VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ TÂM
TỰ TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI: NGHIÊN CỨU TỪ XÃ HỘI HỌC VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62. 22. 01. 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
Hà Nội, 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ TÂM
TỰ TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI: NGHIÊN CỨU TỪ XÃ HỘI HỌC VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62. 22. 01. 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trịnh Bá Đĩnh
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trong Luận án là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận án
Hoàng Thị Tâm
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án luận này, ngoài nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được
nhiều sự giúp đỡ quý báu từ phía Thầy Cô, đồng nghiệp và người thân.
Trước hết, tôi xin bày tỏ sự tri ân sâu sắc tới Thầy hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trịnh Bá Đĩnh. Thầy đã tận tình góp ý, định hướng nghiên cứu và gợi mở
những ý tưởng khoa học cho tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Tôi xin được cảm ơn các Thầy cô giáo Khoa Văn học, Học viện Khoa học
Xã hội, đã hướng dẫn và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt khóa học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới hai cơ quan là Trường Đại học Hồng
Đức và Học viện Quản lý giáo dục đã tạo điều kiện về thời gian để tôi có thể hoàn
thành nhiệm vụ giảng dạy và học tập.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ sự cảm ơn đặc biệt tới gia đình, bạn bè, những
người đã luôn ở bên tôi trong suốt thời gian qua, đã động viên, khích lệ, tạo động
lực, niềm tin và sự kiên nhẫn để tôi có thể hoàn thành luận án của mình.
Hà Nội, ngày 5 tháng 12 năm 2016
Tác giả
Hoàng Thị Tâm
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 1
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu tự truyện Việt Nam đương đại ........... 7
1.1. Tổng quan tài liệu liên quan đến đề tài ........................................................................... 7
1.2. Những nghiên cứu tự truyện từ các khía cạnh xã hội học ............................................ 20
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc nghiên cứu tự truyện Việt Nam
đương đại ............................................................................................................................ 29
2.1. Quan niệm về tự truyện ................................................................................................ 29
2.2. Hướng nghiên cứu xã hội học về tự truyện .................................................................. 46
2.3. Những chặng đường của tự truyện Việt Nam ............................................................... 54
Chương 3: Những điều kiện tự truyện và sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện ............... 65
3.1. Những điều kiện tự truyện ............................................................................................ 65
3.2. Sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện.................................................................................. 71
3.3. Các hình thức biểu đạt chủ thể trong tự truyện ............................................................. 91
3.4. Giới hạn xã hội và lựa chọn của chủ thể .................................................................... 112
Chương 4: Hoạt động tiếp nhận tự truyện .................................................................... 118
4.1. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ hoạt động xuất bản ......................................................... 118
4.2. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ người đọc ....................................................................... 129
4.3. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ các mô hình diễn giải ..................................................... 134
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................ 151
PHỤ LỤC 1 ...................................................................................................................... 164
PHỤ LỤC 2....................................................................................................................... 180
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Bảng 1: Số lượng tự truyện và hồi ký xuất bản từ 1986 đến 1996 chia theo nguồn gốc ..120
Bảng 2: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1997 - 2014 chia theo nguồn gốc 122
Bảng 3: Lý do đọc tự truyện ....................................................................................... 130
Bảng 4: Mục đích đọc tự truyện .................................................................................. 130
Bảng 5: Mức độ đọc tự truyện Việt Nam .................................................................... 131
Bảng 6: Mức độ đọc tự truyện nước ngoài ................................................................. 131
Bảng 7: Anh/chị thích đọc tự truyện của nhóm tác giả nào ........................................ 132
Biểu đồ 1: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1986 đến 1996 ................ 119
Biểu đồ 2: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1997 đến 2014 ................ 121
Biểu đồ 3: Số lượng tự truyện được tái bản từ 1986 đến 2014 ................................... 123
Biều đồ 4: Tác phẩm và số lần xuất bản ..................................................................... 124
DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
HKVN: Hồi ký Việt Nam
TTVN: Tự truyện Việt Nam
KHNN: Hồi ký nước ngoài
TTNN: Tự truyện nước ngoài
PV sâu số 1: Phỏng vấn nhà văn Phan Việt
PV sâu số 2: Phỏng vấn nhà văn Ma Văn Kháng
PV sâu số 3: Phỏng vấn nhà văn Bùi Ngọc Tấn
PV sâu số 4: Phỏng vấn nhà văn Tô Hoài
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Quan sát chặng đường lịch sử của tự truyện Việt Nam, có thể thấy một
số dấu hiệu khá đặc biệt đòi hỏi phải được giải thích. Cụ thể là: Tự truyện mặc dù
xuất hiện từ đầu thế kỷ 20 với Giấc mộng lớn của Tản Đà năm 1929 và tương đối
sôi nổi vào giai đoạn 1930 - 1945 nhưng sau đó lại hầu như vắng bóng trên diễn đàn
văn học cho đến tận những năm cuối thế kỷ 20 mới xuất hiện trở lại và đến những
thập niên đầu của thế kỷ 21, thì nở rộ như một phong trào.Tuy nhiên, so với đầu thế
kỷ, tự truyện giai đoạn này có nhiều nét khác: Các dấu hiệu thể loại không bộc lộ
tập trung mà khi đậm đặc, khi mờ nhạt trong từng tác phẩm. Nếu quan sát diễn tiến
của tự truyện có thể thấy, kể từ 2006, sau sự xuất hiện của Yêu và Sống của nữ nghệ
sĩ Lê Vân, nó bắt đầu chuyển hướng. Tính chất tiểu thuyết giảm đi, tính chất phi hư
cấu tăng lên. Đặc biệt, cái Tôi được bộc lộ ở nhiều chiều kích hơn như cái tôi nghề
nghiệp, cái tôi khác biệt, cái tôi vượt khó…, song cũng vì thế mà các dấu hiệu đặc
trưng của tự truyện theo quan niệm của P. Lejeune - nhà nghiên cứu tự truyện Pháp
- lại trở thành khung hình quá chật hẹp và luôn xuất hiện các biến thể như tự truyện
- tiểu thuyết, tự truyện - hồi ký, tự truyện - du ký… Chúng tạo nên dáng vẻ không
thuần nhất của thể loại. Nếu đặt những dấu hiệu này trong bối cảnh lịch sử xã hội
Việt Nam từ đầu thế kỷ đến nay sẽ thấy đó chính là những hình ảnh phản chiếu khá
rõ sự chuyển biến của tinh thần xã hội.
1.2. Về đặc điểm này của tự truyện Việt Nam, nhà nghiên cứu Đoàn Cầm
Thi (2008) cho rằng “truyền thống văn hóa vốn đề cao dân tộc, cộng đồng”, “Đạo
Khổng và chủ nghĩa tập thể là những ý thức hệ cản trở sự bộc lộ cá nhân” [174,
247] đã cản trở sự phát triển thể loại. Tiếc rằng những nhận định ấy lại chưa được
triển khai một cách hệ thống hoặc chỉ quan sát từ những vận động nội tại của tự sự
văn học mà chưa có sự phân tích mối quan hệ này một cách cặn kẽ. Hơn nữa, bản
thân tự truyện, cũng giống như các thể loại văn học nói chung, để có thể lý giải
được những đặc điểm nội tại của chúng không thể chỉ quan sát từ một thành tố riêng
lẻ bởi văn học, như quan điểm của J.P.Sartre (1948) trong tác phẩm Văn học là gì:
“Chính sự kết hợp giữa hành động của nhà văn và của độc giả sẽ làm xuất hiện một
1
tác phẩm tinh thần là một vật vừa cụ thể, vừa chỉ tồn tại trong tưởng tượng”. Điều
đó có nghĩa văn học phải được coi là một quá trình xã hội, được tạo thành bởi hai
chủ thể tác giả và người đọc. Giá trị văn học sẽ thành tạo nên từ những tương tác
giữa hai chủ thể của quá trình này. Như vậy, việc lý giải những đặc điểm của tự
truyện cần được đặt vào hệ thống và quá trình của nó. Hay nói cách khác, là phải
quan sát cặn kẽ mối quan hệ giữa xã hội và thể loại.
1.3. Theo mô tả của Sidonie Smith và Julia Watson (2002) trong Reading
Autobiography: Aguide for Interpresting Narratives, lịch sử nghiên cứu tự truyện từ
hướng tiếp cận xã hội đã từng được đặt ra. Trong đó, yếu tố giới được các nhà
nghiên cứu lấy làm điểm xuất phát cho những giải thích về đặc trưng tự sự của tự
truyện, họ cho rằng: tự truyện, đặc biệt tự truyện của giới nữ là một hành động tái
lập sự cân bằng đối với xã hội thông qua sự bộc lộ thế giới nhận thức của phụ nữ.
Từ đây, họ tập trung phân tích những dấu hiệu làm nên sự khác biệt về kỹ thuật tự
sự trong tự truyện của phụ nữ và tự truyện của nam giới. Những cảm nhận về thế
giới từ góc nhìn của người nữ như: sự miêu tả bản thân, những cấu trúc bất bình
đẳng hiện diện trong nội dung văn bản có ý nghĩa như là một phương thức tồn tại
của giới nữ trong một xã hội trọng nam quyền. Việc khuôn các quan hệ xã hội vào
mối quan hệ giới này đã phần nào cho thấy cái nhìn chú trọng những tác động từ
phía xã hội lên nhận thức và hành vi của các chủ thể tự truyện song lại hạn chế sự
quan sát trong chỉ một khâu của quá trình văn học là khâu tạo lập mà bỏ qua khâu
tiếp nhận - một quá trình xã hội quan trọng góp phần không nhỏ trong việc thành
tạo các giá trị văn học của một thể loại.
1.4. Trong các nghiên cứu xã hội học văn học, mối quan hệ xã hội - văn học
đã từng được quan sát từ nhiều góc độ khác nhau tùy theo sự thay đổi trọng tâm của
nghiên cứu văn học. Nếu phương pháp của R. Esacrpit nhấn mạnh quá trình phản
hồi và tiếp nhận thì phương pháp của P. Bourdieu lại chú trọng vai trò chủ động,
tích cực của chủ thể văn học. Đặc biệt là mối quan tâm tới những yếu tố xã hội tạo
thành những cơ hội để chủ thể thực hiện những hoạt động chủ động của mình. Mỗi
phương pháp gắn liền với một phương diện được quan tâm vì thế mà hoặc là chỉ
nhìn thấy người đọc, hoặc lại chỉ có thể lý giải hành động của chủ thể mà hạn chế
sự quan sát thể loại với tư cách là kết quả của một quá trình. Bởi vậy, theo chúng
2
tôi, để có thể quan sát tự truyện trong trạng thái sinh tồn của nó, không gì khác, phải
vận dụng tổng hợp các quan điểm lý thuyết trên. Đặc biệt là quan niệm coi tự truyện
là hoạt động tương tác giữa một bên là hành động tạo lập của tác giả và một bên là
hành động tiếp nhận của người đọc mới có thể thống nhất toàn bộ quá trình xã hội
của thể loại và lý giải một cách đầy đủ đặc điểm hiện trạng của thể loại.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở tiếp cận từ góc độ xã hội học, đề tài nhằm mục đích lý giải các
đặc điểm hiện tại của tự truyện Việt Nam đương đại, từ đó bao quát toàn bộ diện
mạo của nó. Bên cạnh đó, nghiên cứu xã hội về tự truyện là hướng nghiên cứu còn
mới mẻ và chưa có tiền lệ vì vậy, thông qua đề tài này, chúng tôi đề xuất một khung
lý thuyết nghiên cứu xã hội học về tự truyện nói riêng và văn học nói chung nhằm
bổ khuyết cho các nghiên cứu từ các phương diện nội dung phản ánh hay tự sự học.
Đề lý giải đặc điểm diện mạo của tự truyện Việt Nam đương đại, luận án giải
quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
- Xác định các đặc điểm của bối cảnh là tiền đề cho sự phát triển tự truyện
- Phân tích đặc điểm của việc bộc lộ chủ thể trong tự truyện nhằm tìm ra quy
luật của sự bộc lộ đó trong bối cảnh xã hội
- Mô tả và phân tích đặc điểm của hoạt động tiếp nhận tự truyện từ đó làm rõ
những ảnh hưởng của tiếp nhận đối với thể loại.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Coi tự truyện là một quá trình xã hội, do đó đối tượng nghiên cứu của
chúng tôi là Tự truyện Việt Nam đương đại nghĩa là toàn bộ hiện thực xã hội của nó
từ hành động tự truyện của tác giả tới hoạt động tiếp nhận trong bối cảnh xã hội
Việt Nam từ sau 1986 đến nay. Những khía cạnh cụ thể là: những điều kiện xã hội
như là không gian của hoạt động tự truyện, hành động tự truyện của tác giả với cả
hai mặt nội dung và hình thức và hoạt động tiếp nhận tự truyện từ quá trình lựa
chọn của xuất bản đến các mô hình diễn giải.
3.2. Phạm vi khảo sát của đề tài bao gồm toàn bộ các hình thức viết xuất hiện
từ 1986 đến nay ở cả khu vực văn học và phi văn học đáp ứng các tiêu chí sau:
- Là tác phẩm văn xuôi tự thuật về cuộc đời tác giả
- Tác giả - người kể chuyện - nhân vật chính trùng làm một
3
- Trọng tâm của kể chuyện là nhân cách cá nhân người tự thuật.
Điều đó cũng có nghĩa hiện tượng hội tụ đầy đủ các tiêu chí kể trên song có
sự pha trộn với các thể loại gần gũi khác như tiểu thuyết, hồi ký, du ký, nhật ký
cũng ở trong diện khảo sát bởi theo chúng tôi, chúng là những cách thức biểu đạt cá
nhân mà chủ thể lựa chọn để bộc lộ bản thân mình, con người và nhân cách mình
trong một bối cảnh xã hội lịch sử nhất định. Tuy nhiên, bởi một phần tự truyện là
những sản phẩm đại chúng không hàm chứa nhiều các chủ ý nghệ thuật của tác giả
cho nên, trong quá trình lựa chọn các dẫn chứng điển hình, sự tập trung sẽ dành
nhiều hơn cho các tác phẩm mà giá trị thẩm mĩ và giá trị nhân sinh đậm nét hơn.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Coi tự truyện là một quá trình xã hội mà ở đó tồn tại hai hoạt động: hoạt
động tự truyện của tác giả và hoạt động tiếp nhận của người đọc, nghiên cứu xã hội
học về tự truyện của chúng tôi xuất phát từ khái niệm về hành động xã hội của Max
Weber để phân tích hành động tự truyện của tác giả với tư cách là một “hành động
được chủ thể gắn cho một ý nghĩa chủ quan nào đó”, chúng tạo nên mục đích của
hành động. Vì thế, hành động xã hội là hành động mang tính chủ quan song luôn
“tính đến hành vi của người khác trong quá trình của nó”, nó giống như một “cách
ứng xử của cá nhân” trong hệ thống xã hội và “chỉ có thể hiểu được các cấu trúc xã
hội nếu hiểu được và giải thích được cách ứng xử của cá nhân”. Sự bộc lộ chủ thể
trong tự truyện là biểu hiện của cách ứng xử đó.
Từ quan điểm này, hành động tiếp nhận cũng là một hành động xã hội song
chúng được hiểu ở hai cấp độ: tiếp nhận thông qua xuất bản với quá trình lựa chọn
của hệ thống xuất bản và tiếp nhận qua quá trình diễn giải với các mô hình tiêu biểu
theo cách gọi của Mĩ học tiếp nhận. Sự tương tác giữa các chủ thể trong hai quá
trình này sẽ tạo thành các giá trị chi phối con đường đi của thể loại tự truyện.
4.2. Để khảo sát hai quá trình xã hội của tự truyện, phương pháp nghiên cứu
chính là phương pháp xã hội học bởi chúng cho phép thu thập được cả hai loại dữ
liệu định tính và định lượng làm căn cứ khách quan cho các kết luận nghiên cứu.
- Phương pháp xã hội học: là một hệ thống các phương pháp đặc thù trong
nghiên cứu xã hội học bao gồm: phương pháp nghiên cứu tiểu sử, phương pháp điều
tra, thống kê phân loại, phương pháp phỏng vấn… các phương pháp này giúp thu
4
thập thông tin về sự vận động của các nhân tố xã hội và văn học tạo nên phong trào
tự truyện ở Việt Nam sau 1986, đặc biệt là từ 2006 trở lại đây, quá trình tiếp nhận tự
truyện, các đặc điểm của công chúng tự truyện…
Điều tra về công chúng tự truyện, chúng tôi sử dụng một mẫu bao gồm 201
cá thể thuộc các nhóm xã hội khác nhau tại các không gian: thư viện, lớp học,
trường học. Hình thức thu thập thông tin là phát phiếu trưng cầu ý kiến các đối
tượng trong các không gian trên trong thời gian cụ thể là tháng 3 năm 2016.
Phiếu thăm dò ý kiến với 6 câu hỏi trong đó: hai câu hỏi đóng thu thập thông
tin về khả năng và mức độ đọc đối với thể loại, 3 câu hỏi nhiều lựa chọn đưa ra các
phương án xác định lý do đọc, mục đích đọc, mức độ đọc; một câu hỏi mở thu thập
thông tin định tính hướng đến tìm hiểu mong muốn chủ quan của người đọc qua đó
tìm hiểu xu hướng tiếp nhận đối với tự truyện trong tương lai.
Phỏng vấn sâu có tham dự được thực hiện với 4 nhà văn, cũng đồng thời là
tác giả của các tự truyện được viết trong vòng từ 1986 đến nay. Cụ thể là nhà văn
Tô Hoài, nhà văn Ma Văn Kháng, nhà văn Bùi Ngọc Tấn, nhà văn Phan Việt. Các
phỏng vấn này hướng tới tìm hiểu những nhu cầu chủ quan của tác giả tự truyện,
chúng có ý nghĩa như là những động lực cho hành động tự truyện trong bối cảnh
văn hóa xã hội hiện tại.
Phương pháp tự sự học: Để có thể tìm hiểu những cách thức bộc lộ bản thân
của chủ thể trong tự truyện, không gì khác là phải dựa trên văn bản. Do thế chúng
tôi sử dụng nhóm các phương pháp thuộc tự sự học cụ thể như: phân tích văn bản,
so sánh - đối chiếu, phương pháp hệ thống nhằm phát hiện những cách thức mà chủ
thể sử dụng để bộc lộ bản thân mình và bày tỏ các quan niệm giá trị.
Hệ các phương pháp này bổ sung cho nhau trong việc thu thập dữ liệu liên
quan đến các vấn đề nghiên cứu trong đề tài. Chúng bổ sung và soi sáng lẫn nhau,
góp phần cụ thể hóa các luận điểm nghiên cứu.
5. Đóng góp mới của luận án
- Luận án là một khái quát đầu tiên về tự truyện với tư cách là một quá trình
xã hội. Qua đó có thể thấy được diện mạo và các yếu tố tác động tới sự phát triển
của thể loại này trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam đương đại và dự đoán xu
hướng phát triển của nó trong tương lai.
5
- Nghiên cứu tự truyện từ các khía cạnh: Những điều kiện tự truyện, Sự bộc
lộ chủ thể trong tự truyện và Hoạt động tiếp nhận, luận án đã xây dựng được một
khung lý thuyết đối với việc nghiên cứu xã hội học về tự truyện nói riêng và các
hiện tượng văn học đương đại nói chung.
- Luận án là sự khẳng định tính khả dụng của phương pháp xã hội học trong
nghiên cứu văn học. Đặc biệt là những khảo sát định lượng có ý nghĩa quan trọng
trong việc gia tăng tính thuyết phục cho các kết luận trong nghiên cứu văn học.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án là việc vận dụng các quan điểm xã hội học vào việc lý giải đặc trưng
diện mạo của thể loại tự truyện trong đời sống xã hội Việt Nam đương đại từ đó
một mặt làm rõ các luận điểm lý thuyết về mối quan hệ giữa xã hội và văn học mặt
khác, đóng góp một cái nhìn mới đối với một hiện tượng văn học hiểu ở ý nghĩa
rộng rãi nhất của từ này.
Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu và giảng
dạy các chuyên đề về những hiện tượng văn hóa, văn học Việt Nam đương đại.
7. Cấu trúc của luận án
Luận án được triển khai thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu tự truyện Việt Nam đương đại
Chương 2: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn của việc nghiên cứu tự truyện Việt
Nam đương đại
Chương 3: Những điều kiện tự truyện và sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện
Chương 4: Hoạt động tiếp nhận tự truyện
6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU TỰ TRUYỆN VIỆT NAM
ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Tổng quan tài liệu liên quan đến đề tài
Ngay từ năm 1940, trong công trình Nhà văn hiện đại, nhà nghiên cứu Vũ
Ngọc Phan đã từng quan tâm tới tự truyện với tư cách là một nhóm loại tiểu thuyết
hấp dẫn và nhiều thử thách. Các bài viết của ông về Dã tràng của Thiết Can, Những
ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư có thể coi là những
nghiên cứu đầu tiên về tự truyện. Do thực tế phát triển của thể loại, nên đến tận thế
kỷ thứ 21 này, khi phong trào dân chủ hóa văn học ngày càng trở nên sôi nổi, văn
học bắt đầu xuất hiện một loạt tác phẩm lấy cuộc đời riêng của người viết làm đề
tài, câu chuyện về tự truyện mới được dịp quay trở lại. Chính vì thế mà những
nghiên cứu về nó cũng mới đang ở giai đoạn bắt đầu. Những vấn đề như: tự truyện
là gì, văn học Việt Nam có tự truyện hay không, con đường phát triển của nó là như
thế nào, những dấu hiệu của tự truyện trong các tác phẩm cụ thể…đã và đang được
đặt ra. Trong phần này, để thuận tiện cho sự trình bày, chúng tôi tạm chia hoạt động
nghiên cứu về tự truyện ở Việt Nam thành hai nhóm chính: nhóm tập trung vào
những vấn đề thể loại và nhóm quan tâm tới những tác phẩm tự truyện riêng biệt.
1.1.1. Những vấn đề thể loại
Hai câu hỏi lớn mà những nghiên cứu về tự truyện Việt Nam luôn quan tâm
là: thế nào là tự truyện và Văn học Việt Nam có tự truyện hay không. Đây cũng
đồng thời là những vấn đề gây tranh luận khá nhiều kể từ khi thể loại này xuất hiện.
Có thể kể đến một loạt các bài viết tiêu biểu như: Truyện tiểu sử, một loại
hình tự sự cần được khẳng định và phát triển của Trương Dĩnh năm 2000, Viết tự
truyện, khi nào và vì sao của Trần Văn Toàn năm 2003, chùm bài viết của Đoàn
Cầm Thi đăng rải rác trên báo văn nghệ từ 2004 đến 2008 sau này tập hợp lại trong
cuốn sách mới xuất bản Đọc Tôi bên bến lạ: Cơ hội của chúa - từ nhật ký đến hậu
trường văn học (2004), Nỗi buồn chiến tranh: tự truyện bất thành (2004), Đặng
Thùy Trâm: biến số và ẩn số (2008), Tương lai tự truyện Việt Nam còn ở phía trước
(2008), bài viết của Lê Tú Anh: Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc
7
mộng lớn (Tản Đà) - Những bước đi đầu tiên của tự truyện Việt Nam (2010), của
Đỗ Hải Ninh: Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật
trong văn học Việt Nam đương đại (2009) và sau này là luận án khá công phu của
chị: Tiểu thuyết có khuynh hướng tự thuật trong Văn học Việt Nam đương đại năm
2012. Ngoài ra, việc xác định những đặc điểm của tự truyện không thể không kể
đến hai nghiên cứu khá quan trọng là bài viết: Tự thuật và tiểu thuyết Pháp ở thế kỷ
XX của Đặng Thị Hạnh năm 1998 và chương Tiểu thuyết tự thuật trong công trình
nghiên cứu Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI của Phùng Văn Tửu năm 2005.
Mặc dù đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết Pháp nhưng những vấn đề như bối cảnh,
hành trình, đặc điểm của thể loại được đề cập đến trong các nghiên cứu này đã giúp
cho việc hiểu về tự truyện Việt Nam thêm cụ thể, rõ ràng.
Về câu hỏi thế nào là tự truyện, hầu như các nghiên cứu đều coi định nghĩa
của P. Lejeune là cơ sở để xác định các đặc trưng thể loại. Nhà nghiên cứu Đặng
Thị Hạnh sau khi mô tả nguồn gốc của việc lấy cái tôi làm đối tượng miêu tả là tinh
thần tự thú và hành trình của nó trong văn học Pháp đã nêu định nghĩa về thể loại
của P. Lejeune làm cơ sở cho việc nêu ra mối quan hệ giữa nó và tiểu thuyết: “Năm
1971 trong cuốn Tự thuật ở Pháp Philippe Lejeune định nghĩa nó như sau: Truyện
kể mang tính nhìn lại dĩ vãng, mà một người có thật viết về cuộc sống của mình, khi
người đó đặt trọng âm lên đời sống riêng, nhất là lên sự hình thành nhân cách” [70,
36]. Định nghĩa này được coi là căn cứ lý thuyết quan trọng trong hầu khắp các
nghiên cứu về tự truyện. Tại chương Tiểu thuyết Tự Thuật, tác giả Phùng Văn Tửu
cũng dẫn định nghĩa này để phân biệt với tiểu thuyết và chỉ ra sự giao thoa giữa hai
thể loại. Điều thú vị là ở chỗ, ông có ghi chú thêm: “thể loại tự thuật không chỉ giới
hạn ở những nhà văn tuy ở đây ta chỉ xem xét trường hợp nhà văn viết tự thuật”
[165, 136] như một sự phân định ranh giới giữa tự thuật của nhà văn và tự thuật nói
chung. Tuy vậy, ông không đi sâu phân tích ranh giới này mà chỉ coi đó là một giới
hạn cho phạm vi nghiên cứu của mình, đó là mối quan hệ giữa tiểu thuyết và tự
thuật, tiểu thuyết tự thuật và tiểu thuyết.
Chú ý tới tác giả song nhấn mạnh một đặc điểm thuộc về chủ thể tự truyện,
đó là tuổi tác và độ chín của những trải nghiệm nhân sinh, nhà nghiên cứu Trần Văn
Toàn viết: “Tự truyện như ta đã biết, thường được viết vào thời tác giả đã trưởng
8
thành, đã trải qua phần lớn các chặng đường đời. Đây là đặc điểm quan trọng để
phân biệt tự truyện với nhật ký. Ở nhật ký, thời gian viết và thời gian được nói tới
trùng khít với nhau trong khi đó ở tự truyện giữa hai dòng thời gian này là một
khoảng cách rất rõ nét. Vậy thì điều gì đã khiến một tác giả đang sống ở đây, trong
hiện tại - lại có nhu cầu nhìn lại quá khứ đã trôi xa của mình. Vì đâu mà người ta
khao khát được tìm lại “thời gian đã mất”? (…) Về phần mình, tôi cho rằng: tự
truyện gắn với một năng lực đặc biệt của con người: năng lực nghiệm sinh cuộc
sống. Cuộc sống có trải nhưng cũng có nghiệm và không phải lúc nào trải và
nghiệm cũng đồng nhất với nhau. Để nghiệm cần có thời gian, cần một sự lịch
duyệt nhân sinh, không hiếm khi là những đổ vỡ, vấp ngã trong đường đời để đọc
thấu/ để cấp cho những gì đã trải một ý nghĩa nào đó” [167]. Như thế, căn nguyên
của sự khác nhau giữa nhật ký và tự truyện chính là sự “lịch duyệt nhân sinh” hay
nói khác đi, là tuổi tác, là thời gian đủ để có thể nghiệm sinh cuộc sống của chính
tác giả tự truyện. Từ đây, quá khứ mang một ý nghĩa khác, ý nghĩa của trải nghiệm,
của hiện tại viết mà không còn là chính nó tại thời điểm đã diễn ra. Sự lý giải này
cho phép người đọc nhận thức đầy đủ hơn về sự tác động của các yếu tố chủ quan
của chủ thể tự truyện lên câu chuyện của mình. Các yếu tố chủ quan hiểu rộng ra là
tuổi tác, nghề nghiệp, thói quen, là ý thức xã hội. Chúng tác động lên hành động tự
truyện, tạo nên đặc điểm riêng của từng tự truyện.
Cùng với việc xác định đặc trưng cơ bản của tự truyện, câu hỏi tự truyện có
phải là văn học hay không cũng được đặt ra. Có thể nói nhà nghiên cứu Lê Tú Anh
là người quan tâm đến vấn đề này nhiều nhất. Trong các bài viết của mình, việc đưa
ra quan niệm về tự truyện và coi tự truyện như một thể loại văn học luôn được nhấn
mạnh. Theo đó, tự truyện chỉ được coi là văn học khi nó đạt được các phẩm chất
văn học:
“Theo tôi, tự truyện như một thể loại văn học hay một tác phẩm tự truyện
ngoài việc cần phải có những điểm khả thủ để phân biệt ở một mức độ tương đối
với hồi ký, nhật ký, tiểu thuyết; cần phải đáp ứng được những yêu cầu để có thể
phân biệt với một tự truyện chưa đạt đến trình độ tác phẩm văn học (cận văn học).
Các yêu cầu cụ thể, là: phải có thao tác tự sự, có ý nghĩa nhân sinh và ngôn từ có
tính nghệ thuật” [5]
9
Những xác định này đã vẽ ra một đường phân giới giữa một bên là tự truyện
“cận văn học” và một bên là tự truyện văn học. Sự khác nhau giữa chúng là ở chỗ
có/ không có những phẩm chất vừa nêu. Điều này cũng được nhà văn Triệu Xuân
nêu ra trong bài viết: Tự truyện: con nuôi của văn học, ông viết: “Tự truyện không
hẳn là văn học. Nó là một thể văn viết ghi lại tư liệu có thật nhằm thuật lại cuộc đời,
sự nghiệp của một cá nhân hoặc một gia đình, dòng họ. Tự truyện chỉ có thể là văn
học khi nó được viết theo cái cách của văn học. Thông qua số phận của cá nhân ấy,
gia đình ấy, phản ánh và biểu hiện tâm thế của một cộng đồng, một dân tộc, một
thời đại....các cuốn như Thép đã tôi thế đấy của N.Otxtrovski, Bộ ba tác phẩm: Thời
thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi của M. Gorky, Những ngày thơ
ấu của Nguyên Hồng, Cai của Vũ Bằng là tự truyện chính cống...” [189]. Theo ông,
cái cách của văn học, chính là những kỹ thuật của văn học, chúng tạo nên phẩm chất
văn học của tác phẩm. Như thế, sẽ tồn tại những tác phẩm có/ không có chất văn
học ở những mức độ khác nhau. Trong khi đó, bản thân những phẩm chất đó phần
lớn lại tùy thuộc vào sự cảm nhận của người đọc bên cạnh sự thể hiện giá trị tự thân
của văn bản. Trên thực tế, do đặc tính của mình, tự truyện còn có thể được đọc ở
nhiều phương diện khác nữa như phương diện tư liệu, phương diện văn hóa,
phương diện xã hội…mà không chỉ đọc thuần túy bằng sự cảm nhận văn chương.Vì
thế, theo chúng tôi, sẽ cùng lúc tồn tại hai phạm vi của tự truyện: tự truyện mang
phẩm chất văn học và những tự truyện mà phẩm chất văn học ít hơn. Điều đó phản
ánh chính thực tế của thể loại.
Với chủ đề “văn học Việt Nam có tự truyện hay không”, những nghiên cứu
và tranh luận cũng diễn ra khá sôi nổi. Trả lời câu hỏi này tồn tại hai ý kiến trái
ngược nhau, một khẳng định và một phủ định. Nhà nghiên cứu Lê Tú Anh, các nhà
văn Bảo Ninh, Triệu Xuân, Văn Chinh khẳng định truyền thống văn học Việt Nam
đã xuất hiện tự truyện với tư cách một thể loại văn học.
Nhân bình luận về cuốn tự truyện Yêu và sống của Lê Vân, Bảo Ninh cho
rằng: “cho tới khi đọc Yêu và sống của Lê Vân tôi mới ngẫm ra và nhớ ra rằng trong
các tác phẩm văn xuôi Việt Nam mà bản thân mình yêu thích nhất, có không ít tự
truyện: Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán,
Chiều chiều của Tô Hoài (... ) Văn chương không hư cấu, viết cụ thể về một con
10
người có thật và đương thời, với nhân vật đích danh, là một thể loại đã xuất hiện từ
lâu ở ta với số lượng tác phẩm không nhỏ, trong đó có những tác phẩm xứng đáng
là hạng nhất của nền văn học” [118]
Lê Tú Anh khẳng định một cách cụ thể hơn về sự xuất hiện thể loại. Chị cho
rằng “tự truyện đích thực đã xuất hiện trong nền văn học Việt Nam hiện đại ngay từ
chặng khởi đầu” và diễn giải cụ thể: “Trong quá trình vận động của nền văn học
Việt Nam từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn học hiện đại, thể loại
này có dấu hiệu xuất hiện ngay từ tác phẩm văn xuôi bằng chữ quốc ngữ đầu tiên:
Thầy Lazarô Phiền (Nguyễn Trọng Quản). Đến chặng hoàn tất của quá trình hiện
đại hoá văn học (1930-1945), tự truyện đã chính thức có mặt và cùng với các thể
loại khác, làm nên một diện mạo mới cho nền văn học Việt Nam. Góp phần tạo nên
sự xuất hiện sớm sủa và mau lẹ của thể loại này, theo chúng tôi, không thể không kể
tới vai trò của Phan Bội Châu và Tản Đà. Hai tác phẩm đánh dấu sự ra đời của thể
loại văn học này chính là Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc mộng
lớn (Tản Đà)” [4, 5]. Chị đã chứng minh thông qua việc phân tích những yếu tố cấu
thành như nghệ thuật tự sự, ý thức tự thú và tinh thần cá nhân từ những dấu hiệu
manh nha đến sự xuất hiện đầy đủ ở hai tác phẩm đã nêu.
Ngược lại quan điểm trên, nhà nghiên cứu Đoàn Cầm Thi cho rằng: Văn học
Việt Nam chưa có tự truyện. Trong bài trả lời phỏng vấn Tương lai của tự truyện
Việt Nam còn ở phía trước trên báo Văn nghệ (được đăng lại trong tập phê bình
Đọc Tôi bên bến lạ xuất bản 2016), xuất phát từ định nghĩa tự truyện của P.
Lejeune, chị phân tích các trường hợp tự truyện cụ thể như: Bóng (Nguyễn Văn
Dũng), Không lạc loài (Thành Trung), Cánh buồm nhỏ (Lê Minh), Tôi mù (Nguyễn
Thanh Tú), nhóm tự truyện của các nhà văn, đặc biệt là Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng và đi đến kết luận: “Cho đến hôm nay tương lai tự truyện Việt Nam
còn ở phía trước” và chị cho rằng những trường hợp vừa kể trên có thể gọi là “tự
sự”, và “tự sự” với ý nghĩa chỉ “văn học viết về chính mình” là chiếc áo mặc nhờ”
[174, 246]. Tuy vậy, chị cũng cho rằng sự lên ngôi của cái “tôi” trong đời sống và
trong văn học là tiền đề của sự phát triển tự truyện: “Cái “tôi” trong văn học Việt
gắn liền với bước thăng trầm của hệ tư tưởng. Ý thức được điều này người ta hiểu
cuộc phôi thai đầy khó khăn của tự truyện. Từ cái “tôi” hư cấu đến cái “tôi” xương
11
thịt lẽ nào không có khoảng cách?” và chị khẳng định: “Nhưng cuộc sống đang
hàng ngày thay đổi, tự truyện sẽ mọc ra như nấm ở Việt Nam. Hơn thế nữa, tôi tin
trong tương lai gần, nó sẽ có những chuyển biến về chất. Đó không chỉ là những tác
phẩm được viết để thỏa mãn nhu cầu giãi bày uẩn khúc, mà sẽ là cuộc tìm kiếm
nghệ thuật đích thực” [174, 248].
Phát biểu của Đoàn Cầm Thi cho thấy một quan niệm khá chặt chẽ về sự bộc
lộ cái “tôi”. Đó phải là cái “tôi” đầy đủ, trọn vẹn với tất cả các khía cạnh được nhận
thức của nó. Ví dụ trường hợp Nguyên Hồng, theo chị trong Những ngày thơ ấu cái
tôi Nguyên Hồng phải được hiện ra một cách đầy đủ, tuổi thơ, tài năng văn
chương…nghĩa là những gì mà người đọc đã biết và muốn biết hay nói chính xác
hơn, là cái tôi làm nên bản sắc cá nhân ông song có một thực tế là ý thức chủ quan
của chủ thể Nguyên Hồng tại thời điểm viết Những ngày thơ ấu sẽ không trùng khít
với Nguyên Hồng khi đã ở tuổi “nghiệm sinh cuộc sống”, những trải nghiệm về thời
thơ ấu mới chỉ đổ bóng xuống hiện tại ở thời điểm viết. Như vậy, nếu hiểu tự truyện
theo định nghĩa của P. Lejeune: “một câu chuyện mà một người có thật ngược dòng
thời gian kể lại đời mình, nhấn mạnh tới cuộc sống cá nhân, đặc biệt tới sự hình
thành tính cách” một cách chặt chẽ nhất thì chủ thể chỉ có thể viết tự truyện khi đã ý
thức đầy đủ về toàn bộ nhân cách mình, cũng là khi cuộc đời đã trải qua những trải
nghiệm nhất định. Tương tự như trong Những lời bộc bạch J.J.Rousseau đã viết về
mình với tất cả các khía cạnh của cái “tôi”. Song trường hợp mẫu mực ấy lại không
phải là phổ biến trong tất cả các nền văn hóa cũng như ở tất cả các nhóm tuổi của
tác giả tự truyện. Điều đó cho thấy sự khác biệt về văn hóa sẽ tạo nên những khác
biệt trong sự nhận thức bản thân và do đó, sẽ khác biệt trong miêu tả về cái tôi của
tự truyện.Thực tế cho thấy năm năm trở lại đây, tự truyện ở Việt Nam phát triển khá
sôi nổi song nội hàm của chúng ngày càng xa hơn so với khuôn mẫu tự truyện của
P. Lejeune.
Từ những vấn đề về thể loại và xác định sự tồn tại của tự truyện trong văn
học Việt Nam, việc nhận diện tự truyện cũng là nội dung nổi bật của các nghiên
cứu. Do giới hạn tự truyện trong phạm vi văn học, hơn nữa, ranh giới giữa tự truyện
và tiểu thuyết cũng không dễ tách bạch do vậy, việc nhận diện tự truyện thường
được thực hiện trong những nghiên cứu về tiểu thuyết. Tiêu biểu cho các nghiên
12
cứu này là bài viết Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng tự thuật
trong văn học Việt Nam đương đại và luận án Khuynh hướng tự truyện trong tiểu
thuyết Việt Nam đương đại của Đỗ Hải Ninh. Trong các nghiên cứu này, quan niệm
về tự truyện và mối quan hệ giữa tự truyện với các thể loại gần kề như hồi ký, nhật
ký, tiểu thuyết được nhà nghiên cứu phân biệt khá rõ. Đặc biệt là sự phân định
phạm vi của tự truyện. Theo tác giả: “Sự phức tạp trong nghiên cứu về tự truyện
xuất phát từ nguyên nhân đây là thể loại có tính giáp ranh, nằm ở ngã tư của khoa
học nhân văn, vừa gần gũi với triết học, lịch sử, tâm lý học vừa gắn bó mật thiết với
văn học.Tự truyện (autobiography: Anh/ autobiographie: Pháp) có nguồn gốc từ
tiếng Hy Lạp, bản thân thuật ngữ đã hàm chứa sự kết hợp ba yếu tố (auto: tự, bio:
cuộc đời, graphy: viết) trong một thể loại. Trong các định nghĩa đầu tiên, tự truyện
được xác định là “câu chuyện cuộc đời của cá nhân do chính người đó kể lại” hay
“tiểu sử của một người do chính người đó chép lại”. Bởi vậy có thể hiểu một cách
đơn giản tự truyện là một thể loại tự sự mà tác giả tự viết về mình. Về sau này, khi
trở thành đối tượng quan tâm của văn học, tự truyện được xem là một thể loại văn
học” [116, 103]. Cách hiểu này đã mở rộng ranh giới của tự truyện. Tự truyện sẽ
không thuần túy chỉ là tự truyện văn học mà sẽ bao gồm những tác phẩm văn xuôi
“do một người có thật kể lại cuộc đời mình, đặt điểm nhấn lên lịch sử hình thành
nhân cách cá nhân người tự thuật”. Về mối quan hệ giữa tự truyện và tiểu thuyết,
mặc dù xác định rõ sự khác biệt giữa tự truyện và tiểu thuyết ở tính chất hư cấu và
phi hư cấu song cũng chính ở đây, ranh giới giữa chúng bị mờ nhòa do hiện tượng
tiểu thuyết tự thuật. Tuy vậy, tác giả cũng cho rằng văn học Việt Nam chưa có tiểu
thuyết tự thuật (Do đặc điểm riêng về truyền thống văn hóa cũng như quan niệm
văn học nên ở Việt Nam chưa hình thành dòng tiểu thuyết tự thuật như ở nhiều
nước khác trên thế giới) mà chỉ coi hiện tượng tự truyện trong các tiểu thuyết đương
đại là “khuynh hướng tự truyện” song ngay ở sự phân loại các hình thức tự thuật,
tác giả đã xếp tiểu thuyết tự truyện là một nhóm loại, một khuynh hướng của tiểu
thuyết. Theo đó những tác phẩm: Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Chuyện kể năm 2000
(Bùi Ngọc Tấn), Gia đình bé mọn (Dạ Ngân), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải) là
những tiểu thuyết tự truyện. Điều đó cho thấy sự tồn tại các đặc điểm tự truyện
trong những tác phẩm này song chính người nghiên cứu cũng không thể khẳng định
13
một cách hoàn toàn dứt khoát. Tuy nhiên, nếu đặt điểm nhìn từ phía tự truyện, cũng
có thể sẽ thấy đây là những tự truyện mang danh tiểu thuyết hay tự truyện - tiểu
thuyết bởi nếu chấp nhận yếu tố hư cấu như một tất yếu và nhân vật tôi - chủ thể
luôn ở vị trí trung tâm thì những đặc điểm của tự truyện ở các tác phẩm này hoàn
toàn được đảm bảo. Và việc coi tiểu thuyết tự truyện là một nhóm loại tự truyện
trong phạm vi văn học cũng không phải là không có căn cứ.
Như vậy, cùng với việc dựa trên định nghĩa có sẵn về tự truyện để xác định
những đặc điểm thể loại, việc coi nhu cầu nghiệm sinh cuộc sống của tác giả tự
truyện cũng là một dấu hiệu để có thể nhận diện thể loại. Theo đó,việc lấy giá trị
văn học làm thước đo của tự truyện cũng cho thấy quan điểm coi tự truyện như một
thể loại văn học. Song chính vì thế lại giới hạn phạm vi của tự truyện, bởi chúng
loại ra bên ngoài một lượng lớn các tác phẩm mà đặc trưng của nó cũng không
ngoài các đặc điểm của tự truyện, khác chăng chúng hoặc không được viết bởi nhà
văn hoặc được viết không vì mục đích văn học.
Về vấn đề tự truyện trong văn học Việt Nam, căn cứ vào những đặc trưng thể
loại, xu hướng khẳng định là chủ yếu và chúng tôi cũng đồng tình với quan điểm
này bởi xét cho cùng, trong tự truyện, bằng cách này hay cách khác, lịch sử của cá
nhân vẫn và luôn luôn được đặt ở trung tâm của sự kể, khác chăng là cá nhân - nhân
cách ấy nhận diện bản sắc của mình ra sao. Điều đó sẽ quy định việc bộc lộ bản
thân như thế nào của chủ thể. Hay nói cách khác, mỗi nền văn hóa sẽ kiến tạo nên
những diện mạo tự truyện của riêng mình tùy thuộc vào nhu cầu và bản chất của nó.
Không thể nói Những điều bộc lộ của J.J. Rousseau là tự truyện còn Phan Bội Châu
niên biểu không phải là tự truyện khi cả hai đều lấy bản thân mình làm đối tượng và
sự lý giải nhân cách làm mục đích của sự kể.
1.1.2. Nghiên cứu tác phẩm tự truyện cụ thể
Cùng với quan niệm khẳng định tự truyện đã có mặt trong đời sống văn học
Việt Nam từ đầu thế kỷ, việc chứng minh những đặc trưng thể loại trên những tác
phẩm cụ thể là điều tất yếu. Song do giới hạn tự truyện trong phạm vi văn học nên
trọng tâm chú ý thường là các tác phẩm tự truyện của các nhà văn. Mặc dù tinh thần
tự truyện đã xuất hiện trong văn học với Giấc mộng lớn của Tản Đà hay Phan Bội
Châu niên biểu của Phan Bội Châu song cho mãi đến hơn mười năm sau khi tiểu
14
thuyết bước vào giai đoạn nở rộ và sự xuất hiện của Những ngày thơ ấu của Nguyên
Hồng, Dã tràng của Thiết Can, Sống nhờ của mạnh Phú Tư, Mực mài nước mắt của
Lan Khai, Cai của Vũ Bằng…thì sự nhận thức về tự truyện với tư cách là một thể
loại mới được bắt đầu. Có thể coi Vũ Ngọc Phan là người viết về tự truyện đầu tiên,
ông coi đó là một loại văn và gọi đích danh một tác phẩm là tự truyện. Bài giới
thiệu của ông về Thiết Can (Nguyễn Văn Xuân) là một dấu mốc: “Ông là tác giả tập
tự truyện Dã tràng và hai tiểu thuyết ngắn Cát bụi, Trinh nữ. Tự truyện là loại văn
tuy không mới ở nước ngoài, nhưng rất mới ở nước ta. Gần đây có mấy nhà văn
đem việc của mình ra viết nhưng họ chưa có can đảm đề là tự truyện. Họ “tiểu
thuyết hóa” ít nhiều cuộc đời của họ và đề là tiểu thuyết” [143, 248]. Đối với Vũ
Ngọc Phan, Dã tràng là một tự truyện: “người ta nhận thấy tập tự truyện này có giá
trị như một tập tiểu thuyết phong tục vậy” nhưng bởi những nguyên do nào đó mà
tác giả đã không tự mình xác định thể loại. Đặc điểm nổi bật của tự truyện là cái tôi,
là việc viết về mình của tác giả. Ngoài ra, những nhận xét của ông về Nguyên Hồng
và Những ngày thơ ấu đã nêu ra vấn đề về quan niệm xã hội đối với tự truyện. Nếu
như với Dã tràng, Vũ Ngọc Phan cho rằng tác giả không dám xác nhận một cách
trực tiếp mình chính là nhân vật thì ở Những ngày thơ ấu, ông lại cho rằng chính
nhà xuất bản lại rụt rè trước sự táo gan khi tác giả xác nhận luôn tên mình và câu
chuyện của mình. Điều đó chứng tỏ đối với tự truyện, bên cạnh bản lĩnh của người
viết còn cần cả sự chấp nhận của xã hội nói chung. Xã hội không định kiến thì cái
tôi tự truyện mới có thể xuất hiện một cách đường hoàng. Biểu hiện của điều ấy
chính là việc ghi tên loại tự truyện ngay ở trang bìa. Tất nhiên ở đây không bàn tới
hiện tượng tác giả tung hỏa mù. Nghiên cứu của Vũ Ngọc Phan đã khẳng định sự
tồn tại của thể loại trong đời sống văn học Việt Nam đồng thời cũng cho thấy vai trò
quan trọng của ý thức xã hội đối với thể loại.
Những năm sau Cách mạng, tự truyện không xuất hiện cho đến tận cuối thế
kỷ 20 và tình hình nghiên cứu tự truyện vì thế cũng khá mờ nhạt. Sang đầu thế kỷ
21, những chuyển động trong đời sống văn học và sự ra đời của các tác phẩm lấy
đời tư của mình làm đối tượng viết đã khiến hoạt động nghiên cứu về tự truyện
quay trở lại. Các tác phẩm và tác giả thu hút sự quan tâm có thể kể đến là: Nguyễn
Khải và Thượng đế thì cười, Tô Hoài và Cát bụi chân ai, Chiều chiều, Gia đình bé
15
mọn của Dạ Ngân, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Một mình một ngựa và
Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương của Ma Văn Kháng, Yêu và Sống của
Lê Vân…Coi tự truyện như một hướng sáng tạo của tiểu thuyết, các nhà nghiên cứu
chủ yếu tập trung khẳng định chất tự truyện, phân tích yếu tố tự truyện như một
thành công trong việc viết về sự thật và con người.
Về hai tác phẩm Chiều chiều và Cát bụi chân ai của Tô Hoài, nhà nghiên
cứu Vương Trí Nhàn cho rằng đây là sự tiếp nối một mạch sáng tạo dồi dào của nhà
văn, đó là những câu chuyện về mình, về những gì mình chứng kiến, mình suy nghĩ
và nếm trải được viết một cách trực tiếp. Kể từ Cỏ dại, rồi Tự truyện, Tô Hoài đã
tạo nên một dòng mạch riêng, đến Chiều chiều và Cát bụi chân ai, dòng mạch ấy
được phát triển ở những chiều cạnh thú vị hơn “phải đến khi Cát bụi chân ai (và sau
đó là Chiều chiều) ra đời thì ngòi bút hồi ký của Tô Hoài mới thật có dịp tung
hoành giữa những chuyện đã sống qua để rồi dựng lên ngồn ngộn một bức tranh
hoành tráng”[120]. Theo tác giả, những bức tranh ấy chính là đời sống với cả mặt
phải và mặt trái của nó. Song nó vẫn là sự thật, sự thật của Tô Hoài, kiểu Tô Hoài:
“Biết chắc rằng những định kiến hôm qua vẫn chưa buông tha ngòi bút, ông không
hề hứa rằng mình nói thực tất cả, ông chỉ cố gắng nói ra điều có thể nói với những
tốt và xấu, là sự thật như nó vốn có”[120]. Sự thật kiểu Tô Hoài gắn với chính quan
niệm: “Con người vốn không biết sợ là gì này đôi khi lấy ngay cả chính bản thân ra
để đùa bỡn. Trong khi mọi người thích đưa ra tiếng nói cuối cùng về đời mình về
đời những con người mà mình đã gặp trong đời thì ông chỉ cố nói những điều vừa
nghĩ hôm nay đồng thời để ngỏ khả năng mai kia mình có thể nghĩ khác mà mọi
người càng có thể nghĩ khác” [120]. Và vì thế, theo nhà nghiên cứu, điều đó lý giải
cho “lối viết hồi ký như vẫn viết văn xuôi” của Tô Hoài. Về đặc điểm này, nhà
nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp trong bài viết Tô Hoài – người sinh ra để viết cũng
nhận xét: “Cái nhìn không nghiêm trọng hóa là nét trội trong cảm quan nghệ thuật
của Tô Hoài, nó khiến cho nhà văn dù viết ở thể loại nào đi chăng nữa vẫn thổi vào
đó chất tiểu thuyết mà Bakhtin đã từng nói đến. Cái nhìn ấy càng rõ nét hơn trong
Cát bụi chân ai và Chiều chiều” [52, 19]. Ngoài ra, nhà nghiên cứu Vương Trí
Nhàn còn cho rằng cách kể “lung linh, chờn vờn” về hiện thực và “lối viết phân
thân trong người có mình” là đặc điểm nổi bật.
16
Cùng quan niệm “Tô Hoài viết gì cũng ra tự truyện”, nhà văn Đặng Tiến
trong bài viết Tổng quan về hồi ký Tô Hoài lại lý giải yếu tố hấp dẫn của tự truyện
Tô Hoài là ở nghệ thuật ngôn từ đặc biệt là sự chú trọng chi tiết. Theo ông, mỗi chữ,
mỗi câu của Tô Hoài chính là hồn cốt của sự vật.Trong Chiều chiều, từ ngữ cũng
biểu hiện giọng điệu, thái độ và tình cảm của nhà văn, tính cách con người nhà văn.
Bên cạnh các nghiên cứu này, việc quan sát Chiều chiều của Tô Hoài từ
phương diện thể loại cũng đã được thực hiện. Theo đó, hình tượng tác giả và hình
tượng nhân vật người kể chuyện là trọng tâm. Trần Thị Mai Phương trong luận văn
Nhân vật người kể chuyện trong hồi ký, tự truyện Tô Hoài nhận xét: “Người kể
chuyện trong hồi ký, tự truyện Tô Hoài hiện lên với một bức chân dung chân thực,
đa diện: chân dung một nhà văn, nghệ sĩ, chân dung con người đời thường, chân
dung một chứng nhân thời đại” [146, 98] hay trong luận văn Chiều chiều và những
đặc sắc về thể tiểu thuyết - tự truyện Tô Hoài, Lê Thị Biên coi tác giả, thời đại và
lịch sử là ba hình tượng nổi bật của tác phẩm này. Như vậy, đối với Cát bụi chân ai
và Chiều chiều, bản thân đặc điểm thể loại của chúng là vấn đề không phải bàn cãi,
hầu như chúng đều được quan sát từ chính đặc trưng hoặc là hồi ký, hoặc lưỡng lự
hơn là hồi ký - tự truyện, tiểu thuyết - tự truyện. Cùng với đó, việc phân tích những
đặc điểm của thể loại thể hiện trong tác phẩm đã cho thấy mối quan tâm của giới
nghiên cứu đối với thể loại.
Khác với Chiều chiều, Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải lại thu hút các
nhà nghiên cứu ở cả hai góc nhìn: góc nhìn tiểu thuyết và góc nhìn tự truyện. Tiêu
biểu cho góc nhìn tự truyện là bài viết Đôi nét về Nguyễn Khải qua Thượng đế thì
cười của Đông La. Trong bài viết này, trước khi quan sát chân dung Nguyễn Khải,
tác giả xác định thể loại: “Thượng đế thì cười” thực chất là một cuốn hồi ký nhưng
lại được viết theo hình thức của một tiểu thuyết; tức các nhân vật đều có thực, còn
kết cấu, văn phong thì được viết theo kiểu tiểu thuyết” và vì thế, tác giả quan sát
nhân vật “hắn” chính là quan sát Nguyễn Khải, phân tích Nguyễn Khải với tư cách
là một tác giả bộc lộ bản thân mình, có nghĩa là đọc Thượng đế thì cười với tư cách
là một tự truyện. Điều này không phải người đọc nào cũng chấp nhận. Hầu hết, các
nhà nghiên cứu vẫn giữ thái độ lưỡng lự vừa đọc như tiểu thuyết, vừa đọc như tự
truyện. Nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào trong bài Tôi đọc “hắn” cho rằng Thượng
17
đế thì cười vừa giống như một bản kiểm điểm của thế hệ những người quen sinh
hoạt tập thể như hắn, lại vừa giống như lời xưng tội của một con chiên” [43]. Hay
đối với nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, Thượng đế thì cười là một tiểu thuyết:
“Tác phẩm quan trọng nhất của ông lại chính là khi ông lấy mình làm nhân vật ẩn
dưới đại từ nhân xưng “hắn” để kể lại chi tiết vẫn với giọng điệu tự thú toàn bộ
hành trình nhà văn của mình. Đó là cuốn tiểu thuyết đậm chất tự truyện có tên gọi
mang tính tôn giáo và triết học hơn cả của Nguyễn Khải: Thượng đế thì cười” [131]
Từ những đặc điểm của Thượng đế thì cười, các nghiên cứu cho rằng tự truyện là
một đặc điểm nằm trong cấu trúc nội tại của tác phẩm của ông.
Cũng tương tự Thượng đế thì cười, Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn,
Gia đình bé mọn của Dạ Ngân cũng tạo ra hai cách đọc như vậy. Thụy Khuê trong
Bùi Ngọc Tấn, Chuyện kể năm 2000 một mặt cho rằng tác phẩm là tiểu thuyết bởi
nhờ thế, tác giả có thể sống nhiều cái tôi, đứng trên nhiều khía cạnh khác nhau để
quan sát cuộc đời mình, nhưng một mặt khác, vẫn khẳng định đó là một tự truyện
bởi nhân vật vẫn giữ tên thật, tác giả đổi một vài tên đã xuất hiện trong tập hồi ức
Một thời để mất [95] Còn Lê Tú Anh trong bài: Tự truyện hay tiểu thuyết trong Gia
đình bé mọn, lại khẳng định: “Gia đình bé mọn rõ ràng là một tiểu thuyết. Nhưng
không thể phủ nhận toàn bộ cuốn sách cứ toát lên hình bóng cuộc đời Dạ Ngân.
Vậy thì tại sao không thể nói rằng nó là một cuốn tự truyện” và “trong trường hợp
này tự truyện dưới dạng tiểu thuyết là cuộc tìm kiếm thành công về mặt thể loại.
Như thế, đây là một tác phẩm mang tính phức thể. Còn nếu gọi đó là một cuốn tự
truyện thì cũng không hề làm giảm đi giá trị của nó” [3]. Ở đây, việc đọc như tự
truyện hay đọc như tiểu thuyết hoàn toàn phụ thuộc vào nhận thức và quan niệm
của người đọc. Song có một điểm chắc chắn là nếu đọc như tự truyện thì nhu cầu
quy chiếu được đặt lên hàng đầu, và một khi, tác phẩm hoàn toàn đầy đủ khả năng
quy chiếu như vậy thì dù dưới hình thức nào, nó vẫn có thể được gọi là tự truyện.
Đối với chúng tôi, điều đó không làm giảm đi giá trị của tác phẩm.
Như vậy, những nghiên cứu tự truyện cho đến thời điểm hiện tại, hầu như
chưa thoát khỏi những nhận diện về thể loại. Và sự nhận diện đó dẫn đến một đặc
điểm là quan sát mới chỉ dừng lại ở hành động đi tìm hình tượng tác giả mà chưa có
những khám phá khác xuất phát từ chính đặc trưng của thể loại. Điều đó một phần
18
do bởi sự phát triển của thể loại chủ yếu ở khu vực văn học, nhưng một phần khác,
cũng do ý thức xã hội chưa quen với sự có mặt của tự truyện như một phần tất yếu
của đời sống con người. Biểu hiện của nó là sự nước đôi, sự lưỡng lự trong nhìn
nhận và đánh giá của chính nhà nghiên cứu, đặc biệt là sự nhìn nhận hầu như chỉ từ
lăng kính văn học.
Mặc dù vậy, việc coi tự truyện như một thực thể độc lập cũng đã được thực
thi với Yêu và Sống của Lê Vân qua công trình nghiên cứu của John C. Schafer: Lê
Vân và những quan niệm về giới nữ Việt [155]. Trong công trình này, tự truyện
được quan sát từ một phương pháp hoàn toàn mới: lăng kính văn hóa và phân tích
liên văn bản.Tự truyện của Lê Vân được nhận xét là một câu chuyện đầy truyền
cảm của một người phụ nữ trong hành trình khẳng định bản sắc: Tôi là tôi, là đàn
bà. Nghiên cứu của Jonh. C. Schafer coi Yêu và Sống như một đường dẫn để từ đó
truy tìm những đặc trưng bản sắc về giới nữ trong truyền thống văn hóa Việt Nam.
Từ đó khẳng đinh Lê Vân là một hình ảnh tiêu biểu cho người phụ nữ hiện đại, vừa
chịu sự chi phối mạnh mẽ của truyền thống văn hóa, vừa luôn tự vận động để khẳng
định bản sắc cá nhân. Và xa hơn, ông truy tìm những cấu trúc bất bình đẳng liên
quan đến nam giới và nữ giới trong các văn bản văn hóa để hiểu sâu sắc hơn về
những quan niệm bất bình đẳng giới đang tồn tại trong đời sống, chi phối nhận thức
và hành vi con người trong đời sống xã hội Việt Nam. Dù mục đích nghiên cứu
không hướng tới những đặc trưng thể loại nhưng nghiên cứu của Jonh. C. Schafer
đã một mặt khẳng định cái nhìn đối với tự truyện, mặt khác mở ra những hướng
quan sát khác nhau đối với thể loại đặc biệt này.
Quan sát quá trình nghiên cứu tự truyện có thể thấy, cho đến nay, nhận diện
thể loại vẫn là vấn đề chưa đi đến hồi kết mặc dù hầu hết các nghiên cứu đều thừa
nhận tự truyện đã có mặt trong đời sống văn học Việt Nam và hầu hết chúng đều
được tiếp cận từ góc độ tiểu thuyết. Tất nhiên điều này có liên quan đến thực tiễn
của thể loại song cũng chính vì thế mà việc coi nó như một thể loại độc lập, việc
tiếp cận nó với tư cách là một hình thức viết đặc trưng vẫn chưa được thực hiện. Bài
viết của Jonh. C. Schafer, vì vậy, vẫn là một ngoại lệ.
