022 (Nguồn: Trần Viết Xảo)
Hình 3.44. Thực hiện đồ án TTKSS tại xưởng gia công trước khi gắn vào kiến trúc, năm 2022 (Nguồn: Trần Viết Xảo) Hình 3.45. Tranh khảm sành sứ, thủy tinh màu do Trần Viết Xảo thực hiện, năm 2022 (Nguồn: Trần Viết Xảo)
296
Hình 3.46. TTKSS tại chùa Từ Hiếu, Huế, năm 2021 (Nguồn: Quảng Điền)
Hình 3.47. TTKSS tại chùa Linh Phước, Đà Lạt, năm 2018 (Nguồn: NCS)