VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM XUÂN THỤY
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Hà Nội, năm 2024
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM XUÂN THỤY
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 9380104
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Hồ Sỹ Sơn
2. PGS.TS Trịnh Tiến Việt
Hà Nội, năm 2024
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi
trên cơ sở kế thừa, trích dẫn trung thực các công trình khoa học khác với
sự hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn và PGS.TS. Trịnh Tiến Việt. Các
kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án bảo đảm tính
chính xác và trung thực.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Xuân Thụy
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ................................................... 8
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................. 25
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần
nghiên cứu trong luận án ......................................................................... 33
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.................................. 36
Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 39
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM
TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI .............................................................. 40
2.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý, hình phạt của các tội xâm phạm
tính mạng của con người ......................................................................... 40
2.2. Phân loại các tội xâm phạm tính mạng của con người .................... 57
2.3. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với một số
tội phạm khác .......................................................................................... 58
2.4. Thể chế hóa bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi xâm
phạm tính mạng của con người ............................................................... 74
2.5. Áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của
con người và các yếu tố tác động ............................................................ 80
Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 88
Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................. 90
3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm
tính mạng của con người ......................................................................... 90
3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm
phạm tính mạng của con người tại Thành phố Hồ Chí Minh ............... 102
Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 151
Chương 4: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON
NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG
NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY ......................................................................... 152
4.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội
xâm phạm tính mạng của con người ..................................................... 152
4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật
hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người ........................ 174
Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 190
KẾT LUẬN .................................................................................................. 192
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 194
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 195
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật Hình sự
CTTP:
Cấu thành tội phạm
CQĐT:
Cơ quan điều tra
NCS:
Nghiên cứu sinh
NXB:
Nhà xuất bản
PLHS:
Pháp luật Hình sự
TAND:
Tòa án nhân dân
THTT:
Tiến hành tố tụng
TP.HCM:
Thành phố Hồ Chí Minh
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
XPTMCCN: Xâm phạm tính mạng của con người
VKSND:
Viện kiểm sát nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền sống là một trong những quyền tự nhiên, cơ bản và quan trọng nhất
của con người. Thực tế đời sống xã hội cũng cho thấy các hành vi xâm hại tính
mạng của con người là nhóm hành vi thường xuyên xảy ra, chiếm tỷ trọng cao trong
cơ cấu của tình hình tội phạm và gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Để bảo vệ
quyền sống, bảo vệ tính mạng của con người, luật hình sự của các quốc gia trên thế
giới đều có quy định về các tội XPTMCCN. Với tính chất nguy hiểm cao và sự phổ
biến trong đời sống xã hội, các tội XPTMCCN từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của
nhiều công trình khoa học tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau từ lý luận, quy định
của pháp luật đến thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS.
Quá trình nghiên cứu lâu dài và rộng rãi về các tội XPTMCCN đã giúp cho
nhận thức lý luận về nhóm tội phạm này ngày càng được nâng cao, hoàn thiện.
Nhiều nội dung đã thống nhất về quan điểm, nhận thức: khái niệm, CTTP, dấu hiệu
pháp lý của tội phạm… Tuy vậy, do là nhóm tội phạm có nhiều hành vi phức tạp; đa
dạng về hình thức lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, đối tượng tác động của tội
phạm… nên hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa có sự thống nhất về mặt lý luận,
còn có nhiều quan điểm trái chiều như: xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội
XPTMCCN; một số tình tiết định khung tăng nặng trong các điều luật; dấu hiệu hậu
quả, dấu hiệu lỗi của một số tội phạm…
Ở Việt Nam hiện nay, quy định về tội phạm XPTMCCN đã được ghi nhận
tại Chương XIV BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nhìn chung, quy định về
nhóm tội phạm này đã đáp ứng nguyên tắc đảm bảo quyền con người theo tinh thần
của Hiến pháp năm 2013; đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên; bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong hệ
thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm XPTMCCN
trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành BLHS cũng cho thấy quy
định về các tội XPTMCCN người vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh
hưởng đến việc thực thi BLHS: một số dấu hiệu định tội, định khung chưa rõ ràng,
không thống nhất về kỹ thuật lập pháp gây khó hiểu, tranh luận; quy định về hình
phạt chưa thực sự hợp lý; chưa có văn bản hướng dẫn đối với tội phạm mới…
1
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt trực thuộc trung ương nước ta.
Đời sống xã hội sôi động cùng với mật độ dân cư đông nhất cả nước bên cạnh việc
mang lại những nguồn lực to lớn cho sự phát triển thì cũng kéo theo nhiều hệ lụy về
an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tình hình tội phạm, bao gồm cả tội phạm
XPTMCCN, đang gia tăng đáng lo ngại. Trong khi đó, thực tiễn áp dụng quy định
của PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM trong thời gian qua bên cạnh những
kết quả khả quan thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế, sai sót trong việc định tội danh,
quyết định hình phạt… đã ảnh hưởng tiêu cực đến công tác đấu tranh phòng, chống
tội phạm. Nguyên nhân của thực trạng này bên cạnh những nguyên nhân từ phía cơ
quan áp dụng pháp luật thì không thể không nhắc đến những nguyên nhân thuộc về
quy định của pháp luật như đã nêu ở trên.
Vì vậy, xuất phát từ nhu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người cũng
như phòng ngừa và chống lại tội phạm, việc tiến hành nghiên cứu một cách toàn
diện và có hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các tội xâm
phạm tính mạng con người là điều cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ
những dấu hiệu pháp lý, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật hiện
hành cũng như những khó khăn trong việc áp dụng thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng
tôi sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật. Do vậy, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Các tội xâm phạm tính mạng
của con người trong bối cảnh TP.HCM” cho luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Từ kết quả nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng
quy định của pháp luật về các tội XPTMCCN tại TP.HCM, luận án kiến nghị hoàn
thiện quy định của BLHS và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định
của BLHS về nhóm tội phạm này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung vào việc giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu các tội XPTMCCN ở
trong nước cũng như ngoài nước, qua đó xác định những vấn đề đã thống nhất,
những vẫn đề còn tranh luận và những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án;
2
- Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN;
- Phân tích quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của PLHS Việt Nam về
các tội XPTMCCN tại TP.HCM;
- Phân tích yêu cầu, định hướng hoàn thiện quy định của PLHS về các tội
XPTMCCN, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện PLHS về nhóm
tội phạm này;
- Xây dựng các giải pháp cụ thể, khả thi bảo đảm áp dụng đúng quy định
của PLHS về các tội XPTMCCN.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án xác định các đối tượng nghiên
cứu như sau:
- Các quan điểm khoa học về các tội XPTMCCN;
- Các quy định Luật pháp Việt Nam và một số nước về các tội XPTMCCN;
- Thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM từ năm
2010 đến năm 2023.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về chuyên ngành: Luận án được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành
luật hình sự và tố tụng hình sự;
- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các phương diện về nhận thức
lý luận, thực trạng quy định của PLHS và thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội
XPTMCCN (bao gồm 11 Điều luật từ Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017). Áp dụng pháp luật về các tội XPTMCCN là hoạt động
thực tiễn theo một quá trình và được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau như
CQĐT, VKSND, TAND… và những người THTT hình sự như Điều tra viên, Kiểm
sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… Đồng thời, áp dụng PLHS về các tội
XPTMCCN gồm nhiều nội dung khác nhau như định tội danh, quyết định hình phạt,
miễn TNHS, áp dụng án treo, xóa án tích… Tuy nhiên, trong luận án này khi nghiên
cứu thực tiễn áp dụng pháp luật, luận án tập trung vào hai nội dung chính của áp
dụng PLHS là định tội danh và quyết định hình phạt của chủ thể là Tòa án cấp sơ
thẩm tại TP.HCM (các TAND quận, huyện, thành phố; TAND TP.HCM).
3
- Về địa bàn: Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát hoạt động xét xử các
tội XPTMCCN của TAND cấp sơ thẩm trên địa bàn TP.HCM.
- Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2023.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận án nghiên cứu được tiến hành dựa trên nền tảng triết học duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời lấy tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt, và đấu tranh phòng
chống tội phạm làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp quy nạp - diễn giải, phương pháp so sánh,
phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp
nghiên cứu điển hình, phương pháp chuyên gia. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn giải: được sử dụng là
những phương pháp chủ đạo để nghiên cứu các vấn đề về tổng quan tình hình
nghiên cứu (những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề còn tranh luận, những vấn
đề cần nghiên cứu trong luận án); những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN (khái
niệm, dấu hiệu pháp lý, vấn đề thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi
XPTMCCN); quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN và thực tiễn áp
dụng tại TP.HCM (phân tính dữ liệu, tổng hợp các đặc điểm để đánh giá thực trạng
áp dụng pháp luật và chỉ ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế); luận giải về
nhu cầu hoàn thiện quy định của BLHS đối với các tội XPTMCCN.
- Phương pháp so sánh: được sử dụng để phân biệt các tội XPTMCCN với
một số tội phạm khác (so sánh để tìm ra sự khác biệt về dấu hiệu pháp lý giữa các
tội XPTMCCN với một số tội xâm phạm sức khỏe của con người, một số tội xâm
phạm an ninh quốc gia); nghiên cứu kinh nghiệm thể chế hóa PLHS của một số
quốc gia đối với các hành vi XPTMCCN (so sánh yêu cầu, định hướng, cách thức
thể chế hóa PLHS của Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra
những kinh nghiệm hay của thế giới mà Việt Nam có thể học hỏi, tiếp thu…);
nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN (so sánh quy định
4
của BLHS năm 2015 với các quy định trước đó để thấy được điểm tiến bộ trong quy
định của PLHS hiện hành).
- Phương pháp lịch sử: được sử dụng để nghiên cứu chính sách hình sự đối
với các tội XPTMCCN (để thấy được sự nhất quán hay sự thay đổi, phát triển trong
chính sách hình sự qua các thời kỳ); quy định của PLHS Việt Nam về các tội
XPTMCCN (để thấy được sự thay đổi, phát triển trong quy định của PLHS trước và
sau khi BLHS năm 2015 ra đời).
- Phương pháp logic: được sử dụng để nghiên cứu nguyên nhân của những vi
phạm, sai lầm trong áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM (từ thực
tiễn áp dụng PLHS cần rút ra những vấn đề có tính quy luật ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động áp dụng PLHS để tìm ra nguyên nhân, xác định mối liên hệ mang tính tất
yếu giữa hạn chế trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật…).
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để nghiên cứu tình hình các tội
XPTMCCN (thống kê số liệu về thực trạng, cơ cấu, diễn biến, tính chất của tình
hình tội phạm); thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các tội XPTMCCN; tình
hình áp dụng quy định của PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM; thực tiễn định
tội danh các tội XPTMCCN tại TP.HCM; thực tiễn quyết định hình phạt đối với các
tội XPTMCCN tại TP.HCM…
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: được sử dụng để chứng minh, phân tích,
đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM.
- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng để nghiên cứu khái niệm và dấu
hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN; phân biệt các tội XPTMCCN với một số tội
phạm khác; việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN; nguyên
nhân của những vi phạm, sai lầm trong áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN
tại TP.HCM; yêu cầu hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về các tội
XPTMCCN (có thể tiến hành thông qua việc nghiên cứu các ấn phẩm chuyên khảo,
công trình khoa học, sách báo pháp lý… có đề cập đến các nội dung trên).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về các tội
XPTMCCN theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các TAND tại TP.HCM
giai đoạn 2010 - 2023. Luận án có sự kế thừa tri thức khoa học nhưng hoàn toàn
không trùng lặp với các công trình đã công bố. Những đóng góp mới của luận án cụ
thể như sau:
5
Thứ nhất, luận án nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về các tội
XPTMCCN với quan điểm, lập luận riêng về các vấn đề như khái niệm và dấu hiệu
pháp lý của các tội XPTMCCN; phân loại, phân biệt các tội XPTMCCN với một số
tội phạm khác; thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN; áp dụng
quy định của PLHS về các tội XPTMCCN và các yếu tố tác động;
Thứ hai, luận án phân tích làm rõ nội dung các quy định của PLHS về các
tội XPTMCCN; chỉ rõ những điểm bất cập, hạn chế trong quy định của PLHS hiện
hành về các tội XPTMCCN;
Thứ ba, luận án phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của PLHS
Việt Nam về các tội XPTMCCN tại TP.HCM từ năm 2010 đến năm 2023; chỉ rõ
mối liên hệ giữa những bất cập, hạn chế trong quy định của PLHS hiện hành với
những khó khăn, vướng mắc, vi phạm, sai lầm trong thực tiễn áp dụng quy định của
PLHS về các tội XPTMCCN;
Thứ tư, luận án đưa ra những kiến nghị cụ thể, khả thi cho việc hoàn thiện
quy định của PLHS hiện hành; đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy
định của PLHS về các tội XPTMCCN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án này, đồng thời cũng là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu của
sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự và Tố
tụng hình sự tại các trường luật trên toàn quốc..
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về
các tội XPTMCCN và những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp
luật. Qua đó, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nâng cao hiệu quả công tác
đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, phòng chống oan, sai
trong giải quyết vụ án hình sự.
6
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chương 2: Những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN
Chương 3: Quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN và thực tiễn
áp dụng tại TP.HCM
Chương 4. Hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN
và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng những quy định này.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm tính
mạng của con người
- Về khái niệm các tội XPTMCCN: Các tội XPTMCCN là đối tượng nghiên cứu
của nhiều công trình khoa học, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ
khoa học pháp lý, đã có nhiều công trình đưa ra định nghĩa về khái niệm các tội
XPTMCCN. Có thể kể đến một số công trình như sau:
+ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Quyển 1: Các Tội phạm) - Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh do TS. Trần Thị Quang Vinh chủ biên, được NXB Hồng
Đức xuất bản năm 2021 tại Chương II không có định nghĩa riêng về các tội
XPTMCCN. Tuy nhiên, giáo trình có định nghĩa về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người [214, tr.46]. So với giáo trình của
Trường Đại học Luật Hà Nội thì cách xây dựng định nghĩa của giáo trình Trường
Đại học Luật TP.HCM có những điểm tương đồng nhất định: làm rõ khách thể (tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác) và mặt chủ quan của tội
phạm (cố ý hoặc vô ý);
+ Sách chuyên khảo “PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người từ thời Phong kiến đến ngày BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) có hiệu lực” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà được NXB Lao động xuất bản năm
2019 cũng đưa ra định nghĩa “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người”
chứ không đưa ra định nghĩa riêng cho các tội XPTMCCN. Cách xây dựng định nghĩa
8
của tác giả không chỉ xác định khách thể (quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng,
sức khỏe), mặt chủ quan của tội phạm (có lỗi) mà còn xác định tính chất nguy hiểm
(gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể), tính trái PLHS và chủ thể của tội
phạm (người đủ điều kiện chủ thể) [52, tr.90];
+ Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội XPTMCCN trong Quốc triều hình luật và sự
kế thừa trong BLHS Việt Nam hiện hành” của tác giả Vũ Gia Hân (Đại học Quốc
gia Hà Nội) đưa ra định nghĩa: “Các tội XPTMCCN là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được luật hình sự quy định, được thực hiện dưới lỗi cố ý hoặc vô ý, gây
thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về tính mạng của người khác” [78, tr.44]. Trong
định nghĩa này, tác giả không chỉ xác định khách thể, mặt chủ quan của tội phạm
mà còn xác định tính nguy hiểm, tính trái PLHS của tội phạm.
Nhìn chung, các công trình nêu trên khi định nghĩa khái niệm các tội XPTMCCN
đều chỉ ra một số đặc trưng của loại tội phạm này: Khách thể của tội phạm là quyền
sống của con người; mặt chủ quan của tội phạm thể hiện ở hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý;
chủ thể thực hiện tội phạm là người có năng lực TNHS; hành vi phạm tội có thể được
thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động, trái PLHS. Tuy nhiên, các
định nghĩa nêu trên còn khá khái quát, chưa thực sự rõ ràng, chưa phân biệt với các tội
phạm khác cũng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho tính mạng của con người.
- Về xác định phạm vi các tội XPTMCCN: BLHS hiện hành quy định chung
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người tại
9
Chương XIV từ Điều 123 đến Điều 156. Vì vậy, việc xác định những điều luật nào
thuộc các tội XPTMCCN vẫn còn các quan điểm khác nhau:
+ Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm (quyển 1) của Trường
Đại học Luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2018) xác định các tội
XPTMCCN trong BLHS năm 2015 có 13 điều luật: Từ Điều 123 đến Điều 133,
Điều 148 và Điều 149 [207, tr.53-54];
+ Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần Các tội phạm - quyển 1) của Trường
Đại học Luật TP.HCM, NXB Hồng Đức, năm 2021 xác định các tội XPTMCCN từ
Điều 123 đến Điều 133 [214, tr.46]. Như vậy, so với giáo trình của Trường Đại học
Luật Hà Nội, giáo trình của Trường Đại học Luật TP.HCM không xếp tội lây truyền
HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác vào các tội
XPTMCCN;
Sách "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần Các tội phạm)" do Giáo sư, Tiến
sĩ Võ Khánh Vinh chủ biên, ấn hành năm 2014 bởi Nhà xuất bản Công an nhân dân,
trình bày phân tích về tội phạm XPTMCCN tại Chương III, mục A. Giáo trình đã
xác định rõ: “các tội xâm phạm tính mạng của con người được quy định ở 11 điều
luật (từ Điều 93 đến Điều 103) ở Chương XII của Bộ luật hình sự” (tương ứng với
từ Điều 123 đến Điều 133 Chương XIV của BLHS năm 2015) [242, tr.59]. Như
vậy, tác giả giáo trình cũng không xếp tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố
ý truyền HIV cho người khác vào các tội XPTMCCN;
+ Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội XPTMCCN trong Quốc triều hình luật và
sự kế thừa trong BLHS Việt Nam hiện hành” của tác giả Vũ Gia Hân (Đại học Quốc
gia Hà Nội) xác định các tội XPTMCCN được quy định ở 11 điều luật (từ Điều 93
đến Điều 103) ở Chương XII của BLHS năm 1999 (tương ứng hiện nay là từ Điều
123 đến Điều 133 của Chương XIV BLHS năm 2015), không có tội lây truyền HIV
cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác [78, tr.25];
10
+ Bài viết “Tìm hiểu quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con
người” đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân cũng xác định các
tội XPTMCCN được quy định từ Điều 123 đến Điều 133 [202, tr.27-32];
Có thể thấy, đa phần các công trình nghiên cứu xác định các tội XPTMCCN
được quy định từ Điều 123 đến Điều 133 BLHS hiện hành. Tuy nhiên, có những
công trình xác định Điều 148 và Điều 149 cũng thuộc các tội XPTMCCN. Nhìn
chung, các công trình đều không có sự luận giải rõ ràng về lý do xác định phạm vi
các tội XPTMCCN như đã nêu (trừ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội).
- Về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN: Dấu hiệu pháp lý của các tội
XPTMCCN là nội dung được rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu, có thể kể
đến một số công trình tiêu biểu sau:
Trong đó, các tội XPTMCCN được trình bày tại mục A với các nội dung: các
yếu tố CTTP, hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng nói chung; dấu hiệu
pháp lý, hình phạt của từng tội phạm cụ thể XPTMCCN. Trong đó, giáo trình có
đưa ra một số luận điểm riêng, khác biệt so với các tài liệu khác nghiên cứu về các
tội XPTMCCN: xác định hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc để
định tội đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh [207,
tr.70-72], hậu quả “đứa trẻ chết” không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội giết con
mới đẻ [207, tr.68]… Những luận điểm khoa học của giáo trình sẽ là cơ sở tham
khảo để NCS nghiên cứu, làm rõ dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN;
* Trong cuốn sách "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần Các tội phạm -
quyển 1)", xuất bản năm 2021 bởi NXB Hồng Đức, Trường Đại học Luật TP.HCM
đã trình bày chi tiết và phân tích kỹ lưỡng về bản chất pháp lý của các tội phạm xâm
phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể là ở
Chương II.
So với giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội, nội dung phân tích về các tội
XPTMCCN trong giáo trình của Trường Đại học Luật TP.HCM có một số điểm
11
khác biệt: không xác định rõ ràng hậu quả chết người có phải là dấu hiệu bắt buộc
để định tội đối với Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay
không [214, tr.67], xác định tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được
thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý [214, tr.73] … Những luận điểm khoa học của giáo
trình giúp NCS có góc nhìn đa chiều và đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu
liên quan đến dấu hiệu pháp lí của các tội XPTMCCN;
+ Bình luận BLHS năm 2015, Phần thứ hai - Các tội phạm, Chương XIV Các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (bình luận
chuyên sâu) của tác giả Đinh Văn Quế được NXB Thông tin và truyền thông xuất
bản năm 2020 mặc dù không phân tích dấu hiệu pháp lí chung nhưng có đi sâu phân
tích về từng tội phạm cụ thể trong Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người. Công trình này không chỉ bình luận những dấu
hiệu cơ bản của tội phạm mà còn phân tích chi tiết các trường hợp phạm tội cụ thể,
có sự so sánh với những quy định trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực, có sự
phân biệt giữa các tội phạm với hệ thống ví dụ phong phú. Tác giả cũng đưa ra
những quan điểm riêng, khác biệt so với các công trình khác khi nghiên cứu về dấu
hiệu pháp lí của các tội XPTMCCN như: trường hợp người phụ nữ bị giết không có
thai, nhưng người phạm tội tưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng này của người
phạm tội là có căn cứ, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu TNHS về tội giết người
trong trường hợp “giết phụ nữ mà biết là có thai” [117, tr.21], hậu quả con mới đẻ
bị chết là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội giết con mới đẻ, nếu không có hậu quả
này thì không cấu thành tội giết con mới đẻ [117, tr.44], hậu quả nạn nhân bị chết là
dấu hiệu bắt buộc phải có của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh [117, tr.48]… Vì vậy, công trình này cung cấp thêm cho NCS những luận cứ
khoa học về dấu hiệu pháp lí của các tội XPTMCCN, việc phân biệt các tội
XPTMCCN với một số tội phạm khác;
+ Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần
Các tội phạm) quyển 1 do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên được NXB Tư pháp
xuất bản năm 2018 tại Chương XIV có bình luận về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tác giả cuốn sách không chỉ đưa ra
quan điểm về những nội dung mới, những sửa đổi mang tính tích cực của BLHS
hiện hành mà còn thể hiện quan điểm đối với những vấn đề còn có ý kiến đa chiều
12
như: vấn đề dấu hiệu lỗi của chủ thể trong tội vứt bỏ con mới đẻ, tội làm chết người
trong khi thi hành công vụ; vấn đề xác định “hậu quả chết người” có phải là dấu
hiệu bắt buộc phải có trong tội giết con mới đẻ, tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội… Cuốn sách giúp NCS có
thêm nội dung tham khảo khi nghiên cứu về dấu hiệu pháp lí của các tội
XPTMCCN;
+ Sách chuyên khảo “PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người từ thời Phong kiến đến ngày BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) có hiệu lực” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà được NXB Lao động xuất bản
năm 2019 cũng đã phân tích dấu hiệu pháp lí, phân biệt các tội có CTTP gần giống
nhau; phân tích các tình tiết định khung, vấn đề quyết định hình phạt. Đặc biệt, tác
giả còn chỉ ra những lưu ý khi định tội, định khung và quyết định hình phạt đối với
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Với nội dung như trên, quyển
sách chuyên khảo này vừa cung cấp những luận điểm hữu ích để NCS làm rõ dấu
hiệu pháp lý các tội XPTMCCN, vừa giúp NCS có luận cứ khoa học để đánh giá hoạt
động áp dụng pháp luật về các tội XPTMCCN trong thực tiễn;
+ Sách chuyên khảo “Luật hình sự so sánh” của PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn do NXB
Chính trị quốc gia sự thật xuất bản năm 2018 tại Chương XI, mục I có sự phân tích,
so sánh những nội dung cốt lõi trong quy định về các tội XPTMCCN theo quy định
của PLHS Việt Nam hiện hành với các quy định tương ứng của PLHS Liên bang Nga,
Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Thụy Sĩ, Cộng hòa Tây Ban
Nha, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và
Vương quốc Anh. Trên cơ sở đó, PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn đã chỉ rõ những điểm tương
đồng và khác biệt trong PLHS các nước về các tội XPTMCCN. Đặc biệt, qua đối
chiếu, phân tích quy định của PLHS Việt Nam và các nước trên thế giới, tác giả còn chỉ
ra những hạn chế, khiếm khuyết trong quy định của PLHS Việt Nam hiện hành về các
tội XPTMCCN. Đây là những nội dung quan trọng giúp NCS có thể nghiên cứu, tiếp
thu kinh nghiệm thể chế hóa PLHS của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời có định
hướng hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN;
+ Sách “55 cặp tội danh dễ nhầm lẫn trong Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa
đổi và bổ sung vào năm 2017” (tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và học
13
tập) của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật
phát hành năm 2021, đã tiến hành phân tích một cách sâu sắc về những điểm tương
đồng và khác biệt giữa các cặp tội danh dễ gây nhầm lẫn. Trong đó, sách đề cập đến
các tội danh liên quan đến việc xâm phạm tới tính mạng con người như: tội giết
người so với tội giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh; tội giết người bên cạnh tội bức tử; sự
tương đồng giữa tội giết người và hành vi xúi giục hay hỗ trợ người khác tự sát; mối
liên hệ giữa tội giết người với việc không cứu giúp những cá nhân đang trong tình
trạng nguy hiểm đến tính mạng; sự giao thoa giữa tội giết người và việc đe dọa đến
tính mạng của nạn nhân; mối quan hệ giữa tội giết người với hành vi cố ý gây
thương tích hay tổn hại sức khỏe cho người khác; cũng như sự khác biệt giữa việc
thực hiện quyền phòng vệ chính đáng dẫn đến cái chết của nạn nhân trong khi thi
hành công vụ với việc bức tử hoặc tra khảo một cá nhân. Đây là tài liệu quan trọng
giúp NCS nhận thức rõ hơn về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN;
Tác giả bài viết đã đưa ra luận điểm cá nhân và phân tích một số vụ việc thực tế
để minh chứng. Đây là những nội dung phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì
vậy, bài viết cung cấp thêm cho NCS những luận điểm để tham khảo khi nghiên cứu
về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN cũng như đánh giá hoạt động áp dụng
pháp luật về các tội XPTMCCN trên thực tế;
+ Bài viết “Bình luận tội giết người theo BLHS năm 2015” của các tác giả Đỗ
Đức Hồng Hà - Ngô Duy Thi đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2018 đã có sự phân
tích chi tiết các dấu hiệu pháp lí, các tình tiết định khung tăng nặng và hình phạt áp
dụng đối với tội giết người. Bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra quan điểm phân biệt
tội giết người với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến
tính mạng, phân biệt tội giết người (phạm tội chưa đạt) với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, phân biệt tội giết người với tội vô ý
làm chết người.
14
Bài viết cung cấp thêm cho NCS những luận điểm để tham khảo khi nghiên cứu
về dấu hiệu pháp lí của tội giết người cũng như phân biệt tội giết người với một số
tội phạm khác;
Tác giả không chỉ nêu ra nhiều quan điểm trái chiều mà còn lập luận, đưa ra quan
điểm của bản thân về những vấn đề còn tranh cãi. Bài viết giúp NCS có góc nhìn đa
chiều khi nghiên cứu dấu hiệu pháp lý các tội XPTMCCN.
+ Bài viết “So sánh quy định về tội giết người trong BLHS Việt Nam và BLHS
Liên Bang Nga” của tác giả Lê Thị Thu Huyền đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22
(tháng 11/2015) đã chỉ ra những điểm giống nhau về cơ cấu điều luật và các tình tiết
định khung tăng nặng. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích những điểm khác biệt về
kỹ thuật lập pháp, dấu hiệu pháp lý (khách thể, chủ thể, lỗi) và đường lối xử lý tội
giết người ở BLHS Việt Nam và BLHS Liên Bang Nga. Bài viết không chỉ giúp
NCS có thêm thông tin khi nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN
mà còn gợi mở hướng hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam trên cơ sở tiếp thu
kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài.
+ Bài viết “Căn cứ xác định phạm tội “trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh”” của tác giả Trần Đình Hải đăng trên Tạp chí khoa học Kiểm sát số 01/2021
tập trung phân tích các căn cứ để có thể đánh giá chính xác trạng thái tinh thần của
con người có bị kích động mạnh hay không: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm; diễn
biến của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân; nguyên nhân sâu xa và
trực tiếp của sự việc... Đây là một trong những nội dung phức tạp nhất khi nghiên
cứu về mặt lý luận cũng như áp dụng trong thực tiễn. Bài viết giúp NCS có thêm
góc nhìn khi nghiên cứu dấu hiệu pháp lí của tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh.
15
+ Bài viết “Một số nhận thức lý luận về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong
BLHS năm 2015” của TS. Đặng Thu Hiền và tác giả Đặng Trần Hùng đăng trên Tạp
chí TAND kỳ II tháng 9/2016 (số 18) làm rõ một số vấn đề về dấu hiệu pháp lý và
hình phạt của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ: Bản chất pháp lý của tội phạm này
khác biệt gì so với tội giết người? Có phải mọi trường hợp mẹ giết con mới đẻ đều
phạm tội này? Thế nào là ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu? Hoàn cảnh
khách quan thế nào là đặc biệt? Vì sao cũng là giết người mà hình phạt lại nhẹ như
vậy? Bài viết giúp NCS có thêm dữ liệu để tham khảo khi nghiên cứu dấu hiệu pháp
lý các tội XPTMCCN.
Nghiên cứu các công trình đã nêu cho thấy hiện vẫn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau liên quan đến một số vấn đề về dấu hiệu pháp lý của các tội phạm xâm
phạm trật tự xã hội: đối với các tình tiết định khung hình phạt nặng hơn của tội giết
người; dấu hiệu hậu quả trong trường hợp tội giết con mới sinh; tội giết người khi ở
trong trạng thái tinh thần bị kích động dữ dội; tội giết người do vượt quá giới hạn
chính đáng trong việc phòng vệ hoặc khi thực hiện hành vi bắt giữ người phạm tội
mà không cần thiết; và dấu hiệu lỗi về mặt chủ quan trong cấu thành của tội gây ra
cái chết cho người khác trong quá trình thực thi công vụ....
- Về lịch sử lập pháp hình sự đối với các tội XPTMCCN, có thể kể đến một số
công trình:
+ Sách chuyên khảo “PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người từ thời Phong kiến đến ngày BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung
năm 2017) có hiệu lực” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà, NXB Lao động, năm 2019 đã
khái quát quá trình phát triển của PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của con người từ Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, từ sau Cách mạng
tháng tám năm 1945 đến quy định của PLHS hiện hành. Với nội dung như trên,
quyển sách chuyên khảo này cung cấp cho NCS những thông tin, luận điểm hữu ích
để làm rõ lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội XPTMCCN;
* Tác phẩm "Những điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017)" do PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và TS. Phan Anh Tuấn hợp tác biên
soạn, do NXB Hồng Đức ấn hành năm 2017, đã trình bày những điểm đổi mới trong
quy định về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con
người trong Bộ luật Hình sự năm 2015 so sánh với Bộ luật Hình sự năm 1999 tại
16
Chương 11. Là quyển sách chuyên về những điểm mới của BLHS năm 2015, bên
cạnh việc chỉ ra những điểm mới, các tác giả còn phân tích về cơ sở của những điểm
mới đó. Vì vậy, đây là một trong những tài liệu tham khảo giúp NCS hiểu rõ tinh
thần của điều luật, đồng thời có thể luận giải về lý do, ý nghĩa, tác dụng của những
điểm mới trong quy định của BLHS hiện hành về các tội XPTMCCN;
+ Sách “Lược khảo Hoàng Việt luật lệ (tìm hiểu luật Gia Long)” của tác giả
Nguyễn Quyết Thắng được NXB Văn hóa thông tin xuất bản năm 2002 giới thiệu
đến độc giả các đặc điểm, tính chất, nội dung, vị trí, ý nghĩa của Bộ luật Gia Long
trong văn minh sử Việt Nam. Tài liệu giúp NCS có thêm dữ liệu để nghiên cứu về
lịch sử hình thành quy định các tội XPTMCCN.
+ Sách “Quốc Triều Hình Luật” do các tác giả Nguyễn Ngọc Nhuận và Nguyễn
Tá Nhí dịch được NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 1995 cung cấp cho độc giả
một bản dịch hoàn chỉnh, qua đó giới thiệu một trong những thành tựu tiêu biểu của
nền văn hóa dân tộc. Tài liệu giúp NCS có góc nhìn toàn diện về các tội XPTMCCN
trong Bộ luật Hồng Đức, bộ luật được đánh giá là “mẫu mực để trị nước”.
+ Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội XPTMCCN trong Quốc triều hình luật và sự kế
thừa trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành” do tác giả Vũ Gia Hân thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội thực hiện đã tiến hành nghiên cứu sâu sắc, rút ra những giá trị pháp lý
từ các quy định liên quan đến các tội XPTMCCN theo Quốc triều hình luật. Trong công
trình này, tác giả còn thực hiện việc so sánh giữa các tội XPTMCCN của Quốc triều hình
luật và quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Qua đó, tác giả đánh giá những thành
tựu lập pháp của Quốc triều hình luật cần được kế thừa nhằm nâng cao chất lượng quy
định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội XPTMCCN.
Luận văn giúp NCS có thêm thông tin khi nghiên cứu về lịch sử hình thành,
phát triển của các tội XPTMCCN trong luật hình sự Việt Nam;
17
Qua đó, tác giả bài viết nhận định nguyên tắc phân hóa TNHS ngày càng được
thể hiện rõ nét hơn, đường lối xử lí người phạm tội giết người ngày càng được quy
định một cách rõ ràng và xu hướng mở rộng khả năng pháp lí cho Tòa án có thể lựa
chọn hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng
trường hợp cụ thể. Bài viết cung cấp thêm cho NCS những thông tin và luận điểm
hữu ích trong việc nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN
trước khi ban hành BLHS năm 2015. Đồng thời, bài viết cũng góp phần giúp NCS
nhận diện quy luật phát triển của quy định về tội giết người nói riêng và các tội
XPTMCCN nói chung, từ đó có hướng đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật;
+ Bài viết “Tội giết con mới đẻ trong PLHS Việt Nam” của tác giả Phạm Văn
Báu đăng trên Tạp chí Luật học số 2/2000 có phân tích sự khác nhau trong quy định
về tội giết con mới đẻ trong các văn bản trước BLHS năm 1985, trong BLHS năm
1985 và trong BLHS năm 1999. Vì vậy, bài viết cũng giúp NCS có thêm thông tin,
góc nhìn để tham khảo khi nghiên cứu lịch sử lập pháp về các tội XPTMCCN.
+ Bài viết “Sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong các tội XPTMCCN
trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long)” của tác giả Cao Thị Oanh đăng trên
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2007 đã phân tích, làm rõ sự phân hóa TNHS
trong xử lý tội phạm XPTMCCN ở Bộ luật Gia Long qua các quy định về các giai
đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, các trường hợp tăng nặng TNHS, các trường
hợp giảm nhẹ TNHS. Việc nghiên cứu quy định của một trong những bộ luật ra đời
trong thời kỳ hưng thịnh của pháp luật Phong kiến Việt Nam một mặt giúp NCS
nắm rõ “nguồn gốc”, sự phát triển của PLHS Việt Nam, mặt khác gợi mở thêm
hướng hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành.
1.1.2. Những công trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm tính mạng của con người
18
- Luận văn thạc sỹ luật học “Các tội XPTMCCN trong luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Đoàn Văn Lâm, năm 2013 có phân tích, đánh giá thực trạng điều tra,
truy tố, xét xử các tội XPTMCCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, qua đó rút ra
những tồn tại, hạn chế về lập pháp và thực tiễn áp dụng PLHS đối với những tội
phạm này. Địa bàn tỉnh Bình Dương cũng thuộc khu vực Đông Nam Bộ, giáp ranh
với TP.HCM, có một số nét tương đồng nhất định với TP.HCM về tình hình tội
phạm và công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Vì vậy, luận văn giúp NCS có
thêm thông tin, dữ liệu để đối chiếu, so sánh khi nghiên cứu về thực tiễn áp dụng
PLHS đối với các tội XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM;
cũng phân tích những tồn tại, hạn chế của việc định tội danh đối với tội giết người
của Tòa án cấp sơ thẩm tỉnh Bình Định. Luận văn giúp NCS có thêm thông tin để so
sánh với thực tiễn áp dụng PLHS tại TP.HCM;
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam”
của tác giả Đoàn Thị Vân (Đại học Quốc gia Hà Nội) có nghiên cứu thực trạng áp
dụng PLHS đối với tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước trong giai đoạn 2010-
2014. Tác giả luận văn đã chỉ ra những bất cập trong quá trình áp dụng PLHS đối
với tội giết con mới đẻ từ việc định tội danh đến việc xác định giai đoạn thực hiện
tội phạm. Vì vậy, đây là một trong những tài liệu tham khảo để NCS làm rõ thực
trạng áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN;
- Luận văn thạc sỹ luật học “Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình
Định” của tác giả Nguyễn Thị Thu Phương (Học viên Khoa học xã hội), năm 2020
có phân tích thực tiễn xét xử tội vô ý làm chết người và tội vô ý làm chết người do
vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Định
từ năm 2015 đến năm 2020. Tác giả cũng chỉ rõ một số tồn tại trong thực tiễn xét xử
các tội vô ý làm chết người và những vướng mắc trong các quy định của BLHS: có
trường hợp Tòa án chưa phân biệt rõ ràng giữa tội giết người và tội vô ý làm chết
người; có trường hợp chưa phân biệt rõ ràng giữa tội vô ý làm chết người do vi
19
phạm quy tắc nghề nghiệp với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ; có trường hợp bị nhầm lẫn khi định tội danh giữa tội vô ý làm chết người với vi
phạm quy định về an toàn giao thông đường thủy hoặc an toàn giao thông đường
bộ; việc thu thập, đánh giá chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn, thiếu sót… Luận văn
giúp NCS có thêm thông tin để so sánh, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật
đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM;
- Luận văn thạc sĩ luật học với tiêu đề “Tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo quy định của luật hình sự Việt Nam” do
tác giả Thái Thị Hiền thực hiện tại Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2014, đã tiến
hành phân tích và đánh giá thực tiễn xét xử đối với tội danh này trong khoảng thời
gian từ năm 2009 đến 2013. Tác giả đã chỉ ra những vấn đề tồn tại trong công tác
xét xử các vụ án liên quan: sai sót trong việc xác định tội danh; khó khăn và thiếu
sót trong quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ từ phía các cơ quan tố tụng hình sự,
dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài và không rõ ràng về tội danh đối với người
vi phạm. Đây là loại tội phạm ít khi được đưa ra xét xử trên thực tế do nhiều nguyên
nhân khác nhau ảnh hưởng đến quá trình pháp lý.. Vì vậy, luận văn là tài liệu quan
trọng giúp NCS có thêm thông tin, dữ liệu để so sánh khi nghiên cứu thực trạng áp
dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN;
- Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội phạm xảy ra trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thị
Hằng (Đại học Quốc gia Hà Nội) thực hiện vào năm 2015 đã tiến hành phân tích
tình hình xét xử của Tòa án Nhân dân đối với các tội phạm diễn ra trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh trên toàn quốc trong giai đoạn từ 2010 đến 2014. Tác
giả cũng đã làm rõ những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong thực tiễn áp
dụng Bộ luật Hình sự, bao gồm việc các quy định pháp luật chưa được diễn đạt một
cách rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử; bên
cạnh đó, nhận thức của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là các thẩm phán,
còn nhiều hạn chế khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử đối với các tội phạm xảy
ra trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh... Tội giết người dưới ảnh hưởng của
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng và các tội phạm khác được thực
hiện trong tình trạng này nói chung đều cho thấy rằng việc áp dụng pháp luật trên
thực tế gặp phải không ít vấn đề phức tạp liên quan đến việc làm rõ bản chất của
20
trạng thái tinh thần bị kích động hay mức độ kích động mạnh.? Thế nào là “người
thân thích” của người phạm tội? Chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật của nạn nhân và trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người
phạm tội… Vì vậy, luận văn là tài liệu quan trọng giúp NCS có thêm dữ liệu khi
nghiên cứu về thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN;
Cụ thể, luận văn chỉ ra rằng việc xác định ranh giới rõ ràng giữa trường hợp
được coi là phòng vệ chính đáng và trường hợp không được công nhận là điều còn
nhiều bất cập; bên cạnh đó, cũng chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa phòng vệ chính
đáng và tình huống cấp thiết. Hơn nữa, sự phân loại giữa các trường hợp thuộc về
phòng vệ chính đáng với những hành vi phạm tội diễn ra trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh cũng chưa được thực hiện một cách đúng đắn. Việc xác định tội
danh cũng còn thiếu tính nhất quán, dẫn đến nhầm lẫn giữa các hành vi giết người
thông thường, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay giết
người do vượt quá giới hạn của quyền phòng vệ chính đáng. Luận văn này cung cấp
cho nghiên cứu sinh những thông tin và dữ liệu cần thiết để tìm hiểu sâu hơn về
việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh - một lĩnh vực đang gặp phải nhiều khó khăn trong thực tiễn.;
- Bài viết “Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng tội giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 125 BLHS năm 2015” của tác giả Đặng Thu
Hiền đăng trên Tạp chí Ngành luật số 05/2016 đã phân tích sáu vấn đề mà tác giả
cho rằng cần “nhận thức thống nhất” để tránh việc xử lí oan sai, không đúng người,
không đúng tội, không đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa khi áp dụng tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra
điểm mâu thuẫn giữa lí luận và thực tiễn áp dụng tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh: về mặt lý luận thì tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh vẫn có thể có giai đoạn phạm tội chưa đạt nhưng thực tế thì
21
thường hậu quả đến đâu xử lý đến đó. Bài viết giúp NCS có thêm thông tin khi
nghiên cứu về thực tiễn áp dụng PLHS đối với tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh.
1.1.3. Những công trình nghiên cứu yêu cầu và giải pháp nâng cao chất
lượng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
tính mạng của con người
- Luận án tiến sĩ luật học “Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ: tình
hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Nguyễn Hữu Nam (năm
2018) khi phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm giết người
trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có chỉ ra những nguyên nhân và điều kiện từ hạn
chế, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (sự phối hợp giữa các cơ quan
THTT còn nhiều bất cập, nhiều bản án có mức hình phạt chưa tương xứng với tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội...). Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử tội giết người của
cơ quan chuyên môn (lực lượng Công an, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Tòa án
nhân dân các cấp). Luận án trên giúp NCS có thêm cơ sở để đối chiếu với kết quả
nghiên cứu của bản thân và cũng gợi mở thêm các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM.
- Luận án tiến sĩ luật học mang tên “Thực hiện quyền công tố trong quá trình
điều tra các tội phạm giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” do tác giả
Nguyễn Quốc Hân (thuộc Học viện Khoa học xã hội) thực hiện vào năm 2019. Tác
phẩm này dựa trên việc phân tích, đánh giá và nhận diện tình hình thực tiễn của hoạt
động thực thi quyền công tố trong việc điều tra các tội giết người. Tác giả đồng thời
chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác thực hành quyền công
tố, chủ yếu xuất phát từ những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành.. Vì vậy,
luận án đã kiến nghị những giải pháp hoàn thiện PLHS và tố tụng hình sự để góp
phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người:
sửa đổi, bổ sung khái niệm về “giết người” tại các Điều 123, 125, 126 của BLHS
năm 2015; bổ sung điều luật “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” tại chương
III của BLHS năm 2015; bổ sung điều luật về nguyên tắc mối quan hệ giữa CQĐT
với VKSND vào chương 2 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015... Luận án giúp
NCS có thêm góc tiếp cận, luận điểm khoa học để tham khảo khi nghiên cứu về yêu
22
cầu và giải pháp nâng cao chất lượng PLHS và áp dụng PLHS đối với các tội
XPTMCCN;
- Luận án tiến sĩ luật học “Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn
Thanh Mận (Học viện Khoa học xã hội, năm 2019) có sự phân tích, đánh giá thực tiễn
xây dựng và áp dụng án lệ hình sự (trong đó có những án lệ về các tội XPTMCCN).
Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số yêu cầu về việc xây dựng và phát triển án
lệ trong lĩnh vực hình sự, đồng thời kiến nghị những giải pháp nhằm cải thiện chất
lượng của việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự. Các biện pháp này bao gồm: nâng
cao nhận thức cộng đồng về giá trị của án lệ hình sự; hoàn thiện các quy định trong
Hiến pháp và Bộ luật Hình sự liên quan đến việc áp dụng án lệ; cải thiện chuyên môn
của đội ngũ Thẩm phán phụ trách xét xử các vụ án hình sự ở tất cả các cấp; ban hành
quy trình cụ thể cho việc xây dựng án lệ hình sự. Do đó, luận án sẽ cung cấp cho
Nghiên cứu sinh những gợi ý giá trị để nâng cao hiệu quả thực thi Bộ luật Hình sự đối
với các tội phạm Xâm phạm Tài sản từ việc tăng cường xây dựng và áp dụng án lệ..
- Các luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự như
“Các tội XPTMCCN trong Luật Hình sự Việt Nam”, “Định tội danh Tội giết người
theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, “Tội giết con mới đẻ trong luật
hình sự Việt Nam”, “Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam”, “Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam”, “Tội vô ý làm
chết người từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, “Tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo luật hình sự Việt Nam”… (đã được trình
bày tại tiểu mục 1.1.2.) bên cạnh việc phân tích thực trạng áp dụng PLHS đối với
các tội XPTMCCN cũng chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng quy
định của BLHS Việt Nam từ phương diện lập pháp, phương diện thực tiễn và
phương diện lý luận. Đồng thời, các tác giả cũng kiến nghị những giải pháp nâng
cao hiệu quả áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN: Hoàn thiện BLHS Việt
Nam; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp… Các tài liệu trên giúp NCS có thêm dữ liệu,
quan điểm để tham khảo khi nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng pháp luật đối với các tội XPTMCCN;
23
- Bài viết của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà về các tình tiết "giết nhiều người" và
"giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người" được đăng trên
Tạp chí Luật học số 1/2005 đã nêu bật những khó khăn, cùng với những quan điểm
trái ngược trong việc áp dụng các tình tiết này liên quan đến tội danh giết người.
Những vấn đề này không chỉ thể hiện sự phức tạp trong hệ thống pháp luật mà còn
tạo ra những thách thức trong quá trình xét xử. Đây là hai tình tiết định khung tăng
nặng của tội giết người mà việc phân biệt hai tình tiết này là vấn đề phức tạp cả về lý
luận và thực tiễn. Tác giả bài viết cũng đưa ra quan điểm về hướng khắc phục những
tồn tại, vướng mắc nêu trên bao gồm sửa đổi quy định của BLHS và ban hành văn bản
hướng dẫn. Vì vậy, bài viết cũng giúp NCS có thêm dữ liệu để tham khảo khi nghiên
cứu vấn đề hoàn thiện quy định của BLHS về các tội XPTMCCN;
- Bài viết "Các tội xâm phạm tính mạng con người - bất cập và kiến nghị" của
Tiến sĩ Nguyễn Mai Bộ, đăng tải trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, đã phân tích
và nêu bật những hạn chế trong quy định về tội XPTMCCN, tác giả đã có những kiến
nghị cụ thể để sửa đổi quy định của BLHS 2015 và một số văn bản liên quan: sửa đổi
quy định về tội giết người theo hướng mô tả rõ thế nào là hành vi giết người, bổ sung
tình tiết định khung tăng nặng giết “người khám chữa bệnh cho mình hoặc người
thân của mình”; sửa đổi Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 150 về Tội mua bán người và
Điều 151 về Tội mua bán người dưới 16 tuổi… Bài viết giúp NCS có thêm các quan
điểm để tham khảo khi nghiên cứu vấn đề hoàn thiện quy định của pháp luật;
của tác giả vẫn giữ được tính cấp thiết cho đến thời điểm hiện tại; do đó, bài viết
này sẽ cung cấp thêm những gợi ý hữu ích cho nghiên cứu sinh về việc hoàn thiện
các quy định liên quan đến tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe con người..
24
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
1.2.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm tính
mạng của con người.
- Sách chuyên khảo “Intention in Law and Philosophy” (tạm dịch: Lỗi cố ý trong
luật và triết học) trong đó có 01 chương “Intention in the law of murder” (tạm dich:
Lỗi cố ý trong luật về tội giết người) của tác giả Mason, A. được nhà xuất bản
Routledge xuất bản lần đầu năm 2001, tái bản năm 2020. Trong chương này, tác giả
quan tâm đến sự nhầm lẫn xung quanh quy định của luật về cố ý (intention), đến
phạm vi trạng thái tinh thần mà hình thành nên các yếu tố của nguyên tắc pháp lý trong
luật hình sự, đặc biệt là liên quan đến tội giết người. Tác giả cho rằng việc xác định
cách tiếp cận của luật hình sự đối với lỗi cố ý trong tội giết người rất phức tạp bởi các
tình huống mà luật đề cập về cố ý và các yếu tố chủ quan đã vượt ra khỏi quan niệm
truyền thống của thông luật. Trong trường hợp xác định TNHS của nhiều người tham
gia phạm tội, một người có thể phải chịu TNHS về tội giết người, nếu người cùng
phạm tội thực hiện tội giết người một cách cố ý, mặc dù việc giết người này có thể vượt
ra ngoài mục đích mà các bên đã lên kế hoạch trước đó [258, p.107-127];
- Luận án tiến sĩ “Преступления против жизни: теоретико-прикладные
проблемы и доктринальная модель уголовного закона” (tạm dịch “Tội phạm
xâm phạm tính mạng: các vấn đề lý luận và mô hình PLHS”) của tác giả Бабичев,
А. Г. được bảo vệ vào năm 2019. Trong luận án này tác giả đã phân tích các tiền đề
về mặt nhận thức liên quan đến sự phát triển của luật hình sự liên bang Nga về trách
nhiệm và hình phạt đối với tội phạm xâm phạm tính mạng; phân tích các tiêu chuẩn
mà nhà làm luật đặt ra khi quy định trách nhiệm đối với tội giết người và các hành
vi xâm phạm tính mạng khác trong luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga; phân
tích định nghĩa lập pháp về khái niệm tội giết người, các dấu hiệu của tội giết người;
đánh giá về mặt pháp lý cấu thành tội phạm tội giết người và phân biệt tội phạm này
với các loại tội phạm liên quan khác. Thông qua việc phân tích lý luận và các vụ
việc thực tế, tác giả xây dựng mô hình học thuyết về luật hình sự của Liên bang Nga
trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm xâm phạm tính mạng [264];
- Bài viết tạp chí “The Corpus Delicti of Murder” (tạm dịch: Cấu thành tội phạm
của tội giết người) của tác giả Perkins, R. M. được xuất bản vào năm 1962. Công
trình này nghiên cứu thực tiễn về việc thiết lập tình tiết tội phạm giết người, cả
25
trong trường hợp không tìm thấy người chết và trường hợp tìm thấy người chết. Tác
giả cho rằng việc thú tội của người phạm tội là quan trọng, bao gồm cả tình huống
mà bên vô tội thừa nhận tội nhưng không thể chứng minh được. Kiểm tra lại việc
phân tích các giả thuyết của Wigmore về cấu thành tội phạm (corpus delicti) và các
vụ án thực tế, Giáo sư Perkins kết luận rằng sẽ thực tế hơn nếu thừa nhận rằng cấu
thành tội phạm của tội giết người chính là hành vi giết người và gợi ý rằng điều này
có thể đúng cho các tội phạm khác [259, p.173-195];
- Bài viết “Material Interest-Circumstantial Element of the Crime of Murder”
(tạm dịch: Lợi ích vậy chất – yếu tố quan trọng của tội phạm giết người) của các tác
giả Raducanu, R., & Cercel, C. A. được đăng trên tạp chí Rev. Stiinte Juridice năm
2010. Trong công trình này, các tác giả phân tích yếu tố vật chất như là một yếu tố
định tội danh giết người theo luật hình sự Rumani. Yếu tố này hiện diện như một
yếu tố cấu thành ở hai cấu thành tăng nặng của tội giết người và có thể dễ dẫn đến
sự nhầm lẫn khi định tội danh theo hai cấu thành này của tội giết người. Ngoài ra,
theo các tác giả sự nhầm lẫn này có thể được thấy khi định tội danh đối với tội cướp
tài sản có đi kèm với cái chết của nạn nhân mà bao gồm cả việc theo đuổi lợi ích vật
chất và mong muốn nạn nhân chết. Từ đó các tác giả cho rằng sự khác biệt giữa các
tội danh này chỉ có thể được nhận ra ở khía cạnh chủ quan, và sử dụng các tiêu chí
từ góc độ thực tiễn xét xử [260, p.56];
- Bài viết tạp chí “Offences against the Person under the Criminal Code of the
Principality of Liechtenstein” (tạm dịch: Tội phạm xâm phạm nhân thân theo BLHS
của Công quốc Liechtenstein) của các tác giả Serebrennikova, A. V., & Trefilov, A.
