VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM XUÂN THỤY

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội, năm 2024

VIỆN HÀN LÂM

KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM XUÂN THỤY

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI

TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự

Mã số: 9380104

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS Hồ Sỹ Sơn

2. PGS.TS Trịnh Tiến Việt

Hà Nội, năm 2024

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi

trên cơ sở kế thừa, trích dẫn trung thực các công trình khoa học khác với

sự hướng dẫn của PGS.TS. Hồ Sỹ Sơn và PGS.TS. Trịnh Tiến Việt. Các

kết quả nêu trong Luận án chưa được công bố trong bất kỳ công trình

nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận án bảo đảm tính

chính xác và trung thực.

NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Xuân Thụy

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 8

1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước ................................................... 8

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài ................................................. 25

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần

nghiên cứu trong luận án ......................................................................... 33

1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu.................................. 36

Tiểu kết chương 1 .......................................................................................... 39

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM

TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI .............................................................. 40

2.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý, hình phạt của các tội xâm phạm

tính mạng của con người ......................................................................... 40

2.2. Phân loại các tội xâm phạm tính mạng của con người .................... 57

2.3. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với một số

tội phạm khác .......................................................................................... 58

2.4. Thể chế hóa bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi xâm

phạm tính mạng của con người ............................................................... 74

2.5. Áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của

con người và các yếu tố tác động ............................................................ 80

Tiểu kết chương 2 .......................................................................................... 88

Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI VÀ

THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ................. 90

3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm

tính mạng của con người ......................................................................... 90

3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm

phạm tính mạng của con người tại Thành phố Hồ Chí Minh ............... 102

Tiểu kết chương 3 ........................................................................................ 151

Chương 4: HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON

NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG

NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY ......................................................................... 152

4.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội

xâm phạm tính mạng của con người ..................................................... 152

4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật

hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người ........................ 174

Tiểu kết chương 4 ........................................................................................ 190

KẾT LUẬN .................................................................................................. 192

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ...................... 194

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 195

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật Hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

CQĐT:

Cơ quan điều tra

NCS:

Nghiên cứu sinh

NXB:

Nhà xuất bản

PLHS:

Pháp luật Hình sự

TAND:

Tòa án nhân dân

THTT:

Tiến hành tố tụng

TP.HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh

TNHS:

Trách nhiệm hình sự

XPTMCCN: Xâm phạm tính mạng của con người

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Quyền sống là một trong những quyền tự nhiên, cơ bản và quan trọng nhất

của con người. Thực tế đời sống xã hội cũng cho thấy các hành vi xâm hại tính

mạng của con người là nhóm hành vi thường xuyên xảy ra, chiếm tỷ trọng cao trong

cơ cấu của tình hình tội phạm và gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng. Để bảo vệ

quyền sống, bảo vệ tính mạng của con người, luật hình sự của các quốc gia trên thế

giới đều có quy định về các tội XPTMCCN. Với tính chất nguy hiểm cao và sự phổ

biến trong đời sống xã hội, các tội XPTMCCN từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của

nhiều công trình khoa học tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau từ lý luận, quy định

của pháp luật đến thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS.

Quá trình nghiên cứu lâu dài và rộng rãi về các tội XPTMCCN đã giúp cho

nhận thức lý luận về nhóm tội phạm này ngày càng được nâng cao, hoàn thiện.

Nhiều nội dung đã thống nhất về quan điểm, nhận thức: khái niệm, CTTP, dấu hiệu

pháp lý của tội phạm… Tuy vậy, do là nhóm tội phạm có nhiều hành vi phức tạp; đa

dạng về hình thức lỗi, động cơ, mục đích phạm tội, đối tượng tác động của tội

phạm… nên hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa có sự thống nhất về mặt lý luận,

còn có nhiều quan điểm trái chiều như: xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội

XPTMCCN; một số tình tiết định khung tăng nặng trong các điều luật; dấu hiệu hậu

quả, dấu hiệu lỗi của một số tội phạm…

Ở Việt Nam hiện nay, quy định về tội phạm XPTMCCN đã được ghi nhận

tại Chương XIV BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Nhìn chung, quy định về

nhóm tội phạm này đã đáp ứng nguyên tắc đảm bảo quyền con người theo tinh thần

của Hiến pháp năm 2013; đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế mà Việt

Nam là thành viên; bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong hệ

thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm XPTMCCN

trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, thực tiễn thi hành BLHS cũng cho thấy quy

định về các tội XPTMCCN người vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh

hưởng đến việc thực thi BLHS: một số dấu hiệu định tội, định khung chưa rõ ràng,

không thống nhất về kỹ thuật lập pháp gây khó hiểu, tranh luận; quy định về hình

phạt chưa thực sự hợp lý; chưa có văn bản hướng dẫn đối với tội phạm mới…

1

Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt trực thuộc trung ương nước ta.

Đời sống xã hội sôi động cùng với mật độ dân cư đông nhất cả nước bên cạnh việc

mang lại những nguồn lực to lớn cho sự phát triển thì cũng kéo theo nhiều hệ lụy về

an sinh, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Tình hình tội phạm, bao gồm cả tội phạm

XPTMCCN, đang gia tăng đáng lo ngại. Trong khi đó, thực tiễn áp dụng quy định

của PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM trong thời gian qua bên cạnh những

kết quả khả quan thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế, sai sót trong việc định tội danh,

quyết định hình phạt… đã ảnh hưởng tiêu cực đến công tác đấu tranh phòng, chống

tội phạm. Nguyên nhân của thực trạng này bên cạnh những nguyên nhân từ phía cơ

quan áp dụng pháp luật thì không thể không nhắc đến những nguyên nhân thuộc về

quy định của pháp luật như đã nêu ở trên.

Vì vậy, xuất phát từ nhu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người cũng

như phòng ngừa và chống lại tội phạm, việc tiến hành nghiên cứu một cách toàn

diện và có hệ thống về các vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các tội xâm

phạm tính mạng con người là điều cần thiết. Mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ

những dấu hiệu pháp lý, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quy định pháp luật hiện

hành cũng như những khó khăn trong việc áp dụng thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng

tôi sẽ đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả thực thi

pháp luật. Do vậy, Nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Các tội xâm phạm tính mạng

của con người trong bối cảnh TP.HCM” cho luận án tiến sĩ luật học của mình.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Từ kết quả nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng

quy định của pháp luật về các tội XPTMCCN tại TP.HCM, luận án kiến nghị hoàn

thiện quy định của BLHS và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định

của BLHS về nhóm tội phạm này.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, luận án tập trung vào việc giải quyết các

nhiệm vụ sau:

- Phân tích, đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu các tội XPTMCCN ở

trong nước cũng như ngoài nước, qua đó xác định những vấn đề đã thống nhất,

những vẫn đề còn tranh luận và những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án;

2

- Làm rõ những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN;

- Phân tích quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN;

- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của PLHS Việt Nam về

các tội XPTMCCN tại TP.HCM;

- Phân tích yêu cầu, định hướng hoàn thiện quy định của PLHS về các tội

XPTMCCN, từ đó đưa ra những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện PLHS về nhóm

tội phạm này;

- Xây dựng các giải pháp cụ thể, khả thi bảo đảm áp dụng đúng quy định

của PLHS về các tội XPTMCCN.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án xác định các đối tượng nghiên

cứu như sau:

- Các quan điểm khoa học về các tội XPTMCCN;

- Các quy định Luật pháp Việt Nam và một số nước về các tội XPTMCCN;

- Thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM từ năm

2010 đến năm 2023.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Về chuyên ngành: Luận án được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành

luật hình sự và tố tụng hình sự;

- Về nội dung: Luận án tập trung nghiên cứu các phương diện về nhận thức

lý luận, thực trạng quy định của PLHS và thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội

XPTMCCN (bao gồm 11 Điều luật từ Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017). Áp dụng pháp luật về các tội XPTMCCN là hoạt động

thực tiễn theo một quá trình và được tiến hành bởi nhiều chủ thể khác nhau như

CQĐT, VKSND, TAND… và những người THTT hình sự như Điều tra viên, Kiểm

sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân… Đồng thời, áp dụng PLHS về các tội

XPTMCCN gồm nhiều nội dung khác nhau như định tội danh, quyết định hình phạt,

miễn TNHS, áp dụng án treo, xóa án tích… Tuy nhiên, trong luận án này khi nghiên

cứu thực tiễn áp dụng pháp luật, luận án tập trung vào hai nội dung chính của áp

dụng PLHS là định tội danh và quyết định hình phạt của chủ thể là Tòa án cấp sơ

thẩm tại TP.HCM (các TAND quận, huyện, thành phố; TAND TP.HCM).

3

- Về địa bàn: Luận án tập trung nghiên cứu, khảo sát hoạt động xét xử các

tội XPTMCCN của TAND cấp sơ thẩm trên địa bàn TP.HCM.

- Về thời gian: Từ năm 2010 đến năm 2023.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Phương pháp luận

Luận án nghiên cứu được tiến hành dựa trên nền tảng triết học duy vật biện

chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời lấy tư tưởng Hồ Chí

Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội phạm, hình phạt, và đấu tranh phòng

chống tội phạm làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phương pháp

phân tích - tổng hợp, phương pháp quy nạp - diễn giải, phương pháp so sánh,

phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thống kê, phương pháp

nghiên cứu điển hình, phương pháp chuyên gia. Cụ thể:

- Phương pháp phân tích - tổng hợp, quy nạp - diễn giải: được sử dụng là

những phương pháp chủ đạo để nghiên cứu các vấn đề về tổng quan tình hình

nghiên cứu (những vấn đề đã thống nhất, những vấn đề còn tranh luận, những vấn

đề cần nghiên cứu trong luận án); những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN (khái

niệm, dấu hiệu pháp lý, vấn đề thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi

XPTMCCN); quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN và thực tiễn áp

dụng tại TP.HCM (phân tính dữ liệu, tổng hợp các đặc điểm để đánh giá thực trạng

áp dụng pháp luật và chỉ ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế); luận giải về

nhu cầu hoàn thiện quy định của BLHS đối với các tội XPTMCCN.

- Phương pháp so sánh: được sử dụng để phân biệt các tội XPTMCCN với

một số tội phạm khác (so sánh để tìm ra sự khác biệt về dấu hiệu pháp lý giữa các

tội XPTMCCN với một số tội xâm phạm sức khỏe của con người, một số tội xâm

phạm an ninh quốc gia); nghiên cứu kinh nghiệm thể chế hóa PLHS của một số

quốc gia đối với các hành vi XPTMCCN (so sánh yêu cầu, định hướng, cách thức

thể chế hóa PLHS của Việt Nam với một số quốc gia trên thế giới từ đó rút ra

những kinh nghiệm hay của thế giới mà Việt Nam có thể học hỏi, tiếp thu…);

nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN (so sánh quy định

4

của BLHS năm 2015 với các quy định trước đó để thấy được điểm tiến bộ trong quy

định của PLHS hiện hành).

- Phương pháp lịch sử: được sử dụng để nghiên cứu chính sách hình sự đối

với các tội XPTMCCN (để thấy được sự nhất quán hay sự thay đổi, phát triển trong

chính sách hình sự qua các thời kỳ); quy định của PLHS Việt Nam về các tội

XPTMCCN (để thấy được sự thay đổi, phát triển trong quy định của PLHS trước và

sau khi BLHS năm 2015 ra đời).

- Phương pháp logic: được sử dụng để nghiên cứu nguyên nhân của những vi

phạm, sai lầm trong áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM (từ thực

tiễn áp dụng PLHS cần rút ra những vấn đề có tính quy luật ảnh hưởng tiêu cực đến

hoạt động áp dụng PLHS để tìm ra nguyên nhân, xác định mối liên hệ mang tính tất

yếu giữa hạn chế trong quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật…).

- Phương pháp thống kê: được sử dụng để nghiên cứu tình hình các tội

XPTMCCN (thống kê số liệu về thực trạng, cơ cấu, diễn biến, tính chất của tình

hình tội phạm); thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các tội XPTMCCN; tình

hình áp dụng quy định của PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM; thực tiễn định

tội danh các tội XPTMCCN tại TP.HCM; thực tiễn quyết định hình phạt đối với các

tội XPTMCCN tại TP.HCM…

- Phương pháp nghiên cứu điển hình: được sử dụng để chứng minh, phân tích,

đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM.

- Phương pháp chuyên gia: được sử dụng để nghiên cứu khái niệm và dấu

hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN; phân biệt các tội XPTMCCN với một số tội

phạm khác; việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN; nguyên

nhân của những vi phạm, sai lầm trong áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN

tại TP.HCM; yêu cầu hoàn thiện các quy định của BLHS Việt Nam về các tội

XPTMCCN (có thể tiến hành thông qua việc nghiên cứu các ấn phẩm chuyên khảo,

công trình khoa học, sách báo pháp lý… có đề cập đến các nội dung trên).

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

Luận án là công trình nghiên cứu có tính hệ thống, toàn diện về các tội

XPTMCCN theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các TAND tại TP.HCM

giai đoạn 2010 - 2023. Luận án có sự kế thừa tri thức khoa học nhưng hoàn toàn

không trùng lặp với các công trình đã công bố. Những đóng góp mới của luận án cụ

thể như sau:

5

Thứ nhất, luận án nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về các tội

XPTMCCN với quan điểm, lập luận riêng về các vấn đề như khái niệm và dấu hiệu

pháp lý của các tội XPTMCCN; phân loại, phân biệt các tội XPTMCCN với một số

tội phạm khác; thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN; áp dụng

quy định của PLHS về các tội XPTMCCN và các yếu tố tác động;

Thứ hai, luận án phân tích làm rõ nội dung các quy định của PLHS về các

tội XPTMCCN; chỉ rõ những điểm bất cập, hạn chế trong quy định của PLHS hiện

hành về các tội XPTMCCN;

Thứ ba, luận án phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của PLHS

Việt Nam về các tội XPTMCCN tại TP.HCM từ năm 2010 đến năm 2023; chỉ rõ

mối liên hệ giữa những bất cập, hạn chế trong quy định của PLHS hiện hành với

những khó khăn, vướng mắc, vi phạm, sai lầm trong thực tiễn áp dụng quy định của

PLHS về các tội XPTMCCN;

Thứ tư, luận án đưa ra những kiến nghị cụ thể, khả thi cho việc hoàn thiện

quy định của PLHS hiện hành; đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy

định của PLHS về các tội XPTMCCN.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án

6.1. Ý nghĩa lý luận

Luận án này, đồng thời cũng là nguồn tư liệu quý giá cho nghiên cứu của

sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự và Tố

tụng hình sự tại các trường luật trên toàn quốc..

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận án đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về

các tội XPTMCCN và những giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp

luật. Qua đó, kết quả nghiên cứu của luận án góp phần nâng cao hiệu quả công tác

đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ quyền con người, phòng chống oan, sai

trong giải quyết vụ án hình sự.

6

7. Kết cấu của luận án

Luận án gồm 4 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu

Chương 2: Những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN

Chương 3: Quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN và thực tiễn

áp dụng tại TP.HCM

Chương 4. Hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN

và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng những quy định này.

7

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước

1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm tính

mạng của con người

- Về khái niệm các tội XPTMCCN: Các tội XPTMCCN là đối tượng nghiên cứu

của nhiều công trình khoa học, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ

khoa học pháp lý, đã có nhiều công trình đưa ra định nghĩa về khái niệm các tội

XPTMCCN. Có thể kể đến một số công trình như sau:

+ Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Quyển 1: Các Tội phạm) - Đại học Luật

Thành phố Hồ Chí Minh do TS. Trần Thị Quang Vinh chủ biên, được NXB Hồng

Đức xuất bản năm 2021 tại Chương II không có định nghĩa riêng về các tội

XPTMCCN. Tuy nhiên, giáo trình có định nghĩa về các tội xâm phạm tính mạng,

sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người [214, tr.46]. So với giáo trình của

Trường Đại học Luật Hà Nội thì cách xây dựng định nghĩa của giáo trình Trường

Đại học Luật TP.HCM có những điểm tương đồng nhất định: làm rõ khách thể (tính

mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người khác) và mặt chủ quan của tội

phạm (cố ý hoặc vô ý);

+ Sách chuyên khảo “PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe

của con người từ thời Phong kiến đến ngày BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung

năm 2017) có hiệu lực” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà được NXB Lao động xuất bản năm

2019 cũng đưa ra định nghĩa “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người”

chứ không đưa ra định nghĩa riêng cho các tội XPTMCCN. Cách xây dựng định nghĩa

8

của tác giả không chỉ xác định khách thể (quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng,

sức khỏe), mặt chủ quan của tội phạm (có lỗi) mà còn xác định tính chất nguy hiểm

(gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đáng kể), tính trái PLHS và chủ thể của tội

phạm (người đủ điều kiện chủ thể) [52, tr.90];

+ Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội XPTMCCN trong Quốc triều hình luật và sự

kế thừa trong BLHS Việt Nam hiện hành” của tác giả Vũ Gia Hân (Đại học Quốc

gia Hà Nội) đưa ra định nghĩa: “Các tội XPTMCCN là những hành vi nguy hiểm

cho xã hội, được luật hình sự quy định, được thực hiện dưới lỗi cố ý hoặc vô ý, gây

thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại về tính mạng của người khác” [78, tr.44]. Trong

định nghĩa này, tác giả không chỉ xác định khách thể, mặt chủ quan của tội phạm

mà còn xác định tính nguy hiểm, tính trái PLHS của tội phạm.

Nhìn chung, các công trình nêu trên khi định nghĩa khái niệm các tội XPTMCCN

đều chỉ ra một số đặc trưng của loại tội phạm này: Khách thể của tội phạm là quyền

sống của con người; mặt chủ quan của tội phạm thể hiện ở hình thức lỗi cố ý hoặc vô ý;

chủ thể thực hiện tội phạm là người có năng lực TNHS; hành vi phạm tội có thể được

thực hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động, trái PLHS. Tuy nhiên, các

định nghĩa nêu trên còn khá khái quát, chưa thực sự rõ ràng, chưa phân biệt với các tội

phạm khác cũng gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho tính mạng của con người.

- Về xác định phạm vi các tội XPTMCCN: BLHS hiện hành quy định chung

nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người tại

9

Chương XIV từ Điều 123 đến Điều 156. Vì vậy, việc xác định những điều luật nào

thuộc các tội XPTMCCN vẫn còn các quan điểm khác nhau:

+ Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần các tội phạm (quyển 1) của Trường

Đại học Luật Hà Nội (NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2018) xác định các tội

XPTMCCN trong BLHS năm 2015 có 13 điều luật: Từ Điều 123 đến Điều 133,

Điều 148 và Điều 149 [207, tr.53-54];

+ Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần Các tội phạm - quyển 1) của Trường

Đại học Luật TP.HCM, NXB Hồng Đức, năm 2021 xác định các tội XPTMCCN từ

Điều 123 đến Điều 133 [214, tr.46]. Như vậy, so với giáo trình của Trường Đại học

Luật Hà Nội, giáo trình của Trường Đại học Luật TP.HCM không xếp tội lây truyền

HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác vào các tội

XPTMCCN;

Sách "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần Các tội phạm)" do Giáo sư, Tiến

sĩ Võ Khánh Vinh chủ biên, ấn hành năm 2014 bởi Nhà xuất bản Công an nhân dân,

trình bày phân tích về tội phạm XPTMCCN tại Chương III, mục A. Giáo trình đã

xác định rõ: “các tội xâm phạm tính mạng của con người được quy định ở 11 điều

luật (từ Điều 93 đến Điều 103) ở Chương XII của Bộ luật hình sự” (tương ứng với

từ Điều 123 đến Điều 133 Chương XIV của BLHS năm 2015) [242, tr.59]. Như

vậy, tác giả giáo trình cũng không xếp tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố

ý truyền HIV cho người khác vào các tội XPTMCCN;

+ Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội XPTMCCN trong Quốc triều hình luật và

sự kế thừa trong BLHS Việt Nam hiện hành” của tác giả Vũ Gia Hân (Đại học Quốc

gia Hà Nội) xác định các tội XPTMCCN được quy định ở 11 điều luật (từ Điều 93

đến Điều 103) ở Chương XII của BLHS năm 1999 (tương ứng hiện nay là từ Điều

123 đến Điều 133 của Chương XIV BLHS năm 2015), không có tội lây truyền HIV

cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác [78, tr.25];

10

+ Bài viết “Tìm hiểu quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con

người” đăng trên Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân cũng xác định các

tội XPTMCCN được quy định từ Điều 123 đến Điều 133 [202, tr.27-32];

Có thể thấy, đa phần các công trình nghiên cứu xác định các tội XPTMCCN

được quy định từ Điều 123 đến Điều 133 BLHS hiện hành. Tuy nhiên, có những

công trình xác định Điều 148 và Điều 149 cũng thuộc các tội XPTMCCN. Nhìn

chung, các công trình đều không có sự luận giải rõ ràng về lý do xác định phạm vi

các tội XPTMCCN như đã nêu (trừ giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội).

- Về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN: Dấu hiệu pháp lý của các tội

XPTMCCN là nội dung được rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu, có thể kể

đến một số công trình tiêu biểu sau:

Trong đó, các tội XPTMCCN được trình bày tại mục A với các nội dung: các

yếu tố CTTP, hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng nói chung; dấu hiệu

pháp lý, hình phạt của từng tội phạm cụ thể XPTMCCN. Trong đó, giáo trình có

đưa ra một số luận điểm riêng, khác biệt so với các tài liệu khác nghiên cứu về các

tội XPTMCCN: xác định hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc để

định tội đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh [207,

tr.70-72], hậu quả “đứa trẻ chết” không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội giết con

mới đẻ [207, tr.68]… Những luận điểm khoa học của giáo trình sẽ là cơ sở tham

khảo để NCS nghiên cứu, làm rõ dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN;

* Trong cuốn sách "Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần Các tội phạm -

quyển 1)", xuất bản năm 2021 bởi NXB Hồng Đức, Trường Đại học Luật TP.HCM

đã trình bày chi tiết và phân tích kỹ lưỡng về bản chất pháp lý của các tội phạm xâm

phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, cụ thể là ở

Chương II.

So với giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội, nội dung phân tích về các tội

XPTMCCN trong giáo trình của Trường Đại học Luật TP.HCM có một số điểm

11

khác biệt: không xác định rõ ràng hậu quả chết người có phải là dấu hiệu bắt buộc

để định tội đối với Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay

không [214, tr.67], xác định tội làm chết người trong khi thi hành công vụ được

thực hiện với lỗi cố ý hoặc vô ý [214, tr.73] … Những luận điểm khoa học của giáo

trình giúp NCS có góc nhìn đa chiều và đặt ra một số vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

liên quan đến dấu hiệu pháp lí của các tội XPTMCCN;

+ Bình luận BLHS năm 2015, Phần thứ hai - Các tội phạm, Chương XIV Các tội

xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người (bình luận

chuyên sâu) của tác giả Đinh Văn Quế được NXB Thông tin và truyền thông xuất

bản năm 2020 mặc dù không phân tích dấu hiệu pháp lí chung nhưng có đi sâu phân

tích về từng tội phạm cụ thể trong Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người. Công trình này không chỉ bình luận những dấu

hiệu cơ bản của tội phạm mà còn phân tích chi tiết các trường hợp phạm tội cụ thể,

có sự so sánh với những quy định trước khi BLHS năm 2015 có hiệu lực, có sự

phân biệt giữa các tội phạm với hệ thống ví dụ phong phú. Tác giả cũng đưa ra

những quan điểm riêng, khác biệt so với các công trình khác khi nghiên cứu về dấu

hiệu pháp lí của các tội XPTMCCN như: trường hợp người phụ nữ bị giết không có

thai, nhưng người phạm tội tưởng lầm là có thai và sự lầm tưởng này của người

phạm tội là có căn cứ, thì người phạm tội vẫn bị truy cứu TNHS về tội giết người

trong trường hợp “giết phụ nữ mà biết là có thai” [117, tr.21], hậu quả con mới đẻ

bị chết là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội giết con mới đẻ, nếu không có hậu quả

này thì không cấu thành tội giết con mới đẻ [117, tr.44], hậu quả nạn nhân bị chết là

dấu hiệu bắt buộc phải có của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh [117, tr.48]… Vì vậy, công trình này cung cấp thêm cho NCS những luận cứ

khoa học về dấu hiệu pháp lí của các tội XPTMCCN, việc phân biệt các tội

XPTMCCN với một số tội phạm khác;

+ Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (phần

Các tội phạm) quyển 1 do GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên được NXB Tư pháp

xuất bản năm 2018 tại Chương XIV có bình luận về các tội xâm phạm tính mạng,

sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Tác giả cuốn sách không chỉ đưa ra

quan điểm về những nội dung mới, những sửa đổi mang tính tích cực của BLHS

hiện hành mà còn thể hiện quan điểm đối với những vấn đề còn có ý kiến đa chiều

12

như: vấn đề dấu hiệu lỗi của chủ thể trong tội vứt bỏ con mới đẻ, tội làm chết người

trong khi thi hành công vụ; vấn đề xác định “hậu quả chết người” có phải là dấu

hiệu bắt buộc phải có trong tội giết con mới đẻ, tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội… Cuốn sách giúp NCS có

thêm nội dung tham khảo khi nghiên cứu về dấu hiệu pháp lí của các tội

XPTMCCN;

+ Sách chuyên khảo “PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe

của con người từ thời Phong kiến đến ngày BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung

năm 2017) có hiệu lực” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà được NXB Lao động xuất bản

năm 2019 cũng đã phân tích dấu hiệu pháp lí, phân biệt các tội có CTTP gần giống

nhau; phân tích các tình tiết định khung, vấn đề quyết định hình phạt. Đặc biệt, tác

giả còn chỉ ra những lưu ý khi định tội, định khung và quyết định hình phạt đối với

các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Với nội dung như trên, quyển

sách chuyên khảo này vừa cung cấp những luận điểm hữu ích để NCS làm rõ dấu

hiệu pháp lý các tội XPTMCCN, vừa giúp NCS có luận cứ khoa học để đánh giá hoạt

động áp dụng pháp luật về các tội XPTMCCN trong thực tiễn;

+ Sách chuyên khảo “Luật hình sự so sánh” của PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn do NXB

Chính trị quốc gia sự thật xuất bản năm 2018 tại Chương XI, mục I có sự phân tích,

so sánh những nội dung cốt lõi trong quy định về các tội XPTMCCN theo quy định

của PLHS Việt Nam hiện hành với các quy định tương ứng của PLHS Liên bang Nga,

Cộng hòa Ba Lan, Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Thụy Sĩ, Cộng hòa Tây Ban

Nha, Cộng hòa Pháp, Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ và

Vương quốc Anh. Trên cơ sở đó, PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn đã chỉ rõ những điểm tương

đồng và khác biệt trong PLHS các nước về các tội XPTMCCN. Đặc biệt, qua đối

chiếu, phân tích quy định của PLHS Việt Nam và các nước trên thế giới, tác giả còn chỉ

ra những hạn chế, khiếm khuyết trong quy định của PLHS Việt Nam hiện hành về các

tội XPTMCCN. Đây là những nội dung quan trọng giúp NCS có thể nghiên cứu, tiếp

thu kinh nghiệm thể chế hóa PLHS của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời có định

hướng hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN;

+ Sách “55 cặp tội danh dễ nhầm lẫn trong Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa

đổi và bổ sung vào năm 2017” (tài liệu phục vụ cho nghiên cứu, giảng dạy và học

13

tập) của PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật

phát hành năm 2021, đã tiến hành phân tích một cách sâu sắc về những điểm tương

đồng và khác biệt giữa các cặp tội danh dễ gây nhầm lẫn. Trong đó, sách đề cập đến

các tội danh liên quan đến việc xâm phạm tới tính mạng con người như: tội giết

người so với tội giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh; tội giết người bên cạnh tội bức tử; sự

tương đồng giữa tội giết người và hành vi xúi giục hay hỗ trợ người khác tự sát; mối

liên hệ giữa tội giết người với việc không cứu giúp những cá nhân đang trong tình

trạng nguy hiểm đến tính mạng; sự giao thoa giữa tội giết người và việc đe dọa đến

tính mạng của nạn nhân; mối quan hệ giữa tội giết người với hành vi cố ý gây

thương tích hay tổn hại sức khỏe cho người khác; cũng như sự khác biệt giữa việc

thực hiện quyền phòng vệ chính đáng dẫn đến cái chết của nạn nhân trong khi thi

hành công vụ với việc bức tử hoặc tra khảo một cá nhân. Đây là tài liệu quan trọng

giúp NCS nhận thức rõ hơn về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN;

Tác giả bài viết đã đưa ra luận điểm cá nhân và phân tích một số vụ việc thực tế

để minh chứng. Đây là những nội dung phức tạp cả về mặt lý luận và thực tiễn. Vì

vậy, bài viết cung cấp thêm cho NCS những luận điểm để tham khảo khi nghiên cứu

về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN cũng như đánh giá hoạt động áp dụng

pháp luật về các tội XPTMCCN trên thực tế;

+ Bài viết “Bình luận tội giết người theo BLHS năm 2015” của các tác giả Đỗ

Đức Hồng Hà - Ngô Duy Thi đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 13/2018 đã có sự phân

tích chi tiết các dấu hiệu pháp lí, các tình tiết định khung tăng nặng và hình phạt áp

dụng đối với tội giết người. Bên cạnh đó, các tác giả còn đưa ra quan điểm phân biệt

tội giết người với tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến

tính mạng, phân biệt tội giết người (phạm tội chưa đạt) với tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, phân biệt tội giết người với tội vô ý

làm chết người.

14

Bài viết cung cấp thêm cho NCS những luận điểm để tham khảo khi nghiên cứu

về dấu hiệu pháp lí của tội giết người cũng như phân biệt tội giết người với một số

tội phạm khác;

Tác giả không chỉ nêu ra nhiều quan điểm trái chiều mà còn lập luận, đưa ra quan

điểm của bản thân về những vấn đề còn tranh cãi. Bài viết giúp NCS có góc nhìn đa

chiều khi nghiên cứu dấu hiệu pháp lý các tội XPTMCCN.

+ Bài viết “So sánh quy định về tội giết người trong BLHS Việt Nam và BLHS

Liên Bang Nga” của tác giả Lê Thị Thu Huyền đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 22

(tháng 11/2015) đã chỉ ra những điểm giống nhau về cơ cấu điều luật và các tình tiết

định khung tăng nặng. Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích những điểm khác biệt về

kỹ thuật lập pháp, dấu hiệu pháp lý (khách thể, chủ thể, lỗi) và đường lối xử lý tội

giết người ở BLHS Việt Nam và BLHS Liên Bang Nga. Bài viết không chỉ giúp

NCS có thêm thông tin khi nghiên cứu về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN

mà còn gợi mở hướng hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam trên cơ sở tiếp thu

kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài.

+ Bài viết “Căn cứ xác định phạm tội “trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh”” của tác giả Trần Đình Hải đăng trên Tạp chí khoa học Kiểm sát số 01/2021

tập trung phân tích các căn cứ để có thể đánh giá chính xác trạng thái tinh thần của

con người có bị kích động mạnh hay không: thời gian, hoàn cảnh, địa điểm; diễn

biến của hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân; nguyên nhân sâu xa và

trực tiếp của sự việc... Đây là một trong những nội dung phức tạp nhất khi nghiên

cứu về mặt lý luận cũng như áp dụng trong thực tiễn. Bài viết giúp NCS có thêm

góc nhìn khi nghiên cứu dấu hiệu pháp lí của tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh.

15

+ Bài viết “Một số nhận thức lý luận về tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong

BLHS năm 2015” của TS. Đặng Thu Hiền và tác giả Đặng Trần Hùng đăng trên Tạp

chí TAND kỳ II tháng 9/2016 (số 18) làm rõ một số vấn đề về dấu hiệu pháp lý và

hình phạt của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ: Bản chất pháp lý của tội phạm này

khác biệt gì so với tội giết người? Có phải mọi trường hợp mẹ giết con mới đẻ đều

phạm tội này? Thế nào là ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu? Hoàn cảnh

khách quan thế nào là đặc biệt? Vì sao cũng là giết người mà hình phạt lại nhẹ như

vậy? Bài viết giúp NCS có thêm dữ liệu để tham khảo khi nghiên cứu dấu hiệu pháp

lý các tội XPTMCCN.

Nghiên cứu các công trình đã nêu cho thấy hiện vẫn tồn tại nhiều quan điểm

khác nhau liên quan đến một số vấn đề về dấu hiệu pháp lý của các tội phạm xâm

phạm trật tự xã hội: đối với các tình tiết định khung hình phạt nặng hơn của tội giết

người; dấu hiệu hậu quả trong trường hợp tội giết con mới sinh; tội giết người khi ở

trong trạng thái tinh thần bị kích động dữ dội; tội giết người do vượt quá giới hạn

chính đáng trong việc phòng vệ hoặc khi thực hiện hành vi bắt giữ người phạm tội

mà không cần thiết; và dấu hiệu lỗi về mặt chủ quan trong cấu thành của tội gây ra

cái chết cho người khác trong quá trình thực thi công vụ....

- Về lịch sử lập pháp hình sự đối với các tội XPTMCCN, có thể kể đến một số

công trình:

+ Sách chuyên khảo “PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe

của con người từ thời Phong kiến đến ngày BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung

năm 2017) có hiệu lực” của TS. Đỗ Đức Hồng Hà, NXB Lao động, năm 2019 đã

khái quát quá trình phát triển của PLHS Việt Nam về các tội xâm phạm tính mạng,

sức khỏe của con người từ Bộ luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long, từ sau Cách mạng

tháng tám năm 1945 đến quy định của PLHS hiện hành. Với nội dung như trên,

quyển sách chuyên khảo này cung cấp cho NCS những thông tin, luận điểm hữu ích

để làm rõ lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về các tội XPTMCCN;

* Tác phẩm "Những điểm mới của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm

2017)" do PGS. TS. Nguyễn Thị Phương Hoa và TS. Phan Anh Tuấn hợp tác biên

soạn, do NXB Hồng Đức ấn hành năm 2017, đã trình bày những điểm đổi mới trong

quy định về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự con

người trong Bộ luật Hình sự năm 2015 so sánh với Bộ luật Hình sự năm 1999 tại

16

Chương 11. Là quyển sách chuyên về những điểm mới của BLHS năm 2015, bên

cạnh việc chỉ ra những điểm mới, các tác giả còn phân tích về cơ sở của những điểm

mới đó. Vì vậy, đây là một trong những tài liệu tham khảo giúp NCS hiểu rõ tinh

thần của điều luật, đồng thời có thể luận giải về lý do, ý nghĩa, tác dụng của những

điểm mới trong quy định của BLHS hiện hành về các tội XPTMCCN;

+ Sách “Lược khảo Hoàng Việt luật lệ (tìm hiểu luật Gia Long)” của tác giả

Nguyễn Quyết Thắng được NXB Văn hóa thông tin xuất bản năm 2002 giới thiệu

đến độc giả các đặc điểm, tính chất, nội dung, vị trí, ý nghĩa của Bộ luật Gia Long

trong văn minh sử Việt Nam. Tài liệu giúp NCS có thêm dữ liệu để nghiên cứu về

lịch sử hình thành quy định các tội XPTMCCN.

+ Sách “Quốc Triều Hình Luật” do các tác giả Nguyễn Ngọc Nhuận và Nguyễn

Tá Nhí dịch được NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 1995 cung cấp cho độc giả

một bản dịch hoàn chỉnh, qua đó giới thiệu một trong những thành tựu tiêu biểu của

nền văn hóa dân tộc. Tài liệu giúp NCS có góc nhìn toàn diện về các tội XPTMCCN

trong Bộ luật Hồng Đức, bộ luật được đánh giá là “mẫu mực để trị nước”.

+ Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội XPTMCCN trong Quốc triều hình luật và sự kế

thừa trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành” do tác giả Vũ Gia Hân thuộc Đại học

Quốc gia Hà Nội thực hiện đã tiến hành nghiên cứu sâu sắc, rút ra những giá trị pháp lý

từ các quy định liên quan đến các tội XPTMCCN theo Quốc triều hình luật. Trong công

trình này, tác giả còn thực hiện việc so sánh giữa các tội XPTMCCN của Quốc triều hình

luật và quy định trong Bộ luật Hình sự năm 1999. Qua đó, tác giả đánh giá những thành

tựu lập pháp của Quốc triều hình luật cần được kế thừa nhằm nâng cao chất lượng quy

định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về các tội XPTMCCN.

Luận văn giúp NCS có thêm thông tin khi nghiên cứu về lịch sử hình thành,

phát triển của các tội XPTMCCN trong luật hình sự Việt Nam;

17

Qua đó, tác giả bài viết nhận định nguyên tắc phân hóa TNHS ngày càng được

thể hiện rõ nét hơn, đường lối xử lí người phạm tội giết người ngày càng được quy

định một cách rõ ràng và xu hướng mở rộng khả năng pháp lí cho Tòa án có thể lựa

chọn hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng

trường hợp cụ thể. Bài viết cung cấp thêm cho NCS những thông tin và luận điểm

hữu ích trong việc nghiên cứu quy định của PLHS Việt Nam về các tội XPTMCCN

trước khi ban hành BLHS năm 2015. Đồng thời, bài viết cũng góp phần giúp NCS

nhận diện quy luật phát triển của quy định về tội giết người nói riêng và các tội

XPTMCCN nói chung, từ đó có hướng đề xuất hoàn thiện quy định của pháp luật;

+ Bài viết “Tội giết con mới đẻ trong PLHS Việt Nam” của tác giả Phạm Văn

Báu đăng trên Tạp chí Luật học số 2/2000 có phân tích sự khác nhau trong quy định

về tội giết con mới đẻ trong các văn bản trước BLHS năm 1985, trong BLHS năm

1985 và trong BLHS năm 1999. Vì vậy, bài viết cũng giúp NCS có thêm thông tin,

góc nhìn để tham khảo khi nghiên cứu lịch sử lập pháp về các tội XPTMCCN.

+ Bài viết “Sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa TNHS trong các tội XPTMCCN

trong Hoàng Việt luật lệ (Bộ luật Gia Long)” của tác giả Cao Thị Oanh đăng trên

Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 3/2007 đã phân tích, làm rõ sự phân hóa TNHS

trong xử lý tội phạm XPTMCCN ở Bộ luật Gia Long qua các quy định về các giai

đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, các trường hợp tăng nặng TNHS, các trường

hợp giảm nhẹ TNHS. Việc nghiên cứu quy định của một trong những bộ luật ra đời

trong thời kỳ hưng thịnh của pháp luật Phong kiến Việt Nam một mặt giúp NCS

nắm rõ “nguồn gốc”, sự phát triển của PLHS Việt Nam, mặt khác gợi mở thêm

hướng hoàn thiện quy định của pháp luật hiện hành.

1.1.2. Những công trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

đối với các tội xâm phạm tính mạng của con người

18

- Luận văn thạc sỹ luật học “Các tội XPTMCCN trong luật hình sự Việt Nam”

của tác giả Đoàn Văn Lâm, năm 2013 có phân tích, đánh giá thực trạng điều tra,

truy tố, xét xử các tội XPTMCCN trên địa bàn tỉnh Bình Dương, qua đó rút ra

những tồn tại, hạn chế về lập pháp và thực tiễn áp dụng PLHS đối với những tội

phạm này. Địa bàn tỉnh Bình Dương cũng thuộc khu vực Đông Nam Bộ, giáp ranh

với TP.HCM, có một số nét tương đồng nhất định với TP.HCM về tình hình tội

phạm và công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm. Vì vậy, luận văn giúp NCS có

thêm thông tin, dữ liệu để đối chiếu, so sánh khi nghiên cứu về thực tiễn áp dụng

PLHS đối với các tội XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM;

cũng phân tích những tồn tại, hạn chế của việc định tội danh đối với tội giết người

của Tòa án cấp sơ thẩm tỉnh Bình Định. Luận văn giúp NCS có thêm thông tin để so

sánh với thực tiễn áp dụng PLHS tại TP.HCM;

- Luận văn thạc sỹ luật học “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam”

của tác giả Đoàn Thị Vân (Đại học Quốc gia Hà Nội) có nghiên cứu thực trạng áp

dụng PLHS đối với tội giết con mới đẻ trên địa bàn cả nước trong giai đoạn 2010-

2014. Tác giả luận văn đã chỉ ra những bất cập trong quá trình áp dụng PLHS đối

với tội giết con mới đẻ từ việc định tội danh đến việc xác định giai đoạn thực hiện

tội phạm. Vì vậy, đây là một trong những tài liệu tham khảo để NCS làm rõ thực

trạng áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN;

- Luận văn thạc sỹ luật học “Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình

Định” của tác giả Nguyễn Thị Thu Phương (Học viên Khoa học xã hội), năm 2020

có phân tích thực tiễn xét xử tội vô ý làm chết người và tội vô ý làm chết người do

vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trên địa bàn tỉnh Bình Định

từ năm 2015 đến năm 2020. Tác giả cũng chỉ rõ một số tồn tại trong thực tiễn xét xử

các tội vô ý làm chết người và những vướng mắc trong các quy định của BLHS: có

trường hợp Tòa án chưa phân biệt rõ ràng giữa tội giết người và tội vô ý làm chết

người; có trường hợp chưa phân biệt rõ ràng giữa tội vô ý làm chết người do vi

19

phạm quy tắc nghề nghiệp với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường

bộ; có trường hợp bị nhầm lẫn khi định tội danh giữa tội vô ý làm chết người với vi

phạm quy định về an toàn giao thông đường thủy hoặc an toàn giao thông đường

bộ; việc thu thập, đánh giá chứng cứ còn gặp nhiều khó khăn, thiếu sót… Luận văn

giúp NCS có thêm thông tin để so sánh, đối chiếu với thực tiễn áp dụng pháp luật

đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM;

- Luận văn thạc sĩ luật học với tiêu đề “Tội không cứu giúp người đang ở trong

tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo quy định của luật hình sự Việt Nam” do

tác giả Thái Thị Hiền thực hiện tại Đại học Quốc gia Hà Nội vào năm 2014, đã tiến

hành phân tích và đánh giá thực tiễn xét xử đối với tội danh này trong khoảng thời

gian từ năm 2009 đến 2013. Tác giả đã chỉ ra những vấn đề tồn tại trong công tác

xét xử các vụ án liên quan: sai sót trong việc xác định tội danh; khó khăn và thiếu

sót trong quá trình thu thập, đánh giá chứng cứ từ phía các cơ quan tố tụng hình sự,

dẫn đến việc giải quyết vụ án bị kéo dài và không rõ ràng về tội danh đối với người

vi phạm. Đây là loại tội phạm ít khi được đưa ra xét xử trên thực tế do nhiều nguyên

nhân khác nhau ảnh hưởng đến quá trình pháp lý.. Vì vậy, luận văn là tài liệu quan

trọng giúp NCS có thêm thông tin, dữ liệu để so sánh khi nghiên cứu thực trạng áp

dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN;

- Luận văn thạc sĩ luật học “Các tội phạm xảy ra trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh theo quy định của Luật Hình sự Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thị

Hằng (Đại học Quốc gia Hà Nội) thực hiện vào năm 2015 đã tiến hành phân tích

tình hình xét xử của Tòa án Nhân dân đối với các tội phạm diễn ra trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh trên toàn quốc trong giai đoạn từ 2010 đến 2014. Tác

giả cũng đã làm rõ những nguyên nhân dẫn đến những tồn tại trong thực tiễn áp

dụng Bộ luật Hình sự, bao gồm việc các quy định pháp luật chưa được diễn đạt một

cách rõ ràng, gây khó khăn cho việc áp dụng pháp luật trong quá trình xét xử; bên

cạnh đó, nhận thức của những người tham gia tố tụng, đặc biệt là các thẩm phán,

còn nhiều hạn chế khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử đối với các tội phạm xảy

ra trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh... Tội giết người dưới ảnh hưởng của

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh nói riêng và các tội phạm khác được thực

hiện trong tình trạng này nói chung đều cho thấy rằng việc áp dụng pháp luật trên

thực tế gặp phải không ít vấn đề phức tạp liên quan đến việc làm rõ bản chất của

20

trạng thái tinh thần bị kích động hay mức độ kích động mạnh.? Thế nào là “người

thân thích” của người phạm tội? Chứng minh mối quan hệ nhân quả giữa hành vi

trái pháp luật của nạn nhân và trạng thái tinh thần bị kích động mạnh của người

phạm tội… Vì vậy, luận văn là tài liệu quan trọng giúp NCS có thêm dữ liệu khi

nghiên cứu về thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN;

Cụ thể, luận văn chỉ ra rằng việc xác định ranh giới rõ ràng giữa trường hợp

được coi là phòng vệ chính đáng và trường hợp không được công nhận là điều còn

nhiều bất cập; bên cạnh đó, cũng chưa có sự phân biệt rõ ràng giữa phòng vệ chính

đáng và tình huống cấp thiết. Hơn nữa, sự phân loại giữa các trường hợp thuộc về

phòng vệ chính đáng với những hành vi phạm tội diễn ra trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh cũng chưa được thực hiện một cách đúng đắn. Việc xác định tội

danh cũng còn thiếu tính nhất quán, dẫn đến nhầm lẫn giữa các hành vi giết người

thông thường, giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay giết

người do vượt quá giới hạn của quyền phòng vệ chính đáng. Luận văn này cung cấp

cho nghiên cứu sinh những thông tin và dữ liệu cần thiết để tìm hiểu sâu hơn về

việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội phạm giết người trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh - một lĩnh vực đang gặp phải nhiều khó khăn trong thực tiễn.;

- Bài viết “Một số vấn đề cần lưu ý khi áp dụng tội giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh theo Điều 125 BLHS năm 2015” của tác giả Đặng Thu

Hiền đăng trên Tạp chí Ngành luật số 05/2016 đã phân tích sáu vấn đề mà tác giả

cho rằng cần “nhận thức thống nhất” để tránh việc xử lí oan sai, không đúng người,

không đúng tội, không đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa khi áp dụng tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra

điểm mâu thuẫn giữa lí luận và thực tiễn áp dụng tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh: về mặt lý luận thì tội giết người trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh vẫn có thể có giai đoạn phạm tội chưa đạt nhưng thực tế thì

21

thường hậu quả đến đâu xử lý đến đó. Bài viết giúp NCS có thêm thông tin khi

nghiên cứu về thực tiễn áp dụng PLHS đối với tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh.

1.1.3. Những công trình nghiên cứu yêu cầu và giải pháp nâng cao chất

lượng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm

tính mạng của con người

- Luận án tiến sĩ luật học “Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ: tình

hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa” của tác giả Nguyễn Hữu Nam (năm

2018) khi phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm giết người

trên địa bàn miền Đông Nam Bộ có chỉ ra những nguyên nhân và điều kiện từ hạn

chế, thiếu sót trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử (sự phối hợp giữa các cơ quan

THTT còn nhiều bất cập, nhiều bản án có mức hình phạt chưa tương xứng với tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội...). Trên cơ sở đó, tác giả cũng đề

xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra, truy tố, xét xử tội giết người của

cơ quan chuyên môn (lực lượng Công an, Viện kiểm sát nhân dân các cấp, Tòa án

nhân dân các cấp). Luận án trên giúp NCS có thêm cơ sở để đối chiếu với kết quả

nghiên cứu của bản thân và cũng gợi mở thêm các giải pháp nâng cao hiệu quả áp

dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM.

- Luận án tiến sĩ luật học mang tên “Thực hiện quyền công tố trong quá trình

điều tra các tội phạm giết người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam” do tác giả

Nguyễn Quốc Hân (thuộc Học viện Khoa học xã hội) thực hiện vào năm 2019. Tác

phẩm này dựa trên việc phân tích, đánh giá và nhận diện tình hình thực tiễn của hoạt

động thực thi quyền công tố trong việc điều tra các tội giết người. Tác giả đồng thời

chỉ ra các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong công tác thực hành quyền công

tố, chủ yếu xuất phát từ những bất cập trong quy định pháp luật hiện hành.. Vì vậy,

luận án đã kiến nghị những giải pháp hoàn thiện PLHS và tố tụng hình sự để góp

phần nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết người:

sửa đổi, bổ sung khái niệm về “giết người” tại các Điều 123, 125, 126 của BLHS

năm 2015; bổ sung điều luật “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” tại chương

III của BLHS năm 2015; bổ sung điều luật về nguyên tắc mối quan hệ giữa CQĐT

với VKSND vào chương 2 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015... Luận án giúp

NCS có thêm góc tiếp cận, luận điểm khoa học để tham khảo khi nghiên cứu về yêu

22

cầu và giải pháp nâng cao chất lượng PLHS và áp dụng PLHS đối với các tội

XPTMCCN;

- Luận án tiến sĩ luật học “Án lệ hình sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn

Thanh Mận (Học viện Khoa học xã hội, năm 2019) có sự phân tích, đánh giá thực tiễn

xây dựng và áp dụng án lệ hình sự (trong đó có những án lệ về các tội XPTMCCN).

Trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất một số yêu cầu về việc xây dựng và phát triển án

lệ trong lĩnh vực hình sự, đồng thời kiến nghị những giải pháp nhằm cải thiện chất

lượng của việc xây dựng và áp dụng án lệ hình sự. Các biện pháp này bao gồm: nâng

cao nhận thức cộng đồng về giá trị của án lệ hình sự; hoàn thiện các quy định trong

Hiến pháp và Bộ luật Hình sự liên quan đến việc áp dụng án lệ; cải thiện chuyên môn

của đội ngũ Thẩm phán phụ trách xét xử các vụ án hình sự ở tất cả các cấp; ban hành

quy trình cụ thể cho việc xây dựng án lệ hình sự. Do đó, luận án sẽ cung cấp cho

Nghiên cứu sinh những gợi ý giá trị để nâng cao hiệu quả thực thi Bộ luật Hình sự đối

với các tội phạm Xâm phạm Tài sản từ việc tăng cường xây dựng và áp dụng án lệ..

- Các luận văn thạc sỹ luật học chuyên ngành luật hình sự và tố tụng hình sự như

“Các tội XPTMCCN trong Luật Hình sự Việt Nam”, “Định tội danh Tội giết người

theo PLHS Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, “Tội giết con mới đẻ trong luật

hình sự Việt Nam”, “Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh theo Luật Hình sự Việt Nam”, “Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam”, “Tội vô ý làm

chết người từ thực tiễn tỉnh Bình Định”, “Tội không cứu giúp người đang ở trong

tình trạng nguy hiểm đến tính mạng theo luật hình sự Việt Nam”… (đã được trình

bày tại tiểu mục 1.1.2.) bên cạnh việc phân tích thực trạng áp dụng PLHS đối với

các tội XPTMCCN cũng chỉ rõ sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả áp dụng quy

định của BLHS Việt Nam từ phương diện lập pháp, phương diện thực tiễn và

phương diện lý luận. Đồng thời, các tác giả cũng kiến nghị những giải pháp nâng

cao hiệu quả áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN: Hoàn thiện BLHS Việt

Nam; tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nâng cao trình độ chuyên môn,

nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tư pháp… Các tài liệu trên giúp NCS có thêm dữ liệu,

quan điểm để tham khảo khi nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

áp dụng pháp luật đối với các tội XPTMCCN;

23

- Bài viết của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà về các tình tiết "giết nhiều người" và

"giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người" được đăng trên

Tạp chí Luật học số 1/2005 đã nêu bật những khó khăn, cùng với những quan điểm

trái ngược trong việc áp dụng các tình tiết này liên quan đến tội danh giết người.

Những vấn đề này không chỉ thể hiện sự phức tạp trong hệ thống pháp luật mà còn

tạo ra những thách thức trong quá trình xét xử. Đây là hai tình tiết định khung tăng

nặng của tội giết người mà việc phân biệt hai tình tiết này là vấn đề phức tạp cả về lý

luận và thực tiễn. Tác giả bài viết cũng đưa ra quan điểm về hướng khắc phục những

tồn tại, vướng mắc nêu trên bao gồm sửa đổi quy định của BLHS và ban hành văn bản

hướng dẫn. Vì vậy, bài viết cũng giúp NCS có thêm dữ liệu để tham khảo khi nghiên

cứu vấn đề hoàn thiện quy định của BLHS về các tội XPTMCCN;

- Bài viết "Các tội xâm phạm tính mạng con người - bất cập và kiến nghị" của

Tiến sĩ Nguyễn Mai Bộ, đăng tải trên Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, đã phân tích

và nêu bật những hạn chế trong quy định về tội XPTMCCN, tác giả đã có những kiến

nghị cụ thể để sửa đổi quy định của BLHS 2015 và một số văn bản liên quan: sửa đổi

quy định về tội giết người theo hướng mô tả rõ thế nào là hành vi giết người, bổ sung

tình tiết định khung tăng nặng giết “người khám chữa bệnh cho mình hoặc người

thân của mình”; sửa đổi Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội

đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng Điều 150 về Tội mua bán người và

Điều 151 về Tội mua bán người dưới 16 tuổi… Bài viết giúp NCS có thêm các quan

điểm để tham khảo khi nghiên cứu vấn đề hoàn thiện quy định của pháp luật;

của tác giả vẫn giữ được tính cấp thiết cho đến thời điểm hiện tại; do đó, bài viết

này sẽ cung cấp thêm những gợi ý hữu ích cho nghiên cứu sinh về việc hoàn thiện

các quy định liên quan đến tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe con người..

24

1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

1.2.1. Những công trình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm tính

mạng của con người.

- Sách chuyên khảo “Intention in Law and Philosophy” (tạm dịch: Lỗi cố ý trong

luật và triết học) trong đó có 01 chương “Intention in the law of murder” (tạm dich:

Lỗi cố ý trong luật về tội giết người) của tác giả Mason, A. được nhà xuất bản

Routledge xuất bản lần đầu năm 2001, tái bản năm 2020. Trong chương này, tác giả

quan tâm đến sự nhầm lẫn xung quanh quy định của luật về cố ý (intention), đến

phạm vi trạng thái tinh thần mà hình thành nên các yếu tố của nguyên tắc pháp lý trong

luật hình sự, đặc biệt là liên quan đến tội giết người. Tác giả cho rằng việc xác định

cách tiếp cận của luật hình sự đối với lỗi cố ý trong tội giết người rất phức tạp bởi các

tình huống mà luật đề cập về cố ý và các yếu tố chủ quan đã vượt ra khỏi quan niệm

truyền thống của thông luật. Trong trường hợp xác định TNHS của nhiều người tham

gia phạm tội, một người có thể phải chịu TNHS về tội giết người, nếu người cùng

phạm tội thực hiện tội giết người một cách cố ý, mặc dù việc giết người này có thể vượt

ra ngoài mục đích mà các bên đã lên kế hoạch trước đó [258, p.107-127];

- Luận án tiến sĩ “Преступления против жизни: теоретико-прикладные

проблемы и доктринальная модель уголовного закона” (tạm dịch “Tội phạm

xâm phạm tính mạng: các vấn đề lý luận và mô hình PLHS”) của tác giả Бабичев,

А. Г. được bảo vệ vào năm 2019. Trong luận án này tác giả đã phân tích các tiền đề

về mặt nhận thức liên quan đến sự phát triển của luật hình sự liên bang Nga về trách

nhiệm và hình phạt đối với tội phạm xâm phạm tính mạng; phân tích các tiêu chuẩn

mà nhà làm luật đặt ra khi quy định trách nhiệm đối với tội giết người và các hành

vi xâm phạm tính mạng khác trong luật hình sự hiện hành của Liên bang Nga; phân

tích định nghĩa lập pháp về khái niệm tội giết người, các dấu hiệu của tội giết người;

đánh giá về mặt pháp lý cấu thành tội phạm tội giết người và phân biệt tội phạm này

với các loại tội phạm liên quan khác. Thông qua việc phân tích lý luận và các vụ

việc thực tế, tác giả xây dựng mô hình học thuyết về luật hình sự của Liên bang Nga

trong lĩnh vực phòng, chống tội phạm xâm phạm tính mạng [264];

- Bài viết tạp chí “The Corpus Delicti of Murder” (tạm dịch: Cấu thành tội phạm

của tội giết người) của tác giả Perkins, R. M. được xuất bản vào năm 1962. Công

trình này nghiên cứu thực tiễn về việc thiết lập tình tiết tội phạm giết người, cả

25

trong trường hợp không tìm thấy người chết và trường hợp tìm thấy người chết. Tác

giả cho rằng việc thú tội của người phạm tội là quan trọng, bao gồm cả tình huống

mà bên vô tội thừa nhận tội nhưng không thể chứng minh được. Kiểm tra lại việc

phân tích các giả thuyết của Wigmore về cấu thành tội phạm (corpus delicti) và các

vụ án thực tế, Giáo sư Perkins kết luận rằng sẽ thực tế hơn nếu thừa nhận rằng cấu

thành tội phạm của tội giết người chính là hành vi giết người và gợi ý rằng điều này

có thể đúng cho các tội phạm khác [259, p.173-195];

- Bài viết “Material Interest-Circumstantial Element of the Crime of Murder”

(tạm dịch: Lợi ích vậy chất – yếu tố quan trọng của tội phạm giết người) của các tác

giả Raducanu, R., & Cercel, C. A. được đăng trên tạp chí Rev. Stiinte Juridice năm

2010. Trong công trình này, các tác giả phân tích yếu tố vật chất như là một yếu tố

định tội danh giết người theo luật hình sự Rumani. Yếu tố này hiện diện như một

yếu tố cấu thành ở hai cấu thành tăng nặng của tội giết người và có thể dễ dẫn đến

sự nhầm lẫn khi định tội danh theo hai cấu thành này của tội giết người. Ngoài ra,

theo các tác giả sự nhầm lẫn này có thể được thấy khi định tội danh đối với tội cướp

tài sản có đi kèm với cái chết của nạn nhân mà bao gồm cả việc theo đuổi lợi ích vật

chất và mong muốn nạn nhân chết. Từ đó các tác giả cho rằng sự khác biệt giữa các

tội danh này chỉ có thể được nhận ra ở khía cạnh chủ quan, và sử dụng các tiêu chí

từ góc độ thực tiễn xét xử [260, p.56];

- Bài viết tạp chí “Offences against the Person under the Criminal Code of the

Principality of Liechtenstein” (tạm dịch: Tội phạm xâm phạm nhân thân theo BLHS

của Công quốc Liechtenstein) của các tác giả Serebrennikova, A. V., & Trefilov, A.