19
1.2. Những nghiên cứu tự truyện từ các khía cạnh xã hội học
1.2.1. Về các điều kiện xã hội liên quan đến sự xuất hiện của tự truyện
Có lẽ, trong các công trình nghiên cứu về tự truyện, Đoàn Cầm Thi là người
đặt ra nhiều vấn đề nhất. Chị không chỉ dẫn các định nghĩa thể loại mà còn cố gắng
để mô tả các dấu hiệu thể loại trong quá trình vận hành của tự sự trong văn học.
Trong đó, theo chị, dấu hiệu về sự xuất hiện cái Tôi là những tiên báo mạnh mẽ đối
với sự xuất hiện tự truyện. Theo chị, vấn đề sự phát triển của ý thức cá nhân là
thành tố quan trọng nhất để tự truyện phát triển ở Việt Nam. Từ sự giới hạn:
“Những tự truyện hay nhất là những tác phẩm quyết liệt nhất trong cuộc đi tìm chân
lý cá nhân”, chị tập trung phân tích các điều kiện xã hội của sự xuất hiện tự truyện,
lý giải tại sao, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh là một “tự truyện bất thành” [174,
204]. Những quan điểm của chị, thực sự là gợi ý quan trong trong việc xem xét tự
truyện từ phương diện xã hội học. Tất nhiên, trước Đoàn Cầm Thi, nhà văn Vũ
Ngọc Phan cũng đã đặt ra vấn đề về mối liên hệ tác động giữa tự truyện và xã hội
trong công trình Nhà văn hiện đại (1940). Khi đánh giá về các dòng tiểu thuyết, ông
khá chú trọng tới một nhóm các tiểu thuyết mang dấu hiệu tự truyện. Và hai tiểu
thuyết Những ngày thơ ấu và Dã tràng được ông gọi đích danh là tự truyện. Song
điều quan trong hơn, đó là ông đã nhấn mạnh tới vai trò của môi trường xã hội tới
sự xuất hiện, sự thừa nhận loại tiểu thuyết này.
Ông cho rằng: “Lối tự truyện này ở Pháp, ở Anh, ở Mỹ, ở Nga rất thịnh
hành. Nhưng ở Việt Nam ta, viết được tôi cho là can đảm lắm”[143, 564] và ông
khen cái táo gan của Nguyên Hồng khi viết Những ngày thơ ấu cũng như giải thích
vì sao nhân vật chính của tự truyện Dã tràng của Thiết Can lại không chỉ mang cái
tên na ná tên tác giả. Song ông cũng giải thích vì sao hình thức thể loại đề trên bìa
của Những ngày thơ ấu lại là tiểu thuyết: “Có lẽ, nhà xuất bản Đời nay đã rụt rè
trước cái táo gan của tác giả, nên mới cho quyển tự truyện đội cái lốt mơ hồ bằng
hai chữ tiểu thuyết ở ngoài”[143, 564]. Ở đây, cái rụt rè của nhà xuất bản thực chất
chính là phản ứng từ phía người tiếp nhận mà xuất bản là bước tiếp nhận đầu tiên
trong hành trình tác phẩm đến với công chúng Ông còn bình luận thêm: “Thật thế,
viết được tự truyện ở nước ta, tôi nói là viết thành thật - không phải dễ. Phải trút bỏ
tất cả những thành kiến đi, phải đặt mình lên trên tất cả dư luận, phải gột rửa cho kỹ
20
lòng tự ái. Rồi còn phải gì gì nữa chứ không phải chỉ viết thành lối tự truyện mà đã
được. Cái huênh hoang là cái tối kỵ trong tự truyện, nên nói được cái tôi chân thật
mà lại làm cho người đọc cảm thấy những điều thú vị khi đọc cái tôi của mình là
một điều khó” [143, 565]. Như thế, nhà nghiên cứu đã nói tới những điều kiện căn
cốt của hoạt động tự truyện. Đó chính là ý thức và thái độ của chủ thể trước bối
cảnh xã hội. Sự can đảm của các tác giả tự truyện theo cách giải thích của Vũ Ngọc
Phan chính là phải vượt qua được định kiến, phải đặt mình lên trên dư luận. Đó
chính là những rào cản vô hình, những định chế vô hình ràng buộc tự truyện, làm
cho hành vi tự truyện của chính tác giả bị đánh tráo. Bản thân văn bản tác phẩm lại
bị định danh sang một hình thức khác.
Loạt bài của nhà nghiên cứu Đoàn Cầm Thi mà chúng tôi dẫn ở trên đã phân
tích khá tường tận về mối quan hệ giữa tự truyện và xã hội. Chị thậm chí đã khẳng
định rằng, tự truyện sở dĩ chưa xuất hiện ở Việt Nam thời điểm ấy (2004) là do
nguyên nhân từ xã hội. “Trong văn học Việt Nam, như ta đã thấy, có nhiều hồi ký
nhưng chưa có tự truyện với nghĩa đầy đủ. Và thực tế có phần khắt khe này có thể
giải thích được bằng bản chất xã hội Việt Nam: khi viết tự truyện, tác giả công khai
tên tuổi, tự do nói những điều mình nghĩ, rọi xuống cuộc đời mình một cái nhìn
riêng, nhưng những điều khoản này đều vấp phải hai bước cản - đạo Khổng và chủ
nghĩa tập thể” [174, 247] và chị cho rằng, khi cái tôi lên ngôi thực sự trong ý thức
xã hội, thì sớm muộn, tự truyện cũng sẽ xuất hiện. Dấu hiệu lên ngôi của cái tôi
được thể hiện qua các hiện tượng xã hội như các cơn sốt nhật ký, blog cá nhân trong
giới trẻ, sự tiếp nhận nồng nhiệt các nhật ký chiến tranh…điều đó chứng tỏ những
thay đổi trong ý thức xã hội. Hay nói rõ hơn, đó là xu hướng đề cao cá nhân trong ý
thức xã hội.
Mô tả những điều kiện của sự xuất hiện khuynh hướng tự truyện trong văn học,
trong luận án Khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại, Đỗ Hải
Ninh cho rằng, các yếu tố tiền đề của sự nảy sinh và phát triển tự truyện bao gồm:
- Nhu cầu nhận thức về sự tồn tại của cá nhân trước những biến cố lịch sử xã
hội và sự giải tỏa sau một khoảng thời gian dài bị kìm nén
- Sự khẳng định cái tôi cá nhân trong bối cảnh văn hóa đương đại trong đó,
toàn cầu hóa, và giao lưu văn hóa, kinh tế thị trường có ý nghĩa thúc đẩy mạnh mẽ.
21
Những lý giải trên đã cụ thể hóa phần nào các điều kiện văn hóa căn bản của
sự xuất hiện và phát triển khuynh hướng tự truyện trong văn Việt Nam từ sau 1986.
Song có lẽ các quan sát của tác giả chủ yếu tập trung vào những biến đổi nội tại của
văn học hơn là các nhân tố bên ngoài. Trong khi, trên thực tế, theo chúng tôi, những
chuyển biến trong nhận thức xã hội, yếu tố kinh tế, văn hóa và sự thay đổi quan
niệm chức năng của văn học cũng có những tác động không nhỏ tới sự phát triển
của tự truyện hiện nay.
Về yếu tố kinh tế, một nhận xét khá táo bạo của nhà nghiên cứu Lockhart
trong công trình Tự sự ngôi thứ nhất từ năm 1930 cho rằng: cái “tôi” chủ động xuất
hiện trong những năm 1930 là một kết quả của sự suy tàn của chế độ quân chủ và sự
suy giảm của hệ thống Nho giáo; trong những năm 1980 sự bùng nổ xuất hiện được
xem như kết quả của việc con người đã mỏi mệt với đời sống cá nhân bị trói buộc
trong tập thể [155, dẫn theo] và theo Jonh Schafer: “Đổi mới đem lại cơ hội để lên
tiếng vì chính quyền nhận thấy khó mà cản trở tự do nghệ thuật khi đã ủng hộ tự do
kinh doanh” [155]. Như thế, việc cái tôi bộc lộ mình một cách chủ động là hệ quả tất
yếu của những thay đổi trong đời sống xã hội mà không thể chỉ trong ý thức văn học.
1.2.2. Về tác giả và sự bộc lộ bản thân trong tự truyện
Tác giả - chủ thể của tự truyện sở dĩ có thể quan sát được là nhờ tính chất
“tam vị đồng nguyên” giữa tác giả - người kể chuyện - nhân vật chính. Khía cạnh xã
hội của sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện là ở chỗ chủ thể - người kể chuyện nhận
thức về mối quan hệ giữa mình và xã hội như thế nào điều đó sẽ quyết định việc họ
kể về mình trong tự truyện ra sao.
Về chủ thể trong tự truyện, Mai Vũ trong bài Viết tự truyện: nhu cầu hay
trách nhiệm nêu ra những vấn đề cần chú ý về mặt lý thuyết đối với chủ thể tự
truyện. Ở bài viết này, tác giả đã khẳng định việc viết tự truyện là một nhu cầu và
nhu cầu đó thuộc về tâm lý: “Kẻ viết tự truyện trước hết phải là kẻ có nhu cầu nói
sự thật, tạo dựng sự thật nào đó, hoặc ít ra là nó xuất hiện như kẻ có nhu cầu bức
thiết ấy, bất kể diện trường sống mà nó muốn phô diễn rộng hẹp thế nào” [188].
Cũng ở đây, khái niệm chủ thể tự truyện được tác giả phân biệt và giới hạn. Trước
tiên là sự xác định giới hạn về đối tượng nhận thức: Chủ thể tự truyện (…) muốn tái
tạo lại “văn bản quá khứ” trong tính toàn vẹn của nó, nó muốn giới hạn và giải thích
22
quá khứ của nó bằng lí lịch của mình”. Bên cạnh đó, chủ thể tự truyện “còn phát
hiện về người khác, đọc người khác, cái khác qua lịch sử của mình, cuộc đời mình”
[188]. Sự phân biệt này cho thấy tính chủ quan của những gì được viết ra trong tự
truyện. Chủ thể, như thế vừa hiện diện ở những gì được viết, vừa ở mục đích của sự
viết. Ở phương diện hình thức, đặc điểm của chủ thể là: “một mặt được đồng nhất
với chủ thể tiểu sử, chủ thể sáng tạo, mặt khác nó là sản phẩm của sự sáng tạo, một
chủ thể phát ngôn, sinh ra cùng với phát ngôn, chỉ tồn tại trong phát ngôn của chính
nó mà thôi” [188]. Sự phân biệt này là hoàn toàn hữu ích đối với việc đọc và nghiên
cứu nội dung của tự truyện bởi nói cho cùng, không thể có sự trùng khít hoàn toàn
giữa tác giả ngoài đời và nhân vật hay người kể chuyện trong sản phẩm mà họ viết ra.
Việc khảo sát sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện của chúng tôi thực chất là đi tìm chủ
thể trong văn bản. Song cái chủ thể được bộc lộ trong văn bản ấy là hình ảnh khúc xạ
của tác giả thực ngoài đời với những đặc điểm về tâm lý, nhận thức và xã hội. Vì thể,
sự tham chiếu một chủ thể văn bản với một tác giả tiểu sử vẫn là cần thiết.
Khảo sát sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện thường được các nhà nghiên cứu
tìm hiểu qua các khía cạnh: người kể chuyện, hình tượng tác giả, cái tôi tác giả.
Về người kể chuyện, luận văn Nhân vật người kể chuyện trong hồi ký và tự
truyện Tô Hoài của Trần Thị Mai Phương là một nghiên cứu tiêu biểu. Luận văn mô
tả nhân vật người kể chuyện từ hai phương diện: hình tượng và ngôn ngữ, giọng
điệu. Theo đó, chân dung người kể chuyện Tô Hoài được mô tả: “Một bức chân
dung chân thực, đa diện: chân dung một nhà văn - nghệ sĩ, chân dung một con
người đời thường, chân dung một chứng nhân thời đại. Ở phương diện nào, người
kể chuyện Tô Hoài cũng thể hiện tính cách của một con người cầu thị, nghiêm túc,
luôn trăn trở truy tìm sự thật, luôn muốn sống cho thật cận nhân tình” [146, 98].
Những miêu tả đó một mặt cho thấy tính cách và con người Tô Hoài, mặt khác là sự
khẳng định việc quan sát tự truyện từ chính những đặc trưng thể loại của nó luôn là
một hướng đi đúng đắn. Tuy vậy, phân tích nội dung tác phẩm để chỉ ra đặc điểm
tính cách như vậy dễ làm quên đi những yếu tố chủ quan của tác giả trong việc kiến
tạo nên hình ảnh về bản thân trong khi chính điều đó quyết định việc chủ thể sẽ viết
về mình như thế nào.
23
Tương tự nghiên cứu của Trần Thị Mai Phương, Phan Thị Lúy trong luận
văn Hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải khảo sát về chủ thể thông qua hình tượng
tác giả mà biểu hiện của hình tượng đó là người kể chuyện ngôi thứ nhất xưng “tôi”
và ngôi thứ ba “hắn”. Từ đây, nghiên cứu đi vào sự phân tích và mô tả về “tôi” và
“hắn” trong sự quy chiếu với chính Nguyễn Khải. Những đặc điểm về cuộc đời, con
người và sự nghiệp của Nguyễn Khải cùng lúc được giải thích một cách cặn kẽ.
Theo tác giả chúng chính là một “cánh cửa mở ngỏ để người đọc có thể đi vào các
sáng tác của Nguyễn Khải qua lối mở của chính nhà văn” [108, 113]. Tự truyện và
hồi ký lúc này, không chỉ mang giá trị văn học, nó là tư liệu, là con đường bước vào
thế giới riêng tư của tác giả. Đặc biệt, nhà nghiên cứu Đông La trong Đôi nét về
Nguyễn Khải qua Thượng đế thì cười đã thông qua những gì nhà văn kể mà khái
quát về cuộc đời và văn nghiệp Nguyễn Khải, cá tính Nguyễn Khải.
Cái tôi là một khía cạnh biểu hiện của chủ thể. Về cái tôi tự truyện nói
chung, Đoàn Cầm Thi trong bài trả lời phỏng vấn: Tương lai tự truyện Việt Nam
còn ở phía trước? chị phân tích: chữ “tôi” trong tự truyện thường là một đại từ
trung lập chỉ con người trong nghĩa triết học (tức là con người đối mặt với vũ trụ)
khác với đại từ ngôi thứ nhất số ít chỉ mối quan hệ với tha nhân như “tao”, “anh”,
“em”. Từ quan niệm này, nhận xét về Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, chị
cho rằng “ Bảy thập kỷ sau, có thể nói ông vẫn là người đi xa nhất trong việc tìm
kiếm cái tôi” [174, 245]. Sở dĩ như vậy là bởi Nguyên Hồng đã không ngần ngại
viết về mình, về tuổi ấu thơ nghịch ngợm, lang thang, về một người cha nghiện
ngập, một người mẹ “theo trai”…nghĩa là những điều mà theo lẽ thường “tốt đẹp
phô ra” trong văn hóa Việt Nam, thường được giấu kín. Điều đó tạo nên một cái tôi
riêng biệt, độc đáo của Nguyên Hồng. Quan niệm của Đoàm Cầm Thi gợi ý cho
việc quan sát cái tôi chủ thể trong tự truyện. Mỗi tác giả khi kể về mình thực chất
chính là sự viết lại cái tôi của mình, viết về hành trình hình thành nên “tôi” của ngày
hôm nay. Song có một điều tuổi tác, thế hệ và những trải nghiệm đời người cũng có
những chi phối nhất định tới việc nhận thức về cái tôi bởi không thể có một cá nhân
nào đứng ngoài nhóm, ngoài tập thể, xã hội của mình. Khi phân tích cái tôi của Lê
Vân trong Yêu và Sống, nhà nghiên cứu Jonh. C. Schafer, cho rằng: “Cô chấp nhận
một số ý niệm truyền thống về nữ giới nhưng chỉnh sửa hoặc từ chối một số khác”
24
[155]. Có nghĩa rằng, Lê Vân một mặt chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của quan niệm
truyền thống Việt Nam về người phụ nữ song cũng là một cái tôi cá nhân ở khả
năng “tự vận động” để xác lập một quan điểm riêng, một tiếng nói, một cách nói
riêng. Chúng làm nên động lực cá nhân của hành động tự truyện của Lê Vân. Tự
truyện của chị vì thế là hành trình khẳng định bản sắc cá nhân của một người phụ
nữ trong bối cảnh văn hóa Việt Nam.
Nói tới tự truyện là nói tới chân dung của tác giả - chủ thể của tự truyện song
quan sát sự bộc lộ ấy không chỉ là việc phân tích hình ảnh hay hình tượng tác giả
mà phải là phân tích sự viết của họ. Vì vậy, bên cạnh việc đi tìm điểm xuất phát của
việc trả lời câu hỏi “tôi là ai” của chủ thể là việc chỉ ra những cách thức tương ứng
mà tác giả lựa chọn để tự truyện.Về vấn đề này, từ những nghiên cứu về khuynh
hướng tự truyện trong tiểu thuyết, Đỗ Hải Ninh cho rằng tiểu thuyết có khuynh
hướng tự truyện là một phương thức ứng xử với sự thật của các nhà văn. Tác giả
giải thích: “viết tự truyện tưởng chừng đơn giản nhưng lại không hề dễ, nhất là
trong nền văn hóa có truyền thống tương đối khép kín như Việt Nam. Hơn nữa, suốt
một thời kỳ dài, do những áp lực của cơ chế kiểm duyệt, mỗi người cầm bút phải tự
kiểm duyệt trước khi viết và trước khi xuất bản tác phẩm. Đây chính là thái độ mà
Dương Tường chỉ ra: sự ham muốn an toàn và ngại đương đầu của trí thức Việt
Nam trước thời cuộc. Chính vì vậy, sự lựa chọn tiểu thuyết thay vì các thể loại phi
hư cấu (tự truyện, hồi ký) là cách từ chối cam kết “chỉ nói thật” của nhà văn” [115,
135]. Như vậy, hình thức tiểu thuyết là cách thức bộc lộ sự thật của chủ thể nhà văn
theo quan niệm của Đỗ Hải Ninh. Với hình thức này, nhà văn được quyền “từ chối
cam kết” song vẫn có thể nói được những điều cần thiết. Từ lăng kính của sự bộc lộ
chủ thể, theo chúng tôi, cho dù là một phép ứng xử với sự thật, dù né tránh cam kết
nhưng những mâu thuẫn trong chính các câu trả lời về bản thân của chủ thể sẽ luôn
hiện hữu. Chúng xuất hiện ngay trong hình thức của tự truyện, trong điểm nhìn,
ngôi kể, trong thái độ và giọng điệu của người kể chuyện. Do đó, tìm hiểu sự bộc lộ
chủ thể trong tự truyện phải bao gồm cả hai phương diện nội dung và hình thức.
1.2.3. Về hoạt động tiếp nhận tự truyện
Hoạt động tiếp nhận trong quan niệm xã hội học văn học của R. Escarpit là
một quá trình trong toàn bộ quá trình văn học bao gồm các khâu xuất bản, phát hành
25
và tiêu thụ. Hiện không nhiều các nghiên cứu tự truyện ở khía cạnh này. Thậm chí
nếu có cũng chỉ là một ý kiến mà chưa thể là một lý giải đầy đủ và đúng nghĩa.
Trước hết phải kể đến ý kiến của Jonh C. Schafer về tự truyện Lê Vân: “Đổi
mới đem lại cơ hội để lên tiếng vì chính quyền nhận thấy khó mà cản trở tự do nghệ
thuật khi đã ủng hộ tự do kinh doanh. Các nhà xuất bản đã không còn nguồn bao
cấp từ nhà nước phải tìm cách in những cuốn sách mà mọi người sẽ mua, và họ đã
thấy những cuốn tự truyện bán rất chạy” [155]. Hướng tới kinh tế thị trường rõ ràng
là một yếu tố trong việc xuất bản Yêu và Sống. Yếu tố kinh tế thị trường là căn
nguyên của sự xuất bản tự truyện hiện nay, điều đó là một thực tế. Bởi chúng thu
hút khá nhiều sự tò mò. Theo quan niệm của R. Escarpit, vấn đề lợi nhuận là việc
làm có ý thức, là một mục tiêu của xuất bản: “Đây là việc một tác phẩm được mang
ra công bố là một quá trình có ý thức và có tính chất thô bạo bởi nó đi từ sự bí ẩn
của quá trình sáng tạo nghệ thuật ra ánh sáng vô danh nơi công cộng. Ở đây, bạo lực
được chấp thuận, sự làm uế tạp vật thiêng được thực hiện một cách có ý thức, mà
điều này còn tồi tệ hơn nữa bởi trong đó còn có vấn đề lợi nhuận tầm thường”[178,
363]. Như thế, không thể phủ nhận việc xuất bản tự truyện vì mục đích kinh tế. Yêu
và Sống của Lê Vân trước hết là một hiện tượng xuất bản cũng bởi lý do này. Tuy
nhiên,vai trò của nhà xuất bản bên cạnh mục đích kinh tế còn là mục đích văn hóa,
là nhiệm vụ định hướng giá trị. Song để hiểu được sự định hướng đó đã diễn ra như
thế nào lại cần phải có cái nhìn bao quát cùng với những thống kê cụ thể.
Về công chúng của tự truyện, bài viết của của nhà nghiên cứu Vương Trí
Nhàn Nhân đọc Lê Vân yêu và sống nghĩ thêm về sách và công chúng thời nay đã
cho thấy sự chú ý của người nghiên cứu đến vấn đề này. Ông nhận xét: “Dấu hiệu
rõ nhất đánh dấu sức chinh phục của Lê Vân yêu và sống là công chúng không chỉ
mua nó đọc nó mà còn bàn bạc về nó rất nhiều. Mở các trang báo kỳ này, người ta
có thể bắt gặp rất nhiều bài viết bàn bạc về Lê Vân và với Lê Vân như là bàn
chuyện của gia đình mình, người quen của mình. Qua việc nhiều bạn đọc tham gia
thảo luận về Lê Vân yêu và sống, người ta nhận ra rằng rút cuộc tự truyện thường
khi không phải là chuyện riêng của một người mà là chuyện của thời đại” [121] .Ở
đây, nhà nghiên cứu đã phát hiện ra mối quan hệ giữa tác giả và công chúng hiện
nay đã thay đổi. Sự bình đẳng và dân chủ trở thành đặc điểm nổi trội. Sở dĩ như vậy
26
một phần do ảnh hưởng của giao lưu văn hóa với phương Tây, một phần khác,
chính là bởi người viết đã lựa chọn vị trí đứng ngang hàng cùng người đọc: “Lâu
nay, các hồi ký chỉ nặng về tô vẽ cho bản thân người viết. Nay thì Lê Vân hiện ra
qua các trang sách như một con người đầy băn khoăn hối lỗi và khắc khoải đi tìm
bản thân” [121]. Mối quan hệ giữa Lê Vân và người đọc là mối quan hệ bình đẳng
giữa cá nhân và cá nhân. Thêm nữa, nó cũng lại là câu chuyện của đương thời cho
nên giữa người đọc và tác giả càng có nhiều điểm tương đồng. Đó là lý do vì sao
công chúng bàn về Lê Vân và chuyện của Lê vân như là chuyện của mình. Có lẽ
đây chính là đặc thù của mối quan hệ tác giả và công chúng của tự truyện. Khi đọc
tự truyện, người đọc nhận ra quyền của mình. Chính tác giả là người trao cho họ cái
quyền đó khi bày tỏ cam kết những gì nói ra sẽ là sự thật.
Tuy nhiên, ngoài những nhận xét trên, hầu như chưa có bất kỳ nghiên cứu
nào về sự tiếp nhận đối với tự truyện được tiến hành mặc dù hoạt động tiếp nhận thể
loại này với những đặc điểm về tâm lý, nhu cầu, tầm đón đợi của công chúng trên
thực tế là khá phong phú. Nếu khảo sát thực tế này sẽ cho thấy bức tranh chung về
hiện thực tự truyện đồng thời phần nào lý giải những đặc điểm nhất định của tự
truyện Việt Nam đương đại.
Như vậy, hoạt động tiếp nhận tự truyện hầu như vẫn là một khoảng đất còn
bỏ trống. Những nhận xét về các hiện tượng xuất bản liên quan tới tự truyện cũng
mới chỉ dừng lại ở sự giải thích lý do xã hội của tự truyện mà chưa có những bằng
chứng cụ thể. Về công chúng của tự truyện và sự đọc cũng vậy. Có lẽ đây là thể loại
chưa thực sự quen thuộc với người đọc cho nên sẽ khó có thể nói là đã có nhóm
công chúng riêng biệt của mình. Tuy nhiên, những cách đọc khác nhau đối với tự
truyện kể từ khi thể loại này xuất hiện trong đời sống và trong văn học Việt Nam là
một hiện thực khá phong phú. Bằng chứng là những cuộc tranh luận sôi nổi về Yêu
và Sống của Lê Vân trên các báo sau khi tác phẩm ra đời. Điều đó cho thấy tự
truyện đã bắt đầu có độc giả riêng. Nghiên cứu của chúng tôi với tinh thần đi tìm
mối liên hệ giữa thể loại và đời sống xã hội không thể bỏ qua khía cạnh này.
Tiểu kết: Tự truyện dù manh nha từ khá sớm ở Việt Nam song bởi những
đứt đoạn nhất định trong quá trình phát triển nên nó chưa thực sự trở thành đối
tượng riêng biệt của nghiên cứu văn học. Chỉ sang đầu thế kỷ 21, những quan tâm
27
về nó mới được bắt đầu. Bởi thế, kết quả nghiên cứu về tự truyện mới dừng lại ở sự
nhận diện về thể loại và đi tìm gương mặt của nó trong đời sống văn học, coi nó
như một biểu hiện của xu hướng đổi mới trong tư duy văn học. Đối với từng tác
phẩm cụ thể, việc lý giải tự truyện cũng không nằm ngoài giới hạn này. Tuy nhiên,
sự phát triển của tự truyện đã không hoàn toàn khuôn mình trong phạm vi văn học
và vì thế chúng đòi hỏi một quan sát rộng rãi hơn, linh hoạt hơn, đủ để lý giải hiện
trạng thực tế của thể loại.
Mặc dù vậy, từ phương diện xã hội học, những nhận xét bước đầu về tự
truyện lại có ý nghĩa quan trọng. Sự quan tâm đến bối cảnh xã hội như là những
điều kiện để cá nhân bộc lộ bản sắc, việc phân tích những biểu hiện của cái tôi trong
trong văn học, sự lý giải mối quan hệ giữa ý thức hệ và khả năng nói về cá nhân và
sự thật, những phân tích về chủ thể - tác giả ở từng tác phẩm…là những gợi ý xác
đáng để chúng tôi có thể nghiên cứu quá trình thứ nhất của hiện tượng này: quá
trình tạo lập. Bên cạnh đó, quá trình thứ hai, quá trình tiếp nhận tự truyện ở Việt
Nam cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được chú ý như: hoạt động xuất bản và vai trò
của nó trong thời kỳ kinh tế thị trường, những quan điểm diễn giải và tác động của
chúng đối với tác giả và thể loại… Chúng cho thấy việc quan sát tự truyện không
thể chỉ bó hẹp ở phạm vi văn bản tác phẩm mà phải quan sát nó với tư cách là một
sự thực văn học với cả hai quá trình đã nói trên. Thêm vào đó, ở mỗi quá trình, tinh
thần dân chủ phải được xem như hạt nhân cơ bản của sự phát triển của thể loại bởi
chỉ dân chủ xã hội mới tạo ra không gian tiềm năng của tự truyện và thúc đẩy ý thức
tự truyện của các chủ thể
28
CHƯƠNG 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU TỰ
TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
2.1. Quan niệm về tự truyện
2.1.1. Những định nghĩa tự truyện
Với ý nghĩa là câu chuyện của một người tự kể về mình, tự truyện đã có mặt
trong đời sống văn hóa của con người từ rất sớm và tồn tại trong nhiều dạng thức
khác nhau. Chính vì thế, đi tìm một định nghĩa về tự truyện có thể bao quát được
hầu khắp các dạng thức của thể loại này không phải là điều dễ dàng. Hơn nữa, với
mỗi nền văn hóa, thậm chí với mỗi cá nhân khi cầm bút viết tự truyện, quan niệm
về “câu chuyện tự kể” này cũng không hoàn toàn đồng nhất. Điều đó làm cho
những định nghĩa về tự truyện trở thành một loại khuôn mẫu không đủ bao quát bức
tranh sinh động của bản thân thể loại. Để có được một cách hiểu đầy đủ nhất về tự
truyện, chúng tôi sẽ trình bày sau đây một số quan niệm về tự truyện vừa từ góc
nhìn văn học vừa từ góc nhìn phi văn hoc trên cơ sở đó xác lập những đặc điểm cơ
bản làm căn cứ nhận diện và khảo sát.
Trước tiên là định nghĩa của Đỗ Đức Hiểu được nêu trong Từ điển văn học
(Bộ mới): “Tự truyện là thể loại văn học trong đó tác giả kể chuyện về cuộc đời
mình. Nhân vật chính của truyện chính là tác giả. Tự truyện ở Phương Tây đặc biệt
phát triển với sự phát triển của nội quan, con người quan sát lương tâm mình”. [134,
1905]. Tác giả lấy ý kiến của P. Lejeune, nhà nghiên cứu tự truyện Pháp, để cụ thể
hóa: “Tự truyện thường là những câu chuyện viết bằng văn xuôi, kể lại dĩ vãng của
chính tác giả, có thể gần trọn cuộc đời, có thể thời thơ ấu hoặc thời phiêu
lưu...người kể chuyện trùng với tác giả hoặc nhân vật chính”. Ông cũng xác lập một
số điểm giáp ranh giữa tự truyện với các thể loại như: giáp ranh với tiểu thuyết ở
đặc điểm người kể chuyện ngôi thứ nhất, với hồi ký và nhật ký ở đặc điểm về cái
nhìn nội quan, và thái độ tự vấn. Đặc biệt, một tiêu chuẩn hết sức quan trọng là: tự
truyện không phải là một tập hợp những kỷ niệm tản mạn, mà được bố trí như một
truyện, một tiểu thuyết. Thế nhưng, dường như vẫn còn băn khoăn, nhà nghiên cứu
lại viết thêm: “Tự truyện là một thể loại văn học rộng mở có thể bao gồm những kỷ
29
niệm, nhật ký, những truyện ngắn có nguồn gốc từ cuộc đời tác giả, gọi là tiểu
thuyết tự truyện, có thể kể theo phương thức dòng tư tưởng” [134, 1905]
Một định nghĩa khác về tự truyện được nêu trong Từ điển thuật ngữ văn học:
Tự truyện là “tác phẩm văn học thuộc thể loại tự sự do tác giả tự viết về cuộc đời
mình [69, 389]. Tự truyện được phân biệt với bản tự thuật về tiểu sử nhà văn ở chỗ:
“tự thuật yêu cầu trình bày một cách súc tích những sự kiện đã xảy ra trong cuộc
đời nhà văn, tự truyện lại yêu cầu nhà văn tái hiện đoạn đời đã qua của mình trong
tính toàn vẹn, cụ thể cảm tính, phù hợp với một lý tưởng xã hội - thẩm mĩ nhất định.
Tự thuật là sự thông báo về quá khứ, tự truyện lại là tác phẩm nghệ thuật làm cho
quá khứ tái sinh. Nhà văn viết tự truyện như được sống lại một lần nữa đoạn đời đã
qua của mình. Tự thuật đòi hỏi người viết phải hết sức tôn trọng tính xác thực của
sự kiện, trong tự truyện, tiểu sử nhà văn chỉ đóng vai trò cơ sở của sáng tạo nghệ
thuật” [69, 389].
Điểm gặp gỡ của hai định nghĩa trên là ở chỗ ngoài việc xác định đặc trưng:
trình bày những sự kiện đã qua trong cuộc đời tác giả, do tác giả kể từ ngôi thứ nhất
là một chú dẫn hết sức quan trọng, đó là sự nhấn mạnh tính nghệ thuật biểu hiện ở
việc coi tự truyện “là tác phẩm nghệ thuật, làm cho quá khứ tái sinh”, ở việc “được
bố trí như một truyện, một tiểu thuyết”. Điều đó thể hiện mục đích của tác giả là sự
nhấn mạnh tính chất văn học của tự truyện.
Tuy nhiên, thực tế phát triển phong phú của thể loại, đặc biệt là sự nở rộ của
phong trào tự truyện trong đời sống và những tác động của nó tới nhiều mặt của xã
hội đòi hỏi một cái nhìn về tự truyện rộng rãi hơn, ngõ hầu có thể bao quát được
toàn bộ các phương diện khác nhau của thể loại. Định nghĩa của P. Lejeune, nhà
nghiên cứu tự truyện Pháp trong Công ước tự thuật có thể đáp ứng được điều này.
Theo ông, tự truyện là “Câu chuyện hồi cố bằng văn xuôi được viết bởi một
người có thật kể lại cuộc đời riêng của mình, lấy trọng tâm là đời sống cá nhân, đặc
biệt đặt điểm nhấn lên lịch sử hình thành nhân cách cá nhân người tự thuật”[84,
168]. Đồng thời nó phải hội tụ đầy đủ các dấu hiệu:
- Về hình thức ngôn ngữ: thuộc dạng văn xuôi tự sự
- Về đối tương kể: cuộc sống cá nhân, câu chuyện về một nhân cách
30
- Về tình huống tác giả: Tác giả phải là một người có thật với một cái tên cụ
thể đồng thời cũng là người kể chuyện.
- Về vị trí của người kể chuyện: người kể chuyện và nhân vật chính trùng
làm một
- Điểm nhìn của người kể chuyện: Là sự đi ngược dòng thời gian, là hồi ức
Cũng trong tiểu luận này, ông phân biệt những điểm giống và khác nhau giữa
tự truyện và các hình thức viết tương tự như: hồi ký, tiểu sử, tiểu thuyết cá nhân,
chân dung tự họa, thơ tự sự…để từ đó nhấn mạnh, tự truyện phải là sự hội tụ đầy đủ
các dấu hiệu trên mà không thể chỉ là sự hợp thành của một trong số chúng.
Góc nhìn khác về tự truyện được nêu trong Dẫn giải ý tưởng văn chương
của Henry Benac, một cuốn cẩm nang về văn học, mang đến cách hiểu khá rộng rãi:
“tự truyện là kiểu tác phẩm trong đó một tác giả nói về chính mình và cuộc đời
mình, dù cho chúng được viết dưới hình thức nào. Chúng có thể là những hồi ký, tự
thú, suy ngẫm triết học, những hồi ký, nhật ký riêng tư, phản tự truyện” [17, 66].
Ông cũng giải thích về những căn nguyên tâm lý của thể loại, những lợi ích xã hội
và các vấn đề đặt ra đối với việc sáng tác và nghiên cứu thể loại này. Với góc nhìn
này, phạm vi thể loại được mở rộng ranh giới. Đặc điểm được chú trọng là đặc điểm
về nội dung: tác giả nói về chính mình và cuộc đời mình. Ở đây, tác giả và sự thật
đã hòa làm một. Các dấu hiệu hình thức được đưa xuống vị trí thứ yếu.
Như vậy, hiểu về tự truyện tồn tại hai góc nhìn: góc nhìn văn học nhấn mạnh
các phẩm chất tạo nên tính văn học của tự truyện như: sự hoàn chỉnh, tính chất tái
tạo quá khứ và góc nhìn rộng hơn, coi tự truyện như một thể loại văn xuôi viết về
bản thân của tác giả mà không chú trọng các phẩm chất văn học. Hai góc nhìn này
cho thấy hình ảnh đầy tính nước đôi của thể loại trong đời sống thực tiễn. Một mặt,
đi theo con đường của sáng tạo văn học, dung nạp vào mình những đặc tính của văn
học như tính đa nghĩa, tính hư cấu, một mặt khác lại cố gắng bảo lưu các đặc tính
phi hư cấu, mở rộng khả năng quy chiếu và hướng đến các chức năng đời sống như
chức năng giáo dục, chức năng tâm lý.
Để có thể bao quát toàn bộ thực tiễn của thể loại, chúng tôi cho rằng, việc
nới rộng quan niệm về tự truyện là điều cần thiết. Theo đó, coi tự truyện như một
thể loại văn xuôi mà ở đó tính văn học luôn là một phẩm chất cần thiết để đánh giá
31
và phân loại giá trị của tác phẩm bởi vì xét cho cùng, viết đã là một hành trình đi
tìm ý nghĩa cho những gì được kể, và đó phần nào đã là văn học. Hơn nữa, bản thân
giá trị văn học cũng là một hành trình lựa chọn và kiến tạo mà không phải bao giờ
cũng là những thước đo cố định và áp đặt.
Phần viết sau đây là sự cụ thể hóa các đặc trưng cơ bản làm cơ sở để chúng
tôi thực hiện việc khảo sát tự truyện Việt Nam đương đại.
2.1.2. Đặc trưng của tự truyện
2.1.2.1. Đặc trưng về tác giả - chủ thể tự truyện.
Theo quan điểm triết học, chủ thể là con người hoạt động tích cực và nhận
thức, có ý thức và ý chí (đối lập với khách thể là cái mà hoạt động nhận thức và
hoạt động khác của chủ thể hướng vào đó). Mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể
trong lịch sử triết học có nhiều quan niệm khác nhau song bản thân nội hàm khái
niệm chủ thể thì không thay đổi. Thậm chí chúng bổ sung cho nhau làm phong phú
thêm nội hàm ý nghĩa chủ thể. Nếu quan niệm Mác xit nhấn mạnh tính chủ động,
tích cực và khách quan trong mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể thì quan niệm
duy tâm cho rằng “tác động qua lại giữa chủ thể và khách thể và bản thân sự tồn tại
của khách thể là bắt nguồn từ hoạt động của chủ thể” [139, 92]. Đó là chủ thể ý
hướng tới khách thể. Nhờ hoạt động nhận thức của chủ thể mà khách thể tồn tại. Và
như vậy, nói tới chủ thể là nói tới hoạt động nhận thức tích cực, chủ quan, là ý thức
hướng tới thế giới của con người. Đây là cơ sở của các khái niệm chủ thể trong tất
cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Tất nhiên, chủ thể không tồn tại độc
lập mà trong mối quan hệ giữa nó với khách thể và bối cảnh xã hội.
Trong lĩnh vực văn học, chủ thể đồng nghĩa với tác giả, người viết nên tác
phẩm văn học, người tạo ra một thế giới khách quan mang ý hướng của chính mình.
Bởi thế, tác phẩm văn học luôn là một “hình ảnh chủ quan của thế giới khách
quan”, duy nhất, không lặp lại. Tuy nhiên, nội hàm của khái niệm tác giả văn học
còn được nhấn mạnh ở tính giá trị của hành động sáng tạo, đó là “người làm ra cái
mới, người sáng tạo ra các giá trị văn học mới” [69, 289]. Và như thế, tác giả tự
truyện cũng là chủ thể tự truyện, chủ thể của hành động viết về bản thân của mình.
Đối tượng nhận thức của chủ thể tự truyện là sự thật về bản thân mà theo P.
Lejeune là lịch sử hình thành nhân cách cá nhân người tự thuật. Đây là đặc trưng
32
quan trọng nhất giúp người đọc nhận ra tự truyện. Tuy nhiên, xung quanh câu hỏi
Sự thật là gì đã diễn ra nhiều tranh luận khác nhau bởi nó mang một nội hàm rộng
mở và có thể được đặt trong nhiều hệ quy chiếu khác nhau.
Ở nghĩa thứ nhất, sự thật được đặt trong hệ quy chiếu với hiện thực, nó được
coi là những sự việc đã diễn ra trong một không gian, thời gian xác định, có thể quy
chiếu với các bằng chứng nhất định. Ở các nghĩa khác, sự thật có nghĩa là không dối
trá, sự thật là chân lý của tồn tại khách quan, sự thật là tự do, sự thật là sự đích thực,
sự thật là không hư cấu (trong khi chỉ hư cấu mới đạt đến sự thật),…Những ý nghĩa
ấy đã trở thành đề tài tranh luận trải dài suốt các chặng đường sáng tạo và kiếm tìm
sự thật của không chỉ văn chương. Nathalia Sarraute trong suốt cuộc đời mình luôn
đi tìm “giây phút của sự thật” như là cái đích thực luôn bị che dấu trong hàng ngàn
khuôn mẫu ngôn từ, J.P. Sartre tìm con người đích thực trong mối quan hệ với tự
do, A. R. Grillet tìm sự thật trong không - sự thật....mọi ngả đường cuối cùng đều
dẫn đến nhận thức rằng: sự thật về bản thân là bất khả, không thể có một sự thật ổn
định, bất biến, chỉ có những sự thật “mong manh, chuyển động và nhanh chóng bị
phá bỏ” [84, 164] và không thể mô tả sự thật, chỉ có diễn giải sự thật mà thôi. Cuộc
phiêu lưu đi tìm sự thật của văn chương vì thế vẫn chưa bao giờ dừng lại.
Tuy nhiên, với các nhà nghiên cứu tự truyện, như P. Lejeune, sự thật là
những gì diễn ra trong thực tế. Biểu hiện của sự thật trong tự truyện trước nhất, đó
là: nó phải là một chân dung trung thành về tác giả. Theo P.Lejeune, “Khi đọc xong
cuốn sách độc giả sẽ có một chân dung của tác giả, một hình dung tổng thể về đời
sống gia đình, xã hội, tâm lý . Độc giả tin rằng đó là một chân dung trung thành,
chính xác, ổn định với những yếu tố cố kết vững chắc. Độc giả cũng có thể tìm thấy
những diễn giải nhằm làm sáng tỏ lôgic và quá trình hình thành tác giả trong tư cách
là tác giả” [84,170]. Người đọc có thể quy chiếu đời tư tác giả với nội dung câu
chuyện. Trong tự truyện, theo ông, luôn có cam kết ngầm giữa nhà văn và độc giả
“Tôi thề sẽ nói sự thật, toàn bộ sự thật, không có gì khác ngoài sự thật” [84, 171].
Đó là bản giao kèo, là công ước tự thuật. Chúng là chiếc neo vừa mong manh, vừa
vững chắc, tạo nên niềm tin đồng thời cũng là mối dây ràng buộc giữa tác giả và
người đọc. Người đọc vì thế, dẫu không có nhiều bằng chứng của sự thật vẫn tin
rằng đang được đối diện với một sự thật thực sự.
33
Ở điểm này, tính chất quy chiếu còn cho phép những sự thật ngoài bản thân,
sự thật về thời đại từ góc nhìn cá nhân, sự thật về người khác cũng được chấp nhận.
Những chi tiết về gia đình, dòng họ, tổ tiên… đều là những căn cứ để xác định tính
chất tự thuật của tác phẩm.
Bên cạnh đó, sự thật của tự truyện còn là sự thật về cái tôi, sự thật về bản
thân. Người đọc sẽ không ngại ngần đi tìm trong tác phẩm những khớp nối giữa các
sự kiện tiểu sử và sự kiện được kể lại trong tự truyện nhằm bổ khuyết cho bức chân
dung đã biết về tác giả.. Cái tôi trong tự truyện, theo cách diễn đạt của J.P. Sartre là
một cái tôi chân tín ý thức đầy đủ về những sự thật mà anh ta đủ can đảm thừa nhận
(đối lập với cái tôi ngụy tín ý thức về những điều muốn che dấu) Cái tôi ấy lấy điểm
nhấn là nhân cách cá nhân do thế câu chuyện thường hướng vào thế giới bên trong,
lý giải cái tốt cũng như cái xấu của nhân cách mình với một thái độ chân thành
không dấu giếm. Có thể gọi đó là sự “ý thức tội lỗi của tôi” theo cách mà Heidegger
diễn đạt trong Tồn tại và Thời gian [84, 105] . Sự thật ở đây là sự thật của nhân
cách, là kết quả của sự quan sát lương tâm mình của tác giả - người kể chuyện.
Chính bởi đặc điểm này, tự truyện khác biệt một cách rạch ròi với thể loại cùng
hướng về sự thật là hồi ký. Nếu ở hồi ký, mối quan hệ với lịch sử và thời đại của
người kể chuyện thường được chú trọng thì trong tự truyện, sự chú trọng lại tập
trung vào mối quan hệ với những cá nhân khác nhằm diễn giải bản thân với đầy đủ
các khả thể để trở thành chính mình. “Hồi ký là bức tranh về một thời đại, bên cạnh
câu chuyện của mình, tác giả đi sâu tìm hiểu những mảnh đời khác” [134, 1906].
Điều đó làm nên sự khác biệt giữa cái tôi hồi ký và cái tôi tự truyện. “Tôi” trở thành
một thành tố gắn liền với thể loại tự kể này. Nó trở thành điều kiện cốt yếu để định
loại văn bản.
Khi xem xét đặc trưng sự thật của tự truyện, một trong những vấn đề được
quan tâm là mối quan hệ của nó với hư cấu. Hư cấu, với chức năng thẩm mĩ của
mình luôn mang tính khái quát hóa cao, do vậy nhiều khi, lại thật hơn cả sự thật.
Đây cũng là vấn đề bàn cãi của tự truyện. Song kết thúc của những bàn cãi ấy là
một thỏa thuận: “trong tự truyện, các sự kiện tiểu sử của nhà văn chỉ đóng vai trò cơ
sở của sáng tạo nghệ thuật” hay “đời tư của nhà văn chỉ là chất liệu hiện thực được
tác giả sử dụng với nhiều mục đích nghệ thuật khác nhau” [69, 389]. Trong định
34
nghĩa về sự thật của tự truyện, P. Lejeune đã phải chú ý: “về quá khứ, kỷ niệm bị
xóa mờ với thời gian vì tư duy của nhà văn khi viết tự truyện đã trải biết bao cảnh
đời, và vì các sự kiện được sắp xếp, bố cục lại, suy ngẫm lại, nên khó mà trùng hợp
với sự thật; đó là chưa kể có khi nhà văn có ý thức muốn biến đổi câu chuyện hoặc
tô điểm thêm, hoặc làm xấu đi những sự thật, cho nên hình ảnh của tác giả trong tự
truyện có độ lệch nhất định so với cuộc đời thật của tác giả [134, 1905]. Và như thế,
việc mặc định: Thời thơ ấu, Những trường đại học của tôi của M. Gorki, Tuổi thơ
của N. Sarraute là tự truyện cũng là một thái độ khẳng định thành phần hư cấu là
không thể thiếu được của thể loại. Nhờ hư cấu, chân dung của chủ thể trần thuật
cũng đồng thời là tác giả hiện lên rõ nét và chân thực hơn. Đó chính là hư cấu của
tự truyện.
Vai trò của hư cấu trong tự truyện còn ở chỗ, nhờ nó, câu chuyện của một cá
nhân trở thành “truyện”. Tính truyện với các dấu ấn của người kể chuyện, điểm
nhìn, giọng điệu và các yếu tố trần thuật khác khiến cho câu chuyện từ một hệ quy
chiếu đơn nhất trở nên đa dạng, tạo nên tính nghệ thuật theo quan niệm của Iu.
Lotman1. Điều đó mang đến ý nghĩa thẩm mĩ cho tác phẩm tự truyện. Trong qúa
trình đi tìm sự thật quy chiếu, người đọc nhận chân được nhiều sự thật khác về con
người, về thế giới và về chính mình qua những trải nghiệm của một người có thực,
chịu trách nhiệm về những gì mình kể. Vì vậy, hư cấu mặc nhiên sẽ là một thành tố
không thể thiếu của tự truyện. Và nhờ hư cấu mà tự truyện trở thành một thể loại
văn học đích thực.
Một căn cứ quan trọng để xác định sự thật của tự truyện, đó là: câu chuyện
đó phải do chính tác giả kể. Một tác giả thực thể với một cái tên, một hình hài, một
nhân cách cụ thể tồn tại như một bằng chứng của câu chuyện của mình. Có thể coi
đó là những cam kết ngầm, là công ước của tự truyện. Tuy nhiên, một thực tế là bên
1 Quan niệm của Lottman trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật: để có thể thừa nhận một tổng thể nào đó của các câu của ngôn ngữ tự nhiên là một văn bản nghệ thuật, thì cần khẳng định được rằng chúng hình thành nên được một cấu trúc nào đó thuộc kiểu thứ cấp ở cấp độ của một tổ chức mang tính nghệ thuật” [tr 104]. Và “việc được tạo ra trong trò chơi tính đa ý nghĩa trở nên là một trong những dấu hiệu mang tính cấu trúc cơ bản của nghệ thuật” [tr 134]. Như vậy, một cấu trúc tạo nghĩa, đặc biệt là khả năng tạo sự đa nghĩa là tiêu chuẩn định tính căn bản để xác nhận một hình thức viết nào đó là văn học.
cạnh những tự truyện do chính tác giả kể và ghi chép lại xuất hiện hình thức tự
35
truyện chấp bút, có nghĩa là tác giả đóng vai trò là người kể về mình, một người
khác sẽ ghi chép và hoàn thiện thành tác phẩm. Đây là hình thức khá phổ biến trong
nhóm những tự truyện của các diễn viên, nghệ sĩ, các chính trị gia…nó tạo ra những
băn khoăn về tính chân thực của tự truyện do tất yếu sẽ làm xuất hiện góc nhìn của
người chép truyện và sự chi phối của góc nhìn này lên nội dung câu chuyện. Tuy
nhiên, cho dù được chấp bút thì sự xác nhận “đó là câu chuyện của tôi” vẫn thuộc
về chủ nhân của câu chuyện đó (mặc dù đây vẫn là băn khoăn của người nghiên
cứu) Hơn nữa, đối với người đọc, điều đó không làm ảnh hưởng tới việc họ tiếp
nhận tự truyện như là một câu chuyện duy nhất của một tác giả duy nhất. Điều quan
trọng đối với họ là câu chuyện thật về một con người cụ thể bằng xương bằng thịt.
Như vậy, vấn đề tác giả chấp bút sẽ không phải là yếu tố chi phối việc định loại văn
bản mà quan trọng hơn, là tiêu chí sự thật về một con người, một nhân cách. Đó
cũng là lý do vì sao, vượt lên trên các tiêu chí định loại khác, tiêu chí về sự thật luôn
được coi trọng với cả người viết và người đọc. Nó tạo ra tính đích thực của tự
truyện. Như vậy, tính chất về sự thật một mặt, là yếu tố căn bản nhất để xác định thể
loại, song mặt khác, lại cũng chỉ có ý nghĩa tương đối khi nó hướng tới những phẩm
chất văn học.
Đặc trưng thứ hai về chủ thể tự truyện là cái tôi chủ quan. Theo quan niệm
của P. Lejeune trong công trình Tự truyện ở Pháp, cái tôi chủ quan trong tự truyện
gắn liền với tính chất cá nhân. Đó là câu chuyện của cá nhân, thuộc về cá nhân, về
lịch sử nhân cách cá nhân người tự thuật. Cái tôi chủ quan hiện diện qua điểm nhìn,
giọng điệu của người kể chuyện, qua đối tượng nhận thức là những gì sẽ kể. Tất cả
tạo thành hình ảnh của một cái tôi tự truyện riêng biệt.
Cái Tôi tự truyện trước nhất, hiện diện trong vai trò là chủ thể của các phát
ngôn về lịch sử. Trong Lôgic học các thể loại văn học, Kate Hamburger phân biệt
hai hình thức biểu đạt hư cấu và phi hư cấu qua việc xác định đặc điểm của phát
ngôn: “Tác giả của các bức thư, của tiểu thuyết nhật ký hoặc những hồi ức là một
chủ thể phát ngôn về lịch sử, ngay cả khi truyện kể của nó là giả vờ, chứ không phải
là sự mô phỏng. Diễn ngôn trực tiếp trong truyện kể của nó không phải là một
phương tiện mô phỏng, mà có thể nói là được đại diện cho lời nói được dành cho
người mà nó nói tới” [78, 436]. Tính đại diện cho lời nói như Kate Hamburger
36
phân tích chính là biểu hiện của tính chủ thể của phát ngôn, một chủ thể tồn tại thật,
hiện hữu trong không gian và thời gian, là điều kiện của những phát ngôn trực tiếp
trong diễn ngôn (khác với diễn ngôn hư cấu chủ thể phát ngôn là một chủ thể không
thực sự hiện hữu). Đối với tự truyện, phát ngôn bao giờ cũng thuộc về chủ thể hiện
thực, tồn tại thực, có khả năng quy chiếu. Chúng không có sự tham gia của các chủ
thể khác nhau trong lời nói. Từ điểm nhìn của chủ thể hiện thực này, các câu
chuyện được kể ra.
Như thế, mọi phán xét của chủ thể kể chuyện là tác giả luôn luôn nằm trong
một diện trường chủ quan. Xét về mặt nội dung, tính chủ quan ấy gắn liền với
những định hướng giá trị, thói quen và nhận thức cá nhân của chủ thể. Chúng ta
không ngạc nhiên khi tại sao các tác giả tự truyện lại có quyền đưa ra những quan
điểm đánh giá đời sống trái ngược với số đông, thậm chí trái ngược với quan điểm
đạo đức xã hội, và cũng không ngạc nhiên khi những sự thật trong tự truyện thường
là yếu tố châm ngòi cho những cuộc tranh luận xã hội hay việc tác giả tự truyện bị
chỉ trích từ nhiều phía. Bởi vì, câu chuyện của tự truyện chính là câu chuyện của
“tôi”. Chúng được nhìn từ lăng kính cá nhân, từ thái độ và nhận thức cá nhân. Do
đó, mối liên hệ giữa nhà văn và đối tượng được kể trong mỗi câu chuyện tự truyện
luôn mang tính chủ quan, đặc thù, không lặp lại và không có sự đại diện. Chúng là
câu chuyện của tôi, sự thật của tôi. Chính vì thế với nhiều tác giả, viết tự truyện là
quá trình xây dựng bản sắc xã hội của chính mình. Nhân vật tôi - người kể chuyện
chính là cái tôi thật, hiện hữu, là tác giả bằng xương bằng thịt cùng với bản sắc của
ông ta. Mở đầu tự truyện bao giờ cũng có một xác nhận: “Tôi tên là X, tôi sẽ kể các
bạn nghe về sự thật đời tôi”, hay: “Cho đến bây giờ, những lời ấy vẫn âm vang
trong tiềm thức của tôi” [181, 9] “Không hiểu sao tôi luôn có cảm giác tuổi thơ của
tôi thực là ngắn ngủi” [183, 27] những cái tôi ấy luôn vang lên ngay từ lời mở đầu,
chúng vừa là những giao ước về sự thật, vừa xác định một trường nhìn, một chỗ
đứng, một giọng điệu và vai trò của người kể chuyện đối với những sự kiện sẽ kể và
trong mọi cách đánh giá đời sống mà người kể sẽ đưa vào câu chuyện.
Tính chủ quan của tự truyện cũng chi phối đặc điểm của sự kiện cốt truyện
trong tự truyện. Trong Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Iu. Lotman gọi các sự kiện cốt
truyện là sự di chuyển của nhân vật qua ranh giới giữa các trường ngữ nghĩa. Ở đây,
37
ranh giới giữa các trường ngữ nghĩa trong tự truyện chính là sự phân biệt giữa quá
khứ và hiện tại, giữa cái bình thường và cái bất bình thường trong sự đối sánh giữa
giá trị xã hội và giá trị cá nhân từ trường nhìn của chủ thể. Vì thế, thường gặp trong
tự truyện những đánh giá như: sự kiện ấy có ý nghĩa gì ? mang lại gì ? làm tổn hại
như thế nào…đối với “tôi”. Hay như quan niệm của nhà nghiên cứu Phạm Xuân
Nguyên: người kể phải xác định được ba yếu tố cơ bản: Tôi là ai? Cuộc đời đã sống
có ý nghĩa thế nào đối với tôi? Cái nhìn của tôi hướng về tương lai thế nào? Có
nghĩa, “tôi” sẽ là hệ quy chiếu của những gì tôi sẽ kể.
Đặc điểm về tính chủ quan của tự truyện mở ra một không gian tự do cho sự
bộc lộ cá nhân. Đọc tự truyện, vì thế, chính là đọc các cá nhân và chấp nhận những bản
sắc cá nhân. Viết tự truyện vì thế, cũng là viết bản sắc cá nhân, bản sắc của chủ thể.
2.1.2.3. Đặc trưng về tổ chức nghệ thuật
Đặc trưng tiêu biểu giúp nhận diện tự truyện là tác giả - người kể chuyện -
nhân vật chính trùng làm một. Đó là yếu tố chỉ dẫn cho người đọc cách thức để xác
định một tác phẩm có phải là tự truyện hay không.
Trong tự sự học, tác giả, người kể chuyện và nhân vật được phân biệt như
sau: tác giả là người thật sự dự định viết tác phẩm, có một cái tên hoặc một bút
danh, một cơ thể, một tiểu sử, một chủ thể. Người kể chuyện, ngược với tác giả,
không phải là một người thực, anh ta chỉ có một chức năng, đó là chức năng kể
chuyện. Có nhiều trường hợp tác giả cũng đồng thời là người kể chuyện như trong
các tác phẩm của Banzac. Tuy nhiên, trường hợp người kể chuyện là nhân vật chỉ
tồn tại dưới các hình thức văn học mà thôi. Đó là sự sáng tạo, là hư cấu, tác giả
tưởng tượng ra nhân vật và tìm cách gán cho nó hình thức của thực tế gồm một cái
tên, một tiểu sử, một tâm lý cụ thể. Người kể chuyện - nhân vật hư cấu này khi đảm
nhận nhiệm vụ trần thuật có các biến thể: kể chuyện ở ngôi thứ nhất, người kể
chuyện thay thế nhau trong truyện, người kể chuyện tiếp sức,...Trong đó, kể ở ngôi
thứ nhất tạo ra sự đồng nhất giữa hai cấp độ nhân vật và người kể chuyện. Khi
người kể đồng thời là tác giả thì xuất hiện hiện tượng đồng nhất ở cấp độ thứ ba
[142, 9]. Hay nói cách khác, đó là hiện tượng “tam vị đồng nguyên”. Cách kể này
tạo nên ấn tượng về một người kể duy nhất, một câu chuyện duy nhất có thật, là cơ
sở của sự quy chiếu thế giới tác phẩm và thế giới hiện thực ngoài đời. Chẳng hạn
38
qua những lời kể của nhân vật “tôi” trong bộ ba tự truyện Thời thơ ấu, Kiếm sống,
Những trường đại học của tôi của M. Gorky, người đọc có thể hình dung về một
thời thơ ấu cơ cực, tuổi trưởng thành vật lộn để kiếm sống và những nỗ lực mạnh
mẽ để vượt lên và khẳng định tài năng của tác giả. Ở đây, có thể nhìn thấy sự thống
nhất giữa cái tôi tác giả ngoài đời và cái tôi của nhân vật chính - người kể chuyện.
Tuy nhiên, hiện nay mối quan hệ giữa tác giả và người kể chuyện vẫn đang
là chủ đề gây tranh cãi. Một bên phủ nhận sự tồn tại của tác giả và coi người kể
chuyện hoàn toàn là một nhân vật mang tính chức năng, tách rời hoàn toàn khỏi tác
giả thực tế (Tz. Todorov, R. Barthes, P. Lubbock) và bên kia thừa nhận sự tồn tại
của tác giả thông qua điểm nhìn của người kể chuyện song cũng nêu ra những giới
hạn nhất định (M. Bakhtin..) [144]. Xu hướng chung của tự sự học là thừa nhận mối
quan hệ này nhưng cho rằng chúng thống nhất mà không đồng nhất: “Người kể
chuyện là một trong những hình thức thể hiện quan điểm tác giả trong tác phẩm.