A. được đăng trên tạp chí Lex Russica năm 2016. Bài báo phân tích ngắn gọn hệ
thống các quy định Phần tội phạm của BLHS của Công quốc Liechtenstein 1987 và
xem xét những nét chính của nó. Bài viết nhấn mạnh rằng hệ thống của phần các tội
phạm của BLHS Liechtenstein, cũng như hầu hết các BLHS hiện đại, được xây dựng
trên cơ sở các quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ. Bài viết cũng phân tích về các vấn đề
liên quan đến TNHS theo BLHS của Công quốc Liechtenstein đối với các tội phạm
xâm phạm con người: tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khỏe, xâm phạm cuộc
sống tương lai, xâm phạm tự do, danh dự và các quyền riêng tư của con người. Các tác
giả chỉ ra rằng trong BLHS của Liechtenstein phân biệt giữa "giết người nghiêm trọng"
và "giết người" và các trường hợp khác. Vì tội giết người có mức hình phạt cao nhất
26
lên đến tù chung thân, do đó nhà lập pháp Liechtenstein không cho rằng cần phải có
thêm các cấu thành tăng nặng của tội giết người [262, p.113-124];
- Bài viết tạp chí “Анализ преступлений против жизни по уголовному
законодательству России и Германии” (tạm dịch: Phân tích tội phạm xâm phạm
tính mạng theo luật hình sự Nga và Đức) của tác giả Волкова, О. В. được đăng tải
vào năm 2017. Trong bài viết tác giả phân tích so sánh các tội danh xâm phạm tính
mạng theo luật hình sự Nga và Đức. Tác giả đi đến kết luận rằng hệ thống các tội
xâm phạm tính mạng tại Đức nói chung vẫn giữ nguyên các loại điều luật cổ điển của
luật hình sự, nhưng đồng thời cũng có tính đặc thù nhất định. Một trong những điểm
thú vị, theo tác giả là kỹ thuật pháp lý của các nhà lập pháp hình sự Đức khi xây dựng
cấu thành tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khỏe, cũng như việc nhà lập pháp Đức
tách ra thành các cấu thành độc lập các tội danh như tước đoạt mạng sống theo yêu cầu
của nạn nhân (euthanasia), tra tấn người được giám hộ v.v…[265];
- Bài viết “The Knowledge and Caution (Awareness) in Mens Rea Element for
Murder in the Law of Iran and USA” (tạm dịch: Nhận thức và ý thức trong yếu tố
tinh thần của tội giết người theo luật của Iran và Hoa Kỳ) của các tác giả Kalantari,
K., Rezaii, R., & Moslehi, J., được xuất bản năm 2017. Trong bài viết, các tác giả
đề cập rằng trong luật của Iran, cơ quan lập pháp đã ghi nhận “ý thức và nhận thức”
là tiêu chí của yếu tố tinh thần (chủ quan) trong tội giết người. Nếu thiếu một trong
các yếu tố này thì hành vi phạm tội giết người không được xác lập và do đó, cấu
thành tội khác như giết người do sơ suất và (hoặc) ngộ sát. Các tác giả cho rằng,
theo pháp luật của Hoa Kỳ, nhận thức của người thực hiện tội phạm về khả năng
xảy ra tội phạm giết người và đối tượng của tội phạm là cần thiết phải có trong yếu
tố chủ quan (mens rea), những sơ suất (cẩu thả) nghiêm trọng của người phạm tội
trong hoàn cảnh, tình huống cụ thể và hậu quả có thể xảy ra của hành vi dẫn đến
người phạm tội bị kết tội giết người. Từ đó các tác giả kết luận, yếu tố chủ quan
(mens rea) cần thiết để xác định hành vi giết người ở Hoa Kỳ được quy định rộng
hơn Iran bởi vì ngoài chủ ý hoặc nhận thức được hành vi vi phạm và khả năng xảy
ra giết người, thì trong yếu tố chủ quan còn đề cập tới việc sơ suất (cẩu thả) nghiêm
trọng [255];
- Bài viết tạp chí “Murder: A Critical Analysis of the Common Law Definition”
(tạm dịch: Giết người: Phân tích định nghĩa trong thông luật) của các tác giả
27
Hossain, M. B., & Rahi, S. T. được xuất bản năm 2018. Theo các tác giả, Luật Hình
sự của Anh đưa ra một loạt các tội danh bảo vệ tính mạng con người bằng cách cấm
giết người trái pháp luật. Thuật ngữ chung "giết người" bao gồm các tội danh như
giết người, ngộ sát và gây chết người do lái xe nguy hiểm. Điểm chung của tất cả
các tội này là hành vi tước đoạt tính mạng trái pháp luật. Sự khác biệt của các tội
này, theo các tác giả, là trạng thái tinh thần của người phạm tội. Từ đó các tác giả
phân tích định nghĩa trong thông luật về tội giết người trong các vụ án mạng hình sự
khác nhau để tìm hiểu xem liệu có thể thiết lập một định nghĩa cụ thể nào hay
không. Các tác giả đi đến kết luận, mặc dù luật hình sự có nhiều ngoại lệ, nhưng
không có định nghĩa luật chung cố định nào về tội giết người đồng thời đặt ra câu
hỏi liệu cơ quan lập pháp có nên xem xét lại các loại hình giết người hay không và
cơ quan tư pháp xem xét lại một số định nghĩa liên quan tới yếu tố chủ quan (mens
rea) hay không [254, p.460];
- Bài viết tạp chí “Характеристика преступлений против жизни и здоровья
человека по законодательству зарубежных стран” (tạm dịch: Đặc điểm tội
phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người theo luật các nước trên thế giới)
của tác giả Васильева, К. Г. xuất bản năm 2018. Trong bài viết này tác giả phân
tích các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người theo luật pháp của một số
nước trên thế giới, cụ thể như Anh, Đức, Pháp, Mỹ. Tác giả đi sâu vào phân tích các
đặc điểm của tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người theo quy định của
từng nước, so sánh sự khác biệt trong quy định về tội giết người, đồng thời đưa ra
các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự liên bang Nga đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ [266, p.165-168].
1.2.2. Những công trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
đối với các tội xâm phạm tính mạng của con người
- Sách chuyên khảo “Преступления против жизни и здоровья. Закон и
правоприменительная практика” (tạm dịch: Tội phạm xâm phạm tính mạng và
sức khoẻ. Luật và thực tiễn áp dụng) của tác giả Борзенков, Г. Н. được xuất bản
năm 2009. Cuốn sách đề cập về các vấn đề định tội danh các tội xâm phạm tính
mạng và sức khỏe theo BLHS của Liên bang Nga. Tác phẩm được viết dựa trên cơ
sở chọn lọc và phân tích kỹ lưỡng các tư liệu từ thực tiễn tư pháp. Tác giả chú trọng
phân tích về việc định tội danh đối với các tội phạm phổ biến và những vấn đề gây
28
khó khăn trong thực tiễn xét xử. Các vấn đề được đề cập bao gồm: "Các tội xâm phạm
tính mạng, sức khoẻ trong hệ thống các tội phạm xâm hại nhân thân", "Đặc điểm chung
và phân loại tội phạm xâm hại tính mạng", "Khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của
tội giết người. Cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ của tội giết
người", "Các tội phạm khác xâm phạm tính mạng", "Các tội phạm xâm phạm sức
khỏe", v.v… Dựa trên thực tiễn xét xử, tác giả đánh giá sự phù hợp của các quyết định
(định tội danh) của các cơ quan có thẩm quyền với quy định của pháp luật từ đó chỉ ra
những hạn chế và đề xuất các giải pháp trong thực tiễn áp dụng [271];
- Bài viết tạp chí “Проблемы квалификации преступлений по признаку
субъективной стороны (на примере отдельных преступлений против жизни)”
(tạm dịch: Vấn đề định tội danh tội phạm theo dấu hiệu chủ quan (trường hợp một
số tội xâm phạm tính mạng) của tác giả Лебедев, М. В. được xuất bản năm 2016.
Bài viết xem xét những vấn đề thực tế nảy sinh trong việc định tội danh đối với tội
phạm xâm phạm tính mạng, cụ thể là trên cơ sở mặt chủ quan của tội phạm. Thông
qua các ví dụ từ thực tiễn tư pháp được phân tích, tác giả hướng tới việc nghiên cứu
những sai sót trong quá trình định tội danh đối với loại tội phạm này. Tác giả đi đến
kết luận rằng vấn đề định tội danh trên cơ sở mặt chủ quan là cấp thiết vì có rất nhiều
các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này cũng như nhiều vụ án hình sự có liên
quan. Khi định tội danh cần phải xác định và phân biệt được tất cả các dấu hiệu mặt
chủ quan của tội phạm xâm phạm tính mạng. Từ đó tác giả đưa ra các quy tắc cần phải
tuân theo khi định tội danh các tội phạm này dựa trên mặt chủ quan [267];
- Bài viết tạp chí “Legal Problems of Using ‘Extremist Motives’ in Crimes
Against Life and Health” (tạm dịch: Các vấn đề pháp lý của việc áp dụng “động cơ
cực đoan” trong các tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ) của các tác giả
Gostkova, D., Kostyuk, M., Kunts, E. đăng trên tạp chí Journal of Advanced
Research in Law and Economics năm 2018. Bài viết phân tích nhiều khía cạnh khác
nhau của việc áp dụng “từ động cơ thù hận hoặc thù hận chính trị, ý thức hệ, chủng
tộc, quốc gia hoặc tôn giáo hoặc từ động cơ thù hận hoặc thù địch đối với một nhóm
xã hội” trong lý luận luật hình sự Nga và thực tiễn thi hành pháp luật. Mục tiêu
nghiên cứu của các tác giả là xây dựng các đề xuất hoàn thiện yếu tố định tội và các
khuyến nghị áp dụng yếu tố này trong các tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe theo
BLHS Liên bang Nga. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiếm khi nội dung về “động cơ
29
cực đoan” của tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe được thảo luận. Các khái niệm
về hận thù và thù địch không phải là hai phạm trù giống hệt nhau, và chúng không
nên được sử dụng đồng thời trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến một và
cùng một hành vi. Các tác giả lý giải vì người phạm tội có thể hành động với mục
đích kích động thù địch nhưng không phải trải qua cảm giác thù hận. Từ đó, các tác
giả đưa ra các kiến nghị sửa đổi quy định PLHS có liên quan [253, p.949-955];
- Bài viết tạp chí “Theory Of Application Of Criminal Law Considerations On
The Legal Analysis Of The Content Of Crime Against The Person In The Crime
Code Of The Republic Of Uzbekistan” (tạm dịch: Lý luận về áp dụng PLHS trong
phân tích pháp lý đối với nội dung của tội phạm xâm phạm con người trong BLHS
Cộng hoà Uzbekistan) của tác giả Aknazarov, A. S. O. được đăng tải trên tạp chí
The American Journal of Political Science Law and Criminology năm 2021. Trong
bài viết tác giả phân tích các yếu tố cấu thành của các tội xâm phạm tính mạng theo
BLHS Uzbekistan cũng như các đặc điểm về định tội danh đối với các tội này.
Trong bài viết tác giả nhấn mạnh khi định tội danh đối với các tội xâm phạm tính
mạng điều quan trọng là phải xác định nguyên nhân, hậu quả của tội phạm. Việc
xác định mối liên hệ nhân quả có ý nghĩa trong quá trình định tội danh đối với các
tội phạm này [248, p.53-58].
1.2.3. Những công trình nghiên cứu yêu cầu và giải pháp nâng cao chất
lượng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm
tính mạng của con người
- Sách chuyên khảo “Преступления против жизни” (tạm dịch: Tội phạm xâm
phạm tính mạng) của tác giả Бородин, С. được nhà xuất bản Litres xuất bản năm
2017. Trong công trình này, tác giả nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến tội giết
người, vô ý làm chết người và xúi giục người khác tự sát. Tác giả phân tích việc
định tội danh các tội này cũng như các điều kiện để áp dụng đúng PLHS khi đối
chiếu giữa các dấu hiệu cấu thành tội phạm xâm phạm tính mạng theo luật định với
các dấu hiệu thực tế. Khi phân tích các dấu hiệu của mỗi hành vi xâm hại đến tính
mạng, tác giả đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện PLHS và thực tiễn áp dụng.
Trong công trình, một phần nội dung cũng được tác giả đặc biệt quan tâm là phân
biệt các trường hợp giết người, giết người với xúi giục tự sát cũng như phân biệt các
tội xâm phạm tính mạng với các tội phạm gây ra hậu quả chết người do vô ý. Từ
30
việc nghiên cứu các nội dung trên, tác giả đưa ra những kiến nghị sửa đổi luật hình
sự cũng như các khuyến nghị nhằm hoàn thiện thực tiễn định tội danh đối với các
tội xâm phạm tính mạng [268];
- Sách chuyên khảo “Преступления против жизни: вопросы теории,
законодательного регулирования и судебной практики” (tạm dịch: Tội phạm
xâm phạm tính mạng: vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn xét xử) của tác
giả Маляева được xuất bản năm 2003. Công trình đề cập đến các vấn đề về lý luận,
pháp luật thực định và thực tiễn xét xử đối với các tội xâm phạm tính mạng trong
luật hình sự liên bang Nga. Bốn trong số tám chương của cuốn sách (chương 3 - 5,
7) được dành để đề cập trực tiếp đến tội giết người - là tội phổ biến nhất trong số
các tội xâm phạm tính mạng. Trong Chương 3 tác giả xem xét vấn đề tội phạm giết
người không chỉ qua lăng kính của luật hình sự, lý thuyết và thực tiễn áp dụng nó,
mà còn trong bối cảnh những thành tựu mới nhất của khoa học tội phạm học, xã hội
học, triết học, y học và ... tôn giáo. Chương 5 tác giả phân tích những hành vi giết
người được thực hiện với tình tiết giảm nhẹ bao gồm mẹ giết con mới sinh, giết
người được thực hiện trong tình trạng say, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
cần thiết và vượt quá các biện pháp cần thiết để giam giữ một người phạm tội.
Chương 6 tác giả phân tích làm rõ nhiều vấn đề về tội vô ý làm chết người và xúi
giục người khác tự sát. Thông qua việc phân tích các vấn đề trên, tác giả đưa ra
nhiều đề xuất có tính khả thi để sửa đổi các quy định của luật hình sự cũng như các
đề xuất nhằm cải thiện thực tiễn áp dụng PLHS trong lĩnh vực phòng, chống tội
phạm xâm phạm tính mạng [269];
- Luận án tiến sĩ khoa học “Преступления против жизни: теоретико-
прикладные проблемы и доктринальная модель уголовного закона” (tạm dịch:
Tội phạm xâm phạm tính mạng: những vấn đề lý luận - ứng dụng và mô hình học
thuyết luật hình sự” của tác giả Бабичев А. Г., được bảo vệ năm 2019. Luận án
gồm 4 phần với 7 chương đề cập từ các vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm tính
mạng, định tội danh đối với tội giết người, phân tích các cấu thành tăng nặng của tội
giết người cũng như phân tích hình phạt đối với tội giết người theo BLHS Liên
bang Nga. Một trong những kết quả đáng chú ý trong công trình này là tác giả đã
xây dựng nên mô hình lý luận cho một chương của đạo luật hình sự, quy định về
TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng và những hành vi khác xâm phạm tính
mạng con người [264];
31
- Báo cáo của Cao uỷ pháp luật Vương quốc Anh “Partial Defences to Murder”
(tạm dịch: Bảo vệ khỏi tội phạm giết người). Báo cáo đánh giá rằng Luật về tội giết
người ở Anh và xứ Wales có một số quy tắc vẫn không thay đổi kể từ thế kỷ XVII
cho dù từ lâu người ta đã thừa nhận rằng rất cần được cải cách. Trong báo cáo,
nhóm tác giả mô tả luật hiện hành là “một mớ hỗn độn” và đề nghị xem xét lại toàn
bộ luật về tội giết người. Báo cáo đã đưa ra các khuyến nghị rằng thay vì cấu trúc
hai cấp hiện tại đối với các tội giết người (cụ thể là giết người và ngộ sát), thì nên có
một cấu trúc ba cấp: giết người cấp độ một (án chung thân bắt buộc); giết người cấp
độ hai (án chung thân tùy nghi), và ngộ sát (án chung thân tùy nghi). Báo cáo cũng
khuyến nghị các cải cách liên quan đến đồng phạm giết người, giảm nhẹ trách
nhiệm, các hành vi khiêu khích và giết trẻ em và khuyến nghị rằng Chính phủ nên
tiến hành tham vấn cộng đồng về việc liệu, và nếu có ở mức độ nào, luật pháp nên
công nhận tội giết người "nhân đạo" [257];
- Bài viết “Некоторые вопросы совершенствования норм российского
уголовного законодательства о преступлениях против жизни и здоровья
(опыт сравнительного анализа)” (tạm dịch: Một số vấn đề về hoàn thiện quy
định pháp luật hình sự Nga về các tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ (kinh
nghiệm dựa trên phân tích so sánh) của các tác giả Михайлова И. А., Максименко
А. В., & Числов А. И. được xuất bản năm 2019. Bài viết phân tích, so sánh một số
điều của BLHS Liên bang Nga và BLHS Cộng hòa Belarus quy định về trách nhiệm
đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, từ đó xác định được một số vướng
mắc trong thiết kế của các quy phạm PLHS ở Nga và đánh giá khả năng sử dụng
kinh nghiệm của nước ngoài trong việc giải quyết những vấn đề này. Tham khảo
các kinh nghiệm tích cực về luật hình sự của Cộng hòa Belarus, các tác giả đề xuất
nội dung mới cho Điều 106 của BLHS Liên bang Nga, loại trừ đi những giải thích
không cụ thể về các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Theo các tác giả, việc thuyền
trưởng tàu không trợ giúp những người gặp nạn là một hành vi của tội bỏ rơi người
khác trong tình trạng nguy hiểm. Do đó, các tác giả cho rằng là phù hợp khi bỏ Điều
270 của BLHS Liên bang Nga ra khỏi chương "Các tội xâm phạm an toàn giao
thông và hoạt động giao thông vận tải", và bổ sung Điều. 125.1 với tiêu đề và nội
dung tương tự Điều 270 BLHS vào trong Chương "Các tội xâm phạm tính mạng và
sức khỏe" [270, p.50-56];
32
- Bài viết “Issues of qualification of crimes against life and health” (tạm dịch:
Các vấn đề định tội danh đối với tội xâm phạm tính mạng và sức khoẻ) của tác giả
Artyushina O. đăng trên tạp chí Law Enforcement Review năm 2017. Dựa trên việc
nghiên cứu các công trình khoa học và các vụ án thực tế, tác giả đưa ra những vấn
đề cấp thiết trong việc đánh giá về mặt pháp lý hình sự đối với các hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khoẻ. Tác giả đã chứng minh những hạn chế trong các quy
định pháp luật trong lĩnh vực này, cũng như chứng minh ý nghĩa quan trọng của kết
luận giám định trong việc định tội danh đối với các tội phạm này trong các trường
hợp phức tạp mà có sự giao thoa quy định giữa các điều luật. Từ đó, tác giả đưa ra
các khuyến nghị thiết thực để cải thiện pháp luật hình sự của Nga và thực tiễn áp
dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề nêu trên [249, p.135-142].
Có thể thấy, so với các công trình nghiên cứu trong nước, các công trình
nghiên cứu ở nước ngoài có những điểm giống và khác biệt nhất định:
Thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý luận về các tội XPTMCCN ở các quốc
gia theo hệ thống thông luật và các quốc gia theo hệ thống dân luật đều tập trung
vào làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm; chỉ khác nhau ở quan điểm về các yếu tố
cấu thành tội phạm so với các công trình nghiên cứu ở Việt Nam.
Thứ hai, một số công trình nghiên cứu về các tội XPTMCCN ngoài việc tiếp cận
dưới góc độ pháp lý hình sự còn được tiếp cận từ góc độ những thành tựu mới nhất
của các ngành khoa học khác như tội phạm học, xã hội học, triết học, y học, tôn
giáo… Điều này phần nào cho thấy cách tiếp cận đa ngành, đa lĩnh vực trong giải
quyết các vấn đề pháp lý hình sự đối với các tội XPTMCCN trong các công trình
nghiên cứu ở nước ngoài.
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần nghiên
cứu trong luận án
1.3.1. Những vấn đề đã thống nhất
Qua nghiên cứu các công trình khoa học về các tội XPTMCCN, có thể thấy
nhiều vấn đề đã có sự thống nhất:
- Về khái niệm các tội XPTMCCN, nhìn chung các công trình đều định nghĩa
khái niệm này trên cơ sở xác định khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ
thể của tội phạm: khách thể của tội phạm là quyền sống của con người; mặt khách
quan thể hiện ở hành vi có thể là hành động hoặc không hành động; mặt chủ quan
33
thể hiện ở lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; chủ thể là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS. Tuy nhiên, các yếu tố này thể hiện trong định nghĩa vẫn còn khái quát, chưa
thực sự rõ ràng, chưa phân biệt được các tội XPTMCCN với những tội phạm khác
cũng xâm phạm đến quyền sống của con người (các tội xâm phạm an ninh quốc gia,
các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm an toàn công cộng…), chưa phân biệt
được các tội XPTMCCN với hành vi XPTMCCN nhưng chưa đến mức cấu thành
tội phạm…;
- Về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN, nhìn chung có nhiều nội dung cơ
bản thuộc dấu hiệu pháp lý của nhóm tội phạm này được nhận thức thống nhất trong
các công trình khoa học: khách thể của tội phạm; chủ thể của tội phạm (năng lực
TNHS, tuổi chịu TNHS, dấu hiệu chủ thể đặc biệt); hình thức lỗi, động cơ, mục
đích phạm tội; hành vi khách quan, các tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm
nhẹ; việc phân biệt dấu hiệu pháp lý giữa các tội XPTMCCN hoặc giữa các tội
XPTMCCN với các tội phạm khác…;
- Về thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN, các công trình nghiên
cứu đều chỉ ra nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng PLHS
đối với nhóm tội phạm này như định tội danh sai hoặc không thống nhất, quyết định
hình phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội…
Về nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên, các công trình đều chỉ ra nhiều nguyên
nhân trong đó có nguyên nhân từ sự bất cập, khiếm khuyết trong quy định của
BLHS và các văn bản liên quan về nhóm tội phạm này. Điều đó cho phép nhận định
rằng quy định của PLHS hiện hành về các tội XPTMCCN thực sự còn những bất
cập, khiếm khuyết. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu cũng xác định một
trong những nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng pháp luật đến từ năng lực,
trình độ, phẩm chất của đội ngũ tiến hành công tác tố tụng và sự phối hợp giữa các
cơ quan tiến hành tố tụng trong xử lý vụ án hình sự.
- Về nhu cầu hoàn thiện quy định của PLHS hiện hành, xuất phát từ thực tiễn nêu
trên, các công trình đều xác định cần thiết phải có các giải pháp hoàn thiện quy định của
BLHS hiện hành và các văn bản pháp lý liên quan để nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS
đối với các tội XPTMCCN. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu cũng kiến nghị
cần nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất của những người THTT và tăng cường mối
quan hệ phối hợp giữa các cơ quan THTT để nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS.
34
1.3.2. Những vấn đề còn tranh luận
Bên cạnh những vấn đề đã có sự thống nhất trong quan điểm thì giữa các công
trình nghiên cứu vẫn còn có quan điểm khác nhau về một số nội dung:
- Về xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội XPTMCCN, hiện nay có 02
quan điểm khác nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng tội lây truyền HIV cho người
khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác cũng là những tội phạm XPTMCCN vì
tính chất nguy hiểm của nó đối với tính mạng của con người; quan điểm thứ hai cho
rằng 02 tội phạm trên không phải là những tội XPTMCCN;
- Về khía cạnh pháp lý liên quan đến các tội phạm về an ninh trật tự, bên cạnh
nhiều vấn đề đã được thống nhất trong quan điểm, vẫn còn tồn tại không ít nội dung
gây tranh cãi. Cụ thể là một số tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người;
dấu hiệu hậu quả đối với tội giết con mới đẻ; tội giết người xảy ra trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh; tội giết người do hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi tiến hành bắt giữ người phạm tội; các
tội xúi giục hoặc hỗ trợ người khác tự sát; và cuối cùng là dấu hiệu lỗi trong mặt
chủ quan đối với tội làm chết người khi thực hiện công vụ…
1.3.3. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án
Căn cứ vào các nội dung đã được thống nhất cũng như những khía cạnh
chưa đồng thuận, NCS xác định rõ ràng những vấn đề cần tiếp tục khám phá
trong luận án nghiên cứu của mình..
- Về định nghĩa các tội XPTMCCN: cần nghiên cứu, xây dựng một định nghĩa
thể hiện rõ dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội XPTMCCN, phân biệt được các
tội XPTMCCN với các tội phạm khác cũng xâm phạm đến quyền sống của con
người, phân biệt được tội phạm XPTMCCN với hành vi XPTMCCN nhưng không
phải là tội phạm;
- Về xác định phạm vi các tội XPTMCCN: cần xác định một cách hợp lý và luận
giải rõ ràng, có cơ sở khoa học về phạm vi các điều luật trong Chương XIV thuộc
các tội XPTMCCN;
- Về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN: tập trung phân tích, luận giải một
cách khoa học, có căn cứ về những nội dung còn tranh luận, góp phần thống nhất
nhận thức về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN. Phân biệt các tội xâm phạm
35
trật tự xã hội với những tội xâm hại sức khỏe con người; phân tích sự khác biệt giữa
các tội xâm phạm trật tự xã hội và một số tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia;
- Về lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các tội xâm phạm trật tự
xã hội: cần tiếp tục nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 cho đến nay, nhằm hiểu rõ hơn về quy luật
phát triển và biến động trong hệ thống pháp lý cũng như chính sách hình sự của Nhà
nước đối với nhóm tội phạm này. Điều này sẽ làm cơ sở cho những đề xuất hoàn
thiện pháp luật trong tương lai;
- Đối với thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự xã
hội tại Thành phố Hồ Chí Minh: cần nghiên cứu sâu sắc để làm rõ thực tế định danh
tội danh và quyết định hình phạt đối với những vụ án này. Đồng thời, tìm kiếm
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khó khăn và vướng mắc trong việc thực thi
pháp luật. Có sự so sánh, đối chiếu với các địa phương khác để làm rõ hạn chế trong
quy định của pháp luật là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế trong
áp dụng pháp luật. Từ đó làm cơ sở cho việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật;
- Về vấn đề thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN: phân tích
làm rõ yêu cầu, cơ sở và ý nghĩa của việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi
XPTMCCN. Đây là nội dung quan trọng nhưng có ít công trình nghiên cứu đề cập đến;
- Về việc hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam liên quan đến các
tội phạm về ma túy: phân tích xu hướng cải cách quy định của Bộ luật này, từ đó đề
xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của Bộ luật Hình sự trong lĩnh
vực tội phạm về ma túy.;
- Về giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS đối với các tội
XPTMCCN: trên cơ sở phân tích nguyên nhân dẫn đến sai lầm, hạn chế trong áp
dụng pháp luật, kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế, sai
lầm trong áp dụng pháp luật.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu
1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu tổng quát của luận án: Nhận thức lý luận, thực trạng áp
dụng PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM như thế nào và làm thế nào để nâng
cao hiệu quả áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN trong thời gian sắp tới?
36
Để trả lời câu hỏi nghiên cứu chính, luận án tập trung vào việc giải quyết các
câu hỏi cụ thể sau đây:
Thứ nhất, câu hỏi đặt ra về phương diện lý luận: Các tội XPTMCCN là gì, bao
gồm những hành vi cụ thể nào? Dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN như thế
nào? Làm sao để phân biệt các tội XPTMCCN với một số tội phạm khác cũng gây
thiệt hại cho tính mạng con người? Việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi
XPTMCCN xuất phát từ những nhu cầu nào và dựa trên cơ sở nào? Áp dụng PLHS
về các tội XPTMCCN là gì, có đặc điểm gì, nội dung ra sao, chủ thể áp dụng là ai,
áp dụng ở giai đoạn nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng, tác động đến hiệu quả áp
dụng PLHS về các tội XPTMCCN?
Thứ hai, câu hỏi đặt ra đối với thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật: Quy định của PLHS về các tội XPTMCCN trước khi ban hành
BLHS năm 2015 như thế nào? Quy định của BLHS năm 2015 về các tội
XPTMCCN có điểm gì tiến bộ, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống
tội phạm chưa? Tình hình xét xử các tội XPTMCCN tại TP.HCM giai đoạn 2010-
2023 như thế nào? Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội
XPTMCCN tại TP.HCM đã đạt được những thành công gì, có những khó khăn,
vướng mắc, hạn chế gì? Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc, hạn chế
trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN?
Thứ ba, câu hỏi đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
áp dụng: Việc hoàn thiện quy định của PLHS về các tội XPTMCCN xuất phát từ
những nhu cầu nào và phương hướng hoàn thiện ra sao? Cần sửa đổi, bổ sung
những nội dung cụ thể gì trong quy định của PLHS về các tội XPTMCCN? Cần có
những giải pháp gì để bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS về các tội
XPTMCCN trong thời gian sắp tới.
1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu, NCS đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau:
- Nhận thức lý luận về các tội XPTMCCN hiện nay bên cạnh những nội dung đã
có sự thống nhất thì vẫn còn nhiều nội dung chưa có sự thống nhất, còn nhiều quan
điểm trái chiều về xác định phạm vi và dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN…
Vì vậy, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện lý luận về các tội
XPTMCCN;
37
- Quy định của PLHS hiện hành về các tội XPTMCCN bên cạnh những ưu điểm,
tiến bộ thì vẫn còn những hạn chế, thiếu sót có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc áp
dụng PLHS và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;
- Thực tiễn về việc xác định tội danh và quyết định hình phạt liên quan đến các
tội phạm trong lĩnh vực XPTMCCN tại TP.HCM trong thời gian gần đây, mặc dù
đã đạt được một số thành tựu tích cực, nhưng vẫn tồn tại không ít những hạn chế, vi
phạm và sai sót;
- Nguồn gốc của các hạn chế, vi phạm và sai sót trong quá trình xác định tội
danh cùng quyết định hình phạt đối với các tội phạm liên quan đến XPTMCCN tại
TP.HCM thời gian qua có nguồn gốc từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, có
nguyên nhân từ những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong quy định của PLHS; từ sự
yếu kém về trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ THTT; từ việc thiếu sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan THTT;
- Để nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN trong thời gian tới
thì cần hoàn thiện quy định của PLHS và có giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy
định của PLHS.
38
Tiểu kết chương 1
Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy:
Các hành vi XPTMCCN là những hành vi nguy hiểm cao cho xã hội, bị quy
định là tội phạm trong PLHS của các quốc gia trên thế giới. Đây cũng là nhóm hành
vi thường xuyên xảy ra trên thực tế, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội.
Chính vì vậy, các tội XPTMCCN từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình
khoa học trong nước và ngoài nước, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý
luận, thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS.
Giữa các công trình nghiên cứu về các tội XPTMCCN có sự thống nhất quan
điểm về nhiều nội dung như: định nghĩa, dấu hiệu pháp lý của tội phạm; những
thuận lợi, khó khăn, hạn chế, vướng mắc trong áp dụng PLHS; yêu cầu hoàn thiện
quy định của PLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS… Bên cạnh đó, vẫn còn
nhiều vấn đề chưa thống nhất, còn có nhiều quan điểm trái chiều như: việc xác định
phạm vi các điều luật thuộc các tội XPTMCCN; một số tình tiết định khung tăng
nặng trong tội giết người; dấu hiệu hậu quả của tội giết con mới đẻ, tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, tội giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, tội
xúi giục hoặc giúp người khác tự sát, tội đe dọa giết người; dấu hiệu lỗi trong mặt
chủ quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ…
Với đề tài luận án về các tội XPTMCCN tại một địa bàn cụ thể (TP.HCM), nội
dung luận án không chỉ tiếp tục luận giải, góp phần làm sáng tỏ các vấn đề còn
tranh luận mà còn làm rõ thực trạng áp dụng quy định của PLHS tại địa bàn nghiên
cứu. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh phân tích, đánh giá, chỉ rõ những mặt đạt được
và những sai lầm, hạn chế trong áp dụng pháp luật, tìm ra nguyên nhân và đề xuất
các giải pháp hoàn thiện luật cũng như bảo đảm áp dụng đúng quy định về các tội
XPTMCCN trong những chương tiếp theo của luận án.
39
Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG
CỦA CON NGƯỜI
2.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý, hình phạt của các tội xâm phạm tính
mạng của con người
2.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm tính mạng của con người
Tính mạng là mạng sống, sự sống của con người [245, tr.1593]. Sự sống của
con người chính là yếu tố thiết yếu nhất và không thể thay thế để con người có thể
tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội. Vì vậy, quyền sống là quyền tự nhiên của con
người, là cơ sở cho tất cả các quyền con người, “được coi là một thuộc tính bẩm
sinh, vốn có của con người, hoàn toàn không phải do ai quy định hay ban phát”
[216, tr.12]. Quyền sống không phải là đặc quyền dành riêng cho công dân của quốc
gia mà còn là quyền của tất cả các cá nhân khác.
Với tầm quan trọng như vậy, quyền sống của con người từ rất xa xưa đã
được pháp luật của các quốc gia trên thế giới thừa nhận và bảo vệ. Các hành vi
XPTMCCN một cách trái pháp luật sẽ bị xử lý, trừng trị. Chẳng hạn, ngay trong Bộ
luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại (ra đời khoảng thế kỷ thứ XVIII
trước Công nguyên, hiện được xem là bộ luật thành văn cổ xưa nhất của nhân loại)
đã có quy định về các tội XPTMCCN với hình phạt rất nghiêm khắc theo nguyên
tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” cho dù người phạm tội với lỗi cố ý hay vô ý. Ví
dụ, Điều 299 quy định:
“Người thợ xây nào nhận xây một ngôi nhà cho người khác
Và đã xây được một ngôi nhà không chắc chắn
Ngôi nhà sụp làm chết chủ nhà
Người thợ xây đó phải chết” [145, tr.254].
Ở góc độ luật quốc tế, quyền sống của con người lần đầu tiên được ghi nhận
như một tiêu chuẩn pháp lý quốc tế trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền
(UDHR) năm 1948 [39, Điều 3]. Đến năm 1966, quyền sống được cụ thể hóa trong
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) [40, Điều 6]. Một số công
ước quốc tế khác về quyền con người cũng đề cập đến quyền sống như Công ước về
quyền trẻ em năm 1989 [41, Điều 6], Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt
40
chủng năm 1948 [42, Điều 2], Công ước về trấn áp và trừng trị tội ác apacthai năm
1973 [43, Điều 2] …
Nền tảng về quyền sống của người dân ở Việt Nam đã được xây dựng nền
tảng vững chãi ngay tại Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tài liệu lịch sử này đã bảo vệ quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của tất cả
người dân thông qua việc viện dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ. Tiếp nối
truyền thống ấy, các phiên bản Hiến pháp năm 1946,1959, 1980 và 1992 đã bảo
đảm quyền sống của con người bằng cách bảo vệ quyền bất khả xâm phạm đối với
tài sản, thân thể, danh dự, nhân phẩm và quyền. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền
sống lần đầu tiên được hiến định một cách cụ thể: “Mọi người có quyền sống. Tính
mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”
[120, Điều 19].
Để thực thi Hiến pháp, bảo vệ quyền sống của con người thì một trong
những nội dung không thể thiếu là quy định về các tội XPTMCCN trong luật hình
sự. Các tội XPTMCCN bên cạnh tính chất nguy hiểm cao do xâm phạm đến khách
thể có tầm quan trọng đặc biệt thì cũng là nhóm tội phạm thường xuyên xảy ra trên
thực tế, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của tình hình tội phạm, để lại nhiều hệ lụy
đau thương cho xã hội. Chính vì vậy, các tội XPTMCCN là nội dung được nhiều
công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm các tội
XPTMCCN cũng đã được định nghĩa tại nhiều công trình nghiên cứu. Có thể kể đến
một số định nghĩa như sau:
Ngoài việc đưa ra khái niệm, giáo trình cũng chỉ rõ trong Bộ luật Hình sự
năm 2015 tồn tại 13 loại tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng. Cụ thể
bao gồm: tội giết người theo quy định tại Điều 123; tội giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh
theo Điều 124; tội giết người trong trạng thái tâm lý bị kích thích mạnh mẽ theo
41
Điều 125; tội giết người do vượt quá giới hạn chính đáng trong tự vệ hoặc khi bắt
giữ đối tượng phạm pháp theo Điều 126; tội làm chết người trong quá trình thực
hiện công vụ theo Điều 127; tội vô ý gây ra cái chết cho người khác theo Điều 128;
tội vô ý dẫn đến cái chết do vi phạm quy định nghề nghiệp hoặc quy định quản lý
nhà nước theo Điều 129; tội bức tử theo Điều 130; tội xúi giục hoặc hỗ trợ cá nhân
khác tự sát theo Điều 131; tội không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm đến tính
mạng theo Điều 132; tội đe dọa giết người theo Điều 133; cùng với hai loại hình vi
phạm liên quan đến HIV là lây truyền HIV cho người khác (Điều 148) và cố tình
truyền HIV cho cá nhân khác (Điều 149) [207, tr.53-54]. Đáng chú ý, với hai loại
hình vi phạm tại Điều 148 và điều khoản liên quan đến điều khoản thứ tư ở điều thứ
mười chín, giáo trình cũng đã nêu rõ nguyên nhân phân loại chúng vào nhóm các
dạng vi phạm về tính mạng: “Hành vi liên quan đến hai loại hình này có khả năng
gây nguy hiểm lớn đối với tính mạng của những nguời nhiễm HIV”. [207, tr.54].
- Theo TS. Nguyễn Mai Bộ, các hành vi phạm tội xâm hại đến tính mạng và
sức khỏe của con người được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) với 14 tội
danh, từ Điều 123 đến Điều 133, cùng với các Điều 148 và 149. Những hành vi này
do những cá nhân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, nhằm mục
đích cố ý hoặc vô tình xâm phạm quyền được bảo vệ và tôn trọng tính mạng của
người khác. [9]. Như vậy, so với định nghĩa của Trường Đại học Luật Hà Nội ở trên
thì định nghĩa này không nhắc đến hình thức thể hiện của hành vi khách quan (hành
động hay không hành động), nhưng có chỉ ra chủ thể của tội phạm phải là “người có
năng lực TNHS, đạt độ tuổi do pháp luật quy định”. Đồng thời, TS. Nguyễn Mai Bộ
cũng xác định rõ phạm vi điều luật được xác định là các tội XPTMCCN ngay trong
định nghĩa và việc xác định này cũng tương đồng với giáo trình của Trường Đại học
Luật Hà Nội: “từ Điều 123 đến Điều 133, 148 và 149 BLHS”.
- ThS. Nguyễn Thái Hà định nghĩa: “Các tội XPTMCCN là những hành vi
nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện, có lỗi, gây tổn hại
hoặc đe dọa đến quyền sống của con người” [53, tr.14]. Như vậy, tác giả Nguyễn
Thái Hà định nghĩa các tội XPTMCCN trên cơ sở xác định tính chất nguy hiểm của
hành vi, chủ thể, dấu hiệu lỗi và khách thể của tội phạm. Tác giả cũng xác định
phạm vi các tội XPTMCCN bao gồm từ Điều 93 đến Điều 103 của BLHS năm 1999
42
(tương ứng với từ Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015), không bao gồm tội
lây truyền HIV cho người khác và Tội cố ý truyền HIV cho người khác [53, tr.14].
- ThS. Nguyễn Hùng Thanh Vũ đã trình bày một định nghĩa như sau: “Các
hành vi xâm hại đến tính mạng con người được xem là những vi phạm nghiêm trọng
đối với xã hội, được quy định trong Chương XII của Bộ luật Hình sự. Những hành
vi này do cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có thể là cố ý
hoặc vô tình, gây ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm và quyền được bảo vệ
tính mạng của mỗi cá nhân” [244, tr.7]. Từ đó, tác giả Nguyễn Hùng Thanh Vũ đã
thực hiện việc "khoanh vùng" các tội xâm phạm tính mạng con người trong Chương
XII (Bộ luật Hình sự năm 1999), nhằm phân biệt với những loại tội phạm khác cũng
liên quan đến quyền sống của con người như bạo loạn, khủng bố hay cướp tài sản.
Về phạm vi các điều luật cụ thể, tác giả cũng xác định các tội XPTMCCN
được quy định từ Điều 93 đến Điều 103 của BLHS năm 1999 (tương ứng với từ
Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015), không bao gồm tội lây truyền HIV
cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác [244, tr.7].
các tội này nằm trong khuôn khổ từ Điều 123 đến Điều 133 (BLHS năm 2015),
ngoại trừ các hành vi liên quan đến việc lây truyền HIV cho người khác cùng với
hành vi cố ý lây nhiễm virus này. [214, tr.46].
- Theo ý kiến của Tiến sĩ Đỗ Đức Hồng Hà, tội phạm xâm hại tính mạng và
sức khỏe của con người được coi là hành động vi phạm pháp luật hình sự, có khả
năng gây ra thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng đối với quyền được bảo vệ
và tôn trọng tính mạng cũng như sức khỏe của mỗi cá nhân. Hành vi này thường do
43
những cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, thể hiện qua việc cố ý
gây ra tổn thương hoặc đe dọa làm tổn thương đến các mối quan hệ nhân thân, từ đó
xâm phạm đến những quyền lợi cơ bản của con người..
Bên cạnh một số định nghĩa có thể kể trên, còn nhiều tác giả, công trình
nghiên cứu mặc dù không đưa ra định nghĩa nhưng có xác định phạm vi các điều
luật cụ thể thuộc nhóm các tội XPTMCCN. Chẳng hạn như:
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam do GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên)
xác định: “các tội xâm phạm tính mạng của con người được quy định ở 11 điều luật
(từ Điều 93 đến Điều 103) ở Chương XII của BLHS” (BLHS năm 1999), tương ứng
với từ Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015, không bao gồm tội lây truyền
HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác [242, tr.59].
- Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017
(phần các tội phạm), do GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên xác định: nhóm các tội
xâm phạm tính mạng gồm 13 tội danh được quy định tại các điều từ Điều 123 đến
Điều 133 và các điều 148, 149 BLHS [59, tr.55]. Như vậy là bao gồm cả tội lây
truyền HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác.
Qua nghiên cứu các quan điểm nêu trên về định nghĩa và xác định phạm vi
các tội XPTMCCN, có thể thấy nổi lên hai vấn đề như sau:
- Thứ nhất, về định nghĩa các tội XPTMCCN, nhìn chung các công trình
đều định nghĩa khái niệm này trên cơ sở xác định khách thể, mặt khách quan, mặt
chủ quan và chủ thể của tội phạm: khách thể của tội phạm là quyền sống của con
người; mặt khách quan thể hiện ở hành vi có thể là hành động hoặc không hành
động; mặt chủ quan thể hiện ở lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; chủ thể là người có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên, các yếu tố này thể hiện trong định nghĩa
vẫn còn khái quát, chưa thực sự rõ ràng, chưa phân biệt được các tội XPTMCCN
với những tội phạm khác cũng xâm phạm đến quyền sống của con người (các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm an toàn
công cộng…), chưa phân biệt được các tội XPTMCCN với hành vi XPTMCCN
nhưng chưa đến mức CTTP (vứt bỏ con mới đẻ nhưng đứa trẻ không chết, bỏ mặc
nạn nhân trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nhưng nạn nhân được người
khác đưa đi cấp cứu nên không chết, đe dọa giết người nhưng chưa đến mức làm
cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa sẽ được thực hiện…);
44
- Thứ hai, về xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội XPTMCCN, hiện
nay có 02 luồng quan điểm khác nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng tội lây truyền
HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác cũng là những tội phạm
XPTMCCN vì tính chất nguy hiểm của nó đối với tính mạng của con người; quan
điểm thứ hai cho rằng 02 tội phạm trên không phải là những tội XPTMCCN. Lý do
dẫn đến sự khác biệt trong quan điểm xuất phát từ việc Bộ luật Hình sự năm 2015
(được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017) đã quy định một cách tổng quát về các tội
phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người tại
Chương XIV. Chương này bao gồm tổng cộng 34 điều luật (từ Điều 123 đến Điều
156), giúp làm rõ phạm vi pháp lý liên quan đến những hành vi vi phạm nghiêm
trọng đối với quyền lợi của con người..
Với hai vấn đề như trên, NCS cho rằng để có thể xây dựng một định nghĩa
rõ ràng về các tội XPTMCCN thì trước hết cần phải xác định rõ phạm vi các điều
luật thuộc nhóm các tội phạm này.
Vì định nghĩa cần phải đáp ứng hai tiêu chí: “Thứ nhất, cần phân biệt rõ
ràng đối tượng định nghĩa với các đối tượng khác về mặt nội dung; thứ hai, phải
làm rõ ràng nội dung của đối tượng được định nghĩa” [139, tr.67]. Nghiên cứu sinh
cho rằng các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm con người
(XPTMCCN) được quy định từ Điều 123 đến Điều 133 (Bộ luật Hình sự năm 2015)
không bao gồm tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho
người khác vì những lý do sau đây:
Thứ nhất, dựa trên logic giữa tên gọi của Chương XIV (các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người) cùng với thứ tự sắp xếp
các điều luật trong chương này cho thấy nhóm các tội XPTMCCN nằm ở vị trí đầu
tiên, tiếp theo là các tội liên quan đến xâm phạm sức khỏe và nhân phẩm. Rõ ràng
rằng Điều 134 (quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại đến sức khỏe
người khác) là điều luật đầu tiên thuộc nhóm các tội xâm phạm sức khỏe. Do đó, từ
Điều 133 trở về trước thuộc về nhóm các tội XPTMCCN;
Thứ hai, nếu coi rằng việc lây truyền HIV cho người khác cũng như việc cố
ý truyền HIV đều là những hành vi mang tính chất nguy hiểm đối với tính mạng con
người thì cũng cần xem xét đưa vào danh sách này nhiều loại hình vi phạm khác
như: hành vi cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại đến sức khỏe của người khác;
45
hành vi gây thương tích trong trạng thái tâm lý bị kích động mạnh; hành vi vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng dẫn đến tổn hại cho sức khỏe; hay thậm chí là hành vi
hiếp dâm... bởi vì tất cả những loại hình vi phạm này đều có khả năng dẫn đến hậu
quả nghiêm trọng nhất là cái chết.;
Ba là, xét về khả năng điều trị, mặc dù trước đây bệnh HIV gây nguy hiểm
đến tính mạng con người và khả năng chữa trị rất hạn chế nhưng với những tiến bộ
của y học hiện đại trong điều trị kháng virus, những người nhiễm HIV ngày nay có
thể sống lâu và khỏe mạnh tương tự như người bình thường, đặc biệt nếu điều trị
HIV/AIDS được bắt đầu sớm và được thực hiện hàng ngày theo chỉ dẫn.
Trên cơ sở đã xác định được phạm vi cụ thể các điều luật thuộc nhóm các
tội XPTMCCN như trên, kết hợp với định nghĩa tội phạm tại Điều 8, quy định về
tuổi chịu TNHS tại Điều 12, quy định về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương
mại tại Điều 76 BLHS 2015, có thể định nghĩa như sau:
Các tội XPTMCCN là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định
từ Điều 123 đến Điều 133 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do người
có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm quyền sống của con người mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự.
2.1.2. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm tính mạng của con người
2.1.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng của con người
Khách thể của các tội XPTMCCN là quyền sống, một trong những quyền
cơ bản và quan trọng nhất của con người. Khách thể được phản ánh trong BLHS
qua dấu hiệu đối tượng tác động của tội phạm là “người” (Điều 123, Điều 125, Điều
126, Điều 127, Điều 128, Điều 129, Điều 133 BLHS năm 2015), “con do mình đẻ
ra” (Điều 124 BLHS năm 2015), “người lệ thuộc mình” (Điều 130 BLHS năm
2015), “người khác” (Điều 132 BLHS năm 2015) … Hay nói chung, đối tượng tác
động của tội phạm là con người.
“Con người” là đối tượng tác động của tội phạm không thể là chính người
phạm tội, mà phải là “người khác”. Nếu một người tự gây nguy hiểm cho tính mạng
của chính mình thì không bị coi là phạm tội XPTMCCN. Mặt khác, “con người” là
đối tượng tác động của tội phạm chỉ được tính từ thời điểm sinh ra cho đến khi chết
(tim ngừng đập, thần kinh ngừng hoạt động, không còn khả năng tiếp nhận những
yếu tố bảo đảm của sự sống). Sự tồn tại của con người bắt đầu từ giai đoạn thai nhi,
46
trải qua khoảng thời gian 9 tháng trong bụng mẹ, thai nhi trở thành một phần không
thể tách rời của cuộc sống người mẹ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ pháp luật quốc tế
hiện nay, khái niệm về sự bắt đầu của con người vẫn chưa được làm rõ. Hơn nữa,
xu hướng chung là chưa công nhận quyền sống cho thai nhi. Điều này được thể hiện
qua Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu năm 1948 khi nêu rõ: “Mọi người khi sinh ra
đều có quyền tự do và bình đẳng về nhân phẩm cũng như các quyền lợi.” [39, Điều
1]. Theo nhiều người, từ “sinh ra” được sử dụng để tránh gây tranh cãi về quyền
sống đối với thai nhi [46, tr.47]. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật quốc tế
cũng quy định bảo vệ quyền của thai nhi.
các tội XPTMCCN, trường hợp phạm tội đối với “02 người trở lên” thường là tình
tiết định khung tăng nặng bên cạnh trường hợp phạm tội với “phụ nữ mà biết là có
thai” (điểm a, điểm c khoản 1 Điều 123; điểm a, điểm b khoản 2 Điều 127; điểm a,
điểm b khoản 2 Điều 130 BLHS năm 2015) đã cho thấy đây là 02 trường hợp khác
nhau, cho thấy “thai nhi” không đồng nhất với “con người”. Bên cạnh đó, có một số
tội phạm chỉ quy định trường hợp phạm tội đối với “02 người trở lên” là tình tiết
định khung tăng nặng mà không quy định trường hợp phạm tội đối với “phụ nữ mà
biết là có thai” (khoản 2 các Điều: 125, 126, 131, 132, 133 BLHS năm 2015). Điều
đó phần nào cho thấy trong các tội phạm đó, phạm tội đối với “02 người trở lên” có
tính chất nguy hiểm cao hơn so với phạm tội đối với “phụ nữ mà biết là có thai”. Và
điều đó cũng càng khẳng định khái niệm “thai nhi” không đồng nhất với khái niệm
“con người” trong LHS.
Trong một số CTTP còn quy định đối tượng tác động của tội phạm không
chỉ là con người đang sống mà còn phải có một số dấu hiệu đặc trưng khác như:
- Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS năm 2015): đối tượng
tác động của tội phạm phải là con do người phạm tội “đẻ ra trong 07 ngày tuổi”;
47
2.1.2.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm tính mạng của con người
Mặt khách quan của các tội XPTMCCN được biểu hiện như sau:
- Hành vi khách quan liên quan đến các tội phạm xâm hại tính mạng con
người thể hiện sự đa dạng phong phú về hình thức: từ hành động giết người, đe dọa
giết người, đến việc làm chết, đối xử tàn nhẫn, thường xuyên bắt nạt, ngược đãi hay
làm nhục; kích thích, dụ dỗ hoặc khuyến khích người khác tự kết liễu đời mình; tạo
điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần cho người khác tự chấm dứt sự sống; hay
không cứu trợ những cá nhân đang rơi vào tình huống nguy hiểm đến tính mạng...
Mặc dù các biểu hiện cụ thể có sự khác biệt rõ rệt nhưng tựu chung lại đều gây ra
tác động trái pháp luật lên con người và có khả năng dẫn đến thiệt hại trực tiếp hoặc
gián tiếp cho tính mạng của họ. Những hành vi mặc dù gây tổn thương cho con
người và ảnh hưởng tới tính mạng song không vi phạm pháp luật sẽ không được
xem là tội phạm: ví dụ như hành vi phòng vệ chính đáng hay bắt giữ kẻ phạm tội...
Về mặt hình thức, một số hành vi có thể thực hiện dưới dạng cả hành động lẫn
không hành động (như trong các trường hợp giết người, giết trẻ sơ sinh, làm chết
trong khi thi hành công vụ, vô ý làm chết do lỗi nghề nghiệp hoặc quy định hành
48
chính; bức tử), trong khi đó một số tội chỉ có thể xảy ra thông qua hình thức hành
động (chẳng hạn như giết người trong trạng thái bị kích thích mạnh mẽ, vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng hoặc sử dụng mức độ cần thiết khi bắt giữ tội phạm), còn một
số trường hợp chỉ có thể diễn ra qua hình thức không hành động (ví dụ như việc không
cứu giúp những cá nhân đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng đối với tính mạng).
- Hậu quả của những hành vi vừa nêu có thể gây ra thiệt hại trực tiếp hoặc
gián tiếp tới quyền sống của con người, thường thể hiện qua sự tổn thất về mặt thể
chất, đặc biệt là cái chết (ngoại trừ hành vi đe dọa giết người). Tuy nhiên, các
trường hợp dẫn đến tử vong chỉ được quy định trong một số điều luật hình sự như
Điều 124 (tội giết hoặc bỏ rơi trẻ sơ sinh), Điều 127 (tội làm chết người khi thực
hiện nhiệm vụ công), Điều 128 (tội vô ý làm chết người), Điều 129 (tội vô ý khiến
cái chết xảy ra do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy định hành chính), và Điều
132 (tội không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm đến tính mạng). Đối với các cấu
thành tội phạm khác, hậu quả dẫn đến cái chết không được đề cập trong mặt khách
quan của điều luật.. Trong đó, có 02 CTTP mô tả dấu hiệu hậu quả là hành vị tự sát của
nạn nhân: Điều 130 (tội bức tử) và Điều 131 (tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát).
- Các yếu tố khác liên quan đến khía cạnh khách quan như công cụ, phương
tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian và địa điểm phạm tội... nhìn chung không
phải là những yếu tố được quy định trong khía cạnh khách quan của các cấu thành
tội phạm về xâm phạm tính mạng con người. Tuy nhiên, hoàn cảnh thực hiện hành
vi phạm tội lại là một dấu hiệu được đề cập trong khía cạnh khách quan của một số
tội danh cụ thể, chẳng hạn như “hoàn cảnh khách quan đặc biệt” theo quy định tại
Điều 124 (tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ); hoàn cảnh mà nạn nhân có hành vi trái
pháp luật nghiêm trọng đối với bản thân hoặc người thân thích; tình trạng tinh thần
bị kích động mạnh mẽ theo Điều 125 (tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh); bối cảnh phải phòng vệ do bị tấn công hoặc khi bắt giữ người
phạm tội theo Điều 126 (tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội); hoàn cảnh thực thi công
vụ theo Điều 127 (tội làm chết người trong khi thi hành công vụ); và hoàn cảnh
“thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” mà có khả
năng cứu giúp theo Điều 132 (tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng). Bên cạnh đó, dấu hiệu phương pháp, thủ đoạn phạm tội
49
mặc dù không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành cơ bản nhưng là dấu
hiệu được mô tả trong cấu thành tăng nặng của Điều 123 (tội giết người): “thực hiện tội
phạm một cách man rợ”, “bằng cách lợi dụng nghề nghiệp”, “bằng phương pháp có
khả năng làm chết nhiều người” (các điểm i, k, l khoản 1 Điều 123 BLHS 2015).
Phân tích mặt khách quan của một số tội phạm cụ thể thấy rằng có nhiều
điểm cần lưu ý:
- Mặt khách quan của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ:
+ Mặt khách quan của hành vi giết hại trẻ sơ sinh: Đây là một tình huống
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc thù trong tội ác giết người [207, tr.68]. Do đó,
loại tội này mang những đặc điểm pháp lý chung của tội giết người và các đặc điểm
pháp lý riêng biệt.. Theo đó, mặt khách quan của tội phạm này tương tự mặt khách
quan của tội giết người và có thêm dấu hiệu hoàn cảnh phạm tội: chủ thể còn trong
trạng thái mới sinh con; tâm, sinh lý không bình thường và chịu “ảnh hưởng nặng
nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt”.