A. được đăng trên tạp chí Lex Russica năm 2016. Bài báo phân tích ngắn gọn hệ

thống các quy định Phần tội phạm của BLHS của Công quốc Liechtenstein 1987 và

xem xét những nét chính của nó. Bài viết nhấn mạnh rằng hệ thống của phần các tội

phạm của BLHS Liechtenstein, cũng như hầu hết các BLHS hiện đại, được xây dựng

trên cơ sở các quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ. Bài viết cũng phân tích về các vấn đề

liên quan đến TNHS theo BLHS của Công quốc Liechtenstein đối với các tội phạm

xâm phạm con người: tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khỏe, xâm phạm cuộc

sống tương lai, xâm phạm tự do, danh dự và các quyền riêng tư của con người. Các tác

giả chỉ ra rằng trong BLHS của Liechtenstein phân biệt giữa "giết người nghiêm trọng"

và "giết người" và các trường hợp khác. Vì tội giết người có mức hình phạt cao nhất

26

lên đến tù chung thân, do đó nhà lập pháp Liechtenstein không cho rằng cần phải có

thêm các cấu thành tăng nặng của tội giết người [262, p.113-124];

- Bài viết tạp chí “Анализ преступлений против жизни по уголовному

законодательству России и Германии” (tạm dịch: Phân tích tội phạm xâm phạm

tính mạng theo luật hình sự Nga và Đức) của tác giả Волкова, О. В. được đăng tải

vào năm 2017. Trong bài viết tác giả phân tích so sánh các tội danh xâm phạm tính

mạng theo luật hình sự Nga và Đức. Tác giả đi đến kết luận rằng hệ thống các tội

xâm phạm tính mạng tại Đức nói chung vẫn giữ nguyên các loại điều luật cổ điển của

luật hình sự, nhưng đồng thời cũng có tính đặc thù nhất định. Một trong những điểm

thú vị, theo tác giả là kỹ thuật pháp lý của các nhà lập pháp hình sự Đức khi xây dựng

cấu thành tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khỏe, cũng như việc nhà lập pháp Đức

tách ra thành các cấu thành độc lập các tội danh như tước đoạt mạng sống theo yêu cầu

của nạn nhân (euthanasia), tra tấn người được giám hộ v.v…[265];

- Bài viết “The Knowledge and Caution (Awareness) in Mens Rea Element for

Murder in the Law of Iran and USA” (tạm dịch: Nhận thức và ý thức trong yếu tố

tinh thần của tội giết người theo luật của Iran và Hoa Kỳ) của các tác giả Kalantari,

K., Rezaii, R., & Moslehi, J., được xuất bản năm 2017. Trong bài viết, các tác giả

đề cập rằng trong luật của Iran, cơ quan lập pháp đã ghi nhận “ý thức và nhận thức”

là tiêu chí của yếu tố tinh thần (chủ quan) trong tội giết người. Nếu thiếu một trong

các yếu tố này thì hành vi phạm tội giết người không được xác lập và do đó, cấu

thành tội khác như giết người do sơ suất và (hoặc) ngộ sát. Các tác giả cho rằng,

theo pháp luật của Hoa Kỳ, nhận thức của người thực hiện tội phạm về khả năng

xảy ra tội phạm giết người và đối tượng của tội phạm là cần thiết phải có trong yếu

tố chủ quan (mens rea), những sơ suất (cẩu thả) nghiêm trọng của người phạm tội

trong hoàn cảnh, tình huống cụ thể và hậu quả có thể xảy ra của hành vi dẫn đến

người phạm tội bị kết tội giết người. Từ đó các tác giả kết luận, yếu tố chủ quan

(mens rea) cần thiết để xác định hành vi giết người ở Hoa Kỳ được quy định rộng

hơn Iran bởi vì ngoài chủ ý hoặc nhận thức được hành vi vi phạm và khả năng xảy

ra giết người, thì trong yếu tố chủ quan còn đề cập tới việc sơ suất (cẩu thả) nghiêm

trọng [255];

- Bài viết tạp chí “Murder: A Critical Analysis of the Common Law Definition”

(tạm dịch: Giết người: Phân tích định nghĩa trong thông luật) của các tác giả

27

Hossain, M. B., & Rahi, S. T. được xuất bản năm 2018. Theo các tác giả, Luật Hình

sự của Anh đưa ra một loạt các tội danh bảo vệ tính mạng con người bằng cách cấm

giết người trái pháp luật. Thuật ngữ chung "giết người" bao gồm các tội danh như

giết người, ngộ sát và gây chết người do lái xe nguy hiểm. Điểm chung của tất cả

các tội này là hành vi tước đoạt tính mạng trái pháp luật. Sự khác biệt của các tội

này, theo các tác giả, là trạng thái tinh thần của người phạm tội. Từ đó các tác giả

phân tích định nghĩa trong thông luật về tội giết người trong các vụ án mạng hình sự

khác nhau để tìm hiểu xem liệu có thể thiết lập một định nghĩa cụ thể nào hay

không. Các tác giả đi đến kết luận, mặc dù luật hình sự có nhiều ngoại lệ, nhưng

không có định nghĩa luật chung cố định nào về tội giết người đồng thời đặt ra câu

hỏi liệu cơ quan lập pháp có nên xem xét lại các loại hình giết người hay không và

cơ quan tư pháp xem xét lại một số định nghĩa liên quan tới yếu tố chủ quan (mens

rea) hay không [254, p.460];

- Bài viết tạp chí “Характеристика преступлений против жизни и здоровья

человека по законодательству зарубежных стран” (tạm dịch: Đặc điểm tội

phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ con người theo luật các nước trên thế giới)

của tác giả Васильева, К. Г. xuất bản năm 2018. Trong bài viết này tác giả phân

tích các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe con người theo luật pháp của một số

nước trên thế giới, cụ thể như Anh, Đức, Pháp, Mỹ. Tác giả đi sâu vào phân tích các

đặc điểm của tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của con người theo quy định của

từng nước, so sánh sự khác biệt trong quy định về tội giết người, đồng thời đưa ra

các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự liên bang Nga đối với các tội xâm phạm

tính mạng, sức khoẻ [266, p.165-168].

1.2.2. Những công trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự

đối với các tội xâm phạm tính mạng của con người

- Sách chuyên khảo “Преступления против жизни и здоровья. Закон и

правоприменительная практика” (tạm dịch: Tội phạm xâm phạm tính mạng và

sức khoẻ. Luật và thực tiễn áp dụng) của tác giả Борзенков, Г. Н. được xuất bản

năm 2009. Cuốn sách đề cập về các vấn đề định tội danh các tội xâm phạm tính

mạng và sức khỏe theo BLHS của Liên bang Nga. Tác phẩm được viết dựa trên cơ

sở chọn lọc và phân tích kỹ lưỡng các tư liệu từ thực tiễn tư pháp. Tác giả chú trọng

phân tích về việc định tội danh đối với các tội phạm phổ biến và những vấn đề gây

28

khó khăn trong thực tiễn xét xử. Các vấn đề được đề cập bao gồm: "Các tội xâm phạm

tính mạng, sức khoẻ trong hệ thống các tội phạm xâm hại nhân thân", "Đặc điểm chung

và phân loại tội phạm xâm hại tính mạng", "Khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của

tội giết người. Cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu thành giảm nhẹ của tội giết

người", "Các tội phạm khác xâm phạm tính mạng", "Các tội phạm xâm phạm sức

khỏe", v.v… Dựa trên thực tiễn xét xử, tác giả đánh giá sự phù hợp của các quyết định

(định tội danh) của các cơ quan có thẩm quyền với quy định của pháp luật từ đó chỉ ra

những hạn chế và đề xuất các giải pháp trong thực tiễn áp dụng [271];

- Bài viết tạp chí “Проблемы квалификации преступлений по признаку

субъективной стороны (на примере отдельных преступлений против жизни)”

(tạm dịch: Vấn đề định tội danh tội phạm theo dấu hiệu chủ quan (trường hợp một

số tội xâm phạm tính mạng) của tác giả Лебедев, М. В. được xuất bản năm 2016.

Bài viết xem xét những vấn đề thực tế nảy sinh trong việc định tội danh đối với tội

phạm xâm phạm tính mạng, cụ thể là trên cơ sở mặt chủ quan của tội phạm. Thông

qua các ví dụ từ thực tiễn tư pháp được phân tích, tác giả hướng tới việc nghiên cứu

những sai sót trong quá trình định tội danh đối với loại tội phạm này. Tác giả đi đến

kết luận rằng vấn đề định tội danh trên cơ sở mặt chủ quan là cấp thiết vì có rất nhiều

các công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này cũng như nhiều vụ án hình sự có liên

quan. Khi định tội danh cần phải xác định và phân biệt được tất cả các dấu hiệu mặt

chủ quan của tội phạm xâm phạm tính mạng. Từ đó tác giả đưa ra các quy tắc cần phải

tuân theo khi định tội danh các tội phạm này dựa trên mặt chủ quan [267];

- Bài viết tạp chí “Legal Problems of Using ‘Extremist Motives’ in Crimes

Against Life and Health” (tạm dịch: Các vấn đề pháp lý của việc áp dụng “động cơ

cực đoan” trong các tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ) của các tác giả

Gostkova, D., Kostyuk, M., Kunts, E. đăng trên tạp chí Journal of Advanced

Research in Law and Economics năm 2018. Bài viết phân tích nhiều khía cạnh khác

nhau của việc áp dụng “từ động cơ thù hận hoặc thù hận chính trị, ý thức hệ, chủng

tộc, quốc gia hoặc tôn giáo hoặc từ động cơ thù hận hoặc thù địch đối với một nhóm

xã hội” trong lý luận luật hình sự Nga và thực tiễn thi hành pháp luật. Mục tiêu

nghiên cứu của các tác giả là xây dựng các đề xuất hoàn thiện yếu tố định tội và các

khuyến nghị áp dụng yếu tố này trong các tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe theo

BLHS Liên bang Nga. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng hiếm khi nội dung về “động cơ

29

cực đoan” của tội xâm phạm tính mạng và sức khỏe được thảo luận. Các khái niệm

về hận thù và thù địch không phải là hai phạm trù giống hệt nhau, và chúng không

nên được sử dụng đồng thời trong thực tiễn áp dụng pháp luật liên quan đến một và

cùng một hành vi. Các tác giả lý giải vì người phạm tội có thể hành động với mục

đích kích động thù địch nhưng không phải trải qua cảm giác thù hận. Từ đó, các tác

giả đưa ra các kiến nghị sửa đổi quy định PLHS có liên quan [253, p.949-955];

- Bài viết tạp chí “Theory Of Application Of Criminal Law Considerations On

The Legal Analysis Of The Content Of Crime Against The Person In The Crime

Code Of The Republic Of Uzbekistan” (tạm dịch: Lý luận về áp dụng PLHS trong

phân tích pháp lý đối với nội dung của tội phạm xâm phạm con người trong BLHS

Cộng hoà Uzbekistan) của tác giả Aknazarov, A. S. O. được đăng tải trên tạp chí

The American Journal of Political Science Law and Criminology năm 2021. Trong

bài viết tác giả phân tích các yếu tố cấu thành của các tội xâm phạm tính mạng theo

BLHS Uzbekistan cũng như các đặc điểm về định tội danh đối với các tội này.

Trong bài viết tác giả nhấn mạnh khi định tội danh đối với các tội xâm phạm tính

mạng điều quan trọng là phải xác định nguyên nhân, hậu quả của tội phạm. Việc

xác định mối liên hệ nhân quả có ý nghĩa trong quá trình định tội danh đối với các

tội phạm này [248, p.53-58].

1.2.3. Những công trình nghiên cứu yêu cầu và giải pháp nâng cao chất

lượng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm

tính mạng của con người

- Sách chuyên khảo “Преступления против жизни” (tạm dịch: Tội phạm xâm

phạm tính mạng) của tác giả Бородин, С. được nhà xuất bản Litres xuất bản năm

2017. Trong công trình này, tác giả nghiên cứu các khía cạnh liên quan đến tội giết

người, vô ý làm chết người và xúi giục người khác tự sát. Tác giả phân tích việc

định tội danh các tội này cũng như các điều kiện để áp dụng đúng PLHS khi đối

chiếu giữa các dấu hiệu cấu thành tội phạm xâm phạm tính mạng theo luật định với

các dấu hiệu thực tế. Khi phân tích các dấu hiệu của mỗi hành vi xâm hại đến tính

mạng, tác giả đưa ra các khuyến nghị để hoàn thiện PLHS và thực tiễn áp dụng.

Trong công trình, một phần nội dung cũng được tác giả đặc biệt quan tâm là phân

biệt các trường hợp giết người, giết người với xúi giục tự sát cũng như phân biệt các

tội xâm phạm tính mạng với các tội phạm gây ra hậu quả chết người do vô ý. Từ

30

việc nghiên cứu các nội dung trên, tác giả đưa ra những kiến nghị sửa đổi luật hình

sự cũng như các khuyến nghị nhằm hoàn thiện thực tiễn định tội danh đối với các

tội xâm phạm tính mạng [268];

- Sách chuyên khảo “Преступления против жизни: вопросы теории,

законодательного регулирования и судебной практики” (tạm dịch: Tội phạm

xâm phạm tính mạng: vấn đề lý luận, quy định pháp luật và thực tiễn xét xử) của tác

giả Маляева được xuất bản năm 2003. Công trình đề cập đến các vấn đề về lý luận,

pháp luật thực định và thực tiễn xét xử đối với các tội xâm phạm tính mạng trong

luật hình sự liên bang Nga. Bốn trong số tám chương của cuốn sách (chương 3 - 5,

7) được dành để đề cập trực tiếp đến tội giết người - là tội phổ biến nhất trong số

các tội xâm phạm tính mạng. Trong Chương 3 tác giả xem xét vấn đề tội phạm giết

người không chỉ qua lăng kính của luật hình sự, lý thuyết và thực tiễn áp dụng nó,

mà còn trong bối cảnh những thành tựu mới nhất của khoa học tội phạm học, xã hội

học, triết học, y học và ... tôn giáo. Chương 5 tác giả phân tích những hành vi giết

người được thực hiện với tình tiết giảm nhẹ bao gồm mẹ giết con mới sinh, giết

người được thực hiện trong tình trạng say, giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ

cần thiết và vượt quá các biện pháp cần thiết để giam giữ một người phạm tội.

Chương 6 tác giả phân tích làm rõ nhiều vấn đề về tội vô ý làm chết người và xúi

giục người khác tự sát. Thông qua việc phân tích các vấn đề trên, tác giả đưa ra

nhiều đề xuất có tính khả thi để sửa đổi các quy định của luật hình sự cũng như các

đề xuất nhằm cải thiện thực tiễn áp dụng PLHS trong lĩnh vực phòng, chống tội

phạm xâm phạm tính mạng [269];

- Luận án tiến sĩ khoa học “Преступления против жизни: теоретико-

прикладные проблемы и доктринальная модель уголовного закона” (tạm dịch:

Tội phạm xâm phạm tính mạng: những vấn đề lý luận - ứng dụng và mô hình học

thuyết luật hình sự” của tác giả Бабичев А. Г., được bảo vệ năm 2019. Luận án

gồm 4 phần với 7 chương đề cập từ các vấn đề lý luận về tội phạm xâm phạm tính

mạng, định tội danh đối với tội giết người, phân tích các cấu thành tăng nặng của tội

giết người cũng như phân tích hình phạt đối với tội giết người theo BLHS Liên

bang Nga. Một trong những kết quả đáng chú ý trong công trình này là tác giả đã

xây dựng nên mô hình lý luận cho một chương của đạo luật hình sự, quy định về

TNHS đối với các tội xâm phạm tính mạng và những hành vi khác xâm phạm tính

mạng con người [264];

31

- Báo cáo của Cao uỷ pháp luật Vương quốc Anh “Partial Defences to Murder”

(tạm dịch: Bảo vệ khỏi tội phạm giết người). Báo cáo đánh giá rằng Luật về tội giết

người ở Anh và xứ Wales có một số quy tắc vẫn không thay đổi kể từ thế kỷ XVII

cho dù từ lâu người ta đã thừa nhận rằng rất cần được cải cách. Trong báo cáo,

nhóm tác giả mô tả luật hiện hành là “một mớ hỗn độn” và đề nghị xem xét lại toàn

bộ luật về tội giết người. Báo cáo đã đưa ra các khuyến nghị rằng thay vì cấu trúc

hai cấp hiện tại đối với các tội giết người (cụ thể là giết người và ngộ sát), thì nên có

một cấu trúc ba cấp: giết người cấp độ một (án chung thân bắt buộc); giết người cấp

độ hai (án chung thân tùy nghi), và ngộ sát (án chung thân tùy nghi). Báo cáo cũng

khuyến nghị các cải cách liên quan đến đồng phạm giết người, giảm nhẹ trách

nhiệm, các hành vi khiêu khích và giết trẻ em và khuyến nghị rằng Chính phủ nên

tiến hành tham vấn cộng đồng về việc liệu, và nếu có ở mức độ nào, luật pháp nên

công nhận tội giết người "nhân đạo" [257];

- Bài viết “Некоторые вопросы совершенствования норм российского

уголовного законодательства о преступлениях против жизни и здоровья

(опыт сравнительного анализа)” (tạm dịch: Một số vấn đề về hoàn thiện quy

định pháp luật hình sự Nga về các tội phạm xâm phạm tính mạng và sức khoẻ (kinh

nghiệm dựa trên phân tích so sánh) của các tác giả Михайлова И. А., Максименко

А. В., & Числов А. И. được xuất bản năm 2019. Bài viết phân tích, so sánh một số

điều của BLHS Liên bang Nga và BLHS Cộng hòa Belarus quy định về trách nhiệm

đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, từ đó xác định được một số vướng

mắc trong thiết kế của các quy phạm PLHS ở Nga và đánh giá khả năng sử dụng

kinh nghiệm của nước ngoài trong việc giải quyết những vấn đề này. Tham khảo

các kinh nghiệm tích cực về luật hình sự của Cộng hòa Belarus, các tác giả đề xuất

nội dung mới cho Điều 106 của BLHS Liên bang Nga, loại trừ đi những giải thích

không cụ thể về các dấu hiệu cấu thành tội phạm. Theo các tác giả, việc thuyền

trưởng tàu không trợ giúp những người gặp nạn là một hành vi của tội bỏ rơi người

khác trong tình trạng nguy hiểm. Do đó, các tác giả cho rằng là phù hợp khi bỏ Điều

270 của BLHS Liên bang Nga ra khỏi chương "Các tội xâm phạm an toàn giao

thông và hoạt động giao thông vận tải", và bổ sung Điều. 125.1 với tiêu đề và nội

dung tương tự Điều 270 BLHS vào trong Chương "Các tội xâm phạm tính mạng và

sức khỏe" [270, p.50-56];

32

- Bài viết “Issues of qualification of crimes against life and health” (tạm dịch:

Các vấn đề định tội danh đối với tội xâm phạm tính mạng và sức khoẻ) của tác giả

Artyushina O. đăng trên tạp chí Law Enforcement Review năm 2017. Dựa trên việc

nghiên cứu các công trình khoa học và các vụ án thực tế, tác giả đưa ra những vấn

đề cấp thiết trong việc đánh giá về mặt pháp lý hình sự đối với các hành vi xâm

phạm tính mạng, sức khoẻ. Tác giả đã chứng minh những hạn chế trong các quy

định pháp luật trong lĩnh vực này, cũng như chứng minh ý nghĩa quan trọng của kết

luận giám định trong việc định tội danh đối với các tội phạm này trong các trường

hợp phức tạp mà có sự giao thoa quy định giữa các điều luật. Từ đó, tác giả đưa ra

các khuyến nghị thiết thực để cải thiện pháp luật hình sự của Nga và thực tiễn áp

dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề nêu trên [249, p.135-142].

Có thể thấy, so với các công trình nghiên cứu trong nước, các công trình

nghiên cứu ở nước ngoài có những điểm giống và khác biệt nhất định:

Thứ nhất, các công trình nghiên cứu lý luận về các tội XPTMCCN ở các quốc

gia theo hệ thống thông luật và các quốc gia theo hệ thống dân luật đều tập trung

vào làm rõ các yếu tố cấu thành tội phạm; chỉ khác nhau ở quan điểm về các yếu tố

cấu thành tội phạm so với các công trình nghiên cứu ở Việt Nam.

Thứ hai, một số công trình nghiên cứu về các tội XPTMCCN ngoài việc tiếp cận

dưới góc độ pháp lý hình sự còn được tiếp cận từ góc độ những thành tựu mới nhất

của các ngành khoa học khác như tội phạm học, xã hội học, triết học, y học, tôn

giáo… Điều này phần nào cho thấy cách tiếp cận đa ngành, đa lĩnh vực trong giải

quyết các vấn đề pháp lý hình sự đối với các tội XPTMCCN trong các công trình

nghiên cứu ở nước ngoài.

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần nghiên

cứu trong luận án

1.3.1. Những vấn đề đã thống nhất

Qua nghiên cứu các công trình khoa học về các tội XPTMCCN, có thể thấy

nhiều vấn đề đã có sự thống nhất:

- Về khái niệm các tội XPTMCCN, nhìn chung các công trình đều định nghĩa

khái niệm này trên cơ sở xác định khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ

thể của tội phạm: khách thể của tội phạm là quyền sống của con người; mặt khách

quan thể hiện ở hành vi có thể là hành động hoặc không hành động; mặt chủ quan

33

thể hiện ở lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; chủ thể là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu

TNHS. Tuy nhiên, các yếu tố này thể hiện trong định nghĩa vẫn còn khái quát, chưa

thực sự rõ ràng, chưa phân biệt được các tội XPTMCCN với những tội phạm khác

cũng xâm phạm đến quyền sống của con người (các tội xâm phạm an ninh quốc gia,

các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm an toàn công cộng…), chưa phân biệt

được các tội XPTMCCN với hành vi XPTMCCN nhưng chưa đến mức cấu thành

tội phạm…;

- Về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN, nhìn chung có nhiều nội dung cơ

bản thuộc dấu hiệu pháp lý của nhóm tội phạm này được nhận thức thống nhất trong

các công trình khoa học: khách thể của tội phạm; chủ thể của tội phạm (năng lực

TNHS, tuổi chịu TNHS, dấu hiệu chủ thể đặc biệt); hình thức lỗi, động cơ, mục

đích phạm tội; hành vi khách quan, các tình tiết định khung tăng nặng hoặc giảm

nhẹ; việc phân biệt dấu hiệu pháp lý giữa các tội XPTMCCN hoặc giữa các tội

XPTMCCN với các tội phạm khác…;

- Về thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN, các công trình nghiên

cứu đều chỉ ra nhiều hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng PLHS

đối với nhóm tội phạm này như định tội danh sai hoặc không thống nhất, quyết định

hình phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội…

Về nguyên nhân dẫn đến thực trạng nêu trên, các công trình đều chỉ ra nhiều nguyên

nhân trong đó có nguyên nhân từ sự bất cập, khiếm khuyết trong quy định của

BLHS và các văn bản liên quan về nhóm tội phạm này. Điều đó cho phép nhận định

rằng quy định của PLHS hiện hành về các tội XPTMCCN thực sự còn những bất

cập, khiếm khuyết. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu cũng xác định một

trong những nguyên nhân của hạn chế trong áp dụng pháp luật đến từ năng lực,

trình độ, phẩm chất của đội ngũ tiến hành công tác tố tụng và sự phối hợp giữa các

cơ quan tiến hành tố tụng trong xử lý vụ án hình sự.

- Về nhu cầu hoàn thiện quy định của PLHS hiện hành, xuất phát từ thực tiễn nêu

trên, các công trình đều xác định cần thiết phải có các giải pháp hoàn thiện quy định của

BLHS hiện hành và các văn bản pháp lý liên quan để nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS

đối với các tội XPTMCCN. Bên cạnh đó, nhiều công trình nghiên cứu cũng kiến nghị

cần nâng cao trình độ, năng lực, phẩm chất của những người THTT và tăng cường mối

quan hệ phối hợp giữa các cơ quan THTT để nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS.

34

1.3.2. Những vấn đề còn tranh luận

Bên cạnh những vấn đề đã có sự thống nhất trong quan điểm thì giữa các công

trình nghiên cứu vẫn còn có quan điểm khác nhau về một số nội dung:

- Về xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội XPTMCCN, hiện nay có 02

quan điểm khác nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng tội lây truyền HIV cho người

khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác cũng là những tội phạm XPTMCCN vì

tính chất nguy hiểm của nó đối với tính mạng của con người; quan điểm thứ hai cho

rằng 02 tội phạm trên không phải là những tội XPTMCCN;

- Về khía cạnh pháp lý liên quan đến các tội phạm về an ninh trật tự, bên cạnh

nhiều vấn đề đã được thống nhất trong quan điểm, vẫn còn tồn tại không ít nội dung

gây tranh cãi. Cụ thể là một số tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người;

dấu hiệu hậu quả đối với tội giết con mới đẻ; tội giết người xảy ra trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh; tội giết người do hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ

chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi tiến hành bắt giữ người phạm tội; các

tội xúi giục hoặc hỗ trợ người khác tự sát; và cuối cùng là dấu hiệu lỗi trong mặt

chủ quan đối với tội làm chết người khi thực hiện công vụ…

1.3.3. Những vấn đề đặt ra cần nghiên cứu trong luận án

Căn cứ vào các nội dung đã được thống nhất cũng như những khía cạnh

chưa đồng thuận, NCS xác định rõ ràng những vấn đề cần tiếp tục khám phá

trong luận án nghiên cứu của mình..

- Về định nghĩa các tội XPTMCCN: cần nghiên cứu, xây dựng một định nghĩa

thể hiện rõ dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội XPTMCCN, phân biệt được các

tội XPTMCCN với các tội phạm khác cũng xâm phạm đến quyền sống của con

người, phân biệt được tội phạm XPTMCCN với hành vi XPTMCCN nhưng không

phải là tội phạm;

- Về xác định phạm vi các tội XPTMCCN: cần xác định một cách hợp lý và luận

giải rõ ràng, có cơ sở khoa học về phạm vi các điều luật trong Chương XIV thuộc

các tội XPTMCCN;

- Về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN: tập trung phân tích, luận giải một

cách khoa học, có căn cứ về những nội dung còn tranh luận, góp phần thống nhất

nhận thức về dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN. Phân biệt các tội xâm phạm

35

trật tự xã hội với những tội xâm hại sức khỏe con người; phân tích sự khác biệt giữa

các tội xâm phạm trật tự xã hội và một số tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia;

- Về lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam liên quan đến các tội xâm phạm trật tự

xã hội: cần tiếp tục nghiên cứu các quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam trước

khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 2015 cho đến nay, nhằm hiểu rõ hơn về quy luật

phát triển và biến động trong hệ thống pháp lý cũng như chính sách hình sự của Nhà

nước đối với nhóm tội phạm này. Điều này sẽ làm cơ sở cho những đề xuất hoàn

thiện pháp luật trong tương lai;

- Đối với thực tiễn áp dụng Bộ luật Hình sự đối với các tội xâm phạm trật tự xã

hội tại Thành phố Hồ Chí Minh: cần nghiên cứu sâu sắc để làm rõ thực tế định danh

tội danh và quyết định hình phạt đối với những vụ án này. Đồng thời, tìm kiếm

nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khó khăn và vướng mắc trong việc thực thi

pháp luật. Có sự so sánh, đối chiếu với các địa phương khác để làm rõ hạn chế trong

quy định của pháp luật là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến hạn chế trong

áp dụng pháp luật. Từ đó làm cơ sở cho việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật;

- Về vấn đề thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN: phân tích

làm rõ yêu cầu, cơ sở và ý nghĩa của việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi

XPTMCCN. Đây là nội dung quan trọng nhưng có ít công trình nghiên cứu đề cập đến;

- Về việc hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam liên quan đến các

tội phạm về ma túy: phân tích xu hướng cải cách quy định của Bộ luật này, từ đó đề

xuất những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả của Bộ luật Hình sự trong lĩnh

vực tội phạm về ma túy.;

- Về giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS đối với các tội

XPTMCCN: trên cơ sở phân tích nguyên nhân dẫn đến sai lầm, hạn chế trong áp

dụng pháp luật, kiến nghị các giải pháp cụ thể nhằm khắc phục những hạn chế, sai

lầm trong áp dụng pháp luật.

1.4. Câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu

1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu

Câu hỏi nghiên cứu tổng quát của luận án: Nhận thức lý luận, thực trạng áp

dụng PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM như thế nào và làm thế nào để nâng

cao hiệu quả áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN trong thời gian sắp tới?

36

Để trả lời câu hỏi nghiên cứu chính, luận án tập trung vào việc giải quyết các

câu hỏi cụ thể sau đây:

Thứ nhất, câu hỏi đặt ra về phương diện lý luận: Các tội XPTMCCN là gì, bao

gồm những hành vi cụ thể nào? Dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN như thế

nào? Làm sao để phân biệt các tội XPTMCCN với một số tội phạm khác cũng gây

thiệt hại cho tính mạng con người? Việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi

XPTMCCN xuất phát từ những nhu cầu nào và dựa trên cơ sở nào? Áp dụng PLHS

về các tội XPTMCCN là gì, có đặc điểm gì, nội dung ra sao, chủ thể áp dụng là ai,

áp dụng ở giai đoạn nào? Những yếu tố nào ảnh hưởng, tác động đến hiệu quả áp

dụng PLHS về các tội XPTMCCN?

Thứ hai, câu hỏi đặt ra đối với thực trạng quy định của pháp luật và thực tiễn

áp dụng pháp luật: Quy định của PLHS về các tội XPTMCCN trước khi ban hành

BLHS năm 2015 như thế nào? Quy định của BLHS năm 2015 về các tội

XPTMCCN có điểm gì tiến bộ, đã đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng, chống

tội phạm chưa? Tình hình xét xử các tội XPTMCCN tại TP.HCM giai đoạn 2010-

2023 như thế nào? Thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội

XPTMCCN tại TP.HCM đã đạt được những thành công gì, có những khó khăn,

vướng mắc, hạn chế gì? Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc, hạn chế

trong định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN?

Thứ ba, câu hỏi đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả

áp dụng: Việc hoàn thiện quy định của PLHS về các tội XPTMCCN xuất phát từ

những nhu cầu nào và phương hướng hoàn thiện ra sao? Cần sửa đổi, bổ sung

những nội dung cụ thể gì trong quy định của PLHS về các tội XPTMCCN? Cần có

những giải pháp gì để bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS về các tội

XPTMCCN trong thời gian sắp tới.

1.4.2. Giả thuyết nghiên cứu

Để trả lời cho câu hỏi nghiên cứu, NCS đưa ra giả thuyết nghiên cứu như sau:

- Nhận thức lý luận về các tội XPTMCCN hiện nay bên cạnh những nội dung đã

có sự thống nhất thì vẫn còn nhiều nội dung chưa có sự thống nhất, còn nhiều quan

điểm trái chiều về xác định phạm vi và dấu hiệu pháp lý của các tội XPTMCCN…

Vì vậy, cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện lý luận về các tội

XPTMCCN;

37

- Quy định của PLHS hiện hành về các tội XPTMCCN bên cạnh những ưu điểm,

tiến bộ thì vẫn còn những hạn chế, thiếu sót có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc áp

dụng PLHS và yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới;

- Thực tiễn về việc xác định tội danh và quyết định hình phạt liên quan đến các

tội phạm trong lĩnh vực XPTMCCN tại TP.HCM trong thời gian gần đây, mặc dù

đã đạt được một số thành tựu tích cực, nhưng vẫn tồn tại không ít những hạn chế, vi

phạm và sai sót;

- Nguồn gốc của các hạn chế, vi phạm và sai sót trong quá trình xác định tội

danh cùng quyết định hình phạt đối với các tội phạm liên quan đến XPTMCCN tại

TP.HCM thời gian qua có nguồn gốc từ nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, có

nguyên nhân từ những hạn chế, thiếu sót, bất cập trong quy định của PLHS; từ sự

yếu kém về trình độ, năng lực của một bộ phận cán bộ THTT; từ việc thiếu sự phối

hợp chặt chẽ giữa các cơ quan THTT;

- Để nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN trong thời gian tới

thì cần hoàn thiện quy định của PLHS và có giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy

định của PLHS.

38

Tiểu kết chương 1

Qua tổng quan tình hình nghiên cứu, có thể thấy:

Các hành vi XPTMCCN là những hành vi nguy hiểm cao cho xã hội, bị quy

định là tội phạm trong PLHS của các quốc gia trên thế giới. Đây cũng là nhóm hành

vi thường xuyên xảy ra trên thực tế, gây ra những thiệt hại nghiêm trọng cho xã hội.

Chính vì vậy, các tội XPTMCCN từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình

khoa học trong nước và ngoài nước, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý

luận, thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS.

Giữa các công trình nghiên cứu về các tội XPTMCCN có sự thống nhất quan

điểm về nhiều nội dung như: định nghĩa, dấu hiệu pháp lý của tội phạm; những

thuận lợi, khó khăn, hạn chế, vướng mắc trong áp dụng PLHS; yêu cầu hoàn thiện

quy định của PLHS và nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS… Bên cạnh đó, vẫn còn

nhiều vấn đề chưa thống nhất, còn có nhiều quan điểm trái chiều như: việc xác định

phạm vi các điều luật thuộc các tội XPTMCCN; một số tình tiết định khung tăng

nặng trong tội giết người; dấu hiệu hậu quả của tội giết con mới đẻ, tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, tội giết người do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, tội

xúi giục hoặc giúp người khác tự sát, tội đe dọa giết người; dấu hiệu lỗi trong mặt

chủ quan của tội làm chết người trong khi thi hành công vụ…

Với đề tài luận án về các tội XPTMCCN tại một địa bàn cụ thể (TP.HCM), nội

dung luận án không chỉ tiếp tục luận giải, góp phần làm sáng tỏ các vấn đề còn

tranh luận mà còn làm rõ thực trạng áp dụng quy định của PLHS tại địa bàn nghiên

cứu. Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh phân tích, đánh giá, chỉ rõ những mặt đạt được

và những sai lầm, hạn chế trong áp dụng pháp luật, tìm ra nguyên nhân và đề xuất

các giải pháp hoàn thiện luật cũng như bảo đảm áp dụng đúng quy định về các tội

XPTMCCN trong những chương tiếp theo của luận án.

39

Chương 2

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG

CỦA CON NGƯỜI

2.1. Khái niệm, dấu hiệu pháp lý, hình phạt của các tội xâm phạm tính

mạng của con người

2.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm tính mạng của con người

Tính mạng là mạng sống, sự sống của con người [245, tr.1593]. Sự sống của

con người chính là yếu tố thiết yếu nhất và không thể thay thế để con người có thể

tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội. Vì vậy, quyền sống là quyền tự nhiên của con

người, là cơ sở cho tất cả các quyền con người, “được coi là một thuộc tính bẩm

sinh, vốn có của con người, hoàn toàn không phải do ai quy định hay ban phát”

[216, tr.12]. Quyền sống không phải là đặc quyền dành riêng cho công dân của quốc

gia mà còn là quyền của tất cả các cá nhân khác.

Với tầm quan trọng như vậy, quyền sống của con người từ rất xa xưa đã

được pháp luật của các quốc gia trên thế giới thừa nhận và bảo vệ. Các hành vi

XPTMCCN một cách trái pháp luật sẽ bị xử lý, trừng trị. Chẳng hạn, ngay trong Bộ

luật Hammurabi của Nhà nước Lưỡng Hà cổ đại (ra đời khoảng thế kỷ thứ XVIII

trước Công nguyên, hiện được xem là bộ luật thành văn cổ xưa nhất của nhân loại)

đã có quy định về các tội XPTMCCN với hình phạt rất nghiêm khắc theo nguyên

tắc “mắt đền mắt, răng đền răng” cho dù người phạm tội với lỗi cố ý hay vô ý. Ví

dụ, Điều 299 quy định:

“Người thợ xây nào nhận xây một ngôi nhà cho người khác

Và đã xây được một ngôi nhà không chắc chắn

Ngôi nhà sụp làm chết chủ nhà

Người thợ xây đó phải chết” [145, tr.254].

Ở góc độ luật quốc tế, quyền sống của con người lần đầu tiên được ghi nhận

như một tiêu chuẩn pháp lý quốc tế trong Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền

(UDHR) năm 1948 [39, Điều 3]. Đến năm 1966, quyền sống được cụ thể hóa trong

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) [40, Điều 6]. Một số công

ước quốc tế khác về quyền con người cũng đề cập đến quyền sống như Công ước về

quyền trẻ em năm 1989 [41, Điều 6], Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt

40

chủng năm 1948 [42, Điều 2], Công ước về trấn áp và trừng trị tội ác apacthai năm

1973 [43, Điều 2] …

Nền tảng về quyền sống của người dân ở Việt Nam đã được xây dựng nền

tảng vững chãi ngay tại Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tài liệu lịch sử này đã bảo vệ quyền sống, tự do và mưu cầu hạnh phúc của tất cả

người dân thông qua việc viện dẫn Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ. Tiếp nối

truyền thống ấy, các phiên bản Hiến pháp năm 1946,1959, 1980 và 1992 đã bảo

đảm quyền sống của con người bằng cách bảo vệ quyền bất khả xâm phạm đối với

tài sản, thân thể, danh dự, nhân phẩm và quyền. Đến Hiến pháp năm 2013, quyền

sống lần đầu tiên được hiến định một cách cụ thể: “Mọi người có quyền sống. Tính

mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”

[120, Điều 19].

Để thực thi Hiến pháp, bảo vệ quyền sống của con người thì một trong

những nội dung không thể thiếu là quy định về các tội XPTMCCN trong luật hình

sự. Các tội XPTMCCN bên cạnh tính chất nguy hiểm cao do xâm phạm đến khách

thể có tầm quan trọng đặc biệt thì cũng là nhóm tội phạm thường xuyên xảy ra trên

thực tế, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu của tình hình tội phạm, để lại nhiều hệ lụy

đau thương cho xã hội. Chính vì vậy, các tội XPTMCCN là nội dung được nhiều

công trình khoa học nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Khái niệm các tội

XPTMCCN cũng đã được định nghĩa tại nhiều công trình nghiên cứu. Có thể kể đến

một số định nghĩa như sau:

Ngoài việc đưa ra khái niệm, giáo trình cũng chỉ rõ trong Bộ luật Hình sự

năm 2015 tồn tại 13 loại tội danh thuộc nhóm các tội xâm phạm tính mạng. Cụ thể

bao gồm: tội giết người theo quy định tại Điều 123; tội giết hoặc vứt bỏ trẻ sơ sinh

theo Điều 124; tội giết người trong trạng thái tâm lý bị kích thích mạnh mẽ theo

41

Điều 125; tội giết người do vượt quá giới hạn chính đáng trong tự vệ hoặc khi bắt

giữ đối tượng phạm pháp theo Điều 126; tội làm chết người trong quá trình thực

hiện công vụ theo Điều 127; tội vô ý gây ra cái chết cho người khác theo Điều 128;

tội vô ý dẫn đến cái chết do vi phạm quy định nghề nghiệp hoặc quy định quản lý

nhà nước theo Điều 129; tội bức tử theo Điều 130; tội xúi giục hoặc hỗ trợ cá nhân

khác tự sát theo Điều 131; tội không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm đến tính

mạng theo Điều 132; tội đe dọa giết người theo Điều 133; cùng với hai loại hình vi

phạm liên quan đến HIV là lây truyền HIV cho người khác (Điều 148) và cố tình

truyền HIV cho cá nhân khác (Điều 149) [207, tr.53-54]. Đáng chú ý, với hai loại

hình vi phạm tại Điều 148 và điều khoản liên quan đến điều khoản thứ tư ở điều thứ

mười chín, giáo trình cũng đã nêu rõ nguyên nhân phân loại chúng vào nhóm các

dạng vi phạm về tính mạng: “Hành vi liên quan đến hai loại hình này có khả năng

gây nguy hiểm lớn đối với tính mạng của những nguời nhiễm HIV”. [207, tr.54].

- Theo TS. Nguyễn Mai Bộ, các hành vi phạm tội xâm hại đến tính mạng và

sức khỏe của con người được quy định trong Bộ luật Hình sự (BLHS) với 14 tội

danh, từ Điều 123 đến Điều 133, cùng với các Điều 148 và 149. Những hành vi này

do những cá nhân có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, nhằm mục

đích cố ý hoặc vô tình xâm phạm quyền được bảo vệ và tôn trọng tính mạng của

người khác. [9]. Như vậy, so với định nghĩa của Trường Đại học Luật Hà Nội ở trên

thì định nghĩa này không nhắc đến hình thức thể hiện của hành vi khách quan (hành

động hay không hành động), nhưng có chỉ ra chủ thể của tội phạm phải là “người có

năng lực TNHS, đạt độ tuổi do pháp luật quy định”. Đồng thời, TS. Nguyễn Mai Bộ

cũng xác định rõ phạm vi điều luật được xác định là các tội XPTMCCN ngay trong

định nghĩa và việc xác định này cũng tương đồng với giáo trình của Trường Đại học

Luật Hà Nội: “từ Điều 123 đến Điều 133, 148 và 149 BLHS”.

- ThS. Nguyễn Thái Hà định nghĩa: “Các tội XPTMCCN là những hành vi

nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực TNHS thực hiện, có lỗi, gây tổn hại

hoặc đe dọa đến quyền sống của con người” [53, tr.14]. Như vậy, tác giả Nguyễn

Thái Hà định nghĩa các tội XPTMCCN trên cơ sở xác định tính chất nguy hiểm của

hành vi, chủ thể, dấu hiệu lỗi và khách thể của tội phạm. Tác giả cũng xác định

phạm vi các tội XPTMCCN bao gồm từ Điều 93 đến Điều 103 của BLHS năm 1999

42

(tương ứng với từ Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015), không bao gồm tội

lây truyền HIV cho người khác và Tội cố ý truyền HIV cho người khác [53, tr.14].

- ThS. Nguyễn Hùng Thanh Vũ đã trình bày một định nghĩa như sau: “Các

hành vi xâm hại đến tính mạng con người được xem là những vi phạm nghiêm trọng

đối với xã hội, được quy định trong Chương XII của Bộ luật Hình sự. Những hành

vi này do cá nhân có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện, có thể là cố ý

hoặc vô tình, gây ảnh hưởng đến quyền bất khả xâm phạm và quyền được bảo vệ

tính mạng của mỗi cá nhân” [244, tr.7]. Từ đó, tác giả Nguyễn Hùng Thanh Vũ đã

thực hiện việc "khoanh vùng" các tội xâm phạm tính mạng con người trong Chương

XII (Bộ luật Hình sự năm 1999), nhằm phân biệt với những loại tội phạm khác cũng

liên quan đến quyền sống của con người như bạo loạn, khủng bố hay cướp tài sản.

Về phạm vi các điều luật cụ thể, tác giả cũng xác định các tội XPTMCCN

được quy định từ Điều 93 đến Điều 103 của BLHS năm 1999 (tương ứng với từ

Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015), không bao gồm tội lây truyền HIV

cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác [244, tr.7].

các tội này nằm trong khuôn khổ từ Điều 123 đến Điều 133 (BLHS năm 2015),

ngoại trừ các hành vi liên quan đến việc lây truyền HIV cho người khác cùng với

hành vi cố ý lây nhiễm virus này. [214, tr.46].

- Theo ý kiến của Tiến sĩ Đỗ Đức Hồng Hà, tội phạm xâm hại tính mạng và

sức khỏe của con người được coi là hành động vi phạm pháp luật hình sự, có khả

năng gây ra thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại nghiêm trọng đối với quyền được bảo vệ

và tôn trọng tính mạng cũng như sức khỏe của mỗi cá nhân. Hành vi này thường do

43

những cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, thể hiện qua việc cố ý

gây ra tổn thương hoặc đe dọa làm tổn thương đến các mối quan hệ nhân thân, từ đó

xâm phạm đến những quyền lợi cơ bản của con người..

Bên cạnh một số định nghĩa có thể kể trên, còn nhiều tác giả, công trình

nghiên cứu mặc dù không đưa ra định nghĩa nhưng có xác định phạm vi các điều

luật cụ thể thuộc nhóm các tội XPTMCCN. Chẳng hạn như:

- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam do GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên)

xác định: “các tội xâm phạm tính mạng của con người được quy định ở 11 điều luật

(từ Điều 93 đến Điều 103) ở Chương XII của BLHS” (BLHS năm 1999), tương ứng

với từ Điều 123 đến Điều 133 của BLHS năm 2015, không bao gồm tội lây truyền

HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác [242, tr.59].

- Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017

(phần các tội phạm), do GS.TS.Nguyễn Ngọc Hòa chủ biên xác định: nhóm các tội

xâm phạm tính mạng gồm 13 tội danh được quy định tại các điều từ Điều 123 đến

Điều 133 và các điều 148, 149 BLHS [59, tr.55]. Như vậy là bao gồm cả tội lây

truyền HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác.

Qua nghiên cứu các quan điểm nêu trên về định nghĩa và xác định phạm vi

các tội XPTMCCN, có thể thấy nổi lên hai vấn đề như sau:

- Thứ nhất, về định nghĩa các tội XPTMCCN, nhìn chung các công trình

đều định nghĩa khái niệm này trên cơ sở xác định khách thể, mặt khách quan, mặt

chủ quan và chủ thể của tội phạm: khách thể của tội phạm là quyền sống của con

người; mặt khách quan thể hiện ở hành vi có thể là hành động hoặc không hành

động; mặt chủ quan thể hiện ở lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý; chủ thể là người có năng lực

TNHS và đủ tuổi chịu TNHS. Tuy nhiên, các yếu tố này thể hiện trong định nghĩa

vẫn còn khái quát, chưa thực sự rõ ràng, chưa phân biệt được các tội XPTMCCN

với những tội phạm khác cũng xâm phạm đến quyền sống của con người (các tội

xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm sở hữu, các tội xâm phạm an toàn

công cộng…), chưa phân biệt được các tội XPTMCCN với hành vi XPTMCCN

nhưng chưa đến mức CTTP (vứt bỏ con mới đẻ nhưng đứa trẻ không chết, bỏ mặc

nạn nhân trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng nhưng nạn nhân được người

khác đưa đi cấp cứu nên không chết, đe dọa giết người nhưng chưa đến mức làm

cho người bị đe dọa lo sợ rằng việc đe dọa sẽ được thực hiện…);

44

- Thứ hai, về xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội XPTMCCN, hiện

nay có 02 luồng quan điểm khác nhau: quan điểm thứ nhất cho rằng tội lây truyền

HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho người khác cũng là những tội phạm

XPTMCCN vì tính chất nguy hiểm của nó đối với tính mạng của con người; quan

điểm thứ hai cho rằng 02 tội phạm trên không phải là những tội XPTMCCN. Lý do

dẫn đến sự khác biệt trong quan điểm xuất phát từ việc Bộ luật Hình sự năm 2015

(được sửa đổi và bổ sung vào năm 2017) đã quy định một cách tổng quát về các tội

phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người tại

Chương XIV. Chương này bao gồm tổng cộng 34 điều luật (từ Điều 123 đến Điều

156), giúp làm rõ phạm vi pháp lý liên quan đến những hành vi vi phạm nghiêm

trọng đối với quyền lợi của con người..

Với hai vấn đề như trên, NCS cho rằng để có thể xây dựng một định nghĩa

rõ ràng về các tội XPTMCCN thì trước hết cần phải xác định rõ phạm vi các điều

luật thuộc nhóm các tội phạm này.

Vì định nghĩa cần phải đáp ứng hai tiêu chí: “Thứ nhất, cần phân biệt rõ

ràng đối tượng định nghĩa với các đối tượng khác về mặt nội dung; thứ hai, phải

làm rõ ràng nội dung của đối tượng được định nghĩa” [139, tr.67]. Nghiên cứu sinh

cho rằng các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe và nhân phẩm con người

(XPTMCCN) được quy định từ Điều 123 đến Điều 133 (Bộ luật Hình sự năm 2015)

không bao gồm tội lây truyền HIV cho người khác và tội cố ý truyền HIV cho

người khác vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, dựa trên logic giữa tên gọi của Chương XIV (các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm và danh dự của con người) cùng với thứ tự sắp xếp

các điều luật trong chương này cho thấy nhóm các tội XPTMCCN nằm ở vị trí đầu

tiên, tiếp theo là các tội liên quan đến xâm phạm sức khỏe và nhân phẩm. Rõ ràng

rằng Điều 134 (quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại đến sức khỏe

người khác) là điều luật đầu tiên thuộc nhóm các tội xâm phạm sức khỏe. Do đó, từ

Điều 133 trở về trước thuộc về nhóm các tội XPTMCCN;

Thứ hai, nếu coi rằng việc lây truyền HIV cho người khác cũng như việc cố

ý truyền HIV đều là những hành vi mang tính chất nguy hiểm đối với tính mạng con

người thì cũng cần xem xét đưa vào danh sách này nhiều loại hình vi phạm khác

như: hành vi cố ý gây thương tích hoặc làm tổn hại đến sức khỏe của người khác;

45

hành vi gây thương tích trong trạng thái tâm lý bị kích động mạnh; hành vi vượt quá

giới hạn phòng vệ chính đáng dẫn đến tổn hại cho sức khỏe; hay thậm chí là hành vi

hiếp dâm... bởi vì tất cả những loại hình vi phạm này đều có khả năng dẫn đến hậu

quả nghiêm trọng nhất là cái chết.;

Ba là, xét về khả năng điều trị, mặc dù trước đây bệnh HIV gây nguy hiểm

đến tính mạng con người và khả năng chữa trị rất hạn chế nhưng với những tiến bộ

của y học hiện đại trong điều trị kháng virus, những người nhiễm HIV ngày nay có

thể sống lâu và khỏe mạnh tương tự như người bình thường, đặc biệt nếu điều trị

HIV/AIDS được bắt đầu sớm và được thực hiện hàng ngày theo chỉ dẫn.

Trên cơ sở đã xác định được phạm vi cụ thể các điều luật thuộc nhóm các

tội XPTMCCN như trên, kết hợp với định nghĩa tội phạm tại Điều 8, quy định về

tuổi chịu TNHS tại Điều 12, quy định về phạm vi chịu TNHS của pháp nhân thương

mại tại Điều 76 BLHS 2015, có thể định nghĩa như sau:

Các tội XPTMCCN là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định

từ Điều 123 đến Điều 133 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do người

có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm

phạm quyền sống của con người mà theo quy định của BLHS phải bị xử lý hình sự.

2.1.2. Dấu hiệu pháp lý của các tội xâm phạm tính mạng của con người

2.1.2.1. Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng của con người

Khách thể của các tội XPTMCCN là quyền sống, một trong những quyền

cơ bản và quan trọng nhất của con người. Khách thể được phản ánh trong BLHS

qua dấu hiệu đối tượng tác động của tội phạm là “người” (Điều 123, Điều 125, Điều

126, Điều 127, Điều 128, Điều 129, Điều 133 BLHS năm 2015), “con do mình đẻ

ra” (Điều 124 BLHS năm 2015), “người lệ thuộc mình” (Điều 130 BLHS năm

2015), “người khác” (Điều 132 BLHS năm 2015) … Hay nói chung, đối tượng tác

động của tội phạm là con người.

“Con người” là đối tượng tác động của tội phạm không thể là chính người

phạm tội, mà phải là “người khác”. Nếu một người tự gây nguy hiểm cho tính mạng

của chính mình thì không bị coi là phạm tội XPTMCCN. Mặt khác, “con người” là

đối tượng tác động của tội phạm chỉ được tính từ thời điểm sinh ra cho đến khi chết

(tim ngừng đập, thần kinh ngừng hoạt động, không còn khả năng tiếp nhận những

yếu tố bảo đảm của sự sống). Sự tồn tại của con người bắt đầu từ giai đoạn thai nhi,

46

trải qua khoảng thời gian 9 tháng trong bụng mẹ, thai nhi trở thành một phần không

thể tách rời của cuộc sống người mẹ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ pháp luật quốc tế

hiện nay, khái niệm về sự bắt đầu của con người vẫn chưa được làm rõ. Hơn nữa,

xu hướng chung là chưa công nhận quyền sống cho thai nhi. Điều này được thể hiện

qua Tuyên ngôn Nhân quyền Toàn cầu năm 1948 khi nêu rõ: “Mọi người khi sinh ra

đều có quyền tự do và bình đẳng về nhân phẩm cũng như các quyền lợi.” [39, Điều

1]. Theo nhiều người, từ “sinh ra” được sử dụng để tránh gây tranh cãi về quyền

sống đối với thai nhi [46, tr.47]. Bên cạnh đó, một số văn bản pháp luật quốc tế

cũng quy định bảo vệ quyền của thai nhi.

các tội XPTMCCN, trường hợp phạm tội đối với “02 người trở lên” thường là tình

tiết định khung tăng nặng bên cạnh trường hợp phạm tội với “phụ nữ mà biết là có

thai” (điểm a, điểm c khoản 1 Điều 123; điểm a, điểm b khoản 2 Điều 127; điểm a,

điểm b khoản 2 Điều 130 BLHS năm 2015) đã cho thấy đây là 02 trường hợp khác

nhau, cho thấy “thai nhi” không đồng nhất với “con người”. Bên cạnh đó, có một số

tội phạm chỉ quy định trường hợp phạm tội đối với “02 người trở lên” là tình tiết

định khung tăng nặng mà không quy định trường hợp phạm tội đối với “phụ nữ mà

biết là có thai” (khoản 2 các Điều: 125, 126, 131, 132, 133 BLHS năm 2015). Điều

đó phần nào cho thấy trong các tội phạm đó, phạm tội đối với “02 người trở lên” có

tính chất nguy hiểm cao hơn so với phạm tội đối với “phụ nữ mà biết là có thai”. Và

điều đó cũng càng khẳng định khái niệm “thai nhi” không đồng nhất với khái niệm

“con người” trong LHS.

Trong một số CTTP còn quy định đối tượng tác động của tội phạm không

chỉ là con người đang sống mà còn phải có một số dấu hiệu đặc trưng khác như:

- Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS năm 2015): đối tượng

tác động của tội phạm phải là con do người phạm tội “đẻ ra trong 07 ngày tuổi”;

47

2.1.2.2. Mặt khách quan của các tội xâm phạm tính mạng của con người

Mặt khách quan của các tội XPTMCCN được biểu hiện như sau:

- Hành vi khách quan liên quan đến các tội phạm xâm hại tính mạng con

người thể hiện sự đa dạng phong phú về hình thức: từ hành động giết người, đe dọa

giết người, đến việc làm chết, đối xử tàn nhẫn, thường xuyên bắt nạt, ngược đãi hay

làm nhục; kích thích, dụ dỗ hoặc khuyến khích người khác tự kết liễu đời mình; tạo

điều kiện cả về vật chất lẫn tinh thần cho người khác tự chấm dứt sự sống; hay

không cứu trợ những cá nhân đang rơi vào tình huống nguy hiểm đến tính mạng...

Mặc dù các biểu hiện cụ thể có sự khác biệt rõ rệt nhưng tựu chung lại đều gây ra

tác động trái pháp luật lên con người và có khả năng dẫn đến thiệt hại trực tiếp hoặc

gián tiếp cho tính mạng của họ. Những hành vi mặc dù gây tổn thương cho con

người và ảnh hưởng tới tính mạng song không vi phạm pháp luật sẽ không được

xem là tội phạm: ví dụ như hành vi phòng vệ chính đáng hay bắt giữ kẻ phạm tội...

Về mặt hình thức, một số hành vi có thể thực hiện dưới dạng cả hành động lẫn

không hành động (như trong các trường hợp giết người, giết trẻ sơ sinh, làm chết

trong khi thi hành công vụ, vô ý làm chết do lỗi nghề nghiệp hoặc quy định hành

48

chính; bức tử), trong khi đó một số tội chỉ có thể xảy ra thông qua hình thức hành

động (chẳng hạn như giết người trong trạng thái bị kích thích mạnh mẽ, vượt quá giới

hạn phòng vệ chính đáng hoặc sử dụng mức độ cần thiết khi bắt giữ tội phạm), còn một

số trường hợp chỉ có thể diễn ra qua hình thức không hành động (ví dụ như việc không

cứu giúp những cá nhân đang gặp nguy hiểm nghiêm trọng đối với tính mạng).

- Hậu quả của những hành vi vừa nêu có thể gây ra thiệt hại trực tiếp hoặc

gián tiếp tới quyền sống của con người, thường thể hiện qua sự tổn thất về mặt thể

chất, đặc biệt là cái chết (ngoại trừ hành vi đe dọa giết người). Tuy nhiên, các

trường hợp dẫn đến tử vong chỉ được quy định trong một số điều luật hình sự như

Điều 124 (tội giết hoặc bỏ rơi trẻ sơ sinh), Điều 127 (tội làm chết người khi thực

hiện nhiệm vụ công), Điều 128 (tội vô ý làm chết người), Điều 129 (tội vô ý khiến

cái chết xảy ra do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy định hành chính), và Điều

132 (tội không cứu giúp người đang gặp nguy hiểm đến tính mạng). Đối với các cấu

thành tội phạm khác, hậu quả dẫn đến cái chết không được đề cập trong mặt khách

quan của điều luật.. Trong đó, có 02 CTTP mô tả dấu hiệu hậu quả là hành vị tự sát của

nạn nhân: Điều 130 (tội bức tử) và Điều 131 (tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát).

- Các yếu tố khác liên quan đến khía cạnh khách quan như công cụ, phương

tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian và địa điểm phạm tội... nhìn chung không

phải là những yếu tố được quy định trong khía cạnh khách quan của các cấu thành

tội phạm về xâm phạm tính mạng con người. Tuy nhiên, hoàn cảnh thực hiện hành

vi phạm tội lại là một dấu hiệu được đề cập trong khía cạnh khách quan của một số

tội danh cụ thể, chẳng hạn như “hoàn cảnh khách quan đặc biệt” theo quy định tại

Điều 124 (tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ); hoàn cảnh mà nạn nhân có hành vi trái

pháp luật nghiêm trọng đối với bản thân hoặc người thân thích; tình trạng tinh thần

bị kích động mạnh mẽ theo Điều 125 (tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh); bối cảnh phải phòng vệ do bị tấn công hoặc khi bắt giữ người

phạm tội theo Điều 126 (tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội); hoàn cảnh thực thi công

vụ theo Điều 127 (tội làm chết người trong khi thi hành công vụ); và hoàn cảnh

“thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng” mà có khả

năng cứu giúp theo Điều 132 (tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng

nguy hiểm đến tính mạng). Bên cạnh đó, dấu hiệu phương pháp, thủ đoạn phạm tội

49

mặc dù không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành cơ bản nhưng là dấu

hiệu được mô tả trong cấu thành tăng nặng của Điều 123 (tội giết người): “thực hiện tội

phạm một cách man rợ”, “bằng cách lợi dụng nghề nghiệp”, “bằng phương pháp có

khả năng làm chết nhiều người” (các điểm i, k, l khoản 1 Điều 123 BLHS 2015).

Phân tích mặt khách quan của một số tội phạm cụ thể thấy rằng có nhiều

điểm cần lưu ý:

- Mặt khách quan của tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ:

+ Mặt khách quan của hành vi giết hại trẻ sơ sinh: Đây là một tình huống

giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc thù trong tội ác giết người [207, tr.68]. Do đó,

loại tội này mang những đặc điểm pháp lý chung của tội giết người và các đặc điểm

pháp lý riêng biệt.. Theo đó, mặt khách quan của tội phạm này tương tự mặt khách

quan của tội giết người và có thêm dấu hiệu hoàn cảnh phạm tội: chủ thể còn trong

trạng thái mới sinh con; tâm, sinh lý không bình thường và chịu “ảnh hưởng nặng

nề của tư tưởng lạc hậu hoặc trong hoàn cảnh khách quan đặc biệt”.

+ Khía cạnh khách quan của tội vứt bỏ trẻ sơ sinh: Hành động khách quan

liên quan đến tội phạm này là việc bỏ rơi trẻ sơ sinh (hành vi của người mẹ khi để

đứa trẻ ở một nơi không có sự chăm sóc của mình).Hậu quả “đứa trẻ chết” là dấu

hiệu bắt buộc phải có của tội phạm này. Nếu không có hậu quả “đứa trẻ chết” thì

50

người mẹ có hành vi vứt bỏ đứa trẻ không phạm tội này. Hoàn cảnh phạm tội cũng

là dấu hiệu bắt buộc phải có như tội giết con mới đẻ.