Song quan điểm tác giả chỉ có thể được thể hiện qua điểm nhìn, tầm nhận thức của
người kể chuyện như một hình tượng ít nhiều độc lập” [144, 118]. Sự thống nhất
giữa tác giả và người kể chuyện diễn ra ở điểm nhìn đối với thế giới chuyện kể song
lại không đồng nhất ở khả năng bao quát và đặc biệt ở sự chi phối của lịch sử và
thời đại đối với câu chuyện mà biểu hiện của nó là “loại hình thái độ phản ứng với
thực tại điển hình cho thời đại của nhà văn” [144,118]. Người kể chuyện trong tự sự
vì vậy là một chủ thể mang tính sáng tạo, là chiếc cấu nối, là sự dung hòa giữa tác
giả và loại hình thái độ điển hình của thời đại. Tác giả thông qua hệ thống tự sự vừa
bày tỏ ý thức chủ quan lại vừa tiếp cận được với nhu cầu chung của con người và
thời đại mình. Giống như trong Những lời bộc bạch của J.J. Rousseau, điểm nhìn tự
truyện chính là sự thống nhất giữa ý thức cá nhân cao độ của tác giả và tinh thần tự
do của thời đại. Sự thống nhất ấy đã tạo nên một cái tôi với tất cả sự khác biệt
phong phú của chính nhà văn.
Đối với tự truyện, sự phân biệt trên cũng có những ý nghĩa nhất định bởi tự
truyện cũng như các tác phẩm tự sự nói chung, là sản phẩm của sự viết, của hành
động sáng tạo của tác giả. Người kể chuyện, dù trùng khít với tác giả đến mức nào
chăng nữa cũng vẫn là sản phẩm của sáng tạo. Thống nhất mà không đồng nhất với
tác giả thực. Song nếu so sánh với các hình thức viết khác thì sự đồng nhất ở tự
39
truyện vẫn là sự đồng nhất lớn nhất. Hay nói cách khác, hiện tượng “tam vị đồng
nguyên” là một đặc trưng mang tính quy ước của thể loại. Thiếu đi điều này, tự
truyện không còn là tự truyện. Vì thế, cho dù giữa người kể chuyện, nhân vật và tác
giả có những độ lệch nhất định thì đối với người đọc, chúng vẫn là sự đồng nhất và
tiềm tàng khả năng quy chiếu. Trong quá trình sáng tạo, các nhà văn đã mượn
phương thức này để xây dựng thế giới hư cấu, làm thành các kiểu loại tự truyện hư
cấu, giả tự truyện.
Đặc trưng làm nên sự khác biệt giữa tự truyện và các hình thức kể chuyện
khác là sự trần thuật từ điểm nhìn hồi cố. Người kể chuyện đứng ở thì hiện tại để
quan sát và phân tích quá khứ của mình từ đó lý giải với người đọc rằng tại sao tôi
hôm qua lại là tôi hôm nay. Do thế, các sự kiện quá khứ là đối tượng nhận thức và
miêu tả của chủ thể. Điều đặc biệt là ở chỗ quá khứ được soi chiếu từ ánh sáng của
hiện tại. Các chuẩn mực và giá trị cũng như các hành vi của quá khứ được quan sát
và phân tích từ góc nhìn hiện tại. Những nuối tiếc, những thanh minh, những ăn năn
hối hận hay tự hào là những sắc thái giọng điệu biểu hiện điểm nhìn và mối quan hệ
này. Vì thế, trong tự truyện, giọng điệu tự thú, hoài cổ, tự lý giải…thường là các
giọng chủ đạo.
Dễ bắt gặp trong tự truyện những dòng mở đầu như: “Khi tôi được 16, cuộc
đời tôi đến một khúc quanh. Bạn bè tôi đã thấy tôi có nguy cơ trở thành kẻ vô luân,
nhưng thay vì khuyến cáo tôi, hay nói về hôn nhân như một giải quyết hợp lý, thì họ
chỉ lo cho tôi trở thành nhà hùng biện, giàu có và danh tiếng” [6]; “Không hiểu sao
tôi luôn có cảm giác tuổi thơ của tôi thực sự là ngắn ngủi” [183, 27]; “Thầy tôi làm
cai ngục. Mẹ tôi con một nhà buôn bán rau đậu trầu cau lần hồi ở các chợ và trên
đường sông Nam Định - Hải phòng...” [76,5]
Ở đây, người kể đã đưa người đọc ngược về quá khứ, cùng quan sát quá khứ,
kể về quá khứ như là một đối tượng độc lập với chính mình. Thời gian hiện tại giờ
đây chỉ còn hiện diện thông qua các giá trị và chuẩn mực để đánh giá bản thân và
các sự kiện quá khứ. Song cũng chính ở dấu hiệu này, ranh giới giữa tự truyện và
hồi ký, tự truyện và tiểu thuyết ở ngôi thứ nhất bị xóa mờ.
Về kết cấu mặc dù sự tương ứng giữa sự thật và câu chuyện được kể luôn là
dấu hiệu xác nhận đặc trưng của tự truyện song, như đã nói ở trên, việc chấp nhận
40
yếu tố hư cấu cho phép tự truyện có được những khoảng tự do nhất định. Hơn nữa,
bản thân sự kể cũng đã hàm chứa trong nó một sự sắp xếp và tính “truyện” cũng là
một khẳng định đối với sự có mặt của các thủ pháp kết cấu. Vì thế, đối với chúng
tôi, tính “truyện” là yếu tố quan trọng xác định hình thức của tác phẩm tự truyện
Trên đây là những đặc trưng cơ bản về chủ thể tự truyện và tổ chức nghệ
thuật trong tự truyện chúng giống như một chiệc thước đo, một khung hình giúp cho
việc nhận diện và khảo sát hơn là bám sát thực tiễn phát triển của thể loại.
Thực tiễn phát triển của thể loại tự truyện đương đại nói chung đã xa hơn rất
nhiều so với định nghĩa của P. Lejeune. Thậm chí, bản thân định nghĩa của ông
ngay từ lúc nêu ra cũng đã gặp phải những tranh luận nhất định. Đặc biệt là khi giải
quyết mối quan hệ giữa tự truyện và tiểu thuyết. Song bởi tự truyện là một hình
thức viết mang tính giáp ranh khá lớn (những xác định của P. Lejeune cũng cho
thấy rõ điều này) cho nên việc bao quát được tất cả những biến đổi của thể loại cũng
là một khó khăn. Việc chấp nhận sự giao thoa thể loại như một đặc trưng cũng là
một cách thức nhằm khắc phục hạn chế này.
2.1.2.3. Sự giao thoa thể loại trong tự truyện
Tại các định nghĩa về tự truyện tính chất này cho dù không được khẳng định
trực tiếp song chúng lại được ghi chú khá nhiều. Dường như, chỉ trong các mối
quan hệ và các khoảng giao ấy, tự truyện mới có thể được xác định.
Khoảng giao thoa giữa tự truyện và tiểu thuyết thể hiện rõ nhất ở phương
diện trần thuật. Trong đó trần thuật từ ngôi thứ nhất với điểm nhìn chủ quan là ranh
giới khó phân định.
Các nhà tự sự học đã cố gắng phân định các cấp độ trần thuật trong tự sự để
từ đó khẳng định, trong tiểu thuyết, người kể chuyện là một chức năng trong khi với
hình thức tự truyện, người kể chuyện vừa là tác giả, vừa là nhân vật. Tuy nhiên, sự
phân biệt này chỉ có tính tương đối bởi vì với hình thức kể từ ngôi thứ nhất, các
ranh giới hoàn toàn bị xóa mờ.
Lằn ranh giữa tự truyện và hồi ký, nhật ký và các hình thức viết về bản thân
khác còn ở tính chất của mối quan hệ giữa chủ thể và sự thật, chủ thể và thời gian:
“Tự truyện khác với nhật ký: nhật ký ghi những sự việc hiện tại, từng ngày một còn
tự truyện kể về quá khứ, với con mắt nội quan”, “hồi ký có thể chỉ ghi những sự
41
kiện về một thời kỳ lịch sử, mà tác giả không phải là nhân vật chính, còn tự truyện
kể về cái tôi tác giả” [134, 1906] Tuy nhiên, trên thực tế ranh giới này hầu như
không có khả năng để rành mạch. Bởi vì nhật ký là sự ghi lại từng ngày, song nếu
đó là nhật ký được hồi tưởng thì dạng thức của nó cũng đã thay đổi; hồi ký ghi lại
sự kiện lịch sử song xen vào đó là những hoài niệm và sự lý giải bản thân thì hồi ký
lại mang đặc điểm của tự truyện. Hơn nữa, trên thực tế, loại hình hồi ký cá nhân kể
câu chuyện về bản thân là đặc điểm khá nổi bật trong hồi ký của các nhà văn. Như
vậy, với chúng tôi, việc chấp nhận sự giao thoa thể loại giữa tự truyện, hồi ký, nhật
ký cũng được coi là một đặc điểm và do đó, tự truyện - hồi ký, tự truyện - tiểu
thuyết, tự truyện - nhật ký là điều hoàn toàn có thể chấp nhận.
Để xác định chính xác hơn ranh giới của tự truyện, vấn đề bộc lộ chủ thể với
tư cách một cái tôi cá nhân, sự giải thích bản thân cá nhân người tự thuật đã trở
thành một tiêu chí. Nhà nghiên cứu Đoàn Cầm Thi trong loạt bài trả lời phỏng vấn
và nghiên cứu về tự truyện Việt Nam khi cho rằng: Các tác phẩm tự truyện Việt
Nam vẫn chưa hẳn là tự truyện là do chưa hoàn toàn bộc lộ được cái tôi cá nhân của
mình một cách trực tiếp bởi hai sự cản trở là đạo Khổng và chủ nghĩa tập thể. Đó
phải chăng cũng là yếu tố khiến tự truyện luôn luôn có khả năng nằm giữa những
lằn ranh thể loại. Song, ngay cả nhận định này cũng sẽ không hoàn toàn thỏa đáng
khi đặt trong truyền thống văn hóa Việt Nam. Ví dụ trường hợp Phan Bội Châu
niên biểu, dù được gọi là “niên biểu” với ý nghĩa là “bản ghi các sự kiện xảy ra”
(theo từ điển mở Wikionary.org) song trong nội dung của sự kể, nó không đơn
thuần là sự liệt kê theo thời gian. Đó là một câu chuyện cá nhân với những trăn trở
sâu sắc về sự thất bại và đặc biệt là ý thức tự thú về những nỗ lực và sự bất thành
của sự nghiệp. Đó là nỗi niềm mà Phan Bội Châu muốn nói với đồng bào mình.
Điều đó làm nên tinh thần tự truyện của tác phẩm. Ngay nhà nghiên cứu Chương
Thâu khi dịch tác phẩm này cũng khẳng định đây là một tự truyện: “Nhưng nếu
chúng ta tìm được bản gốc, thì thấy ở ngay cuối lời tựa, tác giả đã đặt tên cho cuốn
tự truyện là Phan Bội Châu niên biểu” [ 27, 10]
Thừa nhận về tính giao thoa thể loại của tự truyện, trong bài viết Truyện tiểu
sử, một loại hình cần được khẳng định [34], nhà nghiên cứu Trương Dĩnh đã coi
tính nhập nhằng thể loại như một đặc tính của tự truyện. Tính nhập nhằng đó thể
42
hiện ở những ranh giới khó xác định nằm ngay trong bản thân từng tác phẩm như:
quy chiếu và tính thẩm mĩ, sự thật và hư cấu, hiện thực và tưởng tượng...Chúng vừa
là văn học, vừa không hoàn toàn là văn học. Tính văn học bộc lộ ở cách viết của
văn học, tính phi văn học lại nằm ở chính tiềm năng quy chiếu…Đặc biệt là ngay
tác giả cũng thường cố ý tung hỏa mù qua việc không ghi tên loại của sáng tác của
mình. Điều đó buộc người đọc phải phán đoán và tự xác định dựa trên những gì tác
giả cung cấp trong tác phẩm.
Quan sát thực tế tự truyện, chiếm một số lượng lớn tự truyện là tác phẩm
nằm giữa những lằn ranh: Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi, là
bộ ba tự truyện song cũng được coi là những tiểu thuyết “thế sự trữ tình” của nhà
văn M. Gorki [69], Người tình của M. Duras, Đi tìm thời gian đã mất của M.
Proust, W hay kỷ niệm tuổi thơ của G. Perec, Chữ nghĩa của G.P. Sartre…là những
tiểu thuyết tự truyện. Ở Việt Nam, các tác phẩm như: Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng, Dã tràng của Thiết Can, Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên vừa là tự
truyện, vừa là tiểu thuyết. Cai của Vũ Bằng, Ta đã làm chi đời ta mặc dù được định
danh là hồi ký song thực tế, chúng là những tự truyện. Tình hình cũng tương tự với
các tác phẩm tự truyện ra đời sau này. Nếu hình dung tính chất tự kể về bản thân là
dấu hiệu trung tâm thì việc di chuyển về phía hư cấu sẽ là tự truyện - tiểu thuyết và
nếu nghiêng về yếu tố quy chiếu sẽ trở thành tự truyện - hồi ký hoặc tự truyện pha
lẫn các hình thức phi hư cấu khác.
2.1.1.4. Đặc trưng xã hội của tự truyện
Xem xét tự truyện trong hiện thực sinh động của nó không thể bỏ qua đặc
điểm mang tính xã hội của thể loại. Bởi hơn bất cứ một thể loại nào khác, nó gắn
liền với sự trưởng thành của ý thức cá nhân, của quá trình dân chủ hóa xã hội đồng
thời cũng là sản phẩm của thời đại toàn cầu hóa và truyền thông mới.
Nhìn lại con đường đi của tự truyện, có thể nhận thấy rõ lịch sử phát triển
của nó gắn liền với sự phát triển của ý thức cá nhân con người. Thế kỷ 18 - 19 ở
phương Tây là thời kỳ mà chủ nghĩa cá nhân bắt đầu được hiện diện trong đời sống
xã hội (Trước đó, con người cá nhân chủ yếu bộc lộ trong những quan niệm triết
học với những phát hiện về quyền tự do và năng lực người của chính con người).
Chúng bắt đầu thâm nhập sâu rộng vào các mối quan hệ xã hội. Đó chính là lý do vì
43
sao Những lời bộc bạch của J.J. Rousseau là một dấu mốc lớn “không chỉ trên bình
diện thẩm mĩ mà còn là cả một cuộc cách mạng sâu sắc trong tôn ti trật tự của cái gì
đáng được kể lại, cái gì không” [70] Cội nguồn của những đổi mới ấy chính là sự ý
thức sâu sắc và cao độ về bản thân của người viết. Trong “Cuộc đời của Henry
Brulard”, Standand đã bày tỏ: “Tôi sắp 50 tuổi, đó là lúc tôi cần tự hiểu mình. Trước
kia tôi thế nào? Bây giờ tôi thế nào? Trên thực tế tôi rất lúng túng khi trả lời những câu
hỏi đó” Những băn khoăn về bản thân ấy đã một mặt cho thấy sự ý thức về vị trí của cá
nhân trong đời sống, một mặt khác, bày tỏ niềm ham muốn được nói về mình, như một
thực thể xã hội riêng biệt, đặc thù. Chúng đã trở thành động lực để tác giả Những lời
bộc bạch có thể nói rằng: “Tôi được tạo ra chẳng giống một ai trong những người tôi
từng thấy; tôi dám chắc là chẳng giống một ai trong những người đang hiện hữu. Nếu
tôi không đáng giá hơn, thì ít ra tôi cũng khác biệt” [151, 23].
Cùng với sự trưởng thành của ý thức cá nhân là sự bình đẳng xã hội trong vai
trò là những chủ thể viết. Thế kỷ 20, 21 là thế kỷ phát triển rực rỡ của tự truyện ở
phương Tây. Đặc biệt với sự hỗ trợ của truyền thông đại chúng và internet, tự
truyện ban đầu chỉ giới hạn trong những người có ảnh hưởng xã hội nhất định còn
giờ đây nó là phương tiện hữu hiệu để mọi tầng lớp xã hội được bộc lộ mình. Có lẽ
với tự truyện, ranh giới giữa các tầng lớp xã hội đều có thể bị xóa nhòa. Mọi người
đều bình đẳng với nhau trong nhu cầu được kể câu chuyện của chính mình. Thực
tiễn của tự truyện Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay dù đang ở giai đoạn bắt đầu
song cũng có thể thấy rõ những chuyển biến theo hướng này. Nếu như ở thời gian
đầu của công cuộc đổi mới, đội ngũ tác giả của tự truyện chủ yếu là các nhà văn hóa
lớn, các nhà văn thì sang những năm đầu của thế kỷ 21 này, người viết tự truyện
ngày càng trở nên đông đảo. Tác giả của tự truyện khá đa dạng: người đồng tính:
Nguyễn Văn Dũng (tác giả tự truyện Bóng) Thành Trung (tác giả Không lạc loài),
người gặp hoàn cảnh khó khăn: Nguyễn Thị Diệu Thuần - cô gái mắc bệnh ung thư
máu (tác giả tự truyện Như hoa hướng dương), Nguyễn Bích Lan (tự truyện Không
gục ngã), Ca sĩ: Trần Lập (Bên kia bức tường), Ái Vân (Để gió cuốn đi)…điều đó
cho thấy xã hội đang ngày càng dân chủ hơn, chú trọng nhiều hơn đến con người cá
nhân. Thêm nữa, sự mở rộng chức năng của tự truyện từ văn học tới các phạm vi
đời sống khác nhau trong hoạt động tiếp nhận cũng chứng tỏ tự truyện đã không
44
chịu khuôn mình vào một khuôn khổ nhất định. Và một sự thật không thể phủ nhận,
quan hệ thị trường cũng tham gia khá đắc lực vào sự phát triển sôi nổi này do nhu
cầu liên tục phải có những yếu tố mới, những sản phẩm mới để đáp ứng thị hiếu của
độc giả.
Một đặc điểm xã hội không thể không kể đến là khả năng tạo ra những hiệu
ứng xã hội của tự truyện. Đặc điểm này càng rõ rệt hơn dưới sự hỗ trợ của internet
và truyền thông đại chúng.
Do đặc thù là kể sự thật về cá nhân, từ cái nhìn cá nhân mà nhiều sự kiện lịch
sử, những góc khuất của đời sống, những bí mật của cá nhân và những người liên
quan thường được phơi bày, kích thích tâm lý “nhìn trộm qua lỗ khóa” của công
chúng nói chung. Cùng với sự lan truyền của internet, chúng tạo ra những làn sóng
dư luận xung quanh các vấn đề được bày tỏ trong tự truyện. Một số phong trào xã
hội bắt nguồn từ một cuốn nhật ký hoặc tự truyện (ví như phong trào Hành trình
theo Nhật ký Đặng Thùy Trâm, Đêm nhạc tưởng niệm ca sĩ Trần Lập, ca sĩ Wanbi
Tuấn Anh…) Song bên cạnh đó, những áp lực đến từ xã hội đối với tác giả tự
truyện là không nhỏ. Trường hợp Yêu và sống của Lê Vân là một ví dụ. Tác phẩm
đã gây ra một cuộc tranh luận sôi nổi chưa từng có trong đời sống văn hóa đương
đại tại thời điểm nó ra đời giữa một bên đồng tình với sự trung thực đối với chính
mình và với bạn đọc của chị và một bên lên án gay gắt đạo đức và nhân cách của
chị khi viết sự thật. Chúng tạo ra các rào cản, hình thành nên những giới hạn, những
quy ước biểu đạt đối với tự truyện. Cũng chính vì lý do này mà nhiều nghệ sĩ có ý
định xuất bản tự truyện đều tạm thời chưa công bố, thậm chí rút bỏ ý định xuất bản
như nữ nghệ sĩ Thanh Hoa. Điều đó chứng tỏ tác động của xã hội đối với hành động
tự truyện là không hề nhỏ.
Như vậy, tự truyện không chỉ là một thể loại văn học, tự truyện đương đại trong
khảo sát của chúng tôi là sản phẩm của đời sống văn hóa đương đại với tất cả sức sống
bộn bề của nó. Đó là tất cả các sáng tác văn xuôi viết về cuộc đời mình, lấy nhân cách
cá nhân làm đối tượng nhận thức trực tiếp, với tác giả - người kể chuyện – nhân vật
trùng làm một, với điểm nhìn hồi cố…là những dấu hiệu căn bản. Tuy nhiên, trong quá
trình phân tích, do tính chất đại chúng của chúng cho nên việc lựa chọn những điển
hình với sự đề cao các giá trị văn học vẫn là việc làm cần thiết.
45
2.2. Hướng nghiên cứu xã hội học về tự truyện
2.2.1. Vài nét về xã hội học văn học và các hướng nghiên cứu trong xã hội
học văn học.
Theo mô tả của J.Y.Tardié trong công trình Phê bình văn học thế kỷ XX:
“Tính đặc trưng của xã hội học văn học là thiết lập và miêu tả những mối quan hệ
giữa xã hội và tác phẩm văn học. Xã hội có trước tác phẩm bởi vì nhà văn bị chi
phối bởi xã hội, phản ánh nó, thể hiện nó, tìm cách thay đổi nó; nó tồn tại trong tác
phẩm, nơi mà người ta tìm thấy dấu vết của nó, sự miêu tả của nó; nó tồn tại sau tác
phẩm bởi vì có một xã hội học của sự đọc, của công chúng, bộ phận này làm nên
văn học từ những nghiên cứu thống kê theo lý thuyết tiếp nhận” [178, 155] có thể
thấy mối liên hệ xã hội và văn học được thiết lập ở cả ba khâu của quá trình văn
học: nhà văn, tác phẩm và độc giả. Xã hội tồn tại qua những tác động của nó tới nhà
văn, tồn tại trong nội dung phản ánh, trong phương thức biểu đạt của tác phẩm, tồn
tại sau văn bản bởi sự đọc. Như thế, mối quan tâm của xã hội học văn học không
nằm ngoài mối quan tâm của phê bình văn học nói chung khác chăng chính là quan
điểm tiếp cận vấn đề của xã hội học văn học. Một điểm cần chú ý nữa là, ngay trong
xã hội học văn học, mối quan hệ xã hội - văn học lại được xác định và phân tích
cũng không hoàn toàn giống nhau. Đó là lý do của sự phong phú của các hướng
nghiên cứu trong xã hội học văn học. Tựu chung, có thể khái quát thành ba hướng
chính:
Hướng nghiên cứu thứ nhất: Coi trọng mối liên hệ xã hội - nhà văn - tác
phẩm. Theo cách phân chia của Norbert Fugen [56, 858] đó là quan điểm của các
nhà Mácxit. Tiếp cận từ quan điểm này thực tế là một khuynh hướng phê bình văn
học lấy xã hội và quan điểm lịch sử làm xuất phát điểm. Đây là hướng nghiên cứu
gắn liền với tên tuổi của các triết gia và trí thức dấn thân của thế kỷ 20 như
Plekhanov, G. Lucacs, L. Goldman, P. Macherey sau này là P. Bourdieu, G.P. Satre.
Hướng nghiên cứu văn học này dựa trên cơ sở các luận điểm triết học về mối quan
hệ giữa các thành tố trong cấu trúc xã hội. Mối quan hệ giữa nghệ thuật mà đại diện
là văn học và hệ tư tưởng, nhà văn và sự cam kết với xã hội, tác giả như là nhà sản
xuất, tác phẩm như là sự phản ánh xã hội…là các khía cạnh căn bản [55]. Trong đó,
hai hệ thống lý thuyết: Cấu trúc phát sinh của L. Goldman và lý thuyết Trường của
46
P. Bordieu hiện nay được các nhà nghiên cứu văn học Việt nam quan tâm nhiều hơn
cả. Đối tượng quan tâm của hướng nghiên cứu này theo đó chính là tác giả và hệ
thống tư tưởng hệ chi phối hoạt động sáng tạo và tác phẩm với nội dung phản ánh
của nó cho thấy đặc điểm cấu trúc của xã hội ra sao.
Hướng nghiên cứu thứ hai: Tiếp cận văn học từ quan điểm xã hội - ngôn ngữ
coi văn bản như là sự phản ánh xã hội trên cả hai bình diện nội dung và phương
thức phản ánh. Tiêu biểu là lý thuyết Xã hội học văn bản của P. V. Zima ra đời
những năm 70 của thế kỷ XX. Lấy điểm xuất phát từ quan điểm nghiên cứu về thể
loại của P.N.Mevedev: “Mỗi thể loại có một chức năng xã hội đặc thù và gắn kết
với lợi ích của các nhóm xã hội được biểu hiện trong tiến trình giao tiếp” và “thể
loại là một hình thức giao tiếp xã hội đặc thù”, thể loại chính là tổng thể những
phương thức của một cộng đồng định hướng sự tồn tại của mình trong hiện thực,
một sự định hướng hướng đến tính tổng thể” [191, 49], vận dụng các lý thuyết và
khái niệm của ngôn ngữ và ký hiệu học của Bakhtin, Mukarovxki, Greimas…, cùng
với tinh thần phê phán trong tư tưởng triết học Đức, P.V.Zima đã đề xuất một mô
hình nghiên cứu xã hội học về văn bản văn học mà ông gọi là “xã hội phê bình” hay
xã hội học về văn bản. Mục tiêu của xã hội phê bình của P.V.Zima là đi tìm câu trả
lời cho câu hỏi “về việc văn chương đã phản ứng lại như thế nào ở cấp độ ngôn ngữ
các vấn đề xã hội và lịch sử” [191, 148]. Ở đây văn bản được xem xét như một hệ
thống cấu trúc xã hội. Mỗi cấp độ của văn bản đều mang bản chất xã hội nhất định.
Ông đã lần lượt chứng minh bản chất xã hội trong các cấp độ của văn bản như từ
vựng, cấu trúc ngữ nghĩa, trần thuật, diễn ngôn và đề xuất một xã hội học về văn
bản hướng tới mục tiêu mô tả tình thế xã hội - ngôn ngữ như là hình ảnh trong chiều
sâu của cấu trúc xã hội.
Hướng nghiên cứu thứ ba: tiếp cận văn học như một quá trình xã hội trong
đó đặc tính xã hội thể hiện ở việc thiết lập các giá trị cho văn học mà cụ thể chính là
hành động đọc. Hành động đọc biến sản phẩm được viết ra thành văn học, tác giả
thành nhà văn. Đại diện của trường phái nghiên cứu này là R. Escarpit. Ông là
người duy nhất coi văn học là cái đang đến hơn là những giá trị đã được định hình.
Những giá trị này sẽ được hình thành trong quá trình giao tiếp văn học giữa nhà văn
và độc giả với những đặc tính xã hội của họ mà không phải do sự áp đặt của bất cứ
47
cá nhân nào. Đây là những gợi ý rất lớn đối với chúng tôi trong việc triển khai
nghiên cứu tự truyện như một hiện tượng xã hội - văn học Việt Nam đương đại.
Qua những miêu tả sơ bộ trên có thể thấy xã hội học văn học là một hướng
nghiên cứu khá đa dạng. Dù cùng xuất phát từ một quan điểm về mối liên hệ giữa
văn học và xã hội song mỗi lý thuyết lại xác lập mối quan hệ ấy một cách khác nhau
tùy thuộc vào góc nhìn của mình. Nếu như L. Goldman coi xã hội như một tổng thể
mà hình ảnh của nó được khúc xạ qua một cấu trúc phát sinh, đó là tác phẩm văn
học, P. Bordieu coi xã hội như một không gian ở đó diễn ra các cuộc tranh đấu giữa
các tác nhân để nắm giữ vị thế và thiết lập vị trí trong trường văn học nói riêng và
trường xã hội nói chung, P. V. Zima xuất phát từ chính mối quan hệ giữa xã hội -
ngôn ngữ, coi văn bản là cuộc đối thoại của các tầng lớp xã hội, ông bóc tách từng
lớp cấu trúc của văn bản để làm lộ ra hạt nhân xã hội của nó, đó là tình thế xã hội -
ngôn ngữ, thì R. Escarpit lại coi sách là một phương tiện vật chất cụ thể của văn học
để thực hiện hoạt động giao lưu giữa tác giả và người đọc. Mỗi hệ thống lý thuyết
đều mở ra những khả năng tư duy về văn học, mở ra những con đường khám phá
văn học bên cạnh các tiếp cận truyền thống. Đối với việc nghiên cứu một hiện
tượng văn học cụ thể, vận dụng lý thuyết nghiên cứu nào là tùy thuộc vào quan
niệm về đối tượng và mục đích của người nghiên cứu. Như nhà nghiên cứu Lộc
Phương Thủy nhận xét, đây là một góc nhìn “hứa hẹn những tiềm năng”, “cung cấp
thêm những tiếng nói nhiều chiều và đa dạng trong đời sống học thuật hiện nay ở
Việt Nam.” [178, 28]
2.2.2. Các khía cạnh nghiên cứu xã hội học về tự truyện Việt Nam đương đại
Truyền thống của xã hội học văn học luôn quan sát hiện tượng văn học từ
mối quan hệ qua lại giữa nó với đời sống xã hội. Xem xét tác động của xã hội lên
văn học và đặc biệt là tác động của văn học lên xã hội, trong đó sự xem xét từng
yếu tố của quá trình văn học như: bối cảnh, nhà văn, tác phẩm, người đọc đều mang
đến những lý giải thú vị đối với văn học.
Như đã trình bày ở trên (mục 2.1), tự truyện vừa mang những đặc trưng thể
loại vừa mang những đặc trưng gắn với một bối cảnh xã hội nhất định. Ranh giới
của tự truyện vì thế cũng mở rộng từ phạm vi văn học đến phạm vi đời sống. Vì
vậy, một quan sát về tự truyện giới hạn ở một trong hai phạm vi đều khó có thể bao
48
quát toàn bộ thực tại sinh động của thể loại. Hơn nữa, tính sản phẩm xã hội của tự
truyện luôn đặt ra vấn đề phải nghiên cứu nó trong “hoàn cảnh lịch sử khi nó ra đời
và khi nó được tiếp nhận” [178,115]. Vì vậy, các khía cạnh xã hội học về tự truyện
mà chúng tôi quan sát sẽ bao gồm:
- Bối cảnh xã hội văn hóa và những điều kiện tự truyện
- Tác giả và hành vi tự truyện
- Hoạt động tiếp nhận tự truyện
2.2.2.1. Bối cảnh xã hội văn hóa và những điều kiện tự truyện
Bối cảnh theo từ điển Tiếng Việt, là những điều kiện hay hoàn cảnh mà ở đó
diễn ra các hoạt động nhất định. Với ý nghĩa này, bối cảnh xã hội của tự truyện sẽ
gắn liền với những điều kiện xã hội nảy sinh và phát triển của nó. Trong lý thuyết
Trường của của P. Bourdieu, khái niệm không gian các khả năng có thể được hiểu
vừa rộng hơn song cũng vừa hẹp hơn khái niệm bối cảnh. Ông mô tả: “Trong các
trường sản xuất văn hóa, các nhà sản xuất văn hóa có một không gian các khả năng
có thể, không gian này định hướng cho các nghiên cứu và sáng tác của họ bằng việc
định nghĩa một thế giới các vấn đề, các kinh điển, các điểm mốc tinh thần, các khái
niệm bắt đầu bằng “chủ nghĩa”, nói tóm lại, thế giới này là cả một bản đồ hệ thống
tọa độ mà mỗi người luôn phải mang theo để tham khảo thì mới có thể tham gia vào
sản xuất văn hóa” [178,120] cách hiểu này gần khái niệm bối cảnh ở chỗ chúng
được hiểu như những điều kiện của hoạt động sản xuất văn hóa nhưng hẹp hơn ở
chỗ chúng được cụ thể hóa thành những vấn đề, các chuẩn mực, có giá trị định
hướng đối với hoạt động sản xuất văn hóa. Chúng lại tồn tại khách quan và không
phải bất cứ chủ thể nào cũng ý thức được sự tồn tại đó. Tuy nhiên ở đây ông đặc
biệt coi trọng vai trò chủ động của chủ thể sáng tạo trong việc nắm giữ các cơ hội
do các điều kiện đó tạo thành
Xem xét tự truyện từ phạm vi bối cảnh này, chúng tôi hướng tới việc xác
định những đặc điểm xã hội như là những điều kiện làm nảy sinh và phát triển nhu
cầu tự truyện. Chúng tác động tới tác giả - chủ thể tự truyện, tạo nên những động
lực tự truyện.
49
2.2.2.2.Tác giả và sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện
Tác giả, ở ý nghĩa chung nhất, “chỉ người sản xuất các sản phẩm của sáng
tạo trí tuệ (khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật). Tính đặc thù của dạng lao
động này là cơ sở cho việc đề xuất các quy phạm pháp luật về quyền tác giả” [134,
1582]. Tác giả văn học phân biệt với tác giả nói chung ở giới hạn sáng tạo là nghệ
thuật ngôn từ. Đặc biệt, theo quan niệm xã hội học, tác giả văn học chỉ trở thành
nhà văn khi họ tham gia vào quá trình giao lưu văn học, tác phẩm của họ được đọc
và được phản hồi (sự phản hồi này có thể diễn ra nhanh, chậm, theo chu kỳ hoặc
không theo chu kỳ, có thể với những cách thức khác nhau như phê bình, giới thiệu,
đọc lại, tái tạo…).
Tác giả tự truyện là sự giới hạn tác giả trong phạm vi thể loại tự truyện, để
chỉ những người viết nên những văn bản tự truyện. Tác giả tự truyện tham gia vào
quá trình giao lưu văn học với tư cách là chủ thể của hành động giao tiếp. Đó là một
hành động xã hội. Theo định nghĩa của M. Weber, hành động xã hội “là một hành vi
mà chủ thể gắn cho nó những ý nghĩa chủ quan nhất định. Ông nhấn mạnh đến động
cơ bên trong của chủ thể như là nguyên nhân của hành động. Do vậy, có thể nghiên
cứu được các yếu tố chủ quan thúc đẩy hành động [36, 130]. Các yếu tố chủ quan
ấy thể hiện nhu cầu và động cơ của hành động. Chủ thể trong quá trình hành động
sẽ tùy thuộc vào đặc điểm của hoàn cảnh để thiết lập cho mình cách thức phù hợp
nhất nhằm đạt mục đích. Quan điểm của của M. Weber về hành động xã hội cho
thấy sự chủ động, tích cực của chủ thể đối lập với cái nhìn coi con người như là đối
tượng bị kiểm soát bởi các cấu trúc xã hội của E. Durkheim (1858 - 1917).
Soi chiếu lên tự truyện có thể thấy, hành vi tự truyện là hành vi bộc lộ cá
nhân, được chủ thể ý thức và thực hiện dựa trên những định hướng giá trị của bản
thân, là những yếu tố chủ quan trong mối tương quan với các giá trị xã hội, chúng
tạo nên động cơ thúc đẩy hành động. Vì thế, trong tự truyện, bao giờ chủ thể cũng
soi chiếu hành động của mình trong hai hệ giá trị: giá trị thuộc cá nhân và giá trị
thuộc về xã hội. Cá nhân quan sát lương tâm mình bằng hai thước đo: thước đo cá
nhân và thước đo xã hội. Ví dụ, Mở đầu Tự thú, thánh Augustin viết: “Khi tôi được
16, cuộc đời tôi đến một khúc quanh. Bạn bè tôi đã thấy tôi có nguy cơ trở thành kẻ
50
vô luân, nhưng thay vì khuyến cáo tôi, hay nói về hôn nhân như một giải quyết hợp
lý, thì họ chỉ lo cho tôi trở thành nhà hùng biện, giàu có và danh tiếng” [6]
Mở đầu này đã xác định hai góc nhìn thể hiện hai định hướng giá trị khác
biệt nhau: “bạn bè tôi thấy tôi có nguy cơ và họ chỉ lo cho tôi trở thành…” và tôi
với những ý định không đồng nhất với họ, đặc biệt là ý định và đánh giá của “tôi”
tại thời điểm viết tự thú. Như vậy, luôn luôn ngay từ mở đầu hành động tự truyện đã
hàm chứa những nhận thức về bản thân không hoàn toàn đồng nhất với xã hội và
các chuẩn mực. Và việc tác giả tự truyện thực chất chính là sự đấu tranh để khẳng
định những giá trị cá nhân. Cũng tương tự như vậy, J.J.Rousseau trong lời đề từ cho
phần Một tác phẩm Những lời bộc bạch, ông viết: “Đây là bức chân dung duy nhất
về con người, được miêu tả đúng chân tướng và hoàn toàn thành thực, hiện có và
chắc sẽ không bao giờ có” [151, 21] và ông mong muốn xã hội: “Xin đừng hủy hoại
một công trình độc nhất vô nhị và hữu ích (…) và xin đừng tước đi của một người
đã qua đời vật lưu niệm chắc chắn duy nhất về tính cách của tôi” [151, 21] bởi
chính tác giả cũng hiểu rằng, sự thành thực không hẳn đã được chấp nhận. Nỗ lực
mong muốn được chấp nhận thể hiện rõ tính chủ quan của hành động tự truyện. Xét
về mối quan hệ giữa chủ thể và xã hội, điều đó khẳng định ý thức kháng cự của con
người đối với những định kiến, những ràng buộc trong việc viết về mình. Tất nhiên
điều đó là không hoàn toàn dễ dàng. Chính ông cũng đã quyết định Những lời bộc
bạch chỉ được in sau khi ông mất [151, 11].
Kết quả của hành động tự truyện là hình ảnh về bản thân của chủ thể. Khảo
sát sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện, chúng tôi quan tâm tới cách mà chủ thể bộc lộ
mình bởi đó là sự biểu hiện đầy đủ nhất sự khẳng định ý thức cá nhân trước những
quy ước và kiểm soát của xã hội. Những câu hỏi cụ thể được đặt ra là: Trong một
bối cảnh, trước những chế định của xã hội, chủ thể sẽ bộc lộ mình bằng cách thức
nào? Từ những phương diện nào? Theo chúng tôi, đó là hình ảnh trung thực nhất
trong chiều sâu của mối quan hệ cá nhân - xã hội.
2.2.2.3. Hoạt động tiếp nhận tự truyện.
Hoạt động tiếp nhận, từ góc độ xã hội học, là một quá trình mà nhờ đó, văn
bản trở thành văn học, theo G.P. Satre, “Văn học là một con quay kỳ lạ chỉ tồn tại
trong chuyển động mà thôi. Để làm cho nó diễn ra phải có một hành động cụ thể
51
gọi là sự đọc” [178, 384, dt], chính vì thế, nghiên cứu hoạt động tiếp nhận là nghiên
cứu quá trình đọc của độc giả. Hiểu một cách rộng rãi nhất,“Tiếp nhận văn học là sự
tiếp xúc và tri nhận của người đọc đối với một hiện tượng văn học, chủ yếu là tác
phẩm” [145, 187], Từ điển thuật ngữ văn học (2007) giải thích: “Hoạt động chiếm
lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ ngôn
từ, hình tượng nghệ thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác
giả cho đến sản phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng
trong hoạt động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể…” [69, 325]. Như thế, tiếp nhận văn
học ở đây diễn ra với nhiều mức độ khác nhau, từ mức độ ban đầu với những ấn
tượng ngôn từ cho đến sự tiếp nhận theo dạng chuyển thể hoặc phóng tác, từ những
cảm xúc thẩm mĩ đến những ấn tượng về một con người, một giá trị…Tuy vậy, tiếp
nhận diễn ra không chỉ ở phạm vi cá nhân mà còn thuộc phạm vi xã hội. Tính chất
xã hội biểu hiện ở chỗ trước khi đến với một người đọc cụ thể, nó đã trải qua một sự
sàng lọc nhất định, đó là sự đọc thông qua hoạt động xuất bản.
Xuất bản, theo quan niệm của R. Escarpit trong công trình Văn học và xã
hội, là việc đưa một hiện tượng thuộc về cá nhân vào đời sống xã hội, hay nói cụ
thể hơn, là đưa một văn bản vào thế giới đích thực của nó; “xuất bản tác động tới
độc giả bằng việc gây ra các thói quen, các nhu cầu. Các thói quen này biểu hiện
dưới các dạng như mốt thời thượng hay sự hâm mộ nhất thời đối với một tác giả,
một xu hướng nhất định” [178, 370].
Thêm nữa, khi hoạt động diễn giải được diễn ra, thì cùng lúc có sự tham gia
của một Cộng đồng diễn giải với các mô hình diễn giải khác nhau tùy thuộc vào đặc
điểm của nhóm xã hội mà người đọc đó thuộc về. Trong bài viết Những giới hạn
của cộng đồng diễn giải, nhà nghiên cứu Trương Đăng Dung sau khi nêu quan điểm
về sự tồn tại của một cộng đồng diễn giải của Stanley Fish (1980) rằng: “Cộng đồng
diễn giải chứ không phải văn bản hay người đọc tạo nên các nghĩa của văn bản”
[38] ông giải thích: Tức là các nghĩa này được hình thành với dấu ấn của một thiết
chế cộng đồng. Sự tương đồng ý kiến của các thành viên trong một cộng đồng cho
thấy uy thế của cộng đồng diễn giải đã tạo ra những yếu tố làm cho các thành viên
của cộng đồng trong cùng một thời gian có thể đồng ý kiến” [38]. Để lý giải tại sao
Stanley Fish khẳng định như vậy, ông viết: “Có thể Stanley Fish cho rằng nếu ai đó
52
chuẩn bị diễn giải một văn bản văn học thì người đó phải thuộc về một cộng đồng
diễn giải nhất định. Những giá trị và cách đánh giá, diễn giải của một cộng đồng là
những yếu tố ít nhiều chi phối sự diễn giải đã xác lập của mỗi cá nhân thuộc về
cộng đồng đó. Cá nhân phải tuân thủ những chuẩn mực mà cộng đồng quen dùng để
đo các giá trị” [38]. Cái nhìn này không khác quan điểm của xã hội học nói chung
về mối quan hệ con người và xã hội. Xã hội luôn tồn tại ngoài con người trong các
hệ thống và thiết chế, tồn tại bên trong con người với những định hướng giá trị được
thẩm thấu trong quá trình tham gia vào xã hội. Vì vậy, sự tồn tại của một cộng đồng
quy ước hoạt động diễn giải là điều cần được thừa nhận. Nhà nghiên cứu còn giải
thích sâu hơn: “Chúng tôi nghĩ rằng, ở đây Stanley Fish muốn nhấn mạnh đến
quyền lực của Cộng đồng diễn giải, thứ quyền lực có sức mạnh tập hợp và tạo nên
sự thống nhất ý kiến giữa các thành viên của cộng đồng trong việc diễn giải văn bản
văn học” [38]. Đối với nhà nghiên cứu, quan điểm của Stanley Fish vừa mở ra
nhiều vấn đề về sự đọc vừa bộc lộ những giới hạn nhất định. Tuy nhiên, đối với
chúng tôi, những luận điểm này mở ra một khả năng khảo sát hoạt động diễn giải tự
truyện bằng phương pháp xã hội học với các thống kê và sự phân tích các mô hình
diễn giải cụ thể, từ đó có thể nhìn thấy được bản chất xã hội của hoạt động tiếp
nhận, thấy được những tác động của nó tới hành động tự truyện.
Một điểm cần lưu ý là, cũng như hành động tự truyện, chủ thể tiếp nhận bên
cạnh sự áp đặt của thiết chế xuất bản và các cộng đồng diễn giải, vẫn bộc lộ trong
phạm vi nhất định tính chủ quan của mình. Họ sẽ có thể thỏa hiệp song cũng có thể
thiết lập những nhu cầu riêng, phá vỡ những khuôn khổ và đề xuất những giá trị
mới, tạo nên những chuẩn mực mới đối với sự tiếp nhận thể loại.
Như vậy, nghiên cứu xã hội học về tự truyện là cái nhìn coi nó vừa như một
thể loại, vừa như một quá trình xã hội mà chu trình của nó bắt đầu từ những điều
kiện làm nảy sinh nhu cầu tự truyện, hoạt động tự truyện của tác giả và cuối cùng
hoàn tất ở quá trình tiếp nhận. Những tương tác giữa chúng cho thấy mối quan hệ
giữa đời sống xã hội với sự nảy sinh và phát triển của một thể loại.
53
2.3. Những chặng đường của tự truyện Việt Nam
2.3.1. Khái quát về tự truyện ở Việt Nam đầu thế kỷ XX
Ý thức bộc lộ bản thân trong văn học Việt Nam không phải đợi đến tận đầu
thế kỷ mới xuất hiện mà thực tế đã thành hình từ trong những tiếng tự tình của
những tâm hồn không chịu sự trói buộc của hoàn cảnh trong thơ Hồ Xuân Hương,
trong nỗi lòng riêng tư của Phạm Thái trong Sơ Kính tân trang thế kỷ XVIII. Khi
nữ sĩ họ Hồ bộc bạch tâm sự: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ mảnh tình san sẻ tí con
con” hay “ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/ chém cha cái kiếp lấy chồng chung” thì
những câu chuyện về bản thân bắt đầu có chỗ đứng. Tuy nhiên, những tiếng nói ấy
chỉ như là những âm thanh lạc lõng trong một bầu không khí mà “cho đến cả những
yêu, ghét, buồn, vui cơ hồ cũng nằm yên trong những khuôn khổ nhất định. Khi
luồng gió Âu Tây tràn tới, khi nó đi qua những tiếp nhận hình thức và tư tưởng ban
đầu mà bắt đầu làm thay đổi cách ta vận động tư tưởng, tất nó sẽ thay đổi cái nhịp
rung cảm của ta nữa” [170, 17]. Những hình thức mới của cuộc đời, những tư tưởng
mới và nhất là ảnh hưởng của văn học Pháp ngày một thấm thía thì những sự bộc
bạch bản thân mới có một chỗ đứng thực sự. Đặc biệt là khi sự bộc bạch ấy tìm
được cho mình một hình thức biểu đạt: tự truyện.
Tác phẩm tự truyện đầu tiên với đầy đủ các dấu hiệu thể loại trong văn học
Việt Nam, theo chúng tôi, đó là Giấc mộng lớn của Tản Đà viết năm 1929 và các
sáng tác có tính chất tự truyện của Phan Bội Châu như: Ngục trung thư (1914), Dư
ngu sám (1918), Những năm Mão trong đời tôi và Những cái tết tha hương (1939)
và Phan Bội Châu niên biểu (1929). Trong giai đoạn nở rộ của các thể loại văn
học, tự truyện xuất hiện dưới hai hình thức: hồi ký ( Cai của Vũ Bằng, Mực mài
nước mắt của Lan Khai) và tiểu thuyết (Dã tràng của Thiết Can, Những ngày thơ ấu
của Nguyên Hồng, Sống mòn của Nam Cao, Sống nhờ của Mạnh Phú Tư…). Đặc
trưng nổi bật của tự truyện giai đoạn này là ý thức bộc lộ cái tôi tâm lý, cái tôi đạo
đức khá mãnh liệt. Những yêu ghét, buồn vui, đau khổ, những tự trào về tính cách
và con người mình đều được nói đến một cách tự nhiên.
Trong Giấc mộng lớn, Tản Đà kể về cuộc đời mình từ khi lên năm cho đến
khi ba sáu tuổi. Những thành công và thất bại, cá tính, khát vọng, thành bại trên
đường đời…đều hiện ra theo từng sự kiện và thời gian. Trong lời tựa, ông lý giải về
54
việc viết của mình: “giấc mộng lớn chép để làm gì? Giấc mộng con chép, thời sao
giấc mộng lớn lại không chép. Nghĩ như người ta sinh ra đời, không ai dễ có mấy
thân nên mình yêu mình là cái tình chung của nhân loại. Một cái tình yêu đó, không
cứ đẹp hay xấu, hay hay dở mà yêu thời cứ yêu. Bởi thế cho nên phóng truyền thần,
đời càng văn minh thời cái cách yêu mình càng tiến bộ…” [45, 602] như là việc
công khai hóa con người mình, khẳng định bản sắc mình giữa cuộc đời. Điều đó chỉ
có thể có được ở một tinh thần tự ý thức mạnh mẽ bản thân của một nhân cách đầy
tự tin. Song cho dẫu thế, để khẳng định thể loại, cái tên “giấc mộng” vẫn gợi sự
mập mờ: viết về mình (kỷ thực) hay là tiểu thuyết. Và tác giả chọn câu trả lời: thôi
thời kỷ thực hay tiểu thuyết, tự độc giả muốn cho ra sao thời là sao. Tác giả chỉ cứ
theo sự chiêm bao mà tùy ý chép ra, không có mạch lạc, không có quy tắc, không kể
việc khinh việc trọng, không hiềm cái dở cái hay, muốn lược thời lược, muốn tường
thời tường, chẳng qua là một cuốn văn chơi, tưởng cũng không quan hệ đến những
phẩm bình của các bực đại nhã cao nhân vậy” [45, 602] Như thế, lý do của việc viết
không ngoài việc yêu mình, muốn thể hiện mình. Điều đó khác hẳn với việc dùng
văn chương để bày tỏ chí lớn, hay để giáo dục con người theo quan niệm văn
chương thời trước. Với Tản Đà, Giấc mộng lớn chỉ đơn thuần là một sự bày tỏ bản
thân với những người yêu mình.
Trong Giấc mộng lớn, Tản Đà đã kể về mình từ cái nhìn của hiện tại và
hướng tới lý giải tính cách hiện tại của bản thân. Với ngôi kể chuyện “mình”, Giấc
mộng lớn được dựng lại bằng những sự kiện từ khi còn bé, lúc lên năm tuổi cho đến
tuổi trưởng thành với tất cả những thành công và thất bại trên con đường khoa cử
học hành và kiếm sống. Người kể chuyện xưng “mình” như là câu chuyện kể cho
mình: “Năm mình lên năm tuổi, tức là năm Thành Thái thứ năm, ở Nam Định vỡ
lòng học chữ Hán. Khi ấy đi học, còn có người cõng, về nhà chỉ thích chơi chuồn
chuồn…” [45, 603] Cả quãng đời thiếu niên được kể lướt nhanh với các một vài sự
kiện “ thích học quyển Ấu học ngũ ngôn thi và lý giải cái bệnh đa tình, cái bệnh mê
khoa cử. Song đường tình duyên không được kể đến nhiều ngoài mối tình đầu tiên
khi mười chín tuổi và những thói đa tình, đa mang. Đường khoa cử thì nhiều phen
lận đận. Hai lần thi hỏng mới chuyển sang học các sách ngoài khoa cử, sách của
Trung Quốc dịch của người Thái Tây. Các chuyện đi chơi, chuyện lập An Nam tạp
55
chí và nợ nần chồng chất. Ông tổng kết: “Làm An Nam tạp chí mười tháng giời,
đáng ra phải có hai mươi số, sự thực chỉ có mười số, tiêu hại tiền của xã hội cũng đã
lắm, rút lại không có công trạng gì (…) và “Mỗi một phen ra đời lại một phen thất
bại. Đầu tóc lại bạc thêm”, “Hơn mười năm bút sắt, bút lông, giấy mực chẳng ích gì
cho xã hội/ Trải ba xứ đường xe đường bể, trụi râu mày còn thẹn với giang sơn”
[45, 656]
Đó là cái nhìn vừa thành thực nhưng cũng đầy ngạo nghễ của một chủ thể tự
ý thức trong văn học Việt Nam buổi đầu.
Như thế, ở đầu thế kỷ, với tư cách là kể một câu chuyện về mình, Tản Đà đã
viết một tự truyện đích thực. Ở đó, bằng một cái nhìn nội quan, ông đã trình bày bản
thân mình với một ý thức đầy đủ nhất. Ký ức tuổi thơ, thói tật, cá tính, những thất
bại trong cuộc đời, sự nghiệp văn chương…nghĩa là tất cả những gì thuộc về cá
nhân nhà văn đều ít nhiều được tỏ bày trên trang giấy. Ngay cả mục đích viết tự
truyện của Tản Đà cũng được lý giải hết sức tự nhiên: “mình yêu mình là cái tình
chung của nhân loại” và văn chương là cái để báo đáp tấm lòng yêu của nhân loại
với mình “lại giả hoặc trăm nghìn năm sau nữa, ai yêu ta, ta chẳng được yêu cùng,
thời ai yêu ta cũng ơn lòng, lấy chi báo đáp tấm lòng ai yêu” [45, 602] Có lẽ, Tản
Đà là người đầu tiên dám công khai khẳng định quyền được nói về cái tôi của mình
một cách hoàn toàn trực tiếp. Đặc biệt, nó được coi là một tiếng lòng nhiều hơn là
một bài học cuộc đời.
Đặc điểm này được tiếp nối trong tinh thần của tự truyện những năm 1940
với Cai của Vũ Bằng, Dã tràng của Thiết Can, Mực mài nước mắt của Lan
Khai…toàn bộ chân dung một cá thể người được trình diện một cách thẳng thắn. Có
lẽ ý thức tự trào trong văn hóa truyền thống đã tạo ra sự thành thật này. Trong Cai
của Vũ Bằng, toàn bộ công cuộc cai thuốc phiện, những lời nói dối, hình ảnh tệ hại
của bản thân, sự sa sút về nhân cách của chính mình được tác giả kể lại một cách
không ngần ngại. Điều đó tạo nên đặc thù của tự truyện. Trong tên loại tác phẩm,
Cai được gọi là hồi ký song thực sự đây là một tự truyện đúng nghĩa.
Tình hình cũng tương tự với Dã tràng của Thiết Can. Lời đề từ tiểu thuyết là
một sự xác nhận tính chất sám hối, một dấu ấn đặc biệt của tự truyện.
“Tôi có một người cô.
56
Cô tôi đã chết rồi
Tôi chỉ biết thương người sau khi người đã chết…” [20, 1]
Dù mục đích của tự truyện là “nhớ đến cô, đứa cháu bất hiếu cố công viết
thiên lịch sử này, lịch sử một đời khổ hạnh của cô, lịch sử của hết thảy những bậc
gái già đáng kính và đáng thương của xã hội Việt Nam cũ” [20, 1] mà không phải
kể về mình một cách ngạo nghễ như Tản Đà thì tính chất tự truyện trong Dã tràng
cũng vẫn hết sức đậm nét. Bởi vì, toàn bộ con người của Thiết Can, một anh chàng
lêu lổng, ăn bám, cái tính hạch sách và nỗi niềm ân hận, thương cảm của ông với
người cô ruột thịt hiện ra trực tiếp trong từng trang truyện. Người đọc không khó
khăn khi đối chiếu điều ấy với chính cuộc đời ông. Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan
cũng đã kết luận đó là tự truyện. Đặc biệt, tính chất tự truyện còn ở sự thú tội của
chính nhân vật, ở sự thành thật, ở cái tên Đông (đối lập với Xuân - tên của Thiết
Can) [143, 290] Cùng với Thiết Can, Nguyên Hồng, Mạnh Phú Tư, cũng viết về
cuộc đời thơ ấu của mình dưới ánh sáng của tinh thần tự truyện như vậy. Họ chính
là những người góp phần làm nên một dòng chảy mới trong văn học Việt Nam:
dòng tự truyện. Bắt nguồn từ tinh thần tự do và tự tôn của Tản Đà để đi tới những
phạm vi biểu đạt mới sâu sắc hơn song cũng chính vì thế mà sẽ đối diện với nhiều
định kiến xã hội hơn. Đó là lý do vì sao, hầu hết các tự truyện giai đoạn này đều
mang danh tiểu thuyết (và tình trạng mang danh tiểu thuyết tiếp tục lặp lại cho đến
tận sau này).
Như vậy, mặc dù mới chỉ xuất hiện từ đầu thế kỷ song tự truyện đã khẳng định
được chỗ đứng của mình trong hệ thống thể loại. Tinh thần tự truyện, phương thức tự
truyện ngay ở giai đoạn này đã được hoàn thiện. Có một đặc biệt là, đội ngũ tự truyện
giai đoạn này chủ yếu là các nhà văn, những người sáng tác chuyên nghiệp, ít thấy
xuất hiện các chủ thể khác. Phải chăng họ chính là những người tiếp nhận sớm nhất,
đầy đủ nhất tinh thần tự do của chủ nghĩa cá nhân hiện đại phương Tây?
2.3.2. Tự truyện Việt Nam đương đại
Sau cách mạng tháng Tám, đất nước bước vào hai cuộc chiến tranh. Mục tiêu
độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là mục tiêu hàng đầu. Con người cá nhân tạm
thời lùi lại nhường chỗ cho con người tập thể, cộng đồng. Phần riêng tư được giấu
đi để nhường chỗ cho mục tiêu chung là độc lập, thống nhất đât nước. Đó là lý do vì
57
sao suốt những năm này, tự truyện không được lựa chọn. Tuy nhiên, chỉ ngay sau hòa
bình, đặc biệt là từ sau 1986, con người bắt đầu đối diện với sự tồn tại của chính mình
tự truyện bắt đầu xuất hiện trở lại. Song thời gian đầu khá chậm chạp và đầy vẻ thăm
dò. Bằng chứng là số lượng tự truyện xuất hiện trong 10 năm từ 1986 đến 1996 chỉ
tính trên đầu ngón tay. Bước sang đầu thế kỷ 21, tự truyện mới phát triển sôi nổi. Sở
dĩ như vậy là vì, một mặt, nó chịu ảnh hưởng trực tiếp của không khí văn học với
phong trào nói thẳng, nói thật thời kỳ đầu đổi mới và một mặt khác, là kết quả của
những biến đổi trong nhận thức xã hội về con người cá nhân trong quá trình dân chủ
hóa, hội nhập và toàn cầu hóa. Điều này khiến tự truyện chia thành thành hai giai
đoạn phát triển khá rõ: từ 1986 đến hết thế kỷ 20 và hơn mười năm đầu thế kỷ 21.
Mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng mang tính lịch sử nhất định.
Từ 1986 đến hết thế kỷ 20, tự truyện chỉ xuất hiện một cách dè dặt. Chủ yếu
được viết bởi các nhà văn, gắn liền với phong trào đổi mới văn học lúc bấy giờ. Và
vì thế, dấu ấn văn học hiện diện khá rõ trong cả nội dung và hình thức. Đó là: Miền
thơ ấu của Vũ Thư Hiên, Tuổi thơ im lặng của Duy Khán, Cát bụi chân ai, Chiều
chiều của Tô Hoài, Tuổi thơ dữ dội của Phùng Quán. Sở dĩ chúng được coi là những
tự truyện bởi thay vì sự phản ánh hiện thực của người khác, giờ đây các nhà văn trở
về với hiện thực của bản thân mình, kể về những kỷ niệm, những ký ức và trải
nghiệm của chính mình, lấy bản thân làm đối tượng của sự miêu tả. Những chi tiết
của tiểu sử nhà văn được đưa vào trang viết một các đậm đặc khiến cho sự đồng
nhất giữa tác giả và nhân vật trở nên dễ dàng hơn. Ở những tác phẩm như Cát bụi
chân ai và Chiều chiều, chất tự truyện còn nổi bật hơn bởi cùng với sự hiện diện
của tác giả qua nhân vật tôi, những sự kiện có thật, những cuộc đời có thật mà nhà
văn trong hành trình sống và viết của mình kể lại một cách chi tiết. Lối viết phi hư
cấu khá đậm nét làm cho tính chất tự truyện thêm rõ ràng.
Một đặc điểm làm nên gương mặt của tự truyện những năm cuối của thế kỷ
20 là sự lựa chọn đề tài viết về ký ức tuổi thơ và về những sự thật khuất lấp trong
đời sống xã hội. Miền thơ ấu kể về quãng thời gian tác giả khi còn là một cậu bé 12
tuổi rời cha mẹ ở thành phố về sống cùng với một người cô tại một làng quê xứ đạo.
Lối sống nông thôn, những luật lệ khắt khe và tình yêu thương, những kỷ niệm vui
buồn được tái hiện bởi một giọng điệu hoài niệm trong sáng, chân thật khiến câu
58
chuyện trở thành một cuốn hồi ức đẹp đẽ về tuổi thơ. Cùng đề tài này nhưng Tuổi
thơ im lặng của Duy Khán lại là sự tập hợp những câu chuyện nhỏ, mỗi câu chuyện
là một sự kiện, một kỷ niệm thời thơ ấu sống nơi thôn xóm cùng với những cô dì
chú bác họ hàng…Câu chuyện hết sức mộc mạc, giản dị, lối viết phi hư cấu mang
lại vẻ tự nhiên, hấp dẫn người đọc. Cả hai tác phẩm đều là những cuốn sách hay
trong tủ sách vàng dành cho thiếu nhi của nhà xuất bản Kim Đồng, được tái bản liên
tục những năm gần đây.