+ Khía cạnh khách quan của tội vứt bỏ trẻ sơ sinh: Hành động khách quan
liên quan đến tội phạm này là việc bỏ rơi trẻ sơ sinh (hành vi của người mẹ khi để
đứa trẻ ở một nơi không có sự chăm sóc của mình).Hậu quả “đứa trẻ chết” là dấu
hiệu bắt buộc phải có của tội phạm này. Nếu không có hậu quả “đứa trẻ chết” thì
50
người mẹ có hành vi vứt bỏ đứa trẻ không phạm tội này. Hoàn cảnh phạm tội cũng
là dấu hiệu bắt buộc phải có như tội giết con mới đẻ.
Theo đó, mặt khách quan của tội phạm này tương tự mặt khách quan của tội
giết người và có thêm dấu hiệu hoàn cảnh phạm tội: phạm tội trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh do nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối
với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội. Hành động vi
phạm pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cần phải liên quan trực tiếp đến trạng
thái tâm lý bị kích thích mạnh mẽ của đối tượng thực hiện tội phạm.
- Khía cạnh khách quan của tội danh làm chết người trong khi thi hành
công vụ: Hành vi khách quan được xác định là việc sử dụng vũ lực (tác động vật
chất đến cơ thể của nạn nhân). Nếu như hành vi khách quan của tội giết người do
vượt quá mức cần thiết trong trường hợp bắt giữ người phạm tội được xem là hành
vi sử dụng vũ lực trong những tình huống được pháp luật cho phép (mặc dù đã thực
hiện vượt quá giới hạn cần thiết), thì hành vi khách quan của tội làm chết người
trong khi thực hiện công vụ lại là việc dùng vũ lực ngoài các tình huống mà pháp
luật cho phép. Dấu hiệu hậu quả dẫn đến cái chết là một đặc điểm không thể thiếu
của loại tội phạm này. Nói một cách khác, nếu như hành vi dùng vũ lực ở ngoài
51
những trường hợp pháp luật cho phép không gây ra hậu quả nghiêm trọng đến mức
dẫn đến cái chết, thì sẽ không cấu thành tội danh này. Bối cảnh phạm tội cũng là
một yếu tố đặc trưng, bắt buộc phải có đối với loại hình tội phạm này: đó là phạm
tội "trong khi thi hành công vụ". Nếu sự kiện làm chết người không liên quan gì đến
nhiệm vụ đang thực hiện thì sẽ không được coi là làm chết người trong khi thi hành
công vụ.
- Khía cạnh khách quan của tội vô ý làm chết người: Hành vi khách quan
đối với loại hình tội phạm này chính là việc vi phạm các quy định về đảm bảo an
toàn tính mạng và sức khỏe con người. Những quy định này có thể đã được hệ
thống hóa hoặc chỉ đơn giản là những quy chuẩn ứng xử thông thường mà mọi cá
nhân đều biết và thừa nhận (cần lưu ý rằng một số hành vi xâm hại các quy định an
toàn trong một số lĩnh vực nhất định có thể bị coi là hình sự theo những điều luật
riêng biệt khác nhau: các hành vi vi phạm quy...
tắc an toàn giao thông đường bộ có thể phạm tội tại Điều 260 BLHS năm 2015,
hành vi vi phạm quy tắc an toàn lao động có thể phạm tội tại Điều 295 BLHS năm
2015…). Hậu quả “chết người” là dấu hiệu bắt buộc phải có. Người có hành vi vi
phạm quy tắc an toàn chỉ phải chịu TNHS về tội vô ý làm chết người nếu hành vi vi
phạm của họ đã dẫn đến hậu quả chết người.
- Mặt khách quan của hành vi vô ý gây ra cái chết cho người khác do vi
phạm quy định nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính: Đây là một trường hợp
đặc thù thuộc về tội danh vô ý làm chết người. Do đó, mặt khách quan của hành vi
này cũng tương tự như mặt khách quan trong các vụ án vô ý làm chết người nói
chung. Sự tương đồng này nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng và hệ quả của các
hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực chuyên môn hoặc pháp luật.. Điểm đặc thù
thể hiện ở chỗ quy tắc an toàn bị vi phạm trong trường hợp này là quy tắc nghề
nghiệp (các quy tắc an toàn trong những lĩnh vực nghề nghiệp nhất định như điện
lực, khai thác rừng…) hoặc quy tắc hành chính (các quy tắc trong quản lý hành
chính do các cơ quan hành chính quy định như quy tắc về cắt, tỉa cây xanh…). Các
quy định này được thiết lập với tính chất cụ thể và chi tiết hơn, yêu cầu các cá nhân
phải có trách nhiệm cao hơn trong việc thực hiện [207, tr.83].
52
- Khía cạnh khách quan của tội bức tử: Hành vi khách quan liên quan đến
loại tội phạm này bao gồm những hành vi đối xử tàn nhẫn (như đánh đập, bỏ đói, để
người khác chịu lạnh...), thường xuyên gây áp lực (hành xử bất công và không bình
đẳng đối với nạn nhân), ngược đãi (đối xử một cách tàn ác, khắc nghiệt và trái
ngược với các giá trị đạo đức) hoặc làm tổn hại danh dự (gây ảnh hưởng nghiêm
trọng đến nhân phẩm và uy tín của nạn nhân). Những hành vi trên chỉ cấu thành tội
bức tử khi dẫn đến hậu quả nạn nhân “tự sát”. Hay nói cách khác, hậu quả nạn nhân
có hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình là dấu hiệu bắt buộc phải có của
tội phạm này. Cũng cần lưu ý rằng CTTP chỉ đòi hỏi hành vi khách quan dẫn đến
xử sự tự sát chứ không đòi hỏi hậu quả nạn nhân chết.
- Mặt khách quan của tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát: Hành vi
khách quan được xác định trong CTTP có thể là hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy
người khác tự tước đoạt tính mạng của họ hoặc hành vi tạo điều kiện về vật chất,
tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ. Hậu quả nạn nhân tự sát là
dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Hay nói cách khác, chủ thể chỉ phạm tội này
khi hành vi xúi giục phải đã dẫn đến việc tự sát của người bị xúi giục; hành vi tạo
điều kiện phải đã được nạn nhân sử dụng để tự sát. Cũng tương tự như tội bức tử,
CTTP chỉ đòi hỏi nạn nhân đã tự sát mà không đòi hỏi nạn nhân phải chết.
53
2.1.2.3. Chủ thể của các tội xâm phạm tính mạng của con người
Một số cấu thành tội phạm (CTTP) đòi hỏi yếu tố chủ thể đáp ứng thêm
điều kiện đặc thù để thực hiện hành vi phạm tội. Những điều kiện này được gọi là
dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Trong các tội phạm về tính mạng, sức khỏe con người,
bốn tội danh minh chứng điều này gồm: tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, đòi hỏi chủ
thể phải là mẹ đẻ nạn nhân (Điều 124); tội làm chết người trong khi thi hành công vụ,
quy định chủ thể là người đang thi hành nhiệm vụ (Điều 127); tội vô ý làm chết người
do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính, áp dụng cho cá nhân có nghĩa vụ
tuân thủ các quy tắc này (Điều 128); và tội bức tử, đòi hỏi chủ thể là người mà nạn
nhân phụ thuộc (Điều 130). Các điều kiện trên thiết yếu để cấu thành tội phạm.
54
2.1.2.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm tính mạng của con người
Mặt chủ quan của tội phạm “là mặt bên trong của tội phạm, bao gồm các
dấu hiệu: lỗi, động cơ, mục đích” [213, tr.155].
- Về dấu hiệu lỗi:
+ Một số tội XPTMCCN luôn được thực hiện với hình thức lỗi vô ý như tội
vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính;
Một số hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm
công dân có thể là cố ý hoặc vô ý, minh chứng là tội giết người trong khi thi hành công
vụ và tội giết người. Về yếu tố động cơ phạm tội, đa phần các tội danh này không quy
định trong cấu tạo pháp lý cơ bản. Chỉ hai điều luật nêu rõ động cơ: Điều luật về tội giết
người trong khi thi hành công vụ, đòi hỏi động cơ vì lợi ích công cộng; và điều luật về tội
giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội, yêu
cầu động cơ phòng vệ hoặc bắt giữ. Thêm vào đó, động cơ phạm tội được xem xét trong
tình tiết tăng nặng, cụ thể là trường hợp động cơ đê tiện trong tội giết người.
- Về dấu hiệu mục đích phạm tội: Tương tự dấu hiệu động cơ phạm tội,
mục đích phạm tội nhìn chung không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành
cơ bản của các tội XPTMCCN.
55
Điều 123 (tội giết người), khoản 1, điểm g và h, nêu rõ tình tiết tăng nặng:
phạm tội nhằm che giấu tội ác khác hoặc nhằm chiếm đoạt bộ phận cơ thể nạn nhân.
Đây là dấu hiệu cấu thành tội phạm.
2.1.3. Hình phạt
Như vậy, hình phạt chính nhẹ nhất là cảnh cáo (chỉ có thể áp dụng với tội
không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng) và hình
phạt chính nặng nhất là tử hình (chỉ có thể áp dụng với tội giết người), hình phạt
chính phổ biến nhất là tù có thời hạn (có thể áp dụng với tất cả các tội danh thuộc
nhóm tội phạm XPTMCCN).
“Luật pháp quy định các hình phạt bổ sung, bao gồm: cấm đảm nhiệm chức
vụ, cấm hoạt động nghề nghiệp cụ thể, và quản chế, cấm cư trú. Điều luật nêu rõ
bốn điều khoản (khoản 4 Điều 123, khoản 3 Điều 127, khoản 3 Điều 129, khoản 4
Điều 132) liên quan đến việc cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc hoạt động nghề nghiệp.
Ngược lại, chỉ có một điều khoản (khoản 4 Điều 123) đề cập đến quản chế và cấm
cư trú. Do đó, các hình phạt bổ sung này chỉ áp dụng đối với bốn tội danh: giết
người, gây chết người khi thi hành công vụ, vô ý gây chết người do vi phạm quy tắc
chuyên môn hoặc hành chính, và tội bỏ mặc người gặp nguy hiểm đến tính mạng..
56
2.2. Phân loại các tội xâm phạm tính mạng của con người
Bộ luật Hình sự phân loại tội phạm theo nhóm dựa trên tiêu chí nhất định.
Phân loại tội phạm về ma túy cần xét đến mức độ nguy hại đến xã hội, đặc điểm chủ
thể phạm tội, tính chất lỗi phạm tội, và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc
phân chia này tuân thủ nguyên tắc khoa học và pháp luật.
- Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.
Điều 9 BLHS năm 2015 phân loại tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng,
tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng. Đối chiếu quy định tại Điều 9 với các quy định về các tội XPTMCCN từ
Điều 123 đến Điều 133, có thể thấy các tội XPTMCCN cũng có đủ 4 loại như trên.
Cụ thể, các điều luật từ 123 đến 133 có tất cả 28 điều khoản, trong đó có 01 điều
khoản quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội, 04 điều khoản quy định hình phạt
bổ sung, còn lại 23 điều khoản quy định về các loại tội phạm:
+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có 01/23 điều khoản, chiếm gần 5%
(khoản 1 Điều 123).
- Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm.
Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm, khoa học luật hình sự phân chia tội
phạm do cá nhân thực hiện thành tội phạm được thực hiện bởi chủ thể thường (bất
kỳ ai đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS) và tội phạm được thực hiện bởi chủ
thể đặc biệt (ngoài dấu hiệu về tuổi và năng lực TNHS, cần có thêm các dấu hiệu
khác về nghề nghiệp, quốc tịch, chức vụ, giới tính…). Các tội XPTMCCN cũng bao
gồm hai loại như trên. Cụ thể:
57
. - Căn cứ vào hình thức lỗi, các tội XPTMCCN được phân chia thành các tội
phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý (Điều 123, Điều 124, Điều 125, Điều
126, Điều 131, Điều 132, Điều 133), các tội phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi
vô ý (Điều 128, Điều 129) và các tội phạm có thể được thực hiện bởi hình thức lỗi
cố ý hoặc hình thức lỗi vô ý (Điều 127, Điều 130).
- Căn cứ vào thời điểm có thể truy cứu TNHS, các tội XPTMCCN được
phân chia thành tội phạm phải chịu TNHS ngay từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội
(Điều 123), tội phạm phải chịu TNHS từ giai đoạn phạm tội chưa đạt (khoản 1 Điều
124, Điều 125, Điều 126) và những tội phạm chỉ phải chịu TNHS khi tội phạm hoàn
thành (khoản 2 Điều 124, Điều 127, Điều 128, Điều 129, Điều 130, Điều 131, Điều
132, Điều 133).
2.3. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với một số tội
phạm khác
2.3.1. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với các tội
xâm phạm sức khoẻ của con người
Điều 30, Bộ luật Hình sự quy định về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, nhân phẩm, danh dự. Các tội danh này, xét về bản chất, có những điểm tương
đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chính xác trong tố tụng hình sự, việc phân biệt
các tội danh là tối quan trọng. Nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành để
làm sáng tỏ vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau. Sự phân biệt này đóng vai trò
then chốt trong việc định tội chính xác. Vì vậy, trong phần này, NCS chỉ làm rõ
những điểm khác biệt đặc trưng, “mấu chốt” nhất, không thể lẫn lộn giữa các tội
phạm, giúp phân biệt các tội phạm này trên thực tế.
58
2.3.1.1. Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác
Cả tội giết người và tội cố ý gây thương tích đều nhắm vào thân thể con
người, thể hiện qua hành vi phạm tội tương đồng. Khía cạnh khách quan, lỗi phạm
tội, cũng như phương thức, thủ đoạn, công cụ phạm tội đều có điểm tương giao.
Điều đáng lưu ý là cả hai đều tiềm ẩn nguy cơ gây tử vong cho nạn nhân. Sự tương
đồng này cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử..
Tuy nhiên, giữa hai tội phạm đã nêu cũng có những điểm đặc trưng không thể lẫn
lộn mà chúng ta có thể phân biệt:
Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến tử vong căn cứ
vào ý thức của chủ thể về hậu quả gây ra. Trong tội giết người, hành vi phạm tội
cùng với hậu quả gây chết người đều xuất phát từ ý đồ cố ý của người thực hiện.
Ngược lại, đối với tội cố ý gây thương tích, mặc dù hành vi phạm tội là cố ý, song
hậu quả chết người lại là không lường trước, ngoài ý muốn và không được chủ thể
chấp nhận. Sự khác biệt này quyết định tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành
vi phạm tội, từ đó dẫn đến sự khác biệt trong mức hình phạt. Việc xác định chính
xác ý thức của người phạm tội là yếu tố then chốt trong việc phân định hai tội danh
này. Việc hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự liệu của chủ thể [52, tr.146], [214,
tr.55,88], [219, tr.112].
Để xác định lỗi của chủ thể đối với hậu quả chết người đã xảy ra là lỗi cố ý
hay lỗi vô ý thì cần làm rõ: Chủ thể thực hiện hành vi có thấy trước hành vi của
mình tất yếu hoặc có thể gây ra hậu quả chết người hay không? Nếu họ không thấy
trước điều đó thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi
vô ý (khoản 2 Điều 11 BLHS năm 2015). Nếu họ thấy trước hành vi của mình là tất
yếu gây ra hậu quả chết người thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có
thể là hình thức lỗi cố ý (trực tiếp) (khoản 1, Điều 10, BLHS năm 2015). Nếu họ
thấy trước hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả chết người thì cần xem họ
mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra (nếu mong
muốn hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, nếu chấp nhận
hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý gián tiếp, nếu loại trừ khả năng
hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là vô ý vì quá tự tin).
59
60
Để xác định chủ thể thực hiện hành vi có mong muốn tước đoạt tính mạng
của nạn nhân hay không cần xem xét những tình tiết như: sự lựa chọn công cụ,
phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi; tính chất nguy hiểm của
hành vi; động cơ, mục đích thực hiện hành vi… Trong trường hợp mong muốn hậu
quả chết người xảy ra, chủ thể thường lựa chọn những công cụ, phương tiện hay
phương pháp có tính nguy hiểm cao, nhằm vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể
nạn nhân, thực hiện hành vi với lực tác động mạnh hoặc nhiều lần liên tiếp… Chẳng
hạn, nếu chủ thể dùng dao to, sắc, nhọn, chém hoặc đâm vào những chỗ hiểm yếu
trên cơ thể nạn nhân như đầu, ngực, bụng, hoặc dùng gậy to, nặng, sắc cạnh vụt
mạnh vào đầu… thì cần xác định chủ thể mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn
nhân, trường hợp này dù nạn nhân không chết thì chủ thể vẫn phạm tội giết người
[156, tr.331].
61
2.3.1.2. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
62
Một luồng quan điểm khác cho rằng tội danh "giết người trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh" chỉ được xác lập khi nạn nhân tử vong. Ngược lại,
trường hợp nạn nhân bị thương tật từ 31% trở lên, người gây ra hành vi phạm tội sẽ
phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" theo Điều 135
Bộ luật Hình sự.
Luận điểm này nhấn mạnh sự khó khăn trong việc phân định hai tội danh
trên dựa trên yếu tố chủ quan, cụ thể là lỗi của người phạm tội đối với hậu quả. Do
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người phạm tội thường không lường trước
được chính xác hậu quả hành vi của mình, dù nhận thức được tính nguy hiểm xã hội
tiềm ẩn. Họ chấp nhận rủi ro, bất kể kết cục là tử vong hay thương tích. Vì lẽ đó, sự
phân biệt chỉ có thể dựa trên dấu hiệu khách quan, cụ thể là hậu quả xảy ra. Chỉ khi
có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và cái chết của nạn nhân, tội danh
"giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" mới được áp dụng..
Xuất phát từ những quan điểm như trên, chúng ta thấy rằng để có thể phân
biệt rạch ròi tội phạm tại Điều 125 với tội phạm tại Điều 135 thì vấn đề đầu tiên là
cần thống nhất nhận thức về dấu hiệu hậu quả của tội phạm tại Điều 125. Cụ thể,
cần nhận thức thống nhất về vấn đề “hậu quả chết người” có phải là dấu hiệu bắt
buộc phải có trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay
không? NCS cho rằng xét cả về mặt lý luận và thực tiễn thì “hậu quả chết người”
63
không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội giết người trong trạng thái tinh thần
bị kích động mạnh vì những lý do sau đây:
Một là, xét về lịch sử của vấn đề. Luật Hình sự năm 1985 phân loại hành vi
giết người trong cơn kích động mạnh là tội giết người (Điều 101). Điều 101, khoản
3, cụ thể hóa trường hợp phạm tội xuất phát từ trạng thái tinh thần bị kích động dữ
dội bởi hành vi phi pháp nghiêm trọng của nạn nhân nhằm vào người phạm tội hoặc
Hai là, xét về nội dung quy định của điều luật. Nghiên cứu quy định tại
Điều 125 BLHS năm 2015 thấy rằng trong mặt khách quan của CTTP chỉ quy định
hành vi khách quan mà không hề quy định dấu hiệu hậu quả chết người: “Người
nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp
luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của
người đó, thì bị phạt…” (khoản 1 Điều 125). Ngay cả tình tiết định khung tăng nặng
64
tại khoản 2 cũng chỉ quy định “Phạm tội đối với 02 người trở lên” chứ không phải
“Phạm tội làm chết từ 02 người trở lên”. Trong khi đó, nếu so sánh với các điều luật
khác trong cùng Chương XIV, chúng ta thấy rằng những tội phạm có quy định hậu
quả là dấu hiệu bắt buộc để định tội thì trong mặt khách quan của CTTP đều mô tả
rất rõ ràng dấu hiệu hậu quả.
là có nhiều trường hợp khi rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chủ thể thực
hiện hành vi không còn đủ bình tĩnh để nhận thức về hậu quả của hành vi, không quan
tâm hậu quả đến đâu, không thể hiện rõ mục đích phạm tội nên hậu quả của tội phạm
đến đâu họ sẽ phải chịu trách nhiệm đến đó (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Nếu xảy ra
hậu quả chết người, chủ thể thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, nếu hậu quả là gây tổn thương
cơ thể từ 31% trở lên thì chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, khi trạng thái
tinh thần bị kích động mạnh, bị ức chế tột đỉnh do hành vi trái pháp luật của nạn
nhân gây ra, chủ thể thực hiện hành vi cảm thấy căm ghét nạn nhân tột độ, mong
muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân (hình thức lỗi cố ý trực tiếp). Mong muốn
tước đoạt tính mạng của nạn nhân được thể hiện rõ thông qua hành vi sử dụng
những phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện nguy hiểm cao đối với tính
mạng của nạn nhân như dùng súng bắn vào đầu nạn nhân, dùng dao nhọn đâm liên
65
tiếp nhiều nhát vào người nạn nhân… Trong những trường hợp này, nếu vì lý do
khách quan, nạn nhân may mắn thoát chết thì chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải
chịu trách nhiệm về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở
giai đoạn phạm tội chưa đạt. Quan điểm cho rằng chỉ có thể dựa vào hậu quả để
phân biệt tội phạm tại Điều 125 với Điều 135 là không phù hợp. Hai tội phạm này
còn có sự khác biệt về mặt chủ quan và hành vi khách quan của tội phạm và “hậu
quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội phạm được quy
định tại Điều 125.
Bốn là, về thực tiễn xét xử. Đã có những vụ án phạm tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà không có dấu hiệu “hậu quả chết người”
xảy ra. Chẳng hạn như:
“Khoảng 23h ngày 29/7/2018, tại trước số nhà 26 và 41 Nguyễn D, P.
Điện B, TP. Thanh Hóa, xuất phát từ mâu thuẫn bột phát trong lúc
Dương Huy H có ý định can ngăn anh Nguyễn Bá D đánh nhau với anh
Hà Chí D, anh D lầm tưởng H là người bên phía anh D và cho rằng anh
H sẽ đánh mình nên anh D đã dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt H và
dùng dao nhọn lùa đâm gây thương tích cho H và gây thương tích cho
anh D bạn của H, Dương Huy H đã bức xúc, không làm chủ được ý thức,
không kiềm chế được nên đã sử dụng súng bắn đạn thể thao bắn một
phát trúng vào vùng bụng anh D làm anh D bị tràn máu-khí màng phổi,
vỡ gan hạ phân thùy II, III, thủng tá tràng, túi mật, đại tràng ngang”
[164, tr.5].
Trong vụ án này, Dương Huy H bị anh D vô cớ xịt hơi cay vào mặt, lùa
đánh và dùng dao nhọn đâm bị thương, chảy máu và bỏng rát ở mắt nên bức xúc, lại
thấy bạn mình bị anh D cầm dao đâm nên càng bức xúc hơn. Trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh, H đã dùng công cụ nguy hiểm là súng bắn đạn thể thao bắn
vào vùng bụng anh D là anh D bị tổn thương nghiêm trọng, nếu không được mọi người
đưa đi cấp cứu kịp thời khả năng tử vong là rất cao. Hội đồng xét xử đã kết luận: Hành
vi nêu trên của bị cáo Dương Huy H đã phạm vào tội “Giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh” quy định tại khoản 1 Điều 125 BLHS năm 2015[164, tr.5].
66
Vụ án thứ 2: “Khoảng hơn 22h ngày 26/12/2019 tại quán karaoke
Phương Th do mâu thuẫn cãi nhau giữa anh Nguyễn Trung H2 với anh
Tôn Long C và anh Phí Hữu T1. Trần Quang L (là bạn Nguyễn Trung
H2) vào can ngăn, bị anh Tôn Long C dùng dây thắt lưng vụt 02 phát
vào đầu gây tổn hại 12% sức khỏe, sau đó anh C tiếp tục đuổi đánh L.
Do bất ngờ bị đánh nên L nhặt được con dao ở sân dùng chém C 03 nhát
vào đầu và 01 nhát vào lưng” [165, tr.5]. C từ chối giám định thương tật.
Trong vụ án này, Tòa án cũng xác định: “Nguyên nhân phạm tội của
Trần Quang L là do hành vi của anh Tôn Long C dùng vũ lực tấn công,
gây thương tích cho bị cáo, làm bị cáo bị 02 vết thương ở đầu gây tổn
hại 12% sức khỏe. Sau đó anh C tiếp tục đuổi đánh L làm L rơi vào trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh, không kiềm chế, kiểm soát được bản thân
dẫn đến có hành động dùng dao chém vào đầu, vào lưng anh C” và kết
luận: “Hành vi phạm tội của Trần Quang L đủ căn cứ để xét xử về tội “Giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 125
BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” [165, tr.5].
Từ những nội dung phân tích và dẫn chứng như ở phần trên, NCS cho rằng
tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể được thực hiện bởi
hình thức lỗi cố ý gián tiếp hoặc hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp tội
phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nếu “hậu quả chết người”
không xảy ra thì chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm về tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.
Hay nói tóm lại, “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có ở tội
giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Và vì vậy, “hậu quả chết
người” cũng không phải là dấu hiệu duy nhất để phân biệt tội phạm tại Điều 125 với
tội phạm tại Điều 135. Mà việc phân biệt 02 tội phạm này cần căn cứ vào nhận thức
và thái độ của chủ thể đối với hành vi và hậu quả, tính chất nguy hiểm của hành vi
khách quan, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi… như
đã trình bày ở nội dung phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác.
67
2.3.1.3. Phân biệt tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội với tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội
Điều 126 và Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 2015, về tội giết người và tội cố
ý gây thương tích vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm
tội, chia sẻ những điểm tương đồng đáng kể với Điều 123 và Điều 134 cùng bộ luật.
Sự khác biệt chủ yếu nằm ở yếu tố vượt quá giới hạn cho phép trong hành vi phòng
vệ hoặc bắt giữ. Điều 126 bổ sung yếu tố này vào cấu thành tội giết người, trong khi
Điều 136 áp dụng điều kiện tương tự cho tội cố ý gây thương tích, đòi hỏi mức độ
tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên. Như vậy, sự phân định giữa Điều 126 và Điều 136,
về bản chất, phản ánh sự tương ứng với sự phân biệt giữa Điều 123 và Điều 134.
Yếu tố then chốt "vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc mức cần thiết khi bắt
giữ" đóng vai trò quyết định trong việc phân loại tội phạm thuộc các điều khoản
này, tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng. Sự tương đồng về cấu trúc pháp lý
giữa các điều khoản này thể hiện một hệ thống quy phạm pháp luật chặt chẽ và
logic. Sự khác biệt về mức độ hậu quả dẫn đến sự phân loại tội danh khác nhau,
song đều bắt nguồn từ hành vi vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật. Việc phân
tích so sánh này giúp làm sáng tỏ hơn bản chất và mối quan hệ giữa các tội danh
này trong hệ thống luật hình sự. Tuy nhiên, hiện nay cũng có quan điểm cho rằng
“hậu quả chết người” là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội phạm tại Điều 126 [207,
tr.73, tr.74]. Vì lỗi của người phạm tội chủ yếu là lỗi cố ý gián tiếp - cố ý không xác
định nên tội phạm chỉ có thể xảy ra khi nạn nhân bị chết. Nếu nạn nhân chỉ bị thương
và có tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên thì bị truy cứu TNHS theo Điều 136 [117, tr.70].
Như vậy, dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội phạm tại Điều 126 với tội phạm tại Điều
136 là dấu hiệu hậu quả và ý thức chủ quan của chủ thể đối với hậu quả [117, tr.195].
NCS không đồng ý với quan điểm cho rằng hậu quả chết người là dấu hiệu
bắt buộc của tội phạm tại Điều 126 vì những lý do sau đây:
Một là, xét về nội dung quy định của điều luật. Nghiên cứu quy định tại Điều
126 BLHS năm 2015 thấy rằng trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm chỉ quy
định hành vi khách quan mà không hề quy định dấu hiệu hậu quả chết người: “Người
nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong
trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt…” (khoản
68
1 Điều 126). Ngay cả tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 cũng chỉ quy định
“Phạm tội đối với 02 người trở lên” chứ không phải “Phạm tội làm chết từ 02 người
trở lên”. Trong khi đó, nếu so sánh với các điều luật khác trong cùng Chương XIV,
chúng ta thấy rằng những tội phạm có quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để định
tội thì trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm đều mô tả rất rõ ràng dấu hiệu
hậu quả. Ví dụ: tội vứt bỏ con mới đẻ quy định rõ hậu quả là “dẫn đến hậu quả đứa
trẻ chết” (khoản 2 Điều 124 BLHS năm 2015); tội làm chết người trong khi thi hành
công vụ, tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính đều quy định hậu quả là “làm chết người” (khoản 1
các Điều 127, 128, 129 BLHS năm 2015) và tình tiết định khung tăng nặng cũng quy
định rõ là “làm chết 02 người trở lên” (điểm a khoản 2 Điều 127, khoản 2 Điều 128,
khoản 2 Điều 129 BLHS năm 2015)… Như vậy, có thể khẳng định trong mặt khách
quan của cấu thành tội phạm tại Điều 126 không quy định dấu hiệu “hậu quả chết
người” là dấu hiệu bắt buộc phải có để định tội.
Hai là, mặc dù có nhiều trường hợp khi bị tấn công hoặc khi đuổi bắt người
phạm tội, chủ thể thực hiện hành vi không đủ bình tĩnh để nhận thức về hậu quả của
hành vi, không quan tâm hậu quả nên hậu quả của tội phạm đến đâu họ sẽ phải chịu
trách nhiệm đến đó (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Nếu xảy ra hậu quả chết người,
chủ thể thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về tội phạm tại Điều 126, nếu hậu
quả là gây tổn thương cơ thể từ 31% trở lên thì chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải
chịu trách nhiệm về tội phạm tại Điều 136. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp,
khi bị tấn công, bị ức chế tột đỉnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra,
mong muốn thoát khỏi sự tấn công, muốn bắt được người phạm tội… mà chủ thể
thực hiện hành vi sử dụng những phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện
nguy hiểm cao đối với tính mạng của nạn nhân như dùng súng bắn vào đầu nạn
nhân, dùng dao nhọn đâm liên tiếp nhiều nhát vào người nạn nhân… Trong những
trường hợp này, nếu vì lý do khách quan, nạn nhân may mắn thoát chết thì chủ thể
thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm về tội phạm tại Điều 126.
Ba là, về thực tiễn xét xử. Đã có những vụ án phạm tội tại Điều 126 mà
không có dấu hiệu “hậu quả chết người” xảy ra.
Ví dụ: Chiều 23/5/2020 N cùng với bạn gái là Đồng Thị Như Q và một số
bạn bè ra Cát Bà chơi: Ăn nhậu, nghe nhạc và sử dụng ma túy. Q có sử dụng ma túy
nên thần kinh không ổn định có nhắn tin về cho mẹ: “Con bị bắt cóc ra Cát Bà”. Bà
69
H là mẹ Q đã gọi Nguyễn Tiến M (là người yêu cũ của Q) về việc Q bỏ đi. Sau khi
biết Q đi cùng nhóm Hải A và N thì Bà H gọi điện bảo đưa Q về. 06 giờ 00 phút,
ngày 24/5/2020 N đưa Q về bằng xe tắc-xi, vừa đến cửa nhà Q ở số 740 Lô 22 Lê
Hồng Phong thì gặp M ở đó. M túm tóc N bắt N quỳ xuống rồi dùng tay, chân đấm
đá liên tiếp vào mặt vào người N. N không dám chống cự, khi vào trong nhà, Bà H
can ngăn nhưng M vẫn đánh, tát N. N nhắn tin cho bạn là T đến đón, khoảng 09 giờ
00 phút, T nhắn tin cho N là “ra đi”, N chạy ra xe taxi chờ ở cửa, lên xe ngồi ở ghế
sau và bảo xe chạy. Lê Hoàng L là bạn của M thấy N bỏ chạy liền lấy xe máy đuổi
theo, M chạy bộ đuổi theo chặn xe taxi lại.
M kéo N từ xe taxi xuống, một tay túm tóc ấn đầu, một tay đánh liên tiếp
vào đầu, vào mặt N. L đấm vào lưng N, ghì đầu N xuống. Do bị ức chế, N rút dao
bấm từ túi đeo trước ngực đâm liên tiếp về phía M và L. M bị đâm buông tay ra,
còn L tiếp tục dùng tay chân đấm đá N, N tiếp tục đâm L rồi buông dao bỏ chạy,
sau đó bị mọi người bắt giữ.
M bị nhiều vết thương, trong đó có vết thương ngực trái thuộc vùng nguy
hiểm, nếu không cấp cứu kịp thời sẽ ảnh hưởng đến tính mạng, tỷ lệ tổn thương cơ
thể là 27%. L bị vết thương ngực trái, thấu ngực gây tràn máu, khí khoang màng
Trong vụ án này, mặc dù không có hậu quả chết người xảy ra, nhưng Hội đồng
phổi trái, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 03%. xét xử nhận định N đâm M và L, 02 người bị 02 vết thương đều vào vùng ngực trái,
vùng nguy hiểm đến tính mạng, nên căn cứ khoản 2 Điều 126; điểm s khoản 1 Điều 51;
Điều 15; Điều 57, Điều 38 BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Hoàng Hải N 30 tháng tù
về tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng [167].
Từ những nội dung phân tích và dẫn chứng như ở phần trên, tác giả cho
rằng “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có ở tội giết người
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội. Và vì vậy, “hậu quả chết người” cũng không phải là dấu hiệu duy
nhất để phân biệt tội phạm tại Điều 126 với tội phạm tại Điều 136. Mà việc phân
biệt 02 tội phạm này cũng cần dựa vào các căn cứ vào nhận thức và thái độ của chủ
thể đối với hành vi và hậu quả, tính chất nguy hiểm của hành vi khách quan, công
cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi… như đã trình bày ở nội
dung phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác.
70
2.3.1.4. Phân biệt tội bức tử với tội hành hạ người khác
Tội bức tử (Điều 130 BLHS năm 2015) và tội hành hạ người khác (Điều
140 BLHS năm 2015) có nhiều điểm tương đồng về dấu hiệu pháp lý: chủ thể của
tội phạm đều là người mà nạn nhân bị lệ thuộc (khoản 1 Điều 130, khoản 1 Điều
140 BLHS năm 2015). Về độ tuổi, chủ thể của tội phạm đều phải là người từ đủ 16
tuổi trở lên (Điều 12 BLHS năm 2015). Về hành vi khách quan, tội phạm tại Điều
130 và Điều 140 đều có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người khác…
Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tương đồng nêu trên thì giữa tội bức tử và
tội hành hạ người khác cũng có những điểm khác biệt cơ bản có thể phân biệt:
Thứ nhất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc phải có đối với tội phạm tại Điều
130 (tội phạm có cấu thành vật chất) trong khi đó, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt
buộc phải có đối với tội phạm tại Điều 140 (tội phạm có cấu thành hình thức). Cụ thể,
Điều 130 quy định hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm
nhục người lệ thuộc phải “làm người đó tự sát” thì mới cấu thành tội phạm tại điều luật
này (khoản 1 Điều 130 BLHS năm 2015). Trong khi đó, Điều 140 không quy định hậu
quả của tội phạm (khoản 1 Điều 140 BLHS năm 2015). Như vậy, nếu chủ thể có hành
vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình mà dẫn đến hậu quả nạn nhân tự
sát (có thể chết hoặc không chết) thì mới có thể phạm tội tại Điều 130. Nếu cũng có
hành vi đó nhưng không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì chỉ có thể là tội phạm tại
Điều 140 (nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 185 BLHS năm 2015);
71
2.3.2. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với một số tội
xâm phạm an ninh quốc gia
Trong quy định của BLHS, không chỉ các tội xâm phạm tính mạng của con
người mới có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho tính mạng của con
người. Trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XIII BLHS
2015), có một số tội phạm mà hành vi khách quan có thể gây thiệt hoại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho tính mạng của con người như tội bạo loạn, tội khủng bố nhằm
chống chính quyền nhân dân... Vì vậy, cần thiết phải phân biệt những tội phạm này
với các tội XPTMCCN như tội giết người, tội đe dọa giết người.
Tội bạo loạn (Điều 112 BLHS năm 2015) và tội khủng bố nhằm chống
chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS năm 2015) là 02 tội phạm thuộc Chương
Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, khách thể của tội phạm là sự vững mạnh của
chính quyền nhân dân [214, tr.21,23]. Tuy nhiên, với hành vi trong mặt khách quan
là “hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức…” và “xâm phạm tính mạng”,
đe dọa xâm phạm tính mạng thì tội phạm này hoàn toàn có thể gây ra hoặc đe dọa
gây ra thiệt hại về tính mạng của con người. Lỗi của người phạm tội cũng là lỗi cố ý
(cố ý trực tiếp) [214, tr.22,27]. Chủ thể của tội phạm cũng là chủ thể thường, tức là
bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đủ tuổi luật định. Như vậy, về mặt khách
quan, mặt chủ quan và chủ thể của những tội phạm này có nhiều điểm tương đồng
với tội giết người, tội đe dọa giết người.
72
Như vậy, người phạm tội giết người, tội đe dọa giết người có thể có nhiều
mục đích phạm tội khác nhau, trừ những mục đích phạm tội mà nếu kết hợp với hành
vi giết người sẽ cấu thành một tội khác mà BLHS đã quy định: nhằm chống chính
quyền nhân dân (Điều 112, Điều 113), nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công
chúng (Điều 299), giết người để kích động chiến tranh xâm lược (Điều 421) …
Tóm lại, mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu cho phép
phân biệt tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia với những tội phạm khác có dấu
hiệu của mặt khách quan tương tự [214, tr.9], trong đó có một số tội xâm phạm tính
mạng của con người như tội giết người, tội đe dọa giết người…
Việc chứng minh mục đích chống chính quyền nhân dân đòi hỏi phải làm rõ
các nội dung: can phạm biết việc làm của mình là trái pháp luật, là nguy hiểm cho
an ninh quốc gia; họ biết việc làm của mình là tất nhiên hoặc có thể gây ra thiệt hại
cho lợi ích của Nhà nước Việt Nam; mặc dù nhận thức được tính nguy hiểm của
hành vi và hậu quả nhưng can phạm vẫn cố tình thực hiện hành vi. Trường hợp đối
tượng có hành vi giúp đỡ người khác hoặc cùng người khác thực hiện hành vi và
biết người đó có mục đích chống chính quyền thì vẫn coi là có mục đích chống
chính quyền. Đây là trường hợp tiếp nhận mục đích [203, tr.27].
73
Trong vụ án này, các bị cáo biết việc làm của mình là trái pháp luật, xâm
phạm quyền sống của nhiều cán bộ và người dân, gây hoang mang trong quần
chúng nhân dân, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, làm suy yếu chính quyền
nhân dân, gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Vì mục đích chống chính quyền
nhân dân, họ quyết tâm thực hiện hành vi và mong muốn gây ra thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Tòa xác định các bị cáo trên phạm tội khủng bố
nhằm chống chính quyền nhân dân theo quy định tại Điều 113 BLHS năm 2015.
2.4. Thể chế hóa bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi xâm phạm
tính mạng của con người
2.4.1. Sự cần thiết phải thể chế hoá bằng pháp luật hình sự đối với các tội
xâm phạm tính mạng của con người
“Thể chế” là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội” [245, tr.1492].
Thể chế hóa bằng PLHS là hoạt động xây dựng PLHS của Nhà nước để điều chỉnh
các quan hệ phát sinh giữa Nhà nước và người, pháp nhân thương mại phạm tội.
Thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN là nhu cầu tất yếu của xã
hội vì những lý do sau:
- Xuất phát từ các nguyên tắc của luật hình sự. Luật hình sự hiện hành
vẫn chưa có bộ nguyên tắc thống nhất. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa,
sáu nguyên tắc chủ đạo bao gồm: pháp chế, bình đẳng, nhân đạo, khách quan về
hành vi, lỗi phạm tội, và phân hóa trách nhiệm hình sự. [205, tr.22,23].
+ Luật hình sự quy định chặt chẽ mọi vấn đề liên quan đến tội phạm và hình
phạt (Điều 205, trang 23). Do đó, các hành vi gây nguy hại nghiêm trọng đến xã
hội, đặc biệt trong tội phạm xuyên quốc gia, cần được luật pháp cụ thể hóa thành tội
74
danh, với mô tả rõ ràng và hình phạt tương ứng. Mỗi tội danh phải có quy định pháp
luật minh bạch, xác định rõ ràng mức hình phạt áp dụng. Điều này đảm bảo tính
công bằng và minh bạch trong xử lý tội phạm xuyên quốc gia;
+ Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật đòi hỏi các quy định về tội phạm và
các quy định về hình phạt có giá trị như nhau đối với tất cả mọi người [205, tr.26]. Vì
vậy, những hành vi bị coi là tội phạm cần được quy định công khai, minh bạch, ổn định
trong BLHS để mọi người đều có thể biết rõ và tránh thực hiện. Quy định về tội phạm
nói chung và các tội XPTMCCN nói riêng không được lấy các đặc điểm nhân thân
không có giá trị trong việc xác định tính chất nguy hiểm của hành vi (như giới tính, dân
tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội…) là cơ sở để truy cứu TNHS;
+ Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự Việt Nam xuất phát từ việc coi
trọng giá trị nhân văn, tin tưởng vào bản chất hướng thiện, tính nhân ái, yêu thương
đồng loại của con người [213, tr.21,22]. Vì vậy, cần có quy định về hình phạt nói
chung và hình phạt đối với các tội XPTMCCN không nhằm gây đau đớn về thể xác
và xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người phạm tội;
- Xuất phát từ tính chất của Luật Hình sự. “Luật hình sự Việt Nam, bộ
luật then chốt, thiết lập hệ thống quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước tối cao
ban hành. Văn bản này xác định hành vi phạm tội, mức xử phạt tương ứng, các vấn
75
đề liên quan đến thi hành án, miễn trách nhiệm hình sự và các chế tài khác. Tóm
lại, đây là nền tảng pháp lý xử lý các hành vi xâm phạm trật tự xã hội.” [241, tr.14].
Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc quyền điều
chỉnh phạm vi tội phạm và hình phạt tương ứng (213, tr.7). Tội phạm, hay vi phạm
pháp luật hình sự, đại diện cho mức độ vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất (213,
tr.77). Các hành vi xâm phạm trật tự, an ninh xã hội nằm trong nhóm hành vi nguy
hiểm nhất, đe dọa trực tiếp đến quyền cơ bản, thiết yếu của con người. Tính chất
nguy hại của chúng không thể xem nhẹ. Đây cũng là những hành vi rất thường
xuyên xảy ra trên thực tế, gây ra nhiều thiệt hại cho xã hội. Vì vậy, như một điều tất
yếu, Luật Hình sự cần phải có quy định về các tội XPTMCCN. Tương tự, nếu như
tội phạm là vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao nhất thì hình phạt cũng là biện
pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất mà một Nhà nước có thể áp dụng với công dân,
cá nhân hoặc pháp nhân. Để đấu tranh, xử lý, ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm thì
một nội dung không thể thiếu là cần có quy định về hình phạt để giáo dục người,
pháp nhân thương mại ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống. Vì
vậy, cũng là một điều tất yếu, Luật Hình sự cần phải có quy định về hình phạt đối
với các tội XPTMCCN, đảm bảo hình phạt phải tương xứng với mức độ nguy hiểm
của tội phạm.
Luật Hình sự điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, pháp nhân
phạm tội. Điều này chỉ được áp dụng khi có hành vi phạm tội xảy ra. Đây là mối
quan hệ giữa hai chủ thể có địa vị pháp lý bất bình đẳng nên phương pháp điều
chỉnh của Luật Hình sự là phương pháp “quyền uy”. Trong mối quan hệ này, Nhà
nước có quyền buộc người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu
TNHS về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Người phạm tội, pháp nhân thương
mại phạm tội phải chấp hành đầy đủ những biện pháp mà Nhà nước áp dụng đối với
họ [213, tr.9, tr.10]. Vì vậy, để tránh vấn đề lạm quyền, tùy tiện, tiêu cực trong áp
dụng PLHS thì một trong những vấn đề quan trọng là cần có khung pháp lí rõ ràng.
- Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền con người. “Quyền con người
là khả năng thực hiện các đặc quyền tự nhiên và khách quan của con
người, với tư cách là con người và với tư cách là thành viên xã hội, được
bảo đảm bằng hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế về các giá trị con người trong các quan hệ vật chất, văn
76
hóa, tinh thần, các nhu cầu tự do và phát triển” [152, tr.23]. “Bảo vệ các
quyền con người bằng PLHS là sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp, sự
thực thi chính xác về mặt hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp
các quy định của ngành luật này” [19, tr.15].
2.4.2. Cơ sở của thể chế hoá bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi
xâm phạm tính mạng của con người
Thể chế hóa bằng PLHS đối với các tội XPTMCCN dựa trên các cơ sở sau:
Chính sách hình sự thể hiện rõ nét qua chính sách xử lý tội phạm (PLHS).
PLHS, với vai trò định hướng chiến lược, tiên quyết hơn luật pháp, tạo nền tảng xây
dựng hệ thống pháp luật hình sự. Đối với tội phạm xuyên quốc gia (XPTMCCN),
77
chính sách này được cụ thể hóa qua việc xác lập tiêu chuẩn pháp lý, phân định hành
vi nguy hiểm thành tội phạm, đồng thời loại bỏ những hành vi trước đây bị coi là tội
phạm nhưng nay đã lỗi thời. Về hình phạt, chính sách thể hiện qua hai hướng chính:
hình sự hóa, tức là bổ sung hoặc tăng nặng hình phạt đối với các hành vi nguy hiểm
đã hoặc chưa bị hình sự hóa; và phi hình sự hóa, tức là bãi bỏ hoặc giảm nhẹ hình
phạt đối với những hành vi trước đây thuộc diện xử lý hình sự nhưng nay không còn
phù hợp. Như vậy, PLHS đóng vai trò then chốt, định hình chính sách hình sự, đặc
biệt đối với tội phạm XPTMCCN, phản ánh sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với
thực tiễn xã hội.
- Tình hình tội phạm XPTMCCN. Chính sách pháp luật nhà nước cần phản
ánh chính xác thực trạng kinh tế - xã hội hiện tại và tiên liệu xu hướng tương lai.
Khả năng dự báo chính xác quyết định tính khả thi của thể chế hóa chính sách thành
luật pháp. Thiếu tầm nhìn chiến lược sẽ dẫn đến sự bất cập, cản trở sự phát triển hài
hòa các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Việc xây dựng hệ thống pháp luật cần
dựa trên phân tích kỹ lưỡng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Mục tiêu tối thượng
là thúc đẩy sự tiến bộ bền vững.. Vì vậy, quy định về các tội XPTMCCN cần được
xây dựng trên cơ sở tình hình loại tội phạm này. Các tội XPTMCCN là nhóm hành
vi nguy hiểm cao cho xã hội, nếu tình hình tội phạm XPTMCCN có xu hướng ngày
càng phổ biến, tính chất nguy hiểm ngày càng cao thì quy định của Luật Hình sự
cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội
phạm: quy định tội phạm mới, quy định hình phạt mới, tăng mức hình phạt, quy
định các tình tiết tăng nặng TNHS mới…
- Thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các tội
XPTMCCN. Xuất phát từ mối liên hệ, tác động biện chứng giữa xây dựng pháp luật
và thực hiện pháp luật: Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn pháp lý, thực tiễn
thực hiện pháp luật, biết được những phản ứng của xã hội đối với “sản phẩm” do
mình làm ra để tiếp tục hoàn thiện. Thực hiện pháp luật lại trở thành thực tiễn sinh
động để kiểm nghiệm chất lượng xây dựng pháp luật. Thực tiễn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử, thi hành án đối với các tội XPTMCCN sẽ cho thấy những quy định
về các tội XPTMCCN đã phù hợp hay chưa, còn những bất cập gì có thể gây khó
khăn cho hoạt động định tội danh và quyết định TNHS, thi hành án. Đây là cơ sở
thực tiễn quan trọng để hoàn thiện quy định của PLHS, nâng cao hiệu quả đấu
78
tranh, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành
vi XPTMCCN phải dựa trên cơ sở thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án đối với nhóm tội phạm này.
Là nhóm hành vi thường xuyên xảy ra trên thực tế, xâm phạm đến các
quyền thiết thực nhất của con người nên các tội XPTMCCN từ lâu đã là đối tượng
nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu khoa học: sách, giáo trình, bình luận khoa
học, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, báo cáo, bài viết tạp chí…
Các công trình nghiên cứu khoa học tiếp cận về tội phạm XPTMCCN ở nhiều góc độ
khác nhau: lý luận, thực tiễn áp dụng, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, phòng
ngừa tội phạm… Qua đó, những sự bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy
định sẽ được phát hiện, phân tích, chỉ rõ để làm tiền đề cho những kiến nghị, giải pháp
hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt
động phòng ngừa tội phạm… Vì vậy, đây sẽ là nguồn “dữ liệu” hữu ích để tham khảo,
làm cơ sở cho hoạt động thể chế hóa bằng PLHS đối với các tội XPTMCCN.
- Kinh nghiệm thể chế hóa bằng PLHS của một số quốc gia đối với các
hành vi XPTMCCN. Nhìn dưới góc độ xây dựng pháp luật nói chung, trong điều
kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì nhu cầu tham khảo kinh nghiệm lập
pháp của nước ngoài là nhu cầu tất yếu. Vì phát triển nền kinh tế thị trường là kinh
nghiệm vốn có của các nước có nền kinh tế thị trường lâu đời hàng trăm năm trong
khi Việt Nam mới có khoảng thời gian không dài phát triển nền kinh tế thị trường từ
một nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Tương tự, việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng là công việc còn nhiều điều mới mẻ mà
chúng ta cần tham khảo các nước trên thế giới. Dưới góc độ xây dựng PLHS, việc
tham khảo quy định của PLHS các nước có hệ thống pháp luật tiên tiến cũng là yêu
79
cầu khách quan. Ngay trong những bộ luật thành văn đầu tiên của các triều đại
phong kiến Việt Nam, có thể thấy sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của
Trung Quốc. Việc kiểm soát, phòng ngừa tình hình tội phạm phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó cần có sự phù hợp trong quy định của PLHS. Vì vậy, chúng ta cần
tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình sự của các nước phát triển, có lịch sử lập pháp
hình sự lâu đời, có sự kiểm soát và phòng ngừa tội phạm tốt như Nga, Đức, Trung
Quốc, Hoa Kỳ…
2.5. Áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của con
người và các yếu tố tác động
2.5.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm tính mạng của con người
- Khái niệm:
Thực thi pháp luật bao gồm nhiều hình thái, trong đó áp dụng pháp luật là
một hoạt động đặc thù. Khác với các hình thức thực thi khác, chỉ cơ quan nhà nước
có thẩm quyền mới được thực hiện quyền hạn này. Mục tiêu tối thượng là đảm bảo
quy phạm pháp luật được tôn trọng và thực thi trong đời sống xã hội. Việc áp dụng
pháp luật diễn ra trong nhiều tình huống, đặc biệt khi có hành vi vi phạm pháp luật
đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước bằng các biện pháp cưỡng chế.
Tội phạm, một hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng, dẫn đến việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Do đó, việc áp dụng pháp luật hình sự
là một thể loại áp dụng pháp luật, được tiến hành khi xảy ra sự kiện pháp lý hình sự,
nhằm xác định và thi hành các biện pháp xử lý thích đáng.. Như vậy, chúng ta có
thể hiểu áp dụng PLHS là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức
cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của PLHS khi có sự kiện pháp
lý hình sự xảy ra và cần xác định các biện pháp TNHS (có áp dụng hay không? áp
dụng biện pháp nào? mức cụ thể…), đảm bảo các quy định của PLHS đi vào đời
80
sống thực tế. NCS cũng đồng tình với quan điểm của GS.TS. Võ Khánh Vinh khi
xác định: “áp dụng PLHS là hoạt động đưa ra quyết định về tính được quy định
trước (hoặc tính không được quy định trước) của các tình tiết thực tế đã được xác
định trong quy phạm PLHS tương ứng và về việc xác định (hoặc không xác định)
biện pháp mang tính chất pháp lý hình sự được quy định trong quy phạm đó” [239,
tr.73]. Theo đó thì áp dụng PLHS không chỉ được thực hiện khi cần truy cứu TNHS
đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, mà còn được thực hiện khi cần
“làm sáng tỏ được hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm
cho xã hội không đáng kể” hoặc khi cần “làm sáng tỏ được những trường hợp loại
trừ TNHS” [239, tr.73,74].
Từ đó, có thể hiểu áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những
quy định của PLHS khi có sự kiện pháp lý hình sự về hành vi XPTMCCN xảy ra và
cần xác định các biện pháp TNHS, đảm bảo các quy định của PLHS về các tội
XPTMCCN đi vào đời sống thực tế. Áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm xâm
phạm tính mạng, thân thể con người bao hàm việc xác định tính chất cấu thành của
các yếu tố khách quan, chủ quan đã được pháp luật quy định. Quy trình này đòi hỏi
sự phân tích, đánh giá toàn diện các tình tiết khách quan, chủ quan của hành vi
phạm tội, so sánh với quy định của luật để kết luận về cấu thành tội phạm. Việc áp
dụng pháp luật còn thể hiện ở việc lựa chọn biện pháp xử lý hình sự phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tuân thủ nghiêm ngặt các
nguyên tắc pháp luật. Kết luận cuối cùng phải đảm bảo tính khách quan, chính xác,
tuân thủ đúng quy định pháp luật hiện hành. Mọi quyết định đều phải có cơ sở pháp
lý vững chắc, tránh tình trạng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, thiếu cơ sở. Áp
dụng PLHS về các tội XPTMCCN không chỉ bao gồm việc định tội danh (đưa ra sự
đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự) và quyết định hình phạt (đối
với các trường hợp chủ thể không được miễn TNHS hoặc hình phạt), mà còn bao
gồm nhiều nội dung khác như: xác định hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm
XPTMCCN nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là
tội phạm; xác định hành vi tuy XPTMCCN nhưng thuộc trường hợp loại trừ TNHS
(phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong
nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ…); xác
81
định các vấn đề miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức
hình phạt đã tuyên, tha tù trước thời hạn có điều kiện, hoãn chấp hành hình phạt tù,
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, xóa án tích, áp dụng các biện pháp tư pháp…
Trong đó, hai nội dung chính của áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là định tội
danh các tội XPTMCCN và quyết định hình phạt đối với nhóm tội phạm này.
Xử phạt tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhà nước (XPTMCCN)
đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng. Việc lựa chọn hình phạt và mức độ nghiêm khắc tuân
thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật, được thể hiện trong quyết định của cơ quan tư
pháp. Quyết định này dựa trên đánh giá toàn diện hành vi phạm tội, tính chất nguy
hiểm cho xã hội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người
phạm tội. Thẩm phán phải xem xét kỹ lưỡng các yếu tố này để đưa ra phán quyết
công minh, phù hợp với khung hình phạt luật định. Quá trình áp dụng pháp luật
hình sự là một hoạt động phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn chặt chẽ.
