VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN MINH
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ
SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ
THỰC TIỄN CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2023
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN VĂN MINH
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 9380104 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.HOÀNG THỊ MINH SƠN
HÀ NỘI – 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các nội dung và số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
NGUYỄN VĂN MINH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước. ......................................................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước ....................................................................... 19
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án ............................................ 23
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu ........................................................ 27
Kết luận Chương 1 ...................................................................................................... 28
CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU ....................................................................................................................... 29
2.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu ............................................................................................... 29
2.2. Đối tượng, nội dung, ý nghĩa hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu ...................................................................................... 48
2.3. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm theo các mô
hình tố tụng hình sự và của một số quốc gia trên thế giới ............................................ 67
2.4. Các yếu tố tác động đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu ............................................................................................... 74
Kết luận Chương 2 ...................................................................................................... 77
CHƯƠNG 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU TẠI CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ........................................ 78
3.1. Quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự ........................................................................................ 78
3.2. Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ .......................................................................... 93
Kết luận Chương 3 .................................................................................................... 122
CHƯƠNG 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU ........................................................................... 123
4.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu .................................................................................... 123
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu .......................................................................... 128
Kết luận Chương 4 .................................................................................................... 148
KẾT LUẬN ................................................................................................................ 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................ 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 152
PHIẾU KHẢO SÁT ................................................................................................... 164
PHỤ LỤC...................................................................................................................172
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. BLHS : Bộ luật hình sự
2. BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự
3. HĐCMLS : Hoạt động chứng minh của luật sư
4. HĐXX : Hội đồng xét xử
5. TNHS : Trách nhiệm hình sự
6. TTHS : Tố tụng hình sự
7. VAHS : Vụ án hình sự
8. XHCN : Xã hội chủ nghĩa
9. XXST : Xét xử sơ thẩm
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Danh mục bảng
Trang
Bảng 3.1. Số liệu các vụ án hình sự đưa ra xét xử tại các tỉnh Tây Nam Bộ
Trong 10 năm từ (2012-2021)………...………………………………….…........172
Bảng 3.2. Các vụ án xâm phạm sở hữu có luật sư bào chữa tham gia hoạt động
chứng minh tại các tỉnh Tây Nam Bộ từ (2012-2021)…………………...…...…..173
Bảng 3.3. Các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu bị đình chỉ trong xét xử sơ
thẩm tại các tỉnh Tây Nam Bộ từ (2012-2021)………………………………......174
Bảng 3.4. Các loại tội phạm cụ thể về xâm phạm sở hữu bị đình chỉ tại các tỉnh
Tây Nam Bộ trong 10 năm từ (2012-2021)…………………………………........175
Bảng 3.5. Các loại tội phạm về xâm phạm sở hữu được đưa ra xét xử sơ thẩm
tại các tỉnh Tây Nam Bộ trong 10 năm (2012-2021)……………………...……...176
Bảng 3.6. Số liệu về sự phát triển của lực lượng luật sư tại các tỉnh Tây Nam
Bộ trong 10 năm từ (2012-2021)……………………………..…………………..177
Bảng 3.7. So sánh sự phát triển của luật sư tại các tỉnh Tây Nam Bộ với luật sư
toàn quốc trong 10 năm từ (2012-2021).................................................................178
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chứng minh là hoạt động cốt lõi, xuyên suốt quá trình tố tụng thu hút sự tham
gia của các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS) để làm
sáng tỏ sự thật của vụ án. Quá trình chứng minh có nội dung thống nhất, phương tiện,
phạm vi, đối tượng chứng minh đều do luật TTHS quy định. Tuy nhiên, khi tham gia
vào hoạt động chứng minh các chủ thể có quyền, nghĩa vụ tố tụng khác nhau và
phương thức thực hiện khác nhau. Cũng như các chủ thể TTHS khác, luật sư thực hiện
chức năng bào chữa thông qua hoạt động chứng minh và chính hoạt động này nhằm cụ
thể hóa chức năng bào chữa, là biểu hiện rõ nét nhất về thực hiện quyền bào chữa của
người bị buộc tội trong tố tụng hình sự.
Hoạt động chứng minh của luật sư có vai trò và tầm quan trọng đặc biệt trong
quá trình giải quyết vụ án. Trong tiến trình tố tụng, luật sư bào chữa được coi như
người cùng với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ
công lý, góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, thông qua đó chứng minh sự vô tội
hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buội tội. Hoạt động chứng minh của cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng để bảo vệ lợi ích công, còn hoạt động chứng minh của
luật sư (HĐCMLS) nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội. Để
bảo vệ người bị buộc tội, luật sư phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng sự thật khách quan
và để bảo vệ công lý, luật sư phải thực hiện tốt nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị buộc tội. Hoạt động chứng minh của luật sư nhằm cân bằng, hài hòa
giữa bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội và bảo vệ lợi ích công cộng.
Hoạt động chứng minh của chủ thể buộc tội, bào chữa và xét xử độc lập nhưng
có mối quan hệ ràng buộc với nhau hợp thành một thể thống nhất được quyết định bởi
mục đích chung của TTHS là xác định sự thật của vụ án. Tuy nhiên, về lý luận và thực
tiễn HĐCMLS vẫn chưa thực sự được đề cao, tôn trọng tương xứng với chức năng,
nhiệm vụ của luật sư. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng chưa có sự nhìn nhận
đúng đắn về vai trò của luật sư là góp phần xác định sự thật vụ án, hạn chế oan, sai. Lý
luận về hoạt động chứng minh nói chung và HĐCMLS nói riêng vẫn còn nhiều ý kiến
khác nhau, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được nghiên cứu nhiều, trong khi
1
đây là phần lý luận cơ bản nhất trong hoạt động tố tụng hình sự.
Thực trạng pháp luật điều chỉnh hoạt động chứng minh của luật sư vẫn còn
nhiều bất cập, quyền tố tụng của luật sư chưa được quy định đầy đủ, đặc biệt là quyền
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của người bào chữa chưa được quy định rõ ràng
và không có những bảo đảm tố tụng kèm theo nên không đảm bảo tính thực quyền của
người bào chữa, HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm còn mang tính hình thức, chưa bảo
đảm các quyền của luật sư, chưa tạo điều kiện để luật sư tham gia tranh tụng bình đẳng
với bên buộc tội, hoạt động xét hỏi, tranh luận của luật sư còn hạn chế bởi vai trò quá
tích cực của Tòa án, chưa phát huy vai trò, chức năng đích thực của chủ thể bào chữa
trong quá trình tham gia hoạt động chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm.
Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp
phần quan trọng cùng với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm sáng tỏ sự thật
của vụ án, giúp cho vụ án được giải quyết nhanh chóng, chính xác, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Tuy nhiên, trong TTHS vai trò của người bào chữa
vẫn còn mờ nhạt, chưa được tôn trọng đúng mức, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng còn xem nhẹ, thậm chí coi thường, cố tình bỏ qua nhiều tình tiết, chứng cứ quan
trọng do luật sư đưa ra cũng như các ý kiến, đề nghị của luật sư không được chấp nhận,
lẽ ra phải được chấp nhận, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan cho người vô tội.
Thực tiễn cho thấy, một trong những nguyên nhân của các vụ án oan có nguyên nhân
xuất phát từ việc chưa đề cao, tôn trọng vai trò của người bào chữa cũng như hoạt động
chứng minh của luật sư trong quá trình giải quyết vụ án.
Xét xử sơ thẩm (XXST) có vị trí trung tâm, giữ vai trò quyết định để giải quyết
các vấn đề cơ bản nhất của TTHS. Tính chất, hình thức của xét xử sơ thẩm có vai trò
chi phối toàn bộ hoạt động của các chủ thể, trong đó có sự hiện diện của chủ thể thực
hiện chức năng bào chữa là luật sư. Hoạt động chứng minh của luật sư có mối quan hệ
biện chứng với hoạt động chứng minh của chủ thể buộc tội, xét xử và suy cho cùng,
các hoạt động chứng minh lại phụ thuộc vào tính chất, hình thức của phiên tòa sơ thẩm.
Mối quan hệ nhiều chiều này trong sự gắn kết với hoạt động chứng minh của luật sư
chưa được nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện có hệ thống.
Trong bối cảnh cải cách tư pháp, Hiến pháp năm 2013 và Bộ luật Tố tụng hình
sự (BLTTHS) năm 2015 đã ghi nhận nguyên tắc tranh tụng và Nghị quyết số 49-
2
NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị cũng đã nhấn mạnh: “Đổi mới việc tổ chức
phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố
tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm
minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp”. Điều này đồng nghĩa với việc đề cao vai trò hoạt động chứng
minh của người bào chữa trong điều kiện của nguyên tắc tranh tụng. Đây là vấn đề lý
luận mới so với trước đây khi chưa thừa nhận nguyên tắc tranh tụng để bảo đảm quyền
cho luật sư tham gia hoạt động chứng minh làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Pháp luật TTHS không thể đặt ra những vấn đề phải chứng minh trong từng vụ
án mà chỉ có thể quy định chung nhất về những vấn đề phải chứng minh trong bất kỳ
vụ án nào. Vì vậy, tùy theo từng loại tội phạm cũng như các nhóm tội khác nhau mà
đối tượng chứng minh cũng khác nhau. Các tội xâm phạm sở hữu là một nhóm tội độc
lập trong Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015. Tính độc lập của nhóm tội này cho thấy
nó có những đặc điểm pháp lý hình sự nhất định nên đối tượng chứng minh sẽ khác với
các nhóm tội phạm khác và những khác biệt này chi phối đến hoạt động chứng minh
của luật sư. Mối quan hệ giữa xét xử sơ thẩm với hoạt động chứng minh của luật sư và
các tội xâm phạm sở hữu cho đến nay chưa được nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện.
Từ những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu thực trạng quy định của pháp
luật và thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ là sự kiểm định cần thiết cho lý luận
khoa học về hoạt động chứng minh nói chung và hoạt động chứng minh của luật sư nói
riêng mang tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đây là lý do nghiên cứu sinh
chọn đề tài “Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm
sở hữu từ thực tiễn các tỉnh Tây Nam Bộ” làm Luận án tiến sĩ luật học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của luật sư,
phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động chứng
minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ. Trên
cơ sở đó đưa ra các yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng
3
minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nêu trên, luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu như sau:
- Phân tích, đánh giá tình hình nghiên cứu trong nước và ngoài nước liên quan
đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu,
các vấn đề luận án sẽ kế thừa, vấn đề chưa được thống nhất và những vấn đề mới cần
tiếp tục nghiên cứu, giải quyết;
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, như: khái niệm, đặc điểm, đối tượng, phạm
vi, nội dung, ý nghĩa, các yếu tố tác động đến hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu;
- Phân tích các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của
luật sư; đánh giá thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các
tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ;
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và các giải pháp khác nhằm nâng cao
chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm
sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận về hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu; các quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu và thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luật sư tham gia tố tụng để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình với nhiều tư
cách khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận án này chúng tôi nghiên cứu hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, chủ yếu là tại
phiên tòa sơ thẩm, là nơi thể hiện tập trung và rõ nét nhất vị trí, vai trò và chức năng
của người bào chữa. Vì vậy, luận án chỉ nghiên cứu hoạt động chứng minh của luật sư
với tư cách là người bào chữa cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu trong
4
xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Về nội dung: Luận án nghiên cứu những vấn đề lý luận và quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu, thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
Về không gian: Luận án nghiên cứu hoạt động chứng minh của luật sư trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ.
Về thời gian: Luận án nghiên cứu hoạt động chứng minh của luật sư trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ trong khoảng
thời gian 10 năm, từ năm 2012 đến năm 2021.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được thực hiện dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp đáp ứng yêu
cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận án sử dụng các phương
pháp nghiên cứu, cụ thể sau:
Phương pháp hệ thống hóa, phân tích, tổng hợp được sử dụng để trình bày tổng
quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án (Chương 1);
Phương pháp phân tích, tổng hợp, lịch sử, logic được sử dụng để làm sáng tỏ lý
luận về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu (Chương 2);
Phương pháp tổng hợp, phân tích, thống kê, so sánh, xã hội học pháp luật, tiến
hành khảo sát đánh giá thực tiễn bằng bảng hỏi, nghiên cứu án điển hình,…được sử
dụng khi nghiên cứu, đánh giá quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam
Bộ (Chương 3);
Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh,…cũng được sử dụng khi nghiên cứu
về hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao chất lượng HĐCMLS trong xét xử sơ
5
thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ (Chương 4).
5. Những đóng góp mới của luận án
Luận án là công trình đầu tiên ở cấp độ tiến sĩ nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện
về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Luận án có những đóng góp mới như sau:
Luận án góp phần hoàn thiện, phát triển hệ thống lý luận về hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, như: khái niệm, đặc
điểm, nội dung, ý nghĩa động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu. Luận án làm rõ đối tượng, đặc điểm, nội dung hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu; mối quan hệ giữa hoạt động
chứng minh của luật sư với hoạt động chứng minh của các chủ thể thực hiện các chức
năng cơ bản trong tố tụng hình sự; những yếu tố tác động đến hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Luận án phân tích thực trạng quy định pháp luật liên quan đến hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu và thực tiễn hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn các
tỉnh Tây Nam Bộ trong thời gian mười năm; đánh giá thực tiễn hoạt động chứng minh
của luật sư, những kết quả đạt được cũng như những hạn chế, bất cập và nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
Luận án xác định những yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và đưa ra các
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Về lý luận: Luận án góp phần luận giải những vấn đề lý luận về hoạt động chứng
minh trong tố tụng hình sự và hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu. Kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa trong việc hoàn
thiện pháp luật tố tụng hình sự nói chung và pháp luật về hoạt động chứng minh nói
riêng, nội dung nghiên cứu của luận án đóng góp cho sự phát triển lý luận chung về
hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, với
một số vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, đối tượng, nội dung, ý nghĩa hoạt động chứng
6
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa đối với việc
hoàn thiện pháp luật về hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự nói chung cũng
như hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Các kết quả nghiên cứu của luận án là cơ
sở để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh trong tố
tụng hình sự và hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ. Đồng thời, các kết quả nghiên cứu của luận án
còn có giá trị để làm nguồn tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy, học tập tại
các trường đào tạo chuyên ngành luật tố tụng hình sự và tại các cơ quan, tổ chức
nghiên cứu pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết
cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
Chương 3: Quy định của pháp luật và thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ
Chương 4: Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh
7
của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
1.1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến hoạt động chứng minh và hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Sách, Những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của nhóm tác giả Lê Hữu Thể, Đỗ Văn
Đương, Nguyễn Thị Thủy (Đồng chủ biên), Nxb. Chính trị quốc gia, 2013. Trong công
trình này, các tác giả phân tích, bình luận sâu sắc về nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách của việc đổi mới thủ tục TTHS trong tiến trình cải cách tư pháp, đề cập về
chức năng bào chữa; chứng cứ và chứng minh trong TTHS, đối tượng, phạm vi, giới
hạn chứng minh, mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản trong TTHS, các chức năng
buộc tội, bào chữa và xét xử tuy có vị trí, vai trò, chủ thể thực hiện khác nhau, nhưng
giữa chúng có quan hệ bổ trợ cho nhau để cùng hướng đến mục đích tìm ra sự thật của
vụ án. Nhiều vấn đề được đề cập, nghiên cứu trong công trình này có liên quan mật
thiết đến luận án, đây được coi là tài liệu tham khảo rất quan trọng, phong phú, cần
thiết giúp cho nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa làm cơ sở cho nghiên cứu lý luận về
hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Luận án Tiến sĩ Luật học Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của tác giả Nguyễn Thị Mai, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2021. Tác
giả đã đưa ra khái niệm hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình
sự, phân tích các đặc điểm, nội dung, phạm vi, chủ thể của hoạt động tranh tụng. Trong
đó, hai chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và chủ thể thực hiện chức năng bào chữa
đóng vai trò chính trong hoạt động chứng minh, tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên có nghĩa vụ chứng minh để buộc tội, còn luật sư
thực hiện quyền bào chữa, đưa ra chứng cứ, lý lẽ làm sáng tỏ sự thật của vụ án, chứng
minh bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Đồng thời, luận án cũng
8
phân tích những quy định của pháp luật về hoạt động tranh tụng; đánh giá thực tiễn
hoạt động tranh tụng và đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm. Công trình này là tài liệu tham khảo có giá trị khi nghiên cứu
về hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Luận án Tiến sĩ luật học Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta
của tác giả Nguyễn Văn Du, Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2006. Tác giả phân tích
các đặc điểm của quá trình chứng minh, đó là quá trình là hoạt động tư duy và thực tiễn
của các chủ thể tố tụng thông qua hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ;
nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng, luật sư bào chữa
cũng tham gia vào quá trình chứng minh để góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của mình HĐXX sẽ tiến hành kiểm tra,
đánh giá chứng cứ và trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên để đưa ra phán quyết về
việc bị cáo có tội hay vô tội.
Luận án Tiến sĩ luật học Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự của tác giả Ngô Thị Ngọc Vân, Trường Đại học Luật Hà Nội,
2016. Công trình này nghiên cứu về hoạt động bào chữa của luật sư trong xét xử sơ
thẩm VAHS với mức độ thực hiện các quyền của người bào chữa, phân tích về đặc
điểm, mục đích, nội dung, ý nghĩa hoạt động bào chữa trong xét xử sơ thẩm VAHS.
Tuy nhiên, công trình này chưa đi sâu nghiên cứu hoạt động chứng minh của luật sư
cũng như mối quan hệ giữa hoạt động chứng minh của luật sư với chức năng bào chữa.
Những kết quả nghiên cứu về đặc điểm, nội dung, ý nghĩa hoạt động bào chữa của luật
sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đã giúp cho nghiên cứu sinh tham khảo trong quá
trình nghiên cứu đề tài luận án về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Luận án Tiến sĩ luật học Chứng cứ trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội
xâm phạm sở hữu ở Việt Nam của tác giả Vũ Minh Giám, Học viện Khoa học xã hội,
năm 2022. Công trình này nghiên cứu về chứng cứ trong xét xử sơ thẩm VAHS về các
tội xâm phạm sở hữu, quy định của pháp luật về chứng cứ và thực tiễn áp dụng pháp
luật về chứng cứ trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, đưa ra các yêu cầu,
giải pháp hoàn thiện pháp luật. Đây là công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận
án, là vấn đề chứng cứ về các tội xâm phạm sở hữu trong XXST vụ án hình sự. Đây là
9
tài liệu tham khảo cần thiết khi nghiên cứu đặc điểm chứng cứ của các tội xâm phạm sở
hữu để sử dụng trong quá trình nghiên cứu HĐCMLS về các tội xâm phạm sở hữu.
1.1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về chứng cứ và chứng minh, quá trình chứng
minh trong tố tụng hình sự, các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự
Phạm Minh Tuyên với công trình: “Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng
hình sự”, trong sách Bình luận các vướng mắc trong lĩnh vực hình sự và tố tụng hình
sự. Nxb.Thanh Niên, 2021. Công trình này nghiên cứu cơ sở lý luận về chứng cứ, khái
niệm chứng cứ, ý nghĩa của chứng cứ; phân tích chuyên sâu về hoạt động thu thập,
kiểm tra, đánh giá, sử dụng chứng cứ, các nguyên tắc, phương pháp đánh giá chứng cứ.
Chứng cứ là phương tiện duy nhất để chứng minh trong VAHS. Thông qua chứng cứ,
Kiểm sát viên đưa ra lời buộc tội, còn người bào chữa có thể bác bỏ lời buộc tội hoặc
đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS. Do đặc thù nghề nghiệp của luật sư tham gia tố
tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho thân chủ, nên mục đích thu thập
chứng cứ của luật sư thường đối lập với cơ quan tiến hành tố tụng. Chứng cứ của luật
sư thu thập có giá trị “gỡ tội”, mang tính phản biện cao (một phần hoặc toàn bộ) đối
với bên buộc tội. Về chứng minh, tác giả cho rằng: đối tượng chứng minh là những sự
kiện, tình tiết khác nhau, mà mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng cũng như trong toàn bộ vụ
án đều phải được làm sáng tỏ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện và chính xác.
Ngoài ra, có các công trình của các tác giả: Vương Văn Bép, Những vấn đề lý luận và
thực tiễn về chế định chứng cứ trong Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ
luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013; Nguyễn Văn Cừ, Chứng cứ trong luật tố
tụng hình sự Việt Nam, Nxb. Tư pháp, 2005; Đỗ Văn Đương, Chứng cứ và chứng minh
trong vụ án hình sự, Nxb. Chính trị quốc gia, 2011; Võ Minh Kỳ, Nguyễn Phương Anh
(2019), “Bàn về tính hợp pháp của chứng cứ được thu thập bởi người bào chữa”, Dân
chủ và Pháp luật (09); Đỗ Văn Chỉnh (2015), “Chứng cứ và đánh giá chứng cứ”, Tòa
án nhân dân (14); Nguyễn Ngọc Anh (2012),“Bàn về quyền thu thập chứng cứ và sử
dụng chứng cứ của luật sư trong TTHS”, Kỷ yếu Hội thảo Hoàn thiện các quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa và quyền hành nghề
của luật sư do Liên đoàn Luật sư Việt Nam thực hiện.
Các công trình nêu trên đã phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau về chứng cứ
và chứng minh trong TTHS liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư. Đây là
10
những tài liệu tham khảo cần thiết liên quan đến việc nghiên cứu luận về hoạt động
chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu.
Các công trình nghiên cứu về các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự có thể
kể đến các công trình như, tác giả Hoàng Thị Minh Sơn, trong báo cáo tham luận tại
Hội thảo khoa học năm 2015 về “Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối cảnh cải
cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” đã đưa ra nhận định: việc nghiên cứu bào chữa
dưới góc độ chức năng tố tụng có phạm vi rộng hơn so với các góc độ khác như: bào
chữa là một nguyên tắc của TTHS, bào chữa là một chế định tố tụng hay bào chữa là
quyền của người bị buộc tội. Cơ sở phát sinh của quyền bào chữa là sự buộc tội, mối
quan hệ giữa chức năng bào chữa và chức năng buộc tội, phạm vi bào chữa được bắt
đầu khi có sự bị buộc tội và kết thúc khi bản án, quyết định của tòa án có hiệu lực pháp
luật. Chức năng bào chữa được pháp luật quy định để bảo đảm cho người bị buộc tội
đưa ra chứng cứ, lý lẽ bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Luận án tiến sĩ luật học, Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Nguyễn Mạnh Hùng, Học viện Khoa học xã hội,
năm 2012. Tác giả phân tích về mối quan hệ giữa các chức năng cơ bản của TTHS.
Cho dù dưới hình thức tố tụng nào thì cả ba chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử luôn
xuất hiện, chúng chỉ khác nhau là trong các chức năng đó, chức năng nào giữ vai trò
quyết định, do chủ thể nào thực hiện và có sự phân định rõ ràng hay không.
Luận án tiến sĩ luật học, Chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự Việt Nam
của tác giả Cao Thị Ngọc Hà, Học viện Khoa học xã hội, 2020. Tác giả nghiên cứu,
phân tích đặc điểm, vai trò và mối quan hệ của chức năng bào chữa với các chức năng
cơ bản của TTHS, các yếu tố tác động đến thực hiện chức năng bào chữa, chủ thể thực
hiện chức bào chữa, trong đó nhấn mạnh vai trò thực hiện chức năng bào chữa của luật
sư, thực trạng quy định của pháp luật, thực tiễn và các giải pháp bảo đảm thực hiện
chức năng bào chữa trong tố tụng hình sự.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về nội dung, ý nghĩa, mối quan hệ giữa
các chức năng. Tuy nhiên, các công trình chỉ mới phân tích về mối quan hệ giữa các
chức năng với nhau như là nội dung của nguyên tắc tranh tụng, còn mối quan hệ về
hoạt động chứng minh của các chủ thể thực hiện các chức năng buộc tội, bào chữa, xét
11
xử chưa được nghiên cứu một cách chuyên sâu, đầy đủ có hệ thống.
1.1.1.3. Nhóm các công trình liên quan đến giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, về
nội dung, đặc điểm, tính chất của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Công trình nghiên cứu của tác giả Trần Văn Độ (2004), “Bản chất của tranh tụng
tại phiên tòa”, Khoa học Pháp lý (04). Tác giả nghiên cứu chuyên sâu về bản chất của
tranh tụng tại phiên tòa. Xét xử tại phiên tòa là giai đoạn có vai trò đặc biệt quan trọng
và mang tính quyết định trong giải quyết vụ án và vai trò quyết định đó được thể hiện ở
một số đặc điểm. Tác giả cho rằng: Phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ
nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia
đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người
tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục
trực tiếp, công khai, lắng nghe ý kiến và đề xuất của các bên, tòa án tiến hành xác định
sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết đúng đắn, đầy đủ, khách quan đúng
pháp luật. Sự ra đời và phát triển của khái niệm tranh tụng trong tố tụng gắn liền với sự
hình thành và phát triển của các tư tưởng dân chủ, tiến bộ trong lịch sử tư tưởng nhân
loại. Tranh tụng không chỉ là thành tựu pháp lý đơn thuần, mà cao hơn nó là thành tựu
của sự phát triển tư tưởng, của nền văn minh nhân loại. Tùy theo tính chất vụ án mà
chức năng tố tụng, địa vị pháp lý của các bên cũng khác nhau. Tranh tụng trong TTHS
diễn ra giữa bên buộc tội và bên bào chữa, chủ yếu là giữa công tố với người bào chữa
và bị cáo. Bài viết cũng đề cập phân tích đặc điểm về các hệ thống tố tụng hình sự khác
nhau như, hệ thống tranh tụng, hệ thống xét hỏi (hay thẩm vấn) và hệ thống pha trộn,
trong mỗi hệ thống đó mức độ tranh tụng cũng khác nhau. Tùy theo việc quốc gia
thuộc vào hệ thống tư pháp nào (án lệ hay lục địa) mà “dấu ấn” của hệ thống tố tụng
trong hệ thống tố tụng pha trộn nổi rõ hơn. Hệ thống tư pháp nước ta được tổ chức và
hoạt động theo truyền thống luật lục địa. Tố tụng nước ta được thực hiện theo hệ thống
pha trộn thiên về xét hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng nước ta rõ nét hơn. Việc
nghiên cứu bản chất của tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta phải được xem xét từ góc độ
tranh tụng trong tố tụng xét hỏi. Đây là công trình rất giá trị và có ý nghĩa quan trọng
để so sánh, rút ra bài học kinh nghiệm về bản chất tranh tụng trong TTHS Việt Nam nói
chung và trong nghiên cứu về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các
12
tội xâm phạm sở hữu.
Nguyễn Ngọc Kiện (2019), Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,
Nxb.Tư pháp, Hà Nội. Tác giả nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại
phiên tòa sơ thẩm, mối quan hệ giữa xét hỏi và tranh luận; quy định của pháp luật về
tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, mục đích, ý nghĩa của tranh tụng; vai trò của các chủ thể
tham gia tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó có chủ thể thực hiện chức năng bào
chữa là luật sư. Phân tích các mô hình TTHS và pháp luật của một số nước trên thế giới về
thủ tục tranh tụng, vai trò của luật sư trong hoạt động chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm.
Sách chuyên khảo, Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam của Võ Thị
Kim Oanh, Nxb. Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh, 2011. Công trình nghiên cứu đưa
ra khái niệm xét xử sơ thẩm VAHS. Tác giả cho rằng: xét xử sơ thẩm VAHS là hoạt
động nhà nước do Tòa án thực hiện ở cấp xét xử thứ nhất nhằm xem xét, đánh giá toàn
diện các chứng cứ, tài liệu của vụ án, trên cơ sở đó ra bản án để xác định có hành vi
phạm tội hay không, người thực hiện hành vi phạm tội, hình phạt được áp dụng và giải
quyết các vấn đề có liên quan trong vụ án hình sự. Ngoài ra, tác giả còn phân tích về
đặc điểm, vai trò, các điều kiện bảo đảm hiệu quả xét xử sơ thẩm VAHS, đề xuất một
số giải pháp nâng cao chất lượng xét xử sơ thẩm VAHS ở nước ta.
Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam Nxb.
Công an nhân dân, năm 2015 đưa ra khái niệm: Xét xử sơ thẩm VAHS là giai đoạn của
TTHS, trong đó Tòa án có thẩm quyền tiến hành giải quyết vụ án, ra bản án, quyết định
tố tụng theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, còn nhiều công trình khác như: Nguyễn
Thái Phúc (2003), “Vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, Nhà nước và Pháp
luật (11); Nguyễn Ngọc Kiện (2015), “Một số nguyên tắc trong tố tụng hình sự đối với
hoạt động xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm”, Tòa án nhân dân (12)…
Hoạt động chứng minh của luật sư thể hiện trong suốt quá trình tố tụng từ điều
tra, truy tố, đến xét xử nhưng vai trò của luật sư được thể hiện rõ nét nhất là trong giai
đoạn xét xử. Những kết quả nghiên cứu trên là tài liệu tham khảo cần thiết cho nghiên
cứu sinh nghiên cứu về đặc điểm, nội dung, tính chất, vai trò của giai đoạn xét xử sơ
thẩm trong vụ án hình sự.
1.1.1.4. Nhóm các công trình nghiên cứu liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu, đặc
điểm của các tội xâm phạm sở hữu
13
Phạm Minh Tuyên với bài viết “Một số vấn đề vướng mắc trong việc định tội và
định khung hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
số 11/2018. Tác giả nghiên cứu một số quy định của pháp luật về định tội danh, định
khung hình phạt nói chung và những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng về
định tội và định khung hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu. Phân tích những
vấn đề cụ thể thường gặp trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tác giả Nguyễn Văn
Thanh với công trình Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội,
2016: Tác giả phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội xâm phạm sở hữu,
luận giải các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu, phân biệt sự
khác nhau về các tội phạm cụ thể. Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật về các
tội xâm phạm sở hữu, thực tiễn áp dụng, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân, giải
pháp nâng cao hiệu quả xét xử các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu.
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) với công trình Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phần các tội phạm, Quyển 1, Nxb.Tư pháp,
năm 2018. Công trình bình luận chuyên sâu những vấn đề về các tội xâm phạm sở hữu,
phân tích làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu về mặt
khách quan, mặt chủ quan, khách thể, chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu, dấu hiệu
pháp lý đặc trưng của từng tội phạm cụ thể quy định trong BLHS năm 2015, phân biệt
các tội xâm phạm sở hữu có tính chếm đoạt với hành vi chiếm đoạt tài sản, mỗi điều
luật đều được phân tích làm rõ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật về
các tội xâm phạm sở hữu trong thực tiễn.
Bài viết của tác giả Phạm Minh Tuyên “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển
hóa tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10/2017.
Bài viết phân tích những hạn chế của pháp luật hình sự dẫn đến cách hiểu và vận dụng
khác nhau về “Tội cướp giật tài sản”, không thể cho rằng người phạm tội dùng mô tô,
xe máy cướp giật tài sản của người đi bộ ở nơi vắng vẻ hoặc chưa gây tổn thương cơ
thể là tính nguy hiểm không cao để không áp dụng tình tiết định khung “dùng thủ đoạn
nguy hiểm”, phân tích sự khác biệt về tình tiết định khung “hành hung để tẩu thoát” với
tình tiết hành hung chuyển hóa thành tội “cướp tài sản”. Ngoài ra, còn có công trình
của Nguyễn Ngọc Chí, Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu, Luận án
14
tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 2000; Cao Thị Oanh với công
trình, Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản, Nxb. Tư pháp, 2015;
Hồ Sỹ Sơn, “Tội trộm cắp tài sản nhìn từ góc độ so sánh pháp luật hình sự một số nước
trên thế giới”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, số 07/2016…
1.1.1.5. Nhóm công trình nghiên cứu về mô hình tố tụng hình sự, nguyên tắc tranh
tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội
Luận án tiến sĩ luật học, Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng tố
tụng tranh tụng của tác giả Nguyễn Thị Thủy, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014. Tác giả
nghiên cứu mô hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng, cơ sở pháp
lý và thực tiễn mô hình TTHS hiện hành, phân tích nguyên nhân của những hạn chế,
bất cập trong mô hình TTHS Việt Nam; cải cách tư pháp và những yêu cầu cơ bản về
đổi mới mô hình TTHS Việt Nam, phân tích, làm rõ nhưng ưu điểm của các mô hình
TTHS để áp dụng có hiệu quả vào thực tiễn TTHS Việt Nam.
Công trình của Nguyễn Văn Hiển, Về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình
sự, Nxb.Chính trị quốc gia, 2011. Tác giả nghiên cứu, phân tích làm rõ khái niệm
nguyên tắc tranh tụng trong TTHS, vị trí và mối quan hệ giữa nguyên tắc tranh tụng
với một số nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình, sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng
trong các mô hình TTHS, thực tiễn hoạt động tranh tụng, những hạn chế, bất cập và
nguyên nhân, phương hướng xây dựng và áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam.
Nguyễn Thái Phúc (2008), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong tố
tụng hình sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Nhà nước và pháp luật (08). Bài viết
đi sâu nghiên cứu về tranh tụng, tác giả cho rằng: hoạt động tố tụng có tính tranh tụng
là hoạt động diễn ra dưới hình thức cùng tồn tại, vận động và phủ định lẫn nhau giữa
hai chức năng buộc tội và chức năng bào chữa khi sự đối trọng giữa hai chức năng này
đã lên đỉnh điểm tại phiên tòa sơ thẩm thì có sự tham gia của Tòa án là trọng tài sẽ đưa
ra phán quyết. Sự tham gia tích cực của luật sư bào chữa là sự phản biện cần thiết đối
với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để hoạt động tố tụng đạt tới chân lý
khách quan. Cách tiếp cận này cho thấy tranh tụng chính là xác định mối quan hệ giữa
hai chức năng buộc tội và chức năng bào chữa như là sự thống nhất và đấu tranh giữa
hai mặt đối lập để tìm ra chân lý.
15
Ngoài ra, còn có các công trình của các tác giả như, Nguyễn Ngọc Chí (2010),
“Việc lựa chọn mô hình tố tụng trong quá trình cải cách tư pháp ở Việt Nam”, Nhà
nước và Pháp luật, (05); Nguyễn Thái Phúc 2007), “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Kiểm sát (18); Đào Trí Úc (2011), “Tổng quan về
mô hình TTHS Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư
pháp - Kinh nghiệm CHLB Đức, ngày 9-10/6/2011 tại Hà Nội…
Về nguyên tắc suy đoán vô tội, phải kể đến Luận án tiến sĩ luật học Bảo đảm
thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay
của tác giả Hoàng Văn Hạnh, Học viện Khoa học xã hội, năm 2022. Tác giả nghiên
cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về nguyên tắc suy đoán vô tội, đưa ra khái niệm, ý
nghĩa, chủ thể bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội; các biện pháp và các yếu
tố bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội; thực trạng quy định pháp luật và thực
tiễn bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội; những hạn chế, vướng mắc và
nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc về bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy
đoán vô tội, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán
vô tội trong pháp luật tố tụng hình Việt Nam hiện nay.
Đào Trí Úc (2014), “Nguyên tắc suy đoán vô tội-nguyên tắc hiến định quan
trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015”, Nhà nước và pháp luật (11)
phân tích các nội dung cơ bản của nguyên tắc suy đoán vô tội trong mối quan hệ với
hoạt động chứng minh là phải bảo đảm yêu cầu về trình tự, thủ tục; trách nhiệm chứng
minh lỗi; tất cả mọi hoài nghi về chứng cứ và lỗi cần được giải thích theo hướng có lợi
cho người bị buộc tội. Nguyễn Thái Phúc (2006), “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Nhà
nước và pháp luật cho rằng, buộc tội là quá trình chứng minh về lỗi, nên việc khởi tố bị
can cũng chưa đủ, bên buộc tội phải có nghĩa vụ chứng minh cho những kết luận, quyết
định của mình trước Tòa án. Một người luôn vô tội khi không chỉ ra được những bằng
chứng ngược lại, chứng minh được họ có tội. Ngoài ra, còn có công trình của Võ Quốc
Tuấn (2015), “Bảo đảm quyền được suy đoán vô tội của bị cáo trong phiên tòa xét xử
sơ thẩm vụ án hình sự”, Tòa án nhân dân (18); Vũ Gia Lâm (2016), “Thực hiện
nguyên tắc suy đoán vô tội trong quy định về đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Kiểm sát (12)…
16
Các công trình nghiên cứu về mô hình tố tụng, nguyên tắc tranh tụng, nguyên
tắc suy đoán vô tội tạo ra cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu lựa chọn mô hình
TTHS, bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của TTHS trong hoạt động chứng minh, trong
đó có hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến thực trạng quy định của pháp luật
liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư, thực tiễn hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
Các công trình có thể kể đến, như: Nguyễn Hòa Bình (chủ biên), Những nội
dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb.Chính trị quốc gia, 2016: Công
trình phân tích đầy đủ những vấn đề phải chứng minh trong VAHS; khái niệm chứng
cứ thay đổi theo hướng phá thế “độc quyền” trong việc thu thập chứng cứ, bổ sung cho
người bào chữa có quyền thu thập chứng cứ; quy định trách nhiệm, trình tự, thủ tục thu
thập, đánh giá chứng cứ, về nguồn chứng cứ, nguyên tắc loại trừ chứng cứ; về xét xử
sơ thẩm, nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng, phân tích đầy đủ những
điểm mới trước đây chưa được quy định trong BLTTHS năm 2015.
Nguyễn Văn Huyên và Lê Lan Chi (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015, Nxb. Lao động, 2016 đã phân tích những điểm mới trong các
quy định của BLTTHS năm 2015 như quyền được thu thập, đánh giá, sử dụng chứng
cứ của người bào chữa; nguyên tắc suy đoán vô tội; nguyên tắc tranh tụng; chế định
chứng cứ, nguồn chứng cứ; về xét xử sơ thẩm. Ngoài ra, còn có công trình, Những
điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính
trị quốc gia, 2016 của Phan Trung Hoài; Võ Thị Kim Oanh (chủ biên), Bình luận
những điểm mới cơ bản của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, 2016;
Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài (Đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, 2018;…
Về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu, như tác giả Võ Khánh Vinh, Lý luận
chung về định tội danh, Nxb. Khoa học xã hội, năm 2013; Lê Đăng Doanh, Định tội
danh đối với các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Tư pháp, 2014. Tác giả nêu khái niệm,
đặc điểm pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu; phân tích một số vấn đề cơ bản về định
tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu; phân biệt các tội phạm có tính chất chiếm
đoạt và không có tính chất chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu.
17
Quyền bào chữa liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư được nghiên
cứu ở các mức độ khác nhau, như: Phạm Hồng Hải, “Thực trạng hoạt động của luật sư-
Người bào chữa qua hơn một năm thi hành BLTTHS năm 2003”, Tạp chí Kiểm sát số
24/2005: Bài viết phân tích về quyền của người bào chữa như quyền thu thập tài liệu,
đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa; thực trạng tham gia hỏi cung của luật sư
còn nhiều hạn chế, chưa được tuân thủ triệt để nguyên tắc khi xét xử phải dựa trên
chứng cứ được xem xét tại phiên tòa. Ngoài ra, còn có công trình của Nguyễn Văn
Tuân, “Thực trạng tranh tụng và vấn đề nâng cao vai trò của luật sư trong tranh tụng
trước yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 3/2010; Phan Trung
Hoài, “Thực trạng và định hướng hoàn thiện pháp luật nhằm đảm bảo quyền của Luật
sư tham gia tranh tụng trong vụ án hình sự”, Tạp chí Nghề luật số 3/2006; Phạm Hồng
Hải,“Vai trò của luật sư trong hoạt động tố tụng, thực trạng và phương hướng đổi mới
phiên tòa xét xử”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, Đặc san số 4, tháng 3/2003,…
Nhìn chung, các công trình phân tích những điểm mới trong BLHS năm 2015 về
đặc điểm, về định tội danh các tội xâm phạm sở hữu; thực trạng quy định của pháp luật
và thực tiễn hoạt động chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm. Các công trình này là tài liệu
tham khảo bổ ích cho việc nghiên cứu hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
1.1.3. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao chất lượng
hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
Các công trình khoa học có thể kể đến, như: Phạm Minh Tuyên, “Một số kiến
nghị nhằm bảo đảm quyền có phiên tòa công bằng trong xét xử các vụ án hình sự tại
Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2015. Tác giả bài viết phân tích về một số
vướng mắc, bất cập chưa bảo đảm quyền có phiên tòa công bằng trong xét xử, về vấn
đề có hay không có quyền im lặng trong luật TTHS Việt Nam; phân tích những hạn
chế, bất cập về bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.... Từ đó
đưa ra một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền có phiên tòa công bằng trong xét xử.
Nguyễn Thái Phúc, với bài viết “Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2/2009. Tác giả phân tích
thực trạng quy định của pháp luật về phiên tòa sơ thẩm, những hạn chế, bất cập, trên cơ sở
kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Về thủ tục xét hỏi
18
cần đổi mới theo hướng: bên buộc tội hỏi trước, đến bên bào chữa, Tòa án không tham gia
xét hỏi để hạn chế vai trò tích cực của Tòa án, trả Tòa án trở về vai trò trọng tài vô tư,
không thiên vị điều khiển các bên tranh tụng. Về tranh tụng, khi Viện kiểm sát rút toàn bộ
quyết định truy tố thì Tòa án phải ra quyết định đình chỉ vụ án. Chúng ta không thể đòi hỏi
phiên tòa sơ thẩm phải có tính tranh tụng khi chưa thực hiện triệt để nguyên tắc tranh tụng
và sẽ không thể có được Tòa án có vai trò trọng tài vô tư, khách quan khi mà luật vẫn quy
định nghĩa vụ chứng minh tội phạm cho Tòa án. Ngoài ra còn có công trình như: Trần
Văn Độ, “Nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề đặt ra đối với việc sửa đổi, bổ sung Bộ
luật Tố tụng hình sự”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, 1/2014; Vũ Gia Lâm, “Hoàn thiện quy
định của Bộ luật Tố tụng hình sự bảo đảm nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm”,
Tạp chí Luật học số 1/2015; Nguyễn Bá Hưng, “Thực trạng quy định của pháp luật về
hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư và một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật trong
TTHS, Tạp chí Nghề luật, số 2/2022; Mai Thế Bày (2008),“Hoàn thiện chế định về
chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Kiểm sát, (18 và 20).
Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động chứng minh trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu nêu trên là nguồn tài
liệu quan trọng cần tham khảo khi nghiên cứu các quy định của pháp luật, thực tiễn áp
dụng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
1.2. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước
Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đến hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm không nhiều, có những công trình không nghiên cứu
trực tiếp đến đề tài mà nghiên cứu các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm, có thể kể đến công trình nghiên cứu như sau:
1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
Công trình Towards an International Criminal Procedure [140] (Hướng tới một
thủ tục tố tụng hình sự quốc tế) của Christoph Saffeling, năm 2003. Tác giả phân tích
các quy định bảo đảm chuẩn mực quốc tế về quyền con người nói chung và quyền bào
chữa của người bị buộc tội nói riêng, các bảo đảm pháp lý cần thiết để luật sư bào chữa
trợ giúp người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa của họ. Tác giả phân tích, so sánh
19
sự khác nhau về thủ tục TTHS của hai hệ thống pháp luật Anh-Mỹ và Châu Âu lục địa
ở các giai đoạn khác nhau, nhưng cho dù ở giai đoạn nào cũng phải đảm bảo quyền
được xét xử công bằng của người bị buộc tội.
Công trình khoa học The guarantees for accused persons under Article 6 of the
European Convention on Human Rights [154] của Martinus Nijhoff, 1992 (Bảo đảm
quyền con người của người bị buộc tội tại Điều 6 Công ước châu Âu về quyền con
người). Theo nội dung Công ước thì “sự buộc tội” chỉ xuất hiện khi một người bị cáo
buộc thực hiện hành vi được coi là tội phạm. Sự buộc tội tồn tại trong suốt quá trình
chứng minh làm rõ hành vi đó là có tội hay không; quyền bào chữa được bảo đảm và
có quyền được xét xử bởi một Tòa án công bằng theo nguyên tắc suy đoán vô tội.
Người bị buộc tội chỉ phải chịu hình phạt khi tội và lỗi của họ được chứng minh theo
đúng thủ tục. Nguyên tắc này được coi là một đảm bảo tố tụng đầu tiên cho người bị
buộc tội và đặt ra nhiệm vụ đối với những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. Đây là tư tưởng pháp lý tiến bộ cần tham
khảo trong quá trình thực hiện luận án.
Công trình khoa học Basic principles on the role of lawyers [139] của Adam
Paker, năm 2008 (Những nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư). Tác giả phân tích
nội dung, nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư trong TTHS, những quy định cụ thể
về quyền bào chữa và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm về quyền bào
chữa của người bị buộc tội, như được tiếp cận với luật sư một cách nhanh chóng, kịp
thời và được quyền tiếp xúc riêng với luật sư. Đối với luật sư bào chữa thì được quyền
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, có đủ thời gian chuẩn bị cho việc bào chữa, được
tiếp cận với các đối tượng có liên quan trong vụ án…
Công trình khoa học The principle of equality of arms [143] (Nguyên tắc bình
đẳng theo địa vị tố tụng) của J. P.W Temminck Tuinstra (Khoa luật Đại học
Amsterdam-Hollan) năm 2009. Tác giả đã đưa ra quan điểm khẳng định về vị trí, vai
trò của người bào chữa một cách rõ ràng, cụ thể nhằm bảo đảm quyền bình đẳng của
các bên tranh tụng: “Để đảm bảo công bằng trong TTHS thì giữa các bên buộc tội và
bên bị buộc tội phải có địa vị bình đẳng khi tham gia tố tụng và có cơ hội ngang nhau
để phản bác các ý kiến của bên đối tụng”, đây là quan điểm tiến bộ giúp cho nghiên
cứu sinh vận dụng khi nghiên cứu về bảo đảm quyền bình đẳng của các chủ thể trong
20
quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự.
Tác phẩm Lý luận chứng cứ [153], của M.X.Xtrôgôvich, năm 1991. Theo tác
giả, đối tượng chứng minh trong VAHS bao gồm những sự kiện và tình tiết khác nhau,
mà mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng và trong tổng thể của chúng nói chung đều phải
được nghiên cứu làm sáng tỏ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện chính xác. Những
vấn đề chứng minh có thể phân chia khác nhau. Dựa theo tiêu chí về mối quan hệ với
sự buộc tội thì những vấn đề chứng minh có thể phân thành nhóm những vấn đề chứng
minh có tính chất buộc tội và nhóm những vấn đề chứng minh có tính chất gỡ tội.
1.2.2. Các công trình nghiên cứu những quy định của pháp luật liên quan đến hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bài viết “Evolution of U.S.Criminal Law” [144] (Sự tiến hóa của Luật hình sự
Hoa Kỳ của James B.Jacobs, Warren.E.Burger). Bài viết giải thích cơ sở và cấu trúc để
xây dựng thủ tục TTHS là Hiến pháp Hoa Kỳ, bao gồm 10 Điều dựa trên bản Tuyên
ngôn nhân quyền, đảm bảo cho mọi công dân có được những quyền cơ bản, quyền tự
do. Bị can được coi là vô tội khi bên buộc tội không chứng minh được bị can có tội.
Quyền bào chữa bắt đầu từ khi người bị tình nghi trở thành bị can, nếu bị can không
thuê luật sư thì Tòa án chỉ định luật sư bào chữa cho họ; lỗi của người bị buộc tội phải
được chứng minh mà không còn sự nghi ngờ. Luật sư có quyền sử dụng những nhân
chứng của mình nhằm thẩm tra chéo các nhân chứng của bên kia.
Tác giả K.W.Lidstone với công trình Human rights in the English criminal trial-
Human rights in criminal procedure [148] (Quyền con người trong xét xử vụ án hình
sự). Tác giả nghiên cứu về thực hiện quyền con người trong tố tụng hình sự, phải đảm
bảo các quyền tự do của con người khi họ bị bắt giữ, bị giam, xét xử; quyền im lặng và
quyền được xét xử công bằng. Những nội dung nghiên cứu này là những kiến thức liên
quan cần thiết có thể tham khảo trong quá trình nghiên cứu về hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Tại Hội thảo quốc tế về quyền của người bào chữa năm 2012, tác giả Tian Wen
Chang (chuyên gia Trung Quốc) có bài viết “Suy nghĩ và đánh giá tổng thể về bản dự
thảo sửa đổi Luật tố tụng hình sự Trung Quốc” [161]. Theo bài viết, nghề luật sư rất
quan trọng để bảo vệ cho người bị buộc tội, bảo vệ lẽ phải, công bằng, góp phần xây
dựng pháp luật. Bênh cạnh đó tác giả còn phân tích những khó khăn trong xây dựng
21
pháp luật để tạo cơ sở pháp lý, mở rộng sự tham gia hoạt động tố tụng của luật sư; đề
xuất hoàn thiện pháp luật về thẩm vấn chéo để tạo sự cân bằng, bình đẳng của các bên,
hạn chế tối đa trường hợp lạm dụng quyền của chủ thể buộc tội, bảo đảm tính khách
quan, trung lập của Tòa án, tăng thêm quyền cho các bên tham gia tranh tụng.
Công trình “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings” [164], của tác giả
Xiong Qiuhong (Viện Luật, thuộc Viện khoa học xã hội Trung Quốc), năm 2005 đã
đưa ra quan điểm của mình về quyền bào chữa trong TTHS, về người bào chữa, đặc
biệt là về sự tham gia của người bào chữa trước khi vụ án được đưa ra xét xử. Tác giả
khẳng định, bào chữa là một quyền, quyền của người bị buộc tội có hiệu lực trong các
giai đoạn của quá trình tố tụng. Người bị buộc tội có quyền bác bỏ cáo buộc hình sự từ
các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Luật sư thực hiện quyền bào chữa khi có sự buộc tội
của cơ quan công tố hoặc do được chỉ định bào chữa. Dù trong trường nào thì luật sư
cũng có quyền đưa ra lý lẽ, chứng cứ chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS
cho người bị buộc tội.
1.2.3. Các công trình nghiên cứu liên quan đến giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
Tác phẩm Evidentiary barriers to conviction and two models of criminal
procedure: A comparative study [156] (Rào cản chứng cứ đối với việc kết tội và hai mô
hình tố tụng hình sự-Nghiên cứu so sánh) của Mirjan Damaska, 212 U.
Pa.L, Rev.506, nêu quan điểm: “Trong mô hình TTHS tranh tụng không tồn tại hồ sơ
vụ án theo nghĩa được sử dụng như trong mô hình TTHS thẩm vấn…Khi ra phiên tòa
xét xử, các chứng cứ trong hồ sơ vụ án chưa có giá trị chứng minh mà chỉ có những
chứng cứ được trình bày và thẩm tra tại phiên tòa mới được sử dụng làm chứng cứ để
chứng minh hành vi cấu thành tội phạm hay không cấu thành tội phạm”, đây là luận
điểm quan trọng về sử dụng chứng cứ trong hoạt động chứng minh.
Công trình khoa học “Defense function” [163] (Chức năng bào chữa) của Đoàn
luật sư Hoa Kỳ. Bài viết trình bày về các tiêu chuẩn và chức năng của người bào chữa.
Theo đó, luật sư bào chữa là một bộ phận thiết yếu trong hệ thống tư pháp để bảo vệ
công lý, công bằng, lẽ phải. Phiên tòa xét xử VAHS được xem như là một thực thể ba
bên buộc tội, gỡ tội và xét xử do thẩm phán, công tố viên và luật sư thực hiện. Luật sư
là phải can đảm, tận tâm để bào chữa hiệu quả, tuân thủ pháp luật, tôn trọng sự thật
22
khách quan, đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của
chính sách pháp luật, người bào chữa không có trách nhiệm phải thực hiện bất kỳ yêu
cầu nào của bị cáo nếu trái pháp luật, phải tuân theo quy tắc đạo đức nghề nghiệp và
những điều không được làm khi hành nghề luật sư.
Công trình khoa học Comparative Criminal Justice Systems [159] (Hệ thống Tư
pháp hình sự so sánh) của Philip.L.Reichel. Tác giả nghiên cứu lý luận cơ bản về
TTHS, phân tích đặc điểm và so sánh các truyền thống pháp luật, các loại mô hình
TTHS. Với mục đích chung là tìm ra sự thật vụ án nhưng mỗi quốc gia sử dụng mô
hình tố tụng khác nhau, sự khác nhau đó tất yếu dẫn đến sự khác nhau về địa vị pháp lý
của các chủ thể thực hiện các chức năng. Trong tố tụng thẩm vấn thì phiên tòa là sự
điều tra công khai với vai trò tích cực của thẩm phán trong việc chứng minh tội phạm,
luật sư kém năng động, trong khi tố tụng tranh tụng, vai trò của luật sư, công tố viên
nổi bật, tích cực trong hoạt động chứng minh tại phiên tòa, thẩm phán chỉ đóng vai trò
là trọng tài. Ngoài ra, còn có các công trình như, Tố tụng hình sự Xô Viết của tác giả
M.A.Chen xốp, xuất bản năm 1978; Bài viết “Vai trò của Tòa án trong chứng minh tại
vụ án hình sự dưới ánh sáng của nguyên tắc hiến định về tố tụng tranh tụng” của
N.N.Kovtun (số 6/1988); “Vấn đề tranh tụng trong khoa học luật tố tụng hình sự Nga”
của V.PSmirnov (số 8/2001). Công trình của Nancy Hollander, Hệ thống tố tụng hình sự
Hoa Kỳ trong sự so sánh với việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam, năm 2000;
công trình khoa học của James Claude và Joseph Daly “Phân tích, so sánh hai hệ thống
pháp luật Mỹ và Pháp”, Thông tin khoa học pháp lý, số 10/1994.
Các công trình ở nước ngoài phản ánh tình hình, xu hướng nghiên cứu hoạt
động chứng minh trong TTHS, cung cấp một lượng kiến thức hữu ích và chỉ ra cơ sở lý
luận khoa học và thực tiễn để nghiên cứu sinh tiếp thu, kế thừa trong quá trình nghiên
cứu HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án
Qua phân tích tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài nhận thấy, hoạt
động chứng minh của luật sư đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu, tiếp cận dưới
nhiều khía cạnh, góc độ và phạm vi khác nhau. Với sự nghiên cứu đa dạng, phong phú các
công trình đã đạt được những kết quả nghiên cứu quan trọng liên quan đến luận án. Trên
cơ sở tiếp thu, kế thừa những kết quả đạt được; những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu, đòi
23
hỏi phải có sự nghiên cứu toàn diện, chuyên sâu, tiến hành triển khai thực hiện nghiêm túc
để bảo đảm tính mới, tính cấp thiết cho đề tài nghiên cứu của luận án.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã giải quyết được rất nhiều vấn đề cơ bản
mà lý luận và thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu đặt ra. Một số công trình khác tuy không nghiên cứu trực tiếp về hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, nhưng nó
cũng tạo tiền đề lý luận cho đề tài luận án. Các công trình nghiên cứu nhiều vấn đề về
chứng cứ và chứng minh trong TTHS, quá trình chứng minh, đối tượng, giới hạn chứng
minh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đặc điểm pháp lý về các tội xâm phạm sở hữu. Bên
cạnh đó cũng có nhiều công trình nghiên cứu về quy định của pháp luật, thực trạng hoạt
động chứng minh và đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động chứng
minh của luật sư trong XXST vụ án hình sự. Mặc dù đã rất có nhiều công trình nghiên cứu
liên quan đến đề tài luận án, nhưng chưa có trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu,
toàn diện có hệ thống về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu và chính điều này đòi hỏi nghiên cứu sinh phải có nhiệm vụ triển
khai thực hiện trong quá trình nghiên cứu luận án của mình.