Đề tài về những sự thật khuất lấp luôn là đề tài bị cấm kỵ của văn học. Song
với Tô Hoài trong Cát bụi chân ai và Chiều chiều, chúng lại trở thành vùng đất khá
tự do. Lấy toàn bộ những trải nghiệm của mình làm không gian cho câu chuyện, Tô
Hoài kể về những sự thật khuất lấp trong đời sống văn nghệ Việt Nam sau Cách
mạng tháng Tám và sau Hòa bình giống như một sự nhìn lại, đặt chúng trong mối
quan hệ với thân phận cá nhân để đánh giá, nhận xét, ông đã chạm đến những ẩn ức
của nhiều số phận nhà văn như Nguyên Hồng, Đặng Đình Hưng, Trần Dần và cả
Nguyễn Tuân…mà hầu như ít người được biết và được viết. Đặc biệt là sự thật về
Cải cách ruộng đất với những sai lầm và ấu trĩ của nó, sự tàn phá của nó đối với con
người và xã hội được ông kể lại trong cái nhìn của người trong cuộc vì thế, vừa
chân thành song cũng đầy ý thức phê phán. Có những sự thật ông kể được chấp
nhận song cũng có những sự thật không được chấp nhận. Ví dụ phần kể về khóa học
ở trường Nguyễn Ái Quốc trong Chiều chiều bị phê phán [49, 59,108] và vì thế, tác
phẩm bị thu hồi ngay sau khi phát hành và không được tái bản trong nhiều năm.
Theo Tô Hoài, về đề tài Cải cách ruộng đất, ông là người khách quan nhất, những
tác giả khác như Lê Minh Khuê hay Ngô Ngọc Bội đều là những người có những ẩn
ức riêng tư nên không tránh được những cảm xúc chủ quan [49, 58]
Về hình thức, tự truyện giai đoạn này luôn đậm đặc chất văn học. Cấu trúc
nghệ thuật mang chất tiểu thuyết hơn là tự truyện. Ngay với Chiều chiều của Tô
Hoài, dù được viết bằng văn phong phi hư cấu song về mặt cấu trúc, tác phẩm vẫn
là một “cấu trúc thứ cấp” của hồi ký hơn là một hồi ký thuần túy. Tính chất tự
truyện ở tác phẩm này lại không thể hiện trên bề mặt. Bởi thế, tự truyện thời kỳ này
thường được gọi với những cái tên kép: tự truyện - tiểu thuyết, tự truyện - hồi ký là
vì vậy.
59
Bước sang những năm đầu của thế kỷ XXI, bên cạnh bộ phận vẫn gắn bó
khăng khít với văn học, là một hướng đổi mới của văn học, tự truyện bắt đầu rẽ
sang một không gian khác, không gian của đời sống xã hội. Hành động viết về bản
thân từ đây không còn là đặc quyền của một nhóm người mà mở rộng tới nhiều
nhóm người. Không chỉ nhà văn, các nhà văn hóa lớn, các chính trị gia viết tự
truyện mà các diễn viên, nghệ sĩ, những nhân vật của không gian giải trí và truyền
thông, những doanh nhân, đặc biệt là những số phận bị lãng quên trong xã hội như
những nhóm đồng tính, người tật nguyền, người đang sống chung với những căn
bệnh hiểm nghèo, cũng tham gia tự truyện. Tất cả làm thành một đội ngũ tác giả
đông đảo với những sắc thái tự truyện riêng.
Nội dung tự truyện giai đoạn này, vì thế cũng trở nên phong phú hơn với
nhiều đề tài khác nhau.
Đề tài hướng tới những lý giải nhân cách cá nhân tác giả là một đề tài khá
quen thuộc của tự truyện. Nhiều nhà văn, nhà văn hóa lớn, đến tuổi tri thiên mệnh
đều viết tự truyện hoặc hồi ký như vậy. Tiêu biểu cho nhóm đề tài này là : Hồi ký
Nguyễn Hiến Lê, Tự truyện Nguyễn Khắc Viện, Những câu chuyện từ trái tim của
Trần Văn Khê, Tự truyện Nguyễn Đắc Xuân, …Ở các tự truyện này, nhân cách cá
nhân được mô tả như là kết quả của một quá trình lâu dài đi liền với những chặng
đường phát triển của lịch sử xã hội. Những đặc điểm bản thân từ nguồn gốc, quê
hương, gia đình, quá trình sống và làm việc, ý thức xã hội…được lý giải một cách tỉ
mỉ, logic với những đặc điểm của nhân cách người tự thuật. Sức hấp dẫn của tự
truyện là ở chỗ chúng không chỉ là những chân dung nhân cách, mà còn là những
bách khoa toàn thư về lịch sử, về con người, về một vùng đất hay thậm chí một tư
tưởng xã hội cụ thể.
Cũng lấy đề tài là sự lý giải nhân cách song lại thiên về tinh thần tự thú, đó
là các tự truyện: Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Yêu và sống của Lê Vân, Để
gió cuốn đi của ca sĩ Ái Vân, Đằng sau những nụ cười của ca sĩ Khánh Ly, Tâm
thành và Lộc đời của nghệ sĩ Thành Lộc… Lấy một đặc điểm của nhân cách mình,
ví như một cách ứng xử trong quá khứ (Thượng đế thì cười - Nguyễn Khải) làm đối
tượng phân tích, các chủ thể tập trung lý giải, phân tích đặc điểm nhân cách đó, lý
60
giải về nó như là một sự giải thích quá khứ, một sự trần tình giúp người đọc hiểu
hơn con người mình.
Những chấn thương tinh thần cũng là một đề tài được quan tâm của tự
truyện. Đối tượng được kể là những nỗi đau ký ức của chủ thể, chúng gắn liền với
những sự kiện mà tác giả đã trải qua như: li hôn, tù đày, chiến tranh và cái
chết…chúng trở thành những ám ảnh không nguôi đối với mỗi người mà việc viết
lại giống như là sự cân bằng, một sự giải thoát. Tiêu biểu cho nhóm tự truyện này
là: Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Một mình ở châu Âu, Xuyên Mỹ của
Phan Việt, Qúa trẻ để chết của Đinh Hằng. Trong đó, Chuyện kể năm 2000 được
viết như một tiểu thuyết nhưng người đọc không khó khăn để tìm thấy ở đó con
người nội tâm với những nếm trải, những đau đớn trùng khít với chính nhà văn Bùi
Ngọc Tấn trong và sau khi trở thành một tù nhân chính trị không án trên chính tổ
quốc mình. Những ám ảnh về nhà tù, cuộc sống tù đày, những cái chết của tù nhân
và đặc biệt là quá trình “hóa đá dần nỗi nhớ về thế giới bên kia” được viết lại bằng
một dòng ký ức nặng nề, dai dẳng và đầy ám ảnh. Hay trong Một mình ở châu Âu
và Xuyên Mỹ, sự khủng hoảng tâm lý sau li hôn của người phụ nữ và quá trình vượt
thoát khỏi trạng thái ấy là nội dung chính của câu chuyện. Cái hay của tự truyện này
là ở chỗ tác giả vừa tái hiện các trạng thái tâm lý của mình, vừa tự phân tích trạng
thái ấy bằng tất cả những kiến thức và hiểu biết với những dẫn chứng và lý thuyết
khoa học, những trải nghiệm văn hóa… nhằm tìm một lối ra, một sự giải thoát bản
thân khỏi tình trạng khủng hoảng. Câu chuyện trở thành một hành trình nội tâm đầy
ám ảnh.
Giới tính và tình dục cũng là nội dung khá nổi bật của tự truyện đương đại.
Vấn đề đồng giới, tình dục đồng giới, có lẽ đến thời điểm mà Bóng (Nguyễn Văn
Dũng), Không lạc loài (Thành Trung) xuất hiện chưa từng được chấp nhận trong
đời sống xã hội. Vì thế, tại thời điểm ra đời, năm 2008, chúng đã gây ra những tranh
cãi không hồi kết trong công chúng người đọc. Bóng, cũng như Không lạc loài đều
là những trang tự thú chân thành về giới tính và sự mong mỏi được thừa nhận của
gia đình và xã hội.
Một nội dung chiếm số lượng người viết đông đảo và được nhiều bạn đọc
đón nhận, là những câu chuyện vượt lên chính mình. Một cô gái tật nguyền quyết
61
tâm không đầu hàng số phận (Không gục ngã của nguyễn Bích Lan), một cô gái
hàng ngày hàng giờ chiến đấu với căn bệnh hiểm nghèo (Như hoa hướng dương của
Nguyễn Thị Diệu Thuần, Ở trọ trần gian, Khát vọng sống để yêu của Nguyễn Hồng
Công,…) hay hành trình vượt qua thử thách để trở lại cuộc sống của một nạn nhân
ma túy (Vĩnh biệt những ngày buồn của Lê Thế Kiên, Cuộc sống vẫn tiếp diễn của
Đồng Đức Thành) họ là những người viết không chuyên, viết câu chuyện đời mình
để tìm sự sẻ chia và đồng cảm. Câu chuyện của họ trở thành tấm gương về nghị lực
sống, là một cẩm nang sống cho nhiều người cùng cảnh ngộ.
Sự phong phú của đề tài cho thấy tự truyện là đang dần trở thành một thể loại
văn xuôi không thể thiếu của đời sống. Với đối tượng là con người cá nhân, mọi vấn
đề của con người đều có thể trở thành đề tài của tự truyện. Bởi vậy con đường đi
của tự truyện Việt Nam vẫn vô cùng rộng mở.
Về phương diện hình thức, như đã nói ở trên, tự truyện giai đoạn này có sự
phân hóa khá rõ trong cấu trúc tác phẩm. Chúng tạo thành hai xu hướng rõ rệt: một
thiên về tính tiểu thuyết, nhấn mạnh giá trị của hư cấu, đặc biệt là hư cấu tiểu
thuyết, có thể gọi là những tự truyện - tiểu thuyết như: Gia đình bé mọn (Dạ Ngân),
Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Chuyện kể năm 2000 (Bùi Ngọc Tấn), Một
mình một ngựa (Ma Văn Kháng), Tiền định (Đoàn Lê), Những hạt cát đời (Vũ
Hoàng Hoa)… và một hướng thiên về những hình thức phi hư cấu. Cùng với hình
thức tự truyện thuần túy như Yêu và sống (Lê Vân), Xuyên Mỹ (Phan Việt), Không
lạc loài (Thành Trung), Bóng (Nguyễn Văn Dũng), Không gục ngã (Nguyễn Bích
Lan), Như hoa hướng Dương (Nguyễn Thị Diệu Thuần) là các hình thức đan xen
thể loại mà việc phân định nó với hồi ký không hề dễ dàng như: Rễ bèo chân sóng
(Bão Vũ), Tự truyện (Nguyễn Đắc Xuân), Bầu trời không chỉ có màu xanh (Lý Qúy
Trung), Tự truyện Nguyễn Khắc Viện (Nguyễn Khắc Viện), Hồi ký Nguyễn Hiến Lê
(Nguyễn Hiến Lê), Cô bé nhìn mưa (Đặng Thị Hạnh), Cánh buồm nhỏ (Lê Minh),
Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào (Phùng Quán), Tự truyện Học Phi (Học Phi),
một tập hợp các mảnh đoạn tự truyện như Ba phút sự thật của Phùng Quán và khá
nhiều hồi ký được công bố qua phương tiện Internet, du ký như Quá trẻ để chết
(Đinh Hằng), nhật ký với Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế Hoàng Linh)…
62
Về đội ngũ tác giả, tự truyện không còn thuộc về quyền của các nhà văn,
những người nổi tiếng, hay các thế hệ đã có thể “nghiệm sinh cuộc sống” mà có thể
được viết bởi mọi người ở mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi, mọi địa vị xã hội khác nhau.
Có thể là một người có số phận bất hạnh đang cố gắng vươn lên trong cuộc sống (Ở
trọ trần gian, Khát vọng sống để yêu của Nguyễn Hồng Công), một người mẹ đang
nỗ lực chữa trị cho con mình khỏi căn bệnh nan y (Đưa con trở lại thiên đường của
Nguyễn Thị Phương Nga), một cá nhân bé nhỏ bị tật nguyền (Không gục ngã của
nguyễn Bích Lan), một phạm nhân kể về sự lầm lạc của mình (Chuyện đời tôi của
Vũ Hoàng Mai). Mục đích viết tự truyện vì thế, cũng không hoàn toàn giống nhau:
viết là để tổng kết lại một chặng đường đời, có thể là để nói về một sự thật, có thể
chỉ là để sẻ chia những cảm xúc, để lưu giữ lại thời gian, kỷ niệm, có thể vì mục
đích giáo dục…song chúng đều có chung một đặc điểm, đó là tính chất tự họa và
tính chất cá nhân luôn rõ nét.
Chưa bao giờ tự truyện Việt Nam phong phú và sôi nổi như những năm đầu
thế kỷ 21 này. Có lẽ sự trưởng thành của ý thức cá nhân trong văn học và trong đời
sống cùng với những tác động của toàn cầu hóa là yếu tố căn bản tạo ra bước phát
triển ấy. Tất nhiên, cùng với thời gian, những giá trị sẽ được kết tinh và trở thành
thành tựu của thể loại như quy luật mà các nhà xã hội học từng tin tưởng.
Tiểu kết:
Trong chương này, hai vấn đề lớn mà chúng tôi muốn làm rõ, đó là:
1.1. Xác định quan quan niệm về tự truyện và quan điểm nghiên cứu xã hội
học đối với tự truyện Việt Nam đương đại. Đó là việc coi tự truyện là một hình thức
văn xuôi rộng mở về cá nhân, không chỉ bao gồm những đặc trưng văn học mà còn
gồm những đặc tính xã hội gắn liền với bối cảnh lịch sử xã hội văn hóa tại thời điểm
mà nó được viết ra. Các khía cạnh khảo sát về tự truyện cũng không ngoài sự quan
tâm của xã hội học văn học đó là hai quá trình làm nên sự thực văn học của tự
truyện: quá trình tự truyện của tác giả biểu hiện ở việc bộc lộ bản thân và quá trình
tiếp nhận với hoạt động xuất bản, gương mặt công chúng và sự diễn giải. Sở dĩ như
vậy bởi vì, xét ở bản thân đối tượng nghiên cứu, tự truyện Việt Nam thực tế, mặc dù
đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XX song cho đến nay, vẫn đang trên đường hình thành
diện mạo mà chưa có được những kết tinh thể loại tiêu biểu. Thêm nữa, tự truyện,
63
cũng như các sản phẩm văn học, thực chất chỉ là kết quả của một loạt các lựa chọn
được tiến hành thông qua các tiêu chí xã hội, kinh tế và văn hóa mà nhà văn là
người thực thi ở khâu viết mà thôi.
1.2. Sở dĩ chúng tôi coi tự truyện Việt Nam như là một đối tượng để khảo sát
là vì bởi chính thực tại của thể loại. Tự truyện Việt Nam cho dù số lượng và thành
tựu còn khiêm tốn so với nhiều thể loại văn học khác song hành trình của nó là một
hành trình gắn liền với những thay đổi không nhỏ của ý thức xã hội. Hơn nữa, ở giai
đoạn hiện nay, trong bối cảnh đổi mới, hội nhập và toàn cầu hóa, đặc biệt là quá
trình xây dựng xã hội dân chủ, tinh thần tự truyện đã đi vào đời sống như một hành
động sống của các cá nhân. Mọi người, mọi thế hệ, mọi lứa tuổi, nghề nghiệp…đều
có thể viết về mình, về câu chuyện cuộc đời mình. Điều đó khẳng định một tâm thế
mới, một tinh thần mới của xã hội, tâm thế tự do của mỗi cá nhân. Tự truyện Việt
Nam mặc dù xuất hiện từ đầu thế kỷ nhưng chỉ đến giai đoạn này, sự phong phú của
đề tài và các hình thức cấu trúc mới thực sự xuất hiện. Nếu trước đây, chúng thường
nghiêng về những đề tài truyền thống như thời thơ ấu, quê hương, gia đình, những
tính cách cá nhân thì giờ đây, cùng với những đề tài này, các khía cạnh khác nhau
của cuộc sống con người đều được đề cập. Nếu trước đây, tự truyện chỉ bao gồm hai
dạng: tiểu thuyết và hồi ký thì giờ đây, sự pha trộn thể loại làm cho bên cạnh các
hình thức này là nhiều hình thức pha trộn khác như tự truyện - hồi ký, tự truyện -
nhật ký và các trang viết cá nhân. Hình thức tự truyện thuần túy với những đặc
trưng nổi bật theo định nghĩa của P. Lejeune như Yêu và sống của Lê Vân bắt đầu
xuất hiện và kích thích nhu cầu tiếp nhận của công chúng đối với thể loại. Tuy
nhiên những tác phẩm loại này còn khá dè dặt do gặp phải quá nhiều những phán
xét đạo đức. Điều đó cho thấy xã hội với những đặc điểm lịch sử của nó luôn có
những tác động không nhỏ lên hành trình của thể loại. Một khảo sát xã hội học có
thể bao quát và lý giải quá trình này, vì vậy, là việc làm cần thiết.
64
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỀU KIỆN TỰ TRUYỆN VÀ SỰ BỘC LỘ CHỦ THỂ
TRONG TỰ TRUYỆN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
3.1. Những điều kiện tự truyện
Những điều kiện tự truyện ở đây được hiểu là “các khả năng có thể” trong
một không gian xã hội theo cách nói của P. Bourdieu. Đó là những khả năng hay
những cơ hội để một tác giả có thể nắm bắt nhằm thay đổi vị thế của mình. Không
gian xã hội mà ở đó xuất hiện các khả năng có thể của tự truyện Việt Nam đương
đại chính là bối cảnh đổi mới xã hội, dân chủ hóa và toàn cầu hóa. Bởi các quá trình
này đã tạo ra những điều kiện cho sự phát triển thể loại: tinh thần dân chủ và ý thức
cá nhân.
3.1.1. Tinh thần dân chủ và phong trào nói thẳng nói thật
Tinh thần dân chủ trong xã hội Việt Nam bắt nguồn từ phong trào đổi mới xã
hội kể từ sau năm 1986. Tại Cương lĩnh đại hội lần thứ VI của Đảng, dân chủ được
coi là động lực, là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Kể từ đó đến nay, Đổi mới đã
tạo ra những thay đổi lớn trên mọi lĩnh vực xã hội đồng thời cũng mở ra nhiều cơ
hội cho quá trình tiếp nhận các yếu tố mới từ bên ngoài. Đặc biệt sự phát triển của
kinh tế thị trường đã tạo ra nhiều thay đổi trong đời sống xã hội. Chúng kích thích
năng lực sáng tạo, tinh thần dân chủ, khả năng tư duy và sự phát triển con người cá
nhân bởi kinh tế thị trường chấp nhận nhiều hình thức sở hữu khác nhau, các thành
phần kinh tế tác động và bình đẳng với nhau trong việc thực hiện các quyền kinh tế
của mình. Thêm nữa, “kinh tế thị trường thúc đẩy hoạt động văn hóa theo hướng xã
hội hóa. Ý thức dân chủ, vai trò cá nhân, sự tự ý thức về bản thân sẽ có điều kiện và
cơ hội phát triển” [112]. Như thế, sự vận hành của kinh tế thị trường sẽ tạo nên
những điều kiện khách quan cho sự nảy sinh và phát triển thể loại. Song cần lưu ý
rằng, không phải chỉ đến kinh tế thị trường mới hình thành ý thức dân chủ mà
những tính chất của nền kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện để dân chủ phát triển.
Trong văn học, tinh thần dân chủ được hiểu với hai ý nghĩa:
Thứ nhất là ý thức tôn trọng các ý kiến và sự chấp nhận những quan điểm
khác nhau đối với cùng một vấn đề [42]. Đó cũng là tinh thần của phong trào nói
65
thẳng nói thật trong đời sống và văn học từ những năm đầu đổi mới. Những phát
biểu của các nhà văn, nhà nghiên cứu tại cuộc trò chuyện với cố Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh về những trăn trở đối với cuộc sống và nghệ thuật đã minh chứng
cho tinh thần này. Điển hình trong văn học là bài viết của Nguyễn Minh Châu: Hãy
đọc lời ai điều cho một nền văn nghệ minh họa: “Các nhà văn đã thích nghi với văn
học minh họa như thích nghi với lối sống gian khổ, thiếu thốn trong chiến tranh”.
Những nhà văn lại trở thành những người canh giữ chính mình bên cạnh “những
người lính gác” văn nghệ (…) Các nhà văn tự canh giữ mình bằng nỗi sợ “có người
cầm bút đến lúc sắp sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự
đáy lòng, không dám viết hồi ký thực vì sợ để liên lụy đến đời con cái” [21, 123]. Ở
đây, tất cả những trăn trở, những tâm huyết của nhà văn về đời sống, về những ràng
buộc ngòi bút được bộc lộ một cách thành thật không dấu giếm. Đó là nỗi lòng của
không chỉ Nguyễn Minh Châu. Song hơn hết, những lời bộc lộ này còn cho thấy
không khí dân chủ và ý thức dân chủ được thể hiện một cách rõ rệt. Nhờ tinh thần
ấy mà những trăn trở sâu kín mới được nói ra.
Từ sự bày tỏ trực tiếp đến những bày tỏ trong văn học, sự thật ngày càng
được ý thức sâu sắc hơn. Từ sự thật với những vấn đề về cái xấu, cái tiêu cực đến sự
thật gắn liền với sự chân thật với đời sống và với chính bản thân mình. Sự thật trở
thành mục tiêu, thành nguyên tắc của văn học: “Chưa bao giờ văn xuôi phát triển
mạnh mẽ như bây giờ, chưa bao giờ nhà văn được thành thật như bây giờ (…) khi ta
thành thật, ta viết hay hơn, có ích hơn” (Nguyễn Quang Thân) Hay theo đánh giá
của nhà văn Nguyên Ngọc: “Văn học đang dần trở lại đời sống thật, đời sống tự
nhiên của mình, từ bỏ những giả tạo đã nhốt nó bao nhiêu năm nay” [193]. Ở đây,
sự thật của văn học thời kỳ này gắn liền với những dấu hiệu: “người hơn”, “thật
hơn” như là sự đối lập với những gì chưa thật, chưa hay của văn học trước đó.
“Người hơn” là bởi cái nhìn hiện thực nhiều hướng, nhiều chiều, như chính bản
thân sự tồn tại của cuộc sống, như chính hiện thực khách quan và “người hơn” bởi
cái nhìn ấy đã xuất phát từ nhu cầu sống thật sự của bản thân con người.
Thứ hai, dân chủ được hiểu như là sự bình đẳng trong đánh giá và quan niệm
về đề tài, thể loại, về phương thức biểu đạt, về mối quan hệ nhà văn và người đọc.
Trong bài viết Đổi mới văn học vì sự phát triển, nhà nghiên cứu Vũ Tuấn Anh cho
66
rằng tinh thần dân chủ ấy được biểu hiện trên nhiều bình diện của văn học. Ví dụ về
mối quan hệ văn học và công chúng, ông viết: “có thể nói đến một sự dân chủ hơn,
nhân đạo hơn trong mối quan hệ này. Những áp đặt đã được dỡ bỏ về căn bản ở
khâu tiếp nhận văn chương. Công chúng được đọc nhiều loại sách, nhiều đề tài.
Nhu cầu tiêu dùng văn hóa, nhu cầu giải trí của người đọc được tôn trọng” [2, 151].
Sự xuất hiện của các đề tài bị cấm kị, một thể loại “bên lề”, sự bình đẳng giữa các
nhân vật… cũng là những dấu hiệu của tinh thần dân chủ ấy. Sự xuất hiện của tự
truyện trong đời sống văn hoc, vì vậy, là hệ quả không thể thiếu của tinh thần dân
chủ xã hội.
Như vậy, dân chủ xã hội là một cơ hội, một điều kiện để văn học bổ khuyết
những khoảng trống của mình. Từ sự tự do tinh thần của chủ thể cho đến tự do sáng
tạo, từ sự bình đẳng trong nhận thức đến bình đẳng trong hành động đều là những
điều kiện cho sự kiếm tìm những giá trị làm giàu thêm cho văn học. Tự truyện là
một trong những lựa chọn kiếm tìm đó.
3.1.2. Toàn cầu hóa, hội nhập và sự phát triển ý thức cá nhân.
Sự phát triển của ý thưc cá nhân con người là điều kiện lớn thứ hai đối với sự
phát triển tự truyện. Trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại, toàn cầu hóa và hội
nhập là những điều kiện lớn làm cho tinh thần ấy ngày càng trở nên sôi nổi trong
nhận thức xã hội nói chung.
Toàn cầu hóa với ý nghĩa nhấn mạnh sự liên kết về một số phương diện kinh
tế, văn hóa, chính trị giữa các quốc gia đã trở thành xu hướng phát triển của thế giới
hiện đại. Toàn cầu hóa tạo ra những nhận thức mới về mối quan hệ con người và thế
giới. Con người không tồn tại độc lập, riêng rẽ mà luôn có thể kết nối với nhau,
không gian và thời gian không cản trở sự kết nối ấy. Nói một cách hình ảnh, toàn
cầu hóa làm cho thế giới trở thành một mặt phẳng2. Đó là một quá trình khách quan.
Tuy nhiên, hội nhập lại là sự chủ động nhằm đón nhận xu thế không thể cưỡng lại.
Điều đó khiến cho sự tiếp xúc giữa Việt Nam và thế giới ngày càng nhanh chóng.
Cũng chính vì vậy, những hệ quả tích cực của toàn cầu hóa cũng hiện diện ngày
2 Quan niệm này được phát biểu bởi Thomas L. Friedman(2006) trong Thế giới phẳng, Nxb Trẻ.
càng rõ rệt. Sự phát triển của ý thức cá nhân và những biểu hiện ngày càng đa dạng
67
của nó như sự tìm kiếm và xác lập bản sắc, sự đề cao bản sắc, tinh thần tự do, tâm lí
sợ bị cuốn trôi…là những biểu hiện rõ nét.
Nếu những năm đầu thế kỷ 20, con người cá nhân mới chỉ hiện ra qua hình
ảnh những thanh niên dũng cảm dám đối diện với lễ giáo phong kiến bảo vệ tình
yêu và hạnh phúc cá nhân (trong Đoạn tuyệt - Khái Hưng), qua những xúc cảm
riêng tư thầm kín với nỗi cô đơn giữa thế giới hiện tại thì giờ đây, bản thân nội hàm
cá nhân đã có nhiều thay đổi: người ta nói đến các quyền của cá nhân bao gồm
quyền sống, sự bình đẳng, quyền tự do.. đặc biệt là quan niệm cá nhân như một chủ
thể mang bản sắc. Những phát biểu về bản thân cũng vậy, cá nhân thôi không là
những nạn nhân mà trở thành những chủ thể chủ động: “tôi là một người đồng tính”
(Bóng - Nguyễn Văn Dũng), “Tôi sinh vào lúc 11 giờ.. (Để gió cuốn đi - Ái Vân)
thể hiện rõ ý thức chủ động, độc lập và tinh thần tự do khi viết về mình. Những xác
lập vị trí của mình trong đời sống cũng thể hiện rõ sự trưởng thành: một ý chí mạnh
mẽ (Không gục ngã – Nguyễn Bích Lan), một chỗ đứng nghề nghiệp (Chuyện nghề
của Thủy -Trần Văn Thủy), sự khẳng định cá tính (Là tôi: Hà Anh – Hà Anh)…đó
là cả một chặng đường thay đổi trong quan niệm về cái tôi của người Việt trong quá
trình nỗ lực để tiếp xúc với các nền văn hóa khác trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Trong công trình nghiên cứu Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
và hội nhập, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Dân cũng khẳng định những đổi mới này:
“Có thể nói đời sống tư tưởng của người dân Việt Nam đã có những đổi mới rất căn
bản. Người dân đã trở nên tự tin hơn rất nhiều, họ đã có ý thức khá vững vàng về
mình và về vai trò của bản thân trong đời sống xã hội. Ý thức làm chủ bản thân và
làm chủ xã hội đã hình thành khá rõ. Lần đầu tiên, người dân không muốn chỉ đơn
thuần là một đám đông” [32, 53].
Như vậy, bối cảnh toàn cầu hóa đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của ý
thức cá nhân trong đời sống xã hội. Đối với xã hội Việt Nam truyền thống, đó là
một bước ngoặt đáng kể bởi “Cái tôi ở người Việt Nam với tư cách là một chủ thể
cá thể thường xuất hiện chậm. Nó chỉ là một cá thể mảnh mai, yếu ớt, bé nhỏ…nó
bị che khuất, bị dấu kín, bị nhạt nhòa, ẩn nấp đằng sau những nhóm xã hội gần gũi
nhất. Nó phải phụ thuộc, phải nương nhờ, phải trông cậy vào cái tôi - nhà, cái tôi -
họ, cái tôi - làng, cái tôi - nước” [105, 145]. Truyền thống ấy vẫn và sẽ chi phối
68
quan niệm về con người cá nhân song rõ ràng, xu thế toàn cầu hóa đã dần tách cá
nhân khỏi cộng đồng, buộc cá nhân, không còn cách nào khác phải trở thành những
chủ thể độc lập. Chúng tạo ra những mâu thuẫn nhất định giữa con người cá nhân
và con người xã hội trong chính thế giới nội tâm con người. Xét từ quan niệm của
P. Bourdieu, điều đó mở ra không gian khả thể cho tự truyện.
3.1.3. Động lực chủ quan của chủ thể
Hành động tự truyện, như đã phân tích tại 2.2.2.2. là một hành động xã hội
hay hành vi xã hội mà ở đó, mục đích của nó được chủ thể gán cho, chi phối toàn bộ
cách thức hành động. Chúng là yếu tố chi phối những gì được viết ra cũng như
những cách thức mà nó biểu hiện. Tất nhiên, những cách thức ấy luôn phải tính đến
những ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội nơi mà hành động ấy diễn ra. Từ những tư
liệu phỏng vấn các nhà văn, chúng tôi nhận thấy, đối với mọi tác giả, nói thật là
động lực lớn nhất thúc đẩy tinh thần tự truyện. Có lẽ, thế hệ các nhà văn như Tô
Hoài, rồi sau này là Bùi Ngọc Tấn, Ma Văn Kháng là những người thấu hiểu sâu
sắc nhất khát vọng tự do và tinh thần dân chủ của văn học Việt Nam trước Đổi mới.
Có thể hình dung khát vọng ấy qua một bài thơ trong Di cảo thơ của Chế Lan Viên:
Anh là tháp bay on bốn mặt
Giấu đi ba còn lại đó là anh
Chỉ mặt ấy mà nghìn trò cười khóc
Làm đau ba mặt kia trong cõi ẩn mình
(Tháp Bay on bốn mặt)
Bài thơ là lời trần tình về nỗi đau vì không được trung thực với chính mình.
Đó là hình ảnh đầy bi kịch của mâu thuẫn giữa cái tôi riêng và cái ta chung trong
nội tâm của một nhà thơ. Việc nói sự thật, vì thế, trở thành một khát vọng.
Như vậy, để đạt đến sự thật, điều kiện đầu tiên phải là ý thức dân chủ của
chính chủ thể viết.
Nhận xét về văn học Việt Nam sau đổi mới, các nhà văn đều khẳng định tinh
thần dân chủ là một đổi mới của văn học. Tính chất dân chủ ấy thể hiện ở sự xuất
hiện đa dạng của đề tài ở sự tồn tại những đề tài gần gũi với cuộc đời, với con
người. văn chương không nên đạo mạo, không chỉ là sự đạo mạo mà cần phải là
cuộc đời. Trách nhiệm của nhà văn, chính là phải nhận ra chân lý cuộc sống ấy qua
69
những chi tiết rất đời. Cuộc sống tù đày của tôi được viết lại trong Chuyện kể năm
2000 là một sự thực. Một sự thực mà những con người trong đời sống bình thường
không dễ tưởng tượng ra. Cuộc sống của những năm tháng ấy thôi thúc được viết,
được nói thật [PV số 3]
Đối với Tô Hoài, sự thật luôn luôn là đối tượng mà ông tìm kiếm. Đặc điểm
“viết gì cũng ra tự truyện” của ông thực chất chính là bởi mục đích này. Từ những
câu chuyện về làng quê, ngày thơ ấu, khi trưởng thành cho đến những bức chân
dung nhà văn, chuyện đi thực tế cho đến chuyện đi học, chuyện làm ở khu phố của
tôi đều là chuyện thật”. Ngay chuyện học ở trường Nguyễn Ái Quốc, rất thật, cả ở
chuyện ăn cắp chuối, chuyện một cán bộ ra tòa…cũng là chuyện đã diễn ra thật. Vì
điều đó mà đôi khi gặp những “hiểu lầm”như chuyện Mười năm [ PV số 4]
Viết sự thật đối với nhà văn Ma Văn Kháng lại là giữ lại một thời, một thế hệ
vàng của cách mạng Việt Nam với những ấu trĩ, hồn nhiên và nhiệt huyết tạo nên
một vẻ đẹp không thể lẫn. Đó là hình ảnh của đời sống, là hình ảnh đời sống trong
sự tồn tại của nó. Những tính cách của các nhân vật là sự thật, các chi tiết là sự
thật. Ngay bản thân các nét tính cách của nhân vật cũng hoàn toàn thật bởi vốn
chính nó cũng đã khá điển hình. Những diễn biến của câu chuyện Một mình một
ngựa cũng hoàn toàn là những sự thật đã diễn ra [PV số 2 ]
Như vậy, hầu như, trong ý thức chủ quan của chủ thể, sự thật luôn là đích
đến của tự truyện. Và điều ấy cũng tương đồng với những chuyển động trong đời
sống văn học Việt Nam từ sau Đổi mới. Khác chăng, nếu ở giai đoạn đầu, nói sự
thật mang bóng dáng của những trăn trở nhân cách thì đến thời điểm mà tự truyện ra
đời, những trăn trở ấy trở đã thành mục đích của sự viết, của sự sáng tạo. Chúng
không chỉ còn là ý thức công dân, mà trở thành trách nhiệm nhà văn, người mang sứ
mệnh thư ký của thời đại. Có lẽ cũng bởi điều này mà những trăn trở về cá nhân
thường không phải là động lực lớn nhất của tự truyện của họ. Duy nhất trong các
nhà văn, Nguyễn Khải là người chú ý nhiều hơn tới sự thật về cá nhân mình.
Thượng đế thì cười là bức tranh khái quát về con người, cuộc đời và sự nghiệp văn
chương của ông. Tự truyện Trôi theo tự nhiên đăng hai kỳ trên tạp chí Nhà văn năm
2007 cũng ở trong dòng mạch này song thiên về các suy ngẫm về sáng tạo, về tư
tưởng nhiều hơn. Và vì thế, sự giãi bày, sự bộc lộ bản thân cũng nhiều hơn.
70
Nhìn chung, động lực của tự truyện không gì khác, là việc viết sự thật, không
gì khác ngoài sự thật.
Bên cạnh động lực sự thật, nhu cầu được giãi bày, được sẻ chia cũng là yếu
tố thôi thúc hành động tự truyện. Ý nghĩa của tự truyện vì thế, lại được mở rộng hơn
và gần gũi hơn với cuộc đời. Điều đó làm nên sự khác nhau trong nội dung và hình
thức tự truyện của mỗi nhóm chủ thể. Nhiều trường hợp, hành động tự truyện là một
sự giải thoát, như: “Viết một lần cho xong. Viết một lần để quên đi, để đến khi
nhắm mắt xuôi tay mình không còn phải áy náy. Viết để hiểu nhau hơn, cảm thông
cho nhau hơn và quan trọng để yêu thương nhau hơn, thế thì tại sao không viết?”
[184, 5]
Như vậy, dân chủ hóa xã hội, kinh tế thị trường và toàn cầu hóa đã không chỉ
tạo đà cho sự trỗi dậy của ý thức cá nhân, thức tỉnh tự do cá nhân mà còn tạo ra một
môi trường tiềm năng cho những thử nghiệm và biểu đạt cá nhân. Chúng tạo nên
phong trào tự truyện sôi nổi ở nước ta kể từ sau 1986, đặc biệt là những năm đầu thế
kỷ 21 này. Tuy nhiên, điều đó vẫn không có nghĩa hành động tự truyện là hành
động tự do tuyệt đối. Bằng chứng là tỉ lệ các tự truyện với các biến thể khác nhau
luôn cao hơn nhiều so với tự truyện thuần khiết theo định nghĩa của P. Lejeune.
Điều đó cho thấy, những ràng buộc của bối cảnh vẫn luôn hiện hữu. Hay nói cách
khác, cái bóng của xã hội, một phần nào đó, vẫn bao phủ lên hành động tự truyện
của chủ thể.
3.2. Sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện
Một trong những đặc điểm nổi bật nhất của sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện Việt
Nam đương đại là bộc lộ cái Tôi từ cái nhìn nhân cách hơn là từ cái nhìn cá nhân.
3.2.1. Cái Tôi và các phương diện biểu hiện nhân cách cá nhân
Trong quan niệm xã hội học, nói tới cái tôi là nói tới khả năng suy nghĩ và
phản ánh của con người, coi chính mình là đối tượng của tư duy. Cái tôi bao hàm
trong nó những đặc tính để phân biệt với các cá thể khác. Theo quan niệm của
Geoge Hebert Mead (trong The Mind, Self and Society, 1934) cái tôi hình thành từ
hai quá trình tự thân: cái tôi chủ thể và cái tôi khách thể. Cái tôi chủ thể tự sinh, nội
tâm, sáng tạo, chủ quan và cái tôi khách thể thường gắn với thái độ của người khác,
bên ngoài, có tính xã hội, là cái nhìn của người khác. Cái tôi này của cá nhân phát
71
triển qua các gia đoạn “đóng vai”, “tự chơi” hay “trở thành những người khác có ý
nghĩa”. Đây là một quá trình có chủ đích của xã hội. Nó cho phép người ta dung nạp
ý thức về toàn bộ giá trị của xã hội vào quan niệm về cái tôi của mình [26, 52]. Như
thế, cái tôi cá nhân, riêng biệt, tự sinh, sáng tạo là cốt lõi để hình thành cái tôi xã
hội, cái tôi khách thể. Ý nghĩa chủ động trong khái niệm về cái tôi chính là bởi điều
này. Liên quan tới khái niệm cái tôi là khái niệm Bản ngã hay Bản sắc xã hội
(Identity). Bản sắc xã hội là kết quả của quá trình nhập vai xã hội. Nó biểu hiện ở
những cách mà cá nhân định nghĩa về mình như: “tôi là một người đồng tính”
(Bóng - Nguyễn Văn Dũng) hay “tôi là một phụ nữ Việt” (Xuyên Mỹ - Phan Việt).
Trong văn học, cái tôi gắn với quan niệm con người cá nhân trong sự đối lập
với phần cộng đồng trong chính con người: “Ai cũng biết con người khi đã hình
thành ra là con người tộc loại, đồng thời cũng là con người cá nhân. Biện chứng của
hai mặt đó là con người chỉ có thể phát triển cá tính của mình với tư cách là con
người tộc loại, đồng thời con người tộc loại cũng chỉ có thể phát triển với tư cách là
con người cá nhân. Nhưng không chỉ có sự gắn bó khăng khít giữa hai mặt đó, mà
còn có sự mâu thuẫn và xung đột giữa hai mặt đó đến mức loại bỏ lẫn nhau và đẻ ra
hoặc là kiểu con người cá nhân mà kết cục là sự hủy diệt chính bản chất con người”
[153,16]. Ở đây, cá nhân chính là nhân cách, là kết quả của quá trình tương tác giữa
cái tôi với xã hội. Sự biểu hiện của cái tôi trong văn học Việt Nam, vì thế, được
hiểu như là sự biểu hiện nhân cách.
Tóm lại, sự khác nhau giữa quan niệm xã hội học và văn học về cái tôi thực
chất chỉ là cái nhìn giữa một bên chú trọng quá trình hình thành và một bên nhấn
mạnh tính chất đã hoàn thiện của nó; giữa cấp độ bao quát và cấp độ cụ thể. Đối với
chúng tôi, cái tôi là bản sắc, là sự định nghĩa mình của cá nhân, chúng tương đồng
với khái niệm nhân cách trong tâm lý học và khoa học xã hội nói chung. Nói tới cái
tôi trong tự truyện là với ý nghĩa này.
Sự biểu đạt nhân cách cá nhân người tự thuật trong tự truyện, theo quan niệm
theo P. Lejeune, vì thế sẽ phụ thuộc vào việc cá nhân sẽ định nghĩa về bản thân như
thế nào. Hay nói cách khác, cá nhân sẽ mô tả mình từ phương diện nhân cách nào.
Theo lý giải của Tâm lý học, nhân cách “như chủ thể của các mối quan hệ liên nhân
cách, mang trong mình ba đại diện thống nhất với nhau” [39, 543].
72
Ở khía cạnh cá nhân, nhân cách là “tổng hòa các phẩm chất cá nhân tương
đối bền vững như: tổ hợp các thuộc tính tâm lý hình thành nên tính cách cá nhân,
động cơ, xu hướng nhân cách, khí chất, năng lực [39, 543]. Nó thể hiện ở tính
không đồng nhất, ở sự khác biệt, phân biệt với người khác. Những sự khẳng định
bản sắc cá nhân là biểu hiện của nhân cách ở cấp độ này.
Ở khía cạnh xã hội, nhân cách là sự tham gia của cá nhân vào mạng lưới các
các mối quan hệ với nhân cách khác, là người mang nhân cách của các thành viên
của nhóm, tác động tương hỗ liên nhân cách đưa cái riêng vào cái chung và cái
chung vào cái riêng. Ở đây, nhân cách được nhìn như là những mong đợi xã hội gắn
với vai trò của cá nhân trong nhóm. Ví dụ nhân cách nhà văn, nhân cách nghệ sĩ…
Ở khía cạnh hoạt động, nhân cách là “đại diện lý tưởng” của một cá nhân
trong hoạt động sống của người khác. Nó chính là hình mẫu được hiện thực hóa. Từ
cấp độ này, giá trị nhân cách được xác định ở những hành động và hoạt động tác
động lên xã hội với tư cách là một chủ thể tích cực. Khái niệm “nhân cách văn hóa”
là bắt nguồn từ khía cạnh này.
Như thế, nói tới nhân cách là nói tới một phạm vi hiểu khá rộng khiến cho
việc mô tả nó trở nên hết sức đa dạng. Điều này lý giải sự khác nhau trong những
mô tả về bản thân của mỗi cá nhân nói chung và các chủ thể trong tự truyện nói
riêng. Việc trả lời câu hỏi Tôi là ai - một câu hỏi thường trực của tự truyện, vì thế sẽ
trở nên vô cùng đa dạng. Từ góc độ trần thuật, việc trả lời câu hỏi Tôi là ai ấy sẽ là
điểm nhìn để câu chuyện về bản thân chủ thể được bắt đầu. Đây cũng là lý do
không nhỏ của việc tại sao không chỉ những chủ đề cá nhân được coi trọng mà các
chủ đề về thời cuộc, lịch sử, những người khác cũng thường tồn tại trong tự truyện
như là một đối tượng nhận thức.
Từ cách hiểu này về nhân cách, khảo sát sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện,
theo chúng tôi, sẽ là việc quan sát xem nhân cách được nhìn từ khía cạnh nào, điều
đó sẽ đồng nghĩa với việc chủ thể sẽ kể gì về cái “tôi” của mình trong tự truyện.
Hay nói chính xác hơn, cái tôi ấy sẽ tương đồng với khuôn mẫu nhân cách nào
trong văn hóa Việt Nam. Ví như lời mở đầu của Phan Bội Châu trong Phan Bội
Châu niên biểu “Lịch sử của tôi hoàn toàn là lịch sử thất bại, nhưng sở dĩ được cái
thất bại đó, những chốn tì vít rất rõ ràng, mà nhằm chốn có thể tự tín được cũng
73
không phải là không trơn” [27, 46] thì những dấu hiệu: “lịch sử cuộc đời tôi là lịch
sử thất bại”, những “tì vít” và những “tự tín” là những dấu hiệu khái quát. Chúng
báo hiệu câu chuyện sẽ được kể từ điểm nhìn của một nhà cách mạng đánh giá lại
cuộc đời hoạt động của mình, đánh giá những đóng góp xã hội của mình. Điều này
hoàn toàn khác với những giới thiệu về bản thân trong Những lời bộc bạch của J. J.
Rousseau: “Tôi trù tính một công việc không hề có kiểu mẫu, và sẽ chẳng ai bắt
chước thực thi. Tôi muốn phô bày cùng đồng loại một con người hoàn toàn đúng
với chân tướng; và con người ấy, sẽ là tôi đây” [151, 21] xác định một hình ảnh bản
thân với toàn bộ “chân tướng” của một con người là điểm bắt đầu của bức chân
dung tự thuật. Vị thế một nhà tư tưởng tự do đã tạo cho ông điểm nhìn tập trung vào
phân tích mình như một sự khác biệt trọn vẹn là vì vậy. Ở đây, sự khác biệt văn
hóa, đặc biệt là sự khác biệt trong quan niệm về mối quan hệ giữa mình và xã hội là
căn nguyên của những khác nhau trong sự mô tả về chủ thể trong tự truyện.
Quan sát các tự truyện Việt Nam xuất hiện từ sau 1986 có thể thấy sự biểu
đạt nhân cách cá nhân của các chủ thể khá phong phú: Từ cái tôi cá nhân độc đáo
đến cái tôi xã hội, cái tôi sáng tạo văn hóa, từ cái tôi giới tính đến cái tôi gia đình,
cái tôi nghề nghiệp, cái tôi quê hương xứ sở, cái tôi triết lý. Chúng cho thấy những
lát cắt khác nhau của quan niệm về cái tôi và biểu đạt cái tôi trong xã hội Việt Nam
đương đại.
3.2.2. Các phương diện biểu hiện nhân cách cá nhân trong tự truyện
3.2.2.1. Cái Tôi cá nhân khác biệt
Bộc lộ nhân cách cá nhân trong toàn bộ sự khác biệt là đặc điểm làm nên sức
hấp dẫn của tự truyện. Trong tự truyện Việt Nam đương đại, hình ảnh những chủ
thể với những khác biệt cá nhân khá đa dạng. Có khi là một chân dung nhân cách
toàn vẹn với đầy đủ các khía cạnh làm nên hình ảnh một cá nhân (Thượng đế thì
cười - Nguyễn Khải), có khi chỉ gắn liền với một đặc điểm gắn với một trải nghiệm
(Xuyên Mỹ - Phan Việt), cũng có khi được soi chiếu từ một quan niệm, một lối sống
(Yêu và sống của Lê Vân), những thăng trầm của cuộc đời (Một đời giông bão -
Thương tín, Để gió cuốn đi - Ái Vân), và nhiều khi chỉ là sự khắc họa một tài năng,
một nỗ lực, một thành công (Chuyện nghề của Thủy - Trần Văn Thủy, Bên kia bức
tường - Trần Lập, Không gục ngã - Nguyễn Bích Lan…) hoặc là sự khẳng định một
74
cá tính (Là tôi – Hà Anh), một giới tính khác biệt (Bóng - Nguyễn Văn Dũng,
Không lạc loài - Thành Trung, Tôi vẽ chân dung tôi - Hương Giang Idol…) chúng
là những câu trả lời của mỗi cá nhân về bản sắc chính mình, là những định nghĩa về
mình của mỗi chủ thể.
Điển hình của tự truyện là kiểu chủ thể với toàn bộ bức tranh nhân cách cá
nhân mình. Trong lịch sử tự truyện có thể kể đến Những lời bộc bạch của J.J.
Rousseau. Đối với các nhà nghiên cứu, đây mà một chuẩn mực tự truyện để xác lập
những đặc trưng thể loại. Tuy nhiên trên con đường phát triển của mình, tự truyện
luôn phá vỡ những khung khổ, thậm chí dấu vết của chuẩn mực chỉ còn là những
mảnh vỡ. Một tự truyện mà ở đó, hình ảnh của con người cá nhân hiện ra tương đối
trọn vẹn là Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải. Nguyễn Khải viết tác phẩm khi
ông ở tuổi 73, nghĩa là đã ở vào tuổi có thể thấu triệt mọi lẽ đời. Vì thế, Thượng đế
thì cười thấm đẫm ý vị nhân sinh.
So với các tác giả cùng thời, Nguyễn Khải là người giải thích bản thân nhiều
nhất. Ông phân tích, lý giải cuộc đời mình bằng triết lý về sự được mất ở đời. Lấy
câu ngạn ngữ Do Thái làm lời đề từ “Con người suy nghĩ còn Thượng Đế thì cười”
để nhìn nhận và đánh giá những thành bại của đời mình, Nguyễn Khải đặt mình
trong vị trí của một cá nhân, phân tích và suy nghĩ bằng những giá trị đậm chất cá
nhân đời thường. Trong cuộc sống gia đình, cái được của ông là một gia đình sum
vầy quấn quýt khi xung quanh mọi người đều cô lẻ song vì thế mà hạnh phúc không
bao giờ trọn vẹn. Trong sự nghiệp văn chương, ông tự hào vì đã tìm được một con
đường riêng với những thành công riêng song cũng chính vì con dường ấy mà phải
chấp nhận thứ văn chương chừng mực, văn chương tuyên huấn theo cách nói của
ông. Trong quan hệ với đồng nghiệp trong hội nhà văn, ông tự coi mình là thủ phạm
của nhiều bất hạnh của bạn bè song cái được lại là được tha thứ vì biết nhận lỗi và
sẵn sàng nhận lỗi dù có thể muộn mằn. Sự kiện trong Đại hội hội nhà văn năm 2000
được ông kể lại tường tận, ở đó, ông đã có lời xin lỗi cả trực tiếp như với Vũ
Bão,Trần Kim Trắc, và gián tiếp như với Bùi Ngọc Tấn, và xin lỗi công khai trước
toàn thể đại hội. Ông tự nhận “xem ra về già bạn bè thương hắn hơn, bạn đọc cũng
yêu hắn hơn, và con cái cũng dễ thông cảm với hắn hơn” bởi vì khi đó, hắn đã thật
75
sự thấu triệt lẽ đời. Cái được trong đời, xét cho cùng, với ông là sự độ lượng của
bạn bè, của những người đã vì ông (một phần) mà gặp bất hạnh, thiệt thòi.
Về tài năng văn chương, ông giải thích: “Vì hắn không có tính cách mạnh,
không có bản sắc rõ ràng, chỉ là cái rỗng không nhưng cái rỗng không ấy lại có sức
mạnh hút vào nó mọi màu sắc của cuộc sống mà chỉ một kẻ nhút nhát, yếu đuối, có
nhiều khát vọng dang dở mới cảm nhận được. Hắn tự biến hóa thành đối tượng
quan sát một cách dễ dàng” [87, 158 ]. Đó là bí quyết, là “then máy” bí mật để ông
hiểu được các nhân vật, làm cho các nhân vật của ông, luôn sống động và có chiều
sâu. Thêm vào đó, niềm đam mê viết, đam mê sáng tạo, không từ bỏ bất cứ một cơ
hội nào để có thêm chất liệu, để có thể viết là tất cả những gì mà ông đúc kết về tài
năng văn chương của mình.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương cũng vậy, ông nói nhiều tới may mắn.
May mắn vì được gặp cách mạng, may mắn vì luôn được ở bên vợ con, không phải
vào chiến trường, trong khi nhiều đồng đội đã hi sinh ở chiến trường, may mắn vì
hay được gặp những hình mẫu văn chương ngoài đời và nhờ thế mà có những nhân
vật sống động trên trang viết …và vì thế, ông luôn so sánh mình với người khác,
với đồng nghiệp, với bạn bè. Ông bày tỏ nỗi lòng như một sự sám hối về những
may mắn của cuộc đời mình. Hai sự kiện mà ông trăn trở nhiều nhất là hai lần “xuất
chính” theo cách cách nói của ông (tham gia quốc hội) và những hành động chính
trị trong văn chương làm ảnh hưởng tới nhiều bạn bè đồng nghiệp. Nhận xét về việc
tham gia chính trị của mình, ông đánh giá “cả hai lần đều thất bại, mặt mũi lem luốc
vì vừa từ chỗ quyền lực chui ra làm sao còn giữ được gương mặt sạch. Người khác
bôi lem mặt mình, tự mình cũng vẽ bậy vẽ bạ lên mặt mình, như thằng hề, lại còn
nghĩ không ai biết mình đã là hề, nên mới dám lên mặt thuyêt lý về tâm hồn, về đạo
đức, về lý tưởng…[87, 122].
Trong ứng xử với bạn bè đồng nghiệp, về những việc đã làm, ông tự nhận:
“phần còn lại khiến hắn không được an tâm là những lầm lỗi của mình, những lời
nói, bài viết kiêu ngạo, độc đoán một thời của mình, áp đặt một cách nghĩ đang
được đương thời ủng hộ và loại bỏ một cách nghĩ khác mà khi về già hắn vẫn
thường phải đối mặt (…). Là người biết nghĩ thì đã làm việc lầm lỗi phải biết nói lời
xin lỗi…” [87, 168]. Ngay tại đại hội nhà văn, ông đã nhận lỗi hết sức thành thật.
76
(Điều này cũng đã được kể lại trong bài viết của Xuân Ba tường thuật về cuộc gặp
gỡ của Nguyễn Khải với Vũ Bão, Bùi Ngọc Tấn trong Đại hội Hội nhà văn VN năm
2000, in trong cuốn Thương nhớ Nguyễn Khải).
Về tính cách dễ dàng nhận lỗi của mình, Nguyễn Khải phân tích khá nhiều,
đối với ông, một phần là do tính cách viên chức, dễ thỏa hiệp, một phần bởi sự may
mắn của số phận, một phần khác, đó là khi đã hiểu được lẽ đời. Thượng đế thì cười,
vì thế, giống như một lời tự thú, một lời nói lại khi con người đã đi qua tất cả những
được mất trong cuộc đời mình. Khép lại câu chuyện về bản thân là một kết thúc đầy
tình cảm với người vợ già, một nhân vật chính tạo ra tình huống của hành động tự
truyện này, chủ thể Nguyễn Khải dẫn nguyên văn lời nói của mình: “những thứ bà
giúp tôi đều là những giá trị thật, mãi mãi không thay đổi, còn những gì tôi cống
hiến cho đời như tôi thường nghĩ, đến lúc này tôi lại phân vân không rõ nó có là giá
trị thật như những gì bà cho bố con tôi hay không” [87, 383] không chỉ là một suy
nghĩ, đó lại là một triết lý nhân sinh về con người và thời cuộc được đúc rút từ cuộc
đời hơn 70 năm cầm bút. Đặc biệt kiểu phân tích bản thân cho thấy ý thức tự truyện
của ông khá mạnh mẽ. Kiểu chủ thể này trong tự truyện Việt Nam không nhiều.
Hầu hết, chúng chỉ là những lát cắt nhất định, một khía cạnh nhất định của toàn bộ
chân dung một con người. Có chăng thì những miêu tả về bản thân cũng mới chỉ
dừng lại ở việc miêu tả sự kiện hơn là quá trình tự phân tích (trường hợp Để gió
cuốn đi - Ái Vân)
Cũng mang tinh thần tự phân tích tương tự Thượng Đế thì cười song Yêu và
sống của Lê Vân lại tập trung cho khía cạnh quan niệm và nhận thức cá nhân khi
chị trả lời câu hỏi Tôi là ai của tự truyện. Tự truyện này, do thế, mang đậm tinh thần
tự thú. Như chúng ta đều biết, bản chất của tự thú là quá trình tự nhận thức của chủ
thể về những lệch chuẩn của bản thân so với các chuẩn mực đạo đức xã hội. Xã hội
trong lăng kính của họ là đại diện của những thành kiến, những dị nghị, những đối
lập với nhu cầu cá nhân. Tự truyện thực chất là hành động giải thoát khỏi gánh nặng
của nội tâm bởi những đối nghịch không dễ dung hòa. Ký ức về sự đối lập giữa bản
thân và gia đình, bản thân và công việc, bản thân và những chuẩn mực đạo đức là
ký ức lớn nhất trong bức chân dung của Lê Vân.
77
Ngay từ mở đầu trong lời giải thích vì sao mình viết tự truyện, chị đã thừa
nhận: “Còn với tôi, hai mươi năm là một cuộc vật lộn với cuộc đời và với chính
mình chỉ để không bị biến thành người khác” [183, 23] và việc viết tự truyện hôm
nay, là việc cần phải nói ra điều đó “chứng nào nó còn chưa được nói ra, chừng đó
tôi còn sống trong cảm giác tội lỗi mà tôi thì không thể chịu nổi điều đó. Thế là tôi
có nhu cầu phải kể hết đời mình, không dấu giếm bất cứ điều gì, ngay cả điều mà
người ta có quyền giữ im lặng, với một người nào đó” [183, 23]. Hình ảnh nhân
cách mà chủ thể Lê Vân muốn thể hiện ở đây, chính là sự tự thú về chính mình, là
việc nói sự thật về nhân cách mình. Sự thật ấy không phải chỉ là những sự kiện đơn
thuần mà là những phân tích và cảm nhận, là sự thật của nội tâm, sự thật bên trong.
Từ nỗi thất vọng và đau đớn nhận ra một cách ngây thơ mình không được bố mẹ
nhận nuôi khi họ muốn li hôn đến những nỗi cực nhọc, chán chường trong những
ngày ở trường múa, từ sự thật trong suy nghĩ của chị về điện ảnh Việt Nam và tài
năng của diễn viên đến những mối tình ngang trái thấm đẫm màu sắc tội lỗi của
mình. Ở bất cứ sự kiện gì chị cũng thành thật, sự thành thật có ý nghĩa sám hối.
Bản chất của tự truyện là sự trả lời câu hỏi Tôi là ai. Để trả lời câu hỏi Vân
ơi, Vân là ai đầy khắc khoải từ đầu câu chuyện, chủ thể đã phân tích mình trong tất
cả các mối quan hệ và các hoàn cảnh đã trải qua. Trong gia đình, đó là mối quan hệ
mẹ con đầy thương cảm, mối quan hệ cha con đầy xa cách, tình yêu vụng trộm và
ngang trái với một đạo diễn nổi tiếng đã có gia đình làm nên những nỗi đau và khát
vọng của chị. Để cuối cùng là câu trả lời xác định bản sắc của chị: Tôi là tôi, là đàn
bà [183, 360] và là đàn bà trong cái ý nghĩa “được hưởng niềm hạnh phúc thuần
khiết của một người phụ nữ bình thường là được làm vợ, làm mẹ” [185, 360] với ý
nghĩa đích thực của từ này . Cái bản sắc giới tính mà chị tự nhận ấy lý giải cho toàn
bộ cuộc đời chị, những lựa chọn của chị, làm nên con người tự thú của chị. Tự
truyện của Lê vân, vì thế chính là hình ảnh của hành trình đi tìm bản sắc cá nhân
của một nhân cách.
Cũng với tinh thần tự thú, song là sự tự thú về bản sắc giới tính, tình dục là
hai cuốn tự truyện khá quen thuộc thường được nhắc tới của đề tài này: Bóng của
Nguyễn Văn Dũng và Không lạc loài của Thành Trung. Trong cả hai cuốn này, quá
trình lý giải bản thân và những sự thật của hành trình đi tìm bản sắc được kể lại khá
78
chi tiết. Những mối tình tuyệt vọng với những người yêu đồng giới, sự ghen tuông,
điểm xuất phát ban đầu, sự đối diện với kỳ thị của xã hội… đều được kể lại khá xúc
động và chân thực. Có lẽ, sau sự trung thực của Lê Vân, họ là người dám kể về
những góc khuất của chính bản thân mình một cách trực diện nhất. Bởi thế, bên
cạnh những lời ném đá, họ cũng nhận được khá nhiều đồng cảm từ phía người đọc.
Một cái tôi khác biệt trong hình ảnh của những nếm trải cũng là dạng chủ thể
nổi bật của tự truyện đương đại. Một mình ở châu Âu và Xuyên Mỹ của Phan Việt,
Qúa trẻ để chết của Đinh Hằng là những tác phẩm tiêu biểu. Cả hai tác giả đều là
nữ và đều đi qua những tan vỡ trong các mối quan hệ riêng tư là tình yêu và hôn
nhân. Phan Việt viết câu chuyện của mình khi chị vừa trải qua li hôn và Đinh Hằng
viết Quá trẻ để chết sau nỗi đau chia tay người yêu. Trong các tự truyện của họ, quá
trình nếm trải nỗi đau là nét đặc thù về hình ảnh chủ thể.
Một mình ở châu âu mới đọc dễ nhầm đó là một cuốn du ký bởi tác giả kể
khá tường tận về hành trình đến châu Âu của mình, những địa danh, những câu
chuyện về lịch sử các vùng đất, sinh hoạt văn hóa của con người nơi tác giả đi qua.