. Trong đó, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn của quá trình
đó giúp đưa luật hình sự vào đời sống, góp phần thực hiện đường lối, chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nghiên cứu thực tiễn quyết định hình phạt đối
82
với các tội XPTMCCN cũng có ý nghĩa quan trọng góp phần hoàn thiện quy định
của PLHS đối với nhóm tội phạm này.
- Về đặc điểm, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là một loại áp dụng
pháp luật, cũng có đầy đủ các đặc điểm của áp dụng pháp luật:
+ Thứ nhất, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động mang tính
quyền lực nhà nước.
Khác biệt với các hình thức thi hành pháp luật khác, việc áp dụng pháp luật
độc quyền thuộc thẩm quyền cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan, trong phạm vi quyền
hạn được luật định, thực thi các hoạt động pháp luật cụ thể. Riêng hoạt động áp
dụng pháp luật hình sự, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan
được uỷ quyền thực hiện các bước điều tra cần thiết.
Việc áp dụng pháp luật hình sự mang tính độc quyền, tuân theo ý chí nhà
nước, không phụ thuộc ý chí cá nhân bị áp dụng. Không có sự thương lượng giữa cơ
quan nhà nước (Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra...) và người bị can, bị cáo.
Các cơ quan này không hành động vì lợi ích cá nhân, mà đại diện cho toàn thể, thể
hiện uy quyền tối thượng của pháp luật quốc gia. Quyền lực nhà nước được thực thi
khách quan, công bằng và nghiêm minh.
Cũng không thể có sự thỏa thuận giữa một bên là bị can, bị cáo với một bên
là bị hại (hoặc đại diện của họ) đối với việc áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN.
Các tội XPTMCCN không thuộc những trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo
yêu cầu của bị hại. Dù bị hại (hoặc đại diện của họ) có muốn hay không thì nhà
nước vẫn truy cứu TNHS đối với người phạm tội.
Luật pháp bắt buộc áp dụng đối với cá nhân và tổ chức liên quan. Chỉ cơ
quan nhà nước có thẩm quyền mới được ban hành văn bản pháp luật mang tính
cưỡng chế. Việc thi hành các quyết định, văn bản pháp luật đã có hiệu lực là điều
kiện tiên quyết. Nhà nước có quyền sử dụng biện pháp cưỡng chế khi cần thiết để
đảm bảo tính hiệu lực của pháp luật.
+ Thứ hai, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN được tiến hành theo trình
tự, thủ tục do pháp luật quy định;
Luật pháp quy định chặt chẽ về cơ sở pháp lý, điều kiện, trình tự, thủ tục,
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính
(PLHS). Do tính chất nghiêm trọng và phức tạp của PLHS, hậu quả bất lợi đối với
83
người bị áp dụng là không thể xem nhẹ.. Các tội XPTMCCN xâm hại đến khách thể
có tầm quan trọng đặc biệt (quyền sống của con người) nên pháp luật quy định trách
nhiệm pháp lý đối với người phạm tội rất nghiêm khắc. Nếu áp dụng không đúng,
gây oan, sai sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng, gây ra những hậu quả không thể khắc
phục cho người bị áp dụng. Vì vậy, việc giải quyết vụ án hình sự về các tội
XPTMCCN phải được tiến hành theo những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình
sự. Việc thực thi pháp luật về tố tụng đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm minh các thủ tục. Bất
kỳ sự tùy tiện nào đều có thể gây ra những sai sót nghiêm trọng trong việc áp dụng
pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Do đó, các bên liên quan cần hết
sức thận trọng..
+ Thứ ba, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động cá biệt hóa
quy phạm PLHS đối với từng trường hợp cụ thể;
Áp dụng pháp luật hình sự (PLHS) cụ thể hóa các quy tắc xử sự chung
thành mệnh lệnh pháp lý dành riêng cho từng trường hợp, từng chủ thể. Khác với
văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực phổ quát, điều chỉnh rộng rãi quan hệ xã
hội, PLHS chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh từ sự kiện pháp lý
hình sự. Quá trình áp dụng PLHS giúp các quy định về tội phạm, đặc biệt là tội
phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, thực thi trong đời sống xã hội một cách
chính xác và hiệu quả. Việc cá biệt hóa này đảm bảo tính công bằng và chính xác
của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Mỗi trường hợp đều được xem xét kỹ
lưỡng, đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn.
+ Thứ tư, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động có tính sáng tạo.
Trong quá trình xét xử hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự đòi hỏi sự
nghiên cứu kỹ lưỡng, khách quan toàn bộ tình tiết vụ án. Cơ quan chức năng cần
làm rõ cấu thành tội phạm để lựa chọn và ban hành văn bản pháp luật hình sự phù
hợp, đồng thời tổ chức thực thi nghiêm chỉnh. Các quy định của pháp luật nói chung
và PLHS nói riêng mang tính khái quát cao trong khi đó thực tiễn tình hình tội
phạm XPTMCCN thì phong phú, đa dạng về hành vi, chủ thể, hậu quả, động cơ,
mục đích, hoàn cảnh, thủ đoạn… Bên cạnh đó, nhiều quy định của PLHS cũng có
tính tùy nghi, cho phép chủ thể áp dụng được lựa chọn và sáng tạo trong phạm vi
quy định của pháp luật (những trường hợp có thể được miễn TNHS, miễn hình phạt,
miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; việc lựa chọn loại
84
và mức hình phạt…). Do đó, việc cụ thể hóa các điều khoản Luật Hành chính vào
thực tiễn đòi hỏi sự sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Để đạt hiệu quả, người thực
thi pháp luật cần ý thức pháp lý sâu sắc, am hiểu đa lĩnh vực xã hội, kinh nghiệm dồi
dào, đạo đức nghề nghiệp mẫu mực và trình độ chuyên môn xuất sắc. Sự kết hợp hài
hòa các yếu tố này là then chốt đảm bảo việc thực thi Luật Hành chính hiệu quả..
2.5.2. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm
phạm tính mạng của con người
Với sự phân tích về nội dung, đặc điểm của áp dụng PLHS về các tội
XPTMCCN như ở phần trên, có thể nhận thấy hoạt động này chịu sự tác động của rất
nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, có thể kể đến một số yếu tố chính như sau:
- Chất lượng quy phạm PLHS.
Việc thực hiện pháp luật mật thiết với quá trình hình thành hệ thống quy
phạm pháp luật. Thực thi pháp luật là khâu cuối cùng cụ thể hoá các điều khoản
pháp lý, đưa luật vào thực tiễn đời sống. Do đó, hiệu quả thi hành pháp luật phụ
thuộc trực tiếp vào chất lượng thi hành pháp luật. Muốn đạt hiệu quả cao trong việc
thực thi pháp luật, điều đầu tiên là cần có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Mà
quy phạm pháp luật được xem là những thành tố tạo nên pháp luật. Hệ thống quy
phạm pháp luật phải hoàn chỉnh, đồng bộ, sát thực tế, khả thi, kịp thời, dễ tiếp cận,
không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế… Quy phạm pháp luật phải
được xây dựng bằng ngôn từ chính xác, phổ thông, cách diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu…
Trong lĩnh vực hình sự cũng vậy, hoạt động áp dụng PLHS chịu sự điều
chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau (từ quá trình tiếp nhận tin báo, tố giác đến
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án), mà trực tiếp nhất là quy định của
PLHS. “Quy phạm PLHS được hiểu là quy tắc xử sự được nhà nước ban hành và
bảo đảm thực hiện bằng cách áp dụng các biện pháp tác động mang tính chất hình
sự đối với người phạm tội” [239, tr.26]. Một đạo luật hình sự chứa đựng nhiều quy
phạm PLHS, gồm hai loại: những quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung
của việc xác định tội phạm và hình phạt; những quy phạm pháp luật quy định các
tội phạm cụ thể và các hình phạt được áp dụng đối với những người thực hiện các
tội phạm đó. Hiệu quả của hoạt động áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN cũng tất
yếu phụ thuộc vào chất lượng của các quy phạm pháp luật quy định các tội
XPTMCCN (từ Điều 123 đến Điều 133 BLHS năm 2015) và những quy phạm pháp
85
luật liên quan. Để hoạt động áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN đạt hiệu quả thì
quy phạm pháp luật quy định về nhóm tội phạm này phải có chất lượng tốt: phải
quy định được đầy đủ các hành vi nguy hiểm đáng kể XPTMCCN đã xảy ra trên
thực tế và có thể xảy ra trong tương lai; phải thể hiện rõ ràng các dấu hiệu của
CTTP (hành vi khách quan như thế nào? Hậu quả có phải là dấu hiệu bắt buộc phải
có hay không? Hình thức lỗi cố ý hay vô ý? Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội
như thế nào, có phải là dấu hiệu bắt buộc phải có hay không? Chủ thể của tội phạm cần
có các điều kiện gì?…); phải phân định rạch ròi về dấu hiệu pháp lý giữa các khoản trong
cùng điều luật, giữa các tội XPTMCCN với nhau, giữa các tội XPTMCCN với các tội
phạm khác; quy định về các loại và mức hình phạt phải phù hợp với tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi; phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết
hoặc tham gia; phải phù hợp với xu hướng quốc tế hóa, nhân đạo hóa; ngôn ngữ được sử
dụng phải chính xác, phổ thông, dễ hiểu, nhất quán…
- Chất lượng đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS.
Áp dụng PLHS vốn dĩ luôn là hoạt động có tính chất phức tạp, phải tuân
theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Nếu thực hiện
không đúng những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thì có thể dẫn đến oan,
sai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người bị áp dụng. Mặt khác, quy
phạm PLHS dù có rõ ràng, chi tiết đến mấy cũng vẫn mang tính khái quát, không
thể liệt kê hết từng trường hợp phạm tội cụ thể. Trong khi đó, thực tiễn tình hình tội
phạm thì “muôn hình muôn vẻ”, không trường hợp nào hoàn toàn giống nhau. Các
chủ thể áp dụng PLHS phải nghiên cứu kỹ lưỡng từng trường hợp phạm tội cụ thể,
vừa phải đối chiếu quy định của pháp luật, vừa phải sáng tạo trong quá trình áp
dụng. Đặc biệt, các tội XPTMCCN là nhóm tội phạm với hành vi rất đa dạng; dễ
nhầm lẫn với những tội phạm khác; nhiều trường hợp đồng phạm phức tạp, số
lượng người tham gia phạm tội nhiều, mức độ tham gia của mỗi người khác nhau,
khó xác định hậu quả chung và mối quan hệ nhân quả với hành vi của từng người;
nhiều trường hợp khó khăn trong việc phát hiện, thu thập, củng cố chứng cứ… Vì
vậy, hiệu quả của hoạt động áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN tất yếu cũng phụ
thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS. Cán bộ áp dụng PLHS cần có đủ
cả “tâm và tầm”; cần có đủ kiến thức về pháp lý, nghiệp vụ, tri thức tổng hợp, kinh
86
nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp, không vì các lợi ích tinh thần hoặc vật
chất mà làm sai sự thật; không quan liêu, chậm trễ, thiếu tinh thần trách nhiệm…
- Mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa các cơ quan THTT hình sự.
Hoạt động áp dụng PLHS là quá trình phức tạp, nhiều giai đoạn với sự tham
gia của các cơ quan THTT như TAND, VKSND, CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Mỗi cơ quan THTT tham gia vào hoạt động áp
dụng PLHS với chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng có sự liên quan chặt chẽ với nhau như
các mắt xích. Kết quả hoạt động của cơ quan này sẽ là tiền đề, cơ sở cho hoạt động của
các cơ quan khác. Vì vậy, để hoạt động áp dụng PLHS đạt hiệu quả, các cơ quan THTT
cần có mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trên cơ sở thực hiện đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách
nhiệm, kiểm soát lẫn nhau để tránh lạm dụng quyền lực khi thực hiện chức năng, nhiệm
vụ. Đặc biệt với tính chất phức tạp của nhiều vụ án XPTMCCN, trong khi quy định của
PLHS vẫn còn có những vướng mắc, nhận thức khác nhau dẫn đến việc áp dụng còn
khác nhau trong thực tiễn. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực của
đội ngũ các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cũng khác nhau, do vậy việc phối
hợp giữa các cơ quan THTT trong áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN có ý nghĩa thực
tiễn quan trọng, góp phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc, đảm bảo tính thống
nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.
Bên cạnh những yếu tố trên, hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS về các tội
XPTMCCN còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: yếu tố kinh tế - xã hội, ý
thức pháp luật của nhân dân, những điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết đảm bảo
cho hoạt động áp dụng PLHS, chủ trương, chính sách của nhà nước về phòng ngừa,
đấu tranh chống tội phạm XPTMCCN…
87
Tiểu kết chương 2
Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN, có thể rút
ra một số kết luận:
Nhiều công trình nghiên cứu lý luận đã đưa ra định nghĩa về các tội
XPTMCCN trên cơ sở xác định khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ
thể của tội phạm. Tuy nhiên, các yếu tố này thể hiện trong định nghĩa vẫn còn khái
quát, chưa thực sự rõ ràng. Vì vậy, việc xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội
XPTMCCN vẫn chưa có sự thống nhất. Trên cơ sở xác định phạm vi cụ thể các điều
luật thuộc nhóm các tội XPTMCCN, kết hợp với định nghĩa tội phạm tại Điều 8,
quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12, quy định về phạm vi chịu TNHS của pháp
nhân thương mại tại Điều 76 BLHS năm 2015, NCS đã xây dựng định nghĩa các tội
XPTMCCN một cách rõ ràng, cụ thể. Từ đó, NCS đã phân tích dấu hiệu pháp lý,
hình phạt, phân loại các tội XPTMCCN và phân biệt các tội XPTMCCN với các tội
xâm phạm sức khỏe của con người và với các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Các
phân tích của NCS có sự kế thừa, phát triển lý luận của các công trình đi trước
nhưng cũng đưa ra những quan điểm, lập luận riêng: hậu quả không phải là dấu hiệu
bắt buộc của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội giết
người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hậu quả chết người cũng không
phải là dấu hiệu để phân biệt tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do
vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…
NCS cũng đã phân tích sự cần thiết và cơ sở của việc thể chế hóa bằng
PLHS đối với các hành vi XPTMCCN. Trong đó, sự cần thiết của việc thể chế hóa
xuất phát từ các nguyên tắc của luật hình sự, từ tính chất của luật hình sự, từ yêu
cầu đảm bảo quyền con người và từ yêu cầu kiểm tra, giám sát việc áp dụng PLHS.
Cơ sở của thể chế hóa bằng PLHS phải dựa trên chính sách hình sự đối với các tội
XPTMCCN, tình hình tội phạm XPTMCCN, thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử các tội XPTMCCN cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
Để có cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về các
tội XPTMCCN (ở chương tiếp theo), NCS cũng đã phân tích khái niệm, nội dung,
88
đặc điểm và các yếu tố tác động đến áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN. Qua đó,
có thể thấy đây là hoạt động phức tạp, sáng tạo, mang tính quyền lực nhà nước, tuân
theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và chịu sự tác động của nhiều yếu tố: chất lượng của
quy phạm PLHS, chất lượng đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS, mối quan hệ phối hợp
giữ các cơ quan THTT hình sự…
89
Chương 3
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính
mạng của con người
3.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính
mạng của con người trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015
3.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có
hiệu lực
- Từ năm 1945 đến năm 1953
Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ
phải đối mặt với muôn vàn khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước nghèo
nàn, lạc hậu; các thế lực thù địch câu kết với nhau dùng nhiều thủ đoạn thâm độc
nhằm đánh đổ chính quyền nhân dân; trình độ, nhận thức của nhân dân còn hạn
chế… Trong hoàn cảnh đó, Nhà nước ta chưa có điều kiện để ban hành đầy đủ các
Sau đó, Nhà nước ta đã lần lượt ban hành các sắc lệnh như: Sắc lệnh số 27-
SL ngày 28/02/1946; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953; Sắc lệnh số 151-SL
ngày 12/4/1953… Trong đó có quy định về xử lý các hành vi XPTMCCN.
90
Nhìn chung, trong giai đoạn này, do nhiệm vụ chính trị của đất nước là
chống giặc ngoại xâm, củng cố chính quyền, diệt giặc đói, diệt giặc dốt nên các
hành vi XPTMCCN được quy định gắn với mục đích nhằm chống lại các phần tử
chống phá cách mạng.
Các tội XPTMCCN “không được quy định một cách cụ thể mà được thể
hiện là sự xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự trị an và chỉ được nói đến
trong các văn bản quy định về một nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo
vệ chính quyền, công sản và một số đối tượng đặc biệt nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ phản đế, phản phong” [52, tr.21].
Về đường lối xử lí, các tội XPTMCCN bị xử lí với nhiều loại và mức hình
phạt nghiêm khắc: tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Ngoài hình phạt chính,
người phạm tội còn có thể bị áp dụng thêm hình phạt bổ sung như “bồi thường thiệt
hại”, “tịch thu một phần hay tất cả tài sản”. Ví dụ, Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày
12/4/1953, trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: “Địa chủ nào… làm hại nhân
dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến
chung thân hoặc xử tử hình, phải bồi thường thiệt hại cho nông dân, bị tịch thu một
phần hay tất cả tài sản”.
- Từ năm 1954 đến năm 1975
Hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn thống nhất, miền Nam
tạm thời bị đế quốc Mỹ và tay sai chiếm đóng sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Tình
hình đó đã hình thành ở nước ta hai miền Nam - Bắc có điều kiện chính trị, xã hội
91
khác nhau. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành căn cứ địa
vững chắc của cách mạng cả nước. Nhằm giải thoát khỏi ách đô hộ của đế quốc Mỹ
và tay sai, thống nhất nước nhà, Miền Nam đã tiến hành cách mạng dân tộc và giải
phóng.. Vì vậy, PLHS thời kỳ này cũng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng đó [149, tr.93]. Việc áp dụng một số điều khoản của pháp luật cũ không còn
phù hợp nữa. Thông tư số 19-VHH ngày 30/6/1955 của Bộ Tư pháp đã chính thức
chấm dứt áp dụng luật lệ của chế độ cũ:
Nghiên cứu PLHS về các tội XPTMCCN trong giai đoạn này có thể thấy
một số điểm tiến bộ như sau:
92
Thứ nhất, đã xác định rõ tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi trở lên: thực tiễn
xét xử cho thấy, những can phạm dưới 14 tuổi tròn không bị truy tố xét xử về tội
giết người. Cho nên, cũng như đối với những loại tội nghiêm trọng khác, có thể nói
TNHS về tội giết người bắt đầu từ 14 tuổi tròn [156, tr.352];
khi công tác hoặc vì nạn nhân thi hành nhiệm vụ; can phạm có nhân thân rất xấu.
Những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt gồm: giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn nhân
hoặc trong tình trạng bị nạn nhân ngược đãi, áp bức tàn tệ; giết người vượt quá
phạm vi phòng vệ cần thiết…
Thứ sáu, đường lối xử lý người phạm tội XPTMCCN đã được quy định rõ
ràng: quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường, trong trường hợp có tình
tiết tăng nặng hay giảm nhẹ; trong trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố
ý gián tiếp; trong trường hợp đồng phạm, phạm tội chưa đạt; khi nào thì có thể và
nên áp dụng hình phạt tử hình, khi nào thì có thể áp dụng án treo, cần xét xử như thế
nào khi vừa có tình tiết tăng nặng đặc biệt, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt…Ví
dụ: hình phạt đối với tội giết người trong những trường hợp thông thường là phạt tù
từ 5 năm đến 20 năm. Đối với những trường hợp giết người đã thành, nếu hình thức
lỗi là cố ý trực tiếp, mức án thông thường là từ khoảng 15 đến 20 năm tù, nếu là
hình thức lỗi cố ý gián tiếp, mức án thông thường là từ khoảng 10 năm đến 15 năm
tù. Đối với những trường hợp giết người chưa đạt, hoặc đối với những kẻ cộng
phạm trong các vụ giết người đã thành, mức hình phạt thấp nhất thường là từ 5 năm
93
tù trở lên có khi đến 10 năm hoặc trên 10 năm… (Điểm 3 Thông tư số 442/TTg
ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa).
- Từ năm 1976 đến trước ngày Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực
Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975 đã trọn vẹn giải phóng miền Nam,
kiến tạo nên đất nước thống nhất. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, toàn dân tham gia
cuộc tổng tuyển cử, lựa chọn đại biểu Quốc hội. Ngày 29 tháng 6 năm 1976, Quốc
hội khóa I họp, hoàn tất việc thống nhất quốc gia về mặt thể chế chính trị. Nghị
quyết ngày 2 tháng 7 năm 1976 của Quốc hội chính thức đổi tên nước ta thành
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ đã công bố hai danh mục gồm
700 văn bản trong đó có nhiều văn bản pháp luật hình sự để thi hành thống nhất
trong cả nước [149, tr.120]. Về các tội XPTMCCN, chỉ có Sắc luật số 03/SL ngày
15/3/1976 được ghi trong danh mục. Như vậy, văn bản này thay thế cho Thông tư
số 442/TTg ngày 19/01/1955 vì Thông tư số 442 không được ghi trong danh mục.
Sắc lệnh số 03/SL ban hành ngày 15/3/1976, cấu trúc gồm bốn chương,
mười hai điều, liệt kê bảy loại tội phạm. Những hành vi vi phạm pháp luật bao gồm:
chống phá nhà nước; xâm hại tài sản quốc gia; xâm phạm thân thể, danh dự công
dân; phạm tội kinh tế; lạm quyền, nhận hối lộ; xâm phạm sở hữu cá nhân; và các
hành vi gây rối trật tự, đe dọa an ninh, sức khỏe cộng đồng. Về các tội XPTMCCN,
sắc luật số 03 quy định tội giết người và tội vô ý làm chết người. Các tội khác chỉ
được nêu chung chung là các tội khác xâm phạm thân thể của người dân. So với
Thông tư số 442, quy định của Sắc luật số 03 về các tội XPTMCCN có một số
hướng dẫn cụ thể hơn, đặc biệt là những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và khung hình
phạt áp dụng cũng nghiêm khắc hơn trước [52, tr.33]. Trong các Báo cáo tổng kết
công tác ngành TAND năm 1976, 1977 cũng đã có những hướng dẫn về một số tình
tiết tăng nặng, giảm nhẹ của tội giết người như: giết người một cách trắng trợn,
công khai trước mặt người khác; giết người gây khủng khiếp trong nhân dân; trường
hợp giết người mà nạn nhân là tề, ngụy cũ; trường hợp giết “ma lai”; trường hợp
người mẹ đẻ giết con đẻ của mình rồi tự sát nhưng không chết; trường hợp giết
người có nợ máu để trả thù…
94
3.1.1.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực đến trước
khi ban hành Bộ luật hình sự 2015
- Bộ luật hình sự năm 1985
BLHS 1985 gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm, tổng cộng 20
chương với 280 điều. Các tội XPTMCCN được quy định tại Chương 2 Phần các tội
phạm cụ thể (Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người) với 8 điều luật từ Điều 101 đến Điều 108. Cụ thể: tội giết người
(Điều 101), tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 102), tội
xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều
103), tội vô ý làm chết người (Điều 104), tội bức tử (Điều 105), tội xúi giục hoặc giúp
người khác tự sát (Điều 106), tội cố ý không giúp người khác đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107), tội đe dọa giết người (Điều 108).
Có thể thấy, việc pháp điển hóa về hình sự lần này đã đánh dấu sự tiến bộ
vượt bậc về kỹ thuật lập pháp hình sự. Quy định của BLHS nói chung và quy định
về các tội XPTMCCN nói riêng có nhiều điểm tiến bộ:
Thứ nhất, tất cả hành vi bị coi là tội phạm nói chung và các tội XPTMCCN
nói riêng đều đã được quy định trong BLHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được
Luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS” (Điều 2), “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS” (Điều 8). Nguồn duy nhất và trực tiếp
của PLHS thời kỳ này là BLHS. Không còn trường hợp “những tội tương tự”, “các
tội khác xâm phạm thân thể của người dân”, không áp dụng nguyên tắc tương tự
trong lĩnh vực hình sự.
95
Thứ hai, có sự phát triển số lượng điều luật quy định về các tội XPTMCCN với
08 điều luật (từ Điều 101 đến Điều 108). Nếu như trước đây, các tội XPTMCCN được
phân định chủ yếu dựa vào hình thức lỗi (giết người hay vô ý làm chết người) thì ở
BLHS năm 1985, nhà làm luật còn căn cứ vào đặc điểm, tính chất nguy hiểm của hành vi
(giết người, bức tử, không giúp người khác, xúi giục hoặc giúp người khác tự sát hay đe
dọa giết người); hoàn cảnh, chủ thể thực hiện hành vi (trong hoàn cảnh phải phòng vệ,
người đang thi hành công vụ…) để quy định các tội phạm cụ thể trong nhóm này cho
phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Thứ ba, việc phân hóa TNHS tiếp tục có sự phát triển thể hiện rõ ở loại và
mức hình phạt giữa các điều luật cũng như giữa các khoản của cùng một điều luật
quy định về các tội XPTMCCN. Ví dụ: phạm tội giết người có thể bị phạt tù từ 12
năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (khoản 1 Điều 101) trong khi phạm tội
đe dọa giết người chỉ bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ
ba tháng đến hai năm (Điều 108). Điều 101, khoản 4, luật hình sự quy định trường
hợp đặc biệt: hành vi giết con mới sinh do chịu ảnh hưởng tư tưởng lạc hậu hay
hoàn cảnh khó khăn, người mẹ sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ (tối đa một năm)
hoặc phạt tù (ba tháng đến hai năm). Mặc dù cùng là tội giết người, mức án sẽ được
xem xét dựa trên tình tiết giảm nhẹ.
96
- Bộ luật hình sự năm 1999
Kể từ Đại hội VI của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước gặt hái nhiều thành
quả đáng kể trên mọi lĩnh vực. Song hành cùng quá trình chuyển đổi kinh tế thị
trường, những hệ lụy tiêu cực đã xuất hiện, làm gia tăng các vấn đề tội phạm, tạo
nên bức tranh an ninh phức tạp.. BLHS năm 1985 dù đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần
nhưng còn nhiều điểm bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện
nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới [149,
tr.161,162]. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999, có hiệu
lực từ ngày 01/7/2000.
So với BLHS năm 1985, quy định về các tội XPTMCCN trong BLHS năm
1999 có một số khác biệt cơ bản như:
Thứ nhất, BLHS năm 1999 tiếp tục có sự phát triển về số lượng điều luật
quy định về các tội XPTMCCN trên cơ sở tách một số điều luật của BLHS năm
1985 thành nhiều điều luật, cụ thể: tội giết người (Điều 101 BLHS năm 1985) được
tách thành 03 tội là tội giết người (Điều 93), tội giết con mới đẻ (Điều 94), tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95). Luật Hình sự năm
1985 điều chỉnh tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe trong thi hành công vụ
nay được phân định rõ ràng hơn. Điều 103 cũ, về tội xâm phạm tính mạng hoặc sức
khỏe, nay được cụ thể hóa thành hai tội danh riêng biệt: tội cố ý gây chết người
(Điều 97) và tội cố ý gây thương tích (Điều 107), cả hai đều trong phạm vi thi hành
công vụ. Tương tự, tội vô ý làm chết người (Điều 104) được chia thành hai tội danh:
tội vô ý gây chết người (Điều 98) và tội vô ý gây chết người do vi phạm quy định
chuyên môn hoặc hành chính (Điều 99). Sự tách bạch này nhằm đảm bảo tính chính
xác và công bằng trong xét xử. Việc tách các điều luật như trên là cần thiết, giúp
phân hóa TNHS, khắc phục một trong những hạn chế của BLHS năm 1985 là quy
định trong cùng một điều luật nhiều trường hợp phạm tội có tính chất và mức độ
nguy hiểm cho xã hội khác nhau quá xa.
97
Thứ ba, khác với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 không quy định các
hình phạt bổ sung có thể áp dụng với các tội XPTMCCN trong một điều luật riêng
mà quy định ngay trong từng điều luật về các tội XPTMCCN. Điều này giúp tạo
thuận lợi cho Tòa án trong việc áp dụng hình phạt bổ sung, tránh bỏ quên hoặc áp
dụng không chính xác.
3.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội xâm
phạm tính mạng của con người
Luật Hình sự năm 2015, Chương XIV (Điều 123-156), cụ thể hóa các tội
phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Ba mươi bốn điều luật
này quy định chi tiết các hành vi phạm tội tương ứng. Trong đó, các tội
XPTMCCN được quy định tại 11 điều luật (từ Điều 123 đến Điều 133). Cụ thể:
- Điều 123. Tội giết người;
- Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ;
- Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;
98
- Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc
do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ;
- Điều 128. Tội vô ý làm chết người;
- Điều 129. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc
quy tắc hành chính;
- Điều 130. Tội bức tử;
- Điều 131. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát;
- Điều 132. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm
đến tính mạng;
- Điều 133. Tội đe dọa giết người.
Nhìn chung, các tội XPTMCCN trong BLHS năm 2015 kế thừa phần lớn
quy định của BLHS năm 1999. Đồng thời, để phù hợp với thực tiễn đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, các tội XPTMCCN trong BLHS năm
2015 có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:
Thứ nhất, Luật hình sự năm 2015 đã bổ sung tội danh giết người trong
trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm vào điều khoản quy định về
tội giết người khi tự vệ quá mức hoặc bắt giữ tội phạm vượt quá giới hạn cho phép
(Điều 126). Việc bổ sung này nhằm làm rõ hơn khung pháp lý về tội phạm nghiêm
trọng này. Việc bổ sung tội phạm nêu trên là phù hợp với đòi hỏi của xã hội, vừa
đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi XPTMCCN, vừa thể hiện tinh
thần nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, góp phần đảm bảo quyền con người theo
tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể:
Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24 BLHS năm 2015)
là một trong những trường hợp loại trừ TNHS mới được bổ sung trong quy định của
BLHS năm 2015 bên cạnh các trường hợp loại trừ TNHS khác (Chương IV BLHS
năm 2015). Ở trường hợp này, người thực hiện hành vi mặc dù đã gây ra những
thiệt hại nhất định cho người bị bắt giữ nhưng mục đích thực hiện hành vi là để bắt
giữ người phạm tội, ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội bỏ trốn. Việc sử
dụng vũ lực, gây thiệt hại cũng là biện pháp duy nhất để bắt người phạm tội. Chính
99
vì vậy, nếu thiệt hại gây ra là cần thiết thì hành vi gây thiệt hại không bị coi là tội
phạm, người thực hiện hành vi được loại trừ TNHS (khoản 1 Điều 24). Trong
trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết thì hành
vi sử dụng vũ lực gây thiệt hại có thể bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi
sẽ phải chịu TNHS (khoản 2 Điều 24). Tuy nhiên, xuất phát từ động cơ, mục đích
thực hiện hành vi (để bắt giữ người phạm tội, vì lợi ích chung của xã hội) nên tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi này thấp hơn hẳn so với các hành vi giết người
thông thường. Vì vậy, cần phải có chính sách xử lí phù hợp, tương tự như quy định
về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Vì lẽ đó, việc bổ sung
tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là phù hợp với
thực tiễn. Việc bổ sung tội phạm này cùng với quy định tại Điều 24 vừa có ý nghĩa tạo
cơ sở pháp lí, khuyến khích người dân chủ động tham gia vào công tác đấu tranh phòng
chống tội phạm; vừa tạo khuôn khổ pháp lí để tránh các hành vi vượt quá mức cần
thiết, lạm dụng hoặc lợi dụng việc bắt người để gây thiệt hại cho người khác.
Thứ hai, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về trường hợp chuẩn bị
phạm tội đối với tội giết người (Điều 123). Cụ thể, khoản 3 Điều 123 quy định:
“Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Quy định này
là phù hợp với quy định tại Phần thứ nhất - Những quy định chung của BLHS năm
2015 về chuẩn bị phạm tội. Cụ thể, Điều 14 BLHS năm 2015 đã liệt kê đầy đủ các
điều luật trong BLHS mà người chuẩn bị phạm tội sẽ phải chịu TNHS. Đồng thời
tại Phần thứ hai - Các tội phạm, những điều luật được quy định tại Điều 14 đều bổ
sung một khoản quy định rõ chế tài trong trường hợp chuẩn bị phạm tội. Theo đó,
đối với các tội XPTMCCN thì chỉ có duy nhất tội giết người mới phải chịu TNHS ở
giai đoạn chuẩn bị phạm tội (khoản 2, khoản 3 Điều 14).
Việc bổ sung điều khoản như trên chủ yếu là điểm mới về kĩ thuật lập pháp
[117, tr.15] còn về nội dung thì hành vi chuẩn bị phạm tội giết người theo quy định
của BLHS năm 1999 cũng phải chịu TNHS. Cụ thể, BLHS năm 1999 quy định
người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì phải
chịu TNHS về tội định thực hiện (Điều 17) và tội giết người là tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (Điều 8, Điều 93).
100
Ngoài việc thay đổi về kĩ thuật lập pháp, quy định tại khoản 3 Điều 123
BLHS năm 2015 cũng là quy định có lợi hơn cho người phạm tội so với BLHS năm
1999 vì mức hình phạt tối đa đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội chỉ đến 05 năm
tù. Trong khi đó, theo quy định của BLHS năm 1999, người chuẩn bị phạm tội giết
người có thể bị phạt đến 20 năm tù (Điều 52, Điều 93).
Thứ ba, BLHS năm 2015 đã sửa đổi tên gọi và nội dung điều luật quy định
về hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 94 BLHS năm 1999, Điều 124 BLHS
năm 2015). Cụ thể:
Về tên gọi, Điều 94 BLHS năm 1999 quy định “tội giết con mới đẻ” nhưng nội
dung điều luật lại quy định cả hành vi vứt bỏ con mới đẻ. Như vậy, tên điều luật chưa
bao hàm được hết các dạng hành vi được mô tả trong điều luật. Vì vậy, Điều 124 BLHS
năm 2015 đã sửa đổi tên gọi của tội này thành “tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ”. Sự thay
đổi này giúp cho tên điều luật phù hợp với các dạng hành vi được mô tả trong điều luật.
Về nội dung, nếu như Điều 94 BLHS năm 1999 chỉ có một khoản quy định về
cả hành vi giết con mới đẻ và hành vi vứt bỏ con mới đẻ thì Điều 124 BLHS năm 2015
tách thành 02 khoản: khoản 1 quy định hành vi giết con mới đẻ, khoản 2 quy định hành
vi vứt bỏ con mới đẻ. Sự thay đổi này giúp làm rõ dấu hiệu pháp lí của từng tội, khắc
phục hạn chế của Điều 94 BLHS năm 1999 về dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Cụ thể:
Đối với Điều 94 BLHS năm 1999, dấu hiệu “đứa trẻ chết” có phải là dấu hiệu bắt buộc
của tội giết con mới đẻ hay không? Hay hậu quả đó chỉ là dấu hiệu bắt buộc của tội vứt
bỏ con mới đẻ? Đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi [63, tr.154]. Tuy nhiên, với quy định
tại Điều 124 BLHS năm 2015 thì vấn đề này đã rõ ràng: tội giết con mới đẻ (khoản 1)
không quy định hậu quả “đứa trẻ chết” là dấu hiệu bắt buộc, tội vứt bỏ con mới đẻ
(khoản 2) quy định hậu quả “đứa trẻ chết” là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.
Ngoài ra, thuật ngữ “con mới đẻ” trong Điều 94 BLHS năm 1999 cũng
được thay thế bằng thuật ngữ “con do mình đẻ ra trong 7 ngày tuổi” trong Điều 124
BLHS năm 2015. Sự thay đổi này giúp xác định rõ hơn đối tượng tác động của tội phạm.
Thứ tư, BLHS năm 2015 đã mô tả rõ hơn hành vi khách quan trong tội xúi
giục hoặc giúp người khác tự sát. Cụ thể:
Điều 101 BLHS năm 1999 không mô tả rõ đặc trưng pháp lí của hành vi
phạm tội. Hành vi khách quan được mô tả trong điều luật cũng chính là tên của điều
101
luật: xúi giục hoặc giúp người khác tự sát. Điều 131 BLHS năm 2015 đã mô tả rõ
dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm: xúi giục người khác tự sát là “kích động,
dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ” (điểm a khoản 1), giúp
người khác tự sát là “tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước
đoạt tính mạng của họ” (điểm b khoản 1). Sự thay đổi này giúp cho quy định của
điều luật được rõ ràng, từ đó tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.
Bên cạnh những điểm mới cơ bản nêu trên, BLHS năm 2015 còn thay đổi
một số thuật ngữ được sử dụng trong các điều luật theo hướng “số hóa”: từ “trẻ
em” được thay thế bằng cụm từ “người dưới 16 tuổi”, từ “nhiều người” được cụ thể
thành “02 người trở lên”. Sự thay đổi này giúp việc định tội, định khung hình phạt
được rõ ràng và thuận tiện hơn. Mặt khác, việc thay từ “trẻ em” bằng cụm từ
“người dưới 16 tuổi” còn giúp quy định của BLHS phù hợp với Công ước của Liên
hợp quốc về quyền trẻ em [41, Điều 1] và không cần thay đổi cho dù Luật Trẻ em
có thay đổi độ tuổi đối tượng được xác định là trẻ em (mặc dù hiện nay Điều 1 Luật
Trẻ em năm 2016 vẫn quy định trẻ em là người “dưới 16 tuổi” nhưng có nhiều
quan điểm cho rằng cần nâng độ tuổi của đối tượng được coi là trẻ em lên “dưới 18
tuổi” như quy định của Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989).
3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm
phạm tính mạng của con người tại Thành phố Hồ Chí Minh
3.2.1. Khái quát tình hình xét xử các tội xâm phạm tính mạng của con
người tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2023
TP.HCM là thành phố trực thuộc trung ương, thuộc loại đô thị đặc biệt, nằm
trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. TP.HCM hiện có 01
thành phố, 18 quận và 05 huyện. Đây cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục
của cả nước. Mật độ dân cư đông nhất cả nước cùng với nhịp sống sôi động bên
cạnh việc mang lại những nguồn lực to lớn cho sự phát triển thì cũng kéo theo nhiều
hệ lụy, mâu thuẫn xã hội ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Tình hình tội
phạm nói chung và tội phạm XPTMCCN nói riêng diễn biến phức tạp.
Bộ máy xét xử - TAND hai cấp TP.HCM gồm TAND TP.HCM và 24
TAND các quận, huyện, thành phố (thành phố Thủ Đức, quận 1, quận 2, quận 3,
102
quận 4, quận 5, quận 6, quận 7, quận 8, quận 9, quận 10, quận 11, quận 12, quận
Bình Tân, quận Bình Thạnh, quận Gò Vấp, quận Phú Nhuận, quận Tân Bình, quận
Tân Phú, huyện Bình Chánh, huyện Cần Giờ, huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn và
huyện Nhà Bè). TAND hai cấp TP.HCM được TAND Tối cao phân bổ 1.201 biên
chế. Tính đến hết năm 2023 đã có 1.172 biên chế, trong đó: TAND cấp thành phố
có 312 biên chế (Thẩm phán: 142, Thẩm tra viên: 18, Thư ký: 126 và công chức
khác: 26); TAND cấp quận, huyện có 860 biên chế (Thẩm phán: 536, Thẩm tra
viên: 09, Thư ký: 269 và công chức khác: 46).
Xét theo phân loại tội phạm được quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015 thì
các tội XPTMCCN bao gồm cả tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng,
tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (đã trình bày tại mục
2.2. của Chương 2). Vì vậy, thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án XPTMCCN bao
gồm cả TAND cấp thành phố và TAND cấp quận, huyện. Theo Báo cáo tổng kết
công tác xét xử hàng năm của TAND các quận, huyện, thành phố và TAND
TP.HCM thì tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án XPTMCCN (từ Điều 123 đến Điều
133 BLHS năm 2015, từ Điều 93 đến Điều 103 BLHS năm 1999) trong giai đoạn từ
năm 2010 đến năm 2023 được thể hiện qua bảng thống kê sau:
Bảng 3.1. Số vụ án và số bị cáo về các tội XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM đã
xét xử trong giai đoạn 2010-2023
NĂM 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 Tổng Vụ 18 139 148 147 138 131 119 98 113 88 97 69 107 107 1519 Bị cáo 29 262 297 269 214 192 188 168 155 129 140 109 158 212 2522 (Nguồn:TAND TP.HCM)
103
Như vậy, trong giai đoạn 2010-2023, trung bình mỗi năm TAND các quận,
huyện, thành phố và TAND TP.HCM đã xét xử hơn 108 vụ án với hơn 180 bị cáo
về các tội XPTMCCN (cao nhất là năm 2012 với 148 vụ, 297 bị cáo; thấp nhất là
năm 2010 với 18 vụ, 29 bị cáo). Đối chiếu, so sánh số vụ án XPTMCCN với số bị cáo
trong các vụ án đó, có thể thấy số bị cáo gấp 1,66 lần số vụ án (2522 bị cáo/1519 vụ).
Điều đó cho thấy nhiều vụ án XPTMCCN là vụ án đồng phạm.
Số liệu về xét xử theo từng điều luật trong nhóm các tội XPTMCCN được
thể hiện qua các bảng thống kê sau:
Bảng 3.2. Số vụ án theo từng điều luật trong nhóm các tội XPTMCCN trên địa
bàn TP.HCM đã xét xử trong giai đoạn 2010-2023
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
Điều
NĂM
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
(93)
(94)
(95)
(96)
(97)
(98)
(99)
(100)
(101)
(102)
(103)
0 2010 16 0 0 0 1 0 0 0 0 1
0 2011 130 1 2 0 4 0 0 0 1 1
0 2012 141 0 1 0 3 1 0 0 0 2
0 2013 141 0 0 0 3 1 0 0 0 2
0 2014 126 0 1 0 6 1 0 0 0 4
0 2015 120 1 2 1 6 0 0 0 0 1
0 2016 106 2 1 0 8 1 0 0 0 1
0 2017 88 4 0 0 5 0 0 0 0 1
0 2018 102 3 2 0 5 0 0 0 0 1
0 2019 81 0 2 0 3 0 0 0 0 2
0 2020 84 0 0 0 8 0 0 0 0 5
1 2021 62 1 0 0 0 1 0 1 1 2
0 2022 99 0 0 0 4 0 0 0 0 4
0 2023 101 0 0 0 3 1 0 0 0 2
1397 1 12 11 1 59 6 0 1 2 29 Tổng 1519
(Nguồn:TAND TP.HCM)
104
Bảng 3.3. Số bị cáo theo từng điều luật trong nhóm các tội XPTMCCN trên địa
bàn TP.HCM đã xét xử trong giai đoạn 2010-2023
NĂM
2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 Điều 123 (93) 27 253 290 262 201 179 173 156 144 122 127 102 148 199 Điều 124 (94) 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 Điều 125 (95) 0 1 0 0 0 1 4 6 3 0 0 1 0 0 Điều 126 (96) 0 2 1 0 1 2 1 0 2 2 0 0 0 0 Điều 127 (97) 0 0 0 0 0 3 0 0 0 0 0 0 0 0 Điều 128 (98) 1 4 3 4 6 6 8 5 5 3 8 0 4 4 Điều 129 (99) 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0 1 0 2 Điều 130 (100) 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Điều 131 (101) 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 Điều 132 (102) 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 Điều 133 (103) 1 1 2 2 5 1 1 1 1 2 5 2 6 7
2383 1 16 11 3 0 1 2 37 7 Tổng 61 2522
(Nguồn:TAND TP.HCM)
Theo thống kê tại các bảng trên, có thể thấy:
- Số vụ án và số bị cáo đã bị xét xử về tội giết người (Điều 123 BLHS năm
2015, Điều 93 BLHS năm 1999) chiếm tỉ lệ đặc biệt cao trong nhóm các tội
XPTMCCN. Trung bình mỗi năm, TAND các quận, huyện, thành phố và TAND
TP.HCM đã xét xử xấp xỉ 100 vụ án với hơn 170 bị cáo về tội giết người, chiếm
91,97% tổng số vụ (1397/1519) và chiếm 94,49% tổng số bị cáo (2383/2522). Số bị
cáo bị xét xử về tội giết người cũng cao gấp 1,7 lần số vụ án giết người đã xét xử
(2383 bị cáo/1397 vụ án). Điều đó cũng cho thấy đa phần các vụ án XPTMCCN có
đồng phạm là vụ án giết người.
- Đứng thứ hai về số lượng là tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS năm
2015, Điều 98 BLHS năm 1999) chiếm 3,88% số vụ (59/1519) và 2,42% số bị cáo
(61/2522). Trung bình mỗi năm xét xử hơn 4 vụ.
105
- Thứ ba là tội đe dọa giết người (Điều 133 BLHS năm 2015, Điều 103
BLHS năm 1999) chiếm 1,9% số vụ (29/1519) và 1,46% số bị cáo (37/2522). Trung
bình mỗi năm xét xử 2 vụ.
- Các tội tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS năm 2015, Điều
94 BLHS năm 1999), tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127
BLHS năm 2015, Điều 97 BLHS năm 1999), tội xúi giục hoặc giúp người khác tự
sát (Điều 131 BLHS năm 2015, Điều 101 BLHS năm 1999) chiếm tỉ lệ đặc biệt
thấp, trong 14 năm chỉ xét xử 01 vụ.
- Đặc biệt, trong giai đoạn 2010-2023 không xét xử vụ án nào về tội bức tử
(Điều 130 BLHS năm 2015, Điều 100 BLHS năm 1999).
Về tình hình án XPTMCCN tại TP.HCM có kháng cáo, kháng nghị và bị
hủy, sửa trong giai đoạn 2010-2023 được thể hiện qua các bảng sau:
Bảng 3.4. Số liệu án XPTMCCN tại TP.HCM có kháng cáo, kháng nghị trong
giai đoạn 2010-2023
Tội danh Số vụ Số bị cáo
Giết người
Giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ 980 0 1270 0
5 5
6 6
1 0 3 0
0 0
0 0 0 0
0 0
Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ Vô ý làm chết người Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Bức tử Xúi giục hoặc giúp người khác tự sát Không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng Đe dọa giết người 1 1
Tổng 993 1285
(Nguồn:TAND TP.HCM)
106
Bảng 3.5. Tình hình án XPTMCCN tại TP.HCM bị hủy,
sửa trong giai đoạn 2010-2023
Án hủy Án sửa
Nguyên Nguyên Nguyên Nguyên Tổng số
nhân chủ nhân khách nhân chủ nhân khách án bị Án đã NĂM quan quan quan quan xét xử hủy,
(Sơ thẩm (Tình tiết (Sơ thẩm (Tình tiết sửa
sai) mới) sai) mới)
2010 2 0 18 18 7 9
2011 1 0 25 139 10 14
2012 1 0 19 148 7 11
2013 0 0 27 147 13 14
2014 2 0 15 138 7 6
2015 3 0 13 131 6 4
2016 0 0 13 119 5 8
2017 2 0 14 98 8 4
2018 0 0 20 113 14 6
2019 5 1 21 88 5 10
2020 2 0 22 97 11 9
2021 0 0 19 69 13 6
2022 1 0 10 107 8 1
2023 0 1 16 107 15 0
2 Tổng 19 102 129 252 1519
(Nguồn:TAND TP.HCM)
Phân tích các bảng trên, có thể thấy:
- Số vụ án có kháng cáo, kháng nghị về tội giết người chiếm tỉ lệ đặc biệt cao
(98,69%) trong tổng số vụ án XPTMCCN có kháng nghị, kháng cáo. Điều này cũng
phù hợp với tỉ lệ số vụ án giết người trong tổng số vụ án XPTMCCN đã xét xử (đã
phân tích ở bảng 3.2).
- Tỷ lệ án hủy do nguyên nhân chủ quan (sơ thẩm sai) là 1,25% (19/1519), tỷ
lệ án sửa do nguyên nhân chủ quan (sơ thẩm sai) là 6,71% (102/1519); tổng tỷ lệ án
107
hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan (sơ thẩm sai) là 7,96%. Tỷ lệ án XPTMCCN bị
hủy, sửa như trên là cao so với tổng tỷ lệ án hình sự nói chung tại TP.HCM bị hủy,
sửa và cũng cao hơn nhiều so với yêu cầu tại khoản 3, Điều 2, Nghị quyết số
96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm
và vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của TAND và công tác thi hành án
(bảo đảm tổng số bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan không
vượt quá 1,5% tổng số các loại án). Điều này cũng phần nào cho thấy tính chất phức
tạp, khó khăn trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.
3.2.2. Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tính mạng của con người
tại thành phố Hồ Chí Minh
3.2.2.1. Thực tiễn định tội danh đúng
Nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử đối với các tội XPTMCCN của
TAND các quận, huyện và TAND TP.HCM trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm
2023 cho thấy nhìn chung việc định tội danh đảm bảo chuẩn xác, đúng người đúng
tội, không làm oan người vô tội. Việc có kháng cáo, kháng nghị đối với những tội
phạm này chủ yếu là do người phạm tội xin được giảm nhẹ hình phạt. Những bản án
về các loại tội phạm này hầu hết đảm bảo phù hợp với CTTP của từng tội.
- Nhiều vụ án đồng phạm phức tạp, có nhiều đối tượng tham gia với vị trí,
vai trò, mức độ tham gia khác nhau; những vụ án mà hành vi cần phân biệt giữa các
tội XPTMCCN với nhau và phân biệt với các tội xâm phạm sức khỏe của con
người… đã được các cơ quan THTT xác định tội danh chuẩn xác. Vụ án dưới đây là
một minh chứng:
Ông Đào Minh M cùng bị cáo Nguyễn Văn Ph và bà Lê Hiếu là bạn bè quen
biết. Do buồn bực vì cãi nhau với ông Trần Trung Đ2 khi làm việc, bà Th xin nghỉ
việc và có kể lại cho bà Bùi Thị Ngọc B (bạn gái bị cáo Ph), bà B kể lại cho Ph biết.
Khoảng 19 giờ 00 ngày 29/11/2015, Nguyễn Văn Ph kêu bà Th đến quán CG
gặp bị cáo Ph và bà B. Sau khi nghe bà Th trực tiếp kể về mâu thuẫn giữa bà với
ông Trần Trung Đ2, bị cáo Ph rủ Nguyễn Đức A, Phạm Công T đi gặp ông Đ2 để
nói chuyện. Trước khi đi, bị cáo Đức A lấy 01 con dao Thái Lan (dài khoảng 20 cm,
lưỡi dao dài khoảng 13 cm, bản rộng khoảng 2 cm, mũi dao nhọn) ở quầy pha chế
trong quán CG đem ra đưa cho Ph. Nguyễn Văn Ph đồng ý việc mang dao khi đi
108
gặp ông Đ2 nên mở giỏ xách đang đeo bên người cho Đức A bỏ dao vào vì bị cáo
Ph cho rằng quán 189 có đông người làm nên nhóm của Ph có thể bị đánh.
Khoảng 23 giờ 00 cùng ngày, các bị cáo Ph, T, Đức A và bà Th đi đến quán
189 tìm ông Đ2. Ông Đ2 đứng trước quán nói “Ở đây khách đông không tiện nói
chuyện” và đi bộ đến trước nhà số 181 đường Đ nên các bị cáo đi theo. Tại đây,
Nguyễn Văn Ph và ông Đ2 cãi nhau về việc do ông Đ2 mà bà Th xin nghỉ việc,
Phạm Công T liền dùng tay tát vào mặt ông Đ2 thì bị ông Đ2 dùng tay đánh lại. Bị
cáo Ph và Đức A thấy vậy nên cùng xông vào đánh ông Đ2. Lúc này, ông Lê Tấn N
(nhân viên làm cùng ông Đ2) thấy Đ2 bị đánh nên tri hô cho các nhân viên trong
quán biết. Bị cáo Đức A quay lại xe Honda Airblade của Ph (dựng trước quán 175
đường Đ), lấy từ trong túi xách treo trên xe con dao Thái Lan, cầm trên tay và quay
lại nơi Ph và T đang đánh nhau với ông Đ2. Cùng lúc đó, Phạm Công T cũng chạy
về phía Nguyễn Đức A nên Đức A đưa con dao cho T. Bị cáo T cầm dao trên tay
phải chạy về phía bị cáo Ph và ông Đ2 đang đánh nhau, T dùng tay trái kéo và đẩy
Ph ra, tay phải cầm dao đâm liên tục 03 nhát vào lưng ông Đ2. Các ông Lê Tấn
N, Trần Nguyễn H1 và Vũ Tuấn C (nhân viên quán 189 đường Đ) thấy ông Đ2 bị
đánh liền lấy ghế nhựa của quán ven đường đuổi đánh các bị cáo Ph, T, Đức A
nhưng cả ba bị cáo bỏ chạy bộ thoát, riêng bà Th không tham gia đánh nhau. Ông
Đ2 được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện nhân dân Gia Định, đến 0 giờ 00 ngày
30/11/2015 thì chết.
Tại bản Kết luận giám định pháp y tử thi số 46-16/KLGĐ-PY ngày 07/01/2016
của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM thể hiện: Trần Trung Đ2 chết do sốc
mất máu cấp bởi vết thương đâm thủng phổi trái và động mạch chủ ngực [169].
Tại bản Cáo trạng số 328/CT-VKS-P2 ngày 03/8/2016 của VKSND TP.HCM đã
truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Ph, Nguyễn Đức A và Phạm Công T về tội “Giết người”
theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn Ph, Nguyễn Đức A, Phạm
Công T khai nhận thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu. Tuy nhiên, bị cáo Ph
không đồng ý với tội danh “Giết người” mà Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét phần tội danh đối với bị cáo.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Ph không thống nhất tội danh Cáo
trạng truy tố. Luật sư cho rằng mục đích Ph gặp ông Đ2 chỉ để hòa giải mâu thuẫn
109
giữa người bị hại và bà Th; Ph mang dao đến hiện trường chỉ nhằm hù dọa, còn việc
ông Đ2 chết là ngoài ý muốn của bị cáo, do đó, không thể hiện tính đồng phạm về
tội “Giết người”. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 245 BLHS,
xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ph về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Tuy nhiên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 400/2016/HSST ngày 30/11/2016
của TAND TP.HCM đã quyết định áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm
1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt Nguyễn Văn Ph 15 (mười lăm) năm
tù về Tội giết người.
Trong vụ án này, NCS cho rằng mặc dù có thể đúng là mục đích Ph gặp ông
Đ2 chỉ để hòa giải mâu thuẫn, nhưng rõ ràng Ph biết Đức A chuẩn bị một con dao
và Ph đã mở túi xách cho Đức A bỏ con dao vào túi xách của Ph. Ph phải nhận thức
được rằng con dao này có thể được sử dụng để gây thương tích hoặc gây hậu quả
chết người, Ph vẫn đồng ý đi cùng với Đức A và Phạm Công T đến gặp bị hại. Ph
cũng đã cùng T và A trực tiếp đánh nhau với Đ2, trong đó T đã dùng dao đâm chết
Đ2. Như vậy, Ph có thể không mong muốn cho hậu quả ông Đ2 chết xảy ra nhưng
có ý thức chấp nhận nếu hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, Ph cũng có lỗi cố ý gián tiếp
trong đồng phạm về Tội giết người. TAND TP.HCM xác định Ph phạm tội giết
người là đúng người, đúng tội. Trên thực tế, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng quyết
định giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm [173].
- Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, người chủ mưu trong đồng phạm được xác
định đúng. Vụ án dưới đây cho thấy rõ nhận xét này. Nội dung vụ án như sau:
Vào khoảng 19 giờ ngày 23/01/2011, Trần Ngọc H, Dương Minh V cùng O, U,
L (chưa xác định lai lịch) thuê phòng số 307 nhà nghỉ “NĐ” địa chỉ đường Đ, Phường
HS, quận B, TP.HCM, để sử dụng chất ma túy. Đến khoảng 00 giờ ngày 25/01/2011,
tất cả trả phòng và thanh toán tiền phòng thì xảy ra mâu thuẫn với nhân viên tiếp tân
nhà nghỉ là anh Nguyễn Thanh T về việc H không đủ tiền trả tiền phòng là 600.000
đồng. Sau đó, anh T điện thoại báo Công an và được Công an Phường HS, quận B đến
mời hai bên về trụ sở làm việc giải quyết. Tại trụ sở Công an phường, H đã mượn tiền
người nhà thanh toán cho nhà nghỉ xong và cùng nhóm bạn đi về.
110
Về đến nhà số 294/83/28 đường X, Phường HB, quận B (nhà Mẹ H) H điện
thoại gặp Huỳnh Tấn Ph (người quen cùng phường) cho biết H mâu thuẫn với nhân
viên tiếp tân nhà nghỉ “NĐ” và nhờ Ph đến đánh nhân viên tiếp tân nhà nghỉ “NĐ”,
Ph đồng ý. H kêu Ph đến ngã tư HX để lấy hung khí, do H cho đàn em mang đến.
Lúc nghe điện thoại của H thì Ph đang ngồi chơi với Nguyễn Ngọc Th1, Nguyễn
Ngọc Th2 và Nguyễn Văn C (bạn của Ph) tại chốt phường đội Phường ML, quận B.
Ph kêu Th1, Th2 và C cùng đi đánh nhau; cả 3 đồng ý. Sau đó Ph chạy xe Dream
chở Th2, còn Th1 chạy xe Wave chở C đến ngã tư HX gặp 02 thanh niên tên HL và
HN (chưa xác định lai lịch) đưa cho Th1 01 cây mã tấu dài khoảng 80cm, đưa cho
C 01 ống tuýp sắt dài khoảng 60cm.
Nhận hung khí xong thì Ph, Th2, Th1 và C đến nhà nghỉ “NĐ” gặp Đặng
Quốc V1 mới thay ca trực cho T. Th2 cầm mã tấu chém 01 nhát vào đầu làm V1
gục xuống, V1 lấy tay đỡ và nhặt cây sắt có sẵn ở quầy tiếp tân chống trả lại thì
Th2, C cầm mã tấu, tuýp sắt, chém, đánh vào đầu, vai, tay V1. V1 kêu cứu thì Th2
và C chạy ra xe gắn máy cho Ph, Th1 chở tẩu thoát đến Cầu S trên đường X, Th2
vứt cây mã tấu xuống sông.
Tại Bản kết luận giám định pháp y số 741/TgT.11 ngày 02/8/2011, Trung tâm
pháp y Sở Y tế TP.HCM kết luận thương tật của Đặng Quốc V1 là 51% vĩnh viễn.
Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc H và luật sư bào chữa cho rằng bị cáo H chỉ
nhờ Huỳnh Tấn Ph đến đánh tiếp viên nhà nghỉ “NĐ” chứ không yêu cầu Ph giết
người. Bị cáo H không có ý định giết người mà chỉ muốn nhờ Ph đánh trả thù, bị
hại cũng không bị chết. Vì vậy H không phạm tội giết người.
Tuy nhiên, TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội giết
người và tuyên phạt H 16 năm tù [174].
Trong vụ án này, NCS cho rằng Tòa án xác định bị cáo H phạm tội giết
người là đúng người, đúng tội. Bởi vì H không chỉ gọi điện nhờ Ph đánh tiếp viên
nhà nghỉ “NĐ” mà còn cho “đàn em” đưa hung khí gồm 01 cây mã tấu dài khoảng
80cm, 01 ống tuýp sắt dài khoảng 60cm cho nhóm của Ph. H phải nhận thức được
rằng những hung khí này khi sử dụng để “đánh” người khác thì hoàn toàn có khả
năng gây hậu quả chết người. Trên thực tế, Ph, Th2, Th1 và C đã dùng mã tấu và
tuýp sắt đánh, chém nhiều nhát vào đầu, vai, tay của bị hại gây thương tích 51%
111
vĩnh viễn. Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, đánh, chém vào vùng trọng
yếu của cơ thể, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của người khác, bị hại
không chết một phần là do may mắn, đã dùng tay đỡ, che đầu. Vì vậy, hành vi của
Trần Ngọc H đã đồng phạm với Huỳnh Tấn Ph, Nguyễn Ngọc Th1, Nguyễn Ngọc
Nguyễn Văn B làm nghề chạy xe ôm, đón khách tại khu vực đường Số 10 và đường
số 1, Ấp H, xã BH, huyện BC, TP.HCM.
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/4/2016, Võ Văn V thuê B chở đến nhà
Quỳnh Bé A (em vợ của V) tại Quốc lộ 50, thuộc ấp 2A, xã BH, huyện BC để rủ Bé
A đi uống bia. B sử dụng xe mô tô biển số 59L2-238.75 chở V đến nhà Bé A. Sau
đó, V tiếp tục yêu cầu B chở về lại khu vực đường Số 10, đường Số 1. Khi đến ngã
tư Nguyễn VL và Quốc lộ 50, thuộc ấp 2, xã BH, V yêu cầu B dừng xe để chờ Bé
A. Trong lúc chờ Bé A, giữa B và V xảy ra mâu thuẫn, B yêu cầu V trả tiền nhưng
V không trả. Khi Bé A đến và dừng xe phía trước đầu xe của B, V liền giật nón bảo
hiểm mà B đang đội đánh liên tiếp vào đầu khiến B té ngã. V tiếp tục nhặt 01 tấm
gạch bể ven đường dài khoảng 25cm đánh 01 cái trúng vào thái dương của B. B
ngồi dậy bỏ chạy thì bị V cầm tấm gạch, nón bảo hiểm đuổi theo. B chạy được
khoảng 06 mét thì bị V dùng nón bảo hiểm đánh trúng 01 cái phía sau đầu. Trong
khi đang trốn chạy, để chống trả lại V và do lo sợ bị cướp xe, B quay lại, sẵn dụng
cụ dùng để khui bia (gắn cùng chùm chìa khóa xe, mà B đang cầm trên tay) có mũi
dao nhọn dài khoảng 04cm (B đã kịp rút ra khỏi ổ khóa xe 59L2-238.75 khi bị V
đánh), đâm 01 nhát vào vùng ngực trái V (bút lục số 55, 59, 63). Sau khi bị B đâm,
V tiếp tục đuổi đánh B nhưng do máu ra nhiều, nên V dừng lại và được Bé A đưa đi
cấp cứu nhưng đã tử vong tại bệnh viện huyện BC, TP.HCM.
112
Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Nguyễn Văn B do Công an
huyện BC lập hồi 21 giờ 20 phút ngày 19/4/2016 ghi nhận như sau: 01 (một) vết
thương rách da hình chấm bi đã tụ máu đường kính khoảng 02cm ở thái dương trán
phải; 01 (một) vết bầm tụ máu sưng đỏ hình ô van đường kính khoảng 04 cm ở trán
thái dương trái.
Đối với vụ án này có nhiều quan điểm khác nhau khi xem xét tội danh của
Nguyễn Văn B:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng B phạm tội “giết người” với tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự: “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do
hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”. Vì B bị V dùng mũ bảo hiểm đuổi
đánh khiến tinh thần của B bị kích động, dẫn đến việc dùng vật nhọn đâm V tử
vong. B vẫn còn đủ bình tĩnh để quay lại, dùng dụng cụ khui bia (gắn cùng chùm
chìa khóa xe, mà B đang cầm trên tay) có mũi dao nhọn dài khoảng 04cm, đâm
đúng 01 nhát vào tim nạn nhân cho thấy tinh thần của B mặc dù có bị kích động
nhưng chưa đến mức bị kích động mạnh;
+ Quan điểm thứ hai cho rằng B phạm tội “giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh”. Vì B làm nghề chạy xe ôm kiếm tiền, đã chở V theo yêu
cầu nhưng V đã không trả tiền mà còn vô cớ tấn công B liên tục, B đã bỏ chạy
nhưng vẫn bị đuổi đánh dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh. Con dao trong chùm
chìa khóa xe đã có sẵn trong tay B vì trước đó B đã rút chùm chìa khóa ra khỏi xe
và cầm trên tay. Trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, B đã đâm bừa 01
nhát vào ngực V, không may nhát đâm lại trúng tim V gây tử vong;
+ Quan điểm thứ ba cho rằng B phạm tội “giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng”. Vì B đang bị V tấn công gây nguy hiểm cho tính mạng, sức
khỏe của bản thân. B đã sử dụng vũ lực để chống trả lại sự tấn công đang hiện hữu,
tuy nhiên việc dùng dao nhọn đâm vào tim bị hại là quá mức cần thiết;
+ Quan điểm thứ tư cho rằng B không phạm tội, hành vi của B là phòng vệ
chính đáng. Vì B đang bị V tấn công liên tục bằng gạch và nón bảo hiểm vào vùng đầu,
B đã cố gắng bỏ chạy nhưng V vẫn đuổi theo để tấn công. Trong tình thế để bảo vệ tính
113
mạng, sức khỏe và tài sản (B sợ bị cướp xe) của bản thân, B đã phải sử dụng dao nhọn
có sẵn trong tay để phòng vệ. B cũng chỉ đâm 01 nhát vào ngực V, việc V tử vong là
không may, nằm ngoài ý muốn của B. Hành vi phòng vệ của B là cần thiết.
Tòa án đã quyết định áp dụng khoản 1 Điều 96 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009 tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng” [176].
NCS cho rằng quyết định của Tòa án như trên là chuẩn xác, đúng người,
đúng tội. Bởi vì:
+ Hành vi tấn công B của V là hành vi nguy hiểm đáng kể: giật nón bảo hiểm
mà B đang đội đánh liên tiếp vào đầu khiến B té ngã, tiếp tục nhặt 01 tấm gạch bể
ven đường dài khoảng 25cm đánh 01 cái trúng vào thái dương của B, B ngồi dậy bỏ
chạy thì bị V cầm tấm gạch, nón bảo hiểm đuổi theo tiếp tục đánh vào sau đầu B.
Những hành vi này nếu không được ngăn chặn kịp thời thì có thể gây thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe của B;
+ Hành vi tấn công của V vẫn đang xảy ra khi B thực hiện hành vi phòng vệ;
+ Hành vi phòng vệ của B chỉ nhằm vào V và gây thiệt hại cho chính người
tấn công, không gây thiệt hại cho những người khác;
+ Hành vi dùng dao nhọn đâm vào ngực trái, gây thủng tim, tử vong cho
người tấn công trong trường hợp này là quá mức cần thiết. Vì tình huống tấn công
của nạn nhân chưa nguy hiểm đến mức người phòng vệ cần phải tước đoạt tính
mạng của người tấn công. B có thể chọn các phương án phòng vệ khác mà vẫn đảm
bảo ngăn chặn hành vi xâm hại như: gây thương tích vào mặt, tay, chân… của
người tấn công.
+ Trong tình huống này, dù tinh thần của B có bị kích động mạnh hay không
thì cũng vẫn thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội giết người do vượt quá giới hạn
phòng vệ chính đáng. Vì CTTP của tội phạm này không quy định dấu hiệu trạng
thái tinh thần của người phạm tội. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng quy định hình phạt nhẹ hơn so với tội giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh (quy tắc định tội danh trong tranh chấp quy phạm).
Và trên thực tế, mặc dù người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo
nhưng TAND cấp cao tại TP.HCM đã quyết định giữ nguyên quyết định về tội
phạm và hình phạt của bản án sơ thẩm [177].
114
3.2.2.2. Những sai lầm trong định tội danh
Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, thực tiễn định tội danh các tội
XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn một số sai lầm, thể hiện:
Thứ nhất, còn nhầm lẫn giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bản án của vụ án hình sự dưới đây
cho thấy rõ điều đó:
Trần Văn H5 (SN 1982, ngụ: ấp X1, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An) bị Công
an huyện B bắt ngày 15/01/2013 về hành vi “trộm cắp tài sản” và tạm giữ tại buồng
giam A4 thuộc Nhà tạm giữ của Công an huyện B. Buồng giam A4 gồm có 16 bị can do bị can Lại Văn H làm đại diện buồng (trưởng buồng giam). Trong sinh hoạt hàng ngày, H phân chia các bị can trong buồng giam thành 03 mâm như sau:
- Mâm thứ nhất (còn gọi là mâm trên) gồm có các bị can: Lại Văn H, Lâm
Hoàng T, Võ Ngọc T15, Huỳnh Văn T16 và Nguyễn Hoàng M3 (sinh năm 1981). H
giao cho Lâm Hoàng T được quản lý trật tự trong buồng giam.
- Mâm thứ hai (còn gọi là mâm giữa) gồm có các bị can: Nguyễn Văn H4,
Phạm Nguyễn Xuân M, Trần Viết L, Trần Hoàng V và Huỳnh Tấn D. H giao cho
Nguyễn Văn H4 trực tiếp quản lý, trông coi các bị can ở mâm 3.
- Mâm thứ ba (còn gọi là mâm cuối) gồm có các bị can: Nguyễn Hoàng M3
(sinh năm 1986), Mai Nhật T6, Nguyễn Ngọc P, Trang Hoàng T8, Trần Văn T4 và
Trần Văn H5. H giao nhiệm vụ cho Nguyễn Văn H4 được quyền yêu cầu các bị can
này thực hiện các công việc: Rửa chén, giặt đồ, lau chùi buồng giam, chùi toilet…
Riêng H5 bị nhiễm HIV nên H không cho H5 làm công việc gì.
H tự đặt ra nội quy trong buồng giam, quy định mọi hoạt động bình thường
đều phải xin phép H mới được làm; H không cho phép thì không được làm, nếu tự ý
làm thì sẽ bị “sinh hoạt” (tức là bị đánh). Điển hình như các bị can vi phạm nội quy
trong buồng giam đã bị H nhận đầu vào bồn nước (bị can V, T4) hoặc cho ăn phân
(bị can P, T4). Ngoài ra, đối với các bị can mới nhập buồng giam cũng bị “sinh
hoạt” tức là bị đánh, như sau: H kêu T hoặc H4 thông báo nội quy buồng giam, sau
đó hỏi bị can mới vào: “Ba, sáu, chín chọn số nào?”. Tùy theo bị can đó chọn số thì
sẽ bị đá vào ngực 3, 6 hoặc 9 cái; nếu chống cự thì sẽ bị đánh nhiều hơn. Do H5 bị
nhiễm HIV nên lúc mới vào buồng giam H5 không bị đánh; H5 chọn bị đánh 03 cái
nhưng H cho thiếu và nói nếu H5 có vi phạm gì thì sẽ đánh gấp đôi.
115
Khoảng 16 giờ 30 ngày 19/01/2013 là thời gian các bị can trong buồng giam
A4 đi tắm, do H5 bị nhiễm HIV nên được H cho tắm sau cùng. Trong lúc tắm, tay
H5 còn dính xà bông mà H5 đưa tay vào bồn múc nước. H nhìn thấy nên ra dấu và
nói nhỏ với T đánh H5. H đưa lên 06 ngón tay tức là kêu T đá vào ngực H5 06 cái.
H tiếp tục đưa lên 02 ngón tay tức là kêu T đá vào đầu H5 02 cái nhưng lúc này H5
đang tắm nên T chưa đánh. Sau khi cán bộ quản giáo điểm danh buồng giam xong,
H tiếp tục kêu T xuống đánh H5 và H4 đi theo sau T. T kêu các can phạm ở mâm 3
xếp hàng, ngồi “chấp hành” (tư thế ngồi xếp bằng, hai tay để sau lưng, dựa lưng vào
tường). T đi đến chỗ H5 ngồi, hỏi H5 biết tội gì không. T nói lỗi cho H5 nghe rồi
đưa chân đá vào ngực H5 nhưng H5 đứng dậy xô T ra và bỏ chạy về hướng cửa
buồng giam. Thấy H đang đứng ở cửa buồng giam nên H5 sợ và chạy vào góc
buồng giam rồi bị té ngã.
Do H5 phản ứng lại việc “sinh hoạt”, các bị can khác trong buồng giam đuổi
theo và dồn H5 vào góc buồng giam để đánh. Kết quả điều tra xác định được các bị
can T, M3 (sinh năm 1981), Xuân M, H4, L1, V có xông vào đấm, đá vào người
H5; mỗi người đánh H5 khoảng 02 – 03 cái.
Sau đó, H nhìn thấy H5 bị chảy máu ở mí mắt dính vào mền, gối đang để ở
góc buồng giam nên H ra lệnh: “Lôi nó ra ngoài trói lại đánh nó cho tao, có gì
trong ngoài tao lo hết”. Theo lệnh của H, các bị can H4, L1, V, Xuân M kéo H5 ra
giữa buồng giam. H kêu các bị can Xuân M, L1, V, T8, T6, M5 (sinh năm 1986),
T4 giữ tay chân H5 để cho H5 nằm ngửa, Xuân M dùng nùi giẻ cột và giữ miệng
H5 lại không cho H5 kêu la. T và H4 thay phiên dùng chân đạp vào vùng ngực,
bụng của H5; mỗi người đạp khoảng 05 – 06 cái. T lấy chai Sting có chứa nước
đánh vào đầu H5 01 cái làm nắp chai văng ra ngoài. H kêu T lấy cục nước đá được
quấn trong cái khăn để đánh H5. T dùng cục nước đá được quấn trong cái khăn
đánh vào vùng ngực, bụng của H5 khoảng 05 – 06 cái. Lúc này, H5 có xin H đừng
đánh H5 nữa, nhưng H không đồng ý và nói: “Tao đối xử tốt với mày, sao mày dám
chống lại tao”, rồi kêu Xuân M tiếp tục đánh H5. Xuân M lấy dép đánh vào cổ của
H5 khoảng 03 – 04 cái. Sau đó, H kêu H4 tiếp tục đánh H5. H4 dùng cục nước đá
được quấn trong cái khăn đánh vào vùng ngực, bụng của H5 khoảng 05 – 06 cái. H
kêu các bị can khác đỡ H5 ngồi dậy rồi chỉ H4 đánh vào hình xăm con đại bàng trên
lưng của H5. Vừa đánh, H4 vừa nói: “Đánh cho con đại bàng của mày gãy cánh
116
luôn” và đánh được khoảng 05 – 06 cái thì bể cục nước đá. Thấy H4 mệt, H kêu L1
và Xuân M lấy cục nước đá được quấn trong cái khăn tiếp tục thay phiên đánh H5
mỗi người đánh khoảng 03 – 04 cái nữa.
Đến giờ ăn cơm nên H kêu M3 (sinh năm 1981) và T trói tay chân H5 lại, lôi
H5 bỏ xuống sàn nước để các bị can khác dọn dẹp buồng giam dọn cơm ra ăn,
không cho H5 ăn cơm. Khi ăn cơm xong, H kêu một số bị can lôi H5 lên trên buồng
giam, ngồi dựa lưng vào tường để lấy chỗ rửa chén.
Lúc này, H thấy H5 mệt, tưởng rằng H5 giả vờ nên H ra lệnh cho các can phạm ở
mâm 3 tiếp tục đánh H5 nhưng không ai đánh. Thấy vậy, H ra lệnh cho T8 đánh H5. T8
đi lại đá nhẹ vào người H5 02 cái. Thấy H5 tiếp tục mệt, thở yếu, H kêu các bị phạm
khác thay đồ và thoa dầu cho H5. Thấy H5 vẫn không có biểu hiện khỏe lên, H kêu H4
báo cho cán bộ quản giáo đưa H5 đi cấp cứu, đến khoảng 20h30 cùng ngày thì H5 chết.
Ngày 18/02/2013, Trung tâm Pháp y TP. HCM có kết luận giám định pháp y
tử thi số 51/GPTT.13 kết luận nguyên nhân chết của Trần Văn H5 là do “Đa chấn thương, não sung huyết; gãy nhiều xương sườn; hai phổi dập rải rác; vỡ tĩnh mạch chủ dưới; dập gan và cơ hoành trái”.
TAND TP.HCM đã tuyên bố các bị cáo Lại Văn H, Lâm Hoàng T, Nguyễn
Văn H4, Phạm Nguyễn Xuân M, Trần Viết L, Trần Hoàng V, Nguyễn Hoàng
M3 (sinh năm 1981), Trần Văn T4, Mai Nhật T6, Nguyễn Hoàng M3 (sinh năm
1986), Trang Hoàng T8 đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định
tại khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gây thương tích,
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà dẫn đến chết người) với nhận định
rằng: Khi thấy nạn nhân H5 mệt, khó thở, tất cả các bị cáo đều dừng lại và xoa dầu,
thay quần áo cho nạn nhân, đồng thời đã thông báo cho cán bộ quản giáo biết để
đưa nạn nhân đi cấp cứu. Vì vậy, về mặt chủ quan của các bị cáo đều không có ý
thức tước đoạt mạng sống của nạn nhân, các bị cáo không bỏ mặc, bàng quan để
mặc hậu quả nạn nhân chết xảy ra... [178].
NCS cho rằng việc xác định các bị cáo trên phạm tội cố ý gây thương tích là
chưa chính xác. Bởi vì:
- Để phân biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp có hậu quả chết người xảy ra thì
cần xác định lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đối với hậu quả chết người đã xảy ra.
Ở tội giết người, chủ thể cố ý đối với hành vi và cố ý đối với hậu quả chết người
117
xảy ra, tức là họ mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra.
Ngược lại, ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,
chủ thể mặc dù cố ý với hành vi nhưng lại vô ý với hậu quả chết người xảy ra, tức là
họ không mong muốn và cũng không có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy
ra. Việc hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự liệu của chủ thể [52, tr.146], [214,
tr.55,88], [219, tr.112].
- Để xác định lỗi của chủ thể đối với hậu quả chết người đã xảy ra là lỗi cố ý
hay lỗi vô ý thì cần làm rõ: Chủ thể thực hiện hành vi có thấy trước hành vi của
mình tất yếu hoặc có thể gây ra hậu quả chết người hay không? Nếu họ không thấy
trước điều đó thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi
vô ý. Nếu họ thấy trước hành vi của mình là tất yếu gây ra hậu quả chết người thì
hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi cố ý (trực tiếp).
Nếu họ thấy trước hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả chết người thì cần xem
họ mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra (nếu
mong muốn hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, nếu chấp
nhận hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý gián tiếp, nếu loại trừ khả
năng hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là vô ý vì quá tự tin) (đã phân tích
cụ thể tại tiểu mục 2.3.1.1 của Chương 2).
- Trong vụ án này, mặc dù biết người bị hại Trần Văn H5 bị nhiễm HIV, có
sức khỏe yếu và chỉ vì một lỗi nhỏ của người bị hại trong quá trình sinh hoạt; thực
hiện sự chỉ đạo của bị cáo H, các bị cáo đã thực hiện một chuỗi liên tục các hành vi
dùng vũ lực, tấn công liên tiếp với quyết tâm cao và dã man đối với người bị hại.
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới việc người bị hại tử vong. Việc các bị cáo T,
H4, L1, Xuân M cùng với sự giúp sức của các bị cáo khác thực hiện sự chỉ đạo của
bị cáo H dùng tay, chân, chai nước và cục nước đá có quấn khăn đánh liên tiếp vào
các vùng trọng yếu trên cơ thể người bị hại đã thể hiện ý chí trong quá trình thực
hiện hành vi phạm tội của các bị cáo này. Các bị cáo phải biết được với hành vi như
trên của mình hoàn toàn có thể dẫn đến chết người nhưng vẫn thực hiện, cho thấy
các bị cáo chấp nhận hậu quả chết người có thể xảy ra. Hành vi phạm tội của các bị
cáo đã thể hiện tính côn đồ, hung hãn, coi thường tính mạng người khác và thực tế
những hành vi đó đã tước đoạt sinh mạng của Trần Văn H5.
- Nhận định và đánh giá của Tòa án cấp sơ thẩm là không phản ánh đúng các
tình tiết khách quan cũng như hậu quả xảy ra trong vụ án, bởi vì hành vi khách quan
118
của các bị cáo đã rõ, những hành vi đó đã thể hiện ý thức chủ quan của các bị cáo
trong quá trình thực hiện tội phạm; hậu quả xảy ra và nguyên nhân tử vong của
người bị hại đã minh chứng cho điều này. Việc nhận định cho rằng, các bị cáo
không có ý thức bỏ mặc hoặc không mong muốn hậu quả chết người xảy ra... ở
trường hợp này của Tòa án cấp sơ thẩm là không phản ánh được ý chí của các bị
cáo trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.
Với những phân tích như trên, NCS cho rằng cần xác định các bị cáo đã nêu
tên ở trên phạm tội giết người với tình tiết định khung tăng nặng là “có tính chất
côn đồ” mới đảm bảo đúng người, đúng tội.
Và thực tế, trên cơ sở kháng nghị của VKSND TP.HCM, TAND cấp cao tại
TP.HCM đã tiến hành xét xử phúc thẩm và tuyên bố các bị cáo Lại Văn H, Lâm
Hoàng T, Nguyễn Văn H4, Phạm Nguyễn Xuân M, Trần Viết L, Trần Hoàng V,
Nguyễn Hoàng M3 (sinh năm 1981), Trần Văn T4, Mai Nhật T6, Nguyễn Hoàng
M3 (sinh năm 1986) và Trang Hoàng T8 phạm tội “Giết người” theo quy định tại
điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 [179].
Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 10/11/2015, sau khi uống bia với bạn, Huỳnh
Trung N về phòng trọ tại địa chỉ số C4/6R ấp 3, xã K1, huyện K2, TP.HCM. Khi đi
ngang qua vị trí mà nhóm của Nguyễn Hoài A, Trần Đức C, Vũ Trí S, Vũ Trí P
đang ngồi uống bia tại trước phòng trọ của A (cùng dãy phòng trọ với gia đình của
N, cách khoảng 5m), N nghe tiếng nhóm của A chửi và nghĩ là nhóm của A chửi
mình. Huỳnh Trung N về phòng trọ lấy xe mô tô biển số 84E1 081.53 chạy ra
đường Bờ Xe Lam một đoạn rồi dừng lại gọi điện thoại cho Huỳnh Văn D (anh, em
bà con với N), yêu cầu D hỗ trợ đánh nhóm của A. Lúc này, D đang uống bia với W
và 2 bạn của W (đều không rõ lai lịch), liền nói N đến chỗ của D, tại quán vịt quay
trên đường Hưng Nhơn, xã K1, huyện K2, TP.HCM.
Khi đến N rủ D đi đánh nhau thì D, W và 01 người bạn của W đồng ý. N
điều khiển xe mô tô biển số 84E1-081.53 chở D chạy trước. Trên đường đi, N nhặt
lấy cây tầm vông dài khoảng 1,15m để đánh nhau với nhóm A đang ngồi uống bia.
Khi cách phòng trọ khoảng 30m, N một mình đi bộ vào trong, còn D và những
người đi cùng đứng bên ngoài. N tay cầm cây tầm vông đến chỗ A, C, S và P đang
119
ngồi uống bia, đánh vào người A, nhưng bị A đưa ghế nhựa lên đỡ, đồng thời ôm
ngang người N lôi ra ngoài định đánh. Bà Thạch Thị C (mẹ của N) đang ở phòng trọ
nghe tiếng N liền chạy ra can ngăn. N bỏ lại cây tầm công chạy ra kêu D, W vào
đánh nhau với nhóm của A. N, D, W lượm đá ven đường ném về phía nhóm của A.
Bị ném đá, C bỏ vào phòng trọ, còn A, P, S lấy vỏ chai bia ném trả lại về phía nhóm
của N. P nhặt cầm tầm vông N làm rơi trước đó, cùng A, S (mỗi người cầm 2 vỏ
chai bia) đuổi đánh nhóm của N. Khi đến đầu hẻm trước nhà số C4/6E, ấp 3, xã K1,
huyện K2, TP.HCM, nhóm của A đuổi kịp nhóm của N. P đánh N bằng cây tầm
vông nhưng không trúng liền ôm vật N ngã xuống đường. S và A chạy đến cùng P
đánh N. Bà O chạy đến lấy thân mình che cho N, nên cũng bị đánh. D và W thấy N
bị đánh bỏ chạy ra đầu hẻm lấy xe về.
Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1464/TT.15 ngày 08/12/2015,
Trung tâm pháp y Sở Y tế TP.HCM kết luận Vũ Trí S chết do chấn thương sọ não.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn L cho rằng bị cáo không cố ý gây ra
cái chết cho bị hại, phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng. Tuy nhiên, TAND TP.HCM vẫn xác định Huỳnh Văn L phạm tội giết người
theo quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 vì cho rằng bị cáo L dùng cây
đánh vào đầu nạn nhân là vùng trọng yếu của cơ thể và bị cáo không bị nạn nhân
tấn công nên không thể coi là phòng vệ chính đáng.
Trong vụ án này, NCS cho rằng:
- Lập luận của luật sư bào chữa về lỗi của bị cáo L đối với cái chết của bị hại
là không phù hợp. Không thể nói rằng L không cố ý gây ra cái chết cho bị hại vì
hành vi của L là dùng gậy đánh vào đầu bị hại, đây là hành vi có tính nguy hiểm cao
và có thể gây hậu quả chết người, bị cáo nhận thức được điều đó nhưng vẫn thực
120
hiện hành vi chứng tỏ bị cáo có ý thức chấp nhận hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp)
hoặc mong muốn cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp);
- Lập luận của Tòa án cho rằng bị cáo L phạm tội giết người vì bị cáo dùng
cây đánh vào vùng trọng yếu của cơ thể và bị cáo không bị nạn nhân tấn công nên
không thể coi là phòng vệ chính đáng cũng chưa thực sự phù hợp:
+ Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của bản
thân người bị tấn công, mà còn có thể bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ
chức, của người khác. Hay nói cách khác, không chỉ có người nào bị tấn công mới
được phép phòng vệ, mà bất kỳ ai cũng có thể thực hiện quyền phòng vệ chính đáng
để bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cá nhân hoặc của xã hội;
+ Trong vụ án này, mặc dù N (con của L) là người gây sự trước, nhưng sau
đó N đã bị vật ngã xuống đường và bị S, A, P cùng xông vào đánh. Lúc này thì tính
mạng, sức khỏe của N đang bị đe dọa, đây cũng là những khách thể quan trọng
được luật hình sự bảo vệ và bất kỳ ai khi chứng kiến tình huống này cũng được
quyền phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của N đang bị đe dọa;
+ Huỳnh Văn L (cha của N) trước đó không hề có mâu thuẫn với S, A, P.
Khi L biết sự việc đánh nhau, chạy đến hiện trường thì thấy N đang nằm ngã dưới
đường và bị S, A, P đánh, bà O (vợ của L, mẹ của N) đang che cho N nên cũng bị
đánh, chị X (con của L, em của N) can ngăn nhưng không được, A lại đang giơ cây
tầm vông định đánh N. Rõ ràng trong tình huống này, L được phép và cần thiết phải
phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con trai và vợ;
+ Khi giật được cây tầm vông từ tay A, L chỉ đánh 01 cái vào đầu A. Khi bị
S cầm cây đánh vào lưng, L cũng chỉ quay lại đánh trả 01 cái vào đầu S. Khi S ngã
xuống, N (con của L) đã chạy thoát được thì L không tiếp tục đánh nữa mà ném cây
tầm vông rồi về phòng trọ. Điều đó cho thấy mục đích sử dụng vũ lực của L chỉ là
để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con và vợ L;
+ Đáng lẽ L không nên dùng gậy đánh vào đầu bị hại vì đó là phần trọng yếu
trên cơ thể, khi bị tác động mạnh dễ dẫn đến hậu quả chết người, mà L có thể đánh
vào tay, chân, lưng… của A và S thì hợp lý hơn, có thể được chấp nhận là phòng vệ
chính đáng. Hành vi của L đã vượt quá mức cần thiết khi phòng vệ.
Với những phân tích như trên, NCS thấy rằng trong trường hợp này cần xác
định Huỳnh Văn L phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
mới phù hợp.
121
tiếng, anh Thọ cùng chị Trinh và chị Mai can ngăn, chị Mai kéo anh Hiếu đi ra khỏi
phòng. Sau đó, anh Hiếu quay vào phòng chửi H, H nói: “Từ nay tao không chơi với
mày nữa”. Anh Hiếu lao vào dùng tay đánh 01 cái trúng vào mặt bên trái của H. H
cúi người xuống lấy dao bấm để dưới sàn nhà, cầm dao bằng tay phải (lưỡi dao
hướng ngón cái) đâm 01 nhát vào đùi trái của anh Hiếu. Anh Hiếu xông vào giằng
co để giật lấy con dao trên tay H nhưng không giật được. H thấy đùi của anh Hiếu
chảy máu nên xếp con dao bấm lại bỏ vào túi quần rồi đón xe buýt về nhà tại số
2221/1/2/1/15/1 Đường H, khu phố 7, thị trấn N, huyện N, TP.HCM (bút lục 60-
61). Còn anh Hiếu được chị Trinh và chị Mai đưa đến Bệnh viện đa khoa quận 7
cấp cứu nhưng đã tử vong trên đường đến bệnh viện.
Tại bản Kết luận giám định số 301-19/KLGĐ-PY ngày 15/03/2019 của
Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM kết luận giám định pháp y tử thi Đặng
122
Thanh Hiếu như sau (bút lục 45-46): “Nguyên nhân chết: Đặng Thanh Hiếu chết do
sốc mất máu không hồi phục do vết thương đâm đứt động tĩnh mạch đùi trái”.
TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Đào Thanh H phạm tội “Giết người” theo
quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 [180].
NCS cho rằng việc xác định bị cáo Đào Thanh H phạm tội giết người trong
vụ án này là chưa thực sự chính xác. Bởi vì:
- H chỉ đâm vào đùi bị hại và chỉ đâm đúng 01 nhát. Khi bị hại tiếp tục xông
vào giật dao của bị cáo thì bị cáo H vẫn không đâm nữa. Điều đó cho thấy rõ ràng bị
cáo chỉ muốn dùng dao gây thương tích cho anh Hiếu và cũng để anh Hiếu không
dám đánh bị cáo nữa. Nếu muốn giết anh Hiếu, rõ ràng bị cáo H có điều kiện để
đâm nhiều nhát vào những vùng trọng yếu của cơ thể như ngực, đầu, cổ…;
- Vì đã lựa chọn đâm vào đùi bị hại (không phải là vùng trọng yếu của cơ
thể) nên bị cáo H cũng không ngờ vết đâm lại gây đứt động mạch. Bị cáo không
mong muốn và cũng không dự liệu trước hậu quả chết người có thể xảy ra;
- Tham khảo án lệ số 01/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao
thông qua ngày 6/4/2016 thì hành vi của bị cáo H trong vụ án chúng ta đang xem
xét có nét tương đồng với hành vi của bị cáo Mạnh được nêu trong án lệ:
Thậm chí nếu so sánh với vụ việc của bị cáo H mà chúng ta đang xem xét thì
hành vi của bị cáo Mạnh được nêu trong án lệ còn có tính chất nguy hiểm cao hơn,
vì bị cáo Mạnh không hề có mâu thuẫn với nạn nhân, chỉ vì tiền mà nhận lời gây
thương tích thuê, bị cáo cũng đâm bị hại đến 02 nhát [89]. Tuy nhiên, hành vi của
Mạnh mặc dù ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xét xử về tội “giết người”, nhưng
cấp giám đốc thẩm đã xác định hành vi của Mạnh phạm tội “cố ý gây thương tích”
trong trường hợp “dẫn đến chết người”.
Với những phân tích như trên, NCS cho rằng cần xác định hành vi của bị cáo Đào
Thanh H phạm tội “cố ý gây thương tích” trong trường hợp “dẫn đến chết người”.
123
Thứ tư, xác định sai hoặc không thống nhất trong việc áp dụng một số
tình tiết định khung như:
- Xác định không đúng tình tiết “giết 02 người trở lên”.
Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2022/HS-ST ngày 21/9/2022 của TAND
TP.HCM với nội dung vụ án tóm tắt như sau:
Vào khoảng hơn 20 giờ 40 phút ngày 11/9/2020 Phạm Trí Đ và Đoàn
Nguyễn Khắc T6 hẹn đánh nhau tại trước quán T9, địa chỉ số 02 lô B2, chung cư A,
phường T10, Quận X12. Tại đây, Phạm Trí Đ cầm dao, Nguyễn Tấn S5 cầm nón
bảo hiểm, Nguyễn Thanh D4 cầm cục đá cùng Phạm Kiến T8 đánh Trường. Còn
Nguyễn Đức T1, Vũ Tấn T2, Huỳnh Thanh T4, Phạm Tiến D3 và Phạm Vũ Anh K7
được Trường rủ đến quán T9 phụ đánh nhóm của Đ. Trong khi Đ, S5, D4 đuổi theo
nhóm Tuấn T13, còn Kiến T8 đánh T6 thì Đức T1 và Tấn T2 dùng nón bảo hiểm
ném vào Kiến T8. K7 cầm ghế nhựa cùng T1, T6, Tấn T2 đuổi đánh Kiến T8 sang
bên kia đường. Lúc này Thanh T4 nhặt cục đá và cùng Tiến D3 chạy vào phụ nhóm
Trường đánh Kiến T8. Sau đó, Đ, S5, D4 quay lại cùng Kiến T8 đánh lại nhóm của
T6. Hậu quả Đ dùng dao đâm chết T6, đâm T1 bị thương với tỉ lệ 21% (vết thương
thấu ngực gây nguy hiểm cho tính mạng) và đâm Tấn T2 bị thương với tỉ lệ 07%.
TAND TP.HCM đã áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123 (giết 02 người trở
lên và phạm tội có tính chất côn đồ); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17,
Điều 40, Điều 58 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Xử phạt: Bị cáo
Phạm Trí Đ tử hình về tội “Giết người” [170].
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo Phạm Trí Đ lập luận:
Bản án sơ thẩm đã tuyên bị cáo Phạm Trí Đ phạm tội giết người với 2 tình tiết định
khung quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS là: điểm (a) giết 2 người trở lên, và
điểm (n) có tính côn đồ. Toàn bộ bản án sơ thẩm, ngay tại phần đầu bản án và cả
phần tuyên kháng cáo, TAND TP.HCM chỉ nêu anh Đoàn Nguyễn Khắc T6 là
người bị hại, có đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Khắc Công được quyền kháng
cáo, ngoài ra không còn ai khác là người bị hại trong tội danh “Giết người”. Vì vậy
đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm về việc không áp dụng điểm
(a) khoản 1 Điều 123 khi xem xét hành vi của bị cáo.
124
TAND cấp cao tại TP.HCM cũng xác định: Căn cứ các chứng cứ, tài liệu thu
thập được phản ánh trong nội dung vụ án xác định được hậu quả của hành vi xâm
hại làm 01 người chết. Nội dung này phù hợp với việc xác định tư cách người tham
gia tố tụng là bị hại trong bản án sơ thẩm là một người (anh Đoàn Nguyễn Khắc
Tường), không có bị hại nào khác được xác định trong bản án sơ thẩm (kể cả những
người bị gây thương tích). Trong khi đó, phần nhận định và quyết định của bản án
sơ thẩm lại xác định các bị cáo giết nhiều người là chưa phù hợp với phần xác định
tư cách bị hại và hậu quả chết người mà nội dung bản án xác định. Chính vì vậy,
Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy cần phải sửa bản án sơ thẩm theo hướng
không áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự, khi xem xét lượng
hình đối với tội danh “Giết người” của các bị cáo, cho phù hợp với thực tế khách
quan và việc xác định bị hại của vụ án [172].
Trong vụ án này, NCS đồng ý với quan điểm của TAND cấp phúc thẩm. Vì
chỉ có bị hại T6 chết nên cần xác định rõ hành vi đâm T1 bị thương với tỉ lệ 21%
(vết thương thấu ngực gây nguy hiểm cho tính mạng) và đâm Tấn T2 bị thương với
tỉ lệ 07% của bị cáo Phạm Trí Đ là hành vi giết người hay cố ý gây thương tích?
Nếu xác định đó cũng là hành vi giết người thì mới có thể áp dụng tình tiết giết
nhiều người. Nếu xác định đó là hành vi cố ý gây thương tích thì không thể áp dụng
tình tiết giết nhiều người mà cần truy cứu thêm về tội cố ý gây thương tích (việc
phân biệt giữa tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác đã được trình bày chi tiết tại tiểu mục 2.3.1.1 của Chương 2).
Vì T1 và Tấn T2 chỉ bị thương (không chết) nên chỉ có thể xác định hành vi đâm T1
và Tấn T2 của Đ là hành vi giết người nếu Đ mong muốn tước đoạt tính mạng của
họ (lỗi cố ý trực tiếp). Mặc dù hành vi đâm thấu ngực, gây nguy hiểm cho tính
mạng (của T1) là một trong những căn cứ quan trọng để xác định Đ có mong muốn
tước đoạt của nạn nhân hay không nhưng cũng cần phải xem xét thêm nhiều căn cứ
khác và cần phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể là trong quá trình đánh nhau hỗn loạn, xô
xát qua lại nên việc bị cáo Đ có thể đâm bừa, đâm ẩu, không quan tâm đến hậu quả
(lỗi cố ý gián tiếp, không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra).
125
- Xác định không đúng, không thống nhất trong nhận thức và áp dụng
tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ”.
+ Vụ án 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 05/01/2017 của
TAND TP.HCM với nội dung vụ án như sau:
Lúc 18 giờ ngày 21/5/2015, Chuah Chow F đến phòng số 102 khách sạn V
L, số 406 Trần P1, Phường 7, Quận 5, TP.HCM để gặp bạn là Alex K K(tự Ngũ
Kim P2, quốc tịch Mỹ). Trong lúc nói chuyện, Alex K K có hỏi mượn tiền của
Chuah Chow F để mua vé máy bay về Mỹ. Chuah Chow F không đồng ý nên hai
bên xảy ra cãi vã. Alex K K dùng tay phải đánh vào vai phải của Chuah Chow F
nên Chuah Chow F dùng tay phải bóp vào miệng của Alex K K. Trong lúc hai bên
giằng co, Alex K K cầm con dao rọc giấy để trên bàn đâm Chuah Chow F trúng
ngực trái, tạo ra vết thương kích thước 0,5 x 0,1cm. Chuah Chow F dùng tay phải
giật lại con dao của Alex K K rồi dùng tay phải cầm con dao trên đâm vào cổ của
Alex K K và chồm tới nhấn dao mạnh vào cổ và kéo mạnh về hướng bên phải. Alex
K K chụp lấy gạt tàn thuốc bằng thủy tinh trên bàn định đánh Chuah Chow F nhưng
do bị mất máu nhiều nên ngã quỵ xuống sàn nhà và làm gạt tàn thuốc rơi xuống đất.
Alex K K nằm giãy giụa dưới sàn nhà trong vũng máu được một lúc thì bất động.
Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 445-15/KLGĐ-PY ngày 07/07/2015
của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM kết luận về nguyên nhân chết của nạn
126
nhân Alex K K kết luận: “Nguyên nhân chết: Alex K K chết do sốc mất máu không
hồi phục do vết thương đứt động mạch cảnh phải”.
TAND TP.HCM đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 sửa
đổi, bổ sung năm 2009 tuyên bố bị cáo Chuah Chow F phạm tội “Giết người” với
tình tiết “có tính chất côn đồ” [181].
NCS cho rằng việc xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng định
khung “có tính chất côn đồ” như trên là chưa thực sự phù hợp. Bởi vì:
Trong vụ án chúng ta đang xem xét, bị cáo Chuah Chow F không giết bị hại
một cách vô cớ hoặc vì duyên cớ nhỏ nhặt. Khi bị cáo không cho bị hại mượn tiền
thì bị hại cự cãi, chủ động dùng tay phải đánh vào vai phải của bị cáo nên bị cáo
dùng tay phải bóp vào miệng bị hại. Bị hại tiếp tục cầm con dao rọc giấy có mũi
nhọn đâm vào ngực trái của bị cáo. Điều đó cho thấy bị hại có thể muốn tước đoạt
tính mạng của bị cáo và hành vi đó hoàn toàn có thể dẫn đến chết người. Xét ở khía
cạnh khác thì chính bị hại mới là người thể hiện tính côn đồ khi chỉ vì bị cáo không
cho mượn tiền mà sẵn sàng dùng vũ lực tấn công, sẵn sàng dùng dao đâm vào ngực
bị cáo. Trong tình huống đó, tinh thần của bị cáo sẽ rất dễ bị kích động, dẫn đến
việc tước đoạt tính mạng của bị hại.
Với những phân tích như trên, nghiên cứu sinh cho rằng việc áp dụng tình
tiết tăng nặng định khung “có tính chất côn đồ” đối với bị cáo Chuah Chow F là
không chính xác.
127
+ Vụ án 2: Bản án hình sự sơ thẩm số: 433/2018/HSST ngày 16/11/2018 của
TAND TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung như sau:
Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 28/8/2017, Chung Thị Ngọc Tr ngồi uống nước
cùng với Dương Thị Hồng H (là em họ của Tr) và Phan V (là bạn trai của Tr) tại
quán cà phê Up, địa chỉ: 213/6A đường D2, phường 25, quận Bình Thạnh. Lúc này,
Nguyễn Ngọc T (là bạn trai cũ của Tr, đã chia tay khoảng 03 tháng) đi ngang qua
quán cà phê Up và nhìn thấy Tr nên nảy sinh ý định đòi lại 01 điện thoại Iphone 7
plus và số tiền 7.000.000 đồng mà trong thời gian yêu nhau T đưa cho Tr. T đi vào
quán cà phê Up gặp Tr đòi lại điện thoại Iphone 7 plus và số tiền 7.000.000 đồng,
nhưng Tr không đồng ý trả, T giật lấy điện thoại Iphone 7 plus trên tay Tr nhưng
không được. T dùng tay tát vào mặt Tr 01 cái thì V đứng lên giữ tay T lại và đẩy T
ra xa Tr. Tr nói với T “Điện thoại gì mà đòi” và không đồng ý trả nên T nắm tóc
kéo Tr đi thì V ôm can ngăn T lại. Tr và H đi bộ về phòng trọ số 60/13 Ung Văn
Khiêm, Phường 25, quận Bình Thạnh gần đó, còn V và T ở lại quán, V nói với T có
gì từ từ giải quyết nhưng T không đồng ý, đề nghị sang phòng trọ của Tr để nói
chuyện và giải quyết thì V đồng ý, cả hai cùng đi đến nhà trọ của Tr. Do không biết
Tr ở phòng nào nên cả hai đứng trước hành lang lầu 1 nói chuyện. Trong khoảng
thời gian này, Tr, H và Đỗ Thị H1 (là bạn cùng phòng với Tr) đi thang máy xuống
và sang quán cà phê UP tìm T vàV nhưng không thấy nên đi trở lại phòng trọ.
Do không gặp được Tr nên T đi xuống tầng để xe của nhà trọ để đi về và V
đi theo sau. Lúc này, Tr, H và H1 từ quán cà phê về và vào trong nhà trọ thì gặp T và V
tại tầng để xe. Vừa nhìn thấy T, Tr xông vào dùng tay đánh vào mặt T 02 cái. T nắm
được tay Tr thì H1 và H xông vào can ngăn, nắm giữ tay T. Còn V từ phía sau lưng,
dùng tay kẹp cổ T, kéo T ra xa Tr và làm T ngã xuống nền nhà. T vùng dậy, V tiếp tục
ôm, giằng co và đẩy T về phía cầu thang bộ. Lúc này, Tr tiếp tục lao vào đánh 01 cái
trúng vào mặt T, còn V ôm đẩy T (với tư thế mặt đối mặt) làm T ngã ngửa vào bàn bảo
vệ, tay phải chống lên bàn chạm vào con dao (loại dao Thái lan, dài khoảng 25cm, lưỡi
bằng kim loại, cán bằng nhựa màu vàng, đã thu giữ được), tay phải T cầm lấy con dao
vòng tay đâm ngang trúng vào lưng V và tiếp tục đâm 01 nhát vào ngực của V, V kẹp
nách tay cầm dao của của T, T giằng lại con dao đang dính trên ngực V nhưng không
được. Khi con dao được rút ra khỏi ngực V thì V loạng choạng ngã gục xuống nền nhà.
Phan V được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện nhân dân Gia Định nhưng đã tử vong. Người
128
dân xung quanh đến tước lấy dao và bắt giữ T giao cho Công an phường 25, quận Bình
Thạnh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Tại Kết luận giám định pháp ý tử thi số 803-17/KLGĐ-PY ngày 12/10/2017
kết luận: “Phan V chết do sốc mất máu cấp bởi vết thương đâm thấu tim”.
Tòa án đã xác định Nguyễn Ngọc T phạm tội “giết người” theo quy định tại
khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (không áp dụng tình
tiết tăng nặng định khung “có tính chất côn đồ” [182].
NCS cho rằng nếu so sánh với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST đã
nêu ở trên (vụ án 1) thì bị cáo Nguyễn Ngọc T đã thực hiện hành vi giết người vì lí
do “nhỏ nhặt” hơn so với trường hợp của bị cáo Chuah Chow F. Vì T là người chủ
động gây hấn trước (đòi, giật điện thoại của Tr; tát vào mặt Tr, dùng tay nắm tóc Tr
kéo đi); phía bị hại V có nhiều người đi cùng nhưng chỉ có Tr (là phụ nữ) đánh T (là
nam giới), còn V (là nam giới) chỉ giữ, đẩy T chứ chưa có hành vi nào thực sự nguy
hiểm đến tính mạng, sức khỏe của T. Trong tình huống đó, T đã dùng dao đâm 02
nhát vào lưng và ngực bị hại, gây thủng tim dẫn đến tử vong. Trong khi đó, ở Bản
án số 06/2017/HSST xác định bị cáo Chuah Chow F phạm tội “có tính chất côn đồ”
còn ở vụ án này lại không xác định Nguyễn Ngọc T phạm tội “có tính chất côn đồ”.
Điều đó cho thấy sự không thống nhất trong nhận thức về quy định của điều luật và
việc đánh giá các tình tiết của vụ án.
129
130
Mặc dù hướng dẫn không chỉ rõ vụ thể khoảng thời gian bao nhiêu giây, bao
nhiêu phút hay bao nhiêu giờ đồng hồ để xác định là “trong một thời gian rất ngắn”
nhưng rõ ràng là nếu đã qua nhiều giờ từ ngày này sang ngày khác thì không thể coi
là “rất ngắn”, “vừa kết thúc tội phạm trước đã thực hiện ngay tội phạm sau”. Hành
vi phạm tội chỉ được xem là trực tiếp xảy ra trước hoặc sau hành vi giết người nếu
thời gian thực hiện sát nhau, tính bằng giờ hoặc cùng ngày. Khoảng cách thời gian
giữa hai hành vi phải đủ gần để tạo thành chuỗi hành động liền mạch. Ngược lại,
nếu thời gian giữa hai hành vi có khoảng cách đáng kể, hành vi phạm tội trước hoặc
sau đó không được xem là hành vi phạm tội liền kề với hành vi giết người, dù đó là
tội phạm nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Việc xác định tính liền kề phụ
thuộc vào mức độ gần gũi về thời gian giữa các hành vi. [52, tr.196], [117, tr.25,26].
+ Trong vụ án chúng ta đang xem xét, bị cáo Trần Nhật D đã thực hiện hành
vi giết bị hại vào khoảng 20 giờ 30’ ngày 19/5/2014. Khoảng 23 giờ cùng ngày thì
131
D đã biết nạn nhân chết. D đã ngồi chờ cho đến sáng. Sáng ngày 20/5/2014, D vẫn
đi học bình thường. Đến khoảng 13 giờ 30’ cùng ngày, D đem chiếc điện thoại di
động hiệu LG của T bán. Như vậy, D đã giết người từ đêm hôm trước nhưng đến
đầu giờ chiều ngày hôm sau mới mang tài sản của bị hại đi bán, trong khoảng thời
gian đó, D lại vẫn đi học bình thường. Giữa hành vi giết người và hành vi cướp tài
sản cách xa nhau về khoảng thời gian và cũng không có sự liên tục như hướng dẫn
tại Nghị quyết số 04.
- Nhận thức, áp dụng không thống nhất tình tiết phạm tội “vì động cơ đê hèn”.
+ Vụ án 1: Khoảng đầu tháng 02/2017, Tô Út L từ tỉnh Cà Mau lên TP.HCM
sống cùng vợ là chị Nguyễn Thị V và con tại phòng trọ số 10, nhà số 19/21 đường
Nơ Trang Long, Phường 15, quận Bình Thạnh. Vào khoảng 20 giờ 10 phút ngày
15/02/2017, sau khi uống rượu bia, do nghi ngờ vợ có quan hệ bất chính với
người đàn ông khác nên Tô Út L đã cự cãi với vợ là chị Nguyễn Thị V . Sau đó, chị
V đi ra ngoài phòng trọ thì Tô Út L cầm một con dao Thái Lan đi ra theo chị V và
khi đến trước phòng trọ số 23 và hai bên tiếp tục cãi nhau rồi Tô Út L dùng dao đâm
sượt vai phải của chị V thì chị V đánh vào phía sau đầu của Tô Út L làm Tô Út L
chúi đầu về phía trước, tiếp sau đó chị V vòng ra phía sau lưng của Tô Út L để bỏ
chạy thì Tô Út L dùng tay phải cầm dao đâm ngược về phía sau 01 nhát trúng vào
nách bên trái của chị V. Sau khi bị đâm thì chị V dùng tay che vết thương và chạy
đến đầu hẻm thì ngã gục xuống đất, mọi người đưa chị V đi cấp cứu tại Bệnh viện
nhân dân Gia Định, nhưng đến 21 giờ 40 phút cùng ngày thì chị V tử vong.
TAND TP.HCM đã xác định bị cáo Tô Út L phạm tội giết người theo quy
định tại điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 (có tính chất côn đồ) với lập
luận: bị cáo chỉ vì ghen tuông không có căn cứ mà dùng hung khi nguy hiểm đâm
chị V nhát đầu tiên sượt vai, sau đó đâm nhát thứ hai vào điểm trọng yếu trên cơ thể
của chị V, gây nên cái chết của chi V là thể hiện bản tính côn đồ của bị cáo [184].