Theo đó, mặt khách quan của tội phạm này tương tự mặt khách quan của tội

giết người và có thêm dấu hiệu hoàn cảnh phạm tội: phạm tội trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh do nạn nhân đã có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng đối

với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội. Hành động vi

phạm pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân cần phải liên quan trực tiếp đến trạng

thái tâm lý bị kích thích mạnh mẽ của đối tượng thực hiện tội phạm.

- Khía cạnh khách quan của tội danh làm chết người trong khi thi hành

công vụ: Hành vi khách quan được xác định là việc sử dụng vũ lực (tác động vật

chất đến cơ thể của nạn nhân). Nếu như hành vi khách quan của tội giết người do

vượt quá mức cần thiết trong trường hợp bắt giữ người phạm tội được xem là hành

vi sử dụng vũ lực trong những tình huống được pháp luật cho phép (mặc dù đã thực

hiện vượt quá giới hạn cần thiết), thì hành vi khách quan của tội làm chết người

trong khi thực hiện công vụ lại là việc dùng vũ lực ngoài các tình huống mà pháp

luật cho phép. Dấu hiệu hậu quả dẫn đến cái chết là một đặc điểm không thể thiếu

của loại tội phạm này. Nói một cách khác, nếu như hành vi dùng vũ lực ở ngoài

51

những trường hợp pháp luật cho phép không gây ra hậu quả nghiêm trọng đến mức

dẫn đến cái chết, thì sẽ không cấu thành tội danh này. Bối cảnh phạm tội cũng là

một yếu tố đặc trưng, bắt buộc phải có đối với loại hình tội phạm này: đó là phạm

tội "trong khi thi hành công vụ". Nếu sự kiện làm chết người không liên quan gì đến

nhiệm vụ đang thực hiện thì sẽ không được coi là làm chết người trong khi thi hành

công vụ.

- Khía cạnh khách quan của tội vô ý làm chết người: Hành vi khách quan

đối với loại hình tội phạm này chính là việc vi phạm các quy định về đảm bảo an

toàn tính mạng và sức khỏe con người. Những quy định này có thể đã được hệ

thống hóa hoặc chỉ đơn giản là những quy chuẩn ứng xử thông thường mà mọi cá

nhân đều biết và thừa nhận (cần lưu ý rằng một số hành vi xâm hại các quy định an

toàn trong một số lĩnh vực nhất định có thể bị coi là hình sự theo những điều luật

riêng biệt khác nhau: các hành vi vi phạm quy...

tắc an toàn giao thông đường bộ có thể phạm tội tại Điều 260 BLHS năm 2015,

hành vi vi phạm quy tắc an toàn lao động có thể phạm tội tại Điều 295 BLHS năm

2015…). Hậu quả “chết người” là dấu hiệu bắt buộc phải có. Người có hành vi vi

phạm quy tắc an toàn chỉ phải chịu TNHS về tội vô ý làm chết người nếu hành vi vi

phạm của họ đã dẫn đến hậu quả chết người.

- Mặt khách quan của hành vi vô ý gây ra cái chết cho người khác do vi

phạm quy định nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính: Đây là một trường hợp

đặc thù thuộc về tội danh vô ý làm chết người. Do đó, mặt khách quan của hành vi

này cũng tương tự như mặt khách quan trong các vụ án vô ý làm chết người nói

chung. Sự tương đồng này nhấn mạnh tính chất nghiêm trọng và hệ quả của các

hành vi vi phạm quy định trong lĩnh vực chuyên môn hoặc pháp luật.. Điểm đặc thù

thể hiện ở chỗ quy tắc an toàn bị vi phạm trong trường hợp này là quy tắc nghề

nghiệp (các quy tắc an toàn trong những lĩnh vực nghề nghiệp nhất định như điện

lực, khai thác rừng…) hoặc quy tắc hành chính (các quy tắc trong quản lý hành

chính do các cơ quan hành chính quy định như quy tắc về cắt, tỉa cây xanh…). Các

quy định này được thiết lập với tính chất cụ thể và chi tiết hơn, yêu cầu các cá nhân

phải có trách nhiệm cao hơn trong việc thực hiện [207, tr.83].

52

- Khía cạnh khách quan của tội bức tử: Hành vi khách quan liên quan đến

loại tội phạm này bao gồm những hành vi đối xử tàn nhẫn (như đánh đập, bỏ đói, để

người khác chịu lạnh...), thường xuyên gây áp lực (hành xử bất công và không bình

đẳng đối với nạn nhân), ngược đãi (đối xử một cách tàn ác, khắc nghiệt và trái

ngược với các giá trị đạo đức) hoặc làm tổn hại danh dự (gây ảnh hưởng nghiêm

trọng đến nhân phẩm và uy tín của nạn nhân). Những hành vi trên chỉ cấu thành tội

bức tử khi dẫn đến hậu quả nạn nhân “tự sát”. Hay nói cách khác, hậu quả nạn nhân

có hành vi tự tước đoạt tính mạng của chính mình là dấu hiệu bắt buộc phải có của

tội phạm này. Cũng cần lưu ý rằng CTTP chỉ đòi hỏi hành vi khách quan dẫn đến

xử sự tự sát chứ không đòi hỏi hậu quả nạn nhân chết.

- Mặt khách quan của tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát: Hành vi

khách quan được xác định trong CTTP có thể là hành vi kích động, dụ dỗ, thúc đẩy

người khác tự tước đoạt tính mạng của họ hoặc hành vi tạo điều kiện về vật chất,

tinh thần cho người khác tự tước đoạt tính mạng của họ. Hậu quả nạn nhân tự sát là

dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Hay nói cách khác, chủ thể chỉ phạm tội này

khi hành vi xúi giục phải đã dẫn đến việc tự sát của người bị xúi giục; hành vi tạo

điều kiện phải đã được nạn nhân sử dụng để tự sát. Cũng tương tự như tội bức tử,

CTTP chỉ đòi hỏi nạn nhân đã tự sát mà không đòi hỏi nạn nhân phải chết.

53

2.1.2.3. Chủ thể của các tội xâm phạm tính mạng của con người

Một số cấu thành tội phạm (CTTP) đòi hỏi yếu tố chủ thể đáp ứng thêm

điều kiện đặc thù để thực hiện hành vi phạm tội. Những điều kiện này được gọi là

dấu hiệu chủ thể đặc biệt. Trong các tội phạm về tính mạng, sức khỏe con người,

bốn tội danh minh chứng điều này gồm: tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, đòi hỏi chủ

thể phải là mẹ đẻ nạn nhân (Điều 124); tội làm chết người trong khi thi hành công vụ,

quy định chủ thể là người đang thi hành nhiệm vụ (Điều 127); tội vô ý làm chết người

do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc hành chính, áp dụng cho cá nhân có nghĩa vụ

tuân thủ các quy tắc này (Điều 128); và tội bức tử, đòi hỏi chủ thể là người mà nạn

nhân phụ thuộc (Điều 130). Các điều kiện trên thiết yếu để cấu thành tội phạm.

54

2.1.2.4. Mặt chủ quan của các tội xâm phạm tính mạng của con người

Mặt chủ quan của tội phạm “là mặt bên trong của tội phạm, bao gồm các

dấu hiệu: lỗi, động cơ, mục đích” [213, tr.155].

- Về dấu hiệu lỗi:

+ Một số tội XPTMCCN luôn được thực hiện với hình thức lỗi vô ý như tội

vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc

quy tắc hành chính;

Một số hành vi phạm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm

công dân có thể là cố ý hoặc vô ý, minh chứng là tội giết người trong khi thi hành công

vụ và tội giết người. Về yếu tố động cơ phạm tội, đa phần các tội danh này không quy

định trong cấu tạo pháp lý cơ bản. Chỉ hai điều luật nêu rõ động cơ: Điều luật về tội giết

người trong khi thi hành công vụ, đòi hỏi động cơ vì lợi ích công cộng; và điều luật về tội

giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm tội, yêu

cầu động cơ phòng vệ hoặc bắt giữ. Thêm vào đó, động cơ phạm tội được xem xét trong

tình tiết tăng nặng, cụ thể là trường hợp động cơ đê tiện trong tội giết người.

- Về dấu hiệu mục đích phạm tội: Tương tự dấu hiệu động cơ phạm tội,

mục đích phạm tội nhìn chung không phải là dấu hiệu được mô tả trong cấu thành

cơ bản của các tội XPTMCCN.

55

Điều 123 (tội giết người), khoản 1, điểm g và h, nêu rõ tình tiết tăng nặng:

phạm tội nhằm che giấu tội ác khác hoặc nhằm chiếm đoạt bộ phận cơ thể nạn nhân.

Đây là dấu hiệu cấu thành tội phạm.

2.1.3. Hình phạt

Như vậy, hình phạt chính nhẹ nhất là cảnh cáo (chỉ có thể áp dụng với tội

không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng) và hình

phạt chính nặng nhất là tử hình (chỉ có thể áp dụng với tội giết người), hình phạt

chính phổ biến nhất là tù có thời hạn (có thể áp dụng với tất cả các tội danh thuộc

nhóm tội phạm XPTMCCN).

“Luật pháp quy định các hình phạt bổ sung, bao gồm: cấm đảm nhiệm chức

vụ, cấm hoạt động nghề nghiệp cụ thể, và quản chế, cấm cư trú. Điều luật nêu rõ

bốn điều khoản (khoản 4 Điều 123, khoản 3 Điều 127, khoản 3 Điều 129, khoản 4

Điều 132) liên quan đến việc cấm đảm nhiệm chức vụ hoặc hoạt động nghề nghiệp.

Ngược lại, chỉ có một điều khoản (khoản 4 Điều 123) đề cập đến quản chế và cấm

cư trú. Do đó, các hình phạt bổ sung này chỉ áp dụng đối với bốn tội danh: giết

người, gây chết người khi thi hành công vụ, vô ý gây chết người do vi phạm quy tắc

chuyên môn hoặc hành chính, và tội bỏ mặc người gặp nguy hiểm đến tính mạng..

56

2.2. Phân loại các tội xâm phạm tính mạng của con người

Bộ luật Hình sự phân loại tội phạm theo nhóm dựa trên tiêu chí nhất định.

Phân loại tội phạm về ma túy cần xét đến mức độ nguy hại đến xã hội, đặc điểm chủ

thể phạm tội, tính chất lỗi phạm tội, và thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc

phân chia này tuân thủ nguyên tắc khoa học và pháp luật.

- Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

Điều 9 BLHS năm 2015 phân loại tội phạm thành tội phạm ít nghiêm trọng,

tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm

trọng. Đối chiếu quy định tại Điều 9 với các quy định về các tội XPTMCCN từ

Điều 123 đến Điều 133, có thể thấy các tội XPTMCCN cũng có đủ 4 loại như trên.

Cụ thể, các điều luật từ 123 đến 133 có tất cả 28 điều khoản, trong đó có 01 điều

khoản quy định về trường hợp chuẩn bị phạm tội, 04 điều khoản quy định hình phạt

bổ sung, còn lại 23 điều khoản quy định về các loại tội phạm:

+ Tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có 01/23 điều khoản, chiếm gần 5%

(khoản 1 Điều 123).

- Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm.

Căn cứ vào chủ thể thực hiện tội phạm, khoa học luật hình sự phân chia tội

phạm do cá nhân thực hiện thành tội phạm được thực hiện bởi chủ thể thường (bất

kỳ ai đủ tuổi chịu TNHS và có năng lực TNHS) và tội phạm được thực hiện bởi chủ

thể đặc biệt (ngoài dấu hiệu về tuổi và năng lực TNHS, cần có thêm các dấu hiệu

khác về nghề nghiệp, quốc tịch, chức vụ, giới tính…). Các tội XPTMCCN cũng bao

gồm hai loại như trên. Cụ thể:

57

. - Căn cứ vào hình thức lỗi, các tội XPTMCCN được phân chia thành các tội

phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý (Điều 123, Điều 124, Điều 125, Điều

126, Điều 131, Điều 132, Điều 133), các tội phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi

vô ý (Điều 128, Điều 129) và các tội phạm có thể được thực hiện bởi hình thức lỗi

cố ý hoặc hình thức lỗi vô ý (Điều 127, Điều 130).

- Căn cứ vào thời điểm có thể truy cứu TNHS, các tội XPTMCCN được

phân chia thành tội phạm phải chịu TNHS ngay từ giai đoạn chuẩn bị phạm tội

(Điều 123), tội phạm phải chịu TNHS từ giai đoạn phạm tội chưa đạt (khoản 1 Điều

124, Điều 125, Điều 126) và những tội phạm chỉ phải chịu TNHS khi tội phạm hoàn

thành (khoản 2 Điều 124, Điều 127, Điều 128, Điều 129, Điều 130, Điều 131, Điều

132, Điều 133).

2.3. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với một số tội

phạm khác

2.3.1. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với các tội

xâm phạm sức khoẻ của con người

Điều 30, Bộ luật Hình sự quy định về tội phạm xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, nhân phẩm, danh dự. Các tội danh này, xét về bản chất, có những điểm tương

đồng. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chính xác trong tố tụng hình sự, việc phân biệt

các tội danh là tối quan trọng. Nhiều công trình nghiên cứu đã được tiến hành để

làm sáng tỏ vấn đề này từ nhiều góc độ khác nhau. Sự phân biệt này đóng vai trò

then chốt trong việc định tội chính xác. Vì vậy, trong phần này, NCS chỉ làm rõ

những điểm khác biệt đặc trưng, “mấu chốt” nhất, không thể lẫn lộn giữa các tội

phạm, giúp phân biệt các tội phạm này trên thực tế.

58

2.3.1.1. Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại

cho sức khỏe của người khác

Cả tội giết người và tội cố ý gây thương tích đều nhắm vào thân thể con

người, thể hiện qua hành vi phạm tội tương đồng. Khía cạnh khách quan, lỗi phạm

tội, cũng như phương thức, thủ đoạn, công cụ phạm tội đều có điểm tương giao.

Điều đáng lưu ý là cả hai đều tiềm ẩn nguy cơ gây tử vong cho nạn nhân. Sự tương

đồng này cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử..

Tuy nhiên, giữa hai tội phạm đã nêu cũng có những điểm đặc trưng không thể lẫn

lộn mà chúng ta có thể phân biệt:

Phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích dẫn đến tử vong căn cứ

vào ý thức của chủ thể về hậu quả gây ra. Trong tội giết người, hành vi phạm tội

cùng với hậu quả gây chết người đều xuất phát từ ý đồ cố ý của người thực hiện.

Ngược lại, đối với tội cố ý gây thương tích, mặc dù hành vi phạm tội là cố ý, song

hậu quả chết người lại là không lường trước, ngoài ý muốn và không được chủ thể

chấp nhận. Sự khác biệt này quyết định tính chất và mức độ nghiêm trọng của hành

vi phạm tội, từ đó dẫn đến sự khác biệt trong mức hình phạt. Việc xác định chính

xác ý thức của người phạm tội là yếu tố then chốt trong việc phân định hai tội danh

này. Việc hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự liệu của chủ thể [52, tr.146], [214,

tr.55,88], [219, tr.112].

Để xác định lỗi của chủ thể đối với hậu quả chết người đã xảy ra là lỗi cố ý

hay lỗi vô ý thì cần làm rõ: Chủ thể thực hiện hành vi có thấy trước hành vi của

mình tất yếu hoặc có thể gây ra hậu quả chết người hay không? Nếu họ không thấy

trước điều đó thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi

vô ý (khoản 2 Điều 11 BLHS năm 2015). Nếu họ thấy trước hành vi của mình là tất

yếu gây ra hậu quả chết người thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có

thể là hình thức lỗi cố ý (trực tiếp) (khoản 1, Điều 10, BLHS năm 2015). Nếu họ

thấy trước hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả chết người thì cần xem họ

mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra (nếu mong

muốn hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, nếu chấp nhận

hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý gián tiếp, nếu loại trừ khả năng

hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là vô ý vì quá tự tin).

59

60

Để xác định chủ thể thực hiện hành vi có mong muốn tước đoạt tính mạng

của nạn nhân hay không cần xem xét những tình tiết như: sự lựa chọn công cụ,

phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi; tính chất nguy hiểm của

hành vi; động cơ, mục đích thực hiện hành vi… Trong trường hợp mong muốn hậu

quả chết người xảy ra, chủ thể thường lựa chọn những công cụ, phương tiện hay

phương pháp có tính nguy hiểm cao, nhằm vào những vị trí trọng yếu trên cơ thể

nạn nhân, thực hiện hành vi với lực tác động mạnh hoặc nhiều lần liên tiếp… Chẳng

hạn, nếu chủ thể dùng dao to, sắc, nhọn, chém hoặc đâm vào những chỗ hiểm yếu

trên cơ thể nạn nhân như đầu, ngực, bụng, hoặc dùng gậy to, nặng, sắc cạnh vụt

mạnh vào đầu… thì cần xác định chủ thể mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn

nhân, trường hợp này dù nạn nhân không chết thì chủ thể vẫn phạm tội giết người

[156, tr.331].

61

2.3.1.2. Phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

62

Một luồng quan điểm khác cho rằng tội danh "giết người trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh" chỉ được xác lập khi nạn nhân tử vong. Ngược lại,

trường hợp nạn nhân bị thương tật từ 31% trở lên, người gây ra hành vi phạm tội sẽ

phải chịu trách nhiệm hình sự về tội "cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" theo Điều 135

Bộ luật Hình sự.

Luận điểm này nhấn mạnh sự khó khăn trong việc phân định hai tội danh

trên dựa trên yếu tố chủ quan, cụ thể là lỗi của người phạm tội đối với hậu quả. Do

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, người phạm tội thường không lường trước

được chính xác hậu quả hành vi của mình, dù nhận thức được tính nguy hiểm xã hội

tiềm ẩn. Họ chấp nhận rủi ro, bất kể kết cục là tử vong hay thương tích. Vì lẽ đó, sự

phân biệt chỉ có thể dựa trên dấu hiệu khách quan, cụ thể là hậu quả xảy ra. Chỉ khi

có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi phạm tội và cái chết của nạn nhân, tội danh

"giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh" mới được áp dụng..

Xuất phát từ những quan điểm như trên, chúng ta thấy rằng để có thể phân

biệt rạch ròi tội phạm tại Điều 125 với tội phạm tại Điều 135 thì vấn đề đầu tiên là

cần thống nhất nhận thức về dấu hiệu hậu quả của tội phạm tại Điều 125. Cụ thể,

cần nhận thức thống nhất về vấn đề “hậu quả chết người” có phải là dấu hiệu bắt

buộc phải có trong tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh hay

không? NCS cho rằng xét cả về mặt lý luận và thực tiễn thì “hậu quả chết người”

63

không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội giết người trong trạng thái tinh thần

bị kích động mạnh vì những lý do sau đây:

Một là, xét về lịch sử của vấn đề. Luật Hình sự năm 1985 phân loại hành vi

giết người trong cơn kích động mạnh là tội giết người (Điều 101). Điều 101, khoản

3, cụ thể hóa trường hợp phạm tội xuất phát từ trạng thái tinh thần bị kích động dữ

dội bởi hành vi phi pháp nghiêm trọng của nạn nhân nhằm vào người phạm tội hoặc

Hai là, xét về nội dung quy định của điều luật. Nghiên cứu quy định tại

Điều 125 BLHS năm 2015 thấy rằng trong mặt khách quan của CTTP chỉ quy định

hành vi khách quan mà không hề quy định dấu hiệu hậu quả chết người: “Người

nào giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp

luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người đó hoặc đối với người thân thích của

người đó, thì bị phạt…” (khoản 1 Điều 125). Ngay cả tình tiết định khung tăng nặng

64

tại khoản 2 cũng chỉ quy định “Phạm tội đối với 02 người trở lên” chứ không phải

“Phạm tội làm chết từ 02 người trở lên”. Trong khi đó, nếu so sánh với các điều luật

khác trong cùng Chương XIV, chúng ta thấy rằng những tội phạm có quy định hậu

quả là dấu hiệu bắt buộc để định tội thì trong mặt khách quan của CTTP đều mô tả

rất rõ ràng dấu hiệu hậu quả.

là có nhiều trường hợp khi rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, chủ thể thực

hiện hành vi không còn đủ bình tĩnh để nhận thức về hậu quả của hành vi, không quan

tâm hậu quả đến đâu, không thể hiện rõ mục đích phạm tội nên hậu quả của tội phạm

đến đâu họ sẽ phải chịu trách nhiệm đến đó (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Nếu xảy ra

hậu quả chết người, chủ thể thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, nếu hậu quả là gây tổn thương

cơ thể từ 31% trở lên thì chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải chịu trách nhiệm về tội

cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp, khi trạng thái

tinh thần bị kích động mạnh, bị ức chế tột đỉnh do hành vi trái pháp luật của nạn

nhân gây ra, chủ thể thực hiện hành vi cảm thấy căm ghét nạn nhân tột độ, mong

muốn tước đoạt tính mạng của nạn nhân (hình thức lỗi cố ý trực tiếp). Mong muốn

tước đoạt tính mạng của nạn nhân được thể hiện rõ thông qua hành vi sử dụng

những phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện nguy hiểm cao đối với tính

mạng của nạn nhân như dùng súng bắn vào đầu nạn nhân, dùng dao nhọn đâm liên

65

tiếp nhiều nhát vào người nạn nhân… Trong những trường hợp này, nếu vì lý do

khách quan, nạn nhân may mắn thoát chết thì chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải

chịu trách nhiệm về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở

giai đoạn phạm tội chưa đạt. Quan điểm cho rằng chỉ có thể dựa vào hậu quả để

phân biệt tội phạm tại Điều 125 với Điều 135 là không phù hợp. Hai tội phạm này

còn có sự khác biệt về mặt chủ quan và hành vi khách quan của tội phạm và “hậu

quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội phạm được quy

định tại Điều 125.

Bốn là, về thực tiễn xét xử. Đã có những vụ án phạm tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà không có dấu hiệu “hậu quả chết người”

xảy ra. Chẳng hạn như:

“Khoảng 23h ngày 29/7/2018, tại trước số nhà 26 và 41 Nguyễn D, P.

Điện B, TP. Thanh Hóa, xuất phát từ mâu thuẫn bột phát trong lúc

Dương Huy H có ý định can ngăn anh Nguyễn Bá D đánh nhau với anh

Hà Chí D, anh D lầm tưởng H là người bên phía anh D và cho rằng anh

H sẽ đánh mình nên anh D đã dùng bình xịt hơi cay xịt vào mặt H và

dùng dao nhọn lùa đâm gây thương tích cho H và gây thương tích cho

anh D bạn của H, Dương Huy H đã bức xúc, không làm chủ được ý thức,

không kiềm chế được nên đã sử dụng súng bắn đạn thể thao bắn một

phát trúng vào vùng bụng anh D làm anh D bị tràn máu-khí màng phổi,

vỡ gan hạ phân thùy II, III, thủng tá tràng, túi mật, đại tràng ngang”

[164, tr.5].

Trong vụ án này, Dương Huy H bị anh D vô cớ xịt hơi cay vào mặt, lùa

đánh và dùng dao nhọn đâm bị thương, chảy máu và bỏng rát ở mắt nên bức xúc, lại

thấy bạn mình bị anh D cầm dao đâm nên càng bức xúc hơn. Trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh, H đã dùng công cụ nguy hiểm là súng bắn đạn thể thao bắn

vào vùng bụng anh D là anh D bị tổn thương nghiêm trọng, nếu không được mọi người

đưa đi cấp cứu kịp thời khả năng tử vong là rất cao. Hội đồng xét xử đã kết luận: Hành

vi nêu trên của bị cáo Dương Huy H đã phạm vào tội “Giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh” quy định tại khoản 1 Điều 125 BLHS năm 2015[164, tr.5].

66

Vụ án thứ 2: “Khoảng hơn 22h ngày 26/12/2019 tại quán karaoke

Phương Th do mâu thuẫn cãi nhau giữa anh Nguyễn Trung H2 với anh

Tôn Long C và anh Phí Hữu T1. Trần Quang L (là bạn Nguyễn Trung

H2) vào can ngăn, bị anh Tôn Long C dùng dây thắt lưng vụt 02 phát

vào đầu gây tổn hại 12% sức khỏe, sau đó anh C tiếp tục đuổi đánh L.

Do bất ngờ bị đánh nên L nhặt được con dao ở sân dùng chém C 03 nhát

vào đầu và 01 nhát vào lưng” [165, tr.5]. C từ chối giám định thương tật.

Trong vụ án này, Tòa án cũng xác định: “Nguyên nhân phạm tội của

Trần Quang L là do hành vi của anh Tôn Long C dùng vũ lực tấn công,

gây thương tích cho bị cáo, làm bị cáo bị 02 vết thương ở đầu gây tổn

hại 12% sức khỏe. Sau đó anh C tiếp tục đuổi đánh L làm L rơi vào trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh, không kiềm chế, kiểm soát được bản thân

dẫn đến có hành động dùng dao chém vào đầu, vào lưng anh C” và kết

luận: “Hành vi phạm tội của Trần Quang L đủ căn cứ để xét xử về tội “Giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” theo khoản 1 Điều 125

BLHS là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật” [165, tr.5].

Từ những nội dung phân tích và dẫn chứng như ở phần trên, NCS cho rằng

tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh có thể được thực hiện bởi

hình thức lỗi cố ý gián tiếp hoặc hình thức lỗi cố ý trực tiếp. Trong trường hợp tội

phạm được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp, nếu “hậu quả chết người”

không xảy ra thì chủ thể thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm về tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở giai đoạn phạm tội chưa đạt.

Hay nói tóm lại, “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có ở tội

giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Và vì vậy, “hậu quả chết

người” cũng không phải là dấu hiệu duy nhất để phân biệt tội phạm tại Điều 125 với

tội phạm tại Điều 135. Mà việc phân biệt 02 tội phạm này cần căn cứ vào nhận thức

và thái độ của chủ thể đối với hành vi và hậu quả, tính chất nguy hiểm của hành vi

khách quan, công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi… như

đã trình bày ở nội dung phân biệt tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khỏe của người khác.

67

2.3.1.3. Phân biệt tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội với tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội

Điều 126 và Điều 136 Bộ luật Hình sự năm 2015, về tội giết người và tội cố

ý gây thương tích vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc bắt giữ người phạm

tội, chia sẻ những điểm tương đồng đáng kể với Điều 123 và Điều 134 cùng bộ luật.

Sự khác biệt chủ yếu nằm ở yếu tố vượt quá giới hạn cho phép trong hành vi phòng

vệ hoặc bắt giữ. Điều 126 bổ sung yếu tố này vào cấu thành tội giết người, trong khi

Điều 136 áp dụng điều kiện tương tự cho tội cố ý gây thương tích, đòi hỏi mức độ

tổn hại sức khỏe từ 31% trở lên. Như vậy, sự phân định giữa Điều 126 và Điều 136,

về bản chất, phản ánh sự tương ứng với sự phân biệt giữa Điều 123 và Điều 134.

Yếu tố then chốt "vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc mức cần thiết khi bắt

giữ" đóng vai trò quyết định trong việc phân loại tội phạm thuộc các điều khoản

này, tạo nên sự liên kết chặt chẽ giữa chúng. Sự tương đồng về cấu trúc pháp lý

giữa các điều khoản này thể hiện một hệ thống quy phạm pháp luật chặt chẽ và

logic. Sự khác biệt về mức độ hậu quả dẫn đến sự phân loại tội danh khác nhau,

song đều bắt nguồn từ hành vi vượt quá giới hạn cho phép của pháp luật. Việc phân

tích so sánh này giúp làm sáng tỏ hơn bản chất và mối quan hệ giữa các tội danh

này trong hệ thống luật hình sự. Tuy nhiên, hiện nay cũng có quan điểm cho rằng

“hậu quả chết người” là dấu hiệu bắt buộc phải có của tội phạm tại Điều 126 [207,

tr.73, tr.74]. Vì lỗi của người phạm tội chủ yếu là lỗi cố ý gián tiếp - cố ý không xác

định nên tội phạm chỉ có thể xảy ra khi nạn nhân bị chết. Nếu nạn nhân chỉ bị thương

và có tỉ lệ thương tật từ 31% trở lên thì bị truy cứu TNHS theo Điều 136 [117, tr.70].

Như vậy, dấu hiệu quan trọng để phân biệt tội phạm tại Điều 126 với tội phạm tại Điều

136 là dấu hiệu hậu quả và ý thức chủ quan của chủ thể đối với hậu quả [117, tr.195].

NCS không đồng ý với quan điểm cho rằng hậu quả chết người là dấu hiệu

bắt buộc của tội phạm tại Điều 126 vì những lý do sau đây:

Một là, xét về nội dung quy định của điều luật. Nghiên cứu quy định tại Điều

126 BLHS năm 2015 thấy rằng trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm chỉ quy

định hành vi khách quan mà không hề quy định dấu hiệu hậu quả chết người: “Người

nào giết người trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong

trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội, thì bị phạt…” (khoản

68

1 Điều 126). Ngay cả tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 2 cũng chỉ quy định

“Phạm tội đối với 02 người trở lên” chứ không phải “Phạm tội làm chết từ 02 người

trở lên”. Trong khi đó, nếu so sánh với các điều luật khác trong cùng Chương XIV,

chúng ta thấy rằng những tội phạm có quy định hậu quả là dấu hiệu bắt buộc để định

tội thì trong mặt khách quan của cấu thành tội phạm đều mô tả rất rõ ràng dấu hiệu

hậu quả. Ví dụ: tội vứt bỏ con mới đẻ quy định rõ hậu quả là “dẫn đến hậu quả đứa

trẻ chết” (khoản 2 Điều 124 BLHS năm 2015); tội làm chết người trong khi thi hành

công vụ, tội vô ý làm chết người, tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề

nghiệp hoặc quy tắc hành chính đều quy định hậu quả là “làm chết người” (khoản 1

các Điều 127, 128, 129 BLHS năm 2015) và tình tiết định khung tăng nặng cũng quy

định rõ là “làm chết 02 người trở lên” (điểm a khoản 2 Điều 127, khoản 2 Điều 128,

khoản 2 Điều 129 BLHS năm 2015)… Như vậy, có thể khẳng định trong mặt khách

quan của cấu thành tội phạm tại Điều 126 không quy định dấu hiệu “hậu quả chết

người” là dấu hiệu bắt buộc phải có để định tội.

Hai là, mặc dù có nhiều trường hợp khi bị tấn công hoặc khi đuổi bắt người

phạm tội, chủ thể thực hiện hành vi không đủ bình tĩnh để nhận thức về hậu quả của

hành vi, không quan tâm hậu quả nên hậu quả của tội phạm đến đâu họ sẽ phải chịu

trách nhiệm đến đó (hình thức lỗi cố ý gián tiếp). Nếu xảy ra hậu quả chết người,

chủ thể thực hiện hành vi phải chịu trách nhiệm về tội phạm tại Điều 126, nếu hậu

quả là gây tổn thương cơ thể từ 31% trở lên thì chủ thể thực hiện hành vi sẽ phải

chịu trách nhiệm về tội phạm tại Điều 136. Tuy nhiên, cũng có nhiều trường hợp,

khi bị tấn công, bị ức chế tột đỉnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra,

mong muốn thoát khỏi sự tấn công, muốn bắt được người phạm tội… mà chủ thể

thực hiện hành vi sử dụng những phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện

nguy hiểm cao đối với tính mạng của nạn nhân như dùng súng bắn vào đầu nạn

nhân, dùng dao nhọn đâm liên tiếp nhiều nhát vào người nạn nhân… Trong những

trường hợp này, nếu vì lý do khách quan, nạn nhân may mắn thoát chết thì chủ thể

thực hiện hành vi vẫn phải chịu trách nhiệm về tội phạm tại Điều 126.

Ba là, về thực tiễn xét xử. Đã có những vụ án phạm tội tại Điều 126 mà

không có dấu hiệu “hậu quả chết người” xảy ra.

Ví dụ: Chiều 23/5/2020 N cùng với bạn gái là Đồng Thị Như Q và một số

bạn bè ra Cát Bà chơi: Ăn nhậu, nghe nhạc và sử dụng ma túy. Q có sử dụng ma túy

nên thần kinh không ổn định có nhắn tin về cho mẹ: “Con bị bắt cóc ra Cát Bà”. Bà

69

H là mẹ Q đã gọi Nguyễn Tiến M (là người yêu cũ của Q) về việc Q bỏ đi. Sau khi

biết Q đi cùng nhóm Hải A và N thì Bà H gọi điện bảo đưa Q về. 06 giờ 00 phút,

ngày 24/5/2020 N đưa Q về bằng xe tắc-xi, vừa đến cửa nhà Q ở số 740 Lô 22 Lê

Hồng Phong thì gặp M ở đó. M túm tóc N bắt N quỳ xuống rồi dùng tay, chân đấm

đá liên tiếp vào mặt vào người N. N không dám chống cự, khi vào trong nhà, Bà H

can ngăn nhưng M vẫn đánh, tát N. N nhắn tin cho bạn là T đến đón, khoảng 09 giờ

00 phút, T nhắn tin cho N là “ra đi”, N chạy ra xe taxi chờ ở cửa, lên xe ngồi ở ghế

sau và bảo xe chạy. Lê Hoàng L là bạn của M thấy N bỏ chạy liền lấy xe máy đuổi

theo, M chạy bộ đuổi theo chặn xe taxi lại.

M kéo N từ xe taxi xuống, một tay túm tóc ấn đầu, một tay đánh liên tiếp

vào đầu, vào mặt N. L đấm vào lưng N, ghì đầu N xuống. Do bị ức chế, N rút dao

bấm từ túi đeo trước ngực đâm liên tiếp về phía M và L. M bị đâm buông tay ra,

còn L tiếp tục dùng tay chân đấm đá N, N tiếp tục đâm L rồi buông dao bỏ chạy,

sau đó bị mọi người bắt giữ.

M bị nhiều vết thương, trong đó có vết thương ngực trái thuộc vùng nguy

hiểm, nếu không cấp cứu kịp thời sẽ ảnh hưởng đến tính mạng, tỷ lệ tổn thương cơ

thể là 27%. L bị vết thương ngực trái, thấu ngực gây tràn máu, khí khoang màng

Trong vụ án này, mặc dù không có hậu quả chết người xảy ra, nhưng Hội đồng

phổi trái, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 03%. xét xử nhận định N đâm M và L, 02 người bị 02 vết thương đều vào vùng ngực trái,

vùng nguy hiểm đến tính mạng, nên căn cứ khoản 2 Điều 126; điểm s khoản 1 Điều 51;

Điều 15; Điều 57, Điều 38 BLHS năm 2015, xử phạt Nguyễn Hoàng Hải N 30 tháng tù

về tội Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng [167].

Từ những nội dung phân tích và dẫn chứng như ở phần trên, tác giả cho

rằng “hậu quả chết người” không phải là dấu hiệu bắt buộc phải có ở tội giết người

do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ

người phạm tội. Và vì vậy, “hậu quả chết người” cũng không phải là dấu hiệu duy

nhất để phân biệt tội phạm tại Điều 126 với tội phạm tại Điều 136. Mà việc phân

biệt 02 tội phạm này cũng cần dựa vào các căn cứ vào nhận thức và thái độ của chủ

thể đối với hành vi và hậu quả, tính chất nguy hiểm của hành vi khách quan, công

cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn thực hiện hành vi… như đã trình bày ở nội

dung phân biệt tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác.

70

2.3.1.4. Phân biệt tội bức tử với tội hành hạ người khác

Tội bức tử (Điều 130 BLHS năm 2015) và tội hành hạ người khác (Điều

140 BLHS năm 2015) có nhiều điểm tương đồng về dấu hiệu pháp lý: chủ thể của

tội phạm đều là người mà nạn nhân bị lệ thuộc (khoản 1 Điều 130, khoản 1 Điều

140 BLHS năm 2015). Về độ tuổi, chủ thể của tội phạm đều phải là người từ đủ 16

tuổi trở lên (Điều 12 BLHS năm 2015). Về hành vi khách quan, tội phạm tại Điều

130 và Điều 140 đều có hành vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người khác…

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tương đồng nêu trên thì giữa tội bức tử và

tội hành hạ người khác cũng có những điểm khác biệt cơ bản có thể phân biệt:

Thứ nhất, hậu quả là dấu hiệu bắt buộc phải có đối với tội phạm tại Điều

130 (tội phạm có cấu thành vật chất) trong khi đó, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt

buộc phải có đối với tội phạm tại Điều 140 (tội phạm có cấu thành hình thức). Cụ thể,

Điều 130 quy định hành vi đối xử tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi hoặc làm

nhục người lệ thuộc phải “làm người đó tự sát” thì mới cấu thành tội phạm tại điều luật

này (khoản 1 Điều 130 BLHS năm 2015). Trong khi đó, Điều 140 không quy định hậu

quả của tội phạm (khoản 1 Điều 140 BLHS năm 2015). Như vậy, nếu chủ thể có hành

vi đối xử tàn ác hoặc làm nhục người lệ thuộc mình mà dẫn đến hậu quả nạn nhân tự

sát (có thể chết hoặc không chết) thì mới có thể phạm tội tại Điều 130. Nếu cũng có

hành vi đó nhưng không dẫn đến hậu quả nạn nhân tự sát thì chỉ có thể là tội phạm tại

Điều 140 (nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 185 BLHS năm 2015);

71

2.3.2. Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng của con người với một số tội

xâm phạm an ninh quốc gia

Trong quy định của BLHS, không chỉ các tội xâm phạm tính mạng của con

người mới có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho tính mạng của con

người. Trong Chương các tội xâm phạm an ninh quốc gia (Chương XIII BLHS

2015), có một số tội phạm mà hành vi khách quan có thể gây thiệt hoại hoặc đe dọa

gây thiệt hại cho tính mạng của con người như tội bạo loạn, tội khủng bố nhằm

chống chính quyền nhân dân... Vì vậy, cần thiết phải phân biệt những tội phạm này

với các tội XPTMCCN như tội giết người, tội đe dọa giết người.

Tội bạo loạn (Điều 112 BLHS năm 2015) và tội khủng bố nhằm chống

chính quyền nhân dân (Điều 113 BLHS năm 2015) là 02 tội phạm thuộc Chương

Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, khách thể của tội phạm là sự vững mạnh của

chính quyền nhân dân [214, tr.21,23]. Tuy nhiên, với hành vi trong mặt khách quan

là “hoạt động vũ trang hoặc dùng bạo lực có tổ chức…” và “xâm phạm tính mạng”,

đe dọa xâm phạm tính mạng thì tội phạm này hoàn toàn có thể gây ra hoặc đe dọa

gây ra thiệt hại về tính mạng của con người. Lỗi của người phạm tội cũng là lỗi cố ý

(cố ý trực tiếp) [214, tr.22,27]. Chủ thể của tội phạm cũng là chủ thể thường, tức là

bất kỳ người nào có năng lực TNHS và đủ tuổi luật định. Như vậy, về mặt khách

quan, mặt chủ quan và chủ thể của những tội phạm này có nhiều điểm tương đồng

với tội giết người, tội đe dọa giết người.

72

Như vậy, người phạm tội giết người, tội đe dọa giết người có thể có nhiều

mục đích phạm tội khác nhau, trừ những mục đích phạm tội mà nếu kết hợp với hành

vi giết người sẽ cấu thành một tội khác mà BLHS đã quy định: nhằm chống chính

quyền nhân dân (Điều 112, Điều 113), nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công

chúng (Điều 299), giết người để kích động chiến tranh xâm lược (Điều 421) …

Tóm lại, mục đích nhằm chống chính quyền nhân dân là dấu hiệu cho phép

phân biệt tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia với những tội phạm khác có dấu

hiệu của mặt khách quan tương tự [214, tr.9], trong đó có một số tội xâm phạm tính

mạng của con người như tội giết người, tội đe dọa giết người…

Việc chứng minh mục đích chống chính quyền nhân dân đòi hỏi phải làm rõ

các nội dung: can phạm biết việc làm của mình là trái pháp luật, là nguy hiểm cho

an ninh quốc gia; họ biết việc làm của mình là tất nhiên hoặc có thể gây ra thiệt hại

cho lợi ích của Nhà nước Việt Nam; mặc dù nhận thức được tính nguy hiểm của

hành vi và hậu quả nhưng can phạm vẫn cố tình thực hiện hành vi. Trường hợp đối

tượng có hành vi giúp đỡ người khác hoặc cùng người khác thực hiện hành vi và

biết người đó có mục đích chống chính quyền thì vẫn coi là có mục đích chống

chính quyền. Đây là trường hợp tiếp nhận mục đích [203, tr.27].

73

Trong vụ án này, các bị cáo biết việc làm của mình là trái pháp luật, xâm

phạm quyền sống của nhiều cán bộ và người dân, gây hoang mang trong quần

chúng nhân dân, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương, làm suy yếu chính quyền

nhân dân, gây nguy hiểm cho an ninh quốc gia. Vì mục đích chống chính quyền

nhân dân, họ quyết tâm thực hiện hành vi và mong muốn gây ra thiệt hại cho lợi ích

của Nhà nước Việt Nam. Vì vậy, Tòa xác định các bị cáo trên phạm tội khủng bố

nhằm chống chính quyền nhân dân theo quy định tại Điều 113 BLHS năm 2015.

2.4. Thể chế hóa bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi xâm phạm

tính mạng của con người

2.4.1. Sự cần thiết phải thể chế hoá bằng pháp luật hình sự đối với các tội

xâm phạm tính mạng của con người

“Thể chế” là “những quy định, luật lệ của một chế độ xã hội” [245, tr.1492].

Thể chế hóa bằng PLHS là hoạt động xây dựng PLHS của Nhà nước để điều chỉnh

các quan hệ phát sinh giữa Nhà nước và người, pháp nhân thương mại phạm tội.

Thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành vi XPTMCCN là nhu cầu tất yếu của xã

hội vì những lý do sau:

- Xuất phát từ các nguyên tắc của luật hình sự. Luật hình sự hiện hành

vẫn chưa có bộ nguyên tắc thống nhất. Theo Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Hòa,

sáu nguyên tắc chủ đạo bao gồm: pháp chế, bình đẳng, nhân đạo, khách quan về

hành vi, lỗi phạm tội, và phân hóa trách nhiệm hình sự. [205, tr.22,23].

+ Luật hình sự quy định chặt chẽ mọi vấn đề liên quan đến tội phạm và hình

phạt (Điều 205, trang 23). Do đó, các hành vi gây nguy hại nghiêm trọng đến xã

hội, đặc biệt trong tội phạm xuyên quốc gia, cần được luật pháp cụ thể hóa thành tội

74

danh, với mô tả rõ ràng và hình phạt tương ứng. Mỗi tội danh phải có quy định pháp

luật minh bạch, xác định rõ ràng mức hình phạt áp dụng. Điều này đảm bảo tính

công bằng và minh bạch trong xử lý tội phạm xuyên quốc gia;

+ Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật đòi hỏi các quy định về tội phạm và

các quy định về hình phạt có giá trị như nhau đối với tất cả mọi người [205, tr.26]. Vì

vậy, những hành vi bị coi là tội phạm cần được quy định công khai, minh bạch, ổn định

trong BLHS để mọi người đều có thể biết rõ và tránh thực hiện. Quy định về tội phạm

nói chung và các tội XPTMCCN nói riêng không được lấy các đặc điểm nhân thân

không có giá trị trong việc xác định tính chất nguy hiểm của hành vi (như giới tính, dân

tộc, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội…) là cơ sở để truy cứu TNHS;

+ Nguyên tắc nhân đạo trong Luật Hình sự Việt Nam xuất phát từ việc coi

trọng giá trị nhân văn, tin tưởng vào bản chất hướng thiện, tính nhân ái, yêu thương

đồng loại của con người [213, tr.21,22]. Vì vậy, cần có quy định về hình phạt nói

chung và hình phạt đối với các tội XPTMCCN không nhằm gây đau đớn về thể xác

và xúc phạm đến nhân phẩm, danh dự của người phạm tội;

- Xuất phát từ tính chất của Luật Hình sự. “Luật hình sự Việt Nam, bộ

luật then chốt, thiết lập hệ thống quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước tối cao

ban hành. Văn bản này xác định hành vi phạm tội, mức xử phạt tương ứng, các vấn

75

đề liên quan đến thi hành án, miễn trách nhiệm hình sự và các chế tài khác. Tóm

lại, đây là nền tảng pháp lý xử lý các hành vi xâm phạm trật tự xã hội.” [241, tr.14].

Bộ luật Hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam độc quyền điều

chỉnh phạm vi tội phạm và hình phạt tương ứng (213, tr.7). Tội phạm, hay vi phạm

pháp luật hình sự, đại diện cho mức độ vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất (213,

tr.77). Các hành vi xâm phạm trật tự, an ninh xã hội nằm trong nhóm hành vi nguy

hiểm nhất, đe dọa trực tiếp đến quyền cơ bản, thiết yếu của con người. Tính chất

nguy hại của chúng không thể xem nhẹ. Đây cũng là những hành vi rất thường

xuyên xảy ra trên thực tế, gây ra nhiều thiệt hại cho xã hội. Vì vậy, như một điều tất

yếu, Luật Hình sự cần phải có quy định về các tội XPTMCCN. Tương tự, nếu như

tội phạm là vi phạm pháp luật có tính nguy hiểm cao nhất thì hình phạt cũng là biện

pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất mà một Nhà nước có thể áp dụng với công dân,

cá nhân hoặc pháp nhân. Để đấu tranh, xử lý, ngăn chặn, phòng ngừa tội phạm thì

một nội dung không thể thiếu là cần có quy định về hình phạt để giáo dục người,

pháp nhân thương mại ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống. Vì

vậy, cũng là một điều tất yếu, Luật Hình sự cần phải có quy định về hình phạt đối

với các tội XPTMCCN, đảm bảo hình phạt phải tương xứng với mức độ nguy hiểm

của tội phạm.

Luật Hình sự điều chỉnh quan hệ giữa nhà nước với cá nhân, pháp nhân

phạm tội. Điều này chỉ được áp dụng khi có hành vi phạm tội xảy ra. Đây là mối

quan hệ giữa hai chủ thể có địa vị pháp lý bất bình đẳng nên phương pháp điều

chỉnh của Luật Hình sự là phương pháp “quyền uy”. Trong mối quan hệ này, Nhà

nước có quyền buộc người phạm tội, pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu

TNHS về hành vi phạm tội mà họ đã thực hiện. Người phạm tội, pháp nhân thương

mại phạm tội phải chấp hành đầy đủ những biện pháp mà Nhà nước áp dụng đối với

họ [213, tr.9, tr.10]. Vì vậy, để tránh vấn đề lạm quyền, tùy tiện, tiêu cực trong áp

dụng PLHS thì một trong những vấn đề quan trọng là cần có khung pháp lí rõ ràng.

- Xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền con người. “Quyền con người

là khả năng thực hiện các đặc quyền tự nhiên và khách quan của con

người, với tư cách là con người và với tư cách là thành viên xã hội, được

bảo đảm bằng hệ thống chính sách, pháp luật quốc gia và các thỏa thuận

pháp lý quốc tế về các giá trị con người trong các quan hệ vật chất, văn

76

hóa, tinh thần, các nhu cầu tự do và phát triển” [152, tr.23]. “Bảo vệ các

quyền con người bằng PLHS là sự điều chỉnh đầy đủ về mặt lập pháp, sự

thực thi chính xác về mặt hành pháp và sự đảm bảo tối đa về mặt tư pháp

các quy định của ngành luật này” [19, tr.15].

2.4.2. Cơ sở của thể chế hoá bằng pháp luật hình sự đối với các hành vi

xâm phạm tính mạng của con người

Thể chế hóa bằng PLHS đối với các tội XPTMCCN dựa trên các cơ sở sau:

Chính sách hình sự thể hiện rõ nét qua chính sách xử lý tội phạm (PLHS).

PLHS, với vai trò định hướng chiến lược, tiên quyết hơn luật pháp, tạo nền tảng xây

dựng hệ thống pháp luật hình sự. Đối với tội phạm xuyên quốc gia (XPTMCCN),

77

chính sách này được cụ thể hóa qua việc xác lập tiêu chuẩn pháp lý, phân định hành

vi nguy hiểm thành tội phạm, đồng thời loại bỏ những hành vi trước đây bị coi là tội

phạm nhưng nay đã lỗi thời. Về hình phạt, chính sách thể hiện qua hai hướng chính:

hình sự hóa, tức là bổ sung hoặc tăng nặng hình phạt đối với các hành vi nguy hiểm

đã hoặc chưa bị hình sự hóa; và phi hình sự hóa, tức là bãi bỏ hoặc giảm nhẹ hình

phạt đối với những hành vi trước đây thuộc diện xử lý hình sự nhưng nay không còn

phù hợp. Như vậy, PLHS đóng vai trò then chốt, định hình chính sách hình sự, đặc

biệt đối với tội phạm XPTMCCN, phản ánh sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với

thực tiễn xã hội.

- Tình hình tội phạm XPTMCCN. Chính sách pháp luật nhà nước cần phản

ánh chính xác thực trạng kinh tế - xã hội hiện tại và tiên liệu xu hướng tương lai.

Khả năng dự báo chính xác quyết định tính khả thi của thể chế hóa chính sách thành

luật pháp. Thiếu tầm nhìn chiến lược sẽ dẫn đến sự bất cập, cản trở sự phát triển hài

hòa các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Việc xây dựng hệ thống pháp luật cần

dựa trên phân tích kỹ lưỡng, đảm bảo tính khả thi và hiệu quả. Mục tiêu tối thượng

là thúc đẩy sự tiến bộ bền vững.. Vì vậy, quy định về các tội XPTMCCN cần được

xây dựng trên cơ sở tình hình loại tội phạm này. Các tội XPTMCCN là nhóm hành

vi nguy hiểm cao cho xã hội, nếu tình hình tội phạm XPTMCCN có xu hướng ngày

càng phổ biến, tính chất nguy hiểm ngày càng cao thì quy định của Luật Hình sự

cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội

phạm: quy định tội phạm mới, quy định hình phạt mới, tăng mức hình phạt, quy

định các tình tiết tăng nặng TNHS mới…

- Thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đối với các tội

XPTMCCN. Xuất phát từ mối liên hệ, tác động biện chứng giữa xây dựng pháp luật

và thực hiện pháp luật: Xây dựng pháp luật phải bám sát thực tiễn pháp lý, thực tiễn

thực hiện pháp luật, biết được những phản ứng của xã hội đối với “sản phẩm” do

mình làm ra để tiếp tục hoàn thiện. Thực hiện pháp luật lại trở thành thực tiễn sinh

động để kiểm nghiệm chất lượng xây dựng pháp luật. Thực tiễn khởi tố, điều tra,

truy tố, xét xử, thi hành án đối với các tội XPTMCCN sẽ cho thấy những quy định

về các tội XPTMCCN đã phù hợp hay chưa, còn những bất cập gì có thể gây khó

khăn cho hoạt động định tội danh và quyết định TNHS, thi hành án. Đây là cơ sở

thực tiễn quan trọng để hoàn thiện quy định của PLHS, nâng cao hiệu quả đấu

78

tranh, phòng ngừa tội phạm. Vì vậy, việc thể chế hóa bằng PLHS đối với các hành

vi XPTMCCN phải dựa trên cơ sở thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi

hành án đối với nhóm tội phạm này.

Là nhóm hành vi thường xuyên xảy ra trên thực tế, xâm phạm đến các

quyền thiết thực nhất của con người nên các tội XPTMCCN từ lâu đã là đối tượng

nghiên cứu của nhiều công trình nghiên cứu khoa học: sách, giáo trình, bình luận khoa

học, luận án, luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học các cấp, báo cáo, bài viết tạp chí…

Các công trình nghiên cứu khoa học tiếp cận về tội phạm XPTMCCN ở nhiều góc độ

khác nhau: lý luận, thực tiễn áp dụng, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng, phòng

ngừa tội phạm… Qua đó, những sự bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy

định sẽ được phát hiện, phân tích, chỉ rõ để làm tiền đề cho những kiến nghị, giải pháp

hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt

động phòng ngừa tội phạm… Vì vậy, đây sẽ là nguồn “dữ liệu” hữu ích để tham khảo,

làm cơ sở cho hoạt động thể chế hóa bằng PLHS đối với các tội XPTMCCN.

- Kinh nghiệm thể chế hóa bằng PLHS của một số quốc gia đối với các

hành vi XPTMCCN. Nhìn dưới góc độ xây dựng pháp luật nói chung, trong điều

kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà

nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân thì nhu cầu tham khảo kinh nghiệm lập

pháp của nước ngoài là nhu cầu tất yếu. Vì phát triển nền kinh tế thị trường là kinh

nghiệm vốn có của các nước có nền kinh tế thị trường lâu đời hàng trăm năm trong

khi Việt Nam mới có khoảng thời gian không dài phát triển nền kinh tế thị trường từ

một nền kinh tế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Tương tự, việc xây dựng nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng là công việc còn nhiều điều mới mẻ mà

chúng ta cần tham khảo các nước trên thế giới. Dưới góc độ xây dựng PLHS, việc

tham khảo quy định của PLHS các nước có hệ thống pháp luật tiên tiến cũng là yêu

79

cầu khách quan. Ngay trong những bộ luật thành văn đầu tiên của các triều đại

phong kiến Việt Nam, có thể thấy sự tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp của

Trung Quốc. Việc kiểm soát, phòng ngừa tình hình tội phạm phụ thuộc vào nhiều

yếu tố, trong đó cần có sự phù hợp trong quy định của PLHS. Vì vậy, chúng ta cần

tiếp thu kinh nghiệm lập pháp hình sự của các nước phát triển, có lịch sử lập pháp

hình sự lâu đời, có sự kiểm soát và phòng ngừa tội phạm tốt như Nga, Đức, Trung

Quốc, Hoa Kỳ…

2.5. Áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của con

người và các yếu tố tác động

2.5.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự về

các tội xâm phạm tính mạng của con người

- Khái niệm:

Thực thi pháp luật bao gồm nhiều hình thái, trong đó áp dụng pháp luật là

một hoạt động đặc thù. Khác với các hình thức thực thi khác, chỉ cơ quan nhà nước

có thẩm quyền mới được thực hiện quyền hạn này. Mục tiêu tối thượng là đảm bảo

quy phạm pháp luật được tôn trọng và thực thi trong đời sống xã hội. Việc áp dụng

pháp luật diễn ra trong nhiều tình huống, đặc biệt khi có hành vi vi phạm pháp luật

đòi hỏi sự can thiệp của nhà nước bằng các biện pháp cưỡng chế.

Tội phạm, một hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng, dẫn đến việc áp

dụng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Do đó, việc áp dụng pháp luật hình sự

là một thể loại áp dụng pháp luật, được tiến hành khi xảy ra sự kiện pháp lý hình sự,

nhằm xác định và thi hành các biện pháp xử lý thích đáng.. Như vậy, chúng ta có

thể hiểu áp dụng PLHS là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức

cho các chủ thể pháp luật thực hiện những quy định của PLHS khi có sự kiện pháp

lý hình sự xảy ra và cần xác định các biện pháp TNHS (có áp dụng hay không? áp

dụng biện pháp nào? mức cụ thể…), đảm bảo các quy định của PLHS đi vào đời

80

sống thực tế. NCS cũng đồng tình với quan điểm của GS.TS. Võ Khánh Vinh khi

xác định: “áp dụng PLHS là hoạt động đưa ra quyết định về tính được quy định

trước (hoặc tính không được quy định trước) của các tình tiết thực tế đã được xác

định trong quy phạm PLHS tương ứng và về việc xác định (hoặc không xác định)

biện pháp mang tính chất pháp lý hình sự được quy định trong quy phạm đó” [239,

tr.73]. Theo đó thì áp dụng PLHS không chỉ được thực hiện khi cần truy cứu TNHS

đối với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội, mà còn được thực hiện khi cần

“làm sáng tỏ được hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm

cho xã hội không đáng kể” hoặc khi cần “làm sáng tỏ được những trường hợp loại

trừ TNHS” [239, tr.73,74].

Từ đó, có thể hiểu áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động của

cơ quan nhà nước có thẩm quyền tổ chức cho các chủ thể pháp luật thực hiện những

quy định của PLHS khi có sự kiện pháp lý hình sự về hành vi XPTMCCN xảy ra và

cần xác định các biện pháp TNHS, đảm bảo các quy định của PLHS về các tội

XPTMCCN đi vào đời sống thực tế. Áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm xâm

phạm tính mạng, thân thể con người bao hàm việc xác định tính chất cấu thành của

các yếu tố khách quan, chủ quan đã được pháp luật quy định. Quy trình này đòi hỏi

sự phân tích, đánh giá toàn diện các tình tiết khách quan, chủ quan của hành vi

phạm tội, so sánh với quy định của luật để kết luận về cấu thành tội phạm. Việc áp

dụng pháp luật còn thể hiện ở việc lựa chọn biện pháp xử lý hình sự phù hợp với

tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tuân thủ nghiêm ngặt các

nguyên tắc pháp luật. Kết luận cuối cùng phải đảm bảo tính khách quan, chính xác,

tuân thủ đúng quy định pháp luật hiện hành. Mọi quyết định đều phải có cơ sở pháp

lý vững chắc, tránh tình trạng áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, thiếu cơ sở. Áp

dụng PLHS về các tội XPTMCCN không chỉ bao gồm việc định tội danh (đưa ra sự

đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự) và quyết định hình phạt (đối

với các trường hợp chủ thể không được miễn TNHS hoặc hình phạt), mà còn bao

gồm nhiều nội dung khác như: xác định hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm

XPTMCCN nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể thì không phải là

tội phạm; xác định hành vi tuy XPTMCCN nhưng thuộc trường hợp loại trừ TNHS

(phòng vệ chính đáng, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong

nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ…); xác

81

định các vấn đề miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, giảm mức

hình phạt đã tuyên, tha tù trước thời hạn có điều kiện, hoãn chấp hành hình phạt tù,

tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, xóa án tích, áp dụng các biện pháp tư pháp…

Trong đó, hai nội dung chính của áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là định tội

danh các tội XPTMCCN và quyết định hình phạt đối với nhóm tội phạm này.

Xử phạt tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế nhà nước (XPTMCCN)

đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng. Việc lựa chọn hình phạt và mức độ nghiêm khắc tuân

thủ nghiêm ngặt quy định pháp luật, được thể hiện trong quyết định của cơ quan tư

pháp. Quyết định này dựa trên đánh giá toàn diện hành vi phạm tội, tính chất nguy

hiểm cho xã hội, tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người

phạm tội. Thẩm phán phải xem xét kỹ lưỡng các yếu tố này để đưa ra phán quyết

công minh, phù hợp với khung hình phạt luật định. Quá trình áp dụng pháp luật

hình sự là một hoạt động phức tạp, trải qua nhiều giai đoạn chặt chẽ.

. Trong đó, quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn của quá trình

đó giúp đưa luật hình sự vào đời sống, góp phần thực hiện đường lối, chính sách

hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Nghiên cứu thực tiễn quyết định hình phạt đối

82

với các tội XPTMCCN cũng có ý nghĩa quan trọng góp phần hoàn thiện quy định

của PLHS đối với nhóm tội phạm này.

- Về đặc điểm, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là một loại áp dụng

pháp luật, cũng có đầy đủ các đặc điểm của áp dụng pháp luật:

+ Thứ nhất, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động mang tính

quyền lực nhà nước.