Nhưng kỳ thực, là hành trình đi để nhìn lại cuộc hôn nhân của chính Phan Việt, lần
lại các dấu vết để giải thích cho những đổ vỡ trong hiện tại để đi đến một quyết định
quan trọng đối với cuộc đời mình: quyết định li hôn mà tác giả sẽ kể ở cuốn sau:
Xuyên Mỹ. Li hôn mà cụ thể hơn là cuộc vật lộn và vượt thoát của người phụ nữ
khỏi trạng thái li hôn là chủ đề của cả Một mình ở châu Âu và Xuyên Mỹ. Li hôn
không phải là một sự việc hay sự kiện, đó là một trạng thái tâm lý, một trạng thái
sống mà những người trong cuộc, đặc biệt là người phụ nữ trong truyền thống văn
hóa Á Đông không dễ gì vượt qua. Một mình ở châu Âu là những manh nha và
Xuyên Mỹ là toàn bộ trạng thái ấy. Hình ảnh của chủ thể trong tự truyện này là
những vật vã mỗi ngày để vượt thoát khỏi hố sâu tuyệt vọng và trạng thái mất
phương hướng của chính mình trước ngưỡng cửa của quyết định li hôn. Những
trạng thái bối rối diễn ra mỗi ngày khắc họa tình trạng khủng hoảng, tô đậm nỗi đau
khổ đang trải qua: “Tôi chán lắm rồi, tôi chán tất cả thế giới này - toàn là đồ bỏ đi.
Toàn đồ ăn hại, bỏ đi. Tôi cũng là đồ bỏ đi và nên chết quách đi cho xong. Tất cả
thế giới này nên chết quách đi cho xong chuyện.
79
Nhưng, alas, một lần nữa, tôi chỉ nghĩ thế mà không nói gì. Bỏ máy xuống,
tôi nửa muốn gào lên thật to, nửa muốn khóc” [187, 94]
Trạng thái “nửa muốn gào lên thật to, nửa muốn khóc” là một mô tả đầy đủ
về tình trạng bên trong đầy mâu thuẫn giữa việc được tự do bộc lộ nỗi đau và những
giới hạn của sự bộc lộ ấy. Chúng làm nên bi kịch nội tâm của chính chủ thể.
Đối với phụ nữ Việt Nam, kể câu chuyện li hôn của chính mình, đặc biệt là
sự mô tả các trạng thái trong hành trình ấy thật không dễ bởi một lần nữa họ phải
trải nghiệm lại nỗi đau, và hơn hết, sự kỳ thị đối với li hôn, đặc biệt là phụ nữ li hôn
trong văn hóa Việt Nam, dù có những đổi thay vẫn hết sức nặng nề. Câu chuyện của
Phan Việt, vì thế, là một đột phá trong việc viết về bản thân của tự truyện Việt Nam.
Qúa trẻ để chết cũng không nằm ngoài tinh thần này song ý thức tự phân tích mờ
nhạt hơn, cuộc đấu tranh nội tâm vì thế, cũng không tạo được nhiều ấn tượng.
Cũng là những nếm trải, nhưng khác Phan Việt, Hà Anh trong tự truyện Là
tôi - Hà Anh lại thiên về sự khẳng định bản thân. Trong tự truyện, nhiều bí mật hậu
trường người mẫu được kể lại. Song thực chất, đó là câu chuyện về cá tính hơn là
câu chuyện của trải nghiệm. Ví dụ, cùng đối diện với sự kiện li hôn hoặc chia tay
nhưng ở Xuyên Mỹ, đó là câu chuyện của nếm trải nhưng với Hà Anh, chúng mang
màu sắc của tính cách và cá tính: “Rất nhiều phụ nữ, cũng như tôi lúc đó, vướng
vào cái tình huống "dở khóc dở cười" như thể, nhưng đa số, sợ sẽ phải đánh đổi,
phải làm lại, phải cô đơn. Họ sợ mọi rủi ro...rằng lỡ may mình mắc sai lầm, lỡ may
mình không tìm được ai khác.
Tôi không lo sợ vì điều này, nhưng tôi cũng không hẳn dễ dàng gạt bỏ cuộc
sống chúng tôi đã chia sẻ suốt 2 năm gần đó. Rốt cuộc, tôi đâu phải gỗ đá. Nhưng
trong thâm tâm, có điều gì đó bảo tôi rằng, tôi không thể chấp nhận cái gọi là "tạm
đủ" [7]
Điều đó cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong quan niệm về nhân cách cá nhân
của mỗi tác giả: Nguyễn Khải, Lê Vân nhìn nhân cách cá nhân trong sự toàn vẹn,
Phan Việt trong một phần bản sắc, thì Hà Anh là chú trọng sự khác biệt. Sự khác
nhau ấy không chỉ bởi tuổi tác, thế hệ mà khác nhau trong chính những giá trị văn
hóa mà mỗi người thẩm thấu gắn với từng giai đoạn khác nhau của đất nước ta thời
kỳ mở cửa.
80
3.2.2.2. Cái Tôi gắn với vai trò xã hội
Bộc lộ bản thân gắn với một vai trò xã hội là nội dung khá nổi bật trong tự
truyện của các nhà văn. Có lẽ bởi ý thức của người cầm bút và những sự thật lịch sử
được chứng kiến suốt hành trình thế kỷ XX đã khiến các nhà văn không thể bỏ qua
vai trò nhân chứng lịch sử của mình. Chính vì thế, cái tôi cá nhân của họ cũng đồng
thời là cái tôi nhà văn, cái tôi xã hội. Có thể kể đến một Tô Hoài trong Chiều chiều,
Cát bụi chân ai, Ba người khác, Phùng Quán trong các mảnh đoạn tự truyện của
mình, Bùi Ngọc Tấn trong Chuyện kể năm 2000, Dạ Ngân trong Gia đình bé mọn…
Đặc biệt, chúng đều được viết khi tác giả của nó đã đến tuổi nhìn lại và nghiệm sinh
những gì đã trải qua.Tô Hoài viết Cát bụi chân ai khi 72 tuổi, viết Chiều chiều khi
79 tuổi, Vũ bão viết Rễ bèo chân sóng lúc ông 72 tuổi, Bùi Ngọc Tấn in Chuyện kể
năm 2000 khi ngoài 60. Bởi thế, trong các tự truyện của họ, cái tôi cá nhân thường
nhường chỗ cho những sự kiện lịch sử xã hội, những câu chuyện được chứng kiến
mà không chỉ là câu chuyện về bản thân, về những vấn đề của nội tâm cá nhân.
Trong Cát bụi chân ai, rồi sau này là Chiều chiều, Tô Hoài là một chủ thể
như vậy. Viết về bản thân song không giải thích cá nhân mà thông qua những số
phận khác cùng thời, khái quát đời sống trong triết lý về sự đổi thay nghiệt ngã và
lớn lao của thời đại mà mỗi đời người chỉ là những sản phẩm minh họa cho các thời
điểm khác nhau của những cuộc đổi thay. Cuộc đời của chính ông cũng vậy. Sở dĩ
như thế bởi vì, cái nhìn nhà văn, sự tự ý thức về vai trò nhà văn - nhân chứng của
thời cuộc luôn là yếu tố chi phối sự kể (khác với Nguyễn Khải kể về bản thân từ
mối quan hệ ngang hàng, quan hệ cá nhân với cá nhân). Vai trò nhân chứng khiến
cho sự bộc lộ bản thân của chủ thể tự truyện thường thiên về những biểu hiện bên
ngoài hơn là thế giới nội tâm, thiên về khái quát bản thân hơn là giải thích bản thân.
Điều đó khiến cho việc xác định thể loại cho Chiều chiều và Cát bụi chân ai có
phần khó khăn.
Trong vai trò nhân chứng, một nhân chứng trong cuộc, tự truyện Tô Hoài tập
trung vào những khúc quanh của lịch sử và xã hội Việt Nam thế kỷ XX. Đó là Cải
cách ruộng đất, là sự kiện Nhân văn và những lần chính huấn trong văn nghệ, những
bước đi đầu tiên của quá trình xây dựng một tổ chức xã hội mới. Với ông, chúng là
những bước đi của lịch sử song chúng cũng cuốn theo mình những bi kịch của thân
81
phận. Song điều đó không dễ gì có thể phân tích một cách trực tiếp khi chúng chưa
từng được công bố. Đó là lý do vì sao những bức chân dung trong Cát bụi chân ai
luôn đượm màu bi kịch và những sự kiện lịch sử lại luôn mang màu sắc mơ hồ.
Trong Chiều chiều, chúng bớt mơ hồ hơn song có phần dàn trải hơn do sự trải dài
của thời gian và sự kiện.
Hai mảng nội dung chính của tự truyện Tô Hoài là những sự kiện chính trị và
văn học xảy ra ở nước ta sau cách mạng tháng Tám và số phận con người.
Trước tiên là những sự kiện chính trị - văn học những năm sau hòa bình mà
trọng tâm là sự kiện báo Nhân văn và phong trào chống Nhân văn - Giai phẩm.
Trong Cát bụi chân ai, ông dành tới hơn 20 trang diễn giải (từ tr 65 cho đến
tr 89) từ việc tờ báo Trăm hoa (bộ mới) do Nguyễn Bính làm chủ bút mà ông có vai
trò thay tổ chức hỗ trợ về giấy mực để làm đối trọng với Nhân văn nhưng kết quả
không đi đến đâu, rồi diễn biến của sự kiện báo Văn do Nguyên Hồng phụ trách,
những đợt kiểm thảo…đều được kể lại và đặc biệt sự tái hiện những tâm trạng nhà
văn như Nguyên Hồng, Nguyễn Bính…giúp người đọc hình dung không khí căng
thẳng bấy giờ. Về bản chất của sự việc, ông giải thích: “Báo Nhân văn chỉ là một
phần bề ngoài và là một thủ thuật chính trị dựa vào “trăm hoa đua nở”(…) Chiến
thuật thâm hiểm ấy gây nên cách nhìn lẫn lộn số đông tác giả với lòng chân thành ở
mỗi người và ở tổ chức” [73, 66]. Đó là quan điểm của Tô Hoài, có thể không trùng
khít với quan điểm của người này người khác, cũng có thể không lô gic hay rành
mạch về thời gian sự kiện song ngay cả điều đó cũng là một hiện thực. Sau này, vụ
việc “Nhân văn - Giai phẩm cũng đã được xem xét lại, nhiều nhà văn được minh
oan nhưng điều đau xót nhất chính là tuổi trẻ, tài năng, cơ hội của họ, quãng đời đẹp
nhất của họ đã trôi qua trong định kiến, trong sự quy chụp, sự sợ hãi và im lặng của
cả xã hội. Cả một thế hệ tài năng đều ở trong tình trạng “không đi đến đâu”. Về điều
này, ông tỏ rõ sự không đồng tình: “Nhưng đằng đẵng ba mươi năm không hội văn
học nghệ thuật nào lôi ra xem xét lại. Sợ sệt, phấp phỏng không phải chỉ ở tâm trạng
mấy ông “Nhân văn cả nước” mà tràn lan đến những ông “Nhân văn xóm”, chẳng
bị kỷ luật gì, nhiều người không phải vì bài văn, câu thơ, mà bởi đôi ba lời nói bông
lông, bốc trời chẳng hạn, cũng bị quy chụp luôn” [73, 81].
82
Sự kiện thứ hai là Cải cách ruộng đất. Đây là sự kiện được nói tới trong cả
hai cuốn Cát bụi chân ai và Chiều chiều. Sau này, trong Ba người khác, Tô Hoài
viết kỹ hơn và hình thức biểu hiện mang tính tiểu thuyết nhiều hơn dẫu đó vẫn là
những câu chuyện thật. Điểm nhấn của ông khi kể về Cải cách ruộng đất là những
hoạt động của đội công tác, của những anh đội và công việc của họ. Điển hình của
kiểu anh đội quyền uy là Huỳnh Cự, độc ác, dối trá, trình độ thấp nhưng lại là người
lãnh đạo, cầm cân nảy mực, quyết định sinh mạng con người. Không nói ra nhưng
có lẽ, theo Tô Hoài, chính loại người như vậy đã đóng góp một phần rất lớn tạo nên
bi kịch của Cải cách ruộng đất. Trong Chiều chiều ông còn nói thêm về mình, về
nhiệm vụ của mình và cả những điều thú nhận: “Quê tôi làng nghề thủ công, dệt
lĩnh, dệt lụa, làm giấy. Tôi không biết ước lượng một miếng, một sào (…) Thế mà
tôi đã dạy cho nông dân kể khổ, đấu địa chủ, rồi thống kê sào, mẫu...” rồi “chúng tôi
bắt đầu gọi chúng tôi là quân ông Thắng. Ôi thôi, kế hoạch phăm phắp từng ngày,
chỉ còn cách trí trá, nói dối mới sản ra các báo cáo kịp được” [74, 36]. Đến Ba
người khác, những vấn đề này được khắc họa rõ nét hơn và cũng nhiều ám ảnh hơn.
Chuyện chỉnh huấn những năm sau cách mạng và không khí căng thẳng của
nó, chuyện đi thực tế ở Thái Bình “không có gì nhưng cũng lại rất có”, rồi cảnh
tượng nông thôn lên hợp tác xã đầy bức bối, căng thẳng, khó khăn. Nông dân không
tin tưởng, cán bộ ấu trĩ và duy ý chí, rồi thói trộm cắp, nghi ngờ, nhiêu khê ở nông
thôn...Và chuyện đi học trường Nguyễn Ái Quốc, chuyện làm tổ trưởng khu phố,
làm chủ tịch hiệp hội các nhà văn Á - Phi…tất cả đều được viết với một tinh thần
coi trọng sự thật, một “sự thật như nó vốn có” và “chọn lọc những sự thật tiêu biểu”
với một thái độ “không nề hà những chuyện phải né tránh vì động cơ là trong sáng,
không định kiến”[74, 70]. Nhờ thế, người đọc có thể hiểu thêm về những khoảnh
khắc lịch sử của một thời đã qua trong lăng kính của một nhà văn - nhân chứng. Về
những sự kiện này, ông không lý giải, không phân tích, chỉ kể lại như những gì đã
nhìn thấy, đã nghe một cách khách quan, sinh động với những chi tiết và sự kiện tạo
ấn tượng riêng. Như chuyện ông tham gia ban đại biểu khu phố, những công việc
của một trưởng ban những ngày đầu xây dựng hệ thống hành chính tự quản, “không
có con dấu nhưng cứ ký giấy chứng nhận, xác minh, giới thiệu đủ thứ: đăng ký kết
hôn, xin miễn phí cho người nghèo nằm nhà thương, mua bán nhà, đưa giấy gọi
83
nghĩa vụ quân sự...mở lớp xóa nạn mù chữ, chống tái mù, đánh bả chuột, phun thuốc
muỗi…” [74, 200] chúng bộn bề, ngổn ngang như chính đời sống đang diễn ra.
Bên cạnh những công việc nhỏ nhoi ấy là câu chuyện về Liên Xô, những lần
sang Liên Xô dự các hội nghị, tham gia trại sáng tác… Câu chuyện về Liên Xô
đọng lại ở hình ảnh về những nhà văn mộc mạc chân thành, ở cảnh tượng người
Việt mua hàng, đánh hàng và cảnh thành phố Mát cơ va hỗn loạn sau khi nhà nước
Xô Viết lẫy lừng sụp đổ… Cùng với đó là nỗi niềm về sự đổi thay mà không thể
nào giải thích: “Bốn mươi năm trước với bây giờ khác quá mà không tự biết, cuộc
sống, xã hội và đời mình. Tuổi nhiều thì ngại đổi thay mà cứ như định mệnh không
tránh được” hay “không phải có những chuyện không muốn nhớ mà cứ nhớ, cái sự
đời thế vậy, ấy là lần sau cùng qua Mát cơ va rồi Liên Xô bỗng thành “Liên Xô cũ”
[74, 468]. Không giải thích về những đổi thay, chỉ ghi lại như những gì đã diễn ra
trong nỗi cảm khái về thời cuộc, đó là cách kể câu chuyện về mình của Tô Hoài.
Nạn nhân của những biến động thời cuộc là số phận con người. Trong cả
Chiều chiều và Cát bụi chân ai cảm hứng về sự đổi thay hiện diện qua những số
phận nghệ sĩ luôn bàng bạc trong những đánh giá và tổng kết của ông.
Cát bụi chân ai là một tập hợp các nhà văn, nghệ sĩ thuộc về những “điểm
nhấn” của đời sống văn chương nước ta những năm sau cách mạng. Tô Hoài viết về
những bạn văn của mình một phần là khắc họa chân dung, song ở về phía những
khuất lấp nhiều hơn, ngược lại với những gì mà người đọc từng biết và phần khác,
là nói sự thật về sự kiện. Ví như sự kiện về báo Nhân văn và số phận các văn nghệ
sĩ như Đặng Đình Hưng, rồi Hoàng Cầm, Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Phùng
Cung… , Sự kiện chỉnh huấn sau Nhân văn với Nguyên Hồng, Nguyễn Tuân, và cả
chính ông. Trước Tô Hoài, những điều đó chưa từng được chấp nhận trong văn học
bởi vì hầu hết những câu chuyện về nhà văn, các giai thoại là những hình ảnh đẹp
nhằm tô đậm một đặc điểm tính cách nào đó trong cảm hứng ngợi ca hơn là khắc
họa một hình ảnh thật, đầy bi thương về cuộc đời và số phận của họ. Không phải
ngẫu nhiên mà Nguyễn Tuân được Tô Hoài dành nhiều phần viết nhất. Ông không
mô tả Nguyễn Tuân như một biểu tượng của cá tính ngông ngạo của nhà văn mà
nhìn Nguyễn trong cái nhìn cận cảnh và gần gũi. Một Nguyễn Tuân vừa ngạo mạn,
vừa tinh tế, vừa hồn nhiên vừa gai góc, cả lời nói và hành động, những cử chỉ xã
84
giao đến những suy tư về sự sống và sự viết, thói xấu và mặt tốt…bất cứ chi tiết nào
cũng đầy ấn tượng và ám ảnh. Và đặc biệt là mối quan hệ giữa ông và Nguyễn
Tuân, không hoàn toàn thân thiết song lại luôn cùng nhau trong nhiều chặng đường,
và vì thế, mà hiểu nhau. Số phận văn chương của Nguyễn Tuân cũng là một hình
ảnh tiêu biểu cho số phận các nhà văn nổi tiếng trước cách mạng. Đầy cá tính, ý
thức mạnh mẽ về cá tính và tài năng, không dễ đổi thay theo thời thế song vì thế mà
dễ vấp phải những bất trắc, thiệt thòi, phải chịu nhiều thăng trầm và bi kịch. Cũng
tương tự Nguyễn Tuân là số phận của Nguyên Hồng. Tô Hoài viết khá cụ thể về
tính cách, nhân cách và tâm hồn nhạy cảm của Nguyên Hồng, một nhân cách trong
sáng, không dễ đổi thay hay khuất phục, Nguyên Hồng đã chọn cho mình một ứng
xử riêng trước những ràng buộc, nhưng cuộc đời, theo Tô Hoài, cuối cùng cũng vẫn
bị “lụi đi” nơi xó rừng Yên Thế.
Đến Chiều chiều, ông viết thêm về một số nhà văn và cái chết của họ, phân
tích nhiều hơn và bày tỏ cũng nhiều hơn. Cái chết lặng lẽ như của Nguyễn Khắc
Dực, đặc biệt là cái chết đơn độc của Trần Đức Thảo và cái chết của sự nghiệp như
Đặng Đình Hưng rồi Trần Huyền Trân…câu chuyện về họ khắc họa thêm tính chất
bi kịch của một thế hệ văn nghệ sĩ, nạn nhân của một thời đã qua. Ngẫm lại về
những con người ấy, cái còn lại chỉ là nỗi buồn “Những cuộc đời một mình thui
thủi, mỗi người mỗi khác, biết hay không biết nhưng chung một nỗi buồn, là Trần
Đức Thảo, là Trần Huyền Trân, là Trọng Hứa, là Vạn Lịch hay Platon Hai Thành, ai
thấu cho, mà biết thế nào được” [74, 468]
Là người từng giữ nhiều chức vụ trong hoạt động văn học sau Cách mạng
(phóng viên báo Cứu quốc của cơ quan Tổng bộ Việt Minh, chủ nhiệm báo Cứu
quốc Việt Bắc,..) và Hội nhà văn (Tham gia ban thường vụ Hội nhà văn), chủ tịch
Hội văn nghệ Hà Nội…, suốt ba mươi lăm năm làm việc hầu như đều tham gia chi
ủy” chứng kiến biết bao sự việc, bao số phận và bao đổi thay của đời sống nhỏ là
đời sống văn nghệ, lớn là đất nước, là thế giới suốt thế kỷ qua, vì thế, chỉ Tô Hoài
mà không thể là ai khác, có thể nói về những sự thật ấy, những câu chuyện ấy. Song
điểm hấp dẫn là ở chỗ ông đã kể chúng theo một cách riêng mà chỉ ông mới có thể
thực thi. Người đọc đã chờ đợi ở ông và ông đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Ông
85
kể về các nhà văn như là sự chiêu tuyết song hơn hết, đó là việc kể về một sự thật
như là một trách nhiệm đối với con người và đối với chính mình.
Một biểu hiện của sự bộc lộ nhân cách trong cái nhìn nhân chứng là cái tôi
chủ thể - nạn nhân của lịch sử và xã hội. Với tinh thần nhân chứng, với mong muốn
khái quát một phần của hiện thực bị khuất lấp, Chuyện kể năm 2000 là bức tranh
đầy bi kịch về số phận một nhà văn, nạn nhân của sự chụp mũ chính trị của vụ án
xét lại trong văn nghệ những năm 60 của thế kỷ 20. Hình ảnh của nhân cách xã hội
được chủ thể bộc lộ ở đây là hình ảnh một con người bị hủy hoại và cố gắng để
vượt lên sự hủy hoại đó bằng sức sống tinh thần của mình. Việc bộc lộ quá trình
hủy hoại và bị hủy hoại của chủ thể chính là bộc lộ hình ảnh thật của mối quan hệ
cá nhân và quyền lực xã hội một thời. Bởi thế, chúng tôi gọi chủ thể nhân cách
trong tự truyện này là chủ thể - nạn nhân.
Câu chuyện về chủ thể trong Chuyện kể năm 2000 là câu chuyện thật của Bùi
Ngọc Tấn. Khác với Tô Hoài, ông giới hạn mình trong một khoảng cách an toàn:
người kể chyện từ ngôi thứ ba để kể câu chuyện của mình. Vì thế, một mặt, chúng
để ngỏ khả năng quy chiếu, một mặt, chúng mang ý nghĩa khái quát. Chúng tôi gọi
kiểu chủ thể này là chủ thể nhân chứng. Bởi đối với họ, những câu chuyện cá nhân
cũng đồng thời là câu chuyện của nhân sinh.
Trạng thái bị cầm tù là trạng thái nhân sinh khủng khiếp được tái hiện lại
trong ký ức của chủ thể tự truyện. Hình ảnh của nhà tù không chỉ hiện hữu bằng
những sự kiện trong không gian ấy, mà qua trạng thái bị cầm tù cả khi đã ra tù.
Chúng hiện ra qua ký ức đeo đẳng, trong nỗi sợ hãi vô cớ, trong phản xạ luôn bị
theo dõi, bủa vây: “Cài trái cửa, hắn lấy bộ quần áo của mình ra ngắm nghía, mặc
vào người và đứng trước gương…trong mảnh gương vỡ, một anh tù CR880 viết
bằng sơn đỏ trên ngực. Chiến quần dải rút xám viết bằng sơn đỏ ngang đùi CR880.
Đây mới thật là hắn, là cái cuộc đời dành cho hắn. Là cái đã tồn tại, đang tồn tại và
sẽ tồn tại cùng với hắn” [158, 321] và ký ức tự động đọc lại những dòng nội quy
của nhà tù một cách vô thức. Đó là tình trạng của nạn nhân đang cố gắng thoát ra
khỏi những gán nhãn, đi tìm một biểu nghĩa của mình nhưng cuối cùng buộc phải
chấp nhận, điều đó cũng có nghĩa là cái chết theo ý nghĩa mà Amos Goldberg đã
phân tích [58]
86
Song song với chân dung hắn là một lực lượng quyền lực được diễn đạt bằng
hình ảnh một kẻ vô hình:
“Hắn hiểu rằng ai cũng có một người vô hình để mà trình bày, để mà sơ sệt
và thầm cãi lại sau lưng. Người vô hình luôn bên cạnh mỗi người như hình với
bóng, cả trong giấc ngủ…” [158, 358]. “Hắn” mãi mãi là một nạn nhân của cái
quyền lực to lớn và luôn vô hình kia. Trong Rừng xưa xanh lá, Bùi Ngọc Tấn viết
về cuộc đời của các nhà văn Lê Bầu,Vũ Mạc Lân, Nguyên Bình, Hứa Văn Định…
một thế hệ nhà văn, họa sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp, cùng là nạn
nhân của những thế lực vô hình ở những mức độ khác nhau. Họ cũng như “hắn” vẫy
vùng, tuyệt vọng để tồn tại, để chống lại những lãng quên nghiệt ngã của thời gian.
Các bức chân dung ấy tạo nên một phác họa về một thế hệ nhà văn là nạn nhân của
một sự kiện chính trị xảy ra những năm sáu mươi của thế kỷ trước. Chúng là lời nói
trực tiếp, hiển ngôn, khác với chân dung của “hắn” là bức chân dung ẩn dụ. Song vẫn
luôn đầy đủ điều kiện để quy chiếu tới cuộc đời đầy đau khổ của nhà văn.
Cũng cảm thức ấy, Phùng Quán kể về các bi kịch cuộc đời của nhà triết học
Trần Đức Thảo, nhà văn hóa Nguyễn Hữu Đang,…những số phận đầy những điểm
tương đồng với chính người kể chuyện. Họ là những tài năng, những gương mặt
không thể thiếu của nền văn hóa nước nhà. Song cuộc đời họ cũng là kết quả của
những vết nắn chính trị bằng những cách khác nhau. Mảnh đoạn tự truyện Một năm
lao động ở công trường Cổ Đam cũng là một mô tả về tình trạng nạn nhân của chủ
thể như vậy. Song có lẽ, tình trạng nạn nhân và cuộc đấu tranh để thoát khỏi tình
trạnh ấy, để khẳng định bản sắc của chủ thể được mô tả rõ nét nhất trong Chuyện kể
năm 2000.
Cũng tương tự như vậy, chân dung về thân phận cũng được dựng lại trong
Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Tuy mức
độ của chúng có khác nhau. Nếu trong Một mình một ngựa, tinh chất bi kịch của
nhân vật chỉ hiện ra ở trang thái lạc lõng của nhân cách trong thế giới đời sống thì ở
Gia đình bé mọn, tính chất nạn nhân được bộc lộ từ cái nhìn bản thân trong sự đối
lập với các hệ thống bao quanh mình giữa một bên là cô Mỹ Tiệp bé nhỏ nặng 38
ký và các lực lượng khác: một gia tộc, một cơ quan, một ban thường vụ. Cũng như
“hắn” trong Chuyện kể năm 2000, Toàn trong Một mình một ngựa, Tiệp cũng là một
87
nạn nhân nhưng là nạn nhân của thời cuộc và những “cái lồng sắt tổ chức rườm rà
và ghê gớm”.
Hình ảnh về chủ thể nạn nhân là một góc nhìn mới về thân phận con người,
trong sự đối lập với các thế lực xã hội. Chúng có ý nghĩa khẳng định quyền tự do
của các chủ thể người trong một thực tại xã hội. Chúng cũng là sự tố cáo đối với
một thực tại xã hội phi nhân.
Như vậy, đối với các chủ thể nhà văn, việc đặt mình trong vai trò nhân chứng
giống như trách nhiệm nghề nghiệp. Chúng một mặt cho phép họ khái quát hiện
thực và nói sự thật theo cách của mình, một mặt khác, thể hiện xu hướng lựa chọn
sự biểu đạt bản thân trước những chế định của bối cảnh xã hội bởi trước họ, hầu
như chưa có tiền lệ cho những đề tài này.
Khác với các chủ thể nhà văn, vai trò nhân chứng của những chủ thể khác lại
khá đa dạng. Có thể là nhân chứng của một gia đình trải qua những thăng trầm lịch
sử trong Cô bé nhìn mưa (Đặng Thị Hạnh), Nhân chứng về một người cha trong
Cánh buồm đỏ (Lê Minh), nhân chứng của các thời kỳ xã hội trong Năm tháng nhọc
nhằn năm tháng nhớ thương (Ma Văn Kháng)…chúng là những khuôn mẫu phổ
trong việc cá nhân nhận diện bản sắc của mình trong văn hóa Việt Nam.
3.2.2.3. Cái Tôi cá nhân văn hóa
Miêu tả bản thân như một cá nhân văn hóa với những đóng góp nhất định
cho đời sống xã hội là đặc điểm tiêu biểu của nhóm tự truyện mà tác giả của nó là
những nhà văn hóa, nhà cách mạng và chính trị gia. Các điểm nhấn của câu chuyện
thường là: quá trình hình thành thế giới quan, những bước ngoặt tư tưởng, bài học
cuôc đời. Tất cả được lý giải trong mối quan hệ logic từ quá khứ đến hiện tại. Đặc
điểm này không chỉ có ở tự truyện Việt Nam mà có thể tìm thấy trong tự truyện của
những nhà tư tưởng xã hội và văn hóa nói chung. Trong tự truyện Việt Nam, tiêu
biểu là Những câu chuyện từ trái tim của Trần Văn Khê, Tự truyện của Nguyễn
Khắc Viện, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê của Nguyễn Hiến Lê… Mỗi người hoạt động
trong một lĩnh vực khác nhau song điểm gặp nhau giữa họ là ý thức nhân cách từ
những đóng góp của mình cho xã hội và con người. Bởi vậy, những miêu tả về
mình của họ mặc dù cũng theo một cấu trúc thông thường là gia đình, tuổi thơ, thời
thanh niên nhưng điểm nhấn luôn là trách nhiệm xã hội, là ý thức về những đóng
88
góp xã hội. Điều đó hoàn toàn không xa lạ với truyền thống văn hóa Việt Nam vốn
coi đóng góp xã hội như là một chuẩn mực về lẽ sống.
Một dấu hiệu thể hiện rõ quan niệm nhân cách như một nhân cách văn hóa là
sự tự ý thức về vai trò của bản thân đối với xã hội. Ngay trong những lời mở đầu
giải thích về mục đích tự truyện, hầu hết đều coi cuộc đời mình như là một bài học,
một tấm gương cho thế hệ sau. Dù khẳng định tự truyện chỉ là những lời tâm sự,
song lời kể vẫn là những đúc kết, những bài học rút ra từ cuộc sống và trải nghiệm
của chính họ. Ví như lời tựa của Trần Văn Khê: “90 năm cuộc đời, tôi thấy niềm
vui nhiều hơn nỗi buồn. Tôi nghĩ rằng làm chủ bản thân trước những hỉ nộ ái ố là
điều quan trọng để bạn có thể thực hiện được những điều mình mong muốn và có
một cuộc sống buồn ít hơn vui” [94, 88] không chỉ là lời tâm sự mà còn có ý nghĩa
là những bài học kinh nghiệm để vượt qua khó khăn.
Cùng với việc gán cho từng đoạn đời những ý nghĩa khác nhau, quá trình vận
động của tư tưởng cá nhân cũng là một nội dung không thể thiếu trong tự truyện
dạng này. Hầu hết họ đều phân tích tỉ mỉ quá trình vận động của tư tưởng và nhân
sinh quan của bản thân, lý giải nó trong mối quan hệ logic với từng chặng đường
nhận thức. Điều đó khiến cho tự truyện trở thành lịch sử về một con người. Giải
thích về xu hướng chính trị của mình, nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện viết: “Thực
tiễn trên đây (thực tiễn các chế độ xã hội mà ông đã chứng kiến) là cơ sở quan trọng
giúp tôi xác định lập trường dứt khoát sau mấy năm đọc sách vở và suy nghĩ. Qua
năm 1947, tuy chưa vào Đảng nhưng tư tưởng lập trường của tôi đã nghiêng hẳn về
học thuyết Mác - Lenin, xuất phát từ ba cơ sở: đầu tiên là con đường chính trị, từ
lập trường yêu nước đến lập trường Mác xit cộng sản, cơ sở thứ hai là khoa học (…)
những kiến thức y học đã để lại cho tôi cái vốn văn hóa y khoa (…) tư duy biện
chứng nằm trong y học duy vật biện chứng làm cho tôi chấp nhận dễ dàng chủ
nghĩa Mác…cơ sở thứ ba là ngoài tình cảm dân tộc, vấn đề khoa học, có tình cảm
quốc tế…” [184, 196]. Những phân tích ấy cho người đọc hiểu về con người xã hội
của ông, lý giải vì sao ông trở thành một trí thức cách mạng. Điều đó với ông là cốt
yếu. Tổng kết 80 năm cuộc đời mình, điều ông tâm đắc là những đóng góp cho xã
hội và con người: “Có người gọi tôi là bác sĩ, có người gọi tôi là nhà sử học, nhà
báo thế này thế nọ. Tờ Đất Việt của Việt kiều Canada gọi tôi là sĩ phu hiện đại. Anh
89
Trường Giang thì gọi tôi là nhà văn hóa. Theo tôi nghĩ, đúng nhất là sĩ phu hiện đại.
Theo đạo Nho, sĩ phu là một con người nhận thấy mình có trách nhiệm với đất
nước, với xã hội, với nhân loại. Lý tưởng mà đạo Nho đưa ra: “tu thân, tề gia, trị
quốc, bình thiên hạ” là tư tưởng mà tôi chấp nhận và cố gắng thực hiện. Nhưng sĩ
phu hiện đại là có tính khoa học. Còn sĩ phu thời xưa là có tính đạo lý” [184, 196].
Sự khái quát ấy thể hiện rõ quan niệm về nhân cách của một thế hệ trí thức cách
mạng Việt Nam không gì khác là những đóng góp xã hộị, là những hành động vì
nghĩa lớn, vì chí lớn, vì nhân dân. Có những người có thể không đi theo con đường
cách mạng vô sản, nhưng chúng ta vẫn có thể nhìn thấy rất rõ điểm chung giữa họ,
đó là tinh thần chủ động, tích cực tham gia vào đời sống xã hội nói chung.
Đặc điểm nổi bật của sự bộc lộ bản thân trong các tự truyện này là sự thống
nhất giữa con người cá nhân và con người xã hội. Chân dung xã hội và chân dung
cá nhân của họ về cơ bản là đồng nhất. Nhà văn hóa Nguyễn Khắc Viện ngoài đời
đồng nhất với người “sĩ phu hiện đại” mà ông tự đánh giá về mình. Nguyễn Hiến Lê
trong hồi ký của ông không khác với Nguyễn Hiến Lê mà mọi người đã phần nào
được biết. Khác chăng, chỉ là chưa được hiểu một cách tường tận và được xác nhận
một cách chính xác mà thôi. Đọc câu chuyện của họ là đọc về một nhân cách văn
hóa, về quá trình lao động và cống hiến hơn là những nỗi niềm riêng tư, thầm kín.
Song mỗi câu chuyện ấy bao giờ cũng, bên cạnh câu chuyện về cá nhân là câu chuyện
của trí tuệ, của khoa học, của văn hóa và thời đại. Do vậy, chúng khá hấp dẫn.
Từ các phương diện bộc lộ chủ thể trong tự truyện có thể thấy rõ sự đa dạng
trong của bức tranh nhận thức về cá nhân và bản sắc cá nhân của xã hội Việt Nam
từ sau Đổi mới đến nay. Cũng đồng thời qua đó có thể nhìn thấy những khuôn mẫu
nhân cách truyền thống và quá trình biến đổi của chúng trong thời đại hội nhập và
toàn cầu hóa. Nếu đặt các kiểu chủ thể theo một tiến trình biểu đạt sẽ thấy chúng
mang đặc điểm của từng giai đoạn lịch sử xã hội một cách rõ nét. Chủ thể cá nhân
văn hóa luôn gắn với thời đại mà ở đó, con người cá nhân luôn được quan sát trong
vai trò của những chủ nhân xã hội, tạo dựng xã hội. Những chuẩn mực xã hội đồng
nhất trong tính cách và phẩm chất cá nhân. Chủ thể nhân chứng lại là sản phẩm của
những biến động chính trị xã hội và thời cuộc mà cuộc đời họ hoặc trải qua, hoặc
chứng kiến. Tiêu biểu nhất là vai trò nhà văn. Vì thế, cái tôi của họ trong tự truyện
90
luôn là một cái tôi nhân chứng, người lưu giữ ký ức lịch sử. Khác với hai mô hình
biểu đạt trên là sự bộc lộ cái Tôi nhấn mạnh những đặc điểm khác biệt, riêng biệt.
Có thể coi tự truyện Yêu và Sống của Lê Vân là hình ảnh sinh động của quá trình
chuyển đổi từ những cái tôi xã hội sang cái tôi cá nhân trong sự đối lập với các cá
nhân khác. Mặc dù sự bộc lộ còn đầy tính thăm dò song điều đó phản ánh nhu cầu
khá tiêu biểu của con người thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập. Đó là cách để mỗi
người có thể lưu dấu, để không bị cuốn trôi trong nhịp sống gấp gáp và nhờ thế, để
tồn tại.
Như vậy, từ các phương diện bộc lộ cái Tôi có thể thấy: nổi bật trong tự
truyện là cái nhìn thiên về mặt xã hội của nhân cách hơn là mặt cá nhân. Điều đó
làm nên dấu ấn riêng của tự truyện Việt Nam.
3.3. Các hình thức biểu đạt chủ thể
Để trả lời câu hỏi: chủ thể sẽ bộc lộ mình bằng cách thức nào nhằm đạt được
mục đích tự truyện, phần viết sau đây là kết quả khảo sát về các hình thức biểu đạt
chủ thể trong tự truyệnViệt Nam đương đại. Từ đây có thể nhìn thấy những thiết lập
mới trong sự viết về cái tôi cá nhân.
Chúng tôi nhận thấy một đặc điểm nổi bật về hình thức biểu đạt chủ thể
trong tự truyện Việt Nam đương đại là cùng với những trường hợp hội đủ các dấu
hiệu tự truyện, mỗi đặc trưng lại xuất hiện những biến thể. Để thuận tiện cho sự mô
tả, chúng tôi tạm chia thành hai nhóm loại: Tự truyện thuần túy và các tự truyện
biến thể mà ở đó có hiện tượng pha trộn với các hình thức viết khác. Song tất nhiên,
ở đó chúng vẫn tồn tại những đặc điểm của tự truyện.
3.3.1. Hình thức tự truyện thuần túy
Hình thức tự truyện mà chúng tôi nói tới ở đây là để chỉ sự tương đồng khá
lớn giữa định nghĩa về tự truyện với đặc trưng của chính văn bản tác phẩm. Dạng
thức này gắn liền với đặc điểm về sự tương đồng giữa câu chuyện được kể và cuộc
đời nhân vật, ở điểm nhìn cá nhân và quá trình tự phân tích in đậm dấu ấn chủ quan.
Có thể kể đến tự truyện Yêu và Sống của Lê Vân, Xuyên Mỹ của Phan Việt, Không
lạc loài của Thành Trung, Bóng của Nguyễn Văn Dũng. Dù không hoàn toàn là một
sáng tạo văn học song sự xuất hiện của nó lại mang ý nghĩa như một đột phá, một
bước ngoặt trong việc kể sự thật về con người cá nhân, chúng có những tác động
91
nhất định tới nhận thức về thể loại này trong văn học nói chung. Ở các tự truyện
này, sự trùng khít giữa tác giả, người kể chuyện và nhân vật, điểm nhìn hồi cố và
giọng điệu chủ quan, cho đến các sự kiện cốt truyện đều được đảm bảo chặt chẽ.
Đặc biệt tính chất nội quan và tinh thần tự thú của chủ thể khiến chúng trở thành
những tự truyện khá hiếm hoi trong văn hóa Việt Nam. Tiêu biểu nhất cho tự truyện
dạng này là Yêu và Sống của Lê Vân.
Không có bất cứ khoảng cách nào giữa người kể chuyện và tác giả, giữa diễn
viên Lê Vân và người kể chuyện Lê Vân. Thêm vào đó, tinh thần tự thú đã khiến tự
truyện của chị thấm đẫm vẻ chân thành.
Ngay ở phần cuối của lời mở đầu trả lời cho câu hỏi: “Vì sao tôi quyết định
công bố cuốn sách này”, sau khi giới thiệu bức thư của một cô gái trẻ hâm mộ mình,
sau khi đã giải thích về hành động của mình, chị kết lại: “Mục đích lớn nhất của tôi
là sám hối mặc dù tôi biết không phải mọi sự sám hối đều được tha thứ. Tôi muốn
tự trừng phạt mình thay cho một sự trừng phạt từ trên cao sớm muộn rồi cũng sẽ
giáng xuống…” [183, 25]. Và mục đích ấy quyết định điểm nhìn của tự truyện của
chị. Câu chuyện của chị vì thế tràn ngập một tinh thần sám hối. Từ những sự thật về
tuổi thơ đầy cay đắng theo cảm nhận của chị đến sự trưởng thành và quan niệm
nghề nghiệp, mối quan hệ gia đình và cái nhìn đầy trách móc đối với cha, nỗi niềm
sẻ chia với mẹ, cho đến những lỗi lầm của chính mình…đều lần lượt được kể lại
không giấu diếm. Có thể thống kê trong tự truyện những lời bộc bạch sâu thẳm:
Về tuổi thơ: “Không hiểu sao tôi luôn có cảm giác tuổi thơ của tôi thực là
ngắn ngủi” [183, 27]
Về người cha: “Một trong hai người đàn ông có ảnh hưởng nhiều nhất đến
cuộc đời tôi là bố. Phải chăng đó là lẽ tự nhiên. Bởi bố chính là người khác giới đầu
tiên tôi được tiếp xúc. Nếu những hồi ức về mẹ cứ ào ạt tràn về với bao nỗi xót
thương chia sẻ thì với bố, hầu như chẳng đọng lại điều gì ngoài một sự trách móc
âm thầm” [183, 51]
Về người yêu đầu tiên: trong tình yêu với Người ấy, tôi như người sống hai
cuộc đời. Cuộc đời ngoài ánh sáng với đồng nghiệp, bạn bè là cuộc đời giả tạo.
Cuộc đời trong bóng tối với mối tình éo le, vụng trộm mới là cuộc đời thực, nguồn
sống thực” [183, 153]
92
Chúng hoàn toàn là những tâm sự, là những trăn trở bên trong của chủ thể
trên con đường đi tìm bản sắc của chính mình. Song cũng bởi thế, câu chuyện của
chị luôn mang đậm màu sắc chủ quan với những đánh giá chỉ của riêng chị và luôn
luôn khác biệt với những chuẩn mực xã hội hiện thời. Điều này chính là cốt lõi, là
căn nguyên, là nhu cầu của hoạt động tự truyện. Tự truyện của Lê Vân, vì thế được
đánh giá là một “tự truyện đúng nghĩa”, là tự truyện đã mang đến những lý giải độc
đáo và hấp dẫn về con người cá nhân. Và hơn hết, nó là một hình ảnh phản chiếu
mâu thuẫn sâu sắc giữa giá trị cá nhân và giá trị xã hội trong nội tâm một con người.
Đặc điểm này khác hẳn với hồi ký. Trong hồi ký, điểm nhìn của người kể chuyện
hầu như đồng nhất với các chuẩn mực đạo đức, nhân cách mà xã hội quy định. Qúa
trình phân tích bản thân trở thành quá trình mô tả bản thân. Ngay cả các hồi ký
mang một số dấu hiệu hình thức của tự truyện như Cô bé nhìn mưa cuối cùng cũng
vẫn không vượt khỏi khung khổ của hồi ức là vì vậy.
Một trong những đặc điểm khiến những câu chuyện đời tư trở thành tự
truyện đúng nghĩa là tính “truyện” của nó. Trong Yêu và Sống, mặc dù kết cấu vẫn
theo trình tự thời gian và sự kiện song trong mỗi sự kiện ấy là những nếp gấp của ký
ức, là những sự kiện - tâm lý. Chúng làm cho câu chuyện của Lê Vân có được
những phẩm chất ngôn từ nhất định.
Có ý thức đẩy câu chuyện cá nhân trở thành một câu chuyện về sự tồn tại
người, Phan Việt trong tự truyện của mình lại tạo ra một dạng tự truyện vừa truyền
thống, vừa hiện đại qua hình thức cấu trúc lắp ghép giữa một bên là câu chuyện của
mình và một bên là câu chuyện của xã hội về cùng một đề tài. Chúng khiến câu
chuyện có dạng kết cấu khá hiện đại. Song điều đó vẫn không làm mờ đi những đặc
điểm truyền thống của tự truyện. Mặc dù cố gắng để giữ khung khổ của phi hư cấu
là trật tự thời gian biên niên song cấu trúc của tự truyện là một cấu trúc nghệ thuật
với sự trải dài theo các đường dẫn của ký ức, là những khúc ngoặt bất ngờ như
chính trạng thái nội tâm của chủ thể. Điểm nhìn trần thuật, vì thế, trùng với điểm
nhìn cá nhân.Toàn bộ các sự kiện đời tư tác giả: học nghiên cứu sinh Công tác xã
hội tại đại học Chicago, sinh ra ở Hà Nội, đời sống của một du học sinh trên đất
Mỹ,…đặc biệt là những phân tích xã hội tâm lý về li hôn và những vấn đề tâm lý
của phụ nữ trước, trong và sau khi li hôn được sử dụng vừa như là những tư liệu
93
phân tích tình trạng bản thân vừa như là sự khái quát hóa bằng phương thức phi hư
cấu về một trạng thái sống của con người. Tác giả còn có ham muốn chúng có thể là
một tư liệu hữu ích để người đọc tìm thấy những lý giải khoa học cho tình trạng của
họ. Tất cả những điều đó làm cho con người cá nhân chủ quan của tác giả hiện lên
hết sức cụ thể. Đó là sự thật và cách thức bộc lộ sự thật của chị như chị đã từng tâm
sự: Tôi thích sự thật ở trạng thái đang tồn tại của nó ví dụ tôi đang mở cửa có nghĩa
là “tôi đang mở cửa chứ không phải tôi mô tả về hành động mở cửa của tôi” [PV
sâu số 1]
Hình thức tự truyện thuần túy kể trên, cho đến thời điểm hiện tại, xuất hiện
không nhiều. Hầu hết, các câu chuyện về bản thân đều được đặt dưới cái tên tiểu
thuyết. Điều đó một mặt phản ánh xu hướng cách tân trong hành trình đổi mới tiểu
thuyết, một mặt khác là biểu hiện những áp lực xã hội đối với hình thức kể về bản
thân. Tất nhiên ở đây, áp lực không chỉ là những cấm đoán mà thực chất đã trở
thành sự tự ý thức trong việc viết của chính chủ thể.
Lựa chọn hình thức tự truyện thuần túy chủ thể đã tỏ rõ ý thức khẳng định
nhu cầu được viết câu chuyện của mình của mỗi chủ thể đồng thời thể nghiệm một
cách thức biểu đạt cá nhân trong đời sống đương đại.
3.3.2. Các hình thức biến thể
3.3.2.1. Hình thức tự truyện - tiểu thuyết
Tự truyện giao thoa với tiểu thuyết ở đặc điểm về tính “truyện” với sự thừa
nhận yếu tố hư cấu như một thành tố không thể thiếu. Song lại vẫn là tự truyện khi
đối tượng phân tích của người kể chuyện là chính bản thân mình. Bằng chứng là sự
tương ứng giữa sự kiện cốt truyện và sự kiện cuộc đời thực của tác giả. Đặc biệt là ý
thức tự phân tích như là dấu hiệu hết sức quan trọng. Các dấu hiệu hình thức của tự
truyện vì thế luôn mang tính hai mặt: vừa là tự truyện song cũng có thể gọi là tiểu
thuyết. Đặc điểm này khác với tiểu thuyết tự truyện ở chỗ một bên lấy mục đích bộc
lộ bản thân mình làm trọng tâm và một bên lấy sự khái quát hiện thực làm mục
đích, các chi tiết về chủ thể vì thế, chỉ là những chất liệu trong khi đó, ở tự truyện,
chủ thể trở thành một hình tượng. Ví dụ trong Người tình của M. Duras, những chi
tiết viết về cô bé 15 tuổi tương đồng với một phần cuộc đời tác giả khi bà sống ở
Sài Gòn song chúng chỉ là chất liệu trong hành trình nắm bắt những ý nghĩa của các
94
trạng thái sống mà tác giả muốn biểu đạt. Người đọc có thể đối chiếu những chi tiết
tiểu sử tác giả với các chi tiết của cuộc đời nhân vật song lại không thể dựng lại
chân dung của tác giả.
Về mặt khái niệm, hình thức tự truyện - tiểu thuyết là sự giao thoa giữa hai
thể loại. Người đọc cũng có thể gọi đó là những tiểu thuyết bởi hình thức biểu đạt
mang nhiều yếu tố hư cấu của tiểu thuyết như: sự xuất hiện của ngôi trần thuật thứ
ba, ở tính chất nghệ thuật của cấu trúc văn bản song lại cũng nhận ra ở đó chân
dung và cuộc đời tác giả. Nói khác đi, hình thức tự truyện - tiểu thuyết chính là quá
trình nhà văn tiểu thuyết hóa câu chuyện cuộc đời mình. Trong văn học thế giới có
thể kể đến bộ ba tự truyện Thời thơ ấu, Kiếm sống và Những trường đại học của tôi
của M. Gorky, Thời thơ ấu, Thời thanh niên của L. Toxtoi, Sống để kể lại của G.G.
Macket…văn học Việt Nam là Dã tràng của Thiết Can, Những ngày thơ ấu của
Nguyên Hồng. Sau 1986 có Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên, Thượng đế thì cười của
Nguyễn Khải, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Ba người khác của Tô Hoài, Một
mình một ngựa của Ma Văn Kháng…
Ở đây chúng tôi không bàn đến hình thức giả tự truyện, một hình thức tiểu
thuyết mà ở đó, tác giả sử dụng các chi tiết thực để tạo dựng nên một thế giới hoàn
toàn hư cấu nhằm đánh lạc hướng người đọc như Chinatown của Thuận, Thiên sứ
của Phạm Thị Hoài…mà hướng tới những tác phẩm tiềm tàng khả năng đối chiếu
giữa cốt truyện và tiểu sử cuộc đời, giữa trải nghiệm của nhân vật và trải nghiệm
của chính nhà văn. Nếu ở các hình thức phi hư cấu, sự tương đồng này là tuyệt
đối, một chiều thì ở những tác phẩm này, chúng lại chỉ có ý nghĩa tương đối bởi
vì với nhà văn, cùng với ý thức tự truyện luôn là một ý thức sáng tạo không
cùng. Cũng chính bởi điều đó mà đặc điểm tiêu biểu của hình thức này là tính
“nhập nhằng thể loại”. Nó có thể được gọi là tự truyện song cũng là những tiểu
thuyết đúng nghĩa. Về phương diện tiếp nhận cũng vậy, người đọc bên cạnh việc
đi tìm các yếu tố sự thật về cuộc đời nhà văn còn tìm thấy ở đó những xúc cảm
thẩm mỹ, những bức tranh khái quát về thời đại, về số phận con người. Số phận
của một cá thể người có ý nghĩa như là một biểu trưng cho số phận con người
nói chung. Vì vây, việc coi các tác phẩm này như tự truyện hay tự truyện - tiểu
thuyết đều có thể được chấp nhận.
95
Đặc điểm cho thấy tính tự truyện trong hình thức này là sự tương ứng giữa
các sự kiện cốt truyện và cuộc đời tác giả. Dễ dàng tìm thấy nhiều chi tiết và sự kiện
xảy ra trong cuộc đời tác giả với cuộc đời và các sự kiện xảy đến đối với nhân vật
chính. Hình ảnh cái tôi nạn nhân của những xô đẩy của chiến tranh qua nhân vật Mĩ
Tiệp tương ứng với những gì xảy ra trong cuộc đời của chính tác giả. Khác chăng là
nhà văn đã tiểu thuyết hóa sinh mệnh xã hội của mình để bao quát nhiều hơn một
tình trạng của hiện thực. Ở Thượng đế thì cười, Nguyễn Khải cũng thừa nhận: “Tác
phẩm mang dáng dấp của một hồi ký về cuộc đời viết văn của tôi. Tuy nhiên, tôi
chọn cách diễn tả hơi khác những hồi ký thông thường. Tôi không trực tiếp nhớ lại
những gì xảy ra trong quá trình sáng tác, nghĩa là không xưng tôi để cái tôi đó trong
hồi ức mà tạo ra một nhân vật, xưng danh theo ngôi hắn, để anh chàng này tự vấn,
tự kể, tự nhớ về cuộc đời mình. Hắn kỳ thực cũng là tôi, mà cũng có thể có chút gì
đó khác tôi”[191]. Và cũng không khó khăn khi bức chân dung “hắn” trong Thượng
đế thì cười hoàn toàn trùng khít với cuộc đời Nguyễn Khải. Với Chuyện kể năm
2000 cũng vậy, mặc dù tác giả không thừa nhận là tự truyện song những sự kiện cốt
truyện, đặc biệt là những sự cố xảy đến trong cuộc đời nhân vật, người đọc đều có
thể đối chiếu với cuộc đời của chính nhà văn. Chi tiết về sự kiện bị bắt, về số tù
CR880 mà ông mang trong những năm tháng tù đày xuất hiện trong nhiều trang viết
của ông, đặc biệt là trong hai tập hồi ký Rừng xưa xanh lá và Một thời để mất như
là một ám ảnh khó phai. Chúng khẳng định sự tương đồng giữa đời sống và đời viết
của nhà văn. Hay ở Một mình một ngựa, dấu vết của tự truyện được thể hiện ngay từ
khẳng định của nhà văn: Cuốn sách mang tính tự truyện. Nó là một đoạn đời của
tôi. Tất cả đều thật. Các nhân vật trong sách đều có nguyên mẫu ở ngoài đời, phần
lớn, các anh chị ấy giờ đây không còn nữa; tôi viết về họ trong một hồi tưởng trân
trọng, thiêng liêng và vô cùng yêu quý [ PV sâu số 2]. Sau này, trong hồi ký Năm
tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, ông kể về từng nguyên mẫu hầu như
không khác nhiều so với tiểu thuyết ngoài những cái tên. Đặc biệt, cuộc đời, tính
cách nhân vật Toàn là hình ảnh một quãng đời của tác giả khi làm trợ lý cho bí thư
tỉnh ủy Lào Cai Trường Minh. Nếu đọc Một mình một ngựa như tự truyện, hẳn
người đọc sẽ có những hiểu biết thú vị về con người ông. Cốt truyện không đơn
thuần chỉ là sự tương ứng giữa tiểu sử nhà văn và tiểu sử nhân vật, mà là một thế
96
giới sống động, một lát cắt từ cuộc đời lao động và cống hiến của nhà văn được tổ
chức một cách nghệ thuật. Tất nhiên, mức độ tương đồng giữa cuộc đời được kể và
cuộc đời diễn ra trên thực tế trong mỗi tự truyện không hoàn toàn giống nhau bởi,
suy cho cùng, bản thân sự viết cũng đã là một quá trình hư cấu và việc tác giả kể lại
cuộc đời mình cũng không thể tránh khỏi những đánh giá chủ quan.
Cùng với những tương đồng nhất định của sự kiện cốt truyện và cuộc đời tác
giả là sự đồng nhất giữa người kể chuyện và nhân vật chính. Người kể chuyện có
thể xưng “tôi” hoặc đại từ nhân xưng ngôi thứ ba khi kể.
Hiện tượng đồng nhất giữa người kể chuyện và nhân vật chính là đặc điểm
nổi bật của hư cấu trong dạng thức tự truyện tiểu thuyết. Đó là những nhân vật xưng
“tôi”: đội Bối trong Ba người khác của Tô Hoài, là cậu bé con, là thằng Cu trong
Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên, là một tôi bằng xương bằng thịt trong Sáng tối mặt
người của Sao Mai hay là một “hắn”, một nhà văn đang lâm vào tình huống rắc rối
với bà vợ khi về già trong Thượng đế thì cười, một tên tù chính trị không án trong
Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, một “nàng” - Mỹ Tiệp với khát vọng vượt
các khung chuẩn mực của xã hội, gia đình để sống cuộc đời của mình trong Gia
đình bé mọn, một “nàng” cố gắng mãi cho hạnh phúc mà không thể với tới hạnh
phúc trong Tiền định...Mỗi câu chuyện là hành trình cuộc đời, hành trình hoạt động,
là nỗi niềm và cảm xúc của chính nhân vật - người kể chuyện. Vì thế, cho dù ngôi
kể xưng tôi hay kể từ ngôi thứ ba: hắn, nàng hay bằng tên thì những yếu tố chủ quan
của người kể chuyện vẫn in dấu đậm nét trong từng cách đánh giá, trong giọng điệu
kể chuyện và toàn bộ câu chuyện.
Song mặc dù người kể chuyện và nhân vật chính hoàn toàn trùng khít nhưng
trong tác phẩm, sự xác nhận về mối liên hệ với tác giả và người kể chuyện lại không
phải khi nào cũng được thừa nhận. Chúng tạo nên một khoảng mờ đối với sự quy
chiếu tác giả - người kể chuyện - nhân vật. Ở đây, hư cấu tạo nên một giá trị về sự
nhập nhằng.
Trên thực tế, người kể chuyện tham gia vào câu chuyện như một nhân vật
chính không phải là hiện tượng xa lạ của tự sự hư cấu nhưng việc nhà văn lựa chọn
hình thức người kể chuyện này hẳn cũng không nằm ngoài chủ đích tạo ra một giả
định về sự thật.Trong nhiều trường hợp, điều đó tiềm ẩn khả năng đồng nhất giữa
97
tác giả và người kể chuyện. Đặc biệt khi xuất hiện những dấu hiệu cho phép quy
chiếu. Các hiện tượng đọc tiểu thuyết như tự truyện hay đọc tự truyện như tiểu
thuyết thực ra đều bắt đầu từ dấu hiệu này. Khảo sát hình thức tự truyện - tiểu
thuyết, chúng tôi nhận thấy hai trường hợp khá đặc biệt: trần thuật từ ngôi thứ nhất
từ điểm nhìn khách quan và trần thuật ngôi thứ ba với điểm nhìn chủ quan. Chúng
là những yếu tố tạo nên sự liên tưởng rộng mở về sự tương đồng giữa tác giả và
người kể chuyện.
Hình thức kể nổi bật của lối trần thuật chủ quan hóa là việc sử dụng ngôi kể
thứ nhất. Khoảng cách giữa người kể chuyện và câu chuyện được kể bằng không,
điểm nhìn trần thuật trùng khít vào nhân vật xưng tôi. Đó là lối kể của tự truyện.
Song không phải tất cả các câu chuyện được kể từ ngôi thứ nhất đều là tự truyện
mặc dù để được coi là tự truyện đúng nghĩa, bao giờ người kể chuyện cũng phải bắt
đầu từ ngôi kể này. Ưu thế của trần thuật từ ngôi thứ nhất là việc thể hiện cái tôi cá
nhân một cách trực tiếp. Người kể chuyện sẽ xác lập điểm nhìn trần thuật bên trong
và có khả năng đi sâu vào các trạng thái nội tâm với những diễn biến tâm lý phức
tạp của nhân vật và diễn đạt chúng một cách cụ thể nhất.
Tự truyện - tiểu thuyết kể từ ngôi thứ nhất nổi tiếng trong văn học Việt Nam
là Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng. Với ngôi kể này, nhà văn đã kể về tuổi ấu
thơ đầy cay cực của nhân vật, về gia đình, trường học, những xúc cảm và nỗi đau
của một tâm hồn thơ dại trước cuộc sống khắc nghiệt và sự khô cạn tình người.