- Vụ án 2: Hoàng Trọng Đ và bị hại Nguyễn Thị Mộng T có quan hệ tình
cảm với nhau từ năm 2006-2007. Trong thời gian quen nhau, do nghi ngờ chị T có
quan hệ tình cảm với bạn học cũ nên cả hai xảy ra cãi nhau, sau đó Đ chủ động
làm lành. Vào ngày 30/6/2015, Đ điện thoại rủ chị T đến nhà trọ Đ mới thuê tại số
25B T, Phường X2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi chị T đến nhà trọ, Đ và
chị T xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau về việc ghen tuông, tình ái. Đ dùng tay phải kẹp
132
cổ chị T vào giữa khuỷu tay và dùng tay trái của Đ nắm cổ tay phải của Đ kéo ra
sau người của chị T rồi giữ chặt, chị T chống cự nhưng không được. Khi thấy chị T
không cử động, Đ buông tay ra, kiểm tra thấy chị T đã chết nên Đ đi mua túi nylon
và bao xác rắn, gói xác chị T bằng 02 lớp, dùng dây thun cột kín miệng bao nylon
rồi bỏ vào bao xác rắn để tại phòng trọ.
TAND TP.HCM đã xác định Hoàng Trọng Đ phạm tội giết người theo quy
định tại điểm q khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (vì
động cơ đê hèn) [185].
Như vậy, cùng là trường hợp bị cáo giết người xuất phát từ việc ghen tuông
không có căn cứ, nghi ngờ người yêu hoặc vợ có quan hệ tình cảm với người khác
nhưng ở 02 vụ án khác nhau, Tòa án lại xác định 02 tình tiết tăng nặng định khung
khác nhau: “có tính chất côn đồ” và “vì động cơ đê hèn”. Điều đó cho thấy sự
không thống nhất trong nhận thức về các tình tiết định khung.
3.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng
của con người tại thành phố Hồ Chí Minh
3.2.3.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
tính mạng của con người tại thành phố Hồ Chí Minh
Kết quả của hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN của
TAND các quận, huyện, thành phố và TAND TP.HCM trong giai đoạn 2010 - 2023
được khái quát trong các bảng sau:
Bảng 3.6. Số liệu về hình phạt chính được áp dụng cho bị cáo phạm tội
XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn 2010-2023
Trục Cảnh Phạt Cải tạo không Tù có Tù chung Tử NĂM xuất cáo tiền giam giữ thời hạn thân hình
2010 0 0 0 22 6 1 0
2011 0 1 0 195 34 32 0
2012 0 0 0 252 27 18 0
2013 0 1 0 209 41 18 0
2014 0 0 0 171 25 18 0
133
2015 0 0 0 158 19 15 0
2016 0 0 0 146 30 12 0
2017 0 0 0 132 28 8 0
2018 0 0 0 118 17 20 0
2019 0 0 0 100 20 9 0
2020 0 0 0 108 22 10 0
2021 0 0 0 87 13 9 0
2022 0 0 0 120 25 13 0
2023 0 0 0 180 24 7 1
Tổng 0 2 0 1998 331 190 1
Tỉ lệ % 0 0 0,08 0,04 79,23 13,12 7,53
(Nguồn:TAND TP.HCM)
Phân tích bảng số liệu trên, có thể thấy:
- Hình phạt được áp dụng nhiều nhất là hình phạt tù có thời hạn với 1998 bị
cáo, chiếm đến 79,23% (1998/2522) số bị cáo bị xét xử về các tội XPTMCCN. Điều
này cũng phù hợp với quy định về hình phạt đối với các tội XPTMCCN khi có đến
24 trên tổng số 28 điều khoản quy định hình phạt tù có thời hạn (đã phân tích tại
tiểu mục 2.1.3 của Chương 2);
- Đứng thứ hai là hình phạt tù chung thân với 331 bị cáo, chiếm 13,12%
(trung bình mỗi năm có khoảng hơn 23 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù chung thân);
- Đứng thứ ba là hình phạt tử hình với 190 bị cáo, chiếm 7,53% (trung bình
mỗi năm có khoảng hơn 13 bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình);
- Hết 14 năm chỉ có 02 bị cáo được áp dụng hình phạt tù (chiếm 0,08%) và
không có bị cáo nào phải áp dụng các hình phạt bổ sung cảnh cáo, phạt tù (với bản
chất là hình phạt bổ sung). Chỉ có 01 bị cáo được áp dụng hình phạt cải tạo không
giam giữ (chiếm 0,04%).
Về mức phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo XPTMCCN được thể hiện qua
bảng số liệu sau:
134
Bảng 3.7. Số liệu về mức phạt tù có thời hạn được áp dụng cho bị cáo phạm tội
XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn 2010-2023
Tù có thời hạn
Từ 3 năm trở xuống
NĂM
Trên 3 năm
Trên 7 năm
Trên 15 năm
Cho hưởng án
Không cho
đến 7 năm
đến 15 năm
đến 20 năm
treo
hưởng án treo
2010
1
8
3
9
1
2011
22
67
20
47
39
2012
16
115
30
60
31
2013
16
58
30
66
39
2014
6
41
24
49
51
2015
11
39
21
40
47
2016
7
40
14
49
36
2017
9
45
14
39
25
2018
5
10
14
48
41
2019
1
7
12
41
39
2020
4
10
12
41
41
2021
3
4
6
41
33
2022
2
6
14
61
37
2023
2
10
21
104
43
Tổng
105
460
695
235
503
Tỉ lệ
5,26
23,02
11,76
34,78
25,18
%
(Nguồn:TAND TP.HCM)
Phân tích bảng số liệu trên, có thể thấy mức hình phạt phổ biến nhất là từ
trên 7 năm đến 15 năm tù với 695 bị cáo, chiếm 34,78%. Tiếp theo là mức hình phạt
từ trên 15 năm đến 20 năm với 503 bị cáo, chiếm 25,18%. Như vậy, mức hình phạt
từ trên 7 năm trở lên chiếm đến 59,96%. Trong 14 năm có 105 bị cáo được cho
hưởng án treo, chiếm 5,26% số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Điều này
135
có sự khác biệt so với quy định về mức hình phạt tù đối với các tội XPTMCCN nói
chung: mức phạt tù đến 3 năm chiếm hơn 30%, mức phạt tù đến 7 năm chiếm hơn
39%, mức phạt tù đến 15 năm chiếm hơn 26% và mức phạt tù trên 15 năm chỉ
chiếm gần 5% (đã trình bày tại mục 2.2 của Chương 2). Có sự khác biệt này là do
trên thực tế, tội phạm XPTMCCN phổ biến nhất là tội giết người (tội đặc biệt
nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng), chiếm đến 91,97% tổng số vụ và chiếm
94,49% tổng số bị cáo (như đã phân tích tại bảng 3.3 và bảng 3.4).
Về hình phạt bổ sung, theo quy định của BLHS thì người phạm tội
XPTMCCN có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung (đã phân tích tại tiểu mục 2.1.3 của
Chương 2). Tuy nhiên, thực tiễn quyết định hình phạt tại TP.HCM cho thấy trong
giai đoạn 2010-2023, không có bị cáo phạm các tội XPTMCCN bị áp dụng hình
phạt bổ sung.
Phân tích các số liệu về quyết định hình phạt như trên cũng phần nào cho
thấy tính chất nguy hiểm cao, mức độ nghiêm trọng của hành vi XPTMCCN nên
hình phạt chủ yếu được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và tử
hình. Không có bị cáo được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt. Các hình phạt ít
nghiêm khắc được áp dụng rất hạn chế.
3.2.3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đúng
Thực tiễn xét xử đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua cho
thấy: nhìn chung, khi quyết định hình phạt, Tòa án luôn căn cứ vào quy định của
BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,
căn cứ vào nhân thân người phạm tội, xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm
nhẹ và tăng nặng TNHS để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp, vừa
đảm bảo tính nghiêm khắc, răn đe, giáo dục, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan
hồng của Luật Hình sự, được dư luận và quần chúng nhân dân ủng hộ, đồng tình.
Chẳng hạn như Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2018/HSST ngày 19/01/2018
của TAND TP.HCM giải quyết vụ án với nội dung như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 29/3/2017, Nguyễn Đăng H cùng một số người bạn tên
Nguyễn Hoàng A ngồi uống rượu tại phòng trọ của Hoàng A tại địa chỉ 4/5E đường
L, Tổ 7, khu phố P, phường T, Quận 9 thì có một nhóm thanh niên khoảng 04 người
(chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến rủ Hoàng A đi đá gà bắt xác. H cá cược gà của
Hoàng A thắng với số tiền 100.000 đồng và thỏa thuận nếu gà của bên nào chết thì
136
H lấy xác về nhậu với giá 200.000 đồng. Hai bên cho đá gà, lúc này có Bùi Văn T
đến đứng xem, khoảng 15 phút sau thì gà của Hoàng A chết, H lấy xác gà ra quán
cà phê chòi của chị Nguyễn Thị Cẩm V ngồi thì thấy T cười chế nhạo, H xông tới
đấm vào mặt T, T nắm tóc vật H ngã xuống đất và dùng chân đá vào mặt H thì được
mọi người can ngăn. T ra ghế đá của quán cà phê ngồi, H về phòng trọ lấy một con
dao kim loại màu đen dài 21,5 cm, lưỡi chỗ rộng nhất 03 cm, cán dao dính liền lưỡi,
cán được cuộn tròn bằng thép màu đen, mũi sắc nhọn. H quay lại đến chỗ T đang
ngồi, T đứng dậy giơ tay phải lên, H nghĩ T định đánh mình nên cầm dao trên tay
phải đâm một nhát trúng bụng T, T bỏ chạy được khoảng 07m thì ngã xuống đất và
được Đặng Phiên E đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Quận 9 nhưng T đã tử vong.
Khoảng 17 giờ ngày 29/3/2017, Nguyễn Đăng H đến Công an phường T,
Quận 9 đầu thú, giao nộp con dao trên và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi 367-17/KLGĐ-PY ngày
28/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM kết luận: “Bùi Văn T chết
do sốc mất máu cấp bởi vết thương đâm thủng ruột non và động mạch chủ bụng”.
Tòa án đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng H phạm tội “Giết người” và áp dụng
điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của BLHS năm 1999,
sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt Nguyễn Đăng H 19 (mười chín) năm tù [186].
Ngày 01/02/2018, bị cáo Nguyễn Đăng H làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ
hình phạt bởi lý do hình phạt 19 năm tù là quá nặng đối với hành vi của bị cáo.
Tại phiên tòa phúc thẩm, luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng về động cơ,
mục đích phạm tội dẫn đến hậu quả đáng tiếc là do người bị hại có một phần lỗi nên
đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội do
hành vi trái pháp luật của nạn nhân; bị cáo tự thú. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp
dụng thêm tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
TAND cấp cao tại TP.HCM nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm xem xét lý do bị
cáo H giết bị hại chỉ vì H cho rằng T cười chế nhạo mình. Khi H và T cãi nhau,
được mọi người can ngăn nhưng bị cáo H không dừng lại mà về phòng trọ của mình
lấy con dao đi tìm T để đâm dẫn đến hậu quả nạn nhân tử vong. Tòa án cấp sơ thẩm
xem xét các tình tiết giảm nhẹ: khai báo thành khẩn, bồi thường một phần thiệt hại
(27.000.000 đồng/121.000.000 đồng), đầu thú (không phải tình tiết tự thú như đề
nghị của người bào chữa) xử phạt bị cáo H mức án 19 năm tù là không nặng, phù
137
hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo nhưng không nêu
được tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận
kháng cáo của bị cáo, y án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát [187].
Hoặc như Bản án số: 365/2017/HSST ngày 13/12/2017 của TAND Quận
Thủ Đức, TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung:
Bị cáo Lê Văn T1 điều khiển xe mô tô biển số 60K9-38xx, thiếu chú ý quan
sát, vượt xe không đảm bảo an toàn, va chạm vào bánh trước bên phải của xe ô tô
đầu kéo biển số 51C-20xxx, gây tai nạn với hậu quả nghiêm trọng làm anh Phan
Văn L chết. Vị trí xảy ra tai nạn là đường nội bộ trong cảng TR thuộc phường T,
quận T, TP.HCM, không thuộc mạng lưới đường bộ nên hành vi của bị cáo phạm
vào tội “Vô ý làm chết người”.
Có thể thấy việc quyết định hình phạt của Tòa án trong vụ án trên không chỉ
đúng quy định của pháp luật mà còn “thấu tình, đạt lý”, vừa đảm bảo tính răn đe và
phòng ngừa chung, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.
3.2.3.3. Những hạn chế, sai lầm trong quyết định hình phạt
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì việc quyết định hình phạt
đối với các bị cáo phạm các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn một
số hạn chế:
138
Một là, áp dụng không đúng hoặc không đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ,
tăng nặng TNHS.
Ví dụ 1. Áp dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội trong trường
hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”.
Bản án hình sự sơ thẩm số 347/2018/HS-ST ngày 05/10/2018 của TAND
TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:
Vào ngày 24/7/2017, Trịnh Văn H cùng với các nhân viên khác của cửa hàng
điện máy Q như Nguyễn Văn H1, Đỗ Thành Tr… về nghỉ ngơi tại nhà đường S, tổ
13, khu phố 6, phường T2, Quận 12, TP.HCM. Do không biết H còn ở trong phòng
nên Tr và những người khác đã khóa cửa để đi ra ngoài. H mở cửa không được nên
tức giận, la hét, đập phá đồ đạc trong nhà và đòi đâm chém các bạn cùng phòng.
Thấy vậy, Tr gọi điện thoại cho quản lý cửa hàng là anh Trần Văn L và Thái Văn
Nh đến để giải quyết. Khi đến nơi, H và anh Nh có cự cãi, anh Nh dùng tay đánh 01
cái vào mặt H và cho H nghỉ việc, hẹn H sáng mai quay lại cửa hàng để lấy chứng
minh nhân dân. Hôm sau, khi anh Nh đến cửa hàng thì H từ quán nhậu gần đó, cầm
sẵn con dao Thái Lan đi đến và đâm 01 nhát vào vùng ngực trái của anh Nh dẫn đến
tử vong.
TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Trịnh Văn H phạm tội “Giết người” và
áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 93 của BLHS năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm
2009; điểm e, q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS năm 2015, sửa
đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trịnh Văn H 18 (mười tám) năm tù [188].
Ngày 08/10/2018, bà Vũ Bách Diệu H là người đại diện hợp pháp của người
bị hại có đơn kháng cáo NCS cho rằng Tòa án áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy
định tại điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 là không chính xác. Bởi vì việc bị
cáo tức giận và dẫn đến hành vi phạm tội là hành động vô cớ. Do bị cáo có hành vi
la hét, đập phá đồ đạc và dọa chém các bạn cùng phòng nên anh Nh là quản lý cửa
hàng mới đến để giải quyết. Khi giải quyết, anh Nh có dùng tay đánh H 01 cái vào mặt
và cho nghỉ việc, hẹn H sáng hôm sau quay lại lấy chứng minh nhân dân vì bản thân
anh Nh lúc đó không mang theo. Sự việc diễn ra vào tối ngày 24/7/2017 đã kết thúc.
Đến 07 giờ sáng ngày 25/7/2014, khi anh Nh đến làm việc tại cửa hàng thì bị cáo đã
chờ sẵn và dùng dao đâm khiến anh Nh tử vong.
139
Và trên thực tế, Tại phiên tòa phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng
đã xác định: việc Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng anh Nh có hành vi trái pháp luật, làm
kích động tinh thần của bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e
khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với bị cáo là không chính xác [189].
Ví dụ 2. Áp dụng thiếu tình tiết tăng nặng “cố ý thực hiện tội phạm đến cùng”
Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2018/HSST ngày 10/4/2018 của TAND
TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/9/2017, Trương Văn M sau khi uống rượu về
đến trạm bơm nước KT, đường Trần Xuân S, khu phố 5, phường T, Quận 7,
TP.HCM và gọi ông Ngô Đăng K là nhân viên trạm bơm mở cửa để M vào gởi xe
gắn máy. Do ông K không đồng ý cho M gởi xe nên M chửi ông K, ông K tức giận
mở cửa dùng dây xích đánh M, M né tránh được và lấy con dao cùn trong rổ ve chai
của bà Võ Thị B (mẹ của M) để gần đó chém lại ông K. Ông K đánh lại trúng tay
của M hất văng con dao xuống đường.
Sau đó, M lấy xe gắn máy biển số 52Z1-4117 chạy đến xe bán nước dừa của
chị Đặng Thị C (cách trạm bơm khoảng 32m) lấy con dao chặt dừa (dài 43,7cm)
đang để trên xe, rồi cầm dao chạy bộ đến trạm bơm. Thấy M cầm dao đến, ông K bỏ
chạy xuống bờ sông về phía xà lan đang neo đậu. M đuổi theo dùng dao chém nhiều
nhát trúng vào đầu và tay ông K. Bị chém, ông K di chuyển về phía gần bờ, M tiếp
tục đi theo dùng dao chém tiếp và dao đã bị tuột khỏi tay rơi xuống sông. M lao đến
ôm và đè ông K xuống bờ sông và dùng tay đánh ông K. Chị C là chủ quán bán
nước dừa đứng trên lề đường Trần Xuân S nhìn thấy M chém và đánh ông K nên
truy hô, nhưng M không dừng lại. Chị C tiếp tục la lên thì M lấy xe gắn máy bỏ
chạy. Ông K được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện 115, đến ngày 21/9/2017 thì chết.
Ngày 21/9/2017, Trương Văn M đến Cơ quan điều tra Công an Quận 7, TP.HCM
đầu thú.
TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Trương Văn M phạm tội “Giết người” và áp
dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, được
sửa đổi bổ sung năm 2009. Xử phạt: bị cáo Trương Văn M tù chung thân [190].
Trong vụ án này, NCS cho rằng Tòa án không áp dụng tình tiết tăng nặng
“cố ý thực hiện tội phạm đến cùng” là thiếu sót. Bởi vì bị cáo đã dùng dao để trong
giỏ đựng phế liệu của bà Võ Thị B (là mẹ của bị cáo) đánh ông K. Sau khi ông K
140
dùng tay hất làm con dao rơi xuống đường, bị cáo M tiếp tục dùng xe máy chạy đến
quán bán nước dừa của chị Đặng Thị C chụp lấy một con dao chặt dừa dài 43,7cm,
lưỡi dao dài 31,5cm tiếp tục đuổi theo. Khi người bị hại bỏ chạy, nhảy xuống sông
và di chuyển về hướng sà lan đang neo đậu trên sông, bị cáo nhảy theo, tay trái cầm
dao chém liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu và tay ông K. Bị chém, ông K di
chuyển về phía gần bờ, M tiếp tục đi theo dùng dao chém tiếp và dao đã bị tuột khỏi
tay rơi xuống sông. M lao đến ôm và đè ông K xuống bờ sông và dùng tay đánh ông
K. Chị C là chủ quán bán nước dừa đứng trên lề đường Trần Xuân S nhìn thấy M
chém và đánh ông K nên truy hô, nhưng M không dừng lại. Diễn biến quá trình
thực hiện như trên đã cho thấy bị cáo thực hiện tội phạm với quyết tâm cao và “Cố ý
thực hiện tội phạm đến cùng”.
Trên thực tế, tại phiên tòa phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng đã
xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng “cố ý thực hiện tội phạm đến cùng”
và tăng hình phạt từ tù chung thân lên tử hình [191].
Hai là, quyết định hình phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của
hành vi phạm tội
Ví dụ 1. Hình phạt quá nhẹ, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục
Bản án hình sự sơ thẩm số 244/2019/HSST ngày 09/7/2019 của TAND
TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:
Trong lúc ngồi uống bia, Quang H và Duy Tr1 xảy ra mâu thuẫn về việc
Quang H nợ Duy Tr1 300.000 đồng tiền làm công chưa trả. Thấy Duy Tr1 đã say,
anh Phước Hải và chị Loan dìu Duy Tr1 đứng lên đưa ra bãi giữ xe để lấy xe gắn
máy để Duy Tr1 đi về. Ra đến bãi xe, Phước Hải vào lấy xe còn Duy Tr1 đứng
ngoài chờ. Khoảng 2 phút sau Duy Tr1 quay lại quán, đi vào đứng sau lưng chỗ
Quang H đang uống bia, dùng tay phải đánh vào lưng bên phải Quang H một cái.
Quang H tay phải đang cầm ly bia cụng với anh H vừa xong, Quang H đứng dậy
cầm ly bia đánh vào trán bên trái của Duy Tr1 một cái và bỏ ly bia rơi xuống đất
làm Duy Tr1 lảo đảo. Minh Tr xông vào dùng hai tay xô và chân phải đạp vào vùng
bụng Duy Tr1 làm Duy Tr1g té ngã nằm nghiêng dưới nền nhà. Minh Tr tiếp tục
dùng chân đạp vào vùng cổ của Duy Tr1, rồi cầm ghế nhựa trong quán đánh Duy
Tr1 thì anh H nắm giữ hai tay, chị L ôm bụng và kéo Minh Tr ra ngoài do sợ sẽ
đánh nhau tiếp. Thấy Duy Tr1 ngất xỉu nên mọi người đã đưa đi cấp cứu tại thị xã
141
Thuận An tỉnh Bình Dương cấp cứu, khoảng 1 giờ ngày 23/7/2016, Duy Tr1 được
đưa đến bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM để cấp cứu. Đến ngày 03/8/2016 thì Duy Tr1
chết tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Tại bản kết luận giám định pháp y số 652-16/KLGĐ-PY ngày 20/10/2016
của Phòng kỹ thuật hình sự công an TP.HCM, kết luận nguyên nhân chết do chấn
thương sọ não và chấn thương đốt sống cổ.
Với những hành vi trên, cấp sơ thẩm đã xét xử và quy kết bị cáo Trần Quang
H và Nguyễn Minh Tr phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS
2009, xử phạt bị cáo H và Tr mỗi người 11 (mười một) năm tù [192].
Trong vụ án này, NCS cho rằng cấp sơ thẩm xử phạt Minh Tr 11 năm tù là
dưới khung hình phạt (điểm n, khoản 1 Điều 93 có khung hình phạt từ 12 năm đến
20 năm, chung thân hoặc từ hình), là quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức
độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục và
phòng ngừa chung. Bởi vì giữa bị hại Hứa Duy Tr1 với bị cáo Nguyễn Minh Tr
không có mâu thuẫn với nhau, bị hại Duy Tr1 chỉ mâu thuẫn với bị cáo Trần Quang
H. Khi bạn bè lấy xe đưa Duy Tr1 về thì Duy Tr1 quay lại đứng sau lưng H và đánh
vào lưng H dẫn đến H mới đánh lại một cái (Duy Tr1 có lỗi trước với H). Ngay sau
đó Nguyễn Minh Tr lao vào vô cớ tấn công và tấn công liên tục vào vùng trọng yếu
của Duy Tr1, hậu quả là Duy Tr1 tử vong. Hành vi của Nguyễn Minh Tr thể hiện
tính chất côn đồ, hung hãn coi thường tính mạng của người khác.
Và thực tế tại phiên tòa phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng đã sửa bản
án theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Minh Tr từ 11 năm tù lên 12 năm tù [193].
Ví dụ 2. Hình phạt quá nặng, chưa thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng
của pháp luật
Bản án hình sự sơ thẩm 399/2020/HS-ST ngày 17/9/2020 TAND TP.HCM
giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:
Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 28/9/2019, tại nhà trọ số 245 H, Phường
X10, quận T, TP.HCM, Đào Duy K và ông Nguyễn Tam S xảy ra việc cự cãi, xô
xát dùng tay đánh và vật nhau té xuống nền dãy hành lang phòng trọ. Khi Đào Duy
K và ông S đứng dậy ở tư thế đối diện hơi chếch thì bị cáo Đào Duy K đã sử dụng
01 con dao lưỡi sắc nhọn bằng kim loại dài khoảng 20cm (mang theo sẵn ở phía sau
túi quần Jean bên phải) cầm trên tay phải để tấn công đâm 01 nhát trúng ngực phải
142
gần xương ức và một nhát trúng sườn trái của ông S. Sau khi bị đâm, ông S tiếp tục
lao vào ôm vật K thì K tiếp tục cầm dao đâm 01 nhát trúng hông phải của ông S.
Lúc này, những người ở cùng dãy nhà trọ là chị Trần Thị H2, chị Nguyễn Thị V1
đến can ngăn và anh Nguyễn Ngọc A1 cùng anh Nguyễn Tấn P1 đến tước dao trói
K lại và gọi điện thoại báo cơ quan Công an bắt giữ. Ông Nguyễn Tam S được mọi
người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.
Ngày 11/3/2020, Trung tâm giám định pháp y Sở Y tế TP.HCM có bản kết
luận giám định pháp y về tỷ lệ thương tích số: 164/TgT.20 đối với Nguyễn Tam S
kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 85 %.
TAND TP.HCM đã căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và
khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo
Đào Duy K 15 (mười lăm) năm tù, về tội “Giết người” [194].
Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là bị hại gây ra vụ việc, bị cáo có tác động gia đình bị cáo
đã khắc phục 1 phần hậu quả nhưng sơ thẩm chưa xem xét cho bị cáo là có thiếu
sót. Bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Bản chất
con người bị cáo không có côn đồ, làm nghề bán vé số, gia đình có nhân thân tốt.
Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.
TAND cấp cao tại TP.HCM nhận định: Xét về nguyên nhân, điều kiện dẫn
đến hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo thì sự việc xảy ra cũng có lỗi của bị hại. Bản
thân bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, làm nghề bán vé số, hoàn cảnh khó
khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Sau khi phạm tội, bị cáo có tác động gia
đình tự nguyện bồi thường 2.000.000 đồng cho bị hại. Mặc dù số tiền bồi thường
không lớn nhưng thể hiện thái độ, ý chí muốn khắc phục hậu quả, ăn năn hối cải của
bị cáo. Do đó, để thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử
đồng ý với lời bào chữa của luật sư, giảm cho bị cáo một phần hình phạt cũng đã đủ
sức răn đe giáo dục bị cáo [195].
3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong áp dụng pháp luật hình
sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người tại Thành phố Hồ Chí Minh
Áp dụng PLHS luôn là quá trình phức tạp, hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS
về các tội XPTMCCN phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau như chất lượng của quy
phạm PLHS, chất lượng đội ngũ áp dụng PLHS, mối quan hệ phối hợp - chế ước
143
giữa các cơ quan THTT hình sự, ý thức pháp luật của nhân dân, những điều kiện vật
chất - kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng PLHS, yếu tố kinh tế - xã
hội... (đã trình bày tại mục 2.5 của Chương 2). Vì vậy, ở nội dung này, NCS chỉ tập
trung phân tích một số nguyên nhân cơ bản, đặc thù nhất dẫn đến những hạn chế,
sai lầm trong áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua.
3.2.4.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật hình sự và công tác hướng
dẫn, giải thích
Quy định về các tội XPTMCCN trong BLHS hiện hành (BLHS năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017) mặc dù đã phần nào khắc phục được những hạn chế của
BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 nhưng vẫn còn những hạn chế có thể
dẫn đến khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật: chưa thể hiện được sự phân định
rạch ròi về dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm (tội giết người, tội giết người trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính
đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội…). Nhiều tình tiết định
khung chưa được mô tả rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn hoặc khó hiểu (giết người mà liền
trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng; giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều
người; giết người có tính chất côn đồ; giết người vì động cơ đê hèn…).
Bên cạnh đó, hệ thống văn bản hướng dẫn áp dụng các tội XPTMCCN cũng
còn hạn chế, chưa đầy đủ, một số văn bản đã ban hành từ rất lâu, còn nhiều vấn đề
cần giải thích, hướng dẫn: thế nào là “thầy giáo, cô giáo của mình” theo quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 123; phân biệt trường hợp “giết 02 người trở lên” với
trường hợp giết người “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”; thế
nào là “người thân thích” trong quy định tại khoản 1 Điều 125 (Tội giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), thế nào là “vượt quá mức cần thiết khi bắt
giữ người phạm tội” trong quy định tại khoản 1 Điều 126… Một số nội dung mặc
dù đã được giải thích, hướng dẫn nhưng chưa thực sự rõ ràng, mang nặng yếu tố
định tính, vẫn rất khó nhận định trong vụ án thực tế: thế nào là “vì động cơ đê hèn”,
thế nào là phạm tội “có tính chất côn đồ”, thế nào là “liền trước đó hoặc ngay sau
đó”, thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, “hành vi trái pháp luật
nghiêm trọng” trong quy định tại khoản 1 Điều 125, thế nào là “hoàn cảnh khách
144
quan đặc biệt” trong Điều 124, thế nào là “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”
trong quy định tại khoản 1 Điều 126… Điều này dẫn đến nhận thức chưa thống nhất
ngay trong nội bộ các cơ quan THTT và giữa các cơ quan THTT với người bào
chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, từ đó cũng ảnh hưởng đến việc định tội
danh và quyết định hình phạt (những nội dung này sẽ được phân tích cụ thể hơn,
gắn liền với các kiến nghị, đề xuất tại Chương 4 của luận án).
Cũng phải thấy rằng, hiện nay đã có nhiều án lệ về hình sự được công bố,
trong đó có một số án lệ liên quan đến việc xác định các tội XPTMCCN. Tuy nhiên,
so với những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các tội phạm này thì vẫn cần nhiều
hơn nữa các án lệ về các tội XPTMCCN. Đặc biệt là đối với những vấn đề mà việc
sử dụng “ngôn từ” của văn bản hướng dẫn để giải thích khó đạt được yêu cầu (như
thế nào là “vượt quá mức cần thiết” trong phòng vệ chính đáng hoặc trong khi bắt
giữ người phạm tội, thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”…) thì các
án lệ cụ thể có thể giúp các cơ quan THTT hiểu đúng và áp dụng đúng quy định của
BLHS vào những vụ án cụ thể. Bên cạnh việc còn ít án lệ về các tội XPTMCCN thì
một số án lệ có nội dung phân tích chưa thực sự khoa học, chuẩn xác hoặc có nhiều
ý kiến trái chiều, ảnh hưởng đến việc thống nhất nhận thức trong áp dụng PLHS về
các tội XPTMCCN. Chẳng hạn như án lệ số 28/2019/AL về tội “Giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” trong phần khái quát nội dung của án lệ có
Với tình huống trên, án lệ đưa ra giải pháp pháp lý: bị cáo phải bị truy cứu
đưa ra tình huống án lệ:
TNHS về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Và trong
phần nội dung của án lệ cũng xác định:
145
Phân tích, lập luận về nội dung vụ án như trên sẽ dễ dẫn đến nhiều ý kiến cho
rằng cần xác định Trần Văn C phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng”. Vì C đang bị tấn công, đang bị xâm phạm sự an toàn về thân thể; bị
cáo dùng dao chống trả là nhằm thoát khỏi sự tấn công. Nếu hành vi của C đã thỏa
mãn cấu thành tội phạm tại Điều 126 BLHS năm 2015 thì trạng thái tinh thần có bị
kích động mạnh hay không đều không có ý nghĩa trong việc xác định tội danh. Vì
Điều 126 không quy định trạng thái tinh thần của người phạm tội; khi bị tấn công,
người phòng vệ có thể bị kích động mạnh hay không bị kích động mạnh cũng không
có ý nghĩa trong việc xác định tội danh (như đã phân tích Bản án hình sự sơ thẩm số
338/2016/HSST ngày 13/9/2016 của TAND TP.HCM tại tiểu mục 3.2.2.1).
Hoặc án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết
người” có đồng phạm trong phần khái quát nội dung của án lệ có đưa ra tình huống án lệ:
Xét tình huống nêu, căn cứ pháp luật, người trực tiếp gây án phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội giết người, với khung hình phạt tăng nặng do tính chất côn đồ.
146
Đối tượng xúi giục cũng bị truy tố về tội danh tương tự, nhưng không áp dụng tình
tiết tăng nặng nói trên.
Ở tình huống trên, NCS cho rằng việc xác định người xúi giục đồng phạm về
tội “Giết người” là không phù hợp. Bởi vì: tội giết người chỉ có thể được thực hiện
với hình thức lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Với việc thống nhất chỉ
“đánh dằn mặt thôi” (tức là đánh để cho sợ) thì rõ ràng người xúi giục không hề có
mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân, nên hình thức lỗi không thể là lỗi cố ý
trực tiếp. Đối với hình thức lỗi cố ý gián tiếp trong tội giết người thì người thực
hiện hành vi phải nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho tính mạng của
người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, tuy không mong muốn
nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [207, tr.60]. Trong vụ án này,
người xúi giục ban đầu chỉ thống nhất đánh cho bị hại sợ, “không có mặt khi người
thực hành thực hiện tội phạm, không biết việc người thực hành sử dụng mã tấu
chém vào những vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại” (tức là không biết nạn nhân có
thể bị đánh chết) nhưng vẫn bị xác định là “đã để mặc cho hậu quả xảy ra”. Và
đặc biệt, ngay cả khi nếu xác định người xúi giục có lỗi cố ý gián tiếp, bỏ mặc cho
hậu quả xảy ra thì hậu quả xảy ra đến đâu họ sẽ chỉ phải chịu TNHS đến đấy. Nếu
hậu quả chết người xảy ra thì họ mới có thể phạm tội giết người. Trong vụ án này,
nạn nhân không chết nhưng người xúi “đánh dằn mặt” vẫn bị xác định là đồng
phạm về tội giết người là không hợp lý.
Hơn nữa, trong phần khái quát nội dung của án lệ đưa ra tình huống án lệ và
giải pháp pháp lý cho việc xem xét hành vi của người thực hành và người xúi giục
(như trên đã nêu) nhưng phần nội dung của án lệ lại xác định hành vi của người
thực hành và người giúp sức:
147
3.2.4.2. Nguyên nhân từ phía đội ngũ áp dụng pháp luật hình sự
Áp dụng PLHS nói chung hay định tội danh và quyết định hình phạt nói
riêng luôn là hoạt động mang tính chất phức tạp, đòi hỏi phải có sự đánh giá một
cách vừa toàn diện, vừa chi tiết nhiều căn cứ, yếu tố khác nhau từ tình tiết của vụ
án, quy định của pháp luật, nhân thân người phạm tội... Thực tiễn khách quan đã
cho thấy nhiều vụ án XPTMCCN tại TP.HCM có tính chất phức tạp, rất khó khăn
trong việc định tội danh và quyết định hình phạt do những chứng cứ vật chất để
chứng minh tội phạm không nhiều, không thu giữ được hoặc có thu giữ được nhưng
không đủ điều kiện để giám định; do địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm xảy ra ở
nơi và lúc ít hoặc không có người chứng kiến; một số vụ án có sự đối phó tinh vi,
xảo quyệt của người thực hiện tội phạm; nhiều vụ đồng phạm với số lượng người
tham gia lớn, “đánh chém loạn xạ”, mỗi người có vai trò và mức độ tham gia tội
phạm khác nhau, bị hại bị nhiều thương tích ở các vị trí khác nhau do nhiều người
gây ra; thậm chí có những vụ án chính bị cáo cũng không nhớ rõ đầy đủ các hành vi
mà mình đã thực hiện, trên thân thể người bị hại có nhiều vết thương với cơ chế gây
nên thương tích khác nhau, rất khó xác định ai gây nên vết thương cụ thể nào cho bị
hại... Bên cạnh đó, việc xét xử các vụ án XPTMCCN còn phụ thuộc nhiều vào kết
quả hoạt động giám định nguyên nhân chết, thời điểm chết, tỷ lệ tổn thương cơ thể…
trên thực tế điều này không phải lúc nào cũng thuận lợi, nhất là trong các vụ án trên
người bị hại có nhiều tổn thương khác nhau hay những vụ người bị hại không được
đưa đi giám định kịp thời hoặc người bị hại do bị mua chuộc, cưỡng ép không đi
giám định; v.v... Vì vậy, nếu đội ngũ cán bộ THTT không có nhận thức pháp luật
tốt, không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm cao, đáp ứng
được mục tiêu, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì khó có thể
không dẫn đến các sai sót trong định tội danh, quyết định hình phạt.
Nghiên cứu những hạn chế, sai sót trong hoạt động định tội danh và quyết
định hình phạt đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua cũng đã cho
thấy nhận thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm
trong công tác của một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn hạn
chế trong áp dụng pháp luật, đánh giá và sử dụng chứng cứ; các hoạt động điều tra
và kiểm sát điều tra để thu thập các chứng cứ ban đầu chưa đầy đủ, bỏ qua không
thu thập các chứng cứ có ý nghĩa trực tiếp chứng minh tội phạm… Một bộ phận cán
148
bộ, công chức còn thiếu ý thức cầu thị, phấn đấu, rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo
đức, kỷ luật công vụ nên hiệu quả, chất lượng công tác còn thấp, từ đó ảnh hưởng
đến công tác xét xử các tội XPTMCCN. Có vụ án mặc dù bị cáo nhận tội phù hợp
với chứng cứ chứng minh khác khẳng định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội
nhưng vẫn có sự mâu thuẫn giữa lời khai của bị cáo và người làm chứng về việc
diễn tả hành vi khách quan của bị cáo. Trong trường hợp này, mặc dù việc thực
nghiệm điều tra không mang mục đích chứng minh bị cáo phạm tội hay không
phạm tội, nhưng lại có ý nghĩa để đánh giá tính côn đồ là nhiều hay ít và đánh giá
sự thành khẩn của bị cáo trong việc khai báo. Việc CQĐT không tiến hành thực
nghiệm điều tra đã dẫn đến Tòa án không có cơ sở đầy đủ để lượng hình chính xác
và phù hợp [196], [197]. Mặt khác, thực nghiệm điều tra còn có ý nghĩa trong việc
tuân thủ tiêu chí của cơ quan THTT khi kết tội không nên chỉ căn cứ vào lời khai
nhận tội của bị cáo mà phải xem xét sự phù hợp của nhiều yếu tố khác. Cụ thể, lời
khai nhận tội của bị cáo mà cơ quan THTT dùng làm căn cứ kết tội phải phù hợp
với lời khai nhân chứng, các dấu vết trong biên bản khám nghiệm hiện trường và
kết quả thực nghiệm điều tra; phù hợp với các dấu vết trên thân thể nạn nhân, hung
khí gây án theo kết luận giám định... Có vụ án cấp sơ thẩm điều tra, thu thập các lời
khai của bị cáo và những người làm chứng có mặt tại hiện trường, có lời khai và các
tình tiết mâu thuẫn nhau nhưng cấp sơ thẩm không đối chất lời khai theo quy định,
không tiến hành lập biên bản thực nghiệm điều tra để có căn cứ xem xét lời khai
nhận tội bị cáo với lời khai của người làm chứng, xác định vị trí, khoảng cách của hai
bị hại nằm ngã sau khi bị đâm, cơ chế hình thành vết thương của hai bị hại có cùng một
hung khí gây ra hay không [198] … Thậm chí có vụ án Hội đồng xét xử còn xác định
bị cáo có cha, mẹ được thưởng huân huy chương kháng chiến thì được áp dụng tình tiết
giảm nhẹ “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ,
chồng, con của liệt sĩ” theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017 [199]. Những trường hợp nêu trên rõ ràng cho thấy một bộ phận
đội ngũ THTT vẫn còn có sự hạn chế về năng lực, phẩm chất, chưa thực sự đáp ứng
được yêu cầu, dẫn đến những sai sót, hạn chế trong áp dụng PLHS.
Bên cạnh vấn đề về chất lượng đội ngũ THTT thì công tác kiện toàn lực
lượng cán bộ, công chức cũng gặp nhiều khó khăn. Số lượng cán bộ công chức xin
nghỉ việc theo nguyện vọng có xung hướng tăng trong những năm gần đây so với
149
các năm trước, đặc biệt biên chế Thư ký tòa án hiện nay thiếu trầm trọng. Việc thiếu
biên chế dẫn đến công tác luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ, công chức bị
hạn chế, bị động. Điều này tất yếu cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động áp
dụng PLHS nói chung và áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN nói riêng.
3.2.4.3. Nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng của con người
Sự phối hợp giữa các cơ quan THTT có vai trò rất quan trọng trong giải
quyết vụ án hình sự. Thực tế cho thấy việc phối hợp giữa các cơ quan THTT trong
việc giải quyết vụ án XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM thời gian qua bên cạnh
những kết quả tích cực đáng ghi nhận thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng
đến việc giải quyết vụ án.
Có những vụ án trong quá trình điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên chưa
chú trọng thường xuyên trao đổi, đánh giá các tài liệu, chứng cứ mà CQĐT thu thập
được, chưa thống nhất biện pháp, kế hoạch điều tra cụ thể từ đó dẫn đến vụ án đáng
lẽ cần tiến hành thực nghiệm điều tra, đối chất nhưng không được thực hiện, khi xét
xử Tòa án thiếu dữ liệu để quyết định hình phạt phù hợp nhất [196]. Nhiều trường
hợp VKSND không chủ động bám sát tiến độ điều tra, cùng CQĐT kịp thời tháo gỡ
những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình điều tra. Sự phối hợp giữa
Tòa án, với Viện kiểm sát trong một số trường hợp chưa được chặt chẽ và thống
nhất. Số vụ án phải trả về cho VKSND để điều tra bổ sung mỗi năm còn cao (trên
30%). Vẫn còn trường hợp TAND cấp sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung những nội
dung còn mâu thuẫn đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhưng VKSND cấp sơ
thẩm không chấp nhận; Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập những người làm chứng nhưng
đều vắng mặt, Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục triệu tập nhưng chỉ có một người làm
chứng có mặt. Với những tài liệu điều tra còn mâu thuẫn, Tòa án cấp phúc thẩm
không thể bổ sung tại phiên tòa được, phải hủy một phần bản án sơ thẩm để điều tra
lại, chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND TP.HCM để điều tra lại vụ án theo thủ tục
chung [200]. Có trường hợp TAND TP.HCM đã trả hồ sơ điều tra bổ sung đề nghị
VKSND TP.HCM truy tố bổ sung thêm tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ”
theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhưng
VKSND TP.HCM vẫn giữ nguyên quan điểm. TAND TP.HCM vẫn xét xử bị cáo N
về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS [171].
150
Tiểu kết chương 3
Qua việc nghiên cứu quy định của PLHS về các tội XPTMCCN và thực tiễn
áp dụng tại TP.HCM, có thể rút ra kết luận:
Quy định về các tội XPTMCCN trong mỗi thời kỳ lịch sử đều có sự phù
hợp với đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và thực hiện nhiệm
vụ chính trị của đất nước. Nhìn chung, quy định về các tội XPTMCCN ngày càng
phát triển và hoàn thiện hơn theo xu hướng nhân đạo hóa và phân hóa TNHS, phù
hợp với sự vận động và phát triển của xã hội, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng,
chống tội phạm.
Trong giai đoạn 2010 - 2023, mỗi năm TAND các quận, huyện, thành phố
và TAND TP.HCM phải giải quyết một số lượng lớn các vụ án XPTMCCN. Nhìn
chung, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN
tại TP.HCM thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: định tội danh
đảm bảo chuẩn xác, đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội; quyết định
hình phạt luôn căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, xem
xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS để lựa chọn loại
hình phạt và mức hình phạt phù hợp, vừa đảm bảo tính nghiêm khắc, răn đe, giáo
dục, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan hồng của Luật Hình sự..
Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, thực tiễn định tội danh và quyết định
hình phạt đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn một số hạn
chế, sai sót: vẫn còn trường hợp định tội danh chưa chính xác; xác định sai hoặc
không thống nhất trong việc áp dụng một số tình tiết định khung; áp dụng không
đúng hoặc không đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; quyết định hình
phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Những hạn chế
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có thể kể đến
các nguyên nhân từ hạn chế trong quy định của PLHS; nguyên nhân từ phẩm chất,
năng lực của đội ngũ áp dụng PLHS và nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các cơ
quan THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.
151
Chương 4
HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI
PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY
4.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm
phạm tính mạng của con người
4.1.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm
phạm tính mạng của con người
4.1.1.1. Yêu cầu khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong áp
dụng quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người
Thực thi pháp luật tác động toàn diện đến đời sống xã hội, đòi hỏi sự tuân
thủ nghiêm ngặt các quy phạm pháp luật trong mọi khía cạnh. Việc áp dụng pháp
luật phải dựa trên các điều khoản và nguyên tắc pháp lý, tạo nền tảng cho hoạt động
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quá trình thực thi pháp luật gắn liền chặt
chẽ với công tác xây dựng pháp luật. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng
thực tiễn xã hội là điều kiện tiên quyết cho hiệu quả thực thi.
Trong hoạt động thực thi pháp luật, vai trò của cơ quan điều tra, viện kiểm
sát và tòa án đặc biệt quan trọng, nhất là trong lĩnh vực pháp luật hình sự. Lĩnh vực
này bảo vệ các quan hệ xã hội trọng yếu, thiết yếu cho sự phát triển bền vững của
quốc gia. Mọi hành vi đều phải được xem xét kỹ lưỡng, dựa trên các quy định pháp
luật hiện hành. Hiệu quả thực thi pháp luật phụ thuộc vào sự phối hợp chặt chẽ giữa
các cơ quan chức năng..
Luật hình sự, khi vận dụng chính xác, đảm bảo công lý, trừng phạt thích
đáng, gìn giữ các giá trị nền tảng, đồng thời giáo dục, răn đe xã hội. Ngược lại, việc
áp dụng sai luật sẽ xâm phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền lợi pháp nhân,
152
làm suy giảm lòng tin vào pháp luật. Do đó, việc thực thi luật hình sự cần tuân thủ
nghiêm ngặt về nội dung và trình tự pháp lý, đặt trong khuôn khổ pháp luật chặt chẽ..
Vì vậy, để hoạt động áp dụng PLHS được đúng đắn thì yêu cầu không thể
thiếu là phải có PLHS hoàn chỉnh, mà trước hết và quan trọng nhất là quy định của
Đối với các tội XPTMCCN, thực tiễn tại TP.HCM cũng đã cho thấy một
trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến vi phạm, sai lầm trong áp dụng PLHS
là do sự bất cập trong quy định của PLHS mà trước hết là quy định của BLHS. Quy
định của BLHS về các tội XPTMCCN vẫn còn những nội dung chưa thực sự rõ
ràng, rành mạch, gây khó hiểu hoặc dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Cùng với
đó, việc thiếu văn bản hướng dẫn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến
việc áp dụng PLHS gặp khó khăn (như đã phân tích tại tiểu mục 3.2.4.1 của
Chương 3). Vì vậy, việc hoàn thiện quy định của PLHS là một trong những nội
dung quan trọng, tất yếu, góp phần hạn chế những vi phạm, sai lầm trong áp dụng
quy định của BLHS về các tội XPTMCCN.
Hơn thế nữa, việc hoàn thiện quy định của PLHS không chỉ để khắc phục
nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong áp dụng PLHS tại TP.HCM hay một
địa phương cụ thể nào khác mà phải là trên phạm vi cả nước vì hiệu lực của PLHS
không chỉ áp dụng cho một địa phương cụ thể. Đồng thời, việc hoàn thiện quy định
153
của PLHS cũng không chỉ để khắc phục những khó khăn, hạn chế, vướng mắc của
hiện tại, đã xảy ra mà còn phải dự liệu trước những tình huống phức tạp có thể xảy
ra trong tương lai (nội dung này sẽ được phân tích cụ thể tại tiểu mục 4.1.3).
4.1.1.2. Yêu cầu thể hiện đầy đủ chính sách hình sự Việt Nam đối với các tội
xâm phạm tính mạng của con người trong giai đoạn mới
Bên cạnh việc hoạch định các chính sách về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo
dục…, việc hoạch định chính sách hình sự là không thể thiếu đối với mỗi quốc gia
trong thời đại ngày nay.
154
Như vậy, PLHS chính là một trong những biểu hiện trực tiếp, rõ nét nhất
nội dung chính sách hình sự của Nhà nước ta về vấn đề tội phạm và hình phạt.
PLHS còn là một trong những phương tiện pháp lý quan trọng nhất để thể hiện, thi
hành chính sách hình sự của Nhà nước, để đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì
vậy, để đạt được mục đích của chính sách hình sự đối với các tội XPTMCCN thì
một trong những nội dung quan trọng nhất là cần tiếp tục hoàn thiện quy định của
PLHS về các tội phạm này, qua đó bảo đảm yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con
người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng. Hay nói cách khác, việc
hoàn thiện quy định của PLHS về các tội XPTMCCN sẽ góp phần quan trọng giúp
thực hiện tốt chính sách hình sự, để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng
của con người. Ngược lại, mục đích của chính sách hình sự, việc bảo vệ tính mạng
của con người sẽ không thể đạt hiệu quả nếu như quy định về các tội XPTMCCN
chưa phù hợp: chưa xác định đúng, đầy đủ, rõ ràng các hành vi nguy hiểm đáng kể
XPTMCCN; quy định về hình phạt chưa đủ nghiêm khắc, chưa có sự phân hóa,
chưa cụ thể hoặc chưa đảm bảo tinh thần nhân đạo…
Ở một khía cạnh khác, xét trong mối quan hệ giữa chính sách hình sự và
PLHS thì chính sách hình sự luôn có trước và thường có tính ổn định trong một
khoảng thời gian nhất định. Chính sách hình sự là tập hợp hệ thống quan điểm chính
155
thống, toàn diện của Nhà nước trên nền tảng tư tưởng của Đảng để giải quyết những
vấn đề pháp lý hình sự. Những quan điểm này thường có tính ổn định, từ đó các nhà
lập pháp từng bước cụ thể hóa chính sách hình sự vào PLHS căn cứ vào điều kiện
chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử, bối cảnh hiện hành và tình hình chung của thế
giới.... Tuy nhiên, “pháp luật (hình sự) dù có hoàn thiện đến mấy, cũng không thể
phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống”
[216, tr.209]. Mà phải qua thực tiễn áp dụng PLHS, những “khiếm khuyết” của
PLHS sẽ được bộc lộ. Ngoài ra, sự chuyển biến, thay đổi của tình hình xã hội cũng
đặt ra những vấn đề mới mà PLHS chưa có sự dự liệu… Vì vậy, PLHS lại luôn cần
thay đổi, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh trên nền tảng tư tưởng của
chính sách hình sự. Như vậy, việc hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN là nhu
cầu tất yếu để thể hiện đầy đủ chính sách hình sự Việt Nam đối với các tội
XPTMCCN trong giai đoạn mới.
4.1.1.3. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự
156
Triết lý nhân quyền của Việt Nam bắt nguồn từ nền tảng văn hóa - lịch sử
lâu đời, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, khoan dung, hòa bình và các giá trị nhân văn
cao cả. Đất nước luôn đề cao sự hòa hiếu, coi trọng phẩm giá con người. Nhà nước
Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp
phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [15, tr.7]. Thực tiễn công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam cũng cho thấy rằng thắng lợi cuối cùng
của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của
việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nói chung và đặc biệt là pháp luật
trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng [19, tr.5]. Như vậy, bảo vệ quyền con người
trong lĩnh vực tư pháp hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đảm bảo quyền con
người nói chung, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Để bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự thì một trong những nội
dung không thể thiếu là đảm bảo công lý được thực thi, góp phần tạo lòng tin của
nhân dân vào sự nghiêm minh, bình đẳng của pháp luật. Sẽ không thể bảo vệ quyền
con người trong tư pháp hình sự nếu như sự công bằng, chính nghĩa, sự đúng đắn
hay lẽ phải phù hợp với đạo lý chung của xã hội không được thực thi. Mà để hoạt
157
động áp dụng pháp luật trong tư pháp hình sự đảm bảo được công lý, công bằng,
đúng đắn, chính nghĩa thì trước tiên hoạt động lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình
sự mà đặc biệt là PLHS (luật nội dung) cần được hoàn thiện. Quy định về tội phạm
phải chuẩn xác, rõ ràng, dễ hiểu và chỉ có một cách hiểu để tránh gây tranh cãi, khó
hiểu, hiểu nhầm hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau; quy định về hình phạt và các
biện pháp tư pháp phải đảm bảo đủ tính răn đe, giáo dục, hướng thiện nhưng không
được quá hà khắc; các quy định của BLHS phải đảm bảo các nguyên tắc pháp chế,
nhân đạo, các thể hóa và phân hóa TNHS… Thực tiễn áp dụng PLHS về các tội
XPTMCCN tại TP.HCM cũng đã cho thấy những hạn chế, sai lầm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền con người, quyền công dân. Một trong những nguyên nhân
của những hạn chế, sai lầm đó là do quy định của PLHS (đã phân tích tại Chương
3). Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện quy định của PLHS đối với các tội XPTMCCN
cũng tất yếu xuất phát từ yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tư
pháp hình sự.
4.1.1.4. Yêu cầu phòng, chống có hiệu quả tình hình các tội xâm phạm tính
mạng của con người
Như vậy, nội dung cốt lõi của phòng ngừa tội phạm là loại trừ nguyên nhân
của tội phạm. Không có những thành tố là nguyên nhân của tội phạm thì tội phạm
sẽ không xảy ra. Bản chất của phòng ngừa tội phạm không phải là hoạt động hướng
đến tội phạm đã xảy ra mà là nhằm không cho tội phạm xảy ra. Với góc nhìn này thì
phòng ngừa tội phạm khác với chống tội phạm. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng việc
loại trừ hoàn toàn nguyên nhân của tội phạm trong xã hội không phải là vấn đề có
thể giải quyết trong “một sớm, một chiều” mà ngược lại, đây là vấn đề phức tạp, đòi
hỏi sự nỗ lực của cả xã hội và phải thực hiện trong khoảng thời gian lâu dài. Vì vậy,
trong quá trình từng bước loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm thì tội phạm vẫn sẽ
xảy ra. Nên hoạt động phòng ngừa tội phạm không thể tách rời hoàn toàn khỏi việc
đấu tranh chống tội phạm.
158
Phòng ngừa tội phạm và đấu tranh chống tội phạm (hay gọi chung là phòng,
chống tội phạm) phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó không thể không nhắc đến
hoạt động lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng. Cần hoàn thiện hệ
thống pháp luật, thường xuyên rà soát các quy định hiện hành, kịp thời khắc phục lỗ
hổng của pháp luật bằng việc sửa đổi, bổ sung quy định mới, góp phần tích cực vào
công tác quản lí xã hội, phát hiện và xử lí tội phạm và vi phạm pháp luật khác. “Cần
nhớ rằng hệ thống pháp luật hoàn thiện là rào cản hữu hiệu trong việc ngăn chặn
tội phạm” [104, tr.257]. Ở chiều hướng ngược lại, hiệu quả của hoạt động phòng,
chống tội phạm (thể hiện rõ nhất qua sự chuyển biến của tình hình tội phạm) cũng là
một căn cứ quan trọng để đánh giá sự phù hợp của hệ thống pháp luật nói chung và
PLHS nói riêng.