Khác biệt với các hình thức thi hành pháp luật khác, việc áp dụng pháp luật

độc quyền thuộc thẩm quyền cơ quan nhà nước. Mỗi cơ quan, trong phạm vi quyền

hạn được luật định, thực thi các hoạt động pháp luật cụ thể. Riêng hoạt động áp

dụng pháp luật hình sự, Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra và các cơ quan

được uỷ quyền thực hiện các bước điều tra cần thiết.

Việc áp dụng pháp luật hình sự mang tính độc quyền, tuân theo ý chí nhà

nước, không phụ thuộc ý chí cá nhân bị áp dụng. Không có sự thương lượng giữa cơ

quan nhà nước (Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra...) và người bị can, bị cáo.

Các cơ quan này không hành động vì lợi ích cá nhân, mà đại diện cho toàn thể, thể

hiện uy quyền tối thượng của pháp luật quốc gia. Quyền lực nhà nước được thực thi

khách quan, công bằng và nghiêm minh.

Cũng không thể có sự thỏa thuận giữa một bên là bị can, bị cáo với một bên

là bị hại (hoặc đại diện của họ) đối với việc áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN.

Các tội XPTMCCN không thuộc những trường hợp chỉ khởi tố vụ án hình sự theo

yêu cầu của bị hại. Dù bị hại (hoặc đại diện của họ) có muốn hay không thì nhà

nước vẫn truy cứu TNHS đối với người phạm tội.

Luật pháp bắt buộc áp dụng đối với cá nhân và tổ chức liên quan. Chỉ cơ

quan nhà nước có thẩm quyền mới được ban hành văn bản pháp luật mang tính

cưỡng chế. Việc thi hành các quyết định, văn bản pháp luật đã có hiệu lực là điều

kiện tiên quyết. Nhà nước có quyền sử dụng biện pháp cưỡng chế khi cần thiết để

đảm bảo tính hiệu lực của pháp luật.

+ Thứ hai, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN được tiến hành theo trình

tự, thủ tục do pháp luật quy định;

Luật pháp quy định chặt chẽ về cơ sở pháp lý, điều kiện, trình tự, thủ tục,

quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính

(PLHS). Do tính chất nghiêm trọng và phức tạp của PLHS, hậu quả bất lợi đối với

83

người bị áp dụng là không thể xem nhẹ.. Các tội XPTMCCN xâm hại đến khách thể

có tầm quan trọng đặc biệt (quyền sống của con người) nên pháp luật quy định trách

nhiệm pháp lý đối với người phạm tội rất nghiêm khắc. Nếu áp dụng không đúng,

gây oan, sai sẽ ảnh hưởng rất nghiêm trọng, gây ra những hậu quả không thể khắc

phục cho người bị áp dụng. Vì vậy, việc giải quyết vụ án hình sự về các tội

XPTMCCN phải được tiến hành theo những quy định cụ thể của pháp luật tố tụng hình

sự. Việc thực thi pháp luật về tố tụng đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm minh các thủ tục. Bất

kỳ sự tùy tiện nào đều có thể gây ra những sai sót nghiêm trọng trong việc áp dụng

pháp luật, ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự. Do đó, các bên liên quan cần hết

sức thận trọng..

+ Thứ ba, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động cá biệt hóa

quy phạm PLHS đối với từng trường hợp cụ thể;

Áp dụng pháp luật hình sự (PLHS) cụ thể hóa các quy tắc xử sự chung

thành mệnh lệnh pháp lý dành riêng cho từng trường hợp, từng chủ thể. Khác với

văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực phổ quát, điều chỉnh rộng rãi quan hệ xã

hội, PLHS chỉ điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể phát sinh từ sự kiện pháp lý

hình sự. Quá trình áp dụng PLHS giúp các quy định về tội phạm, đặc biệt là tội

phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, thực thi trong đời sống xã hội một cách

chính xác và hiệu quả. Việc cá biệt hóa này đảm bảo tính công bằng và chính xác

của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể. Mỗi trường hợp đều được xem xét kỹ

lưỡng, đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn.

+ Thứ tư, áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN là hoạt động có tính sáng tạo.

Trong quá trình xét xử hình sự, việc áp dụng pháp luật hình sự đòi hỏi sự

nghiên cứu kỹ lưỡng, khách quan toàn bộ tình tiết vụ án. Cơ quan chức năng cần

làm rõ cấu thành tội phạm để lựa chọn và ban hành văn bản pháp luật hình sự phù

hợp, đồng thời tổ chức thực thi nghiêm chỉnh. Các quy định của pháp luật nói chung

và PLHS nói riêng mang tính khái quát cao trong khi đó thực tiễn tình hình tội

phạm XPTMCCN thì phong phú, đa dạng về hành vi, chủ thể, hậu quả, động cơ,

mục đích, hoàn cảnh, thủ đoạn… Bên cạnh đó, nhiều quy định của PLHS cũng có

tính tùy nghi, cho phép chủ thể áp dụng được lựa chọn và sáng tạo trong phạm vi

quy định của pháp luật (những trường hợp có thể được miễn TNHS, miễn hình phạt,

miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù; việc lựa chọn loại

84

và mức hình phạt…). Do đó, việc cụ thể hóa các điều khoản Luật Hành chính vào

thực tiễn đòi hỏi sự sáng tạo trong khuôn khổ pháp luật. Để đạt hiệu quả, người thực

thi pháp luật cần ý thức pháp lý sâu sắc, am hiểu đa lĩnh vực xã hội, kinh nghiệm dồi

dào, đạo đức nghề nghiệp mẫu mực và trình độ chuyên môn xuất sắc. Sự kết hợp hài

hòa các yếu tố này là then chốt đảm bảo việc thực thi Luật Hành chính hiệu quả..

2.5.2. Các yếu tố tác động đến áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm

phạm tính mạng của con người

Với sự phân tích về nội dung, đặc điểm của áp dụng PLHS về các tội

XPTMCCN như ở phần trên, có thể nhận thấy hoạt động này chịu sự tác động của rất

nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, có thể kể đến một số yếu tố chính như sau:

- Chất lượng quy phạm PLHS.

Việc thực hiện pháp luật mật thiết với quá trình hình thành hệ thống quy

phạm pháp luật. Thực thi pháp luật là khâu cuối cùng cụ thể hoá các điều khoản

pháp lý, đưa luật vào thực tiễn đời sống. Do đó, hiệu quả thi hành pháp luật phụ

thuộc trực tiếp vào chất lượng thi hành pháp luật. Muốn đạt hiệu quả cao trong việc

thực thi pháp luật, điều đầu tiên là cần có một hệ thống pháp luật hoàn thiện. Mà

quy phạm pháp luật được xem là những thành tố tạo nên pháp luật. Hệ thống quy

phạm pháp luật phải hoàn chỉnh, đồng bộ, sát thực tế, khả thi, kịp thời, dễ tiếp cận,

không làm cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế… Quy phạm pháp luật phải

được xây dựng bằng ngôn từ chính xác, phổ thông, cách diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu…

Trong lĩnh vực hình sự cũng vậy, hoạt động áp dụng PLHS chịu sự điều

chỉnh của nhiều ngành luật khác nhau (từ quá trình tiếp nhận tin báo, tố giác đến

khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án), mà trực tiếp nhất là quy định của

PLHS. “Quy phạm PLHS được hiểu là quy tắc xử sự được nhà nước ban hành và

bảo đảm thực hiện bằng cách áp dụng các biện pháp tác động mang tính chất hình

sự đối với người phạm tội” [239, tr.26]. Một đạo luật hình sự chứa đựng nhiều quy

phạm PLHS, gồm hai loại: những quy phạm pháp luật quy định các vấn đề chung

của việc xác định tội phạm và hình phạt; những quy phạm pháp luật quy định các

tội phạm cụ thể và các hình phạt được áp dụng đối với những người thực hiện các

tội phạm đó. Hiệu quả của hoạt động áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN cũng tất

yếu phụ thuộc vào chất lượng của các quy phạm pháp luật quy định các tội

XPTMCCN (từ Điều 123 đến Điều 133 BLHS năm 2015) và những quy phạm pháp

85

luật liên quan. Để hoạt động áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN đạt hiệu quả thì

quy phạm pháp luật quy định về nhóm tội phạm này phải có chất lượng tốt: phải

quy định được đầy đủ các hành vi nguy hiểm đáng kể XPTMCCN đã xảy ra trên

thực tế và có thể xảy ra trong tương lai; phải thể hiện rõ ràng các dấu hiệu của

CTTP (hành vi khách quan như thế nào? Hậu quả có phải là dấu hiệu bắt buộc phải

có hay không? Hình thức lỗi cố ý hay vô ý? Động cơ phạm tội, mục đích phạm tội

như thế nào, có phải là dấu hiệu bắt buộc phải có hay không? Chủ thể của tội phạm cần

có các điều kiện gì?…); phải phân định rạch ròi về dấu hiệu pháp lý giữa các khoản trong

cùng điều luật, giữa các tội XPTMCCN với nhau, giữa các tội XPTMCCN với các tội

phạm khác; quy định về các loại và mức hình phạt phải phù hợp với tính chất nguy hiểm

cho xã hội của hành vi; phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam đã ký kết

hoặc tham gia; phải phù hợp với xu hướng quốc tế hóa, nhân đạo hóa; ngôn ngữ được sử

dụng phải chính xác, phổ thông, dễ hiểu, nhất quán…

- Chất lượng đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS.

Áp dụng PLHS vốn dĩ luôn là hoạt động có tính chất phức tạp, phải tuân

theo những hình thức và thủ tục chặt chẽ do pháp luật quy định. Nếu thực hiện

không đúng những trình tự, thủ tục do pháp luật quy định thì có thể dẫn đến oan,

sai, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của người bị áp dụng. Mặt khác, quy

phạm PLHS dù có rõ ràng, chi tiết đến mấy cũng vẫn mang tính khái quát, không

thể liệt kê hết từng trường hợp phạm tội cụ thể. Trong khi đó, thực tiễn tình hình tội

phạm thì “muôn hình muôn vẻ”, không trường hợp nào hoàn toàn giống nhau. Các

chủ thể áp dụng PLHS phải nghiên cứu kỹ lưỡng từng trường hợp phạm tội cụ thể,

vừa phải đối chiếu quy định của pháp luật, vừa phải sáng tạo trong quá trình áp

dụng. Đặc biệt, các tội XPTMCCN là nhóm tội phạm với hành vi rất đa dạng; dễ

nhầm lẫn với những tội phạm khác; nhiều trường hợp đồng phạm phức tạp, số

lượng người tham gia phạm tội nhiều, mức độ tham gia của mỗi người khác nhau,

khó xác định hậu quả chung và mối quan hệ nhân quả với hành vi của từng người;

nhiều trường hợp khó khăn trong việc phát hiện, thu thập, củng cố chứng cứ… Vì

vậy, hiệu quả của hoạt động áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN tất yếu cũng phụ

thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS. Cán bộ áp dụng PLHS cần có đủ

cả “tâm và tầm”; cần có đủ kiến thức về pháp lý, nghiệp vụ, tri thức tổng hợp, kinh

86

nghiệm phong phú, có đạo đức nghề nghiệp, không vì các lợi ích tinh thần hoặc vật

chất mà làm sai sự thật; không quan liêu, chậm trễ, thiếu tinh thần trách nhiệm…

- Mối quan hệ phối hợp, chế ước giữa các cơ quan THTT hình sự.

Hoạt động áp dụng PLHS là quá trình phức tạp, nhiều giai đoạn với sự tham

gia của các cơ quan THTT như TAND, VKSND, CQĐT, các cơ quan được giao nhiệm

vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Mỗi cơ quan THTT tham gia vào hoạt động áp

dụng PLHS với chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng có sự liên quan chặt chẽ với nhau như

các mắt xích. Kết quả hoạt động của cơ quan này sẽ là tiền đề, cơ sở cho hoạt động của

các cơ quan khác. Vì vậy, để hoạt động áp dụng PLHS đạt hiệu quả, các cơ quan THTT

cần có mối quan hệ phối hợp chặt chẽ, thường xuyên trên cơ sở thực hiện đúng chức

năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách

nhiệm, kiểm soát lẫn nhau để tránh lạm dụng quyền lực khi thực hiện chức năng, nhiệm

vụ. Đặc biệt với tính chất phức tạp của nhiều vụ án XPTMCCN, trong khi quy định của

PLHS vẫn còn có những vướng mắc, nhận thức khác nhau dẫn đến việc áp dụng còn

khác nhau trong thực tiễn. Bên cạnh đó, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực của

đội ngũ các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán cũng khác nhau, do vậy việc phối

hợp giữa các cơ quan THTT trong áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN có ý nghĩa thực

tiễn quan trọng, góp phần giải quyết những khó khăn, vướng mắc, đảm bảo tính thống

nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật.

Bên cạnh những yếu tố trên, hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS về các tội

XPTMCCN còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như: yếu tố kinh tế - xã hội, ý

thức pháp luật của nhân dân, những điều kiện vật chất - kỹ thuật cần thiết đảm bảo

cho hoạt động áp dụng PLHS, chủ trương, chính sách của nhà nước về phòng ngừa,

đấu tranh chống tội phạm XPTMCCN…

87

Tiểu kết chương 2

Qua việc nghiên cứu những vấn đề lý luận về các tội XPTMCCN, có thể rút

ra một số kết luận:

Nhiều công trình nghiên cứu lý luận đã đưa ra định nghĩa về các tội

XPTMCCN trên cơ sở xác định khách thể, mặt khách quan, mặt chủ quan và chủ

thể của tội phạm. Tuy nhiên, các yếu tố này thể hiện trong định nghĩa vẫn còn khái

quát, chưa thực sự rõ ràng. Vì vậy, việc xác định phạm vi các điều luật thuộc các tội

XPTMCCN vẫn chưa có sự thống nhất. Trên cơ sở xác định phạm vi cụ thể các điều

luật thuộc nhóm các tội XPTMCCN, kết hợp với định nghĩa tội phạm tại Điều 8,

quy định về tuổi chịu TNHS tại Điều 12, quy định về phạm vi chịu TNHS của pháp

nhân thương mại tại Điều 76 BLHS năm 2015, NCS đã xây dựng định nghĩa các tội

XPTMCCN một cách rõ ràng, cụ thể. Từ đó, NCS đã phân tích dấu hiệu pháp lý,

hình phạt, phân loại các tội XPTMCCN và phân biệt các tội XPTMCCN với các tội

xâm phạm sức khỏe của con người và với các tội xâm phạm an ninh quốc gia. Các

phân tích của NCS có sự kế thừa, phát triển lý luận của các công trình đi trước

nhưng cũng đưa ra những quan điểm, lập luận riêng: hậu quả không phải là dấu hiệu

bắt buộc của tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội giết

người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hậu quả chết người cũng không

phải là dấu hiệu để phân biệt tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do

vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng…

NCS cũng đã phân tích sự cần thiết và cơ sở của việc thể chế hóa bằng

PLHS đối với các hành vi XPTMCCN. Trong đó, sự cần thiết của việc thể chế hóa

xuất phát từ các nguyên tắc của luật hình sự, từ tính chất của luật hình sự, từ yêu

cầu đảm bảo quyền con người và từ yêu cầu kiểm tra, giám sát việc áp dụng PLHS.

Cơ sở của thể chế hóa bằng PLHS phải dựa trên chính sách hình sự đối với các tội

XPTMCCN, tình hình tội phạm XPTMCCN, thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét

xử các tội XPTMCCN cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.

Để có cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về các

tội XPTMCCN (ở chương tiếp theo), NCS cũng đã phân tích khái niệm, nội dung,

88

đặc điểm và các yếu tố tác động đến áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN. Qua đó,

có thể thấy đây là hoạt động phức tạp, sáng tạo, mang tính quyền lực nhà nước, tuân

theo trình tự, thủ tục chặt chẽ và chịu sự tác động của nhiều yếu tố: chất lượng của

quy phạm PLHS, chất lượng đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS, mối quan hệ phối hợp

giữ các cơ quan THTT hình sự…

89

Chương 3

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CÁC TỘI

XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG

TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính

mạng của con người

3.1.1. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính

mạng của con người trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015

3.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi Bộ luật hình sự năm 1985 có

hiệu lực

- Từ năm 1945 đến năm 1953

Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền nhân dân non trẻ

phải đối mặt với muôn vàn khó khăn chồng chất. Nền kinh tế của đất nước nghèo

nàn, lạc hậu; các thế lực thù địch câu kết với nhau dùng nhiều thủ đoạn thâm độc

nhằm đánh đổ chính quyền nhân dân; trình độ, nhận thức của nhân dân còn hạn

chế… Trong hoàn cảnh đó, Nhà nước ta chưa có điều kiện để ban hành đầy đủ các

Sau đó, Nhà nước ta đã lần lượt ban hành các sắc lệnh như: Sắc lệnh số 27-

SL ngày 28/02/1946; Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953; Sắc lệnh số 151-SL

ngày 12/4/1953… Trong đó có quy định về xử lý các hành vi XPTMCCN.

90

Nhìn chung, trong giai đoạn này, do nhiệm vụ chính trị của đất nước là

chống giặc ngoại xâm, củng cố chính quyền, diệt giặc đói, diệt giặc dốt nên các

hành vi XPTMCCN được quy định gắn với mục đích nhằm chống lại các phần tử

chống phá cách mạng.

Các tội XPTMCCN “không được quy định một cách cụ thể mà được thể

hiện là sự xâm phạm nghiêm trọng đến trật tự trị an và chỉ được nói đến

trong các văn bản quy định về một nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo

vệ chính quyền, công sản và một số đối tượng đặc biệt nhằm thực hiện

thắng lợi nhiệm vụ phản đế, phản phong” [52, tr.21].

Về đường lối xử lí, các tội XPTMCCN bị xử lí với nhiều loại và mức hình

phạt nghiêm khắc: tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình. Ngoài hình phạt chính,

người phạm tội còn có thể bị áp dụng thêm hình phạt bổ sung như “bồi thường thiệt

hại”, “tịch thu một phần hay tất cả tài sản”. Ví dụ, Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày

12/4/1953, trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: “Địa chủ nào… làm hại nhân

dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến

chung thân hoặc xử tử hình, phải bồi thường thiệt hại cho nông dân, bị tịch thu một

phần hay tất cả tài sản”.

- Từ năm 1954 đến năm 1975

Hiệp định Giơnevơ được kí kết, miền Bắc hoàn toàn thống nhất, miền Nam

tạm thời bị đế quốc Mỹ và tay sai chiếm đóng sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Tình

hình đó đã hình thành ở nước ta hai miền Nam - Bắc có điều kiện chính trị, xã hội

91

khác nhau. Miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, trở thành căn cứ địa

vững chắc của cách mạng cả nước. Nhằm giải thoát khỏi ách đô hộ của đế quốc Mỹ

và tay sai, thống nhất nước nhà, Miền Nam đã tiến hành cách mạng dân tộc và giải

phóng.. Vì vậy, PLHS thời kỳ này cũng nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách

mạng đó [149, tr.93]. Việc áp dụng một số điều khoản của pháp luật cũ không còn

phù hợp nữa. Thông tư số 19-VHH ngày 30/6/1955 của Bộ Tư pháp đã chính thức

chấm dứt áp dụng luật lệ của chế độ cũ:

Nghiên cứu PLHS về các tội XPTMCCN trong giai đoạn này có thể thấy

một số điểm tiến bộ như sau:

92

Thứ nhất, đã xác định rõ tuổi chịu TNHS là từ đủ 14 tuổi trở lên: thực tiễn

xét xử cho thấy, những can phạm dưới 14 tuổi tròn không bị truy tố xét xử về tội

giết người. Cho nên, cũng như đối với những loại tội nghiêm trọng khác, có thể nói

TNHS về tội giết người bắt đầu từ 14 tuổi tròn [156, tr.352];

khi công tác hoặc vì nạn nhân thi hành nhiệm vụ; can phạm có nhân thân rất xấu.

Những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt gồm: giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn nhân

hoặc trong tình trạng bị nạn nhân ngược đãi, áp bức tàn tệ; giết người vượt quá

phạm vi phòng vệ cần thiết…

Thứ sáu, đường lối xử lý người phạm tội XPTMCCN đã được quy định rõ

ràng: quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường, trong trường hợp có tình

tiết tăng nặng hay giảm nhẹ; trong trường hợp phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, lỗi cố

ý gián tiếp; trong trường hợp đồng phạm, phạm tội chưa đạt; khi nào thì có thể và

nên áp dụng hình phạt tử hình, khi nào thì có thể áp dụng án treo, cần xét xử như thế

nào khi vừa có tình tiết tăng nặng đặc biệt, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt…Ví

dụ: hình phạt đối với tội giết người trong những trường hợp thông thường là phạt tù

từ 5 năm đến 20 năm. Đối với những trường hợp giết người đã thành, nếu hình thức

lỗi là cố ý trực tiếp, mức án thông thường là từ khoảng 15 đến 20 năm tù, nếu là

hình thức lỗi cố ý gián tiếp, mức án thông thường là từ khoảng 10 năm đến 15 năm

tù. Đối với những trường hợp giết người chưa đạt, hoặc đối với những kẻ cộng

phạm trong các vụ giết người đã thành, mức hình phạt thấp nhất thường là từ 5 năm

93

tù trở lên có khi đến 10 năm hoặc trên 10 năm… (Điểm 3 Thông tư số 442/TTg

ngày 19/01/1955 của Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa).

- Từ năm 1976 đến trước ngày Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực

Thắng lợi vĩ đại mùa Xuân năm 1975 đã trọn vẹn giải phóng miền Nam,

kiến tạo nên đất nước thống nhất. Ngày 25 tháng 4 năm 1976, toàn dân tham gia

cuộc tổng tuyển cử, lựa chọn đại biểu Quốc hội. Ngày 29 tháng 6 năm 1976, Quốc

hội khóa I họp, hoàn tất việc thống nhất quốc gia về mặt thể chế chính trị. Nghị

quyết ngày 2 tháng 7 năm 1976 của Quốc hội chính thức đổi tên nước ta thành

Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Chính phủ đã công bố hai danh mục gồm

700 văn bản trong đó có nhiều văn bản pháp luật hình sự để thi hành thống nhất

trong cả nước [149, tr.120]. Về các tội XPTMCCN, chỉ có Sắc luật số 03/SL ngày

15/3/1976 được ghi trong danh mục. Như vậy, văn bản này thay thế cho Thông tư

số 442/TTg ngày 19/01/1955 vì Thông tư số 442 không được ghi trong danh mục.

Sắc lệnh số 03/SL ban hành ngày 15/3/1976, cấu trúc gồm bốn chương,

mười hai điều, liệt kê bảy loại tội phạm. Những hành vi vi phạm pháp luật bao gồm:

chống phá nhà nước; xâm hại tài sản quốc gia; xâm phạm thân thể, danh dự công

dân; phạm tội kinh tế; lạm quyền, nhận hối lộ; xâm phạm sở hữu cá nhân; và các

hành vi gây rối trật tự, đe dọa an ninh, sức khỏe cộng đồng. Về các tội XPTMCCN,

sắc luật số 03 quy định tội giết người và tội vô ý làm chết người. Các tội khác chỉ

được nêu chung chung là các tội khác xâm phạm thân thể của người dân. So với

Thông tư số 442, quy định của Sắc luật số 03 về các tội XPTMCCN có một số

hướng dẫn cụ thể hơn, đặc biệt là những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và khung hình

phạt áp dụng cũng nghiêm khắc hơn trước [52, tr.33]. Trong các Báo cáo tổng kết

công tác ngành TAND năm 1976, 1977 cũng đã có những hướng dẫn về một số tình

tiết tăng nặng, giảm nhẹ của tội giết người như: giết người một cách trắng trợn,

công khai trước mặt người khác; giết người gây khủng khiếp trong nhân dân; trường

hợp giết người mà nạn nhân là tề, ngụy cũ; trường hợp giết “ma lai”; trường hợp

người mẹ đẻ giết con đẻ của mình rồi tự sát nhưng không chết; trường hợp giết

người có nợ máu để trả thù…

94

3.1.1.2. Giai đoạn từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 có hiệu lực đến trước

khi ban hành Bộ luật hình sự 2015

- Bộ luật hình sự năm 1985

BLHS 1985 gồm hai phần: Phần chung và Phần các tội phạm, tổng cộng 20

chương với 280 điều. Các tội XPTMCCN được quy định tại Chương 2 Phần các tội

phạm cụ thể (Chương các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự

của con người) với 8 điều luật từ Điều 101 đến Điều 108. Cụ thể: tội giết người

(Điều 101), tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 102), tội

xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều

103), tội vô ý làm chết người (Điều 104), tội bức tử (Điều 105), tội xúi giục hoặc giúp

người khác tự sát (Điều 106), tội cố ý không giúp người khác đang ở trong tình trạng

nguy hiểm đến tính mạng (Điều 107), tội đe dọa giết người (Điều 108).

Có thể thấy, việc pháp điển hóa về hình sự lần này đã đánh dấu sự tiến bộ

vượt bậc về kỹ thuật lập pháp hình sự. Quy định của BLHS nói chung và quy định

về các tội XPTMCCN nói riêng có nhiều điểm tiến bộ:

Thứ nhất, tất cả hành vi bị coi là tội phạm nói chung và các tội XPTMCCN

nói riêng đều đã được quy định trong BLHS: “Chỉ người nào phạm một tội đã được

Luật hình sự quy định mới phải chịu TNHS” (Điều 2), “Tội phạm là hành vi nguy

hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS” (Điều 8). Nguồn duy nhất và trực tiếp

của PLHS thời kỳ này là BLHS. Không còn trường hợp “những tội tương tự”, “các

tội khác xâm phạm thân thể của người dân”, không áp dụng nguyên tắc tương tự

trong lĩnh vực hình sự.

95

Thứ hai, có sự phát triển số lượng điều luật quy định về các tội XPTMCCN với

08 điều luật (từ Điều 101 đến Điều 108). Nếu như trước đây, các tội XPTMCCN được

phân định chủ yếu dựa vào hình thức lỗi (giết người hay vô ý làm chết người) thì ở

BLHS năm 1985, nhà làm luật còn căn cứ vào đặc điểm, tính chất nguy hiểm của hành vi

(giết người, bức tử, không giúp người khác, xúi giục hoặc giúp người khác tự sát hay đe

dọa giết người); hoàn cảnh, chủ thể thực hiện hành vi (trong hoàn cảnh phải phòng vệ,

người đang thi hành công vụ…) để quy định các tội phạm cụ thể trong nhóm này cho

phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ ba, việc phân hóa TNHS tiếp tục có sự phát triển thể hiện rõ ở loại và

mức hình phạt giữa các điều luật cũng như giữa các khoản của cùng một điều luật

quy định về các tội XPTMCCN. Ví dụ: phạm tội giết người có thể bị phạt tù từ 12

năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình (khoản 1 Điều 101) trong khi phạm tội

đe dọa giết người chỉ bị phạt cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc bị phạt tù từ

ba tháng đến hai năm (Điều 108). Điều 101, khoản 4, luật hình sự quy định trường

hợp đặc biệt: hành vi giết con mới sinh do chịu ảnh hưởng tư tưởng lạc hậu hay

hoàn cảnh khó khăn, người mẹ sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ (tối đa một năm)

hoặc phạt tù (ba tháng đến hai năm). Mặc dù cùng là tội giết người, mức án sẽ được

xem xét dựa trên tình tiết giảm nhẹ.

96

- Bộ luật hình sự năm 1999

Kể từ Đại hội VI của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước gặt hái nhiều thành

quả đáng kể trên mọi lĩnh vực. Song hành cùng quá trình chuyển đổi kinh tế thị

trường, những hệ lụy tiêu cực đã xuất hiện, làm gia tăng các vấn đề tội phạm, tạo

nên bức tranh an ninh phức tạp.. BLHS năm 1985 dù đã được sửa đổi, bổ sung 4 lần

nhưng còn nhiều điểm bất cập cần phải được sửa đổi, bổ sung một cách toàn diện

nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới [149,

tr.161,162]. Đáp ứng yêu cầu đó, ngày 21/12/1999, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam khóa X tại kỳ họp thứ 6 đã thông qua BLHS năm 1999, có hiệu

lực từ ngày 01/7/2000.

So với BLHS năm 1985, quy định về các tội XPTMCCN trong BLHS năm

1999 có một số khác biệt cơ bản như:

Thứ nhất, BLHS năm 1999 tiếp tục có sự phát triển về số lượng điều luật

quy định về các tội XPTMCCN trên cơ sở tách một số điều luật của BLHS năm

1985 thành nhiều điều luật, cụ thể: tội giết người (Điều 101 BLHS năm 1985) được

tách thành 03 tội là tội giết người (Điều 93), tội giết con mới đẻ (Điều 94), tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95). Luật Hình sự năm

1985 điều chỉnh tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe trong thi hành công vụ

nay được phân định rõ ràng hơn. Điều 103 cũ, về tội xâm phạm tính mạng hoặc sức

khỏe, nay được cụ thể hóa thành hai tội danh riêng biệt: tội cố ý gây chết người

(Điều 97) và tội cố ý gây thương tích (Điều 107), cả hai đều trong phạm vi thi hành

công vụ. Tương tự, tội vô ý làm chết người (Điều 104) được chia thành hai tội danh:

tội vô ý gây chết người (Điều 98) và tội vô ý gây chết người do vi phạm quy định

chuyên môn hoặc hành chính (Điều 99). Sự tách bạch này nhằm đảm bảo tính chính

xác và công bằng trong xét xử. Việc tách các điều luật như trên là cần thiết, giúp

phân hóa TNHS, khắc phục một trong những hạn chế của BLHS năm 1985 là quy

định trong cùng một điều luật nhiều trường hợp phạm tội có tính chất và mức độ

nguy hiểm cho xã hội khác nhau quá xa.

97

Thứ ba, khác với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 không quy định các

hình phạt bổ sung có thể áp dụng với các tội XPTMCCN trong một điều luật riêng

mà quy định ngay trong từng điều luật về các tội XPTMCCN. Điều này giúp tạo

thuận lợi cho Tòa án trong việc áp dụng hình phạt bổ sung, tránh bỏ quên hoặc áp

dụng không chính xác.

3.1.2. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 về các tội xâm

phạm tính mạng của con người

Luật Hình sự năm 2015, Chương XIV (Điều 123-156), cụ thể hóa các tội

phạm xâm hại tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự. Ba mươi bốn điều luật

này quy định chi tiết các hành vi phạm tội tương ứng. Trong đó, các tội

XPTMCCN được quy định tại 11 điều luật (từ Điều 123 đến Điều 133). Cụ thể:

- Điều 123. Tội giết người;

- Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ;

- Điều 125. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;

98

- Điều 126. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc

do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

- Điều 127. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ;

- Điều 128. Tội vô ý làm chết người;

- Điều 129. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc

quy tắc hành chính;

- Điều 130. Tội bức tử;

- Điều 131. Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát;

- Điều 132. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm

đến tính mạng;

- Điều 133. Tội đe dọa giết người.

Nhìn chung, các tội XPTMCCN trong BLHS năm 2015 kế thừa phần lớn

quy định của BLHS năm 1999. Đồng thời, để phù hợp với thực tiễn đấu tranh

phòng, chống tội phạm trong tình hình mới, các tội XPTMCCN trong BLHS năm

2015 có một số sửa đổi, bổ sung cơ bản sau đây:

Thứ nhất, Luật hình sự năm 2015 đã bổ sung tội danh giết người trong

trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ tội phạm vào điều khoản quy định về

tội giết người khi tự vệ quá mức hoặc bắt giữ tội phạm vượt quá giới hạn cho phép

(Điều 126). Việc bổ sung này nhằm làm rõ hơn khung pháp lý về tội phạm nghiêm

trọng này. Việc bổ sung tội phạm nêu trên là phù hợp với đòi hỏi của xã hội, vừa

đảm bảo yêu cầu đấu tranh phòng, chống các hành vi XPTMCCN, vừa thể hiện tinh

thần nhân đạo của luật hình sự Việt Nam, góp phần đảm bảo quyền con người theo

tinh thần của Hiến pháp năm 2013. Cụ thể:

Gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24 BLHS năm 2015)

là một trong những trường hợp loại trừ TNHS mới được bổ sung trong quy định của

BLHS năm 2015 bên cạnh các trường hợp loại trừ TNHS khác (Chương IV BLHS

năm 2015). Ở trường hợp này, người thực hiện hành vi mặc dù đã gây ra những

thiệt hại nhất định cho người bị bắt giữ nhưng mục đích thực hiện hành vi là để bắt

giữ người phạm tội, ngăn chặn tội phạm, ngăn chặn người phạm tội bỏ trốn. Việc sử

dụng vũ lực, gây thiệt hại cũng là biện pháp duy nhất để bắt người phạm tội. Chính

99

vì vậy, nếu thiệt hại gây ra là cần thiết thì hành vi gây thiệt hại không bị coi là tội

phạm, người thực hiện hành vi được loại trừ TNHS (khoản 1 Điều 24). Trong

trường hợp gây thiệt hại do sử dụng vũ lực rõ ràng vượt quá mức cần thiết thì hành

vi sử dụng vũ lực gây thiệt hại có thể bị coi là tội phạm và người thực hiện hành vi

sẽ phải chịu TNHS (khoản 2 Điều 24). Tuy nhiên, xuất phát từ động cơ, mục đích

thực hiện hành vi (để bắt giữ người phạm tội, vì lợi ích chung của xã hội) nên tính

chất, mức độ nguy hiểm của hành vi này thấp hơn hẳn so với các hành vi giết người

thông thường. Vì vậy, cần phải có chính sách xử lí phù hợp, tương tự như quy định

về tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Vì lẽ đó, việc bổ sung

tội giết người do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội là phù hợp với

thực tiễn. Việc bổ sung tội phạm này cùng với quy định tại Điều 24 vừa có ý nghĩa tạo

cơ sở pháp lí, khuyến khích người dân chủ động tham gia vào công tác đấu tranh phòng

chống tội phạm; vừa tạo khuôn khổ pháp lí để tránh các hành vi vượt quá mức cần

thiết, lạm dụng hoặc lợi dụng việc bắt người để gây thiệt hại cho người khác.

Thứ hai, BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định về trường hợp chuẩn bị

phạm tội đối với tội giết người (Điều 123). Cụ thể, khoản 3 Điều 123 quy định:

“Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm”. Quy định này

là phù hợp với quy định tại Phần thứ nhất - Những quy định chung của BLHS năm

2015 về chuẩn bị phạm tội. Cụ thể, Điều 14 BLHS năm 2015 đã liệt kê đầy đủ các

điều luật trong BLHS mà người chuẩn bị phạm tội sẽ phải chịu TNHS. Đồng thời

tại Phần thứ hai - Các tội phạm, những điều luật được quy định tại Điều 14 đều bổ

sung một khoản quy định rõ chế tài trong trường hợp chuẩn bị phạm tội. Theo đó,

đối với các tội XPTMCCN thì chỉ có duy nhất tội giết người mới phải chịu TNHS ở

giai đoạn chuẩn bị phạm tội (khoản 2, khoản 3 Điều 14).

Việc bổ sung điều khoản như trên chủ yếu là điểm mới về kĩ thuật lập pháp

[117, tr.15] còn về nội dung thì hành vi chuẩn bị phạm tội giết người theo quy định

của BLHS năm 1999 cũng phải chịu TNHS. Cụ thể, BLHS năm 1999 quy định

người chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng thì phải

chịu TNHS về tội định thực hiện (Điều 17) và tội giết người là tội phạm rất nghiêm

trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (Điều 8, Điều 93).

100

Ngoài việc thay đổi về kĩ thuật lập pháp, quy định tại khoản 3 Điều 123

BLHS năm 2015 cũng là quy định có lợi hơn cho người phạm tội so với BLHS năm

1999 vì mức hình phạt tối đa đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội chỉ đến 05 năm

tù. Trong khi đó, theo quy định của BLHS năm 1999, người chuẩn bị phạm tội giết

người có thể bị phạt đến 20 năm tù (Điều 52, Điều 93).

Thứ ba, BLHS năm 2015 đã sửa đổi tên gọi và nội dung điều luật quy định

về hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 94 BLHS năm 1999, Điều 124 BLHS

năm 2015). Cụ thể:

Về tên gọi, Điều 94 BLHS năm 1999 quy định “tội giết con mới đẻ” nhưng nội

dung điều luật lại quy định cả hành vi vứt bỏ con mới đẻ. Như vậy, tên điều luật chưa

bao hàm được hết các dạng hành vi được mô tả trong điều luật. Vì vậy, Điều 124 BLHS

năm 2015 đã sửa đổi tên gọi của tội này thành “tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ”. Sự thay

đổi này giúp cho tên điều luật phù hợp với các dạng hành vi được mô tả trong điều luật.

Về nội dung, nếu như Điều 94 BLHS năm 1999 chỉ có một khoản quy định về

cả hành vi giết con mới đẻ và hành vi vứt bỏ con mới đẻ thì Điều 124 BLHS năm 2015

tách thành 02 khoản: khoản 1 quy định hành vi giết con mới đẻ, khoản 2 quy định hành

vi vứt bỏ con mới đẻ. Sự thay đổi này giúp làm rõ dấu hiệu pháp lí của từng tội, khắc

phục hạn chế của Điều 94 BLHS năm 1999 về dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Cụ thể:

Đối với Điều 94 BLHS năm 1999, dấu hiệu “đứa trẻ chết” có phải là dấu hiệu bắt buộc

của tội giết con mới đẻ hay không? Hay hậu quả đó chỉ là dấu hiệu bắt buộc của tội vứt

bỏ con mới đẻ? Đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi [63, tr.154]. Tuy nhiên, với quy định

tại Điều 124 BLHS năm 2015 thì vấn đề này đã rõ ràng: tội giết con mới đẻ (khoản 1)

không quy định hậu quả “đứa trẻ chết” là dấu hiệu bắt buộc, tội vứt bỏ con mới đẻ

(khoản 2) quy định hậu quả “đứa trẻ chết” là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.

Ngoài ra, thuật ngữ “con mới đẻ” trong Điều 94 BLHS năm 1999 cũng

được thay thế bằng thuật ngữ “con do mình đẻ ra trong 7 ngày tuổi” trong Điều 124

BLHS năm 2015. Sự thay đổi này giúp xác định rõ hơn đối tượng tác động của tội phạm.

Thứ tư, BLHS năm 2015 đã mô tả rõ hơn hành vi khách quan trong tội xúi

giục hoặc giúp người khác tự sát. Cụ thể:

Điều 101 BLHS năm 1999 không mô tả rõ đặc trưng pháp lí của hành vi

phạm tội. Hành vi khách quan được mô tả trong điều luật cũng chính là tên của điều

101

luật: xúi giục hoặc giúp người khác tự sát. Điều 131 BLHS năm 2015 đã mô tả rõ

dấu hiệu hành vi khách quan của tội phạm: xúi giục người khác tự sát là “kích động,

dụ dỗ, thúc đẩy người khác tự tước đoạt tính mạng của họ” (điểm a khoản 1), giúp

người khác tự sát là “tạo điều kiện vật chất hoặc tinh thần cho người khác tự tước

đoạt tính mạng của họ” (điểm b khoản 1). Sự thay đổi này giúp cho quy định của

điều luật được rõ ràng, từ đó tạo thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật.

Bên cạnh những điểm mới cơ bản nêu trên, BLHS năm 2015 còn thay đổi

một số thuật ngữ được sử dụng trong các điều luật theo hướng “số hóa”: từ “trẻ

em” được thay thế bằng cụm từ “người dưới 16 tuổi”, từ “nhiều người” được cụ thể

thành “02 người trở lên”. Sự thay đổi này giúp việc định tội, định khung hình phạt

được rõ ràng và thuận tiện hơn. Mặt khác, việc thay từ “trẻ em” bằng cụm từ

“người dưới 16 tuổi” còn giúp quy định của BLHS phù hợp với Công ước của Liên

hợp quốc về quyền trẻ em [41, Điều 1] và không cần thay đổi cho dù Luật Trẻ em

có thay đổi độ tuổi đối tượng được xác định là trẻ em (mặc dù hiện nay Điều 1 Luật

Trẻ em năm 2016 vẫn quy định trẻ em là người “dưới 16 tuổi” nhưng có nhiều

quan điểm cho rằng cần nâng độ tuổi của đối tượng được coi là trẻ em lên “dưới 18

tuổi” như quy định của Công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em năm 1989).

3.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm

phạm tính mạng của con người tại Thành phố Hồ Chí Minh

3.2.1. Khái quát tình hình xét xử các tội xâm phạm tính mạng của con

người tại Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2010-2023

TP.HCM là thành phố trực thuộc trung ương, thuộc loại đô thị đặc biệt, nằm

trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. TP.HCM hiện có 01

thành phố, 18 quận và 05 huyện. Đây cũng là trung tâm kinh tế, văn hóa, giáo dục

của cả nước. Mật độ dân cư đông nhất cả nước cùng với nhịp sống sôi động bên

cạnh việc mang lại những nguồn lực to lớn cho sự phát triển thì cũng kéo theo nhiều

hệ lụy, mâu thuẫn xã hội ảnh hưởng xấu đến trật tự, an toàn xã hội. Tình hình tội

phạm nói chung và tội phạm XPTMCCN nói riêng diễn biến phức tạp.

Bộ máy xét xử - TAND hai cấp TP.HCM gồm TAND TP.HCM và 24

TAND các quận, huyện, thành phố (thành phố Thủ Đức, quận 1, quận 2, quận 3,

102

quận 4, quận 5, quận 6, quận 7, quận 8, quận 9, quận 10, quận 11, quận 12, quận

Bình Tân, quận Bình Thạnh, quận Gò Vấp, quận Phú Nhuận, quận Tân Bình, quận

Tân Phú, huyện Bình Chánh, huyện Cần Giờ, huyện Củ Chi, huyện Hóc Môn và

huyện Nhà Bè). TAND hai cấp TP.HCM được TAND Tối cao phân bổ 1.201 biên

chế. Tính đến hết năm 2023 đã có 1.172 biên chế, trong đó: TAND cấp thành phố

có 312 biên chế (Thẩm phán: 142, Thẩm tra viên: 18, Thư ký: 126 và công chức

khác: 26); TAND cấp quận, huyện có 860 biên chế (Thẩm phán: 536, Thẩm tra

viên: 09, Thư ký: 269 và công chức khác: 46).

Xét theo phân loại tội phạm được quy định tại Điều 9 BLHS năm 2015 thì

các tội XPTMCCN bao gồm cả tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng,

tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (đã trình bày tại mục

2.2. của Chương 2). Vì vậy, thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án XPTMCCN bao

gồm cả TAND cấp thành phố và TAND cấp quận, huyện. Theo Báo cáo tổng kết

công tác xét xử hàng năm của TAND các quận, huyện, thành phố và TAND

TP.HCM thì tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án XPTMCCN (từ Điều 123 đến Điều

133 BLHS năm 2015, từ Điều 93 đến Điều 103 BLHS năm 1999) trong giai đoạn từ

năm 2010 đến năm 2023 được thể hiện qua bảng thống kê sau:

Bảng 3.1. Số vụ án và số bị cáo về các tội XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM đã

xét xử trong giai đoạn 2010-2023

NĂM 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 Tổng Vụ 18 139 148 147 138 131 119 98 113 88 97 69 107 107 1519 Bị cáo 29 262 297 269 214 192 188 168 155 129 140 109 158 212 2522 (Nguồn:TAND TP.HCM)

103

Như vậy, trong giai đoạn 2010-2023, trung bình mỗi năm TAND các quận,

huyện, thành phố và TAND TP.HCM đã xét xử hơn 108 vụ án với hơn 180 bị cáo

về các tội XPTMCCN (cao nhất là năm 2012 với 148 vụ, 297 bị cáo; thấp nhất là

năm 2010 với 18 vụ, 29 bị cáo). Đối chiếu, so sánh số vụ án XPTMCCN với số bị cáo

trong các vụ án đó, có thể thấy số bị cáo gấp 1,66 lần số vụ án (2522 bị cáo/1519 vụ).

Điều đó cho thấy nhiều vụ án XPTMCCN là vụ án đồng phạm.

Số liệu về xét xử theo từng điều luật trong nhóm các tội XPTMCCN được

thể hiện qua các bảng thống kê sau:

Bảng 3.2. Số vụ án theo từng điều luật trong nhóm các tội XPTMCCN trên địa

bàn TP.HCM đã xét xử trong giai đoạn 2010-2023

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

Điều

NĂM

123

124

125

126

127

128

129

130

131

132

133

(93)

(94)

(95)

(96)

(97)

(98)

(99)

(100)

(101)

(102)

(103)

0 2010 16 0 0 0 1 0 0 0 0 1

0 2011 130 1 2 0 4 0 0 0 1 1

0 2012 141 0 1 0 3 1 0 0 0 2

0 2013 141 0 0 0 3 1 0 0 0 2

0 2014 126 0 1 0 6 1 0 0 0 4

0 2015 120 1 2 1 6 0 0 0 0 1

0 2016 106 2 1 0 8 1 0 0 0 1

0 2017 88 4 0 0 5 0 0 0 0 1

0 2018 102 3 2 0 5 0 0 0 0 1

0 2019 81 0 2 0 3 0 0 0 0 2

0 2020 84 0 0 0 8 0 0 0 0 5

1 2021 62 1 0 0 0 1 0 1 1 2

0 2022 99 0 0 0 4 0 0 0 0 4

0 2023 101 0 0 0 3 1 0 0 0 2

1397 1 12 11 1 59 6 0 1 2 29 Tổng 1519

(Nguồn:TAND TP.HCM)

104

Bảng 3.3. Số bị cáo theo từng điều luật trong nhóm các tội XPTMCCN trên địa

bàn TP.HCM đã xét xử trong giai đoạn 2010-2023

NĂM

2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022 2023 Điều 123 (93) 27 253 290 262 201 179 173 156 144 122 127 102 148 199 Điều 124 (94) 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 Điều 125 (95) 0 1 0 0 0 1 4 6 3 0 0 1 0 0 Điều 126 (96) 0 2 1 0 1 2 1 0 2 2 0 0 0 0 Điều 127 (97) 0 0 0 0 0 3 0 0 0 0 0 0 0 0 Điều 128 (98) 1 4 3 4 6 6 8 5 5 3 8 0 4 4 Điều 129 (99) 0 0 1 1 1 0 1 0 0 0 0 1 0 2 Điều 130 (100) 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Điều 131 (101) 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 Điều 132 (102) 0 1 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 0 Điều 133 (103) 1 1 2 2 5 1 1 1 1 2 5 2 6 7

2383 1 16 11 3 0 1 2 37 7 Tổng 61 2522

(Nguồn:TAND TP.HCM)

Theo thống kê tại các bảng trên, có thể thấy:

- Số vụ án và số bị cáo đã bị xét xử về tội giết người (Điều 123 BLHS năm

2015, Điều 93 BLHS năm 1999) chiếm tỉ lệ đặc biệt cao trong nhóm các tội

XPTMCCN. Trung bình mỗi năm, TAND các quận, huyện, thành phố và TAND

TP.HCM đã xét xử xấp xỉ 100 vụ án với hơn 170 bị cáo về tội giết người, chiếm

91,97% tổng số vụ (1397/1519) và chiếm 94,49% tổng số bị cáo (2383/2522). Số bị

cáo bị xét xử về tội giết người cũng cao gấp 1,7 lần số vụ án giết người đã xét xử

(2383 bị cáo/1397 vụ án). Điều đó cũng cho thấy đa phần các vụ án XPTMCCN có

đồng phạm là vụ án giết người.

- Đứng thứ hai về số lượng là tội vô ý làm chết người (Điều 128 BLHS năm

2015, Điều 98 BLHS năm 1999) chiếm 3,88% số vụ (59/1519) và 2,42% số bị cáo

(61/2522). Trung bình mỗi năm xét xử hơn 4 vụ.

105

- Thứ ba là tội đe dọa giết người (Điều 133 BLHS năm 2015, Điều 103

BLHS năm 1999) chiếm 1,9% số vụ (29/1519) và 1,46% số bị cáo (37/2522). Trung

bình mỗi năm xét xử 2 vụ.

- Các tội tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124 BLHS năm 2015, Điều

94 BLHS năm 1999), tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 127

BLHS năm 2015, Điều 97 BLHS năm 1999), tội xúi giục hoặc giúp người khác tự

sát (Điều 131 BLHS năm 2015, Điều 101 BLHS năm 1999) chiếm tỉ lệ đặc biệt

thấp, trong 14 năm chỉ xét xử 01 vụ.

- Đặc biệt, trong giai đoạn 2010-2023 không xét xử vụ án nào về tội bức tử

(Điều 130 BLHS năm 2015, Điều 100 BLHS năm 1999).

Về tình hình án XPTMCCN tại TP.HCM có kháng cáo, kháng nghị và bị

hủy, sửa trong giai đoạn 2010-2023 được thể hiện qua các bảng sau:

Bảng 3.4. Số liệu án XPTMCCN tại TP.HCM có kháng cáo, kháng nghị trong

giai đoạn 2010-2023

Tội danh Số vụ Số bị cáo

Giết người

Giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ 980 0 1270 0

5 5

6 6

1 0 3 0

0 0

0 0 0 0

0 0

Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội Làm chết người trong khi thi hành công vụ Vô ý làm chết người Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính Bức tử Xúi giục hoặc giúp người khác tự sát Không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng Đe dọa giết người 1 1

Tổng 993 1285

(Nguồn:TAND TP.HCM)

106

Bảng 3.5. Tình hình án XPTMCCN tại TP.HCM bị hủy,

sửa trong giai đoạn 2010-2023

Án hủy Án sửa

Nguyên Nguyên Nguyên Nguyên Tổng số

nhân chủ nhân khách nhân chủ nhân khách án bị Án đã NĂM quan quan quan quan xét xử hủy,

(Sơ thẩm (Tình tiết (Sơ thẩm (Tình tiết sửa

sai) mới) sai) mới)

2010 2 0 18 18 7 9

2011 1 0 25 139 10 14

2012 1 0 19 148 7 11

2013 0 0 27 147 13 14

2014 2 0 15 138 7 6

2015 3 0 13 131 6 4

2016 0 0 13 119 5 8

2017 2 0 14 98 8 4

2018 0 0 20 113 14 6

2019 5 1 21 88 5 10

2020 2 0 22 97 11 9

2021 0 0 19 69 13 6

2022 1 0 10 107 8 1

2023 0 1 16 107 15 0

2 Tổng 19 102 129 252 1519

(Nguồn:TAND TP.HCM)

Phân tích các bảng trên, có thể thấy:

- Số vụ án có kháng cáo, kháng nghị về tội giết người chiếm tỉ lệ đặc biệt cao

(98,69%) trong tổng số vụ án XPTMCCN có kháng nghị, kháng cáo. Điều này cũng

phù hợp với tỉ lệ số vụ án giết người trong tổng số vụ án XPTMCCN đã xét xử (đã

phân tích ở bảng 3.2).

- Tỷ lệ án hủy do nguyên nhân chủ quan (sơ thẩm sai) là 1,25% (19/1519), tỷ

lệ án sửa do nguyên nhân chủ quan (sơ thẩm sai) là 6,71% (102/1519); tổng tỷ lệ án

107

hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan (sơ thẩm sai) là 7,96%. Tỷ lệ án XPTMCCN bị

hủy, sửa như trên là cao so với tổng tỷ lệ án hình sự nói chung tại TP.HCM bị hủy,

sửa và cũng cao hơn nhiều so với yêu cầu tại khoản 3, Điều 2, Nghị quyết số

96/2019/QH14 ngày 27/11/2019 của Quốc hội về công tác phòng, chống tội phạm

và vi phạm pháp luật, công tác của VKSND, của TAND và công tác thi hành án

(bảo đảm tổng số bản án, quyết định bị hủy, sửa do nguyên nhân chủ quan không

vượt quá 1,5% tổng số các loại án). Điều này cũng phần nào cho thấy tính chất phức

tạp, khó khăn trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.

3.2.2. Thực tiễn định tội danh các tội xâm phạm tính mạng của con người

tại thành phố Hồ Chí Minh

3.2.2.1. Thực tiễn định tội danh đúng

Nghiên cứu thực tiễn hoạt động xét xử đối với các tội XPTMCCN của

TAND các quận, huyện và TAND TP.HCM trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm

2023 cho thấy nhìn chung việc định tội danh đảm bảo chuẩn xác, đúng người đúng

tội, không làm oan người vô tội. Việc có kháng cáo, kháng nghị đối với những tội

phạm này chủ yếu là do người phạm tội xin được giảm nhẹ hình phạt. Những bản án

về các loại tội phạm này hầu hết đảm bảo phù hợp với CTTP của từng tội.

- Nhiều vụ án đồng phạm phức tạp, có nhiều đối tượng tham gia với vị trí,

vai trò, mức độ tham gia khác nhau; những vụ án mà hành vi cần phân biệt giữa các

tội XPTMCCN với nhau và phân biệt với các tội xâm phạm sức khỏe của con

người… đã được các cơ quan THTT xác định tội danh chuẩn xác. Vụ án dưới đây là

một minh chứng:

Ông Đào Minh M cùng bị cáo Nguyễn Văn Ph và bà Lê Hiếu là bạn bè quen

biết. Do buồn bực vì cãi nhau với ông Trần Trung Đ2 khi làm việc, bà Th xin nghỉ

việc và có kể lại cho bà Bùi Thị Ngọc B (bạn gái bị cáo Ph), bà B kể lại cho Ph biết.

Khoảng 19 giờ 00 ngày 29/11/2015, Nguyễn Văn Ph kêu bà Th đến quán CG

gặp bị cáo Ph và bà B. Sau khi nghe bà Th trực tiếp kể về mâu thuẫn giữa bà với

ông Trần Trung Đ2, bị cáo Ph rủ Nguyễn Đức A, Phạm Công T đi gặp ông Đ2 để

nói chuyện. Trước khi đi, bị cáo Đức A lấy 01 con dao Thái Lan (dài khoảng 20 cm,

lưỡi dao dài khoảng 13 cm, bản rộng khoảng 2 cm, mũi dao nhọn) ở quầy pha chế

trong quán CG đem ra đưa cho Ph. Nguyễn Văn Ph đồng ý việc mang dao khi đi

108

gặp ông Đ2 nên mở giỏ xách đang đeo bên người cho Đức A bỏ dao vào vì bị cáo

Ph cho rằng quán 189 có đông người làm nên nhóm của Ph có thể bị đánh.

Khoảng 23 giờ 00 cùng ngày, các bị cáo Ph, T, Đức A và bà Th đi đến quán

189 tìm ông Đ2. Ông Đ2 đứng trước quán nói “Ở đây khách đông không tiện nói

chuyện” và đi bộ đến trước nhà số 181 đường Đ nên các bị cáo đi theo. Tại đây,

Nguyễn Văn Ph và ông Đ2 cãi nhau về việc do ông Đ2 mà bà Th xin nghỉ việc,

Phạm Công T liền dùng tay tát vào mặt ông Đ2 thì bị ông Đ2 dùng tay đánh lại. Bị

cáo Ph và Đức A thấy vậy nên cùng xông vào đánh ông Đ2. Lúc này, ông Lê Tấn N

(nhân viên làm cùng ông Đ2) thấy Đ2 bị đánh nên tri hô cho các nhân viên trong

quán biết. Bị cáo Đức A quay lại xe Honda Airblade của Ph (dựng trước quán 175

đường Đ), lấy từ trong túi xách treo trên xe con dao Thái Lan, cầm trên tay và quay

lại nơi Ph và T đang đánh nhau với ông Đ2. Cùng lúc đó, Phạm Công T cũng chạy

về phía Nguyễn Đức A nên Đức A đưa con dao cho T. Bị cáo T cầm dao trên tay

phải chạy về phía bị cáo Ph và ông Đ2 đang đánh nhau, T dùng tay trái kéo và đẩy

Ph ra, tay phải cầm dao đâm liên tục 03 nhát vào lưng ông Đ2. Các ông Lê Tấn

N, Trần Nguyễn H1 và Vũ Tuấn C (nhân viên quán 189 đường Đ) thấy ông Đ2 bị

đánh liền lấy ghế nhựa của quán ven đường đuổi đánh các bị cáo Ph, T, Đức A

nhưng cả ba bị cáo bỏ chạy bộ thoát, riêng bà Th không tham gia đánh nhau. Ông

Đ2 được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện nhân dân Gia Định, đến 0 giờ 00 ngày

30/11/2015 thì chết.

Tại bản Kết luận giám định pháp y tử thi số 46-16/KLGĐ-PY ngày 07/01/2016

của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM thể hiện: Trần Trung Đ2 chết do sốc

mất máu cấp bởi vết thương đâm thủng phổi trái và động mạch chủ ngực [169].

Tại bản Cáo trạng số 328/CT-VKS-P2 ngày 03/8/2016 của VKSND TP.HCM đã

truy tố các bị cáo Nguyễn Văn Ph, Nguyễn Đức A và Phạm Công T về tội “Giết người”

theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa sơ thẩm, các bị cáo Nguyễn Văn Ph, Nguyễn Đức A, Phạm

Công T khai nhận thực hiện hành vi phạm tội như đã nêu. Tuy nhiên, bị cáo Ph

không đồng ý với tội danh “Giết người” mà Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng

xét xử xem xét phần tội danh đối với bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn Ph không thống nhất tội danh Cáo

trạng truy tố. Luật sư cho rằng mục đích Ph gặp ông Đ2 chỉ để hòa giải mâu thuẫn

109

giữa người bị hại và bà Th; Ph mang dao đến hiện trường chỉ nhằm hù dọa, còn việc

ông Đ2 chết là ngoài ý muốn của bị cáo, do đó, không thể hiện tính đồng phạm về

tội “Giết người”. Từ đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 245 BLHS,

xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Ph về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Tuy nhiên, tại bản án hình sự sơ thẩm số 400/2016/HSST ngày 30/11/2016

của TAND TP.HCM đã quyết định áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm

1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 xử phạt Nguyễn Văn Ph 15 (mười lăm) năm

tù về Tội giết người.

Trong vụ án này, NCS cho rằng mặc dù có thể đúng là mục đích Ph gặp ông

Đ2 chỉ để hòa giải mâu thuẫn, nhưng rõ ràng Ph biết Đức A chuẩn bị một con dao

và Ph đã mở túi xách cho Đức A bỏ con dao vào túi xách của Ph. Ph phải nhận thức

được rằng con dao này có thể được sử dụng để gây thương tích hoặc gây hậu quả

chết người, Ph vẫn đồng ý đi cùng với Đức A và Phạm Công T đến gặp bị hại. Ph

cũng đã cùng T và A trực tiếp đánh nhau với Đ2, trong đó T đã dùng dao đâm chết

Đ2. Như vậy, Ph có thể không mong muốn cho hậu quả ông Đ2 chết xảy ra nhưng

có ý thức chấp nhận nếu hậu quả đó xảy ra. Vì vậy, Ph cũng có lỗi cố ý gián tiếp

trong đồng phạm về Tội giết người. TAND TP.HCM xác định Ph phạm tội giết

người là đúng người, đúng tội. Trên thực tế, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng quyết

định giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm [173].