Những trùng khít của tên nhân vật, điểm nhìn và cảm xúc cho phép người đọc đồng
nhất tác giả với người trần thuật và nhân vật chính. Song những hiện tượng như vậy
không nhiều trong văn học Việt Nam sau 1986. Miền thơ ấu của Vũ Thư Hiên,
Sáng tối mặt người của Sao Mai là những trường hợp ngoại lệ. Xác định thể loại
của tác phẩm của mình là hồi ký, nhà văn đồng thời thừa nhận cậu bé - tôi - trong
câu chuyện cũng chính là mình thuở ấu thơ. Câu chuyện kể về những kỷ niệm thời
thơ ấu sống với người cô ở một làng quê xứ đạo. Cuộc sống nghèo khổ, buồn bã
nhưng ấm áp tình người, các trò nghịch ngợm, những suy nghĩ non nớt, sự mất
mát niềm tin, nhưng kỷ niệm đau buồn… được tái hiện bằng giọng hoài niệm thiết
tha. Thông thường khi kể về quá khứ tuổi thơ, bao giờ cũng là những kỷ niệm đẹp,
song ở đây, cũng giống như trong Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng, Miền thơ
98
ấu của Vũ Thư Hiên cũng gắn liền với những kỷ niệm buồn. Bởi đó không chỉ là
câu chuyện của một cậu bé mười hai tuổi, đó là câu chuyện của một người đã trải
qua nhiều thăng trầm trong cuộc đời giờ đây hồi nhớ về tuổi thơ của mình. Cái tôi
kể chuyện vì thế, vừa là “tôi”, vừa lớn hơn “tôi”. Đọc Miền thơ ấu, người đọc
không chỉ được chứng kiến tuổi thơ và làng quê của Vũ Thư Hiên mà còn cảm
nhận về tuổi thơ của mình, làng quê của mình và những trải nghiệm của chính bản
thân mình.
Cách thức này cũng được thực hiện trong Sáng tối mặt người của Sao Mai.
Toàn bộ những phần sáng và tối của cuộc đời mình được viết với một ý thức chân
thành tuyệt đối. Điểm nhìn người kể chuyện - nhân vật là hoàn toàn trùng khít, các
sự kiện xảy ra trong cuộc đời nhà văn và cuộc đời nhân vật cũng hoàn toàn tương
đồng. Đôi chỗ nhà văn xác nhận họ Tân và cái tên Khải Minh của mình. Điều đó
làm cho câu chuyện hoàn toàn trở thành một “truyện tôi”, câu chuyện của duy nhất
Sao Mai. Song chính tác giả lại chỉ thừa nhận nó là “tiểu thuyết” trong bản xuất bản
tại nhà xuất bản Công an nhân dân năm 1998. Cách gọi tên loại tác phẩm của mình
là tiểu thuyết cho thấy ý muốn không cam kết về sự trùng khít tác giả - người kể
chuyện. Và điều đó nhiều khi cũng được chấp nhận bởi cách kết cấu theo hồi mang
ý nghĩa cuộc đời như những hồi kịch (toàn bộ câu chuyện được kể trong 23 hồi), ở
điểm nhìn của người kể chuyện thường được đặt bên ngoài theo cách kể của tiểu
thuyết truyền thống. Ví như:
“Cải cách ruộng đất đến, tôi nhập cuộc được ngay.
Sau cải cách, đến sửa sai. Sai đâu sửa đấy. Không sai không sửa.
Bố vợ tôi được xuống trung nông đúng với thành phần ông.
Tôi nằm ở nông thôn suốt từ ngày có tổ đổi công, sang ngày lập nông hội,
qua cải cách ruộng đất, xong cả thời kỳ sửa sai, nên hội Văn nghệ Việt Nam mời tôi
viết một cuốn tiểu thuyết về đề tài này” [110, 318]. Đó là một cái tôi hoàn toàn chủ
quan song khoảng cách với sự việc được kể vẫn là một khoảng khách quan.
Song trường hợp Sáng tôi mặt người với ngôi kể tôi trực tiếp và chủ quan
không là một đặc biệt. Các nhà văn như Vũ Bão với Rễ bèo chân sóng, Đào Xuân
Qúy với Nhớ lại cũng viết theo cách thức này song bởi chúng thường thiên về kể
việc nên tính chất tự phân tích có phần nhẹ hơn.
99
Điển hình cho lối kể khách quan từ người kể chuyện xưng “tôi” là Cát bụi
chân ai và Chiều chiều của Tô Hoài
Ở Cát bụi chân ai và Chiều chiều, tính chất khách quan của người kể chuyện
được thể hiện khá nổi bật. Mở đầu Cát bụi chân ai: “Tôi kém Nguyễn Tuân mười
tuổi. Trước kia tôi không quen Nguyễn Tuân” [73, 5] và mở đầu Chiều chiều: “Năm
ấy tôi đi thực tế nông thôn ở Thái Bình” [74, 8] thì người kể là người trong cuộc,
điểm nhìn cũng là điểm nhìn của người trong cuộc chứng kiến, nhưng lại không là
người biết hết. Những gì sẽ kể cũng sẽ không chỉ bao gồm một mình bản thân “tôi”
mà là chuyện về những gì tôi tham gia, tôi biết. “Tôi” vì thế không đứng cao hơn
những gì sẽ kể mà ở trong câu chuyện, là một phần của câu chuyện. Chúng giống
như một cam kết về sự thật. Song một điểm khá thú vị, là chính ở đây, tác giả lại
không cam kết về sự trùng khít giữa mình và người kể chuyện xưng “tôi”cho dù các
yếu tố quy chiếu là hoàn toàn có thể. Câu chuyện vì thế sẽ chỉ là câu chuyện của
“tôi”. Người đọc sẽ tự mình đoán định, tự mình đi tìm sự thật trong hành trình cùng
những sự thật mà “tôi” sẽ kể. Với cách thức này, người kể chuyện được tự do để kể
về mình, về những gì mình biết, mình thấy. Đặc điểm ấy tạo nên hình ảnh một chủ
thể chứng nhân trong tự truyện Tô Hoài. Đó là chứng nhân của những giai đoạn lịch
sử đã qua của dân tộc, chứng nhân của những số phận con người, của những đổi
thay trong đời sống xã hội mà chính mình cũng không thể lý giải.
Cốt lõi của tự truyện là sự bộc lộ cái tôi. Song khác với các tự truyện lấy
“tôi” làm trung tâm, tự truyện Tô Hoài lấy những gì mà “tôi” chứng kiến làm trọng
tâm của miêu tả. Do đặc điểm này mà nhiều người đọc coi Chiều chiều hay Cát bụi
chân ai là hồi ký. Kỳ thực, tự truyện Tô Hoài không đi chệch khỏi đặc trưng của tự
truyện nói chung trong sự biểu đạt bản thân, khác chăng ở chỗ “tôi” chủ yếu hiện
diện qua điểm nhìn, qua tư cách một nhân chứng chứng kiến và đặc biệt qua cái
nhìn mang tính chiêm nghiệm nhân sinh của một nhà văn hơn là sự phân tích nội
tâm mình. Ngay những đặc điểm nhân thân cũng được nói rất ít ngoại trừ những chi
tiết cần thiết để lý giải tính cách hoặc sự kiện liên quan. Những chi tiết kiểu như:
“Khai sinh của tôi 16 tháng Tám là năm âm lịch. Tôi được sinh ở làng, thời ấy chưa
có lệ làm giấy khai sinh….Nhớ thế, giấy tờ nào về sau, cả khai sinh tôi đều lấy ngày
tháng âm lịch như dương lịch và năm Thân là 1920” [74, 379] không nhiều. Hơn
100
nữa, chúng lại được đặt rải rác, lẫn trong nhiều câu chuyện khác khiến cho sự miêu
tả riêng về bản thân bị chìm đi nhường chỗ cho những cuộc đời và số phận những
người khác điển hình hơn, đại diện hơn. Đó là cách mà chủ thể bộc lộ mình. Tất
nhiên, đôi khi trong Chiều chiều hay Cát bụi chân ai, những nét tính cách cụ thể
của “tôi” cũng được nói tới ví như: “tôi thì bị mơ hồ mất cảnh giác mọi mặt” hay
thông qua nhận xét của Nguyên Hồng trong một lần tức giận khi đọc bài báo thể
hiện tinh thần sửa sai của chính Tô Hoài: “Tiên sư mày, thằng Câu Tiễn, ông thì
không, Nguyên Hồng thì không” [73, 135] và Nguyễn Tuân thì nói: “Chó biết thằng
này thế nào là thật. Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không hiền lành của
mày”[73, 184] nhưng đó thường là những chi tiết để làm nổi bật một sự việc, một
tính cách hơn là lấy đặc điểm đó làm trọng tâm của sự phân tích. Chính bởi cách kể
này mà hầu như những sự thật đã đi qua trong lịch sử dân tộc đều được dựng lại
một cách sinh động. Còn “tôi” chủ yếu chỉ hiện ra qua những góc nhìn.
Đặc điểm thể hiện tính khách quan của người kể chuyện Tô Hoài là cái nhìn
không biết hết. Có thể gặp khá nhiều trong Chiều chiều những đoạn kể kiểu như:
Mùi (một công an văn hóa) đưa trả cho tôi quyển sách chưa rọc. Mùi đã cho tôi biết
rõ vậy, mà tôi nhìn mặt Mùi dường như ngờ ngợ chưa hẳn Mùi tin tôi. Có thể lắm
hay chỉ là cảm tưởng thành kiến và hoang tưởng của tôi” [74, 141], hay kể về Đặng
Đình Hưng: Cũng không biết rồi tại thế nào mà Đặng Đình Hưng vướng vào Nhân
văn. Ở hội Nhạc, Đặng Đình Hưng bị ra khỏi biên chế, Hưng không đi hay là không
được đi họp chi bộ, thế là mất cả Đảng tịch. Bây giờ dịch tài liệu cho cơ quan ăn
tiền bài…” [74, 158]. Lối kể không biết hết này gần với cách kể của một nhân
chứng chứng kiên sự việc và chỉ nói những điều mình biết. Và vì thế, sẽ có những
điều không biết, có những điều giả định “có thể lắm”, “không biết rồi tại thế nào”.
Chúng tạo ra những khoảng trống nhận thức cần được lấp đầy. Và chủ thể lấp đầy
bằng những chi tiết rải rác khi kể về số phận của những người khác, ở những trang
khác. Do vậy, người đọc vẫn có thể dùng cách chắp nối các chi tiết để hiểu rõ hơn
sự việc. Ở Cát bụi chân ai cũng vậy, những đoạn như: “Tuần báo Văn của Hội nhà
văn mà Nguyên Hồng phụ trách vẫn ra đều. nhưng hầu như số nào cũng lọt những
bài mà các cơ quan trách nhiệm cảm thấy ẩn ý thế nào” [73, 85], hay: “Hôm sau
mới rõ nguồn cơ những giọt nước mắt Nguyên Hồng rơi xuống đĩa bánh cuốn ở nhà
101
Hồng Lâm. Không biết những điều tôi đoán có hẳn như thế” [73, 113] xuất hiện khá
nhiều quanh câu chuyện về sự kiện Nhân văn. Một mặt, đó chính là sự thật của
những gì đã trải qua song một mặt khác, gợi ra những câu hỏi cần được trả lời.
Lựa chọn người kể chuyện kể ở ngôi thứ nhất trong tự truyện của các nhà
văn Việt Nam thường không phải là cách phổ biến để bày tỏ thế giới nội tâm của
mình. Thông thường họ sử dụng người kể chuyện ngôi thứ ba với những y, hắn,
chàng, nàng…và điểm nhìn bên trong. Điểm thú vị là ở chỗ, mặc dù chọn ngôi kể
thứ ba nhưng chúng luôn mang tính hai mặt bởi chúng có khả năng chuyển hóa
thành ngôi thứ nhất. Hay nói chính xác hơn, chúng luôn hướng đến một ẩn dụ nào
đó về tác giả. Thậm chí nếu chủ ý người đọc hướng tới tác giả thì điều đó vẫn hoàn
toàn có thể chấp nhận. Đặc điểm ấy tạo nên hình thức tiểu thuyết của tự truyện. Tất
nhiên, mức độ biểu hiện của sự lưỡng lự ngôi kể này ở mỗi tác phẩm có khác nhau.
Trường hợp Thượng đế thì cười và Chuyện kể năm 2000 là những ví dụ tiêu
biểu. Từ ngôi kể được xác định “hắn”, Nguyễn Khải bắt đầu câu chuyện của mình:
“Hắn không thể tin được đã sang tuổi bảy mươi lại phải đối mặt với những câu hỏi
hết sức vô lý, buồn cười…” [87, 30]. Sử dụng ngôi “hắn” nhưng thực chất điểm
nhìn, giọng điệu đều mang đậm dấu ấn chủ quan. Nếu thay thế “hắn” bằng “tôi”,
câu chuyện hầu như không thay đổi. Có chăng nó sẽ thêm một sự khẳng định về
phẩm chất tự truyện của tác phẩm bởi hầu như các sự việc được kể đều là những
chuyện đã thực sự diễn ra trong cuộc sống của nhà văn. Nếu thay thế ngôi kể hắn
bằng “tôi” trong một đoạn kể bất kỳ đều có thể thấy rõ điều đó: “trong nhiều giấc
mơ dài ngắn từ trẻ đến già tôi hay bị vây bủa trong những tình huống bị mất danh
dự đến tột cùng. Chẳng hạn như ăn nằm với một người đàn bà xa lạ và bị bắt quả
tang. Hoặc lấy cắp tiền và bị bắt quả tang. Trong đời một người đàn ông, tôi chưa
từng ân ái với một người đàn bà nào ngoài vợ mình. Nhưng phản bội vợ trong
tưởng tượng, trong thèm muốn thì luôn luôn có” [87, 127] hay “ năm tôi còn trẻ có
lên nông trường Điện Biên nhiều lần, sau này viết được truyện ngắn Mùa Lạc”
[87, 178] có thể thay thế ngôi kể như vậy trong toàn bộ truyện và câu chuyện hoàn
toàn có thể tương đồng với chính cuộc đời Nguyễn Khải. Từ tính cách, thói quen,
sự nghiệp văn chương, quan hệ xã hội…đều là chính Nguyễn Khải. Phải chăng sự
linh hoạt của đại từ “hắn” trong tiếng Việt vừa sử dụng như ngôi thứ ba nhưng
102
mang đầy đủ đặc tính của ngôi thứ nhất đã mang lại hiệu quả này? Đặc biệt nếu
xét từ góc độ tiếp nhận, khi nhà văn sử dụng ngôi thứ nhất, câu chuyện là của tác
giả, song nếu kể ở ngôi thứ ba, sự xác nhận ấy sẽ mơ hồ hơn, câu chuyện vì thế sẽ
trở nên đa chiều, lấp lánh hơn, những sự thật được nói đến cũng mềm mỏng hơn.
Thực tế, hầu hết người đọc đều mặc nhiên thừa nhận Thượng đế thì cười là tự
truyện hơn là tiểu thuyết.
Với Chuyện kể năm 2000 cũng vậy, mặc dù đã được tác giả khẳng định đây
là một tiểu thuyết, song những trải nghiệm của nhân vật chính, dù được kể ở ngôi
thứ ba vẫn hết sức chói gắt. Cộng thêm với đó là kết cấu tâm lý đặc trưng của
những biểu đạt chấn thương làm cho tiểu thuyết mang đậm sắc thái tự truyện. Do
thế, người đọc vẫn đọc Chuyện kể năm 2000 như là tự truyện về một đoạn đời đầy
đau khổ của chính nhà văn. Lấy ngôi kể “hắn”, Bùi Ngọc Tấn đã mô tả về một tình
huống hầu như tương ứng với một chặng đời của mình: tình huống trở thành tù
chính trị của chế độ xã hội mà mình phụng sự. Nhân vật và tình tiết có thể không
hoàn toàn trùng khít song tình huống lại luôn in đậm dấu ấn chủ quan. Việc sử dụng
ngôi thứ ba “hắn”, khi muốn tạo ra một ẩn dụ về bản thân là một hành động khá phổ
biến trong tiểu thuyết Việt Nam. Với Bùi Ngọc Tấn, vẫn không là ngoại lệ. Ở đây
khả năng thay thế bằng đại từ ngôi thứ nhất xưng “tôi” vẫn mang lại hiệu quả. Thử
đọc một đoạn kể mở đầu tập 1: “Có những điều hắn tưởng không bao giờ quên.
Thế rồi hắn quên. Dù lúc xảy ra sự việc, hắn tự bảo mình sẽ nhớ suốt đời. Làm sao
quên được những điều đáng nhớ như thế. Đó là những niềm vui hiếm hoi. Là những
sự đau khổ đến tê dại. Không, không thể nào quên được. Thế mà hắn quên…” [158,
5,] hoàn toàn có thể thay thế đại từ ngôi thứ ba hắn bằng đại từ ngôi thứ nhất để tạo
ra một ngôi trần thuật của tự thuật về bản thân mà không làm thay đổi cốt truyện. So
sánh với cách dùng đại từ tôi trong Rừng xưa xanh lá hay Một thời để mất, “hắn”
trong Chuyện kể năm 2000 kể nhiều hơn và ngẫm ngợi nhiều hơn, riêng tư hơn. Một
phần bởi mục đích viết Chuyện kể năm 2000 là tiểu thuyết, nhưng một phần khác là
vì khi kể từ “hắn”, nhà văn vừa được tự do với những trải nghiệm cá nhân vừa có
thể khái quát về một hiện thực nhất định. Đây là lý do của rất nhiều trường hợp lựa
chọn ngôi kể thứ ba khá độc đáo này.
103
Trường hợp Gia đình bé mọn của Dạ Ngân cũng tương tự nhưng xuất hiện đa
dạng hơn. Vẫn là ngôi kể thứ ba nhập vào nhân vật nhưng trong tác phẩm này, ít
nhất, tồn tại hai điểm nhìn: điểm nhìn của Mỹ Tiệp và điểm nhìn của Đính (Tất
nhiên, điểm nhìn của Mỹ Tiệp là chủ đạo, chi phối hầu như toàn bộ câu chuyện) làm
loãng đi phần nào tính chất tự truyện và gia tăng tính tiểu thuyết. Mặc dù vậy, các
dấu ấn của tự truyện ở phương diện này vẫn khá nổi bật. Sự nước đôi của lối kể
xưng tên, xưng nàng, anh… sự vận dụng các điểm nhìn bên trong là cơ hội để người
kể chuyện diễn đạt thế giới nội tâm của mình một cách dễ dàng và sâu sắc hơn. Mỹ
Tiệp kể về những cảm xúc tình dục của mình: “Những câu chuyện thì thầm cùng
với da thịt nguyên sơ. Lần đầu tiên nàng cảm thấy trong bàn tay tinh nghịch của
mình một sinh vật cừ khôi - trước đây với Tuyên nàng không có nhu cầu đùa giỡn
với nó. Nàng trôi trên người Đính, như ban nãy Đính đã cẩn trọng với từng centimet
thịt da nàng. Tiệp thấy mình bạo dạn và lão luyện, sự dịu dàng của da thịt đằm
thắm, ngọt ngào…” [125, 157]. Dường như ở đoạn kể này, việc dùng ngôi nhân
xưng “nàng”, Tiệp đã hòa làm một và chúng cũng hoàn toàn có thể thay thế bằng
“tôi” bởi vì những cảm xúc thầm kín, riêng tư ấy chỉ có thể được cảm nhận, mô tả
bằng chính chủ thể trực tiếp nhất. Trong Gia đình bé mọn, khi kể về những trải
nghiệm tình yêu hay nhưng cảm xúc thân xác, ngôi kể luôn chuyển dần theo xu
hướng gia tăng các sắc thái chủ quan như vậy.
Tính chất lưỡng phân trong việc sử dụng ngôi kể thứ ba và việc lựa chọn
điểm nhìn bên trong nhân vật là nét đặc thù của hình thức tự truyện - tiểu thuyết
xuất hiện từ 1986 đến nay. Điều đó một mặt, vừa hướng tới mục đích khái quát đời
sống, tái hiện đời sống ở bề sâu, một mặt khác, tạo ra những ẩn dụ nhất định về cái
tôi tác giả khi đối với nhà văn, việc vượt qua các định kiến xã hội vẫn là một thử
thách lớn.
Dấu hiệu tự truyện nổi bật trong tự truyện - tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 là
điểm nhìn nghiêng về các giá trị cá nhân, đề cao cá nhân trong việc thiết tạo nên
những tình huống cấu trúc của tự truyện. Đó là hành trình đi tìm hạnh phúc của
riêng mình (Gia đình bé mọn) là sự ngợi ca vẻ đẹp và sự cô đơn của con người bên
trong (Một mình một ngựa), là sự lý giải bản thân trong tư cách một cá nhân
(Thượng đế thì cười), là hành trình của một thân phận (Chuyện kể năm 2000). Cốt
104
lõi của những câu chuyện đều bắt đầu từ cái nhìn cá nhân, một cá nhân khác biệt,
thậm chí đối lập với các hệ thống xã hội. Đặc điểm này chi phối rõ rệt tới tổ chức
kết cấu của văn bản, từ giọng điệu, tổ chức nhân vật đến sự sắp xếp các tình tiết. Sự
đối lập của Mĩ Tiệp với gia đình, dòng họ và sau này là cơ quan - những hình ảnh
tượng trưng cho xã hội trong Gia đình bé mọn, của “hắn” trong Thượng đế thì cười
khi đối lập giữa cái mình và sự thật về mình, giữa ký ức tươi đẹp trong quá khứ và
ký ức của hiện tại của “hắn” trong Chuyện kể năm 2000. Đây cũng là đặc điểm của
Một mình một ngựa. Mặc dù được đọc như tiểu thuyết là chủ yếu song, nếu so sánh
Một mình một ngựa với các tiểu thuyết khác của Ma Văn Kháng có thể thấy ở đây
có nhiều điểm gần với tự truyện. Tính chất tự truyện không chỉ ở sự tương đồng về
cuộc đời, tiểu sử và của nhân vật chính và tác giả, ở sự thừa nhận của chính tác giả,
mà còn ở điểm nhìn tự truyện, đó là sự khẳng định con người cá nhân thông qua
nhiều điểm cách biệt, ở sự lạc lõng, không thể hòa nhập của Toàn với tập thể quanh
mình. Nếu trong Chuyện kể năm 2000, Gia đình bé mọn, con người cá nhân hiện
diện qua khát vọng hạnh phúc, lẽ phải và sự công bằng, cá nhân đối lập với tập thể
thì ở Một mình một ngựa, cá nhân được nhìn ở phương diện tư duy, trong sự trưởng
thành của nhận thức, cá nhân thoát thai khỏi cộng đồng để trưởng thành. Hình
ảnh bí thư tỉnh ủy Quyết Định, Toàn, ông Đồng luôn được soi chiếu từ điểm nhìn
này. Đây cũng là điểm nhìn thông suốt toàn bộ tác phẩm. Thoạt đầu, người đọc
dễ có cảm giác chuyện được trần thuật từ một điểm nhìn toàn tri, nhưng thực
chất, điểm nhìn toàn tri ấy đã được chuyển về nhân vật Toàn. Sử dụng ngôi trần
thuật thứ ba, khi bằng tên, người kể chuyện kể về cuộc gia nhập thế giới chính trị
của Toàn trong tư cách là trợ lý của bí thư tỉnh ủy, kể về phẩm chất, nhân cách
và con người ông, đánh giá từng người trong ban thường vụ ấy bằng cái nhìn
cảm thông, chia sẻ, vượt lên trên quan điểm chính trị thông thường để thấy được
vai trò của họ trong sự nghiệp cách mạng của đất nước. Cũng có thể vì thế mà hệ
thống điểm nhìn trong Một mình một ngựa có phần đơn điệu. Song cũng chính vì
thế, tính chất tự truyện lại trở nên nổi rõ một khi điểm nhìn tác giả trùng khít với
điểm nhìn nhân vật. Đây cũng là lý do khiến cho độc giả có thể coi Một mình
một ngựa là tiểu thuyết tự truyện.
105
Như vậy, xét về phương diện trần thuật, hai dấu hiệu căn bản của các tự
truyện - tiểu thuyết Việt Nam đương đại là dạng thức trần thuật từ ngôi thứ nhất chủ
quan nhưng điểm nhìn khách quan và hình thức lưỡng phân giữa ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba với điểm nhìn chủ quan. Tuy nhiên mức độ biểu hiện của các dấu hiệu
này ở mỗi tác phẩm không hoàn toàn giống nhau. Với những tác phẩm lựa chọn
cách kể từ ngôi thứ nhất (Miền thơ ấu, Ba người khác) người kể chuyện lại có xu
hướng khách quan hóa trong khi ở các tác phẩm kể từ ngôi thứ ba, người kể chuyện
lại thường xuyên bộc lộ thế giới chủ quan như tâm trạng, quan điểm, cảm xúc riêng
tư.Thậm chí, cho dù kể từ điểm nhìn của các nhân vật khác (điểm nhìn của Đính,
của bé Thu Thi) trong Gia đình bé mọn, điểm nhìn của một người vô hình trong
Một mình một ngựa,… song về cơ bản điểm nhìn và giọng điệu của Mỹ Tiệp, của
Toàn- những nhân vật chính - vẫn chi phối toàn bộ câu chuyện. Với các tác phẩm
trần thuật từ ngôi kể “hắn”, hầu như quan điểm, giọng điệu, thái độ, thế giới nội tâm
của “hắn” thống soái toàn bộ. Do vậy, chỉ cần với một số chi tiết thực là khả năng
đồng nhất người kể chuyện và tác giả có thể xảy ra. Hai lựa chọn trần thuật trên
đây, thực chất cũng chỉ là cách thức làm thế nào để khách quan hóa cái chủ quan
của chủ thể. Một bên là sự khách quan thông qua cách tổ chức điểm nhìn, một bên
là sự khách quan trong lựa chọn ngôi kể, giọng điệu. Có lẽ, với các nhà văn Việt
Nam, chỉ trong hình thức như vậy, những điều muốn bộc lộ mới có thể được bộc lộ.
Nếu coi tự truyện là một hành vi xã hội thì đặc điểm này cũng đồng thời phản ánh
những lưỡng lự nhất định trong xu hướng lựa chọn giá trị cá nhân hay giá trị xã hội
của nhà văn. Điều đó cho thấy những tác động xã hội thông qua các hệ thống tiếp
nhận là không nhỏ đối với sự lựa chọn phương thức bộc lộ bản thân của mỗi tác giả.
3.3.2.2. Hình thức tự truyện - hồi ký
Hồi ký là thể loại rất gần với tự truyện ở những đặc điểm như: trần thuật từ
ngôi tác giả kể về những sự kiện có thực xảy ra trong quá khứ mà tác giả tham dự
hoặc chứng kiến; ở việc chú ý tới những sự kiện mang tính tiểu sử”, ở tính chủ quan
và khả năng làm méo lệch sự kiện do cơ chế hồi ức, ở sự diễn đạt sinh động những
ấn tượng, cảm tưởng trực tiếp của cá nhân tác giả song khác tự truyện ở chỗ chúng
không dùng thủ pháp cốt truyện và đặc biệt là ở sự tương đồng những giá trị chủ
quan của chủ thể với những giá trị xã hội nói chung. Trong một số phân biệt khác,
106
các nhà nghiên cứu còn nhấn mạnh khía cạnh lịch sử và tư liệu ở chỗ hồi ký là sự
phản ánh thời đại để phân biệt tự truyện chủ yếu hướng về cá nhân. Thực tế thể loại
nhiều trường hợp sự phân định không thể rạch ròi. Ví dụ những trang hồi ức không
hoàn toàn theo trình tự thời gian, hoặc có theo trình tự thời gian nhưng lại xen nhiều
đoạn kể không ở kể ngôi thứ nhất (Cô bé nhìn mưa - Đặng Thị Hạnh) hay những
câu chuyện được viết theo trình tự thời gian, được kể ở ngôi thứ nhất nhưng điểm
nhìn trần thuật lại là điểm nhìn khách quan… điều đó tạo ra những hình thức giao
thoa thể loại. Và đó chính là lý do mà sự phân biệt giữa hồi ký và tự truyện trở nên
không dễ dàng. Như vậy, chỉ có yếu tố “truyện” là yếu tố có thể tạo ra sự phân biệt
rành rẽ giữa hình thức hồi ký và hình thức tự truyện. Điều đó cũng có nghĩa những
yếu tố như cách thức tổ chức cốt truyện, điểm nhìn, ngôi kể là những căn cứ cụ thể
để xem xét.
Như thế, dạng thức tự truyện - hồi ký chính là một mặt, mang những đặc
điểm của hồi ký với tất cả những mô tả trên đây nhưng mặt khác luôn in đậm tính
“truyện”. Tất nhiên, tính truyện còn làm cho hồi ký gần với tiểu thuyết song chính
vì bảo lưu các đặc tính như “kể sự thật từ ngôi thứ nhất, từ điểm nhìn chủ quan, ở
khả năng quy chiếu khiến chúng vẫn thuộc dạng thức của tự truyện.
Một đặc điểm khác là cơ sở để phân biệt hồi ký và tự truyện, theo chúng tôi
là điểm nhìn: điểm nhìn cá biệt hóa hay xã hội hóa (mà không phải là điểm nhìn cá
nhân hay điểm nhìn xã hội bởi dù là hồi ký hay tự truyện thì chúng đều là những
trang viết đầy tính chủ quan. Song tính chủ quan ấy sẽ thiên về cái nhìn chung, cách
đánh giá chung của xã hội hay xác lập một giá trị khác, một hệ chuẩn mực khác).
Có thể thống kê một loạt các tự truyện mang hình thức hồi ký này như: ở
mức độ đơn giản có hồi ức Cô bé nhìn mưa của Đặng Thị Hạnh, Tự truyện Nguyễn
Khắc Viện, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương
của nhà văn Ma Văn Kháng, ở cấp độ nhiều tính truyện hơn có, Tuổi thơ im lặng
của Duy Khán, Những câu chuyện từ trái tim của Trần Văn khê.
Đặc điểm nổi bật của dạng thức hồi ký là hai dạng kết cấu nổi bật: kết cấu
tuyến tính và kết cấu phân mảnh. Tất nhiên tính phân mảnh ở đây không giống với
sự phân mảnh trong tiểu thuyết mà là được tạo thành từ nhiều mảnh đoạn kỷ niệm
ghép nối với nhau, nhiều khi các sự kiện chồng xếp thành từng lớp theo các chủ đề
107
và dòng hồi ức của người kể chuyện. Kết cấu tuyến tính bao giờ cũng gắn liền với
hành trình cuộc đời: Thời thơ ấu, quê hương, gia đình - thời trưởng thành với những
chặng đường sự nghiệp - Những đóng góp xã hội - Ý nghĩa của cuộc sống khi về
già, những đúc kết về lẽ đời, con người, cách sống… Hầu hết các hồi ký như Năm
tháng nhọc nhằn năm tháng nhớ thương thương của Ma Văn Kháng, Tự truyện
của Học Phi, Tự truyện Nguyễn Khắc Viện, Hồi ký Nguyễn Hiến Lê… là những tác
phẩm tiêu biểu. Trong khi đó, kết cấu phân mảnh mặc dù cũng là sự dựng lại hành
trình cuộc đời người kể chuyện song hành trình ấy được chia nhỏ thành nhiều câu
chuyện nhỏ, mỗi câu chuyện là một khía cạnh bộc lộ con người (Những câu
chuyện từ trái tim của Trần Văn Khê), theo hành trình từng chặng đời (hồi ức Cô
bé nhìn mưa của Đặng Thị Hạnh) theo các mảnh hồi ức (Tầm Xuân - Đặng Anh
Đào), tự truyện về bạn bè cùng thế hệ (Rừng xưa xanh lá - Bùi Ngọc Tấn, Ba phút
sự thật - Phùng Quán) chúng là những hình thức bộc lộ cá nhân đầy sáng tạo của
hồi ký Việt Nam.
Trong Từ điển văn học (Bộ mới), phân biệt hồi ký và tự truyện, nhà nghiên
cứu Đỗ Đức Hiểu đã mô tả: hồi ký có thể chỉ ghi những sự kiện về một thời kỳ lịch
sử, mà tác giả không phải là nhân vật chính, còn tự truyện là kể các chuyện của cái
tôi tác giả [134, 1905], nhà nghiên cứu Đoàn Cầm Thi lại cho rằng hồi ký đặt trọng
tâm vào thời đại còn tự truyện đặt trong tâm vào cá nhân, hồi ký chảy theo chiều
thuận còn tự truyện đi theo chiều nghịch (Nỗi buồn chiến tranh - Tự truyện bất
thành). Nhưng đó chỉ là phân biệt về mặt lý thuyết. Trên thực tế, đặc biệt là thực tế
của tự truyện Việt Nam, yếu tố hồi ký và yếu tố tự truyện thường pha trộn vào nhau.
Đặc biệt, kể nhiều về người khác, về thời đại cũng là cách để các chủ thể bộc lộ
mình. Chỉ khác chăng, người kể chuyện sẽ nhìn đối tượng kể là mình ấy từ điểm
nhìn nào, sẽ từ điểm nhìn bên trong hay bên ngoài, từ các chuẩn mực xã hội hay
chuẩn mực cá nhân. Lại nữa, hồi ký thường kể theo chiều thuận trong khi, nhiều hồi
ký đều bắt đầu từ chiều nghịch với thời hiện tại ngược về quá khứ.
Đọc Những câu chuyện từ trái tim của Trần Văn Khê, rõ ràng là điểm nhìn
của người kể chuyện - tác giả - nhân vật trung tâm của câu chuyện được kể luôn là
điểm nhìn của người đã hiểu rõ quá khứ của mình, ngược về quá khứ để lý giải hiện
tại, bằng cái nhìn của hiện tại. Mười hai câu chuyện, mỗi câu chuyện là một chủ đề
108
nhân cách, câu chuyện nào cũng được bắt đầu từ điểm nhìn của người “tri thiên
mệnh”, đã nhìn rõ và thấu suốt hết đời mình: “Điểm nhìn toàn tri - điểm nhìn hồi ký
thống nhất suốt các câu chuyện. Điều đó làm cho giọng điệu trần thuật xuyên suốt
câu chuyện là giọng chiêm nghiệm, giọng triết lý. Dễ làm cho người đọc cảm giác
về một bài học nhiều hơn là một câu chuyện về cá nhân.
Điều thú vị trong Những câu chuyện từ trái tim là ở chỗ nó được kết cấu bởi
mười hai câu chuyện, mười hai điểm nhấn cũng là mười hai bài học của cuộc đời
giáo sư Trần Văn Khê. Bắt đầu từ một tuổi thơ mồ côi, những bệnh tật, vượt qua
những hỉ nộ ái ố ở đời, tình yêu đối với âm nhạc, nuôi dạy con, chuyện đối nhân xử
thế, cuộc đời riêng, tình yêu đối với âm nhạc truyền thống,…hình thức kết cấu này
tạo ra nhiều lớp thời gian khác nhau, nhiều lớp sự kiện khác nhau quá khứ lồng
trong quá khứ, sự kiện lồng trong sự kiện. Chúng làm nên sự hấp dẫn riêng của tự
truyện của ông.
Như vậy, lấy sự phân tích bản thân làm đối tượng mô tả song điểm nhìn lại là
điểm nhìn bên ngoài, điểm nhìn thấu suốt, đặc biệt điểm nhìn ấy hầu như trùng khít
với các khuôn mẫu xã hội, một kiểu kết cấu theo chủ đề là đặc điểm của dạng thức
cấu trúc của không chỉ tự truyện Trần Văn Khê mà còn là tự truyện của một số nhà
văn hóa như Nguyễn Khăc Viện, Học Phi…
Một sáng tạo của cấu trúc hồi ký khá nổi bật trong tự truyện Việt Nam là
trường hợp của Cô bé nhìn mưa của Đặng Thị Hạnh, Cánh buồm nhỏ của Lê Minh,
Tầm xuân của Đặng Anh Đào. Trong Cô bé nhìn mưa, bên cạnh việc kể về bản thân
là những câu chuyện về cha mẹ, các dì, các cậu, về quê hương với những kỷ niệm
ngọt ngào thuở bé, dưới trình tự kể chuyện: phần thứ nhất kể về thời thơ ấu, phần
thứ hai gắn liền với tuổi thanh niên, phần thứ ba là tuổi trưởng thành và sự nghiệp
khiến cho người đọc có cảm giác chúng cũng tương tự các mô hình hồi ký. Trong
Cô bé nhìn mưa, cấu trúc ba phần và ranh giới của từng quãng đời được phân định
khá rõ. Thêm vào đó, giọng hồi tưởng trữ tình được xác định ngay từ mở đầu “Tôi
sinh ra vào một năm rất dễ nhớ, 1930. Nhưng ký ức xa nhất về thời thơ ấu của tôi,
nghĩa là về chính bản thân tôi lại được đặt ở một làng quê Nghệ An. Đấy chẳng qua
cũng chỉ là vào một trong những buổi chiều”[71] đã xác lập giọng điệu chung của
toàn bộ câu chuyện.
109
Song nếu đọc kỹ, có thể thấy đây là một hồi ký đậm chất văn học. Bởi nó
được viết bằng kỹ thuật của văn học. Ở mỗi phần của truyện, tính liền mạch của
thời gian thường bị phá vỡ bởi tác giả luôn tạo ra những nếp gấp khúc bởi những
liên tưởng và các giải thích. Đặc biệt ở phần thứ nhất và phần thứ hai (phần thứ ba
tác giả lại cố gắng đi theo trình tự thời gian tuyến tính) cùng với đó là sự tạo lập các
không gian: Làng, Phố, Biển màu lục nhạt, khoảng ngưng (phần thứ nhất) và Khu
vườn mùa đông, Tự hư cấu, Khúc đồng quê, Những ngôi trường và những con
đường (phần thứ hai) mỗi câu chuyện là một tập hợp các chùm kỷ niệm và xâu
chuỗi bằng liên tưởng. Chúng là những ấn tượng xuyên qua thời gian thành những
điểm sáng, những chi tiết làm nổi bật một sự kiện, một câu chuyện. Hầu như suốt
phần thứ nhất và phần thứ hai của thiên hồi ức là cách kết cấu cốt truyện như vậy.
Thậm chí, một sự kiện có thể được triệu hồi từ nhiều nguồn khác nhau, từ trí nhớ
của người kể, những tư liệu gia đình, tư liệu lịch sử…làm cho chúng vừa rõ ràng lại
vừa mờ nhòe. Nói về hình thức tự truyện của mình, tác giả Đặng Anh Đào trong lời
mở cuốn Tầm xuân có lý giải: “Có lẽ bạn đọc xưa nay đã quen với những hồi ức
viết thành một dòng chảy liên tục, như một cuốn tự truyện không có chương hồi.
Cuốn hồi ký này có sự khác biệt ít nhất là ở tính chất không liên tục, nhảy quãng về
thời gian, về không gian, về hình ảnh của hồi ức. Nhiều khi một kỷ niệm xuất hiện
ở những trang đầu rồi những mảnh vỡ của nó trở đi trở lại ở những câu chuyện sau,
với những biến thái, dị bản mới (…) vậy là tôi đã làm một hình thức hồi ký mới, dù
không có ý định…Có thể tôi đã tự thể hiện như cái cách mình đã sống với những kỷ
niệm: một mùi hương, một câu hát, một chút gì đó của hiện tại tức thì khiến ta phát
hiện ra ánh sáng của một cái gì đã tắt trên nền trời đêm của quá khứ [44, 5]. Hình
thức kết cấu này đã làm cho dạng thức hồi ký trở nên hiện đại hơn, mới mẻ hơn. Nó
được gọi với một cái tên “hồi ức” là vì vậy. Thêm nữa, giọng hồi ức với chất thơ trữ
tình man mác tỏa ra từ những miêu tả về quê hương, những cánh đồng, những nếp
sinh hoạt văn hóa, ở ngôn ngữ giàu nhạc tính, ở giọng điệu trần thuật giàu cảm
xúc… làm cho những hồi ức này đẹp như một bài thơ.
Một trong những biểu hiện làm nên tính truyện của các hồi ức là những
khoảng ngưng của một ký ức hoặc một cảm giác. Nếu trong hồi ký, sự kiện, kỷ
niệm thường được kể qua, lướt nhanh thì ở đây, chúng như dừng lại, ngưng đọng
110
trong một thế giới tâm tưởng riêng. Những đoạn “Tự hư cấu”, “khoảng ngưng”
trong Cô bé nhìn mưa là như vậy (Những khoảng ngưng này, trong các dạng thức tự
truyện lại là đặc trưng tiêu biểu).
3.3.2.3. Hình thức tự truyện - du ký
Xuất hiện trong khoảng vài năm trở lại đây, hình thức tự truyện - du ký được
độc giả chấp nhận khá rộng rãi. Tuy nhiên những kết tinh thể loại để khẳng định sự
thành công mới chỉ dừng lại ở một vài tác phẩm. Tiêu biểu trong số này là Một
mình ở châu Âu của Phan Việt. Tập hai Xuyên Mỹ lại không sử dụng hình thức này
mà mang đặc trưng của tự truyện truyền thống.
Đặc điểm nổi bật của hình thức này là sự xóa đi các dấu vết của hư cấu trong
phương thức trần thuật nhờ kết cấu biên niên, điểm nhìn cá nhân hóa và kể trực tiếp
từ ngôi thứ nhất. Ở đây, sự tương đồng giữa sự kiện đời tư cá nhân và câu chuyện
được kể, từ tên của nhân vật cho đến những biến cố từ điểm nhìn cho đến giọng
điệu, từ người kể chuyện đến nhân vật là chủ đạo. Tính chất hư cấu chỉ còn tồn tại
trong cách thức cấu trúc lại câu chuyện theo ký ức của người kể chuyện mà thôi.
Đây là một dụng ý mang tính nghệ thuật mà không hoàn toàn chỉ là nhu cầu giãi
bày một trải nghiệm. Điều này tạo nên một kết nối thú vị giữa hình thức du ký và
mục đích tự truyện.
Chiếm một tỉ lệ lớn trong Một mình ở châu Âu là hành trình du lịch, là những
địa danh với những đặc điểm văn hóa của các vùng đất châu Âu, dấu vết tự truyện
chỉ nằm ở những dấu hiệu cảm xúc khi chủ thể buộc phải đối diện với chính mình
và chúng dần dần tạo nên một câu chuyện khác, câu chuyện trong tầng sâu nội tâm
của chủ thể - nhân vật - người kể chuyện. Đây là một trong những đoạn kể như vậy:
“Đèn sẽ không bao giờ sáng dù tôi có chờ hết đêm (chờ thời điểm đèn ở tháp
Ep- phen được bật)
Tôi nhớ buổi sáng ngày trước giáng sinh năm ngoài, tôi và Sơn cãi nhau (…)
Cuối cùng thì Sơn đến khách sạn đón tôi về. Hôm đó vào trong ô tô để về lại
nhà, tôi đã khóc và một cái gì đó trong lòng tôi đã sụp xuống vỡ vụn” [186, 165]
Đây là môt lựa chọn biểu đạt cái tôi cá nhân người tự thuật khá năng động.
Nó mở rộng tối đa không gian tự do cho việc viết về những trải nghiệm của bản
111
thân mà vẫn hấp dẫn bởi lối kể mang đậm tính chất hàng ngày và sự phong phú của
những hiểu biết văn hóa của người kể chuyện.
Như vậy, sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện Việt Nam đương đại xuất hiện ở
bốn hình thức thể loại: tự truyện - hồi ký, tự truyện - tiểu thuyêt, tự truyện - du ký
và tự truyện thuần túy. Trong bốn hình thức biểu đạt này, hình thức tự truyện thuần
túy bảo lưu đầy đủ các đặc trưng của tự truyện hơn cả song thực tế lại xuất hiện khá
dè dặt ở khu vực văn học. Điều đó chứng tỏ, hình thức tiểu thuyết vẫn là một lựa
chọn hữu hiệu của các nhà văn khi viết sự thật về bản thân mình. Có lẽ mâu thuẫn
giữa nhu cầu giải thích bản thân, viết sự thật về bản thân và trách nhiệm khái quát
hiện thực, khát vọng cá nhân và trách nhiệm nhà văn đã khiến họ lựa chọn hình thức
giàu sức biểu đạt này. Ở các hình thức phi hư cấu, tự truyện - hồi ký thường đi cùng
với sự mô tả bản thân theo xu hướng coi cá nhân như là những chủ thể văn hóa, mỗi
phẩm chất của cá nhân tương đồng với các chuẩn mực nhân cách xã hội. Do đó mô
tả cá nhân là mô tả hành trình hình thành nhân cách đó. Với hình thức tự truyện - du
ký, một hình thức viết về mình khá phổ biến trong giới trẻ hiện nay, mặc dù mang
đậm dấu ấn cá nhân, cá tính và sự bụi bặm của đời sống được nhìn từ cái nhìn trực
tiếp song dường như sức hấp dẫn của việc miêu tả về cảnh sắc, về trải nghiệm và
những khám phá trên hành trình du ký của chủ thể lại dễ làm mờ đi hình ảnh cá
nhân trong chiều sâu của sự tự ý thức. Và như thế, vô hình chung, chúng chuyển
hướng sự chú ý của người đọc vào những vẻ đẹp của hành trình hơn là đời tư cá
nhân của họ. Điều đó cho thấy rõ sự biểu đạt cá nhân trong tự truyện Việt Nam
đương đại vẫn đang là những tìm tòi và lựa chọn giữa một bên là nhu cầu, là khát
vọng biểu đạt cá nhân với một bên là sự tuân theo truyền thống và các chuẩn mực.
3.4. Giới hạn xã hội và lựa chọn của chủ thể
Đặc điểm về sự bộc lộ chủ thể của tự truyện Việt Nam đương đại được phân
tích trên đây cho thấy rõ ràng những giới hạn đối với thể loại.
Theo quan điểm của M.Weber: “chỉ có thể hiểu được ứng xử của con người
trong các xã hội khác nhau nếu đặt chúng trong khuôn khổ nhân sinh quan hay thế
giới quan của họ” [192, 28]. Nếu đặt hành động tự truyện trong mối quan hệ với
quan niệm về con người trong truyền thống văn hóa Việt Nam sẽ hiểu được vì sao
sự bộc lộ bản thân của chủ thể tự truyện lại thiên về cái nhìn nhân cách luận.
112
Phan Ngọc trong công trình Bản sắc văn hóa Việt Nam đã viết về truyền
thống đánh giá con người Việt Nam: “Trong tiếng Việt, con người là con người
theo cương vị, theo nhân cách. Cho nên với con tôi là cha, với vợ tôi là chồng, với
ông tôi là cháu, với mọi người tôi là tôi, tức tôi tớ người ta. Trong từng trường hợp,
tôi phải giữ đúng vai trò của tôi đối với người khác. Khi tôi biết làm thế, tôi có nhân
cách cao, còn khi làm trái, tôi có nhân cách kém” [132, 79]. Những cái Tôi gắn với
vai trò xã hội, cái Tôi với tư cách là một nhân cách văn hóa, cái Tôi - nghề nghiệp,
cái Tôi gia đình… có nguồn gốc từ đây. Điều đó lý giải vì sao Khi nhà văn hóa
Nguyễn Khắc Viện giải thích mình: “Lý tưởng mà đạo Nho đưa ra: “tu thân, tề gia,
trị quốc, bình thiên hạ” là tư tưởng mà tôi chấp nhận và cố gắng thực hiện” [185,
195] thì cũng đồng nghĩa với một hình ảnh về cái tôi trách nhiệm và nghĩa vụ, làm
chủ bản thân, làm chủ thế giới. Đó là khuôn mẫu nhân cách lý tưởng của nhà Nho
hiện đại mà không chỉ Nguyễn Khắc Viện, hầu như các nhà trí thức yêu nước Việt
Nam luôn tâm niệm. Hay việc ý thức về vai trò nhà văn “thư ký trung thành của
thời đại” vừa là mục tiêu, vừa là chuẩn mực nhân cách nhà văn mà nhiều thế hệ
người cầm bút Việt Nam suốt thế kỷ 20 hằng tâm niệm. Bởi đó luôn luôn là thước
đo nhân cách đẹp đẽ nhất. Sang thời đại của hội nhập và toàn cầu hóa, nhu cầu
khẳng định bản sắc, duy trì và phát triển bản sắc bắt đầu có những thay đổi. Cái Tôi
đối diện với nỗi đau của chính mình như trong Xuyên Mỹ của Phan Việt, cái Tôi với
hành trình đấu tranh nội tâm giữa những lựa chọn cá nhân và lựa chọn xã hội trong
Yêu và Sống của Lê Vân cho thấy những cựa quậy của cá tính và bản sắc. Dường
như cái nhìn “nhân cách luận” đã không đủ để con người nói về mình. Song chính ở
đó, truyền thống lại hiện diện ở những sự tự giới hạn của bản thân như “không
muốn hoặc không có quyền làm tổn thương” …
Truyền thống nhân cách luận còn chi phối hành động tự truyện ở sự tự ý thức
về ranh giới đạo đức của chủ thể. Đó là những mối quan hệ liên nhân như quan hệ
bạn bè, cha con hay mẹ con, quan hệ đồng nghiệp…ý thức về ranh giới đạo đức
buộc chủ thể phải suy sét và lựa chọn. Tự truyện Để gió cuốn đi của ca sĩ Ái Vân là
một ví dụ. Chị đã để trắng 6 trang với 8808 chữ trong tự truyện của mình như một
xác nhận cho sự tồn tại của ranh giới đạo đức đối với hành động tự truyện của chị.
chị giải thích với độc giả: “Tôi đã cố gắng viết cho xong mục này - 8.808 từ cả thảy.
113
Câu chuyện tôi chưa từng kế ra này cho biết lý do vì sao tôi buộc phải rời Tổ quốc
năm 1990 khi tôi đang được nhà nước có nhiều ưu ái. Nhưng vì câu chuyện quá đau
đớn, khi đọc lại tôi không thể chịu nổi. Con trai tôi - nếu đọc được phần này - chắc
chắn cũng sẽ không chịu nổi. Vì thế - sau nhiều đêm suy nghĩ - tôi xin lỗi bạn đọc -
cho phép tôi được xóa trắng mục này!” [184] Đoạn bị bỏ trống này thuộc chương
14 phần kể về người chồng thứ hai và lý do chị vượt biên ra nước ngoài sinh sống.
Sáu trang để trắng nhưng chúng vẫn chứa những thông tin đảm bảo quan hệ logic
giữa các phần. Đó là một cách xử lý đối với những sự thật gây đau đớn được sự
đồng thuận của tác giả, nhà xuất bản và được dư luận chấp nhận, thậm chí có người
cho rằng đó là cách xử lý thông minh. Thực tế, ý thức đạo đức hay ý thức nhân cách
của một người mẹ, một phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ Á Đông mới chính là yếu tố níu
giữ sự tự do, không cho phép chị viết tất cả câu chuyện của mình. Điều này cũng đã
từng được nhà văn Phan Việt thừa nhận trong tự truyện Xuyên Mỹ “Tuy nhiên, mặc
dù không ngại kể lại những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân, tôi cảm thấy không
có quyền kể về những người đã có mặt trong đời sống của tôi vào thời điểm đó. Vì
vậy tôi hạn chế tối đa việc nhắc đến họ” [187, 7].
Bên cạnh những giới hạn như là sự tự tự giới hạn trên đây, một dạng giới hạn
khác, giới hạn của sự đọc cũng là yếu tố tác động không nhỏ tới hành động tự
truyện của chủ thể. Cuộc tranh luận sổi nổi năm 2006 trên các diễn đàn của các
mạng xã hội về nhân cách của Lê Vân khi Lê Vân kể chuyện mình trong Yêu và
Sống đã cho thấy rõ ràng thái độ quyết liệt của truyền thống trọng đạo lý đối với cái
nhìn thuàn túy cá nhân của chủ thể. Cuộc tranh luận này đã ảnh hưởng rất lớn tới
tâm lý của nhiều nghệ sĩ có dự định xuất bản tự truyện. Rào chắn vẫn không dễ để
có thể bước qua.
Khác với những giới hạn được tạo ra ngay trong chính ý thức của chủ thể
như đã phân tích, các giới hạn đến từ các cấu trúc xã hội cũng tạo ra những đường
phân giới đầy thử thách đối với chủ thể tự truyện. Một trong số đó là quan hệ quyền
lực. Những tác động của quyền lực đối với sự viết cũng khá đa dạng. Nhà văn Tô
Hoài kể: “Chiều chiều phát hành được ít lâu thì có lệnh không bán nữa. Báo chí có
một hai tờ phê phán sau thì dừng, nếu có giới thiệu về Tô Hoài thì không nhắc đến
Chiều chiều. Trần Đăng Khoa nói trên ti vi cũng chỉ nói đến các tác phẩm khác của
114
Tô Hoài” [50, 59]. Sự kiểm soát ở đây là kiểm soát về một nội dung, một chủ đề và
hiện hình ở hai cách thức: phê phán trên “một hai tờ báo” và sự im lặng, “không bán
nữa”. Mãi sau gần 15 năm (năm 2014), Chiều chiều mới được in trở lại. Cũng có
những sự kiểm soát khắc nghiệt hơn “đòn hội chợ” hay “vòng lao lý” như giãi bày
của nhà văn Bùi Ngọc Tấn về hình thức của Chuyện kể năm 2000: “Tại sao tôi chọn
cách viết này ư? Tôi nghĩ mình thuộc thế hệ già rồi. Đổi mới tư duy tiểu thuyết đối
với tôi hơi vất vả. Tôi cũng nghĩ rằng điều cần thiết nhất đối với mình lúc này là
cuốn sách phải đầy sức thuyết phục, không ai nói được là nó bịa đặt. Và một nhu
cầu nhỏ bé nhưng chính đáng: viết thế nào để tự bảo vệ mình, tránh những đòn hội
chợ vẫn hay xảy ra với những sáng tác có vấn đề, không loại trừ cả vòng lao lý…”
[160]. Đó là những giới hạn đối với một diễn ngôn.
Mô tả về dạng giới hạn này, M. Foucalt trong Trật tự của diễn ngôn (The
Order of Discourse) (1970) khẳng định: “trong mọi xã hội sự sản xuất diễn ngôn
cùng lúc bị kiểm soát, tuyển chọn, tổ chức và phân phối lại bởi một số những
phương thức/ quy trình mà vai trò của nó là để né tránh những sức mạnh và sự nguy
hiểm của diễn ngôn, để dành quyền điều khiển/ kiểm soát với những sự kiện ngẫu
nhiên của diễn ngôn, để tránh né những khó khăn do nó gây ra” [ 168, dẫn theo]
Ông thừa nhận áp lực quyền lực như là một thuộc tính nổi bật trong mối quan hệ
giữa xã hội và diễn ngôn. Theo ông, lợi ích của mỗi xã hội chính là căn nguyên của
những kiểm soát xã hội đối với diễn ngôn.
Như vậy, xét đến cùng, hành động tự truyện của chủ thể cũng như nhiều
hành động khác trong đời sống xã hội nói chung không bao giờ là hành động tự do
tuyệt đối. Nó bị ràng buộc hoặc bởi những truyền thống nhận thức, hoặc những
chuẩn mực đạo lý, những lợi ích của các thiết chế xã hội mà quyền lực là một đại
diện tiêu biểu. Chúng tạo nên những giới hạn đối với sự bộc lộ bản thân.
Song bởi tự truyện là câu chuyện thật về bản thân và cũng bởi động lực của
sự viết về bản thân không gì khác là sự thật cho nên mỗi người viết đều phải đứng
trước các mâu thuẫn nhất định. Hơn nữa, viết sự thật cũng là một con đường để bảo
toàn nhân cách cho nên, hơn ai hết, chủ thể tự truyện buộc phải đứng trước những
lựa chọn. Điều đó đòi hỏi họ phải đi tìm những cách thức mà như M. Foucalt khi
phân tích về các nguyên tắc loại trừ diễn ngôn, gọi là sự “đi vòng”. Ở đây, như
115
chính nhà văn Bùi Ngọc Tấn khẳng định trong trích dẫn đã nêu trên, việc lựa chọn
hình thức tiểu thuyết là cách để ông đạt được nhu cầu tự truyện, hoàn thành sứ
mệnh nhân cách của mình. Tuy nhiên không phải sự đi vòng nào cũng có thể được
chấp nhận. Chuyện kể năm 2000 vẫn không tránh khỏi sự trừng phạt bởi những gì
được kể trong tác phẩm là quá khác biệt, quá đặc biệt và không dễ được chấp nhận.
Trường hợp Thượng đế thì cười của Nguyễn Khải, Chiều chiều của Tô Hoài
cũng ở trong trạng thái tương tự nhưng mức độ nhẹ nhàng hơn. Với những nhu cầu
bộc lộ cái Tôi cá nhân trực tiếp, sự “pha loãng” bằng hình thức tự truyện – du ký
cũng là một cách thức. Như thế, hình thức vừa như tự truyện, vừa như thiểu thuyết,
một phần tự truyện - một phần du ký là những cách thức để chủ thể giải quyết mâu
thuẫn giữa một bên là khát vọng nói sự thật và một bên là những giới hạn. Đó là
những cách thức vượt thoát. Về hành động vượt thoát này, M. Foucault diễn giải:
“Trong một số trường hợp nhất định, khi buộc phải đề cập đến những cấm kị, cần
phải có những “hóa trang”, những cách “đi vòng” thích hợp [168, dt]. Ở đây, dù M.
Foucault có phủ nhận vai trò tác giả, thì ở một mức độ nhất định, ý thức chủ thể vẫn
được nhấn mạnh. Chủ thể ở đây không chỉ là người chịu sự chế định mà còn có thể
vượt qua những chế định bằng những cách thức của mình. Hình thức tự truyện tiểu
thuyết của Chuyện kể năm 2000, Thượng đế thì cười, hình thức đầy tính nước đôi
của Chiều chiều, Cát bụi chân ai thực sự là những vượt thoát khỏi những giới hạn
diễn ngôn. Và chính điều đó tạo nên những khả năng mở rộng của thể loại.
Như vậy, các phương diện nhân cách cá nhân cũng như các hình thức biểu
đạt cá nhân mà chúng tôi vừa phân tích trên đây, không gì khác, chính là kết quả
của sự tương tác giữa một bên là các hệ thống xã hội và một bên là nhu cầu bộc lộ
bản thân của chủ thể. Chúng cho thấy hình ảnh cá nhân trong quá trình kiến tạo của
một xã hội, một thời đại.
Tiểu kết
Thứ nhất, sự bộc bản thân và sự thật trong tự truyện là hành động chủ quan
của chủ thể trong không gian mà quá trình dân chủ hóa xã hội cùng với xu hướng
hội nhập và toàn cầu hóa tạo ra. Những điều kiện này cho phép chủ thể được viết về
mình, được nói câu chuyện của mình, một điều mà trước đây, trong văn học, là một
hiện tượng hiếm có. Song điều đó cũng không thể phủ nhận việc cá nhân viết bản
116
sắc của mình ra sao lại là kết quả của những tương quan giữa quyền lực và diễn
ngôn trong bối cảnh xã hội Việt Nam đương đại. Sự tương quan giữa chúng một
mặt cho thấy những giới hạn song mặt khác lại mở ra những con đường khác nhau
cho sự viết và sự hiểu về sự thật và cái tôi.
Thứ hai, bản sắc nhân cách cá nhân mà các chủ thể tự truyện Việt Nam
đương đại bộc lộ là khá phong phú. Bên cạnh những cá tính, sự khác biệt, riêng tư
là những nhân cách gắn với các vai trò xã hội, những cá nhân tự coi mình như một
hình mẫu văn hóa, một chủ thể chủ động, tích cực tham gia vào việc xây dựng các
chuẩn mực nhân cách. Mỗi khía cạnh được bộc lộ không chỉ cho thấy quan niệm cá
nhân về nhân cách mà còn là hình ảnh phản chiếu truyền thống văn hóa và thời đại.
Hơn nữa, điều đó cũng cho thấy những bước chuyển nhất định từ cái tôi “nhân cách
luận” sang cái tôi “cá nhân luận” trong nhận thức xã hội
Thứ ba, bức tranh nổi bật trong hình thức biểu đạt chủ thể của tự truyện là
tính chất lưỡng phân chiếm một khối lượng lớn. Đó là hình ảnh phản chiếu quá
trình chuyển đổi đầy mâu thuẫn trong biểu đạt cái tôi ciuar chủ thể. Nếu hình thức
tự truyện thuần túy mặc dù đã xuất hiện và có những cuốn xuất sắc song lại phải
chịu nhiều áp lực thì những hình thức gián tiếp kiểu tự truyện - hồi ký, tự truyện -
tiểu thuyết, tự truyện - du ký lại có được những khoảng tự do. Với các hình thức
này một mặt chủ thể có thể bao quát được quá trình của một cá nhân một mặt khác
có thể viết về các hiện tượng xã hội và những vấn đề của nó mà vẫn nằm trong
khuôn khổ của những diễn ngôn hợp thức. Bản chất xã hội của hành động tự truyện
nằm ở chính khía cạnh này
117
CHƯƠNG 4
HOẠT ĐỘNG TIẾP NHẬN TỰ TRUYỆN
4.1. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ hoạt động xuất bản
4.1.1. Xuất bản - một hình thức tiếp nhận
Xuất bản, theo quan niệm của R. Escarpit trong công trình Văn học và xã
hội, là việc đưa một hiện tượng thuộc về cá nhân vào đời sống xã hội, hay nói cụ thể
hơn, là đưa một văn bản vào thế giới đích thực của nó, đó là thế giới người đọc.