Hiện nay, tình hình tội phạm XPTMCCN ở TP.HCM nói riêng và Việt Nam
nói chung diễn biến phức tạp. Nhiều vụ việc có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, tàn
ác, dã man, gây hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân. Nhiều trường
hợp xâm hại tính mạng con người được thực hiện vì những nguyên cớ hết sức nhỏ
nhặt, vì động cơ đê hèn, có tính chất côn đồ, bằng phương pháp có khả năng làm
chết nhiều người…; hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ không chỉ được thực hiện
bởi những người có nhận thức hạn chế, đặc biệt khó khăn về hoàn cảnh mà còn
được thực hiện bởi những người có học thức, điều kiện không đến mức đặc biệt khó
khăn… Dưới góc độ tội phạm học thì số liệu về xét xử các tội XPTMCCN (tại
Chương 3) mới chỉ thể hiện phần rõ của tình hình tội phạm. Thực tế tội phạm tiềm
ẩn còn đáng báo động, nhất là các tội trọng như sát hại hoặc bỏ rơi trẻ sơ sinh, tội
giết người, tội xúi giục tự tử, tội bỏ mặc người gặp nạn và tội đe dọa giết người.
Tình trạng này minh chứng cho những khiếm khuyết trong công tác phòng ngừa tội
159
phạm nói chung và tội phạm xuyên quốc gia. Nguyên nhân đa dạng, đáng chú trọng
là tính khả thi và tính minh bạch của hệ thống pháp luật. Theo quan điểm của
Cesare Beccaria, phòng ngừa tội phạm tối ưu đòi hỏi luật pháp đơn giản, rõ ràng,
hình phạt tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chứ không phải
tính chất người phạm tội. Áp dụng hình phạt kịp thời mới phát huy hiệu quả răn đe
tối đa. Như vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý là yếu tố then chốt.…[225, tr.40,41]
4.1.1.5. Yêu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự
Hợp tác quốc tế sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực đã, đang và sẽ tiếp tục là xu
hướng tất yếu của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hợp tác quốc tế về tư pháp
hình sự cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
“Có thể thấy, cùng với sự phát triển chung của nhân loại, tội phạm cũng
đang trong quá trình toàn cầu hóa liên tục. Giờ đây, từ một địa điểm, với
những phương thức và công cụ thích hợp, một tội phạm có thể được tiến
hành ở bất kỳ đâu trên thế giới, điều này đã làm xóa nhòa ranh giới địa
lý giữa các quốc gia, đặt ra yêu cầu phải có một sự thay đổi về nhận
thức và tư duy trong việc phòng, chống tội phạm trong bối cảnh mới,
cũng như sự hợp tác một cách hiệu quả, có trách nhiệm và chặt chẽ giữa
các quốc gia với nhau” [220, tr.81].
Để hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự đạt hiệu quả thì một trong
những yêu cầu là quốc gia phải có hệ thống pháp luật nói chung và PLHS tiến bộ,
phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế.
Việt Nam tích cực tham gia hệ thống điều ước quốc tế song phương và đa
phương về phòng, chống tội phạm, minh chứng rõ nét cho sự hợp tác tư pháp hình
sự quốc tế. Sự tham gia này không chỉ dừng lại ở việc ký kết mà còn được thể hiện
qua quá trình nội luật hóa các điều khoản liên quan, cụ thể là thông qua việc tội
phạm hóa, hình sự hóa, phi tội phạm hóa và phi hình sự hóa các hành vi. Bộ luật
Hình sự năm 2015 là minh chứng cụ thể, khi quy định hình sự đối với nhiều hành vi
nguy hiểm mà các điều ước quốc tế đã cam kết. Việc này khẳng định cam kết mạnh
mẽ của Việt Nam trong đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia. Quá trình này
góp phần hiện thực hóa luật pháp quốc tế vào trong hệ thống pháp luật trong nước.
Đây cũng là một hướng để tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện quy
định của BLHS. Bên cạnh đó, việc tham khảo, học hỏi kinh nghiệm lập pháp, những
160
quy định tiến bộ của quốc gia khác, vận dụng một cách phù hợp với hoàn cảnh kinh
tế, chính trị, xã hội của Việt Nam để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và
PLHS nói riêng một mặt sẽ nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm,
mặt khắc cũng giúp hệ thống pháp luật có sự tương tương đồng giữa các quốc gia,
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong tư pháp hình sự.
4.1.2. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm tính mạng của con người
- Tiếp tục nhân đạo hóa quy định của PLHS về các tội XPTMCCN. Nhân
đạo hóa hiện nay đã trở thành xu hướng chung của luật hình sự trên thế giới, là một
trong những biểu hiện quan trọng của văn minh nhân loại. Luật hình sự Việt Nam
cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Nhân đạo hóa luật hình sự được thực
hiện dựa trên những cơ sở chắc chắn cả về nhận thức và thực tiễn.
Vì “con người là một thực thể xã hội phức tạp, mâu thuẫn, luôn chịu sự
tác động của các yếu tố thuộc về môi trường xã hội và giáo dục. Trong
mối tương tác đó nhiều khi sự tác động của môi trường xã hội đã góp
phần không nhỏ vào quá trình hình thành nhân cách con người, không
chỉ xô đẩy con người vào chỗ phạm tội mà ngược lại, còn là yếu tố tác
động mạnh mẽ đến quá trình cải tạo con người phạm tội so với khả năng
tác động của hình phạt. Vì vậy, quan điểm đề cao hiệu quả phòng ngừa
và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội là quan điểm nhất
quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam” [220, tr.53].
Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam cũng đã cho thấy quy định của
PLHS ngày càng thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo: xóa bỏ, giảm hoặc hạn chế áp
dụng, thi hành hình phạt tử hình; xóa bỏ các loại hình phạt mang tính hà khắc, gây đau
đớn về thể xác, đày đọa về tinh thần; quy định mới, mở rộng phạm vi áp dụng các hình
phạt không tước tự do thân thể con người; mở rộng các căn cứ miễn, giảm TNHS và
hình phạt; áp dụng các điều kiện có lợi trong việc xác định TNHS của người dưới 18
tuổi, phụ nữ mang thai, người cao tuổi… Việc nghiên cứu, hoàn thiện quy định của
PLHS về các tội XPTMCCN cũng không nằm ngoài xu hướng đó.
161
Việt Nam cần nỗ lực trong việc đưa PLHS của mình ngày càng tiệm cận với
các chuẩn mực pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền lợi của
phụ nữ và trẻ em, phòng chống tội phạm có tổ chức… Vì vậy, việc hoàn thiện quy
định về các tội XPTMCCN cũng cần theo hướng tiếp tục nghiên cứu nội luật hóa
quy định của các điều ước quốc tế có liên quan, tham khảo, học hỏi, tiếp thu những
162
tinh hoa, kinh nghiệm của các nền lập pháp tiên tiến trên thế giới phù hợp với tình
hình và điều kiện của xã hội Việt Nam.
4.1.3. Những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội
xâm phạm tính mạng của con người
Các tội XPTMCCN theo quy định của BLHS năm 2015 đã có những sửa
đổi, bổ sung so với BLHS năm 1999. Những điểm mới đó đã góp phần đảm bảo
quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; đáp ứng yêu cầu nội luật
hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và đáp ứng yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay (đã phân tích cụ thể tại tiểu mục
3.1.2 của Chương 3). Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLHS năm 2015 cũng cho thấy
quy định về các tội XPTMCCN vẫn còn những bất cập, hạn chế dẫn đến việc áp
dụng có thể gặp khó khăn, vướng mắc (như đã phân tích tại tiểu mục 3.2.4.1 của
Chương 3). Điều này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy định
của BLHS, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS, đấu tranh phòng, chống tội
phạm XPTMCCN. Không những thế, việc hoàn thiện BLHS không chỉ để giải
quyết vấn đề tại TP.HCM; không chỉ khắc phục những vướng mắc, khó khăn đã xảy
ra mà còn phải dự liệu những tình huống phức tạp có thể xảy ra trong tương lai;
đảm bảo tính đồng bộ, chặt chẽ, khoa học; thể hiện đầy đủ chính sách PLHS; đảm
bảo công lý, bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự; phòng chống có hiệu
quả tình hình tội phạm và phù hợp với yêu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự.
Trên cơ sở đó, NCS cho rằng quy định của BLHS hiện hành về các tội XPTMCCN
có những nội dung chưa phù hợp, cần sửa đổi cụ thể như sau:
Một là, CTTP tại Điều 123, Điều 124, Điều 125 và Điều 126 không mô tả
rõ dấu hiệu hành vi khách quan và mặt chủ quan của tội phạm. Cụ thể, CTTP tại các
điều luật trên chỉ quy định hành vi “giết người” hoặc “giết con do mình đẻ ra” mà
không mô tả rõ thế nào là “giết” và cũng không quy định hình thức lỗi của chủ thể
khi thực hiện hành vi. Điều này một phần nào đõ cũng gây khó khăn cho việc xác
định tội danh trên thực tế, đặc biệt là có thể gây nhầm lẫn giữa các tội XPTMCCN
với các tội xâm phạm sức khỏe của con người (như đã phân tích ở Chương 2 và
Chương 3). Vì vậy, NCS cho rằng cần thay từ “giết” bằng cụm từ “cố ý tước đoạt
tính mạng”. Theo đó, quy định tại các điều luật nêu trên sẽ được sửa như sau:
163
Việc sửa đổi như trên sẽ giúp mô tả rõ hành vi khách quan và dấu hiệu lỗi
của tội phạm, góp phần khắc phục những hạn chế, sai lầm trong áp dụng PLHS.
Hai là, quy định tại Điều 123 (tội giết người) vẫn còn tình tiết định khung
tăng nặng chưa được định lượng bằng chữ số rõ ràng. Một trong những điểm mới
của BLHS năm 2015 là đã “số hóa” (định lượng bằng chữ số) một số thuật ngữ
pháp lý để quy định của Bộ luật được hiểu một cách rõ ràng, cụ thể, tránh gây tranh
cãi. Từ “nhiều người” được cụ thể thành “02 người trở lên”. Ở tội giết người, tình
tiết định khung tăng nặng “giết nhiều người” nay đã được đổi thành “giết 02 người
trở lên” (điểm a khoản 1 Điều 123). Tuy nhiên, tình tiết định khung tăng nặng
“bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” (điểm l khoản 1 Điều 123) lại
chưa được sửa đổi. Như vậy, trong cùng một khung hình phạt mà 02 tình tiết định
khung lại sử dụng 02 thuật ngữ khác nhau với nghĩa như nhau (“nhiều người” và “02
người trở lên”). Điều này một mặt cho thấy sự không thống nhất về kỹ thuật lập pháp;
mặt khác có thể gây hiểu lầm hoặc tranh cãi rằng “nhiều người” khác “02 người trở
lên”, 02 người có phải là nhiều người hay không? Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại điểm
l khoản 1 Điều 123 thành: “Bằng phương pháp có khả năng làm chết 02 người trở
lên”. Quy định như vậy vừa tránh gây tranh cãi, vừa làm cho quy định tại Điều 123
thống nhất trong nội dung và tương thích với các điều luật khác của BLHS.
164
Ba là, quy định tại Điều 124 (tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ) chưa có sự
phân hóa về hình phạt giữa trường hợp phạm tội thông thường và trường hợp phạm
tội đối với 02 người trở lên. Trong các tội XPTMCCN từ Điều 123 đến Điều 133,
chỉ có Điều 124 là không quy định tình tiết định khung tăng nặng phạm tội đối với
02 người trở lên hoặc phạm tội làm chết 02 người trở lên. Theo đó thì người mẹ giết
con mới đẻ bị phạt tối đa 03 năm tù, người mẹ vứt bỏ con mới đẻ bị phạt tối đa 02
năm tù, không phụ thuộc vào việc người mẹ đã giết hoặc vứt bỏ bao nhiêu đứa con.
Điều kiện giảm nhẹ đối với hành vi tước đoạt mạng sống trẻ sơ sinh, dù xuất phát từ
hoàn cảnh éo le và trạng thái tâm lý bất thường, dẫn đến suy giảm khả năng nhận
thức và tự chủ, vẫn cần phân biệt mức độ trách nhiệm hình sự khi phạm tội liên
quan đến hai hoặc nhiều nạn nhân (ví dụ: trường hợp sinh đôi, sinh ba). Sự gia tăng
số lượng nạn nhân minh chứng rõ rệt mức độ nguy hiểm cao hơn đáng kể đối với
cộng đồng, đòi hỏi sự xét xử nghiêm minh hơn. Nếu so sánh với điều luật khác từ
Điều 123 đến Điều 133 thì mức hình phạt đối với trường hợp phạm tội đối với 02
người trở lên hoặc phạm tội làm chết 02 người trở lên cao hơn hẳn so với trường
hợp thông thường. Mặc dù trên thực tế có thể chưa ghi nhận trường hợp nào người
mẹ giết hoặc vứt bỏ từ 02 con mới đẻ trở lên nhưng điều này là hoàn toàn có thể xảy
ra. Quy định của pháp luật cần dự liệu được hết các tình huống có thể xảy ra trên
thực tế.
Vì vậy, cần thiết phải bổ sung thêm 01 khoản tại Điều 124 quy định hình
phạt trong trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên. Cụ thể:
“Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ
1.…
2.…
3. Phạm tội đối với 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 05 năm”.
Việc sửa đổi này cũng đáp ứng xu hướng phân hóa trong PLHS.
Bốn là, quy định tại Điều 130 (tội bức tử) vẫn còn tình tiết định khung tăng
nặng chưa rõ ràng, có thể gây khó hiểu. Cụ thể: tội bức tử quy định hành vi “đối xử
tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi, hoặc làm nhục người lệ thuộc mình” và
quy định hậu quả “làm người đó tự sát” là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm (khoản
1 Điều 130). Trong khi đó, điểm a khoản 2 Điều 130 lại quy định tình tiết định
khung tăng nặng “đối với 02 người trở lên”. Điều này sẽ dẫn đến khó hiểu: có nhất
165
thiết cả 02 người bị đối xử tàn ác, ức hiếp, ngược đãi…trở lên đều phải tự sát thì
mới thuộc trường hợp phạm tội tại điểm a khoản 2 Điều 132 hay không? Ví dụ: Một
người cha đã đối xử tàn ác, ngược đãi, thường xuyên đánh đập 02 người con của
mình làm một trong 02 người con đó tự sát. Trường hợp phạm tội này có thuộc
điểm a khoản 2 Điều 132 hay không?
So sánh với quy định tại Điều 131 (tội xúi giục hoặc giúp người khác tự
sát), chúng ta thấy rằng Điều 131 cũng quy định hậu quả nạn nhân tự sát là dấu hiệu
bắt buộc. Đồng thời khoản 2 Điều 132 cũng quy định tình tiết định khung tăng nặng
tương tự: “phạm tội làm 02 người trở lên tự sát”. Quy định này rất rõ ràng, dễ hiểu,
tránh gây tranh luận không cần thiết. Vì vậy, quy định tại điểm a khoản 2 Điều 130
nên sửa lại như quy định tại khoản 2 Điều 131: “phạm tội làm 02 người trở lên tự
sát”. Sửa đổi này vừa giúp cho quy định của điều luật trở nên rõ ràng, tránh gây
tranh cãi, vừa làm cho các điều luật có tính đồng bộ, tương thích với nhau về nội
dung và kỹ thuật lập pháp.
Năm là, kỹ thuật lập pháp tại Điều 131 (tội xúi giục hoặc giúp người khác
tự sát) mặc dù giúp mô tả rõ hành vi khách quan nhưng lại dẫn đến quy định chưa
rõ ràng về dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Cụ thể:
Điều 131 BLHS năm 2015 quy định:
Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 131 như trên dẫn đến vướng mắc, khó
hiểu trong việc xác định hậu quả có phải là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội phạm hay
không? Cụm từ “người khác tự tước đoạt tính mạng của họ” được đặt liền ngay sau
các hành vi “kích động, dụ dỗ, thúc đẩy” có thể dẫn đến 02 cách hiểu khác nhau:
- Cách hiểu thứ nhất: “người khác tự tước đoạt tính mạng của họ” là nội
dung của các hành vi “kích động, dụ dỗ, thúc đẩy”, cũng tương tự như việc kích
động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác giết người, cướp tài sản, chống chính quyền nhân
dân… Hay nói cách khác, chỉ cần người phạm tội có hành vi kích động, dụ dỗ, thúc
166
đẩy với nội dung kích động, dụ dỗ, thúc đẩy là “tự tước đoạt tính mạng”, là cướp tài
sản, là giết người hay là chống chính quyền nhân dân… còn việc người bị kích
động, dụ dỗ, thúc đẩy có thực hiện theo những nội dung đó hay không thì không
phải là dấu hiệu bắt buộc có ý nghĩa trong việc định tội. Hay tóm lại, việc “người
khác tự tước đoạt tính mạng của họ” không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.
Về vấn đề này, nếu so sánh với quy định trước đây thì BLHS năm 1999 lại
quy định rất rõ ràng. Khoản 1 Điều 101 BLHS năm 1999 quy định: “Người nào xúi
giục làm người khác tự sát hoặc giúp người khác tự sát thì bị phạt tù từ sáu tháng
đến ba năm”. Điều khoản đã khẳng định rõ hậu quả “làm người khác tự sát” là dấu
hiệu bắt buộc của tội phạm.
Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại Điều 131 theo hướng xác định rõ hậu quả
nạn nhân “tự tước đoạt tính mạng của họ” là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Bởi vì,
đối với tội phạm này, quy định của BLHS năm 2015 chỉ khác quy định của BLHS
1999 ở việc mô tả cụ thể hành vi khách quan còn các dấu hiệu khác trong CTTP
không có sự thay đổi. Cụ thể, Điều 131 nên sửa lại như sau:
Sáu là, quy định về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng tại Điều 132 còn sử dụng từ ngữ chưa thực sự tường minh,
chưa đạt chuẩn mực của ngôn từ pháp lí. Cụ thể, khoản 1 Điều 132 quy định:
167
“Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…”.
Việc sử dụng từ “thấy” trong trường hợp này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác
nhau: 1. Thấy là nhận biết được bằng mắt nhìn. 2. Thấy là nhận biết bằng các giác
quan nói chung (nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy…). 3. Thấy là nhận biết
bằng nhận thức…[245, tr.1488]. Để dễ hình dung hơn, chúng ta có thể xem xét một
ví dụ sau:
Do mâu thuẫn về việc tranh chấp đất đai, sáng ngày 22/2/2018, ông Phước
(sinh năm 1970) đã đánh ông Bình (sinh năm 1968) làm ông Bình bị thương. Mặc dù
mức độ thương tích và tổn hại sức khỏe không đáng kể nhưng ông Bình rất căm giận.
15h chiều hôm đó, ông Bình đang ở trong nhà đọc báo thì có 03 cháu nhỏ
khoảng 9 đến 10 tuổi ra con suối sát phía sau nhà ông Bình tắm, trong đó có cháu
Hải (sinh năm 2009) là con của ông Phước. Vì mới tập bơi nên chẳng may cháu Hải
bị chới với, có nguy cơ chết đuối, các cháu khác thấy vậy liền chạy vào nhà ông
Bình nói Hải bị đuối nước và nhờ ông Bình cứu. Ông Bình biết đây là con suối cạn,
mình có thể cứu người được nhưng vì đang mâu thuẫn với bố cháu Hải nên ông
Bình không cứu mà nói: “Mặc xác nó” và tiếp tục ngồi đọc báo. Kết quả cháu Hải
đã bị chết đuối. Trong vụ việc trên, ông Bình không nhìn thấy bằng mắt nhưng vẫn
biết rõ cháu Hải đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Vậy ông Bình có
BLHS Cộng hòa Liên bang Đức được ban hành ngày 13/11/1998 tại Điều
phạm tội tại Điều 132 không?
221 quy định Tội bỏ rơi như sau:
168
“(1) Người nào
1. làm cho một người lâm vào tình trạng không có sự giúp đỡ hoặc
2. bỏ rơi một người trong tình trạng không có sự giúp đỡ…” [211, tr.362].
BLHS Liên bang Nga năm 1996 tại Điều 125 quy định Tội bỏ mặc người
khác trong tình trạng nguy hiểm như sau:
“Người nào mà rõ ràng là bỏ mặc người khác trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe…” [210, tr.186].
BLHS Nhật Bản sửa đổi và bổ sung năm 2011 tại Điều 217 quy định Tội bỏ rơi:
“Người nào bỏ rơi người già yếu, trẻ thơ, người tàn tật, người bệnh hoạn
đang cần sự chăm sóc…” [76].
Vì vậy, thiết nghĩ từ “thấy” trong quy định tại khoản 1 Điều 132 nên được
sửa thành từ “biết rõ”. Như vậy, khoản 1 Điều 132 nên sửa thành: “Người nào biết
rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…”. Việc sửa đổi
này giúp cho quy định của điều luật được rõ ràng, tránh gây tranh cãi, đạt chuẩn
mực về ngôn từ pháp lí, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm đồng thời cũng thể
hiện xu hướng quốc tế hóa trong hoàn thiện PLHS Việt Nam.
Bảy là, Điều 133 BLHS chưa quy định trường hợp đe dọa giết người phụ
nữ mang thai như một tình tiết tăng nặng hình phạt, trái ngược với quy định về tội
phạm đối với trẻ em dưới 16 tuổi. Sự bất cập này thể hiện rõ nét khi so sánh với các
điều khoản liên quan đến tội phạm chống người và trật tự xã hội khác, cụ thể là
Điều 123 (giết người), Điều 127 (làm chết người trong khi thi hành công vụ), và
Điều 130 (bức tử). Các điều luật này đều xem xét cả hai tình tiết: phạm tội đối với
trẻ em dưới 16 tuổi và phụ nữ có thai là yếu tố tăng nặng. Sự thiếu nhất quán này
cần được xem xét, điều chỉnh để đảm bảo tính công bằng và toàn diện của pháp
luật. Như vậy, quy định tại Điều 133 hiện tại một mặt cho thấy sự không thống nhất
về mặt kỹ thuật lập pháp so với các điều luật khác. Mặt khác, xét về tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi thì hành vi đe dọa giết phụ nữ mà biết là có thai cũng
thể hiện tính chất nguy hiểm cao không kém so với phạm tội đối với người dưới 16
tuổi và các tính tiết định khung tăng nặng khác quy định tại khoản 2 Điều 133 (đối
với 02 người trở lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đối với người đang thi hành công
vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về
một tội phạm khác). Bởi vì khi người phụ nữ mang thai bị rơi vào tình trạng lo sợ,
169
hoang mang, hãi hùng… thì không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý, sinh lý của
bản thân mà còn có thể ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí nguy hiểm cho sự phát triển
bình thường của thai nhi… Trong khi đó, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về
quyền trẻ em (CRC) ngay trong phần mở đầu đã ghi nhận: Ghi nhớ rằng, “trẻ em,
do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả
sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” [246].
Vì vậy, thiết nghĩ cần bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng phạm tội
đối với “phụ nữ mà biết là có thai” vào điểm d khoản 2 Điều 133. Theo đó, Điều
133 sẽ quy định như sau:
“Điều 133. Tội đe dọa giết người
1…
2…
a)…
b)…
c)…
d) Đối với người dưới 16 tuổi; phụ nữ mà biết là có thai;
đ)…”.
Việc sửa đổi này sẽ giúp quy định của BLHS đảm bảo thống nhất về kỹ
thuật lập pháp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đồng thời
cũng thể hiện xu hướng phân hóa, quốc tế hóa trong luật hình sự, phù hợp với tinh
thần của Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC).
Tám là, BLHS hiện hành chưa có quy định riêng đối với trường hợp làm chết
người theo yêu cầu của nạn nhân. Theo đó, người cố ý tước đoạt tính mạng của người
khác dù cho là theo yêu cầu của nạn nhân vẫn phạm tội giết người và phải chịu hình
phạt rất nghiêm khắc. Trong khi đó, thực tế đã xảy ra những trường hợp nạn nhân là
người bị bệnh hiểm nghèo, đau đớn về thể xác kéo dài, không còn khả năng cải thiện,
chất lượng cuộc sống khổ sở… và thực sự mong muốn được chấm dứt cuộc sống, để
“giải thoát” nỗi đau. Người phạm tội (thường là người thân của nạn nhân) vì thương
xót và đồng cảm với nạn nhân đồng thời thấy cũng không còn cách khác để cải thiện
tình hình nên đã tước đoạt tính mạng của nạn nhân theo yêu cầu của họ. Như trường
được nêu trong Bản án số 466/2022/HS-ST ngày 26/9/2022 của TAND TP.HCM:
170
Huỳnh Quang Đạt (sinh năm 1966, ngụ TP.HCM) có vợ là bà U. (sinh năm
1968). Năm 2006, bà U. bị tai biến nặng, không còn khả năng lao động trong khi
con trai duy nhất của hai vợ chồng mới 8 tuổi. Ông Đạt làm nghề thợ mộc nhưng
thường xuyên phải nghỉ làm để chăm sóc vợ, con nên bị chủ đuổi việc. Ông Đạt
chuyển sang buôn bán nhỏ để kiếm tiềm lo cho gia đình và người cha vợ (sinh năm
1940) mất một chân. Đến khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, cả gia đình ông Đạt
đều nhiễm bệnh, mỗi người được đưa đi cách ly một nơi. Một thời gian sau, khu
cách ly nơi vợ ông nằm báo cho ông đến đưa bà về để điều trị vật lý trị liệu vì bà đã
bị liệt cả hai chân, đôi tay thì rất yếu. Sau khi mắc Covid-19, bà U. còn phải chạy
thận để giữ tính mạng. Trong gần 4 ngày nằm bệnh viện để tập vật lý trị liệu sau
Covid-19, ông Đạt đóng hơn 10 triệu đồng, là toàn bộ khoản tiền ông tích cóp cộng
thêm phần tiền gia đình hai bên nội, ngoại giúp đỡ. Ông vừa chăm sóc, vừa động
viên vợ: “Em ráng khỏe cho anh mừng chứ anh khổ quá”. Bà U. thì thường xuyên
đòi chết để bớt đau đớn. Một lần, hai vợ chồng đã ngoắc tay nhau hứa sẽ cùng chết
để giải thoát khỏi cảnh khổ. Sáng hôm xảy ra vụ việc, ông mua đồ ăn sáng về nhưng
vợ không ăn cứ liên tục trách ông không thực hiện lời hứa cùng chết nên ông Đạt
quyết định sẽ cùng chết với vợ. Hơn 7 giờ ngày 04/11/2021, ông Đạt mua dây điện
về, đưa bà U. cầm một đầu, đầu còn lại cắm vào ổ điện. Khoảng 4 giây thì ông Đạt
171
Tình tiết này được Hội đồng xét xử xem xét là một trong những tình tiết
giảm nhẹ TNHS cho bị cáo khi lượng hình bên cạnh việc bị cáo ăn năn, hối cải,
thành khẩn khai báo, bị cáo có trình độ văn hóa thấp... Hội đồng xét xử nhận định bị
cáo là người trực tiếp cầm phích cắm điện làm cho bị hại bị điện giật chết. Xem xét
vụ án, toà án đã tuyên phạt bị cáo Đạt mức thấp nhất của khung hình phạt là 7 năm
tù giam về tội “Giết người” [247].
Trong vụ việc trên, bị cáo bên cạnh hành vi đáng trách thì cũng có tình tiết
đáng thương, bị cáo thật sự yêu thương, có trách nhiệm với nạn nhân và chính tình
yêu thương đó đặt trong hoàn cảnh bi đát, cùng quẫn đã dẫn đến bị cáo không thực
sự có lựa chọn sáng suốt, giết người thân và tự tử để “giải thoát”. Hành vi của nạn
nhân cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định không sáng suốt của bị cáo. Nếu so
sánh trường hợp này với những trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh thì có những điểm tương đồng quan trọng: nạn nhân và hoàn cảnh
đóng vai trò lớn trong việc dẫn đến hành vi của người phạm tội, người phạm tội
thường rơi vào trạng thái không hoàn toàn sáng suốt khi thực hiện hành vi. Thậm
chí, xét ở góc độ nào đó, NCS cho rằng hành vi giết người theo yêu cầu của nạn
nhân còn có tính nguy hiểm thấp hơn so với hành vi giết người trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh. Nếu như trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,
người phạm tội giết người vì căm giận nạn nhân thì trong trường hợp theo yêu cầu
của nạn nhân, người phạm tội vì cảm thông với hoàn cảnh của nạn nhân mà chấp
nhận phạm tội. Vì vậy, thiết nghĩ trường hợp này cũng cần được quy định thành một
tội danh độc lập tương tự như tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
Tham khảo pháp luật của các quốc gia trên thế giới, cũng có những quốc
gia quy định làm chết người theo yêu cầu của nạn nhân là tội phạm độc lập (Cộng
hòa Liên bang Đức, Thụy Sĩ) hoặc là tình tiết định khung giảm nhẹ của Tội giết
người (Cộng hòa Tây Ban Nha) [135, tr.365,368]. Thậm chí nếu làm chết người
172
theo yêu cầu của nạn nhân thuộc trường hợp “an tử” (euthanasia) thì một số quốc
gia không coi là tội phạm (Hà Lan, Bỉ, Anbani, Lúcxămbua…). Xu hướng đang
diễn ra trên thế giới là an tử ngày càng được nhiều quốc gia thừa nhận hơn. “Quyền
sống nên được coi là một quyền tùy nghi và nó không mẫu thuẫn mà song hành với
quyền an tử” [215, tr.224]. Ở Việt Nam hiện chưa cho phép “an tử”, nhưng theo
NCS, cũng không nên vì thế mà coi trường hợp làm chết người theo yêu cầu của
nạn nhân như những trường hợp giết người thông thường. Vì rõ ràng động cơ, mục
đích, hoàn cảnh phạm tội và tính chất nguy hiểm có nhiều điểm khác biệt so với giết
người thông thường. Người phạm tội làm chết người theo yêu cầu của nạn nhân cần
được áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với những trường hợp thông thường.
Việc bổ sung điều luật riêng quy định về tội làm chết người theo yêu cầu
của nạn nhân sẽ vừa thể hiện xu hướng nhân đạo hóa, vừa thể hiện xu hướng phân
hóa TNHS đồng thời cũng thể hiện xu hướng quốc tế hóa PLHS. Tuy nhiên, việc bổ
sung tội danh này cùng với việc bổ sung văn bản hướng dẫn áp dụng cần đảm bảo
chặt chẽ, tránh trường hợp lợi dụng quy định để giết người mà nạn nhân không thực
sự thể hiện được ý chí hoặc nạn nhân là người dưới 18 tuổi (chưa đủ trưởng thành
để bày tỏ ý chí về một vấn đề quan trọng với cuộc sống của bản thân)… Với những
phân tích như đã trình bày, thiết nghĩ nên bổ sung điều luật cụ thể như sau:
“Điều 125 a. Tội làm chết người theo yêu cầu của nạn nhân
1. Người nào làm chết người theo yêu cầu nghiêm túc, khẩn thiết và rõ ràng
của nạn nhân từ đủ 18 tuổi trở lên để giải thoát nạn nhân khỏi sự đau đớn kéo dài
do mắc bệnh hiểm nghèo, không còn khả năng chữa trị thì bị phạt tù từ 06 tháng
đến 03 năm.
2. Phạm tội đối với 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”.
Chín là, quy định về hình phạt chính đối với các tội XPTMCCN mặc dù đã
khá đa dạng, bao gồm nhiều loại hình phạt với mức độ nghiêm khắc tăng dần từ
cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân đến tử hình (đã phân
tích cụ thể tại tiểu mục 2.1.3 của Chương 2), nhưng vẫn còn thiếu một loại hình
phạt có mức độ nghiêm khắc nằm trong khoảng “chuyển tiếp” giữa hình phạt cảnh
cáo và hình phạt cải tạo không giam giữ. Đó là hình phạt tiền.
Trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đã
chỉ rõ cần phải “Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải
tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm” [10], [11], [12]. Trong Chương
173
XIV BLHS năm 2015, hình phạt tiền đã được bổ sung là hình phạt chính trong một
số tội xâm phạm sức khỏe (Điều 135, Điều 136, Điều 138, Điều 139) nhưng các tội
XPTMCCN thì vẫn không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính. Điều này có
thể là do nhìn chung thì các tội XPTMCCN có tính chất nguy hiểm cao hơn so với
các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Tuy nhiên, xét theo phân loại tội phạm
dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội thì các tội XPTMCCN không chỉ
bao gồm các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, mà còn có cả tội ít
nghiêm trọng và tội nghiêm trọng (đã phân tích tại mục 2.2 của Chương 2). Trong
khi đó, hình phạt tiền có thể được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm
tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng (Điều 35). Hơn nữa, Điều 132 còn
quy định hình phạt cảnh cáo (ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt tiền) nhưng lại
không quy định hình phạt tiền. Vì vậy, NCS cho rằng cần bổ sung quy định hình
phạt tiền với mức phạt từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng vào khoản 1 Điều
132 (tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng).
Cụ thể, khoản 1 Điều 132 nên sửa lại như sau:
“Người nào biết rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị
phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo
không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”
Việc sửa đổi như trên một mặt góp phần đảm bảo chủ trương của Đảng về
cải cách tư pháp, đảm bảo định hướng tiếp tục nhân đạo hóa quy định của PLHS (đã
trình bày tại tiểu mục 4.1.2). Mặt khác, việc sửa đổi như trên cũng thể hiện xu
hướng phân hóa TNHS, sẽ giúp tòa án có thêm sự lựa chọn chế tài khi giải quyết
từng vụ án cụ thể, đảm bảo lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp với
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, vừa đảm bảo tính răn đe vừa
góp phần bổ sung ngân sách của Nhà nước.
4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình
sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người
4.2.1. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định về
các tội xâm phạm tính mạng của con người
Như đã phân tích tại Chương 3 của luận án, một trong những nguyên nhân
quan trọng dẫn đến những hạn chế, sai lầm trong áp dụng PLHS về các tội
XPTMCCN là hạn chế trong công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật. Vì vậy, bên
174
cạnh việc hoàn thiện quy định của BLHS, các cơ quan chức năng cần ban hành
văn bản hướng dẫn thực hiện quy định về các tội XPTMCCN. Việc ban hành các
Nghị quyết, Thông tư liên tịch hướng dẫn cần dựa trên cơ sở tổng kết rút kinh
nghiệm các vụ án đã xét xử và tập trung vào những vấn đề mới chưa có văn bản
hướng dẫn hoặc những vấn đề còn khó hiểu, gây tranh cãi, vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng. Cụ thể:
- Những vấn đề chưa được hướng dẫn, giải thích:
+ Thế nào là “giết 02 người trở lên” (điểm a khoản 1 Điều 123)? Trên thực
tế có thể xảy ra các trường hợp gây tranh cãi: người thực hiện hành vi mong muốn
tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên nhưng chỉ có 01 người chết; người thực
hiện hành vi mong muốn tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên nhưng không ai
bị chết; người thực hiện hành vi có ý thức bỏ mặc cho 02 người trở lên bị chết
nhưng chỉ có 01 người chết; người thực hiện hành vi mong muốn tước đoạt tính
mạng của 01 người và có ý thức bỏ mặc cho 01 người chết và thực tế chỉ có 01
người chết… mà vụ án được nêu tại Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2022/HS-ST
ngày 21/9/2022 của TAND TP.HCM là một ví dụ (đã phân tích tại tiểu mục 3.2.2.2
của Chương 3). NCS cho rằng cần có văn bản giải thích trên cơ sở xác định bản
chất của hình thức lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp trong tội giết người. Cụ thể,
nếu là giết người với lỗi cố ý trực tiếp (mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn
nhân) thì không cần hậu quả chết người xảy ra. Ngược lại, nếu là hình thức lỗi cố ý
gián tiếp (có ý thức bỏ mặc cho nạn nhân chết) thì bắt buộc phải có hậu quả chết
người xảy ra. Trên cơ sở đó, “giết 02 người trở lên” nên được xác định là mong
muốn tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên (không kể có chết người hay không,
có mấy người chết) hoặc có ý thức bỏ mặc cho 02 người trở lên chết và thực tế đã
có từ 02 người trở lên bị chết hoặc mong muốn tước đoạt tính mạng của 01 người
(không kể có chết hay không) và bỏ mặc cho 01 người trở lên chết (phải có hậu quả
chết người xảy ra).
+ Thế nào là “giết người dưới 16 tuổi” (điểm b khoản 1 Điều 123)? Quy
định tưởng chừng như đã rất rõ ràng nhưng trong nghiên cứu khoa học cũng như
trong thực tiễn áp dụng PLHS vẫn còn có 02 cách hiểu khác nhau về ý thức chủ
quan của người phạm tội: Một là, chỉ áp dụng tình tiết trên nếu thỏa mãn cả 02 điều
kiện là nạn nhân dưới 16 tuổi và người phạm tội biết nạn nhân là người dưới 16
175
tuổi. Hai là, chỉ cần thỏa mãn 01 điều kiện về khách quan nạn nhân là “người dưới
16 tuổi” [52, tr.176]. NCS cho rằng cần có văn bản giải thích thống nhất theo cách
hiểu thứ hai, vì tình tiết tăng nặng định khung nên trên không phải là tình tiết thuộc
ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết thuộc mặt khách quan.
+ Thế nào là “giết phụ nữ mà biết là có thai” (điểm c khoản 1 Điều 123)?
Hiện nay, đa số quan điểm cho rằng để áp dụng tình tiết này thì nạn nhân phải là
người đang mang thai và người phạm tội biết rõ điều đó khi thực hiện hành vi giết
nạn nhân [207, tr.63]. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng trong trường hợp
người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội tưởng lầm là có thai và
sự lầm tưởng này là có căn cứ thì người phạm tội vẫn bị truy cứu TNHS về tội giết
người trong trường hợp “giết phụ nữ mà biết là có thai” [117, tr.21]. NCS cho rằng
cần có văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất tình tiết trên theo hướng cần phải có
đủ 02 điều kiện: một là, nạn nhân phải là phụ nữ đang mang thai; hai là, người
phạm tội biết rõ điều đó khi thực hiện hành vi giết người. Bởi vì điều luật quy định
“biết là có thai” chứ không phải “tưởng là có thai”. Vấn đề này đã được xác định
trong Báo cáo bổ sung công tác xét xử về hình sự của Tòa Hình sự TAND Tối cao
ngày 10/01/1999. Tuy nhiên, vẫn cần có văn bản hướng dẫn chính thức của TAND
Tối cao.
+ Thế nào là “giết ông, bà, cha, mẹ” của mình (điểm đ khoản 1 Điều 123)?
Thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy hiện vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau:
Cách hiểu thứ nhất cho rằng giết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha
đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của mình hay của vợ hoặc của chồng thì đều bị áp
dụng tình tiết trên. Chẳng hạn như vụ án được nêu trong Bản án hình sự sơ thẩm số
09/HSST ngày 31/3/2000 của TAND tỉnh Hà Nam. Trong vụ án này, do mâu thuẫn
với gia đình bố mẹ vợ, bị cáo đã dùng dao đâm chết vợ và bố, mẹ vợ. TAND tỉnh
Hà Nam đã xác định bị cáo phạm tội giết người với 02 tình tiết tăng nặng định
khung là giết nhiều người và giết cha, mẹ của mình.
Cách hiểu thứ hai cho rằng chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng nên trên nếu giết
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của mình;
còn giết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của
vợ hay của chồng thì không bị áp dụng tình tiết nêu trên. Chẳng hạn như vụ án được
nêu trong Bản án hình sự sơ thẩm số 52/HSST ngày 05/6/2001 của TAND tỉnh Bến
176
Tre. Trong vụ án này, cũng từ mâu thuẫn với vợ và mẹ vợ, bị cáo đã dùng ghế đẩu
bằng gỗ đánh chết mẹ vợ của bị báo. TAND tỉnh Bến Tre không áp dụng tình tiết
tăng nặng định khung “giết mẹ của mình” vì cho rằng nạn nhân là mẹ vợ chứ không
phải là mẹ đẻ của bị cáo.
Cách hiểu thứ ba lại cho rằng, chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng định khung
nêu trên khi người phạm tội giết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ
của mình. Còn nếu giết cha nuôi, mẹ nuôi của mình cũng không bị áp dụng tình tiết
tăng nặng định khung nêu trên [52, tr.193].
NCS cho rằng xét về bản chất của vấn đề thì quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 123 thể hiện đường lối xử lý nghiêm khắc hơn bình thường đối với trường hợp
người phạm tội đã giết những người mà đáng lẽ ra họ phải tôn kính, biết ơn, trân
trọng vì đã có công sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ. Hành vi phạm tội như trên sẽ
thể hiện tính chất nguy hiểm cao hơn vì làm đảo lộn các giá trị xã hội, thể hiện sự
xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách… Vì vậy, nếu hiểu theo cách thứ
nhất là quá rộng và cảm tính (đặc biệt là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của vợ
hoặc chồng). Trong rất nhiều trường hợp thực tế, giữa người phạm tội và những
người nêu trên ít hoặc không có sự gắn bó thân thiết, không có quan hệ chăm sóc,
nuôi dưỡng, dạy dỗ… Trong khi đây là tình tiết tăng nặng định khung (phạt tù từ 12
năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình), cần phải thận trọng khi áp dụng, nếu
hiểu rộng quá sẽ dẫn đến tình trạng xử nặng đối với nhiều người. Ngược lại, nếu
hiểu theo cách thứ ba thì bỏ sót cha nuôi, mẹ nuôi của người phạm tội. Trong khi
hiện nay, đây là quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được pháp luật thừa nhận,
quy định rất rõ ràng. Vì vậy, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn thống nhất về
trường hợp “giết ông, bà, cha, mẹ” của mình theo cách hiểu thứ hai đã nêu ở trên.
+ Thế nào là giết “người nuôi dưỡng” của mình (điểm đ khoản 1 Điều
123)? Thực tế cũng cho thấy các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho
rằng cần phải thỏa mãn 02 điều kiện: nạn nhân là người đã hoặc đang nuôi dưỡng
người phạm tội và quan hệ nuôi dưỡng này phải được pháp luật thừa nhận. Quan
điểm thứ hai cho rằng cứ giết người đang nuôi dưỡng mình, dù quan hệ nuôi dưỡng
này không được pháp luật thừa nhận cũng bị áp dụng tình tiết nêu trên [52, tr.193-
194]. NCS cho rằng nếu hiểu theo quan điểm thứ hai thì sẽ khó có cơ sở, căn cứ để
xác thực khi cần xem xét có tồn tại hay không quan hệ nuôi dưỡng giữa nạn nhân và
177
người phạm tội, từ đó có thể dẫn đến sự cảm tính, tùy tiện, thậm chí là cố tình tiêu
cực trong áp dụng. Hơn nữa, đây cũng là tình tiết tăng nặng định khung nên nếu còn
nhiều cách hiểu khác nhau thì cần phải thận trọng trong áp dụng, không nên mở
rộng phạm vi áp dụng, gây bất lợi cho người bị áp dụng. Vì vậy, cũng cần phải có
văn bản hướng dẫn thống nhất theo quan điểm thứ nhất đã nêu ở trên.
+ Thế nào là giết “thầy giáo, cô giáo của mình” (điểm đ khoản 1 Điều
123)? Quy định tưởng chừng như rõ ràng nhưng trên thực tế vẫn dẫn đến nhiều cách
hiểu khác nhau xoay quanh các vấn đề: nạn nhân có nhất thiết phải là người làm
việc trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan có thẩm quyền của
Nhà nước cho phép hoặc công nhận, theo hợp đồng hoặc theo biên chế không
(chẳng hạn nạn nhân không phải là người làm việc trong các cơ sở giáo dục, đào
tạo, dạy nghề nhưng vì trình độ và năng lực, họ nhận dạy thêm, dạy kèm cho người
phạm tội…)? Nạn nhân có nhất thiết phải đã hoặc đang trực tiếp giảng dạy người
phạm tội không (ví dụ có những thầy giáo, cô giáo thuộc biên chế cơ sở giáo dục
mà người phạm tội đang học tập nhưng không trực tiếp giảng dạy người phạm tội
thì sao?...). NCS cho rằng để đảm bảo sự chặt chẽ, tránh sự không thống nhất, tùy
tiện trong áp dụng tình tiết nêu trên thì cần có văn bản hướng dẫn theo hướng nạn
nhân phải là người làm việc trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ
quan có thẩm quyền của Nhà nước cho phép hoặc công nhận, theo hợp đồng hoặc
theo biên chế; đồng thời, nạn nhân cũng đã hoặc đang trực tiếp hay gián tiếp thực
hiện chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho người phạm tội như: thầy giáo, cô
giáo trực tiếp giảng dạy các học phần, giáo viên chủ nhiệm lớp hoặc hiệu trưởng,
phó hiệu trưởng phụ trách, chủ nhiệm khoa, trưởng phòng đào tạo…
+ Thế nào là giết người “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” (điểm h
khoản 1 Điều 123)? Đây là trường hợp giết người mà động cơ phạm tội là việc
chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân cho mình, cho người thân hoặc để trao đổi,
mua bán. Động cơ, mục đích phạm tội trong trường hợp này thể hiện tính ích kỉ cao
độ trong việc đánh đổi tính mạng người khác cho việc thỏa mãn nhu cầu cá nhân
[207, tr.65]. NCS cho rằng cần có văn bản hướng dẫn để phân biệt trường hợp trên
với các trường hợp người phạm tội vì quá căm tức nạn nhân nên sau khi giết nạn
nhân đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả giận
178
(chẳng hạn sau khi giết nạn nhân, người phạm tội đã mổ bụng nạn nhân lấy nội tạng
cho súc vật ăn…).
+ Thế nào là giết người “bằng cách lợi dụng nghề nghiệp” (điểm k khoản 1
Điều 123)? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau khi nhận thức về tình tiết này:
Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là trường hợp giết người mà người phạm
tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để có thể dễ dàng thực hiện hoặc che giấu
hành vi giết người [59, tr.68], [153, tr.24], [207, tr.65-66], [214, tr.60-61], [242,
tr.67]. Theo quan điểm này thì việc lợi dụng nghề nghiệp có thể là để dễ dàng thực
hiện tội phạm hoặc việc lợi dụng nghề nghiệp có thể chỉ là để dễ dàng che giấu tội
phạm. Ví dụ: A làm việc tại một cơ sở hỏa táng. Trong một lần rủ B (bạn thân của
A từ nhỏ) về nhà ăn nhậu, do bị ảnh hưởng bởi uống nhiều rượu nên A và B tranh
luận dẫn đến cãi vã và ẩu đả. A đã dùng dao đâm B chết. Sau đó, để che giấu tội
phạm, A đã lén đưa xác B đến cơ sở hỏa táng mà mình đang làm việc để thiêu xác
B. Trong ví dụ này, có thể thấy hành vi giết người của A không có việc lợi dụng
nghề nghiệp nhưng việc che giấu tội giết người lại có yếu tố lợi dụng nghề nghiệp;
Quan điểm thứ hai cho rằng đây là trường hợp người phạm tội đã sử dụng
nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che
giấu tội phạm [52, tr.199], [117, tr.29]. Theo quan điểm này thì việc sử dụng nghề
nghiệp vừa giúp người phạm tội thực hiện hành vi giết người và cũng giúp người
phạm tội che giấu tội phạm. Theo đó thì ví dụ đã được nêu khi phân tích quan điểm
thứ nhất ở phần trên không thuộc trường hợp quy định tại điểm k khoản 1 Điều 123;
Quan điểm thứ ba cho rằng đây là trường hợp người phạm tội có nghề
nghiệp, đã sử dụng nghề nghiệp của mình để thực hiện việc giết người [64, tr.39],
[101, tr.41]. Theo quan điểm này thì chỉ cần việc sử dụng nghề nghiệp của người
phạm tội là để thuận lợi cho việc thực hiện hành vi giết người. Còn việc lợi dụng
nghề nghiệp có giúp dễ dàng cho việc che giấu tội phạm hay không thì đều không
có ý nghĩa trong việc xem xét tình tiết tại điểm k khoản 1 Điều 123.
NCS cho rằng quan điểm thứ ba là phù hợp, vì khoản 1 Điều 123 quy định
hành vi “giết người” chứ không quy định hành vi che giấu hay xóa dấu vết của tội
phạm. Vì vậy, quy định tại điểm k của khoản 1 là quy định cho hành vi “giết
người”. Còn việc lợi dụng nghề nghiệp có giúp ích gì cho việc che giấu tôị phạm
hay không đều không có ý nghĩa trong việc xem xét tình tiết này. Trên cơ sở đó,
179
thiết nghĩ cũng cần có văn bản hướng dẫn thống nhất tình tiết quy định tại điểm k
khoản 1 Điều 123 theo quan điểm thứ ba như đã phân tích ở trên.
+ Thế nào là giết người “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều
người” (điểm l khoản 1 Điều 123)? Về mặt lí luận, có thể dễ dàng xác định đây là
trường hợp giết người mà người phạm tội đã sử dụng công cụ, phương tiện hoặc thủ
đoạn phạm tội có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người (trong hoàn cảnh cụ thể)
như dùng chất nổ giết nạn nhân đang ở trong nhà cùng với những người khác…
[207, tr.66]. Tuy nhiên, trong thực tế việc phân biệt trường hợp này với trường hợp
giết 02 người trở lên (điểm a khoản 1 Điều 123) gặp rất nhiều khó khăn, nhiều quan
điểm trái chiều, không thống nhất trong áp dụng. Chẳng hạn vụ án được nêu trong
Bản án hình sự phúc thẩm số 768/HSPT ngày 21/5/1997 của TAND tối cao tại
TP.HCM: Do mâu thuẫn cá nhân, Lê Ngọc Liêm đã đổ 100 gam thuốc trừ sâu hiệu
Furanđan vào nồi canh cá của gia đình chị Vũ Thị Nhuần làm 5 người nhà chị
Nhuần bị ngộ độc sau khi ăn nồi canh này. Do được cấp cứu kịp thời nên không ai
bị chết. TAND cấp sơ thẩm xác định Liêm phạm tội giết người với tình tiết tăng
nặng định khung “giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều
người”. Tuy nhiên, TAND cấp phúc thẩm lại áp dụng tình tiết tăng nặng định khung
“giết nhiều người” (hiện nay là giết 02 người trở lên).
NCS cho rằng để có thể phân biệt rạch ròi tình tiết tại điểm l với tình tiết tại
điểm a khoản 1 Điều 123 như đã nêu ở trên thì cần xem xét trong 03 khả năng đối
với hậu quả chết người xảy ra. Cụ thể:
Trường hợp 1, người phạm tội dùng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn
giết người có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người nhưng thực tế không có hậu
quả chết người xảy ra. Trường hợp này cần xác định người phạm tội có mong muốn
tước đoạt tính mạng của nhiều người hay không? Nếu mong muốn tước đoạt tính
mạng của 02 người trở lên thì cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123. Nếu chỉ mong
muốn tước đoạt tính mạng của 01 người thì áp dụng điểm l khoản 1 Điều 123.
Chẳng hạn như với vụ án đã nêu ở trên, cần xác định Liêm muốn tước đoạt tính
mạng của chị Nhuần, một thành viên nào khác hay muốn tước đoạt tính mạng của
cả gia đình chị Nhuần. Nếu Liêm muốn tước đoạt tính mạng của từ 02 người trở lên
thì cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123. Ngược lại, giả sử Liêm chỉ muốn tước
đoạt tính mạng của chị Nhuần, còn không quan tâm, bất chấp sự nguy hiểm đến tính
180
mạng của các thành viên khác trong gia đình chị Nhuần thì cần áp dụng điểm l
khoản 1 Điều 123.
Trường hợp 2, người phạm tội dùng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn
giết người có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người nhưng thực tế chỉ có 01
người chết. Trường hợp này cũng cần xác định mục đích, mong muốn của người
phạm tội tương tự như trường hợp 1 đã nêu ở trên. Nếu mong muốn tước đoạt tính
mạng của 02 người trở lên thì cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123. Nếu chỉ mong
muốn tước đoạt tính mạng của 01 người thì áp dụng điểm l khoản 1 Điều 123.
Trường hợp 3, người phạm tội dùng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn
giết người có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người và thực tế đã làm chết từ 02
người trở lên. Trường hợp này cần xác định là “giết 02 người trở lên” vì khả năng
làm chết nhiều người đã được hiện thực hóa thành giết 02 người trở lên, lỗi của
người phạm tội đối với hậu quả chết người là lỗi cố ý (dù là cố ý trực tiếp hay cố ý
gián tiếp thì đều là hành vi giết người).
Vì vậy, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn phân biệt tình tiết giết người
“bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” với tính tiết “giết 02 người
trở lên” như đã phân tích ở trên.
+ Thế nào là “thuê giết người hoặc giết người thuê” (điểm m khoản 1 Điều
123)? Về mặt lí luận, có thể dễ dàng nhận định thuê giết người là trường hợp dùng
lợi ích vật chất sai khiến người khác thực hiện hành vi giết người theo ý muốn của
mình. Ngược lại, giết người thuê là trường hợp chỉ vì động cơ kiếm tiền hay lợi ích
vật chất khác mà giết người theo yêu cầu của người thuê [207, tr.66]. Tuy nhiên,
trong thực tế thì “thuê giết người hoặc giết người thuê” rõ ràng không hề đơn giản
như thuê mướn làm các công việc bình thường khác. Để thực hiện hành vi trên, giữa
người thuê giết người và người nhận giết người thuê thường phải có sự trao đổi
thông tin rõ ràng về nạn nhân, bàn bạc kĩ lưỡng, lên kế hoạch chi tiết về địa điểm,
thời gian thực hiện tội phạm, cách thức thực hiện tội phạm và đối phó với cơ quan
điều tra, mức tiền “thù lao”, phương thức và thời gian thanh toán… nên thông
thường cũng sẽ là trường hợp phạm tội “có tổ chức”. Vậy trong trường hợp này, cần
áp dụng điểm m khoản 1 Điều 123 hay áp dụng điểm o khoản 1 Điều 123 (có tổ
chức) hay áp dụng cả điểm m và điểm o khoản 1 Điều 123?
181
NCS cho rằng quy định tại điểm m và điểm o khoản 1 Điều 123 là 02 tình
tiết tăng nặng định khung có nội dung khác nhau. Nếu hành vi giết người trên thực
tế đồng thời thỏa mãn cả 02 tình tiết trên thì cần áp dụng cả điểm m và điểm o
khoản 1 Điều 123. Vì vậy, cũng cần thiết phải có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.