- Thực tiễn xét xử cũng cho thấy, người chủ mưu trong đồng phạm được xác

định đúng. Vụ án dưới đây cho thấy rõ nhận xét này. Nội dung vụ án như sau:

Vào khoảng 19 giờ ngày 23/01/2011, Trần Ngọc H, Dương Minh V cùng O, U,

L (chưa xác định lai lịch) thuê phòng số 307 nhà nghỉ “NĐ” địa chỉ đường Đ, Phường

HS, quận B, TP.HCM, để sử dụng chất ma túy. Đến khoảng 00 giờ ngày 25/01/2011,

tất cả trả phòng và thanh toán tiền phòng thì xảy ra mâu thuẫn với nhân viên tiếp tân

nhà nghỉ là anh Nguyễn Thanh T về việc H không đủ tiền trả tiền phòng là 600.000

đồng. Sau đó, anh T điện thoại báo Công an và được Công an Phường HS, quận B đến

mời hai bên về trụ sở làm việc giải quyết. Tại trụ sở Công an phường, H đã mượn tiền

người nhà thanh toán cho nhà nghỉ xong và cùng nhóm bạn đi về.

110

Về đến nhà số 294/83/28 đường X, Phường HB, quận B (nhà Mẹ H) H điện

thoại gặp Huỳnh Tấn Ph (người quen cùng phường) cho biết H mâu thuẫn với nhân

viên tiếp tân nhà nghỉ “NĐ” và nhờ Ph đến đánh nhân viên tiếp tân nhà nghỉ “NĐ”,

Ph đồng ý. H kêu Ph đến ngã tư HX để lấy hung khí, do H cho đàn em mang đến.

Lúc nghe điện thoại của H thì Ph đang ngồi chơi với Nguyễn Ngọc Th1, Nguyễn

Ngọc Th2 và Nguyễn Văn C (bạn của Ph) tại chốt phường đội Phường ML, quận B.

Ph kêu Th1, Th2 và C cùng đi đánh nhau; cả 3 đồng ý. Sau đó Ph chạy xe Dream

chở Th2, còn Th1 chạy xe Wave chở C đến ngã tư HX gặp 02 thanh niên tên HL và

HN (chưa xác định lai lịch) đưa cho Th1 01 cây mã tấu dài khoảng 80cm, đưa cho

C 01 ống tuýp sắt dài khoảng 60cm.

Nhận hung khí xong thì Ph, Th2, Th1 và C đến nhà nghỉ “NĐ” gặp Đặng

Quốc V1 mới thay ca trực cho T. Th2 cầm mã tấu chém 01 nhát vào đầu làm V1

gục xuống, V1 lấy tay đỡ và nhặt cây sắt có sẵn ở quầy tiếp tân chống trả lại thì

Th2, C cầm mã tấu, tuýp sắt, chém, đánh vào đầu, vai, tay V1. V1 kêu cứu thì Th2

và C chạy ra xe gắn máy cho Ph, Th1 chở tẩu thoát đến Cầu S trên đường X, Th2

vứt cây mã tấu xuống sông.

Tại Bản kết luận giám định pháp y số 741/TgT.11 ngày 02/8/2011, Trung tâm

pháp y Sở Y tế TP.HCM kết luận thương tật của Đặng Quốc V1 là 51% vĩnh viễn.

Tại phiên tòa, bị cáo Trần Ngọc H và luật sư bào chữa cho rằng bị cáo H chỉ

nhờ Huỳnh Tấn Ph đến đánh tiếp viên nhà nghỉ “NĐ” chứ không yêu cầu Ph giết

người. Bị cáo H không có ý định giết người mà chỉ muốn nhờ Ph đánh trả thù, bị

hại cũng không bị chết. Vì vậy H không phạm tội giết người.

Tuy nhiên, TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Trần Ngọc H phạm tội giết

người và tuyên phạt H 16 năm tù [174].

Trong vụ án này, NCS cho rằng Tòa án xác định bị cáo H phạm tội giết

người là đúng người, đúng tội. Bởi vì H không chỉ gọi điện nhờ Ph đánh tiếp viên

nhà nghỉ “NĐ” mà còn cho “đàn em” đưa hung khí gồm 01 cây mã tấu dài khoảng

80cm, 01 ống tuýp sắt dài khoảng 60cm cho nhóm của Ph. H phải nhận thức được

rằng những hung khí này khi sử dụng để “đánh” người khác thì hoàn toàn có khả

năng gây hậu quả chết người. Trên thực tế, Ph, Th2, Th1 và C đã dùng mã tấu và

tuýp sắt đánh, chém nhiều nhát vào đầu, vai, tay của bị hại gây thương tích 51%

111

vĩnh viễn. Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm, đánh, chém vào vùng trọng

yếu của cơ thể, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe của người khác, bị hại

không chết một phần là do may mắn, đã dùng tay đỡ, che đầu. Vì vậy, hành vi của

Trần Ngọc H đã đồng phạm với Huỳnh Tấn Ph, Nguyễn Ngọc Th1, Nguyễn Ngọc

Nguyễn Văn B làm nghề chạy xe ôm, đón khách tại khu vực đường Số 10 và đường

số 1, Ấp H, xã BH, huyện BC, TP.HCM.

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/4/2016, Võ Văn V thuê B chở đến nhà

Quỳnh Bé A (em vợ của V) tại Quốc lộ 50, thuộc ấp 2A, xã BH, huyện BC để rủ Bé

A đi uống bia. B sử dụng xe mô tô biển số 59L2-238.75 chở V đến nhà Bé A. Sau

đó, V tiếp tục yêu cầu B chở về lại khu vực đường Số 10, đường Số 1. Khi đến ngã

tư Nguyễn VL và Quốc lộ 50, thuộc ấp 2, xã BH, V yêu cầu B dừng xe để chờ Bé

A. Trong lúc chờ Bé A, giữa B và V xảy ra mâu thuẫn, B yêu cầu V trả tiền nhưng

V không trả. Khi Bé A đến và dừng xe phía trước đầu xe của B, V liền giật nón bảo

hiểm mà B đang đội đánh liên tiếp vào đầu khiến B té ngã. V tiếp tục nhặt 01 tấm

gạch bể ven đường dài khoảng 25cm đánh 01 cái trúng vào thái dương của B. B

ngồi dậy bỏ chạy thì bị V cầm tấm gạch, nón bảo hiểm đuổi theo. B chạy được

khoảng 06 mét thì bị V dùng nón bảo hiểm đánh trúng 01 cái phía sau đầu. Trong

khi đang trốn chạy, để chống trả lại V và do lo sợ bị cướp xe, B quay lại, sẵn dụng

cụ dùng để khui bia (gắn cùng chùm chìa khóa xe, mà B đang cầm trên tay) có mũi

dao nhọn dài khoảng 04cm (B đã kịp rút ra khỏi ổ khóa xe 59L2-238.75 khi bị V

đánh), đâm 01 nhát vào vùng ngực trái V (bút lục số 55, 59, 63). Sau khi bị B đâm,

V tiếp tục đuổi đánh B nhưng do máu ra nhiều, nên V dừng lại và được Bé A đưa đi

cấp cứu nhưng đã tử vong tại bệnh viện huyện BC, TP.HCM.

112

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của Nguyễn Văn B do Công an

huyện BC lập hồi 21 giờ 20 phút ngày 19/4/2016 ghi nhận như sau: 01 (một) vết

thương rách da hình chấm bi đã tụ máu đường kính khoảng 02cm ở thái dương trán

phải; 01 (một) vết bầm tụ máu sưng đỏ hình ô van đường kính khoảng 04 cm ở trán

thái dương trái.

Đối với vụ án này có nhiều quan điểm khác nhau khi xem xét tội danh của

Nguyễn Văn B:

+ Quan điểm thứ nhất cho rằng B phạm tội “giết người” với tình tiết giảm

nhẹ trách nhiệm hình sự: “phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do

hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”. Vì B bị V dùng mũ bảo hiểm đuổi

đánh khiến tinh thần của B bị kích động, dẫn đến việc dùng vật nhọn đâm V tử

vong. B vẫn còn đủ bình tĩnh để quay lại, dùng dụng cụ khui bia (gắn cùng chùm

chìa khóa xe, mà B đang cầm trên tay) có mũi dao nhọn dài khoảng 04cm, đâm

đúng 01 nhát vào tim nạn nhân cho thấy tinh thần của B mặc dù có bị kích động

nhưng chưa đến mức bị kích động mạnh;

+ Quan điểm thứ hai cho rằng B phạm tội “giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh”. Vì B làm nghề chạy xe ôm kiếm tiền, đã chở V theo yêu

cầu nhưng V đã không trả tiền mà còn vô cớ tấn công B liên tục, B đã bỏ chạy

nhưng vẫn bị đuổi đánh dẫn đến tinh thần bị kích động mạnh. Con dao trong chùm

chìa khóa xe đã có sẵn trong tay B vì trước đó B đã rút chùm chìa khóa ra khỏi xe

và cầm trên tay. Trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, B đã đâm bừa 01

nhát vào ngực V, không may nhát đâm lại trúng tim V gây tử vong;

+ Quan điểm thứ ba cho rằng B phạm tội “giết người do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng”. Vì B đang bị V tấn công gây nguy hiểm cho tính mạng, sức

khỏe của bản thân. B đã sử dụng vũ lực để chống trả lại sự tấn công đang hiện hữu,

tuy nhiên việc dùng dao nhọn đâm vào tim bị hại là quá mức cần thiết;

+ Quan điểm thứ tư cho rằng B không phạm tội, hành vi của B là phòng vệ

chính đáng. Vì B đang bị V tấn công liên tục bằng gạch và nón bảo hiểm vào vùng đầu,

B đã cố gắng bỏ chạy nhưng V vẫn đuổi theo để tấn công. Trong tình thế để bảo vệ tính

113

mạng, sức khỏe và tài sản (B sợ bị cướp xe) của bản thân, B đã phải sử dụng dao nhọn

có sẵn trong tay để phòng vệ. B cũng chỉ đâm 01 nhát vào ngực V, việc V tử vong là

không may, nằm ngoài ý muốn của B. Hành vi phòng vệ của B là cần thiết.

Tòa án đã quyết định áp dụng khoản 1 Điều 96 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ

sung năm 2009 tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn B phạm tội “giết người do vượt quá

giới hạn phòng vệ chính đáng” [176].

NCS cho rằng quyết định của Tòa án như trên là chuẩn xác, đúng người,

đúng tội. Bởi vì:

+ Hành vi tấn công B của V là hành vi nguy hiểm đáng kể: giật nón bảo hiểm

mà B đang đội đánh liên tiếp vào đầu khiến B té ngã, tiếp tục nhặt 01 tấm gạch bể

ven đường dài khoảng 25cm đánh 01 cái trúng vào thái dương của B, B ngồi dậy bỏ

chạy thì bị V cầm tấm gạch, nón bảo hiểm đuổi theo tiếp tục đánh vào sau đầu B.

Những hành vi này nếu không được ngăn chặn kịp thời thì có thể gây thiệt hại về

tính mạng, sức khỏe của B;

+ Hành vi tấn công của V vẫn đang xảy ra khi B thực hiện hành vi phòng vệ;

+ Hành vi phòng vệ của B chỉ nhằm vào V và gây thiệt hại cho chính người

tấn công, không gây thiệt hại cho những người khác;

+ Hành vi dùng dao nhọn đâm vào ngực trái, gây thủng tim, tử vong cho

người tấn công trong trường hợp này là quá mức cần thiết. Vì tình huống tấn công

của nạn nhân chưa nguy hiểm đến mức người phòng vệ cần phải tước đoạt tính

mạng của người tấn công. B có thể chọn các phương án phòng vệ khác mà vẫn đảm

bảo ngăn chặn hành vi xâm hại như: gây thương tích vào mặt, tay, chân… của

người tấn công.

+ Trong tình huống này, dù tinh thần của B có bị kích động mạnh hay không

thì cũng vẫn thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội giết người do vượt quá giới hạn

phòng vệ chính đáng. Vì CTTP của tội phạm này không quy định dấu hiệu trạng

thái tinh thần của người phạm tội. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ

chính đáng quy định hình phạt nhẹ hơn so với tội giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh (quy tắc định tội danh trong tranh chấp quy phạm).

Và trên thực tế, mặc dù người đại diện hợp pháp của bị hại có kháng cáo

nhưng TAND cấp cao tại TP.HCM đã quyết định giữ nguyên quyết định về tội

phạm và hình phạt của bản án sơ thẩm [177].

114

3.2.2.2. Những sai lầm trong định tội danh

Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, thực tiễn định tội danh các tội

XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn một số sai lầm, thể hiện:

Thứ nhất, còn nhầm lẫn giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích

hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Bản án của vụ án hình sự dưới đây

cho thấy rõ điều đó:

Trần Văn H5 (SN 1982, ngụ: ấp X1, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An) bị Công

an huyện B bắt ngày 15/01/2013 về hành vi “trộm cắp tài sản” và tạm giữ tại buồng

giam A4 thuộc Nhà tạm giữ của Công an huyện B. Buồng giam A4 gồm có 16 bị can do bị can Lại Văn H làm đại diện buồng (trưởng buồng giam). Trong sinh hoạt hàng ngày, H phân chia các bị can trong buồng giam thành 03 mâm như sau:

- Mâm thứ nhất (còn gọi là mâm trên) gồm có các bị can: Lại Văn H, Lâm

Hoàng T, Võ Ngọc T15, Huỳnh Văn T16 và Nguyễn Hoàng M3 (sinh năm 1981). H

giao cho Lâm Hoàng T được quản lý trật tự trong buồng giam.

- Mâm thứ hai (còn gọi là mâm giữa) gồm có các bị can: Nguyễn Văn H4,

Phạm Nguyễn Xuân M, Trần Viết L, Trần Hoàng V và Huỳnh Tấn D. H giao cho

Nguyễn Văn H4 trực tiếp quản lý, trông coi các bị can ở mâm 3.

- Mâm thứ ba (còn gọi là mâm cuối) gồm có các bị can: Nguyễn Hoàng M3

(sinh năm 1986), Mai Nhật T6, Nguyễn Ngọc P, Trang Hoàng T8, Trần Văn T4 và

Trần Văn H5. H giao nhiệm vụ cho Nguyễn Văn H4 được quyền yêu cầu các bị can

này thực hiện các công việc: Rửa chén, giặt đồ, lau chùi buồng giam, chùi toilet…

Riêng H5 bị nhiễm HIV nên H không cho H5 làm công việc gì.

H tự đặt ra nội quy trong buồng giam, quy định mọi hoạt động bình thường

đều phải xin phép H mới được làm; H không cho phép thì không được làm, nếu tự ý

làm thì sẽ bị “sinh hoạt” (tức là bị đánh). Điển hình như các bị can vi phạm nội quy

trong buồng giam đã bị H nhận đầu vào bồn nước (bị can V, T4) hoặc cho ăn phân

(bị can P, T4). Ngoài ra, đối với các bị can mới nhập buồng giam cũng bị “sinh

hoạt” tức là bị đánh, như sau: H kêu T hoặc H4 thông báo nội quy buồng giam, sau

đó hỏi bị can mới vào: “Ba, sáu, chín chọn số nào?”. Tùy theo bị can đó chọn số thì

sẽ bị đá vào ngực 3, 6 hoặc 9 cái; nếu chống cự thì sẽ bị đánh nhiều hơn. Do H5 bị

nhiễm HIV nên lúc mới vào buồng giam H5 không bị đánh; H5 chọn bị đánh 03 cái

nhưng H cho thiếu và nói nếu H5 có vi phạm gì thì sẽ đánh gấp đôi.

115

Khoảng 16 giờ 30 ngày 19/01/2013 là thời gian các bị can trong buồng giam

A4 đi tắm, do H5 bị nhiễm HIV nên được H cho tắm sau cùng. Trong lúc tắm, tay

H5 còn dính xà bông mà H5 đưa tay vào bồn múc nước. H nhìn thấy nên ra dấu và

nói nhỏ với T đánh H5. H đưa lên 06 ngón tay tức là kêu T đá vào ngực H5 06 cái.

H tiếp tục đưa lên 02 ngón tay tức là kêu T đá vào đầu H5 02 cái nhưng lúc này H5

đang tắm nên T chưa đánh. Sau khi cán bộ quản giáo điểm danh buồng giam xong,

H tiếp tục kêu T xuống đánh H5 và H4 đi theo sau T. T kêu các can phạm ở mâm 3

xếp hàng, ngồi “chấp hành” (tư thế ngồi xếp bằng, hai tay để sau lưng, dựa lưng vào

tường). T đi đến chỗ H5 ngồi, hỏi H5 biết tội gì không. T nói lỗi cho H5 nghe rồi

đưa chân đá vào ngực H5 nhưng H5 đứng dậy xô T ra và bỏ chạy về hướng cửa

buồng giam. Thấy H đang đứng ở cửa buồng giam nên H5 sợ và chạy vào góc

buồng giam rồi bị té ngã.

Do H5 phản ứng lại việc “sinh hoạt”, các bị can khác trong buồng giam đuổi

theo và dồn H5 vào góc buồng giam để đánh. Kết quả điều tra xác định được các bị

can T, M3 (sinh năm 1981), Xuân M, H4, L1, V có xông vào đấm, đá vào người

H5; mỗi người đánh H5 khoảng 02 – 03 cái.

Sau đó, H nhìn thấy H5 bị chảy máu ở mí mắt dính vào mền, gối đang để ở

góc buồng giam nên H ra lệnh: “Lôi nó ra ngoài trói lại đánh nó cho tao, có gì

trong ngoài tao lo hết”. Theo lệnh của H, các bị can H4, L1, V, Xuân M kéo H5 ra

giữa buồng giam. H kêu các bị can Xuân M, L1, V, T8, T6, M5 (sinh năm 1986),

T4 giữ tay chân H5 để cho H5 nằm ngửa, Xuân M dùng nùi giẻ cột và giữ miệng

H5 lại không cho H5 kêu la. T và H4 thay phiên dùng chân đạp vào vùng ngực,

bụng của H5; mỗi người đạp khoảng 05 – 06 cái. T lấy chai Sting có chứa nước

đánh vào đầu H5 01 cái làm nắp chai văng ra ngoài. H kêu T lấy cục nước đá được

quấn trong cái khăn để đánh H5. T dùng cục nước đá được quấn trong cái khăn

đánh vào vùng ngực, bụng của H5 khoảng 05 – 06 cái. Lúc này, H5 có xin H đừng

đánh H5 nữa, nhưng H không đồng ý và nói: “Tao đối xử tốt với mày, sao mày dám

chống lại tao”, rồi kêu Xuân M tiếp tục đánh H5. Xuân M lấy dép đánh vào cổ của

H5 khoảng 03 – 04 cái. Sau đó, H kêu H4 tiếp tục đánh H5. H4 dùng cục nước đá

được quấn trong cái khăn đánh vào vùng ngực, bụng của H5 khoảng 05 – 06 cái. H

kêu các bị can khác đỡ H5 ngồi dậy rồi chỉ H4 đánh vào hình xăm con đại bàng trên

lưng của H5. Vừa đánh, H4 vừa nói: “Đánh cho con đại bàng của mày gãy cánh

116

luôn” và đánh được khoảng 05 – 06 cái thì bể cục nước đá. Thấy H4 mệt, H kêu L1

và Xuân M lấy cục nước đá được quấn trong cái khăn tiếp tục thay phiên đánh H5

mỗi người đánh khoảng 03 – 04 cái nữa.

Đến giờ ăn cơm nên H kêu M3 (sinh năm 1981) và T trói tay chân H5 lại, lôi

H5 bỏ xuống sàn nước để các bị can khác dọn dẹp buồng giam dọn cơm ra ăn,

không cho H5 ăn cơm. Khi ăn cơm xong, H kêu một số bị can lôi H5 lên trên buồng

giam, ngồi dựa lưng vào tường để lấy chỗ rửa chén.

Lúc này, H thấy H5 mệt, tưởng rằng H5 giả vờ nên H ra lệnh cho các can phạm ở

mâm 3 tiếp tục đánh H5 nhưng không ai đánh. Thấy vậy, H ra lệnh cho T8 đánh H5. T8

đi lại đá nhẹ vào người H5 02 cái. Thấy H5 tiếp tục mệt, thở yếu, H kêu các bị phạm

khác thay đồ và thoa dầu cho H5. Thấy H5 vẫn không có biểu hiện khỏe lên, H kêu H4

báo cho cán bộ quản giáo đưa H5 đi cấp cứu, đến khoảng 20h30 cùng ngày thì H5 chết.

Ngày 18/02/2013, Trung tâm Pháp y TP. HCM có kết luận giám định pháp y

tử thi số 51/GPTT.13 kết luận nguyên nhân chết của Trần Văn H5 là do “Đa chấn thương, não sung huyết; gãy nhiều xương sườn; hai phổi dập rải rác; vỡ tĩnh mạch chủ dưới; dập gan và cơ hoành trái”.

TAND TP.HCM đã tuyên bố các bị cáo Lại Văn H, Lâm Hoàng T, Nguyễn

Văn H4, Phạm Nguyễn Xuân M, Trần Viết L, Trần Hoàng V, Nguyễn Hoàng

M3 (sinh năm 1981), Trần Văn T4, Mai Nhật T6, Nguyễn Hoàng M3 (sinh năm

1986), Trang Hoàng T8 đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định

tại khoản 3 Điều 104 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (gây thương tích,

gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà dẫn đến chết người) với nhận định

rằng: Khi thấy nạn nhân H5 mệt, khó thở, tất cả các bị cáo đều dừng lại và xoa dầu,

thay quần áo cho nạn nhân, đồng thời đã thông báo cho cán bộ quản giáo biết để

đưa nạn nhân đi cấp cứu. Vì vậy, về mặt chủ quan của các bị cáo đều không có ý

thức tước đoạt mạng sống của nạn nhân, các bị cáo không bỏ mặc, bàng quan để

mặc hậu quả nạn nhân chết xảy ra... [178].

NCS cho rằng việc xác định các bị cáo trên phạm tội cố ý gây thương tích là

chưa chính xác. Bởi vì:

- Để phân biệt giữa tội giết người và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn

hại cho sức khỏe của người khác trong trường hợp có hậu quả chết người xảy ra thì

cần xác định lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đối với hậu quả chết người đã xảy ra.

Ở tội giết người, chủ thể cố ý đối với hành vi và cố ý đối với hậu quả chết người

117

xảy ra, tức là họ mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy ra.

Ngược lại, ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác,

chủ thể mặc dù cố ý với hành vi nhưng lại vô ý với hậu quả chết người xảy ra, tức là

họ không mong muốn và cũng không có ý thức để mặc cho hậu quả chết người xảy

ra. Việc hậu quả chết người xảy ra nằm ngoài dự liệu của chủ thể [52, tr.146], [214,

tr.55,88], [219, tr.112].

- Để xác định lỗi của chủ thể đối với hậu quả chết người đã xảy ra là lỗi cố ý

hay lỗi vô ý thì cần làm rõ: Chủ thể thực hiện hành vi có thấy trước hành vi của

mình tất yếu hoặc có thể gây ra hậu quả chết người hay không? Nếu họ không thấy

trước điều đó thì hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi

vô ý. Nếu họ thấy trước hành vi của mình là tất yếu gây ra hậu quả chết người thì

hình thức lỗi đối với hậu quả chết người chỉ có thể là hình thức lỗi cố ý (trực tiếp).

Nếu họ thấy trước hành vi của mình là có thể gây ra hậu quả chết người thì cần xem

họ mong muốn, chấp nhận hay loại trừ khả năng hậu quả chết người xảy ra (nếu

mong muốn hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý trực tiếp, nếu chấp

nhận hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là cố ý gián tiếp, nếu loại trừ khả

năng hậu quả chết người xảy ra thì hình thức lỗi là vô ý vì quá tự tin) (đã phân tích

cụ thể tại tiểu mục 2.3.1.1 của Chương 2).

- Trong vụ án này, mặc dù biết người bị hại Trần Văn H5 bị nhiễm HIV, có

sức khỏe yếu và chỉ vì một lỗi nhỏ của người bị hại trong quá trình sinh hoạt; thực

hiện sự chỉ đạo của bị cáo H, các bị cáo đã thực hiện một chuỗi liên tục các hành vi

dùng vũ lực, tấn công liên tiếp với quyết tâm cao và dã man đối với người bị hại.

Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn tới việc người bị hại tử vong. Việc các bị cáo T,

H4, L1, Xuân M cùng với sự giúp sức của các bị cáo khác thực hiện sự chỉ đạo của

bị cáo H dùng tay, chân, chai nước và cục nước đá có quấn khăn đánh liên tiếp vào

các vùng trọng yếu trên cơ thể người bị hại đã thể hiện ý chí trong quá trình thực

hiện hành vi phạm tội của các bị cáo này. Các bị cáo phải biết được với hành vi như

trên của mình hoàn toàn có thể dẫn đến chết người nhưng vẫn thực hiện, cho thấy

các bị cáo chấp nhận hậu quả chết người có thể xảy ra. Hành vi phạm tội của các bị

cáo đã thể hiện tính côn đồ, hung hãn, coi thường tính mạng người khác và thực tế

những hành vi đó đã tước đoạt sinh mạng của Trần Văn H5.

- Nhận định và đánh giá của Tòa án cấp sơ thẩm là không phản ánh đúng các

tình tiết khách quan cũng như hậu quả xảy ra trong vụ án, bởi vì hành vi khách quan

118

của các bị cáo đã rõ, những hành vi đó đã thể hiện ý thức chủ quan của các bị cáo

trong quá trình thực hiện tội phạm; hậu quả xảy ra và nguyên nhân tử vong của

người bị hại đã minh chứng cho điều này. Việc nhận định cho rằng, các bị cáo

không có ý thức bỏ mặc hoặc không mong muốn hậu quả chết người xảy ra... ở

trường hợp này của Tòa án cấp sơ thẩm là không phản ánh được ý chí của các bị

cáo trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội.

Với những phân tích như trên, NCS cho rằng cần xác định các bị cáo đã nêu

tên ở trên phạm tội giết người với tình tiết định khung tăng nặng là “có tính chất

côn đồ” mới đảm bảo đúng người, đúng tội.

Và thực tế, trên cơ sở kháng nghị của VKSND TP.HCM, TAND cấp cao tại

TP.HCM đã tiến hành xét xử phúc thẩm và tuyên bố các bị cáo Lại Văn H, Lâm

Hoàng T, Nguyễn Văn H4, Phạm Nguyễn Xuân M, Trần Viết L, Trần Hoàng V,

Nguyễn Hoàng M3 (sinh năm 1981), Trần Văn T4, Mai Nhật T6, Nguyễn Hoàng

M3 (sinh năm 1986) và Trang Hoàng T8 phạm tội “Giết người” theo quy định tại

điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 [179].

Khoảng 23 giờ 00 phút, ngày 10/11/2015, sau khi uống bia với bạn, Huỳnh

Trung N về phòng trọ tại địa chỉ số C4/6R ấp 3, xã K1, huyện K2, TP.HCM. Khi đi

ngang qua vị trí mà nhóm của Nguyễn Hoài A, Trần Đức C, Vũ Trí S, Vũ Trí P

đang ngồi uống bia tại trước phòng trọ của A (cùng dãy phòng trọ với gia đình của

N, cách khoảng 5m), N nghe tiếng nhóm của A chửi và nghĩ là nhóm của A chửi

mình. Huỳnh Trung N về phòng trọ lấy xe mô tô biển số 84E1 081.53 chạy ra

đường Bờ Xe Lam một đoạn rồi dừng lại gọi điện thoại cho Huỳnh Văn D (anh, em

bà con với N), yêu cầu D hỗ trợ đánh nhóm của A. Lúc này, D đang uống bia với W

và 2 bạn của W (đều không rõ lai lịch), liền nói N đến chỗ của D, tại quán vịt quay

trên đường Hưng Nhơn, xã K1, huyện K2, TP.HCM.

Khi đến N rủ D đi đánh nhau thì D, W và 01 người bạn của W đồng ý. N

điều khiển xe mô tô biển số 84E1-081.53 chở D chạy trước. Trên đường đi, N nhặt

lấy cây tầm vông dài khoảng 1,15m để đánh nhau với nhóm A đang ngồi uống bia.

Khi cách phòng trọ khoảng 30m, N một mình đi bộ vào trong, còn D và những

người đi cùng đứng bên ngoài. N tay cầm cây tầm vông đến chỗ A, C, S và P đang

119

ngồi uống bia, đánh vào người A, nhưng bị A đưa ghế nhựa lên đỡ, đồng thời ôm

ngang người N lôi ra ngoài định đánh. Bà Thạch Thị C (mẹ của N) đang ở phòng trọ

nghe tiếng N liền chạy ra can ngăn. N bỏ lại cây tầm công chạy ra kêu D, W vào

đánh nhau với nhóm của A. N, D, W lượm đá ven đường ném về phía nhóm của A.

Bị ném đá, C bỏ vào phòng trọ, còn A, P, S lấy vỏ chai bia ném trả lại về phía nhóm

của N. P nhặt cầm tầm vông N làm rơi trước đó, cùng A, S (mỗi người cầm 2 vỏ

chai bia) đuổi đánh nhóm của N. Khi đến đầu hẻm trước nhà số C4/6E, ấp 3, xã K1,

huyện K2, TP.HCM, nhóm của A đuổi kịp nhóm của N. P đánh N bằng cây tầm

vông nhưng không trúng liền ôm vật N ngã xuống đường. S và A chạy đến cùng P

đánh N. Bà O chạy đến lấy thân mình che cho N, nên cũng bị đánh. D và W thấy N

bị đánh bỏ chạy ra đầu hẻm lấy xe về.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 1464/TT.15 ngày 08/12/2015,

Trung tâm pháp y Sở Y tế TP.HCM kết luận Vũ Trí S chết do chấn thương sọ não.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Huỳnh Văn L cho rằng bị cáo không cố ý gây ra

cái chết cho bị hại, phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng. Tuy nhiên, TAND TP.HCM vẫn xác định Huỳnh Văn L phạm tội giết người

theo quy định tại khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 vì cho rằng bị cáo L dùng cây

đánh vào đầu nạn nhân là vùng trọng yếu của cơ thể và bị cáo không bị nạn nhân

tấn công nên không thể coi là phòng vệ chính đáng.

Trong vụ án này, NCS cho rằng:

- Lập luận của luật sư bào chữa về lỗi của bị cáo L đối với cái chết của bị hại

là không phù hợp. Không thể nói rằng L không cố ý gây ra cái chết cho bị hại vì

hành vi của L là dùng gậy đánh vào đầu bị hại, đây là hành vi có tính nguy hiểm cao

và có thể gây hậu quả chết người, bị cáo nhận thức được điều đó nhưng vẫn thực

120

hiện hành vi chứng tỏ bị cáo có ý thức chấp nhận hậu quả xảy ra (lỗi cố ý gián tiếp)

hoặc mong muốn cho hậu quả xảy ra (lỗi cố ý trực tiếp);

- Lập luận của Tòa án cho rằng bị cáo L phạm tội giết người vì bị cáo dùng

cây đánh vào vùng trọng yếu của cơ thể và bị cáo không bị nạn nhân tấn công nên

không thể coi là phòng vệ chính đáng cũng chưa thực sự phù hợp:

+ Phòng vệ chính đáng không chỉ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của bản

thân người bị tấn công, mà còn có thể bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của cơ quan, tổ

chức, của người khác. Hay nói cách khác, không chỉ có người nào bị tấn công mới

được phép phòng vệ, mà bất kỳ ai cũng có thể thực hiện quyền phòng vệ chính đáng

để bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của cá nhân hoặc của xã hội;

+ Trong vụ án này, mặc dù N (con của L) là người gây sự trước, nhưng sau

đó N đã bị vật ngã xuống đường và bị S, A, P cùng xông vào đánh. Lúc này thì tính

mạng, sức khỏe của N đang bị đe dọa, đây cũng là những khách thể quan trọng

được luật hình sự bảo vệ và bất kỳ ai khi chứng kiến tình huống này cũng được

quyền phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của N đang bị đe dọa;

+ Huỳnh Văn L (cha của N) trước đó không hề có mâu thuẫn với S, A, P.

Khi L biết sự việc đánh nhau, chạy đến hiện trường thì thấy N đang nằm ngã dưới

đường và bị S, A, P đánh, bà O (vợ của L, mẹ của N) đang che cho N nên cũng bị

đánh, chị X (con của L, em của N) can ngăn nhưng không được, A lại đang giơ cây

tầm vông định đánh N. Rõ ràng trong tình huống này, L được phép và cần thiết phải

phòng vệ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con trai và vợ;

+ Khi giật được cây tầm vông từ tay A, L chỉ đánh 01 cái vào đầu A. Khi bị

S cầm cây đánh vào lưng, L cũng chỉ quay lại đánh trả 01 cái vào đầu S. Khi S ngã

xuống, N (con của L) đã chạy thoát được thì L không tiếp tục đánh nữa mà ném cây

tầm vông rồi về phòng trọ. Điều đó cho thấy mục đích sử dụng vũ lực của L chỉ là

để bảo vệ tính mạng, sức khỏe của con và vợ L;

+ Đáng lẽ L không nên dùng gậy đánh vào đầu bị hại vì đó là phần trọng yếu

trên cơ thể, khi bị tác động mạnh dễ dẫn đến hậu quả chết người, mà L có thể đánh

vào tay, chân, lưng… của A và S thì hợp lý hơn, có thể được chấp nhận là phòng vệ

chính đáng. Hành vi của L đã vượt quá mức cần thiết khi phòng vệ.

Với những phân tích như trên, NCS thấy rằng trong trường hợp này cần xác

định Huỳnh Văn L phạm tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng

mới phù hợp.

121

tiếng, anh Thọ cùng chị Trinh và chị Mai can ngăn, chị Mai kéo anh Hiếu đi ra khỏi

phòng. Sau đó, anh Hiếu quay vào phòng chửi H, H nói: “Từ nay tao không chơi với

mày nữa”. Anh Hiếu lao vào dùng tay đánh 01 cái trúng vào mặt bên trái của H. H

cúi người xuống lấy dao bấm để dưới sàn nhà, cầm dao bằng tay phải (lưỡi dao

hướng ngón cái) đâm 01 nhát vào đùi trái của anh Hiếu. Anh Hiếu xông vào giằng

co để giật lấy con dao trên tay H nhưng không giật được. H thấy đùi của anh Hiếu

chảy máu nên xếp con dao bấm lại bỏ vào túi quần rồi đón xe buýt về nhà tại số

2221/1/2/1/15/1 Đường H, khu phố 7, thị trấn N, huyện N, TP.HCM (bút lục 60-

61). Còn anh Hiếu được chị Trinh và chị Mai đưa đến Bệnh viện đa khoa quận 7

cấp cứu nhưng đã tử vong trên đường đến bệnh viện.

Tại bản Kết luận giám định số 301-19/KLGĐ-PY ngày 15/03/2019 của

Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP.HCM kết luận giám định pháp y tử thi Đặng

122

Thanh Hiếu như sau (bút lục 45-46): “Nguyên nhân chết: Đặng Thanh Hiếu chết do

sốc mất máu không hồi phục do vết thương đâm đứt động tĩnh mạch đùi trái”.

TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Đào Thanh H phạm tội “Giết người” theo

quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 [180].

NCS cho rằng việc xác định bị cáo Đào Thanh H phạm tội giết người trong

vụ án này là chưa thực sự chính xác. Bởi vì:

- H chỉ đâm vào đùi bị hại và chỉ đâm đúng 01 nhát. Khi bị hại tiếp tục xông

vào giật dao của bị cáo thì bị cáo H vẫn không đâm nữa. Điều đó cho thấy rõ ràng bị

cáo chỉ muốn dùng dao gây thương tích cho anh Hiếu và cũng để anh Hiếu không

dám đánh bị cáo nữa. Nếu muốn giết anh Hiếu, rõ ràng bị cáo H có điều kiện để

đâm nhiều nhát vào những vùng trọng yếu của cơ thể như ngực, đầu, cổ…;

- Vì đã lựa chọn đâm vào đùi bị hại (không phải là vùng trọng yếu của cơ

thể) nên bị cáo H cũng không ngờ vết đâm lại gây đứt động mạch. Bị cáo không

mong muốn và cũng không dự liệu trước hậu quả chết người có thể xảy ra;

- Tham khảo án lệ số 01/2016/AL của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao

thông qua ngày 6/4/2016 thì hành vi của bị cáo H trong vụ án chúng ta đang xem

xét có nét tương đồng với hành vi của bị cáo Mạnh được nêu trong án lệ:

Thậm chí nếu so sánh với vụ việc của bị cáo H mà chúng ta đang xem xét thì

hành vi của bị cáo Mạnh được nêu trong án lệ còn có tính chất nguy hiểm cao hơn,

vì bị cáo Mạnh không hề có mâu thuẫn với nạn nhân, chỉ vì tiền mà nhận lời gây

thương tích thuê, bị cáo cũng đâm bị hại đến 02 nhát [89]. Tuy nhiên, hành vi của

Mạnh mặc dù ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm đều xét xử về tội “giết người”, nhưng

cấp giám đốc thẩm đã xác định hành vi của Mạnh phạm tội “cố ý gây thương tích”

trong trường hợp “dẫn đến chết người”.

Với những phân tích như trên, NCS cho rằng cần xác định hành vi của bị cáo Đào

Thanh H phạm tội “cố ý gây thương tích” trong trường hợp “dẫn đến chết người”.

123

Thứ tư, xác định sai hoặc không thống nhất trong việc áp dụng một số

tình tiết định khung như:

- Xác định không đúng tình tiết “giết 02 người trở lên”.

Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2022/HS-ST ngày 21/9/2022 của TAND

TP.HCM với nội dung vụ án tóm tắt như sau:

Vào khoảng hơn 20 giờ 40 phút ngày 11/9/2020 Phạm Trí Đ và Đoàn

Nguyễn Khắc T6 hẹn đánh nhau tại trước quán T9, địa chỉ số 02 lô B2, chung cư A,

phường T10, Quận X12. Tại đây, Phạm Trí Đ cầm dao, Nguyễn Tấn S5 cầm nón

bảo hiểm, Nguyễn Thanh D4 cầm cục đá cùng Phạm Kiến T8 đánh Trường. Còn

Nguyễn Đức T1, Vũ Tấn T2, Huỳnh Thanh T4, Phạm Tiến D3 và Phạm Vũ Anh K7

được Trường rủ đến quán T9 phụ đánh nhóm của Đ. Trong khi Đ, S5, D4 đuổi theo

nhóm Tuấn T13, còn Kiến T8 đánh T6 thì Đức T1 và Tấn T2 dùng nón bảo hiểm

ném vào Kiến T8. K7 cầm ghế nhựa cùng T1, T6, Tấn T2 đuổi đánh Kiến T8 sang

bên kia đường. Lúc này Thanh T4 nhặt cục đá và cùng Tiến D3 chạy vào phụ nhóm

Trường đánh Kiến T8. Sau đó, Đ, S5, D4 quay lại cùng Kiến T8 đánh lại nhóm của

T6. Hậu quả Đ dùng dao đâm chết T6, đâm T1 bị thương với tỉ lệ 21% (vết thương

thấu ngực gây nguy hiểm cho tính mạng) và đâm Tấn T2 bị thương với tỉ lệ 07%.

TAND TP.HCM đã áp dụng điểm a, n khoản 1 Điều 123 (giết 02 người trở

lên và phạm tội có tính chất côn đồ); điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 17,

Điều 40, Điều 58 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Xử phạt: Bị cáo

Phạm Trí Đ tử hình về tội “Giết người” [170].

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo Phạm Trí Đ lập luận:

Bản án sơ thẩm đã tuyên bị cáo Phạm Trí Đ phạm tội giết người với 2 tình tiết định

khung quy định tại khoản 1 Điều 123 BLHS là: điểm (a) giết 2 người trở lên, và

điểm (n) có tính côn đồ. Toàn bộ bản án sơ thẩm, ngay tại phần đầu bản án và cả

phần tuyên kháng cáo, TAND TP.HCM chỉ nêu anh Đoàn Nguyễn Khắc T6 là

người bị hại, có đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Khắc Công được quyền kháng

cáo, ngoài ra không còn ai khác là người bị hại trong tội danh “Giết người”. Vì vậy

đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sửa bản án sơ thẩm về việc không áp dụng điểm

(a) khoản 1 Điều 123 khi xem xét hành vi của bị cáo.

124

TAND cấp cao tại TP.HCM cũng xác định: Căn cứ các chứng cứ, tài liệu thu

thập được phản ánh trong nội dung vụ án xác định được hậu quả của hành vi xâm

hại làm 01 người chết. Nội dung này phù hợp với việc xác định tư cách người tham

gia tố tụng là bị hại trong bản án sơ thẩm là một người (anh Đoàn Nguyễn Khắc

Tường), không có bị hại nào khác được xác định trong bản án sơ thẩm (kể cả những

người bị gây thương tích). Trong khi đó, phần nhận định và quyết định của bản án

sơ thẩm lại xác định các bị cáo giết nhiều người là chưa phù hợp với phần xác định

tư cách bị hại và hậu quả chết người mà nội dung bản án xác định. Chính vì vậy,

Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm thấy cần phải sửa bản án sơ thẩm theo hướng

không áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự, khi xem xét lượng

hình đối với tội danh “Giết người” của các bị cáo, cho phù hợp với thực tế khách

quan và việc xác định bị hại của vụ án [172].

Trong vụ án này, NCS đồng ý với quan điểm của TAND cấp phúc thẩm. Vì

chỉ có bị hại T6 chết nên cần xác định rõ hành vi đâm T1 bị thương với tỉ lệ 21%

(vết thương thấu ngực gây nguy hiểm cho tính mạng) và đâm Tấn T2 bị thương với

tỉ lệ 07% của bị cáo Phạm Trí Đ là hành vi giết người hay cố ý gây thương tích?

Nếu xác định đó cũng là hành vi giết người thì mới có thể áp dụng tình tiết giết

nhiều người. Nếu xác định đó là hành vi cố ý gây thương tích thì không thể áp dụng

tình tiết giết nhiều người mà cần truy cứu thêm về tội cố ý gây thương tích (việc

phân biệt giữa tội giết người với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác đã được trình bày chi tiết tại tiểu mục 2.3.1.1 của Chương 2).

Vì T1 và Tấn T2 chỉ bị thương (không chết) nên chỉ có thể xác định hành vi đâm T1

và Tấn T2 của Đ là hành vi giết người nếu Đ mong muốn tước đoạt tính mạng của

họ (lỗi cố ý trực tiếp). Mặc dù hành vi đâm thấu ngực, gây nguy hiểm cho tính

mạng (của T1) là một trong những căn cứ quan trọng để xác định Đ có mong muốn

tước đoạt của nạn nhân hay không nhưng cũng cần phải xem xét thêm nhiều căn cứ

khác và cần phải đặt vào hoàn cảnh cụ thể là trong quá trình đánh nhau hỗn loạn, xô

xát qua lại nên việc bị cáo Đ có thể đâm bừa, đâm ẩu, không quan tâm đến hậu quả

(lỗi cố ý gián tiếp, không mong muốn cho hậu quả chết người xảy ra).

125

- Xác định không đúng, không thống nhất trong nhận thức và áp dụng

tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ”.

+ Vụ án 1: Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST ngày 05/01/2017 của

TAND TP.HCM với nội dung vụ án như sau:

Lúc 18 giờ ngày 21/5/2015, Chuah Chow F đến phòng số 102 khách sạn V

L, số 406 Trần P1, Phường 7, Quận 5, TP.HCM để gặp bạn là Alex K K(tự Ngũ

Kim P2, quốc tịch Mỹ). Trong lúc nói chuyện, Alex K K có hỏi mượn tiền của

Chuah Chow F để mua vé máy bay về Mỹ. Chuah Chow F không đồng ý nên hai

bên xảy ra cãi vã. Alex K K dùng tay phải đánh vào vai phải của Chuah Chow F

nên Chuah Chow F dùng tay phải bóp vào miệng của Alex K K. Trong lúc hai bên

giằng co, Alex K K cầm con dao rọc giấy để trên bàn đâm Chuah Chow F trúng

ngực trái, tạo ra vết thương kích thước 0,5 x 0,1cm. Chuah Chow F dùng tay phải

giật lại con dao của Alex K K rồi dùng tay phải cầm con dao trên đâm vào cổ của

Alex K K và chồm tới nhấn dao mạnh vào cổ và kéo mạnh về hướng bên phải. Alex

K K chụp lấy gạt tàn thuốc bằng thủy tinh trên bàn định đánh Chuah Chow F nhưng

do bị mất máu nhiều nên ngã quỵ xuống sàn nhà và làm gạt tàn thuốc rơi xuống đất.

Alex K K nằm giãy giụa dưới sàn nhà trong vũng máu được một lúc thì bất động.

Bản kết luận giám định pháp y tử thi số: 445-15/KLGĐ-PY ngày 07/07/2015

của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM kết luận về nguyên nhân chết của nạn

126

nhân Alex K K kết luận: “Nguyên nhân chết: Alex K K chết do sốc mất máu không

hồi phục do vết thương đứt động mạch cảnh phải”.

TAND TP.HCM đã áp dụng điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 sửa

đổi, bổ sung năm 2009 tuyên bố bị cáo Chuah Chow F phạm tội “Giết người” với

tình tiết “có tính chất côn đồ” [181].

NCS cho rằng việc xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng định

khung “có tính chất côn đồ” như trên là chưa thực sự phù hợp. Bởi vì:

Trong vụ án chúng ta đang xem xét, bị cáo Chuah Chow F không giết bị hại

một cách vô cớ hoặc vì duyên cớ nhỏ nhặt. Khi bị cáo không cho bị hại mượn tiền

thì bị hại cự cãi, chủ động dùng tay phải đánh vào vai phải của bị cáo nên bị cáo

dùng tay phải bóp vào miệng bị hại. Bị hại tiếp tục cầm con dao rọc giấy có mũi

nhọn đâm vào ngực trái của bị cáo. Điều đó cho thấy bị hại có thể muốn tước đoạt

tính mạng của bị cáo và hành vi đó hoàn toàn có thể dẫn đến chết người. Xét ở khía

cạnh khác thì chính bị hại mới là người thể hiện tính côn đồ khi chỉ vì bị cáo không

cho mượn tiền mà sẵn sàng dùng vũ lực tấn công, sẵn sàng dùng dao đâm vào ngực

bị cáo. Trong tình huống đó, tinh thần của bị cáo sẽ rất dễ bị kích động, dẫn đến

việc tước đoạt tính mạng của bị hại.

Với những phân tích như trên, nghiên cứu sinh cho rằng việc áp dụng tình

tiết tăng nặng định khung “có tính chất côn đồ” đối với bị cáo Chuah Chow F là

không chính xác.

127

+ Vụ án 2: Bản án hình sự sơ thẩm số: 433/2018/HSST ngày 16/11/2018 của

TAND TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung như sau:

Khoảng 10 giờ 30 phút, ngày 28/8/2017, Chung Thị Ngọc Tr ngồi uống nước

cùng với Dương Thị Hồng H (là em họ của Tr) và Phan V (là bạn trai của Tr) tại

quán cà phê Up, địa chỉ: 213/6A đường D2, phường 25, quận Bình Thạnh. Lúc này,

Nguyễn Ngọc T (là bạn trai cũ của Tr, đã chia tay khoảng 03 tháng) đi ngang qua

quán cà phê Up và nhìn thấy Tr nên nảy sinh ý định đòi lại 01 điện thoại Iphone 7

plus và số tiền 7.000.000 đồng mà trong thời gian yêu nhau T đưa cho Tr. T đi vào

quán cà phê Up gặp Tr đòi lại điện thoại Iphone 7 plus và số tiền 7.000.000 đồng,

nhưng Tr không đồng ý trả, T giật lấy điện thoại Iphone 7 plus trên tay Tr nhưng

không được. T dùng tay tát vào mặt Tr 01 cái thì V đứng lên giữ tay T lại và đẩy T

ra xa Tr. Tr nói với T “Điện thoại gì mà đòi” và không đồng ý trả nên T nắm tóc

kéo Tr đi thì V ôm can ngăn T lại. Tr và H đi bộ về phòng trọ số 60/13 Ung Văn

Khiêm, Phường 25, quận Bình Thạnh gần đó, còn V và T ở lại quán, V nói với T có

gì từ từ giải quyết nhưng T không đồng ý, đề nghị sang phòng trọ của Tr để nói

chuyện và giải quyết thì V đồng ý, cả hai cùng đi đến nhà trọ của Tr. Do không biết

Tr ở phòng nào nên cả hai đứng trước hành lang lầu 1 nói chuyện. Trong khoảng

thời gian này, Tr, H và Đỗ Thị H1 (là bạn cùng phòng với Tr) đi thang máy xuống

và sang quán cà phê UP tìm T vàV nhưng không thấy nên đi trở lại phòng trọ.

Do không gặp được Tr nên T đi xuống tầng để xe của nhà trọ để đi về và V

đi theo sau. Lúc này, Tr, H và H1 từ quán cà phê về và vào trong nhà trọ thì gặp T và V

tại tầng để xe. Vừa nhìn thấy T, Tr xông vào dùng tay đánh vào mặt T 02 cái. T nắm

được tay Tr thì H1 và H xông vào can ngăn, nắm giữ tay T. Còn V từ phía sau lưng,

dùng tay kẹp cổ T, kéo T ra xa Tr và làm T ngã xuống nền nhà. T vùng dậy, V tiếp tục

ôm, giằng co và đẩy T về phía cầu thang bộ. Lúc này, Tr tiếp tục lao vào đánh 01 cái

trúng vào mặt T, còn V ôm đẩy T (với tư thế mặt đối mặt) làm T ngã ngửa vào bàn bảo

vệ, tay phải chống lên bàn chạm vào con dao (loại dao Thái lan, dài khoảng 25cm, lưỡi

bằng kim loại, cán bằng nhựa màu vàng, đã thu giữ được), tay phải T cầm lấy con dao

vòng tay đâm ngang trúng vào lưng V và tiếp tục đâm 01 nhát vào ngực của V, V kẹp

nách tay cầm dao của của T, T giằng lại con dao đang dính trên ngực V nhưng không

được. Khi con dao được rút ra khỏi ngực V thì V loạng choạng ngã gục xuống nền nhà.

Phan V được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện nhân dân Gia Định nhưng đã tử vong. Người

128

dân xung quanh đến tước lấy dao và bắt giữ T giao cho Công an phường 25, quận Bình

Thạnh lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Tại Kết luận giám định pháp ý tử thi số 803-17/KLGĐ-PY ngày 12/10/2017

kết luận: “Phan V chết do sốc mất máu cấp bởi vết thương đâm thấu tim”.

Tòa án đã xác định Nguyễn Ngọc T phạm tội “giết người” theo quy định tại

khoản 2 Điều 93 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (không áp dụng tình

tiết tăng nặng định khung “có tính chất côn đồ” [182].

NCS cho rằng nếu so sánh với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2017/HSST đã

nêu ở trên (vụ án 1) thì bị cáo Nguyễn Ngọc T đã thực hiện hành vi giết người vì lí

do “nhỏ nhặt” hơn so với trường hợp của bị cáo Chuah Chow F. Vì T là người chủ

động gây hấn trước (đòi, giật điện thoại của Tr; tát vào mặt Tr, dùng tay nắm tóc Tr

kéo đi); phía bị hại V có nhiều người đi cùng nhưng chỉ có Tr (là phụ nữ) đánh T (là

nam giới), còn V (là nam giới) chỉ giữ, đẩy T chứ chưa có hành vi nào thực sự nguy

hiểm đến tính mạng, sức khỏe của T. Trong tình huống đó, T đã dùng dao đâm 02

nhát vào lưng và ngực bị hại, gây thủng tim dẫn đến tử vong. Trong khi đó, ở Bản

án số 06/2017/HSST xác định bị cáo Chuah Chow F phạm tội “có tính chất côn đồ”

còn ở vụ án này lại không xác định Nguyễn Ngọc T phạm tội “có tính chất côn đồ”.

Điều đó cho thấy sự không thống nhất trong nhận thức về quy định của điều luật và

việc đánh giá các tình tiết của vụ án.

129

130

Mặc dù hướng dẫn không chỉ rõ vụ thể khoảng thời gian bao nhiêu giây, bao

nhiêu phút hay bao nhiêu giờ đồng hồ để xác định là “trong một thời gian rất ngắn”

nhưng rõ ràng là nếu đã qua nhiều giờ từ ngày này sang ngày khác thì không thể coi

là “rất ngắn”, “vừa kết thúc tội phạm trước đã thực hiện ngay tội phạm sau”. Hành

vi phạm tội chỉ được xem là trực tiếp xảy ra trước hoặc sau hành vi giết người nếu

thời gian thực hiện sát nhau, tính bằng giờ hoặc cùng ngày. Khoảng cách thời gian

giữa hai hành vi phải đủ gần để tạo thành chuỗi hành động liền mạch. Ngược lại,

nếu thời gian giữa hai hành vi có khoảng cách đáng kể, hành vi phạm tội trước hoặc

sau đó không được xem là hành vi phạm tội liền kề với hành vi giết người, dù đó là

tội phạm nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Việc xác định tính liền kề phụ

thuộc vào mức độ gần gũi về thời gian giữa các hành vi. [52, tr.196], [117, tr.25,26].

+ Trong vụ án chúng ta đang xem xét, bị cáo Trần Nhật D đã thực hiện hành

vi giết bị hại vào khoảng 20 giờ 30’ ngày 19/5/2014. Khoảng 23 giờ cùng ngày thì

131

D đã biết nạn nhân chết. D đã ngồi chờ cho đến sáng. Sáng ngày 20/5/2014, D vẫn

đi học bình thường. Đến khoảng 13 giờ 30’ cùng ngày, D đem chiếc điện thoại di

động hiệu LG của T bán. Như vậy, D đã giết người từ đêm hôm trước nhưng đến

đầu giờ chiều ngày hôm sau mới mang tài sản của bị hại đi bán, trong khoảng thời

gian đó, D lại vẫn đi học bình thường. Giữa hành vi giết người và hành vi cướp tài

sản cách xa nhau về khoảng thời gian và cũng không có sự liên tục như hướng dẫn

tại Nghị quyết số 04.

- Nhận thức, áp dụng không thống nhất tình tiết phạm tội “vì động cơ đê hèn”.

+ Vụ án 1: Khoảng đầu tháng 02/2017, Tô Út L từ tỉnh Cà Mau lên TP.HCM

sống cùng vợ là chị Nguyễn Thị V và con tại phòng trọ số 10, nhà số 19/21 đường

Nơ Trang Long, Phường 15, quận Bình Thạnh. Vào khoảng 20 giờ 10 phút ngày

15/02/2017, sau khi uống rượu bia, do nghi ngờ vợ có quan hệ bất chính với

người đàn ông khác nên Tô Út L đã cự cãi với vợ là chị Nguyễn Thị V . Sau đó, chị

V đi ra ngoài phòng trọ thì Tô Út L cầm một con dao Thái Lan đi ra theo chị V và

khi đến trước phòng trọ số 23 và hai bên tiếp tục cãi nhau rồi Tô Út L dùng dao đâm

sượt vai phải của chị V thì chị V đánh vào phía sau đầu của Tô Út L làm Tô Út L

chúi đầu về phía trước, tiếp sau đó chị V vòng ra phía sau lưng của Tô Út L để bỏ

chạy thì Tô Út L dùng tay phải cầm dao đâm ngược về phía sau 01 nhát trúng vào

nách bên trái của chị V. Sau khi bị đâm thì chị V dùng tay che vết thương và chạy

đến đầu hẻm thì ngã gục xuống đất, mọi người đưa chị V đi cấp cứu tại Bệnh viện

nhân dân Gia Định, nhưng đến 21 giờ 40 phút cùng ngày thì chị V tử vong.

TAND TP.HCM đã xác định bị cáo Tô Út L phạm tội giết người theo quy

định tại điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 (có tính chất côn đồ) với lập

luận: bị cáo chỉ vì ghen tuông không có căn cứ mà dùng hung khi nguy hiểm đâm

chị V nhát đầu tiên sượt vai, sau đó đâm nhát thứ hai vào điểm trọng yếu trên cơ thể

của chị V, gây nên cái chết của chi V là thể hiện bản tính côn đồ của bị cáo [184].

- Vụ án 2: Hoàng Trọng Đ và bị hại Nguyễn Thị Mộng T có quan hệ tình

cảm với nhau từ năm 2006-2007. Trong thời gian quen nhau, do nghi ngờ chị T có

quan hệ tình cảm với bạn học cũ nên cả hai xảy ra cãi nhau, sau đó Đ chủ động

làm lành. Vào ngày 30/6/2015, Đ điện thoại rủ chị T đến nhà trọ Đ mới thuê tại số

25B T, Phường X2, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi chị T đến nhà trọ, Đ và

chị T xảy ra mâu thuẫn, cãi nhau về việc ghen tuông, tình ái. Đ dùng tay phải kẹp

132

cổ chị T vào giữa khuỷu tay và dùng tay trái của Đ nắm cổ tay phải của Đ kéo ra

sau người của chị T rồi giữ chặt, chị T chống cự nhưng không được. Khi thấy chị T

không cử động, Đ buông tay ra, kiểm tra thấy chị T đã chết nên Đ đi mua túi nylon

và bao xác rắn, gói xác chị T bằng 02 lớp, dùng dây thun cột kín miệng bao nylon

rồi bỏ vào bao xác rắn để tại phòng trọ.

TAND TP.HCM đã xác định Hoàng Trọng Đ phạm tội giết người theo quy

định tại điểm q khoản 1 Điều 93 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (vì

động cơ đê hèn) [185].

Như vậy, cùng là trường hợp bị cáo giết người xuất phát từ việc ghen tuông

không có căn cứ, nghi ngờ người yêu hoặc vợ có quan hệ tình cảm với người khác

nhưng ở 02 vụ án khác nhau, Tòa án lại xác định 02 tình tiết tăng nặng định khung

khác nhau: “có tính chất côn đồ” và “vì động cơ đê hèn”. Điều đó cho thấy sự

không thống nhất trong nhận thức về các tình tiết định khung.

3.2.3. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng

của con người tại thành phố Hồ Chí Minh

3.2.3.1. Khái quát tình hình quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm

tính mạng của con người tại thành phố Hồ Chí Minh

Kết quả của hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN của

TAND các quận, huyện, thành phố và TAND TP.HCM trong giai đoạn 2010 - 2023

được khái quát trong các bảng sau:

Bảng 3.6. Số liệu về hình phạt chính được áp dụng cho bị cáo phạm tội

XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn 2010-2023

Trục Cảnh Phạt Cải tạo không Tù có Tù chung Tử NĂM xuất cáo tiền giam giữ thời hạn thân hình

2010 0 0 0 22 6 1 0

2011 0 1 0 195 34 32 0

2012 0 0 0 252 27 18 0

2013 0 1 0 209 41 18 0

2014 0 0 0 171 25 18 0

133

2015 0 0 0 158 19 15 0

2016 0 0 0 146 30 12 0

2017 0 0 0 132 28 8 0

2018 0 0 0 118 17 20 0

2019 0 0 0 100 20 9 0

2020 0 0 0 108 22 10 0

2021 0 0 0 87 13 9 0

2022 0 0 0 120 25 13 0

2023 0 0 0 180 24 7 1

Tổng 0 2 0 1998 331 190 1

Tỉ lệ % 0 0 0,08 0,04 79,23 13,12 7,53

(Nguồn:TAND TP.HCM)

Phân tích bảng số liệu trên, có thể thấy:

- Hình phạt được áp dụng nhiều nhất là hình phạt tù có thời hạn với 1998 bị

cáo, chiếm đến 79,23% (1998/2522) số bị cáo bị xét xử về các tội XPTMCCN. Điều

này cũng phù hợp với quy định về hình phạt đối với các tội XPTMCCN khi có đến

24 trên tổng số 28 điều khoản quy định hình phạt tù có thời hạn (đã phân tích tại

tiểu mục 2.1.3 của Chương 2);

- Đứng thứ hai là hình phạt tù chung thân với 331 bị cáo, chiếm 13,12%

(trung bình mỗi năm có khoảng hơn 23 bị cáo bị áp dụng hình phạt tù chung thân);

- Đứng thứ ba là hình phạt tử hình với 190 bị cáo, chiếm 7,53% (trung bình

mỗi năm có khoảng hơn 13 bị cáo bị áp dụng hình phạt tử hình);

- Hết 14 năm chỉ có 02 bị cáo được áp dụng hình phạt tù (chiếm 0,08%) và

không có bị cáo nào phải áp dụng các hình phạt bổ sung cảnh cáo, phạt tù (với bản

chất là hình phạt bổ sung). Chỉ có 01 bị cáo được áp dụng hình phạt cải tạo không

giam giữ (chiếm 0,04%).