Đây là một quá trình chủ động từ khâu tuyển chọn, đến khâu giới thiệu, phát hành.
Nếu ở khâu tuyển chọn, người tuyển chọn cần hình dung về gương mặt của công
chúng để lựa chọn văn bản, khâu phát hành, nhà xuất bản phải tạo được gương mặt
riêng của mình thông qua chức năng hòa hợp về nhu cầu giữa tác giả và công chúng
thì ở khâu tiêu thụ, xuất bản tác động tới độc giả bằng việc tạo ra các thói quen, các
nhu cầu. Chúng biểu hiện dưới các dạng như mốt thời thượng hay sự hâm mộ nhất
thời đối với một tác giả, một xu hướng nhất định. Như thế, xuất bản không chỉ là
hành động chuyển tiếp từ tác giả tới bạn đọc mà còn là một hành động mang tính
sáng tạo. Đó là việc giới thiệu hoặc tạo nên một xu hướng mới, thiết lập một phong
cách, xây dựng các chuẩn mực mới cho quá trình tiếp nhận của công chúng nói
chung. Theo quan điểm của nhà nước Việt Nam, xuất bản “nhằm phổ biến, giới
thiệu tri thức thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân tộc và tinh
hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời sống tinh thần của nhân dân, nâng cao
dân trí, xây dựng đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam” (Luật xuất bản).
Như vậy, xuất bản không chỉ là việc giới thiệu tri thức mà còn là sự xây dựng tri
thức, một hành động tiếp nhận có chủ ý.
Tuy vậy, bên cạnh việc giới thiệu tri thức và xây dựng tri thức, xuất bản
còn là một hành động thương mại, do thế, sự kết hợp giữa chức năng kinh tế và
chức năng văn hóa của xuất bản sẽ khiến việc quan tâm tới nhu cầu và thị hiếu
của công chúng là vấn đề cần thiết. Sự hình dung về các nhóm độc giả và thị
hiếu của họ sẽ tạo ra những phạm vi phát hành đối với một tác phẩm hay một thể
loại. Số lượng xuất bản bao gồm cả tái bản đối với từng tác phẩm là hình ảnh
phản chiếu nhu cầu này.
118
Khảo sát tự truyện từ hoạt động xuất bản, bên cạnh việc xem xét vai trò của
xuất bản trong việc xác lập vị trí và chuẩn mực của thể loại thông qua số lượng tác
phẩm được xuất bản hàng năm cần chú ý tới số lượng bản in và số lần tái bản.
Ngoài ra, các hình thức hỗ trợ như sự giới thiệu trên báo chí, các phương tiện truyền
thông đại chúng cũng là một tác động không nhỏ đối với sự hình thành giá trị của
thể loại.
4.1.2. Hoạt động xuất bản và sự định hướng chuẩn mực
4.1.2.1. Tình hình xuất bản tự truyện trong sự so sánh với hồi ký
Khảo sát của chúng tôi chủ yếu tập trung vào số lượng tự truyện được xuất
bản và số các tác phẩm được tái bản từ thời điểm 1986 trở lại đây.Vận dụng cách
phân kỳ văn học của các nhà nghiên cứu văn học trong cuốn Văn học Việt Nam sau
đổi mới: Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy [106] chúng tôi tạm chia thành hai
giai đoạn: từ 1986 đến 1996 và từ 1997 đến nay để khảo sát. Diện khảo sát của
chúng tôi có mở rộng đến thể loại hồi ký được xuất bản trong cùng thời gian nhằm
so sánh, đối chiếu để làm rõ đặc điểm của hoạt động tiếp nhận ở cấp trung gian này
Biểu đồ 1: Số lượng tự truyện và hồi ký được xuất bản từ 1986 đến 1996
60
55
50
44
41
40
36
Tự truyện
30
28
Hồi ký
22
21
20
16
13
12
10
8
5
5
5
4
2
2
2
1
1
0
0
0
1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996
So với hồi ký, tự truyện xuất hiện khá dè dặt trong thời gian đầu đổi mới.
Quan sát biểu đồ mô tả có thể thấy tự truyện xuất hiện với một số lượng khá
khiêm tốn và rải rác theo các năm. Số lượng nhiều nhất là 5 cuốn. Đó là các năm
119
1989, 1992 và 1996. Điều đó có nghĩa công chúng Việt Nam chưa thực sự quen
thuộc với hình thức viết này. Đặc điểm này ngược lại với hồi ký. Hồi ký đã là thể
loại khá quen thuộc với các tên tuổi lớn như Nguyên Hồng, Nguyễn Công
Hoan…hơn nữa, sau một chặng đường đấu tranh cho hòa bình và giải phóng dân
tộc, các tướng lĩnh, các nhà hoạt động cách mạng đang có nhu cầu tổng kết lại cuộc
đời mình. Do thế, số lượng hồi ký không chỉ cao hơn số lượng tự truyện mà còn
xuất hiện khá đều đặn theo từng năm. Nếu so sánh, có thể thấy rõ, tỉ lệ hồi ký được
xuất bản cao hơn mười lần so với tự truyện.
Phân tích sâu hơn về số lượng tự truyện chia theo nguồn gốc xuất xứ trong
sự đối sánh với hồi ký cũng nhận thấy một đặc điểm thú vị.
Bảng 1. Số lượng hồi ký, tự truyện từ 1986 đến 1996 chia theo nguồn gốc
Nguôn gốc
Tổng
Tự truyện Việt Nam
Tự truyện nước ngoài
Hồi ký Việt Nam
Hồi ký nước ngoài
Số lượng
6
21
260
36
323
Tỉ lệ
1.85
6.5
80.4
11.1
100
xuất xứ
Trong số 27 cuốn tự truyện được xuất bản trong vòng 10 năm có 21 cuốn là
tự truyện của các tác giả nước ngoài chiếm 6.5 % tổng số hồi ký và tự truyện trong
khi tự truyện Việt Nam được xuất bản chỉ vẻn vẹn 6 cuốn với tỉ lệ 1.85% chưa kể
trường hợp tái bản.
Trong số 296 cuốn hồi ký được xuất bản có 36 cuốn hồi ký của tác giả nước
ngoài, hồi ký của các tác giả Việt Nam chiến 260 cuốn chiếm 80.4 % tổng số hồi ký
và tự truyện.
Như vậy, nếu việc giới thiệu tự truyện thiên về các tác phẩm dịch thì hồi ký
lại thiên về tác phẩm của các tác giả trong nước. Phải chăng bởi cả tác giả và người
đọc Việt Nam chưa thực sự quen thuộc với tự truyện? Phải chăng việc xuất bản tự
truyện nước ngoài là cách thức để người đọc Việt Nam làm quen với một hình thức
viết về bản thân khác ngoài hồi ký là hình thức đã biêt?.
Từ 1997 đến nay, số lượng tự truyện được xuất bản, so với hồi ký đã có
những thay đổi:
120
77
59
54
48
45
45
39
40 38
35
34
35 32
30
28
27
hồi ký
26 24
20
25 20
19
17
15
14
tự truyện
13 14
12 12 10 13 12
7
5
5
Biểu đồ 2: Số lượng hồi ký và tự truyện xuất bản từ 1997 đến 2014
90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
1 0 1 0 2
7 9 9 1
8 9 9 1
9 9 9 1
0 0 0 2
1 0 0 2
2 0 0 2
3 0 0 2
4 0 0 2
5 0 0 2
6 0 0 2
7 0 0 2
8 0 0 2
9 0 0 2
1 1 0 2
2 1 0 2
3 1 0 2
4 1 0 2
So với giai đoạn sau này, từ số lượng 5 cuốn được xuất bản năm 1996, năm
1997, tự truyện tăng lên 15 cuốn có nghĩa là đã tăng gấp ba lần so với năm 1996. Số
lượng tự truyện xuất bản cao nhất từ trước đến nay là 28 cuốn trong năm 2007,
chiếm 13.5 % tổng số tự truyện được xuất bản từ 1997 đến nay. Đây cũng là một
đột phá trong việc giới thiệu thể loại của các nhà xuất bản. Với số lượng 19 cuốn
năm 2006 và 28 cuốn năm 2007, có thể khẳng định tự truyện đang bắt đầu lên ngôi
hay chính xác hơn, tự truyện bắt đầu có công chúng của mình. Đây có thể coi là kết
quả của một quá trình thay đổi trong nhận thức xã hội về việc viết về cá nhân. Cũng
có thể coi đây là thành công của hoạt động xuất bản trong việc đưa thể loại đến với
công chúng. Về mặt xã hội, điều đó phản ánh những thay đổi xã hội trong việc tiếp
nhận thể loại mang đầy màu sắc cá nhân. Tuy vậy, điều khá bất ngờ là, sau thời
điểm đột biến 2007, tự truyện bắt đầu có dấu hiệu chững lại và lặp lại chu kỳ của
mười năm trước đó. Thậm chí vào thời điểm năm 2009, chỉ có 1 cuốn được xuất
bản. Trong khi đó, hồi ký vẫn tăng và dù có giảm, vẫn gấp đôi so với tự truyện.
Thực tế, hồi ký tăng gấp ba lần. Khoảng gia tăng bắt đầu từ 2003 đến 2007. Đỉnh
cao là năm 2005 với 77 cuốn được xuất bản. Hai năm trở lại đây xu hướng tăng lại
chuyển sang tự truyện trong khi hồi ký giữ mức độ trung bình. Năm 2014, số lượng
hồi ký và tự truyện gần ngang nhau.
Khảo sát dạng thức tự truyện được xuất bản năm 2014, tự truyện phi hư cấu
chiếm số lượng lớn. Đặc biệt các tự truyện tái bản hoàn toàn thuộc loại phi hư cấu
nghĩa là thuộc các dạng thức: tự truyện - hồi ký, tự truyện du ký và tự truyện.
121
Khảo sát nguồn gốc xuất xứ của tự truyện và hồi ký giai đoạn này nhằm tìm
hiểu thị hiếu của độc giả, chúng tôi nhận thấy một số dấu hiệu:
Bảng 2. Số lượng hồi ký, tự truyện từ 1997 đến 2014 chia theo nguồn gốc
Tổng
Nguồn gốc Tự truyện Việt Nam 100
Số lượng
Tự truyện nước ngoài 107
Hồi ký nước ngoài 71
837
Hồi ký Việt Nam 559 66.7
100
Tỉ lệ
12.7
8.48
xuất xứ
11.9
Số lượng các tự truyện có nguồn gốc nước ngoài được xuất bản gần tương
đương với các tự truyện nội địa. Trong khi với hồi ký, tỉ lệ này khá chênh lệch. Hồi
ký của các tác giả Việt Nam chiếm vị trí chủ đạo, các tác phẩm dịch chỉ chiếm
8.48% tổng số hồi ký và tự truyện được xuất bản. Số lượng tự truyện Việt Nam đã
tăng lên khá nhanh. Từ 6 cuốn được xuất bản trong mười năm trước đó đến giai
đoạn này đã tăng lên 100 cuốn. Tỉ lệ tương đương giữa tự truyện Việt Nam và tự
truyện nước ngoài là 11.9 % và 12.7%. Điều đó khẳng định tự truyện đã tìm thấy
chỗ đứng của mình, đã tiếp cận với nhu cầu và thị hiếu của công chúng và đang dần
trở thành thể loại quen thuộc đối với người đọc Việt Nam. Sự gia tăng các tự truyện
nước ngoài được xuất bản tạo thêm những tiền đề vững chắc cho sự phát triển của
thể loại. Nó không chỉ mở rộng các góc nhìn về tự truyện mà còn hình thành các
chuẩn mực mới, làm phong phú những kinh nghiệm thể loại cho cả người sáng tác
và người tiếp nhận.
Như vậy, mặc dù không hoàn toàn mới mẻ đối với đời sống văn hóa của
công chúng Việt Nam song quá trình xuất hiện trở lại của tự truyện cũng không hẳn
dễ dàng. Mười năm đầu từ 1986 đến 1996 có thể coi là thời kỳ khởi động với các
tác phẩm dịch là chủ yếu (tự truyện Việt Nam xuất hiện khá dè dặt). Từ 1997 đến
nay, tự truyện đã trở thành thể loại quen thuộc. Với số lượng xuất bản trung bình
khoảng 13 cuốn/năm, tự truyện đã bắt đầu có chỗ đứng nhất định trong hệ thống thể
loại văn học hiểu theo ý nghĩa rộng nhất của khái niệm này. Cũng trong giai đoạn
này, thời điểm có ý nghĩa đột phá đối với sự phát triển của thể loại là năm 2006,
2007. Đây cũng là sự kiện thu hút sự quan tâm của không chỉ giới phê bình văn học.
122
Nếu xét theo quan niệm của R. Escarpit thì sự tiếp nhận thể loại gắn liền với
hai quá trình: quá trình kiến tạo của hoạt động xuất bản và quá trình tiếp nhận của
công chúng. Những số liệu xuất bản tự truyện ở Việt Nam được thống kê là bức
tranh phản ánh không chỉ diễn biến của quá trình kiến tạo ấy đối với tự truyện mà
còn phản ánh những biến đổi trong nhận thức của công chúng về thể loại. Đó là
những biến đổi gắn liền với nhu cầu, thị hiếu và chuẩn mực thẩm mĩ của xã hội đối
với hình thức văn học viết về bản thân.Tuy nhiên, sự biến đổi ấy đã diễn ra ở mức
độ nào? Gắn liền với các chuẩn mực nào? Để trả lời câu hỏi này, chúng tôi thực
hiện khảo sát các tự truyện được tái bản từ 1986 đến nay. Bởi theo chúng tôi, tái
bản một mặt phản ánh nhu cầu tiếp nhận của công chúng đối với một nhóm loại tự
truyện nhất định một mặt khác cũng nằm trong ý định chủ quan của nhà xuất bản.
4.1.2.2. Sự định hướng chuẩn mực và nhu cầu độc giả qua tái bản
Quan sát tình hình tái bản tự truyện từ 1986 đến 2014, có thể nhận thấy
những bước chuyển khá thú vị:
Biểu đồ 3: Số lượng tự truyện được tái bản từ 1986 đến 2014 ( so sánh hai nhóm: tự truyện có yếu tố hư cấu và tự truyện phi hư cấu)
14 12 10 8 6 4 2 0
từ 1986 đến 1996 Từ 1997 đến 2007 Từ 2007 đến 2014
hư cấu
phi hư cấu
Tổng
Số lượng tự truyện được tái bản đang ngày càng tăng dần. Từ 3 cuốn giai
đoạn 1986 - 1996 đến nay là 12 cuốn. Đặc biệt, xu hướng phi hư cấu đang dần lên
ngôi. Năm 2014 là năm mà sự phân hóa trở nên hết sức rõ rệt. Không có tự truyện
mang yếu tố hư cấu được tái bản. Điều này có nguyên nhân một phần bởi sự nở rộ
của hình thức tự truyện này và một phần khác bởi sự phân hóa triệt để hơn ở cả
khâu viết và khâu lựa chọn.
123
9
8
7
6
5
4
Số lần XB
3
2
1
0
Xuyên Mỹ
Miền Thơ ấu
Tuổi thơ im lặng
Cát bụi chân ai
Bất hạnh không của riêng ai
Đưa con trở lại thiên đường
Bầu trời không chỉ có màu xanh
Biểu đồ 4: Tác phẩm và số lần xuất bản
Số tự truyện được xuất bản từ 3 lần từ 1986 đến nay là 7 cuốn. Trong đó
Tuổi thơ im lặng (Duy Khán) có số lần in lại và tái bản nhiều nhất với 8 lần. Cát bụi
chân ai của Tô Hoài 5 lần, Đưa con trở lại thiên đường (Lê Thị Phương Nga) 4 lần.
Các tác phẩm còn lại: Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Bất hạnh không của riêng ai
(Trần Thị Hương), Bầu trời không chỉ có màu xanh (Lý Qúy Trung), Xuyên Mỹ
(Phan Việt) được tái bản lần thứ ba. Tuy vậy, thời điểm tái bản không hoàn toàn
giống nhau. Nếu như Miền thơ ấu, Bất hạnh không của riêng ai chỉ được tái bản
trong giai đoạn đầu thời kỳ Đổi mới thì Tuổi thơ im lặng và Cát bụi chân ai lại
được in lại và tái bản liên tục kể từ khi ra đời. Tác phẩm của người mẹ kể về hành
trình chữa trị cho cậu con trai mắc chứng tự kỷ (Đưa con trở lại thiên đường), của
thành viên đồng sáng lập thương hiệu phở 24 (Bầu trời không chỉ có màu xanh)
cũng được đọc khá nhiều. Bên cạnh đó, tự truyện của nhà văn trẻ Phan Việt - Xuyên
Mỹ cũng được yêu thích với 3 lần tái bản từ khi nó ra đời năm 2013. Quan sát các tự
truyện được tái bản, một mặt có thể thấy rõ thị hiếu đọc của công chúng, một mặt
khác, cũng có thể thấy những định hướng nhất định từ phía nhà xuất bản. Phải
chăng tự truyện đang ngày càng được phân định một cách rốt ráo hơn? Những chủ
đề của tự truyện cũng ngày một gần hơn với đời sống thực?
Tất nhiên mức độ được yêu thích của một cuốn sách không chỉ thể hiện ở số
lần tái bản mà còn thể hiện ở số lượng ấn bản được phát hành. Tuy nhiên, đó cũng
là một phần quan trọng xác định nhu cầu xã hội đối với một loại sách này. Từ khía
124
cạnh này, có thể thấy hai nhóm chủ đề đọc đối với tự truyện. Đó là chủ đề về những
sự thật khuất lấp gắn với tự truyện của các nhà văn, chủ đề vượt lên số phận của
nhân vật đời thường.Trong đó, tự truyện của các nhà văn luôn hàm chứa những
quặng vỉa sự thật của cuộc đời họ cũng như đời sống văn học, do thế, thu hút khá
đông đảo công chúng. Nhóm tự truyện sau lại thuần túy hướng tới việc chia sẻ
những trải nghiệm và các bài học cuộc sống. Đó là những hướng tiếp nhận chính.
Có thể lý giải điều này từ nội dung của các cuốn tự truyện.
Cát bụi chân ai của Tô Hoài ngay từ lần xuất bản đầu tiên được xác nhận là
hồi ký. Song nếu so sánh với các hồi ký khác, Cát bụi chân ai nói nhiều về sự thật
của các cá nhân, những mặt trái của đời sống văn học hơn là kể về các thành tích,
các chặng đường thành công như các hồi ký khác. Vì thế, xét ở khía cạnh thể loại,
Cát bụi chân ai gần với tự truyện, một tự truyện về thế hệ. Nội dung của tác phẩm
có thể thống kê bao gồm các chuyện về:
Đời sống văn nghệ của bản thân tác giả, của các nhà văn cùng thời trong đó
nổi bật chân dung các nhà văn Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Xuân Diệu…
Chuyện Cải cách ruộng đất
Chuyện Nhân văn giai phẩm
Chuyện chỉnh huấn trong văn nghệ những năm 1957- 1958.
Nội dung của cuốn sách phản ánh khá rõ những góc khuất của chính trị và
văn học. Chúng chưa từng được nói tới hay chính xác hơn, chúng chưa từng được
công khai xuất hiện trong văn học.
Các câu chuyện đan vào nhau và bổ sung cho nhau để khắc họa một chặng
đường văn học Việt Nam nhìn từ phía hậu trường. Đó là cái nhìn cận cảnh, cái nhìn
của người trong cuộc, người tham gia hoặc là nạn nhân, hoặc là thủ phạm của
những sự thật ấy. Điều đó khiến Cát bụi chân ai như là một sự khởi đầu, một bắt
đầu cho việc nói sự thật cũng đồng thời là một bắt đầu cho việc tiếp nhận sự thật
của công chúng. Có thể thống kê một số đoạn kể tiêu biểu:
Về chỉnh huấn trong văn nghệ, ông viết:
“Thói quen những cuộc họp tập thể này gọi là chỉnh huấn, cái đúng, cái tốt
chỉ nói lớt phớt, rồi người ta dội lên đầu nhau những chữ nhưng, chữ tuy nhiên, chữ
mặc dầu đã…
125
Tôi thì bị mơ hồ mất cảnh giác mọi mặt. Các cơ quan hội nhà văn và nhiều
công tác bị lũng đoạn. Báo Nhân văn, nhà xuất bản Minh Đức không còn, nhưng tư
tưởng Nhân Văn và giai phẩm vẫn tồn tại, vẫn làm lệch lạc chúng tôi.
Ngổn ngang tâm sự và tâm trạng, chua chát, mỉa mai lại hài hước…” [73, 113]
“Nửa đêm trở dậy, giữa rừng đốt hàng trăm bó đuốc lên, lấp loáng băng khẩu
hiệu vải đen chữ trắng…bộc lộ khuyết điểm…thước đo lòng trung thành…trời rét
cắt ruột. Rừng đêm tối như mực. Con người bẩn thỉu, lỗi lầm đầy rẫy…Chưa…
chưa đủ thành khẩn, làm lại…lại làm lại. Mỗi lần làm lại, viết lại càng áy náy lo.
Cái chờ đợi được tổ thông qua cứ xa vời vợi…[73, 115]
Chỉnh huấn đã khiến cho đời sống sáng tác và tinh thần nghệ sĩ hoang mang,
căng thẳng: “có người lo quá cả tháng không chợp mắt, như ở báo Cứu Quốc, một
cậu còn trẻ, đã vào rừng thắt cổ” [73,114 ] .
Cái nhìn cận cảnh này thực chất chưa từng tồn tại trong văn học cách mạng
trước đó. Trước đó, đời sống của nhà văn, những hoạt động chính trị, các cuộc sinh
hoạt chính trị luôn tràn đầy không khi phấn khởi, tin tưởng, chưa bao giờ không khí
hoang mang, lo sợ, những cái chết vì thiếu niềm tin được nói một cách trực tiếp và
thẳng thắn như vậy. Những điều được nói đến ở đây, thực sự là một bước ngoặt,
một thay đổi lớn trong cái nhìn đối với sự thật, đòi hỏi một thái độ đánh giá công
bằng đối với quá khứ của nhà văn.
Về các nhà văn, điển hình trong các chân dung trong Cát bụi chân ai là
Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng và Xuân Diệu. Đặc biệt, sự thật về tình yêu đồng tính
của Xuân Diệu được ông mô tả đầy cảm xúc:
“Chúng nó sợ, bỏ đi trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió, Xuân Diệu ở lại u tỳ
quốc không ra ngoài. Giọt gianh lách tách mái nứa gọi đêm về ma quái, rùng rợn,
say đắm. Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người, bàn tay người đày đặn,
âm ấm. Hai bàn tay mềm mại xoa lên mặt, lên cổ rồi xuống dần, xuống dần khắp
mình trần truồng trong mảnh chăn dạ. Bóng tối bập bùng lên ngọn lửa đen không có
ánh, cái lạnh đêm mưa rừng ấm lên. Chẳng còn biết đương ở đâu, mình là ai, ta là
ai, hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão trói
nhau lại, thít lại, giằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, dữ dội lên, dằn ngửa cái
xác thịt kia” [73, 196 ]
126
Đó là một trong những đoạn văn viết về tình dục hiếm hoi của văn học Việt
Nam cho đến thời điểm ấy. Sự hiếm hoi còn thể hiện ở chỗ, đó không chỉ là tình
dục, mà còn là tình dục đồng giới, một đề tài chưa từng được biết tới đối với người
đọc Việt Nam. Sau này, đề tài này cũng được coi là đề tài ăn khách.Tuy nhiên, tại
thời điểm 1990, khi Tô Hoài viết Cát bụi chân ai, tình dục đồng giới vẫn còn là một
cấm kỵ chưa hẳn được chấp nhận trong cả đời sống và văn học. Sự táo bạo của Tô
Hoài đã khẳng định bản lĩnh nhà văn không chỉ trong việc nói sự thật mà còn có thể
nói về những điều cấm kỵ. Có thể nói Cát bụi chân ai giống như một thử nghiệm
chuẩn bị cho sự xuất hiện của một bức tranh sự thật đầy đủ hơn nữa trong Chiều
chiều xuất bản vào năm 1999.
Đối với người đọc, qua Cát bụi chân ai, Tô Hoài đã kiến tạo một nhu cầu
đọc mới, một chuẩn mực tiếp nhận mới. Đó là đọc sự thật trong chính bản chất của
nó, từ cái nhìn chân thực của người trong cuộc được phản tỉnh. Điều hấp dẫn là
chúng đã trở thành một tiêu chuẩn của tiếp nhận tự truyện, cũng là tiêu chuẩn tiếp
nhận văn học hiện nay. Sự tái bản liên tục Cát bụi chân ai đã là sự phản hồi khẳng
định đối với điều này. Tất nhiên, cùng với đó là cách viết đậm chất văn học, lời văn
giàu hình ảnh và ám ảnh cũng là những hấp dẫn của cách kể của Tô Hoài. Nhà xuất
bản Hội nhà văn với vai trò trung gian của mình đã góp phần quan trọng trong việc
định hướng các chuẩn mực tiếp nhận cho người đọc thông qua việc lựa chọn xuất
bản và tái bản tác phẩm. Tiếc rằng, sau Tô Hoài, cho đến nay, chưa có thêm một thử
nghiệm nào.
Một trong những cuốn tự truyện được tái bản có thể kể đó là trường hợp Bất
hạnh không của riêng ai của Trần Thị Hương kể về hành trình xây dựng nên mái
ấm tình thương cho trẻ mồ côi lang thang ở thành phố Hồ Chí Minh và Đưa con trở
lại thiên đường của Nguyễn Thị Phương Nga kể về con đường gian nan chữa bệnh
cho cậu con trai mắc chứng tự kỷ. Mặc dù không phải là một tự truyện văn học,
không được kể theo cách của văn học song các câu chuyện được kể ở đây lại hấp
dẫn người đọc ở sự gần gũi, ở cảm giác được sẻ chia và giúp đỡ, ở những cảm xúc
chân thật. Nếu Bất hạnh không của riêng ai được chú ý vào khoảng năm 1995 -
1997 thì tự truyện Đưa con trở lại thiên đường lại thu hút độc giả trong khoảng từ
2008 đến 2012 với ba lần xuất bản và tái bản. Mỗi lần 1.500 cuốn, một con số
127
không phải là nhiều với tiểu thuyết song lại là lớn đối với tự truyện. Nó cho thấy một
điều: không phải chỉ những câu chuyện gây sốc của những nhân vật nổi tiếng mới thu
hút độc giả như lâu nay nhiều người vẫn khẳng định mà những câu chuyện bình
thường của những người bình thường lại mới chính là điều độc giả thích thú. Vẻ đẹp
của cuộc sống được phát hiện không phải là những gì xa vời mà nằm trong mỗi con
người, trong nghị lực sống, trong tình yêu thương và tất cả những biểu hiện sống gần
gũi quen thuộc nhất. Những câu chuyện này đánh thức cảm xúc đối với đời sống
thường nhật ở người đọc. Điều đó lý giải xu hướng thích đọc và thích viết về những
điều giản dị của cuộc sống đang thịnh hành hiện nay trong đông đảo công chúng.
Một hiện tượng xuất bản có thể kể đến là trường hợp tự truyện Yêu và sống
của nữ nghệ sĩ Lê Vân. Cuốn sách không tái bản nhưng với số lượng ấn bản 12.000
cuốn (theo Vn Express) khi xuất bản không kể các bản in nối bản, có thể coi là một
hiện tượng (nếu so sánh với các cuốn được tái bản như Cát bụi chân ai hay Đưa con
trở lại thiên đàng như chúng tôi đã nói ở trên, số lượng mới chỉ bằng 1/3). Một số
nhà văn đã lý giải hiện tượng này, đó là: “Đã qúa lâu người ta chỉ được đọc những
sự thật đã được "mã hoá" trong không khí và ngôn ngữ của tiểu thuyết, truyện ngắn,
thơ văn, nay có một sự thật nhiều vẻ trần trụi nên cuốn tự truyện đó đã khuấy động
được cái không khí ít nhiều tĩnh lặng của văn hoá đọc trong thời công nghiệp hoá
hôm nay” [121]
Lý giải này phần nào khẳng định tâm lý muốn được biết về một loại sự thật,
đó là sự thật “trần trụi”, sự thật của đời sống thường nhật, được kể bằng cái nhìn
xuất phát từ những nhu cầu sống bình thường của con người. Đó chính là nhu cầu
mới của độc giả đối với tự truyện. Đó cũng là lý do mà dòng sách phi hư cấu bắt
đầu phát triển mạnh ở nước ta.
Như vậy, sự tiếp nhận tự truyện nhìn qua hoạt động xuất bản có thể khẳng
định đó là một quá trình di chuyển từ đời sống vào văn học. Từ một số lượng ít ỏi
trung bình 5 cuốn/ năm giai đoạn 1986 - 1996 đến nay trung bình 15 cuốn/năm, từ
chỗ chủ yếu là tự truyện nước ngoài đến nay tự truyện nội địa đã chiếm 50% tổng
số tự truyện được xuất bản. Tất nhiên chặng đường của tự truyện còn nhiều gian
nan bởi điều đó không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực của hoạt động xuất bản mà còn vào
không khí chính trị, vào ý thức xã hội đối với những vấn đề của thể loại. Cuộc tranh
128
luận xung quanh tự truyện Lê Vân - Yêu và sống sôi nổi suốt năm 2006 và 2007 đã
đặt ra các vấn đề như: sự thật có thể được viết đến đâu? Đâu là giới hạn? vấn đề
đạo đức của người viết, mức độ ảnh hưởng tới các mối quan hệ xã hội của chủ thể
tự truyện…đã cho thấy những tác động không nhỏ của ý thức xã hội tới thể loại. Có
thể đây cũng là nguyên nhân của sự lắng xuống của tự truyện phi hư cấu sau năm
2007 và hiện tượng dịch chuyển sang hình thức tự truyện - du ký thời gian gần đây
Mặc dù con đường đi của tự truyện vẫn còn nhiều quanh co song nhìn từ cấp
độ xuất bản với số lượng ấn phẩm được xuất bản, tái bản, đươc dịch và giới thiệu
trong hơn hai mươi năm qua có thể thấy, tự truyện đã bắt đầu khẳng định chỗ đứng
của mình trong lòng người đọc. Đặc biệt, trong quá trình ấy, hai xu hướng tiếp nhận
chính được hình thành: một quan tâm tới những góc khuất của thực tại lịch sử và
một quan tâm đến sự biểu đạt đời sống thường nhật đã cho thấy phần nào nhu cầu
đọc của công chúng đối với những gì mà văn học biểu đạt. Nhà xuất bản trong vai
trò trung gian giữa người viết và công chúng, trong quá trình đi tìm tiếng nói chung
giữa lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì, thúc
đẩy các nhu cầu xã hội và hình thành nên các chuẩn mực đọc mới đối với tự truyện
nói riêng và văn học nói chung.
4.2. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ người đọc
Những định hướng của nhà xuất bản trong việc giới thiệu và tái bản các tác
phẩm tự truyện, một mặt là sự kiến tạo thị hiếu nói chung nhưng mặt khác cũng là
sự phản ánh chính thị hiếu đó. Do vậy, song song với việc quan sát tình hình xuất
bản tự truyện việc khảo sát người đọc là điều cần thiết. Qua đó có thể lý giải được
những đặc điểm và xu hướng phát triển của thể loại.
Thực hiện sự khảo sát thông qua phiếu trưng cầu ý kiến đối với 201 bạn đọc
ở độ tuổi từ 18 đến 40 tuổi, tại thời điểm từ tháng 3 đến tháng 4 năm 2016 trên địa
bàn Hà Nội, chúng tôi thu được một số kết quả sau:
Thứ nhất, tự truyện là thể loại được đọc khá phổ biến. Trong số 201 người
được hỏi có 145 người chiếm 72,1% có đọc tự truyện (Tất nhiên tự truyện ở đây
được hiểu ở nội hàm khá rộng, chủ yếu nhấn mạnh đăc điểm: là thể loại văn xuôi
viết về đời tư tác giả, do tác giả viết hoặc kể lại. Chuyện thường được kể từ ngôi thứ
nhất hoặc ngôi thứ ba).
129
Các lý do tìm đọc tự truyện khá phong phú như nghe bạn bè giới thiệu, tò
mò, vì công việc…đều được liệt kê song hai lý do được nói tới nhiều hơn cả là sở
thích cá nhân (31.8%) và sự giới thiệu của truyền thông đại chúng (25.9%). Điều đó
cho thấy con đường để sách đến được với công chúng ngoài sự chủ động của độc
giả, không thể thiếu hoạt động tuyên truyền và quảng bá.
STT Lý do
Tần số
Tần suất
1 Nghe giới thiệu trên truyền hình
52
25.9
2 Nghe bạn bè giới thiệu
39
19.4
3 Sở thích cá nhân
64
31.8
4 Thấy người khác đọc thì đọc
8
4.0
5 Tò mò
21
10.4
6 Khác
16
8.0
Bảng 3: Lý do đọc tự truyện
Điểm thứ hai trong hình ảnh về công chúng tự truyện tại thời điểm hiện nay
là sự xuất hiện kiểu đọc quan tâm tới đặc trưng thể loại. Mặc dù chưa có sự phân
biệt rõ về mục đích đọc giữa tự truyện và các tác phẩm văn học nói chung song sự
xuất hiện các mục đích như: đọc để biết sự thật, đọc để biết về người nổi tiếng, đọc
để học hỏi kinh nghiệm sống cho thấy ý thức đọc đối với tác phẩm phi hư cấu là
khá rõ.
Bảng 4: Mục đích đọc tự truyện
Giới tính
Muc đích đọc tự truyện
Nam
Nữ
Tổng
1. Hiểu thêm về đời tư của người nổi tiếng 2. Hiểu về những sự thật mà mình chưa biết
12 6
21 49
33 56
11
46
57
3. Học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích 4. Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc sống 5. Để giải trí, thư giãn 6. Phục vụ nhu cầu công việc
8 1 7
56 34 16
64 35 24
Về đặc điểm giới tính và mục đích đọc tự truyện, có thể thấy rõ nam giới
thường thiên về những mục đích mang tính lý trí như: học hỏi kinh nghiệm sống và
130
biết thêm về đời tư của người nổi tiếng trong khi nữ giới lại chú trọng các mục đích
thiên về cảm xúc như tìm kiếm cảm xúc sâu sắc về con người (56 ý kiến), giải trí và
thư giãn (34 ý kiến) trong khi với nam giới, mục đích này ít được quan tâm (1 ý kiến).
Về mức độ đọc tự truyện, chúng tôi phân chia thành hai nhóm loại theo
nguồn gốc xuất xứ bởi giữa chúng, sự khác biệt trong cách thức biểu hiện là khá rõ.
Tuy vậy, thực tế lại không có nhiều điểm khác biệt.
Bảng 5: Mức độ đọc tự truyện Việt Nam
Tần số
Tần suất
Mức độ đọc Thường xuyên Thỉnh thoảng
6 90
3 44.8
Hiếm khi
42
20.9
10
5
Không bao giờ
Bảng 6: Mức độ đọc tự truyện nước ngoài
Tần số
Tần suất
Mức độ đọc Thường xuyên
12
6
Thỉnh thoảng
80
39.8
Hiếm khi
35
17.4
Không bao giờ
17
8.5
Về mức độ thường xuyên, tự truyện Việt Nam thường được quan tâm nhiều
hơn so với tự truyện Việt Nam. Sự phân biệt giữa hai nhóm loại về mức độ đọc là
tương đương nhau. Một số lượng khá lớn các ý kiến đều cho rằng tự truyện không
phải là loại sách được họ đọc thường xuyên: 90 người thỉnh thoảng đọc tự truyện
Việt Nam và 80 người thỉnh thoảng đọc tự truyện nước ngoài. Những người đọc
thường xuyên khá ít ỏi. Tuy nhiên, tự truyện nước ngoài có số người lựa chọn cao
gấp đôi so với tự truyện trong nước. Lý do thích đối với tự truyên nước ngoài cũng
khá hấp dẫn: “lối tư duy khác, thể hiện bằng văn phong khác” (phiếu khảo sát số
201). Như thế, tính chất mới mẻ và hiện đại trong tư duy và cách thể hiện là một
yếu tố tạo ra sự cuốn hút độc giả. Và điều đó cũng dự báo sự xuất hiện nhóm độc
giả riêng của thể loại trong tương lai. Họ đọc với một chủ ý xác định: sở thích. Việc
tự truyện nước ngoài được dịch ngày càng nhiều phản ánh khá rõ xu hướng này.
131
Ngay trong giới thiệu về một cuốn tự truyện bất kỳ, tỉ lệ tự truyện trong nước và
nước ngoài được giới thiệu là ngang nhau (53/55 lượt) nhưng số cuốn được nhắc tới
là tự truyện của các tác giả nước ngoài lại nhiều hơn trong khi tự truyên được nhắc
tới nhiều nhất của Việt Nam là Nhật ký Đặng Thùy Trâm (18 lượt). Ở đây không thể
phủ nhận vai trò của truyền thông đại chúng tại thời điểm cuốn nhật ký ra đời.
Về sở thích đối với các nhóm loại tự truyện chia theo tác giả có thể thấy sự
chú ý của người đọc đối với từng nhóm loại không quá chênh lệch.
Bảng 7: Anh/chị thích đọc loại tự truyện của
nhóm tác giả nào
Loại tự truyện
Giới tính Nữ
Tổng
1. Tự truyện của diễn viên, người mẫu, cầu thủ 2. Tự truyện của chính trị gia, doanh nhân 3. Tự truyện của nhà văn 4. Tự truyện của người vượt lên hoàn cảnh
22 44 62 45
27 58 71 51
Nam 5 14 9 6
Tự truyện của nhà văn luôn được lựa chọn với mức độ cao hơn cả với 71 ý
kiến, tiếp sau là tự truyện của doanh nhân, chính trị gia, của những người vượt lên
hoàn cảnh. Điều đó là dễ hiểu bởi tự truyện nhà văn thường được đánh giá cao hơn
về phẩm chất văn học. Hơn nữa, bản thân cuộc đời của nhà văn bằng cách này hay
cách khác đã từng hiện diện trong tác phẩm, vì thế, việc mong muốn biết nhiều hơn,
thật hơn, muốn đi tìm những khớp nối giữa con người thực và con người trong văn
chương là mong muốn phổ biến của bạn đọc. Tuy nhiên dù có tỉ lệ được chọn nhiều
hơn song tự truyện của các nhà văn Việt Nam ngoài Cát bụi chân ai của Tô Hoài,
Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng thì hầu như đều là những tự truyện mà tác giả
không phải là nhà văn. Đặc biệt, loại tự truyện - tiểu thuyết dường như không được
biết tới. Phải chăng, chúng chỉ được coi là tự truyện đối với những người biết rõ về
tác giả hoặc các nhà nghiên cứu, phê bình?
Với các tự truyện nước ngoài, sự giới thiệu của những người trả lời cũng khá
đa dạng. Từ tự truyện của các cầu thủ bóng đá tới tự truyện của các doanh nhân,
chính trị gia, những người có số phận bất hạnh đều có số lượt giới thiệu là tương
đương nhau. Đặc biệt tự truyện của những doanh nhân thành đạt như tự truyện của
132
Steve Job, những câu chuyện vượt lên hoàn cảnh của Nick Vuicic, tự truyện của
Benjamin Franklin…là những cuốn khá tiêu biểu. Dù sự giới thiệu không hoàn toàn
tập trung song qua đó hàm chứa những mong muốn của bạn đọc đối với tự truyện
trong nước.
Về đặc điểm giới tính, có thể thấy rõ xu hướng đọc của nam và nữ không có
nhiều khác biệt. Tuy nhiên thiên hướng thích đọc tự truyện của doanh nhân ở nam
giới là khá nổi bật trong khi nữ giới lại thích đọc tự truyện của nhà văn. Có lẽ điều
này cũng xuất phát từ chính các vai trò xã hội và xu hướng nghề nghiệp của mỗi giới.
Như vậy, quan sát sự tiếp nhận tự truyện từ cấp độ này, có thể thấy những
dấu hiệu chuyển mình, đó là sự hình thành ý thức về cách đọc. Đọc tự truyện, bên
cạnh việc giải trí là nhu cầu học hỏi các kinh nghiệm sống và bài học cuộc sống
từ cuộc đời của chính chủ thể tự truyện. Việc tỉ lệ thích tự truyện của các chính trị
gia, doanh nhân, người vượt lên hoàn cảnh không khác biệt với tự truyện của nhà
văn minh chứng cho xu hướng này. Cùng với đó, sự ham thích đọc đối với tự truyện
nước ngoài tỏ rõ mong muốn hiện đại hóa tư duy và cách thức biểu đạt đối với tự
truyện Việt Nam của độc giả. Việc cho rằng tự truyện Đường ra biển lớn của Richard
Branson đã truyền cảm hứng mới mẻ về những quy tắc thành công, phát triển bản
thân, khẳng định giá trị bản thân để vươn lên giàu có và thành đạt” (Phiếu số 201)
cũng không khác nhiều so với mong muốn trên. Yếu tố giới tính ở đây không tác
động nhiều tới sự đọc tự truyện ngoài mục đích đọc. Tất nhiên, điều này một phần
còn bởi số lượng mẫu thống kê còn hạn chế, lại giới hạn bởi những không gian mà ở
đó, tỉ lệ nam/nữ là khá chênh lệch. Song một mặt nào đó, điều đó cũng có nghĩa là
những yếu tố giới tính cũng có ảnh hưởng phần nào tới sở thích của mỗi cá nhân.
Mặc dù vậy, kết quả khảo sát trên chỉ có ý nghĩa ở một khoảng thời gian nhất
định bởi hạn chế của khảo sát là sự giới hạn của số lượng mẫu và đối tượng khảo
sát. Để đi tìm một hình ảnh chính xác hơn cần một mẫu lớn hơn và đối tượng khảo
sát đa dạng hơn. Tuy nhiên, tự truyện nói chung, một mặt là văn học, song một mặt
khác, là sản phẩm văn hóa đại chúng, do thế, chúng ít có cơ hội được đọc lại bởi
“việc đọc lại là một hành động đối lập với các thói quen có tính thương mại và ý
thức hệ của xã hội chúng ta, khiến chúng ta “quẳng ngay” câu chuyện một khi đã
133
được tiêu thụ xong, để chúng ta có thể chuyển ngay sang câu chuyện khác, mua một
cuốn sách khác”[154]. Vì vậy những khảo sát dù có quy mô lớn hơn thì cũng chỉ
cho thấy thị hiếu hay xu hướng của một giai đoạn nhất định.
4.3. Tiếp nhận tự truyện nhìn từ các mô hình diễn giải
Nếu xuất bản là cấp độ xã hội của tiếp nhận thì sự đọc thuộc về cấp độ cá
nhân. Song sự tiếp nhận cá nhân luôn diễn ra trong không khí của tiếp nhận xã hội.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “tiếp nhận văn học là một hiện tượng có
quy luật xã hội”. Sự đọc không phải là một hoạt động hoàn toàn tự do. Người đọc,
trước hết, bị quy định bởi văn bản tác phẩm với các mã ngôn ngữ, mã nghệ thuật,
mã văn hóa kết tinh ở trong đó, thứ đến, người đọc bị quy định bởi kinh nghiệm tiếp
nhận do truyền thống văn học và sự tiếp nhận các tác phẩm đã có trước quy định,
Cuối cũng, người đọc bị quy định bởi nhu cầu đời sống, họ chờ đợi ở tác phẩm
những vấn đề, những hiện tượng hiện thực mà họ quan tâm” [69, 326]. Ba quy luật
này xác định các yếu tố xã hội quy định sự đọc. Một mặt các yếu tố ấy hiện diện
trong cấu trúc nội tại của văn bản tác phẩm, một mặt khác xuất hiện như những kinh
nghiệm về thể loại, về truyền thống văn hóa và nhu cầu xã hội hiện tại, chúng tác
động lên người đọc, làm cho hoạt động đọc không chỉ là hoạt động cá nhân mà còn
là một hoạt động mang tính xã hội. Chúng cho thấy “trạng thái tinh thần, đạo đức,
trình độ văn hóa, nhu cầu tình cảm của đời sống xã hội” [69, 327]. Sự đọc đối với tự
truyện Việt Nam đương đại cũng không nằm ngoài quy luật này. Khảo sát các mô
hình diễn giải đối với tự truyện, có thể thấy rõ, ý thức về thể loại, truyền thống văn
hóa và những xúc cảm của đời sống đương đại là những yếu tố chi phối mạnh mẽ
tác động đến cách diễn giải đối với tự truyện. Trong các phần viết sau đây, để làm
rõ từng mô hình diễn giải, chúng tôi tập trung phân tích một số trường hợp tiêu biểu
gồm: Yêu và sống của Lê Vân, Chiều chiều của Tô Hoài, Thượng đế thì cười của
Nguyễn Khải qua đó có thể khái quát những đặc điểm cơ bản của sự tiếp nhận tự
truyện và tác động của chúng đối với sự phát triển thể loại.
4.3.1.Mô hình đạo đức
Là hình thức viết mang đậm tính chủ quan và tính quy chiếu, tự truyện trước
tiên thường được đọc như là một câu chuyện đời, chuyện người. Tất nhiên, cách đọc
134
này vẫn có thể thực hiện với các tác phẩm văn học song đối với tự truyện, đây là cách
đọc đặc thù thường đi cùng với tính chất quy chiếu của thể loại. Quan sát sự đọc đối
với tự truyện của nữ nghệ sĩ Lê Vân có thể thấy một kiểu đọc khá tiêu biểu trong cách
đọc tự truyện. Đó là cách đọc dựa trên các chuẩn mực đạo đức truyền thống.
Với lối viết hết sức trung thực và đầy tinh thần sám hối, tự truyện của Lê
Vân đã mở toang cánh cửa bí mật của đời sống cá nhân của cô và đồng thời cũng xé
toang bức màn nhung đẹp đẽ mà xã hội vẫn hình dung về đời sống của những nghệ
sĩ Việt Nam. Trong số các tự truyện được xuất bản cùng năm như: Phúc Ông tự
truyện (Fukuzawa Yukichi), Tự truyện Học Phi, Tự truyện Nguyễn Khắc Viện…tự
truyện của Lê Vân là một cơn gió lạ, một bất ngờ đối với truyền thống chừng mực,
“tốt đẹp phô ra” trong văn hóa Việt Nam. Thay vào đó là những sự thật trần trụi,
nhiều khi u ám, tệ hại được kể một cách kỹ càng và đầy cảm xúc. Trong tự truyện,
nhiều sự thật xung quanh cuộc đời của Lê Vân và gia đình gồm các nghệ sĩ nổi
tiếng của chị được hé lộ. Sự thật về cha mình - nghệ sĩ Trần Tiến không nuôi nổi
bản thân mình, không quan tâm tới con cái, sự thật cuộc sống thời bao cấp khó
khăn, một mình mẹ xoay xở nuôi ba chị em, sự thật về chuyện tình yêu của cô với
cả ba người đàn ông đã có gia đình…Đó là lý do khiến Yêu và sống của Lê Vân rơi
vào vòng xoáy của những tranh luận đạo đức.
Khía cạnh mà người đọc quan tâm đối với tự truyện này là nhân cách của
chủ thể trong việc viết về những sự thật của mình. Ở đây, những vấn đề đạo đức
được đặt ra. Đó là lòng trung thực, đạo hiếu và đạo đức của người phụ nữ.
Lòng trung thực là một phẩm chất đạo đức được đề cao trong xã hội cho nên,
việc Lê Vân kể câu chuyện của mình một cách thành thực đã tạo ra sự đồng tình. Ở
đây, tinh thần viết sự thật được coi là dũng cảm, là trung thực: Hơn ai hết Lê Vân
hiểu rõ ý nghĩa của việc đang làm: Ngay cả điều khủng khiếp nhất là tôi gục ngã
trong cảm giác bị trừng phạt thì cũng không kinh sợ bằng việc tôi dung túng cho sự
dối trá". Phải chăng vì thế cô đã không hề tìm cách quanh co, né tránh? Qua những
gì cô kể, người ta sẽ nhớ rằng, từng có một thời, chúng ta đã sống trong một môi
trường như thế, với những điều kiện như thế, đã yêu ghét vui buồn, đã làm khổ mình
và làm khổ kẻ khác bởi những sai lầm như thế... [196]
135
Giá trị của sự thật mà Lê Vân kể chính là giá trị hiện thực. Tự truyện là hình
ảnh chân thực về một thời đã qua mà người đánh giá cũng hoàn toàn thừa nhận. Ở
đây, ý thức sám hối thành thật của Lê Vân được khẳng định như một phẩm chất đạo
đức: Tôi đã đọc quyển sách của chị Lê Vân. Qua cuốn sách tôi thấy một sự dũng
cảm, chân thật và đầy sám hối. Đọc đến trang cuối cùng, gấp quyển sách lại, tôi tự
hỏi vì lẽ gì, nhờ sức mạnh ở đâu mà chị Lê Vân có đủ can đảm để đương đầu với
những quá khứ đau đớn, nhìn lại những sai lầm trong đời mình thẳng thắn như
vậy(....)Bất kể câu chuyện như thế nào, đúng sai ra sao, riêng việc dám nói, nói để
sám hối như chị Vân, đối với tôi đó là sự thành thật đáng nể trọng [196]
Ngay cả những người phản đối chị về các phương diện đạo đức cũng vẫn
phải thừa nhận. Song lại nêu ra quan điểm về “sự thật tế nhị”:
Chị Lê Vân, sao lại thế, có nhiều chuyện có thể im lặng giữ cho mình mà lại
kể. Kể ra rồi thì sẽ ra sao? Nhất là khi người được kể đến ấy lại là cha mình, với
một chân dung không lấy gì làm tích cực? [196]
Hay mạnh mẽ, quyết liệt hơn:
Chúng ta trách Lê Vân một thì phải trách cái chị nhà văn họ Bùi đã chấp bút
- đồng tác giả với Lê Vân kia mười, thậm chí cả trăm lần. Bởi, với tài năng và sự
nhạy cảm của một nhà văn, đặc biệt là một người đồng giới, nhẽ ra Bùi Mai Hạnh
nên khuyên Lê Vân nên dừng lại ở những chuyện cần phải dừng, khuyên không
được thì nên từ chối cộng tác [196]
Những sự thật tế nhị chính là sự thật không mấy tốt đẹp của gia đình và thái
độ quyết liệt của người đọc này là phủ nhận việc kể những sự thật ấy, quy kết
nguyên nhân của việc kể là bởi sự thiếu kính trọng, là đắc tội bất kính. Đó là một
giới hạn đối với việc kể sự thật.
Hệ quả của việc kể sự thật của mình, về mình, Lê Vân trở thành đối tượng
của những đánh giá đạo đức. Các quy kết đạo đức ngày càng mở rộng.
Từ tội bất hiếu đối với cha mẹ:
Lê Vân chưa trân trọng tình ruột thịt,
Lê Vân lên án cha mẹ mình một cách gay gắt, nếu không nói là hỗn xược với
cách một người con nói về cha mẹ mình”, Lê Vân ích kỷ và cầu toàn
136
Sau khi đọc xong những trích đoạn Lê Vân Yêu và Sống, tôi thấy rất bất bình
với quan điểm sống, về gia đình và về tình yêu của chị [196]
Đến những quy kết thành vấn đề xã hội: Đọc tự truyện của Lê Vân cứ thấy
buồn, không phải từ câu chuyện mà buồn vì những giá trị đạo đức đang lung lay và
đấy là nguy cơ của xã hội khi gia đình là tế bào của xã hội đang bị coi thường, tình
cha con, anh chị em bị chà đạp nhân danh “nói thật” không hiểu vì mục đích gì.
Đáng buồn hơn khi có nhà xuất bản cho ra sách không hiểu vì giá trị văn học, tư
tưởng gì ở đây ngoài truyện khai thác đời tư những người và gia đình nổi tiếng để
“nổi tiếng” theo hoặc lợi dụng yếu tố tò mò của công chúng trước người nổi tiếng
để kiếm lời”(Tự truyện "Lê Vân - Yêu và sống [196]
Không loại trừ mục đích kinh tế của xuất bản đối với thể loại song có thể
thấy việc nói sự thật được quy kết thành hành vi lệch chuẩn đạo đức khiến cho câu
chuyện này trở nên căng thẳng hơn, phạm vi cũng mở rộng hơn. Ở đây, tình cảm gia
đình, lòng hiếu thảo vốn là một chuẩn mực đạo đức truyền thống trở thành thước đo
nhân cách để phê phán chủ thể, và lớn hơn, nó trở thành một công cụ cứng rắn điều
chỉnh hành vi tự truyện.
Vấn đề này đã nhắc lại một trong những quy ước đạo đức của chủ thể tự
truyện, đó là lòng dũng cảm và thành thật. Nhà nghiên cứu P. Lejeune khi nói tới
công ước của tự truyện là đòi hỏi cam kết thành thật này. Song đối với chủ thể tự
truyện, chúng lại luôn là một thử thách nghiệt ngã bởi họ bị mắc kẹt giữa một bên là
đạo đức xã hội, một bên là đạo đức tự truyện. Cuộc đấu tranh giữa sự thật và “sự
thật tế nhị” sẽ luôn gay gắt và vì thế cũng luôn hấp dẫn.
Trên đây là hình ảnh về sự đọc đối với Yêu và Sống của Lê Vân, một tự truyện
được nhiều cây bút văn chương thừa nhận là “một cuốn tự truyện thực sự”, một “của
hiếm” bổ sung vào những của hiếm như tự truyện của Vũ Bằng, Tô Hoài” [171].
Thực tế này cho thấy hình ảnh đầy mâu thuẫn của sự tiếp nhận tự truyện.
Một mặt, coi việc kể sự thật là biểu hiện của lương tâm của người viết, một mặt
khác, lại phản đối việc kể sự thật, đặc biệt là những “sự thật tế nhị” bởi chúng liên
quan đến các quan hệ đạo đức đặc biệt là quan hệ cha con, gia đình, quan hệ người
trên kẻ dưới và coi đó là hành động vi phạm đạo đức. Nó buộc người viết phải lựa
137
chọn: bản thân hay người khác, an toàn hay dấn thân. Lựa chọn nào cũng dẫn đến
những bi kịch bởi nếu chọn sự an toàn sẽ phải đối diện với lương tri, chọn sự dấn
thấn sẽ phải đối mặt với tầng lớp những thái độ và định kiến. Như vậy, đi tìm câu
trả lời cho việc nói hay không nên nói sự thật không phải là việc dễ dàng một khi sự
thật ấy có liên quan tới nhiều người, đặc biệt là điều đó lại gắn liền với truyền thống
ứng xử “không vạch áo cho người xem lưng”, và các quy tắc đạo đức nền tảng trong
truyền thống văn hóa Việt Nam. Trong nhiều trường hợp những phán xét đạo đức
trở nên hết sức căng thẳng chúng có thể hủy hoại nhu cầu tự truyện và làm thay đổi
hành vi tự truyện của các chủ thể. Nói xa hơn, đó là một giới hạn mà người viết tự
truyện không dễ dàng bước qua. Nhưng có lẽ chính điều đó lại khiến tự truyện vẫn
mãi hấp dẫn cả người viết và người đọc. Mãi mãi, việc phán xét đạo đức đối với chủ
thể tự truyện vẫn sẽ diễn ra và người viết tự truyện mãi mãi, cũng vẫn đeo đuổi sự
thật của mình. Đây cũng đồng thời là lý do lý giải sự có mặt của những lời nói
thêm, lời giải thích của các tác giả tự truyện trước khi kể chuyện. Việc nghệ sĩ Ái
Vân để trắng 6 trang giấy trong tự truyện của mình cũng là một cách dung hòa đối
với những sự thật dạng này.
Tuy nhiên, mô hình tiếp nhận từ khía cạnh đạo đức một mặt tạo ra những
giới hạn đối với tự truyện, nhưng mặt khác lại là yếu tố thúc đẩy tự truyện bởi
chúng kích thích sự chú ý của xã hội đối với thể loại cũng như kích thích ham muốn
viết sự thật của mình đối với các chủ thể.
4.3.2. Mô hình liên văn bản
Mô hình liên văn bản là mô hình đọc khá mới mẻ đối với tự truyện ở Việt
Nam bởi hầu hết, sự đọc tự truyện chủ yếu xuất phát từ nội dung câu chuyện của
chủ thể, nói cách khác, chúng bắt nguồn từ việc quan tâm tới những gì được kể từ
đó đưa ra những phán xét giá trị. Ở đây, việc phát hiện những văn bản nguồn chi
phối hành động tự truyện của chủ thể đã mang đến một cái nhìn khá thú vị. Nó cho
thấy các tầng lớp văn hóa đã chi phối hành vi tự truyện của cá nhân. Đây là cách
đọc khá hữu hiệu đối với hình thức viết phi hư cấu. Đại diện của mô hình này là
Jonh C Schafer trong công trình nghiên cứu khá công phu: Lê Vân và những quan
niệm về giới nữ Việt được công bố ở Việt Nam năm 2013
138
Về mô hình diễn giải này, Jonh C. Schafer viết: “Trước tiên tôi sẽ đưa ra một
cái nhìn bao quát về cuốn tự truyện của Lê Vân và sau đó sẽ nêu lên những văn bản
liên quan đến vấn đề giới nữ mà cô gợi lên trong khi kể chuyện đời mình. Tôi nói
“gợi lên” thay vì “trích dẫn” bởi vì tôi phân tích không chỉ những văn bản Lê Vân
trích dẫn – ví dụ một số câu trong Truyện Kiều – mà còn cả những văn bản Roland
Barthes gọi là “trích dẫn không có dấu ngoặc kép”: những ám chỉ bằng thành ngữ
và châm ngôn và những tập tục văn hóa không rõ nguồn gốc [155] Bằng cách này,
tác giả đã phát hiện ra một hệ thống quan niệm truyền thống và hiện đại về người
nam và người nữ trong xã hội Việt Nam. Đồng thời cũng nhìn ra cấu trúc bất bình
đẳng giới trong xã hội Việt Nam truyền thống và những rạn vỡ của nó trong xã hội
hiện đại. Ông cũng tìm ra qua hành động của Lê Vân hình ảnh của sự vận động của
cá nhân trước những áp lực xã hội. Theo ông, vấn đề sự thật và đạo đức của chủ thể
tự truyện mang một ý nghĩa khác: quyết định nói thật của Lê Vân và việc cô không
sợ bị buộc tội bất hiếu là một bằng chứng đáng lưu ý về sự tự vận động (sự đấu
tranh và từ chối các áp đặt truyền thống) của chính cô. Song bản thân ông cũng một
mặt vừa để ngỏ một mặt khác lại cũng hướng đến sự phán xét đạo đức đối với một
trong số sự thật của câu chuyện của Lê Vân: “Một vấn đề đối với nhiều người đọc
là họ thấy Lê Vân trong Yêu và Sống đã từ bỏ việc thể hiện phẩm chất đã cứu Kiều:
chữ hiếu. Sự phê phán mạnh mẽ của cô đối cha mẹ là thứ đã khiến quyển sách gây
tranh cãi. Tuy nhiên, trong việc theo đuổi chồng của các phụ nữ khác và phê phán
cha mẹ mình, Lê Vân đã thể hiện rằng cô không bị cầm tù trong sách vở, văn hóa
của cô. Trong tình huống này, Lê Vân có thể nói rằng mình đã “buộc số phận phải
theo mình,” nhưng liệu cô có thể cùng lúc đó đổ tội cho số phận đã bắt cô có những
hành động phạm lỗi của cô mà cô thừa nhận là sai trái không?” [155] Điều đó cho
thấy, dù diễn giải từ một mô hình khác song đối với tự truyện, việc đánh giá đạo
đức của chủ thể cũng vẫn là chủ đề được chú ý.
Như vậy, thoát khỏi những rào cản của vấn đề sự thật, đọc nó như chính nó,
như một tự truyện, một văn bản văn hóa, Jonh. C. Schafer, người không chịu ảnh
hưởng của những chuẩn mực và truyền thống đọc Việt Nam, đã mang đến một cách
đọc khác hấp dẫn hơn đối với tự truyện. Từ đây, người đọc sẽ có cái nhìn tự do hơn,
139
đa diện hơn và khách quan hơn đối với thể loại. Với mô hình đọc này người đọc sẽ
nhìn thấy mối quan hệ tác động giữa xã hội và hành vi của chủ thể đồng thời cũng
nhìn thấy cách thức mà chủ thể với tư cách là một cá nhân đấu tranh để khẳng định
bản sắc của mình. Tuy nhiên điểm hạn chế là ở chỗ nó không bao quát được quá
trình vận động của thể loại trong một giai đoạn lịch sử xã hội nhất định.