Vấn đề đặt ra là khái niệm “người thân thích” trong quy định tại Điều 125
BLHS năm 2015 có nên được hiểu theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như
trên hay không? Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau:
Nguyễn Đức T và Đinh Văn M là đồng đội, đã cùng chiến đấu ở chiến
trường miền Nam. Sau giải phóng, cả hai được phục viên, nhưng gia đình M đã bị
bom Mỹ sát hại hết nên T đã mời M về ở chung với gia đình mình. Gia đình T coi
M như con trong nhà, M cũng coi gia đình T như gia đình mình. Một hôm, M đang
chặt cây thì có người báo “mẹ của T bị đánh què chân rồi”. M vội cầm dao chạy về
thì được biết Vũ Xuân V là người đã đánh mẹ T. M bị kích động mạnh, liền cầm
dao sang nhà V chém liên tiếp vào đầu V làm V chết tại chỗ [117, tr.46].
Nếu hiểu khái niệm “người thân thích” như quy định của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 thì trường hợp phạm tội của M không phải là giết người trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vì mẹ của T không phải “người thân thích”
của M. Trong khi xét trên thực tế thì M cũng có tình cảm gắn bó với mẹ của T, xem
mẹ của T cũng như mẹ của mình. Và rõ ràng khi mẹ của T bị đánh thì M cũng hoàn
toàn có thể rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Hơn nữa, quy định tại
Điều 125 là trường hợp giảm nhẹ đặc biệt của tội giết người, có lợi hơn cho người
bị áp dụng so với Điều 123. Vì vậy, NCS cho rằng không nên “bó hẹp” một cách
máy móc khái niệm “người thân thích” trong quy định tại Điều 125 BLHS năm
2015 như quy định về “người thân thích của người tham gia tố tụng” ở Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2015. Theo đó, NCS cũng kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn
182
thống nhất khái niệm “người thân thích” trong quy định tại Điều 125 BLHS năm
2015 không chỉ bao gồm những người như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 4 Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2015 mà còn bao gồm những người trên thực tế có quan hệ
gắn bó thân thiết, quý mến nhau như người trong gia đình mà những người xung
quanh (nơi sinh sống, nơi học tập, nơi làm việc…) đều biết và có thể xác nhận.
Nhìn chung, những trường hợp nêu trên mặc dù đã được hướng dẫn nhưng
văn bản hướng dẫn đã có từ rất lâu, hướng dẫn cho quy định của BLHS năm 1985
(nghị quyết số 02-HĐTPTANDTC/NQ ngày 05/01/1986, nghị quyết số 04-
HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986) hoặc thậm chí đã ra đời trước khi ban hành
BLHS năm 1985 (công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 của TAND tối cao); có
nội dung đã không còn phù hợp do quy định của pháp luật có sự thay đổi (nội dung
hướng dẫn về phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng); có
183
nội dung hướng dẫn chưa thực sự rõ ràng (thế nào là “liền trước đó” hoặc “ngay sau
đó”); có nội dung hướng dẫn còn nặng về định tính, hoặc chủ yếu là liệt kê ví dụ
(“có tính chất côn đồ”, “vì động cơ đê hèn”). Điều này cũng dẫn đến sự không
thống nhất trong nhận thức và áp dụng PLHS (đã phân tích cụ thể tại Chương 3 của
luận án).
Vì vậy, NCS cho rằng cần có 01 văn bản mới hướng dẫn chung cho việc áp
dụng quy định về các tội XPTMCCN trên cơ sở kế thừa những nội dung còn phù hợp
của các văn bản trước và sửa đổi những nội dung không còn phù hợp, chưa rõ ràng và
đặc biệt là bổ sung những nội dung chưa được hướng dẫn (như đã phân tích ở trên).
4.2.2. Tăng cường xây dựng, phát triển án lệ về các tội xâm phạm tính
mạng của con người
Cùng với việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS thì một trong
những nội dung quan trọng để đảm báo áp dụng thống nhất PLHS trong giai đoạn
hiện nay là tiếp tục công bố các án lệ về hình sự nói chung và án lệ về các tội
XPTMCCN nói riêng. Việc án lệ được thừa nhận và áp dụng vào hoạt động xét xử
hiện nay sẽ kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử,
bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nâng cao chất lượng và hiệu
quả công tác xét xử. Đặc biệt, đối với những vấn đề mà việc sử dụng “ngôn từ” của
văn bản hướng dẫn để giải thích khó đạt được yêu cầu (như thế nào là “vượt quá
mức cần thiết” trong phòng vệ chính đáng hoặc trong khi bắt giữ người phạm tội,
thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”…) thì các án lệ có thể giúp các
cơ quan THTT và người dân hiểu rõ hơn quy định của BLHS.
Hiện nay đã có 17 án lệ về hình sự được công bố, trong đó có 08 án lệ
(chiếm hơn 47%) có liên quan đến việc xác định các tội XPTMCCN (07 án lệ liên
quan đến tội giết người và 01 án lệ về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh). Điều đó phần nào đã cho thấy sự chú trọng của TAND tối cao đối
với việc hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN và cũng cho thấy sự khó khăn,
vướng mắc trong áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm này.
Trong thời gian sắp tới, TAND các quận, huyện, thành phố, TAND
TP.HCM nói riêng và TAND các địa phương nói chung cần tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 về quy trình lựa chọn, công bố và áp
dụng án lệ để đẩy mạnh công tác xây dựng và áp dụng án lệ, lựa chọn đề xuất các
184
bản án để Hội đồng tư vấn án lệ xem xét. TAND tối cao cần tiếp tục lựa chọn để
Chánh án TAND tối cao công bố thêm nhiều án lệ về hình sự nói chung và án lệ về
các tội XPTMCCN nói riêng, đặc biệt là các vụ án về các tội như: tội giết người
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125); tội giết người do vượt quá
giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm
tội (Điều 126); tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124); tội bức tử (Điều 130);
tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 131); tội không cứu giúp người đang
ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132); tội đe dọa giết người (Điều
133); những tình tiết tăng nặng định khung của tội giết người (khoản 1 Điều 123)…
Chẳng hạn, NCS cho rằng có thể xem xét, lựa chọn Bản án số
128/2021/HS-PT ngày 26/03/2021 của TAND cấp cao tại Hà Nội [156] để công bố
thành án lệ về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (nội dung
bản án đã được phân tích cụ thể tại tiểu mục 2.3.1.2 của Chương 2). Điều này sẽ
giúp thống nhất nhận thức về dấu hiệu pháp lí của tội phạm tại Điều 125: tội phạm
có thể được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp; nếu là
hình thức lỗi cố ý trực tiếp thì hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc
phải có. Thông qua đó, cũng giúp phân biệt tội phạm tại Điều 125 với Điều 135.
Đây đều là những vấn đề mà hiện nay cả về nhận thức lí luận và thực tiễn áp dụng
PLHS còn chưa có sự thống nhất.
Bên cạnh việc tăng cường xây dựng án lệ mới thì cũng cần rà soát, có ý
kiến phản hồi về những nội dung còn gây tranh cãi hoặc chưa thực sự phù hợp trong
các án lệ đã công bố để TAND tối cao kịp thời có văn bản thống nhất cách hiểu
hoặc bãi bỏ án lệ (không còn phù hợp do chuyển biến tình hình). Chẳng hạn như án
lệ số 28/2019/AL về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”
sau khi công bố đã có nhiều ý kiến trái chiều về quan điểm khoa học, chủ yếu xoay
quanh việc phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với
tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. NCS cho rằng việc xác
định bị cáo Trần Văn C phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh là phù hợp. Tuy nhiên, các lập luận được phân tích trong nội dung án lệ là
chưa thực sự khoa học. Cụ thể: nội dung án lệ nêu rõ các vấn đề như “bị hại có một
chuỗi hành vi liên tục tác động đến bị cáo với mức độ tăng dần”, “hành vi của bị
hại là trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thế của bị cáo”, “bị cáo dùng
185
dao đâm vào ngực bị hại là nhằm thoát khỏi sự tấn công”… Tuy nhiên, sau đó vẫn
chỉ dựa vào yếu tố tinh thần bị kích động mạnh để kết luận bị cáo phạm tội giết
người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (nội dung vụ án đã được phân
tích tại tiểu mục 3.2.4.1 của Chương 3). Điều này đã dẫn đến các quan điểm trái
chiều về tội danh trong vụ án trên.
Đối với án lệ này, để tránh gây tranh cãi, NCS cho rằng TAND tối cao cần
có văn bản (tương tự công văn số 100/TANDTC-PC ngày 13/6/2023 về việc áp
dụng Án lệ số 47/2021/AL) để quán triệt, giải thích rõ: mặc dù bị hại có hành vi trái
pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể của bị cáo nhưng hành vi xâm hại đó
chưa đến mức nguy hiểm đáng kể, chưa phải là tội phạm nên việc xác định bị cáo
phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là đúng pháp luật.
Điều này cũng đã được hướng dẫn trong Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ:
Với án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết
người” có đồng phạm, NCS cho rằng việc xác định bị cáo H đồng phạm về tội giết
người là không chính xác (đã phân tích cụ thể tại tiểu mục 3.2.4.1 của Chương 3).
Vì vậy cần bãi bỏ án lệ này.
4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm tính mạng của con người
186
Thực tiễn các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các tội XPTMCCN
cho thấy bên cạnh nhiều kết quả tích cực đạt được thì vẫn còn những hạn chế, sai
sót xuất phát một phần từ trình độ, năng lực của cán bộ THTT. Cán bộ làm công tác
điều tra, truy tố, xét xử không chỉ cần nắm vững quy định của PLHS, pháp luật tố
tụng hình sự và các ngành luật có liên quan mà còn cần nắm vững đường lối, chính
sách PLHS của Đảng và Nhà nước; yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội
phạm trong tình hình mới. Song cùng với kiến thức pháp lý là kiến thức nghiệp vụ
điều tra, truy tố, xét xử; nắm vững những thông tư liên ngành của TAND tối cao,
VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc định tội danh, quyết định
hình phạt… Đối với các tội XPTMCCN, để đảm bảo áp dụng đúng quy định của
pháp luật, cán bộ THTT còn phải có kiến thức sâu, rộng về các lĩnh vực liên quan
như sinh học, xã hội học, tâm lý học, tâm thần học, pháp y hình sự…
Bên cạnh trình độ, năng lực chuyên môn thì phẩm chất chính trị, đạo đức
của đội ngũ cán bộ THTT cũng giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo áp dụng
đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay,
người cán bộ nếu không giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức của bản thân thì rất
dễ bị tác động bởi các lợi ích vật chất, từ đó cố tình sai phạm trong hoạt động tố
tụng hình sự. Đây cũng là nội dung chưa thực sự được chú trọng trong thực tiễn
hoạt động bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất đội ngũ cán bộ THTT thời gian qua.
Vì vậy, trong thời gian tới cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn
luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ THTT gắn với việc tăng cường xây
dựng, chỉnh đốn Đảng trong các cơ quan tố tụng; thực hiện nghiêm các nghị quyết
187
của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII), Chỉ thị số 05-
CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Vì Công lý”, theo chủ đề
“Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, chủ đề hành động “Trách nhiệm, kỷ
cương, chất lượng, vì công lý”, với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân,
học dân”... Song song với việc tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức
nghề nghiệp, đạo đức cách mạng, thiết nghĩ cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi,
cải thiện chế độ chính sách, đãi ngộ phù hợp, xứng đáng cho đội ngũ cán bộ làm
công tác tố tụng. Đồng thời, cần thực hiện nghiêm túc, kịp thời việc khen thưởng
đối với cán bộ có thành tích xuất sắc; kiên quyết sàng lọc, thay thế, kỷ luật những
cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ…
4.2.4. Tiếp tục tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về
các tội xâm phạm tính mạng của con người
Để bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS về các tội XPTMCCN thì
một trong những nội dung quan trọng là cần tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng
PLHS đối với nhóm tội phạm này. Bởi vì quy định của pháp luật thường có tính
khái quát, các văn bản hướng dẫn thực hiện dù có chi tiết đến mấy cũng khó có thể
cụ thể trong mọi trường hợp. Hơn nữa, tình hình tội phạm luôn ở trạng thái động, có
sự thay đổi, diễn biến phức tạp về phương thức, thủ đoạn, địa điểm, đối tượng tác
động… trong khi đó, quy định của PLHS lại có tính ổn định tương đối nên có thể
chưa dự liệu được hết tất cả các trường hợp phạm tội riêng biệt có thể xảy ra trên
thực tế. Thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ chỉ ra những thiếu sót, hạn chế, vướng mắc,
những điểm còn chưa rõ trong quy định của pháp luật. Việc thường xuyên tổng kết
thực tiễn áp dụng PLHS sẽ giúp kịp thời đưa ra những phương hướng, đường lối xét
xử đối với những trường hợp phạm tội đặc biệt có nhiều cách hiểu khác nhau,
hướng giải quyết chưa thống nhất.
Định kỳ, các cơ quan THTT các cấp cần thường xuyên tiến hành tổng kết
thực tiễn hoạt động áp dụng PLHS của mình để xác định những kết quả đạt được và
những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, sai sót thường xuyên gặp phải, những vấn đề
chưa thống nhất để trao đổi, phân tích, tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết phù
hợp, thống nhất giữa các đơn vị, các cấp, các địa phương. Các cơ quan cấp trên cần
ban hành thông báo rút kinh nghiệm sau khi giải quyết mỗi vụ án lớn, phức tạp, có
188
sai sót để các cơ quan cấp dưới rút kinh nghiệm, thực hiện một cách thống nhất. Đối
với những vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều quan điểm khác nhau giữa các
ngành thì liên ngành tư pháp cần họp bàn, thống nhất quan điểm, phương án giải
quyết để đảm bảo tính đúng đắn, công bằng trong hoạt động áp dụng PLHS.
Hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN nên
được tổ chức linh hoạt với đa dạng các hình thức như thông qua các phiên tòa rút
kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo khoa học, tổng kết chuyên đề, tham luận nghiên cứu
khoa học, từ đó tạo diễn đàn trao đổi, đưa ra những ý kiến, kiến nghị các cơ quan có
thẩm quyền ban hành hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung quy định của PLHS nhằm đáp
ứng nhu cầu thực tiễn. Kết quả của các hoạt động tổng kết kinh nghiệm nêu trên
cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng để các cơ sở đào tạo kiện toàn nội dung và
chương trình đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn
đội ngũ làm công tác tố tụng hình sự, qua đó sẽ giúp từng bước nâng cao hiệu quả
hoạt động áp dụng PLHS.
4.2.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng
trong giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng của con người
189
Tiểu kết chương 4
Qua việc nghiên cứu vấn đề hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về
các tội XPTMCCN và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng, có thể rút ra kết luận:
Quy định của PLHS hiện hành về các tội XPTMCCN bên cạnh nhiều ưu
điểm thì vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh hưởng đến việc thực thi
BLHS. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN là
cần thiết, xuất phát từ yêu cầu khắc phục nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm
trong áp dụng PLHS; thể hiện đầy đủ chính sách hình sự Việt Nam đối với các tội
XPTMCCN trong giai đoạn mới; bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công
dân trong tư pháp hình sự; phòng, chống có hiệu quả tình hình các tội XPTMCCN
và nhu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự. Việc tiếp tục hoàn thiện PLHS về
các tội XPTMCCN không nằm ngoài các xu hướng tiếp tục nhân đạo hóa, phân hóa
và quốc tế hóa các quy định của PLHS. Trên cơ sở đó, NCS đã có những kiến nghị
cụ thể sửa đổi quy định của BLHS về các tội phạm: tội giết người (Điều 123); tội
giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124); tội bức tử (Điều 130); tội xúi giục hoặc
giúp người khác tự sát (Điều 131); tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132); tội đe dọa giết người (Điều 133). Nghiên cứu
sinh cũng mạnh dạn kiến nghị bổ sung 01 tội danh mới: “Tội làm chết người theo
yêu cầu của nạn nhân” với mong muốn góp phần hoàn thiện BLHS theo hướng vừa
thể hiện xu hướng nhân đạo hóa, vừa thể hiện xu hướng phân hóa TNHS đồng thời
cũng thể hiện xu hướng quốc tế hóa PLHS.
Bên cạnh những khiếm khuyết trong quy định của BLHS thì việc thiếu văn
bản hướng dẫn; án lệ về các tội XPTMCCN còn ít; trình độ, năng lực của đội ngũ
cán bộ làm công tác tố tụng chưa đồng đều; sự phối hợp giữa các cơ quan THTT có
lúc, có nơi còn hạn chế… cũng ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng PLHS về các tội
XPTMCCN. Vì vậy, song cùng với những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp
190
luật, NCS cũng đề xuất các giải pháp góp phần áp dụng đúng quy định của pháp
luật: tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và xây dựng,
phát triển án lệ đối với các tội XPTMCCN; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ
áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN; tiếp tục tăng cường tổng kết thực tiễn áp
dụng PLHS về các tội XPTMCCN; tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan
THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.
191
KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ luật “Các tội xâm phạm tính mạng
của con người từ thực tiễn TP.HCM” cho phép nghiên cứu sinh rút ra các kết luận
sau đây:
1. Các tội XPTMCCN từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình khoa
học trong nước và ngoài nước, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận,
thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS. Giữa các công
trình nghiên cứu bên cạnh những nội dung đã thống nhất thì vẫn còn nhiều vấn đề
chưa thống nhất, có nhiều quan điểm trái chiều. Trên cơ sở xác định rõ phạm vi các
tội XPTMCCN, NCS đã phân tích dấu hiệu pháp lý, hình phạt và phân biệt các tội
XPTMCCN với các tội xâm phạm sức khỏe của con người và với các tội xâm phạm
an ninh quốc gia. Các phân tích của nghiên cứu sinh có sự kế thừa, phát triển lý luận
của các công trình đi trước nhưng cũng đưa ra những quan điểm, lập luận riêng của
bản thân, góp phần hoàn thiện lý luận về các tội XPTMCCN.
2. Quy định về các tội XPTMCCN trong mỗi thời kỳ đều có sự phù hợp với đòi
hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và thực hiện nhiệm vụ chính trị
của đất nước. Nhìn chung, quy định về các tội XPTMCCN ngày càng phát triển và
hoàn thiện hơn theo xu hướng nhân đạo hóa và phân hóa TNHS, phù hợp với sự vận
động và phát triển của xã hội. Quy định về các tội XPTMCCN trong BLHS năm
2015 nhìn chung đã đáp ứng nguyên tắc đảm bảo quyền con người theo tinh thần
của Hiến pháp năm 2013; đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong
hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
XPTMCCN trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy quy
định về các tội XPTMCCN vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh hưởng
đến việc thực thi BLHS. Việc tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội XPTMCCN là
nhu cầu tất yếu, xuất phát từ các nguyên tắc của luật hình sự, từ tính chất của luật
hình sự, từ yêu cầu đảm bảo quyền con người và từ yêu cầu kiểm tra, giám sát việc
áp dụng PLHS. Cơ sở của thể chế hóa bằng PLHS phải dựa trên chính sách hình sự
đối với các tội XPTMCCN, tình hình tội phạm XPTMCCN, thực tiễn khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử các tội XPTMCCN cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên
thế giới.
192
3. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2023, mỗi năm TAND các quận,
huyện, thành phố và TAND TP.HCM phải giải quyết một số lượng lớn các vụ án
XPTMCCN. Nhìn chung, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với
các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng
khích lệ: Định tội danh đảm bảo chuẩn xác, đúng người đúng tội, không làm oan
người vô tội. Quyết định hình phạt luôn căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân
thân người phạm tội, xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
TNHS để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp, vừa đảm bảo tính
nghiêm khắc, răn đe, giáo dục, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan hồng của
Luật Hình sự. Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn
một số hạn chế, sai sót: Vẫn còn trường hợp định tội danh chưa chính xác; xác định
sai hoặc không thống nhất trong việc áp dụng một số tình tiết định khung; áp dụng
không đúng hoặc không đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; quyết định
hình phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Những hạn
chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có thể kể
đến các nguyên nhân từ hạn chế trong quy định của PLHS; nguyên nhân từ phẩm
chất, năng lực của đội ngũ áp dụng PLHS và nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các
cơ quan THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.
4. Việc tiếp tục hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN không nằm ngoài các
xu hướng tiếp tục nhân đạo hóa, phân hóa và quốc tế hóa các quy định của PLHS.
Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh đã có những kiến nghị cụ thể sửa đổi quy định của
BLHS về các tội phạm với mong muốn góp phần hoàn thiện BLHS theo hướng vừa
thể hiện xu hướng nhân đạo hóa, vừa thể hiện xu hướng phân hóa TNHS đồng thời
cũng thể hiện xu hướng quốc tế hóa PLHS. Song cùng với những kiến nghị hoàn
thiện quy định của pháp luật, NCS cũng đề xuất các giải pháp góp phần áp dụng
đúng quy định của pháp luật: Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật và xây dựng án lệ đối với các tội XPTMCCN; Nâng cao năng lực của đội
ngũ cán bộ áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN; Tiếp tục tăng cường tổng kết thực
tiễn áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN; Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các
cơ quan THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN./.
193
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
Tên công trình
Tên tạp chí
T T
Năm công bố
1
2023
Tạp chí Khoa học pháp lý
Tạp chí Luật học
2
2023
3
2023
Tạp chí An ninh nhân dân (số tiếng Anh)
4
2022
Tạp chí An ninh nhân dân
Bàn về dấu hiệu hậu quả trong “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” Các tội xâm phạm tính mạng của con người theo Bộ luật hình sự năm 2015- Một số bất cập và hướng hoàn thiện Distinguishing Murder from the Crime of intentionally causing injury or harm to the health of others and issues drawn for the application of the law Tội phạm xâm phạm tính mạng của con người theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015
5 Nguyễn Thị T phạm tội gì?
2021
Tạp chí Toà án nhân dân Tạp chí Giáo dục và Xã hội
6
2020
7
2020
Tạp chí An ninh nhân dân
8
2019
Tạp chí An ninh nhân dân
9
2018
Tạp chí An ninh nhân dân
2016
10
Một số ý kiến góp phần hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm 2015. Bàn về điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 Bàn về trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam Về bài viết: “Nguyễn Quý H có phạm tội không?”
Tạp chí Tòa án nhân dân
194
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Phạm Hồ Việt Anh. 2020. “Một số ý kiến góp phần hạn chế tình trạng bỏ rơi
con sau khi sinh; giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ”, Tạp chí Khoa học Đại học Cửu
Long, số 18-2020, tr 34-38.
2. Vũ Hải Anh. 2017. Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo
pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã
hội-Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Phan Trung Anh. 2013. “Một số vấn đề bất cập trong quy định về các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ
luật Hình sự năm 1999 và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Nghề luật số 4. tháng
8/2013. tr.64-67.
4. Phạm Văn Báu. 2000. “Tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam”,
Tạp chí Luật học số 2/2000, tr. 9-10;
5. Lưu Hoài Bảo. 2016. “Bàn về một số tình tiết tăng nặng định khung trong Tội
giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân
dân, kỳ II tháng 12/2016. số 24. tr.16-20.
6. Phạm Văn Beo. 2009. Luật hình sự Việt Nam quyển 1 (phần chung). sách tham
khảo. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Ban soạn thảo Bộ luật hình sự sửa đổi. 2015. Bản thuyết minh chi tiết của Ban
soạn thảo BLHS sửa đổi. tháng 3/2015. Hà Nội.
8. Ban soạn thảo Bộ luật hình sự sửa đổi. 2015. Những định hướng cơ
bản xây dựng Dự án Bộ luật hình sự sửa đổi. Dự thảo.
9. Nguyễn Mai Bộ. 2022. “Các tội xâm phạm tính mạng con người - Bất cập và
kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, địa chỉ:
https://tapchitoaan.vn/tapchi/public/index.php/bai-viet/phap-luat/cac-toi-xam-
pham-tinh-mang-con-nguoi-bat-cap-va-kien-nghi6410.html;
10. Bộ Chính trị. 2002. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm
vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
11. Bộ Chính trị. 2005. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020, Hà Nội.
195
12. Bộ Chính trị. 2005. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
13. Bộ Chính trị. 2020. Kết luận số 84-KL/TW, ngày 29/7/2020 về tổng kết 15 năm
thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. khóa IX) về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020;
14. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tư pháp - Ngân hàng nhà nước Việt Nam -
Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao. 2012. Thông tư liên
tịch số: 06/2012/TTLT/BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNTC-TANDTC ngày
5/5/2012 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về Tội khủng
bố và Tội tài trợ khủng bố, Hà Nội.
15. Bộ Ngoại giao Việt Nam. 2018. Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt
Nam. sách trắng về quyền con người;
16. Lê Cảm - Trịnh Quốc Toản. 2011. Định tội danh. lý luận, lời giải mẫu và 500
bài tập. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản. Đồng chủ trì. Trịnh Tiến Việt. Thư
ký. 2006. Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng
hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QL.04.03, Hà Nội.
18. Lê Văn Cảm. 2019. Giáo trình Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình
sự Phần chung. giáo trình sau đại học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
19. Lê Văn Cảm. 2010. Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng
pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự. sách chuyên khảo Bảo đảm quyền
con người trong tư pháp hình sự Việt Nam do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên.
Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;
20. Nguyễn Chí Công. 2016. Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội.
Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.
21. Nguyễn Hùng Cường. 2008. “Một vài suy nghĩ về tình tiết “giết nhiều
người” và “giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều
người”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,. số 1/2008. tr. 79-83;
196
22. Phạm Văn Cần. 2010. “Phân biệt dấu hiệu cơ bản của tội giết người và tội cố ý
gây thương tích dẫn đến chết người”, Tạp chí Kiểm sát, số Tân
Xuân/02. tr. 14-22;
23. Chính phủ lâm thời. 1946. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 26 ngày 25/2/1946, Hà Nội;
24. Chính phủ lâm thời. 1946. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số số 27 ngày 28/02/1946, Hà Nội;
25. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. 2019. Báo cáo số 344/BC-CP ngày 22/8/2019
sơ kết 05 năm triển khai thi hành hiến pháp năm 2013. 2014-2019. Hà Nội.
26. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 1953. Sắc lệnh của chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 133/SL ngày 20/01/1953, Hà Nội;
27. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 1953. Sắc lệnh của chủ
tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 151/SL ngày 12/4/1953, Hà Nội;
28. Claude Frédéric Bastiat. 2016. Luật pháp. Phạm Nguyên Tường dịch. Nxb Tri
thức, Hà Nội.
29. Đặng Thị Hương Dung. 2015. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình
sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
30. Đỗ Việt Dũng. 2020. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
31. Lam Thị Dung. 2019. Thực hành quyền công tố đối với các tội giết người từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã
hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.
32. Lê Đăng Doanh. 2000. “Một số điểm mới trong chương các tội xâm phạm tính
mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm
1999”, Tạp chí Luật học số 4-2000, tr 3-6, 35.
33. Ngô Văn Dinh. 2016. Định tội danh đối với tội giết người theo luật
hình sự Việt Nam. Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
197
34. Nguyễn Đăng Dung –Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên). 2015.
Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
35. Nguyễn Minh Diệu. 2020. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích
động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Nam
Định. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa
học xã hội Việt Nam. Hà Nội.
36. Nguyễn Tiến Dũng. 2017. Định tội danh đối với các tội giết người trong luật
hình sự Việt Nam. trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Luận văn thạc
sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Duyến. 2006. “Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
thông qua một vụ án cụ thể” Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6. 3/2006. tr.18-21.
38. Trần Văn Độ. 2020. “Đổi mới nhận thức một số vấn đề lý luận về tội phạm và
cấu thành tội phạm”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội. Học viện Khoa học xã
hội. số 10-2020.
39. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1948. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền
(UDHR);
40. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1966. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự
và Chính trị (ICCPR);
41. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1989. Công ước về quyền trẻ em (UNICEF);
42. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1948. Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội
diệt chủng.
43. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1973. Công ước về trấn áp và trừng trị tội ác
apacthai;
44. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2021. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
45. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2021. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XIII tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.
46. PGS.TS. Vũ Công Giao, ThS. Nguyễn Thùy Dương. 2015. bài viết “Vấn đề
quyền sống của thai nhi trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”. sách
198
tham khảo Quyền sống và hình phạt tử hình. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,
Hà Nội;
47. Đặng Thị Thu Hiền. 2010. “Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng tội
giết con mới đẻ trong Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật.
48. Đỗ Đức Hồng Hà - Ngô Duy Thi. 2018. “Bình luận tội giết người theo Bộ luật
hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 13/2018.
49. Đỗ Đức Hồng Hà. 2003. “Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt
Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985”, Tạp chí Luật
học số 5/2003, Tr.20-25.
50. Đỗ Đức Hồng Hà. 2005. “Về tình tiết “giết nhiều người” và “giết người bằng
phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”, Tạp chí Luật học số 1/2005,
Tr.32-36.
51. Đỗ Đức Hồng Hà. 2006. Tội giết người trong luật hình sự Việt Nam và đấu
tranh phòng, chống loại tội phạm này. Luận án tiến sĩ luật học. Trường Đại học
Luật Hà Nội, Hà Nội.
52. Đỗ Đức Hồng Hà. 2019. Pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người từ thời Phong kiến đến ngày Bộ luật hình sự năm
2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực, Nxb Lao động, Hà Nội.
53. Nguyễn Thái Hà. 2014. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trên địa
bàn Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa.
Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội. Hà Nội;
54. Giàng Quốc Hưng. 2018. Tội giết người trên địa bàn tỉnh Lào Cai: Tình hình,
nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa. Luận án tiến sĩ luật học. Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
55. Nguyễn Duy Hữu. 2017. Các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo luật
hình sự Việt Nam. Luận án tiến sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
56. Nguyễn Ngọc Hòa. 1994. “Lỗi và việc xác định lỗi ở các tội cố ý xâm phạm
tính mạng, sức khỏe”, Tạp chí Luật học, số 1, tr.5-9.
57. Nguyễn Ngọc Hòa. 2001. “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa Bộ luật hình sự năm
1999 và Bộ luật hình sự năm 1985”, Tạp chí Luật học, số 1, tr 30-33, Hà Nội.
199
58. Nguyễn Ngọc Hòa. 2006. Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
59. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên). 2018. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm
2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Phần các tội phạm. quyển 1, Nxb Tư
pháp, Hà Nội;
60. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn. 2006. Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
61. Nguyễn Quốc Hân. 2019. Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết
người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận án tiến sĩ luật học. Học
viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.
62. Nguyễn Thị Hằng. 2015. Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
63. Nguyễn Thị Phương Hoa - Phan Anh Tuấn. 2017. Bình luận khoa học Những
điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015. sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nxb
Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
64. Phạm Mạnh Hùng. 2019. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 được
sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phần Các tội phạm, Nxb Lao động, Hà Nội.
65. Phạm Thị Thúy Hồng. 2020. Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Long an. Luận văn
thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
66. Phí Thị Ngọc Hương. 2011. Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự
Việt Nam - lý luận và thực tiễn. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
67. Thái Thị Hiền. 2014. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy
hiểm đến tính mạng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
68. Đặng Thu Hiền, Đặng Trần Hùng. 2016. “Một số nhận thức lý luận về Tội giết
hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong Bộ luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân
dân kỳ II tháng 9/2016. số 18. tr.18 - tr.21.
69. Lê Thị Thu Huyền. 2015. “So sánh quy định về Tội giết người trong Bộ luật
Hình sự Việt Nam và Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga”, Tạp chí Kiểm sát số 22.
tháng 11/2015. tr.49 - tr.52.
200
70. Trần Đình Hải. 2021. “Căn cứ xác định phạm tội “trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 01-2021, tr 23-27.
71. Trần Hồng Hạnh. 2016. Định tội danh đối với các tội giết người trong luật hình
sự Việt Nam. trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Luận văn thạc sĩ
luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
72. Trần Thị Hằng. 2020. Luận văn thạc sĩ luật học Kiểm sát điều tra tội giết người
từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
73. Trần Thị Hường và Chu Thị Tú. 2010. “Một số vấn đề cần chú ý khi
áp dụng tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Tạp chí
Kiểm sát, số 06. tr. 23-30;
74. Trần Thị Thu Hường. 2017. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
75. Trần Văn Hiếu. 2021. “Phòng ngừa tình hình tội giết người trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02-2021, tr 31-35.
76. Trần Thị Hiền (Dịch). 2011. Bộ luật hình sự Nhật Bản, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội;
77. Trần Việt Hà (chủ biên). 2020. An ninh con người trong bối cảnh toàn cầu hóa,
Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
78. Vũ Gia Hân. 2014. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc
triều hình luật và sự kế thừa trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Luận
văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
79. Phan Thanh Hoa. 2010. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng
nguy hiểm đến tính mạng, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt
nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;
80. Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt
Nam. 1976. Sắc lệnh số 03/SL ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình
phạt, Hà Nội;
81. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1986. Nghị quyết số 02-HĐTP-
TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ
luật hình sự, Hà Nội.
201
82. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1986. Nghị quyết số 04-HĐTP-
TANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần
Các tội phạm của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
83. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1988. Nghị quyết số 02-
HĐTP/NQ ngày 16/11/1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày
05/01/1986, Hà Nội.
84. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1989. Nghị quyết số 01-
HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định
của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
85. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1990. Nghị quyết số 01-HĐTP
ngày 18/10/1990 hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự, Hà Nội.
86. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2000. Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong
Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.
87. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2006. Nghị quyết số
01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Bộ luật hình sự, Hà Nội.
88. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2013. Nghị quyết số
01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật
hình sự về án treo, Hà Nội.
89. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2016. Án lệ số 01/2016/AL về vụ
án “Giết người”, Hà Nội.
90. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2018. Án lệ số 17/2018/AL về
tình tiết “có tính chất côn đồ” trọng tội “Giết người” có đồng phạm, Hà Nội.
91. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2018. Án lệ số 18/2018/AL về
hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”, Hà Nội.
92. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2018. Nghị quyết số
02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật
hình sự về án treo, Hà Nội.
93. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2019. Án lệ số 28/2019/AL về
tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Hà Nội.
202
94. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2019. Nghị quyết số
07/2019/NQ-HĐTP ngày 25/10/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Điều 299 và Điều 300 của Bộ luật hình sự, Hà Nội.
95. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2020. Án lệ số 30/2020/AL về
hành vi cố ý điều khiển phương tiện giao thông chèn lên bị hại sau khi gây tai
nạn”, Hà Nội.
96. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 2015. Giáo trình Lý luận và pháp luật về
quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
97. Trần Hà Bảo Khuyên. 2020. Phòng ngừa các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Bạc Liêu. Luận án tiến sĩ luật học. Học
viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.
98. Đoàn Văn Lâm. 2013. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Luật Hình
sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
99. Nguyễn Hồi Loan - TS. Trần Thu Hương. 2019. Giáo trình Hành vi con người
và môi trường xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
100. Nguyễn Thị Thùy Linh. 2015. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
101. Trần Văn Luyện – PGS. TS. Phùng Thế Vắc - TS. Lê Văn Thư - TS. Nguyễn
Mai Bộ - LS. ThS. Phạm Thanh Bình - TS. Nguyễn Ngọc Hà - LS. Phạm Thị
Thu. 2019. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017) phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
102. Trần Văn Luyện. 2000. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân
phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
103. Trần Văn Luyện. 2001. “Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật
hình sự năm 1999”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, Hà Nội.
104. Dương Tuyết Miên. 2022. Tội phạm học đương đại, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
105. Hoàng Tiến Minh. 2016. Các tội cố ý xâm phạm tính mạng con người trong
pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội,
Hà Nội.
203
106. Nguyễn Thanh Mận. 2019. Án lệ hình sự ở Việt Nam hiên nay. Luận án tiến sĩ
luật học. Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
107. Bùi Kim Châu Nghĩa. 2017. Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện
Khoa học xã hội, Hà Nội.
108. Nguyễn Hữu Nam. 2018. Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:
Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học,
Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
109. Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí. 1995. Quốc Triều Hình Luật, Nxb
Chính trị quốc gia, TPHCM.
110. Trần Thảo Nguyên. 2020. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam. trên cơ sở thực tiễn địa bàn
tỉnh Quảng Ninh. Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà
Nội.
111. Cao Thị Oanh. 2007. “Sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình
sự trong các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Hoàng việt luật lệ.
Bộ luật Gia Long”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 03/2007, tr.78-82.
112. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên). 2010. Bảo đảm quyền con người trong tư pháp
hình sự Việt Nam. sách chuyên khảo. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ
Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.
113. Đặng Quang Phương. 1990. Trách nhiệm về tội giết người theo Luật hình sự
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học
Taskent, Uzbekistan.
114. Nguyễn Thị Thu Phương. 2020. Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình
Định. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm
khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.
115. Đinh Văn Quế. 1999. “Xác định tuổi của người bị hại trong vụ án hình sự như
thế nào”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7 năm 1999, Hà Nội, tr.21-24.
116. Đinh Văn Quế. 2020. Bình luận Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, Phần
thứ nhất – Những quy định chung. bình luận chuyên sâu. Nxb Thông tin và
truyền thông, Hà Nội.
204
117. Đinh Văn Quế. 2020. Bình luận Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, Phần
thứ hai - Các tội phạm, Chương XIV Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
nhân phẩm, danh dự của con người. bình luận chuyên sâu. Nxb Thông tin và
truyền thông, Hà Nội.
118. Dương Trung Quốc, Vũ Huy Phúc, Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí.
1995. Quốc Triều Hình Luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
119. Lê Hồng Quang. 2009. “Tội giết người và một số vướng mắc qua
thực tiễn xét xử loại tội phạm này”, Tạp chí Tòa án nhân dân,. số 5. tr. 20-23;
120. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2013. Hiến pháp năm 2013;
121. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 1997. Bộ luật hình sự năm 1985. sửa
đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992, 1997. Hà Nội.
122. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2009. Bộ luật hình sự năm 1999. sửa
đổi, bổ sung năm 2009. Hà Nội.
123. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2015. Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật;
124. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2016. Luật Trẻ em, Hà Nội.
125. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2017. Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi, bổ sung năm 2017. Hà Nội.
126. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2021. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2021. Hà Nội.
127. Hà Hồng Sơn. 2011. Các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam
và thực tiễn xét xử ở nước ta hiện nay. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
128. Phương Kỳ Sơn. 2001. Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
129. Hồ Sỹ Sơn. 2005. “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc nhân đạo trong
Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
130. Hồ Sỹ Sơn. 2005. “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự: Nhìn từ góc độ
lịch sử nhân loại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
131. Hồ Sỹ Sơn. 2008. “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước
ta với pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục
địa”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
205
132. Hồ Sỹ Sơn. 2009. “Chế định hình phạt trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp
và một số gợi mở nhằm hoàn thiện Bộ luật hình sự nước ta”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, Hà Nội.
133. Hồ Sỹ Sơn. 2012. “Khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm nhìn từ
góc độ so sánh pháp luật hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số 10. tr.91-99.
134. Hồ Sỹ Sơn. 2013. “Các giai đoạn thực hiện tội phạm nhìn từ góc độ so sánh
pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 7.
135. Hồ Sỹ Sơn. 2018. Luật hình sự so sánh. sách chuyên khảo dành cho học viên
cao học. Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.
136. Hồ Sỹ Sơn. 2021. “Thực hiện pháp luật hình sự và hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự: những vấn đề lý luận”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 02-2021.
Tr.3-11.
137. Nguyễn Sơn. 2014. Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vượt quá giới
hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
138. Nguyễn Văn Sơn “Bàn thêm về chữ thấy trong Điều 102 BLHS” - Tạp
chí Kiểm sát số 12/2000;
139. Lê Doãn Tá, Tô Duy Hợp, Vũ Trọng Dung. (đồng chủ biên). 2007. Giáo trình
Lôgic học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
140. Cao Đức Thái - GS. David Kinley. (đồng chủ biên). 2005. Luật quốc tế về
quyền con người. international human right law. Nxb Lý luận chính trị, Hà
Nội.
141. Nguyễn Quyết Thắng. 2002. Lược khảo Hoàng việt luật lệ, Nxb Văn hóa -
Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.
142. Nguyễn Đăng Minh Thắng. 2020. Áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã
hội, Hà Nội.
143. Minh Tân - Thanh Nghị - Xuân Lãm, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa,
Thanh Hóa.
206
144. Tập hợp Báo cáo tình hình công tác xét xử của Tòa án nhân dân các quận,
huyện và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh các năm 2010, 2011,
2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021, 2022; 2023.
145. Nguyễn Anh Tuấn. 2008. Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước
Lưỡng hà cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
146. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên). 2007. Luật hình sự quốc tế, Nxb Công an
Nhân dân, HàNội.
147. Nguyễn Văn Trượng. 2009. “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây
thương tích trường hợp dẫn đến chết người”. Tạp chí Tòa án nhân dân,. số 13.
tr. 18-22;
148. Nguyễn Văn Trượng. 2010. “Bàn về việc áp dụng một số cặp tình
tiết định khung quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự”, Tạp chí Kiểm
sát,. số 07. tr. 26-32;
149. Trần Quang Tiệp. 2003. Lịch sử luật hình sự Việt Nam. sách tham khảo. Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
150. Trần Thị Thanh Tâm. 2015. Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ
chính đáng theo luật hình sự Việt Nam. trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây
Nguyên. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
151. Trịnh Văn Toản. 2017. Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ
thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa
học xã hội, Hà Nội.
152. Chu Hồng Thanh. 1997. Quyền con người và Luật quốc tế về quyền con
người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
153. Vũ Thị Thiêm. 2020. Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang. Luận văn
thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội
Việt Nam. Hà Nội.
154. Vũ Thị Thúy. 2010. Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. sách
chuyên khảo. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ
Chí Minh.
155. Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 trừng
trị một số tội phạm, Hà Nội.
207
156. Tòa án nhân dân tối cao. 1975. Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập 1
(1945-1974), Hà Nội.
157. Tòa án nhân dân tối cao. 1999. Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999
về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp dụng pháp luật;
158. Tòa án nhân dân tối cao. 1960. Chỉ thị số 1025/TATC ngày 15/6/1960 của Tòa
án nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội giết người vì mê tín.
159. Tòa án nhân dân tối cao. 1963. Chỉ thị số 01/NCCS ngày 13/3/1963 của Tòa
án nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội giết trẻ sơ sinh.
160. Tòa án nhân dân tối cao. 1970. Bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại
tội giết người ban hành kèm theo Công văn số 452/HS2 ngày 10/8/1970 của
Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội phạm giết người.
161. Tòa án nhân dân tối cao. 1983. Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983
về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ,
Hà Nội.
162. Tòa án nhân dân tối cao. 1987. Công văn số 03-TATC ngày 22/10/1987 hướng
dẫn về Điều 109 Bộ luật hình sự, Hà Nội.
163. Tòa án nhân dân Tối cao. 1976. Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976;
164. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. 2019. Bản án số: 12/2019/HSST ngày
21/02/2019;
165. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. 2021. Bản án số: 128/2021/HS-PT ngày
26/03/2021;
166. Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số
365/2017/HSST ngày 13/12/2017;
167. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. 2020. Bản án số: 124/2020/HS-ST
ngày 19/11/2020;
168. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. 2020. Bản án số: 15/2020/HS-ST ngày
21/4/2020;
169. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2016. Bản án hình sự sơ thẩm số
400/2016/HSST ngày 30/11/2016;
170. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2022. Bản án hình sự sơ thẩm số
449/2022/HS-ST ngày 21/9/2022.
208
171. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2023. Bản án số 42/2003/HS-ST
ngày 20/02/2023.
172. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2023. Bản án hình sự
phúc thẩm số 45/2023/HS-PT ngày 16/01/2023.
173. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án số
358/2017/HS-PT ngày 18/7/2017;
174. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số
288/2017/HS-ST ngày 16/8/2017;
175. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số
101/2018/HS-PT ngày 26/01/2018;
176. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2016. Bản án hình sự sơ thẩm số
338/2016/HSST ngày 13/9/2016;
177. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án số
417/2017/HS-PT ngày 08/8/2017;
178. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số
302/2017/HS-ST ngày 23/8/2017;
179. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số:
622/2018/HS-PT ngày 12/11/2018;
180. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án hình sự sơ thẩm số:
276/2019/HS-ST ngày 25/7/2019;
181. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số
06/2017/HSST ngày 05/01/2017;
182. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số:
433/2018/HSST ngày 16/11/2018;
183. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2015. Bản án hình sự sơ thẩm số
419/2015/HSST ngày 27/11/2015;
184. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. bản án hình sự sơ thẩm số
66/2018/HS-ST ngày 14/3/2018;
185. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số:
314/2018/HS-ST ngày 17/9/2018;
186. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số
17/2018/HSST ngày 19/01/2018;
209
187. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số
278/2018/HS-PT Ngày 23/5/2018;
188. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số
347/2018/HS-ST ngày 05/10/2018;
189. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án số
42/2019/HS-PT ngày 22/01/2019;
190. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số
106/2018/HSST ngày 10/4/2018;
191. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số
677/2018/HS-PT ngày 06/12/2018;
192. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án hình sự sơ thẩm số
244/2019/HSST ngày 09/7/2019;
193. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2020. Bản án số
353/2020/HS-PT ngày 23/6/2020;
194. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2020. Bản án hình sự sơ thẩm
399/2020/HS-ST ngày 17/9/2020;
195. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2021. Bản án số
06/2021/HS-PT ngày 06/01/2021;
196. Tòa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án hình sự sơ thẩm số
290/2019/HS-ST ngày 06/8/2019;
197. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án số
694/2019/HS-PT ngày 13/11/2019;
198. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số
107/2018/HS-ST ngày 11/4/2018;
199. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2020. Bản án sơ thẩm số
229/2020/HS-ST ngày 08/07/2020;
200. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số
675/2018/HS-PT ngày 04/12/2018;
201. Tổng thư ký Quốc hội. Quốc hội khóa XIV). 2016. Báo cáo Tổng hợp ý kiến
của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ và Hội trường về dự án Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.
210
202. Vũ Đức Trung. 2018. Tìm hiểu quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con người, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân,
số 99 (01-2018), tr 27-32.
203. Trường Đại học An ninh nhân dân. TS. Nguyễn Duy Thuân. 2005. Các tội
xâm phạm an ninh quốc gia, những vấn đề lý luận và thực tiễn, TP.HCM;
204. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2012. Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội;
205. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2020. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần
chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
206. Trường Đại học Luật Hà Nội. 1997. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần
Các tội phạm, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
207. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2018. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phần
các tội phạm, quyển 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
208. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2008. Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp
luật. GS.TS. Lê Minh Tâm chủ biên. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
209. Trường Đại học Luật Hà Nội. dịch, 2010. Bộ luật hình sự Canada, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội.
210. Trường Đại học Luật Hà Nội. dịch, 2011. Bộ luật hình sự Liên bang Nga,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;
211. Trường Đại học Luật Hà Nội. dịch, 2011. Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang
Đức, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
212. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2012. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
213. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 2021. Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam. Phần chung. Nxb Hồng Đức, TP.HCM;
214. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 2021. Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam Phần Các tội phạm-Quyển 1, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
215. Đào Trí Úc – PGS. TS. Vũ Công Giao - PGS.TS. Trương Thị Hồng Hà. 2015. Quyền
sống và hình phạt tử hình. sách tham khảo. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
216. Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển I-Những vấn đề chung, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội, 2000;
211
217. Trần Hữu Ứng. 1993. “Thời điểm bắt đầu và kết thúc sự sống của con người
nhìn từ góc độ luật học”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tr.11.
218. Đoàn Thị Vân. 2015. Luận văn thạc sĩ luật học Tội giết con mới đẻ trong luật
hình sự Việt Nam. chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. Hà Nội.
219. Trịnh Tiến Việt. 2021. 55 cặp tội danh dễ nhầm lẫn trong Bộ luật Hình sự năm
2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội;
220. Trịnh Tiến Việt. (chủ biên). 2020. Chính sách hình sự Việt Nam trước thách
thức cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
221. Trịnh Tiến Việt - Phan Thị Thủy. 2003. “Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành
tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội, số 2/2003, tr 67-75.
222. Trịnh Tiến Việt. 2002. “Phải coi đây là phòng vệ chính đáng”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, số 5/2002, tr 63-65.
223. Trịnh Tiến Việt. 2003. Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Giao
thông vận tải, Hà Nội.
224. Trịnh Tiến Việt. 2013. Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc
gia – Sự thật, Hà Nội.
225. Trịnh Tiến Việt - Nguyễn Khắc Hải. (đồng chủ biên). 2020. Giáo trình Tội
phạm học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
226. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. 1999. Bình luận khoa học Bộ
luật hình sự 1985. tái bản lần thứ ba có sửa theo Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Bộ luật hình sự tháng 5-1997. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
227. Võ Khánh Vinh. 1992. “Những đòi hỏi của nguyên tắc công bằng đối với việc
quy định hệ thống hình phạt”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
228. Võ Khánh Vinh. 1996. Nguyên tắc công bằng trong Luật Hình sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
229. Võ Khánh Vinh. 2000. “Lợi ích xã hội và hoạt động xây dựng pháp luật”, Tạp
chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
230. Võ Khánh Vinh. 2004. “Khái quát những thành tựu và những phương hướng
nghiên cứu của khoa học Luật hình sự nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, Hà Nội.
231. Võ Khánh Vinh. 2009. “Quyền con người: giá trị xã hội, tính phổ biến và tính
đặc thù”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
212
232. Võ Khánh Vinh. 2011. Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
233. Võ Khánh Vinh. 2012. Xã hội học pháp luật – Những vấn đề cơ bản”, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
234. Võ Khánh Vinh. 2013. Luật học so sánh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
235. Võ Khánh Vinh. 2015. “Các mục tiêu, các ưu tiên và các nguyên tắc của
chính sách pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nguồn nhân lực, số
12/2015.
236. Võ Khánh Vinh. 2015. “Chính sách pháp luật: khái niệm và các dấu hiệu”,
Tạp chí Nguồn nhân lực, số 11/2015.
237. Võ Khánh Vinh. 2020. Chính sách pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;
238. Võ Khánh Vinh. 2020. “Áp dụng pháp luật hình sự: những vấn đề lý luận. kỳ
I”. Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 03-2020;
239. Võ Khánh Vinh. 2021. Áp dụng pháp luật hình sự - lý luận và thực tiễn, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
240. Võ Khánh Vinh. 2015. Xã hội học pháp luật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
241. Võ Khánh Vinh. (Chủ biên). 2014. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Phần
chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
242. Võ Khánh Vinh. (chủ biên). 2014. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Phần
Các tội phạm. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
243. Võ Khánh Vinh. 2013. Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội;
244. Nguyễn Hùng Thanh Vũ. 2016. Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm
tính mạng của con người từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. luận văn thạc sỹ luật
học, Học viện Khoa học xã hội. Hà Nội;
245. Nguyễn Như Ý. chủ biên. 2011. Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc
gia Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM.
246. https://www.unicef.org/vietnam/vi/báo-cáo/công-ước-của-liên-hợp-quốc-về-
quyền-trẻ-em.
247. https://tiin.vn/chuyen-muc/24/ca-khu-pho-xin-giam-an-cho-nguoi-dan-ong-
giet-vo-1.html
213
Tài liệu nước ngoài
248. Aknazarov, A. S. O.. 2021. Theory Of Application Of Criminal Law
Considerations On The Legal Analysis Of The Content Of Crime Against The
Person In The Crime Code Of The Republic Of Uzbekistan. The American
Journal of Political Science Law and Criminology, 3.05. 53-58.
249. Artyushina O. Issues of qualification of crimes against life and health. Law
Enforcement Review. 2017;1.3:135-142
250. Beaumont, J.. 1999. The Mental Element in Murder: Resolved at Last. J.
Crim. L., 63, 483.
251. Brewer, I. G.. 1975. The mental element for murder in Botswana. Comp. &
Int'l LJS Afr., 8, 225.
252. Goff, L.. 1987. The mental element in the crime of murder. Israel Law
Review, 22.1. 1-36.
253. Gostkova, D., Kostyuk, M., Kunts, E. Legal Problems of Using ‘Extremist
Motives’ in Crimes Against Life and Health. Journal of Advanced Research
in Law and Economics, [S.l.], v. 9, n. 3.33. p. 949-955
254. Hossain, M. B., & Rahi, S. T.. 2018. Murder: A Critical Analysis of the
Common Law Definition. Beijing L. Rev., 9, 460.
255. Kalantari, K., REZAII, R., & MOSLEHI, J.. 2017. The Knowledge and Caution
(Awareness) in Mens Rea Element for Murder in the Law of Iran and USA.
256. Keane, H. J.. 2002. Murder: the mental element. Northern Ireland Legal
Quarterly, 53.1. 1-8.
257. Law Commission. 2004. Partial Defences to Murder, available at https://s3-
eu-west-2.amazonaws.com/lawcom-prod-storage-
11jsxou24uy7q/uploads/2015/03/lc290_Partial_Defences_to_Murder.pdf
258. Mason, A.. 2019. Intention in the law of murder. In Intention in Law and
Philosophy. pp. 107-127. Routledge.
259. Perkins, R. M.. 1962. The Corpus Delicti of Murder. Virginia Law Review,
173-195.
260. Raducanu, R., & Cercel, C. A.. 2010. Material Interest-Circumstantial
Element of the Crime of Murder. Rev. Stiinte Juridice, 56.
214
261. Redfield, H. V.. 2000. Homicide, North and South: Being a comparative view
of crime against the person in several parts of the United States. Ohio State
University Press.
262. Serebrennikova, A. V., & Trefilov, A. A.. 2016. Offences against the Person
under the Criminal Code of the Principality of Liechtenstein. Lex Russica,.
12. 113-124.
263. Williams, G.. 1974. Criminal Law—The Mental Element in Murder. The
Cambridge Law Journal, 33.2. 200-202.
264. Бабичев, А. Г.. 2019. Преступления против жизни: теоретико-
прикладные проблемы и доктринальная модель уголовного закона.
265. Волкова, О. В.. 2017. Анализ преступлений против жизни по уголовному
законодательству России и Германии. Вестник Международного
института экономики и права,. 2. 27.
266. Васильева, К. Г..2018. Характеристика преступлений против жизни и
здоровья человека по законодательству зарубежных стран. NovaInfo. Ru,
2.85. 165-168.
267. Лебедев, М. В.. 2016. Проблемы квалификации преступлений по
признаку субъективной стороны. (на примере отдельных преступлений
против жизни). Пробелы в российском законодательстве. Юридический
журнал,.7.
268. Бородин, С.. 2017. Преступления против жизни. Litres.
269. Маляева Е.О. 2003. Преступления против жизни: вопросы теории,
законодательного регулирования и судебной практики. Монография. Н.
Новгород: Нижегородская академия МВД РФ, 2003. - 606 с.
270. Михайлова И. А., Максименко А. В., & Числов А. И.. 2019. Некоторые
вопросы совершенствования норм российского уголовного
законодательства о преступлениях против жизни и здоровья. (опыт
сравнительного анализа). Вестник Сибирского юридического института
МВД России,. 1. 34. 50-56.
271. Борзенков, Г. Н.2009. Преступления против жизни и здоровья. Закон и
правоприменительная практика.
215