Về mức phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo XPTMCCN được thể hiện qua

bảng số liệu sau:

134

Bảng 3.7. Số liệu về mức phạt tù có thời hạn được áp dụng cho bị cáo phạm tội

XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM trong giai đoạn 2010-2023

Tù có thời hạn

Từ 3 năm trở xuống

NĂM

Trên 3 năm

Trên 7 năm

Trên 15 năm

Cho hưởng án

Không cho

đến 7 năm

đến 15 năm

đến 20 năm

treo

hưởng án treo

2010

1

8

3

9

1

2011

22

67

20

47

39

2012

16

115

30

60

31

2013

16

58

30

66

39

2014

6

41

24

49

51

2015

11

39

21

40

47

2016

7

40

14

49

36

2017

9

45

14

39

25

2018

5

10

14

48

41

2019

1

7

12

41

39

2020

4

10

12

41

41

2021

3

4

6

41

33

2022

2

6

14

61

37

2023

2

10

21

104

43

Tổng

105

460

695

235

503

Tỉ lệ

5,26

23,02

11,76

34,78

25,18

%

(Nguồn:TAND TP.HCM)

Phân tích bảng số liệu trên, có thể thấy mức hình phạt phổ biến nhất là từ

trên 7 năm đến 15 năm tù với 695 bị cáo, chiếm 34,78%. Tiếp theo là mức hình phạt

từ trên 15 năm đến 20 năm với 503 bị cáo, chiếm 25,18%. Như vậy, mức hình phạt

từ trên 7 năm trở lên chiếm đến 59,96%. Trong 14 năm có 105 bị cáo được cho

hưởng án treo, chiếm 5,26% số bị cáo bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn. Điều này

135

có sự khác biệt so với quy định về mức hình phạt tù đối với các tội XPTMCCN nói

chung: mức phạt tù đến 3 năm chiếm hơn 30%, mức phạt tù đến 7 năm chiếm hơn

39%, mức phạt tù đến 15 năm chiếm hơn 26% và mức phạt tù trên 15 năm chỉ

chiếm gần 5% (đã trình bày tại mục 2.2 của Chương 2). Có sự khác biệt này là do

trên thực tế, tội phạm XPTMCCN phổ biến nhất là tội giết người (tội đặc biệt

nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng), chiếm đến 91,97% tổng số vụ và chiếm

94,49% tổng số bị cáo (như đã phân tích tại bảng 3.3 và bảng 3.4).

Về hình phạt bổ sung, theo quy định của BLHS thì người phạm tội

XPTMCCN có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung (đã phân tích tại tiểu mục 2.1.3 của

Chương 2). Tuy nhiên, thực tiễn quyết định hình phạt tại TP.HCM cho thấy trong

giai đoạn 2010-2023, không có bị cáo phạm các tội XPTMCCN bị áp dụng hình

phạt bổ sung.

Phân tích các số liệu về quyết định hình phạt như trên cũng phần nào cho

thấy tính chất nguy hiểm cao, mức độ nghiêm trọng của hành vi XPTMCCN nên

hình phạt chủ yếu được áp dụng là hình phạt tù có thời hạn, tù chung thân và tử

hình. Không có bị cáo được miễn TNHS hoặc miễn hình phạt. Các hình phạt ít

nghiêm khắc được áp dụng rất hạn chế.

3.2.3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đúng

Thực tiễn xét xử đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua cho

thấy: nhìn chung, khi quyết định hình phạt, Tòa án luôn căn cứ vào quy định của

BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội,

căn cứ vào nhân thân người phạm tội, xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm

nhẹ và tăng nặng TNHS để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp, vừa

đảm bảo tính nghiêm khắc, răn đe, giáo dục, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan

hồng của Luật Hình sự, được dư luận và quần chúng nhân dân ủng hộ, đồng tình.

Chẳng hạn như Bản án hình sự sơ thẩm số 17/2018/HSST ngày 19/01/2018

của TAND TP.HCM giải quyết vụ án với nội dung như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 29/3/2017, Nguyễn Đăng H cùng một số người bạn tên

Nguyễn Hoàng A ngồi uống rượu tại phòng trọ của Hoàng A tại địa chỉ 4/5E đường

L, Tổ 7, khu phố P, phường T, Quận 9 thì có một nhóm thanh niên khoảng 04 người

(chưa rõ nhân thân, lai lịch) đến rủ Hoàng A đi đá gà bắt xác. H cá cược gà của

Hoàng A thắng với số tiền 100.000 đồng và thỏa thuận nếu gà của bên nào chết thì

136

H lấy xác về nhậu với giá 200.000 đồng. Hai bên cho đá gà, lúc này có Bùi Văn T

đến đứng xem, khoảng 15 phút sau thì gà của Hoàng A chết, H lấy xác gà ra quán

cà phê chòi của chị Nguyễn Thị Cẩm V ngồi thì thấy T cười chế nhạo, H xông tới

đấm vào mặt T, T nắm tóc vật H ngã xuống đất và dùng chân đá vào mặt H thì được

mọi người can ngăn. T ra ghế đá của quán cà phê ngồi, H về phòng trọ lấy một con

dao kim loại màu đen dài 21,5 cm, lưỡi chỗ rộng nhất 03 cm, cán dao dính liền lưỡi,

cán được cuộn tròn bằng thép màu đen, mũi sắc nhọn. H quay lại đến chỗ T đang

ngồi, T đứng dậy giơ tay phải lên, H nghĩ T định đánh mình nên cầm dao trên tay

phải đâm một nhát trúng bụng T, T bỏ chạy được khoảng 07m thì ngã xuống đất và

được Đặng Phiên E đưa đi cấp cứu tại bệnh viện Quận 9 nhưng T đã tử vong.

Khoảng 17 giờ ngày 29/3/2017, Nguyễn Đăng H đến Công an phường T,

Quận 9 đầu thú, giao nộp con dao trên và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về tử thi 367-17/KLGĐ-PY ngày

28/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP.HCM kết luận: “Bùi Văn T chết

do sốc mất máu cấp bởi vết thương đâm thủng ruột non và động mạch chủ bụng”.

Tòa án đã tuyên bố bị cáo Nguyễn Đăng H phạm tội “Giết người” và áp dụng

điểm n khoản 1 Điều 93; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 của BLHS năm 1999,

sửa đổi bổ sung năm 2009 để xử phạt Nguyễn Đăng H 19 (mười chín) năm tù [186].

Ngày 01/02/2018, bị cáo Nguyễn Đăng H làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ

hình phạt bởi lý do hình phạt 19 năm tù là quá nặng đối với hành vi của bị cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng về động cơ,

mục đích phạm tội dẫn đến hậu quả đáng tiếc là do người bị hại có một phần lỗi nên

đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ bị cáo phạm tội do

hành vi trái pháp luật của nạn nhân; bị cáo tự thú. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp

dụng thêm tình tiết giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

TAND cấp cao tại TP.HCM nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm xem xét lý do bị

cáo H giết bị hại chỉ vì H cho rằng T cười chế nhạo mình. Khi H và T cãi nhau,

được mọi người can ngăn nhưng bị cáo H không dừng lại mà về phòng trọ của mình

lấy con dao đi tìm T để đâm dẫn đến hậu quả nạn nhân tử vong. Tòa án cấp sơ thẩm

xem xét các tình tiết giảm nhẹ: khai báo thành khẩn, bồi thường một phần thiệt hại

(27.000.000 đồng/121.000.000 đồng), đầu thú (không phải tình tiết tự thú như đề

nghị của người bào chữa) xử phạt bị cáo H mức án 19 năm tù là không nặng, phù

137

hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Bị cáo kháng cáo nhưng không nêu

được tình tiết giảm nhẹ nào mới, do đó, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận

kháng cáo của bị cáo, y án sơ thẩm như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát [187].

Hoặc như Bản án số: 365/2017/HSST ngày 13/12/2017 của TAND Quận

Thủ Đức, TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung:

Bị cáo Lê Văn T1 điều khiển xe mô tô biển số 60K9-38xx, thiếu chú ý quan

sát, vượt xe không đảm bảo an toàn, va chạm vào bánh trước bên phải của xe ô tô

đầu kéo biển số 51C-20xxx, gây tai nạn với hậu quả nghiêm trọng làm anh Phan

Văn L chết. Vị trí xảy ra tai nạn là đường nội bộ trong cảng TR thuộc phường T,

quận T, TP.HCM, không thuộc mạng lưới đường bộ nên hành vi của bị cáo phạm

vào tội “Vô ý làm chết người”.

Có thể thấy việc quyết định hình phạt của Tòa án trong vụ án trên không chỉ

đúng quy định của pháp luật mà còn “thấu tình, đạt lý”, vừa đảm bảo tính răn đe và

phòng ngừa chung, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc.

3.2.3.3. Những hạn chế, sai lầm trong quyết định hình phạt

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì việc quyết định hình phạt

đối với các bị cáo phạm các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn một

số hạn chế:

138

Một là, áp dụng không đúng hoặc không đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ,

tăng nặng TNHS.

Ví dụ 1. Áp dụng không đúng tình tiết giảm nhẹ “phạm tội trong trường

hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra”.

Bản án hình sự sơ thẩm số 347/2018/HS-ST ngày 05/10/2018 của TAND

TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:

Vào ngày 24/7/2017, Trịnh Văn H cùng với các nhân viên khác của cửa hàng

điện máy Q như Nguyễn Văn H1, Đỗ Thành Tr… về nghỉ ngơi tại nhà đường S, tổ

13, khu phố 6, phường T2, Quận 12, TP.HCM. Do không biết H còn ở trong phòng

nên Tr và những người khác đã khóa cửa để đi ra ngoài. H mở cửa không được nên

tức giận, la hét, đập phá đồ đạc trong nhà và đòi đâm chém các bạn cùng phòng.

Thấy vậy, Tr gọi điện thoại cho quản lý cửa hàng là anh Trần Văn L và Thái Văn

Nh đến để giải quyết. Khi đến nơi, H và anh Nh có cự cãi, anh Nh dùng tay đánh 01

cái vào mặt H và cho H nghỉ việc, hẹn H sáng mai quay lại cửa hàng để lấy chứng

minh nhân dân. Hôm sau, khi anh Nh đến cửa hàng thì H từ quán nhậu gần đó, cầm

sẵn con dao Thái Lan đi đến và đâm 01 nhát vào vùng ngực trái của anh Nh dẫn đến

tử vong.

TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Trịnh Văn H phạm tội “Giết người” và

áp dụng điểm n, khoản 1 Điều 93 của BLHS năm 1999, được sửa đổi bổ sung năm

2009; điểm e, q, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 của BLHS năm 2015, sửa

đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trịnh Văn H 18 (mười tám) năm tù [188].

Ngày 08/10/2018, bà Vũ Bách Diệu H là người đại diện hợp pháp của người

bị hại có đơn kháng cáo NCS cho rằng Tòa án áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy

định tại điểm e khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 là không chính xác. Bởi vì việc bị

cáo tức giận và dẫn đến hành vi phạm tội là hành động vô cớ. Do bị cáo có hành vi

la hét, đập phá đồ đạc và dọa chém các bạn cùng phòng nên anh Nh là quản lý cửa

hàng mới đến để giải quyết. Khi giải quyết, anh Nh có dùng tay đánh H 01 cái vào mặt

và cho nghỉ việc, hẹn H sáng hôm sau quay lại lấy chứng minh nhân dân vì bản thân

anh Nh lúc đó không mang theo. Sự việc diễn ra vào tối ngày 24/7/2017 đã kết thúc.

Đến 07 giờ sáng ngày 25/7/2014, khi anh Nh đến làm việc tại cửa hàng thì bị cáo đã

chờ sẵn và dùng dao đâm khiến anh Nh tử vong.

139

Và trên thực tế, Tại phiên tòa phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng

đã xác định: việc Tòa án cấp sơ thẩm cho rằng anh Nh có hành vi trái pháp luật, làm

kích động tinh thần của bị cáo và áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm e

khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với bị cáo là không chính xác [189].

Ví dụ 2. Áp dụng thiếu tình tiết tăng nặng “cố ý thực hiện tội phạm đến cùng”

Bản án hình sự sơ thẩm số 106/2018/HSST ngày 10/4/2018 của TAND

TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 18/9/2017, Trương Văn M sau khi uống rượu về

đến trạm bơm nước KT, đường Trần Xuân S, khu phố 5, phường T, Quận 7,

TP.HCM và gọi ông Ngô Đăng K là nhân viên trạm bơm mở cửa để M vào gởi xe

gắn máy. Do ông K không đồng ý cho M gởi xe nên M chửi ông K, ông K tức giận

mở cửa dùng dây xích đánh M, M né tránh được và lấy con dao cùn trong rổ ve chai

của bà Võ Thị B (mẹ của M) để gần đó chém lại ông K. Ông K đánh lại trúng tay

của M hất văng con dao xuống đường.

Sau đó, M lấy xe gắn máy biển số 52Z1-4117 chạy đến xe bán nước dừa của

chị Đặng Thị C (cách trạm bơm khoảng 32m) lấy con dao chặt dừa (dài 43,7cm)

đang để trên xe, rồi cầm dao chạy bộ đến trạm bơm. Thấy M cầm dao đến, ông K bỏ

chạy xuống bờ sông về phía xà lan đang neo đậu. M đuổi theo dùng dao chém nhiều

nhát trúng vào đầu và tay ông K. Bị chém, ông K di chuyển về phía gần bờ, M tiếp

tục đi theo dùng dao chém tiếp và dao đã bị tuột khỏi tay rơi xuống sông. M lao đến

ôm và đè ông K xuống bờ sông và dùng tay đánh ông K. Chị C là chủ quán bán

nước dừa đứng trên lề đường Trần Xuân S nhìn thấy M chém và đánh ông K nên

truy hô, nhưng M không dừng lại. Chị C tiếp tục la lên thì M lấy xe gắn máy bỏ

chạy. Ông K được đưa đi cấp cứu tại bệnh viện 115, đến ngày 21/9/2017 thì chết.

Ngày 21/9/2017, Trương Văn M đến Cơ quan điều tra Công an Quận 7, TP.HCM

đầu thú.

TAND TP.HCM đã tuyên bố bị cáo Trương Văn M phạm tội “Giết người” và áp

dụng điểm n khoản 1 Điều 93; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, được

sửa đổi bổ sung năm 2009. Xử phạt: bị cáo Trương Văn M tù chung thân [190].

Trong vụ án này, NCS cho rằng Tòa án không áp dụng tình tiết tăng nặng

“cố ý thực hiện tội phạm đến cùng” là thiếu sót. Bởi vì bị cáo đã dùng dao để trong

giỏ đựng phế liệu của bà Võ Thị B (là mẹ của bị cáo) đánh ông K. Sau khi ông K

140

dùng tay hất làm con dao rơi xuống đường, bị cáo M tiếp tục dùng xe máy chạy đến

quán bán nước dừa của chị Đặng Thị C chụp lấy một con dao chặt dừa dài 43,7cm,

lưỡi dao dài 31,5cm tiếp tục đuổi theo. Khi người bị hại bỏ chạy, nhảy xuống sông

và di chuyển về hướng sà lan đang neo đậu trên sông, bị cáo nhảy theo, tay trái cầm

dao chém liên tiếp nhiều nhát vào vùng đầu và tay ông K. Bị chém, ông K di

chuyển về phía gần bờ, M tiếp tục đi theo dùng dao chém tiếp và dao đã bị tuột khỏi

tay rơi xuống sông. M lao đến ôm và đè ông K xuống bờ sông và dùng tay đánh ông

K. Chị C là chủ quán bán nước dừa đứng trên lề đường Trần Xuân S nhìn thấy M

chém và đánh ông K nên truy hô, nhưng M không dừng lại. Diễn biến quá trình

thực hiện như trên đã cho thấy bị cáo thực hiện tội phạm với quyết tâm cao và “Cố ý

thực hiện tội phạm đến cùng”.

Trên thực tế, tại phiên tòa phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng đã

xác định bị cáo phạm tội với tình tiết tăng nặng “cố ý thực hiện tội phạm đến cùng”

và tăng hình phạt từ tù chung thân lên tử hình [191].

Hai là, quyết định hình phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của

hành vi phạm tội

Ví dụ 1. Hình phạt quá nhẹ, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục

Bản án hình sự sơ thẩm số 244/2019/HSST ngày 09/7/2019 của TAND

TP.HCM giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:

Trong lúc ngồi uống bia, Quang H và Duy Tr1 xảy ra mâu thuẫn về việc

Quang H nợ Duy Tr1 300.000 đồng tiền làm công chưa trả. Thấy Duy Tr1 đã say,

anh Phước Hải và chị Loan dìu Duy Tr1 đứng lên đưa ra bãi giữ xe để lấy xe gắn

máy để Duy Tr1 đi về. Ra đến bãi xe, Phước Hải vào lấy xe còn Duy Tr1 đứng

ngoài chờ. Khoảng 2 phút sau Duy Tr1 quay lại quán, đi vào đứng sau lưng chỗ

Quang H đang uống bia, dùng tay phải đánh vào lưng bên phải Quang H một cái.

Quang H tay phải đang cầm ly bia cụng với anh H vừa xong, Quang H đứng dậy

cầm ly bia đánh vào trán bên trái của Duy Tr1 một cái và bỏ ly bia rơi xuống đất

làm Duy Tr1 lảo đảo. Minh Tr xông vào dùng hai tay xô và chân phải đạp vào vùng

bụng Duy Tr1 làm Duy Tr1g té ngã nằm nghiêng dưới nền nhà. Minh Tr tiếp tục

dùng chân đạp vào vùng cổ của Duy Tr1, rồi cầm ghế nhựa trong quán đánh Duy

Tr1 thì anh H nắm giữ hai tay, chị L ôm bụng và kéo Minh Tr ra ngoài do sợ sẽ

đánh nhau tiếp. Thấy Duy Tr1 ngất xỉu nên mọi người đã đưa đi cấp cứu tại thị xã

141

Thuận An tỉnh Bình Dương cấp cứu, khoảng 1 giờ ngày 23/7/2016, Duy Tr1 được

đưa đến bệnh viện Chợ Rẫy TP.HCM để cấp cứu. Đến ngày 03/8/2016 thì Duy Tr1

chết tại bệnh viện Chợ Rẫy.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 652-16/KLGĐ-PY ngày 20/10/2016

của Phòng kỹ thuật hình sự công an TP.HCM, kết luận nguyên nhân chết do chấn

thương sọ não và chấn thương đốt sống cổ.

Với những hành vi trên, cấp sơ thẩm đã xét xử và quy kết bị cáo Trần Quang

H và Nguyễn Minh Tr phạm tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 93 BLHS

2009, xử phạt bị cáo H và Tr mỗi người 11 (mười một) năm tù [192].

Trong vụ án này, NCS cho rằng cấp sơ thẩm xử phạt Minh Tr 11 năm tù là

dưới khung hình phạt (điểm n, khoản 1 Điều 93 có khung hình phạt từ 12 năm đến

20 năm, chung thân hoặc từ hình), là quá nhẹ, chưa tương xứng với tính chất, mức

độ hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, không đảm bảo tính răn đe, giáo dục và

phòng ngừa chung. Bởi vì giữa bị hại Hứa Duy Tr1 với bị cáo Nguyễn Minh Tr

không có mâu thuẫn với nhau, bị hại Duy Tr1 chỉ mâu thuẫn với bị cáo Trần Quang

H. Khi bạn bè lấy xe đưa Duy Tr1 về thì Duy Tr1 quay lại đứng sau lưng H và đánh

vào lưng H dẫn đến H mới đánh lại một cái (Duy Tr1 có lỗi trước với H). Ngay sau

đó Nguyễn Minh Tr lao vào vô cớ tấn công và tấn công liên tục vào vùng trọng yếu

của Duy Tr1, hậu quả là Duy Tr1 tử vong. Hành vi của Nguyễn Minh Tr thể hiện

tính chất côn đồ, hung hãn coi thường tính mạng của người khác.

Và thực tế tại phiên tòa phúc thẩm, TAND cấp cao tại TP.HCM cũng đã sửa bản

án theo hướng tăng hình phạt đối với Nguyễn Minh Tr từ 11 năm tù lên 12 năm tù [193].

Ví dụ 2. Hình phạt quá nặng, chưa thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng

của pháp luật

Bản án hình sự sơ thẩm 399/2020/HS-ST ngày 17/9/2020 TAND TP.HCM

giải quyết vụ án có nội dung tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 00 phút ngày 28/9/2019, tại nhà trọ số 245 H, Phường

X10, quận T, TP.HCM, Đào Duy K và ông Nguyễn Tam S xảy ra việc cự cãi, xô

xát dùng tay đánh và vật nhau té xuống nền dãy hành lang phòng trọ. Khi Đào Duy

K và ông S đứng dậy ở tư thế đối diện hơi chếch thì bị cáo Đào Duy K đã sử dụng

01 con dao lưỡi sắc nhọn bằng kim loại dài khoảng 20cm (mang theo sẵn ở phía sau

túi quần Jean bên phải) cầm trên tay phải để tấn công đâm 01 nhát trúng ngực phải

142

gần xương ức và một nhát trúng sườn trái của ông S. Sau khi bị đâm, ông S tiếp tục

lao vào ôm vật K thì K tiếp tục cầm dao đâm 01 nhát trúng hông phải của ông S.

Lúc này, những người ở cùng dãy nhà trọ là chị Trần Thị H2, chị Nguyễn Thị V1

đến can ngăn và anh Nguyễn Ngọc A1 cùng anh Nguyễn Tấn P1 đến tước dao trói

K lại và gọi điện thoại báo cơ quan Công an bắt giữ. Ông Nguyễn Tam S được mọi

người đưa đi cấp cứu tại bệnh viện.

Ngày 11/3/2020, Trung tâm giám định pháp y Sở Y tế TP.HCM có bản kết

luận giám định pháp y về tỷ lệ thương tích số: 164/TgT.20 đối với Nguyễn Tam S

kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 85 %.

TAND TP.HCM đã căn cứ vào điểm n khoản 1 Điều 123; điểm s khoản 1 và

khoản 2 Điều 51 của BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo

Đào Duy K 15 (mười lăm) năm tù, về tội “Giết người” [194].

Tại phiên tòa phúc thẩm, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là bị hại gây ra vụ việc, bị cáo có tác động gia đình bị cáo

đã khắc phục 1 phần hậu quả nhưng sơ thẩm chưa xem xét cho bị cáo là có thiếu

sót. Bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Bản chất

con người bị cáo không có côn đồ, làm nghề bán vé số, gia đình có nhân thân tốt.

Xin Hội đồng xét xử xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

TAND cấp cao tại TP.HCM nhận định: Xét về nguyên nhân, điều kiện dẫn

đến hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo thì sự việc xảy ra cũng có lỗi của bị hại. Bản

thân bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo, làm nghề bán vé số, hoàn cảnh khó

khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế. Sau khi phạm tội, bị cáo có tác động gia

đình tự nguyện bồi thường 2.000.000 đồng cho bị hại. Mặc dù số tiền bồi thường

không lớn nhưng thể hiện thái độ, ý chí muốn khắc phục hậu quả, ăn năn hối cải của

bị cáo. Do đó, để thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật, Hội đồng xét xử

đồng ý với lời bào chữa của luật sư, giảm cho bị cáo một phần hình phạt cũng đã đủ

sức răn đe giáo dục bị cáo [195].

3.2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong áp dụng pháp luật hình

sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người tại Thành phố Hồ Chí Minh

Áp dụng PLHS luôn là quá trình phức tạp, hiệu quả hoạt động áp dụng PLHS

về các tội XPTMCCN phụ thuộc nhiều yếu tố khác nhau như chất lượng của quy

phạm PLHS, chất lượng đội ngũ áp dụng PLHS, mối quan hệ phối hợp - chế ước

143

giữa các cơ quan THTT hình sự, ý thức pháp luật của nhân dân, những điều kiện vật

chất - kỹ thuật cần thiết đảm bảo cho hoạt động áp dụng PLHS, yếu tố kinh tế - xã

hội... (đã trình bày tại mục 2.5 của Chương 2). Vì vậy, ở nội dung này, NCS chỉ tập

trung phân tích một số nguyên nhân cơ bản, đặc thù nhất dẫn đến những hạn chế,

sai lầm trong áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua.

3.2.4.1. Nguyên nhân từ quy định của pháp luật hình sự và công tác hướng

dẫn, giải thích

Quy định về các tội XPTMCCN trong BLHS hiện hành (BLHS năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2017) mặc dù đã phần nào khắc phục được những hạn chế của

BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 nhưng vẫn còn những hạn chế có thể

dẫn đến khó khăn trong hoạt động áp dụng pháp luật: chưa thể hiện được sự phân định

rạch ròi về dấu hiệu pháp lý giữa các tội phạm (tội giết người, tội giết người trong trạng

thái tinh thần bị kích động mạnh, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính

đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội…). Nhiều tình tiết định

khung chưa được mô tả rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn hoặc khó hiểu (giết người mà liền

trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm

đặc biệt nghiêm trọng; giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều

người; giết người có tính chất côn đồ; giết người vì động cơ đê hèn…).

Bên cạnh đó, hệ thống văn bản hướng dẫn áp dụng các tội XPTMCCN cũng

còn hạn chế, chưa đầy đủ, một số văn bản đã ban hành từ rất lâu, còn nhiều vấn đề

cần giải thích, hướng dẫn: thế nào là “thầy giáo, cô giáo của mình” theo quy định

tại điểm đ khoản 1 Điều 123; phân biệt trường hợp “giết 02 người trở lên” với

trường hợp giết người “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”; thế

nào là “người thân thích” trong quy định tại khoản 1 Điều 125 (Tội giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh), thế nào là “vượt quá mức cần thiết khi bắt

giữ người phạm tội” trong quy định tại khoản 1 Điều 126… Một số nội dung mặc

dù đã được giải thích, hướng dẫn nhưng chưa thực sự rõ ràng, mang nặng yếu tố

định tính, vẫn rất khó nhận định trong vụ án thực tế: thế nào là “vì động cơ đê hèn”,

thế nào là phạm tội “có tính chất côn đồ”, thế nào là “liền trước đó hoặc ngay sau

đó”, thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, “hành vi trái pháp luật

nghiêm trọng” trong quy định tại khoản 1 Điều 125, thế nào là “hoàn cảnh khách

144

quan đặc biệt” trong Điều 124, thế nào là “vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng”

trong quy định tại khoản 1 Điều 126… Điều này dẫn đến nhận thức chưa thống nhất

ngay trong nội bộ các cơ quan THTT và giữa các cơ quan THTT với người bào

chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, từ đó cũng ảnh hưởng đến việc định tội

danh và quyết định hình phạt (những nội dung này sẽ được phân tích cụ thể hơn,

gắn liền với các kiến nghị, đề xuất tại Chương 4 của luận án).

Cũng phải thấy rằng, hiện nay đã có nhiều án lệ về hình sự được công bố,

trong đó có một số án lệ liên quan đến việc xác định các tội XPTMCCN. Tuy nhiên,

so với những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các tội phạm này thì vẫn cần nhiều

hơn nữa các án lệ về các tội XPTMCCN. Đặc biệt là đối với những vấn đề mà việc

sử dụng “ngôn từ” của văn bản hướng dẫn để giải thích khó đạt được yêu cầu (như

thế nào là “vượt quá mức cần thiết” trong phòng vệ chính đáng hoặc trong khi bắt

giữ người phạm tội, thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”…) thì các

án lệ cụ thể có thể giúp các cơ quan THTT hiểu đúng và áp dụng đúng quy định của

BLHS vào những vụ án cụ thể. Bên cạnh việc còn ít án lệ về các tội XPTMCCN thì

một số án lệ có nội dung phân tích chưa thực sự khoa học, chuẩn xác hoặc có nhiều

ý kiến trái chiều, ảnh hưởng đến việc thống nhất nhận thức trong áp dụng PLHS về

các tội XPTMCCN. Chẳng hạn như án lệ số 28/2019/AL về tội “Giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” trong phần khái quát nội dung của án lệ có

Với tình huống trên, án lệ đưa ra giải pháp pháp lý: bị cáo phải bị truy cứu

đưa ra tình huống án lệ:

TNHS về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”. Và trong

phần nội dung của án lệ cũng xác định:

145

Phân tích, lập luận về nội dung vụ án như trên sẽ dễ dẫn đến nhiều ý kiến cho

rằng cần xác định Trần Văn C phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ

chính đáng”. Vì C đang bị tấn công, đang bị xâm phạm sự an toàn về thân thể; bị

cáo dùng dao chống trả là nhằm thoát khỏi sự tấn công. Nếu hành vi của C đã thỏa

mãn cấu thành tội phạm tại Điều 126 BLHS năm 2015 thì trạng thái tinh thần có bị

kích động mạnh hay không đều không có ý nghĩa trong việc xác định tội danh. Vì

Điều 126 không quy định trạng thái tinh thần của người phạm tội; khi bị tấn công,

người phòng vệ có thể bị kích động mạnh hay không bị kích động mạnh cũng không

có ý nghĩa trong việc xác định tội danh (như đã phân tích Bản án hình sự sơ thẩm số

338/2016/HSST ngày 13/9/2016 của TAND TP.HCM tại tiểu mục 3.2.2.1).

Hoặc án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết

người” có đồng phạm trong phần khái quát nội dung của án lệ có đưa ra tình huống án lệ:

Xét tình huống nêu, căn cứ pháp luật, người trực tiếp gây án phải chịu trách

nhiệm hình sự về tội giết người, với khung hình phạt tăng nặng do tính chất côn đồ.

146

Đối tượng xúi giục cũng bị truy tố về tội danh tương tự, nhưng không áp dụng tình

tiết tăng nặng nói trên.

Ở tình huống trên, NCS cho rằng việc xác định người xúi giục đồng phạm về

tội “Giết người” là không phù hợp. Bởi vì: tội giết người chỉ có thể được thực hiện

với hình thức lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp. Với việc thống nhất chỉ

“đánh dằn mặt thôi” (tức là đánh để cho sợ) thì rõ ràng người xúi giục không hề có

mục đích tước đoạt tính mạng của nạn nhân, nên hình thức lỗi không thể là lỗi cố ý

trực tiếp. Đối với hình thức lỗi cố ý gián tiếp trong tội giết người thì người thực

hiện hành vi phải nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho tính mạng của

người khác, thấy trước hậu quả chết người có thể xảy ra, tuy không mong muốn

nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [207, tr.60]. Trong vụ án này,

người xúi giục ban đầu chỉ thống nhất đánh cho bị hại sợ, “không có mặt khi người

thực hành thực hiện tội phạm, không biết việc người thực hành sử dụng mã tấu

chém vào những vùng trọng yếu trên cơ thể bị hại” (tức là không biết nạn nhân có

thể bị đánh chết) nhưng vẫn bị xác định là “đã để mặc cho hậu quả xảy ra”. Và

đặc biệt, ngay cả khi nếu xác định người xúi giục có lỗi cố ý gián tiếp, bỏ mặc cho

hậu quả xảy ra thì hậu quả xảy ra đến đâu họ sẽ chỉ phải chịu TNHS đến đấy. Nếu

hậu quả chết người xảy ra thì họ mới có thể phạm tội giết người. Trong vụ án này,

nạn nhân không chết nhưng người xúi “đánh dằn mặt” vẫn bị xác định là đồng

phạm về tội giết người là không hợp lý.

Hơn nữa, trong phần khái quát nội dung của án lệ đưa ra tình huống án lệ và

giải pháp pháp lý cho việc xem xét hành vi của người thực hành và người xúi giục

(như trên đã nêu) nhưng phần nội dung của án lệ lại xác định hành vi của người

thực hành và người giúp sức:

147

3.2.4.2. Nguyên nhân từ phía đội ngũ áp dụng pháp luật hình sự

Áp dụng PLHS nói chung hay định tội danh và quyết định hình phạt nói

riêng luôn là hoạt động mang tính chất phức tạp, đòi hỏi phải có sự đánh giá một

cách vừa toàn diện, vừa chi tiết nhiều căn cứ, yếu tố khác nhau từ tình tiết của vụ

án, quy định của pháp luật, nhân thân người phạm tội... Thực tiễn khách quan đã

cho thấy nhiều vụ án XPTMCCN tại TP.HCM có tính chất phức tạp, rất khó khăn

trong việc định tội danh và quyết định hình phạt do những chứng cứ vật chất để

chứng minh tội phạm không nhiều, không thu giữ được hoặc có thu giữ được nhưng

không đủ điều kiện để giám định; do địa điểm, thời gian thực hiện tội phạm xảy ra ở

nơi và lúc ít hoặc không có người chứng kiến; một số vụ án có sự đối phó tinh vi,

xảo quyệt của người thực hiện tội phạm; nhiều vụ đồng phạm với số lượng người

tham gia lớn, “đánh chém loạn xạ”, mỗi người có vai trò và mức độ tham gia tội

phạm khác nhau, bị hại bị nhiều thương tích ở các vị trí khác nhau do nhiều người

gây ra; thậm chí có những vụ án chính bị cáo cũng không nhớ rõ đầy đủ các hành vi

mà mình đã thực hiện, trên thân thể người bị hại có nhiều vết thương với cơ chế gây

nên thương tích khác nhau, rất khó xác định ai gây nên vết thương cụ thể nào cho bị

hại... Bên cạnh đó, việc xét xử các vụ án XPTMCCN còn phụ thuộc nhiều vào kết

quả hoạt động giám định nguyên nhân chết, thời điểm chết, tỷ lệ tổn thương cơ thể…

trên thực tế điều này không phải lúc nào cũng thuận lợi, nhất là trong các vụ án trên

người bị hại có nhiều tổn thương khác nhau hay những vụ người bị hại không được

đưa đi giám định kịp thời hoặc người bị hại do bị mua chuộc, cưỡng ép không đi

giám định; v.v... Vì vậy, nếu đội ngũ cán bộ THTT không có nhận thức pháp luật

tốt, không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm cao, đáp ứng

được mục tiêu, yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp hiện nay thì khó có thể

không dẫn đến các sai sót trong định tội danh, quyết định hình phạt.

Nghiên cứu những hạn chế, sai sót trong hoạt động định tội danh và quyết

định hình phạt đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua cũng đã cho

thấy nhận thức pháp luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tinh thần trách nhiệm

trong công tác của một bộ phận Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn hạn

chế trong áp dụng pháp luật, đánh giá và sử dụng chứng cứ; các hoạt động điều tra

và kiểm sát điều tra để thu thập các chứng cứ ban đầu chưa đầy đủ, bỏ qua không

thu thập các chứng cứ có ý nghĩa trực tiếp chứng minh tội phạm… Một bộ phận cán

148

bộ, công chức còn thiếu ý thức cầu thị, phấn đấu, rèn luyện tư cách, phẩm chất đạo

đức, kỷ luật công vụ nên hiệu quả, chất lượng công tác còn thấp, từ đó ảnh hưởng

đến công tác xét xử các tội XPTMCCN. Có vụ án mặc dù bị cáo nhận tội phù hợp

với chứng cứ chứng minh khác khẳng định bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội

nhưng vẫn có sự mâu thuẫn giữa lời khai của bị cáo và người làm chứng về việc

diễn tả hành vi khách quan của bị cáo. Trong trường hợp này, mặc dù việc thực

nghiệm điều tra không mang mục đích chứng minh bị cáo phạm tội hay không

phạm tội, nhưng lại có ý nghĩa để đánh giá tính côn đồ là nhiều hay ít và đánh giá

sự thành khẩn của bị cáo trong việc khai báo. Việc CQĐT không tiến hành thực

nghiệm điều tra đã dẫn đến Tòa án không có cơ sở đầy đủ để lượng hình chính xác

và phù hợp [196], [197]. Mặt khác, thực nghiệm điều tra còn có ý nghĩa trong việc

tuân thủ tiêu chí của cơ quan THTT khi kết tội không nên chỉ căn cứ vào lời khai

nhận tội của bị cáo mà phải xem xét sự phù hợp của nhiều yếu tố khác. Cụ thể, lời

khai nhận tội của bị cáo mà cơ quan THTT dùng làm căn cứ kết tội phải phù hợp

với lời khai nhân chứng, các dấu vết trong biên bản khám nghiệm hiện trường và

kết quả thực nghiệm điều tra; phù hợp với các dấu vết trên thân thể nạn nhân, hung

khí gây án theo kết luận giám định... Có vụ án cấp sơ thẩm điều tra, thu thập các lời

khai của bị cáo và những người làm chứng có mặt tại hiện trường, có lời khai và các

tình tiết mâu thuẫn nhau nhưng cấp sơ thẩm không đối chất lời khai theo quy định,

không tiến hành lập biên bản thực nghiệm điều tra để có căn cứ xem xét lời khai

nhận tội bị cáo với lời khai của người làm chứng, xác định vị trí, khoảng cách của hai

bị hại nằm ngã sau khi bị đâm, cơ chế hình thành vết thương của hai bị hại có cùng một

hung khí gây ra hay không [198] … Thậm chí có vụ án Hội đồng xét xử còn xác định

bị cáo có cha, mẹ được thưởng huân huy chương kháng chiến thì được áp dụng tình tiết

giảm nhẹ “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ,

chồng, con của liệt sĩ” theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 sửa

đổi, bổ sung năm 2017 [199]. Những trường hợp nêu trên rõ ràng cho thấy một bộ phận

đội ngũ THTT vẫn còn có sự hạn chế về năng lực, phẩm chất, chưa thực sự đáp ứng

được yêu cầu, dẫn đến những sai sót, hạn chế trong áp dụng PLHS.

Bên cạnh vấn đề về chất lượng đội ngũ THTT thì công tác kiện toàn lực

lượng cán bộ, công chức cũng gặp nhiều khó khăn. Số lượng cán bộ công chức xin

nghỉ việc theo nguyện vọng có xung hướng tăng trong những năm gần đây so với

149

các năm trước, đặc biệt biên chế Thư ký tòa án hiện nay thiếu trầm trọng. Việc thiếu

biên chế dẫn đến công tác luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ, công chức bị

hạn chế, bị động. Điều này tất yếu cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động áp

dụng PLHS nói chung và áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN nói riêng.

3.2.4.3. Nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

trong giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng của con người

Sự phối hợp giữa các cơ quan THTT có vai trò rất quan trọng trong giải

quyết vụ án hình sự. Thực tế cho thấy việc phối hợp giữa các cơ quan THTT trong

việc giải quyết vụ án XPTMCCN trên địa bàn TP.HCM thời gian qua bên cạnh

những kết quả tích cực đáng ghi nhận thì vẫn còn những tồn tại, hạn chế ảnh hưởng

đến việc giải quyết vụ án.

Có những vụ án trong quá trình điều tra, Điều tra viên và Kiểm sát viên chưa

chú trọng thường xuyên trao đổi, đánh giá các tài liệu, chứng cứ mà CQĐT thu thập

được, chưa thống nhất biện pháp, kế hoạch điều tra cụ thể từ đó dẫn đến vụ án đáng

lẽ cần tiến hành thực nghiệm điều tra, đối chất nhưng không được thực hiện, khi xét

xử Tòa án thiếu dữ liệu để quyết định hình phạt phù hợp nhất [196]. Nhiều trường

hợp VKSND không chủ động bám sát tiến độ điều tra, cùng CQĐT kịp thời tháo gỡ

những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình điều tra. Sự phối hợp giữa

Tòa án, với Viện kiểm sát trong một số trường hợp chưa được chặt chẽ và thống

nhất. Số vụ án phải trả về cho VKSND để điều tra bổ sung mỗi năm còn cao (trên

30%). Vẫn còn trường hợp TAND cấp sơ thẩm trả hồ sơ điều tra bổ sung những nội

dung còn mâu thuẫn đối với hành vi phạm tội của bị cáo nhưng VKSND cấp sơ

thẩm không chấp nhận; Tòa án cấp sơ thẩm triệu tập những người làm chứng nhưng

đều vắng mặt, Tòa án cấp phúc thẩm tiếp tục triệu tập nhưng chỉ có một người làm

chứng có mặt. Với những tài liệu điều tra còn mâu thuẫn, Tòa án cấp phúc thẩm

không thể bổ sung tại phiên tòa được, phải hủy một phần bản án sơ thẩm để điều tra

lại, chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND TP.HCM để điều tra lại vụ án theo thủ tục

chung [200]. Có trường hợp TAND TP.HCM đã trả hồ sơ điều tra bổ sung đề nghị

VKSND TP.HCM truy tố bổ sung thêm tình tiết phạm tội “có tính chất côn đồ”

theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) nhưng

VKSND TP.HCM vẫn giữ nguyên quan điểm. TAND TP.HCM vẫn xét xử bị cáo N

về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 BLHS [171].

150

Tiểu kết chương 3

Qua việc nghiên cứu quy định của PLHS về các tội XPTMCCN và thực tiễn

áp dụng tại TP.HCM, có thể rút ra kết luận:

Quy định về các tội XPTMCCN trong mỗi thời kỳ lịch sử đều có sự phù

hợp với đòi hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và thực hiện nhiệm

vụ chính trị của đất nước. Nhìn chung, quy định về các tội XPTMCCN ngày càng

phát triển và hoàn thiện hơn theo xu hướng nhân đạo hóa và phân hóa TNHS, phù

hợp với sự vận động và phát triển của xã hội, phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng,

chống tội phạm.

Trong giai đoạn 2010 - 2023, mỗi năm TAND các quận, huyện, thành phố

và TAND TP.HCM phải giải quyết một số lượng lớn các vụ án XPTMCCN. Nhìn

chung, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN

tại TP.HCM thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng khích lệ: định tội danh

đảm bảo chuẩn xác, đúng người đúng tội, không làm oan người vô tội; quyết định

hình phạt luôn căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy

hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân người phạm tội, xem

xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS để lựa chọn loại

hình phạt và mức hình phạt phù hợp, vừa đảm bảo tính nghiêm khắc, răn đe, giáo

dục, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan hồng của Luật Hình sự..

Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, thực tiễn định tội danh và quyết định

hình phạt đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn một số hạn

chế, sai sót: vẫn còn trường hợp định tội danh chưa chính xác; xác định sai hoặc

không thống nhất trong việc áp dụng một số tình tiết định khung; áp dụng không

đúng hoặc không đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; quyết định hình

phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Những hạn chế

này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có thể kể đến

các nguyên nhân từ hạn chế trong quy định của PLHS; nguyên nhân từ phẩm chất,

năng lực của đội ngũ áp dụng PLHS và nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các cơ

quan THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.

151

Chương 4

HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ

CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI VÀ CÁC GIẢI

PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG NHỮNG QUY ĐỊNH NÀY

4.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm

phạm tính mạng của con người

4.1.1. Yêu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm

phạm tính mạng của con người

4.1.1.1. Yêu cầu khắc phục nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong áp

dụng quy định của Bộ luật Hình sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người

Thực thi pháp luật tác động toàn diện đến đời sống xã hội, đòi hỏi sự tuân

thủ nghiêm ngặt các quy phạm pháp luật trong mọi khía cạnh. Việc áp dụng pháp

luật phải dựa trên các điều khoản và nguyên tắc pháp lý, tạo nền tảng cho hoạt động

của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quá trình thực thi pháp luật gắn liền chặt

chẽ với công tác xây dựng pháp luật. Một hệ thống pháp luật hoàn thiện, đáp ứng

thực tiễn xã hội là điều kiện tiên quyết cho hiệu quả thực thi.

Trong hoạt động thực thi pháp luật, vai trò của cơ quan điều tra, viện kiểm

sát và tòa án đặc biệt quan trọng, nhất là trong lĩnh vực pháp luật hình sự. Lĩnh vực

này bảo vệ các quan hệ xã hội trọng yếu, thiết yếu cho sự phát triển bền vững của

quốc gia. Mọi hành vi đều phải được xem xét kỹ lưỡng, dựa trên các quy định pháp

luật hiện hành. Hiệu quả thực thi pháp luật phụ thuộc vào sự phối hợp chặt chẽ giữa

các cơ quan chức năng..

Luật hình sự, khi vận dụng chính xác, đảm bảo công lý, trừng phạt thích

đáng, gìn giữ các giá trị nền tảng, đồng thời giáo dục, răn đe xã hội. Ngược lại, việc

áp dụng sai luật sẽ xâm phạm nghiêm trọng quyền con người, quyền lợi pháp nhân,

152

làm suy giảm lòng tin vào pháp luật. Do đó, việc thực thi luật hình sự cần tuân thủ

nghiêm ngặt về nội dung và trình tự pháp lý, đặt trong khuôn khổ pháp luật chặt chẽ..

Vì vậy, để hoạt động áp dụng PLHS được đúng đắn thì yêu cầu không thể

thiếu là phải có PLHS hoàn chỉnh, mà trước hết và quan trọng nhất là quy định của

Đối với các tội XPTMCCN, thực tiễn tại TP.HCM cũng đã cho thấy một

trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến vi phạm, sai lầm trong áp dụng PLHS

là do sự bất cập trong quy định của PLHS mà trước hết là quy định của BLHS. Quy

định của BLHS về các tội XPTMCCN vẫn còn những nội dung chưa thực sự rõ

ràng, rành mạch, gây khó hiểu hoặc dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Cùng với

đó, việc thiếu văn bản hướng dẫn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến

việc áp dụng PLHS gặp khó khăn (như đã phân tích tại tiểu mục 3.2.4.1 của

Chương 3). Vì vậy, việc hoàn thiện quy định của PLHS là một trong những nội

dung quan trọng, tất yếu, góp phần hạn chế những vi phạm, sai lầm trong áp dụng

quy định của BLHS về các tội XPTMCCN.

Hơn thế nữa, việc hoàn thiện quy định của PLHS không chỉ để khắc phục

nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong áp dụng PLHS tại TP.HCM hay một

địa phương cụ thể nào khác mà phải là trên phạm vi cả nước vì hiệu lực của PLHS

không chỉ áp dụng cho một địa phương cụ thể. Đồng thời, việc hoàn thiện quy định

153

của PLHS cũng không chỉ để khắc phục những khó khăn, hạn chế, vướng mắc của

hiện tại, đã xảy ra mà còn phải dự liệu trước những tình huống phức tạp có thể xảy

ra trong tương lai (nội dung này sẽ được phân tích cụ thể tại tiểu mục 4.1.3).

4.1.1.2. Yêu cầu thể hiện đầy đủ chính sách hình sự Việt Nam đối với các tội

xâm phạm tính mạng của con người trong giai đoạn mới

Bên cạnh việc hoạch định các chính sách về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo

dục…, việc hoạch định chính sách hình sự là không thể thiếu đối với mỗi quốc gia

trong thời đại ngày nay.

154

Như vậy, PLHS chính là một trong những biểu hiện trực tiếp, rõ nét nhất

nội dung chính sách hình sự của Nhà nước ta về vấn đề tội phạm và hình phạt.

PLHS còn là một trong những phương tiện pháp lý quan trọng nhất để thể hiện, thi

hành chính sách hình sự của Nhà nước, để đấu tranh phòng và chống tội phạm. Vì

vậy, để đạt được mục đích của chính sách hình sự đối với các tội XPTMCCN thì

một trong những nội dung quan trọng nhất là cần tiếp tục hoàn thiện quy định của

PLHS về các tội phạm này, qua đó bảo đảm yêu cầu tôn trọng và bảo vệ quyền con

người, trong đó có quyền bất khả xâm phạm về tính mạng. Hay nói cách khác, việc

hoàn thiện quy định của PLHS về các tội XPTMCCN sẽ góp phần quan trọng giúp

thực hiện tốt chính sách hình sự, để bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về tính mạng

của con người. Ngược lại, mục đích của chính sách hình sự, việc bảo vệ tính mạng

của con người sẽ không thể đạt hiệu quả nếu như quy định về các tội XPTMCCN

chưa phù hợp: chưa xác định đúng, đầy đủ, rõ ràng các hành vi nguy hiểm đáng kể

XPTMCCN; quy định về hình phạt chưa đủ nghiêm khắc, chưa có sự phân hóa,

chưa cụ thể hoặc chưa đảm bảo tinh thần nhân đạo…

Ở một khía cạnh khác, xét trong mối quan hệ giữa chính sách hình sự và

PLHS thì chính sách hình sự luôn có trước và thường có tính ổn định trong một

khoảng thời gian nhất định. Chính sách hình sự là tập hợp hệ thống quan điểm chính

155

thống, toàn diện của Nhà nước trên nền tảng tư tưởng của Đảng để giải quyết những

vấn đề pháp lý hình sự. Những quan điểm này thường có tính ổn định, từ đó các nhà

lập pháp từng bước cụ thể hóa chính sách hình sự vào PLHS căn cứ vào điều kiện

chính trị, kinh tế, xã hội, lịch sử, bối cảnh hiện hành và tình hình chung của thế

giới.... Tuy nhiên, “pháp luật (hình sự) dù có hoàn thiện đến mấy, cũng không thể

phản ánh và quy định hết được tất cả những hoàn cảnh cụ thể trong cuộc sống”

[216, tr.209]. Mà phải qua thực tiễn áp dụng PLHS, những “khiếm khuyết” của

PLHS sẽ được bộc lộ. Ngoài ra, sự chuyển biến, thay đổi của tình hình xã hội cũng

đặt ra những vấn đề mới mà PLHS chưa có sự dự liệu… Vì vậy, PLHS lại luôn cần

thay đổi, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với hoàn cảnh trên nền tảng tư tưởng của

chính sách hình sự. Như vậy, việc hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN là nhu

cầu tất yếu để thể hiện đầy đủ chính sách hình sự Việt Nam đối với các tội

XPTMCCN trong giai đoạn mới.

4.1.1.3. Yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự

156

Triết lý nhân quyền của Việt Nam bắt nguồn từ nền tảng văn hóa - lịch sử

lâu đời, thấm đẫm tinh thần nhân đạo, khoan dung, hòa bình và các giá trị nhân văn

cao cả. Đất nước luôn đề cao sự hòa hiếu, coi trọng phẩm giá con người. Nhà nước

Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp

phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [15, tr.7]. Thực tiễn công cuộc

xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam cũng cho thấy rằng thắng lợi cuối cùng

của sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất nhiều vào hiệu quả của

việc bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật nói chung và đặc biệt là pháp luật

trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói riêng [19, tr.5]. Như vậy, bảo vệ quyền con người

trong lĩnh vực tư pháp hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đảm bảo quyền con

người nói chung, góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Để bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự thì một trong những nội

dung không thể thiếu là đảm bảo công lý được thực thi, góp phần tạo lòng tin của

nhân dân vào sự nghiêm minh, bình đẳng của pháp luật. Sẽ không thể bảo vệ quyền

con người trong tư pháp hình sự nếu như sự công bằng, chính nghĩa, sự đúng đắn

hay lẽ phải phù hợp với đạo lý chung của xã hội không được thực thi. Mà để hoạt

157

động áp dụng pháp luật trong tư pháp hình sự đảm bảo được công lý, công bằng,

đúng đắn, chính nghĩa thì trước tiên hoạt động lập pháp trong lĩnh vực tư pháp hình

sự mà đặc biệt là PLHS (luật nội dung) cần được hoàn thiện. Quy định về tội phạm

phải chuẩn xác, rõ ràng, dễ hiểu và chỉ có một cách hiểu để tránh gây tranh cãi, khó

hiểu, hiểu nhầm hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau; quy định về hình phạt và các

biện pháp tư pháp phải đảm bảo đủ tính răn đe, giáo dục, hướng thiện nhưng không

được quá hà khắc; các quy định của BLHS phải đảm bảo các nguyên tắc pháp chế,

nhân đạo, các thể hóa và phân hóa TNHS… Thực tiễn áp dụng PLHS về các tội

XPTMCCN tại TP.HCM cũng đã cho thấy những hạn chế, sai lầm ảnh hưởng

nghiêm trọng đến quyền con người, quyền công dân. Một trong những nguyên nhân

của những hạn chế, sai lầm đó là do quy định của PLHS (đã phân tích tại Chương

3). Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện quy định của PLHS đối với các tội XPTMCCN

cũng tất yếu xuất phát từ yêu cầu bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người trong tư

pháp hình sự.

4.1.1.4. Yêu cầu phòng, chống có hiệu quả tình hình các tội xâm phạm tính

mạng của con người

Như vậy, nội dung cốt lõi của phòng ngừa tội phạm là loại trừ nguyên nhân

của tội phạm. Không có những thành tố là nguyên nhân của tội phạm thì tội phạm

sẽ không xảy ra. Bản chất của phòng ngừa tội phạm không phải là hoạt động hướng

đến tội phạm đã xảy ra mà là nhằm không cho tội phạm xảy ra. Với góc nhìn này thì

phòng ngừa tội phạm khác với chống tội phạm. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng việc

loại trừ hoàn toàn nguyên nhân của tội phạm trong xã hội không phải là vấn đề có

thể giải quyết trong “một sớm, một chiều” mà ngược lại, đây là vấn đề phức tạp, đòi

hỏi sự nỗ lực của cả xã hội và phải thực hiện trong khoảng thời gian lâu dài. Vì vậy,

trong quá trình từng bước loại trừ dần nguyên nhân của tội phạm thì tội phạm vẫn sẽ

xảy ra. Nên hoạt động phòng ngừa tội phạm không thể tách rời hoàn toàn khỏi việc

đấu tranh chống tội phạm.

158

Phòng ngừa tội phạm và đấu tranh chống tội phạm (hay gọi chung là phòng,

chống tội phạm) phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó không thể không nhắc đến

hoạt động lập pháp nói chung và lập pháp hình sự nói riêng. Cần hoàn thiện hệ

thống pháp luật, thường xuyên rà soát các quy định hiện hành, kịp thời khắc phục lỗ

hổng của pháp luật bằng việc sửa đổi, bổ sung quy định mới, góp phần tích cực vào

công tác quản lí xã hội, phát hiện và xử lí tội phạm và vi phạm pháp luật khác. “Cần

nhớ rằng hệ thống pháp luật hoàn thiện là rào cản hữu hiệu trong việc ngăn chặn

tội phạm” [104, tr.257]. Ở chiều hướng ngược lại, hiệu quả của hoạt động phòng,

chống tội phạm (thể hiện rõ nhất qua sự chuyển biến của tình hình tội phạm) cũng là

một căn cứ quan trọng để đánh giá sự phù hợp của hệ thống pháp luật nói chung và

PLHS nói riêng.

Hiện nay, tình hình tội phạm XPTMCCN ở TP.HCM nói riêng và Việt Nam

nói chung diễn biến phức tạp. Nhiều vụ việc có tính chất đặc biệt nghiêm trọng, tàn

ác, dã man, gây hoang mang, bức xúc trong quần chúng nhân dân. Nhiều trường

hợp xâm hại tính mạng con người được thực hiện vì những nguyên cớ hết sức nhỏ

nhặt, vì động cơ đê hèn, có tính chất côn đồ, bằng phương pháp có khả năng làm

chết nhiều người…; hành vi giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ không chỉ được thực hiện

bởi những người có nhận thức hạn chế, đặc biệt khó khăn về hoàn cảnh mà còn

được thực hiện bởi những người có học thức, điều kiện không đến mức đặc biệt khó

khăn… Dưới góc độ tội phạm học thì số liệu về xét xử các tội XPTMCCN (tại

Chương 3) mới chỉ thể hiện phần rõ của tình hình tội phạm. Thực tế tội phạm tiềm

ẩn còn đáng báo động, nhất là các tội trọng như sát hại hoặc bỏ rơi trẻ sơ sinh, tội

giết người, tội xúi giục tự tử, tội bỏ mặc người gặp nạn và tội đe dọa giết người.

Tình trạng này minh chứng cho những khiếm khuyết trong công tác phòng ngừa tội

159

phạm nói chung và tội phạm xuyên quốc gia. Nguyên nhân đa dạng, đáng chú trọng

là tính khả thi và tính minh bạch của hệ thống pháp luật. Theo quan điểm của

Cesare Beccaria, phòng ngừa tội phạm tối ưu đòi hỏi luật pháp đơn giản, rõ ràng,

hình phạt tương xứng với mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, chứ không phải

tính chất người phạm tội. Áp dụng hình phạt kịp thời mới phát huy hiệu quả răn đe

tối đa. Như vậy, việc hoàn thiện khung pháp lý là yếu tố then chốt.…[225, tr.40,41]

4.1.1.5. Yêu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự

Hợp tác quốc tế sâu, rộng trên nhiều lĩnh vực đã, đang và sẽ tiếp tục là xu

hướng tất yếu của thế giới trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hợp tác quốc tế về tư pháp

hình sự cũng không nằm ngoài xu hướng đó.

“Có thể thấy, cùng với sự phát triển chung của nhân loại, tội phạm cũng

đang trong quá trình toàn cầu hóa liên tục. Giờ đây, từ một địa điểm, với

những phương thức và công cụ thích hợp, một tội phạm có thể được tiến

hành ở bất kỳ đâu trên thế giới, điều này đã làm xóa nhòa ranh giới địa

lý giữa các quốc gia, đặt ra yêu cầu phải có một sự thay đổi về nhận

thức và tư duy trong việc phòng, chống tội phạm trong bối cảnh mới,

cũng như sự hợp tác một cách hiệu quả, có trách nhiệm và chặt chẽ giữa

các quốc gia với nhau” [220, tr.81].

Để hoạt động hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự đạt hiệu quả thì một trong

những yêu cầu là quốc gia phải có hệ thống pháp luật nói chung và PLHS tiến bộ,

phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế.

Việt Nam tích cực tham gia hệ thống điều ước quốc tế song phương và đa

phương về phòng, chống tội phạm, minh chứng rõ nét cho sự hợp tác tư pháp hình

sự quốc tế. Sự tham gia này không chỉ dừng lại ở việc ký kết mà còn được thể hiện

qua quá trình nội luật hóa các điều khoản liên quan, cụ thể là thông qua việc tội

phạm hóa, hình sự hóa, phi tội phạm hóa và phi hình sự hóa các hành vi. Bộ luật

Hình sự năm 2015 là minh chứng cụ thể, khi quy định hình sự đối với nhiều hành vi

nguy hiểm mà các điều ước quốc tế đã cam kết. Việc này khẳng định cam kết mạnh

mẽ của Việt Nam trong đấu tranh chống tội phạm xuyên quốc gia. Quá trình này

góp phần hiện thực hóa luật pháp quốc tế vào trong hệ thống pháp luật trong nước.

Đây cũng là một hướng để tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện quy

định của BLHS. Bên cạnh đó, việc tham khảo, học hỏi kinh nghiệm lập pháp, những

160

quy định tiến bộ của quốc gia khác, vận dụng một cách phù hợp với hoàn cảnh kinh

tế, chính trị, xã hội của Việt Nam để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và

PLHS nói riêng một mặt sẽ nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm,

mặt khắc cũng giúp hệ thống pháp luật có sự tương tương đồng giữa các quốc gia,

góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động hợp tác quốc tế trong tư pháp hình sự.