1.3.1. Những nội dung nghiên cứu đã sáng tỏ và được luận án kế thừa
Các công trình nghiên cứu qua nhiều giai đoạn khác nhau có nhiều vấn đề liên quan
đến luận án đã được thừa nhận rộng rãi, nghiên cứu sinh sẽ tiếp thu, kế thừa những kết quả
nghiên cứu đó trong luận án của mình.
Về lý luận: phần lớn các công trình đều thống nhất bản chất của hoạt động chứng
minh là nhằm làm sáng tỏ đối tượng chứng minh; quá trình chứng minh gồm có các hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ và hoạt động chứng minh của luật sư cũng
được thể hiện bằng các hoạt động này để làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội.
Về thực tiễn: các công trình khoa học nghiên cứu về quy định của pháp luật, thực
trạng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm, chỉ ra những hạn chế, bất
cập và đưa ra giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Những quan điểm, vấn đề được thừa nhận:
- Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm được thể hiện tập trung
24
rõ nét nhất là tại phiên tòa sơ thẩm, các hoạt động trước đó chỉ là giai đoạn chuẩn bị tạo
tiền đề cho hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm.
- Chủ thể tham gia hoạt động chứng minh tại phiên tòa xét xử sơ thẩm chủ yếu là
do bên buộc tội và bên bào chữa thực hiện.
- Nội dung, nhiệm vụ của xét xử sơ thẩm nhằm giải quyết thực chất về vụ án, đưa
ra phán quyết một người đang bị buộc tội có tội hay không có tội.
1.3.2. Những vấn đề liên quan đến luận án nhưng chưa được giải quyết thấu đáo trong
các công trình nghiên cứu
Về lý luận: Nhiều công trình nghiên cứu lý luận về hoạt động chứng minh của luật
sư với cách tiếp cận khác nhau sẽ là kinh nghiệm bổ ích cho nghiên cứu đề tài luận án, các
kết quả nghiên cứu sẽ là sự bổ sung và phát triển lý luận về hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu liên quan đến HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm chỉ ở mức độ độc lập, riêng
lẻ với nhau, chưa có công trình nào nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn diện về hoạt
động chứng minh của luật sư trong mối quan hệ với xét xử sơ thẩm và các tội xâm phạm
sở hữu để đưa ra khái niệm khoa học về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu và các vấn đề khác như về đặc điểm, nội dung, ý nghĩa
về HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Về thực tiễn: Chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu các vấn đề pháp lý
liên quan đến đến hoạt động chứng minh của luật sư, như những vấn đề phải chứng minh
của luật sư trong vụ án hình sự. Trong đó, hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
cũng được nghiên cứu, tiếp cận khác nhau nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về
hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu; chưa phân tích, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn
hoạt động chứng minh của luật sư; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của hạn chế,
bất cập trong hoạt động chứng minh của luật sư. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp
nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu; những số liệu của các công trình công bố trước đây đã lâu, không
còn mang tính thời sự.
Về các giải pháp và kiến nghị: Các giải pháp, kiến nghị của các công trình chủ yếu
tập trung về những hạn chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
25
1988 và Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 mà cơ bản những hạn chế, bất cập này đã được
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khắc phục. Các giải pháp đưa ra còn khiêm tốn, chưa
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Những hạn chế, bất cập trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 chưa có giải pháp hoàn thiện để nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật
sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
1.3.3. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Từ những phân tích, đánh giá về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án, nhận
thấy cần tiếp tục triển khai nghiên cứu những vấn đề như sau:
Một là, nghiên cứu, làm rõ khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư, hoạt
động chứng minh của luật trong xét xử sơ thẩm; mối quan hệ giữa hoạt động chứng
minh của luật sư với xét xử sơ thẩm và các tội xâm phạm sở hữu, từ đó đưa ra khái
niệm hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Nghiên cứu làm rõ về nội dung, đặc điểm, đối tượng, ý nghĩa, các yếu tố tác động đến
HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
Hai là, nghiên cứu, đánh giá thực trạng quy định của pháp luật TTHS liên quan
đến hoạt động chứng minh nói chung và HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm VAHS;
những vấn đề phải chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu. Nghiên cứu, tiếp cận hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ dưới góc độ
hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Ba là, nghiên cứu, khảo sát tổng kết thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, so sánh, đối chiếu với pháp luật TTHS
của một số quốc gia trên thế giới để rút ra những bài học kinh nghiệm lập pháp cũng
như thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những
hạn chế, bất cập về HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các
tỉnh Tây Nam Bộ.
Bốn là, nghiên cứu làm rõ các yêu cầu đảm bảo cho hoạt động chứng minh của
luật sư trong tố tụng hình sự, nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu; trên cơ sở đó đưa ra những kiến nghị và
giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ. Các giải pháp đưa ra phải bảo
26
đảm tính khả thi đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, luận án cần trả lời các câu hỏi sau:
1. Hoạt động chứng minh là gì? Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm? Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu có những đặc điểm gì?
2. Pháp luật quy định như thế nào về HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm?
3. Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm
sở hữu như thế nào?
4. Các yếu tố nào ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu?
5. Để nâng cao chất lượng đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu cần có những giải pháp nào?
1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Từ các câu hỏi nghiên cứu nêu trên, giả thuyết nghiên cứu của luận án là:
1. Hoạt động chứng minh là tổng thể các hành vi tố tụng của những người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong hoạt động thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án.
2. Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm là một bộ phận cấu thành
của hoạt động chứng minh trong TTHS, là tổng hợp các hành vi tố tụng của luật sư
trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án, chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị buộc tội.
3. Xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của quá trình chứng minh trong TTHS, trong đó
Toà án tiến hành xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các tình tiết,
chứng cứ để giải quyết đúng đắn vụ án. Những đặc điểm của các tội xâm phạm sở
hữu chi phối hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
4. Quy định của pháp luật TTHS liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm còn hạn chế, bất cập do nhiều nguyên nhân. Để nâng cao chất
lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
27
hữu cần hoàn thiện pháp luật và nhiều giải pháp toàn diện khác nhau.
Kết luận Chương 1
Chứng minh là hoạt động cơ bản xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án với sự
tham gia của các chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình sự. Trong
những năm qua hoạt động chứng minh của luật sư đã góp phần làm sáng tỏ sự thật của
vụ án, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội. Nghiên cứu các công trình trong
nước và ngoài nước có tầm quan trọng để có thể kế thừa cơ sở lý luận cũng như kinh
nghiệm thực tiễn liên quan đến việc thực hiện nội dung của luận án.
Những công trình nghiên cứu nước ngoài bước đầu đã gợi mở hướng nghiên cứu
cho đề tài luận án, chỉ ra các căn cứ khoa học về hoạt động chứng minh của luật sư,
tầm quan trọng về vị trí, vai trò hoạt động chứng minh của luật sư, các công trình đã
phản ánh tình hình, xu hướng, ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu về hoạt động
chứng minh của luật sư. Những công trình sẽ được tham khảo ở các cấp độ khác nhau,
liên quan trực tiếp đến đề tài hoặc có những công trình không liên quan trực tiếp nhưng
sẽ có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và phương pháp tiếp cận để nghiên
cứu sinh nhận thức sâu sắc hơn về lý luận và thực tiễn, rút ra được cách tiếp cận phù
hợp cho mục đích nghiên cứu luận án đặt ra.
Mặc dù đã có nhiều công trình khoa học ở trong và ngoài nước nghiên cứu về
hoạt động chứng minh của luật sư, nhưng do bị giới hạn về phạm vi cũng như cấp độ
nghiên cứu nên các vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu vẫn chưa được nghiên cứu chuyên biệt mà chỉ
được đề cập ở một số khía cạnh khác nhau về quá trình chứng minh trong TTHS; về
chứng cứ; về xét xử sơ thẩm; về thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ; về các chức
năng bào chữa,… Một số công trình nghiên cứu riêng về hoạt động chứng minh của
luật sư, các vấn đề lý luận cũng chưa được đề cập đến một cách toàn diện, chuyên sâu.
Vì vậy, với tư cách là một công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu và toàn
diện về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu, nghiên cứu sinh sẽ triển khai nghiên cứu, làm rõ những vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu; các câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu để đề tài luận án “Hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu từ thực
tiễn các tỉnh Tây Nam Bộ” tại trở thành một công trình nghiên cứu khoa học toàn
28
diện, có hệ thống và có tính mới tại Việt Nam.
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ
TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
2.1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu
2.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu
2.1.1.1. Khái niệm hoạt động chứng minh của luật sư
Chứng minh là chế định trung tâm xuyên suốt quá trình TTHS từ khởi tố, điều
tra, truy tố đến xét xử với sự tham gia của nhiều chủ thể thực hiện các chức năng cơ
bản của TTHS. Chứng minh là hoạt động cốt lõi của TTHS nhằm làm sáng tỏ sự thật
khách quan của vụ án. Như vậy, hoạt động chứng minh là gì? Nghiên cứu pháp luật
TTHS nước ngoài cũng như pháp luật TTHS Việt Nam cho thấy, có nhiều tài liệu pháp
lý, các giáo trình, bài báo khoa học đề cập, nghiên cứu về đối tượng chứng minh, giới
hạn chứng minh, nghĩa vụ chứng minh, hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng
cứ… Tuy nhiên, chưa có công trình khoa học nào đặt vấn đề nghiên cứu một cách
chuyên sâu, toàn diện, có hệ thống để đưa ra khái niệm khoa học về hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Hoạt động là tiến hành những việc làm có quan hệ với nhau chặt chẽ nhằm một
mục đích nhất định trong đời sống xã hội [115]. Ngoài ra, trong khoa học pháp lý có ý
kiến về hoạt động như sau: “Hoạt động (hệ thống các hành vi được trật tự hóa) của
các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố
tụng được quy định cụ thể trong Bộ luật TTHS” [130, tr.11]. Hoạt động là những việc
làm có mối quan hệ gắn bó với nhau nhằm đạt mục đích nhất định nào đó, hoặc có thể
hiểu hoạt động là bao gồm hệ thống các hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định có mối
quan hệ chặt chẽ với nhau để thực hiện nhiệm vụ của TTHS. Như vậy, hoạt động trong
TTHS có thể hiểu, là hệ thống các hành vi của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định có quan hệ
29
chặt chẽ với nhau nhằm thực hiện mục đích chung của TTHS là xác định sự thật của vụ án.
Vậy, chứng minh là gì? Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm chứng minh.
Theo giải thích của Từ điển tiếng Việt, thì: “Chứng minh là soi xét tỏ tường,
viện dẫn bằng cớ để bày tỏ rõ ràng” [116, tr.225] hoặc theo Từ điển Luật học, thì:
“Chứng minh tội phạm là thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm
và người thực hiện hành vi phạm tội” [114, tr.165]. Quan điểm này nêu bản chất
chứng minh là thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xác định tội phạm, người thực
hiện hành vi phạm tội, nhưng ở đây chỉ đề cập trong lĩnh vực chứng minh tội phạm.
Theo quan điểm của GS.TS.Võ Khánh Vinh: “Chứng minh là việc sử dụng các
chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án hình sự. Ở nghĩa đó, khái niệm chứng
minh đồng nghĩa với khái niệm nghiên cứu vụ án được tiến hành ở giai đoạn điều tra
và xét xử thể hiện ở việc thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, và ở việc làm sáng tỏ
với sự giúp đỡ của chứng cứ tất cả các sự kiện, tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải
quyết vụ án” [130, tr.457]. Mặc dù chưa chỉ rõ chủ thể chứng minh, nhưng quan điểm
này đã đề cập đến nhiều vấn đề về chứng minh trong TTHS, đó là việc nghiên cứu vụ
án ở giai đoạn điều tra và xét xử, là hai giai đoạn quan trọng nhất của quá trình chứng
minh để làm sáng tỏ các tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Ý kiến khác
cho rằng: “Chứng minh chính là việc thu thập, sử dụng các chứng cứ để làm sáng tỏ sự
thật khách quan các tình tiết của vụ án hình sự” [101, tr.2]. Ý kiến này về chứng minh
như vậy là chưa đầy đủ, không nêu rõ về chủ thể chứng minh và nội dung chứng minh
gồm các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Hoặc có ý kiến cho rằng:
“Chứng minh trong vụ án hình sự là việc các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án sử dụng các chứng cứ đã thu thập được để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án hình
sự, trên cơ sở đó đưa ra cách giải quyết vụ án một cách đúng đắn” [5, tr.57]. Quan
điểm này chỉ ra chủ thể tham gia hoạt động chứng minh là các Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát, Tòa án và việc sử dụng các chứng cứ để làm sáng tỏ các tình tiết làm cơ sở để
giải quyết đúng đắn vụ án. Nhưng quan điểm này không nêu được hoạt động chứng
minh phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Một quan
điểm khác cho rằng: “Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự là hoạt động của các
chủ thể tiến hành tố tụng hình sự được Nhà nước trao quyền tiến hành theo trình tự,
thủ tục do BLTTHS quy định để thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm xác định
30
sự thật khách quan trong vụ án hình sự” [20, tr.12]. Quan điểm này xác định chủ thể,
mục đích và quá trình chứng minh là thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Tuy nhiên,
quan điểm này cho rằng chủ thể chứng minh chỉ là những người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng là chưa đầy đủ, vì ngoài ra còn có các chủ thể khác như người bào chữa và
những người tham gia tố tụng khác cũng tham gia vào hoạt động chứng minh bảo vệ
quyền lợi của họ. Nói cách khác, chứng minh là việc sử dụng chứng cứ để làm sáng tỏ
sự thật khách quan của vụ án. Những quan điểm nêu trên tuy chưa phản ánh đầy đủ về
khái niệm chứng minh, nhưng nhìn chung đã nêu được bản chất và những đặc điểm về
chứng minh. Như vậy, có thể hiểu chứng minh là quá trình hoạt động tố tụng hình sự
của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng trong hoạt động
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định để làm
sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Tố tụng hình sự là thủ tục tiến hành các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử, là hoạt động của chủ thể tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và các cơ quan
nhà nước, tổ chức cá nhân theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định, nhằm phát hiện
chính xác, xử lý công minh kịp thời mọi hành vi phạm tội. “Tố tụng hình sự là toàn bộ
hoạt động (hệ thống các hành vi) của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người tiến
hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã
hội được tiến hành trong giới hạn và trật tự do Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản
quy phạm pháp luật khác quy định nhằm giải quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh
chóng, chính xác và đúng pháp luật và các quan hệ pháp luật nảy sinh giữa các cơ
quan, tổ chức và những người tham gia hoạt động” [130, tr.10-11]. Từ những phân
tích các quan điểm khác nhau về vấn đề chứng minh có thể hiểu, hoạt động chứng
minh trong TTHS là tổng hợp hành vi các của chủ thể tiến hành tố tụng, người tham
gia tố tụng trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ nhằm làm sáng tỏ tất
cả những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vụ án.
Chứng minh là hoạt động chủ yếu của TTHS. Nếu xét theo toàn bộ độ dài của
tiến trình tố tụng thì hoạt động chứng minh diễn ra liên tục, xuyên suốt từ giai đoạn
khởi tố, điều tra, truy tố cho đến khi xét xử. Nhưng trong đó hoạt động chứng minh
được thể hiện tập trung chủ yếu trong giai đoạn điều tra và xét xử VAHS. Trong hai
giai đoạn này, hoạt động chứng minh của chủ thể có nghĩa vụ chứng minh và chủ thể
31
có quyền chứng minh được thể hiện một cách cụ thể, rõ đậm nhất.
Trong tố tụng hình sự các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, người bào
chữa không trực tiếp chứng kiến đối tượng chứng minh, không nhìn thấy tội phạm
xảy ra, họ không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án nhưng có quyền, nghĩa vụ
chứng minh những tình tiết liên quan đến vụ án. Vì vậy, để tạo dựng lại những sự
kiện, tình tiết đã xảy ra một cách khách quan, toàn diện, các chủ thể chứng minh phải
tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá các thông tin, tài liệu liên quan
để xác định sự thật của vụ án.
Hoạt động chứng minh là quá trình đi tìm chân lý khách quan trên cơ sở phương
pháp luận về nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nhằm dựng lại bức tranh toàn
cảnh vụ án đã xảy ra trong quá khứ thông qua các chứng cứ. Hoạt động chứng minh
chính là hoạt động nhận thức về chân lý khách quan của vụ án nên nó chẳng những
phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục pháp lý chặt chẽ mà phải phù hợp với quy
luật chung của quá trình nhận thức, theo logic: “Từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn. Đó là con đường biện chứng của
nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” [54, tr.179].
Thực chất của hoạt động chứng minh là quá trình tìm kiếm chứng cứ để giải
quyết đúng đắn vụ án hình sự. Vì vậy, trong quá trình hoạt động chứng minh “Để giải
quyết đúng đắn vụ án, cần phải xác định, tìm kiếm chân lý khách quan, chân lý vật
chất về vụ án, tức là xác định sự phù hợp đầy đủ và chính xác của chính sự kiện phạm
tội, tính có lỗi của người cụ thể trong việc thực hiện tội phạm và tất cả các tình tiết
xác định mức độ trách nhiệm của người đó đối với hành vi đã thực hiện, hoặc khẳng
định ngược lại, tức là tội phạm không được thực hiện trong thực tế, người bị truy cứu
không có lỗi ” [130, tr.195-196].
Trong hoạt động chứng minh, các sự kiện, tình tiết của vụ án phải được xác
định trên cơ sở chứng cứ và phải dựa vào chứng cứ mới làm sáng tỏ được tội phạm
và người phạm tội. Khi chứng cứ đã được kiểm tra và đánh giá thì người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng mới có căn cứ chứng minh tội phạm. Đối với người bào chữa
cũng dựa vào chứng cứ để chứng minh bác bỏ sự buộc tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS
cho thân chủ của mình. Như vậy, chứng cứ là cơ sở duy nhất và bắt buộc để các chủ
thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng sử dụng làm phương tiện
32
chứng minh xác định sự thật khách quan của vụ án.
Hoạt động chứng minh trong TTHS là tổng hợp hành vi của các chủ thể tố tụng
thông qua hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng. Các hình thức, phương pháp
hoạt động có thể khác nhau tùy theo địa vị tố tụng của các chủ thể, nhưng chúng có
mối liên hệ với nhau để bảo đảm cho các hoạt động chứng minh cùng hướng đến mục
đích tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Như vậy, hoạt động chứng minh trong tố
tụng hình sự là tổng hợp hành vi của chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo trình tự,
thủ tục do pháp luật quy định nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.
Hoạt động chứng minh của luật sư là một bộ phận cấu thành của hoạt động
chứng minh trong TTHS, đây là hoạt động chứng minh của chủ thể thực hiện chức
năng bào chữa do luật sư thực hiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị
buộc tội. Luật sư là một chức danh độc lập trong hệ thống các chức danh tư pháp, có đủ
tiêu chuẩn và điều kiện hành nghề luật chuyên nghiệp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho cá nhân, cơ quan, tổ chức. Hoạt động chứng minh của luật sư không chỉ để
bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội mà còn góp phần giúp cơ quan tiến hành tố tụng
làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Sự tham gia tích cực của luật sư vào quá trình chứng
minh là sự phản biện cần thiết đối với cơ quan tiến hành tố tụng để hạn chế những sai
lầm trong quá trình giải quyết vụ án. Hoạt động chứng minh của luật sư không những
để bảo bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội mà còn“góp phần bảo vệ công
lý, các quyền tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ
quan, tổ chức, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã
hội chủ nghĩa, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” [81, tr.132].
Hoạt động chứng minh của luật sư có mối quan hệ gắn bó mật thiết với chức
năng bào chữa và quyền bào chữa của người bị buộc tội. Bào chữa là một quyền, quyền
được bào chữa, không thể tồn tại chức năng bào chữa nào mà không hàm chứa nội
dung hoạt động chứng minh của người bào chữa. Quyền bào chữa được thực hiện
thông qua hoạt động bào chữa, nhưng hoạt động bào chữa thực chất là hoạt động chứng
minh và luật sư là chủ thể quan trọng, chủ thể đóng vai trò chủ lực trong hoạt động
chứng minh thực hiện chức năng bào chữa. Hoạt động chứng minh của luật sư chính là
nhằm để cụ thể hóa chức năng bào chữa, là biểu hiện rõ nét nhất về bảo đảm quyền bào
33
chữa của người bị buộc tội trong quá trình chứng minh xác định sự thật vụ án.
Hoạt động chứng minh của luật sư có mối quan hệ với hoạt động chứng minh
của các chủ thể thực hiện các chức năng của TTHS, nhưng không đồng nhất. Nếu như
hoạt động chứng minh của Kiểm sát viên là để chứng minh buộc tội thì HĐCMLS
hướng đến việc gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, còn hoạt động
chứng minh của Tòa án nhằm chứng minh tính có căn cứ và hợp pháp cho phán quyết
của mình. Hoạt động chứng minh của luật sư trước hết là để làm sáng tỏ sự thật khách
quan, giúp cho Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án. Song song với nhiệm vụ đó thì hoạt
động chứng minh của luật sư còn nhằm thực hiện chức năng bào chữa, chứng minh về
sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho người bị
buộc tội trong quá trình giải quyết vụ án.
Hoạt động chứng minh của các chủ thể buộc tội, bào chữa, xét xử có vị trí độc
lập nhưng chúng có mối quan hệ với nhau hợp thành một thể thống nhất được quyết
định bởi mục đích chung của TTHS là nhằm xác định sự thật của vụ án. Hoạt động
chứng minh của chủ thể thực hiện các chức năng đều hướng đến bảo vệ lợi ích công
cộng, trật tự xã hội, bảo vệ quyền con người, trong quá trình đó luật sư bào chữa được
coi như là người đã cùng cơ quan tiến hành tố tụng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ công
lý. Để bảo vệ cho người bị buộc tội thì luật sư phải tuân thủ pháp luật và tôn trọng sự
thật khách quan và ngược lại, để bảo vệ công lý thì luật sư phải thực hiện tốt nhiệm vụ
bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội. Có thể nói, vai trò của luật sư trong tố tụng
hình sự là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa việc bảo vệ quyền lợi người bị buộc tội với
việc bảo vệ công lý, lợi ích công cộng và trật tự pháp luật. Như vậy có thể hiểu, hoạt
động chứng minh của luật sư là tổng hợp hành vi tố tụng của luật sư trong hoạt động
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để
làm sáng tỏ sự thật của vụ án, chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người bị buộc tội.
2.1.1.2. Đặc điểm của xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Hoạt động xét xử là khâu trung tâm, quan trọng nhất của TTHS, “Hoạt động xét
xử là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước nhằm xem xét, đánh giá và ra phán
quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi pháp luật hay quyết định pháp
luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có lợi ích khác nhau”
34
[118, tr. 57]. Trong toàn bộ quá trình tố tụng, xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm,
quan trọng, tập trung chất lượng, uy tín của cơ quan tư pháp, Tòa án nhân danh Nhà
nước đưa ra phán quyết. Bản án chính xác, khách quan của Tòa án sẽ bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ công lý và duy trì trật tự xã hội: “Tòa án phải
là nơi thể hiện đầy đủ nền công lý, thể hiện chất lượng và uy tín của toàn bộ hệ thống
tư pháp nước ta” [121, tr.11].
Tính chất của xét xử sơ thẩm là để giải quyết toàn bộ nội dung, bản chất của
vụ án được thể hiện bằng bản án, quyết định của Tòa án, chỉ có Tòa án mới có thẩm
quyền phán quyết một người có tội hay vô tội và phải chịu hình phạt, điều này không
thể được xác định dưới các hình thức văn bản nào khác mà phải là bản án, quyết định
của Tòa án và khi bản án có hiệu lực pháp luật sẽ được đưa ra thi hành bởi quyền lực
Nhà nước. Xét xử sơ thẩm nhằm thực hiện chức năng xét xử và được thể hiện dưới
hình thức là một phiên tòa để giải quyết nội dung, bản chất của vụ án. Về bản chất
phiên tòa hình sự chỉ phát sinh trên cơ sở yêu cầu của các bên và được tiến hành khi
có quyết định truy tố của Viện kiểm sát và đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử. Để kết
luận chính thức một người có tội hay không thì đòi hỏi phải đưa họ ra xét xử mà
trước hết là xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, ở đó Tòa án sẽ nhân danh Nhà nước đưa ra
kết luận, quyết định bị cáo có tội hay vô tội. Điều này cho thấy vai trò trung tâm của
Tòa án trong hệ thống tư pháp. Tính hệ thống và tính chỉnh thể của hoạt động tư pháp
đã quy định nên diện mạo và vai trò trung tâm của Tòa án.
Trong tiến trình tố tụng, XXST đóng vai trò trung tâm, thể hiện đầy đủ bản chất
hệ thống tư pháp của mỗi quốc gia nhằm thực hiện mục đích của TTHS, bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân. “Phiên tòa là giai đoạn
trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói
riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của các cơ quan tiến hành tố tụng, những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định.
Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến và đề xuất của
các bên tham gia tố tụng, tòa án (với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng quan trọng
nhất) tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết giải quyết
vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật [23, tr.1].
Nhiệm vụ cơ bản nhất của TTHS là xác định sự thật của vụ án và nhiệm vụ
35
giải quyết nội dung, bản chất của VAHS đã xác định XXST là giai đoạn trung tâm,
quyết định, các giai đoạn trước đó chỉ là quá trình chuẩn bị cho XXST và các giai
đoạn sau là sự kiểm tra tính hợp pháp của giai đoạn XXST. Nguyên tắc hai cấp xét xử
được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới và ở nước ta cũng theo xu hướng này.
Theo nguyên tắc này, nếu bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, hoặc kháng nghị
thì phải được xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm. Ngoài ra, còn có thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm, nhưng đây là những thủ tục đặc biệt, không thể hiện đầy đủ các
yếu tố đặc trưng của một phiên tòa như xét xử sơ thẩm, là phiên tòa lần đầu xem xét
và quyết định về toàn bộ vụ án, phiên tòa sơ thẩm thể hiện đầy đủ nhất các yếu tố đặc
trưng của phiên tòa. Vì vậy, trong tố tụng nói đến phiên tòa, tức là nói đến phiên tòa
sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm [23, tr.1-2]. Đối tượng xem xét của xét xử sơ thẩm là
cáo trạng của Viện kiểm sát, còn đối tượng xem xét của xét xử phúc thẩm là bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị. Xét xử
sơ thẩm là một cấp xét xử, còn thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm có
được tiếp tục thực hiện hay không là tùy theo từng vụ án cụ thể. Xét xử sơ thẩm
VAHS là xét xử ở cấp thứ nhất, là cấp xét xử bắt buộc đối với bất kỳ vụ án nào.
Chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh trong XXST gồm những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng. Cho dù dưới mô hình TTHS nào thì
hoạt động chứng minh của ba chủ thể buộc tội, bào chữa, xét xử cũng luôn tồn tại,
không tách rời trong mối quan hệ ràng buộc, gắn bó với nhau. Sự tồn tại hoạt động
chứng minh của chủ thể này là tất yếu cho sự tồn tại hoạt động chứng minh của các
chủ thể còn lại, mỗi hoạt động chứng minh của chủ thể tồn tại, phát triển khi và chỉ
khi hoạt động chứng minh của hai chủ thể kia tồn tại, phát triển. Nếu chỉ có hoạt động
chứng minh của chủ thể buộc tội mà không có hoạt động chứng minh của chủ thể gỡ
tội làm đối trọng thì đây chỉ là hoạt động chứng minh buộc tội một chiều, không có
tính tranh tụng. Chân lý sẽ khó tìm thấy nếu chỉ có đơn phương hoạt động chứng minh
của buộc tội hoặc bào chữa, sự thống nhất và đấu tranh giữa hai chủ thể buộc tội và
bào chữa chính là nơi hội tụ chân lý, sự thật khách quan của vụ án sẽ được làm sáng
tỏ. Tại phiên tòa sơ thẩm, các bên có quyền đưa ra chứng cứ, lập luận để đấu tranh
nhằm phủ định lẫn nhau cho đến khi sự đối trọng giữa các bên đạt đến đỉnh điểm tại
phiên tòa dưới sự điều khiển của Tòa án sẽ đưa ra phán quyết về vụ án.
36
Nội dung của XXST là xem xét, đánh giá toàn bộ tình tiết, chứng cứ trong hồ
sơ vụ án cũng như chứng cứ của các bên đưa ra tại phiên tòa để làm sáng tỏ những
vấn đề phải chứng minh trong vụ án. Xét xử sơ thẩm là cấp xét xử thứ nhất, HĐXX sẽ
tiến hành kiểm tra, đánh giá công khai khách quan, toàn diện, đầy đủ chứng cứ xác
định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo
trong vụ án; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường
thiệt hại, xử lý vật chứng và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. “Xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự là giai đoạn tiếp theo của quá trình tố tụng hình sự, trong đó tòa
án có thẩm quyền, sau khi nghiên cứu toàn diện khách quan và đầy đủ hồ sơ vụ án,
lần đầu tiên đưa vụ án hình sự ra xét xử công khai trước phiên tòa hình sự nhằm xác
định có hay không có tội phạm xảy ra, một người có phải là người phạm tội hay
không để từ đó đưa ra bản án, quyết định phù hợp với tính chất của vụ án mà Viện
Kiểm sát đã truy tố” [130, tr. 348-349].
Thủ tục xét xử tại phiên tòa sơ thẩm được tiến hành thông qua các bước: thủ
tục bắt đầu phiên tòa; xét hỏi tại phiên tòa; tranh luận tại phiên tòa; nghị án và tuyên
án. Những quy định chung về thủ tục xét xử là những bảo đảm quan trọng cho cả quá
trình xét xử, trong đó xét xử sơ thẩm là một giai đoạn của quá trình tố tụng nên khi xét
xử, Tòa án không chỉ tuân theo các nguyên tắc cơ bản của TTHS, như: nguyên tắc khi
xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nguyên tắc xét xử
công khai; xét xử tập thể và quyết định theo đa số…mà còn phải tuân theo các quy
định chung về thủ tục xét xử tại phiên tòa như nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói
và liên tục; thành phần của hội đồng xét xử sơ thẩm.v.v…
Xuất phát từ vai trò, vị trí của mình, XXST có tầm quan trọng bậc nhất, phiên
tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là giai đoạn trung tâm, quan trọng nhất của hoạt
động xét xử nói riêng và cả quá trình tố tụng nói chung. Tố tụng nước ta được thực
hiện theo hệ thống pha trộn thiên về xét hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng nước ta
rõ nét hơn. Việc nghiên cứu bản chất của tranh tụng tại phiên tòa ở nước ta phải được
xem xét từ góc độ tranh tụng trong tố tụng xét hỏi [23, tr.3].
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn tố tụng phức tạp, không chỉ là tính phức tạp của
quá trình chứng minh trong vụ án hình sự mà nó còn phản ánh nhiệm vụ quan trọng
37
của xét xử là xác định sự thật của vụ án. Để thực hiện được các nhiệm vụ của tố tụng
hình sự đặt ra, việc xét xử vụ án phải tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc của tố tụng
hình sự và thủ tục của phiên tòa sơ thẩm. Xét xử không chỉ đơn thuần là kiểm tra các
tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ rồi tuyên án mà nó phải là quá trình kiểm tra, đánh giá
khách quan toàn diện, đầy đủ tất cả các chứng cứ trong hồ sơ vụ án và chứng cứ do
các bên thu thập, xuất trình tại phiên tòa với một thủ tục tranh tụng công khai, dân
chủ, bình đẳng giữa các bên để làm sáng tỏ sự thật vụ án.
Phiên toà sơ thẩm về thực chất là nơi điều tra trực tiếp, công khai phơi bày
chứng cứ của vụ án. Bởi vì, hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra lập trước khi xét xử chỉ là
sơ bộ, quyết định truy tố của Viện kiểm sát chỉ là giả định, đây là sự buộc tội chưa đầy
đủ. Tòa án không thể thỏa mãn với những lời khai của bị cáo, của người làm chứng,
các kết luận giám định, định giá tài sản…có trong hồ sơ vụ án, các chứng cứ đó cần
phải được đưa ra xem xét công khai tại phiên tòa thì chúng mới có thể trở thành chứng
cứ có giá trị chứng minh các tình tiết của vụ án. Phiên tòa xét xử sơ thẩm là địa hạt tốt
nhất để luật sư tiến hành các hoạt động chứng minh của mình một cách công khai,
bình đẳng trước Tòa án. Như vậy, XXST là giai đoạn trung tâm, nơi hội tụ của các
chủ thể thực hiện các chức năng, trong đó Toà án là cơ quan có thẩm quyền xét xử ở
cấp thứ nhất tiến hành xem xét, đánh giá khách quan, toàn diện các tình tiết của vụ án
để ra quyết định bị cáo có tội hay không có tội, hình phạt áp dụng đối với người phạm
tội và giải quyết các vấn đề khác có liên quan trong vụ án.
Từ sự phân tích các khái niệm liên quan về chứng minh, hoạt động chứng minh
của luật sư, xét xử sơ thẩm VAHS có thể đưa ra khái niệm: Hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là tổng hợp các hành vi tố tụng của luật sư
trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định để làm sáng tỏ sự thật của vụ án, chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
2.1.1.3. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm sở hữu
Các tội xâm phạm sở hữu là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có
năng lực TNHS và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm đến các quan hệ sở hữu thông qua hành vi chiếm đoạt, hủy hoại, chiếm giữ, sử
dụng trái phép tài sản, gây thiệt hại hoặc đe đọa gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu đã
38
được BLHS quy định và bảo vệ. Các tội xâm phạm sở hữu là nhóm tội phạm phổ biến
trong các VAHS. Các tội phạm xâm phạm sở hữu có các đặc điểm sau đây:
a) Khách thể của các tội phạm xâm phạm sở hữu.
Tội phạm là hành vi do con người thực hiện thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội
phạm, như: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm. Khách
thể của các tội xâm phạm sở hữu là những quan hệ sở hữu giữa người với người đối
với tài sản. Nhóm các tội xâm phạm sở hữu được quy định tại chương XVI của BLHS
năm 2015, điều này nói lên vị trí quan trọng của quan hệ sở hữu trong hệ thống các
quan hệ xã hội được BLHS bảo vệ.
Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu là tài sản, bao gồm: vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Tài sản này phải là thước đo giá trị lao động của
con người được kết tinh, đồng thời phải thỏa mãn được các nhu cầu về vật chất hoặc
tinh thần của con người [15, tr.116]. Đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu
là những tài sản tồn tại dưới dạng vật chất có giá trị, giá trị sử dụng hoặc trị giá bằng
tiền. Tuy nhiên, cũng có những loại tài sản khác không thuộc đối tượng điều chỉnh của
nhóm các tội xâm phạm sở hữu mà là đối tượng của các tội phạm khác. Chẳng hạn
như: công trình quan trọng về an ninh quốc gia, vật liệu nổ, vũ khí quân dụng, ma túy,
tàu bay.v.v…Nhìn chung, đối tượng tác động của các tội xâm phạm sở hữu phải là tài
sản có chủ sở hữu, tài sản còn nằm trong sự chiếm hữu, sự quản lý của chủ tài sản.
b) Mặt khách quan của các tội phạm xâm phạm sở hữu
Hành vi khách quan của các tội xâm phạm sở hữu tác động vào bộ phận của
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ là đối tượng tác động của các tội xâm phạm
sở hữu. Mặt khách quan của các tội xâm phạm sở hữu là những biểu hiện ra bên ngoài
thế giới khách quan tác động và gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ sở hữu như, các
hành vi chiếm đoạt; hủy hoại, làm hư hỏng, làm mất mát, lãng phí tài sản. Có thể chia
các tội xâm phạm sở hữu thành hai nhóm chính: các tội xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt. Các tội xâm phạm
sở hữu có tính chiếm đoạt gồm 8 tội: Cướp tài sản; Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản;
Cưỡng đoạt tài sản; Cướp giật tài sản; Công nhiên chiếm đoạt tài sản; Trộm cắp tài
sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Đa số các tội
xâm phạm sở hữu là có tính chiếm đoạt và được xếp đầu tiên trong chương các tội
39
xâm phạm sở hữu theo thứ tự giảm dần về tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Chiếm đoạt là hành vi của người phạm tội làm cho chủ sở hữu mất khả năng
thực hiện các quyền chiếm giữ, sử dụng, định đoạt đối với tài sản, đồng thời tạo ra cho
người phạm tội khả năng chiếm hữu trái phép đối với tài sản của người khác. Các tội
xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt gồm 5 tội: Chiếm giữ trái phép tài sản; Sử
dụng trái phép tài sản; Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Thiếu trách nhiệm gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; Vô ý gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu có cấu thành tội phạm hình thức, dấu hiệu về
mặt khách quan chỉ bao gồm yếu tố hành vi phạm tội mà không bắt buộc yếu tố hậu
quả, còn các tội xâm phạm sở hữu có cấu thành vật chất thì dấu hiệu về mặt khách
quan phải gồm hành vi, hậu quả và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả.
Hành vi khách quan tuy khác nhau ở các hình thức thể hiện, nhưng có cùng tính chất là
đều gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ sở hữu, xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Như vậy, hành vi là dấu hiệu bắt buộc trong
mọi cấu thành tội phạm, còn hậu quả chỉ là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành một số
tội có cấu thành vật chất. Về thời điểm hoàn thành của tội phạm, trong cấu thành hình
thức chỉ cần thực hiện hành vi thì tội phạm đã hoàn thành, còn đối với cấu thành vật
chất, thì hành vi phải có hậu quả xảy ra thì tội phạm mới được coi là hoàn thành. Ngoài
ra, trong quá trình thực hiện người phạm tội có thể thay đổi phương thức, thủ đoạn và
sự thay đổi ấy có thể dẫn đến việc chuyển hóa tội phạm. Căn cứ vào hành vi chiếm
đoạt đã hoàn thành hay chưa và cách thức sử dụng vũ lực như thế nào để chiếm đoạt tài
sản có thể xác định trường hợp nào được coi là có chuyển hóa từ các hình thức chiếm
đoạt thành tội cướp tài sản hoặc trường hợp không có sự chuyển hóa tội phạm mà chỉ là
hành hung để tẩu thoát.
c) Chủ thể của các tội phạm xâm phạm sở hữu
Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu là người thực hiện tội phạm, đạt độ tuổi
nhất định, có năng lực TNHS, đa số là những chủ thể thường, đáp ứng điều kiện
chung về chủ thể của tội phạm (có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định). Trong
nhóm tội này chỉ có một tội phạm có chủ thể đặc biệt, đó là tội thiếu trách nhiệm gây
40
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
Những người từ đủ 16 tuổi trở lên là chủ thể tội phạm của các tội xâm phạm sở
hữu. Tuy nhiên, người từ đủ 14 tuổi trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ là chủ thể của
các tội cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc về tội rất nghiêm trọng và
đặc biệt nghiêm trọng đối với các tội cưỡng đoạt tài sản; tội cướp giật tài sản; tội trộm
cắp tài sản và tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản. Nếu ngoài dấu hiệu về độ
tuổi và năng lực TNHS ra mà có dấu hiệu đặc biệt là những “Người có nhiệm vụ trực
tiếp trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” thì
đây là chủ thể của tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản. Đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản và tội sử dụng trái phép tài
sản, thì dấu hiệu chủ thể đặc biệt “người có chức vụ quyền hạn” được phản ánh trong
cấu thành tăng nặng. Trong trường hợp chuẩn bị phạm tội thì người phạm tội chỉ phải
chịu TNHS đối với tội cướp tài sản và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
d) Mặt chủ quan của các tội phạm xâm phạm sở hữu
Mặt chủ quan của các tội xâm phạm sở hữu là những diễn biến bên trong phản
ánh trạng thái tâm lý của chủ thể đối với hành vi phạm tội và hậu quả của hành vi đó
gây ra, bao gồm các dấu hiệu như lỗi, mục đích, động cơ phạm tội. Bất cứ tội phạm nào
cũng đều thực hiện do hành vi có lỗi. Ngoài ra, động cơ và mục đích phạm tội còn là
biểu hiện về mặt chủ quan của một số tội xâm phạm sở hữu. Về lỗi, thì đa số các tội
xâm phạm sở hữu thực hiện do lỗi cố ý. Trong nhóm tội này có 11 tội được thực hiện
với lỗi cố ý và 02 tội thực hiện với lỗi vô ý.
Động cơ, mục đích phạm tội có thể là tư lợi hoặc không tư lợi nhưng không phải
là dấu hiệu bắt buộc khi định tội danh về các tội xâm phạm sở hữu. Chẳng hạn, như tội
sử dụng trái phép tài sản thì động cơ vụ lợi là dấu hiệu bắt buộc, còn đối với tội hủy
hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản thì dấu hiệu động cơ “vì lý do công vụ của người bị
hại” chỉ được phản ánh trong cấu thành tăng nặng. Về mục đích phạm tội thì chỉ có các
tội được quy định từ Điều 168 đến Điều 170 BLHS năm 2015 đòi hỏi mục đích “chiếm
đoạt tài sản” là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm. Như vậy, đặc điểm nổi bật
của các tội xâm phạm sở hữu là tính chiếm đoạt (8/13 tội) nên việc đánh giá ý thức
chiếm đoạt có tính bắt buộc đối với các tội có tính chất chiếm đoạt. Hậu quả do các tội
xâm phạm sở hữu gây ra chủ yếu là thiệt hại về tài sản, đa số các tội xâm phạm sở hữu
41
có cấu thành vật chất. Ngoài ra, tính chất và mức độ thiệt hại tuy không phải là dấu
hiệu định tội trong mọi cấu thành tội phạm, nhưng nó là căn cứ để đánh giá tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, việc xác định thiệt hại về tài sản mang tính
bắt buộc để định tội danh, khung hình phạt và giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS về
các tội xâm phạm sở hữu: “Mức độ nghiêm trọng của hậu quả do hành vi phạm tội gây
ra có thể có ý nghĩa đối với việc định tội danh - khi đó hậu quả của tội phạm thuộc sự
kiện chính. Nhưng chúng có thể có ý nghĩa độc lập, khi việc xác định chúng là cơ sở
của việc bồi thường thiệt hại cho người bị hại” [49, tr.173,174].
Hoạt động chứng minh của luật sư được thực hiện xuyên suốt quá trình tố tụng.
Trong đó, xét xử là giai đoạn trung tâm và phiên tòa sơ thẩm chính là nơi hội tụ của
các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử. Đây là giai đoạn quan
trọng nhất để các chủ thể thực hiện các hoạt động chứng minh bảo vệ quyền lợi của
mình. Phiên tòa sơ thẩm được coi là địa hạt tốt nhất cho HĐCMLS bào chữa, trong giai
đoạn này luật sư sẽ nỗ lực hết mình đưa ra chứng cứ chứng minh bị cáo không phạm
tội hoặc giảm nhẹ TNHS, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội về
các tội xâm phạm sở hữu.
Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm chịu ảnh hưởng, chi
phối bởi các đặc điểm của từng vụ án và của từng nhóm tội khác nhau. Căn cứ vào
khách thể loại BLHS phân chia thành nhiều nhóm tội phạm khác nhau. Chẳng hạn,
nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các
tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; các tội xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế.v.v…Trong đó, các tội xâm phạm sở hữu là nhóm tội
phạm phổ biến, phức tạp thường chiếm tỷ lệ cao trong các vụ án được đưa ra xét xử.
Hoạt động chứng minh của luật sư chịu sự ảnh hưởng, chi phối bởi nội dung, tính
chất của xét xử sơ thẩm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu, chúng có mối
quan hệ, tác động cộng hưởng qua lại lẫn nhau tạo cho hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu một nét riêng so với HĐCMLS
đối với các nhóm tội phạm khác được quy định trong Bộ luật hình sự.
Như vậy, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu chẳng những chịu sự chi phối bởi tính chất, thủ tục của phiên tòa sơ
thẩm mà còn chịu sự chi phối về đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu, những yếu
42
tố này đã tác động, chi phối đến hoạt động chứng minh của luật sư tạo thành nét riêng
biệt mang tính đặc thù cho HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Từ những phân tích về hoạt động chứng minh của luật sư, về vai trò, tính chất của xét
xử sơ thẩm, đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu có thể đưa ra khái niệm: Hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu là tổng
hợp các hành vi tố tụng của luật sư trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án, chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội
về các tội xâm phạm sở hữu trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
2.1.2. Đặc điểm hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu
Hoạt động chứng minh của luật sư là một trong những bộ phận hợp thành của
quá trình chứng minh trong TTHS. Hoạt động này có mối quan hệ với tính chất của
XXST và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu tạo nên nét riêng về HĐCMLS trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, với những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, chứng minh về sự vô tội hoặc
giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội.
Chứng minh là hoạt động chủ đạo của TTHS, hoạt động này được thực hiện
xuyên suốt từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xé xử, trong đó XXST là giai đoạn rất quan
trọng để các chủ thể thực hiện các hoạt động chứng minh cho Tòa án xem xét, đưa ra
phán quyết bị cáo có tội hay vô tội. Hoạt động chứng minh của luật sư trong các giai
đoạn điều tra, truy tố chỉ là sự chuẩn bị cho HĐCMLS tại phiên tòa. Có thể nói, XXST
được coi là cơ hội tốt nhất cho HĐCMLS. Trong giai đoạn này, luật sư sẽ chủ động
đưa ra chứng cứ, lập luận thuyết phục HĐXX bác bỏ chứng cứ buộc tội, chấp nhận
quan điểm bào chữa của luật sư. Hoạt động chứng minh của luật sư luôn tồn tại đồng
thời với hoạt động chứng minh của chủ thể buộc tội như một nhu cầu khách quan xuất
phát từ mục đích chung là tìm ra sự thật của vụ án. Tuy nhiên, với vai trò, vị trí tố tụng
của mình thì ngoài việc góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án thì HĐCMLS trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu còn nhằm mục đích quan trọng là bảo vệ cho bị
43
cáo không bị kết tội oan sai trong quá trình giải quyết vụ án.
Thứ hai, tùy theo các nhóm tội khác nhau mà đối tượng chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu cũng khác nhau.
Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu chính là nhằm xác định những sự kiện, tình tiết để đạt được sự khẳng định đối
tượng chứng minh là đúng, là xác thực. Các tội xâm phạm sở hữu là nhóm tội độc lập,
chúng có những đặc điểm riêng biệt, không giống với các nhóm tội khác, do đó
HĐCMLS đối với nhóm tội này cũng có sự khác biệt so các nhóm tội phạm khác được
quy định trong BLHS. Đặc biệt, trong đó việc định giá tài sản và các thủ đoạn thực
hiện tội phạm là những vấn đề rất quan trọng cần phải làm sáng tỏ để truy cứu TNHS
và giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Việc xác định thủ đoạn phạm tội còn nhằm
phân biệt các tội có ranh giới gần giống nhau trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu,
đây là đối tượng cần phải chứng minh trong vụ án về các tội xâm phạm sở hữu. Các
đặc điểm này tạo nên sự khác biệt về HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu
so với HĐCMLS đối với các nhóm tội khác được quy định trong Bộ luật hình sự.
Thứ ba, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu có mối quan hệ gắn bó mật thiết với chức năng bào chữa.
Chức năng bào chữa là chức năng đặc định, vốn có của TTHS, không có chức
năng bào chữa nào mà không chứa đựng nội dung HĐCMLS và cũng không tồn tại
HĐCMLS nếu chúng không được thể hiện dưới hình thức thực hiện chức năng bào
chữa. Quyền bào chữa được thực hiện thông qua hoạt động bào chữa, nhưng hoạt động
bào chữa thực chất là hoạt động chứng minh và luật sư là chủ thể đóng vai trò chủ lực,
quan trọng nhất để thực hiện chức năng bào chữa. Hoạt động chứng minh của luật sư
trong XXST các tội xâm phạm sở hữu nhằm bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội đạt hiệu quả cao nhất. Nếu HĐCMLS được thực hiện tốt thì quyền bào chữa
của người bị buộc tội được bảo đảm, chức năng bào chữa được thực thi. Hoạt động
chứng minh của luật sư nhằm cụ thể hóa chức năng bào chữa, phản ánh rõ nét nhất về
bảo đảm quyền bào chữa, thông qua HĐCMLS để bảo vệ quyền lợi cho những người bị
buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh, người bị buộc
tội được giải phóng nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội. Nếu người bị buộc tội không
44
chứng minh được sự vô tội, thì không được coi đây là căn cứ để kết tội. Luật sư bào
chữa là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội nên khi họ không
có nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội thì đương nhiên luật sư cũng không có nghĩa vụ
này. Luật sư phải có trách nhiệm chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS, đây là
nghĩa vụ của luật sư đối với thân chủ của mình, chứ nó không phải là nghĩa vụ chứng
minh theo nghĩa của TTHS. Chứng minh vô tội là sự biểu hiện của quyền, chứ không
phải là đòi hỏi về nghĩa vụ đối với bên bị buộc tội. Chứng minh tội phạm là trách
nhiệm của bên buộc tội - nghĩa vụ tố tụng, chứng minh về sự vô tội là quyền của bên
bào chữa - quyền tố tụng. Có thể nói, từ xưa cho đến nay và mãi sau này, trong TTHS
chứng minh luôn là quyền của bên bị buộc tội chứ không phải là nghĩa vụ của họ.
Thứ tư, hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở
hữu là sự phản biện đối với cơ quan buộc tội để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo
Mục đích hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm là làm sáng tỏ
sự thật vụ án để bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho người bị buộc tội. Hoạt động chứng minh
của luật sư có mối quan hệ với hoạt động chứng minh của các chủ thể tiến hành tố
tụng, nhưng không đồng nhất. Nếu như hoạt động chứng minh của Viện kiểm sát là để
buộc tội thì HĐCMLS là nhằm hướng đến việc gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo,
còn hoạt động chứng minh của Tòa án là để chứng minh tính có căn cứ và hợp pháp
cho phán quyết của mình. Hoạt động chứng minh của luật sư trước hết là để làm sáng
tỏ sự thật vụ án, song song với nhiệm vụ đó, HĐCMLS còn bảo đảm quyền bào chữa
của người bị buộc tội. Hơn nữa, HĐCMLS còn là một sự đối trọng, phản biện cần thiết
đối với bên buộc tội, giúp cơ quan này hạn chế sai lầm có thể làm oan sai. Hoạt động
chứng minh của chủ thể buộc tội, bào chữa, xét xử là độc lập, nhưng chúng có mối
quan hệ với nhau hợp thành một thể thống nhất được quyết định bởi mục đích chung
của TTHS. Trong tiến trình tố tụng, luật sư bào chữa được coi như là người đã cùng cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tham gia vào sự nghiệp bảo vệ công lý. Vì vậy,
việc luật sư bào chữa minh oan cho người vô tội cũng quan trọng và có ý nghĩa xã hội
như việc xử lý nghiêm minh người phạm tội. Có thể nói, hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu không chỉ bảo vệ quyền lợi cho
người bị buộc tội mà còn góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, hoạt động chứng
minh của luật sư chính là sự kết hợp hòa hòa giữa việc bảo vệ quyền lợi của người bị
45
buộc tội với việc bảo vệ công lý, lợi ích công cộng và trật tự pháp luật.
Thứ năm, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu có mối quan hệ với phạm vi buộc tội của cơ quan truy tố.
Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu nhằm làm sáng tỏ đối tượng chứng minh. Hoạt động chứng minh của luật sư gắn
liền với hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong mối quan hệ tác động
qua lại, thống với nhau theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định để bảo đảm giá trị
chứng minh của các chứng cứ, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chứng minh của luật
sư bảo vệ cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu. Chứng minh chính là
quá trình đi tìm chân lý khách quan của vụ án thông qua chứng cứ. Luật sư sử dụng
chứng cứ để chứng minh không có sự kiện phạm tội, hành vi của bị cáo không đủ cấu
thành một trong các tội xâm phạm sở hữu. Có thể nói, hoạt động chứng minh của luật
sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu về thực chất và suy cho cùng là quá
trình xem xét, sử dụng chứng cứ, mọi hoạt động chứng minh của luật sư đều bắt đầu
từ chứng cứ và kết thúc từ chứng cứ. Chức năng bào chữa nói chung và hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng xuất
phát từ sự buộc tội và chịu sự tác động, chi phối bởi nội dung buộc tội, gắn liền với
nội dung buộc tội, “buộc tội đến đâu, bào chữa đến đó”. Tuy nhiên, hoạt động chứng
minh của luật sư có thể vượt ra ngoài phạm vi buộc tội với mục đích làm giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội.
Thứ sáu, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu mang tính phản biện và thuyết phục.
Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu mang tính phản biện và thuyết phục, đây là nét đặc thù của nghề luật sư. Tính
phản biện của luật sư được thể hiện rõ nhất trong giai đoạn xét xử mà điển hình là tại
phiên tòa sơ thẩm, tại đây luật sư đưa ra chứng cứ, lập luận để phản biện với Kiểm sát
viên, luật sư sẽ dùng lý lẽ sắc bén, đưa ra chứng cứ có giá trị chứng minh mạnh mẽ và
căn cứ pháp luật vững chắc để đấu tranh bác bỏ chứng cứ buộc tội. Sự tham gia tích
cực của luật sư là sự đối trọng, phản biện cần thiết đối với cơ quan tiến hành tố tụng,
giúp cơ quan này cẩn trọng hơn để hạn chế những sai lầm trong quá trình chứng
minh. Tính thuyết phục về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
46
các tội xâm phạm sở hữu được thể hiện ở sự tập trung, nỗ lực hết mình tích cực đưa
ra chứng cứ, lập luận phản bác chứng cứ buộc tội, chứng minh quan điểm bào chữa là
có căn cứ để thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của luật sư bào chữa,
không chấp nhận chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp cho người bị buộc tội về một trong các tội xâm phạm sở hữu trong xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự.
Thứ bảy, hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở
hữu có mối quan hệ với nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội.
Hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu có
mối quan hệ gắn bó, mật thiết với nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội.
Đây là hai nguyên tắc quan trọng, mang tính đột phá trong hoạt động TTHS. Nguyên
tắc suy đoán vô tội là nền tảng, là biểu hiện cô đọng nhất về quyền bào chữa và hoạt
động chứng minh của luật sư. Nguyên tắc suy đoán vô tội đem đến sự cân bằng cho
hoạt động chứng minh của luật sư vốn bị động và yếu hơn so với bộ máy của các cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Theo nguyên tắc suy đoán vô tội thì cho đến khi
người bị buộc tội được đưa ra xét xử sơ thẩm cũng chưa khẳng định chắc chắn rằng, họ
có tội nên mới tồn tại hoạt động tranh tụng giữa Kiểm sát viên và luật sư bào chữa,
nguyên tắc suy đoán vô tội đã tạo ra cơ sở pháp lý, một vũ khí sắc bén để luật sư đấu
tranh bác bỏ sự buộc tội khi Kiểm sát viên không đưa ra được chứng cứ chứng minh bị
cáo thực hiện một trong các tội xâm phạm sở hữu.
Thứ tám, hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở
hữu mang tính độc lập, trên cơ sở tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp.
Tính độc lập là nét đặc thù của nghề luật sư, là điều kiện để phát huy trí tuệ,
kinh nghiệm và bản lĩnh của luật sư. Hoạt động độc lập với cơ quan nhà nước là cơ sở
để luật sư bảo vệ quyền lợi cho thân chủ, còn độc lập với thân chủ để đảm bảo cho luật
sư tuân thủ pháp luật, đạo đức nghề nghiệp và quy tắc ứng xử hành nghề của luật sư.
Pháp luật về luật sư được coi như là “hành lang” pháp lý, còn Quy tắc đạo đức và ứng
xử nghề nghiệp luật sư như là “khuôn mẫu chung” để điều chỉnh hành vi ứng xử của
luật sư. Sự tác động cộng hưởng qua lại giữa pháp luật và quy chế trách nhiệm nghề
nghiệp chi phối, điều chỉnh các hành vi trong hoạt động hành nghề luật sư, trong đó có
47
hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
2.2. Đối tượng, nội dung, ý nghĩa hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
2.2.1. Đối tượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu
Để đạt được mục đích xác định thật của vụ án thì nhất thiết phải xác định đúng
đối tượng chứng minh, định hướng cho toàn bộ quá trình chứng minh. Xác định đúng
đối tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng để xác định đúng phạm vi, giới hạn chứng
minh. Nếu xác định không đúng đối tượng chứng minh sẽ dẫn đến tình trạng mở rộng
hoặc thu hẹp phạm vi chứng minh, làm cho hoạt động chứng minh dàn trải, kéo dài
hoặc bỏ sót những tình tiết quan trọng không làm rõ được sự thật của vụ án. Theo
PGS.TS. Trần Văn Độ, thì “Việc làm rõ đối tượng chứng minh có ý nghĩa quan trọng
trong việc xác định đúng phạm vi, giới hạn chứng minh. Xác định không đầy đủ đối
tượng chứng minh sẽ dẫn đến tội phạm không được chứng minh đầy đủ, các tình tiết
của vụ án không được làm rõ hết, làm cho việc giải quyết vụ án thiếu toàn diện, thiếu
chính xác. Ngược lại, nếu xác định đối tượng chứng minh quá rộng so với đòi hỏi của
pháp luật thì làm cho việc chứng minh dàn trải không cần thiết, kéo dài thời gian tố
tụng dẫn đến giải quyết vụ án không kịp thời, thậm chí nhiều lúc gây nên sự phiền rối
trong quá trình chứng minh” [90, tr.165].
Bộ luật TTHS quy định những vấn đề phải chứng minh trong VAHS mà cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh (đối tượng chứng minh). Đối
tượng chứng minh quy định trong BLTTHS là thể hiện ở dạng khái quát nhất, trên cơ
sở đó chủ thể tiến hành tố tụng xác định đối tượng cụ thể cần làm sáng tỏ để giải quyết
trong từng vụ án. Trong các vụ án về xâm phạm sở hữu chủ thể tiến hành tố tụng phải
có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá khách quan, toàn diện tài liệu, chứng cứ của vụ án để
xác định đầy đủ các thuộc tính của chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ án. Hoạt động
chứng minh về các tội xâm phạm sở hữu được thể hiện rõ nét nhất là tại phiên tòa sơ
thẩm với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể buộc tội, bào chữa, xét xử. Luật sư với tư
cách là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa tại phiên tòa nên đối tượng chứng minh
của luật sư sẽ là những tình tiết, chứng cứ liên quan đến việc bào chữa. Luật sư phải
nghiên cứu, kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp xác thực và tính liên quan của
48
các chứng cứ để sử dụng cho hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa.
Mục đích hoạt động tố tụng của luật sư là để đi tìm cho câu trả lời về những vấn
đề cần phải chứng minh trong VAHS về các tội xâm phạm sở hữu, góp phần làm sáng
tỏ sự thật của vụ án, chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc
tội. Để đi tìm câu trả lời về những vấn đề cần phải chứng minh trong VAHS về các tội
xâm phạm sở hữu, luật sư bào chữa cần chứng minh làm rõ những vấn đề sau:
- Về đối tượng thiệt hại trong các vụ án xâm phạm sở hữu: Trong các vụ án xâm
phạm sở hữu, đối tượng tác động chủ yếu là tài sản. Người phạm tội xâm phạm quan hệ
sở hữu về tài sản của cá nhân, cơ quan, tổ chức hoặc Nhà nước. Tính chất và mức độ
thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra là một trong những vấn đề phải chứng minh trong
vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, nó không phải là dấu hiệu định tội trong mọi cấu
thành tội phạm nhưng nó luôn là căn cứ, là thước đo để đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Do đó, việc xác định làm rõ thiệt hại tài
sản là rất cần thiết, là một yêu cầu mang tính bắt buộc trong các vụ án về tội xâm phạm
sở hữu. Chỉ đến khi nào có kết luận của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS thì mới
có đủ căn cứ để truy cứu TNHS, định khung hình phạt và giải quyết các vấn đề dân sự.
Khi tham gia các vụ án xâm phạm sở hữu, luật sư cần thu thập, đánh giá các tài liệu,
chứng cứ thể hiện giá trị tài sản bị thiệt hại hoặc bị chiếm đoạt, như: biên bản thu giữ
tài sản, biên bản xác định giá trị tài sản, kết luận định giá tài sản để kiểm tra trình tự,
thủ tục, tính có căn cứ và tính hợp pháp của các chứng cứ để làm cơ sở cho việc giải
quyết vụ án. Tuy nhiên, trong một số vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, ngoài việc xác
định về tài sản ra thì cần xác định, làm rõ thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người; xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; đến hoạt động của các cơ
quan, tổ chức... nhằm đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để
truy cứu TNHS, giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS.
- Về thủ đoạn phạm tội trong các tội phạm có tính chiếm đoạt: Thủ đoạn phạm
tội là cách thức thực hiện tội phạm một cách tinh vi khôn khéo, có sự tính toán. Trong
các vụ án xâm phạm sở hữu để xác định thủ đoạn phạm tội cần làm rõ công cụ, phương
tiện, cách thức, tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, hành vi che dấu tội phạm, cách
thức quản lý, tiêu thụ tài sản đã chiếm đoạt. Nghĩa là, phải làm rõ người phạm tội đã
chuẩn bị cho việc thực hiện tội phạm như thế nào, có sự chuẩn bị trước hay do bộc phát
49
mà thực hiện, các thủ đoạn dùng để thực hiện tội phạm ra sao, thủ phạm có ý thức tạo
hiện trường giả, xóa dấu vết để đánh lạc hướng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng không. Trong các vụ án xâm phạm sở hữu, phương thức, thủ đoạn phạm tội được
thể hiện thông qua các hành vi sau: hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực (dùng
như thế nào), đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hay chỉ đe dọa dùng vũ lực hoặc có
hành vi khác để phạm tội; hành vi công khai phạm tội; hành vi lén lút, hành vi gian dối.
Một trong những đối tượng cần chứng minh trong vụ án xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt là thủ đoạn phạm tội. Ví dụ: lén lút chiếm đoạt là đặc điểm của tội trộm cắp
tài sản; dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là đặc điểm của tội cướp tài
sản; dùng thủ đoạn gian dối là đặc điểm của tội lạm dụng hoặc tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản v.v… Những hành vi này cần được xác định, làm rõ để xác định chính xác tội
danh của các tội trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Như vậy, phương thức, thủ
đoạn phạm tội là căn cứ quan trọng xác định tội danh chính xác về các tội xâm phạm sở
hữu trong xét xử sơ thẩm VAHS. Ngoài ra, trong các vụ án về các tội xâm phạm sở
hữu rất dễ bị nhầm lẫn khi xác định tội danh thông qua dấu hiệu về mặt khách quan.
Thực tiễn, thường dễ nhầm lẫn giữa tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản; tội công
nhiên chiếm đoạt đoạt tài sản với tội trộm cắp tài sản; tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với
tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.v.v…
+ Phân biệt giữa tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản: Tội cướp tài sản
được thể hiện bằng vũ lực, dùng sức mạnh về thể chất tấn công làm triệt tiêu sự kháng
cự của chủ sở hữu nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc bằng lời nói, bằng cử chỉ đe dọa làm
cho người bị hại tê liệt về ý chí bắt buộc phải trao tài sản. Dấu hiệu “ngay tức khắc”
vừa chỉ sự nhanh chóng về mặt thời gian vừa chỉ sự mãnh liệt của hành vi đe dọa khiến
cho người bị tấn công biết được rằng, nếu họ chống trả hoặc không chịu giao tài sản thì
tính mạng, sức khỏe nguy hiểm ngay tức khắc. Còn đối với tội cưỡng đoạt tài sản thì
hành vi đe dọa sẽ dùng vũ lực không có tính ngay tức khắc và người bị đe dọa nhận
thức được họ còn có điều kiện để chống trả hoặc vẫn còn thời gian để quyết định. Đây
là dấu hiệu cơ bản để phân biệt giữa tội cướp tài sản với tội cưỡng đoạt tài sản.
+ Phân biệt giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản: Hai tội này có hai điểm giống nhau là về thỏa thuận chuyển giao
tài sản và hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Nhưng thời điểm
50
người phạm tội nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản là đặc điểm cơ bản để phân biệt hai
tội danh này. Nếu ngay từ đầu người phạm tội đã có ý định chiếm đoạt tài sản và đã
có hành vi ký kết các hợp đồng giả tạo để được giao tài sản trên cơ sở hợp đồng, thì
đây là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tội lừa đảo hoàn thành ngay khi được giao
tài sản. Còn đối với tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản thì lúc đầu người phạm tội chưa
có ý định chiếm đoạt tài sản nên việc ký hợp đồng là ngay thẳng dựa trên sự tin tưởng
giữa hai bên, nhưng sau khi có tài sản rồi thì người phạm tội mới nảy sinh ý định
chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi gian dối để chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, để xác
định thời điểm nào người phạm tội nảy sinh ý định chiếm đoạt thì phải dựa vào nhiều
yếu tố khác nhau như việc chuẩn bị ký hợp đồng như thế nào; sự quan tâm đến quyền
và nghĩa vụ đã cam kết trong hợp đồng; thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản, trong
đó, ý thức chiếm đoạt và thủ đoạn gian dối có ý nghĩa quyết định đến việc chiếm đoạt
tài sản đối với tội lừa đảo hoặc lạm dụng chiếm đoạt tài sản.
+ Về việc hình sự hóa tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu: Việc hình sự hóa
các quan hệ dân sự cũng thường gặp trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Trong hoạt
động chứng minh, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đôi khi có sự nhầm lẫn
giữa quan hệ pháp luật dân sự và quan hệ pháp luật hình sự dẫn đến việc xử lý người vi
phạm nghĩa vụ dân sự bằng chế tài hình sự. Sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, hình
sự hóa quan hệ dân sự gây ra những vụ án oan sai, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người vô tội, ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội. Thực tiễn vấn đề “hình
sự hóa quan hệ, giao dịch dân sự” cũng hay xảy ra, nhất là đối với nhóm các tội xâm
phạm sở hữu khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng pháp luật hình sự để
giải quyết các tranh chấp dân sự mà lẽ ra phải áp dụng trình tự, thủ tục tố tụng dân sự
để giải quyết. Ví dụ: Nguyễn Văn M cho N vay một khoản tiền, nhưng N chưa có điều
kiện trả cho M. Hiện tại M không liên lạc được với N. Trường hợp, N dùng thủ đoạn
gian dối để chiếm đoạt tài sản của M thì sẽ bị coi là phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng ra quyết định khởi tố vụ án, vì cho rằng
N bỏ trốn và cố tình không trả. Tuy nhiên, trên thực tế là N đang bận đưa người thân đi
chữa bệnh ở xa và trong hợp đồng vay cũng quy định rõ về lãi chậm trả, N đã đồng ý
với M về số lãi phải trả theo thỏa thuận của hai bên.
Trong thực tiễn khái niệm “hình sự hoá” được sử dụng để chỉ việc cơ quan có
51
thẩm quyền tiến hành tố tụng đã hình sự hóa bằng việc khởi tố, điều tra, truy tố đối với
hành vi mang tính chất dân sự, như chưa trả khoản nợ đến hạn theo yêu cầu của chủ nợ
do con nợ dây dưa không chịu trả có dấu hiệu phạm tội hình sự và đã khởi tố về tội lừa
đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản làm cho nhiều người và cả các doanh
nghiệp phải “vướng” vào vòng lao lý, dù họ không phạm tội liên quan đến các tội về
xâm phạm sở hữu. Việc “hình sự hóa” quan hệ pháp luật dân sự gây ra nhiều hậu quả
nghiêm trọng cho người vô tội và gia đình của họ, ảnh hưởng tiêu cực đến trật tự, an
toàn xã hội. Với tư cách là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, khi tham gia hoạt
động chứng minh trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, luật sư cần lưu ý
phân tích, đánh giá, khách quan, toàn diện vấn đề về “hình sự hóa” các quan hệ pháp
luật dân sự để bảo vệ tốt nhất quyền lợi cho người bị buộc tội.
- Về định lượng, hậu quả của các tội xâm phạm sở hữu
+ Về định lượng: Trong các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu thiệt hại về tài
sản phải đạt mức độ nhất định mới có đủ căn cứ để buộc tội, nếu thiệt hại tài sản chưa
đủ định lượng theo quy định của pháp luật thì người thực hiện hành vi không phải chịu
TNHS. Các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, huỷ hoại tài sản hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản chỉ bị coi là tội phạm khi tài sản
bị xâm phạm có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên. Hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản chỉ bị coi là tội phạm khi tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ 4.000.000 đồng
trở lên. Trường hợp tài sản bị xâm phạm có giá trị dưới mức định lượng nêu trên, thì
phải có một trong các dấu hiệu, như: đã bị kết án, nhưng chưa được xóa án tích mà còn
vi phạm; gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; tài sản là di vật, cổ
vật.v.v.. thì mới được coi là tội phạm.
Hành vi chiếm giữ trái phép tài sản bị coi là tội phạm khi tài sản bị chiếm giữ
trái phép có giá trị từ 10.000.000 đồng trở lên hoặc là di vật, cổ vật. Hành vi sử dụng
trái phép tài sản chỉ bị coi là tội phạm khi tài sản bị sử dụng trái phép có giá trị từ
100.000.000 đồng trở lên và đã bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc đã bị kết án,
chưa được xóa án tích mà còn vi phạm; tài sản là di vật, cổ vật. Hành vi thiếu trách
nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp chỉ bị coi
là tội phạm khi tài sản bị xâm phạm có giá trị từ 100.000.000 đồng trở lên.
+ Về hậu quả: Đối với các tội xâm phạm sở hữu có cấu thành tội phạm hình
52
thức, gồm 4 tội như: cướp tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản,
cướp giật tài sản thì luật quy định là tội phạm khi đã thực hiện hành vi mà không bắt
buộc phải có hậu quả thiệt hại về tài sản xảy ra. Đối với các tội xâm phạm sở hữu có
cấu thành vật chất thì dấu hiệu về mặt khách quan phải bao gồm hành vi, hậu quả và
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả. Hành vi khách quan của các tội xâm
phạm sở hữu tuy khác nhau ở các hình thức thể hiện, nhưng có cùng tính chất là đều
gây thiệt hại đáng kể cho các quan hệ sở hữu, xâm phạm đến quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của chủ sở hữu. Hành vi là dấu hiệu bắt buộc trong mọi cấu
thành tội phạm, còn dấu hiệu hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả chỉ là
dấu hiệu bắt buộc trong một số cấu thành về các tội xâm phạm sở hữu.
Đối tượng chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm về các tội xâm phạm sở
hữu là tổng hợp những tình tiết của vụ án cần phải được xác định, làm sáng tỏ bằng các
chứng cứ tạo thành đối tượng chứng minh về các tội xâm phạm sở hữu để giải quyết
đúng đắn vụ án. “Đối tượng chứng minh là tất cả các tình tiết phải được xác định đảm
bảo cho việc giải quyết đúng đắn, khách quan, toàn diện vụ án hình sự” [90, tr.164].
Nội dung của đối tượng chứng minh được xác định trước hết bởi cấu thành tội
phạm, chính cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS sẽ xác định giới hạn chứng
minh. Trong từng vụ án khác nhau về các tội xâm phạm sở hữu các tình tiết tạo thành
đối tượng chứng minh cũng khác nhau. Nhưng, “ở dạng chung nhất, đối tượng chứng
minh được xác định bởi phạm vi của cấu thành tội phạm đang được điều tra và xét xử”
[130, tr.169]. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc chứng minh không chỉ dừng lại ở đó, vì
trong mỗi vụ án cụ thể, ngoài việc chứng minh làm rõ những yếu tố cấu thành tội phạm
về các tội xâm phạm sở hữu, luật sư còn phải chứng minh rất nhiều tình tiết khác có ý
nghĩa giải quyết vụ án.
Đối tượng chứng minh của luật sư về các tội xâm phạm sở hữu trong xét xử sơ
thẩm sẽ là những sự kiện, tình tiết có tính chất gỡ tội hoặc giảm nhẹ TNHS. Nếu cho
rằng việc buộc tội là không có căn cứ thì luật sư đưa ra chứng cứ chứng minh gỡ tội,
còn khi nhận thấy việc buộc tội đúng, thì luật sư vẫn có trách nhiệm chứng minh các
tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Hoạt động chứng minh của luật sư trong các vụ án
về các tội xâm phạm sở hữu nhằm mục đích góp phần cùng cơ quan tiến hành tố tụng
làm sáng tỏ sự thật của vụ án phù hợp với chức năng bào chữa của mình. Đối tượng
53
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu bao gồm các
nhóm sự kiện, tình tiết khác nhau, mà mỗi sự kiện, tình tiết nói riêng và trong tổng thể
của chúng nói chung đều phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ một cách khách quan, toàn
diện và đầy đủ. Có thể nói, đối tượng chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các
tội xâm phạm sở hữu là những sự kiện, tình tiết chưa biết nhưng cần phải biết và phải
được xác định, làm sáng tỏ bằng chứng cứ, trên cơ sở đó chứng minh về sự vô tội hoặc
giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
2.2.2. Nội dung hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu
Nội dung hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu là quá trình hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của luật sư
được thể hiện ở giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa sơ thẩm.
2.2.2.1. Hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của luật sư
- Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư
Thu thập chứng cứ thực chất là hoạt động phát hiện, ghi nhận, thu giữ, bảo quản
từ những nguồn liên quan đến đối tượng chứng minh theo thủ tục do pháp luật quy
định nhằm bảo đảm giá trị chứng minh của các chứng cứ. Trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm luật sư thu thập chứng cứ chủ yếu thông qua việc nghiên cứu trong hồ sơ vụ án
hoặc chứng cứ do các bên đưa ra tại phiên tòa. Luật sư là người bào chữa nên chứng cứ
do luật sư thu thập thường mang tính đối lập với bên buộc tội. Đó là những sự kiện,
tình tiết có giá trị chứng minh “gỡ tội” hoặc giảm nhẹ TNHS về các tội xâm phạm sở
hữu. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, bằng hoạt động tố tụng của mình, luật sư sẽ tìm
kiếm, phát hiện, ghi nhận, thu giữ, bảo quản những tài liệu, chứng cứ để làm rõ đối
tượng chứng minh trong hệ thống chứng cứ của hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu, luật sư thu thập chứng cứ bằng việc đề nghị triệu tập
thêm người làm chứng, khai thác những tài liệu, chứng cứ mới do các bên đưa ra và
các chứng cứ khác có lợi cho thân chủ thông qua thủ tục xét hỏi tại phiên tòa.
- Hoạt động kiểm tra chứng cứ của luật sư
Hoạt động kiểm tra chứng cứ của luật sư xuất phát từ yêu cầu xác định về tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp của chứng cứ. Hoạt động kiểm tra chứng
cứ của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu được thể hiện thông qua
54
nghiên cứu, kiểm tra các thông tin, tài liệu, đồ vật, dữ liệu thu thập được trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa. Hoạt động kiểm tra chứng cứ của luật sư nhằm
xác định chứng cứ trong hồ sơ vụ án có được thu thập theo đúng thủ tục pháp luật quy
định hay không; các chứng cứ đưa ra xem xét tại phiên tòa có bảo đảm các thuộc tính
của chứng chưa; từng chứng cứ riêng lẻ, tổng hợp các chứng cứ đã đủ để chứng minh
những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hay chưa. Luật sư là chủ thể để thực hiện
chức năng bào chữa nên hoạt động kiểm tra chứng cứ của luật sư gắn liền với việc
nghiên cứu, kiểm tra toàn diện các tài liệu, chứng cứ để chứng minh sự vô tội hoặc
giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội, trên cơ sở đó làm tiền đề cho HĐCMLS trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu ở các giai đoạn sau này.
- Hoạt động đánh giá chứng cứ của luật sư
Đánh giá chứng cứ là giai đoạn của quá trình chứng minh, nó không phải là
một hoạt động độc lập, riêng lẻ mà có mối quan hệ gắn liền với thu thập, kiểm tra
chứng cứ. “Đánh giá chứng cứ là quá trình lôgích, vì xét về bản chất đánh giá chứng
cứ là hoạt động suy luận dựa trên cơ sở nhận thức và tri thức của người đánh giá về
đối tượng đánh giá, suy luận về giá trị chứng minh của chứng cứ” [28, tr.112]. Mỗi
chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá trong mối quan hệ thống nhất là đối tượng
chứng minh của vụ án hình sự. Hoạt động đánh giá chứng cứ của luật sư trong XXST
các tội xâm phạm sở hữu nhằm xác định giá trị chứng minh của các chứng cứ làm
sáng tỏ đối tượng chứng minh tạo cơ sở cho các ý kiến, đề nghị của luật sư là có căn
cứ và hợp pháp.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, thông qua kết quả hoạt động thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ giúp cho luật sư đưa ra các định hướng cho hoạt động chứng minh,
như: chứng minh bị cáo không phạm tội; chuyển sang tội danh, khung hình phạt nhẹ
hơn; giảm nhẹ TNHS hoặc chứng minh theo hướng đề xuất trả hồ sơ để điều tra bổ
sung. Trên cơ sở kết quả thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, luật sư sẽ xác định
những vấn đề mấu chốt để lập kế hoạch xét hỏi, chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng để
làm sáng tỏ đối tượng chứng minh trong vụ án xâm phạm sở hữu tại phiên tòa sơ thẩm.
Hoạt động đánh giá chứng cứ của luật sư tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau đây:
+ Đánh giá chứng cứ dựa trên các quy định của pháp luật tố tụng hình sự: Bộ
luật TTHS quy định về chứng cứ và chứng minh trong VAHS, trình tự, thủ tục thu
55
thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Trong XXST các tội xâm phạm sở hữu, hoạt động
đánh giá chứng cứ của luật sư nhằm làm sáng tỏ vụ án, chứng minh bị cáo không phạm
tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho họ. Hoạt động đánh giá chứng cứ của luật sư nhằm xác
định: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không; ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có
lỗi hay không có lỗi; có năng lực TNHS hay không; những tình tiết giảm nhẹ, tăng
nặng TNHS, tính chất và mức độ thiệt hại tài sản; v.v... Trên cơ sở đó, đưa ra các định
hướng chứng minh bào chữa có lợi nhất cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở
hữu trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
+ Đánh giá chứng cứ dựa trên các quy định của pháp luật hình sự: Luật sư
phải căn cứ vào các quy định về cấu thành tội phạm của các tội xâm phạm sở hữu để
đánh giá: yếu tố về khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan của các tội
xâm phạm sở hữu được quy định trong BLHS. Ngoài ra, còn phải căn cứ vào các quy
định về khái niệm tội phạm để phân biệt giữa tội phạm và không phải là tội phạm;
trường hợp loại trừ TNHS, sự kiện bất ngờ; phòng vệ chính đáng; v.v…Như vậy,
BLHS đã quy định đầy đủ nội dung những vấn đề phải chứng minh trong VAHS, hoạt
động đánh giá chứng cứ của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
cũng phải dựa trên cơ sở những quy định của Bộ luật Hình sự.
+ Đánh giá chứng cứ dựa trên niềm tin nội tâm: Niềm tin nội tâm của luật sư
được hình thành trên cơ sở quan sát các tình tiết của vụ án về các tội xâm phạm sở hữu
trong giai đoạn XXST để đưa đến một sự tin tưởng vững chắc vào những kết luận của
mình. Đây không phải là sự suy diễn chủ quan, tùy tiện mà là sự đánh giá có căn cứ giá
trị chứng minh của các chứng cứ trong XXST các tội xâm phạm sở hữu. Niềm tin nội
tâm của luật sư có ý nghĩa và vai trò quan trọng trong hoạt động đánh giá chứng cứ của
luật sư trong xét xử sơ thẩm VAHS về các tội xâm phạm sở hữu.
Như vậy, hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của luật sư trong
XXST các tội xâm phạm sở hữu được thể hiện thông qua việc nghiên cứu, kiểm tra,
đánh giá, hỏi và tranh luận của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm theo nội dung và định
hướng bào chữa, như: chứng minh bị cáo không phạm tội; thay đổi tội danh nhẹ hơn,
giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo…nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo.
2.2.2.2. Hoạt động chứng minh của luật sư trong các giai đoạn xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu
56
- Hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
Trong giai đoạn chuẩn bị XXST, luật sư sẽ thực hiện việc nghiên cứu hồ sơ vụ
án, thực hiện các hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá một cách thận trọng, kỹ lưỡng
để tìm ra và chọn lọc những chứng cứ quan trọng, cần thiết có giá trị chứng minh sự vô
tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu. Tùy theo
định hướng bào chữa mà luật sư có thể nghiên cứu, thu thập chứng cứ để chứng minh.
Đối với các tội xâm phạm sở hữu, nếu bào chữa theo hướng không phạm tội thì luật sư
cần thu thập các chứng cứ chứng minh bị cáo không thực hiện hành vi phạm tội; hành
vi của bị cáo không cấu thành các tội xâm phạm sở hữu; bị cáo không có mục đích
chiếm đoạt trong các tội có tính chiếm đoạt tài sản; thiệt hại về tài sản chưa đủ định
lượng để truy cứu TNHS; lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác
không đủ cơ sở chứng minh bị cáo phạm một trong các tội xâm phạm sở hữu. Nếu
phương án chứng minh theo hướng giảm nhẹ, thì luật sư cần thu thập, đánh giá chính
xác các chứng cứ, xác định giá trị chứng minh đích thực của chúng để chuyển sang tội
danh nhẹ hơn; khung hình phạt nhẹ hơn; các tình tiết giảm nhẹ, bồi thường thiệt hại có
lợi cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
Trong suốt quá trình tố tụng, các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án do Cơ
quan điều tra thu thập bước đầu chỉ mang tính sơ bộ để làm căn cứ ra bản kết luận điều
tra đề nghị Viện kiểm sát truy tố, những chứng cứ đó phải được kiểm tra, đánh giá
công khai tại phiên tòa để xác định giá trị chứng minh của chứng cứ, nếu chúng không
thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ thì không được sử dụng làm chứng cứ giải quyết
vụ án cho dù chúng đang tồn tại trong hồ sơ vụ án. Mặt khác, mỗi chứng cứ đồng thời
phải được kiểm tra, đánh giá trong mối quan hệ với đối tượng chứng minh trong
VAHS. Đối với các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, luật sư cần tập trung kiểm tra,
đánh giá các biên bản ghi lời khai, hỏi cung bị can, lời khai của người làm chứng, bị
hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; các kết luận giám định; quyết định giá tài sản,
vật chứng; bản kết luận điều tra; cáo trạng…Kết quả HĐCMLS trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử nhằm kiểm tra, thu thập những chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
- Hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm
+ Hoạt động chứng minh của luật sư trong thủ tục bắt đầu phiên tòa
57
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm, quyết định. Tính chất và hình thức của
XXST chi phối đến hoạt động chứng minh của chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản
của TTHS. “Thông qua phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến và
đề xuất của các bên tham gia tố tụng, tòa án (với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng
quan trọng nhất) tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án” [23, tr.1].
Trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, HĐXX sẽ tiến hành kiểm tra, đánh giá toàn bộ
chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như được các bên bổ sung tại phiên tòa để làm căn cứ
giải quyết vụ án. Phiên tòa XXST các tội xâm phạm sở hữu về cơ bản cũng tuân theo
trình tự, thủ tục chung: thủ tục bắt đầu phiên tòa; xét hỏi; tranh luận; nghị án và tuyên
án. Bắt đầu là thư ký phiên tòa báo cáo danh sách những người được triệu tập, chủ tọa
kiểm tra sự có mặt, vắng mặt, kiểm tra căn cước và giải thích quyền và nghĩa vụ của
những người tham gia tố tụng. Thủ tục bắt đầu phiên tòa là tiền đề bảo đảm thực hiện
tốt các thủ tục tiếp theo, việc tiến hành đúng thủ tục bắt đầu phiên tòa sẽ bảo đảm chất
lượng cho hoạt động chứng minh của các bên tham gia tranh tụng.
Đối với các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, luật sư cần chú ý theo dõi diễn
biến của phiên tòa có bảo đảm đúng thủ tục tố tụng chưa, những người được triệu tập
đến phiên tòa có đầy đủ không để đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, bổ sung
chứng cứ mới, triệu tập thêm người làm chứng. Ví dụ: Nếu người làm chứng có lời
khai buộc tội nhưng lời khai của họ có nhiều mâu thuẫn, nếu họ không có mặt sẽ gây
bất lợi cho thân chủ hoặc trường hợp người làm chứng gỡ tội vắng mặt mà lời khai của
họ có lợi thì luật sư cần đề nghị Tòa án triệu tập họ đến phiên tòa để xét hỏi; hoặc khi
có ý kiến đề nghị hoãn phiên tòa về việc vắng mặt bị hại, nhưng nhận thấy bị hại vắng
mặt chỉ liên quan đến việc giải quyết vấn đề bồi thường mà không ảnh hưởng đến vấn
đề xác định tội danh, khung, khoản của điều luật áp dụng thì việc hoãn phiên tòa là
không cần thiết, luật sư đề nghị HĐXX vẫn tiến hành xét xử. Ngoài ra, luật sư cũng cần
bổ sung thêm các tài liệu, chứng cứ khác ngay trong thủ tục bắt đầu phiên tòa có lợi
cho bị cáo như: các giấy tờ về bồi thường thiệt hại, đơn xin giảm nhẹ hình phạt, các
giấy tờ về huân, huy chương, nếu là các tội về lừa đảo hoặc lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản thì cần cung cấp các hợp đồng vay mượn, mua bán để chứng minh bị cáo
đã sử dụng tài sản đúng mục đích, không có hành vi gian dối…
+ Hoạt động chứng minh của luật sư trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
58
Mô hình TTHS nước ta hiện nay là mô hình TTHS “pha trộn” dựa trên nền tố
trụng thẩm vấn, chọn yếu tố tranh tụng trong xét xử làm khâu đột phá, về bản chất
tranh tụng trong TTHS nước ta thiên về xét hỏi, tức yếu tố xét hỏi trong tố tụng rõ nét
hơn, là “tranh tụng trong tố tụng xét hỏi”.
Xét hỏi là một phần quan trọng của thủ tục tranh tụng tại phiên toà. Phần xét hỏi
tạo tiền đề cho hoạt động tranh luận tại phiên tòa sau này. Thông qua xét hỏi để xác
định các tình tiết, chứng cứ của vụ án. Những kết luận, đề nghị của các luật sư chỉ có
sức thuyết phục khi dựa trên các chứng cứ đã được xét hỏi, thẩm tra tại phiên tòa. Việc
hỏi càng chi tiết, cụ thể bao nhiêu thì càng có căn cứ vững chắc cho các kết luận, đề
nghị của luật sư bấy nhiêu. Xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm được thể hiện thông qua việc
đặt câu hỏi, trả lời để kiểm tra, đánh giá các chứng cứ của vụ án. Thủ tục xét hỏi bắt
đầu bằng việc Viện kiểm sát công bố cáo trạng, bổ sung cáo trạng nhưng không được
làm xấu tình trạng của bị cáo, vì vậy nếu nhận thấy việc bổ sung cáo trạng gây bất lợi
cho bị cáo thì luật sư cần có ý kiến ngay với Hội đồng xét xử.
Tòa án nhận thức về sự thật của vụ án thông qua hoạt động chứng minh, tranh
tụng của các bên được thể hiện trong phần thủ tục xét hỏi, tranh luận.“Trách nhiệm của
Tòa án là kiểm tra sự thật thông qua tranh tụng mà không phải tự mình đi tìm sự thật
thông qua xét hỏi và đưa ra phán quyết cuối cùng về một người nào đó có tội hay vô
tội” [96, tr.171]. Tuy nhiên, pháp luật quy định Chủ toạ phiên toà quyết định thứ tự xét
hỏi, cho nên luật sư cần chú ý lắng nghe để đến lượt mình hỏi không bị trùng lặp, đáp
ứng yêu cầu, định hướng bào chữa; khi cần thiết, luật sư có thể yêu cầu Chủ tọa phiên
toà cho phép hỏi để đảm bảo hiệu quả xét hỏi, tranh tụng tại phiên toà. Thông thường
việc hỏi để buộc tội do Viện kiểm sát thực hiện, người bào chữa hỏi để gỡ tội, Chủ toạ
phiên toà là người điều khiển quá trình xét hỏi, các thành viên HĐXX chủ yếu lắng
nghe việc hỏi, đáp của các bên và chỉ hỏi về những vấn đề mà mình thấy chưa rõ. Tuy
nhiên, do TTHS nước ta theo mô hình TTHS thẩm vấn, Tòa án được giao rất nhiều
thẩm quyền nằm ngoài chức năng xét xử nên việc xét hỏi của các chủ thể tại phiên tòa
chịu sự ảnh hưởng, chi phối bởi quyền hạn tố tụng của Tòa án.
Luật sư là chủ thể thực hiện chức năng bào chữa, việc hỏi của luật sư tại phiên
tòa phải trên cơ sở tôn trọng sự thật khách quan. Đối với vụ án về các tội xâm phạm sở
hữu thì nội dung hỏi của luật sư là những vấn đề liên quan đến việc bào chữa. Các câu
59
hỏi của luật sư đưa ra cần bám sát, gắn với các hành vi, tội danh đã truy tố, các yếu tố
cấu thành tội phạm về các tội xâm phạm sở hữu; các tình tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
và các tình tiết khác có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án, lắng nghe các câu hỏi và
câu trả lời, vì trong nhiều trường hợp luật sư có thể phát hiện các vấn đề mới phát sinh
để bổ sung hoàn chỉnh kế hoạch xét hỏi của luật sư, các câu hỏi của luật sư nhằm mục
đích chủ yếu để chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo, kiểm tra,
bác bỏ chứng cứ của bên buộc tội...
Nếu bào chữa theo hướng không phạm tội, luật sư cần hỏi để làm rõ các yếu tố
cấu thành tội phạm, làm rõ những điểm mâu thuẫn bất hợp lý của các chứng cứ buộc
tội; bị cáo không có mục đích chiếm đoạt tài sản đối với các tội có tính chiếm đoạt; hậu
quả thiệt hại về tài sản chưa đủ định lượng truy cứu TNHS; hành vi của bị cáo không
cấu thành các tội xâm phạm sở hữu. Trường hợp bào chữa theo hướng giảm nhẹ, luật
sư không cần đưa ra câu hỏi làm rõ diễn biến hành vi phạm tội, vì các vấn đề này chắc
chắn sẽ được HĐXX và Kiểm sát viên hỏi để làm rõ. Luật sư chỉ cần tập trung hỏi các
vấn đề liên quan đến việc giảm nhẹ. Đối với các tội xâm phạm sở hữu thường có cấu
thành tội phạm gần giống nhau, dễ nhầm lẫn nên cần hỏi để phân biệt. Ví dụ: Khi bào
chữa theo hướng chuyển tội danh từ tội cướp sang tội cưỡng đoạt tài sản thì luật sư cần
hỏi để làm rõ tình tiết bị cáo chỉ có hành vi “đe dọa sẽ dùng vũ lực” chứ không “dùng
vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc” nhằm chiếm đoạt tài sản của bị hại.
Trong các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, hậu quả gây ra chủ yếu là thiệt hại
về tài sản nên việc xác định giá trị tài sản là yêu cầu bắt buộc, căn cứ vào giá trị tài sản
bị thiệt hại hoặc bị chiếm đoạt để làm cơ sở cho việc định tội, định khung hình phạt và
giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Trong quá trình giải quyết vụ án thì việc định giá
tài sản nhiều khi không chính xác, do đó luật sư cần lưu ý đặc điểm này để đề nghị định
giá lại tài sản. Ví dụ: Nguyễn Văn A ban đêm đột nhập vào nhà ông M lấy trộm một chiếc
xe gắn máy và một laptop. Hội đồng định giá tài sản căn cứ vào hóa đơn mua hàng để xác
định giá trị tài sản bị trộm là 55 triệu đồng và A bị truy tố theo khoản 2 Điều 173 BLHS
năm 2015. Tại phiên tòa, luật sư bào chữa cho bị cáo A cho rằng, trị giá tài sản bị chiếm
đoạt là giá thị trường tự do tại thời điểm xảy ra tội phạm, các tài sản bị lấy cắp đã cũ và đề
nghị định giá lại tài sản. Kết quả định giá lại đã thay đổi theo giá trị tài sản đã bị giảm sút,
giá trị còn lại là 21 triệu đồng. Vì vậy, bị cáo A đã được chuyển khung hình phạt từ khoản
60
2 Điều 173 sang khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Đối với các vụ án về xâm phạm sở hữu, phương thức, thủ đoạn phạm tội là căn
cứ quan trọng xác định tội danh chính xác. Tuy nhiên, cũng hay dễ bị nhầm lẫn khi xác
định tội danh thông qua phương thức, thủ đoạn phạm tội, phổ biến nhất là sự nhầm lẫn
giữa tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Để hoạt động xét hỏi đạt hiệu quả thì luật sư phải dự kiến những vấn đề cần phải
chứng minh. Một kế hoạch xét hỏi được coi là đầy đủ không chỉ bao gồm các vấn đề,
câu hỏi dự định hỏi mà còn phải lưu ý đến việc xét hỏi của các chủ thể khác có thể gây
bất lợi cho người bị buộc tội hay không. Cần đề ra phương án hỏi người nào trước,
người nào sau cho phù hợp với từng đối tượng cần chứng minh. Trong vụ án đồng
phạm các bị cáo thường hay đổ tội cho nhau, nên hỏi để làm rõ vai trò của thân chủ
trong vụ án, đưa ra câu hỏi để vạch trần sự gian dối, những mâu thuẫn, bất hợp lý trong
lời khai buộc tội. Nếu hỏi thân chủ của mình thì cần đặt câu hỏi để làm rõ chứng cứ gỡ
tội hoặc có ý nghĩa giảm nhẹ TNHS. Như vậy, hoạt động hỏi của luật sư gắn liền với
thực hiện chức năng bào chữa nên việc hỏi để làm sáng tỏ sự thật vụ án, chứng minh sự
vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
* Hoạt động chứng minh của luật sư trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa:
Tranh luận tại phiên tòa là giai đoạn tập trung, quan trọng nhất của quá trình tố
tụng. Hoạt động tranh tụng được “diễn ra dưới hình thức cùng tồn tại, cùng vận động
và phủ định lẫn nhau giữa hai chức năng cơ bản là chức năng buộc tội và bào chữa và
khi sự đối trọng giữa hai chức năng cơ bản này đã lên đến đỉnh điểm tại phiên tòa sơ
thẩm thì có sự tham gia của Tòa án với vai trò là trọng tài điều khiển và đưa ra phán
quyết về kết quả đấu tranh pháp lý giữa hai chức năng cơ bản đó” [72, tr.59].
Tranh luận là phần cốt lõi, là đỉnh điểm của quá trình tranh tụng được tiến hành
sau khi kết thúc xét hỏi, thu hút sự chú ý, theo dõi của nhiều người tại phiên tòa. Đây là
cơ hội để các bên buộc tội và gỡ tội công khai thực hiện chức năng của mình thông qua
hoạt động chứng minh. Căn cứ vào kết quả xét hỏi, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội
để buộc tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần quyết định truy tố. Đối với luật sư, khi
trình bày lời bào chữa cần tập trung vào những hành vi và các tội danh về xâm phạm sở
hữu đã bị truy tố. Nội dung bào chữa cần ngắn ngọn nhưng đầy đủ, nhấn mạnh vào
những nội dung chính, nêu bật lên được các vấn đề cần chứng minh. Khi tranh luận
61
phải có sự phân tích, lập luận chặt chẽ với những chứng cứ rõ ràng, cơ sở pháp lý vững
chắc để bảo đảm tính có căn cứ cho các kết luận, đề nghị của người bào chữa.
Bản chất tranh tụng tại phiên tòa hình sự ở nước ta phải được nhìn nhận từ góc
độ tranh tụng trong tố tụng xét hỏi. Thẩm phán chủ tọa phiên tòa được đọc trước hồ sơ
vụ án, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, trong đó có Tòa án. Đây chính là lý do làm cho Kiểm sát viên có tâm lý ỷ lại,
không tích cực tranh luận với luật sư. Do vậy, luật sư cần chủ động và nỗ lực rất nhiều
mới có đủ chứng cứ phản biện, bác bỏ chứng cứ buộc tội của Kiểm sát viên. Với tư
cách là người bào chữa, luật sư phải chủ động đưa ra chứng cứ, phân tích làm rõ các
yếu tố cấu thành tội phạm chứng minh hành vi của bị cáo không thỏa mãn các dấu hiệu
cấu thành các tội xâm phạm sở hữu, nếu chứng minh theo hướng vô tội. Ví dụ, đối với
các tội như tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và tội cưỡng đoạt tài
sản thì mục đích “chiếm đoạt tài sản” là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm,
phản ánh mặt chủ quan của tội phạm. Vì vậy, luật sư cần đưa ra chứng cứ, lập luận để
làm rõ là khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không có ý thức chiếm đoạt tài sản để
bác bỏ quan điểm buộc tội, chứng minh bị cáo vô tội.
Nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội là hai nguyên tắc có mối
quan hệ mật thiết với chức năng bào chữa và hoạt động chứng minh của luật sư.
Nguyên tắc tranh tụng tạo nên tính chất “hai bên” với vị thế bình đẳng cho các bên,
còn nguyên tắc suy đoán vô tội tội tạo cơ sở pháp lý, một vũ khí sắc bén để luật sư đưa
ra lý lẽ bác bỏ sự buộc tội khi Kiểm sát viên không chứng minh được tội phạm. Tại
phiên tòa sơ thẩm, bị cáo vẫn được quyền suy đoán vô tội. Nếu Kiểm sát viên không có
đủ chứng cứ để buộc tội thì dựa trên nguyên tắc suy đoán vô tội, luật sư cần đề nghị
HĐXX tuyên bị cáo vô tội, trả tự do cho người bị buộc tội.
Tranh luận là quá trình đấu tranh, phủ định lẫn nhau giữa các bên nhằm làm
sáng tỏ chân lý của vụ án. “Tố tụng tranh tụng được coi là địa hạt hành động của cả
hai phía: phía Nhà nước là đại diện là các cơ quan có chức năng buộc tội; phía bị can,
bị cáo cùng với người bào chữa hoặc do người bào chữa đại diện. Từ đó các bên sẽ nỗ
lực hết mình để bảo vệ lợi ích, bảo vệ quan điểm, trình bày chứng cứ, chủ động chứng
minh về các tình tiết của vụ án theo châm ngôn“chân lý chỉ tìm thấy trong tranh luận”
[8, tr.40]. Tranh luận của luật sư không những để làm sáng tỏ sự thật của vụ án mà còn
62
để bảo vệ cho thân chủ không bị oan sai. Chứng cứ của luật sư đưa ra phải có giá trị
chứng minh tốt nhất để thuyết phục HĐXX chấp nhận các ý kiến, đề nghị của luật sư.
Về nguyên tắc Tòa án chỉ thực hiện chức năng xét xử trên cơ sở quyết định truy
tố của Viện kiểm sát. Quyết định đưa vụ án ra xét xử là sự thừa nhận chính thức của
Tòa án về nội dung truy tố và là phạm vi xét xử tại phiên tòa sơ thẩm, theo đó hoạt
động chứng minh của luật sư cũng bị chi phối bởi nội dung, phạm vi truy tố. Nếu
trường hợp Tòa án trả hồ sơ để truy tố lại theo hướng thay đổi sang tội danh nặng hơn
gây bất lợi cho thân chủ thì luật sư cần đề nghị HĐXX giữ nguyên nội dung truy tố của
Viện kiểm sát, không thay đổi tội danh nặng hơn để bảo đảm quyền bào chữa và không
làm xấu tình trạng của bị cáo so với nội dung truy tố của Viện kiểm sát.
Theo nguyên tắc tranh tụng thì mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định
vô tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS…đều phải được trình bày, tranh luận,
làm rõ tại phiên tòa. Căn cứ vào lời luận tội của Kiểm sát viên, luật sư sẽ đưa ra lời bào
chữa phản biện với Kiểm sát viên. Luật sư có thể căn cứ vào đặc điểm về chủ thể các
tội xâm phạm sở hữu để chứng minh bị cáo không phạm tội. Ví dụ: khi người bị buộc
tội từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 16 tuổi có hành vi phạm các tội cướp tài sản, bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản, cưỡng đoạt tài sản thì họ chỉ phải chịu TNHS về tội rất
nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng; nếu hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc
nghiêm trọng thì họ không phải chịu TNHS về các tội xâm phạm sở hữu.
Sau lời luận tội của Kiểm sát viên, lời bào chữa của luật sư các bên sẽ tiến hành
đối đáp nhằm làm rõ những tình tiết, chứng cứ còn mâu thuẫn và những vấn đề phải
chứng minh. Đối đáp tạo ra cơ hội cho các bên đưa ra chứng cứ, lập luận của mình để
làm rõ về tội danh, mức và loại hình phạt, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS. Nếu
không tranh luận về tội danh thì luật sư cần tập trung chứng minh những vấn đề liên
quan đến tình tiết giảm nhẹ, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác
có ý nghĩa giảm nhẹ cho bị cáo. Trong các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu cần đưa
ra các tình tiết như thành khẩn khai báo; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; đơn
xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; các loại giấy tờ về huân, huy chương,v.v…
Tranh luận tại phiên tòa mang tính phản biện giữa hai bên buộc tội và bào chữa
có quyền lợi khác nhau, đối lập nhau. Tại phiên tòa có nhiều chủ thể tham gia, nên luật
sư không chỉ đối đáp với Kiểm sát viên mà còn phải đối đáp với luật sư đồng nghiệp.
63
Vì vậy, luật sư cần sử dụng khả năng phản ứng nhanh nhạy và sự hùng biện của mình
đối đáp trực tiếp, đi thẳng vào những vấn đề cần tranh luận, cần làm sáng tỏ. Lời lẽ đối
đáp của luật sư phải ngắn gọn, đúng trọng tâm, đưa ra chứng cứ, lập luận chặt chẽ, viện
dẫn áp dụng pháp luật cụ thể, rõ ràng, chính xác để bảo đảm tính có căn cứ cho quan
điểm bào chữa của mình. Khi đối đáp, luật sư cần kết hợp với việc phân tích, đánh giá,
khai thác triệt để những mâu thuẫn, bất hợp lý của các chứng cứ buộc tội để bác bỏ,
đồng thời, nhấn mạnh quan điểm bào chữa của luật sư là có căn cứ và hợp pháp.
Đối với vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, luật sư cần bám sát đặc điểm cấu
thành tội phạm của các tội này để bảo vệ thân chủ. Chẳng hạn, để đánh giá sự khác
biệt giữa tội lừa đảo với tội lạm dụng chiếm đoạt tài sản, luật sư cần phân tích làm rõ
người phạm tội có ý thức chiếm đoạt trước hay sau khi thực hiện hành vi chiếm đoạt.
Đối với vấn đề chuyển hóa tội phạm, luật sư cần làm rõ tình tiết do chưa chiếm đoạt
được tài sản nên người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc
nhằm chiếm đoạt cho bằng được tài sản thì được coi là chuyển hóa thành tội cướp tài
sản, còn nếu người phạm tội dùng vũ lực để chống lại sự phát hiện, ngăn cản, bắt giữ
sau khi chiếm đoạt được tài sản, trường hợp này không có sự chuyển hóa mà chỉ là
hành hung để tẩu thoát. Sau khi đối đáp, luật sư sẽ chốt lại những nội dung quan trọng
nhất thành từng vấn đề cụ thể, đưa ra những nhận định, kết luận nhằm thể hiện rõ
quan điểm bào chữa của luật sư để đề nghị HĐXX đưa ra phán quyết.
Như vậy, tranh luận của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm là quá trình lắng nghe,
đánh giá, đối đáp để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Với tư cách là người bào
chữa, luật sư sẽ vận dụng mọi kiến thức, kinh nghiệm và khả năng hùng biện của
mình đưa ra chứng cứ, lý lẽ tranh luận với Kiểm sát viên để làm sáng tỏ sự thật vụ án,
thuyết phục Hội đồng xét xử bác bỏ chứng cứ buộc tội, chấp nhận quan điểm bào
chữa của luật sư. Có thể nói HĐCMLS tại phiên tòa sơ thẩm là phương thức hữu hiệu
nhất để thực hiện chức năng bào chữa, bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho người bị buộc tội
về các tội xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
2.2.3. Ý nghĩa về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu
2.2.3.1. Ý nghĩa về chính trị
Nhà nước pháp quyền có vai trò quan trọng để bảo đảm, bảo vệ quyền con
64
người. “Nhà nước bằng pháp luật thể chế hóa chính sách, đường lối của Đảng và như
vậy pháp luật ngày càng mang đậm màu sắc quyền con người” [133, tr.160] trong đó,
quan trọng nhất là bảo vệ quyền con người của bị can, bị cáo trong TTHS. Nhà nước
đặt mục tiêu và động lực cho sự phát triển là vì con người, do con người. Trong mọi
chính sách phát triển kinh tế-xã hội luôn đặt con người vào vị trí trung tâm, khơi dậy và
giải phóng mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, có điều kiện phát triển toàn diện, bảo đảm
thực hiện công bằng xã hội để mọi người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Về phương
diện chính trị, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là điều kiện tiên quyết bảo
đảm cho Nhà nước Việt Nam thực sự là nhà nước của dân, do nhân và vì dân. Để
đường lối, chính sách của Đảng trở thành hiện thực thì cần thể chế hóa thành pháp luật,
trong đó có pháp luật TTHS nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
quyền bào chữa của người bị buộc tội. Quyền bào chữa của người bị buộc tội được thể
hiện thông qua hoạt động bào chữa, nhưng hoạt động bào chữa thực chất là hoạt động
chứng minh của luật sư, là chủ thể đóng vai trò chủ yếu trong hoạt động chứng minh
thực hiện chức năng bào chữa. Hoạt động chứng minh của luật sư nhằm cụ thể hóa
chức năng bào chữa, là biểu hiện rõ nét nhất về quyền bào chữa của người bị buộc tội
trong TTHS nói chung và hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các
tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Nói cách khác, hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu là nhằm thực hiện chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố
tụng hình sự.
2.2.3.2. Ý nghĩa về pháp lý
Mô hình TTHS nào cũng tồn tại ba chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử và
chúng có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Trong đó, chức năng bào chữa có mối quan
hệ mật thiết với hoạt động chứng minh của luật sư bào chữa. HĐCMLS trong XXST
các tội xâm phạm sở hữu nhằm thực hiện chức năng bào chữa, bảo đảm cho quyền bào
chữa của bị cáo được thực hiện một cách đầy đủ, hiệu quả nhất. Tại phiên tòa sơ thẩm,
luật sư đưa ra chứng cứ, lập luận bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho bị cáo,
góp phần làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cho Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn,
bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người. Có thể nói, ở đâu HĐCMLS được thực hiện
đầy đủ thì ở đó quyền bào chữa của người bị buộc tội được bảo đảm, nhiệm vụ bào
65
chữa của luật sư đã hoàn thành, chức năng bào chữa được thực thi.
Mục đích của tố tụng hình sự là xử lý mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm, không làm oan người vô tội. Để đạt được mục đích đó thì phải tiến hành các
hoạt động TTHS, trong đó có hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
các tội xâm phạm sở hữu. Nhiệm vụ của TTHS có đạt được hay không, cơ quan tiến
hành tố tụng đã thực hiện chức năng của mình như tế nào, quyền lợi của người bị buộc
tội có được bảo đảm đúng pháp luật hay không chủ yếu phụ thuộc vào kết quả hoạt
động chứng minh của các bên tại phiên tòa sơ thẩm, trong đó có sự góp mặt đáng kể
của hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu không chỉ nhằm mục đích bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo mà còn
góp phần cùng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhanh chóng làm sáng tỏ bản
chất sự thật của vụ án, bảo đảm thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh, đúng đắn, tăng
cường dân chủ, thượng tôn pháp luật, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
2.2.3.3.Ý nghĩa về xã hội
Về mặt xã hội, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu góp phần bảo đảm việc thực hiện công bằng, dân chủ trong tố tụng
hình sự, hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa sẽ làm sáng tỏ sự thật của vụ
án, giúp cho Tòa án ra phán quyết đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan
người vô tội, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội
nói chung cũng như các bị cáo bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Mặt
khác, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
không chỉ nhằm thực hiện chức năng bào chữa, bảo đảm quyền bào chữa mà còn là sự
phản biện cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, hạn chế những sai
lầm trong quá trình chứng minh trong TTHS có thể dẫn đến làm oan sai. Hơn nữa, hoạt
động tích cực của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm tạo tiền đề cần thiết cho Tòa án ra bản
án công minh, có ý nghĩa tác động tích cực đến ý thức tuân thủ pháp luật và niềm tin
của người dân về công lý. Có thể nói, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu để minh oan cho người vô tội cũng quan trọng và có
ý nghĩa xã hội như việc xử lý nghiêm minh người phạm tội để bảo vệ lợi ích công
66
cộng, duy trì trật tự xã hội.