4.1.2. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về các tội

xâm phạm tính mạng của con người

- Tiếp tục nhân đạo hóa quy định của PLHS về các tội XPTMCCN. Nhân

đạo hóa hiện nay đã trở thành xu hướng chung của luật hình sự trên thế giới, là một

trong những biểu hiện quan trọng của văn minh nhân loại. Luật hình sự Việt Nam

cũng không nằm ngoài xu hướng chung đó. Nhân đạo hóa luật hình sự được thực

hiện dựa trên những cơ sở chắc chắn cả về nhận thức và thực tiễn.

Vì “con người là một thực thể xã hội phức tạp, mâu thuẫn, luôn chịu sự

tác động của các yếu tố thuộc về môi trường xã hội và giáo dục. Trong

mối tương tác đó nhiều khi sự tác động của môi trường xã hội đã góp

phần không nhỏ vào quá trình hình thành nhân cách con người, không

chỉ xô đẩy con người vào chỗ phạm tội mà ngược lại, còn là yếu tố tác

động mạnh mẽ đến quá trình cải tạo con người phạm tội so với khả năng

tác động của hình phạt. Vì vậy, quan điểm đề cao hiệu quả phòng ngừa

và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội là quan điểm nhất

quán của Đảng và Nhà nước Việt Nam” [220, tr.53].

Nghiên cứu lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam cũng đã cho thấy quy định của

PLHS ngày càng thể hiện rõ nét nguyên tắc nhân đạo: xóa bỏ, giảm hoặc hạn chế áp

dụng, thi hành hình phạt tử hình; xóa bỏ các loại hình phạt mang tính hà khắc, gây đau

đớn về thể xác, đày đọa về tinh thần; quy định mới, mở rộng phạm vi áp dụng các hình

phạt không tước tự do thân thể con người; mở rộng các căn cứ miễn, giảm TNHS và

hình phạt; áp dụng các điều kiện có lợi trong việc xác định TNHS của người dưới 18

tuổi, phụ nữ mang thai, người cao tuổi… Việc nghiên cứu, hoàn thiện quy định của

PLHS về các tội XPTMCCN cũng không nằm ngoài xu hướng đó.

161

Việt Nam cần nỗ lực trong việc đưa PLHS của mình ngày càng tiệm cận với

các chuẩn mực pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người, bảo vệ quyền lợi của

phụ nữ và trẻ em, phòng chống tội phạm có tổ chức… Vì vậy, việc hoàn thiện quy

định về các tội XPTMCCN cũng cần theo hướng tiếp tục nghiên cứu nội luật hóa

quy định của các điều ước quốc tế có liên quan, tham khảo, học hỏi, tiếp thu những

162

tinh hoa, kinh nghiệm của các nền lập pháp tiên tiến trên thế giới phù hợp với tình

hình và điều kiện của xã hội Việt Nam.

4.1.3. Những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội

xâm phạm tính mạng của con người

Các tội XPTMCCN theo quy định của BLHS năm 2015 đã có những sửa

đổi, bổ sung so với BLHS năm 1999. Những điểm mới đó đã góp phần đảm bảo

quyền con người theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; đáp ứng yêu cầu nội luật

hóa các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và đáp ứng yêu cầu đấu tranh

phòng, chống tội phạm trong tình hình hiện nay (đã phân tích cụ thể tại tiểu mục

3.1.2 của Chương 3). Tuy nhiên, thực tiễn thi hành BLHS năm 2015 cũng cho thấy

quy định về các tội XPTMCCN vẫn còn những bất cập, hạn chế dẫn đến việc áp

dụng có thể gặp khó khăn, vướng mắc (như đã phân tích tại tiểu mục 3.2.4.1 của

Chương 3). Điều này đặt ra yêu cầu cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện quy định

của BLHS, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS, đấu tranh phòng, chống tội

phạm XPTMCCN. Không những thế, việc hoàn thiện BLHS không chỉ để giải

quyết vấn đề tại TP.HCM; không chỉ khắc phục những vướng mắc, khó khăn đã xảy

ra mà còn phải dự liệu những tình huống phức tạp có thể xảy ra trong tương lai;

đảm bảo tính đồng bộ, chặt chẽ, khoa học; thể hiện đầy đủ chính sách PLHS; đảm

bảo công lý, bảo vệ quyền con người trong tư pháp hình sự; phòng chống có hiệu

quả tình hình tội phạm và phù hợp với yêu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự.

Trên cơ sở đó, NCS cho rằng quy định của BLHS hiện hành về các tội XPTMCCN

có những nội dung chưa phù hợp, cần sửa đổi cụ thể như sau:

Một là, CTTP tại Điều 123, Điều 124, Điều 125 và Điều 126 không mô tả

rõ dấu hiệu hành vi khách quan và mặt chủ quan của tội phạm. Cụ thể, CTTP tại các

điều luật trên chỉ quy định hành vi “giết người” hoặc “giết con do mình đẻ ra” mà

không mô tả rõ thế nào là “giết” và cũng không quy định hình thức lỗi của chủ thể

khi thực hiện hành vi. Điều này một phần nào đõ cũng gây khó khăn cho việc xác

định tội danh trên thực tế, đặc biệt là có thể gây nhầm lẫn giữa các tội XPTMCCN

với các tội xâm phạm sức khỏe của con người (như đã phân tích ở Chương 2 và

Chương 3). Vì vậy, NCS cho rằng cần thay từ “giết” bằng cụm từ “cố ý tước đoạt

tính mạng”. Theo đó, quy định tại các điều luật nêu trên sẽ được sửa như sau:

163

Việc sửa đổi như trên sẽ giúp mô tả rõ hành vi khách quan và dấu hiệu lỗi

của tội phạm, góp phần khắc phục những hạn chế, sai lầm trong áp dụng PLHS.

Hai là, quy định tại Điều 123 (tội giết người) vẫn còn tình tiết định khung

tăng nặng chưa được định lượng bằng chữ số rõ ràng. Một trong những điểm mới

của BLHS năm 2015 là đã “số hóa” (định lượng bằng chữ số) một số thuật ngữ

pháp lý để quy định của Bộ luật được hiểu một cách rõ ràng, cụ thể, tránh gây tranh

cãi. Từ “nhiều người” được cụ thể thành “02 người trở lên”. Ở tội giết người, tình

tiết định khung tăng nặng “giết nhiều người” nay đã được đổi thành “giết 02 người

trở lên” (điểm a khoản 1 Điều 123). Tuy nhiên, tình tiết định khung tăng nặng

“bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” (điểm l khoản 1 Điều 123) lại

chưa được sửa đổi. Như vậy, trong cùng một khung hình phạt mà 02 tình tiết định

khung lại sử dụng 02 thuật ngữ khác nhau với nghĩa như nhau (“nhiều người” và “02

người trở lên”). Điều này một mặt cho thấy sự không thống nhất về kỹ thuật lập pháp;

mặt khác có thể gây hiểu lầm hoặc tranh cãi rằng “nhiều người” khác “02 người trở

lên”, 02 người có phải là nhiều người hay không? Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại điểm

l khoản 1 Điều 123 thành: “Bằng phương pháp có khả năng làm chết 02 người trở

lên”. Quy định như vậy vừa tránh gây tranh cãi, vừa làm cho quy định tại Điều 123

thống nhất trong nội dung và tương thích với các điều luật khác của BLHS.

164

Ba là, quy định tại Điều 124 (tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ) chưa có sự

phân hóa về hình phạt giữa trường hợp phạm tội thông thường và trường hợp phạm

tội đối với 02 người trở lên. Trong các tội XPTMCCN từ Điều 123 đến Điều 133,

chỉ có Điều 124 là không quy định tình tiết định khung tăng nặng phạm tội đối với

02 người trở lên hoặc phạm tội làm chết 02 người trở lên. Theo đó thì người mẹ giết

con mới đẻ bị phạt tối đa 03 năm tù, người mẹ vứt bỏ con mới đẻ bị phạt tối đa 02

năm tù, không phụ thuộc vào việc người mẹ đã giết hoặc vứt bỏ bao nhiêu đứa con.

Điều kiện giảm nhẹ đối với hành vi tước đoạt mạng sống trẻ sơ sinh, dù xuất phát từ

hoàn cảnh éo le và trạng thái tâm lý bất thường, dẫn đến suy giảm khả năng nhận

thức và tự chủ, vẫn cần phân biệt mức độ trách nhiệm hình sự khi phạm tội liên

quan đến hai hoặc nhiều nạn nhân (ví dụ: trường hợp sinh đôi, sinh ba). Sự gia tăng

số lượng nạn nhân minh chứng rõ rệt mức độ nguy hiểm cao hơn đáng kể đối với

cộng đồng, đòi hỏi sự xét xử nghiêm minh hơn. Nếu so sánh với điều luật khác từ

Điều 123 đến Điều 133 thì mức hình phạt đối với trường hợp phạm tội đối với 02

người trở lên hoặc phạm tội làm chết 02 người trở lên cao hơn hẳn so với trường

hợp thông thường. Mặc dù trên thực tế có thể chưa ghi nhận trường hợp nào người

mẹ giết hoặc vứt bỏ từ 02 con mới đẻ trở lên nhưng điều này là hoàn toàn có thể xảy

ra. Quy định của pháp luật cần dự liệu được hết các tình huống có thể xảy ra trên

thực tế.

Vì vậy, cần thiết phải bổ sung thêm 01 khoản tại Điều 124 quy định hình

phạt trong trường hợp phạm tội đối với 02 người trở lên. Cụ thể:

“Điều 124. Tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ

1.…

2.…

3. Phạm tội đối với 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 05 năm”.

Việc sửa đổi này cũng đáp ứng xu hướng phân hóa trong PLHS.

Bốn là, quy định tại Điều 130 (tội bức tử) vẫn còn tình tiết định khung tăng

nặng chưa rõ ràng, có thể gây khó hiểu. Cụ thể: tội bức tử quy định hành vi “đối xử

tàn ác, thường xuyên ức hiếp, ngược đãi, hoặc làm nhục người lệ thuộc mình” và

quy định hậu quả “làm người đó tự sát” là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm (khoản

1 Điều 130). Trong khi đó, điểm a khoản 2 Điều 130 lại quy định tình tiết định

khung tăng nặng “đối với 02 người trở lên”. Điều này sẽ dẫn đến khó hiểu: có nhất

165

thiết cả 02 người bị đối xử tàn ác, ức hiếp, ngược đãi…trở lên đều phải tự sát thì

mới thuộc trường hợp phạm tội tại điểm a khoản 2 Điều 132 hay không? Ví dụ: Một

người cha đã đối xử tàn ác, ngược đãi, thường xuyên đánh đập 02 người con của

mình làm một trong 02 người con đó tự sát. Trường hợp phạm tội này có thuộc

điểm a khoản 2 Điều 132 hay không?

So sánh với quy định tại Điều 131 (tội xúi giục hoặc giúp người khác tự

sát), chúng ta thấy rằng Điều 131 cũng quy định hậu quả nạn nhân tự sát là dấu hiệu

bắt buộc. Đồng thời khoản 2 Điều 132 cũng quy định tình tiết định khung tăng nặng

tương tự: “phạm tội làm 02 người trở lên tự sát”. Quy định này rất rõ ràng, dễ hiểu,

tránh gây tranh luận không cần thiết. Vì vậy, quy định tại điểm a khoản 2 Điều 130

nên sửa lại như quy định tại khoản 2 Điều 131: “phạm tội làm 02 người trở lên tự

sát”. Sửa đổi này vừa giúp cho quy định của điều luật trở nên rõ ràng, tránh gây

tranh cãi, vừa làm cho các điều luật có tính đồng bộ, tương thích với nhau về nội

dung và kỹ thuật lập pháp.

Năm là, kỹ thuật lập pháp tại Điều 131 (tội xúi giục hoặc giúp người khác

tự sát) mặc dù giúp mô tả rõ hành vi khách quan nhưng lại dẫn đến quy định chưa

rõ ràng về dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Cụ thể:

Điều 131 BLHS năm 2015 quy định:

Quy định tại điểm a khoản 1 Điều 131 như trên dẫn đến vướng mắc, khó

hiểu trong việc xác định hậu quả có phải là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội phạm hay

không? Cụm từ “người khác tự tước đoạt tính mạng của họ” được đặt liền ngay sau

các hành vi “kích động, dụ dỗ, thúc đẩy” có thể dẫn đến 02 cách hiểu khác nhau:

- Cách hiểu thứ nhất: “người khác tự tước đoạt tính mạng của họ” là nội

dung của các hành vi “kích động, dụ dỗ, thúc đẩy”, cũng tương tự như việc kích

động, dụ dỗ, thúc đẩy người khác giết người, cướp tài sản, chống chính quyền nhân

dân… Hay nói cách khác, chỉ cần người phạm tội có hành vi kích động, dụ dỗ, thúc

166

đẩy với nội dung kích động, dụ dỗ, thúc đẩy là “tự tước đoạt tính mạng”, là cướp tài

sản, là giết người hay là chống chính quyền nhân dân… còn việc người bị kích

động, dụ dỗ, thúc đẩy có thực hiện theo những nội dung đó hay không thì không

phải là dấu hiệu bắt buộc có ý nghĩa trong việc định tội. Hay tóm lại, việc “người

khác tự tước đoạt tính mạng của họ” không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm.

Về vấn đề này, nếu so sánh với quy định trước đây thì BLHS năm 1999 lại

quy định rất rõ ràng. Khoản 1 Điều 101 BLHS năm 1999 quy định: “Người nào xúi

giục làm người khác tự sát hoặc giúp người khác tự sát thì bị phạt tù từ sáu tháng

đến ba năm”. Điều khoản đã khẳng định rõ hậu quả “làm người khác tự sát” là dấu

hiệu bắt buộc của tội phạm.

Vì vậy, cần sửa đổi quy định tại Điều 131 theo hướng xác định rõ hậu quả

nạn nhân “tự tước đoạt tính mạng của họ” là dấu hiệu bắt buộc để định tội. Bởi vì,

đối với tội phạm này, quy định của BLHS năm 2015 chỉ khác quy định của BLHS

1999 ở việc mô tả cụ thể hành vi khách quan còn các dấu hiệu khác trong CTTP

không có sự thay đổi. Cụ thể, Điều 131 nên sửa lại như sau:

Sáu là, quy định về tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy

hiểm đến tính mạng tại Điều 132 còn sử dụng từ ngữ chưa thực sự tường minh,

chưa đạt chuẩn mực của ngôn từ pháp lí. Cụ thể, khoản 1 Điều 132 quy định:

167

“Người nào thấy người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…”.

Việc sử dụng từ “thấy” trong trường hợp này có thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác

nhau: 1. Thấy là nhận biết được bằng mắt nhìn. 2. Thấy là nhận biết bằng các giác

quan nói chung (nhìn thấy, nghe thấy, sờ thấy, ngửi thấy…). 3. Thấy là nhận biết

bằng nhận thức…[245, tr.1488]. Để dễ hình dung hơn, chúng ta có thể xem xét một

ví dụ sau:

Do mâu thuẫn về việc tranh chấp đất đai, sáng ngày 22/2/2018, ông Phước

(sinh năm 1970) đã đánh ông Bình (sinh năm 1968) làm ông Bình bị thương. Mặc dù

mức độ thương tích và tổn hại sức khỏe không đáng kể nhưng ông Bình rất căm giận.

15h chiều hôm đó, ông Bình đang ở trong nhà đọc báo thì có 03 cháu nhỏ

khoảng 9 đến 10 tuổi ra con suối sát phía sau nhà ông Bình tắm, trong đó có cháu

Hải (sinh năm 2009) là con của ông Phước. Vì mới tập bơi nên chẳng may cháu Hải

bị chới với, có nguy cơ chết đuối, các cháu khác thấy vậy liền chạy vào nhà ông

Bình nói Hải bị đuối nước và nhờ ông Bình cứu. Ông Bình biết đây là con suối cạn,

mình có thể cứu người được nhưng vì đang mâu thuẫn với bố cháu Hải nên ông

Bình không cứu mà nói: “Mặc xác nó” và tiếp tục ngồi đọc báo. Kết quả cháu Hải

đã bị chết đuối. Trong vụ việc trên, ông Bình không nhìn thấy bằng mắt nhưng vẫn

biết rõ cháu Hải đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng. Vậy ông Bình có

BLHS Cộng hòa Liên bang Đức được ban hành ngày 13/11/1998 tại Điều

phạm tội tại Điều 132 không?

221 quy định Tội bỏ rơi như sau:

168

“(1) Người nào

1. làm cho một người lâm vào tình trạng không có sự giúp đỡ hoặc

2. bỏ rơi một người trong tình trạng không có sự giúp đỡ…” [211, tr.362].

BLHS Liên bang Nga năm 1996 tại Điều 125 quy định Tội bỏ mặc người

khác trong tình trạng nguy hiểm như sau:

“Người nào mà rõ ràng là bỏ mặc người khác trong tình trạng

nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khỏe…” [210, tr.186].

BLHS Nhật Bản sửa đổi và bổ sung năm 2011 tại Điều 217 quy định Tội bỏ rơi:

“Người nào bỏ rơi người già yếu, trẻ thơ, người tàn tật, người bệnh hoạn

đang cần sự chăm sóc…” [76].

Vì vậy, thiết nghĩ từ “thấy” trong quy định tại khoản 1 Điều 132 nên được

sửa thành từ “biết rõ”. Như vậy, khoản 1 Điều 132 nên sửa thành: “Người nào biết

rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng…”. Việc sửa đổi

này giúp cho quy định của điều luật được rõ ràng, tránh gây tranh cãi, đạt chuẩn

mực về ngôn từ pháp lí, đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm đồng thời cũng thể

hiện xu hướng quốc tế hóa trong hoàn thiện PLHS Việt Nam.

Bảy là, Điều 133 BLHS chưa quy định trường hợp đe dọa giết người phụ

nữ mang thai như một tình tiết tăng nặng hình phạt, trái ngược với quy định về tội

phạm đối với trẻ em dưới 16 tuổi. Sự bất cập này thể hiện rõ nét khi so sánh với các

điều khoản liên quan đến tội phạm chống người và trật tự xã hội khác, cụ thể là

Điều 123 (giết người), Điều 127 (làm chết người trong khi thi hành công vụ), và

Điều 130 (bức tử). Các điều luật này đều xem xét cả hai tình tiết: phạm tội đối với

trẻ em dưới 16 tuổi và phụ nữ có thai là yếu tố tăng nặng. Sự thiếu nhất quán này

cần được xem xét, điều chỉnh để đảm bảo tính công bằng và toàn diện của pháp

luật. Như vậy, quy định tại Điều 133 hiện tại một mặt cho thấy sự không thống nhất

về mặt kỹ thuật lập pháp so với các điều luật khác. Mặt khác, xét về tính chất nguy

hiểm cho xã hội của hành vi thì hành vi đe dọa giết phụ nữ mà biết là có thai cũng

thể hiện tính chất nguy hiểm cao không kém so với phạm tội đối với người dưới 16

tuổi và các tính tiết định khung tăng nặng khác quy định tại khoản 2 Điều 133 (đối

với 02 người trở lên; lợi dụng chức vụ, quyền hạn; đối với người đang thi hành công

vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; để che giấu hoặc trốn tránh việc bị xử lý về

một tội phạm khác). Bởi vì khi người phụ nữ mang thai bị rơi vào tình trạng lo sợ,

169

hoang mang, hãi hùng… thì không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe, tâm lý, sinh lý của

bản thân mà còn có thể ảnh hưởng tiêu cực, thậm chí nguy hiểm cho sự phát triển

bình thường của thai nhi… Trong khi đó, Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về

quyền trẻ em (CRC) ngay trong phần mở đầu đã ghi nhận: Ghi nhớ rằng, “trẻ em,

do còn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được chăm sóc và bảo vệ đặc biệt, kể cả

sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời” [246].

Vì vậy, thiết nghĩ cần bổ sung thêm tình tiết định khung tăng nặng phạm tội

đối với “phụ nữ mà biết là có thai” vào điểm d khoản 2 Điều 133. Theo đó, Điều

133 sẽ quy định như sau:

“Điều 133. Tội đe dọa giết người

1…

2…

a)…

b)…

c)…

d) Đối với người dưới 16 tuổi; phụ nữ mà biết là có thai;

đ)…”.

Việc sửa đổi này sẽ giúp quy định của BLHS đảm bảo thống nhất về kỹ

thuật lập pháp, phù hợp với yêu cầu đấu tranh, phòng ngừa tội phạm, đồng thời

cũng thể hiện xu hướng phân hóa, quốc tế hóa trong luật hình sự, phù hợp với tinh

thần của Công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền trẻ em (CRC).

Tám là, BLHS hiện hành chưa có quy định riêng đối với trường hợp làm chết

người theo yêu cầu của nạn nhân. Theo đó, người cố ý tước đoạt tính mạng của người

khác dù cho là theo yêu cầu của nạn nhân vẫn phạm tội giết người và phải chịu hình

phạt rất nghiêm khắc. Trong khi đó, thực tế đã xảy ra những trường hợp nạn nhân là

người bị bệnh hiểm nghèo, đau đớn về thể xác kéo dài, không còn khả năng cải thiện,

chất lượng cuộc sống khổ sở… và thực sự mong muốn được chấm dứt cuộc sống, để

“giải thoát” nỗi đau. Người phạm tội (thường là người thân của nạn nhân) vì thương

xót và đồng cảm với nạn nhân đồng thời thấy cũng không còn cách khác để cải thiện

tình hình nên đã tước đoạt tính mạng của nạn nhân theo yêu cầu của họ. Như trường

được nêu trong Bản án số 466/2022/HS-ST ngày 26/9/2022 của TAND TP.HCM:

170

Huỳnh Quang Đạt (sinh năm 1966, ngụ TP.HCM) có vợ là bà U. (sinh năm

1968). Năm 2006, bà U. bị tai biến nặng, không còn khả năng lao động trong khi

con trai duy nhất của hai vợ chồng mới 8 tuổi. Ông Đạt làm nghề thợ mộc nhưng

thường xuyên phải nghỉ làm để chăm sóc vợ, con nên bị chủ đuổi việc. Ông Đạt

chuyển sang buôn bán nhỏ để kiếm tiềm lo cho gia đình và người cha vợ (sinh năm

1940) mất một chân. Đến khi dịch bệnh Covid-19 bùng phát, cả gia đình ông Đạt

đều nhiễm bệnh, mỗi người được đưa đi cách ly một nơi. Một thời gian sau, khu

cách ly nơi vợ ông nằm báo cho ông đến đưa bà về để điều trị vật lý trị liệu vì bà đã

bị liệt cả hai chân, đôi tay thì rất yếu. Sau khi mắc Covid-19, bà U. còn phải chạy

thận để giữ tính mạng. Trong gần 4 ngày nằm bệnh viện để tập vật lý trị liệu sau

Covid-19, ông Đạt đóng hơn 10 triệu đồng, là toàn bộ khoản tiền ông tích cóp cộng

thêm phần tiền gia đình hai bên nội, ngoại giúp đỡ. Ông vừa chăm sóc, vừa động

viên vợ: “Em ráng khỏe cho anh mừng chứ anh khổ quá”. Bà U. thì thường xuyên

đòi chết để bớt đau đớn. Một lần, hai vợ chồng đã ngoắc tay nhau hứa sẽ cùng chết

để giải thoát khỏi cảnh khổ. Sáng hôm xảy ra vụ việc, ông mua đồ ăn sáng về nhưng

vợ không ăn cứ liên tục trách ông không thực hiện lời hứa cùng chết nên ông Đạt

quyết định sẽ cùng chết với vợ. Hơn 7 giờ ngày 04/11/2021, ông Đạt mua dây điện

về, đưa bà U. cầm một đầu, đầu còn lại cắm vào ổ điện. Khoảng 4 giây thì ông Đạt

171

Tình tiết này được Hội đồng xét xử xem xét là một trong những tình tiết

giảm nhẹ TNHS cho bị cáo khi lượng hình bên cạnh việc bị cáo ăn năn, hối cải,

thành khẩn khai báo, bị cáo có trình độ văn hóa thấp... Hội đồng xét xử nhận định bị

cáo là người trực tiếp cầm phích cắm điện làm cho bị hại bị điện giật chết. Xem xét

vụ án, toà án đã tuyên phạt bị cáo Đạt mức thấp nhất của khung hình phạt là 7 năm

tù giam về tội “Giết người” [247].

Trong vụ việc trên, bị cáo bên cạnh hành vi đáng trách thì cũng có tình tiết

đáng thương, bị cáo thật sự yêu thương, có trách nhiệm với nạn nhân và chính tình

yêu thương đó đặt trong hoàn cảnh bi đát, cùng quẫn đã dẫn đến bị cáo không thực

sự có lựa chọn sáng suốt, giết người thân và tự tử để “giải thoát”. Hành vi của nạn

nhân cũng ảnh hưởng rất lớn đến quyết định không sáng suốt của bị cáo. Nếu so

sánh trường hợp này với những trường hợp giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh thì có những điểm tương đồng quan trọng: nạn nhân và hoàn cảnh

đóng vai trò lớn trong việc dẫn đến hành vi của người phạm tội, người phạm tội

thường rơi vào trạng thái không hoàn toàn sáng suốt khi thực hiện hành vi. Thậm

chí, xét ở góc độ nào đó, NCS cho rằng hành vi giết người theo yêu cầu của nạn

nhân còn có tính nguy hiểm thấp hơn so với hành vi giết người trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh. Nếu như trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh,

người phạm tội giết người vì căm giận nạn nhân thì trong trường hợp theo yêu cầu

của nạn nhân, người phạm tội vì cảm thông với hoàn cảnh của nạn nhân mà chấp

nhận phạm tội. Vì vậy, thiết nghĩ trường hợp này cũng cần được quy định thành một

tội danh độc lập tương tự như tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh, tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ, tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ

chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.

Tham khảo pháp luật của các quốc gia trên thế giới, cũng có những quốc

gia quy định làm chết người theo yêu cầu của nạn nhân là tội phạm độc lập (Cộng

hòa Liên bang Đức, Thụy Sĩ) hoặc là tình tiết định khung giảm nhẹ của Tội giết

người (Cộng hòa Tây Ban Nha) [135, tr.365,368]. Thậm chí nếu làm chết người

172

theo yêu cầu của nạn nhân thuộc trường hợp “an tử” (euthanasia) thì một số quốc

gia không coi là tội phạm (Hà Lan, Bỉ, Anbani, Lúcxămbua…). Xu hướng đang

diễn ra trên thế giới là an tử ngày càng được nhiều quốc gia thừa nhận hơn. “Quyền

sống nên được coi là một quyền tùy nghi và nó không mẫu thuẫn mà song hành với

quyền an tử” [215, tr.224]. Ở Việt Nam hiện chưa cho phép “an tử”, nhưng theo

NCS, cũng không nên vì thế mà coi trường hợp làm chết người theo yêu cầu của

nạn nhân như những trường hợp giết người thông thường. Vì rõ ràng động cơ, mục

đích, hoàn cảnh phạm tội và tính chất nguy hiểm có nhiều điểm khác biệt so với giết

người thông thường. Người phạm tội làm chết người theo yêu cầu của nạn nhân cần

được áp dụng hình phạt nhẹ hơn so với những trường hợp thông thường.

Việc bổ sung điều luật riêng quy định về tội làm chết người theo yêu cầu

của nạn nhân sẽ vừa thể hiện xu hướng nhân đạo hóa, vừa thể hiện xu hướng phân

hóa TNHS đồng thời cũng thể hiện xu hướng quốc tế hóa PLHS. Tuy nhiên, việc bổ

sung tội danh này cùng với việc bổ sung văn bản hướng dẫn áp dụng cần đảm bảo

chặt chẽ, tránh trường hợp lợi dụng quy định để giết người mà nạn nhân không thực

sự thể hiện được ý chí hoặc nạn nhân là người dưới 18 tuổi (chưa đủ trưởng thành

để bày tỏ ý chí về một vấn đề quan trọng với cuộc sống của bản thân)… Với những

phân tích như đã trình bày, thiết nghĩ nên bổ sung điều luật cụ thể như sau:

“Điều 125 a. Tội làm chết người theo yêu cầu của nạn nhân

1. Người nào làm chết người theo yêu cầu nghiêm túc, khẩn thiết và rõ ràng

của nạn nhân từ đủ 18 tuổi trở lên để giải thoát nạn nhân khỏi sự đau đớn kéo dài

do mắc bệnh hiểm nghèo, không còn khả năng chữa trị thì bị phạt tù từ 06 tháng

đến 03 năm.

2. Phạm tội đối với 02 người trở lên thì bị phạt tù từ 03 năm đến 07 năm”.

Chín là, quy định về hình phạt chính đối với các tội XPTMCCN mặc dù đã

khá đa dạng, bao gồm nhiều loại hình phạt với mức độ nghiêm khắc tăng dần từ

cảnh cáo, cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, tù chung thân đến tử hình (đã phân

tích cụ thể tại tiểu mục 2.1.3 của Chương 2), nhưng vẫn còn thiếu một loại hình

phạt có mức độ nghiêm khắc nằm trong khoảng “chuyển tiếp” giữa hình phạt cảnh

cáo và hình phạt cải tạo không giam giữ. Đó là hình phạt tiền.

Trong các Nghị quyết của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đã

chỉ rõ cần phải “Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải

tạo không giam giữ đối với một số loại tội phạm” [10], [11], [12]. Trong Chương

173

XIV BLHS năm 2015, hình phạt tiền đã được bổ sung là hình phạt chính trong một

số tội xâm phạm sức khỏe (Điều 135, Điều 136, Điều 138, Điều 139) nhưng các tội

XPTMCCN thì vẫn không quy định hình phạt tiền là hình phạt chính. Điều này có

thể là do nhìn chung thì các tội XPTMCCN có tính chất nguy hiểm cao hơn so với

các tội xâm phạm sức khỏe của con người. Tuy nhiên, xét theo phân loại tội phạm

dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội thì các tội XPTMCCN không chỉ

bao gồm các tội rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng, mà còn có cả tội ít

nghiêm trọng và tội nghiêm trọng (đã phân tích tại mục 2.2 của Chương 2). Trong

khi đó, hình phạt tiền có thể được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm

tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng (Điều 35). Hơn nữa, Điều 132 còn

quy định hình phạt cảnh cáo (ít nghiêm khắc hơn so với hình phạt tiền) nhưng lại

không quy định hình phạt tiền. Vì vậy, NCS cho rằng cần bổ sung quy định hình

phạt tiền với mức phạt từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng vào khoản 1 Điều

132 (tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng).

Cụ thể, khoản 1 Điều 132 nên sửa lại như sau:

“Người nào biết rõ người khác đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính

mạng, tuy có điều kiện mà không cứu giúp dẫn đến hậu quả người đó chết, thì bị

phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo

không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”

Việc sửa đổi như trên một mặt góp phần đảm bảo chủ trương của Đảng về

cải cách tư pháp, đảm bảo định hướng tiếp tục nhân đạo hóa quy định của PLHS (đã

trình bày tại tiểu mục 4.1.2). Mặt khác, việc sửa đổi như trên cũng thể hiện xu

hướng phân hóa TNHS, sẽ giúp tòa án có thêm sự lựa chọn chế tài khi giải quyết

từng vụ án cụ thể, đảm bảo lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp với

tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, vừa đảm bảo tính răn đe vừa

góp phần bổ sung ngân sách của Nhà nước.

4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình

sự về các tội xâm phạm tính mạng của con người

4.2.1. Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất quy định về

các tội xâm phạm tính mạng của con người

Như đã phân tích tại Chương 3 của luận án, một trong những nguyên nhân

quan trọng dẫn đến những hạn chế, sai lầm trong áp dụng PLHS về các tội

XPTMCCN là hạn chế trong công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật. Vì vậy, bên

174

cạnh việc hoàn thiện quy định của BLHS, các cơ quan chức năng cần ban hành

văn bản hướng dẫn thực hiện quy định về các tội XPTMCCN. Việc ban hành các

Nghị quyết, Thông tư liên tịch hướng dẫn cần dựa trên cơ sở tổng kết rút kinh

nghiệm các vụ án đã xét xử và tập trung vào những vấn đề mới chưa có văn bản

hướng dẫn hoặc những vấn đề còn khó hiểu, gây tranh cãi, vướng mắc trong thực

tiễn áp dụng. Cụ thể:

- Những vấn đề chưa được hướng dẫn, giải thích:

+ Thế nào là “giết 02 người trở lên” (điểm a khoản 1 Điều 123)? Trên thực

tế có thể xảy ra các trường hợp gây tranh cãi: người thực hiện hành vi mong muốn

tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên nhưng chỉ có 01 người chết; người thực

hiện hành vi mong muốn tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên nhưng không ai

bị chết; người thực hiện hành vi có ý thức bỏ mặc cho 02 người trở lên bị chết

nhưng chỉ có 01 người chết; người thực hiện hành vi mong muốn tước đoạt tính

mạng của 01 người và có ý thức bỏ mặc cho 01 người chết và thực tế chỉ có 01

người chết… mà vụ án được nêu tại Bản án hình sự sơ thẩm số 449/2022/HS-ST

ngày 21/9/2022 của TAND TP.HCM là một ví dụ (đã phân tích tại tiểu mục 3.2.2.2

của Chương 3). NCS cho rằng cần có văn bản giải thích trên cơ sở xác định bản

chất của hình thức lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp trong tội giết người. Cụ thể,

nếu là giết người với lỗi cố ý trực tiếp (mong muốn tước đoạt tính mạng của nạn

nhân) thì không cần hậu quả chết người xảy ra. Ngược lại, nếu là hình thức lỗi cố ý

gián tiếp (có ý thức bỏ mặc cho nạn nhân chết) thì bắt buộc phải có hậu quả chết

người xảy ra. Trên cơ sở đó, “giết 02 người trở lên” nên được xác định là mong

muốn tước đoạt tính mạng của 02 người trở lên (không kể có chết người hay không,

có mấy người chết) hoặc có ý thức bỏ mặc cho 02 người trở lên chết và thực tế đã

có từ 02 người trở lên bị chết hoặc mong muốn tước đoạt tính mạng của 01 người

(không kể có chết hay không) và bỏ mặc cho 01 người trở lên chết (phải có hậu quả

chết người xảy ra).

+ Thế nào là “giết người dưới 16 tuổi” (điểm b khoản 1 Điều 123)? Quy

định tưởng chừng như đã rất rõ ràng nhưng trong nghiên cứu khoa học cũng như

trong thực tiễn áp dụng PLHS vẫn còn có 02 cách hiểu khác nhau về ý thức chủ

quan của người phạm tội: Một là, chỉ áp dụng tình tiết trên nếu thỏa mãn cả 02 điều

kiện là nạn nhân dưới 16 tuổi và người phạm tội biết nạn nhân là người dưới 16

175

tuổi. Hai là, chỉ cần thỏa mãn 01 điều kiện về khách quan nạn nhân là “người dưới

16 tuổi” [52, tr.176]. NCS cho rằng cần có văn bản giải thích thống nhất theo cách

hiểu thứ hai, vì tình tiết tăng nặng định khung nên trên không phải là tình tiết thuộc

ý thức chủ quan của người phạm tội mà là tình tiết thuộc mặt khách quan.

+ Thế nào là “giết phụ nữ mà biết là có thai” (điểm c khoản 1 Điều 123)?

Hiện nay, đa số quan điểm cho rằng để áp dụng tình tiết này thì nạn nhân phải là

người đang mang thai và người phạm tội biết rõ điều đó khi thực hiện hành vi giết

nạn nhân [207, tr.63]. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng trong trường hợp

người phụ nữ bị giết không có thai, nhưng người phạm tội tưởng lầm là có thai và

sự lầm tưởng này là có căn cứ thì người phạm tội vẫn bị truy cứu TNHS về tội giết

người trong trường hợp “giết phụ nữ mà biết là có thai” [117, tr.21]. NCS cho rằng

cần có văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất tình tiết trên theo hướng cần phải có

đủ 02 điều kiện: một là, nạn nhân phải là phụ nữ đang mang thai; hai là, người

phạm tội biết rõ điều đó khi thực hiện hành vi giết người. Bởi vì điều luật quy định

“biết là có thai” chứ không phải “tưởng là có thai”. Vấn đề này đã được xác định

trong Báo cáo bổ sung công tác xét xử về hình sự của Tòa Hình sự TAND Tối cao

ngày 10/01/1999. Tuy nhiên, vẫn cần có văn bản hướng dẫn chính thức của TAND

Tối cao.

+ Thế nào là “giết ông, bà, cha, mẹ” của mình (điểm đ khoản 1 Điều 123)?

Thực tiễn áp dụng PLHS cho thấy hiện vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau:

Cách hiểu thứ nhất cho rằng giết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha

đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của mình hay của vợ hoặc của chồng thì đều bị áp

dụng tình tiết trên. Chẳng hạn như vụ án được nêu trong Bản án hình sự sơ thẩm số

09/HSST ngày 31/3/2000 của TAND tỉnh Hà Nam. Trong vụ án này, do mâu thuẫn

với gia đình bố mẹ vợ, bị cáo đã dùng dao đâm chết vợ và bố, mẹ vợ. TAND tỉnh

Hà Nam đã xác định bị cáo phạm tội giết người với 02 tình tiết tăng nặng định

khung là giết nhiều người và giết cha, mẹ của mình.

Cách hiểu thứ hai cho rằng chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng nên trên nếu giết

ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của mình;

còn giết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của

vợ hay của chồng thì không bị áp dụng tình tiết nêu trên. Chẳng hạn như vụ án được

nêu trong Bản án hình sự sơ thẩm số 52/HSST ngày 05/6/2001 của TAND tỉnh Bến

176

Tre. Trong vụ án này, cũng từ mâu thuẫn với vợ và mẹ vợ, bị cáo đã dùng ghế đẩu

bằng gỗ đánh chết mẹ vợ của bị báo. TAND tỉnh Bến Tre không áp dụng tình tiết

tăng nặng định khung “giết mẹ của mình” vì cho rằng nạn nhân là mẹ vợ chứ không

phải là mẹ đẻ của bị cáo.

Cách hiểu thứ ba lại cho rằng, chỉ áp dụng tình tiết tăng nặng định khung

nêu trên khi người phạm tội giết ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cha đẻ, mẹ đẻ

của mình. Còn nếu giết cha nuôi, mẹ nuôi của mình cũng không bị áp dụng tình tiết

tăng nặng định khung nêu trên [52, tr.193].

NCS cho rằng xét về bản chất của vấn đề thì quy định tại điểm đ khoản 1

Điều 123 thể hiện đường lối xử lý nghiêm khắc hơn bình thường đối với trường hợp

người phạm tội đã giết những người mà đáng lẽ ra họ phải tôn kính, biết ơn, trân

trọng vì đã có công sinh thành, nuôi dưỡng, dạy dỗ. Hành vi phạm tội như trên sẽ

thể hiện tính chất nguy hiểm cao hơn vì làm đảo lộn các giá trị xã hội, thể hiện sự

xuống cấp nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách… Vì vậy, nếu hiểu theo cách thứ

nhất là quá rộng và cảm tính (đặc biệt là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của vợ

hoặc chồng). Trong rất nhiều trường hợp thực tế, giữa người phạm tội và những

người nêu trên ít hoặc không có sự gắn bó thân thiết, không có quan hệ chăm sóc,

nuôi dưỡng, dạy dỗ… Trong khi đây là tình tiết tăng nặng định khung (phạt tù từ 12

năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình), cần phải thận trọng khi áp dụng, nếu

hiểu rộng quá sẽ dẫn đến tình trạng xử nặng đối với nhiều người. Ngược lại, nếu

hiểu theo cách thứ ba thì bỏ sót cha nuôi, mẹ nuôi của người phạm tội. Trong khi

hiện nay, đây là quan hệ nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục được pháp luật thừa nhận,

quy định rất rõ ràng. Vì vậy, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn thống nhất về

trường hợp “giết ông, bà, cha, mẹ” của mình theo cách hiểu thứ hai đã nêu ở trên.

+ Thế nào là giết “người nuôi dưỡng” của mình (điểm đ khoản 1 Điều

123)? Thực tế cũng cho thấy các quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho

rằng cần phải thỏa mãn 02 điều kiện: nạn nhân là người đã hoặc đang nuôi dưỡng

người phạm tội và quan hệ nuôi dưỡng này phải được pháp luật thừa nhận. Quan

điểm thứ hai cho rằng cứ giết người đang nuôi dưỡng mình, dù quan hệ nuôi dưỡng

này không được pháp luật thừa nhận cũng bị áp dụng tình tiết nêu trên [52, tr.193-

194]. NCS cho rằng nếu hiểu theo quan điểm thứ hai thì sẽ khó có cơ sở, căn cứ để

xác thực khi cần xem xét có tồn tại hay không quan hệ nuôi dưỡng giữa nạn nhân và

177

người phạm tội, từ đó có thể dẫn đến sự cảm tính, tùy tiện, thậm chí là cố tình tiêu

cực trong áp dụng. Hơn nữa, đây cũng là tình tiết tăng nặng định khung nên nếu còn

nhiều cách hiểu khác nhau thì cần phải thận trọng trong áp dụng, không nên mở

rộng phạm vi áp dụng, gây bất lợi cho người bị áp dụng. Vì vậy, cũng cần phải có

văn bản hướng dẫn thống nhất theo quan điểm thứ nhất đã nêu ở trên.

+ Thế nào là giết “thầy giáo, cô giáo của mình” (điểm đ khoản 1 Điều

123)? Quy định tưởng chừng như rõ ràng nhưng trên thực tế vẫn dẫn đến nhiều cách

hiểu khác nhau xoay quanh các vấn đề: nạn nhân có nhất thiết phải là người làm

việc trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ quan có thẩm quyền của

Nhà nước cho phép hoặc công nhận, theo hợp đồng hoặc theo biên chế không

(chẳng hạn nạn nhân không phải là người làm việc trong các cơ sở giáo dục, đào

tạo, dạy nghề nhưng vì trình độ và năng lực, họ nhận dạy thêm, dạy kèm cho người

phạm tội…)? Nạn nhân có nhất thiết phải đã hoặc đang trực tiếp giảng dạy người

phạm tội không (ví dụ có những thầy giáo, cô giáo thuộc biên chế cơ sở giáo dục

mà người phạm tội đang học tập nhưng không trực tiếp giảng dạy người phạm tội

thì sao?...). NCS cho rằng để đảm bảo sự chặt chẽ, tránh sự không thống nhất, tùy

tiện trong áp dụng tình tiết nêu trên thì cần có văn bản hướng dẫn theo hướng nạn

nhân phải là người làm việc trong các cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề được cơ

quan có thẩm quyền của Nhà nước cho phép hoặc công nhận, theo hợp đồng hoặc

theo biên chế; đồng thời, nạn nhân cũng đã hoặc đang trực tiếp hay gián tiếp thực

hiện chức năng giáo dục, đào tạo, dạy nghề cho người phạm tội như: thầy giáo, cô

giáo trực tiếp giảng dạy các học phần, giáo viên chủ nhiệm lớp hoặc hiệu trưởng,

phó hiệu trưởng phụ trách, chủ nhiệm khoa, trưởng phòng đào tạo…

+ Thế nào là giết người “để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân” (điểm h

khoản 1 Điều 123)? Đây là trường hợp giết người mà động cơ phạm tội là việc

chiếm đoạt bộ phận cơ thể của nạn nhân cho mình, cho người thân hoặc để trao đổi,

mua bán. Động cơ, mục đích phạm tội trong trường hợp này thể hiện tính ích kỉ cao

độ trong việc đánh đổi tính mạng người khác cho việc thỏa mãn nhu cầu cá nhân

[207, tr.65]. NCS cho rằng cần có văn bản hướng dẫn để phân biệt trường hợp trên

với các trường hợp người phạm tội vì quá căm tức nạn nhân nên sau khi giết nạn

nhân đã lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân để nhằm mục đích khác cho hả giận

178

(chẳng hạn sau khi giết nạn nhân, người phạm tội đã mổ bụng nạn nhân lấy nội tạng

cho súc vật ăn…).

+ Thế nào là giết người “bằng cách lợi dụng nghề nghiệp” (điểm k khoản 1

Điều 123)? Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau khi nhận thức về tình tiết này:

Quan điểm thứ nhất cho rằng đây là trường hợp giết người mà người phạm

tội đã lợi dụng nghề nghiệp của mình để có thể dễ dàng thực hiện hoặc che giấu

hành vi giết người [59, tr.68], [153, tr.24], [207, tr.65-66], [214, tr.60-61], [242,

tr.67]. Theo quan điểm này thì việc lợi dụng nghề nghiệp có thể là để dễ dàng thực

hiện tội phạm hoặc việc lợi dụng nghề nghiệp có thể chỉ là để dễ dàng che giấu tội

phạm. Ví dụ: A làm việc tại một cơ sở hỏa táng. Trong một lần rủ B (bạn thân của

A từ nhỏ) về nhà ăn nhậu, do bị ảnh hưởng bởi uống nhiều rượu nên A và B tranh

luận dẫn đến cãi vã và ẩu đả. A đã dùng dao đâm B chết. Sau đó, để che giấu tội

phạm, A đã lén đưa xác B đến cơ sở hỏa táng mà mình đang làm việc để thiêu xác

B. Trong ví dụ này, có thể thấy hành vi giết người của A không có việc lợi dụng

nghề nghiệp nhưng việc che giấu tội giết người lại có yếu tố lợi dụng nghề nghiệp;

Quan điểm thứ hai cho rằng đây là trường hợp người phạm tội đã sử dụng

nghề nghiệp của mình để làm phương tiện giết người dễ dàng và cũng dễ dàng che

giấu tội phạm [52, tr.199], [117, tr.29]. Theo quan điểm này thì việc sử dụng nghề

nghiệp vừa giúp người phạm tội thực hiện hành vi giết người và cũng giúp người

phạm tội che giấu tội phạm. Theo đó thì ví dụ đã được nêu khi phân tích quan điểm

thứ nhất ở phần trên không thuộc trường hợp quy định tại điểm k khoản 1 Điều 123;

Quan điểm thứ ba cho rằng đây là trường hợp người phạm tội có nghề

nghiệp, đã sử dụng nghề nghiệp của mình để thực hiện việc giết người [64, tr.39],

[101, tr.41]. Theo quan điểm này thì chỉ cần việc sử dụng nghề nghiệp của người

phạm tội là để thuận lợi cho việc thực hiện hành vi giết người. Còn việc lợi dụng

nghề nghiệp có giúp dễ dàng cho việc che giấu tội phạm hay không thì đều không

có ý nghĩa trong việc xem xét tình tiết tại điểm k khoản 1 Điều 123.

NCS cho rằng quan điểm thứ ba là phù hợp, vì khoản 1 Điều 123 quy định

hành vi “giết người” chứ không quy định hành vi che giấu hay xóa dấu vết của tội

phạm. Vì vậy, quy định tại điểm k của khoản 1 là quy định cho hành vi “giết

người”. Còn việc lợi dụng nghề nghiệp có giúp ích gì cho việc che giấu tôị phạm

hay không đều không có ý nghĩa trong việc xem xét tình tiết này. Trên cơ sở đó,

179

thiết nghĩ cũng cần có văn bản hướng dẫn thống nhất tình tiết quy định tại điểm k

khoản 1 Điều 123 theo quan điểm thứ ba như đã phân tích ở trên.

+ Thế nào là giết người “bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều

người” (điểm l khoản 1 Điều 123)? Về mặt lí luận, có thể dễ dàng xác định đây là

trường hợp giết người mà người phạm tội đã sử dụng công cụ, phương tiện hoặc thủ

đoạn phạm tội có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người (trong hoàn cảnh cụ thể)

như dùng chất nổ giết nạn nhân đang ở trong nhà cùng với những người khác…

[207, tr.66]. Tuy nhiên, trong thực tế việc phân biệt trường hợp này với trường hợp

giết 02 người trở lên (điểm a khoản 1 Điều 123) gặp rất nhiều khó khăn, nhiều quan

điểm trái chiều, không thống nhất trong áp dụng. Chẳng hạn vụ án được nêu trong

Bản án hình sự phúc thẩm số 768/HSPT ngày 21/5/1997 của TAND tối cao tại

TP.HCM: Do mâu thuẫn cá nhân, Lê Ngọc Liêm đã đổ 100 gam thuốc trừ sâu hiệu

Furanđan vào nồi canh cá của gia đình chị Vũ Thị Nhuần làm 5 người nhà chị

Nhuần bị ngộ độc sau khi ăn nồi canh này. Do được cấp cứu kịp thời nên không ai

bị chết. TAND cấp sơ thẩm xác định Liêm phạm tội giết người với tình tiết tăng

nặng định khung “giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều

người”. Tuy nhiên, TAND cấp phúc thẩm lại áp dụng tình tiết tăng nặng định khung

“giết nhiều người” (hiện nay là giết 02 người trở lên).

NCS cho rằng để có thể phân biệt rạch ròi tình tiết tại điểm l với tình tiết tại

điểm a khoản 1 Điều 123 như đã nêu ở trên thì cần xem xét trong 03 khả năng đối

với hậu quả chết người xảy ra. Cụ thể:

Trường hợp 1, người phạm tội dùng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn

giết người có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người nhưng thực tế không có hậu

quả chết người xảy ra. Trường hợp này cần xác định người phạm tội có mong muốn

tước đoạt tính mạng của nhiều người hay không? Nếu mong muốn tước đoạt tính

mạng của 02 người trở lên thì cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123. Nếu chỉ mong

muốn tước đoạt tính mạng của 01 người thì áp dụng điểm l khoản 1 Điều 123.

Chẳng hạn như với vụ án đã nêu ở trên, cần xác định Liêm muốn tước đoạt tính

mạng của chị Nhuần, một thành viên nào khác hay muốn tước đoạt tính mạng của

cả gia đình chị Nhuần. Nếu Liêm muốn tước đoạt tính mạng của từ 02 người trở lên

thì cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123. Ngược lại, giả sử Liêm chỉ muốn tước

đoạt tính mạng của chị Nhuần, còn không quan tâm, bất chấp sự nguy hiểm đến tính

180

mạng của các thành viên khác trong gia đình chị Nhuần thì cần áp dụng điểm l

khoản 1 Điều 123.

Trường hợp 2, người phạm tội dùng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn

giết người có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người nhưng thực tế chỉ có 01

người chết. Trường hợp này cũng cần xác định mục đích, mong muốn của người

phạm tội tương tự như trường hợp 1 đã nêu ở trên. Nếu mong muốn tước đoạt tính

mạng của 02 người trở lên thì cần áp dụng điểm a khoản 1 Điều 123. Nếu chỉ mong

muốn tước đoạt tính mạng của 01 người thì áp dụng điểm l khoản 1 Điều 123.

Trường hợp 3, người phạm tội dùng công cụ, phương tiện hoặc thủ đoạn

giết người có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người và thực tế đã làm chết từ 02

người trở lên. Trường hợp này cần xác định là “giết 02 người trở lên” vì khả năng

làm chết nhiều người đã được hiện thực hóa thành giết 02 người trở lên, lỗi của

người phạm tội đối với hậu quả chết người là lỗi cố ý (dù là cố ý trực tiếp hay cố ý

gián tiếp thì đều là hành vi giết người).

Vì vậy, thiết nghĩ cần có văn bản hướng dẫn phân biệt tình tiết giết người

“bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người” với tính tiết “giết 02 người

trở lên” như đã phân tích ở trên.

+ Thế nào là “thuê giết người hoặc giết người thuê” (điểm m khoản 1 Điều

123)? Về mặt lí luận, có thể dễ dàng nhận định thuê giết người là trường hợp dùng

lợi ích vật chất sai khiến người khác thực hiện hành vi giết người theo ý muốn của

mình. Ngược lại, giết người thuê là trường hợp chỉ vì động cơ kiếm tiền hay lợi ích

vật chất khác mà giết người theo yêu cầu của người thuê [207, tr.66]. Tuy nhiên,

trong thực tế thì “thuê giết người hoặc giết người thuê” rõ ràng không hề đơn giản

như thuê mướn làm các công việc bình thường khác. Để thực hiện hành vi trên, giữa

người thuê giết người và người nhận giết người thuê thường phải có sự trao đổi

thông tin rõ ràng về nạn nhân, bàn bạc kĩ lưỡng, lên kế hoạch chi tiết về địa điểm,

thời gian thực hiện tội phạm, cách thức thực hiện tội phạm và đối phó với cơ quan

điều tra, mức tiền “thù lao”, phương thức và thời gian thanh toán… nên thông

thường cũng sẽ là trường hợp phạm tội “có tổ chức”. Vậy trong trường hợp này, cần

áp dụng điểm m khoản 1 Điều 123 hay áp dụng điểm o khoản 1 Điều 123 (có tổ

chức) hay áp dụng cả điểm m và điểm o khoản 1 Điều 123?

181

NCS cho rằng quy định tại điểm m và điểm o khoản 1 Điều 123 là 02 tình

tiết tăng nặng định khung có nội dung khác nhau. Nếu hành vi giết người trên thực

tế đồng thời thỏa mãn cả 02 tình tiết trên thì cần áp dụng cả điểm m và điểm o

khoản 1 Điều 123. Vì vậy, cũng cần thiết phải có văn bản hướng dẫn về vấn đề này.

Vấn đề đặt ra là khái niệm “người thân thích” trong quy định tại Điều 125

BLHS năm 2015 có nên được hiểu theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự như

trên hay không? Chúng ta cùng xem xét ví dụ sau:

Nguyễn Đức T và Đinh Văn M là đồng đội, đã cùng chiến đấu ở chiến

trường miền Nam. Sau giải phóng, cả hai được phục viên, nhưng gia đình M đã bị

bom Mỹ sát hại hết nên T đã mời M về ở chung với gia đình mình. Gia đình T coi

M như con trong nhà, M cũng coi gia đình T như gia đình mình. Một hôm, M đang

chặt cây thì có người báo “mẹ của T bị đánh què chân rồi”. M vội cầm dao chạy về

thì được biết Vũ Xuân V là người đã đánh mẹ T. M bị kích động mạnh, liền cầm

dao sang nhà V chém liên tiếp vào đầu V làm V chết tại chỗ [117, tr.46].

Nếu hiểu khái niệm “người thân thích” như quy định của Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015 thì trường hợp phạm tội của M không phải là giết người trong

trạng thái tinh thần bị kích động mạnh vì mẹ của T không phải “người thân thích”

của M. Trong khi xét trên thực tế thì M cũng có tình cảm gắn bó với mẹ của T, xem

mẹ của T cũng như mẹ của mình. Và rõ ràng khi mẹ của T bị đánh thì M cũng hoàn

toàn có thể rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh. Hơn nữa, quy định tại

Điều 125 là trường hợp giảm nhẹ đặc biệt của tội giết người, có lợi hơn cho người

bị áp dụng so với Điều 123. Vì vậy, NCS cho rằng không nên “bó hẹp” một cách

máy móc khái niệm “người thân thích” trong quy định tại Điều 125 BLHS năm

2015 như quy định về “người thân thích của người tham gia tố tụng” ở Bộ luật tố

tụng hình sự năm 2015. Theo đó, NCS cũng kiến nghị cần có văn bản hướng dẫn

182

thống nhất khái niệm “người thân thích” trong quy định tại Điều 125 BLHS năm

2015 không chỉ bao gồm những người như quy định tại điểm e khoản 1 Điều 4 Bộ

luật tố tụng hình sự năm 2015 mà còn bao gồm những người trên thực tế có quan hệ

gắn bó thân thiết, quý mến nhau như người trong gia đình mà những người xung

quanh (nơi sinh sống, nơi học tập, nơi làm việc…) đều biết và có thể xác nhận.

Nhìn chung, những trường hợp nêu trên mặc dù đã được hướng dẫn nhưng

văn bản hướng dẫn đã có từ rất lâu, hướng dẫn cho quy định của BLHS năm 1985

(nghị quyết số 02-HĐTPTANDTC/NQ ngày 05/01/1986, nghị quyết số 04-

HĐTPTANDTC/NQ ngày 29/11/1986) hoặc thậm chí đã ra đời trước khi ban hành

BLHS năm 1985 (công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976 của TAND tối cao); có

nội dung đã không còn phù hợp do quy định của pháp luật có sự thay đổi (nội dung

hướng dẫn về phòng vệ chính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng); có

183

nội dung hướng dẫn chưa thực sự rõ ràng (thế nào là “liền trước đó” hoặc “ngay sau

đó”); có nội dung hướng dẫn còn nặng về định tính, hoặc chủ yếu là liệt kê ví dụ

(“có tính chất côn đồ”, “vì động cơ đê hèn”). Điều này cũng dẫn đến sự không

thống nhất trong nhận thức và áp dụng PLHS (đã phân tích cụ thể tại Chương 3 của

luận án).

Vì vậy, NCS cho rằng cần có 01 văn bản mới hướng dẫn chung cho việc áp

dụng quy định về các tội XPTMCCN trên cơ sở kế thừa những nội dung còn phù hợp

của các văn bản trước và sửa đổi những nội dung không còn phù hợp, chưa rõ ràng và

đặc biệt là bổ sung những nội dung chưa được hướng dẫn (như đã phân tích ở trên).

4.2.2. Tăng cường xây dựng, phát triển án lệ về các tội xâm phạm tính

mạng của con người

Cùng với việc ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng BLHS thì một trong

những nội dung quan trọng để đảm báo áp dụng thống nhất PLHS trong giai đoạn

hiện nay là tiếp tục công bố các án lệ về hình sự nói chung và án lệ về các tội

XPTMCCN nói riêng. Việc án lệ được thừa nhận và áp dụng vào hoạt động xét xử

hiện nay sẽ kịp thời giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong công tác xét xử,

bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử, nâng cao chất lượng và hiệu

quả công tác xét xử. Đặc biệt, đối với những vấn đề mà việc sử dụng “ngôn từ” của

văn bản hướng dẫn để giải thích khó đạt được yêu cầu (như thế nào là “vượt quá

mức cần thiết” trong phòng vệ chính đáng hoặc trong khi bắt giữ người phạm tội,

thế nào là “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”…) thì các án lệ có thể giúp các

cơ quan THTT và người dân hiểu rõ hơn quy định của BLHS.

Hiện nay đã có 17 án lệ về hình sự được công bố, trong đó có 08 án lệ

(chiếm hơn 47%) có liên quan đến việc xác định các tội XPTMCCN (07 án lệ liên

quan đến tội giết người và 01 án lệ về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh). Điều đó phần nào đã cho thấy sự chú trọng của TAND tối cao đối

với việc hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN và cũng cho thấy sự khó khăn,

vướng mắc trong áp dụng quy định của BLHS về các tội phạm này.