2.3. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm theo các
mô hình tố tụng hình sự và của một số quốc gia trên thế giới
2.3.1. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm theo các
mô hình tố tụng hình sự
Khi nói đến mô hình TTHS là nói đến cách thức tổ chức, phương thức hoạt động
của TTHS. Tố tụng hình sự của mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng, chi phối bởi yếu tố
khách quan và chủ quan như điều kiện lịch sử, kinh tế, văn hóa xã hội, truyền thống
pháp lý, nhận thức của nhà làm luật. Mô hình TTHS chính là cách thức tổ chức hoạt
động TTHS trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau để xác định chức năng, nhiệm vụ,
địa vị pháp lý và mối quan hệ giữa các chủ thể trong quá trình giải quyết VAHS. Trên
thế giới tồn tại nhiều mô hình TTHS khác nhau, nhưng nhìn chung chỉ tồn tại hai mô
hình chủ yếu là mô hình TTHS thẩm vấn và mô hình TTHS tranh tụng.
Mô hình TTHS thẩm vấn: Đề cao việc trấn áp tội phạm lấy hiệu quả của việc
phát hiện, xử lý tội phạm làm nhiệm vụ quan trọng của TTHS, hoạt động “thẩm vấn”
được coi là phương thức tốt nhất để tìm ra sự thật của vụ án. Các giai đoạn điều tra,
truy tố có vai trò rất quan trọng. Hoạt động tranh tụng trong giai đoạn xét xử được pháp
luật quy định để xác định sự thật vụ án nhưng trong giai đoạn điều tra, truy tố vai trò
của luật sư còn mờ nhạt, chưa được đề cao, coi trọng đúng mức. Phiên tòa sơ thẩm
không phải là địa hạt hoạt động chứng minh tốt nhất của bên buộc tội và bào chữa mà
chỉ là giai đoạn tiếp tục của hoạt động điều tra công khai về vụ án, thẩm phán thường
chỉ đề cao chú trọng việc thẩm tra lại chứng cứ đã thu thập trên cơ sở hồ sơ điều tra,
truy tố. Trong mô hình TTHS thẩm vấn quyền lực không chia sẻ cho các bên, Tòa án
hầu như đã thâu tóm trong tay mình các chức năng của TTHS, vai trò của Tòa án rất
lớn nhưng vai trò của công tố viên và luật sư rất mờ nhạt. Tính tranh tụng không được
bảo đảm, các chứng cứ và lập luận của luật sư bào chữa bị xem nhẹ, “ý kiến của người
bào chữa có thể ảnh hưởng nhất định đến các hội thẩm, đến những người tham gia
phiên tòa, nhưng tác động đến các thẩm phán thì không nhiều” [96, tr.96-97]. Phiên
tòa sơ thẩm diễn ra ngắn, không gay cấn, sinh động, hấp dẫn. Kết quả phiên tòa không
những phụ thuộc vào hoạt động chứng minh, tranh tụng giữa các bên mà còn phụ thuộc
rất nhiều vào quá trình thu thập chứng cứ của Cơ quan điều tra trước đó. Mô hình tố
67
tụng thẩm vấn có ưu điểm trong việc kiểm soát tình hình tội phạm hiệu quả, hạn chế bỏ
lọt tội phạm. Thẩm phán được nghiên cứu trước hồ sơ vụ án, thời gian phiên tòa diễn ra
không kéo dài. Tuy nhiên, mô hình tố tụng thẩm vấn cũng bộc lộ những hạn chế, như:
Trách nhiệm chứng minh thuộc về các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, các
chủ thể khác hầu như được giải phóng khỏi nghĩa vụ chứng minh. Điều này có lợi cho
việc kiểm soát tình hình tội phạm, nhưng không đảm bảo quyền con người, quyền công
dân trong TTHS. Các chức năng TTHS chưa có sự tách bạch rõ ràng, Tòa án thực hiện
chức năng xét xử nhưng lại rất tích cực trong hoạt động xét hỏi, tranh luận vốn là trách
nhiệm thuộc về các bên buộc tội, bào chữa.
Mô hình TTHS tranh tụng: Nguyên tắc tranh tụng được sử dụng triệt để và được
coi là “phương thức” chủ yếu để tìm ra sự thật của vụ án. Các chức năng của TTHS
được phân định rõ ràng, các bên buộc tội, bào chữa bình đẳng trong việc thu thập
chứng cứ để chứng minh. Tranh tụng là linh hồn của mô hình TTHS tranh tụng, quyền
lực được chia sẻ cho các bên buộc tội và bào chữa, vai trò của luật sư được đề cao ngay
từ khi vụ án bắt đầu vụ án thông qua vai trò chủ động, tích cực của luật sư trong hoạt
động chứng minh. Thẩm phán không nghiên cứu hồ sơ vụ án trước cho đến khi nghe
công tố viên và luật sư bào chữa xuất trình chứng cứ và tranh luận, địa vị pháp lý của
công tố viên và luật sư là ngang nhau. Tòa án có vai trò trọng tài trung lập, không tham
gia tích cực vào vụ án. Hoạt động chứng minh, đối tụng giữa hai bên (buộc tội và bào
chữa) rất được coi trọng mà đỉnh điểm của quá trình tranh tụng là tại phiên tòa sơ thẩm
để tìm ra chân lý. Kết quả tranh tụng của các bên là căn cứ chủ yếu để Tòa án ra phán
quyết, hạn chế việc kết án oan, sai. Luật sư bào chữa bảo vệ cho bị cáo trên cơ sở pháp
luật, “là người góp phần cân bằng cần thiết giữa quyền công tố nhà nước và quyền bào
chữa của người bị buộc tội, hoạt động bào chữa của luật sư phải mạnh mẽ, có sức
thuyết phục cao nhưng không được bất hợp pháp, hay nói một cách đơn giản là giành
thắng lợi trong khuôn khổ pháp luật” [96, tr.106]. Tuy nhiên, mô hình TTHS tranh
tụng cũng có những hạn chế nhất định như, thời gian diễn ra phiên tòa rất dài, phức tạp
chi phí tố tụng cao, người nghèo không có đủ chi phí để thuê luật sư thì sẽ gặp nhiều
bất lợi. Các bên có thể yêu cầu hoãn phiên tòa nhiều lần để thu thập, củng cố thêm
chứng cứ, tích cực trong quá trình chứng minh, kết quả phiên tòa phụ thuộc vào khả
năng tranh tụng của các bên, Tòa án ra phán quyết dựa vào phát biểu của bên nào tốt
68
hơn sẽ giành phần thắng, điều này có thể dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm.
2.3.2. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới
2.3.2.1. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Hoa Kỳ
Hoa Kỳ áp dụng mô hình TTHS tranh tụng, vai trò của thẩm phán, công tố
viên, luật sư phân chia rõ ràng để thực hiện chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử.
Tranh tụng dựa trên Quy tắc TTHS Liên bang và Quy tắc Liên bang về bằng chứng
(FRE). Vai trò của luật sư được đề cao ngay từ khi bắt đầu vụ án.
Trước khi bắt đầu phiên điều trần bị cáo được biết thông tin về việc buộc tội để
bào chữa, nếu bị cáo nhận tội thì thẩm phán thường sẽ tiến hành tuyên án. Ngược lại,
nếu bị cáo không nhận tội thì công tố viên sẽ phát biểu quyết định truy tố và thẩm vấn
bị cáo, tiếp theo là luật sư đối chất với công tố viên, luật sư có quyền phản đối ngay
câu hỏi hoặc câu trả lời của công tố viên. Luật sư có thể từ chối thẩm vấn chéo người
làm chứng và luật sư được triệu tập lại chính người đó trong phần bào chữa, nhưng
lúc này chỉ được trực vấn chứ không được đặt những câu hỏi thông thường (Quy tắc
661-Quy tắc Liên bang). Về thủ tục bào chữa, luật sư gọi người làm chứng để trực
vấn, công tố viên có quyền chất vấn chéo sau khi luật sư chất vấn xong, thẩm phán sẽ
chấp nhận việc hỏi và trả lời dựa trên quy tắc FRE, một quy trình lập luận liên tục làm
cho phiên tòa gay cấn, sinh động. Sau khi luật sư tuyên bố kết thúc phần bào chữa,
công tố viên sẽ trình lên bồi thẩm đoàn phần lập luận cuối cùng của mình, sau đó là
luật sư bào chữa. Thẩm phán sẽ đọc cho bồi thẩm đoàn nghe về các quy định của pháp
luật để áp dụng đối với các tình tiết của vụ án và các tình tiết đó do bồi thẩm đoàn
quyết định (Quy tắc 30 (c)-Quy tắc TTHS Liên bang).
Quyền được im lặng được áp dụng triệt để ở Hoa Kỳ, còn gọi là “cảnh báo
Miranda”, xuất phát từ lý do lời nhận tội của bị can có sự ép buộc, không tự nguyện.
Nguyên tắc giả định về sự vô tội, không yêu cầu bị can chứng minh sự vô tội hoặc
phải đưa ra bất kỳ bằng chứng nào. Nhà nước phải chứng minh bị cáo có tội mà không
có cơ sở nào để nghi ngờ và nếu không thì bị cáo sẽ được tuyên là vô tội [125].
2.3.2.2. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Pháp
69
Cộng hoà Pháp là nước điển hình của mô hình tố tụng thẩm vấn, sự thật của vụ
án có thể tìm thấy trong quá trình thẩm vấn, chưa có sự phân chia rành mạch các chức
năng tố tụng. Trách nhiệm chứng minh sự thật của vụ án hoàn toàn thuộc về cơ quan
buộc tội. Nguyên tắc suy đoán vô tội là một nguyên tắc xuất phát từ cuộc cách mạng
Pháp, nguyên tắc này đã được ghi nhận trong BLTTHS. Bị cáo được coi là vô tội cho
đến khi Tòa án có đủ chứng cứ chứng minh tuyên buộc người đó có tội.
Tuy nhiên, TTHS của Cộng hòa Pháp có nhiều quy định thể hiện nguyên tắc
tranh tụng, như cho phép luật sư có quyền tham gia ngay từ khi bắt giam người bị tình
nghi, thừa nhận quyền được giữ im lặng, đây là điểm mới so với truyền thống TTHS
thẩm vấn. Thẩm phán có vai trò rất lớn trong việc xét hỏi để kiểm tra, đánh giá chứng
cứ của vụ án trong suốt quá trình xem xét, giải quyết tại phiên tòa. Công tố viên buộc
tội và luật sư bào chữa được tham gia xét hỏi nhưng phải thông qua sự điều khiển của
thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Chứng cứ thu thập trước khi đưa ra xét xử đòi hỏi phải
đầy đủ, trọn vẹn, nếu không đạt yêu cầu này thì sẽ bị trả hồ sơ để điều tra bổ sung.
Các bên tranh tụng có quyền yêu cầu Tòa án triệu tập người làm chứng đến
Toà án một cách không hạn chế. Với niềm tin cho rằng lời khai của người làm chứng
sẽ có giá trị chứng minh cao nên pháp luật TTHS rất coi trọng thủ tục xét hỏi đối với
người làm chứng. Về cơ bản, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa tương tự như pháp luật
TTHS Việt Nam, chủ tọa phiên tòa có quyền hạn rộng lớn, đóng vai trò chủ đạo trong
việc xét hỏi, công tố viên và luật sư bào chữa thụ động trong quá trình xét hỏi. Tại
phiên tranh luận, công tố viên trình bày bản cáo buộc, luật sư bào chữa trình bày lời
bào chữa và tranh luận, đối đáp với công tố viên, bị cáo có quyền tranh luận, đưa ra
yêu cầu và có quyền nói lời sau cùng. Nhìn chung, thủ tục tranh tụng theo pháp luật
TTHS của Pháp thường diễn ra với thời gian ngắn, không sôi động, gay cấn giữa các
bên; bị cáo thường nhanh chóng nhận tội, quyền bào chữa của người bị buộc tội và
hoạt động chứng minh của luật sư bào chữa chưa thật sự được bảo đảm.
2.3.2.3. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Nga
Tố tụng hình sự Liên bang Nga quy định “Người bị tình nghi hoặc bị can không
có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình. Vấn đề chứng minh phạm tội và bác bỏ
những chứng cứ nhằm bảo vệ cho người bị tình nghi hoặc bị can thuộc trách nhiệm
70
của bên buộc tội” [126]. Bộ luật TTHS Liên bang Nga nhấn mạnh yêu cầu bảo đảm
công bằng bên cạnh yêu cầu kiểm soát tội phạm, ghi nhận nguyên tắc suy đoán vô tội
(Điều 14), tranh tụng là đặc trưng của mô hình TTHS tranh tụng, luật sư bào chữa được
tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can hoặc từ khi bắt giữ người bị tình nghi hoặc từ khi
thực hiện biện pháp cưỡng chế tố tụng hoặc những biện pháp tố tụng khác hạn chế
quyền và tự do của người bị tình nghi phạm tội (Điều 16, Điều 49), bên bào chữa có
quyền thu thập chứng cứ (Điều 86). Các bên có quyền yêu cầu Toà án triệu tập những
người làm chứng và Toà án không có quyền từ chối (Điều 231, 271). Khi tham gia
tranh tụng tại phiên tòa thì Kiểm sát viên và người bào chữa có vai trò chủ động, tích
cực, nhưng Tòa án vẫn tiến hành thẩm vấn bị cáo, nhân chứng sau khi công tố viên và
người bào chữa đã thẩm vấn (Điều 275 BLTTHS). Sau khi kết thúc phần tranh luận,
những người tranh luận tham gia đối đáp, người bào chữa và bị cáo có quyền đối đáp
sau cùng. Kết thúc phần tranh luận bị cáo nói lời sau cùng (các Điều 274, 294).
2.3.2.4. Khái quát hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm trong tố
tụng hình sự Trung Quốc
Trung Quốc không quy định riêng những vấn đề chứng minh trong VAHS mà
nó được quy định gián tiếp trong một số điều luật. Điều 42 BLTTHS năm 1996 quy
định: “Mọi tình tiết chứng minh sự thật của vụ án đều là chứng cứ. Để chứng minh tội
phạm thì Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải xác định và chứng minh tất
cả những sự kiện, tình tiết để có thể làm sáng tỏ thực chất vụ án…”. Điều 12
BLTTHS năm 1996 quy định: “Không ai coi là có tội nếu không có phán quyết của
Tòa án nhân dân theo đúng pháp luật”. Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên phải
thu thập chứng cứ để chứng minh nghi phạm hoặc bị cáo có tội hoặc vô tội, tính chất,
mức độ tội phạm nghiêm trọng hay không (Điều 43). Quy tắc loại trừ chứng cứ đã
được thiết lập. Trong trường hợp chỉ có lời thú tội của bị cáo mà không có bằng chứng
nào khác thì bị cáo không bị coi là có tội. Trường hợp không có lời nhận tội nhưng có
chứng cứ đầy đủ và đáng tin cậy thì bị cáo có thể bị kết tội [127, Điều 46].
Pháp luật TTHS Trung Quốc không phân chia thủ tục xét hỏi và tranh luận
thành hai phần riêng biệt, không chỉ Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, luật sư bào chữa
mà bị cáo và những người tham gia tố tụng khác cũng được chất vấn người làm chứng.
Trước khi bắt đầu xét hỏi thì Kiểm sát viên sẽ trình bày bản cáo trạng, tiếp theo là
71
người buộc tội được đưa ra ý kiến của mình về việc buộc tội, sau đó Kiểm sát viên sẽ
tiến hành xét hỏi, rồi đến luật sư bào chữa và những người tham gia tố tụng khác đặt
câu hỏi nhưng phải thông qua sự đồng ý của chủ tọa phiên tòa, cuối cùng là HĐXX sẽ
xét hỏi nếu xét thấy cần thiết. Thủ tục tranh luận quy định: “Trong phiên tòa, những
vấn đề và chứng cứ có liên quan đến kết quả xét xử sẽ được xem xét và tranh luận”
(Điều 193 BLTTHS năm 2012). Các bên tham gia tranh tụng tại phiên tòa là Kiểm sát
viên và luật sư bào chữa có quyền đưa ra chứng cứ, lập luận tranh luận bình đẳng; hai
bên có nghĩa vụ đưa ra vật chứng trước phiên tòa để kiểm tra, hạn chế sự chi phối của
HĐXX trong quá trình giải quyết vụ án.
Qua nghiên cứu quy định về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm theo các mô hình TTHS và của một số quốc gia, có thể rút một số kinh nghiệm
cho tố tụng hình sự Việt Nam như sau:
Hoa Kỳ là quốc gia đại diện điển hình cho mô hình tố tụng hình sự tranh tụng.
Pháp luật quy định việc triệu tập người làm chứng do luật sư và công tố viên lựa chọn,
quyết định, hoạt động thẩm vấn tại phiên tòa do công tố viên và luật sư bào chữa thực
hiện, bảo đảm sự khách quan, công bằng cho các bên trong hoạt động chứng minh; luật
sư và công tố viên tranh tụng dựa trên chứng cứ trực tiếp đưa ra tại phiên tòa chứ
không có hồ sơ vụ án lập trước cho Tòa án như trong tố tụng hình sự Việt Nam. Tính
tranh tụng thể hiện rất cao, đây là điểm nổi bậc nhất của tố tụng hình sự Hoa Kỳ, các
chức năng tố tụng buộc tội, bào chữa, xét xử được phân chia rành mạch, rõ ràng để các
chủ thể thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ tố tụng phù hợp với chức năng vốn có của
mình. Điều này góp phần bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp của các bên tham gia
tranh tụng. Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, luật sư bào chữa được hoàn
toàn chủ động, tích cực trong hoạt động chứng minh để bảo vệ cho thân chủ của mình
theo đúng quy định của pháp luật để đạt hiệu quả cao nhất, người bào chữa được quyền
thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để chứng minh, tranh tụng bình đẳng, vai trò của
luật sư rất được coi trọng, nổi bật tại phiên tòa. Thẩm phán có vai trò trung lập, không
can thiệp vào hoạt động chứng minh của công tố viên và luật sư, các bên tranh tụng
được quyền chất vấn chéo và tái chất vấn chéo những người làm chứng để làm rõ
chứng cứ, phản ánh đậm nét tính tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa và hoạt động
chứng minh của luật sư tại phiên tòa. Đây là những mặt tích cực, tiến bộ là kinh
72
nghiệm hay đối với TTHS Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài những ưu điểm nêu trên thì tố
tụng hình sự Hoa Kỳ cũng bộc lộ những hạn chế, như phải qua nhiều thủ tục rườm rà,
thời gian tố tụng kéo dài, mất thời gian, công sức và chi phí, sự bị động và thiếu hợp
tác của bị cáo sẽ gây khó khăn, cản trở cho quá trình chứng minh, tội phạm có thể bị xử
nhẹ hoặc bị bỏ lọt, khó kiểm soát được tình hình tội phạm.
Đối với các nước theo mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn như Cộng hòa Pháp, sự
thật của vụ án chỉ có thể có được thông qua thẩm vấn. Tố tụng hình sự Pháp coi trọng
và quy định rất chặt chẽ thủ tục cách ly người làm chứng, chứ không chỉ đặt nặng lời
khai của bị cáo; công tố viên chỉ trình bày kết luận chứ không luận tội như tố tụng hình
sự Việt Nam, thủ tục trình bày kết luận của công tố viên ở Pháp là một kinh nghiệm đối
với nước ta; thủ tục hỏi và tranh luận không có sự phân biệt, vừa hỏi vừa tranh luận,
coi thẩm vấn là sự thể hiện của tranh luận, điều này cho thấy tố tụng hình sự thẩm vấn
của Pháp đã có sự tiếp thu rõ nét yếu tố tranh tụng trong hoạt động chứng minh. Đối
với tố tụng hình sự Trung Quốc, quy định Kiểm sát viên và luật sư đều có nghĩa vụ đưa
ra vật chứng trước phiên tòa để kiểm tra, thể hiện sự bình đẳng trong hoạt động cung
cấp chứng cứ, tạo điều kiện, bảo đảm cho các bên buộc tội, bào chữa có đủ tài liệu,
chứng cứ làm phương tiện chứng minh bảo vệ quan điểm của mình trước phiên tòa;
Kiểm sát viên có nghĩa vụ thực hiện việc hỏi chính, HĐXX không tham gia xét hỏi, chỉ
hỏi khi cần thiết và được hỏi sau, điều này cho thấy tố tụng hình sự Trung Quốc đã
khẳng định rõ Kiểm sát viên chính là chủ thể buộc tội chứ không ai khác; một điểm
đáng lưu ý nữa là, ngay sau khi đọc cáo trạng thì bị cáo được quyền phát biểu, nêu rõ ý
kiến của mình về việc buộc tội của công tố viên, đây là một kinh nghiệm hay cần học
hỏi cho tố tụng hình sự Việt Nam. Còn đối với tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang
Nga thì, các bên có quyền yêu cầu Toà án triệu tập những người làm chứng, Toà án
không có quyền từ chối, Kiểm sát viên và người bào chữa có vai trò tích cực trong hoạt
động xét xử tại phiên tòa.
Như vậy, những sự khác biệt trong TTHS đã tạo nên sự khác nhau về thủ tục
tranh tụng, về vị trí, vai trò của luật sư trong hoạt động chứng minh trong xét xử sơ
thẩm. Những ưu điểm tiến bộ nêu trên của các quốc gia là những kinh nghiệm quý để
sửa đổi, hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói chung và hoạt động chứng
73
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
2.4. Các yếu tố tác động đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu
2.4.1. Yếu tố về pháp luật
Thời gian qua, HĐCMLS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
hữu đã góp phần nâng cao chất lượng giải quyết VAHS. Tuy nhiên, thực tiễn có nhiều
yếu tố tác động đến chất lượng HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu, trong
đó có yếu tố về pháp luật. Hoạt động TTHS sẽ tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người bị buộc tội thông qua các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử mà các
hoạt động này được thể hiện thông qua hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng
cứ. Nếu các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư cụ
thể, rõ ràng, đầy đủ thì việc áp dụng pháp luật sẽ thuận lợi, giúp cho HĐCMLS đạt hiệu
quả, bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Ngược lại, nếu các quy định của
pháp luật về quyền thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ của người bào chữa không rõ
ràng, chồng chéo thì việc áp dụng pháp luật sẽ hạn chế, ảnh hưởng đến HĐCMLS, sự
thật vụ án không làm sáng tỏ có thể dẫn đến oan sai, ảnh hưởng đến quyền lợi của
người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu. Những hạn chế, bất cập của pháp luật là
một trong những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động chứng minh của luật sư. Như
vậy, để nâng cao chất lượng hoạt động TTHS nói chung và hoạt động chứng minh của
luật sư nói riêng cần phải hoàn thiện pháp luật TTHS, trong đó có các quy định của
pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST phải bảo đảm
tính thống nhất, đồng bộ phù hợp với Hiến pháp và pháp luật. Đặc biệt, pháp luật điều
chỉnh về HĐCMLS trong XXST lại càng đòi hỏi sự hoàn thiện hệ thống pháp luật với
những tiêu chí bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ, toàn diện, chính xác, thống nhất dễ áp
dụng để bảo vệ được quyền lợi chính đáng cho người bị buộc tội trong XXST các tội
xâm phạm sở hữu. Có thể nói, với một hệ thống luật thực định (cả luật nội dung và luật
hình thức) đầy đủ, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phải được bổ sung, hoàn thiện và được
hướng dẫn thi hành một cách thống nhất, kịp thời sẽ là điều kiện tốt nhất cho hoạt động
áp dụng pháp luật đúng đắn, giúp cho nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh trong
tố tụng hình sự nói chung và hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
74
các vụ án xâm phạm sở hữu nói riêng.
2.4.2. Yếu tố về con người và nhận thức
Khi nói đến các yếu tố có tác động đến HĐCMLS trong XXST các tội xâm
phạm sở hữu thì không thể không đề cập đến yếu tố con người và nhận thức của họ (kể
cả nhận thức lý luận). Pháp luật chỉ có thể đi vào cuộc sống khi các chủ thể nhận thức
và tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.
Nếu những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhận thức đầy đủ, đúng đắn
pháp luật, trong đó có cả nhận thức lý luận về hoạt động chứng minh thì sự thật khách
quan của vụ án sẽ được làm sáng tỏ, vụ án được giải quyết đúng đắn. Ngược lại, nếu
nhận thức của những người tiến hành tố tụng không đúng đắn, động cơ, mục đích
không tốt thì việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ sẽ mang tính chủ quan, phiến
diện, một chiều dễ dẫn đến oan sai. Bênh cạnh ý thức pháp luật thì đòi hỏi những người
tiến hành tố tụng phải có năng lực, trình độ chuyên môn, phẩm chất đạo đức tốt để bảo
đảm quá trình chứng minh đúng đắn. Ngược lại, nếu họ yếu kém về trình độ chuyên
môn, thiếu kinh nghiệm, đạo đức không tốt sẽ dễ mắc sai lầm, vi phạm pháp luật, tác
động tiêu cực đến HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu. Đối với thẩm
phán, là chủ thể tiến hành tố tụng đóng vai trò quan trọng có thẩm quyền ra phán quyết
một người có tội hay vô tội. Vì vậy, trong quá trình chứng minh thẩm phán phải tuân
thủ pháp luật, độc lập, khách quan trong xét xử, phải có đủ năng lực, trình độ chuyên
môn nghiệp vụ, nhận thức đúng đắn pháp luật, xem xét, đánh giá chứng cứ chính xác
về các tội xâm phạm sở hữu trong XXST một cách khách quan, chính xác để đưa ra
phán quyết công minh không bỏ lọ tội phạm, không làm oan người vô tội.
Đối với những người tham gia tố tụng, đặc biệt là đối với người bào chữa, trong
đó luật sư có vai trò rất quan trọng trong quá trình chứng minh làm sáng tỏ sự thật của
vụ án, chứng minh bị cáo không phạm tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội
về các tội xâm phạm sở hữu mà điển hình là tại phiên tòa sơ thẩm, góp phần bảo vệ
công lý, quyền con người trong TTHS. Nếu ý thức pháp luật của người bào chữa thấp,
năng lực, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, phẩm chất đạo đức không tốt thì không
thể thực hiện tốt vai trò của người bào chữa, hoạt động chứng minh của họ sẽ kém hiệu
quả, không bảo vệ được quyền lợi cho người bị buộc tội. Ngược lại, nếu người bào
chữa có đủ trình độ chuyên môn, nhiều kinh nghiệm, đạo đức chuẩn mực thì sẽ thực
75
hiện đúng đắn quyền và nghĩa vụ trong hoạt động chứng minh, góp phần cùng cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo vệ quyền lợi tốt
nhất cho bị cáo trong XXST các tội xâm phạm sở hữu. Như vậy, yếu tố con người và ý
thức của họ là những nhân tố quan trọng bảo đảm hàng đầu và có sự tác động, ảnh
hưởng rất lớn đến hiệu quả hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các
tội xâm phạm sở hữu.
2.4.3. Yếu tố về kinh tế-xã hội
Pháp luật tồn tại và phát triển trên cơ sở nền kinh tế-xã hội ổn định, kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình tổ chức thực hiện pháp luật. Yếu tố về kinh tế -
xã hội tác động, ảnh hưởng nhất định đến hoạt động TTHS nói chung và hoạt động
chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ thẩm nói riêng. Nếu kinh tế phát triển
sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển của con người, thúc đẩy phát luật phát triển và ngày
càng hoàn thiện, tạo thuận lợi cho thực hiện và áp dụng pháp luật bảo đảm quyền con
người, quyền bào chữa của người bị buộc tội và hoạt động chứng minh của luật sư.
Ngược lại, nếu điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn, kinh tế chậm phát triển thì không thể
bảo đảm cơ sở vật chất, tạo động lực cho phát triển và hoàn thiện pháp luật, tác động
ảnh hưởng đến hoạt động TTHS nói chung và hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Thời đại hiện nay, các phương tiện
truyền thông cùng với dư luận xã hội đã và đang trở thành một trong những lực lượng
xung kích quan trọng phát hiện những cái mới, những cá nhân, tập thể điển hình tiên
tiến, sự khen chê của xã hội có một sức mạnh tác động vào tâm tư, tình cảm, hành động
của từng cá nhân và hoạt động xét xử lại càng được xã hội quan tâm. Bởi vì, phiên tòa
sơ thẩm là nơi thể hiện hoạt động chứng minh của các bên một cách rõ ràng, cụ thể
nhất, hiệu quả nhất để tìm ra chân lý của vụ án, cho công lý được thực thi.
Hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu góp
phần quan trọng vào việc giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Nếu dư luận xã hội phản ánh đúng đắn về vụ án sẽ là điều kiện thuận lợi cho
hoạt động chứng minh, ý thức pháp luật sẽ được nhân lên. Nếu dư luận xã hội phản ánh
vụ án một cách phiến diện, không đúng với sự đánh giá khen chê, lên án hoặc bảo vệ
quá mức thì sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động chứng minh. Nghiên cứu những yếu
tố tác động đến hoạt động chứng minh trong TTHS để từ đó đưa ra những giải pháp
76
nhằm nâng cao chất lượng HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu.
Kết luận Chương 2
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm, quyết định của vụ án. Tính chất và hình
thức của xét xử sơ thẩm có tác động chi phối đến hoạt động của chủ thể thực hiện các
chức năng cơ bản của tố tụng hình sự, trong đó có hoạt động chứng minh của luật sư
bào chữa. Hoạt động chứng minh của luật sư là hoạt động tư duy và thực tiễn để nhận
thức về vụ án, hoạt động này chịu sự chi phối bởi tính chất, thủ tục xét xử sơ thẩm và
đặc điểm các tội xâm phạm sở hữu. Để làm rõ khái niệm hoạt động chứng minh của
luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, luận án đã tập trung phân tích,
làm rõ một số khái niệm liên quan như, khái niệm hoạt động chứng minh, khái niệm
hoạt động chứng minh của luật sư, tính chất của xét xử sơ thẩm và đặc điểm pháp lý
của các tội xâm phạm sở hữu.
Luận án nghiên cứu, phân tích về đối tượng, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa, các
yếu tố tác động đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu và những quy định về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ
thẩm trong tố tụng hình sự của một số quốc gia trên thế giới. Qua phân tích, nghiên cứu
hoạt động chứng minh của luật sư trong tố tụng hình sự cho thấy, hoạt động hứng minh
của luật sư chẳng những chịu sự chi phối bởi đối tượng hoạt động chứng minh mà còn
bị chi phối bởi đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu, tính chất và hình thức của xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự. Thông qua hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
của luật sư để xác định, làm sáng tỏ các sự kiện, tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó giúp
cho luật sư bào chữa đưa ra chứng cứ, lập luận chứng minh bác bỏ sự buộc tội hoặc
giảm nhẹ TNHS cho người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Xét xử sơ thẩm là giai đoạn trung tâm, quyết định của quá trình hoạt động tố
tụng hình sự, là nơi hội tụ của chủ thể thực hiện các chức năng cơ bản của tố tụng hình
sự. Phiên tòa xét xử sơ thẩm được tiến hành bằng thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi,
tranh luận, nghị án và tuyên án. Trong đó, hoạt động chứng minh của luật sư bào chữa
được thể hiện rõ nét nhất qua thủ tục xét hỏi và tranh luận, hoạt động chứng minh của
luật sư bào chữa làm đối trọng, phản biện với Kiểm sát viên để làm sáng tỏ sự thật vụ
án, trên cơ sở đó đưa ra chứng cứ, lý lẽ để bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự cho người bị buộc tội, giúp cho Tòa án giải quyết đúng đắn vụ án về các
77
tội xâm phạm sở hữu trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
Chương 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH
CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TẠI CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ
3.1. Quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội là nguyên tắc cơ bản của một
nền tư pháp dân chủ. Quyền bào chữa của người bị buộc tội đã được ghi nhận ngay từ
bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, sau đó các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980,
năm 1992 đều ghi nhận, đề cao nguyên tắc quan trọng này. Hiến pháp năm 2013 tiếp
tục quy định: “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
đương sự được bảo đảm (Điều 103) và “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa”
(Điều 31). Những quy định nêu trên đã được thể chế hóa thành các quy định của
BLTTHS năm 2015 về quyền bào chữa của người bị buộc tội. “Người bị buộc tội có
quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa…” (Điều 16). Quy định về
quyền bào chữa không chỉ để bảo đảm quyền con người mà còn là cơ sở để luật sư thực
hiện chức năng bào chữa, tham gia vào hoạt động chứng minh trong TTHS để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội.
3.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm
3.1.1.1. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự từ năm 1945 đến trước khi ban hành
Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm
Sau khi giành được độc lập, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, việc
ban hành pháp luật nói chung và thành lập các cơ quan tư pháp được đặt ra để xây
dựng, quản lý đất nước. Ngày 10/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh
số 47/SL cho phép sử dụng luật lệ của chế độ cũ nếu những luật lệ ấy không trái với
78
nền độc lập của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thời kỳ này nước ta chưa có
điều kiện xây dựng pháp luật nên chưa có một BLTTHS thống nhất, các quy định của
pháp luật TTHS nằm rải rác ở nhiều văn bản để giải quyết vụ án hình sự.
Tuy là giai đoạn đầu hình thành nền tư pháp nhưng thời kỳ này đã từng bước
xác định chức năng tố tụng của các chủ thể. Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 xác định
các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử: “Ngồi xử có Chánh án và hai Hội thẩm…
Đứng buộc tội là một Ủy viên quân sự hay Ủy viên của Ban trinh sát, bị cáo có thể bào
chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho…” [124, tr.401]. Tư pháp Công an được
thành lập theo Sắc lệnh 131/SL ngày 20/7/1946 để điều tra các vụ án (sau này là Cơ
quan điều tra). Tòa án thực hiện xét xử độc lập với cơ quan hành chính. Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 1960 quy định: “Các Tòa án nhân dân là những cơ quan xét xử
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”. Viện Kiểm sát nhân dân được thành lập năm
1960 để thực hiện chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Pháp lệnh
Tổ chức luật sư thông qua ngày 19/12/1987. Trong giai đoạn này nhiều Đoàn luật sư đã
được thành lập ở hầu hết các tỉnh, đáp ứng nhu cầu bào chữa cho bị can, bị cáo.
- Về chứng cứ, chứng minh trong TTHS: Chứng cứ viết được các cơ quan tố
tụng thu thập là chứng cứ quan trọng để thẩm tra tại phiên tòa. Hồ sơ vụ án được lập từ
các cơ quan tố tụng. Đầu tiên là do cơ quan Tư pháp công an lập, sau đó được kiểm tra
kiện toàn bởi cơ quan Công tố rồi chuyển cho Tòa án để xét xử. Thậm chí, đến khi Tòa
án đã nhận hồ sơ và quyết định truy tố thì việc hoàn thiện hồ sơ vẫn có thể được tiến
hành bởi phiên họp trù bị giữa Tòa án và cơ quan Công tố để trao đổi, thống nhất cách
xử lý vụ án. Mặc dù chưa được quy định rõ ràng nhưng cho thấy chứng cứ và chứng
minh rất được quan tâm, coi trọng. Thông tư số 16/TATC ngày 27/9/1974 của Tòa án
tối cao quy định về xem xét, đánh giá chứng cứ và các nguyên tắc đánh giá chứng cứ;
Thông tư số 2225-HCTP ngày 24/10/1956 của Bộ tư pháp quy định: Nếu người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo không sử dụng đầy đủ quyền bào chữa thì không gọi là chân lý.
- Về thực hiện quyền bào chữa: Trong giai đoạn này đã có nhiều quy định tiến
bộ về bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội. Bị can, bị cáo có thể tự bào chữa
lấy hoặc mướn luật sư để bào chữa cho mình. Theo Điều 2 Sắc lệnh 46-SL ngày
10/10/1945 quy định về tổ chức các Đoàn luật sư thì các luật sư có quyền bào chữa ở tất cả
các Tòa ở hàng tỉnh trở lên và trước các Tòa án quân sự. Nghị định số 82-TP/NĐ ngày
79
25/02/1946 của Bộ Tư pháp quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các cơ
quan tiến hành tố tụng về bảo đảm quyền bào chữa của bị can, bị cáo.
- Về thủ tục xét xử vụ án hình sự: Tố tụng hình sự nước ta thời kỳ này được xây
dựng trên cơ sở của mô hình TTHS thẩm vấn, tranh tụng chỉ thể hiện ở giai đoạn xét
xử. Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 quy định: “Sau khi nghe các bị can, các người làm
chứng, cáo trạng của ông biện lý (Chưởng lý), và sau cùng nghe lời cãi của các bị can,
ông Chánh án, hai Thẩm phán (Hội thẩm) và hai Phụ thẩm nhân dân lui vào phòng
nghị xử để quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc về tội trạng, hình phạt, trường hợp
tăng tội và trường hợp giảm tội” (Điều thứ 31 về Tòa án đệ nhị cấp và Điều 41 về Tòa
án thượng thẩm) [124, tr.426-427]. Tòa án có vai trò trung tâm, các bên được thực hiện
quyền và nghĩa vụ của họ, bị cáo được quyền bào chữa trước Tòa án. Nhìn chung,
trong giai đoạn đất nước chiến tranh nhưng việc hoàn thiện pháp luật TTHS rất được
quan tâm bằng việc liên tục ban hành các văn bản làm cơ sở pháp lý cho việc giải quyết
vụ án. Tuy nhiên, pháp luật thời kỳ này chưa có sự phân định rõ ràng về vấn đề chứng
cứ và chứng minh để các chủ thể thực hiện chức năng tố tụng của mình.
3.1.1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 liên quan đến hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
Bộ luật TTHS năm 1988 ra đời, lần đầu tiên đánh dấu sự phát triển hoàn thiện
pháp luật nước ta. Bộ luật TTHS năm 1988 quy định rõ các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, quy định về địa vị pháp lý, quyền và
nghĩa vụ tố tụng để các chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh trong TTHS.
- Quy định về đối tượng chứng minh
Bộ luật TTHS 1988 quy định về những vấn đề phải chứng minh trong VAHS
(đối tượng chứng minh) đặt ra yêu cầu để các cơ quan tiến hành tố tụng tuân thủ
nguyên tắc khách quan, toàn diện trong quá trình chứng minh. Khi điều tra, truy tố và
xét xử vụ án hình sự, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án phải chứng minh:
1) Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác
của hành vi phạm tội; 2) Ai là người thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có
lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực trách nhiệm hình sự sự hay không; mục đích hoặc
động cơ phạm tội; 3) Những tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm của bị
can, bị cáo và những đặc điểm về nhân thân bị can, bị cáo; 4) Tính chất và mức độ thiệt
80
hại do hành vi phạm tội gây ra (Điều 47).
- Quy định về hoạt động chứng minh
Bộ luật TTHS năm 1988 đã đưa ra định nghĩa về chứng cứ, theo đó, chứng cứ là
những gì có thật, được thu thập theo trình tự do Bộ luật này quy định mà Cơ quan điều
tra, Viện kiểm sát và Toà án dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi
phạm tội, người thực hiện hành vi phạm tội cũng như những tình tiết khác cần thiết cho
việc giải quyết đúng đắn vụ án (Điều 48).
+Về hoạt động thu thập chứng cứ: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thực hiện
chức năng buộc tội, có quyền thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm. Việc thu thập
chứng cứ chủ yếu giao cho Cơ quan điều tra thực hiện, Viện kiểm sát cũng được giao
một số thẩm quyền quan trọng để bảo đảm thực hiện tốt chức năng buộc tội của mình
nhất là trong giai đoạn xét xử. Các chủ thể thực hiện chức năng bào chữa là người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo và người bào chữa của họ không có quyền thu thập chứng cứ.
+Về hoạt động kiểm tra, đánh giá chứng cứ: Bộ luật TTHS năm 1988 quy định
về hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ nhưng chưa quy định về hoạt động kiểm tra
chứng cứ. Về đánh giá chứng cứ pháp luật cũng chỉ quy định cho Điều tra viên, Kiểm
sát viên, thẩm phán và hội thẩm nhân dân có quyền đánh giá chứng cứ (Điều 50). Chủ
thể có thẩm quyền thu thập, đánh giá chứng cứ chỉ thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.
Người bị buộc tội, người bào chữa không được quyền thu thập chứng cứ.
- Về thực hiện quyền bào chữa: Điều 11 BLTTHS năm 1988 quy định: “Trách
nhiệm chứng minh tội phạm thuộc các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có
quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội” . Để tham gia vào hoạt động
chứng minh trong vụ án, người bào chữa có quyền có mặt khi hỏi cung bị can… đưa ra
chứng cứ và những yêu cầu; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam; được đọc hồ sơ vụ án
và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều tra; có quyền tham gia xét hỏi và
tranh luận tại phiên toà…(Điều 36 BLTTHS năm 1988). Người bị buộc và người bào
chữa của họ không có quyền thu thập, đánh giá chứng cứ.
- Về thủ tục xét xử vụ án hình sự: Bộ luật TTHS năm 1988 quy định:“Trước khi
tiến hành xét hỏi, kiểm sát viên đọc bản cáo trạng và trình bày những ý kiến bổ sung,
nếu có” (Điều 180). Về xét hỏi:“Khi xét hỏi từng người, chủ toạ phiên toà hỏi trước
rồi đến các hội thẩm nhân dân, sau đó đến kiểm sát viên, người bào chữa…” (khoản 2
81
Điều 181). Về trình tự phát biểu khi tranh luận:“Sau khi kết thúc việc xét hỏi tại phiên
toà, kiểm sát viên trình bày lời luận tội. Bị cáo trình bày lời bào chữa, nếu bị cáo có
người bào chữa thì người này bào chữa cho bị cáo. Bị cáo có quyền bổ sung ý kiến bào
chữa” (khoản 1, 2 Điều 191). Về thủ tục đối đáp, “Người tham gia tranh luận có quyền
đáp lại ý kiến của người khác nhưng chỉ được phát biểu một lần đối với mỗi ý kiến mà
mình không đồng ý. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế thời gian tranh luận, nhưng có
quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án” (Điều 192). Xét xử sơ thẩm thực
chất là quá trình kiểm tra, đánh giá chứng cứ do Cơ quan điều tra thu thập và hồ sơ vụ
án là cơ sở cho việc xét xử. Bộ luật TTHS năm 1988 huy động tối đa sự tham gia của
các cơ quan tiến hành tố tụng, không chỉ Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà ngay cả
Tòa án cũng tham gia vào quá trình chứng minh tội phạm. Bên cạnh đó, quyền của
người bào chữa cũng được quy định để bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội.
3.1.1.3. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 liên quan đến hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
Bộ luật TTHS năm 2003 có nhiều thay đổi, bổ sung tiến bộ ghi nhận sự tồn tại
các chức năng cơ bản của TTHS, xác định địa vị pháp lý của các chủ thể trong quá
trình chứng minh vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
- Quy định về đối tượng chứng minh
Theo quy định tại Điều 63 BLTTHS năm 2003, cơ quan tiến hành tố tụng phải
chứng minh bốn nhóm đối tượng. Nhóm đối tượng về khách thể và mặt khách quan của
tội phạm: Hành vi phạm tội, thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi
phạm tội. Nhóm đối tượng về chủ thể và mặt chủ quan của tội phạm, như: Ai là người
thực hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
TNHS hay không; mục đích hoặc động cơ phạm tội; nhóm đối tượng về những tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ TNHS, về nhân thân bị can, bị cáo và nhóm đối tượng
chứng minh về tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra.
- Quy định về hoạt động chứng minh
+ Về thu thập chứng cứ: Bộ luật TTHS năm 2003 tiếp thu, kế thừa BLTTHS
năm 1988 cơ bản về chế định về chứng cứ mà ít có sự bổ sung mới. Cơ quan tiến hành
tố tụng vẫn độc quyền trong hoạt động thu thập chứng cứ, những người tham gia tố
tụng vẫn chưa được quyền thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật và
82
trình bày những vấn đề có liên quan đến vụ án.
+ Về kiểm tra, đánh giá chứng cứ: “Mỗi chứng cứ phải được đánh giá để xác
định tính hợp pháp, xác thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định các chứng cứ thu
thập được phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự…” (Điều 66).
+Về thực hiện quyền bào chữa: So với BLTTHS năm 1988 thì BLTTHS năm
2003 đã bổ sung cho người bào chữa nhiều quyền hơn, trong đó có một số quyền quan
trọng để họ thực hiện trong các hoạt động chứng minh: “Người bào chữa có quyền có
mặt khi hỏi cung bị can; đưa ra chứng cứ và những yêu cầu; gặp bị can, bị cáo đang bị
tạm giam; được đọc hồ sơ vụ án và ghi chép những điều cần thiết sau khi kết thúc điều
tra; có quyền tham gia xét hỏi và tranh luận tại phiên toà…” (Điều 36).
+Về thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự: BLTTHS năm 2003 bổ sung quy định về
trình tự phát biểu khi tranh luận, đối đáp để bảo đảm quyền bình đẳng của các bên.
“Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được kiểm
tra tại phiên toà và ý kiến của bị cáo, người bào chữa…” (khoản 1 Điều 217). “Bị cáo,
người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác có quyền trình bày ý kiến về
luận tội của Kiểm sát viên và đưa ra đề nghị của mình; Kiểm sát viên phải đưa ra
những lập luận của mình đối với từng ý kiến; Chủ toạ phiên toà không được hạn chế
thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày hết ý
kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án...” (Điều 218).
Như vậy, BLTTHS năm 2003 đề cao trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan
tiến hành tố tụng nhằm xác định thật vụ án, nhưng chưa ghi nhận tranh tụng là nguyên
tắc của TTHS; các cơ quan tiến hành tố tụng còn độc quyền thu thập chứng cứ, quy
định một số quyền của người bào chữa nhưng thiếu cơ chế để thực hiện; các quy định
về chứng cứ và chứng minh chưa bảo đảm sự bình đẳng cho các bên. Hoạt động tố
tụng còn mang nặng tính thẩm vấn, quyền uy chứ chưa có tính tranh tụng.
3.1.2. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
- Quy định về đối tượng chứng minh
Đối tượng chứng minh trong VAHS là tổng hợp những sự kiện, tình tiết phải
được xác định bằng chứng cứ, tức là các vấn đề cần phải được khẳng định, làm sáng tỏ.
“Khi xác định được nhóm các sự kiện tạo thành đối tượng chứng minh, Cơ quan điều
83
tra và Tòa án đã có khả năng xác định các chứng cứ cần thiết cho việc điều tra và giải
quyết vụ án, không bỏ qua các chứng cứ cần thiết và không lấy những tài liệu không có
khả năng chứng minh” [122, tr.168]. Pháp luật quy định rất chặt chẽ các vấn đề phải
chứng minh trong VAHS (đối tượng chứng minh) và đòi hỏi các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng phải tuân thủ nghiêm chỉnh. Những vấn đề phải chứng minh
trong vụ án hình sự được quy định tại Điều 85 BLTTHS năm 2015 như sau:
Một là, có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời gian, địa điểm và những tình
tiết khác của hành vi phạm tội. Đây là nhóm đối tượng chứng minh thuộc về khách thể
và mặt khách quan của tội phạm. Hai là, nhóm đối tượng chứng minh thuộc về chủ thể
và mặt chủ quan của tội phạm. Sau khi chứng minh có hành vi phạm tội xảy ra thì phải
chứng minh ai là người thực hiện hành vi phạm tội, tức là xác định chủ thể của phạm
tội; người đó có năng lực TNHS hay không, họ có lỗi hay không, lỗi do cố ý hay vô ý;
mục đích, động cơ phạm tội. Ba là, ngoài những yếu tố cấu thành tội phạm cần chứng
minh thì phải chứng minh về những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS (Điều 51,
Điều 52 BLHS năm 2015), về nhân thân của bị can, bị cáo để xác định khung hình
phạt, loại và mức hình phạt đối với người phạm tội. Bốn là, tính chất, mức độ thiệt hại
do hành vi phạm tội gây ra là đối tượng cần chứng minh để định tội danh, khung hình
phạt và giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Năm là, nguyên nhân và điều kiện phạm
tội. Mục đích của TTHS không chỉ là điều tra, xét xử người phạm tội mà còn tìm ra
nguyên nhân, điều kiện phạm tội để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh
phòng, chống tội phạm. Đây là quy định mới về đối tượng chứng minh trong VAHS.
Sáu là, những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình
phạt. Đây là nội dung mới được bổ sung trong BLTTHS năm 2015. Trước đây
BLTTHS năm 2003 chỉ quy định những vấn đề chứng minh trong VAHS liên quan đến
hành vi phạm tội, chủ thể của tội phạm thì nay mở rộng trách nhiệm của các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng phải chứng minh cả về nguyên nhân, điều kiện phạm tội,
những tình tiết liên quan đến việc loại trừ TNHS, miễn TNHS, miễn hình phạt để bảo
đảm khách quan, toàn diện trong hoạt động tố tụng hình sự.
- Quy định về thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ
Các chủ thể chứng minh đều tập trung hướng vào hoạt động thu thập, kiểm tra,
đánh giá chứng cứ. Nhưng muốn thu thập chứng cứ thì phải hiểu thế nào là chứng cứ.
84
Điều 86 BLTTHS năm 2015 đã đưa ra khái niệm về chứng cứ như sau: “Chứng cứ là
những gì có thật, được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, được
dùng làm căn cứ để xác định có hay không có hành vi phạm tội, người thực hiện hành
vi phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Nội dung
khái niệm chứng cứ về cơ bản không có gì thay đổi so với Điều 64 BLTTHS năm
2003. Tuy nhiên, luật không còn quy định chủ thể được sử dụng chứng cứ chỉ là cơ
quan tiến hành tố tụng, đây là điểm mới tiến bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
khác tham gia vào quá trình chứng minh, đặc biệt là người bào chữa cũng được quyền
thu thập chứng cứ để làm phương tiện chứng minh bảo vệ cho người bị buộc tội.
+ Về thu thập chứng cứ: Thu thập chứng cứ là hoạt động đầu tiên để phát hiện,
ghi nhận, thu giữ, bảo quản chứng cứ từ những nguồn liên quan nhằm bảo đảm giá trị
chứng minh của các chứng cứ. Trước đây BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003
chỉ trao quyền thu thập chứng cứ cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, còn các
chủ thể khác không có quyền thu thập chứng cứ mà chỉ có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật
và trình bày yêu cầu. Điều này dẫn đến sự độc quyền trong thu thập chứng cứ, làm cho
việc thu thập chứng cứ không khách quan, phiến diện, một chiều. Để khắc phục hạn
chế này, BLTTHS năm 2015 đã mở rộng quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa,
tạo điều kiện cho người bào chữa thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình.
Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được sử dụng nhiều biện pháp
khác nhau để thu thập chứng cứ, còn người bào chữa thì chỉ có quyền thu thập chứng
cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015. Người bào chữa cũng có
quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định
bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 73
BLTTHS năm 2015. Đây là trường hợp người bào chữa đề nghị cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, tạo điều kiện cho người bào chữa khi gặp khó
khăn, trở ngại trong quá trình thu thập chứng cứ.
+ Về kiểm tra chứng cứ: Hoạt động thu thập chứng cứ luôn gắn liền với kiểm
tra, đánh giá chứng cứ. Trước đây BLTTHS không quy định về kiểm tra chứng cứ. Để
khắc phục hạn chế đó, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định kiểm tra, đánh giá
chứng cứ, “Mỗi chứng cứ phải được kiểm tra, đánh giá để xác định tính hợp pháp, xác
thực và liên quan đến vụ án. Việc xác định những chứng cứ thu thập được phải bảo
85
đảm đủ để giải quyết vụ án hình sự…” (khoản 1 Điều 108 BLTTHS năm 2015).
Nội dung kiểm tra chứng cứ là xem xét chứng cứ thu thập có bảo đảm các thuộc tính
của chứng cứ không, vì chỉ khi các thuộc tính của chứng cứ được thỏa mãn thì chúng
mới được coi là chứng cứ của vụ án, chứng cứ phải bảo đảm đủ để giải quyết vụ án.
+ Về đánh giá chứng cứ: Điều 108 BLTTHS năm 2015 quy định:“Người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình phải kiểm
tra, đánh giá đầy đủ, khách quan, toàn diện mọi chứng cứ đã thu thập được về vụ án”.
Đánh giá chứng cứ là trách nhiệm của người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, đánh giá
chứng cứ phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện trong mối liên hệ gắn bó, không
tách rời nhau. Là tổng hợp, khi đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án có sự so
sánh, đối chiếu trên một thể thống nhất; là khách quan, nếu không có định kiến khi đánh
giá các tình tiết một cách chủ quan, phiến diện, một chiều; là toàn diện nếu xem xét, đánh
giá cả tình tiết buộc tội và gỡ tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS và là đầy đủ khi
kiểm tra, đánh giá tất cả những vấn đề phải chứng minh trong VAHS.
Về nguồn chứng cứ, Điều 87 BLTTHS năm 2015 quy định chứng cứ được thu
thập, xác định từ các nguồn: “Vật chứng; Lời khai, lời trình bày; Dữ liệu điện tử; Kết
luận giám định, định giá tài sản;...”. Quy định nguồn chứng cứ như vậy là rõ ràng, đầy
đủ nhằm loại trừ những tài liệu, đồ vật không được thu thập từ nguồn chứng cứ, đề cao
tính hợp pháp của chứng cứ,“Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình
tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng
làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự” (khoản 2 Điều 87 BLTTHS năm 2015). Điểm
tiến bộ của BLTTHS năm 2015 là bổ sung thêm nguồn chứng cứ mới bao gồm: Dữ liệu
điện tử; kết luận định giá tài sản và kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc
tế khác nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn về các nguồn chứng cứ này.
- Quy định về thủ tục xét xử sơ thẩm
Bộ luật TTHS năm 2015 đã nhập thủ tục xét hỏi với thủ tục tranh luận thành
“Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa”, nhằm bảo đảm việc tranh tụng được thể hiện ngay
trong phần xét hỏi. Quá trình xét hỏi được tiến hành theo thứ tự là, Thẩm phán, Hội
thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự. Về nội dung xét hỏi là các tình tiết định tội, định khung hình phạt, những
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS;…“Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi, quyết
86
định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý. Khi xét hỏi từng người, chủ tọa phiên
tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào
chữa…” (Điều 307). Như vậy, thủ tục xét hỏi không có nhiều thay đổi so với BLTTHS
năm 2003, chủ tọa phiên tòa vẫn điều hành việc hỏi, về trình tự xét hỏi thì chủ tọa
phiên tòa hỏi trước đến Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, người bào chữa.
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định: “Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá
khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô
tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội;…” (Khoản 2, 3 Điều
321). Đây là điểm mới bổ sung quy định cụ thể hơn nội dung luận tội của Kiểm sát
viên. Luận tội của Kiểm sát viên phải căn cứ vào những tài liệu, chứng cứ đã được
kiểm tra, đánh giá tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên
tòa, phải phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định
có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra;…
Sau lời luận tội của Kiểm sát viên là phần bào chữa. Luật sư có quyền: “Trình
bày ý kiến, đưa ra tài liệu, chứng cứ, lập luận của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về
những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội…” (khoản 1 Điều 322
BLTTHS năm 2015). Nội dung tranh luận của người bào chữa không còn giới hạn như
trước đây, phạm vi tranh luận đã được mở rộng, luật sư có quyền đưa ra chứng cứ và
lập luận để đối đáp với Kiểm sát viên về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định
vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành
vi phạm tội gây ra;…và đưa ra kết luận, đề nghị của mình về việc giải quyết vụ án.
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc
kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa: “1) Khi Kiểm sát viên rút một phần quyết định
truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn thì Hội đồng xét xử vẫn tiếp tục xét xử vụ án.
2) Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội
đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết
định truy tố đó” (Điều 325). Khi luận tội, Kiểm sát viên có thể rút toàn bộ quyết định
truy tố, HĐXX yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút
quyết định truy tố. Sau đó HĐXX sẽ nghị án theo quy định tại khoản 4 Điều 326
87
BLTTHS năm 2015.
- Quy định về các quyền của người bào chữa
Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa được quy định tại Điểu 73 BLTTHS
năm 2015, trong đó, một số quyền liên quan đến hoạt động chứng minh như quyền:
gặp, hỏi người bị buộc tội; có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt, bị tạm giữ, khi hỏi
cung bị can; thu thập, đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; đề nghị cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại,
định giá lại tài sản (điểm a, b, h, k khoản 1) v.v…Ngoài ra, còn có các quy định khác
liên quan đến quyền của người bào chữa trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá
chứng cứ như quy định về gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị
tạm giam (Điều 80); thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào
chữa (Điều 81); người bào chữa được quyền thu thập chứng cứ (Điều 88), đây là quy
định mới, tiến bộ hơn so với BLTTHS năm 2003.
- Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án
Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trách nhiệm chứng minh tội phạm
thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Người bị buộc tội có quyền nhưng
không buộc phải chứng minh là mình vô tội”. Tuy nhiên, quy định “Trách nhiệm
chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng”, trong đó có
cả Tòa án, nên Tòa án (HĐXX) dù muốn, dù không cũng phải tham gia vào việc buộc
tội nhằm thực hiện “trách nhiệm chứng minh tội phạm” của mình. Như vậy, vô hình
chung, Tòa án được giao thêm chức năng buộc tội. Viện kiểm sát ra quyết định truy tố
thì phải có trách nhiệm chứng minh tội phạm, nếu quy định cho Tòa án có trách nhiệm
chứng minh tội phạm thì chẳng khác nào đã giao cho Tòa án làm thay chức năng buộc
tội. Tòa án không thể đồng thời vừa buộc tội vừa xét xử, nếu như vậy tất yếu dẫn đến
hệ quả là Tòa án không thể nào đảm bảo vai trò vô tư, khách quan của mình khi giải
quyết vụ án. Chúng ta không thể đòi hỏi phải có một Tòa án khách quan, vô tư khi mà
pháp luật vẫn còn quy định trách nhiệm chứng minh tội phạm cho Tòa án.
- Nguyên tắc trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự
Điều 20 BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát vừa thực hành quyền công
tố vừa kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử. “Thực hành quyền công tố là
88
hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tổ và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử vụ án hình sự” (Điều 3 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014). Công tố
chính là thực hiện chức năng buộc tội, quyết định việc buộc tội. Tuy nhiên, nếu Viện
kiểm sát vừa thực hành quyền công tố, vừa kiểm sát hoạt động xét xử thì chẳng khác
nào “vừa đá bóng vừa thổi còi”, tạo thêm sức mạnh cho Viện kiểm sát vốn đã chiếm
ưu thế hơn rất nhiều so với luật sư bào chữa. Nếu một chủ thể mà cùng lúc được giao
nhiều nhiệm vụ với đa chức năng như vậy, tất yếu sẽ tác động, chi phối đến nguyên tắc
độc lập xét xử, gây khó khăn cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
Quyền bào chữa của người bị buộc tội là cơ sở pháp lý để họ có thể trở thành
nhân tố đối trọng, phản biện với bên buộc tội trong quá trình chứng minh. “Quyền bào
chữa của bị can, bị cáo là tổng thể các quyền mà pháp luật quy định bị can, bị cáo có
thể sử dụng nhằm bác bỏ một phần hay toàn bộ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự cho họ” [86, tr.2]. Nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội
được xem xét trên cả hai bình diện, bảo vệ quyền con người và hoạt động chứng minh.
Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa, việc
nhờ luật sư bào chữa không làm mất đi quyền tự bào chữa của họ. Khi nhờ luật sư bào
chữa thì luật sư có quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điểu 73 BLTTHS năm 2015.
Thực hiện quyền bào chữa luôn gắn liền với hoạt động chứng minh, trong đó
luật sư là chủ thể đóng vai trò chủ yếu để bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc
tội. Sự tham gia tích cực của luật sư vào quá trình chứng minh không chỉ để bảo vệ
quyền lợi cho người bị buộc tội mà còn là sự phản biện cần thiết đối với hoạt động
chứng minh của bên buộc tội, là động lực thúc đẩy chất lượng, hiệu quả hoạt động
chứng minh trong tố tụng hình sự.
- Nguyên tắc suy đoán vô tội
Nguyên tắc suy đoán vô tội là một bảo đảm pháp lý cần thiết để bảo vệ quyền
con người và hoạt động chứng minh trong TTHS. Buộc tội là quá trình chứng minh về
lỗi của người nào đó, vì vậy việc khởi tố bị can cũng chưa đủ, thậm chí khi đã có quyết
định đưa vụ án ra xét xử thì cơ quan buộc tội vẫn phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh
89
cho những kết luận của mình trước Tòa án. “Dù chứng cứ thu thập trong vụ án đến
đâu, dù niềm tin nội tâm của những người tiến hành tố tụng về lỗi của bị can như thế
nào thì họ vẫn có nghĩa vụ làm sáng tỏ các tình tiết sự kiện của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ” [70, tr.78]. Nguyên tắc suy đoán vô tội đem đến sự cân
bằng trong hoạt động chứng minh nói chung và HĐCMLS trong XXST các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng. Ai buộc tội thì phải chứng minh, cơ quan tiến hành tố tụng
không được quyền đòi hỏi người bị buộc tội hoặc người bào chữa chứng minh về sự vô
tội, bên bị buộc tội được giải phóng nghĩa vụ chứng minh về sự vô tội.
Nguyên tắc suy đoán vô tội có mối quan hệ mật thiết với quyền bào chữa cũng
như hoạt động chứng minh của luật sư, hoạt động chứng minh của luật sư phản ánh vai
trò, hiệu lực của nguyên tắc suy đoán vô tội. Bảo đảm quyền bào chữa và hoạt động
chứng minh của luật sư cũng chính là để bảo đảm nguyên tắc suy đoán vô tội. Hoạt
động chứng minh của luật sư sẽ bị vi phạm nếu nguyên tắc suy đoán vô tội bị vi phạm
và ngược lại; vi phạm nguyên tắc suy đoán vô tội tất yếu sẽ vi phạm quyền bào chữa và
hoạt động chứng minh của luật sư.
-Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
Bộ luật TTHS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc “Tranh tụng trong xét xử được
bảo đảm”, đặt dấu mốc quan trọng, tạo cơ sở pháp lý và sự chuyển hướng tích cực cho
hoạt động TTHS, mang tính đột phá theo tinh thần của cải cách tư pháp. Tranh tụng
cần sự phân vai rõ ràng giữa các chủ thể, từ đó hình thành “hai bên”, đây là cơ sở đầu
tiên để tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Bản chất của quan hệ tố tụng hình sự là
quan hệ giữa hai bên buộc tội và bào chữa: “Tranh tụng cần đến sự phân vai rõ ràng
giữa các chủ thể và nhờ đó các chủ thể hình thành ra “hai bên” trong vụ án - bên buộc
tội và bên bào chữa với lợi ích tố tụng độc lập và khác nhau, đối lập nhau” [7, tr.83].
Tranh tụng chính là xác định mối quan hệ giữa hai chức năng buộc tội và chức
năng bào chữa như là sự thống nhất, đấu tranh giữa hai mặt đối lập trong quá trình
chứng minh xác định sự thật vụ án. Hoạt động chứng minh của chủ thể thực hiện các
chức năng có mối quan hệ với nhau, sự tồn tại hoạt động chứng minh của chủ thể này
là tất yếu cho sự tồn tại cho hoạt động chứng minh của các chủ thể còn lại. Nếu chỉ có
buộc tội mà không có bên gỡ tội làm đối trọng thì khó xác định sự thật vụ án, tranh
90
tụng là điều kiện bảo đảm quyền bào chữa và hoạt động chứng minh của luật sư.
3.1.3. Đánh giá quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 liên quan đến hoạt
động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
Tôn trọng, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên suốt
trong Hiến pháp năm 2013 và đã được Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cụ thể hóa thành
những quy định, yêu cầu cụ thể, tạo cơ sở pháp lý và sự chuyển hướng tích cực cho hoạt
động TTHS, mang tính đột phá theo tinh thần cải cách tư pháp.
Nhằm tháo gỡ những bất cập trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 và năm
2003, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những đổi mới quan trọng về vấn đề
chứng cứ và chứng minh, mở rộng quy định về nguồn chứng cứ, trao quyền cho chủ
thể bào chữa được thu thập chứng cứ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chứng minh
của luật sư trong tố tụng hình sự. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thay đổi
khái niệm chứng cứ theo hướng phá thế “độc quyền” trong việc thu thập chứng cứ của
cơ quan tiến hành tố tụng trước đó. Sửa đổi, bổ sung cho người bào chữa được quyền
thu thập chứng cứ, người bị buộc tội có quyền đưa ra chứng cứ (Điều 86). Thứ hai, quy
định cụ thể cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ nhằm bảo đảm tính khả thi,
tránh gây khó khăn trong thực tiễn áp dụng (Điều 88). Thứ ba, bổ sung vào hệ thống
nguồn chứng cứ gồm: Dữ liệu điện tử; kết quả định giá tài sản; kết quả thực hiện ủy
thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác (Điều 87). Thứ tư, quy định cụ thể trình tự, thủ tục
thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan của loại chứng cứ đặc
thù này (Điều 107). Thứ năm, bổ sung nguyên tắc loại trừ chứng cứ nhằm khắc phục
tình trạng chứng cứ không được thu thập theo đúng thủ tục quy định để bảo đảm tính
hợp pháp của chứng cứ. Khoản Điều 87 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 quy định:
“Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định thì không có giá trị pháp lý… ”góp phần hạn chế những trường hợp tùy tiện, vi
phạm quyền con người có thể xảy ra trong quá trình giải quyết vụ án. Thứ sáu, sửa đổi,
bổ sung đầy đủ những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự nhằm đặt ra yêu
cầu đối với các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tuyệt đối tuân thủ nguyên
tắc khách quan, toàn diện trong quá trình chứng minh. Thứ bảy, bổ sung về: Nguyên
nhân và điều kiện phạm tội; những tình tiết khác liên quan đến việc loại trừ trách nhiệm
91
hình sự, miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt (khoản 5, khoản 6 Điều 85).
Nhằm tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn, Bộ luật TTHS năm 2015 bổ sung quy
định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa để bảo đảm quyền bào
chữa cũng như hoạt động chứng minh, tranh tụng của luật sư tại phiên tòa (Điều 290 và
Điều 291); quy định sửa đổi về giới hạn của việc xét xử trên nguyên tắc xét xử được
giới hạn trong phạm vi truy tố, có truy tố mới xét xử, truy tố tới đâu, xét xử tới đó
(Điều 298); để áp dụng hiệu quả nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm,
BLTTHS năm 2015 không phân chia thành thủ tục xét hỏi và thủ tục tranh luận mà sáp
nhập chung thành thủ tục tranh tụng tại phiên tòa (từ Điều 306 đến Điều 325);
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã chính thức ghi nhận nguyên tắc tranh tụng
và nguyên tắc suy đoán vô tội, đây là hai nguyên tắc mang tính đột phá, tạo tiền đề
quan trọng cho hoạt động chứng minh tại phiên tòa. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
được bảo đảm (Điều 26) trở thành nguyên tắc chung bảo đảm cho tranh tụng bình đẳng
của chủ thể buộc tội và bào chữa tại phiên tòa; Tòa án phải là trọng tài vô tư, khách
quan, lắng nghe ghi nhận đầy đủ các ý kiến các bên; kết quả tranh tụng và kết quả kiểm
tra, đánh giá chứng cứ công khai tại phiên tòa là căn cứ để Tòa án ra bản án, quyết
định; nguyên tắc suy đoán vô tội lần đầu cũng được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 (Điều 13). Theo nguyên tắc này, khi không chứng minh được tội
phạm thì phải kết luận bị cáo không có tội. Đây là quy định tiến bộ, bảo đảm quyền con
người và hoạt động chứng minh trong TTHS, cũng như hoạt động chứng minh của luật
sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung nhiều
quy định mới liên quan đến hoạt động chứng minh trong TTHS nói chung và hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng. Nội dung, hình
thức, thủ tục tiến hành xét xử tại phiên tòa sơ thẩm đã tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho
các chủ thể tham gia hoạt động chứng minh trong quá trình giải quyết vụ án để đấu
tranh hiệu quả hơn với nhiều loại tội phạm trong thời kỳ đẩy mạnh ứng dụng khoa học
công nghệ hiện đại và hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay. Những nội dung mới được
bổ sung nêu trên đã khắc phục những hạn chế, bất cập của Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2003 về hoạt động chứng minh, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động chứng minh của luật
92
sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
3.2. Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ
3.2.1. Những kết quả đạt được
3.2.1.1. Khái quát kết quả đạt được
Miền Tây Nam Bộ có diện tích 40.548,2 km2, dân số là 17.367.169 người chiếm
gần 18% dân số cả nước (theo Thống kê năm 2021), gồm 13 tỉnh, thành như: thành phố
Cần Thơ, tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Đồng Tháp, An
Giang, Kiên Giang, Hậu Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. Miền Tây Nam Bộ là
một trong bảy vùng kinh tế trọng điểm của Việt Nam với bờ biển dài 700km được phù
sa bồi đắp quanh năm, mạng lưới sông rạch, hệ sinh thái đa dạng tạo nên thế mạnh về
nông nhiệp, nuôi trồng thủy sản và du lịch. Dân số chủ yếu là người Kinh, Khmer,
Hoa, trong đó người Kinh chiếm nhiều nhất. Đặc thù địa lý và tốc độ đô thị hóa đã tác
động đến trật tự -xã hội, tình hình tội phạm tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
Những năm qua hoạt động chứng minh của luật sư tại các tỉnh Tây Nam Bộ có
nhiều tiến bộ, luật sư tham gia bào chữa trong XXST ngày càng nhiều hơn. Để đạt được kết
quả này là do sự phát triển về số lượng và chất lượng luật sư. Năm 2009 khi Liên đoàn Luật
sư Việt Nam được thành lập, cả nước có 5.300 luật sư, đến năm 2021 toàn quốc đạt 16.313
luật sư [52] thì tại các tỉnh Tây Nam Bộ cũng tăng lên 1.230 luật sư, chiếm tỷ lệ 7,63% so
với tổng số luật sư tòan quốc (Phụ lục số 7). Số liệu thống kê cho thấy, số lượng luật sư
ngày càng tăng, năm sau tăng cao hơn năm trước. Luật sư tập trung chủ yếu tại các tỉnh,
thành có điều kiện kinh tế phát triển như thành phố Cần Thơ, 319 luật sư, tỉnh Long An 120
luật sư, tỉnh Tiền Giang 103 luật sư, thấp nhất là Hậu Giang 28 luật sư, (Phụ lục số 6).
Mặc dù số lượng tăng nhưng HĐCMLS trong các VAHS nói chung và các vụ án về
xâm phạm sở hữu nói riêng vẫn còn thấp. Theo số liệu thống kê của TAND các tỉnh Tây
Nam Bộ trong 10 năm qua đã đưa ra xét xử sơ thẩm 83.456 vụ/134.953 bị cáo, trong đó có
36.209 vụ án về các tội xâm phạm sở hữu với 53.182 bị cáo, chiếm tỷ lệ 43,39%
(Phụ lục số 1). Trong các vụ án xâm phạm sở hữu, nhiều luật sư đã tham gia hoạt động
chứng minh bào chữa cho các bị cáo, với 3.469 luật sư/36.209 vụ cho 53.182 bị cáo, chiếm
tỷ lệ 9,58%, năm 2020 luật sư tham gia hoạt động chứng minh bào chữa chiếm tỷ lệ cao
nhất đạt 11,16% với 334 luật sư/2991vụ cho 4.049 bị cáo, thấp nhất là vào năm 2012 đạt
93
259 luật sư/3918 vụ đối với 6679 bị cáo, chiếm tỷ lệ 6,61% (Phụ lục số 2).
Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội xâm phạm sở hữu
tại các tỉnh Tây Nam Bộ trong 10 năm qua cho thấy, số lượng luật sư tham gia hoạt động
chứng minh tại các phiên tòa còn khiêm tốn (chiếm 9,58%). Tuy nhiên, với sự chủ động,
tích cực tham gia vụ án nên chất lượng HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu
ngày càng nâng cao, đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Theo kết quả khảo sát
(Câu số 24) về thực tiễn HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu, khi được hỏi thì
các luật sư đều cho rằng, việc luật sư đề nghị thay đổi sang tội danh khác nhẹ hơn được
Tòa án chấp nhận, chiếm tỷ lệ 3%; việc đề nghị chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn có
lợi cho bị cáo được HĐXX chấp nhận, chiếm 7% (Kết quả khảo sát Câu số 25). Hoạt động
chứng minh của luật sư đạt hiệu quả cao nhất là việc đưa ra chứng cứ chứng minh giảm nhẹ
TNHS được HĐXX chấp nhận giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, chiếm tỷ lệ 70% (Kết quả
khảo sát Câu số 26). Đặc biệt, trong một số vụ án luật sư đã đưa ra chứng cứ, lý lẽ sắc bén,
chỉ rõ trong hồ sơ vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm chưa đủ chứng cứ để buộc tội,
Kiểm sát viên không chứng minh được bị cáo phạm tội, luật sư đề nghị tuyên bị cáo không
phạm tội, đình chỉ vụ án đã được Tòa án chấp nhận. Theo số liệu thống kê thì trong 10 năm
qua Tòa án đã đình chỉ 47 vụ/77 bị cáo về các tội xâm phạm sở hữu, do Viện kiểm sát
không chứng minh được tội phạm. Năm 2012 Tòa án đình chỉ 3 vụ/7 bị cáo, chiếm 0,08%,
đến năm 2021 HĐCMLS đạt hiệu quả cao nhất, khi xét xử 2945 vụ/3960 bị cáo thì đình chỉ
10 vụ với 12 bị cáo, chiếm 0,34% và (Phụ lục số 3). Hoạt động chứng minh của luật sư
chẳng những giúp cho bị cáo giảm nhẹ hình phạt so với đề nghị của Viện kiểm sát mà còn
bảo đảm cho bị cáo không bị buộc tội oan, trong đó đạt kết quả cao nhất là đối với tội
“Trộm cắp tài sản”, luật sư đã thuyết phục Tòa án chấp nhận đình chỉ 30vụ/54 bị cáo, còn
đối với tội phạm “Cướp tài sản” thì đã có 4vụ/8 bị cáo được đình chỉ; đối với hai loại tội rất
phổ biến là tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “ Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” cũng được Tòa án chấp nhận đình chỉ 3 vụ/5 bị cáo và 3 vụ/3 bị cáo (Phụ lục số 4).
Trong thực tiễn, luật sư thường bào chữa đối với 7 loại tội phạm phổ biến, như: Tội
cướp tài sản, Cưỡng đoạt tài sản, Cướp giật tài sản, Trộm cắp tài sản, Lừa đảo chiếm đoạt
tài sản, Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản,
trong đó “Tội trộm cắp tài sản” chiếm nhiều nhất với 25.997vụ/37.239 bị cáo, thấp nhất là
“Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, danh
94
nghiệp”, với 1vụ/8 bị cáo (Phụ lục số 5).
3.2.1.2. Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn chuẩn bị xét xử
- Thực trạng hoạt động nghiên cứu hồ sơ: Nghiên cứu hồ sơ vụ án là công việc
rất quan trọng trong hoạt động chứng minh nói chung cũng như đối với HĐCMLS
trong XXST các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Đối với bất kỳ một nguồn chứng cứ
nào trong hồ sơ, luật sư cũng phải kiểm tra, về tính khách quan, tính liên quan và tính
hợp pháp của chứng cứ. Nghiên cứu hồ sơ vụ án giúp cho luật sư nhận thức đúng đắn
và có cái nhìn toàn diện về vụ án. Kết quả nghiên cứu hồ sơ vụ án là cơ sở để luật sư
xác định việc thu thập chứng cứ để chứng minh trong vụ án, luật sư sẽ thực hiện việc
ghi chép, sao chụp những tài liệu, chứng cứ để biết rõ thân chủ bị truy tố về tội gì, theo
điều, khoản, điểm nào của BLHS để qua đó, tìm ra các chứng cứ gỡ tội hoặc giảm nhẹ
TNHS cho bị cáo. Đối với các vụ án về xâm phạm sở hữu, luật sư cần nghiên cứu,
kiểm tra, thu thập những tài liệu, chứng cứ liên quan, như: các lời khai và căn cứ định
tội danh trong bản kết luận điều tra, bản cáo trạng; các kết luận giám định; định giá tài
sản; biên bản ghi lời khai, hỏi cung của bị can, bị cáo;…
Sau khi nghiên cứu hồ sơ, luật sư sẽ ghi tóm tắt nội dung tài liệu, chứng cứ
hoặc trích nội dung văn bản kèm theo số bút lục để tiện viện dẫn. Luật sư phải tổng
hợp và phân chia thành các nhóm chứng cứ quan trọng có lợi hoặc bất lợi đối với bị
cáo để có căn cứ chứng minh bác bỏ sự buộc tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho người bị
buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu. Ví dụ: Ngày 07/9/2018 tại xã ĐT, huyện ĐH,
tỉnh Long An ông Ngô Văn T có vay của bà Lê Thị H số tiền là 950 triệu đồng để kinh
doanh phân bón, thuốc trừ sâu. Thỏa thuận mức lãi suất 3% tháng cho đến ngày
07/05/2020 ông T phải trả toàn bộ gốc và lãi cho bà H. Tuy nhiên, đến hạn thanh toán,
do kinh doanh không hiệu quả nên ông T không trả được nợ. Sau đó, ông T đã dùng
tài sản của mình là 560m2 đất (đã thế chấp tại ngân hàng) để làm hợp đồng chuyển
nhượng cho bà H và nói là khi nào đủ tiền ông sẽ chuộc lại đất. Nhưng sau đó bà H
phát hiện ông T đã thế chấp tài sản này tại ngân hàng nên bà tố cáo ông T và ông T đã
bị truy tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Qua nghiên cứu hồ sơ vụ
án, luật sư nhận thấy mặc dù ông T không trả nợ cho bà H theo đúng cam kết, gian dối
để khất nợ, nhưng hành vi này chỉ nhằm mục đích kéo dài việc trả nợ, chứ không có
mục đích chiếm đoạt tài sản, thực chất đây chỉ là giao dịch dân sự. Nhưng Tòa án cấp
95
sơ thẩm đã hình sự hóa quan hệ dân sự kết tội ông T. Không đồng ý, ông T kháng cáo
và luật sư vẫn bào chữa theo hướng chứng minh không phạm tội, tiếp tục phân tích,
đưa ra chứng cứ chứng minh đây chỉ là giao dịch dân sự và bản án sơ thẩm đã bị hủy,
vì không chứng minh được mục đích chiếm đoạt tài sản của ông T đối với bà H.
Khi nghiên cứu hồ sơ, luật sư còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế, muốn được
tiếp cận để đọc, sao chụp hồ sơ thì Tòa yêu cầu luật sư phải làm đơn ghi rõ sao chụp
những tài liệu cụ thể nào, trong khi đó luật sư cần phải xem đầy đủ, toàn bộ hồ sơ mới
có đủ căn cứ để bào chữa. Theo kết quả khảo sát (Câu số 3) thì các luật sư đều cho
rằng, cơ quan tiến hành tố tụng còn gây khó khăn trong việc đọc, sao chụp hồ sơ vụ án
(chiếm 10%) trường hợp. Ngoài ra, nhiều luật sư thừa nhận, việc đọc để kiểm tra,
đánh giá đầy đủ, thấu đáo nội dung bản cáo trạng, kết luận điều tra, các biên bản lấy
lời khai, hỏi cung bị can…để tìm ra tất cả sự bất hợp lý, mâu thuẫn, phát hiện những
vi phạm tố tụng, tìm chứng cứ, tình tiết có lợi cho bị cáo là không phải là dễ dàng đối
với HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu.
- Thực trạng hoạt động gặp, trao đổi với bị can, bị cáo: Sau khi nghiên cứu
hồ sơ vụ án thì việc gặp, trao đổi với bị can, bị cáo có ý nghĩa rất quan trọng, đây là
dịp để luật sư thu thập thêm thông tin về vụ án, về bị can, bị cáo. Qua tiếp xúc, trao
đổi để xác định những vấn đề chưa rõ, tìm ra các mâu thuẫn trong lời khai, bản hỏi
cung; diễn biến hành vi phạm tội, động cơ, mục đích phạm tội nhằm tìm kiếm những
chứng cứ có lợi cho bị can, bị cáo,… Thực tế, luật sư thường trao đổi với bị can, bị
cáo các nội dung cơ bản, như: về tình tiết buộc tội và gỡ tội; về bồi thường thiệt hại;
về nhân thân của bị can, bị cáo; phân tích về hướng giải quyết vụ án, thống nhất với
thân chủ phương án hỏi và định hướng bào chữa của luật sư tại phiên toà. Ví dụ:
Trong vụ án “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” tại thị trấn HN, huyện CT, tỉnh Đồng Tháp,
bị can Lê Văn B có hành vi gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản bằng phương pháp tâm
linh. Lúc đầu khi trao đổi thì bị can cho rằng hành vi của mình chỉ giúp đỡ các gia
đình liệt sĩ chứ không phạm tội. Sau khi nghe luật sư phân tích, giải thích bị can đã
nhận thức hành vi gian dối của mình là phạm tội và bị can B cũng đã đồng ý bán tài
sản của mình để bồi thường cho bị hại để được hưởng các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Cuối cùng, bị can B đã thống nhất với luật sư là bào chữa theo định hướng có tội,
96
nhưng phải đề nghị xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS cho Lê Văn B.
Thực tiễn hoạt động gặp, trao đổi với bị can, bị cáo của luật sư vẫn gặp một số
khó khăn, vướng mắc, như: Do chưa chuẩn bị kỹ kế hoạch trao đổi với bị can, bị cáo
một cách cụ thể, hợp lý nên nhiều luật sư đã bỏ sót những tình tiết quan trọng cần phải
làm rõ; thời gian gặp hạn chế nên luật sư không thể trao đổi đầy đủ, kỹ lưỡng các vấn
đề đã dự kiến, vì người bị buộc tội không thể trả lời hết các câu hỏi do luật sư đặt ra.
- Thực trạng hoạt động đề xuất với Tòa án: Việc luật sư đề xuất với Tòa án để
hạn chế những sai lầm trong TTHS, có thể đề nghị Toà án quyết định thay đổi hoặc
huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn; tách nhập vụ án; trả hồ sơ để điều tra bổ sung, triệu tập
thêm người làm chứng,...Ví dụ, trong vụ án “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”
tại huyện HG, tỉnh KG, như sau: Bà Hoàng Thị L đã chuyển cho Nguyễn Văn K 700
triệu đồng để hùn vốn làm ăn. K đã nhận 500 triệu đồng, còn số tiền 200 triệu đồng thì
L chuyển cho em của K là M, để M giao lại cho K. Tuy nhiên, Nguyễn Văn K đã lấy số
tiền đó để đánh bài thua hết. Vì vậy, L đã tố cáo K về hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài
sản. Khi nghiên cứu hồ sơ, luật sư nhận thấy, chưa làm rõ tổng số tiền mà K đã nhận
của L, chưa tiến hành đối chất giữa L và M để làm rõ số tiền 200 triệu đồng M có nhận
hay chưa? Số tiền L chuyển cho K là tiền hùn vốn làm ăn hay là tiền cho vay? Do vậy,
Luật sư đề nghị trả hồ sơ điều tra bổ sung để làm rõ và đã được Tòa án chấp nhận.
- Thực trạng hoạt động chuẩn bị bản luận cứ bào chữa: Sau khi nghiên cứu hồ
sơ vụ án, luật sư sẽ lập kế hoạch xét hỏi, soạn thảo bản luận cứ bào chữa. Một là,
chứng minh theo hướng bị cáo không phạm tội: Trong các vụ án về xâm phạm sở hữu,
luật sư cần thu thập các chứng cứ chứng minh bị cáo không thực hiện tội phạm; hành vi
của bị cáo không cấu thành tội phạm; bị cáo không có mục đích chiếm đoạt tài sản;
thiệt hại về tài sản chưa đủ định lượng buộc tội;... Hai là, chứng minh theo hướng giảm
nhẹ: Luật sư cần chỉ ra căn cứ chứng minh hành vi của bị cáo thỏa mãn tội danh khác
nhẹ hơn; khung hình phạt nhẹ hơn; hoặc các tình tiết giảm nhẹ TNHS, như: bị cáo đã tự
nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo; bị hại có đơn xin
giảm nhẹ cho bị cáo; gia đình của bị cáo được tặng thưởng, huân, huy chương.v.v…
Ba là, chứng minh theo hướng trả hồ sơ điều tra bổ sung: Luật sư phải chỉ rõ trong hồ
sơ vụ án còn thiếu những tài liệu quan trọng để kết tội bị cáo mà không thể bổ sung tại
phiên toà được hoặc có các tài liệu quan trọng khác chưa khẳng định được chính xác,
97
cần phải giám định.v.v…
3.2.1.3. Thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm
* Về thủ tục bắt đầu phiên tòa
Thủ tục bắt đầu phiên toà có ý nghĩa quan trọng để tạo ra những điều kiện cần
thiết chuẩn bị cho việc xét hỏi tại phiên toà. Theo dõi diễn biến thủ tục bắt đầu phiên
toà giúp cho luật sư kiểm tra, đề nghị thay đổi những người tiến hành tố tụng, nếu nhận
thấy không thay đổi sẽ làm cho việc giải quyết vụ án không khách quan, có thể dẫn tới
oan sai nên đề xuất của luật sư đã được chấp nhận. Tùy vào từng vụ án về các tội xâm
phạm sở hữu và việc bào chữa cho bị cáo về tội cụ thể nào trong nhóm các tội xâm
phạm sở hữu mà luật sư sẽ đề nghị hoãn phiên toà hoặc phản đối ý kiến đề nghị hoãn
phiên toà. Nếu vắng mặt người bị hại mà lời khai của họ có lợi cho thân chủ thì luật sư
đề nghị triệu tập họ, nếu việc người bị hại vắng mặt chỉ gây trở ngại cho việc giải quyết
vấn đề bồi thường thì việc hoãn phiên tòa chỉ kéo dài thời gian tạm giam bị cáo thì luật
sư không yêu cầu hoãn và đề nghị tách việc giải quyết bồi thường theo thủ tục tố tụng
dân sự. Nếu người làm chứng biết được tình tiết có lợi cho thân chủ thì luật sư đã đề
nghị Tòa án triệu tập họ đến phiên tòa để xét hỏi.
Việc thực hiện thủ tục bắt đầu phiên tòa đúng trình tự theo quy định của pháp
luật sẽ góp phần đảm bảo hoạt động chứng minh, tranh tụng giữa hai bên. Những
trường hợp, luật sư đã phát hiện được căn cứ đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm,
Kiểm sát viên, Thư ký Tòa án đúng quy định và đã được HĐXX chấp nhận. Khi nhận
thấy về sự vắng mặt của những người tham gia tố tụng cản trở cho việc xét xử, luật sư
đã kịp thời đề xuất triệu tập người làm chứng vắng mặt hoặc yêu cầu triệu tập thêm
người làm chứng mới đến phiên tòa để xét hỏi làm rõ sự thật của vụ án. Nếu bị cáo đã
nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng chưa đủ thời gian luật định thì luật sư
cũng kịp thời đề nghị hoãn phiên tòa để bảo đảm quyền lợi cho bị cáo. Ví dụ, khi chủ
tọa phiên tòa hỏi bị cáo đã được nhận quyết định đưa vụ án ra xét xử cách đây bao
nhiêu ngày, nếu nhận dưới 10 ngày, tức là không đáp ứng số ngày tối thiểu theo quy
định. Lúc này, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa để bảo đảm quyền
lợi cho bị cáo theo đúng quy định của pháp luật, hoặc khi tiến hành thủ tục bắt đầu
phiên tòa, nếu bị cáo chưa được phổ biến về quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố
tụng thì luật sư bào chữa đề nghị chủ tọa phải thực hiện để bảo đảm quyền và lợi ích
98
hợp pháp cho người bị buộc tội. Theo kết quả khảo sát (Câu số 12) thì đa số luật sư
được hỏi đồng ý có 90% trường hợp HĐXX tiến hành đúng thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Qua đây cho thấy, HĐXX bảo đảm quyền của NBC về triệu tập người làm chứng và
việc hoãn phiên tòa để luật sư bào chữa bảo vệ quyền lợi tốt nhất cho người bị buộc tội
theo thủ tục bắt đầu phiên tòa.
* Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
Xét hỏi tại phiên toà được tiến hành công khai với sự tham gia của các bên để
kiểm tra, đánh giá chứng cứ trong hồ sơ vụ án cũng như các chứng cứ mới được đưa ra
xem xét tại phiên tòa. Trong các vụ án về xâm phạm sở hữu đa số luật sư đều cho rằng,
nếu được thực hiện tốt trong phần xét hỏi sẽ tạo tiền đề cho hoạt động chứng minh tại
phiên tòa sau này đạt hiệu quả cao. Tại phiên toà luật sư tập trung theo dõi diễn biến,
lắng nghe các câu hỏi của HĐXX, Kiểm sát viên và các câu trả lời của những người
được hỏi để tìm ra các tình tiết mâu thuẫn qua lời khai của những người được hỏi có lợi
cho bị cáo. Từ đó, luật sư điều chỉnh nội dung, kế hoạch hỏi đã dự kiến và chuẩn bị câu
hỏi mới cho những đối tượng định hỏi. Luật sư chẳng những hướng dẫn bị cáo cách trả
lời các câu hỏi buộc tội để có được những câu trả lời bác bỏ sự buộc tội mà còn có thể
giúp bị cáo nhớ các tình tiết của vụ án bằng việc đặt câu hỏi bổ sung hoặc đưa ra các
câu hỏi mang tính gợi ý để bị cáo liên tưởng nhớ lại các tình tiết của vụ án.
Trong phần xét hói, mặc dù Kiểm sát viên không đề cập đưa ra đầy đủ các tình
tiết để giảm nhẹ TNHS, những trường hợp như vậy, luật sư bào chữa đã kịp thời đưa ra
phân tích nhiều tình tiết có ý nghĩa giảm nhẹ tội cho người bị buộc tội để cho HĐXX
kiểm tra, đánh giá có cách nhìn toàn diện hơn về vụ án, từ đó quyết định mức hình phạt
đúng đắn phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo. Ví vụ: Tại
phiên tòa sơ thẩm ngày 10/6/2022 của TAND tỉnh Kiên Giang xét xử bị cáo Lương Thị
Mỹ H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “ Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ
chức”. Trong phần xét hỏi tại phiên tòa, luật sư Dương Thị Hoa - Đoàn Luật sư tỉnh
Kiên Giang bào chữa cho bị cáo Lương Thị Mỹ H đã chủ động, tích cực tham gia xét
hỏi để làm rõ nhiều tình tiết có tính chất giảm nhẹ, như sau: trong quá trình điều tra,
truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay bị cáo H đã thừa nhận hành vi phạm tội của
mình, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã khắc phục toàn bộ hậu quả cho bị hại;
nhận thức pháp luật kém, bị cáo cứ nghĩ vay tiền rồi trả sẽ không sao; bị cáo có nhân
99
thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; cha bị cáo là
người có công với cách mạng được tặng thưởng huân chương, đang nuôi con còn nhỏ;
hoàn cảnh gia đình khó khăn, khi nói lời sau cùng bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải vì biết
hành vi của mình là sai trái, kính xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội
sớm trở về với gia đình. Trên cơ sở đó, luật sư đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, s khoản
1 Điều 51, khoản 1 Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo H mức án dưới khung hình phạt.
Nhận thấy ý kiến, đề nghị của luật sư về áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là có căn
cứ nên HĐXX chấp nhận, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Mỹ H 07 năm tù về tội “Lừa đảo
chiếm đoạt tài sản”, thấp hơn đề nghị của Viện kiểm sát là từ 09 năm đến 11 năm tù về
tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Trong quá trình tham gia xét hỏi, nhiều luật sư đã đặt những câu hỏi sắc bén, tập
trung vào những vấn đề quan trọng sao cho câu trả lời của người được hỏi sẽ có lợi
nhất cho bị cáo mình bào chữa nhằm giảm nhẹ TNHS hoặc được hưởng án treo. Ví dụ:
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 19/2017/HSST ngày 03/8/2017 của TAND huyện TB,
tỉnh Vĩnh L. Căn cứ vào diễn biến xảy ra tại phiên toà, luật sư Nguyễn Thị Thanh Mỹ -
Văn phòng luật sư Thiên Lý (thuộc Đoàn luật sư tỉnh Vĩnh Long) là người bào chữa
cho bị cáo Nguyễn Thị T đã kịp thời tham gia xét hỏi để làm rõ tính chất, mức độ nguy
hiểm của hành vi tội phạm do bị cáo T gây ra là không nghiêm trọng, bị cáo thành khẩn
khai báo, ăn năn, hối cải. Vì vậy, không cần thiết bắt bị cáo T phải chấp hành hình
phạt, mà giao cho chính quyền địa phương giám sát và giáo dục, đề nghị cho bị cáo
được hưởng án treo. Xét thấy lời bào chữa cho bị cáo T của luật sư là có căn cứ phù
hợp nên HĐXX đã chấp nhận xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 01 năm 06 tháng tù về tội
“Cướp tài sản” nhưng cho hưởng án treo.
Như vậy, tùy theo phương án bào chữa mà luật sư có thể đặt những câu hỏi khác
nhau để vạch trần sự gian dối, bất hợp lý trong các lời khai, hỏi các bị cáo, bị hại,
người làm chứng để kiểm tra làm rõ những mâu thuẫn. Đối với thân chủ của mình, luật
sư chỉ hỏi những câu hỏi để làm rõ các tình tiết, chứng cứ chứng minh sự vô tội hoặc
những tình tiết giảm nhẹ. Có thể nói, hoạt động xét hỏi của luật sư nhằm kiểm tra, đánh
toàn bộ chứng cứ tạo tiền đề cho hoạt động tranh luận tại phiên tòa sau này.
* Về thủ tục tranh luận tại phiên tòa
Ngay sau khi kết thúc phần xét hỏi là đến phần tranh luận. Giai đoạn này HĐXX
100
sẽ được nghe một cách đầy đủ ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác. Đây là thời điểm vai trò, vị thế của luật sư được thể hiện
rõ nét nhất. Tranh luận tại phiên toà chính là phương thức hoạt động chứng minh hiệu
quả nhất của luật sư để bảo vệ người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
Thực tiễn trong thủ tục tranh luận tại phiên tòa, nếu nhận thấy qua xét hỏi các
tình tiết của vụ án đã rõ ràng, bị cáo đã nhận tội thì luật sư cần tập trung khai thác các
đặc điểm về nhân thân, nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý
nghĩa giảm nhẹ cho bị cáo. Trong các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu, luật sư khai
thác triệt để các tình tiết giảm nhẹ TNHS, như thành khẩn khai báo; tự nguyện bồi
thường, khắc phục hậu quả; đơn xin giảm nhẹ hình phạt; các loại bằng khen, giấy tờ về
huân, huy chương kháng chiến.v.v…để chứng minh giảm nhẹ TNHS và được HĐXX
chấp nhận. Ví dụ: Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 25/9/2017 của TAND tỉnh Long An, luật
sư Nguyễn Hòa B - Văn phòng Luật sư Nguyễn Hòa B (Đòan Luật sư Long An) bào
chữa cho hai bị cáo Võ Trọng A và Hồ Quốc T về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản”. Khi tranh luận, luật sư đã đưa ra nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo thành
khẩn khai báo; phạm tội lần đầu, đã bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, bị cáo T
có ông nội được tặng huân chương kháng chiến, bị cáo A có ông ngoại là liệt sĩ, vì vậy
đã thuyết phục được HĐXX chấp nhận giảm hình phạt cho mỗi bị cáo chỉ còn 2 năm 6
tháng tù thấp hơn so với mức đề nghị của Kiểm sát viên là 4 đến 5 năm tù.
Khi tham gia tranh luận tại phiên toà sơ thẩm, luật sư đã lựa chọn thời điểm
thích hợp để đề nghị HĐXX bác bỏ việc buộc tội hoặc chấp nhận các tình tiết giảm nhẹ
TNHS. Sự tham tích cực của luật sư tại phiên tòa trong nhiều trường hợp đã giúp cho
bị cáo được giảm nhẹ hình phạt. Nếu nhận thấy thân chủ có thể được hưởng án treo thì
luật sư đưa ra chứng cứ, lý lẽ thuyết phục HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo.
Chẳng hạn, vụ án “Cưỡng đoạt tài sản” đưa ra xét xử sơ thẩm tại TAND huyện H, tỉnh
Đồng Tháp vào này 05/7/2017, tại phiên tòa này luật sư bào chữa cho bị cáo Trần Tứ
Ph đã đưa ra nhiều tình tiết giảm nhẹ đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng án treo,
nhưng Tòa án cấp sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 01 năm tù về “Cưỡng đoạt tài sản”. Tại
phiên tòa phúc thẩm Kiểm sát viên vẫn bảo lưu quan điểm truy tố, đề nghị phạt từ
01 đến 01 năm 6 tháng tù giam. Luật sư bào bào chữa cho bị cáo tiếp tục tập trung,
xoáy mạnh trọng tâm vào những tình tiết, chứng cứ chứng minh về việc áp dụng án
101
treo và đã được HĐXX chấp nhận cho bị cáo Trần Tứ Ph được hưởng án treo.
Trong quá trình tham gia HĐCM tại phiên tòa sơ thẩm có những trường hợp cho
thấy, có đủ căn cứ để thay đổi tội danh thì luật sư cần chỉ ra các tài liệu, chứng cứ trong hồ
sơ vụ án không chứng minh được tội danh theo truy tố của Viện kiểm sát mà chúng thỏa
mãn một tội danh khác thuộc loại nhẹ hơn. Trên cơ sở đó đề nghị thay đổi tội danh cho
chính xác để bảo đảm quyền lợi cho bị cáo. Ví dụ: Trong vụ án “Cướp tài sản” xảy ra tại
tỉnh KG, như sau: Ngày 03/01/2018 ông Nguyễn Văn X có mua vật liệu xây dựng tại cửa
hàng của bà Võ Thị Thuý K và còn nợ bà K 61 triệu đồng. Sau đó bà K đã nhiều lần đòi
nợ nhưng X chưa chịu trả. Bà K đã nhờ ông Trần Văn L đòi nợ thay và hứa sẽ trả tiền hoa
hồng cho L. Đến ngày 15/9/2018, L rủ thêm một số đàn em nữa đến nhà X để đòi nợ cho
K. Khi L lên tiếng yêu cầu X trả nợ thì X không trả và cầm dao dọa chém đuổi đồng bọn.
Thấy như vậy nên đồng bọn đã lao vào đánh X. Sau đó L ra lệnh cho đồng bọn, nếu nó
không trả thì siết đồ của nó. Để lấy được đồ của X một số đàn em đã ôm giữ tay chân X để
lấy được 1 xe gắn máy, 1 tủ lạnh, 1 tivi để trừ nợ. Sau khi xảy ra sự việc thì K, L và đồng
bọn đã bị truy tố về tội cướp tài sản, K đóng vai trò chủ mưu trong vụ án. Luật sư bào chữa
cho bị cáo K theo định hướng thay đổi tội danh nhẹ cho K, từ tội “Cướp tài sản” sang tội
“Cưỡng đoạt tài sản”. Luật sư đưa ra chứng cứ và lập luận: bị cáo K chỉ nhờ L đòi nợ dùm
cho mình, chứ không có sự trao đổi, bàn bạc trước về việc đánh X và siết đồ của X… Kết
quả, HĐXX đã chấp nhận quan điểm bào chữa của luật sư, thay đổi tội danh đối với bị cáo
K, chuyển từ tội “Cướp tài sản” sang tội “Cưỡng đoạt tài sản”.
Thực tiễn xét xử về các tội xâm phạm sở hữu có những trường hợp những người
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình chứng minh đã không thu thập, kiểm
tra, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, toàn diện dẫn đến xác định khung hình
phạt quá nghiêm khắc, không tương xứng tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Để
thay đổi khung hình phạt nhẹ hơn, luật sư phải tìm ra các căn cứ về tình tiết định khung
như: phạm tội không có tổ chức, không có tính chuyên nghiệp, không dùng thủ đoạn
xảo quyệt… Ngoài ra, đối với các vụ án về xâm phạm sở hữu thì luật sư còn khai thác,
đánh giá lại mức độ thiệt hại sao cho hợp lý, để định khung hình phạt chính xác. Ví dụ:
trong vụ án “Cưỡng đoạt tài sản” xảy ra tại tỉnh VL. Khoảng 22 giờ 30 phút ngày
17/5/2019, Ngô Đình H, Trần Vĩnh T và Lê Văn R đã chạy xe ô tô đến trụ sở công ty HK
uy hiếp nhân viên bảo vệ để lấy các máy móc, thiết bị của công ty này. Ba đối tượng H, T,
102
R đã bị khởi tố về tội “cưỡng đoạt tài sản”. Hội đồng định giá tài sản căn cứ vào giá trị hóa
đơn mua hàng ban đầu của công ty HK để xác định tài sản bị cưỡng đoạt là 225 triệu đồng,
truy tố H, T, R theo khoản 3 Điều 170 BLHS. Luật sư bào chữa cho các bị cáo cho rằng,
các máy móc, thiết bị của công ty đã cũ, đề nghị định giá lại tài sản. Kết quả định giá lại
thì giá trị tài sản đã thay đổi theo giá trị tài sản bị giảm sút, tính theo giá phế liệu hiện tại
có giá trị là 52 triệu đồng. Vì vậy, HĐXX đã chấp nhận thay đổi sang khung hình phạt nhẹ
hơn cho các bị cáo từ khoản 3 Điều 170 sang khoản 2 Điều 170 BLHS.
Ngoài ra, trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, luật sư nhận
thấy theo hồ sơ vụ án thì chưa đủ chứng cứ, chứng minh bị cáo phạm tội, còn thiếu
nhiều chứng cứ quan trọng chưa được làm rõ, nhưng không thể bổ sung được tại phiên
tòa nên luật sư bào chữa theo hướng đề xuất yêu cầu điều tra bổ sung. Tuy nhiên, quan
điểm bào chữa của luật sư chưa được chấp nhận, cấp sơ thẩm đã tuyên bị cáo có tội,
đến khi xét xử phúc thẩm thì HĐXX đã chấp nhận quan điểm của luật sư và đã hủy bản
án sơ thẩm để điều tra lại. Ví dụ: Theo Bản án hình sự sơ thẩm số 14/2018/HS-ST ngày
27/4/2018 của TAND tỉnh Tiền Giang xét xử bị cáo Trần Thị T về tội “Lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Tại phiên tòa, Luật sư Cao Thế L và Luật sư Trần Văn O
(Đoàn luật sư tỉnh Bạc Liêu) bào chữa cho bị cáo Trần Thị T đưa ra chứng cứ, lập luận
chứng minh hành vi của bị cáo không cấu thành tội phạm, Viện kiểm sát không chứng
minh được tội phạm, đề nghị kết luận bị cáo không phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản”, nhưng không được HĐXX chấp nhận. Đến cấp phúc thẩm, luật sư
tiếp tục khẳng định, Viện kiểm sát không chứng minh được số tiền công ty B thất thoát
có hay không và nếu có là bao nhiêu, vậy là chưa có căn cứ để kết tội, đề nghị tuyên bị
cáo không phạm tội, HĐXX chấp nhận quan điểm bào chữa, hủy Bản án sơ thẩm số
14/2018/HS-ST của TAND tỉnh Tiền Giang, giao trả hồ sơ cho VKS để điều tra lại.
Trong các vụ án về xâm phạm sở hữu, nếu định hướng bào chữa là chứng minh
bị cáo không phạm tội, luật sư sẽ đưa ra các chứng cứ chứng minh bị cáo không có
mục đích chiếm đoạt tài sản, thực hiện hành vi do không cố ý, thiệt hại về tài sản chưa
đủ định lượng để truy cứu TNHS hoặc trường hợp hình sự hóa các quan hệ dân sự...
Thực tiễn cho thấy, trong một số vụ án cơ quan tiến hành tố tụng không thận trọng,
khách quan trong hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ, có xu hướng coi
trọng chứng cứ buộc tội, xem nhẹ chứng cứ vô tội, đã hình sự hóa các quan hệ dân sự
103
dẫn đến kết tội oan sai. Ví dụ: vụ án của Phạm Thị M xảy ra tại Sóc Trăng năm 2013.
Bị cáo Phạm Thị M bị truy tố về hai tội “Cưỡng đoạt tài sản” và tội “Cố ý làm hư hỏng
tài sản”. Ngày 22/3/2013, TAND tỉnh Sóc Trăng đưa ra xét xử sơ thẩm. Tại phiên tòa
luật sư Nguyễn Trường Thành - Văn phòng Luật sư Vạn Lý (Đoàn Luật sư thành phố
Cần Thơ) bào chữa cho bị cáo Phạm Thị M đưa ra lập luận: Phạm Thị M lấy tài sản là
do được sự đồng ý của Huỳnh Dù Táng và Khưu Trí Thức; M không đe dọa dùng vũ
lực hoặc dùng thủ đoạn uy hiếp tinh thần của Trần Thại để lấy tài sản; việc M lấy tài
sản của doanh nghiệp là theo hợp đồng. Đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo M không
phạm tội. Tuy nhiên, Bản án sơ thẩm vẫn tuyên bị cáo Phạm Thị M phạm tội “Cưỡng
đoạt tài sản” và tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Không đồng ý. Bị cáo M kháng cáo
kêu oan. Tại Bản án phúc thẩm số 992/2013/HSPT ngày 26/9/2013 của TAND cấp cao
tại Tp. Hồ Chí Minh tuyên hủy toàn bộ bán án sơ thẩm để điều tra lại, do chưa đủ căn
cứ buộc tội. Qua lần xét xử sơ thẩm lần hai thì bản án này cũng bị cấp phúc thẩm lần
thứ hai hủy để điều tra lại. Đến ngày 24/3/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an
tỉnh Sóc Trăng đã ra quyết định đình chỉ VAHS, đình chỉ điều tra bị can Phạm Thị M,
vì “Đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội
phạm”. Ngày 29/6/2020, TAND tỉnh Sóc Trăng đã ra Thông báo số 02/TA về việc
“Thụ lý hồ sơ yêu cầu bồi thường của bà M”. Phạm Thị M được minh oan.
Đặc biệt, là vụ án oan xảy ra ở thành phố Cần Thơ, như sau: Ngày 16/7/2012
Nguyễn Triều D tố cáo Nguyễn Tất V “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” thông qua hợp
đồng Hợp đồng kinh tế giữa Công ty cổ phần đầu tư khoáng sản và xây dựng Golden
Land, do Nguyễn Tất V làm Chủ tịch Hội đồng quản trị, ông Vũ Đức H - Giám đốc với
Công ty TNHH MTV Tân Triều, do Nguyễn Triều D làm Giám đốc.
Theo Bản án phúc thẩm số 02/2019/HS-PT ngày 03/01/2019 của TAND cấp cao
tại Tp.Hồ Chí Minh đã hủy Bản án sơ thẩm số 14/2018/HS-ST ngày 30/5/2018 của
TAND thành phố Cần Thơ để điều tra lại, vì không đủ chứng cứ chứng minh bị cáo
Nguyễn Tất V phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Trong quá trình tham gia hoạt
động chứng minh tại các phiên tòa sơ thẩm cũng như tại cấp phúc thẩm, Luật sư Lương
Văn Hùng và Luật sư Nguyễn Trường Thành -Văn phòng Luật sư Vạn Lý (Đoàn Luật
sư thành phố Cần Thơ) bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tất V đưa ra chứng cứ, lập luận
chứng minh bị cáo Nguyễn Tất V không phạm tội, bởi lẽ: Nguyễn Tất V ký kết các hợp
104
đồng công khai, rõ ràng, không có ý thức chiếm đoạt tài sản. Bản án sơ thẩm cho rằng
chưa có giấy phép liên danh nên không được nhân danh liên danh để ký kết các hợp
đồng là không đúng quy định pháp luật; Bản án sơ thẩm chỉ dựa vào lời khai của Vũ
Đức H, Võ Thị Bảo T, Nguyễn Triều D rồi kết luận Nguyễn Tất V nhận 580.000.000
đồng để buộc tội mà không dựa vào các chứng cứ khác như: Nguyễn Tất V đã chuyển
180.000.000 đồng làm thủ tục dự án và xây dựng, sửa chữa Văn phòng liên danh; mua
hai Ca nô phục vụ việc kiểm tra, giám sát thực hiện các dự án; chi phí sao kê thanh
toán tại Ngân hàng thể hiện Nguyễn Tất V đã chi phí cho hoạt động trên 10 tỷ đồng
nhưng cấp sơ thẩm không xem xét, trong khi đó Cơ quan điều tra xác minh tại Công an
phường cho rằng Công ty của Nguyễn Tất V không hoạt động mà không điều tra tại cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền để kết luận V lừa đảo; khi ký kết các hợp đồng Nguyễn
Triều D biết rất rõ dự án chỉ được thực hiện trong tương lai, dự án không thực hiện
được là do điều kiện khách quan, khó khăn về vốn, V không có thủ đoạn chiếm đoạt;
tiền thỏa thuận chi hoa hồng do Võ Thị Bảo T và Vũ Đức H là giám đốc nhận tiền của
Nguyễn Triều D, chứ Nguyễn Tất V không nhận tiền của Nguyễn Triều D, nên bị hại
kháng cáo yêu cầu Võ Thị Bảo T trả tiền cho Nguyễn Triều D; Nguyễn Tất V nhận
580.000.000 đồng của Vũ Đức H nhiều lần cho việc thực hiện các dự án mà UBND
tỉnh Vĩnh Long đã chấp thuận, không đủ cấu thành tội lừa đảo. Hơn nữa, Nguyễn Tất V
đang tại ngoại nhưng không có dấu hiệu bỏ trốn, không tiếp tục phạm tội. Vì vậy, luật
sư đã đề nghị HĐXX tuyên bố Nguyễn Tất V không phạm tội. Kết quả, TAND cấp cao
tại Tp. Hồ Chí Minh đã chấp nhận quan điểm bào chữa của luật sư, do không đủ chứng
cứ chứng minh bị cáo phạm tội, ra quyết định hủy Bản án sơ thẩm số 14/2018/HS-ST
ngày 30/5/2018 của TAND Tp.Cần Thơ để điều tra lại. Sau khi điều tra lại, Cơ quan
Cảnh sát điều tra Tp.Cần Thơ đã ra Quyết định số 01 ngày 29/4/2021 đình chỉ điều tra
VAHS, đình chỉ điều tra bị can đối với Nguyễn Tất V, lý do hành vi của Nguyễn Tất V
không đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Nguyễn Tất Vân đã được
minh oan. Như vậy, thực tiễn HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu là quá
trình chứng minh rất phức tạp, khó khăn lâu dài, phải trải qua nhiều vòng tố tụng mới
tìm ra ánh sáng chân lý minh oan cho người bị buộc tội, điều này phản ánh đậm nét vai
trò và tầm quan trọng của luật sư bào chữa khi tham gia hoạt động chứng minh trong
105
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ.