Trong thời gian sắp tới, TAND các quận, huyện, thành phố, TAND

TP.HCM nói riêng và TAND các địa phương nói chung cần tiếp tục thực hiện Nghị

quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 về quy trình lựa chọn, công bố và áp

dụng án lệ để đẩy mạnh công tác xây dựng và áp dụng án lệ, lựa chọn đề xuất các

184

bản án để Hội đồng tư vấn án lệ xem xét. TAND tối cao cần tiếp tục lựa chọn để

Chánh án TAND tối cao công bố thêm nhiều án lệ về hình sự nói chung và án lệ về

các tội XPTMCCN nói riêng, đặc biệt là các vụ án về các tội như: tội giết người

trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 125); tội giết người do vượt quá

giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm

tội (Điều 126); tội giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124); tội bức tử (Điều 130);

tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát (Điều 131); tội không cứu giúp người đang

ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132); tội đe dọa giết người (Điều

133); những tình tiết tăng nặng định khung của tội giết người (khoản 1 Điều 123)…

Chẳng hạn, NCS cho rằng có thể xem xét, lựa chọn Bản án số

128/2021/HS-PT ngày 26/03/2021 của TAND cấp cao tại Hà Nội [156] để công bố

thành án lệ về tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (nội dung

bản án đã được phân tích cụ thể tại tiểu mục 2.3.1.2 của Chương 2). Điều này sẽ

giúp thống nhất nhận thức về dấu hiệu pháp lí của tội phạm tại Điều 125: tội phạm

có thể được thực hiện bởi hình thức lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp; nếu là

hình thức lỗi cố ý trực tiếp thì hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc

phải có. Thông qua đó, cũng giúp phân biệt tội phạm tại Điều 125 với Điều 135.

Đây đều là những vấn đề mà hiện nay cả về nhận thức lí luận và thực tiễn áp dụng

PLHS còn chưa có sự thống nhất.

Bên cạnh việc tăng cường xây dựng án lệ mới thì cũng cần rà soát, có ý

kiến phản hồi về những nội dung còn gây tranh cãi hoặc chưa thực sự phù hợp trong

các án lệ đã công bố để TAND tối cao kịp thời có văn bản thống nhất cách hiểu

hoặc bãi bỏ án lệ (không còn phù hợp do chuyển biến tình hình). Chẳng hạn như án

lệ số 28/2019/AL về tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”

sau khi công bố đã có nhiều ý kiến trái chiều về quan điểm khoa học, chủ yếu xoay

quanh việc phân biệt tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh với

tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. NCS cho rằng việc xác

định bị cáo Trần Văn C phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh là phù hợp. Tuy nhiên, các lập luận được phân tích trong nội dung án lệ là

chưa thực sự khoa học. Cụ thể: nội dung án lệ nêu rõ các vấn đề như “bị hại có một

chuỗi hành vi liên tục tác động đến bị cáo với mức độ tăng dần”, “hành vi của bị

hại là trái pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thế của bị cáo”, “bị cáo dùng

185

dao đâm vào ngực bị hại là nhằm thoát khỏi sự tấn công”… Tuy nhiên, sau đó vẫn

chỉ dựa vào yếu tố tinh thần bị kích động mạnh để kết luận bị cáo phạm tội giết

người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (nội dung vụ án đã được phân

tích tại tiểu mục 3.2.4.1 của Chương 3). Điều này đã dẫn đến các quan điểm trái

chiều về tội danh trong vụ án trên.

Đối với án lệ này, để tránh gây tranh cãi, NCS cho rằng TAND tối cao cần

có văn bản (tương tự công văn số 100/TANDTC-PC ngày 13/6/2023 về việc áp

dụng Án lệ số 47/2021/AL) để quán triệt, giải thích rõ: mặc dù bị hại có hành vi trái

pháp luật, xâm phạm sự an toàn về thân thể của bị cáo nhưng hành vi xâm hại đó

chưa đến mức nguy hiểm đáng kể, chưa phải là tội phạm nên việc xác định bị cáo

phạm tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh là đúng pháp luật.

Điều này cũng đã được hướng dẫn trong Nghị quyết số 04-HĐTPTANDTC/NQ:

Với án lệ số 17/2018/AL về tình tiết “có tính chất côn đồ” trong tội “Giết

người” có đồng phạm, NCS cho rằng việc xác định bị cáo H đồng phạm về tội giết

người là không chính xác (đã phân tích cụ thể tại tiểu mục 3.2.4.1 của Chương 3).

Vì vậy cần bãi bỏ án lệ này.

4.2.3. Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật hình sự về

các tội xâm phạm tính mạng của con người

186

Thực tiễn các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các tội XPTMCCN

cho thấy bên cạnh nhiều kết quả tích cực đạt được thì vẫn còn những hạn chế, sai

sót xuất phát một phần từ trình độ, năng lực của cán bộ THTT. Cán bộ làm công tác

điều tra, truy tố, xét xử không chỉ cần nắm vững quy định của PLHS, pháp luật tố

tụng hình sự và các ngành luật có liên quan mà còn cần nắm vững đường lối, chính

sách PLHS của Đảng và Nhà nước; yêu cầu, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới. Song cùng với kiến thức pháp lý là kiến thức nghiệp vụ

điều tra, truy tố, xét xử; nắm vững những thông tư liên ngành của TAND tối cao,

VKSND tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán

TAND tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc định tội danh, quyết định

hình phạt… Đối với các tội XPTMCCN, để đảm bảo áp dụng đúng quy định của

pháp luật, cán bộ THTT còn phải có kiến thức sâu, rộng về các lĩnh vực liên quan

như sinh học, xã hội học, tâm lý học, tâm thần học, pháp y hình sự…

Bên cạnh trình độ, năng lực chuyên môn thì phẩm chất chính trị, đạo đức

của đội ngũ cán bộ THTT cũng giữ vai trò quyết định trong việc đảm bảo áp dụng

đúng quy định của pháp luật. Đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay,

người cán bộ nếu không giữ vững phẩm chất chính trị, đạo đức của bản thân thì rất

dễ bị tác động bởi các lợi ích vật chất, từ đó cố tình sai phạm trong hoạt động tố

tụng hình sự. Đây cũng là nội dung chưa thực sự được chú trọng trong thực tiễn

hoạt động bồi dưỡng, tập huấn nâng cao chất đội ngũ cán bộ THTT thời gian qua.

Vì vậy, trong thời gian tới cần tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn

luyện phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ THTT gắn với việc tăng cường xây

dựng, chỉnh đốn Đảng trong các cơ quan tố tụng; thực hiện nghiêm các nghị quyết

187

của Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, khóa XII), Chỉ thị số 05-

CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong

cách Hồ Chí Minh. Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thi đua “Vì Công lý”, theo chủ đề

“Phụng công, thủ pháp, chí công vô tư”, chủ đề hành động “Trách nhiệm, kỷ

cương, chất lượng, vì công lý”, với phương châm “Gần dân, hiểu dân, giúp dân,

học dân”... Song song với việc tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức

nghề nghiệp, đạo đức cách mạng, thiết nghĩ cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi,

cải thiện chế độ chính sách, đãi ngộ phù hợp, xứng đáng cho đội ngũ cán bộ làm

công tác tố tụng. Đồng thời, cần thực hiện nghiêm túc, kịp thời việc khen thưởng

đối với cán bộ có thành tích xuất sắc; kiên quyết sàng lọc, thay thế, kỷ luật những

cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ…

4.2.4. Tiếp tục tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về

các tội xâm phạm tính mạng của con người

Để bảo đảm áp dụng đúng quy định của PLHS về các tội XPTMCCN thì

một trong những nội dung quan trọng là cần tăng cường tổng kết thực tiễn áp dụng

PLHS đối với nhóm tội phạm này. Bởi vì quy định của pháp luật thường có tính

khái quát, các văn bản hướng dẫn thực hiện dù có chi tiết đến mấy cũng khó có thể

cụ thể trong mọi trường hợp. Hơn nữa, tình hình tội phạm luôn ở trạng thái động, có

sự thay đổi, diễn biến phức tạp về phương thức, thủ đoạn, địa điểm, đối tượng tác

động… trong khi đó, quy định của PLHS lại có tính ổn định tương đối nên có thể

chưa dự liệu được hết tất cả các trường hợp phạm tội riêng biệt có thể xảy ra trên

thực tế. Thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ chỉ ra những thiếu sót, hạn chế, vướng mắc,

những điểm còn chưa rõ trong quy định của pháp luật. Việc thường xuyên tổng kết

thực tiễn áp dụng PLHS sẽ giúp kịp thời đưa ra những phương hướng, đường lối xét

xử đối với những trường hợp phạm tội đặc biệt có nhiều cách hiểu khác nhau,

hướng giải quyết chưa thống nhất.

Định kỳ, các cơ quan THTT các cấp cần thường xuyên tiến hành tổng kết

thực tiễn hoạt động áp dụng PLHS của mình để xác định những kết quả đạt được và

những khó khăn, hạn chế, vướng mắc, sai sót thường xuyên gặp phải, những vấn đề

chưa thống nhất để trao đổi, phân tích, tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết phù

hợp, thống nhất giữa các đơn vị, các cấp, các địa phương. Các cơ quan cấp trên cần

ban hành thông báo rút kinh nghiệm sau khi giải quyết mỗi vụ án lớn, phức tạp, có

188

sai sót để các cơ quan cấp dưới rút kinh nghiệm, thực hiện một cách thống nhất. Đối

với những vụ án có tính chất phức tạp, có nhiều quan điểm khác nhau giữa các

ngành thì liên ngành tư pháp cần họp bàn, thống nhất quan điểm, phương án giải

quyết để đảm bảo tính đúng đắn, công bằng trong hoạt động áp dụng PLHS.

Hoạt động tổng kết thực tiễn áp dụng PLHS đối với các tội XPTMCCN nên

được tổ chức linh hoạt với đa dạng các hình thức như thông qua các phiên tòa rút

kinh nghiệm, hội nghị, hội thảo khoa học, tổng kết chuyên đề, tham luận nghiên cứu

khoa học, từ đó tạo diễn đàn trao đổi, đưa ra những ý kiến, kiến nghị các cơ quan có

thẩm quyền ban hành hướng dẫn, sửa đổi, bổ sung quy định của PLHS nhằm đáp

ứng nhu cầu thực tiễn. Kết quả của các hoạt động tổng kết kinh nghiệm nêu trên

cũng là cơ sở thực tiễn quan trọng để các cơ sở đào tạo kiện toàn nội dung và

chương trình đào tạo, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn

đội ngũ làm công tác tố tụng hình sự, qua đó sẽ giúp từng bước nâng cao hiệu quả

hoạt động áp dụng PLHS.

4.2.5. Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng

trong giải quyết các vụ án xâm phạm tính mạng của con người

189

Tiểu kết chương 4

Qua việc nghiên cứu vấn đề hoàn thiện quy định của PLHS Việt Nam về

các tội XPTMCCN và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng, có thể rút ra kết luận:

Quy định của PLHS hiện hành về các tội XPTMCCN bên cạnh nhiều ưu

điểm thì vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh hưởng đến việc thực thi

BLHS. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN là

cần thiết, xuất phát từ yêu cầu khắc phục nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm

trong áp dụng PLHS; thể hiện đầy đủ chính sách hình sự Việt Nam đối với các tội

XPTMCCN trong giai đoạn mới; bảo vệ công lý, quyền con người và quyền công

dân trong tư pháp hình sự; phòng, chống có hiệu quả tình hình các tội XPTMCCN

và nhu cầu hợp tác quốc tế về tư pháp hình sự. Việc tiếp tục hoàn thiện PLHS về

các tội XPTMCCN không nằm ngoài các xu hướng tiếp tục nhân đạo hóa, phân hóa

và quốc tế hóa các quy định của PLHS. Trên cơ sở đó, NCS đã có những kiến nghị

cụ thể sửa đổi quy định của BLHS về các tội phạm: tội giết người (Điều 123); tội

giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ (Điều 124); tội bức tử (Điều 130); tội xúi giục hoặc

giúp người khác tự sát (Điều 131); tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng

nguy hiểm đến tính mạng (Điều 132); tội đe dọa giết người (Điều 133). Nghiên cứu

sinh cũng mạnh dạn kiến nghị bổ sung 01 tội danh mới: “Tội làm chết người theo

yêu cầu của nạn nhân” với mong muốn góp phần hoàn thiện BLHS theo hướng vừa

thể hiện xu hướng nhân đạo hóa, vừa thể hiện xu hướng phân hóa TNHS đồng thời

cũng thể hiện xu hướng quốc tế hóa PLHS.

Bên cạnh những khiếm khuyết trong quy định của BLHS thì việc thiếu văn

bản hướng dẫn; án lệ về các tội XPTMCCN còn ít; trình độ, năng lực của đội ngũ

cán bộ làm công tác tố tụng chưa đồng đều; sự phối hợp giữa các cơ quan THTT có

lúc, có nơi còn hạn chế… cũng ảnh hưởng đến hoạt động áp dụng PLHS về các tội

XPTMCCN. Vì vậy, song cùng với những kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp

190

luật, NCS cũng đề xuất các giải pháp góp phần áp dụng đúng quy định của pháp

luật: tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật và xây dựng,

phát triển án lệ đối với các tội XPTMCCN; nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ

áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN; tiếp tục tăng cường tổng kết thực tiễn áp

dụng PLHS về các tội XPTMCCN; tăng cường quan hệ phối hợp giữa các cơ quan

THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.

191

KẾT LUẬN

Từ kết quả nghiên cứu đề tài luận án tiến sĩ luật “Các tội xâm phạm tính mạng

của con người từ thực tiễn TP.HCM” cho phép nghiên cứu sinh rút ra các kết luận

sau đây:

1. Các tội XPTMCCN từ lâu đã là đề tài nghiên cứu của nhiều công trình khoa

học trong nước và ngoài nước, tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau cả về lý luận,

thực tiễn áp dụng và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng PLHS. Giữa các công

trình nghiên cứu bên cạnh những nội dung đã thống nhất thì vẫn còn nhiều vấn đề

chưa thống nhất, có nhiều quan điểm trái chiều. Trên cơ sở xác định rõ phạm vi các

tội XPTMCCN, NCS đã phân tích dấu hiệu pháp lý, hình phạt và phân biệt các tội

XPTMCCN với các tội xâm phạm sức khỏe của con người và với các tội xâm phạm

an ninh quốc gia. Các phân tích của nghiên cứu sinh có sự kế thừa, phát triển lý luận

của các công trình đi trước nhưng cũng đưa ra những quan điểm, lập luận riêng của

bản thân, góp phần hoàn thiện lý luận về các tội XPTMCCN.

2. Quy định về các tội XPTMCCN trong mỗi thời kỳ đều có sự phù hợp với đòi

hỏi của công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm và thực hiện nhiệm vụ chính trị

của đất nước. Nhìn chung, quy định về các tội XPTMCCN ngày càng phát triển và

hoàn thiện hơn theo xu hướng nhân đạo hóa và phân hóa TNHS, phù hợp với sự vận

động và phát triển của xã hội. Quy định về các tội XPTMCCN trong BLHS năm

2015 nhìn chung đã đáp ứng nguyên tắc đảm bảo quyền con người theo tinh thần

của Hiến pháp năm 2013; đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các điều ước quốc tế mà

Việt Nam là thành viên; bảo đảm tính thống nhất giữa các văn bản pháp luật trong

hệ thống pháp luật và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm

XPTMCCN trong tình hình hiện nay. Bên cạnh đó, thực tiễn cũng cho thấy quy

định về các tội XPTMCCN vẫn còn những hạn chế, thiếu sót nhất định, ảnh hưởng

đến việc thực thi BLHS. Việc tiếp tục hoàn thiện quy định về các tội XPTMCCN là

nhu cầu tất yếu, xuất phát từ các nguyên tắc của luật hình sự, từ tính chất của luật

hình sự, từ yêu cầu đảm bảo quyền con người và từ yêu cầu kiểm tra, giám sát việc

áp dụng PLHS. Cơ sở của thể chế hóa bằng PLHS phải dựa trên chính sách hình sự

đối với các tội XPTMCCN, tình hình tội phạm XPTMCCN, thực tiễn khởi tố, điều

tra, truy tố, xét xử các tội XPTMCCN cũng như kinh nghiệm của các quốc gia trên

thế giới.

192

3. Trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2023, mỗi năm TAND các quận,

huyện, thành phố và TAND TP.HCM phải giải quyết một số lượng lớn các vụ án

XPTMCCN. Nhìn chung, hoạt động định tội danh và quyết định hình phạt đối với

các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua đã đạt được những kết quả đáng

khích lệ: Định tội danh đảm bảo chuẩn xác, đúng người đúng tội, không làm oan

người vô tội. Quyết định hình phạt luôn căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc

tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân

thân người phạm tội, xem xét đầy đủ, toàn diện các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng

TNHS để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp, vừa đảm bảo tính

nghiêm khắc, răn đe, giáo dục, vừa thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan hồng của

Luật Hình sự. Bên cạnh những mặt tích cực đạt được, thực tiễn định tội danh và

quyết định hình phạt đối với các tội XPTMCCN tại TP.HCM thời gian qua vẫn còn

một số hạn chế, sai sót: Vẫn còn trường hợp định tội danh chưa chính xác; xác định

sai hoặc không thống nhất trong việc áp dụng một số tình tiết định khung; áp dụng

không đúng hoặc không đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; quyết định

hình phạt chưa tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội. Những hạn

chế này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó có thể kể

đến các nguyên nhân từ hạn chế trong quy định của PLHS; nguyên nhân từ phẩm

chất, năng lực của đội ngũ áp dụng PLHS và nguyên nhân từ sự phối hợp giữa các

cơ quan THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN.

4. Việc tiếp tục hoàn thiện PLHS về các tội XPTMCCN không nằm ngoài các

xu hướng tiếp tục nhân đạo hóa, phân hóa và quốc tế hóa các quy định của PLHS.

Trên cơ sở đó, nghiên cứu sinh đã có những kiến nghị cụ thể sửa đổi quy định của

BLHS về các tội phạm với mong muốn góp phần hoàn thiện BLHS theo hướng vừa

thể hiện xu hướng nhân đạo hóa, vừa thể hiện xu hướng phân hóa TNHS đồng thời

cũng thể hiện xu hướng quốc tế hóa PLHS. Song cùng với những kiến nghị hoàn

thiện quy định của pháp luật, NCS cũng đề xuất các giải pháp góp phần áp dụng

đúng quy định của pháp luật: Tăng cường giải thích, hướng dẫn áp dụng thống nhất

pháp luật và xây dựng án lệ đối với các tội XPTMCCN; Nâng cao năng lực của đội

ngũ cán bộ áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN; Tiếp tục tăng cường tổng kết thực

tiễn áp dụng PLHS về các tội XPTMCCN; Tăng cường quan hệ phối hợp giữa các

cơ quan THTT trong giải quyết các vụ án XPTMCCN./.

193

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

Tên công trình

Tên tạp chí

T T

Năm công bố

1

2023

Tạp chí Khoa học pháp lý

Tạp chí Luật học

2

2023

3

2023

Tạp chí An ninh nhân dân (số tiếng Anh)

4

2022

Tạp chí An ninh nhân dân

Bàn về dấu hiệu hậu quả trong “tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” Các tội xâm phạm tính mạng của con người theo Bộ luật hình sự năm 2015- Một số bất cập và hướng hoàn thiện Distinguishing Murder from the Crime of intentionally causing injury or harm to the health of others and issues drawn for the application of the law Tội phạm xâm phạm tính mạng của con người theo Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015

5 Nguyễn Thị T phạm tội gì?

2021

Tạp chí Toà án nhân dân Tạp chí Giáo dục và Xã hội

6

2020

7

2020

Tạp chí An ninh nhân dân

8

2019

Tạp chí An ninh nhân dân

9

2018

Tạp chí An ninh nhân dân

2016

10

Một số ý kiến góp phần hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm 2015. Bàn về điều kiện của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong Bộ luật hình sự năm 2015 Bàn về trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự trong pháp luật hình sự Việt Nam Về bài viết: “Nguyễn Quý H có phạm tội không?”

Tạp chí Tòa án nhân dân

194

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu Tiếng Việt

1. Phạm Hồ Việt Anh. 2020. “Một số ý kiến góp phần hạn chế tình trạng bỏ rơi

con sau khi sinh; giết hoặc vứt bỏ con mới đẻ”, Tạp chí Khoa học Đại học Cửu

Long, số 18-2020, tr 34-38.

2. Vũ Hải Anh. 2017. Các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người theo

pháp luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã

hội-Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội.

3. Nguyễn Phan Trung Anh. 2013. “Một số vấn đề bất cập trong quy định về các

tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người của Bộ

luật Hình sự năm 1999 và kiến nghị hoàn thiện”, Tạp chí Nghề luật số 4. tháng

8/2013. tr.64-67.

4. Phạm Văn Báu. 2000. “Tội giết con mới đẻ trong pháp luật hình sự Việt Nam”,

Tạp chí Luật học số 2/2000, tr. 9-10;

5. Lưu Hoài Bảo. 2016. “Bàn về một số tình tiết tăng nặng định khung trong Tội

giết người theo quy định của Bộ luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân

dân, kỳ II tháng 12/2016. số 24. tr.16-20.

6. Phạm Văn Beo. 2009. Luật hình sự Việt Nam quyển 1 (phần chung). sách tham

khảo. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

7. Ban soạn thảo Bộ luật hình sự sửa đổi. 2015. Bản thuyết minh chi tiết của Ban

soạn thảo BLHS sửa đổi. tháng 3/2015. Hà Nội.

8. Ban soạn thảo Bộ luật hình sự sửa đổi. 2015. Những định hướng cơ

bản xây dựng Dự án Bộ luật hình sự sửa đổi. Dự thảo.

9. Nguyễn Mai Bộ. 2022. “Các tội xâm phạm tính mạng con người - Bất cập và

kiến nghị”, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử, địa chỉ:

https://tapchitoaan.vn/tapchi/public/index.php/bai-viet/phap-luat/cac-toi-xam-

pham-tinh-mang-con-nguoi-bat-cap-va-kien-nghi6410.html;

10. Bộ Chính trị. 2002. Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm

vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

11. Bộ Chính trị. 2005. Nghị quyết số 48/NQ-TW ngày 24/5/2005 về chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng

đến năm 2020, Hà Nội.

195

12. Bộ Chính trị. 2005. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2/6/2005 về chiến lược cải

cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

13. Bộ Chính trị. 2020. Kết luận số 84-KL/TW, ngày 29/7/2020 về tổng kết 15 năm

thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị. khóa IX) về Chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020;

14. Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Bộ Tư pháp - Ngân hàng nhà nước Việt Nam -

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao. 2012. Thông tư liên

tịch số: 06/2012/TTLT/BCA-BQP-BTP-NHNNVN-VKSNTC-TANDTC ngày

5/5/2012 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về Tội khủng

bố và Tội tài trợ khủng bố, Hà Nội.

15. Bộ Ngoại giao Việt Nam. 2018. Bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người ở Việt

Nam. sách trắng về quyền con người;

16. Lê Cảm - Trịnh Quốc Toản. 2011. Định tội danh. lý luận, lời giải mẫu và 500

bài tập. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

17. Lê Cảm, Nguyễn Ngọc Chí, Trịnh Quốc Toản. Đồng chủ trì. Trịnh Tiến Việt. Thư

ký. 2006. Bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng

hình sự trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, Đề tài nghiên

cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia Hà Nội, Mã số: QL.04.03, Hà Nội.

18. Lê Văn Cảm. 2019. Giáo trình Những vấn đề cơ bản trong khoa học Luật hình

sự Phần chung. giáo trình sau đại học. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

19. Lê Văn Cảm. 2010. Những vấn đề chung về bảo vệ các quyền con người bằng

pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự. sách chuyên khảo Bảo đảm quyền

con người trong tư pháp hình sự Việt Nam do TS. Võ Thị Kim Oanh chủ biên.

Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh;

20. Nguyễn Chí Công. 2016. Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn tỉnh Nam Định. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội.

Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

21. Nguyễn Hùng Cường. 2008. “Một vài suy nghĩ về tình tiết “giết nhiều

người” và “giết người bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều

người”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,. số 1/2008. tr. 79-83;

196

22. Phạm Văn Cần. 2010. “Phân biệt dấu hiệu cơ bản của tội giết người và tội cố ý

gây thương tích dẫn đến chết người”, Tạp chí Kiểm sát, số Tân

Xuân/02. tr. 14-22;

23. Chính phủ lâm thời. 1946. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 26 ngày 25/2/1946, Hà Nội;

24. Chính phủ lâm thời. 1946. Sắc lệnh của Chủ tịch Chính phủ lâm thời

nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số số 27 ngày 28/02/1946, Hà Nội;

25. Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam. 2019. Báo cáo số 344/BC-CP ngày 22/8/2019

sơ kết 05 năm triển khai thi hành hiến pháp năm 2013. 2014-2019. Hà Nội.

26. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 1953. Sắc lệnh của chủ

tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 133/SL ngày 20/01/1953, Hà Nội;

27. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. 1953. Sắc lệnh của chủ

tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa số 151/SL ngày 12/4/1953, Hà Nội;

28. Claude Frédéric Bastiat. 2016. Luật pháp. Phạm Nguyên Tường dịch. Nxb Tri

thức, Hà Nội.

29. Đặng Thị Hương Dung. 2015. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh trong luật hình

sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

30. Đỗ Việt Dũng. 2020. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động

mạnh theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia

Hà Nội, Hà Nội.

31. Lam Thị Dung. 2019. Thực hành quyền công tố đối với các tội giết người từ

thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã

hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

32. Lê Đăng Doanh. 2000. “Một số điểm mới trong chương các tội xâm phạm tính

mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật hình sự năm

1999”, Tạp chí Luật học số 4-2000, tr 3-6, 35.

33. Ngô Văn Dinh. 2016. Định tội danh đối với tội giết người theo luật

hình sự Việt Nam. Trên cơ sở số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

197

34. Nguyễn Đăng Dung –Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên). 2015.

Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

35. Nguyễn Minh Diệu. 2020. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích

động mạnh theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn địa bàn tỉnh Nam

Định. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa

học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

36. Nguyễn Tiến Dũng. 2017. Định tội danh đối với các tội giết người trong luật

hình sự Việt Nam. trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thanh Hóa. Luận văn thạc

sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội.

37. Nguyễn Văn Duyến. 2006. “Phân biệt các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe

người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh

thông qua một vụ án cụ thể” Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6. 3/2006. tr.18-21.

38. Trần Văn Độ. 2020. “Đổi mới nhận thức một số vấn đề lý luận về tội phạm và

cấu thành tội phạm”, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội. Học viện Khoa học xã

hội. số 10-2020.

39. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1948. Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền

(UDHR);

40. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1966. Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự

và Chính trị (ICCPR);

41. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1989. Công ước về quyền trẻ em (UNICEF);

42. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1948. Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội

diệt chủng.

43. Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. 1973. Công ước về trấn áp và trừng trị tội ác

apacthai;

44. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2021. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XIII tập 1, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.

45. Đảng Cộng sản Việt Nam. 2021. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

XIII tập 2, Nxb Chính trị quốc gia sự thật.

46. PGS.TS. Vũ Công Giao, ThS. Nguyễn Thùy Dương. 2015. bài viết “Vấn đề

quyền sống của thai nhi trong pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam”. sách

198

tham khảo Quyền sống và hình phạt tử hình. Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật,

Hà Nội;

47. Đặng Thị Thu Hiền. 2010. “Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng tội

giết con mới đẻ trong Bộ luật hình sự năm 1999”, Tạp chí Dân chủ và

pháp luật.

48. Đỗ Đức Hồng Hà - Ngô Duy Thi. 2018. “Bình luận tội giết người theo Bộ luật

hình sự năm 2015”, Tạp chí Kiểm sát, số 13/2018.

49. Đỗ Đức Hồng Hà. 2003. “Quy định về tội giết người trong luật hình sự Việt

Nam giai đoạn từ năm 1945 đến trước Bộ luật hình sự năm 1985”, Tạp chí Luật

học số 5/2003, Tr.20-25.

50. Đỗ Đức Hồng Hà. 2005. “Về tình tiết “giết nhiều người” và “giết người bằng

phương pháp có khả năng làm chết nhiều người”, Tạp chí Luật học số 1/2005,

Tr.32-36.

51. Đỗ Đức Hồng Hà. 2006. Tội giết người trong luật hình sự Việt Nam và đấu

tranh phòng, chống loại tội phạm này. Luận án tiến sĩ luật học. Trường Đại học

Luật Hà Nội, Hà Nội.

52. Đỗ Đức Hồng Hà. 2019. Pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm tính

mạng, sức khỏe của con người từ thời Phong kiến đến ngày Bộ luật hình sự năm

2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) có hiệu lực, Nxb Lao động, Hà Nội.

53. Nguyễn Thái Hà. 2014. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trên địa

bàn Thành phố Hồ Chí Minh: tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa.

Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội. Hà Nội;

54. Giàng Quốc Hưng. 2018. Tội giết người trên địa bàn tỉnh Lào Cai: Tình hình,

nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa. Luận án tiến sĩ luật học. Học viện Khoa

học xã hội, Hà Nội.

55. Nguyễn Duy Hữu. 2017. Các tội xâm phạm sức khỏe của người khác theo luật

hình sự Việt Nam. Luận án tiến sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

56. Nguyễn Ngọc Hòa. 1994. “Lỗi và việc xác định lỗi ở các tội cố ý xâm phạm

tính mạng, sức khỏe”, Tạp chí Luật học, số 1, tr.5-9.

57. Nguyễn Ngọc Hòa. 2001. “Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người - So sánh giữa Bộ luật hình sự năm

1999 và Bộ luật hình sự năm 1985”, Tạp chí Luật học, số 1, tr 30-33, Hà Nội.

199

58. Nguyễn Ngọc Hòa. 2006. Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Công an nhân

dân, Hà Nội.

59. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên). 2018. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Phần các tội phạm. quyển 1, Nxb Tư

pháp, Hà Nội;

60. Nguyễn Ngọc Hòa, Lê Thị Sơn. 2006. Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

61. Nguyễn Quốc Hân. 2019. Thực hành quyền công tố trong điều tra các tội giết

người theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Luận án tiến sĩ luật học. Học

viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

62. Nguyễn Thị Hằng. 2015. Các tội phạm được thực hiện trong trạng thái tinh

thần bị kích động mạnh theo Luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học.

Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

63. Nguyễn Thị Phương Hoa - Phan Anh Tuấn. 2017. Bình luận khoa học Những

điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015. sửa đổi, bổ sung năm 2017. Nxb

Hồng Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

64. Phạm Mạnh Hùng. 2019. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 được

sửa đổi, bổ sung năm 2017, Phần Các tội phạm, Nxb Lao động, Hà Nội.

65. Phạm Thị Thúy Hồng. 2020. Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Long an. Luận văn

thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

66. Phí Thị Ngọc Hương. 2011. Tội vô ý làm chết người trong pháp luật hình sự

Việt Nam - lý luận và thực tiễn. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà

Nội, Hà Nội.

67. Thái Thị Hiền. 2014. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy

hiểm đến tính mạng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

68. Đặng Thu Hiền, Đặng Trần Hùng. 2016. “Một số nhận thức lý luận về Tội giết

hoặc vứt bỏ con mới đẻ trong Bộ luật Hình sự năm 2015”, Tạp chí Tòa án nhân

dân kỳ II tháng 9/2016. số 18. tr.18 - tr.21.

69. Lê Thị Thu Huyền. 2015. “So sánh quy định về Tội giết người trong Bộ luật

Hình sự Việt Nam và Bộ luật Hình sự Liên Bang Nga”, Tạp chí Kiểm sát số 22.

tháng 11/2015. tr.49 - tr.52.

200

70. Trần Đình Hải. 2021. “Căn cứ xác định phạm tội “trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 01-2021, tr 23-27.

71. Trần Hồng Hạnh. 2016. Định tội danh đối với các tội giết người trong luật hình

sự Việt Nam. trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Thái Nguyên. Luận văn thạc sĩ

luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

72. Trần Thị Hằng. 2020. Luận văn thạc sĩ luật học Kiểm sát điều tra tội giết người

từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

73. Trần Thị Hường và Chu Thị Tú. 2010. “Một số vấn đề cần chú ý khi

áp dụng tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Tạp chí

Kiểm sát, số 06. tr. 23-30;

74. Trần Thị Thu Hường. 2017. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ theo

quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

75. Trần Văn Hiếu. 2021. “Phòng ngừa tình hình tội giết người trên địa bàn thành

phố Hồ Chí Minh hiện nay”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 02-2021, tr 31-35.

76. Trần Thị Hiền (Dịch). 2011. Bộ luật hình sự Nhật Bản, Nxb Từ điển

Bách khoa, Hà Nội;

77. Trần Việt Hà (chủ biên). 2020. An ninh con người trong bối cảnh toàn cầu hóa,

Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

78. Vũ Gia Hân. 2014. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Quốc

triều hình luật và sự kế thừa trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành. Luận

văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

79. Phan Thanh Hoa. 2010. Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng

nguy hiểm đến tính mạng, những vấn đề lý luận và thực tiễn, Khóa luận tốt

nghiệp, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội;

80. Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hòa miền Nam Việt

Nam. 1976. Sắc lệnh số 03/SL ngày 15/3/1976 quy định về tội phạm và hình

phạt, Hà Nội;

81. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1986. Nghị quyết số 02-HĐTP-

TANDTC/QĐ ngày 05/01/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ

luật hình sự, Hà Nội.

201

82. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1986. Nghị quyết số 04-HĐTP-

TANDTC/NQ ngày 29/11/1986 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần

Các tội phạm của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

83. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1988. Nghị quyết số 02-

HĐTP/NQ ngày 16/11/1988 hướng dẫn bổ sung Nghị quyết số 02-HĐTP ngày

05/01/1986, Hà Nội.

84. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1989. Nghị quyết số 01-

HĐTP/NQ ngày 19/4/1989 hướng dẫn bổ sung việc áp dụng một số quy định

của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

85. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 1990. Nghị quyết số 01-HĐTP

ngày 18/10/1990 hướng dẫn về việc áp dụng Điều 44 Bộ luật hình sự, Hà Nội.

86. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2000. Nghị quyết số

01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 hướng dẫn áp dụng một số quy định trong

Phần chung của Bộ luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

87. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2006. Nghị quyết số

01/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của

Bộ luật hình sự, Hà Nội.

88. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2013. Nghị quyết số

01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 hướng dẫn áp dụng Điều 60 của Bộ luật

hình sự về án treo, Hà Nội.

89. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2016. Án lệ số 01/2016/AL về vụ

án “Giết người”, Hà Nội.

90. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2018. Án lệ số 17/2018/AL về

tình tiết “có tính chất côn đồ” trọng tội “Giết người” có đồng phạm, Hà Nội.

91. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2018. Án lệ số 18/2018/AL về

hành vi giết người đang thi hành công vụ trong tội “Giết người”, Hà Nội.

92. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2018. Nghị quyết số

02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật

hình sự về án treo, Hà Nội.

93. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2019. Án lệ số 28/2019/AL về

tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”, Hà Nội.

202

94. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2019. Nghị quyết số

07/2019/NQ-HĐTP ngày 25/10/2019 hướng dẫn áp dụng một số quy định tại

Điều 299 và Điều 300 của Bộ luật hình sự, Hà Nội.

95. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. 2020. Án lệ số 30/2020/AL về

hành vi cố ý điều khiển phương tiện giao thông chèn lên bị hại sau khi gây tai

nạn”, Hà Nội.

96. Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. 2015. Giáo trình Lý luận và pháp luật về

quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

97. Trần Hà Bảo Khuyên. 2020. Phòng ngừa các tội xâm phạm tính mạng, sức

khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Bạc Liêu. Luận án tiến sĩ luật học. Học

viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

98. Đoàn Văn Lâm. 2013. Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Luật Hình

sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

99. Nguyễn Hồi Loan - TS. Trần Thu Hương. 2019. Giáo trình Hành vi con người

và môi trường xã hội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

100. Nguyễn Thị Thùy Linh. 2015. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị

kích động mạnh theo luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại

học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

101. Trần Văn Luyện – PGS. TS. Phùng Thế Vắc - TS. Lê Văn Thư - TS. Nguyễn

Mai Bộ - LS. ThS. Phạm Thanh Bình - TS. Nguyễn Ngọc Hà - LS. Phạm Thị

Thu. 2019. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung

năm 2017) phần các tội phạm, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

102. Trần Văn Luyện. 2000. Các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân

phẩm, danh dự của con người, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

103. Trần Văn Luyện. 2001. “Những điểm mới cơ bản về các tội xâm phạm

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người trong Bộ luật

hình sự năm 1999”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3, Hà Nội.

104. Dương Tuyết Miên. 2022. Tội phạm học đương đại, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

105. Hoàng Tiến Minh. 2016. Các tội cố ý xâm phạm tính mạng con người trong

pháp luật hình sự Việt Nam. Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội,

Hà Nội.

203

106. Nguyễn Thanh Mận. 2019. Án lệ hình sự ở Việt Nam hiên nay. Luận án tiến sĩ

luật học. Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

107. Bùi Kim Châu Nghĩa. 2017. Định tội danh tội giết người theo pháp luật hình

sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Định, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Học viện

Khoa học xã hội, Hà Nội.

108. Nguyễn Hữu Nam. 2018. Tội giết người trên địa bàn miền Đông Nam Bộ:

Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận án tiến sĩ luật học,

Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.

109. Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí. 1995. Quốc Triều Hình Luật, Nxb

Chính trị quốc gia, TPHCM.

110. Trần Thảo Nguyên. 2020. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

khỏe của người khác theo luật hình sự Việt Nam. trên cơ sở thực tiễn địa bàn

tỉnh Quảng Ninh. Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà

Nội.

111. Cao Thị Oanh. 2007. “Sự thể hiện của nguyên tắc phân hóa trách nhiệm hình

sự trong các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Hoàng việt luật lệ.

Bộ luật Gia Long”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 03/2007, tr.78-82.

112. Võ Thị Kim Oanh (chủ biên). 2010. Bảo đảm quyền con người trong tư pháp

hình sự Việt Nam. sách chuyên khảo. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ

Chí Minh, thành phố Hồ Chí Minh.

113. Đặng Quang Phương. 1990. Trách nhiệm về tội giết người theo Luật hình sự

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ Luật học, Đại học

Taskent, Uzbekistan.

114. Nguyễn Thị Thu Phương. 2020. Tội vô ý làm chết người từ thực tiễn tỉnh Bình

Định. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm

khoa học xã hội Việt Nam. Hà Nội.

115. Đinh Văn Quế. 1999. “Xác định tuổi của người bị hại trong vụ án hình sự như

thế nào”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 7 năm 1999, Hà Nội, tr.21-24.

116. Đinh Văn Quế. 2020. Bình luận Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, Phần

thứ nhất – Những quy định chung. bình luận chuyên sâu. Nxb Thông tin và

truyền thông, Hà Nội.

204

117. Đinh Văn Quế. 2020. Bình luận Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, Phần

thứ hai - Các tội phạm, Chương XIV Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người. bình luận chuyên sâu. Nxb Thông tin và

truyền thông, Hà Nội.

118. Dương Trung Quốc, Vũ Huy Phúc, Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí.

1995. Quốc Triều Hình Luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

119. Lê Hồng Quang. 2009. “Tội giết người và một số vướng mắc qua

thực tiễn xét xử loại tội phạm này”, Tạp chí Tòa án nhân dân,. số 5. tr. 20-23;

120. Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 2013. Hiến pháp năm 2013;

121. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 1997. Bộ luật hình sự năm 1985. sửa

đổi, bổ sung năm 1989, 1991, 1992, 1997. Hà Nội.

122. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2009. Bộ luật hình sự năm 1999. sửa

đổi, bổ sung năm 2009. Hà Nội.

123. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2015. Luật ban hành văn bản quy phạm

pháp luật;

124. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2016. Luật Trẻ em, Hà Nội.

125. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2017. Bộ luật hình sự năm 2015 sửa

đổi, bổ sung năm 2017. Hà Nội.

126. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam. 2021. Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

sửa đổi, bổ sung năm 2021. Hà Nội.

127. Hà Hồng Sơn. 2011. Các tội vô ý làm chết người theo luật hình sự Việt Nam

và thực tiễn xét xử ở nước ta hiện nay. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

128. Phương Kỳ Sơn. 2001. Phương pháp nghiên cứu khoa học, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

129. Hồ Sỹ Sơn. 2005. “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc nhân đạo trong

Luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

130. Hồ Sỹ Sơn. 2005. “Nguyên tắc nhân đạo trong Luật hình sự: Nhìn từ góc độ

lịch sử nhân loại”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

131. Hồ Sỹ Sơn. 2008. “Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước

ta với pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống pháp luật Châu Âu lục

địa”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

205

132. Hồ Sỹ Sơn. 2009. “Chế định hình phạt trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Pháp

và một số gợi mở nhằm hoàn thiện Bộ luật hình sự nước ta”, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, Hà Nội.

133. Hồ Sỹ Sơn. 2012. “Khái niệm và các dấu hiệu của tội phạm nhìn từ

góc độ so sánh pháp luật hình sự một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà

nước và Pháp luật, số 10. tr.91-99.

134. Hồ Sỹ Sơn. 2013. “Các giai đoạn thực hiện tội phạm nhìn từ góc độ so sánh

pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới”, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, số 7.

135. Hồ Sỹ Sơn. 2018. Luật hình sự so sánh. sách chuyên khảo dành cho học viên

cao học. Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội.

136. Hồ Sỹ Sơn. 2021. “Thực hiện pháp luật hình sự và hoạt động áp dụng pháp

luật hình sự: những vấn đề lý luận”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 02-2021.

Tr.3-11.

137. Nguyễn Sơn. 2014. Phòng vệ chính đáng và các tội phạm do vượt quá giới

hạn phòng vệ chính đáng theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật

học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

138. Nguyễn Văn Sơn “Bàn thêm về chữ thấy trong Điều 102 BLHS” - Tạp

chí Kiểm sát số 12/2000;

139. Lê Doãn Tá, Tô Duy Hợp, Vũ Trọng Dung. (đồng chủ biên). 2007. Giáo trình

Lôgic học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;

140. Cao Đức Thái - GS. David Kinley. (đồng chủ biên). 2005. Luật quốc tế về

quyền con người. international human right law. Nxb Lý luận chính trị, Hà

Nội.

141. Nguyễn Quyết Thắng. 2002. Lược khảo Hoàng việt luật lệ, Nxb Văn hóa -

Thông tin, Thành phố Hồ Chí Minh.

142. Nguyễn Đăng Minh Thắng. 2020. Áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội cố ý

gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác từ thực tiễn

Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã

hội, Hà Nội.

143. Minh Tân - Thanh Nghị - Xuân Lãm, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Thanh Hóa,

Thanh Hóa.

206

144. Tập hợp Báo cáo tình hình công tác xét xử của Tòa án nhân dân các quận,

huyện và Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh các năm 2010, 2011,

2012, 2013, 2014, 2015, 2016, 2017, 2018, 2019, 2020, 2021, 2022; 2023.

145. Nguyễn Anh Tuấn. 2008. Khảo lược Bộ luật Hammurabi của Nhà nước

Lưỡng hà cổ đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

146. Nguyễn Thị Thuận (chủ biên). 2007. Luật hình sự quốc tế, Nxb Công an

Nhân dân, HàNội.

147. Nguyễn Văn Trượng. 2009. “Phân biệt tội giết người với tội cố ý gây

thương tích trường hợp dẫn đến chết người”. Tạp chí Tòa án nhân dân,. số 13.

tr. 18-22;

148. Nguyễn Văn Trượng. 2010. “Bàn về việc áp dụng một số cặp tình

tiết định khung quy định tại khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự”, Tạp chí Kiểm

sát,. số 07. tr. 26-32;

149. Trần Quang Tiệp. 2003. Lịch sử luật hình sự Việt Nam. sách tham khảo. Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

150. Trần Thị Thanh Tâm. 2015. Các tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ

chính đáng theo luật hình sự Việt Nam. trên cơ sở số liệu thực tiễn ở Tây

Nguyên. Luận văn thạc sĩ luật học. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

151. Trịnh Văn Toản. 2017. Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt Nam từ

thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn thạc sĩ luật học. Học viện Khoa

học xã hội, Hà Nội.

152. Chu Hồng Thanh. 1997. Quyền con người và Luật quốc tế về quyền con

người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;

153. Vũ Thị Thiêm. 2020. Tội giết người từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang. Luận văn

thạc sĩ luật học. Học viện Khoa học xã hội. Viện Hàn lâm khoa học xã hội

Việt Nam. Hà Nội.

154. Vũ Thị Thúy. 2010. Hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam. sách

chuyên khảo. Nxb Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Hồ

Chí Minh.

155. Thủ tướng Chính phủ, Thông tư số 442/TTg ngày 19/01/1955 trừng

trị một số tội phạm, Hà Nội.

207

156. Tòa án nhân dân tối cao. 1975. Tập hệ thống hóa luật lệ về hình sự, Tập 1

(1945-1974), Hà Nội.

157. Tòa án nhân dân tối cao. 1999. Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999

về việc giải đáp bổ sung một số vấn đề về áp dụng pháp luật;

158. Tòa án nhân dân tối cao. 1960. Chỉ thị số 1025/TATC ngày 15/6/1960 của Tòa

án nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội giết người vì mê tín.

159. Tòa án nhân dân tối cao. 1963. Chỉ thị số 01/NCCS ngày 13/3/1963 của Tòa

án nhân dân tối cao về đường lối xử lý tội giết trẻ sơ sinh.

160. Tòa án nhân dân tối cao. 1970. Bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại

tội giết người ban hành kèm theo Công văn số 452/HS2 ngày 10/8/1970 của

Tòa án nhân dân tối cao về thực tiễn xét xử tội phạm giết người.

161. Tòa án nhân dân tối cao. 1983. Chỉ thị số 07-TANDTC/CT ngày 22/12/1983

về việc xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác

do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ,

Hà Nội.

162. Tòa án nhân dân tối cao. 1987. Công văn số 03-TATC ngày 22/10/1987 hướng

dẫn về Điều 109 Bộ luật hình sự, Hà Nội.

163. Tòa án nhân dân Tối cao. 1976. Công văn số 38/NCPL ngày 06/01/1976;

164. Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa. 2019. Bản án số: 12/2019/HSST ngày

21/02/2019;

165. Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội. 2021. Bản án số: 128/2021/HS-PT ngày

26/03/2021;

166. Tòa án nhân dân Quận Thủ Đức. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số

365/2017/HSST ngày 13/12/2017;

167. Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng. 2020. Bản án số: 124/2020/HS-ST

ngày 19/11/2020;

168. Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương. 2020. Bản án số: 15/2020/HS-ST ngày

21/4/2020;

169. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2016. Bản án hình sự sơ thẩm số

400/2016/HSST ngày 30/11/2016;

170. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2022. Bản án hình sự sơ thẩm số

449/2022/HS-ST ngày 21/9/2022.

208

171. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2023. Bản án số 42/2003/HS-ST

ngày 20/02/2023.

172. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2023. Bản án hình sự

phúc thẩm số 45/2023/HS-PT ngày 16/01/2023.

173. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án số

358/2017/HS-PT ngày 18/7/2017;

174. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số

288/2017/HS-ST ngày 16/8/2017;

175. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số

101/2018/HS-PT ngày 26/01/2018;

176. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2016. Bản án hình sự sơ thẩm số

338/2016/HSST ngày 13/9/2016;

177. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án số

417/2017/HS-PT ngày 08/8/2017;

178. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số

302/2017/HS-ST ngày 23/8/2017;

179. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số:

622/2018/HS-PT ngày 12/11/2018;

180. Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án hình sự sơ thẩm số:

276/2019/HS-ST ngày 25/7/2019;

181. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2017. Bản án hình sự sơ thẩm số

06/2017/HSST ngày 05/01/2017;

182. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số:

433/2018/HSST ngày 16/11/2018;

183. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2015. Bản án hình sự sơ thẩm số

419/2015/HSST ngày 27/11/2015;

184. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. bản án hình sự sơ thẩm số

66/2018/HS-ST ngày 14/3/2018;

185. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số:

314/2018/HS-ST ngày 17/9/2018;

186. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số

17/2018/HSST ngày 19/01/2018;

209

187. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số

278/2018/HS-PT Ngày 23/5/2018;

188. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số

347/2018/HS-ST ngày 05/10/2018;

189. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án số

42/2019/HS-PT ngày 22/01/2019;

190. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số

106/2018/HSST ngày 10/4/2018;

191. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số

677/2018/HS-PT ngày 06/12/2018;

192. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án hình sự sơ thẩm số

244/2019/HSST ngày 09/7/2019;

193. Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh. 2020. Bản án số

353/2020/HS-PT ngày 23/6/2020;

194. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2020. Bản án hình sự sơ thẩm

399/2020/HS-ST ngày 17/9/2020;

195. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2021. Bản án số

06/2021/HS-PT ngày 06/01/2021;

196. Tòa án nhân dân Thành Phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án hình sự sơ thẩm số

290/2019/HS-ST ngày 06/8/2019;

197. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2019. Bản án số

694/2019/HS-PT ngày 13/11/2019;

198. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án hình sự sơ thẩm số

107/2018/HS-ST ngày 11/4/2018;

199. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. 2020. Bản án sơ thẩm số

229/2020/HS-ST ngày 08/07/2020;

200. Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. 2018. Bản án số

675/2018/HS-PT ngày 04/12/2018;

201. Tổng thư ký Quốc hội. Quốc hội khóa XIV). 2016. Báo cáo Tổng hợp ý kiến

của các vị đại biểu Quốc hội thảo luận ở Tổ và Hội trường về dự án Luật sửa

đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, Hà Nội.

210

202. Vũ Đức Trung. 2018. Tìm hiểu quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa

đổi, bổ sung năm 2017) về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân

phẩm, danh dự của con người, Tạp chí Khoa học giáo dục Cảnh sát nhân dân,

số 99 (01-2018), tr 27-32.

203. Trường Đại học An ninh nhân dân. TS. Nguyễn Duy Thuân. 2005. Các tội

xâm phạm an ninh quốc gia, những vấn đề lý luận và thực tiễn, TP.HCM;

204. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2012. Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an

nhân dân, Hà Nội;

205. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2020. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần

chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

206. Trường Đại học Luật Hà Nội. 1997. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần

Các tội phạm, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

207. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2018. Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam, Phần

các tội phạm, quyển 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

208. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2008. Giáo trình Lý luận Nhà nước và pháp

luật. GS.TS. Lê Minh Tâm chủ biên. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

209. Trường Đại học Luật Hà Nội. dịch, 2010. Bộ luật hình sự Canada, Nxb Công

an nhân dân, Hà Nội.

210. Trường Đại học Luật Hà Nội. dịch, 2011. Bộ luật hình sự Liên bang Nga,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội;

211. Trường Đại học Luật Hà Nội. dịch, 2011. Bộ luật hình sự Cộng hòa liên bang

Đức, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

212. Trường Đại học Luật Hà Nội. 2012. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam tập 1,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

213. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 2021. Giáo trình Luật hình sự

Việt Nam. Phần chung. Nxb Hồng Đức, TP.HCM;

214. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. 2021. Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam Phần Các tội phạm-Quyển 1, Nxb Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

215. Đào Trí Úc – PGS. TS. Vũ Công Giao - PGS.TS. Trương Thị Hồng Hà. 2015. Quyền

sống và hình phạt tử hình. sách tham khảo. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

216. Đào Trí Úc, Luật hình sự Việt Nam, Quyển I-Những vấn đề chung, Nxb. Khoa

học Xã hội, Hà Nội, 2000;

211

217. Trần Hữu Ứng. 1993. “Thời điểm bắt đầu và kết thúc sự sống của con người

nhìn từ góc độ luật học”, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 10, tr.11.

218. Đoàn Thị Vân. 2015. Luận văn thạc sĩ luật học Tội giết con mới đẻ trong luật

hình sự Việt Nam. chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự. Hà Nội.

219. Trịnh Tiến Việt. 2021. 55 cặp tội danh dễ nhầm lẫn trong Bộ luật Hình sự năm

2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Nxb Chính trị quốc gia sự thật, Hà Nội;

220. Trịnh Tiến Việt. (chủ biên). 2020. Chính sách hình sự Việt Nam trước thách

thức cách mạng công nghiệp 4.0, Nxb Tư pháp, Hà Nội;

221. Trịnh Tiến Việt - Phan Thị Thủy. 2003. “Bàn về mối quan hệ giữa cấu thành

tội phạm và tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Khoa học Đại

học Quốc gia Hà Nội, số 2/2003, tr 67-75.

222. Trịnh Tiến Việt. 2002. “Phải coi đây là phòng vệ chính đáng”, Tạp chí Khoa

học pháp lý, số 5/2002, tr 63-65.

223. Trịnh Tiến Việt. 2003. Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng, Nxb Giao

thông vận tải, Hà Nội.

224. Trịnh Tiến Việt. 2013. Tội phạm và trách nhiệm hình sự, Nxb Chính trị Quốc

gia – Sự thật, Hà Nội.

225. Trịnh Tiến Việt - Nguyễn Khắc Hải. (đồng chủ biên). 2020. Giáo trình Tội

phạm học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;

226. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp. 1999. Bình luận khoa học Bộ

luật hình sự 1985. tái bản lần thứ ba có sửa theo Luật sửa đổi, bổ sung một số

điều của Bộ luật hình sự tháng 5-1997. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

227. Võ Khánh Vinh. 1992. “Những đòi hỏi của nguyên tắc công bằng đối với việc

quy định hệ thống hình phạt”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

228. Võ Khánh Vinh. 1996. Nguyên tắc công bằng trong Luật Hình sự Việt Nam,

Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

229. Võ Khánh Vinh. 2000. “Lợi ích xã hội và hoạt động xây dựng pháp luật”, Tạp

chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

230. Võ Khánh Vinh. 2004. “Khái quát những thành tựu và những phương hướng

nghiên cứu của khoa học Luật hình sự nước ta”, Tạp chí Nhà nước và Pháp

luật, Hà Nội.

231. Võ Khánh Vinh. 2009. “Quyền con người: giá trị xã hội, tính phổ biến và tính

đặc thù”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

212

232. Võ Khánh Vinh. 2011. Cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

233. Võ Khánh Vinh. 2012. Xã hội học pháp luật – Những vấn đề cơ bản”, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

234. Võ Khánh Vinh. 2013. Luật học so sánh, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

235. Võ Khánh Vinh. 2015. “Các mục tiêu, các ưu tiên và các nguyên tắc của

chính sách pháp luật Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nguồn nhân lực, số

12/2015.

236. Võ Khánh Vinh. 2015. “Chính sách pháp luật: khái niệm và các dấu hiệu”,

Tạp chí Nguồn nhân lực, số 11/2015.

237. Võ Khánh Vinh. 2020. Chính sách pháp luật, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội;

238. Võ Khánh Vinh. 2020. “Áp dụng pháp luật hình sự: những vấn đề lý luận. kỳ

I”. Tạp chí Khoa học Kiểm sát số 03-2020;

239. Võ Khánh Vinh. 2021. Áp dụng pháp luật hình sự - lý luận và thực tiễn, Nxb

Tư pháp, Hà Nội.

240. Võ Khánh Vinh. 2015. Xã hội học pháp luật, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

241. Võ Khánh Vinh. (Chủ biên). 2014. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Phần

chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

242. Võ Khánh Vinh. (chủ biên). 2014. Giáo trình Luật hình sự Việt Nam. Phần

Các tội phạm. Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

243. Võ Khánh Vinh. 2013. Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội;

244. Nguyễn Hùng Thanh Vũ. 2016. Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm

tính mạng của con người từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. luận văn thạc sỹ luật

học, Học viện Khoa học xã hội. Hà Nội;

245. Nguyễn Như Ý. chủ biên. 2011. Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc

gia Thành phố Hồ Chí Minh, TP.HCM.

246. https://www.unicef.org/vietnam/vi/báo-cáo/công-ước-của-liên-hợp-quốc-về-

quyền-trẻ-em.

247. https://tiin.vn/chuyen-muc/24/ca-khu-pho-xin-giam-an-cho-nguoi-dan-ong-

giet-vo-1.html

213

Tài liệu nước ngoài

248. Aknazarov, A. S. O.. 2021. Theory Of Application Of Criminal Law

Considerations On The Legal Analysis Of The Content Of Crime Against The

Person In The Crime Code Of The Republic Of Uzbekistan. The American

Journal of Political Science Law and Criminology, 3.05. 53-58.

249. Artyushina O. Issues of qualification of crimes against life and health. Law

Enforcement Review. 2017;1.3:135-142

250. Beaumont, J.. 1999. The Mental Element in Murder: Resolved at Last. J.

Crim. L., 63, 483.

251. Brewer, I. G.. 1975. The mental element for murder in Botswana. Comp. &

Int'l LJS Afr., 8, 225.

252. Goff, L.. 1987. The mental element in the crime of murder. Israel Law

Review, 22.1. 1-36.

253. Gostkova, D., Kostyuk, M., Kunts, E. Legal Problems of Using ‘Extremist

Motives’ in Crimes Against Life and Health. Journal of Advanced Research

in Law and Economics, [S.l.], v. 9, n. 3.33. p. 949-955

254. Hossain, M. B., & Rahi, S. T.. 2018. Murder: A Critical Analysis of the

Common Law Definition. Beijing L. Rev., 9, 460.

255. Kalantari, K., REZAII, R., & MOSLEHI, J.. 2017. The Knowledge and Caution

(Awareness) in Mens Rea Element for Murder in the Law of Iran and USA.

256. Keane, H. J.. 2002. Murder: the mental element. Northern Ireland Legal

Quarterly, 53.1. 1-8.

257. Law Commission. 2004. Partial Defences to Murder, available at https://s3-

eu-west-2.amazonaws.com/lawcom-prod-storage-

11jsxou24uy7q/uploads/2015/03/lc290_Partial_Defences_to_Murder.pdf

258. Mason, A.. 2019. Intention in the law of murder. In Intention in Law and

Philosophy. pp. 107-127. Routledge.

259. Perkins, R. M.. 1962. The Corpus Delicti of Murder. Virginia Law Review,

173-195.

260. Raducanu, R., & Cercel, C. A.. 2010. Material Interest-Circumstantial

Element of the Crime of Murder. Rev. Stiinte Juridice, 56.

214

261. Redfield, H. V.. 2000. Homicide, North and South: Being a comparative view

of crime against the person in several parts of the United States. Ohio State

University Press.

262. Serebrennikova, A. V., & Trefilov, A. A.. 2016. Offences against the Person

under the Criminal Code of the Principality of Liechtenstein. Lex Russica,.

12. 113-124.

263. Williams, G.. 1974. Criminal Law—The Mental Element in Murder. The

Cambridge Law Journal, 33.2. 200-202.

264. Бабичев, А. Г.. 2019. Преступления против жизни: теоретико-

прикладные проблемы и доктринальная модель уголовного закона.

265. Волкова, О. В.. 2017. Анализ преступлений против жизни по уголовному

законодательству России и Германии. Вестник Международного

института экономики и права,. 2. 27.

266. Васильева, К. Г..2018. Характеристика преступлений против жизни и

здоровья человека по законодательству зарубежных стран. NovaInfo. Ru,

2.85. 165-168.

267. Лебедев, М. В.. 2016. Проблемы квалификации преступлений по

признаку субъективной стороны. (на примере отдельных преступлений

против жизни). Пробелы в российском законодательстве. Юридический

журнал,.7.

268. Бородин, С.. 2017. Преступления против жизни. Litres.

269. Маляева Е.О. 2003. Преступления против жизни: вопросы теории,

законодательного регулирования и судебной практики. Монография. Н.

Новгород: Нижегородская академия МВД РФ, 2003. - 606 с.

270. Михайлова И. А., Максименко А. В., & Числов А. И.. 2019. Некоторые

вопросы совершенствования норм российского уголовного

законодательства о преступлениях против жизни и здоровья. (опыт

сравнительного анализа). Вестник Сибирского юридического института

МВД России,. 1. 34. 50-56.

271. Борзенков, Г. Н.2009. Преступления против жизни и здоровья. Закон и

правоприменительная практика.

215