Trên cơ sở phân tích những kết quả hoạt động chứng minh của luật sư trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn tại các tỉnh Tây Nam Bộ có thể rút ra
một số kết luận sau đây: Trong những năm qua trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ, tình
hình tội phạm hình sự ngày càng tăng với tính chất, mức độ phạm tội ngày càng tinh vi,
phức tạp, các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã đưa ra xét xử sơ thẩm nhiều
vụ án về các tội xâm phạm sở hữu. Tại nhiều phiên tòa sơ thẩm đã có sự tham gia của
luật sư để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Chất lượng hoạt
động chứng minh của luật sư ngày càng nâng cao, hoàn thành nhiệm vụ bào chữa cho
người bị buộc tội trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu, các luật sư đã tích cực
tham gia vào hoạt thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để có cơ sở bảo vệ quyền lợi
tốt nhất cho thân chủ. Để hoạt động chứng minh đạt hiệu quả thì ngay trong giai đoạn
chuẩn bị xét xử, nhiều luật sư đã tích cực nghiên cứu hồ sơ vụ án thận trọng, chu đáo,
kiểm tra, thu thập các chứng cứ quan trọng có giá trị chứng minh mạnh mẽ nhất để có
thể bào chữa tốt nhất cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu. Tại phiên tòa
sơ thẩm luật sư đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, độc lập, trung thực tôn trọng sự thật
khách quan, đưa ra chứng cứ, lý lẽ chứng minh làm sáng tỏ sự thật của vụ án, chứng
minh bị cáo không phạm tội hoặc giảm nhẹ hình phạt, mức bồi thường thiệt hại có lợi
cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu. Kết quả trong nhiều vụ án, chứng
cứ, lập luận của luật sư đã thuyết phục được HĐXX chấp nhận quan điểm bào chữa của
luật sư, tuyên phạt bị cáo mức hình phạt nhẹ hơn so với đề nghị của Viện kiểm sát;
chấp nhận cho bị cáo được hưởng án treo; thay đổi tội danh hoặc chuyển sang khung
hình phạt nhẹ hơn có lợi cho người bị buộc tội; nhiều trường hợp không đủ chứng cứ
để kết tội cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung,
điều tra lại hoặc tuyên bị cáo không phạm tội. Nhìn chung, việc chứng minh bị cáo
không phạm tội chiếm tỷ lệ thấp so với chứng minh giảm nhẹ TNHS nhưng vẫn có
trường hợp hoạt động chứng minh của luật sư đã đem lại hiệu quả để minh oan cho bị
cáo. Chẳng hạn, trong vụ án oan của Phạm Thị M xảy ra tỉnh Sóc Trăng, đưa ra xét xử
năm 2013; vụ án của Nguyễn Tất V xảy ra ở thành phố Cần Thơ, đưa ra xét xử năm
2016. Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì hoạt động chứng minh của luật sư trong
106
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu còn có những hạn chế do nhiều nguyên nhân.
3.2.2. Những hạn chế, vướng mắc
3.2.2.1. Những hạn chế, vướng mắc trong các quy định về xét xử sơ thẩm
Quyền yêu cầu triệu tập người làm chứng là quyền quan trọng của bên bào
chữa. Nhưng, việc cần triệu tập ai pháp luật chỉ giao quyền cho thẩm phán quyết định
theo Điều 287 BLTTHS năm 2015 là không hợp lý. Thứ hai, Điều 289 BLTTHS năm
2015 quy định, mọi trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt đều phải hoãn phiên tòa, trong
khi đó bị cáo, người bào chữa vắng mặt thì vẫn tiến hành xét xử, như vậy là không bình
đẳng. Sự vắng mặt của luật sư và bị cáo đồng nghĩa với việc bên bào chữa không hiện
diện tại phiên tòa để tham gia tranh luận với bên buộc tội, nguyên tắc tranh tụng trong
xét xử không được tuân thủ, quyền bào chữa không bảo đảm, gây trở ngại cho việc xét
xử. Bộ luật TTHS cần có quy định phù hợp để bảo đảm tối đa sự có mặt của bị cáo và
người bào chữa để xác định sự thật khách quan của vụ án, “Tòa án chỉ có thể xét xử
vắng mặt người tham gia tố tụng trong những trường hợp pháp luật quy định và việc
vắng mặt đó không ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án, không
trở ngại việc xét xử” [135, tr.442].
Theo kết quả khảo sát (Câu số 11) thì đa số các luật sư được hỏi đều không đồng
ý xét xử khi vắng mặt luật sư bào chữa. Theo chúng tôi, tranh tụng đòi hỏi bên buộc tội
và bên bào chữa phải có quyền bình đẳng, tương ứng với quyền và nghĩa vụ chứng
minh của các bên. Nhất thiết “Cần thay đổi vị trí, vai trò của cơ quan tiến hành tố tụng
và những chủ thể khác tham gia tố tụng trong tương quan với trách nhiệm chứng minh
và quyền được chứng minh… nhằm tạo ra sự bình đẳng thật sự giữa bên buộc tội và
bên bào chữa” [96, tr.168]. Tranh tụng không được coi là bình đẳng khi buộc tội mà
không có bào chữa làm đối trọng. Sự vắng mặt người bào chữa sẽ làm cho phiên tòa
thiếu phần tranh tụng, các bên buộc tội và bên bào chữa không được tham gia vào hoạt
động chứng minh, tranh tụng bình đẳng trước tòa án.
Người làm chứng phải có mặt tại phiên tòa để trình bày những thông tin, tình
tiết có liên quan đến vụ án mà mình biết được có ý nghĩa đối với việc buộc tội hoặc gỡ
tội cũng như giúp HĐXX xem xét, đánh giá xác định, làm sáng tỏ các tình tiết và sự
thật của vụ án. Theo quy định tại Điều 293 BLTTHS năm 2015, nếu người làm chứng
vắng mặt nhưng trước đó đã có lời khai tại Cơ quan điều tra thì chủ tọa phiên tòa công
107
bố những lời khai đó. Như vậy, tại phiên tòa khi người làm chứng vắng mặt thì phiên
tòa vẫn được tiến hành, là không hợp lý. Bởi vì, về thực chất thì việc công bố lời khai
của người làm chứng không thể nào thay thế hoàn toàn việc người làm chứng có mặt
trực tiếp tại phiên tòa, nếu trường hợp có sự mâu thuẫn, bất hợp lý trong các lời khai
của người làm chứng thì HĐXX lấy đâu ra người làm chứng để tiến hành thẩm vấn, đối
chất làm rõ các tình tiết liên quan để xác định sự thật của vụ án. Như vậy, sự có mặt
của người làm chứng tại phiên tòa là cần thiết nhưng pháp luật chưa quy định chặt chẽ
để bảo đảm sự có mặt của người làm chứng đầy đủ, hợp lý.
- Về thủ tục xét hỏi tại phiên tòa
Theo quy định tại Điều 306 BLTTHS năm 2015 thì “Trước khi tiến hành xét
hỏi, Kiểm sát viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến
bổ sung không được làm xấu đi tình trạng của bị cáo”. Đọc cáo trạng không phải là
hoạt động xét hỏi mà là thủ tục để tiến hành xét hỏi. Thông thường cáo trạng rất dài,
mô tả cụ thể, chi tiết từng hành vi phạm tội, trong khi cáo trạng trước đó đã được giao
cho các bên, việc công bố cáo trạng như vậy là vô tình nhắc lại diễn biến vụ án làm
lãng phí thời gian, hơn nữa bản thân cáo trạng chứa đựng nội dung buộc tội nên việc
công bố cáo trạng trước khi kiểm tra, đánh giá sẽ tạo ra định kiến là bị cáo có tội.
Khoản 2 Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định: “Khi xét hỏi từng người, chủ
tọa phiên tòa hỏi trước sau đó quyết định để Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên,
người bào chữa…”. Điều 307 BLTTHS năm 2015 có sự mâu thuẫn, khi khoản 1 quy
định Chủ tọa phiên tòa quyết định người hỏi trước, hỏi sau theo thứ tự hợp lý, nhưng
khoản 2 thì lại quy định rất rõ Chủ tọa hỏi trước rồi đến Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm
sát viên, người bào chữa. Cụm từ “theo thứ tự hợp lý” ở đây mâu thuẫn và bị phủ nhận
bởi quy định quá chi tiết, cụ thể tại khoản 2 của điều luật, trình tự quá rõ ràng như vậy
thì quy định người hỏi trước, hỏi sau không còn ý nghĩa. Mặt khác, việc chủ tọa phiên
tòa đóng vai trò tích cực trong hoạt động xét hỏi, được hỏi chính và hỏi trước, hỏi
tường tận mọi vấn đề, còn bên buộc tội và gỡ tội hỏi phụ và hỏi sau nên việc hỏi của họ
dễ bị trùng lặp, nhàm chán, kém sắc sảo, chỉ hỏi những tình tiết phụ không làm rõ được
bản chất của vụ án. Kết quả khảo sát (Câu số 15) thì tất cả luật sư được hỏi đều đồng ý
theo hướng, khi xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm thì Kiểm sát viên và luật sư phải tham gia
xét hỏi chính, chứ không phải Hội đồng xét xử. Pháp luật hiện hành vẫn đặt gánh nặng
108
trách nhiệm chứng minh lên vai Hội đồng xét xử nên các câu hỏi của thẩm phán
thường tập trung xoay quanh chứng cứ buộc tội, bắt bí bị cáo thông qua việc thắt nút để
đi đến khẳng định, kết luận vấn đề quá sớm, có trường hợp, “Hội đồng xét xử thay vì
phải là trọng tài vô tư khách quan tại phiên tòa thì lại là người “dồn ép” bị cáo theo
hướng kết tội như một công tố viên thứ hai. Tòa xét hỏi bị cáo mà không khác gì đang
buộc tội bị cáo. Tòa “quay” bị cáo cho ra đầu ra đũa” [71, tr.7]. Theo kết quả khảo
sát (Câu số 13) các luật sư được hỏi cho rằng, Chủ tọa phiên tòa chưa thật sự tạo điều
kiện cho luật sư tham gia hoạt động xét hỏi, có khi cắt lời của luật sư một cách không
hợp lý (15%) trường hợp, phần lớn các luật sư đều đồng quan điểm là Chủ tọa phiên
tòa không tham gia hỏi mà chỉ là người điều khiển việc xét hỏi (Kết quả khảo sát Câu
số 14). Nhận thấy, Kiểm sát viên và luật sư bào chữa là hai chủ thể tranh tụng chủ yếu
nên họ phải có trách nhiệm hỏi chính và hỏi trước mới hợp lý, mọi câu hỏi của Tòa án
liên quan đến những vấn đề cụ thể của vụ án sẽ không phù hợp với chức năng xét xử
của Tòa án. Theo kết quả khảo sát (Câu số 16) các luật sư được hỏi đều đồng ý thủ tục
hỏi tại phiên tòa như sau: Khi xét hỏi từng người, Kiểm sát viên hỏi trước, đến người
bào chữa, Chủ tọa phiên tòa không trực tiếp tham gia hỏi mà chỉ là người điều hành
hoạt động hỏi của các bên.
- Về thủ tục tranh luận tại phiên tòa
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định:“Nội dung luận tội phải phân tích, đánh giá
khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô
tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi;…” (khoản 2 và 3 Điều 321).
Đây là điểm mới bổ sung quy định cụ thể hơn nội dung luận tội của Kiểm sát viên. Tuy
nhiên, trong thực tiễn cho thấy không ít trường hợp Kiểm sát viên luận tội nhưng
không có sự phân tích, đánh giá đầy đủ nội dung luận tội nêu trên mà “Kiểm sát viên
thường bê nguyên xi nội dung sự việc như đã nêu trong cáo trạng vào luận tội mà thiếu
phần luận chứng” [35, tr.18]. Mặt khác, lời luận tội chỉ là bước đầu khởi động cho quá
trình tranh luận nhưng Kiểm sát viên đã đề nghị “mức hình phạt chính, hình phạt bổ
sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng” như vậy là
quá sớm, không hợp lý. Khi các bên chưa đưa tranh luận làm sáng tỏ các tình tiết còn
mâu thuẫn, vậy mà Kiểm sát viên đã vội đề nghị kết tội, về mức hình phạt, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại cụ thể, rõ ràng như vậy thì vô hình trung đã tạo áp lực đối với bên
109
bào chữa và cả HĐXX, không tuân thủ nguyên tắc tranh tụng.
Sau lời luận tội của Kiểm sát viên là đến phần bào chữa của luật sư. Khi tranh
luận người bào chữa có quyền: “Trình bày ý kiến, đưa ra tài liệu, chứng cứ, lập luận
của mình để đối đáp với Kiểm sát viên về những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ
xác định vô tội…” (khoản 1 Điều 322 BLTTHS năm 2015). Như vậy, nội dung tranh
luận của người bào chữa đã được mở rộng, không còn giới hạn như trước đây. Luật sư
đối đáp với Kiểm sát viên và đưa ra kết luận, đề xuất của mình về việc giải quyết vụ
án. Tuy nhiên, thực tế ý kiến của Kiểm sát viên lại được coi trọng hơn lời bào chữa của
luật sư, thời gian tranh luận của luật sư cũng bị hạn chế bởi ý chí chủ quan của Chủ tọa
phiên tòa, chưa kể nhiều trường hợp ý kiến của luật sư không được HĐXX ghi nhận,
phản ánh đầy đủ trong bản án mà không nêu rõ lý do. Theo kết quả khảo sát (Câu số
20) các luật sư được hỏi trả lời, ý kiến của luật sư nhiều lúc không được HĐXX ghi
nhận đầy đủ trong bản án (chiếm 30%). Như vậy, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử
không được bảo đảm, không tạo ra được sự bình đẳng, gây bất lợi cho hoạt động chứng
minh của luật sư tại phiên tòa xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Với quy định“Kiểm sát viên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu và lập luận để đối
đáp đến cùng từng ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác tại
phiên tòa (khoản 2 Điều 322 BLTTHS năm 2015) nhưng trong thực tiễn vẫn còn tình
trạng Kiểm sát viên không thực hiện việc đối đáp hoặc có đáp lại nhưng không đầy đủ,
không đến cùng từng ý kiến. Quy định trong phần tranh luận chưa hợp lý, chưa làm rõ
vai trò buộc tội của Viện kiểm sát, chưa nhấn mạnh được vai trò, vị trí của luật sư bào
chữa tại phiên tòa. Việc thực hành quyền công tố chưa đáp ứng yêu cầu tranh tụng, một
số Kiểm sát viên chưa ý thức đầy đủ về quyền, nghĩa vụ tranh luận để làm sáng tỏ sự
thật của vụ án, đa số Kiểm sát viên “chỉ tranh luận chiếu lệ, thậm chí, không tranh luận
và theo xu hướng giữ nguyên cáo trạng “cho an toàn” [35, tr.180]. Theo kết quả khảo
sát (Câu số 18) các luật sư được hỏi trả lời, trong phần tranh luận ít khi Kiểm sát viên
đối đáp đến cùng những vấn đề luật sư bào chữa đưa ra, chiếm 12%. Nhìn chung, chủ
tọa phiên tòa có tạo điều kiện cho các bên tranh tụng tại phiên tòa. Tuy nhiên, cũng
không ít những trường hợp chủ tọa phiên tòa đề cao bên buộc tội, xem nhẹ vai trò bên
bào chữa, không tạo điều kiện cho họ tranh tụng bình đẳng. Theo kết quả khảo sát
(Câu số 17) thì nhiều luật sư trả lời rằng, có 19% trường hợp Chủ tọa phiên tòa không
110
thật sự tạo điều kiện cho luật sư bào chữa tranh luận bình đẳng.
Quy định tại phiên tòa xét xử, “Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết
định truy tố thì trước khi nghị án, Hội đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên
tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết định truy tố đó” (khoản 2 Điều 325 BLTTHS năm
2015) là không hợp lý. Vấn đề cho phép những người tham gia phiên tòa trình bày ý
kiến về việc rút quyết định truy tố chẳng có ý nghĩa gì. Bởi lẽ, nếu có ý kiến gì đi
chăng nữa thì Tòa án vẫn tiếp tục xét xử. Chúng tôi cho rằng, khi và chỉ khi qua tranh
luận cho thấy rõ là không có đủ căn cứ để buộc tội, nghĩa là không chứng minh được
tội phạm thì Kiểm sát viên mới rút toàn bộ quyết định truy tố, chấp nhận bị cáo vô tội
thì Tòa án phải kết luận bị cáo không phạm tội mới đúng. Tuy nhiên, pháp luật vẫn cho
Tòa án tiếp tục xét xử khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố là không phù
hợp, vi phạm nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội.
Theo kết quả khảo sát (Câu số 21) về thực tiễn hoạt động chứng minh của luật
sư trong xét xử sơ thẩm thì các luật sư được hỏi đều cho rằng, nếu Kiểm sát viên rút
toàn bộ quyết định truy tố thì phải tuyên bị cáo không phạm tội, kết thúc việc xét xử,
chiếm 99%. Theo chúng tôi, hoạt động chứng minh của chủ thể buộc tội, bào chữa và
xét xử độc lập, nhưng có mối quan hệ ràng buộc với nhau. Sự tồn tại về hoạt động
chứng minh của chủ thể này là tất yếu cho sự tồn tại về hoạt động chứng minh của các
chủ thể còn lại, mỗi hoạt động chứng minh của chủ thể tồn tại, khi và chỉ khi hoạt động
chứng minh của hai chủ thể kia tồn tại. Như vậy, khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết
định truy tố, nghĩa là không còn tồn tại sự buộc tội và bào chữa thì xét xử cũng kết
thúc. Nói cách khác, khi rút toàn bộ quyết định truy tố là đã chấm dứt sự buộc tội thì
hoạt động xét xử không còn lý do gì để tồn tại, Tòa án phải tuyên bị cáo không phạm
tội, tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên tắc suy đoán vô tội.
Quá trình tranh tụng tại phiên tòa vẫn còn tình trạng có Kiểm sát viên thiếu chủ
động khi xét hỏi, hoặc xét hỏi không đầy đủ. Một số Kiểm sát viên còn có nhận thức
rằng, xét hỏi tại phiên tòa là trách nhiệm của HĐXX, còn Kiểm sát viên chỉ có nhiệm
vụ bảo vệ cáo trạng, chỉ cần thể hiện vai trò của mình khi tranh luận nên tình trạng việc
xét hỏi chủ yếu vẫn do Thẩm phán thực hiện, lẽ ra Kiểm sát viên là bên buộc tội phải
tích cực hỏi để kiểm tra chứng cứ, làm rõ các tình tiết của vụ án để có căn cứ chứng
111
minh tội phạm của bị cáo mới hợp lý.
Khi các bên tham gia tranh tụng thì Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật. Tòa án độc lập xét xử nhưng phải tuân theo pháp luật, nếu không
tuân thủ pháp luật thì dẫn đến tùy tiện, chủ quan. Thực tiễn HĐXX vẫn còn phụ thuộc
vào hồ sơ của Cơ quan điều tra, cáo trạng của Viện kiểm sát, chưa thật sự độc lập trong
hoạt động xét xử. “Trong khi yêu cầu đặt ra bản án của tòa án chỉ căn cứ vào những
chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa. HĐXX căn cứ vào kết quả tại phiên tòa, đối
chiếu với các quy định của pháp luật để xử lý vụ án và có quyền kết luận khác với ý
kiến của cơ quan điều tra, viện kiểm sát” [84, tr.18-19].
3.2.2.2. Những hạn chế, vướng mắc về thực hiện quyền của người bào chữa
Bộ luật TTHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể có quyền thu thập chứng cứ là
người bào chữa, tạo cơ sở pháp lý cho luật sư thực hiện hoạt động chứng minh: “Để
thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị hại,
người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày…”
(khoản 2 Điều 88). Tuy nhiên, khi người bào chữa chủ động gặp những người này để
hỏi nhưng bị họ từ chối, không hợp tác thì không có biện pháp nào để thu thập được
chứng cứ. Muốn tranh tụng đòi hỏi phải có chứng cứ để chứng minh, nhưng luật không
quy định về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của người bào chữa mà chỉ cho phép họ
thu thập chứng cứ trong giới hạn như vậy, thì làm sao họ có thể tự mình thu thập được
chứng cứ để tham gia tranh tụng bình đẳng với bên buộc tội. Theo kết quả khảo sát
(Câu số 6) đa số luật sư được hỏi (tỷ lệ 90%) cho rằng, biện pháp thu thập chứng cứ
bằng cách luật sư tự mình gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và
những người khác để hỏi, nghe họ trình bày là không đạt hiệu quả.
Đối với quy định về quyền“đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài
liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa” (khoản 2 Điều 88 BLTTHS
năm 2015) thì thực tế cơ quan, tổ chức, cá nhân cũng không dễ dàng cung cấp, nên
người bào chữa gặp rất nhiều khó khăn, vì họ thường đòi hỏi luật sư phải cung cấp
thông tin chính xác về tài liệu, đồ vật, dữ liệu ấy ở đâu, hiện đang do cơ quan, tổ chức,
cá nhân nào quản lý. Đây là những yêu cầu không thể thực hiện, thậm chí mang tính
thách đố đối với luật sư. Khi thu thập các dữ liệu điện tử là tin nhắn được truyền qua
nhà mạng có server đặt trong nước như: Mobiphone, Viettel, Vinaphone thì người bào
112
chữa chỉ có thể thực hiện được việc thu thập dữ liệu tin nhắn, thông tin về thời gian các
cuộc gọi v.v...trong các thuê bao được lưu giữ của người bị bắt, người bị tạm giữ,
người bị tạm giam, bị can, bị hại, đương sự, người làm chứng thông qua yêu cầu của
Cơ quan điều tra và thời gian lưu giữ tin nhắn không quá 24 tháng [106]. Nếu thu thập
dữ liệu điện tử từ các nhà mạng có server đặt ở nước ngoài như: Gmail, Yahoo, Mail…
sẽ bị hạn chế bởi chính sách quản lý, bảo mật thông tin của nhà mạng. Theo kết quả
khảo sát (Câu số 7) về thực tiễn HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm hữu, thì đa
số luật sư được hỏi đều cho rằng, hầu như các cơ quan, tổ chức, cá nhân đều từ chối
không cung cấp chứng cứ cho luật sư (chiếm 97%), rất ít trường hợp nhận được sự
đồng ý hợp tác từ các chủ thể này. Như vậy, quy định này không thể bảo đảm cho luật
sư thu thập được chứng cứ.
Hoạt động chứng minh của luật sư nhằm thực hiện chức năng bào chữa “gỡ tội”
cho bị cáo nên họ có quyền lưu giữ chứng cứ để chủ động đưa ra sử dụng sao cho đạt
hiệu quả cao nhất. Nếu bắt buộc người bào chữa phải kịp thời giao nộp chứng cứ trước
cho Cơ quan tiến hành tố tụng (bên buộc tội) theo quy định tại khoản 2 Điều 81
BLTTHS năm 2015, thì vô hình trung tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng
biết trước những chứng cứ của bên bên bào chữa, họ sẽ tìm cách vô hiệu hóa chứng cứ
của luật sư, đồng thời sẽ củng cố, hợp pháp hóa chứng cứ buộc tội, tác động tiêu cực
đến quá trình xác định sự thật của vụ án. Ngược lại, cũng có rất nhiều trường hợp cơ
quan tiến hành tố tụng cố tình gây khó khăn, không chịu tiếp nhận chứng cứ do người
bào chữa cung cấp, vì họ cho rằng việc thu thập chứng cứ không đúng theo quy định
của pháp luật, tức không công nhận về tính hợp pháp của chứng cứ để đưa vào hồ sơ vụ
án. Như vậy, tính hợp pháp của chứng cứ do người bào chữa thu thập được định đoạt
bởi ý chí chủ quan của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Khi luật chưa
quy định về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của người bào chữa thì căn cứ vào tiêu
chí nào, “trình tự, thủ tục” gì để xác định tính hợp pháp hay không hợp pháp chứng cứ
do người bào chữa thu thập? Chúng tôi cho rằng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải tiếp nhận chứng cứ do người bào chữa cung cấp khi nó bảo đảm tính khách
quan, tính liên quan và chính sự “tiếp nhận” này là đảm bảo tính “hợp pháp” của các
chứng cứ do người bào chữa thu thập. Nếu chưa có quy định về trình tự, thủ tục thu
thập chứng cứ của người bào chữa, thì sẽ không có cơ sở pháp lý để đánh giá về tính
113
hợp pháp hay không hợp pháp các chứng cứ do người bào chữa thu thập, nếu không có
sự rõ ràng sẽ dẫn đến sự tùy nghi trong việc đánh giá chứng cứ do người bào chữa thu
thập, tạo ra sự bất bình đẳng trong thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ giữa các bên,
buộc tội và bào chữa. Theo kết quả khảo sát (Câu số 4) về thực tiễn hoạt động chứng
minh của luật sư thì đa số cho rằng (90%) trường hợp, cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng không chấp nhận chứng cứ của luật sư giao nộp để đưa vào hồ sơ vụ án.
Như vậy, việc luật sư giao nộp chứng cứ rất ít khi được cơ quan tiến hành tố tụng đồng
ý, như vậy là không đúng, ảnh hưởng đến hoạt động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng
cứ của luật sư trong hoạt động chứng minh làm sáng tỏ sự thật vụ án.
Khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015 quy định“Trường hợp không thể thu thập
được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa thì người bào chữa có thể
đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập”. Đây là trường hợp người
bào chữa không thể tự mình thu thập được chứng cứ thì đề nghị cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng thu thập, việc thu thập chứng cứ trong trường hợp này do cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện, nhưng là theo đề nghị của người bào chữa. Tuy nhiên, do chưa
quy định rõ về thủ tục cũng như cơ chế bảo đảm thực hiện, do đó việc đề nghị của
người bào chữa không đạt hiệu quả do sự từ chối, cố tình gây khó khăn từ chủ thể tiến
hành tố tụng. Theo kết quả khảo sát (Câu số 8) các luật sư được hỏi trả lời là 95% Cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không đồng ý thu thập chứng cứ theo đề nghị
của người bào chữa. Như vậy, quy định này không thể áp dụng, hiệu quả không được
bảo đảm, còn phụ thuộc vào ý chí của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
3.2.2.3. Những hạn chế, vướng mắc khác
- Về thực hiện các nguyên tắc của tố tụng hình sự: Nguyên tắc tranh tụng và
nguyên tắc suy đoán vô tội tác động tích cực đến hoạt động chứng minh. Tuy nhiên,
thực tiễn vai trò của hai nguyên tắc này vẫn chưa được tuân thủ triệt để và đi vào thực
chất. Nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được bảo đảm và còn mờ nhạt tại phiên tòa sơ
thẩm. Sự áp đặt ý chí của cơ quan tiến hành tố tụng khi thẩm vấn theo định kiến “suy
đoán có tội” vẫn còn xảy ra, gây bất lợi cho người bị buộc tội. Bị cáo có quyền “Trình
bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình
hoặc buộc phải nhận mình có tội” (Điều 61 BLTTHS năm 2015). Nội dung của điều
luật này hàm chứa về quyền được im lặng nhưng, đến nay quyền im lặng vẫn chưa
114
được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015.
Tranh tụng đòi hỏi bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, lập luận chứng minh,
quyền bình đẳng “chính là cơ sở đảm bảo cho việc thực hiện tranh tụng-một nguyên
tắc cơ bản đảm tính công bằng, dân chủ, khách quan trong hoạt động tư pháp mà biểu
hiện cao độ, tập trung là tranh tụng trước Tòa án” [55, tr.69]. Bình đẳng là cơ sở của
tranh tụng, chúng ta không thể đòi hỏi phiên tòa phải có tính tranh tụng khi chưa chưa
tuân thủ nguyên tắc tranh tụng trong quá trình hoạt động chứng minh.
Nhận thấy, sau khi nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận thì phần nào đã tạo
được sự bình đẳng trong các phiên tòa. Tuy nhiên, trên phương diện thực tiễn thì người
bị buộc tội và người bào chữa vẫn chưa thật sự được coi là một bên tranh tụng bình
đẳng với bên buộc tội.“Tính thụ động, sự lệ thuộc của những người này vào các cơ
quan tiến hành tố tụng vẫn là điểm dễ nhận thấy trong tố tụng hình sự ở nước ta.
Những tồn tại, bất cập đó đã ảnh hưởng đến yêu cầu xây dựng một nền tư pháp dân
chủ, công bằng, nghiêm minh, bảo vệ công lý” [96, tr.134]. Thẩm phán điều khiển
phiên tòa vẫn theo thiên hướng buộc tội trên cơ sở hồ sơ điều tra, truy tố làm cho Kiểm
sát viên có tâm lý ỷ lại, không cần tranh luận với luật sư, giữ nguyên quan điểm truy tố.
Lời bào chữa của luật sư không được HĐXX xem xét, thậm chí các ý kiến, đề nghị của
luật sư không được ghi nhận trong bản án mà không nêu rõ lý do.
3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc
* Nguyên nhân về pháp luật
- Bất cập trong các quy định của pháp luật về xét xử sơ thẩm
Qua nghiên cứu về HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu cho thấy,
quy định của pháp luật ngày càng tiến bộ hơn, nhất là các quy định của BLTTHS năm
2015 đã khắc phục được các hạn chế của BLTTHS trước đó. Tuy nhiên, bênh cạnh
những điểm tiến bộ đã đạt được thì pháp luật liên quan đến HĐCMLS trong XXST các
tội xâm phạm hữu bộc lộ những bất cập do những nguyên nhân như sau:
Một là: Quyền yêu cầu triệu tập những người cần xét hỏi tại phiên tòa lẽ ra phải
do các bên chọn lựa mới đúng. Tuy nhiên, pháp luật vẫn trao quyền cho Thẩm phán
quyết định và được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, là không hợp lý, không
bảo đảm sự bình đẳng giữa các bên, ảnh hưởng đến HĐCMLS. Theo Kết quả khảo sát
(Câu số 10) đa số các luật sư được hỏi trả lời, việc luật sư đề nghị triệu tập người làm
115
chứng rất ít khi được Tòa án chấp nhận (95%) trường hợp.
Hai là, quy định về việc vắng mặt của các chủ thể tại phiên tòa xét xử sơ thẩm
còn nhiều bất cập, ảnh hưởng đến chất lượng HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm
hữu. Chẳng hạn, mọi trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt đều phải hoãn phiên tòa,
trong khi đó bị cáo hoặc luật sư bào chữa vắng mặt thì Tòa án vẫn xét xử, như vậy là
không bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử, HĐCMLS không được thực hiện
đúng đắn, quyền bào chữa của người bị buộc tội không được bảo đảm.
Ba là, người làm chứng phải có mặt tại phiên tòa là cần thiết để thực hiện thủ
tục xét hỏi, đối chất làm rõ các mâu thuẫn, những tình tiết để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án, nếu cho rằng người làm chứng về những vấn đề quan trọng nhưng đã có lời khai
trước đó thì tiến hành xét xử vắng mặt họ, như vậy là không bảo đảm tranh tụng, gây
khó khăn cho việc xác định sự thật của vụ án.
Bốn là, thủ tục xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm nước ta thể hiện đậm nét sự tiếp nối
của chế độ thẩm vấn với vai trò chủ đạo thuộc về Tòa án. HĐXX hỏi chính, hỏi trước,
đến Kiểm sát viên, người bào chữa hỏi sau. Chủ tọa phiên tòa xét hỏi còn mang nặng
tính thẩm tra chứng cứ trong hồ sơ vụ án theo hướng buộc tội, làm cho Kiểm sát viên có
tâm lý chủ quan, không mặn mà trong hoạt động xét hỏi, “có phiên tòa Kiểm sát viên
không hề hỏi, thẩm vấn bất kỳ ai, thậm chí khi tranh luận có Kiểm sát viên luôn giữ cho
mình một câu kinh điển: đại diện Viện kiểm sát nhân dân giữ quyền công tố tại phiên tòa,
tôi giữ nguyên quan điểm về vụ án như cáo trạng đã công bố…” [103, tr.13].
Năm là, thủ tục tranh luận chưa làm rõ chức năng buộc tội của Kiểm sát viên và
luật sư bào chữa. Đa số Kiểm sát viên ngại tranh luận với luật sư, khi chủ tọa phiên tòa
yêu cầu Kiểm sát viên đối đáp nhưng họ vẫn “giữ nguyên quan điểm truy tố”, không
thègm tranh luận. Mặc dù vậy, Tòa án vẫn phải xử. Vì “Trách nhiệm tìm sự thật của vụ
án đã đặt lên vai Tòa án và khi Viện kiểm sát chỉ buộc tội mà không thèm chứng minh
thì Tòa án phải thay Viện kiểm sát. Tòa án cũng phải hỏi, phải xử nếu không thì vụ án
sẽ bế tắc” [71, tr.8]. Thực tiễn có nhiều trường hợp lời bào chữa của luật sư hoàn toàn
có căn cứ, có lý, có tình nhưng Kiểm sát viên vẫn không đủ bản lĩnh thay đổi sự buộc
tội, giữ quan điểm truy tố của họ một cách cứng nhắc mà không đưa ra chứng cứ để
chứng minh. Những hạn chế, bất cập về thủ tục tranh tụng là nguyên nhân ảnh hưởng
116
đến chất lượng HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
- Bất cập trong các quy định về quyền của người bào chữa
Bộ luật TTHS năm 2015 quy định về quyền của người bào chữa, đặc biệt là các
quyền liên quan đến việc thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng tại các Điều 73, 80, 81, 88
BLTTHS năm 2015, nhưng đa số các quy định này còn nhiều hạn chế, vướng mắc
trong thực tiễn áp dụng. Muốn chứng minh thì phải có chứng cứ và để có chứng cứ thì
phải tiến hành thu thập. Thế nhưng, “Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền
gặp người mà mình bào chữa, bị hại,…nghe họ trình bày” (khoản 2 Điều 88 BLTTHS
năm 2015) nếu chỉ quy định trong chừng mực và phạm vi hạn hẹp như vậy thì luật sư
không thể thu thập được chứng cứ, hoặc “Trường hợp không thể thu thập được chứng
cứ... thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thu thập”, quy định này cũng không
khả thi. Nhìn chung, quy định quyền của người bào chữa không rõ ràng nên gặp nhiều
vướng mắc, không bảo đảm tính thực quyền của người bào chữa trong hoạt động TTHS
nói chung và trong HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm hữu nói riêng.
- Bất cập trong các quy định có liên quan khác
+ Các nguyên tắc của TTHS có mối quan hệ gắn bó với HĐCMLS, đặt biệt là
nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội, các nguyên tắc này tác động tích
cực đến HĐCMLS. Tuy nhiên, thực tiễn các nguyên tắc này chưa được tuân thủ triệt để
và đi vào thực chất, ảnh hưởng đến chất lượng HĐCMLS trong XXST các tội xâm
phạm hữu. Tranh tụng tại phiên tòa hiện nay còn mang nặng hình thức, vai trò của luật
sư mờ nhạt chưa được coi trọng đúng mức, thậm chí có trường hợp “Đáng ra, Tòa án
(Hội đồng xét xử) phải là trọng tài trong quá trình tranh tụng thì trên thực tế nhiều khi
Tòa lại là chủ thể tích cực nhất trong tranh tụng với luật sư” [35, tr.179].
+ Quy định về “Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng” (Điều 15 BLTTHS năm 2015), trong đó có cả Tòa án, như
vậy vô hình chung Tòa án được giao thêm cho chức năng buộc tội. Tòa án không thể
đồng thời vừa buộc tội vừa xét xử, ảnh hưởng đến hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
+ Quy định của BLTTHS về trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong xét xử và việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung cũng
không phù hợp. Vì, một chủ thể (Viện kiểm sát) mà song song đảm nhiệm đa chức
117
năng như vậy sẽ tạo lợi thế cho Kiểm sát viên lấn át HĐCMLS tại phiên tòa sơ thẩm.
+ Quy định của BLTTHS về Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung sẽ không bảo
đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động chứng minh, không bảo đảm nguyên
tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
+ Nguyên nhân về mô hình tố tụng hình sự
Mô hình TTHS thẩm vấn lấy việc trấn áp tội phạm, hiệu quả của việc phát hiện,
xử lý tội phạm làm nhiệm vụ quan trọng của TTHS, trong khi đó TTHS tranh tụng coi
trọng sự cân bằng giữa phát hiện tội phạm và yêu cầu bảo vệ quyền con người. Hiện
nay, về cơ bản mô hình TTHS nước ta vẫn là tố tụng thẩm vấn có đan xen yếu tố tranh
tụng. Như vậy, nếu chỉ mới có một số điều luật quy định về thủ tục tranh tụng tại phiên
tòa mà đã cho rằng TTHS nước ta đã tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình
TTHS tranh tụng là chưa thuyết phục. Mô hình TTHS thẩm vấn không ưu tiên chọn lựa
tranh tụng làm phương thức để xác định sự thật vụ án để bảo đảm về quyền con người
và hoạt động chứng minh. Và, muốn tranh tụng thì phải tách bạch về chức năng nhưng
BLTTHS chưa có sự phân chia rành mạch các chức năng, dẫn đến sự chồng chéo về
chức năng. Mô hình TTHS thẩm vấn dễ kiểm soát tội phạm, nhưng khó bảo đảm quyền
con người, làm giảm hiệu quả HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm hữu.
+ Nguyên nhân về việc tổ chức thực hiện
Về tổ chức, đối với cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng được quy định chủ
yếu trong Luật Tổ chức Tòa án nhân dân; Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân; Luật
Tổ chức Cơ quan điều tra, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam…còn nhiều bất cập, mâu
thuẫn, chồng chéo nhau. Vì vậy, trong thực tiễn hoạt động gặp nhiều khó khăn, vướng
mắc, kém hiệu quả ảnh hưởng đến hoạt động TTHS. Về điều kiện tổ chức của người
bào chữa được quy định chủ yếu trong Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý và các văn
bản hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, các văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt
động nghề luật sư vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế cần tiếp tục hoàn thiện để bảo đảm
cho hoạt động và vai trò tự quản của tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư.
Tổ chức thực hiện pháp luật được coi là khâu hạn chế nhất trong cơ chế điều
chỉnh pháp luật và một trong những hạn chế đó là vấn đề giải thích, hướng dẫn áp dụng
pháp luật. Việc thực hiện BLTTHS năm 2015 còn rất nhiều vướng mắc, bất cập về hoạt
118
động chứng minh nhưng chưa được giải thích, hướng dẫn kịp thời để áp dụng thống
nhất. Cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng với các cơ
quan, tổ chức có liên quan chưa chặt chẽ, đồng bộ trong quá trình giải quyết vụ án dẫn
đến việc nhận thức, áp dụng pháp luật không thống nhất, ảnh hưởng đến hoạt động
TTHS nói chung và HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm hữu nói riêng.
- Nguyên nhân từ nhận thức của chủ thể tiến hành, tham gia tố tụng hình sự
+ Nguyên nhân từ phía luật sư
Chức năng của luật sư là bảo vệ công lý, công bằng cho xã hội. Thế nhưng, vẫn
còn một số luật sư bị lợi ích dịch vụ chi phối, không đủ bản lĩnh, sa sút đạo đức. Đây
đó vẫn còn một số ít luật sư cố tình đổi trắng thay đen vì những khoản thù lao mà thân
chủ hứa trả, gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Thay vì, phải đầu tư tập
trung nghiên cứu hồ sơ để chuẩn bị phương án bào chữa thì một số luật sư lợi dụng vào
các mối quan hệ, đi gặp người này, người kia để “chạy án” dẫn đến việc phải trả hồ sơ
điều tra bổ sung nhiều lần, sau đó cũng không bổ sung thêm vấn đề gì mới. Khi bào chữa
chỉ định thì chưa làm hết trách nhiệm, ngại va chạm nể nang, bào chữa hình thức, chiếu
lệ hoặc cố tình vắng mặt chỉ gửi bài bào chữa không tham gia tranh tụng.
Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư chưa được thực hiện nghiêm
túc, một số luật sư còn vi phạm, thực hiện không đúng trách nhiệm nghề nghiệp, có dấu
hiệu lừa dối, làm cho khách hàng tin vào khả năng giải quyết công việc, dẫn đến có
hành vi vi phạm pháp luật. Cá biệt, có luật sư còn vi phạm đạo đức nghề nghiệp, đặt
mục đích kinh tế lên trên hết, xem nhẹ lợi ích của thân chủ và lợi ích xã hội. Điều này
đã tác động tiêu cực đến hoạt động chứng minh dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc làm
oan cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
Thực tế hành nghề luật sư phải chấp nhận sự rủi ro, nguy hiểm, phải chịu áp lực
từ nhiều nguyên nhân khác nhau nên nhiều luật sư ngại tham gia vào quá trình giải
quyết các mâu thuẫn, tranh chấp làm hạ thấp sự tín nhiệm và gây tổn hại đến uy tín, danh
dự của luật sư. Trách nhiệm của luật sư là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ
quan, tổ chức và cá nhân, bảo vệ cho việc thực thi đúng đắn của pháp luật. Nếu quyền và
lợi ích hợp pháp của luật sư khi hành nghề không được bảo vệ, thậm chí bị xâm phạm thì
quyền lợi của thân chủ cũng sẽ khó được bảo vệ đầy đủ.
Trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay, nhu cầu nhờ luật sư bào chữa chưa
119
cao, nhiều luật sư không thể sinh sống bằng nghề của mình, họ không chuyên tâm với
nghề; trình độ, kỹ năng nghề nghiệp của luật sư dàn trải, không đồng đều; các tổ chức
tổ chức hành nghề luật sư (văn phòng luật sư, công ty luật) đa số có quy mô nhỏ, không
chuyên sâu về lĩnh vực pháp luật hình sự; nghề luật sư phát triển không đồng đều, chủ
yếu tập trung tại các tỉnh, thành phố lớn có điều kiện phát triển về kinh tế, chưa đáp
ứng nhu cầu bào chữa cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm hữu.
+ Nguyên nhân từ phía các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Cơ quan tiến hành tố tụng nhìn chung, chưa tạo điều kiện thuận lợi để luật sư
thực hiện quyền bào chữa theo quy định của pháp luật, nhận thức của người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng về HĐCMLS chưa đúng đắn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ
chưa đồng đều, trình độ, kiến thức và kỹ năng hành nghề chưa chuẩn mực, nhất là về
phẩm chất đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của các chủ thể tiến hành tố tụng còn nhiều
hạn chế. Những vướng mắc, khó khăn còn xuất phát từ nhận thức chưa đúng về dân
chủ hóa các hoạt động TTHS, dẫn đến khả năng rủi ro trong quá trình hành nghề rất
cao. Điều đó ảnh hưởng đến yêu cầu xây dựng nền tư pháp dân chủ, bảo vệ công lý,
quyền con người trong hoạt động tư pháp, không tạo được cơ chế pháp lý hữu hiệu
thúc đẩy các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng tự hoàn thiện, nâng cao hiệu quả
hoạt động của mình trước sự đối trọng, phản biện tích cực của bên bào chữa.
Trong quá trình chứng minh, ngoài việc phải tuân thủ pháp luật còn đòi hỏi trình
độ nhận thức của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trong điều kiện mô
hình TTHS thẩm vấn, lấy hiệu quả của việc phát hiện xử lý tội phạm làm nhiệm vụ
quan trọng của TTHS, những người tiến hành tố tụng luôn giữ vai trò chủ đạo, còn luật
sư chỉ đóng vai trò phụ, luật sư bào chữa cũng chỉ là chủ thể “tham gia tố tụng” chứ
không phải là chủ chể được “tiến hành tố tụng” như Điều tra viên, Kiểm sát viên hay
Thẩm phán. Những chủ thể này được Nhà nước trao cho rất nhiều quyền và phương
tiện để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy, năng lực, trình độ phẩm chất
đạo đức và nhận thức của những chủ thể này sẽ quyết định đến chất lượng giải quyết
vụ án. Điều này đặt ra yêu cầu cho những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải
nhận thức đúng đắn vai trò của người bào chữa trong vụ án. Tuy nhiên, thực tiễn vai trò
của luật sư vẫn chưa thật sự được coi trọng, họ xem nhẹ hoặc bỏ qua các chứng cứ do
luật sư thu thập dẫn đến xảy ra tình trạng oan sai trong tố tụng hình sự.
120
Những khó khăn, vướng mắc từ nhận thức và quan hệ phối hợp giữa các chủ thể
tiến hành tố tụng với người bào chữa. Nhìn chung, những người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng chưa nhận thức đúng đắn về vai trò của người bào chữa, lo sợ có luật sư tham
gia sẽ gây khó khăn nên họ còn khắt khe, thậm chí cảnh giác khi có luật sư tham gia vụ
án, tạo ra những khó khăn, cản trở đối với hoạt động hành nghề của luật sư.
Trong nhiều vụ án, luật sư đã bị xâm phạm sức khỏe, nhân phẩm, danh dự và
Liên đoàn Luật sư Việt Nam đã lên tiếng can thiệp rất mạnh mẽ, nhưng nhiều vụ việc
cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn không khẩn trương làm rõ, làm cho quyền
của luật sư bị ảnh hưởng, giảm sút lòng tin của xã hội đối với luật sư và nghề luật sư.
Thực trạng này diễn ra có chiều hướng gia tăng do nhiều nguyên nhân, mà chủ yếu là
từ việc không xử lý nghiêm minh, triệt để của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
với tội phạm để bảo vệ hoạt động nghề của luật sư.
+ Nguyên nhân từ việc tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Trình độ dân trí ở nước ta đã được nâng cao, nhưng nhìn chung vẫn còn thấp so
với sự phát triển của xã hội, nhận thức về nghề luật sư không phải lúc nào cũng đúng
đắn, thậm chí còn có nhận thức sai lầm khi nghĩ rằng thuê luật sư sẽ tốn kém, làm cho
tội nặng hơn hoặc cho rằng đã nhờ luật sư thì luật sư phải bào chữa cho mình vô tội,
những suy nghĩ lệch lạc ấy làm ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động nghề luật sư.
Luật sư tham gia tố tụng không mang tính hình thức như một số người vẫn lầm
tưởng, kể cả những người tiến hành tố tụng. Nhận thức không đúng về vai trò của luật
sư chính là rào cản lớn nhất đối với HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm hữu,
trong khi người bị buộc tội lại không có khả năng bào chữa hiệu quả. Hoạt động bào
chữa là cần thiết nhưng nhiều người vẫn còn e ngại thuê luật sư bào chữa. Thực tế, tỷ lệ
người dân nhờ luật sư còn thấp so với các vụ án được đưa ra xét xử do chưa nhận thức
chưa đúng đắn về vai trò của nghề luật sư hoặc điều kiện kinh tế khó khăn.
Về việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật cũng chưa đạt hiệu quả vì một
số cơ quan, tổ chức chưa nhận thức đúng đắn về vai trò và tầm quan trọng của người
bào chữa, về HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu, chưa chủ động, tích cực
tổ chức thực hiện, linh hoạt tìm kiếm các hình thức hoạt động phù hợp trong công tác
phổ biến giáo dục pháp luật, thường là do kiêm nhiệm, chưa chuyên tâm với công việc
121
phổ biến giáo dục pháp luật cho nhân dân trong từng địa phương và toàn xã hội.
Kết luận Chương 3
Hoạt động chứng minh của luật sư có quá trình hình thành và phát triển gắn liền
với lịch sử phát triển của nền tư pháp nước ta. Qua nghiên cứu pháp luật về hoạt động
chứng minh trong xét xử sơ thẩm và thực tiễn áp dụng hoạt động chứng minh của luật
sư về các tội xâm phạm sở hữu, cho thấy vẫn còn một số hạn chế, bất cập ảnh hưởng
đến chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư. Bộ luật TTHS năm 2015 đã có
những sửa đổi, bổ sung nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc về hoạt động
chứng minh. Tuy nhiên, quá trình áp dụng pháp luật trong những năm qua cũng đã bộc
lộ những hạn chế, bất cập cần tiếp tục hoàn thiện để nâng cao hiệu quả hoạt động
chứng minh trong tố tụng hình sự.
Quá trình hoạt động chứng minh chịu sự ảnh hưởng bởi các yếu tố về pháp luật,
về con người và ý thức pháp luật cũng như yếu tố về điều kiện kinh tế - xã hội. Những
yếu tố nêu trên đã ảnh hưởng, tác động nhất định đến chất lượng hoạt động chứng minh
của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu. Nghiên cứu về thực tiễn
hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại
các tỉnh Tây Nam Bộ đã mang lại những kết quả đáng ghi nhận. Nhìn một cách tổng
thể, hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu
tại các tỉnh Tây Nam Bộ đã đáp ứng phần lớn nhu cầu bào chữa cho người buộc tội.
Hoạt động của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu góp phần làm
sáng tỏ vụ án, giúp cho Tòa án đưa ra phán quyết đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm,
không làm oan cho người vô tội.
Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, nhưng thực tiễn hoạt động chứng
minh của luật sư vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Một trong những nguyên nhân đó là,
những hạn chế, bất cập từ khâu lập pháp, về tổ chức thực hiện pháp luật, từ nhận thức
của các chủ thể tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và về tuyên truyền, giáo dục ý
thức pháp luật. Vì vậy, để bảo đảm chất lượng hoạt động tố tụng hình sự nói chung và
hoạt động chứng minh của các bên buộc tội và bào chữa tại phiên tòa sơ thẩm nói
riêng, đòi hỏi cần phải đưa ra những yêu cầu và các giải pháp phù hợp mang tính khoa
học, tính thực tiễn, khả thi nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập qua đó góp phần
nâng cao chất lượng hiệu quả hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm
122
về các tội xâm phạm sở hữu.
Chương 4
YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG
CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ TRONG XÉT XỬ SƠ THẨM CÁC TỘI XÂM
PHẠM SỞ HỮU TẠI CÁC TỈNH TÂY NAM BỘ
4.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử
sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ
4.1.1. Yêu cầu bảo vệ quyền con người, nhất là quyền của bị can, bị cáo trong tố
tụng hình sự
Quyền con người xác định phạm vi tự do dựa trên sự công bằng và tự do trở
thành quyền khi nó được pháp luật thừa nhận. Bảo đảm quyền con người là thước đo,
là mục tiêu chung của xã hội pháp quyền.“Bảo vệ quyền con người không chỉ là nội
dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta” [167, tr.1].
Tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân là tư tưởng xuyên
suốt trong Hiến pháp năm 2013 và đã được BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa. Bảo đảm
quyền con người trong TTHS là một trong những yếu tố bảo đảm pháp lý về quyền và
tự do cá nhân, là lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. “Quyền của bị can là một bộ phận
cấu thành của quyền con người; nói cách khác, quyền con người là cơ sở, nền tảng
hình thành quyền của bị can trong tố tụng hình sự” [97, tr.3].
Khi nói đến quyền con người thì việc bảo đảm quyền con người của người bị
buộc tội là quan trọng nhất. Quyền con người của người bị buộc tội được thể hiện
thông qua quyền bào chữa, quyền tự bào chữa và quyền có người bào chữa. Quyền bào
chữa được thực hiện thông qua hoạt động bào chữa mà hoạt động bào chữa suy cho
cùng chính là hoạt động chứng minh, trong đó luật sư là chủ thể tham gia hoạt động
chứng minh chủ yếu để bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội. Chứng minh là quá
trình làm sáng tỏ sự thật của vụ án, chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS cho
người bị can, bị cáo, cũng chính là nhằm bảo vệ quyền con người thông qua HĐCMLS
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
Quyền con người là một trong những quyền cơ bản không thể tách rời của mỗi
123
cá nhân, là kết tinh của nền văn minh nhân loại. “Quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự là tổng hợp các quyền dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội phản ánh giá trị
xã hội cao quý được thừa nhận chung của nền văn minh nhân loại, là đặc trưng tự
nhiên vốn có cần được tôn trọng và không thể bị tước đoạt” [16, tr.41]. Thể hiện tư
tưởng nhân đạo về quyền con người, lần đầu tiên Hiến pháp năm 2013 ghi nhận
“Nguyên tắc suy đoán vô tội” và “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”.
Khi quyền con người của người bị buộc tội bị xâm phạm thì phương thức tốt nhất là
thông qua Tòa án để bảo vệ, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị
cáo.“Với tư cách là cơ quan giữ vị trí trung tâm trong hệ thống các cơ quan tư pháp,
Tòa án có vai trò quyết định trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự
và hoạt động bảo vệ quyền con người của Tòa án được mở rộng đến tất cả những
người tham gia giải quyết vụ án hình sự” [133, tr.213].
Mục đích của TTHS nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án, tạo điều kiện tốt nhất
để người bị buộc tội và người bào chữa của họ chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ
TNHS, để các quyền con người, quyền công dân của người bị buộc tội được tôn trọng
và bảo đảm trong thực tiễn. Hoạt động chứng minh của luật sư trong XXST các tội
xâm phạm sở hữu để làm sáng tỏ sự thật của vụ án, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
người, quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự .
4.1.2. Yêu cầu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh
Trong một xã hội văn minh công lý và bảo vệ công lý phải là mục tiêu cơ bản
của Nhà nước pháp quyền, là thước đo sự tiến bộ của nền tư pháp dân chủ, điều này
cũng nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nghị
quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị đặt mục tiêu “Xây dựng nền tư
pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện
đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt nam xã hội chủ nghĩa…”. Hoạt động
chứng minh trong TTHS nói chung và HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án, giúp cho Tòa án đưa ra
phán quyết đúng đắn, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan cho người vô tội. Hoạt
động chứng minh của luật sư nhằm thực hiện chức năng bào chữa-chức năng xã hội
của luật sư, “Hoạt động nghề nghiệp của luật sư góp phần bảo vệ công lý, các quyền
tự do, dân chủ của công dân, quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức,
124
phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa,
xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” (Điều 3 luật Luật sư năm 2012). Bảo đảm sự
dân chủ, bình đẳng trong quá trình tranh tụng của bên buộc tội và bên bào chữa là tiền
đề quan trọng bảo đảm cho phán quyết đúng đắn của Tòa án, tạo niềm tin của nhân dân
vào công lý. Có thể nói, sự tham gia tích cực của luật sư vào quá trình giải quyết vụ án
không chỉ để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội mà còn
góp phần bảo vệ công lý, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
4.1.3. Yêu cầu tiếp tục cải cách tư pháp
Mục tiêu của cải cách tư pháp là xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch,
vững mạnh, củng cố, kiện toàn bộ máy các cơ quan tư pháp. Nghị quyết số 49-NQ/TW
ngày 02/06/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: Một trong
những nhiệm vụ cụ thể của cải cách tư pháp là: “Đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử,
xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao
chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động
tư pháp”. Quy định này cho thấy, tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng tranh
tụng tại phiên tòa, là khâu rất quan trọng trong cải cách tư pháp ở nước ta.
Bộ luật TTHS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo
đảm nhằm hiện thực hoá hoạt động tranh tụng. Sự thật vụ án sẽ được mở ra khi thông
qua tranh tụng bình đẳng giữa các bên. Chủ trương đẩy mạnh tranh tụng trong xét xử là
giải pháp trọng tâm, hàng đầu tạo ra bước chuyển biến mới mang tính đột phá trong
lĩnh vực tư pháp hình sự và là cơ sở pháp lý bảo đảm cho hoạt động chứng minh trong
TTHS nói chung và HĐCMLS trong XXST các tội xâm phạm sở hữu nói riêng. Để
tranh tụng được diễn ra bình đẳng thì quyền tố tụng của các bên phải được đảm bảo.
Tính khách quan, hợp pháp của sự phán xét phụ thuộc vào hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và sự tham gia tích cực của luật sư vào quá trình chứng minh.
Tiến trình cải cách tư pháp đã cho thấy tầm quan trọng của công tác tổ chức và
hoạt động luật sư và đặt nhiệm vụ cho cơ quan tư pháp bảo đảm hoạt động hành nghề
luật sư. Nghị quyết số 08-NQ/TW đã quy định: “Nâng cao chất lượng công tố của
Kiểm sát viên tại phiên toà, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa
và những người tham gia tố tụng khác...Việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ
125
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa…”. Nguyên tắc tranh tụng bảo
đảm cho HĐCMLS, tranh tụng giữa các bên càng dân chủ, bình đẳng bao nhiêu thì quá
trình tìm chân lý càng nhanh chóng, chính xác bấy nhiêu, tạo tiền đề khách quan cho
HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu đạt hiệu quả cao nhất.
4.1.4. Yêu cầu phòng, chống tội phạm
Yêu cầu của công tác phòng, chống tội phạm luôn là một trong những nhiệm vụ
thường xuyên, lâu dài góp phần quan trọng bảo đảm quốc phòng - an ninh, đối ngoại,
tạo cơ sở và môi trường xã hội ổn định, lành mạnh phát triển kinh tế - xã hội. Các tổ
chức Đảng, cơ quan Nhà nước, đoàn thể quần chúng cần xác định phòng, chống tội
phạm là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên tổ chức thực hiện theo đúng yêu cầu.
Trong thời gian qua tình hình tội phạm nói chung và tình hình các tội xâm phạm
sở hữu nói riêng diễn ra hết sức phức tạp, nhưng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố
tụng đã thực hiện tốt các hoạt động xét xử, đạt nhiều kết quả đáng ghi nhận, nhiều vụ
án đặc biệt nghiệm trọng đã được xét xử bảo đảm theo đúng trình tự, thủ tục pháp luật
quy định, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nhận được sự đồng thuận của xã
hội, góp phần đáng kể trong công tác phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, quá trình
chứng minh trong TTHS nói chung vẫn còn nhiều bất cập, còn nhiều sai sót dẫn đến bỏ
lọt tội hoặc làm oan sai người vô tội, nguyên nhân là chưa coi trọng vai trò hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự. Nếu hoạt động chứng minh
của các chủ thể thực hiện các chức năng, trong đó có HĐCMLS thực hiện chức năng
bào chữa được thực hiện tốt sẽ tác động tích cực đến việc phòng, chống tội phạm nói
chung và các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Nhằm hạn chế đến mức thấp nhất tình hình tội phạm, nhất là các tội xâm phạm
sở hữu, cần tăng cường hoạt động phòng, chống tội phạm đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới. Bên cạnh đó, cần đề cao vai trò HĐCMLS trong quá trình điều tra, truy tố,
xét xử. Thực tế HĐCMLS bào chữa đã góp phần quan trọng cùng cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án để Tòa án đưa ra bản án công minh,
đúng pháp luật, qua đó thể hiện được tính răn đe, giáo dục phòng, chống tội phạm. Vì
vậy, trong thời gian tới cần nâng cao hoạt động chứng minh nói chung và HĐCMLS
trong XXST các tội xâm phạm sở hữu nói riêng, là yêu cầu có ý nghĩa về lý luận và
126
thực tiễn trong đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay.
4.1.5. Yêu cầu hội nhập quốc tế về tư pháp hình sự
Trong giai đoạn hiện nay, quá trình hội nhập quốc tế của đất nước đang diễn ra
một cách mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực, trong đó các cơ quan tư pháp đã mở rộng hợp
tác tham gia ký kết nhiều điều ước quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo
đảm các quyền con người. “Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong hoạt động lập pháp về
quyền của bị cáo là cần xem xét tiếp thu các quy định của pháp luật quốc tế về quyền
bị cáo trong xét xử mà Việt Nam tham gia. Đó là các Công ước như: Công ước về
quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa; Công ước
quyền trẻ em; Công ước xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, các
Công ước về chống phân biệt chủng tộc, trừng trị tội diệt chủng, tội Apacthai, Quy chế
Rome về Tòa án hình sự quốc tế, Công ước chống tra tấn…” [26, tr.91-93]. Tình hình
tội phạm xảy ra rất phức tạp với các phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, gia tăng
về quy mô lẫn tính chất, phạm vi hoạt động vượt ra ngoài biên giới, mang tính chất của
tội phạm xuyên quốc gia, cấu kết với các tổ chức tội phạm nước ngoài có xu hướng gia
tăng, gây ra tâm lý hoang mang, lo lắng cho xã hội. Vì vậy, việc tăng cường hợp tác
quốc tế trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và các tội xâm phạm sở hữu
nói riêng là cần thiết, phù hợp với các điều ước quốc tế về đấu tranh phòng, chống tội
phạm mà Việt Nam là thành viên đã ký kết tham gia.
Để đảm bảo xử lý kịp thời các loại tội phạm theo đúng pháp luật Việt Nam, các
cơ quan tiến hành tố tụng phải tiến hành các hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp. Thực
tiễn thời gian qua, tình trạng vi phạm quyền con người trong hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử đã để xảy ra oan, sai gây bức xúc trong dư luận, mà một trong những nguyên
nhân là do các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng quá đặt nặng vấn đề kiểm soát
tội phạm, xem nhẹ vấn đề bảo vệ quyền con người, đặc biệt là chưa bảo đảm về quyền
bào chữa và HĐCMLS trong TTHS nói chung cũng như trong XXST các tội xâm phạm
sở hữu nói riêng. Vì vậy, chúng ta cần tiếp thu những tiến bộ về TTHS của các quốc
gia trên thế giới, hướng đến bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, phù hợp với các
điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia đáp ứng
127
quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong
xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu tại các tỉnh Tây Nam Bộ
4.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
4.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xét xử sơ thẩm
- Về sự có mặt của những người tham gia tố tụng
Quyền yêu cầu triệu tập những người cần xét hỏi tại phiên tòa, trong đó có
người làm chứng là quyền rất quan trọng của bên bào chữa. Tuy nhiên, việc cần triệu
tập ai, yêu cầu của các bên có được chấp nhận hay không thì luật chỉ quy định do Thẩm
phán quyết định và được ghi trong quyết định đưa vụ án ra xét xử, là không hợp lý.
Quy định này dễ dẫn đến tâm lý thiên vị của Thẩm phán, thông thường chỉ chú trọng
triệu tập người làm chứng của bên buộc tội, xem nhẹ không triệu tập người làm chứng
của bên bào chữa, tạo ra sự bất bình đẳng giữa các bên tranh tụng, gây bất lợi cho
HĐCMLS tại phiên tòa. Do vậy, nên quy định rõ cho các bên được quyền đưa danh sách
người làm chứng của mình đến phiên tòa để bảo đảm sự cân bằng, bình đẳng giữa các
bên. Cụ thể, Điều 287 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 287. Triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa
Căn cứ quyết định đưa vụ án ra xét xử và theo yêu cầu của Kiểm sát viên, người
bào chữa, Tòa án triệu tập những người cần xét hỏi đến phiên tòa. Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa phải bảo đảm cho Kiểm sát viên và người bào chữa được quyền đưa danh
sách những người cần triệu tập của họ đến phiên tòa để xét hỏi”.
Mọi trường hợp Kiểm sát viên vắng mặt đều phải hoãn phiên tòa, trong khi đó
nếu người bào chữa vắng mặt thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử, không cần xem xét
đến vì lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan hoặc bị cáo có đồng ý xét xử vắng mặt
người bào chữa hay không, như vậy là không phù hợp. Vậy, cần quy định sao cho bảo
đảm tối đa sự có mặt của người bào chữa để hình thành các bên tranh tụng tại phiên
tòa, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo. Như vậy, cần sửa đổi, bổ sung Điều 291
BLTTHS năm 2015 như sau:
“Điều 291. Sự có mặt của người bào chữa
1. … Trường hợp người bào chữa vắng mặt lần thứ nhất vì lý do bất khả kháng hoặc do
trở ngại khách quan thì Tòa án phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp bị cáo đồng ý xét
128
xử vắng mặt người bào chữa. Nếu người bào chữa được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan và bị cáo không
đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa thì Tòa án phải hoãn phiên tòa.
2. (Giữ nguyên).”
Tại phiên tòa xét xử sơ thẩm cần thiết phải có mặt người làm chứng để họ trình
bày những tình tiết, sự kiện nhằm làm sáng tỏ sự thật của vụ án, nếu cho rằng người
làm chứng về những vấn đề quan trọng nhưng đã có lời khai trước đó thì tiến hành xét
xử vắng mặt họ, như vậy là chưa phù hợp, vì người làm chứng quan trọng vắng mặt thì
sẽ gây khó khăn, cản trở cho hoạt động xét hỏi, đối chất làm rõ các mâu thuẫn và
HĐXX cũng khó xác định được sự thật của vụ án để đưa ra phán quyết đúng đắn. Vì
vậy, Điều 293 BLTTHS năm 2015 có thể sửa đổi, bổ sung như sau:
Điều 293. Sự có mặt của người làm chứng
1. Người làm chứng tham gia phiên tòa để làm sáng tỏ những tình tiết của vụ án. Nếu
người làm chứng vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa, trừ trường hợp các bên buộc tội,
bào chữa đều đồng ý xét xử vắng mặt người làm chứng. Nếu người làm chứng về
những vấn đề quan trọng của vụ án vắng mặt thì Hội đồng xét xử phải hoãn phiên tòa.
2. (Giữ nguyên)”.
- Về thủ tục xét xử tại phiên tòa sơ thẩm
Điều 306 BLTTHS năm 2015 quy định“Trước khi tiến hành xét hỏi, Kiểm sát
viên công bố bản cáo trạng và trình bày ý kiến bổ sung (nếu có). Ý kiến bổ sung không
được làm xấu đi tình trạng của bị cáo”. Đọc cáo trạng là thủ tục để tiến hành xét hỏi.
Tuy nhiên, Viện kiểm sát thường lập cáo trạng rất dài, mô tả chi tiết từng hành vi phạm
tội, trong khi cáo trạng đã được giao cho các bên trước đó, việc đọc lại toàn bộ bản cáo
trạng là vô tình nhắc lại diễn biến vụ án một lần nữa làm lãng phí thời gian. Hơn nữa,
bản cáo trạng hàm chứa nội dung buộc tội nên việc công bố trước khi các tình tiết,
chứng cứ của vụ án chưa được kiểm tra, đánh giá sẽ tạo định kiến bị cáo có tội, gây bất
lợi cho việc bào chữa cũng như HĐCMLS. Vì vậy, cần sửa đổi điều luật trên theo
hướng, bỏ thủ tục công bố cáo trạng và thay thế bằng thủ tục trình bày tóm tắt cáo
trạng và người buộc tội được trình bày ý kiến của mình về việc buộc tội.
Điều 307 BLTTHS năm 2015 quy định về trách nhiệm và trình tự xét hỏi không
thật rõ ràng. Lẽ ra, việc hỏi là trách nhiệm của hai bên để họ có căn cứ bảo vệ quan
129
điểm của mình, là bên khởi động cho tranh tụng thì ngay sau khi đọc cáo trạng, Kiểm
sát viên phải hỏi để củng cố, bảo vệ quan điểm buộc tội, tiếp theo là người bào chữa
hỏi để có cơ sở bào chữa phản bác việc buộc tội. Tuy nhiên, với quy định Chủ toạ
phiên toà hỏi trước rồi quyết định để HĐXX, Kiểm sát viên, người bào chữa hỏi, nên
trong thực tiễn Chủ tọa phiên tòa rất chủ động, tích cực trong xét hỏi, được hỏi bao
quát tường tận mọi vấn đề, làm cho Kiểm sát viên và luật sư lâm vào tình thế thụ động,
chỉ còn hỏi những tình tiết không quan trọng để tránh sự trùng lặp. Toà án đóng vai trò
quá tích cực trong xét hỏi như vậy, thì thử hỏi:“Trong quá trình xét hỏi ấy, các chứng
cứ được thu thập đầy đủ đến đâu, đánh giá chúng như thế nào và được phản ánh như
thế nào vào biên bản phiên tòa và đóng vai trò đến đâu trong nội dung phát biểu của
các chủ thể khác trong việc hình thành quan điểm của họ trong phần tranh luận và
cuối cùng là trong phòng nghị án và trong bản án - phần lớn phụ thuộc vào quan điểm
và vị trí chủ động tích cực đó của Tòa án” [121, tr.13]. Vì vậy, cần sửa đổi, bổ sung về
tên điều luật, từ “Trình tự xét hỏi” thành “Trách nhiệm và trình tự xét hỏi”. Về nội
dung, thay đổi trách nhiệm và trình tự xét hỏi theo hướng, Kiểm sát viên và người bào
chữa được hỏi chính, Kiểm sát viên hỏi để buộc tội, luật sư hỏi để gỡ tội, Kiểm sát viên
hỏi trước, đến người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác. Tòa án điều hành
hoạt động hỏi của các bên tranh tụng. Thay đổi trách nhiệm và trình tự xét hỏi như vậy
sẽ mang tính đột phá, tăng cường tranh tụng, trả Tòa án trở về đúng với vai trò trọng tài
vô tư, khách quan điều khiển, dẫn dắt các bên tranh tụng. Bởi vì, “Trách nhiệm của
Tòa án là kiểm tra sự thật thông qua tranh tụng mà không phải tự mình đi tìm sự thật
thông qua xét hỏi và đưa ra phán quyết cuối cùng về một người nào đó có tội hay vô
tội” [96, tr.171]. Cụ thể, cần sửa đổi, bổ sung Điều 307 BLTTHS năm 2015 như sau:
“Điều 307. Trách nhiệm xét hỏi và trình tự xét hỏi
1. Chủ tọa phiên tòa điều hành việc hỏi tại phiên tòa. Kiểm sát viên phải xác định đầy
đủ những tình tiết, từng tội và từng người trong vụ án để tiến hành hỏi trước, hỏi sau
theo thứ tự hợp lý.
2. Khi xét hỏi từng người, Chủ toạ phiên toà quyết định để Kiểm sát viên hỏi trước, đến
người bào chữa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Hội đồng xét xử hỏi khi cần thiết.
Người tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về
130
những tình tiết cần làm sáng tỏ.
Người giám định, người định giá tài sản được hỏi về những vấn đề có liên quan đến
việc giám định, định giá tài sản.
3. (Giữ nguyên)”.
Khi bắt đầu tranh luận, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, người bào chữa trình
bày lời bào chữa, bị cáo có thể trình bày bổ sung. Tuy nhiên, lời luận tội chỉ là bước
đầu khởi động cho tranh luận nhưng Kiểm sát viên đã đề nghị “mức hình phạt chính,
hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật
chứng” như vậy là không hợp lý. Tại thời điểm này các bên chưa tranh luận, vậy mà
Kiểm sát viên đã vội đề xuất như vậy thì vô hình chung đã tạo áp lực đối với bên bào
chữa và cả HĐXX, vi phạm nguyên tắc tranh tụng. Vì vậy, cần sửa đổi khoản 3 Điều
321 BLTTHS năm 2015 theo hướng bỏ quy định về việc Kiểm sát viên đề nghị áp
dụng hình phạt, mức hình phạt, trách nhiệm bồi thường…khi chưa qua tranh luận,
Kiểm sát viên chỉ có thể kết luận về tội danh, khung hình phạt còn những vấn đề khác
khi tranh luận xong rồi đề nghị. Nếu không có đủ căn cứ chứng minh được tội phạm thì
Kiểm sát viên phải rút toàn bộ quyết định truy tố, đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo
không phạm tội. Cụ thể, khoản 3 Điều 321 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung
như sau:
“Điều 321. Luận tội của Kiểm sát viên
1. (Giữ nguyên)
2. (Giữ nguyên)
3. Đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết
luận về tội nhẹ hơn; nếu không có đủ căn cứ để buộc tội thì Kiểm sát viên phải rút toàn
bộ quyết định truy tố, tuyên bố bị cáo không phạm tội.
4. (Giữ nguyên)”.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đối đáp thể hiện trách nhiệm thực hành quyền công
tố để bảo vệ cáo trạng. Tuy nhiên, thực tiễn rất nhiều trường hợp Tòa án yêu cầu Kiểm
sát viên đối đáp nhưng Kiểm sát viên vẫn “giữ nguyên quan điểm truy tố” không thèm
tranh luận với luật sư hoặc chỉ tranh luận qua loa, không đến cùng từng ý kiến, làm cho
tranh tụng không đúng thực chất. Vì vậy, khoản 2 và khoản 4 Điều 322 BLTTHS năm
2015 cần có văn bản giải thích, hướng dẫn thể hiện rõ trách nhiệm của Kiểm sát viên,
131
quyền hạn của chủ tọa phiên tòa đối với Kiểm sát viên khi đối đáp để nguyên tắc
“tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Ngoài ra, ý kiến của luật sư cần được xem
xét, đánh giá bình đẳng với bên Kiểm sát viên và phải được chấp nhận khi có căn cứ.
Cần quy định để “làm rõ trách nhiệm của Kiểm sát viên, người bào chữa trong việc
hỏi, xuất trình tài liệu, chứng cứ, tranh luận; tạo điều kiện thuận lợi phát huy tối đa
quyền của bị cáo và những người tham gia tố tụng chủ động trình bày, nêu yêu cầu,
đưa ra chứng cứ làm rõ sự thật khách quan, bản chất mọi tình tiết của vụ án. Có như
vậy mới bảo đảm tranh tụng dân chủ và Tòa án mới thật sự là người cầm cân, nảy
mực, phán xét công minh” [96, tr.391].
Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX yêu cầu
những người tham gia phiên tòa có ý kiến về việc rút quyết định truy tố, là không hợp
lý. Bởi lẽ, nếu có ý kiến gì đi chăng nữa thì Tòa án vẫn tiếp tục xét xử. Nhận thấy, khi
và chỉ khi trải qua tranh luận cho thấy rõ là không có đủ căn cứ để buộc tội, nghĩa là
không chứng minh được tội phạm thì Kiểm sát viên mới rút toàn bộ quyết định truy tố,
trường hợp này Tòa án phải ra tuyên bố bị cáo không phạm tội, nếu tiếp tục xét xử là vi
phạm nguyên tắc suy đoán vô tội. Vì vậy, cần bỏ quy định, khi Kiểm sát viên rút toàn
bộ quyết định truy tố mà HĐXX vẫn tiếp tục xét xử và giải quyết vụ án giống như
trường hợp không rút truy tố. Cụ thể, khoản 2 Điều 325 BLTTHS năm 2015 cần sửa
đổi, bổ sung như sau:
Điều 325. Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
1. (Giữ nguyên)
2. Trường hợp Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì trước khi nghị án, Hội
đồng xét xử yêu cầu những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến về việc rút quyết
định truy tố. Sau khi những người tham gia phiên tòa trình bày ý kiến thì HĐXX tuyên
bố bị cáo không phạm tội. Chủ tọa phiên tòa giải thích về quyền kháng cáo, kháng nghị
cho những người tham gia phiên tòa biết để thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình”.
Quy định tại khoản 4 Điều 326 BLTTHS năm 2015 không rõ ràng, dứt khoát.
Nếu Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX phải kết luận bị cáo
không có tội, kết thúc vụ án, chứ không tiếp tục xét xử. Bởi vì, hoạt động chứng minh
của ba chủ thể buộc tội, bào chữa và xét xử là độc lập, nhưng chúng lại có mối quan
hệ ràng buộc với nhau. Sự tồn tại của chủ thể buộc tội là tất yếu cho sự tồn tại của chủ
132
thể bào chữa. Mỗi chủ thể tồn tại, phát triển khi và chỉ khi hai chủ thể kia tồn tại, phát
triển. Khi hoạt động chứng minh của chủ thể buộc tội chấm dứt thì hoạt động xét xử
cũng chẳng còn lý do gì để tồn tại. Ở đây, Kiểm sát viên đã rút toàn bộ quyết định truy
tố, tức là chấm dứt hoạt động buộc tội thì đương nhiên hoạt động xét xử cũng không
còn. Nghĩa là, Tòa án chỉ có một lựa chọn duy nhất là tuyên bố bị cáo không phạm tội,
chấm dứt việc xét xử. Như vậy, khoản 4 Điều 326 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ
sung theo hướng, khi Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì HĐXX phải
tuyên bị cáo không có tội
Thực tiễn hiện nay, HĐXX vẫn chưa thật sự tạo điều kiện cho luật sư tranh tụng
bình đẳng, bản luận tội thường được coi trọng hơn lời bào chữa, thời gian tranh luận
của luật sư thường bị hạn chế bởi sự tùy nghi của Chủ tọa phiên tòa. Trong khi đó tại
Hội nghị quốc tế năm 2018 về “Hoàn thiện hệ thống tư pháp trước những thách thức
hiện nay” Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình đã phát biểu: “…Tăng
cường tranh tụng; đổi mới cách thức cách thức sắp xếp bài trí phiên tòa, đổi mới mô
hình tố tụng, mở rộng quyền cho luật sư, giao trách nhiệm tìm kiếm chứng cứ và chứng
minh cho các bên, đổi mới qui trình tranh tụng tại phiên tòa theo hướng dành nhiều
thời gian hơn cho giai đoạn hỏi đáp, tranh luận giữa các bên hoặc luật sư của họ…”
[165]. Vì vậy, cần sửa đổi pháp luật để thực hiện có hiệu quả thủ tục xét hỏi và tranh
luận, bảo đảm cho người bào chữa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của họ khi tham
gia hoạt động chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm VAHS.
4.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về quyền của người bào chữa
Một là, kiến nghị sửa đổi, bổ sung điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015
theo hướng mở rộng quyền thu thập chứng cứ. Người bào chữa có quyền gặp, hỏi
người bị buộc tội để nghe họ trình bày, người bào chữa có quyền lập văn bản để ghi lại
lời khai, ghi âm hoặc ghi hình để làm chứng cứ của vụ án. Cụ thể, có thể sửa đổi, bổ
sung điểm a khoản 1 Điều 73 BLTTHS năm 2015 như sau:
“Điều 73. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa
1. Người bào chữa có quyền:
a) Gặp, hỏi người bị buộc tội để nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ
án, người bào chữa có quyền lập văn bản để ghi lại lời khai, ghi âm hoặc ghi hình.
Người bị buộc tội phải ký và điểm chỉ vào văn bản do người bào chữa lập để làm
133
chứng cứ của vụ án”;
Hai là, Bộ luật TTHS năm 2015 thừa nhận quyền thu thập chứng cứ của người
bào chữa. Tuy nhiên, người bào chữa chỉ được thu thập trong phạm vi rất hạn hẹp và ở
chừng mực nhất định mà không có những bảo đảm tố tụng kèm theo nên không bảo
đảm tính thực quyền, vì BLTTHS không quy định thủ tục thu thập chứng cứ của người
bào chữa. Vậy, BLTTHS cần quy định rõ khi gặp người mà mình bào chữa, bị hại,
người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày thì người
bào chữa có quyền ghi lời khai, ghi âm, ghi hình và những người này phải ký, điểm chỉ
để xác nhận làm chứng cứ. Trường hợp, người bào chữa đề nghị cơ quan, tổ chức, cá
nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử liên quan đến việc bào chữa thì họ phải
có nghĩa vụ cung cấp, nếu không cung cấp được thì phải nêu rõ lý do bằng văn bản. Cụ
thể, khoản 2 Điều 88 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 88. Thu thập chứng cứ
1. (Giữ nguyên)
2. Để thu thập chứng cứ, người bào chữa có quyền gặp người mà mình bào chữa, bị
hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để hỏi, nghe họ trình bày về
những vấn đề liên quan đến vụ án. Người bào chữa có quyền ghi lời khai, ghi âm, ghi
hình và những người này phải ký và điểm chỉ vào văn bản do người bào chữa lập để
làm chứng cứ; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện
tử liên quan đến việc bào chữa. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải có nghĩa
vụ cung cấp cho người bào chữa trong thời hạn 15 ngày, nếu không cung cấp phải nêu
rõ lý do bằng văn bản”.
Ba là, về việc người bào chữa khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì
phải kịp thời giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án,
là không hợp lý. Bởi lẽ, luật sư là người bào chữa cần thu thập chứng cứ để chứng
minh theo hướng gỡ tội, đối lập với bên buộc tội, thế nhưng bắt buộc luật sư phải có
nghĩa vụ giao chứng cứ này cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để họ kiểm
tra, đánh giá theo ý chí của họ liệu có hợp lý không. Như vậy, thì có ai dám chắc rằng
cơ quan buộc tội (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) sẽ đánh giá chứng cứ của người bào
chữa một cách vô tư, khách quan và họ sẽ không tìm cách để vô hiệu hóa chứng cứ gỡ
tội đối lập với mình hay không. “Nếu buộc họ phải giao nộp những chứng cứ gỡ tội
134
mà họ tự thu thập được đúng với quy định của tố tụng hình sự mà lại buộc họ phải giao
nộp thì không khác gì lại tạo điều kiện cho các cơ quan tiến hành tố tụng hợp pháp hóa
những sai lầm của mình và sẽ không còn tính khách quan trong quá trình điều tra, gây
khó khăn cho giai đoạn xét xử của Tòa án, mất đi ý nghĩa tranh tụng trong hoạt động
xét xử” [113, tr.407].
Luật sư là người bào chữa có quyền lưu giữ chứng cứ để chủ động đưa ra sử
dụng sao cho đạt hiệu quả nhất, không nhất thiết buộc người bào chữa giao chứng cứ
trước cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng nhằm bảo đảm giá trị chứng minh
của chứng cứ bào chữa. Quy định người bào chữa đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng thu thập. Tuy nhiên, pháp luật không quy định rõ trách nhiệm của cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thu thập chứng cứ theo đề nghị
của người bào chữa. Do đó, đề nghị của người bào chữa còn tùy thuộc vào ý chí của cơ
quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Thực tế, nhiều trường hợp khi có đủ căn cứ xác
định tài liệu, chứng cứ do cơ quan, tổ chức đang quản lý, lưu giữ, người bào chữa đã đề
nghị, nhưng cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn không thu thập, dẫn đến luật
sư không thu thập được các chứng cứ quan trọng làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Như
vậy, khoản 2 và khoản 3 Điều 81 BLTTHS năm 2015 có thể sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 81. Thu thập, giao chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc bào chữa
1. (Giữ nguyên)
2. Tùy từng giai đoạn tố tụng, khi thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến
việc bào chữa, người bào chữa có thể thu giữ lại để sử dụng làm chứng cứ trong vụ án
hoặc giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng để đưa vào hồ sơ vụ án. Việc
giao, nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 133
của Bộ luật này.
3. Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến việc
bào chữa thì người bào chữa có thể đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
thu thập. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải có trách nhiệm thu thập chứng
cứ theo đề nghị của người bào chữa trong thời gian hợp lý, nếu không thu thập được
phải nêu rõ lý do bằng văn bản”.
Bốn là, BLTTHS năm 2015 cho phép người bào chữa được quyền thu thập
chứng cứ, nhưng không quy định rõ trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của người bào
135
chữa, nên thực tế quyền này của người bào chữa không được bảo đảm. Như vậy, cần
bổ sung quy định về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của người bào chữa để họ có
thể thu thập được chứng cứ. Theo chúng tôi, trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ người
bào chữa cũng phải được thực hiện tương tự như Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát đối
với từng loại chứng cứ tương ứng. Có thể xây dựng mô hình quy phạm như sau:
“Điều...Thu thập chứng cứ của người bào chữa
Người bào chữa được quyền thu thập chứng cứ để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án. Để thu thập chứng cứ người bào chữa được thực hiện theo trình tự, thủ tục quy
định tại Điều 183 và Điều 184; khi lấy lời khai của bị hại hoặc của người làm chứng
thì thực hiện theo quy định tại các Điều 186, 187, 188 và thu thập vật chứng, tài liệu
đồ vật, dữ liệu điện tử theo quy định tại Điều 105 về Điều 107 Bộ luật này”.
Năm là, Điều 80 BLTTHS năm 2015 vẫn chưa có quy định cụ thể khi luật sư
gặp bị can, bị cáo trong trại tạm giam thì được gặp riêng hay gặp với sự có mặt của
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Trên thực tế khi luật sư muốn gặp bị can trong
trại tạm giam bao giờ cũng phải được sự đồng ý của Điều tra viên, như vậy là không
hợp lý. Người bào chữa cần được gặp riêng người bị buộc tội vào giờ hành chính
không bắt buộc phải có mặt của Điều tra viên, Kiểm sát viên, không được hạn chế số
lần gặp và thời gian gặp, bảo đảm nơi gặp chỉ trong tầm nhìn nhưng không trong tầm
nghe. Ngoài ra, cũng cần bổ sung quy định bắt buộc sự có mặt của luật sư trong hai
trường hợp quan trọng, đó là trong lần lấy lời khai đầu tiên hoặc khi bị can nhận tội để
đảm bảo tính khách quan lời khai của họ. Nếu trong hai trường hợp này mà không có
mặt luật sư thì lời khai của bị can sẽ không được công nhận là chứng cứ. Như vậy, có
thể sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 80 BLTTHS năm 2015 như sau:
“Điều 80. Gặp người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đang bị tạm giam
1. Giữ nguyên
2. Giữ nguyên
3. Người bào chữa được quyền gặp riêng người bị buộc tội đang bị giam vào giờ hành
chính, không bắt buộc có mặt của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, không
được hạn chế số lần gặp và thời gian gặp. Trong lần lấy lời khai đầu tiên hoặc khi bị
can nhận tội thì phải có mặt của người bào chữa, nếu trong hai trường hợp này mà
không có sự tham gia của người bào chữa thì lời khai của bị can sẽ không được sử
136
dụng làm chứng cứ”.
Với chủ trương tăng cường tranh tụng tại phiên tòa xét xử, đặc biệt là sau khi
nguyên tắc tranh tụng được ghi nhận trong BLTTHS năm 2015, yêu cầu về tranh tụng
bình đẳng, dân chủ đã được thể hiện tại nhiều phiên tòa. Tuy nhiên, về mặt lý luận và
thực tiễn thì người bào chữa vẫn chưa thật sự được xem là một bên tranh tụng bình
đẳng với bên buộc tội, chưa có cơ chế để bảo đảm tính thực quyền của người bào chữa
trong hoạt động chứng minh. Vì vậy, cần hoàn thiện pháp luật TTHS để bên bào chữa
trở thành một bên có vị trí độc lập, bình đẳng với bên buộc tội, “phải bảo đảm khi nào
và ở đâu có việc buộc tội, thì ở đó quyền bào chữa phải được thực hiện và tôn trọng.
Sự buộc tội càng cao thì sự bào chữa càng phải lớn, tội phạm càng nghiêm trọng,
càng phải coi trọng việc bào chữa, tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia tố
tụng” [96, tr.179-180].
4.2.1.3. Hoàn thiện các quy định khác có liên quan
- Hoàn thiện một số nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự
Nguyên tắc của TTHS là phương châm, định hướng cho toàn bộ hoạt động tố
tụng mà các chủ thể phải thực hiện nghiêm chỉnh, tuân thủ các nguyên tắc của TTHS là
bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện có hiệu quả chức năng bào chữa cũng như
HĐCMLS. Khi xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo có quyền không trả lời hoặc chỉ trả lời khi
xét thấy có lợi cho mình hoặc im lặng. “Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc
phải chứng minh là mình vô tội” còn có một yếu tố hợp thành của nó là quyền im lặng
của người bị buộc tội với tính cách là một nội hàm quan trọng của nguyên tắc suy
đoán vô tội ” [8, tr.42-43]. Vì vậy, cần bổ sung quy định rõ quyền im lặng là một trong
những nội dung của nguyên tắc suy đoán vô tội.
Bình đẳng là cốt lõi của nguyên tắc tranh tụng, là phương thức hữu hiệu để xác
định sự thật của vụ án. “Tranh tụng trong tố tụng hình sự là phương thức giải quyết vụ
án hình sự, đề cao sự bình đẳng giữa các bên buộc tội và gỡ tội, họ có địa vị pháp lý
ngang nhau trong quá trình xác định sự thật khách quan của vụ án” [13, tr.12]. Điều
26 BLTTHS năm 2015 cần căn cứ vào tiêu chí chức năng để phân chia các chủ thể
thành các bên tranh tụng, dành nhiều thời gian cho hoạt động hỏi đáp, tranh luận giữa
các bên, mở rộng quyền cho luật sư bào chữa, giao trách nhiệm tìm kiếm chứng cứ và
chứng minh cho bên buộc tội và bào chữa. Trên cơ sở chức năng và lợi ích của các chủ
137
thể để hình thành các bên bình đẳng trong hoạt động chứng minh. Nguyên tắc tranh
tụng có mối quan hệ với thực hiện quyền bào chữa và HĐCMLS. Cần nhận thức rằng,
luật sư không chỉ là một chủ thể bổ trợ tư pháp đơn thuần mà là chủ thể thực hiện chức
năng bào chữa, chủ thể của một bên có quyền tranh tụng bình đẳng với Kiểm sát viên
để làm sáng tỏ sự thật của vụ án. Tranh tụng là phương thức tối ưu, là tất yếu của
TTHS dân chủ để bảo đảm quyền bào chữa và HĐCMLS trong XXST các tội xâm
phạm sở hữu, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người.
- Chức năng buộc tội do Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát thực hiện, trên cơ sở
kết luận điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng. Như
vậy, Tòa án không thực hiện chức năng buộc tội mà chỉ có trách nhiệm chứng minh về
tính có căn cứ và hợp pháp đối với phán quyết của mình, còn các vấn đề khác như có
bỏ lọt tội phạm hay không, chứng cứ có đủ để chứng minh tội phạm chưa.v.v… không
phải là trách nhiệm của Tòa án, mà đó là trách nhiệm của Viện kiểm sát phải bảo vệ
cáo trạng. Tuy nhiên, Điều 15 BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án có trách nhiệm
chứng minh tội phạm là không phù hợp với chức năng xét xử. Tòa án không có nghĩa
vụ chứng minh tội phạm, trách nhiệm này thuộc về cơ quan buộc tội (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát). Để bảo đảm vai trò đích thực là trọng tài vô tư, khách quan thì cần giải
phóng Tòa án ra khỏi nghĩa vụ chứng minh tội phạm, phù hợp với chức năng xét xử
của Tòa án. Cụ thể, Điều 15 BLTTHS năm 2015 cần sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 15. Xác định sự thật của vụ án
Trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát.
Người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát
phải áp dụng các biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của vụ án một cách khách
quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ chứng cứ xác định có tội và chứng cứ xác định vô
tội, tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người bị buộc tội.
Tòa án căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên
tòa để xác định sự thật của vụ án”.
- Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân thủ pháp luật, bao gồm cả việc kiểm sát hoạt
động xét xử của Tòa án. Quy định Viện kiểm sát vừa buộc tội, vừa giám sát xét xử,
trong khi tại phiên tòa không có bất cứ cơ chế giám sát nào đối với Viện kiểm sát. Khi
138
tiến hành xét xử, Tòa án có quyền chấp nhận hoặc bác bỏ quan điểm buộc tội của Viện
kiểm sát (với tư cách là một bên tranh tụng) nhưng lại bị giám sát bởi Viện kiểm sát
(với tư cách là cơ quan kiểm sát hoạt động xét xử). Như vậy thử hỏi, làm sao bảo đảm
được sự vô tư, khách quan, độc lập xét xử của Tòa án. Vì vậy, Điều 20 BLTTHS năm
2015 cần sửa đổi, bổ sung theo hướng bỏ quy định về trách nhiệm kiểm sát việc tuân
theo pháp luật hoạt động xét xử tại phiên tòa, chỉ thực hành quyền công tố (chức năng
buộc tội).
- Bộ luật TTHS năm 2015 quy định khi “Có căn cứ cho rằng ngoài hành vi mà
Viện kiểm sát đã truy tố, bị can còn thực hiện hành vi khác mà Bộ luật hình sự quy
định là tội phạm” thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Việc trả hồ sơ như vậy là áp
đặt, không bảo đảm tính công khai, minh bạch trong hoạt động chứng minh, giúp cho
Cơ quan điều tra có cơ hội hợp thức hóa những sai lầm, củng cố chứng cứ buộc tội.
“Khi có căn cứ cho rằng bị cáo phạm một tội khác thì Tòa án cũng lấy đó làm căn cứ
để trả hồ sơ để điều tra bổ sung rồi khắc phục những vi phạm tố tụng trong quá trình
điều tra… Chúng tôi cho rằng, chính những quy định về trả hồ sơ để điều tra bổ sung
là những rào cản rất lớn để bảo đảm quyền có được phiên tòa công bằng trong xét xử
các vụ án hình sự ở Việt Nam hiện nay” [109, tr.16]. Hơn nữa, khoản 3 của điều luật
này lại quy định: “Trường hợp Viện kiểm sát không bổ sung được những vấn đề mà
Tòa án yêu cầu và vẫn giữ nguyên quyết định truy tố thì Tòa án tiến hành xét xử vụ
án”. Luật đã quy định rõ như vậy thì việc Tòa án trả hồ sơ chẳng còn nghĩa lý gì, chỉ
làm mất thời gian mà thôi. Theo chúng tôi, chỉ khi phát hiện có vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng và nó làm cản trở việc xét xử thì mới cần thiết trả hồ sơ điều tra bổ
sung, còn các trường hợp khác thì không nhất thiết trả hồ sơ điều tra bổ sung để bảo
đảm nguyên tắc suy đoán vô tội và nguyên tắc tranh tụng. Vì vậy, cần sửa đổi Điều 280
BLTTHS năm 2015 theo hướng bỏ quy định về trả hồ sơ điều tra bổ sung để bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội, quyền bào chữa và hoạt động chứng
minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu.
4.2.2. Những giải pháp khác
4.2.2.1. Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt Nam
Nếu mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn lấy việc trấn áp tội phạm và hiệu quả của
việc phát hiện, xử lý tội phạm làm nhiệm vụ quan trọng của tố tụng hình sự thì mô hình
139
TTHS tranh tụng coi trọng sự cân bằng giữa việc xử lý tội phạm và bảo vệ quyền con
người. Nhưng tố tụng hình sự không thể bảo đảm được quyền con người khi đặt mục
đích phát hiện, xử lý tội phạm bằng mọi giá, xem nhẹ, thậm chí chà đạp lên quyền con
người. Theo quan điểm của Chủ tịch Ủy ban Cảnh sát hình sự quốc tế Florent Louvage:
“Nhất định phải thành công với bất cứ giá nào là một khẩu hiệu cần phải dẹp đi. Lắm
khi một cuộc điều tra thất bại còn hơn thu được kết quả bằng những phương pháp
đáng ngờ. Một xã hội văn minh thường cảm thấy bị xúc phạm khi phẩm giá con người
bị chà đạp hơn là lỡ để một kẻ phạm tội trốn thoát” [48, tr.15]. Hiện nay, hầu như
không có quốc gia nào còn giữ nguyên mô hình tố tụng truyền thống của mình mà theo
xu hướng tiếp nhận, giao thoa những yếu tố tích cực giữa các mô hình. Như vậy, vấn
đề đặt ra là, chúng ta nên giữ nguyên mô hình tố tụng hình sự hiện nay hay chuyển hẳn
sang mô hình tố tụng hình sự tranh tụng?
Hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự là yêu cầu khách quan đặt ra trong cải cách
tư pháp đã tạo ra nhiều thay đổi tích cực trong giải quyết VAHS. Cải cách tư pháp
không đặt mục tiêu phải chuyển đổi mô hình TTHS hiện nay sang mô hình tố tụng hình
sự tranh tụng mà vẫn tiếp tục kế thừa những yếu tố hợp lý của mô hình TTHS hiện
hành, tiếp thu những yếu tố tích cực của mô hình TTHS tranh tụng phù hợp với điều
kiện cụ thể của nước ta (mô hình pha trộn). Vì lẽ đó, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện
theo hướng tăng cường tranh tụng, kiên quyết loại bỏ những yếu tố tiêu cực không dân
chủ, bất bình đẳng trong hoạt động TTHS. Hoàn thiện mô hình tố tụng không thể dựa
vào ý muốn chủ quan mà cần có sự chuẩn bị về mọi mặt, phù hợp với điều kiện chính
trị, kinh tế - xã hội. Để đáp ứng các yêu cầu này, đòi hỏi phải đổi mới mô hình TTHS
Việt Nam theo hướng quán triệt yêu cầu tăng cường tranh tụng. Nhưng muốn tăng
cường tranh tụng thì cần đổi mới nhận thức về các chức năng, theo hướng phân chia
rành mạch các chức năng, tránh sự chồng lấn về chức năng. Theo đó, chức năng buộc
tội, gỡ tội và phán quyết độc lập và không thể giao cho cùng một cơ quan hoặc cùng
một chủ thể có thẩm quyền thực hiện. Trên cơ sở đó xác định rõ vị trí, vai trò để mỗi
chủ thể chỉ thực hiện chức năng vốn có của mình. Trong đó,“Tòa án có vị trí độc lập
của cơ quan tư pháp. Tòa án không thể thực hiện bất kỳ một yếu tố nào của chức năng
buộc tội mà phải là thiết chế của công lý, chỗ dựa đáng tin cậy của người dân, do đó
cần có vị tri vô tư, khách quan, từ bỏ vai trò quá chủ động và tích cực trong việc truy
140
tìm sự thật vốn là công việc của các bên trong tố tụng” [122, tr.15]. Việc phân định
rành mạch các chức năng không ảnh hưởng đến thực hiện mục đích của TTHS, không
gây khó khăn, cản trở người có thẩm quyền tiến hành tố tụng thực thi nhiệm vụ mà
ngược lại, nó còn giúp họ đổi mới nhận thức vai trò tố tụng của mình, trả các chủ thể
trở về đúng với chức năng, Tòa án sẽ trở về với vai trò đích thực là trọng tài vô tư,
khách quan điều khiển, dẫn dắt các bên tranh tụng. Viện kiểm sát sẽ chủ động tham gia
hoạt động chứng minh thực hiện chức năng buộc tội. Luật sư sẽ tích cực hoạt động
chứng minh thực hiện chức năng bào chữa. Hoàn thiện mô hình tố tụng sẽ tạo tiền đề
khách quan cho bản án công minh, tác động lan tỏa tích cực đến các giai đoạn tố tụng
khác, nhất là giai đoạn điều tra, tạo động lực thúc đẩy hiệu quả hoạt động TTHS nói
chung và HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
4.2.2.3. Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng
Về tổ chức, cần sắp xếp, kiện toàn bộ máy các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, bảo đảm đủ biên chế cho Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án các cấp. Trong quản lý, tổ chức, điều hành hoạt
động phải bảo đảm chế độ tập trung, thống nhất trong từng ngành, từng cấp; tăng
cường trách nhiệm, phát huy tính độc lập, sáng tạo của Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán nhưng phải theo sự chỉ đạo, điều hành thống nhất của cấp trên trong hoạt
động áp dụng pháp luật. Đối với Cơ quan điều tra, cần tổ chức theo hướng thu gọn đầu
mối, kết hợp giữa hoạt động điều tra và trinh sát điều tra để bảo đảm tính công khai,
minh bạch trong hoạt động TTHS, bảo đảm quyền bào chữa cho người bị buộc tội và
HĐCMLS. Đối với Viện kiểm sát thì cần tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức của
Tòa án, tăng cường trách nhiệm công tố tại phiên tòa bảo đảm nguyên tắc tranh tụng và
HĐCMLS trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với Tòa án, cần giao cho Tòa án nhân
dân Tối cao quản lý về tổ chức, bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử của Tòa án các cấp,
tiến tới xây dựng phiên tòa xét xử công bằng, bình đẳng giữa các bên tranh tụng.
Ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
trong các hoạt động tố tụng. Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra phải thường
xuyên trao đổi, thông báo cho nhau những thông tin, văn bản hướng dẫn nghiệp vụ để
áp dụng thống nhất pháp luật TTHS, cần phối hợp kiểm tra nhằm phát hiện những vi
phạm để kịp thời xử lý, giải quyết theo quy định của pháp luật, bảo đảm quyền bào
141
chữa của người bị buộc tội, tránh gây oan sai cho người vô tội. Đối với hoạt động nghề
luật sư cần tăng cường phát huy hiệu quả, hiệu lực trong công tác quản lý từ Trung
ương đến địa phương nhằm phát huy vai trò tự quản của Liên Đoàn luật sư Việt Nam
và các Đoàn luật sư, thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Quy tắc đạo đức và
ứng xử nghề nghiệp luật sư, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về hoạt
động thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ để nâng cao kỹ năng tranh tụng nói chung
và kỹ năng tranh tụng trong XXST các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
4.2.2.4. Nâng cao nhận thức của các chủ thể tham gia hoạt động chứng minh thực hiện
các chức năng của tố tụng hình sự
- Đối với đội ngũ luật sư
Nhiệm vụ của Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong thời gian tới cần xây dựng kế
hoạch, chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho
luật sư theo hướng chuyên nghiệp hóa, đáp ứng nhu cầu dịch vụ pháp lý cho xã hội, tạo
lập môi trường cho nghề luật sư phát triển theo thông lệ quốc tế; phát triển tổ chức
hành nghề luật sư chuyên sâu trong một số lĩnh vực có khả năng cạnh tranh, từng bước
chiếm lĩnh thị trường dịch vụ pháp lý trong khu vực và trên thế giới.
Mục tiêu phát triển nghề luật sư của Chính phủ phấn đấu đến năm 2020, số
lượng luật sư trong cả nước đạt từ 18.000 đến 20.000 luật sư. Theo số liệu thống kê thì
đến nay cả nước đạt gần 17.000 luật sư (tính đến tháng 12/2021); luật sư phải được đào
tạo bài bản, chuẩn quốc gia về nghề luật sư theo hướng hội nhập thế giới, đảm bảo
100% số lượng luật sư được bồi dưỡng thường xuyên và nâng cao về nghiệp vụ chuyên
môn, kỹ năng hành nghề. Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam đến năm 2020, trong
đó nhấn mạnh nhiệm vụ giai đoạn 2016-2020 là: “Tiếp tục nâng cao chất lượng đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ luật sư; đa dạng hóa công tác đào tạo nghề luật sư theo
chương trình chuẩn quốc gia về đào tạo nghề luật sư;…tiếp tục thực hiện có hiệu quả
liên kết với quốc tế và khu vực trong việc đào tạo luật sư phục vụ hội nhập kinh tế quốc
tế” [82]. Hội nghị lần thứ ba, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII cũng đề ra
nghị quyết: “Đổi mới quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư… phù hợp với
chủ trương xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức
nghề nghiệp. Đào tạo và phát triển đội ngũ luật sư có phẩm chất đạo đức, có trình độ
142
chuyên môn, nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ trong tư vấn và trong tố tụng…”. Để
HĐCMLS ngày càng hiệu quả, chúng tôi đề xuất một số giải pháp như sau:
Thứ nhất, xây dựng đội ngũ luật sư về số lượng và chất lượng ngày càng nâng
cao theo hướng giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có phẩm chất chính trị, đạo đức đáp
ứng nhu cầu bào chữa tốt nhất cho người bị buộc tội. Để trở thành một bên tranh tụng
bình đẳng với Kiểm sát viên, luật sư cần nâng cao kỹ năng tranh tụng, thường xuyên
cập nhập mới về chính trị, pháp luật, kinh tế, xã hội, có kỹ năng nghề nghiệp và kiến
thức thực tiễn đáp ứng yêu cầu nghề nghiệp.
Thứ hai, để nâng cao chất lượng đội ngũ luật sư chương trình đào tạo luật sư
phải đảm bảo tính khoa học, hợp lý thể hiện quan điểm đào tạo hiện đại, tiếp thu kinh
nghiệm của nước ngoài phù hợp với thực tiễn của Việt Nam. Cải cách tư pháp đặt ra
yêu cầu phát triển đội ngũ luật sư chuyên nghiệp, phát huy vai trò của luật sư trong
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động chứng minh, tranh tụng tại các phiên tòa.
Ngoài ra, đòi hỏi luật sư phải có khả năng làm việc bằng ngôn ngữ nước ngoài, chuyên
sâu trong các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế về luật sư và hành nghề luật sư theo hướng nâng cao
vị trí, vai trò của luật sư trong xã hội, củng cố vị thế và phát huy vai trò của Liên đoàn
Luật sư Việt Nam trong việc quản lý luật sư và hành nghề luật sư để phục vụ đắc lực
cho công cuộc cải cách tư pháp. Hoàn thiện tiêu chí đánh giá chất lượng hoạt động
hành nghề luật sư và có các hình thức tôn vinh danh hiệu, trao giải thưởng cho luật sư,
tổ chức hành nghề luật sư. Bên cạnh đó, cần thường xuyên kiểm tra, giám sát việc tuân
thủ pháp luật, các quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư.
Thứ tư, tăng cường thực hiện nguyên tắc quản lý nhà nước với vai trò tự quản
của tổ chức luật sư; tiếp tục tăng cường giao lưu, hợp tác có hiệu quả giữa các luật sư,
tổ chức luật sư Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới; tăng cường trách
nhiệm của Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Đoàn luật sư các tỉnh, thành phát triển chất
lượng đào tạo luật sư; củng cố, kiện toàn cơ cấu, tổ chức các tổ chức xã hội - nghề
nghiệp luật sư từ trung ương đến địa phương.
Thứ năm, có chính sách khuyến khích nhu cầu sử dụng dịch vụ pháp lý của luật
sư đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân với phương thức tiếp cận dễ dàng, thuận lợi giữa
công dân với luật sư; ưu đãi đối với tổ chức hành nghề luật sư ở các địa phương vùng
143
sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Về chính sách, chế độ đãi ngộ trả
thù lao cho luật sư khi tham gia bào chữa theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến
hành tố tụng còn quá thấp, chưa thoả đáng với công sức luật sư đã đầu tư vào hoạt
động chứng minh để khuyến khích luật sư tích cực tham gia bào chữa. Trong tương lai,
cần xây dựng cơ chế luật sư công phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ sáu, để nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư, đòi hỏi phải
có định hướng phát triển đội ngũ luật sư cả về “chất” và “lượng”, HĐCMLS trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu không chỉ có “tâm” mà còn có “tầm” (ngang bằng
hoặc thậm chí vượt trội so với bên công tố) trong hoạt động thu thập, kiểm tra đánh giá
chứng cứ chứng minh về sự vô tội hoặc giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội. Do đó,
cần trang bị kiến thức và kỹ năng hành nghề tốt nhất cho luật sư thông qua các khóa
đào tạo chuyên sâu về kỹ năng tranh tụng, đặc biệt cần chú trọng bồi dưỡng, nâng cao
kỹ năng thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ cho luật sư để họ có đầy đủ năng lực
tranh tụng sòng phẳng với Kiểm sát viên trong XXST các tội xâm phạm sở hữu.
- Đối với cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
Thực tế những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng vẫn còn nhận thức chưa
đúng, thậm chí hạ thấp vai trò của luật sư, cho rằng luật sư tham gia vụ án sẽ gây khó
khăn, cản trở cho hoạt động tố tụng của họ mà chưa nhận thức được rằng HĐCMLS
trong XXST các tội xâm phạm sở hữu chẳng những không cản trở mà còn giúp cơ quan
có thẩm quyền tiến hành tố tụng hạn chế những sai lầm trong quá trình giải quyết vụ
án, góp phần làm sáng tỏ sự thật khách quan, giúp cho Tòa án đưa ra phán quyết đúng
đắn, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
Thực tế cho thấy, việc nhận thức đúng đắn về vai trò của luật sư chính là cách
tốt nhất để người bị buộc tội nhờ luật sư bào chữa của mình. Cần xoá bỏ tâm lý xem
thường, hạ thấp vai trò của luật sư trong nhận thức của những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng, phải thay đổi nhận thức rằng, luật sư tham gia bào chữa để cho đủ
thành phần, chỉ là sự trang trí cho phiên toà. Thực tiễn hiện nay vẫn còn tình trạng xét
xử theo hình thức án bỏ túi, làm giảm hiệu quả hoạt động chứng minh của luật sư,
chứng cứ của luật sư đưa ra không được HĐXX xem xét, đánh giá một cách đầy đủ,
khách quan. Xét xử theo kiểu án bỏ túi như vậy là vi phạm nguyên tắc tranh tụng,
không bảo đảm quyền bào chữa, hạ thấp vai trò HĐCMLS. Cần xoá bỏ triệt để tình
144
trạng “án bỏ túi” trong nhận thức của những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
Quyền bào chữa của người bị buộc tội sẽ không được đảm bảo, hoạt động chứng
minh của luật sư sẽ không có hiệu quả nếu như người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
nhận thức chưa đúng về HĐCMLS, phải nhận thức và đổi mới tố tụng thiên về xét hỏi
trước đây sang tố tụng tranh tụng theo yêu cầu cải cách tư pháp. “Thực hiện nguyên tắc
này đòi hỏi phải thay đổi mạnh mẽ từ ý thức đến hành động, phải xác định bảo đảm
tranh tụng là trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng” [7, tr.34]. Mặt khác, cần
phải loại bỏ định kiến về sự có mặt của luật sư trong hoạt động TTHS; sự có mặt đúng
lúc, kịp thời của luật sư sẽ góp phần xác định sự thật vụ án nhanh chóng, hạn chế vi
phạm tố tụng phải trả hồ sơ điều tra bổ sung; cần nhận thức rằng HĐCMLS không chỉ
bảo vệ cho người bị buộc tội mà còn là một sự giám sát cần thiết đối với hoạt động
TTHS để xác định sự thật vụ án chứ không nhằm gây khó khăn cho cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng. “Để nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự cần
thay đổi trong nhận thức mà trước hết là nhận thức của các cơ quan và những người
tiến hành tố tụng về vị trí, vai trò của luật sư và nghề luật sư trong xã hội. Chừng nào
chúng ta chưa thấy được sự tham gia của luật sư trong tố tụng như một sự đối trọng,
một hình thức giám sát đối với hoạt động của cơ quan và người tiến hành tố tụng thì sự
hiện diện của luật sư cũng chỉ mang tính hình thức, một thứ "trang điểm thêm đẹp", để
cho tố tụng có vẻ dân chủ, có vẻ văn minh mà thôi [33, tr.7].
Ngoài việc đổi mới về nhận thức thì những người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng phải am hiểu sâu sắc về pháp luật TTHS, thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn,
bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm nghiệp vụ; xây dựng đội ngũ Điều tra viên, Kiểm sát
viên, Thẩm phán thực sự “giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật”, vận dụng tốt các
kiến thức pháp luật, kỹ năng nghiệp vụ vào thực tiễn đáp ứng yêu cầu của Hiến pháp
năm 2013 và BLTTHS năm 2015. Khi giải quyết vụ án, người có thẩm quyền tiến hành
tố tụng phải bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội; tạo điều kiện để luật sư
nghiên cứu hồ sơ, có mặt tham gia đầy đủ trong các giai đoạn tố tụng; tôn trọng ý kiến,
đề xuất của người bào chữa. Chủ thể tiến hành tố tụng phải nhận thức đầy đủ, thực hiện
nghiêm túc việc đảm bảo cho luật sư thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ ngay từ khi
có người bị bắt, bị tạm giữ theo đúng quy định của pháp luật.
Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, điển hình là tại phiên tòa sơ thẩm, Tòa án
145
phải có trách nhiệm tạo điều kiện cho bị cáo, người bào chữa, những người tham gia tố
tụng khác thực hiện đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình và tranh tụng dân chủ, bình đẳng
trước Tòa án. Luật sư bào chữa có quyền trình bày ý kiến, đưa ra chứng cứ, lập luận để
đối đáp bình đẳng với Kiểm sát viên, chủ toạ phiên tòa không được hạn chế thời gian
tranh luận, phải tạo điều kiện thật sự cho luật sư trình bày hết ý kiến, đưa ra chứng cứ,
lập luận đối đáp, tranh luận bình đẳng với Kiểm sát viên để làm sáng tỏ sự thật của vụ
án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị cáo. Tòa án phải lắng nghe, ghi nhận
đầy đủ các ý kiến, đề nghị của người bào chữa, nếu không chấp nhận thì phải ghi rõ
trong bản án và nêu rõ lý do. Tòa án phải lấy kết quả tranh tụng giữa các bên buộc tội
và bên bào chữa làm căn cứ chủ yếu để ra bản án, quyết định đúng đắn, không bỏ lọt
tội phạm, không làm oan cho người bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
- Tăng cường tuyên truyền, giáo dục pháp luật
Tăng cường ý thức pháp luật có ý nghĩa trong thực hiện pháp luật. Việc nâng
cao nhận thức của người dân về vai trò của Thẩm phán, Kiểm sát viên, luật sư bào chữa
sẽ góp phần nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa. Để thực hiện tốt điều đó thì
công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật là khâu đầu tiên của quá trình áp
dụng thi hành pháp luật, nó có ý nghĩa rất lớn về tăng cường pháp chế trong Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị đã nêu rõ: “Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật với nhiều hình thức phong phú, sinh động, đặc
biệt là thông qua các phiên tòa xét xử lưu động và bằng những phán quyết công minh
để tuyên truyền, nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ và nhân dân” [3].
Trên thực tế thì nhận thức và sự hiểu biết pháp luật của người dân nói chung và
người bị buộc tội nói riêng còn hạn chế đã ảnh hưởng đến nhu cầu nhờ người bào chữa.
Vì vậy, cần đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để giúp họ nhận thức đúng đắn, có ý thức
tuân thủ pháp luật. Thường xuyên tuyên truyền, giáo dục pháp luật để làm thay đổi
nhận thức của người dân khi cho rằng, sự tham gia của người bào chữa là không cần
thiết, thậm chí e ngại sự có mặt của người bào chữa sẽ khiến cho cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng gây khó khăn. Nhận thức không đúng về vai trò của luật sư
chính là rào cản rất lớn làm cho hoạt động bào chữa trở nên khó khăn, trong khi người
bị buộc tội hoặc người đại diện của họ lại không có khả năng bào chữa hiệu quả. Vì
146
vậy, việc nâng cao hiểu biết của người dân về quyền bào chữa cũng như hoạt động
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm thật sự là cần thiết. Để làm được việc này,
cần nâng cao trình độ dân trí, thói quen sống và làm việc theo pháp luật; phổ biến, giáo
dục pháp luật trực tiếp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng bằng các
hình thức đơn giản, dễ tiếp cận, lôi cuốn được sự chú ý của nhiều người với nhiều nội
dung khác nhau, trong đó cần đề cao vai trò của luật sư bào chữa có hiệu quả cho bị
cáo không bị oan trong các vụ án hình sự, nhất là những vụ án xét xử đối với những bị
cáo bị buộc tội về các tội xâm phạm sở hữu.
Thực hiện chức năng bào chữa thông qua hoạt động chứng minh của luật sư tại
phiên tòa xét xử sơ thẩm là vấn đề rất được quan tâm trong quá trình cải cách tư pháp.
Để nâng cao chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm các tội xâm phạm sở hữu cần tiến hành đồng bộ các giải pháp, trong đó cần hoàn
thiện pháp luật về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự; về hoạt động chứng
minh của các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử, về thủ tục xét
xử tại phiên tòa sơ thẩm. Đồng thời, cần nâng cao năng lực, trình độ chuyên môn cho
đội ngũ Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư. Ngoài ra, cần phải tăng cường công tác
tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức của người dân về vai
trò của luật sư bào chữa trong hoạt động chứng minh, tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ
thẩm vụ án hình sự. Cần tuyên truyền, giáo dục để người dân nhận thức đúng đắn về
vai trò, chức năng của các chủ buộc tội, bào chữa, xét xử là đều nhằm hướng đến mục
tiêu chung là làm sáng tỏ sự thật của vụ án, dựa vào kết quả của kiểm tra, đánh giá
chứng cứ tại phiên tòa và kết quả tranh tụng giữa các bên sẽ là căn cứ chủ yếu để Tòa
án đưa ra phán quyết, bảo đảm không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, góp
147
phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự.
Kết luận Chương 4
Trong thời gian qua, cải cách tư pháp ở nước ta được xem như là hoạt động
trọng tâm góp phần vào mục tiêu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam. Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu là một trong những vấn đề được quan tâm, nhằm bảo đảm yêu cầu
tăng cường tranh tụng trong xét xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Bộ luật tố tụng hình sự là cơ sở pháp lý cho hoạt động tố tụng hình sự cũng như
hoạt động chứng minh của luật sư, là điều kiện bảo đảm quyền con người. Cơ quan có
thẩm quyền tiến hành tố tụng không vì mục tiêu đấu tranh chống tội phạm bằng mọi
giá mà xem nhẹ việc bảo vệ quyền con người, mà trước tiên là quyền của những người
bị buộc tội. Chỉ khi nào quyền bào chữa của người bị buộc tội được bảo đảm, hoạt
động chứng minh của luật sư được thực hiện đầy đủ thì lúc đó, pháp luật mới có thể
hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Người bào chữa có vai trò rất quan trọng trong hoạt động chứng minh làm sáng
tỏ sự thật của vụ án. Vì vậy, cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải tạo
điều kiện để luật sư trở thành một bên tranh tụng có vị thế hoàn toàn bình đẳng với bên
buộc tội trong quá trình chứng minh, phải bảo đảm khi nào và ở đâu có sự buộc tội thì
ở đó quyền bào chữa phải được tôn trọng, hoạt động chứng minh của luật sư được bảo
đảm thực hiện đầy đủ đúng pháp luật nhằm thực hiện chức năng bào chữa bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị buộc tội.
Để nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự nói chung cần tiến hành đồng
bộ các giải pháp; hoàn thiện pháp luật liên quan đến hoạt động chứng minh của luật sư,
đề cao vai trò của luật sư trong hoạt động chứng minh; đổi mới mô hình tố tụng hình
sự; đổi mới nhận thức về thực hiện các chức năng; sửa đổi, bổ sung thủ tục xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm; hoàn thiện mở rộng về quyền của người bào chữa để bảo đảm tranh
tụng bình đẳng; tôn trọng và đề cao vị trí, vai trò hoạt động chứng minh luật sư trong
xử sơ thẩm vụ án hình sự. Bênh cạnh đó, cần có giải pháp nâng cao năng lực, trình độ
chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư; tăng cường tuyên
truyền, giáo dục pháp luật nâng cao nhận thức của người dân về vai trò hoạt động
148
chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu đề tài luận án về “Hoạt động chứng minh của luật sư trong xét
xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu từ thực tiễn các tỉnh Tây Nam Bộ” cho thấy nội
dung nghiên cứu liên quan đến hoạt động chứng minh (hoạt động cốt lõi) của tố tụng
hình sự. Nội dung nghiên cứu rộng, phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề cơ bản của tố
tụng hình sự, trong đó hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội
xâm phạm sở hữu là vấn đề mới chưa được nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện. Tuy
nhiên, với quá trình tích cực tìm tòi, học hỏi triển khai thực hiện nghiên cứu nghiêm
túc, luận án cũng đã hoàn thành nhiệm vụ, đạt được mục đích nghiên cứu và đưa ra một
số kết luận như sau:
Lần đầu tiên luận án là công trình nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện có hệ thống,
phân tích làm rõ các khái niệm về “hoạt động chứng minh”, “hoạt động chứng minh
của luật sư trong tố tụng hình sự” và khái niệm “hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu”, phân tích, luận giải làm rõ mối quan
hệ tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau giữa hoạt động chứng minh của luật sư với
giai đoạn xét xử sơ thẩm và đặc điểm của các tội xâm phạm sở hữu để đưa ra khái niệm
khoa học về HĐCMLS trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu. Đồng thời, tác
giả luận án cũng nhiên cứu, phân tích các vấn đề liên quan về đối tượng, đặc điểm, nội
dung, ý nghĩa về hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm
phạm sở hữu.
Luận án phân tích làm sáng tỏ về mặt lý luận hoạt động chứng minh của luật sư
trong mối quan hệ gắn bó, mật thiết với chức năng bào chữa. Trong tố tụng hình sự,
hoạt động chứng minh của luật sư nhằm thực hiện chức năng bào chữa bảo vệ quyền
lợi cho người bị buộc tội. Hoạt động chứng minh của luật sư bào chữa có mối quan hệ
ràng buộc với hoạt động chứng minh của các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội, xét
xử như một nhu cầu tất yếu, khách quan để cùng hướng đến mục tiêu chung của tố tụng
hình sự là xác định sự thật khách quan của vụ án. Luận án cũng đã phân tích các yếu tố
tác động đến hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm
sở hữu, trên cơ sở đó đề ra những yêu cầu và các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự nói chung và HĐCMLS trong xét xử sơ
149
thẩm các tội xâm phạm sở hữu nói riêng.
Luận án làm rõ hoạt động chứng minh của luật sư là hoạt động tư duy và thực
tiễn của chủ thể thực hiện chức năng bào chữa để nhận thức về vụ án, hoạt động này
chịu sự chi phối bởi hình thức, tính chất của xét xử sơ thẩm và đặc điểm của các tội
xâm phạm sở hữu. Hoạt động chứng minh của luật sư trước hết là nhằm hướng đến
mục tiêu chung của tố tụng hình sự là xác định sự thật khách quan của vụ án, song
hành với mục tiêu đó thì hoạt động chứng minh của luật sư còn nhằm mục đích bác bỏ
một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội từ phía cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng
hoặc làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội, góp phần tích cực quan
trọng vào việc bảo đảm sự cân bằng, hài hòa giữa lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân,
bảo vệ công lý, quyền con người trong tố tụng hình sự.
Quá trình tố tụng hình sự với sự giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tích cực giữa
các mô hình tố tụng hướng đến một nền tố tụng dân chủ, bình đẳng, ghi nhận và đề cao
nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội để bảo đảm quyền con người và hoạt
động chứng minh, đổi mới nhận thức về thực hiện các chức năng tố tụng, xác định rõ
mục đích hoạt động của các chủ thể, phân định rạch mạch về chức năng, tiếp thu kế
thừa những ưu điểm vốn có của mô tố tụng hình sự hiện nay, đồng thời tiếp thu có chọn
lọc những ưu điểm của các mô hình tố tụng hình sự, những kinh nghiệm quý trong TTHS
của các nước trên thế giới phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, từng bước hoàn
thiện pháp luật về hoạt động chứng minh nói chung và hoạt động chứng minh của luật
sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự nói riêng.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về hoạt động chứng minh của luật sư
trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn các tỉnh Tây Nam Bộ, luận
án phân tích, đánh giá làm rõ những mặt tích cực và các kết quả đạt được cũng như những
mặt hạn chế, bất cập để tìm ra nguyên nhân để từ đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện Bộ
luật Tố tụng hình sự về hoạt động chứng minh trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao
chất lượng hoạt động chứng minh của luật sư trong xét xử sơ thẩm các tội xâm phạm sở
150
hữu, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay./.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Minh (2018), “Một số vấn đề về hoạt động chứng minh của luật sư
trong tố tụng hình sự và mối quan hệ với chức năng bào chữa”, Khoa học xã hội (01),
tr. 1-11.
2. Nguyễn Văn Minh (2019), “Đặc điểm về hoạt động chứng minh của luật sư trong
Tố tụng hình sự Việt Nam”, Khoa học xã hội (03), tr. 37-49.
3. Nguyễn Văn Minh (2019), “Mối quan hệ về hoạt động chứng minh của các chủ thể
thực hiện các chức năng cơ bản trong tố tụng hình sự”, Nhân lực Khoa học xã hội
(02), tr. 3-11.
4. Nguyễn Văn Minh (2022), “Mối quan hệ giữa hoạt động chứng minh của luật sư
với nguyên tắc suy đoán vô tội”, Nhân lực Khoa học xã hội (01), tr. 45-53.
5. Nguyễn Văn Minh (2022), “Hoạt động thu thập chứng cứ của luật sư theo quy định
của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015-một số vướng mắc và đề xuất, kiến nghị”, Tòa
151
án nhân dân (16), tr. 16-20.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu Tiếng Việt:
1. Nguyễn Ngọc Anh (2012), “Bàn về quyền thu thập chứng cứ và sử dụng chứng cứ
của luật sư trong tố tụng hình sự”, Kỉ yếu Hội thảo Hoàn thiện các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa và quyền hành nghề
của luật sư do Liên đoàn Luật sư Việt Nam thực hiện.
2. Nguyễn Ngọc Anh và Phan Trung Hoài (đồng chủ biên) (2018), Bình luận khoa
học Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
3. Bộ Chính trị (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 “Về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp sắp tới”, Hà Nội.
4. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/06/2005 “Về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020”, Hà Nội.
5. Mai Thế Bày (2008), “Hoàn thiện chế định về chứng cứ và chứng minh trong tố
tụng hình sự”, Kiểm sát, (18 và 20), tr. 54 - 59.
6. Nguyễn Hòa Bình (2012), “Một số định hướng nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Kiểm sát, (21), tr. 2-9, 36.
7. Nguyễn Hòa Bình (chủ biên, 2016), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Bộ Công an (2017), Mô hình Tố tụng hình sự Việt Nam theo quy định của Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra đối với công tác đấu tranh
phòng, chống tội phạm hiện nay, Kỉ yếu tọa đàm khoa học, tháng 4/2017, Hà Nội.
9. Lê Văn Cảm (2014), “Mô hình lập pháp về hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam vì quyền con người”, Khoa học Kiểm sát, (1), tr. 16-26.
10. Lê Văn Cảm, Nguyễn Cảnh Hợp (2012), “Mô hình lý luận của Bộ luật tố tụng hình sự
Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”, Khoa học pháp lý, (3), tr. 16-23.
11. Nguyễn Tiến Châu (2008), Chức năng xét xử trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận án
tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
12. Nguyễn Văn Cừ (2005), Chứng cứ trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Nxb. Tư
152
pháp, Hà Nội.
13. Nguyễn Ngọc Chí (2019), Kỹ năng hoạt động dành cho luật sư trong vụ án hình
sự, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
14. Nguyễn Ngọc Chí (đồng chủ biên) (2019), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt
Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu,
Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
16. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên, 2015), Quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình
sự, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
17. Đỗ Văn Chỉnh (2015), “Chứng cứ và đánh giá chứng cứ”, Tòa án nhân dân, (14),
tr. 24-30.
18. Lê Đăng Doanh (2014), Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội.
19. Nguyễn Văn Du (2006), “Đặc điểm của hoạt động chứng minh trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự”, Nhà nước và Pháp luật, (8), tr. 54-60.
20. Nguyễn Văn Du (2006), Quá trình chứng minh trong vụ án hình sự ở nước ta,
Luận án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật.
21. Nguyễn Đăng Dung, Trịnh Quốc Toản, Đặng Minh Tuấn (đồng chủ biên, 2016),
Bình luận khoa học Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Nguyễn Kiên Điện (2019), Thủ tục tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội.
23. Trần Văn Độ (2004), “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa”, Khoa học Pháp lý,
(4), tr. 1-6.
24. Trần Văn Độ (2010), “Xác định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của Tòa án trong tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Kiểm sát, (20), tr. 22-28.
25. Trần Văn Độ (2014), “Nguyên tắc tranh tụng và những vấn đề đặt ra đối với việc sửa
đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự”, Khoa học Kiểm sát, (1), tr. 27-32.
26. Trần Văn Độ (2018), “Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự -Khái quát các
tiêu chuẩn quốc tế và pháp luật Việt Nam”, trong Vũ Công Giao, Đinh Ngọc Thắng
(chủ biên, 2018), Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng, Nxb. Đại học
153
Quốc gia Hà Nội, tr. 91-93.
27. Đỗ Văn Đương (2000), Thu thập, đánh giá và sử dụng chứng cứ trong điều tra vụ
án hình sự ở Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát
nhân dân.
28. Đỗ Văn Đương (2011), Chứng cứ và chứng minh trong vụ án hình sự, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
29. Vũ Minh Giám (2022), Chứng cứ trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự về các tội
xâm phạm sở hữu ở Việt Nam, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
30. Nguyễn Duy Giản (2014), Các chủ thể tiến hành tố tụng trong Luật Tố tụng hình
sự Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp , Luận án tiến sĩ luật học, Khoa luật -
Đại học Quốc gia Hà Nội.
31. Phạm Hồng Hải (1999), Bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Phạm Hồng Hải (2005) “Thực trạng hoạt động của luật sư-Người bào chữa qua
một năm thi hành Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003”, Kiểm sát, (24), tr. 43.
33. Phạm Hồng Hải (2011), Vai trò của luật sư - Người bào chữa - Thực trạng và
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự.
34. Hoàng Văn Hạnh (2022), Bảo đảm thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, Luận án Tiến sĩ luật học, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
35. Nguyễn Văn Hiển (2011), Về nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng hình sự, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2012), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, tập 2,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
37. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
38. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên) (2018), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015
được sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phần các tội phạm, Quyển 1, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
39. Phan Trung Hoài (2016), “Những điểm mới về chế định bào chữa trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Học viện Khoa học xã hội (2015), Các chức năng của tố tụng hình sự trong bối
154
cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Hội thảo khoa học, tháng 11/2015, Hà Nội.
41. Học Viện Tư pháp (2014), Giáo trình kỹ năng tranh tụng của Luật sư trong một số
vụ án hình sự, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
42. Nguyễn Mạnh Hùng (2012), Các chức năng trong tố tụng hình sự Việt Nam: Những
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
43. Nguyễn Văn Huyên và Lê Lan Chi (đồng chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội.
44. Đinh Thế Hưng (2009), “Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định
chứng minh và chứng cứ của Luật TTHS Việt Nam”, Nhà nước và Pháp luật, (11),
tr. 53-60, 65.
45. Đinh Thế Hưng (2013), “Các thủ tục tiền xét xử tại Việt Nam và những vấn đề đặt
ra đối với Bộ Luật Tố tụng hình sự hiện hành”, Nhà nước và Pháp luật, (12),
tr. 70-77, 84.
46. Đinh Thế Hưng (2017), Nguyên tắc xác định sự thật của vụ án trong tố tụng hình
sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Đinh Thế Hưng, Trần Văn Biên (đồng chủ biên) (2017), Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
48. Nguyễn Quốc Hưng (1957), Hình sự tố tụng, Nxb. Khai Trí, Sài Gòn.
49. Vũ Gia Lâm (2015), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự bảo đảm
nguyên tắc tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm”, Luật học, (01).
50. Vũ Gia Lâm (2016), “Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong quy định về đình
chỉ điều tra, đình chỉ vụ án của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Kiểm sát, (12),
tr. 5-11.
51. Nguyễn Thành Long (2011), Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự
Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
52. Liên đoàn Luật sư Việt Nam (2021), Báo cáo tổng kết tổ chức, hoạt động năm
2021 và phương hướng hoạt động năm 2022, Hà Nội.
53. Đoàn luật sư các tỉnh Tây Nam bộ (2021), Báo cáo tổng kết năm 2021.
54. V.I. Lênin (1991), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva.
55. Uông Chu Lưu (2014), Cải cách các cơ quan tư pháp, hoàn thiện hệ thống các thủ
tục tư pháp, nâng cao hiệu quả và hiệu lực xét xử của Tòa án trong nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đề tài cấp Nhà nước KK.04.06,
155
Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp.
56. Đinh Thị Mai (2015), Lý thuyết chức năng và một số vấn đề về đổi mới nhận thức
về các chức năng của tố tụng hình sự Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội.
57. Nguyễn Thị Mai (2021), Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự, Trường Đại học Luật Hà Nội.
58. Nguyễn Đức Mai (chủ biên, 2019), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự hiện
hành, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
59. Nguyễn Đức Mai (2009), “Đặc điểm của mô hình tố tụng hình sự tranh tụng và
phương hướng hoàn thiện mô hình TTHS ở Việt Nam”, Tòa án nhân dân, (23), tr. 1-8.
60. Phan Thị Thanh Mai (2015), “Hoạt động bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam”, Luật học, (7).
61. Đặng Trần Thanh Ngọc (2016), Thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự
Việt nam hiện nay, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
62. Nguyễn Hải Ninh (2013), Các yếu tố bảo đảm độc lập xét xử ở Việt Nam hiện nay,
Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội.
63. Cao Thị Oanh (2015), Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
64. Cao Thị Oanh, Lê Đăng Doanh (đồng chủ biên) (2016), Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự năm 2015, Nxb. Lao động, Hà Nội.
65. Võ Thị Kim Oanh (2011), Xét xử sơ thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
66. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2015), Giáo trình tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Hồng Đức, Hà Nội.
67. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên) (2016), Bình luận những điểm mới cơ bản của Bộ
luật Tố tụng hình sự năm 2015, Nxb. Hồng Đức, Hà Nội.
68. Lê Thanh Phong (2018), Xét xử sơ thẩm hình sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Thái Phúc (2003), “Vấn đề giới hạn xét xử trong tố tụng hình sự”, Nhà
nước và Pháp luật, (11), tr. 49-51.
70. Nguyễn Thái Phúc (2006), “Nguyên tắc suy đoán vô tội”, Nhà nước và Pháp luật,
(11), tr. 72-83.
71. Nguyễn Thái Phúc (2007), “Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam - Những vấn đề lý luận
156
và thực tiễn”, Kiểm sát, (18), tr. 2-15.
72. Nguyễn Thái Phúc (2008), “Vấn đề tranh tụng và tăng cường tranh tụng trong
TTHS theo yêu cầu của cải cách tư pháp”, Nhà nước và Pháp luật, (8), tr. 58-67.
73. Nguyễn Thái Phúc (2009) “Đổi mới phiên tòa sơ thẩm hình sự nhằm đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp”, Nhà nước và pháp luật, (2), tr. 42-60.
74. Đỗ Ngọc Quang (2009), “Phương hướng hoàn thiện mô hình tố tụng hình sự Việt
Nam”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Mô hình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, tháng
12/2009, Hà Nội.
75. Đinh Văn Quế (2000), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
76. Đinh Văn Quế (2019), Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, phần thứ hai các tội phạm,
Chương XVI Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Thông tin và truyền thông, Hà Nội.
77. Quốc hội (1988), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Quốc hội (2003), Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Quốc hội (2015), “Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
80. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
81. Quốc hội (2012), “Luật Luật sư 2006, sửa đổi, bổ sung năm 2012”, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
82. Quyết định số 1072/QĐ-TTg ngày 5/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Chiến lược phát triển nghề luật sư Việt Nam đến năm 2020.
83. Lương Thị Mỹ Quỳnh (2013), Quyền có người bào chữa trong tố tụng hình sự Việt
Nam, Đức và Hoa Kỳ, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
84. Hoàng Thị Sơn (1996), “Tìm hiểu nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”, Luật học, (5), tr. 18-19.
85. Hoàng Thị Sơn (1998), “Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong tố tụng
hình sự”, Luật học (2).
86. Hoàng Thị Sơn (2000), “Về khái niệm quyền bào chữa và việc bảo đảm quyền bào
chữa của bị can, bị cáo”, Luật học (5), tr. 2.
87. Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
88. Hoàng Thị Minh Sơn (2008), “Hoàn thiện các quy định về thu thập, đánh giá và sử
157
dụng chứng cứ trong tố tụng hình sự”, Luật học, (7), tr. 68.
89. Hoàng Thị Minh Sơn (2015), “Khái niệm, vị trí, vai trò, ý nghĩa của các chức năng
tố tụng hình sự”, Kỉ yếu Hội thảo khoa học Các chức năng của tố tụng hình sự
trong bối cảnh cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay, Học viện Khoa học xã hội,
Hà Nội.
90. Hoàng Thị Minh Sơn (chủ biên) (2015), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam,
Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
91. Hồ Sỹ Sơn (2016), “Tội trộm cắp tài sản nhìn từ góc độ so sánh pháp luật hình sự
một số nước trên thế giới”, Nhân lực Khoa học xã hội, (7), tr. 12-20.
92. Lưu Văn Tám (2021), Thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ của luật
sư trong tố tụng hình sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.
93. Nguyễn Văn Thanh (2016) Các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa
học xã hội.
94. Vũ Xuân Thao (2015), “Kiến nghị hoàn thiện quy định về đối tượng chứng minh
trong Bộ luật Tố tụng hình sự”, Nghiên cứu lập pháp, (14), tr. 30-37.
95. Lê Hữu Thể (2011), “Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc đổi mới thủ tục tố
tụng hình sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp”, Đề tài cấp Nhà nước, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao, Hà Nội.
96. Lê Hữu Thể, Đỗ Văn Đương, Nguyễn Thị Thủy (đồng chủ biên, 2013), Những vấn đề
lý luận và thực tiễn cấp bách của việc đổi mới thủ tục tố tụng hình sự đáp ứng yêu cầu
cải cách tư pháp, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
97. Lê Hữu Thể, Nguyễn Thị Hương (2017), “Quy định của Hiến pháp năm 2013 về
quyền của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự ”, Kiểm sát, (18), tr. 3.
98. Nguyễn Thị Thủy (2009), “Hoàn thiện thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án hình sự đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay”, Nhà nước và Pháp luật, (7), tr. 63.
99. Nguyễn Thị Thủy (2014), Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam và vấn đề áp dụng tố
tụng tranh tụng, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
100. Phan Hữu Thư (chủ biên, 2001), Hoạt động đánh giá chứng cứ của luật sư trong
tố tụng hình sự, Kỹ năng hành nghề luật sư, kỹ năng tranh tụng, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội.
101. Nguyễn Văn Tiệp (1997), Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam,
158
Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật.
102. Trần Quang Tiệp (2008), “Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự”,
Kiểm sát, (18 và 20), tr. 50-53.
103. Nguyễn Trương Tín (2008), “Một số vấn đề về sự tham gia tranh tụng của Kiểm sát
viên tại phiên tòa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư pháp”, Tòa án nhân
dân, (19), tr. 13.
104. Tòa án nhân dân tối cao (2021), Báo cáo thống kê tình hình xét xử từ năm 2012-2021.
105. Tòa án nhân các tỉnh Tây Nam bộ, Báo cáo thống kê tình hình xét xử từ năm
2012-2021.
106. Tổng cục Bưu chính viễn thông (2001), Công văn số 2934/QĐ-VT, ban hành
ngày 11/8/2001, Hà Nội.
107. Trần Văn Tuân (2016), “Một số vấn đề về nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 2015”, Nhân lực Khoa học xã hội, (2), tr. 25-31.
108. Phạm Minh Tuyên (2017), “Tội cướp giật tài sản và vấn đề chuyển hóa tội phạm
theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Tòa án nhân dân, (10).
109. Phạm Minh Tuyên (2015), “Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền có phiên tòa
công bằng trong xét xử các vụ án hình sự tại Việt Nam”, Tòa án nhân dân, (7).
110. Phạm Minh Tuyên (2017), “Thu thập, kiểm tra, đánh giá và nguyên tắc sử dụng
chứng cứ trong tố tụng hình sự”, Kiểm sát, (21).
111. Phạm Minh Tuyên (2018), “Một số vấn đề vướng mắc trong việc định tội và định
khung hình phạt đối với một số tội xâm phạm sở hữu”, Tòa án nhân dân, (11).
112. Phạm Minh Tuyên (2021), “Về chứng cứ và chứng minh trong tố tụng hình sự”,
trong sách Bình luận các vướng mắc trong lĩnh vực hình sự và tố tụng hình sự.
Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
113. Phạm Minh Tuyên (2021), Bình luận các vướng mắc trong lĩnh vực hình sự và tố
tụng hình sự, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
114. Từ điển Luật học (2006), Nxb. Từ điển Bách khoa, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
115. Từ điển Tiếng Việt (2002), Nxb. Đà Nẵng, Hà Nội.
116. Từ điển Tiếng Việt (2007), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
117. Đào Trí Úc (chủ biên, 1994), Tội phạm học, Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
159
118. Đào Trí Úc (2000), Luật hình sự Việt Nam quyển 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
119. Đào Trí Úc (2004), “Cải cách tư pháp - Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nhà
nước và Pháp luật, (9), tr. 11.
120. Đào Trí Úc (2011), “Tố tụng hình sự Việt Nam cần được đổi mới và hoàn thiện theo
hướng nào”, Nghiên cứu lập pháp, (15), tr. 26-33.
121. Đào Trí Úc (2011), “Tổng quan về mô hình TTHS Việt Nam thực trạng và phương
hướng hoàn thiện”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học Hoàn thiện mô hình tố tụng hình
sự Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp - kinh nghiệm Cộng hòa Liên
bang Đức do Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Quỹ Hợp tác quốc tế về pháp luật
Cộng hòa Liên bang Đức phối hợp tổ chức ngày 9-10/6/2011 tại Hà Nội.
122. Đào Trí Úc (2012), “Xác định Tòa án có vị trí trung tâm, xét xử là trọng tâm”, Kiểm
sát, (21), tr. 23-36.
123. Ngô Thị Ngọc Vân (2016), Hoạt động bào chữa của luật sư trong giai đoạn xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự, Luận án tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
124. Viện nghiên cứu Khoa học pháp lý (1992), Tập Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh
ký về Nhà nước và Pháp luật, Thông tin khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
125. Viện khoa học kiểm sát (2012), Bộ quy tắc tố tụng hình sự Hoa Kỳ (bản dịch),
Hà Nội.
126. Viện khoa học kiểm sát (2012), Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga (bản dịch),
Hà Nội.
127. Viện khoa học kiểm sát (2012), Bộ luật Tố tụng hình sự nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa (bản dịch), Hà Nội.
128. Nguyễn Quốc Việt (2008), “Những vấn đề đặt ra khi đổi mới tố tụng theo hướng
tranh tụng”, Nghiên cứu lập pháp, (5), tr. 28, 29.
129. Trịnh Tiến Việt (2014), “Cải cách tư pháp và các biện pháp phòng chống oan,
sai trong tố tụng hình sự Việt Nam”, Tòa án nhân dân, (3).
130. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2002), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội.
131. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2005), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần
chung, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội.
132. Võ Khánh Vinh (chủ biên) (2010), Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên
160
ngành Luật học, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
133. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2011), Quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
134. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2011), Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
135. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2012), Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự,
Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
136. Võ Khánh Vinh (chủ biên, 2014), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam - Phần các
tội phạm, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
137. Võ Khánh Vinh (2017), “Tố tụng hình sự - Lịch sử và hiện đại”, Kỷ yếu Tọa đàm
khoa học Mô hình tố tụng hình sự Việt Nam theo quy định của Bộ luật Tố tụng
hình sự năm 2015 và những vấn đề đặt ra đối với công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm hiện nay, Bộ Công an, tháng 4/2017, Hà Nội.
II. Tài liệu nước ngoài:
138. A.I.Vưsinxki (1967), “Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xôviết”, Tòa án
nhân dân tối cao, Hà Nội.
139. Adam Paker (2008), “Basic principles on the role of lawyers”.
140. Christoph Saffeling (2003), “Toward an international criminal procedure”.
141. Erich Joester (2012), “Luật tố tụng hình sự Đức và Việt Nam”, Hội thảo “Hoàn
thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 về bảo đảm quyền bào chữa và quyền
hành nghề của luật sư”.
142. Ian Brownlie, GuyS.Goodwin-Grill (2010), Brownlie’s document on the human
rights, OUP Oxford, UK. 167.
143. J. P.W Temminck Tuinstra (2009), “The principle of equality of arms”, Amsterdam.
144. James B.Jacobs, Warren.E.Burger (2001), Evolution of U.S.Criminal Law, đăng
tại tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ số 1 tập 6, tháng 7/2001.
145. James Claude và Joseph Daly (1994), “Phân tích, so sánh hai hệ thống pháp luật
Mỹ và Pháp”, Thông tin khoa học pháp lý, số tháng 10/1994.
146. Phillippe Rivaud (2012), “Mô hình tố tụng hình sự Cộng hòa Pháp”, Những
mô hình tố tụng hình sự trên thế giới, JPP tài trợ.
147. John Hatchard, Barbara Huber and Richard Vogler (1996), Comparative Criminal
Procedure, B.I.I.C.L, Bristain.
161
148. K.W.Lidstone “Human rights in the English criminal trial-Human rights in
criminal procedure”.
149. M.A.Chenxốp (1978), Tố tụng hình sự Xô Viết, Nxb. Văn học pháp lý.
150. M.X Strôgôvich (1968), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Xô Viết, Nxb. Khoa học
Matxcơva.
151. M.X.Xtrôgôvich (1951), Truy tố trong tố tụng hình sự, Nxb. Viện Hàn lâm khoa
học Liên Xô.
152. Vưsinxki (1967), Lý luận về chứng cứ tư pháp trong pháp luật Xôviết, Nxb. Sách
pháp lý, Mátxcơva, tr. 186.
153. M.X.Xtrôgôvich (1991), Lý luận chứng cứ, Nxb. Khoa học Matxcova.
154. Martinus Nijhoff, “The guarantees for accused persons under Article 6 of the
European Convention on Human Rights”, năm 1992.
155. Michael Jay Friedman (2004), Outline of the U.S. Legal system, Ấn phẩm của
chương trình Thông tin Quốc tế Bộ Ngoại giao Hoa kỳ, Hoa Kỳ.
156. Mirjan Damaska, “Evidentiary barriers to conviction and two models of criminal
procedure: A comparative study”, 212 U. Pa.L, Rev.506.
157. N.N.Kovtun (1988), “Vai trò của Tòa án trong chứng minh tại vụ án hình sự dưới
ánh sánh của nguyên tắc hiến định về tố tụng tranh tụng”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp Luật Nga, (6).
158. Nancy Hollander (2000), “Hệ thống tố tụng hình sự Hoa Kỳ trong sự so sánh với
việc sửa đổi Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Một số khuyến nghị về xây dựng
BLTTHS (sửa đổi), sổ tay công tác kiểm sát hình sự tại Việt Nam, VKSND tối cao,
tr. 79-91.
159. Philip L.Reichel (2012). Comparative Criminal Justice Systems, 6th edition,
Pearson, USA.
160. Thomas J. Gardner và Terry M. Anderson (2007), Criminal Evidence: Principles
and Cases (6th edition), Hoa Kỳ.
161. Tian Wen Chang (2012), Suy nghĩ và đánh giá tổng thể về bản dự thảo sửa đổi
Luật tố tụng hình sự Trung Quốc, Hội nghị Hội thảo về BLTTHS năm 2003,
Hà Nội.
162. V.Psmirnov (2001), “Vấn đề tranh tụng trong khoa học luật Tố tụng hình sự
Nga”, Tạp chí Nhà nước và Pháp Luật của Nga, (8).
162
163. www.americanbar.org/american Justice section archive, “Defense function”,
Đoàn luật sư Hoa Kỳ.
164. Xiong Qiuhong, phó giáo sư tiến sĩ của Viện Luật, Học viện Khoa học xã hội
Trung Quốc, năm 2005 “Lawyer Defence in the Pre-Trial Proceedings”.
III. Website:
165. Nguyễn Hòa Bình (2018), “Giá trị cốt lõi của Tòa án là mang lại công bằng cho
xã hội và tạo được lòng tin của người dân vào công lý”, Tạp chí Tòa án;
https://tapchitoaan.vn/bai-viet/van-de-thoi-su-thoi-su/gia-tri-cot-loi-cua-toa an-la-
mang-lai-cong-bang-cho-xa-hoi-va-tao-duoc-long-tin-cua-nguoi-dan-vaocong-ly,
(27-9-2018).
166. Nguyễn Văn Chiến (2016), “Hoạt động thu thập, kiểm tra, sử dụng và đánh giá
chứng cứ theo BLTTHS Việt Nam”, tham luận tại Hội thảo kỹ năng thẩm vấn và
tranh tụng của luật sư trong các vụ án hình sự,
http://liendoanluatsu.org.vn/web/bai-tham-luan-cua-pho-chu-tich-nguyen-
vanchien-tai-hoi-thao-ky-nang-tham-van-va-tranh-tung-cua-luat-su-trong-cac-
vuan-hinh-su-736.html, (25-6-2018).
167. Trần Văn Độ (2021), “Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong TTHS”,
https://lsvn.vn/bao-dam-quyen-con-nguoi-cua-bi-cao-trong-to-tung-hinhsu
1632439825.html, (15-02-2023).
168. Đinh Thế Hưng, Nguyễn Trường G, Bàn về giới hạn chứng minh và nghĩa vụ
chứng minh trong tó tụng hình sự, https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/ban-ve
gioi-han-chung-minh-va-nghia-vu-chung-minh-trong-to-tung-hinh-su, (10-11-2022).
169. Đinh Thế Hưng, “Thực hiện nguyên tắc suy đoán vô tội trong tố tụng hình sự Việt
Nam” https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/thuc-hien, (10-11-2022).
170. https://lsvn.vn/vai-tro-cua-luat-su-trong-hoat-dong-tu-phap-theo-tinh-than-hien-
phap-20131632759498.html, (10-11-2022)
163
171. http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210914, (10-11-2022).
PHIẾU KHẢO SÁT
MẪU PHIẾU KHẢO SÁT THỰC TIỄN
HOẠT ĐỘNG CHỨNG MINH CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA
Kính gửi: Quý Luật sư tham gia lớp Bồi dưỡng nghiệp vụ Luật sư
Để nghiên cứu, đánh giá thực tiễn hoạt động chứng minh của luật sư bào chữa tại các tỉnh Tây Nam Bộ. Đề nghị Quý luật sư vui lòng trả lời các câu hỏi theo phiếu sau đây bằng cách gạch chéo vào ô thích hợp. Chúng tôi cam kết các thông tin Quý luật sư cung cấp chỉ được sử dụng cho mục đích nghiên cứu khoa học, không sử dụng vào mục đích khác.
Câu 1. Anh/Chị thường tham gia vụ án hình sự với tư cách là người bào chữa trong trường hợp nào sau đây?
Được khách hàng mời bào chữa………(%) Bào chữa theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng……….(%)
Câu 2. Trong quá trình dự cung thì khi Luật sư đề nghị được hỏi bị can thì có được Điều tra viên đồng ý hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 3. Cơ quan có thẩm quyền tố tụng có đáp ứng yêu cầu của khi luật sư về việc thực hiện quyền đọc, ghi chép và sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 4. Chứng cứ do Luật sư tự thu thập và giao nộp có được cơ quan có thẩm quyền tố tụng chấp nhận đưa vào hồ sơ vụ án không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 5: Trong thực tiễn hoạt động thu thập chứng cứ, Luật sư áp dụng biện pháp gặp người mà mình bào chữa, bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án để thu thập chứng cứ có đạt hiệu quả cao không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 6: Biện pháp Luật sư đến gặp người bị hại, người làm chứng và những người khác biết về vụ án thì họ có sẵn sàng hợp tác để luật sư thu thập chứng không?
164
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%)
Trường hợp không…..(%)
Câu 7. Khi Luật sư đề nghị thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu thì có được cơ quan, tổ chức, cá nhân đáp ứng không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 8. Khi không thu thập được chứng cứ, Luật sư sẽ đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ thì có được chấp nhận không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu hỏi 9. Anh/Chị thường gặp khó khăn gì trong quá trình thu thập chứng cứ, tài liệu, đồ vật, dữ liệu liên quan đến việc bào chữa?
Những người biết sự việc liên quan đến vụ án không hợp tác Các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng không hỗ trợ Cả hai trường hợp nêu trên
Câu 10. Theo anh (chị) khi Luật sư đề nghị triệu tập người làm chứng có lợi cho người mà mình bào chữa thì có được Tòa án chấp nhận hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 11. Trường hợp được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà người bào chữa vẫn vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì Tòa án vẫn mở phiên tòa xét xử vắng mặt luật sư bào chữa thì Anh/chị có đồng ý không?
Không đồng ý Đồng ý Khác:
Câu 12. Trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, Chủ tọa phiên tòa có bảo đảm các quyền của người bào chữa trong phần thủ tục này không?
Có Không thực hiện Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 13. Khi tham gia hoạt động xét hỏi có khi nào Luật sư bị chủ tọa phiên tòa cắt lời một cách bất hợp lý không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
165
Câu 14. Theo anh (chị) khi xét hỏi tại phiên tòa sơ thẩm thì Chủ tọa phiên tòa cần tham gia xét hỏi hay chỉ đóng vai trò là người điều khiển để các bên tham gia xét hỏi? Điều khiển các bên xét hỏi Chủ tọa phiên tòa tham gia xét hỏi
Khác:
Câu 15. Theo anh (chị) khi xét hỏi tại phiên tòa thì Hội đồng xét xử hỏi chính hay Kiểm sát viên và Luật sư đóng vai trò hỏi chính?
Kiểm sát viên và Luật sư Hội đồng xét xử
Câu 16. Theo anh (chị) trình tự xét hỏi nào sau đây sẽ bảo đảm cho các bên buộc tội, bào chữa thực hiện tốt nhất hoạt động chứng minh, tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm: Kiểm sát viên hỏi trước, rồi đến người bào chữa và sau đó là Hội đồng xét xử Hội đồng xét xử hỏi trước, sau đó đến Kiểm sát viên, người bào chữa
Câu 17. Theo anh (chị) Chủ tọa phiên tòa tạo có điều kiện để luật sư bào chữa tham gia tranh luận bình đẳng với Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 18. Tại phiên tòa sơ thẩm Kiểm sát viên có tranh luận, đối đáp đến cùng những vấn đề của luật sư đưa ra hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 19. Theo anh (chị) trường hợp Chủ tọa phiên toà đề nghị Kiểm sát viên đối đáp lại với luật sư bào chữa thì Kiểm sát viên có thực hiện đối đáp hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 20. Theo anh (chị) các ý kiến, đề nghị của luật sư tại phiên tòa sơ thẩm có được Hội đồng xét xử ghi nhận đầy đủ và ghi rõ trong bản án không hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 21. Theo Anh /chị, trường hợp tại phiên tòa sơ thẩm Kiểm sát viên rút toàn bộ quyết định truy tố thì Hội đồng xét xử có cần thiết xét xử vụ án nữa không?
Khác:
Câu 22. Trường hợp Viện Kiểm sát không đồng ý truy tố về tội danh nặng hơn theo đề nghị của Tòa án và vẫn giữ nguyên tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng đó. Như vậy, theo Anh /chị quy định này có phù hợp không?
166
Không Phù hợp Khác:
Câu 23. Trong quá trình hành nghề có khi nào đề nghị của Luật sư về việc tuyên bị cáo không phạm tội được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 24. Trong quá trình hoạt động chứng minh tại phiên tòa sơ thẩm có khi nào đề nghị của Luật sư về chuyển sang tội danh nhẹ hơn được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không? Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 25. Những trường hợp đề nghị của Luật sư về chuyển sang khung hình phạt nhẹ hơn nhẹ hơn có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
Câu 26: Trong quá trình hành nghề, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo do Luật sư đưa ra có được Hội đồng xét xử chấp nhận hay không?
Có Không Trường hợp có, đạt…..(%) Trường hợp không…..(%)
am
Đề nghị Anh/chị vui lòng cho biết một số thông tin về bản thân: - Tuổi: - Giới tính: Nữ - Thời gian hành nghề luật sư: năm - Số lượng vụ án đã tham gia bào chữa: vụ
167
Xin chân thành cảm ơn Quý luật sư đã hợp tác!
168
169
170
171
Phụ lục số 1
Bảng 3.1. Số liệu các vụ án hình sự đưa ra xét xử tại các tỉnh Tây Nam Bộ trong 10 năm từ (2012-2021)
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
TỘI PHẠM HÌNH SỰ ĐƯA RA XÉT XỬ
TỶ LỆ %
STT
NĂM
SỐ VỤ
BỊ CÁO
SỐ VỤ
BỊ CÁO
(1)/(3)
(2)/(4)
(4)
(1)
(2)
(3)
13.998
45,60
47,71
2012
1
3918
6679
8.593
12.765
51,39
51,72
2013
2
4027
6603
7.837
11.511
57,49
56,29
2014
3
4119
6480
7.165
13.499
48,67
44,41
2015
4
3997
5995
8.214
15.396
41,56
34,48
2016
5
3745
5309
9.010
15.390
37,40
30,55
2017
6
3505
4701
9.372
15.145
39,96
32,75
2018
7
3665
4960
9.172
14.182
38,33
31,35
2019
8
3297
4446
8.602
12.332
37,01
32,83
2020
9
2991
4049
8.081
10.735
39,75
36,89
2021
10
2945
3960
7.409
134.953
43,39
39,41
Tổng
36209
53182
83.456
Nguồn: Tòa án nhân dân Tối cao
172
Phụ lục số 2
Bảng 3.2.Các vụ án xâm phạm sở hữu có luật sư bào chữa tham gia hoạt động chứng minh tại các tỉnh Tây Nam Bộ từ (2012-2021)
TỶ LỆ LUẬT
TỶ LỆ LUẬT
SỐ VỤ XPSH CÓ
CÁC TỘI XÂM PHẠM
SƯ/VỤ ÁN
SƯ/BỊ CÁO
STT
NĂM
LUẬT SƯ
SỞ HỮU
BÀO CHỮA
SỐ VỤ
BỊ CÁO
3918
2012
1
259
6,61%
3,88%
6679
4027
2013
2
385
9,56%
5,83%
6603
4119
2014
3
379
9,20%
5,85%
6480
3997
2015
4
432
10,80%
7,20%
5995
3745
2016
5
351
9,37%
6,61%
5309
3505
2017
6
325
9,27%
6,91%
4701
3665
2018
7
369
10,06%
7,44%
4960
3297
2019
8
337
10,22%
7,58%
4446
2991
2020
9
334
11,17%
8,25%
4049
2945
2021
10
298
10,12%
7,53%
3960
Tổng
36209
53182
3469
9,58%
6,52%
Nguồn: Tòa án nhân dân Tối cao
173
Phụ lục số 3
Bảng 3.3.Các vụ án về các tội xâm phạm sở hữu bị đình chỉ trong xét xử sơ thẩm tại các tỉnh Tây Nam Bộ từ (2012-2021)
Năm
Các tội xâm phạm sở hữu đưa ra xét xử
Xét xử sơ thẩm bị đình chỉ
Tỷ lệ
STT
Số vụ án
Số bị cáo
Bị cáo
Số vụ
(3)/(1)
(4)/(2)
(4)
(1)
(2)
(3)
3918
6679
2012
1
3
7
0,08
0,10
4027
6603
2013
2
4
8
0,10
0,12
4119
6480
2014
3
5
8
0,12
0,12
3997
5995
2015
4
5
9
0,13
0,15
3745
5309
2016
5
4
5
0,11
0,09
3505
4701
2017
6
3
5
0,09
0,11
3665
4960
2018
7
4
7
0,11
0,14
3297
4446
2019
8
4
10
0,12
0,22
2991
4049
2020
9
5
6
0,17
0,15
2945
3960
2021
10
10
12
0,34
0,30
Tổng
36209
53182
47
77
0,13
0,15
Nguồn: Tòa án nhân dân Tối cao
174
Phụ lục số 4
Bảng 3.4.Các loại tội phạm cụ thể về xâm phạm sở hữu bị đình chỉ tại các tỉnh Tây Nam Bộ trong 10 năm từ (2012-2021)
Các tội xâm phạm sở hữu đưa ra xét xử Xét xử sơ thẩm bị đình chỉ
STT
Tội danh
Số vụ án 1701
Số bị cáo 3875
Số vụ 4
Bị cáo 8
Cướp tài sản Bắt cóc nhằm CĐTS
1 2
52
0
0
18
Cưỡng đoạt TS
3
873
1
1
409
Cướp giật TS
4
3465
2
2
2159
Công nhiên CĐTS
5
77
0
0
54
Trộm cắp TS
6
37239
30
54
25997
Lừa đảo CĐTS
7
4041
3
5
3031
Lạm dụng tín nhiệm CĐTS
8
1465
3
3
1295
Chiếm giữ trái phép TS
9
32
0
0
26
Sử dụng trái phép TS
10
2
0
0
2
11 Hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
2041
4
4
1505
Thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến NN,CQ, TC,DN
12
8
0
0
1
13 Vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản
12
0
0
11
Tổng
36209
53182
47
77
Nguồn: Tòa án nhân dân Tối cao
175
Phụ lục số 5
Bảng 3.5.Các loại tội phạm về xâm phạm sở hữu được đưa ra xét xử sơ thẩm tại các tỉnh Tây Nam Bộ trong 10 năm (2012-2021)
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
Tổng
STT Tội danh
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
Vụ
BC
1
Cướp TS
263
733
264
645
221
515
173
419
165
338
121
256
145
290
130
249
108
223
111
207
1701
3875
2
0
0
5
2
6
0
0
2
3
2
0
0
4
11
1
3
7
18
Bắt cóc nhằm CĐTS
2
4
18
52
3
43
86
54
46
91
31
52
40
73
50
37
73
34
70
40
90
103
120
Cưỡng đoạt TS
34
115
409
873
4
272
478
245
209
393
206
325
169
243
234
179
254
173
243
179
257
332
411
Cướp giật TS
293
529
2159
3465
5
16
20
6
3
5
5
5
2
2
6
4
4
6
13
2
2
5
9
Công nhiên CĐTS
4
12
54
77
6
Trộm cắp TS
2759 4503 2799 4490 2948 4544 2968 4281 2784 3871 2572 3411 2596 3438 2300 3074 2136 2788 2135 2839 25997
37239
7
393
363
526
366
499
307
434
290
413
312
371
333
416
314
256
351
198
239
399
Lừa đảo CĐTS
292
3031
4041
8
159
141
175
156
179
150
174
133
139
118
132
145
156
127
103
112
97
96
143
Lạm dụng tín nhiệm CĐTS 125
1295
1465
9
2
2
3
2
2
3
1
1
3
10
2
6
2
2
2
3
3
Chiếm giữ trái phép TS
2
2
5
26
32
0
0
0
1
1
0
0
0
0
0
0
0
0
1
1
0
0
10 Sử dụng trái phép TS
0
0
0
2
2
Hủy hoại hoặc cố ý làm hư
11
144
229
124
178
112
179
136
189
126
154
167
208
151
209
199
239
169
235
177
221
1505
2041
hỏng tài sản
Thiếu trách nhiệm gây TH
12
0
1
0
0
0
1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
2
0
0
5
1
8
đến TS của NN,CQ,TC,DN
Vô ý gây thiệt hại nghiêm
13
2
2
1
0
0
1
1
1
1
1
1
1
1
3
3
1
1
0
0
2
11
12
trọng đến tài sản
Tổng
3918 6679 4026 6603 4117 6480 3997 5995 3745 5309 3505 4701 3666 4960 3297 4446 2992 4049 2946 3960 36209
53182
Nguồn: Tòa án nhân dân Tối cao
176
Phụ lục số 6
Bảng 3.6. Số liệu về sự phát triển của lực lượng luật sư tại các tỉnh Tây Nam Bộ trong 10 năm từ (2012-2021)
STT
Địa phương
2012
2013
2014
2015
2016
2017
2018
2019
2020
2021
1
Long An
76
77
80
84
84
87
89
103
110
2
Tiền Giang
59
56
61
65
65
72
74
78
89
3
Bến Tre
36
39
39
39
41
47
49
52
56
4
Trà Vinh
18
18
20
23
24
28
34
37
40
5
Vĩnh Long
42
45
50
52
57
62
66
67
70
6
Đồng Tháp
32
38
42
46
56
60
74
79
90
7
An Giang
55
51
56
56
73
83
87
92
97
8
Kiên Giang
27
34
36
39
47
56
72
79
91
9
Hậu Giang
9
10
14
13
15
16
18
21
24
10
Cần Thơ
152
159
180
199
236
253
271
270
293
11
Sóc Trăng
29
27
30
34
38
40
42
45
45
12
Bạc Liêu
13
13
17
21
24
29
32
34
43
13
Cà mau
28
28
26
33
37
42
52
54
65
120 103 60 43 83 101 99 98 28 319 50 47 79
Tổng
576
595
651
704
797
875
960
1011
1123
1230
Nguồn: Liên Đoàn Luật sư Việt Nam
177
Phụ lục số 7
Bảng 3.7. So sánh sự phát triển của luật sư tại các tỉnh Tây Nam Bộ với luật sư toàn quốc trong 10 năm từ (2012-2021)
STT
Năm
Số lượng luật sư tại các tỉnh
Số lượng luật sư trên toàn quốc
Tỷ lệ
Tây Nam Bộ
1
7420
576
7,76%
2012
2
8255
7,20%
2013
595
3
8891
7,32%
2014
651
4
9733
2015
704
7,23%
5
10886
7,32%
2016
797
6
11942
2017
875
7,33%
7
12821
7,49%
2018
960
8
13859
7,29%
2019
1011
9
15107
7,43%
2020
1123
10
16131
7,63%
2021
1230
Nguồn: Liên Đoàn Luật sư Việt Nam
178