Riêng đối với chủ đề đạo đức của chủ thể tự truyện, không dễ dàng để người
đọc bỏ qua những phán xét đạo đức khi mà chủ thể đặt ra vấn đề đạo đức trong câu
chuyện của mình. Bởi thế, rào cản đạo đức vẫn luôn luôn là một thử thách đối với
mỗi chủ thể tự truyện.
Cùng với việc coi tự truyện như là đối tượng của những phát hiện và khám
phá, tự truyện còn có giá trị như những bài học cuộc sống, những chia sẻ về con
người và cuộc đời. Trong khảo sát nói trên của chúng tôi, có tới 29% số người được
hỏi cho rằng họ muốn học hỏi kinh nghiệm sống. Một bạn đọc được phỏng vấn trả lời
về Xuyên Mỹ của tác giả Phan Việt: quyết định ly hôn thể hiện bản lĩnh của một
người phụ nữ Việt trẻ mang lại cho người đọc sức mạnh và niềm tin vào bản thân
mình, và mở ra cho người phụ ngữ Việt suy nghĩ thực sự về hạnh phúc [phiếu số 201]
4.3.3. Mô hình thể loại
Cùng với những cách đọc dựa trên các đặc điểm về tính quy chiếu, tự truyện
còn được đọc trong tư cách là một văn bản văn học. Bởi vì xét cho cùng, tự truyện
là một thể loại văn học, được hình thành trong lịch sử văn học và là một bộ phận
của quá trình văn học.
Diễn giải tự truyện từ những khía cạnh văn học gắn liền với việc giải mã
hình tượng tác giả - người kể chuyện, giải mã những đặc sắc nghệ thuật của tác
phẩm tự truyện. Người diễn giải theo hướng này thường là các nhà phê bình, các
nhà nghiên cứu văn chương hoặc chí ít là người có vốn kiến thức văn chương với
những hiểu biết nhất định về thể loại.
Cách đọc này được sử dụng ở cả bốn dạng thức của tự truyện. Trong đó nổi
bật nhất là dạng thức tự truyện - tiểu thuyết và tự truyện truyền thống. Điều đó một
mặt bởi sự đậm đặc của yếu tố hư cấu trong tác phẩm nhưng mặt khác, bản thân
người đọc đã có được những kinh nghiệm đọc riêng. Có thể liệt kê các bài viết và
140
các công trình nghiên cứu tiêu biểu trong vòng từ 2006 (khi tự truyện bắt đầu nở rộ
ở nước ta) đến nay như: Tổng quan về hồi ký Tô Hoài (Đặng Tiến), Tô Hoài và thể
hồi ký (Vương Trí Nhàn), Hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải (Phan Thị Lúy), Chiều
chiều và những đặc sắc về thể tiểu thuyết – tự truyện Tô Hoài (Lê Thị Biên), Yếu tố
tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải thời kỳ đổi mới (Trần Thị Xuân Hợp), Tiểu
thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học Việt Nam đương đại (Đỗ Hải
Ninh), Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài (Lê Thị Lệ Thủy), Đọc hồi ký Cát
bụi chân ai (Nguyễn Thị Kim Cúc), Tự truyện như một thể loại văn học (Lê Tú
Anh), Bốn kiểu đọc gia đình bé mọn (Hoài Nam), Đôi nét về Nguyễn khải qua
Thượng đế thì cười (Đông La), Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Một mình một
ngựa (Nguyễn Thị Khánh Thu), những bàn thảo của các nhà văn Bảo Ninh, Hồ Anh
Thái về Yêu và sống của Lê Vân trên báo Văn nghệ trẻ số 46 năm 2006, Yếu tố tự
truyện trong hồi ký và tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng (Bùi Thị
Mát), …Tuy nhiên, cùng xuất phát từ đặc trưng văn học của tự truyện song ở đây,
các cách đọc cũng có những khác nhau nhất định khi một bên coi tác phẩm như một
tự truyện và đọc nó với những đặc trưng của tự truyện và một bên coi tự truyện chỉ
như một yếu tố cấu thành tác phẩm, do đó, việc đi tìm những yếu tố tự truyện,
chứng minh sự tồn tại của nó trong tác phẩm là mục đích của sự đọc này. Bởi vậy
chúng tôi tạm gọi hai cách đọc này là đọc trực tiếp và đọc gián tiếp.Tiêu biểu cho
lối đọc trực tiếp là hiện tượng đọc Chiều chiều của Tô Hoài.
Chiều chiều của Tô Hoài là một tác phẩm mà ranh giới thể loại của nó khá
mập mờ, thậm chí khó xác định. Tuy nhiên, bởi giọng điệu chủ quan và ngôi kể
“tôi” trực tiếp mà nó thường được đọc như một tự truyện. Thao tác điển hình trong
diễn giải trực tiếp là diễn giải chân dung tác giả.
Ở cách đọc trực tiếp, với những hiểu biết sâu về văn học, những diễn giải về
tự truyện thường đi theo trình tự hàn lâm: Từ cơ sở lý thuyết về tự truyện đến những
chứng minh tính chất đặc sắc của hình tượng tác giả, nghệ thuật trần thuật đều được
lập luận một cách chặt chẽ, cẩn trọng. Những đặc sắc của thể tự truyện Tô Hoài
chính là “sự khám phá đời sống và con người trong các quan hệ đời thường, trong
những bí ẩn riêng tư, những hoàn cảnh lớn tạo nên những số phận cuộc đời và
141
những bước thăng trầm của nó. Nét đặc sắc của tự truyện Tô Hoài còn được thể
hiện ở nghệ thuật, ngôn ngữ và giọng điệu” [146], hay “Hồi ký, tự truyện Nguyễn
Khải là sự sáng tạo độc đáo của nhà văn trong giai đoạn sáng tác về sau. Nằm trong
mạch chuyển hướng sáng tác của Nguyễn Khải sau chiến tranh: quan tâm tới các
vấn đề của đời sống nhân sinh, đời sống thế sự, hồi ký và tự truyện tiếp nối và phát
triển thêm những giá trị mới. Vấn đề về bản ngã cá nhân với các nhu cầu tình cảm
và đời sống nội tâm và hành trình đường đời, hành trình văn học được Nguyễn Khải
soi rọi cả bề rộng lẫn bề sâu” [108, 112] Bớt hàn lâm hơn trong cách đọc này là việc
mô tả chân dung của chủ thể tự truyện. Trong Đôi nét về Nguyễn Khải qua Thượng
đế thì cười của Đông La, những nét tính cách đầy trái ngược của Nguyễn Khải được
phân tích một cách cặn kẽ: “Ta thấy cuộc đời NK là một sự pha trộn bởi những điều
trái ngược nhau. Nếu ông là một đứa con thêm bị bỏ rơi, bị sỉ nhục của một ông bố
thiếu tình thương và trách nhiệm thì ông lại là đứa con yêu của cách mạng. Những
năm kháng chiến chống Pháp gian khổ hy sinh là thế, nhưng với riêng NK lại là
những ngày vui nhất, được gia nhập quân đội, chàng thiếu niên NK như con chim
sổ lồng, vùng vẫy thỏa thích giữa bầu trời tự do” [97] . Các yếu tố hình thức nhằm
tiểu thuyết hóa câu chuyện về bản thân của tác giả đều được đặt ra ngoài diện
trường quan sát. Cách đọc này khẳng định kiểu tiếp nhận khá đặc thù của thể loại:
loại bỏ các yếu tố hình thức gây nhiễu để thâm nhập một cách khách quan vào thế
giới bên trong của chủ thể tự truyện. Với những tự truyện mà ở đó, yếu tố hư cấu bị
cắt giảm tối đa như Xuyên Mỹ của Phan Việt, cách đọc này luôn tạo ra nhiều hấp
dẫn bởi nó xóa bỏ hoàn toàn khoảng cách giữa người viết và người đọc. Ví dụ:
“Lựa chọn cách mở lòng vô cùng thành thật và chi tiết về mối quan hệ của mình với
Sơn - chồng cũ, Phan Việt không biết rằng chị đã mở ra một vùng nội tâm không hề
được bày tỏ hay chia sẻ của nhiều người phụ nữ Việt Nam vốn quen im lặng. Tác
phẩm cũng được viết rất đẹp với văn phong mềm mại, đau buồn nhưng dịu dàng,
êm ái, nhiều xúc cảm hơn so với Một mình ở Châu Âu, có cách quan sát bản thân
tinh tế và kỹ lưỡng” [60].
Khác với cách đọc trực tiếp trên là kiểu đọc gián tiếp: chứng minh tính tự
truyện trong tác phẩm. Có lẽ, hình thức tiểu thuyết với những đậm đặc của yếu tố
142
hư cấu làm cho việc định loại tác phẩm trở nên khó khăn, theo đó, việc diễn giải
chân dung tác giả sẽ trở thành thiếu khách quan và áp đặt. Bởi thế, những diễn đạt
như “yếu tố tự truyện ”, “khuynh hướng tự truyện” là cách an toàn nhất để người
đọc đi tìm chân dung hiện thực của tác giả mà không phải đối diện với những tranh
cãi đó có phải là tự truyện hay không. Dễ hiểu các tác phẩm: Một mình một ngựa,
Thượng đế thì cười, Gia đình bé mọn, Ba người khác sẽ là đối tượng của cách đọc
này. Và trước khi phân tích hình tượng tác giả, việc đầu tiên của diễn giải là chỉ ra
phẩm chất tự truyện của tác phẩm. Ví như: “Có thể khẳng định Một mình một ngựa
là tác phẩm có tính tự truyện rõ nét từ chính lời thú nhận của nhà văn Ma Văn
Kháng “Một mình một ngựa là đoạn đời mà bây giờ tôi mới viết ra để mọi người có
thể hình dung đầy đủ về bản thân tôi” [114]
Quan sát hai cách đọc có thể thấy những mong muốn và kiếm tìm đối với thể
loại khá rõ. Nếu kiểu đọc trực tiếp là sự thừa nhận hay khẳng định tính chất tự
truyện thì kiểu đọc gián tiếp lại gắn liền với những băn khoăn thể loại trong khi mục
đích vẫn là sự kiếm tìm tự truyện. Phải chăng, dù không ý thức nhưng mong muốn
được đọc sự thật, được tiếp xúc với một con người mà không phải đi xuyên qua
nhiều lớp vỏ bọc của hư cấu chính là một “chân trời chờ mong” của người đọc.
Thực tế vận động của văn học cũng khẳng định điều này. Nhà nghiên cứu Phong Lê
trong bài viết Từ sự nghiệp Đổi mới nhìn lại lịch sử các mối giao lưu với văn học
phương Tây hiện đại đã đánh giá: “Để nhớ về một quá khứ chưa xa, về một vùng
hiện thực khuất nẻo, khó có ai biết, nhưng đã được viết với tư cách người trong
cuộc, nên khó có thể ai viết thay, là Chuyện kể năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, trong
nối dài về trước với Tuổi thơ im lặng (1987) của Duy Khán, Cát bụi chân ai (1992)
và Chiều chiều (1999) của Tô Hoài…cũng có thể xếp vào đây Thượng đế thì cười
(2003) của Nguyễn Khải - một tiểu thuyết gần như tự truyện” [100]. Ở đây, sự nhấn
mạnh tư cách người trong cuộc, trách nhiệm hay sứ mệnh của người trong cuộc,
một vùng hiện thực khuất nẻo” chứng minh cho những khao khát đối với văn học
của người đọc. Cùng với xu hướng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Bình trong khi
đánh giá những đổi mới đáng chú ý của văn xuôi Việt Nam sau 1975 về phương
diện thể loại đã đồng thời coi sự xuất hiện của tự truyện là một dòng chảy tiếp nối
143
của nhu cầu nhận thức lại của văn học: “Muộn hơn một chút là thời điểm xuất hiện
những tác phẩm mang dáng dấp tự truyện như Miền thơ ấu (Vũ Thư Hiên), Tuổi thơ
dữ dội (Phùng Quán), Chuyện làng ngày ấy (Võ Văn Trực), Cát bụi chân ai (Tô
Hoài)… với những tác phẩm này, cái tôi của người viết hiện diện rất sắc nét qua
cảm hứng nhận thức lại, đánh giá lại những gì đã trải nghiệm bằng điểm nhìn hiện
tại. Những chi tiết tự truyện, thái độ chủ quan của người trần thuật chứa đựng nhu
cầu cần được có tiếng nói riêng” [15] Sự xuất hiện của tự truyện theo cái nhìn này
là một tất yếu của văn học bởi nó gắn liền với nhu cầu nói về một vùng hiện thực
khuất lấp mà văn học chưa từng chạm đến. Có thể nói, trên hành trình của văn học,
tự truyện giống như một khuynh hướng sáng tạo làm cho văn học mới hơn, gần hơn
với con người và đời sống. Song xét từ nhu cầu của sự đọc, có thể thấy một tự
truyện với những hiện thực sâu hơn và xa hơn, được viết bởi một người trong cuộc
vẫn là một tìm kiếm của người đọc, thậm chí với cả người viết. Ngay trong những
đánh giá về Yêu và Sống của Lê Vân, các nhà văn đã thể hiện khá rõ điều này.
Nhà nghiên cứu Phạm Xuân Nguyên viết: “Trong năm 2006 đây là cuốn sách
bán chạy nhất, gây dư luận nhất. Trước hết phải khẳng định đó là một tác phẩm văn
học thuộc thể loại tự truyện” và dẫn lời nhà văn Bảo Ninh để khẳng định: “Đây là
một tác phẩm văn học hay, đích thực văn học và rất đáng đọc. Tác phẩm này chắc
chắn sẽ góp phần khôi phục lại vị thế của tự truyện trong văn chương nước mình.
Các nhà văn sẽ có thêm một hướng đi hay, khó khăn nhưng thú vị và hấp dẫn ngòi
bút” [118] . Nhà văn Hồ Anh Thái nhận xét: “Cuốn sách đời chị (Lê Vân) được Bùi
Mai Hạnh thể hiện thành một tự truyện đúng nghĩa. Từ chuyện đời một con người,
độc giả có thể nhìn thấy hình bóng cả một thời cuộc” [171]. Với các nhà văn, tự
truyện chính là một hấp dẫn đối với không chỉ người đọc mà cả với người viết.
Như vậy, những mô hình diễn giải khác nhau về tự truyện cho thấy nhận
thức của độc giả đối với thể loại là khá rõ ràng. Cách đọc đạo đức và cách đọc liên
văn bản chủ yếu tập trung vào nội dung, vào câu chuyện được kể trong tự truyện
trong khi mô hình thể loại lại buộc người đọc trước khi đọc phải nhận diện và giới
hạn. Điều đó phản ánh phần nào hiện thực của thể loại song cũng vì thế mà nó làm
mờ nhòa đi đặc trưng vốn dĩ của tự truyện là tính quy chiếu. Mặc dù vậy, dù đọc
144
theo mô hình nào thì sự thật vẫn là trọng tâm của sự đọc tự truyện. Các nhà nghiên
cứu trong sự dẫn giải và giới hạn của mô hình đọc vẫn luôn cố gắng để đi tìm cốt lõi
sự thật, nghĩa là vẫn đi tìm tự truyện trong vẻ đẹp thuần khiết nhất của nó. Điều này
không chỉ là trào lưu hay xu hướng, mà còn là khát vọng, là chờ đợi của người đọc
đối với thể loại tại thời điểm hiện nay.
Trong lý thuyết về sự đọc, mỗi văn bản luôn tiềm tàng trong nó những cách
đọc riêng song cũng đồng thời với đó, ở mỗi thời đại, chúng lại bị giới hạn bởi
những mô hình diễn giải nhất định, đó là những “nền tảng của những quy phạm
nằm sau sự diễn giải văn bản. Đó là thứ quyền lực của sự cho phép và nghiêm cấm,
là hệ thống của những quy tắc chi phối người đọc” [38]. Việc đọc từ phương diện
đạo đức hay từ phương diện thể loại cho thấy những quy phạm xã hội đối với tự
truyện. Mãi mãi, tự truyện sẽ không tránh khỏi những phán xét đạo đức bởi đạo đức
(cùng với phong tục và tập quán) chính là thiết chế xã hội hiệu lực nhất có thể kiểm
soát hành vi con người [18, ]. Chúng quy ước và tạo áp lực đối với không chỉ chủ
thể tiếp nhận mà cả chủ thể tự truyện. Những ứng xử của chủ thể tự truyện đối với
những “sự thật tế nhị” là bằng chứng cho biết những áp lực này luôn tồn tại thật.
Tiểu kết:
Quan sát hoạt động tiếp nhận tự truyện từ ba khía cạnh: Xuất bản, người đọc
và sự diễn giải có thể thấy hành trình hiện thực của tự truyện trong đời sống xã hội.
Ở cấp độ xuất bản, tự truyện được tiếp nhận với ý thức chủ động tạo lập của các chủ
thể xuất bản trong việc đưa ra những vấn đề mới như những sự thật lịch sử, những
câu chuyện đời tư…điều đó một mặt xây dựng và định hướng thị hiếu, một mặt
khác là sự đáp ứng thị hiếu của thị trường. Sự gia tăng dạng thức phi hư cấu cùng
với sự mở rộng đề tài tự truyện phản ánh rõ điều này.
Ở cấp độ người đọc, nhu cầu đối với tự truyện cũng ngày càng được mở
rộng. Đọc tự truyện không chỉ là việc kiếm tìm sự thật mà còn là hành trình tìm
kiếm những cách thức tư duy, những bài học ứng xử, những kinh nghiệm cuộc sống
từ những câu chuyện của những người có thực, đang tồn tại thực như một bằng
chứng cho những gì được kể trong câu chuyện của họ. Đặc biệt là sở thích đọc tự
truyện nước ngoài thay vì tự truyện của người viết trong nước cho thấy mong muốn
145
tìm hiểu về những bản sắc khác biệt, độc đáo đang là xu hướng mới trong việc đọc
tự truyện.
Ở cấp độ diễn giải việc tiếp nhận tự truyện cho thấy phần nào những mong
đợi và giới hạn của xã hội đối với tự truyện. Những mong đợi ấy hiện diện trong
hành trình đi tìm những sự thật quy chiếu trong từng tác phẩm tự truyện, trong việc
coi tự truyện là một hướng đổi mới của văn học trên con đường dân chủ hóa, trong
việc thừa nhận những gì được kể là một câu chuyện thật, đại diện cho một cá nhân
có tồn tại thật trong đời sống. Song bên cạnh đó, áp lực đối với sự kể trong tự
truyện là không hề nhỏ khi đặt chủ thể vừa phải đối diện với sự thật vừa đối diện
với những áp lực quyền lực cũng như các chuẩn mực đạo đức truyền thống luôn đề
cao tập thể, cộng đồng. Những thỏa hiệp kiểu “sự thật tế nhị” là một lối thoát mà xã
hội đề nghị với chủ thể tự truyện song điều đó sẽ khiến cho con đường đi đến sự
thật của tự truyện sẽ trở nên quanh co hơn.
146
KẾT LUẬN
1. Trở lại và phát triển trong bối cảnh văn hóa Việt Nam đương đại, tự
truyện mang một dáng vẻ khá mới so với tự truyện đầu thế kỷ 20. Sự đa dạng về
người viết, sự phong phú về đề tài và các hình thức biểu đạt bản thân, những hình
thức viết đậm yếu tố hư cấu bên cạnh các tự truyện phi hư cấu, những cái Tôi vai
trò, cái Tôi nhân danh bên cạnh cái Tôi cá nhân - cá biệt…đã làm nên một diện mạo
riêng. Trong đó, hình thức tự truyện lưỡng phân hay tự truyện biến thể chiếm tuyệt
đại đa số là đặc điểm hết sức tiêu biểu. Chúng có nguyên nhân từ mối quan hệ giữa
xã hội và thể loại. Khung lý thuyết quan sát tự truyện như một quá trình xã hội bao
gồm: Những điều kiện tự truyện, Sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện, Hoạt động tiếp
nhận tự truyện là sự cụ thể hóa mối quan hệ này nhằm lý giải đặc điểm và sự phát
triển của tự truyện trong một bối cảnh xã hội cụ thể.
2. Bối cảnh văn hóa xã hội Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay trong đó
xu hướng dân chủ hóa xã hội là điều kiện căn bản thúc đẩy tinh thần tự truyện.
Chúng tác động tới nhận thức con người, tạo nên khát vọng được chia sẻ, được giãi
bày, được nói sự thật về bản thân của các chủ thể. Tuy nhiên, truyền thống văn hóa,
những đặc điểm lịch sử xã hội của thời đại, các mối quan hệ liên nhân cũng tạo nên
những rào cản nhất định đối với sự bộc lộ bản thân làm giảm đi phần nào sự thuần
khiết của thể loại.
3. Quan sát quá trình tự truyện Việt Nam đương đại có thể thấy: ở chiều
thứ nhất, chiều tạo lập, đặc điểm của sự bộc lộ chủ thể trong tự truyện là kết quả của
sự tương tác giữa một bên là nhu cầu tự truyện của chủ thể và một bên là những ảnh
hưởng và giới hạn biểu đạt cá nhân của các hệ thống xã hội. Nếu truyền thống văn
hóa Việt Nam với sự đề cao tập thể, cộng đồng, với cái nhìn “nhân cách luận” về
con người cá nhân tác động tới chủ thể, trở thành ý thức chủ quan trong việc bộc lộ
các phương diện nhân cách bản thân, đề cao nhân cách gắn với các vai trò xã hội thì
những giới hạn diễn ngôn lại là yếu tố chi phối mạnh mẽ hình thức biểu đạt. Chúng
buộc chủ thể phải lựa chọn giữa ý muốn cá nhân và trách nhiệm xã hội. Để cuối
cùng, hình thức lưỡng phân, biến thể chính là cách thức được lựa chọn chủ yếu bởi
với những hình thức này, chủ thể được tự do tuyệt đối trong việc bày tỏ bản thân mà
vẫn né tránh được các “cấm kỵ” như cách diễn đạt của M. Foucault.
147
4. Ở chiều thứ hai, hoạt động tiếp nhận tự truyện với tư cách là một hình
thức viết phi hư cấu đang ngày càng trở nên rõ rệt. Sự gia tăng của số lượng xuất
bản tự truyện hai năm gần đây, xu hướng đọc một câu chuyện có thật của cá nhân,
hành động chứng minh tính tự truyện và mong muốn đi tìm sự thật trong cách đọc
từ mô hình thể loại là những dấu hiệu cho thấy nhu cầu được tiếp cận tự truyện
trong hình thức thuần túy của nó là đích hướng tới của sự đọc. Tuy nhiên cũng bởi
nhu cầu đọc sự thật này mà những áp lực tiếp nhận đối với tự truyện là không hề
nhỏ. Trong đó, áp lực đạo đức chính là áp lực lớn nhất đối với sự bộc lộ bản thân
của chủ thể bởi chúng liên quan tới sự đánh giá đạo đức và nhân cách. Tự thú của
một số nhà văn là một minh chứng, hay trường hợp Yêu và Sống của Lê Vân là một
ví dụ điển hình. Kể từ sau tự truyện này, hầu như một tác phẩm với các đặc điểm
tương tự chưa xuất hiện trở lại. Điều đó cho thấy mâu thuẫn giữa nhu cầu được đọc
sự thật và những giới hạn của việc viết sự thật dường như chưa tìm được cách giải
quyết. Những lựa chọn hình thức biểu đạt của chủ thể tự truyện chỉ là những lựa
chọn tạm thời. Trường hợp để trắng 6 trang với 8808 từ trong tự truyện Để gió cuốn
đi của ca sĩ Ái Vân được xã hội cổ vũ song về thực chất chúng làm cho cam kết về
sự thật mất đi giá trị đích thực của mình.
5. Sự phát triển của tự truyện Việt Nam trong tương lai, không gì khác
chính là sự giảm thiểu của yếu tố hư cấu trong hình thức biểu đạt và gia tăng nội
hàm cái cá nhân cá biệt trong thể hiện sự thật về bản thân. Điều đó xuất phát từ
chính nhu cầu của chủ thể tự truyện cũng như mong muốn ngày càng đến gần hơn
với đời sống thực như chính nó đang diễn ra trong tiếp nhận hiện nay. Xu hướng
này sẽ được thúc đẩy mạnh mẽ hơn bởi toàn cầu hóa, kinh tế thị trường và truyền
thông mới.
6. Nghiên cứu tự truyện Việt Nam đương đại từ góc nhìn xã hội học còn
có thể được thực hiện từ cái nhìn giới hoặc từ góc độ lịch sử với những thay đổi nội
tại của các yếu tố tự sự. Song, giới hạn của chúng lại là việc khó có thể bao quát
toàn bộ hiện tượng tự truyện. Đối với chúng tôi, bản thân sự thực tự truyện với
gương mặt xã hội của nó là một phương diện không thể thiếu để giải thích về một
hiện tượng văn học hay văn hóa. Bởi tự truyện chính là sản phẩm của quá trình
tương tác giữa cá nhân và xã hội mà ở đó có thể thấy rõ một mặt sự vận động của ý
148
thức chủ thể, mặt khác là những tác động của xã hội lên chính hành vi tự truyện của
chủ thể ấy. Chúng là nhân tố tạo nên diện mạo của tự truyện trong mỗi nền văn hóa
nói chung. Cũng trong quá trình này, các giá trị của thể loại sẽ được hình thành bởi,
như quan niệm của P. Bourdieu, “văn học”, “tác phẩm”, “nhà văn” vào một thời
điểm lịch sử và trong một xã hội nhất định, không phải là một điều đương nhiên mà
là kết quả của những đánh giá của những tác nhân và các thể chế [141,178]
7. Từ kết quả nghiên cứu của đề tài, có thể triển khai sâu hơn các vấn đề
như: Mối quan hệ chủ thể và xã hội trong tự truyện, Thế hệ tác giả và tự truyện,
hoạt động xuất bản tự truyện trong xu hướng kinh tế thị trường, Nhu cầu đọc tự
truyện…Song cũng có thể mở rộng phạm vi như: Hành trình viết về bản thân trong
văn hóa và văn học Việt Nam hoặc có thể sử dụng khung nghiên cứu xã hội học về
tự truyện để khảo sát quá trình hình thành và phát triển của một thể loại.
149
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1. Hoàng Thị Tâm (2016), Về kiểu chủ thể triết lý nhân sinh và Nhà văn –
nhân chứng trong tự truyện Việt Nam đương đại, Tạp chí Nhân lực
KHXH, số 6 (37)
2. Hoàng Thị Tâm (2016), Đặc điểm nghệ thuật tự truyện Tô Hoài sau
1986, Tạp chí Khoa hoc xã hội, số 102
3. Hoàng Thị Tâm (2014), Tiếp nhận tự truyện Việt Nam sau 1986: Nhìn
từ hoạt động xuất bản, Tạp chí Lý luận phê bình văn học nghệ thuật, Số
20
4. Hoàng Thị Tâm (2013), Xây dựng một khung nghiên cứu xã hội học về
tự truyện Việt Nam đương đại, Hội thảo khoa học: Lý thuyết văn học -
Tiếp nhận và ứng dụng, NXB Đại học Vinh
5. Hoàng Thị Tâm (2012) Xã hội học văn học: một lối phê bình Lạ mà
quen, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 8/ 2012
150
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ góc độ thể loại,
Tạp chí văn học, (9) tr 28- 31
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - nhận thức và thẩm định,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
3. Lê Tú Anh (2006), Tự truyện và tiểu thuyết trong gia đình bé mọn, Báo văn
nghệ (15)
4. Lê Tú Anh (2010), Phan Bội Châu niên biểu (Phan Bội Châu) và Giấc mộng
lớn (Tản Đà) và những bước đi đầu tiên của tự truyện Việt Nam, Tạp chí khoa
học đại học Hồng Đức (6)
5. Lê Tú Anh (2010), Tự truyện như một thể loại văn học
Nguồn:http://khoavanhocngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_conte
nt&view=article&id=3860%3At-truyn-nh-mt-th-loi-vn-hc&catid=94%3Aly-
lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135&lang=vi
6. Augustin, Sách Tự thú của Thánh Augustin (bản dịch của Ngô Tường Dũng),
Texas, USA,
Nguồn: www.lamhong.org/wp-content/plugins/download.../download.php?id..
7. Vũ Nguyễn Hà Anh (2013), Là tôi – Hà Anh
Nguồn:https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=6510204283359
30&id=466249183479723&substory_index=0
8. Trần Xuân An (2012), Tuổi học trò của tôi, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
9. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
10. Lại Nguyên Ân (1998), Sống với văn học cùng thời, Nxb Văn học, Hà Nội
11. Vũ Bằng (2010), Cai, Nxb Văn hóa Sài Gòn, TP Hồ Chí Minh
12. Vũ Bằng (2008), Bốn mươi năm nói láo, Nxb Lao động, Hà Nội
13. Vũ Bão (2012), Rễ bèo chân sóng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
14. Phan Qúy Bích (2006), Gia đình bé mọn và sự khác nhau giữa tự truyện và
tiểu thuyết, Báo văn nghệ trẻ (47)
151
15. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995: những đổi mới cơ
bản, Nxb Giáo dục, Hà Nội
16. Lê Thị Biên (2000), Chiều chiều và những đặc sắc về thể tiểu thuyết - tự
truyện của Tô Hoài, Luận văn, Đại học sư phạm Hà Nội
17. Henry Benac (2001), Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nxb Thế giới, Hà Nội
18. Peter L. Berger (2016), Lời mời đến với xã hội học - một góc nhìn nhân văn,
Nxb Tri thức, Hà Nội
19. Benjamin Franklin (2011), Tự truyện Benjamin Franklin, Nxb Thời đại, Hà Nội
20. Thiết Can (1941), Dã tràng, Vĩnh Thịnh
21. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ
minh họa, Nguyễn Minh Châu toàn tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội (tập 5)
22. Nguyễn Hồng Công (2007), Khát vọng sống để yêu, Nxb Công an nhân dân,
Hà Nội
23. A.G. Covaliop (1976), Tâm lý học xã hội (Phạm Hoàng gia dịch), Nxb giáo
dục, Hà Nội
24. A.G. Kovaliop (1976), Tâm lý học cá nhân (Phạm Hoàng gia dịch), Nxb Giáo
dục, Hà Nội, Tập 1
25. Huy Cận (2011), Hồi ký song đôi: tình bạn trong sáng, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
26. Bùi Thế Cường, Đặng Thị Việt Phương, Trịnh Huy Hóa (2010), Từ điển xã
hội học Oxfoxd, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
27. Phan Bội Châu (1990), Phan Bội Châu toàn tập (Chương Thâu dịch và giới
thiệu), Nxb Thuận Hóa, Huế, tập 6
28. Hoàng Thoại Châu (2015), Sâu thẳm buồn vui, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
29. Nguyễn Linh Chi (2009), Tự thuật của James Joyce, Tạp chí Nghiên cứu văn
học (9)
30. Văn Chinh (2009), Tự truyện Lejeune và tự truyện Việt Nam ai cần mặc nhờ
áo ai? Nguồn: http://vanchinh.net
31. Vũ Hoàng Chương (1993), Ta đã làm chi đời ta, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
32. Nguyễn Văn Dân (2011), Con người và văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
152
33. Nguyễn Văn Dân, Hồi ký văn học - Tiềm năng và hạn chế.
Nguồn: http://hoinhavanvietnam.vn/new.asp
34. Trương Dĩnh (2001), Truyện tiểu sử, một loại hình tự sự cần được khẳng đinh
và phát triển, Tạp chí Sông hương (154)
35. Ngô Thị Ngọc Diệp (2013), Hồi ký trong văn học Việt Nam từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945, Luận án tiến sĩ, Đại học sư phạm Hà Nội
36. Phạm Tất Dong, Lê Ngọc Hùng ( 2001) Xã hội học, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội
37. Trương Đăng Dung (2013), Tác phẩm văn học nhìn từ lý thuyết tiếp nhận,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
38. Trương Đăng Dung (2008), Những giới hạn của cộng đồng diễn giải,
Nguồn:http://phebinhvanhoc.com.vn/nhung-gioi-han-cua-cong-dong-dien-iai/
39. Vũ Dũng (cb) (2008), Từ điển Tâm lý học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội
40. Nguyễn Văn Dũng (2008), Bóng, Tự truyện, Nxb Văn học, Hà Nội
41. Lê Thanh Dũng, Trần Văn Thủy (2015), Chuyện nghề của Thủy, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội
42. Khánh Duy (2010) Đổi mới: nhóm tư vấn và tinh thần dân chủ, báo Tuần Việt
Nam net Nguồn: http// www.tuanVietnam.net/2010 -01 -25- doi -moi-nhom-
tu-van-va-tinh-than-dan-chu) viết: ông Trần Đức Nguyên (thành viên của
nhóm chuyên gia cho TBT Trường Chinh) kể lại: … “Lúc bấy giờ có điểm rất
hay là ai có quan điểm đều đưa ra nói thẳng và tranh luận rõ ràng trong Bộ
chính trị, không khí thảo luận sôi nổi và hang hái lắm”. Không khí cởi mở, dân
chủ ấy đã tạo ra sự đa dạng, phong phú và sức sống cho hoạt động tư duy kinh
tế, những ý kiến thẳng thắn, thậm chí trái ngược hoàn toàn với quan điểm
truyền thống đều được đem ra trao đổi, nghiên cứu, thảo luận”
43. Đặng Anh Đào (2007) Việt Nam và phương Tây - Tiếp nhận và giao thoa
trong văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội
44. Đặng Anh Đào (2005), Tầm Xuân, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
45. Tản Đà (1997), Giấc mộng lớn, Tản Đà toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội tr 601
- 657
153
46. Trần Thiện Đạo (2006), Gia đình bé mọn, lời tự thú chân thât.
Nguồn http://evan.vnexpress.net/New/phebinh/2006/11/3B9AB4DB
47. Trần Thiện Đạo (2005), Tự truyện lên ngôi,
Nguồn: http://evan.vnexpress.net/News/doi-song-van-nghe/2005/11/3B9ACDFA
48. Ngô Đạt (2011), Năm tháng và cuộc đời, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội
49. Hà Minh Đức (2010) Tô Hoài, sức sáng tạo của một đời văn (Trò chuyện, ghi
chép, nghiên cứu về Tô Hoài), Nxb Giáo dục, Hà Nội
50. Hà Minh Đức (2008) Văn chương và thời cuộc, Nxb Khoa học xã hội
51. Nguyễn Đăng Điệp (2004), Kỹ thuật dòng ý thức trong Nỗi buồn chiến tranh
của Bảo Ninh, Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
52. Nguyễn Đăng Điệp (2004) Tô Hoài - Người sinh ra để viết, Tạp chí văn học (9)
53. Tạ Hữu Đỉnh, Vài suy ngẫm khi đọc "Chiều chiều"
Nguồn: http://trannhuong.com/tin-tuc-12919/vai-suy-ngam-doc-chieu-chieu.vhtm
54. Emily Durkheim (2012), Các quy tắc của phương pháp xã hội học, Nxb Tri
thức (Đinh Hồng Phúc dịch), Hà Nội
55. Terry Ealeton (2009) Chủ nghĩa Mác và Phê bình văn học (Lê Nguyên Long
dịch), Nxb Tri thức, Hà Nội. tr 29, tr 30, tr 31, tr 109
56. Endruweit & Tromsdoff (2001), Từ điển xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội
57. Joseph H. Fichter (1974) Xã hội học (Bản dịch của Trần Văn Đĩnh), Nxb Văn
hóa Sài gòn
58. Amos Golberg (2010) Chấn thương, tự sự và hai hình thức của cái chết (Hải
Ngọc dịch), nguồn Lý thuyết văn học.wordpress.com/com/2010/11/10
59. Lê Giang (2006), Nghiêng tai dưới gió, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
60. Hồ Hương Giang: Xuyên Mỹ khơi mở vùng nội tâm sâu kín của giới nữ Việt
http://vietnamnet.vn/vn/giai-tri/175167/xuyen-my-khoi-mo-vung-noi-tam-kin-
cua-phu-nu-viet.html
61. G. G. Macket (2007), Sống để kể lại, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
62. I. Ganhdi (1987), Chân lý của tôi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
63. M. Gorky (2007), Thời thơ ấu, Nxb Thanh niên, Hà Nội
64. M. Gorky (2007), Kiếm sống, Nxb Thanh niên, Hà Nội
154
65. M. Gorky (2007), Những trường đại học của tôi, Nxb Thanh niên, Hà Nội
66. Hương Giang Idol (2014), Tôi vẽ chân dung tôi, Nxb Hồng Đức
67. Tịnh Hà (1989), Đi hoang, Nxb Văn học, Hà Nội
68. Phạm Minh Hạc - Lê Đức Phúc (2004), Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
69. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Cb) (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb giáo dục, Hà Nội
70. Đặng Thị Hạnh (1998), Tự thuật và tiểu thuyết pháp thế kỷ XXI, Tạp chí văn
học (5)
71. Đặng Thị Hạnh (2008), Cô bé nhìn mưa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
72. Đinh Hằng (2013), Qúa trẻ để chết, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
73. Tô Hoài (2005), Cát bụi chân ai, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
74. Tô Hoài (1999), Chiều chiều, Nxb Thanh niên, Hà Nội
75. Tô Hoài (1978), Tự truyện, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
76. Nguyên Hồng (2007), Những ngày thơ ấu, Nxb Thanh niên, Hà Nội
77. Trần Thị Xuân Hợp (2006), Yếu tố tự truyện trong tiểu thuyết Nguyễn Khải
thời kỳ đổi mới, Luận văn, Đại học quốc gia Hà Nội
78. Kate Hamburger (2004), Lôgic học các thể loại văn học (Vũ Hoàng Địch,
Trần Ngọc Vương dịch) Nxb ĐH quốc gia, Hà Nội
79. Nguyễn Văn Hùng, Nguyễn Hồng Công, Nguyễn Thống Nhất (2007), Qùa
tặng mai sau, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
80. Ngô Công Hoàn - Nguyễn Thị Khánh Hà (2012), Tâm lý học khác biệt, Nxb
Đại học Quốc gia, Hà Nội
81. Ngô Thị Huệ (2006), Tiếng sóng bủa ghềnh, Nxb Trẻ, TP HCM
82. Lê Ngọc Hùng (2002), Lý thuyết và lịch sử xã hội học, Nxb Đại học quốc gia,
Hà Nội
83. Nguyễn Thị Huế, Nguyễn Thị Khánh Thu (2010), Yếu tố tự truyện trong tiểu
thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam
155
84. Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe – Grillet: Sự thật và diễn giải, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội
85. Tố Hữu (2002), Nhớ lại một thời, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội
86. Vũ Thư Hiên (1987), Miền thơ ấu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội
87. Nguyễn Khải (2012), Thượng đế thì cười, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
88. Nguyễn Khải (2008), Trôi theo tự nhiên, Tạp chí nhà văn (số tháng 3/ 2008, tr
114 - 141)
89. Nguyễn Khải (2004), Đối mặt, Tạp chí nhà văn (số 4/ 2004, tr 111 - 130)
90. Ma Văn Kháng (2010), Năm tháng nhọc nhằn, năm tháng nhớ thương, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội
91. Ma Văn Kháng (2009), Một mình một ngựa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
92. Duy Khán (2008), Tuổi thơ im lặng, Nxb Giáo dục, Hà Nội
93. Lê Thế Kiên (2011), Vĩnh biệt những ngày buồn, Nxb Lao động. Hà Nội
94. Trần Văn Khê (2010), Những câu chuyện từ trái tim, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
95. Thụy Khuê (2000), Bùi ngọc Tấn, Chuyện kể năm 2000. nguồn:
http://thuykhue.free.fr/stt2/BNT.html
96. Knud. S. Larsen (2010), Tâm lý học xã hội, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội
97. Đông La (2004), Đôi nét về Nguyễn Khải qua Thượng đế thì cười, Báo Văn
nghệ (35), (36)
98. Nguyễn Bích Lan (2012), Không gục ngã, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
99. Nguyễn Hiến Lê (1993), Hồi ký, Nxb Văn học, Hà Nội
100. Phong Lê (2005), Tiểu thuyết mở đầu thế kỷ XXI trong tiến trình văn học Việt
Nam từ tháng 8 - 1945, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (9)
101. Iu. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thị Thu Thủy dịch) Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội
102. Phương Lựu (2005), Tuyển tập: Lý luận văn học phương Tây hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội (Tập 2)
103. Lưu Trong Lư (1996), Nửa đêm sực tỉnh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
104. Nguyễn Hải Lý, Nguyễn Thị Quỳnh Như (2007), Chuyện đời tôi, Nxb Công
an nhân dân, Hà Nội
156
105. Đỗ Long, Phan Thị Mai Hương (2002), Tính cộng đồng, tính cá nhân và cái
Tôi của người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
106. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975:
Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
107. Thành Lộc - Nguyễn Thị Minh Ngọc (2014) Tâm Thành Lộc Đời, Nxb Văn
hóa - văn nghệ, TP Hồ Chí Minh
108. Phan Thị Lúy (2006 ), Hồi ký, tự truyện của Nguyễn Khải, Luận văn Đại học
sư phạm Hà Nội, Hà Nội
109. Fischer (1992), Những khái niệm cơ bản của Tâm lý học xã hội (Huyền Giang
dịch), Nxb Thế giới, Hà Nội
110. Sao Mai (2008), Sáng tối mặt người, Nxb Hội nhà văn. Hà Nội
111. Lê Minh (2008), Cánh buồm nhỏ, Nxb Thanh niên, Hà Nội
112. Nguyễn Chí Mỹ (2012) Tác động hai mặt của kinh tế thị trường và toàn cầu
hóa Nguồn: http://lichsuvn.net/forum/showthread.php?t=11378
113. Hoài Nam (2006), Bốn lời bình về Gia đình bé mọn
Nguồn:danganga.googlepages.com
114. Hoài Nam (2009), Một mình một ngựa - cuốn sách có từ một đoạn đời, Người
đại biểu nhân dân (số ra ngày 13/5/ 2009)
115. Đỗ Hải Ninh (2012), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn học
Việt Nam đương đại, Luận án tiến sĩ, Viện Khoa học xã hội Việt Nam
116. Đỗ Hải Ninh (2011), Mối quan hệ giữa tự truyện - tiểu thuyết và một số dạng
thức tự thuật trong văn học Việt Nam đương đại, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8)
117. Tôn Nữ Thị Ninh (2015), Tư duy và chia sẻ, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
118. Bảo Ninh (2006), Về tự truyện Lê Vân, Văn nghệ trẻ (11- 2006)
http://ngoisao.net/tin-tuc/hau-truong/bao-ninh-noi-ve-tu-truyen-le-van-
2489291.html
119. Vương Trí Nhàn (2004), Trở lại cái thời lãng mạn - Một vài nhận xét về tiểu
thuyết Thượng đế thì cười của nhà văn Nguyễn Khải, Báo Văn nghệ (32)
120. Vương Trí Nhàn (2005), Tô Hoài và thể hồi ký, Lời bạt trong sách Hồi ký Tô
Hoài, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
157
(Đăng lại trên http://vuongdangbi.blogspot.com/2009/05/to-hoai-va-hoi-ky.html)
121. Vương Trí Nhàn (2009), Nhân đọc Lê Vân yêu và sống, nghĩ thêm về sách và
công chúng thời nay
Nguồn:[http://vuongtrinhan.blogspot.com/2009/07/le-van-yeu-va-
song_08.html]
122. Vương Trí Nhàn (2015) Điểm lại quan niệm về hồi ký và các hồi ký đã in
trong khoảng 1990-2000 nguồn
http://vuongtrinhan.blogspot.com/2015/08/iem-lai-quan-niem-ve-hoi-ky-va-
cac-hoi.html
123. Vương Trí Nhàn (2008 ), Nguyễn Khải viết để chinh phục bạn đọc,
Nguồn: http://vuongdangbi.blogspot.com/2008/09/nguyn-khi-v-ni-ho-hng-vit-
chinh-phc-bn.html
124. Lê Thị Phương Nga (2014), Đưa con trở lại thiên đường (tái bản lần 3), Nxb
Phụ nữ, Hà Nội
125. Dạ Ngân (2003), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội
126. Nguyên Ngọc (2014), Di sản của người kể chuyện
Nguồn http://www.vanhoanghean.com.vn/van-hoa-va-doi-song27/cuoc-song-
quanh-ta46/di-san-cua-nguoi-ke-chuyen
127. Nguyên Ngọc và…(2008), Thương nhớ Nguyễn Khải - Nhà văn có những
bước đi nhọc nhằn và dũng cảm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
128. Nguyễn Phương Ngọc (2010), “Nghiên cứu văn học nghệ thuật và lý thuyết
“trường lực” của P. Bourdieu”, Phương pháp nghiên cứu xã hội và lịch sử,
Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội tr 249 – 268
129. Phạm Xuân Nguyên (2010), Bùi Ngọc Tấn, nhà văn và hắn,
nguồn: http://lethieunhon.com/read.php/4437.htm
130. Phạm Xuân Nguyên (2006) Văn học 2006 - một cái nhìn.
Nguồn:http://tiasang.com.vn/DesktopModules/VietTotal.Articles/PrintView.as
px?ItemID=1352
131. Phạm Xuân Nguyên (2006), Tầm nhìn xa trong cõi nhân gian, nguồn:
http://phamxuannguyen.vnweblogs.com/post/1958/50260
158
132. Phan Ngọc (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội
133. Nhiều tác giả (2003), Nhớ Phùng Quán, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
134. Nhiều tác giả (2003), Từ điển văn học (Bộ mới), Nxb Thế giới, Hà Nội
135. Nhiều tác giả (2011), Sự hồi sinh từ trong tuyệt vọng : Những tác giả được
giải trong cuộc thi: Sự hối hận và niềm tin hướng thiện” - 2011, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội
136. Nhiều tác giả (1996), Từ điển triết học phương Tây hiện đại, Nxb Tri thức,
Hà Nội
137. Nhiều tác giả (2005), “Báo cáo chính trị của BCH Trung ương Đảng cộng sản
Việt nam khóa V” trình bày ngày 15 tháng 12 năm 1986, Môt số văn kiện của
Đảng về công tác tư tưởng và văn hóa, Tập 2 (1996 – 2000), Nxb Chính trị
quốc gia
138. Nhiều tác giả (2005), “Nghị quyết của BCT: Đổi mới và nâng cao trình độ
lãnh đạo quản lý văn học nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo,
đưa văn học nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”, ngày 28
tháng 11 năm 1987, Môt số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng và văn
hóa, Tập 2 (1996 – 2000), Nxb Chính trị quốc gia
139. Nhiều tác giả (1986), Từ điển triết học, Nxb Tiến bộ, Matxcova
140. Nhiều tác giả (2014), Câu chuyện văn chương, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
141. Mai Hải Oanh (2009) Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt nam
đương đại giai đoạn 1986 - 2006, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
142. Nhiều tác giả (2008), Người kể chuyện trong văn xuôi, Đề tài khoa học cấp
Viện, Viện văn học
143. Vũ Ngọc Phan (1998), Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học, Hà Nội, Tập 2
144. Đỗ Hải Phong (2007), “Vấn đề người kể chuyện trong thi pháp tự sự hiện
đại”, Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử (phần 1) Nxb Đại học sư
phạm, Hà Nội
145. Huỳnh Như Phương (2010), Lý luận văn học (nhập môn), Nxb Đại học quốc
gia TP Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh
159
146. Trần Thị Mai Phương (2009), Nhân vật người kể chuyện trong hồi ký và tự
truyện Tô Hoài, Luận văn, Đại học quốc gia, Hà Nội
147. Nguyễn Thị Hải Phương (2008), “Người kể chuyện - Nhân vật mang tính
chức năng trong tác phẩm tự sự”, Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử
(phần 2), Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội
148. Phùng Quán (2010), Ba phút sự thật, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh
149. Phùng Quán (2007), Tôi đã trở thành nhà văn như thế nào, Nxb Văn nghệ TP
Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh
150. Lê Xuân Quang (2006), Lê vân - Yêu và sống: Một hiện tượng văn học
Nguồn: http://www.vanchuongviet.org/
151. J.J. Rousseau (2012), Những lời bộc bạch (Lê Hồng Sâm dịch và giới thiệu),
Nxb Tri Thức, Hà Nội
152. Lê Hồng Sâm (1997), Tuổi thơ của Nathalia Sarautte và sự đổi mới thể loại
tự thuật, Tạp chí văn học (11)
153. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang…(2010), Về con người cá
nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb giáo dục Việt Nam, Hà Nội
154. Sokolov (2010), Văn hóa Việt Nam: toàn cầu hóa và thị trường (Lê Sơn dịch)
nguồn: http://www.vanhoahoc.edu.vn/nghien-cuu/van-hoa-viet-nam/van-hoa-
ung-xu-voi-moi-truong-xa-hoi/1485-aa-sokolov-van-hoa-viet-nam-toan-cau-
hoa-va-thi-truong.html
155. Jonh C Schafer (2013), Lê vân và quan niệm về giới nữ Việt,
Nguồn: http://phebinhvanhoc.com.vn/?p=10764
156. Bùi Ngọc Tấn (2012), Viết về bè bạn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
157. Bùi Ngọc Tấn (2012), Một thời để mất, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
158. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000, Nxb Thanh niên, Hà Nội, Tập 1
159. Bùi Ngọc Tấn (2000), Chuyện kể năm 2000, Nxb Thanh niên, Hà Nội,Tập 2
160. Bùi Ngọc Tấn (2012),
Nguồn:http://buingoctan.wordpress.com/category/ph%e1%bb%8fng-
v%e1%ba%a5n/
160
161. Trương Thị Hồng Tâm (2012), Hồi ký Tâm “si-đa”, Nxb Trẻ - TP Hồ Chí
Minh.
162. Trần Luân Tín (2009), Được sống và kể lại, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
163. Thương Tín (2016), Hồi ký Thương Tín: Một đời giông bão, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội
164. Đặng Tiến (2012), Tổng quan về hồi ký Tô Hoài.
Nguồn:http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-
hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/tong-quan-ve-hoi-ky-to-hoai
165. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại, những tìm tòi đổi mới,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
166. Phùng Văn Tửu (2004), Tiểu thuyết Pháp bên thềm thế kỷ XXI, Nxb Khoa học
xã hội, Hà nội
167. Trần Văn Toàn (2008), Viết tự truyện khi nào và vì sao?
Nguồn: http://phongdiep.net/ default.aspesaction=article&ID=5337
168. Trần văn Toàn (2015), Dẫn nhập về lý thuyết diễn ngôn của M.Fuocault và
nghiên cứu văn học, Tạp chí nghiên cứu văn học, (5)
169. Ngô Thảo (2010) Dĩ vãng phía trước, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
170. Hoài Thanh (2010), Thi nhân Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội
171. Hồ Anh Thái (2006), Lê Vân Yêu và Sống đúng nghĩa tự truyện, Người đại
biểu nhân dân (06-11- 2006)
172. Đồng Đức Thành (2008), Cuộc sống vẫn tiếp diễn, Nxb Văn học, Hà Nội
173. Hoài Thanh (2010), Thi Nhân Việt Nam, Nxb Thời đại, Hà Nội
174. Đoàn Cầm Thi (2016), Đọc Tôi bên bến lạ, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
175. Nguyễn Phong Thu (2008), Tiểu thuyết có khuynh hướng tự truyện trong văn
học Việt Nam từ sau 1975, Luận văn, Đại học sư phạm Hà Nội
176. Nguyễn Mạnh Trinh (2007), Ba người khác và Tô Hoài, tiểu thuyết hay hồi
ký? Nguồn: http://library4vn.com/index.phpesview=story&subjecttid=17837
177. Bùi Thị Kim Thư (2012), Nước mắt và nụ cười, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
178. Lộc Phương Thủy, Nguyễn Phương Ngọc, Phùng ngọc Kiên (2014), Xã hội
học văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội
161
179. Lê Thị Lệ Thủy (2012), Ngôn ngữ trần thuật trong hồi ký Tô Hoài
Nguồn: http://vanhien.vn/vi/news/Bai-Viet-92/Ngon-ngu-tran-thuat-trong-hoi-
ky-To-Hoai-12474/
180. Hồ Thị Trang (2010), Chùm hoa trang vẫn nở, Nxb Thanh niên, Hà Nội
181. Thành Trung (2008), Không lạc loài, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
182. Lý Qúy Trung (2014), Bầu trời không chỉ có màu xanh, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí
Minh (tái bản lần 3)
183. Lê Vân (2006), Yêu và Sống, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội
184. Ái Vân (2016), Để gió cuốn đi, NxbTrẻ, TP Hồ Chí Minh
185. Nguyễn Khắc Viện (2007), Tự truyện, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
186. Phan Việt (2013), Một mình ở châu Âu, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
187. Phan Việt (2014), Xuyên Mỹ, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
188. Mai Vũ (2006), Viết tự truyện - nhu cầu hay trách nhiệm,
Nguồn: http://tonvinhvanhoadoc.vn/tin-tuc-su-kien/van-de-binh-luan/1749-tu-
truyen-nhu-cau-hay-trach-nhiem.html)
189. Triệu Xuân (2008), Tự truyện không hẳn là văn học,
Nguồn: http://trieuxuan.info/?pg=tpdeail&id=421&catid=6
190. Nguyễn Đắc Xuân (2012), Từ Phú Xuân đế Huế, Nxb Trẻ (4 tập), TP Hồ Chí
Minh
191. P.V. Zima (1971), Giáo trình xã hội phê bình (Bản dịch của Phạm Xuân
Thạch), tài liệu lưu hành nội bộ
192. Max Weber (2008), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư bản
(Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Nghị, Nguyễn Tùng, Trần Hữu Quang dịch), Nxb
Tri thức, Hà Nội
193. Báo văn nghệ (1990), Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay, số 14 thứ 7
ngày 7 tháng 4 năm 1990
194. Báo Thể thao văn hóa (5/5/2016)
Nguồn http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/tu-truyen-cua-nghe-si-ai-van-
soc-voi-6-trang-sach-khong-co-chu-n20160505201809273.htm
195. Báo An Ninh thế giới (2002), Nhà văn Nguyễn Khải và cuôn tiểu thuyết cuối cùng.
162
Nguồn: http://vietbao.vn/Van-hoa/Nha-van-Nguyen-Khai-va-cuon-tieu-thuyet-
cuoi-cung/10788454/104/
196. Tập hợp các bài bình luận về Yêu và sống tại
Nguồn: http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/le-van-yeu-va-
so-ng-viet-nhu-mot-su-sa-m-ho-i-1890443.html
Tiếng Anh
1. Paul John Eakin (1992) Touching the World: Reference in Autobiography,
Princeton University Press
2. Leigh Gilmore (2001), The Limit of Autobiography: Trauma and Testimony,
Cornell university press, Ithaca and London
3. Wendy Grisword (1987), A methodologycal for the sociology of culture ,
Sociological Methodology, American Socilogycal Association Vol.17, tr 1- 35
Nguồn: http:// www. Jstor.org
4. Sidonie Smith and Julia Watson (2002), Reading Autobiography: Aguide for
Interpresting Narratives, University of Minesota Press, Tập 2
5. Sidonie Smith and Julia Watson (1998), Women, Autobiography, Theory: A
Reader, The University of Wincosin Press
163
PHỤ LỤC 1
PHỎNG VẤN CÁC NHÀ VĂN
- Đề cương phỏng vấn
- Phỏng vấn số 1: nhà văn Phan Việt
- Phỏng vấn số 2: Nhà văn Ma Văn Kháng
- Phỏng vấn sô 3: Nhà văn Bùi Ngọc Tấn
- Phỏng vấn số 4: Nhà văn Tô Hoài
164
ĐỀ CƯƠNG PHỎNG VẤN
1. Tìm hiểu về những nhân tố chủ quan và khách quan của hành động tự
truyện
- Đánh giá về hiện tượng tự truyện từ đầu thế kỷ XX đến nay
- Những động lực chủ quan của hành động tự truyện
- Các yếu tố chi phối hành động tự truyện
2. Xác định đặc điểm của tác phẩm tự truyện
- Yếu tố sự thật
- Yếu tố hư cấu
- Quan niệm về tự truyện
3. Những kỹ thuật trong tự truyện
4. Mối quan hệ với người đọc
165
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 1
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN PHAN VIỆT)
Thời gian: 8h 30 ngày 1/7/2012
Tác giả (TG): Chào chị. Gần đây tự truyện xuất hiện khá sôi nổi trong
văn học. Chị có nhận xét gì về điều này? Những nhân tố nào chi phối sự xuất
hiện tự truyện?
Nhà văn Phan Việt (NVPV): Đây là một xu hướng chung trong đời sống
mà không chỉ riêng văn học. Nhìn sang các ngành nghệ thuật, càng ngày người ta
càng tiến đến cái chỗ mô tả đời sống đến cái gần nhất của sự thật. Ví dụ ngày xưa,
con người mô phỏng thần thánh, người giống thần nhưng càng ngày thần lại càng
giống người, là người - thần. Truyền hình cũng vậy, từ chỗ đen trắng, không có
tiếng, đến có tiếng, từ những chương trình thu sẵn đến giờ đây, nó gần hơn với hiện
thực hơn, các chương trình TV theo xu hướng truyền hình thực tế ngày càng nhiều.
Người ta ngày càng đến gần thực tế, muốn biết hàng ngày cuộc sống diễn ra như
thế nào. Nghĩa là người ta càng muốn tiệm cận càng ngày càng sâu vào cuộc sống
như chính nó đang diễn ra. Tất nhiên có sự chi phối của của công nghệ nữa. Công
nghệ là một điều kiện thúc đẩy làm cho xu hướng ngày càng rõ rệt. Người ta không
tin vào những gì có tính chất mô phỏng, ước lệ mà muốn cảm giác thật. Như thế,
những chia sẻ, đồng cảm và bài học lớn hơn nhiều.
Việt Nam (VN) cũng nằm trong xu hướng đó do toàn cầu hóa. VN bắt đầu
xuất bản, dịch các tác phẩm có tính chất hồi ký. Cứ nói nguyên, không tính đến
dòng tiểu thuyết, Ngay ở các tiểu thuyết ăn khách, khá nhiều tác phẩm được đọc là
những tự truyện như Nhật ký tiểu thư John, sự xuất hiện dòng sách tâm linh, dòng
sách New Ages kể về những kinh nghiệm thật của bản thân tác giả khiến người đọc
đồng cảm và khóc. Bản thân văn học cũng nằm trong cảm xúc ấy. Đến lúc nhà văn
nhận ra việc viết tác phẩm hư cấu dù có khả năng khái quát thực tế cao song một
tác phẩm tự truyện, có yếu tố thật lại có sức lay động nhiều hơn. Đó là sức mạnh
của sự thật. Sự thât là cái có sức mạnh tự thân. Sự thật chỉ cần đúng như sự thật đã
khiến tác phẩm có sức mạnh, trực tiếp và lay động người đọc rồi. Không gì thay thế
được sự thật. Chỉ cần trình bày nó đúng như sự thật là đã có giá trị. Đến lúc ở Việt
Nam, khi xã hội cho phép, khi xã hội nhận ra giá trị của sự thật, khi xã hội đủ cởi
166
mở để cho phép người ta viết sự thật mà không phải bóng gió, thì sẽ xuất hiện tác
phẩm có yếu tố tự truyện. Thế thôi.
Về việc nói sự thật của nhà văn, ở điểm này hơi có tính cá nhân một chút
nữa, rất nhiều người trở thành nhà văn vì họ có những câu chuyện đời đau lòng
hoặc nếu không đau lòng cũng khác biệt. Họ nén nhiều thứ trong lòng và đến một
lúc nào đó, họ cảm thấy không cần né tránh nữa, bản năng tự vệ mất đi, bản năng
nhà văn lớn hơn bản năng tự vệ của con người thì họ sẽ viết ra mà không cần che
đậy nữa.
TG: Như thế, tự truyện thực ra là một kỹ thuật hay là một nhu cầu tâm
NVPV: Tôi muốn thể nghiệm viết một cái gì đó làm cho người ta có thể
tiếp cận vào dòng cảm xúc của tôi một cách trực tiếp nhất, họ có thể nhập
luôn vào người viết. Nếu chị đọc Tiếng người hoặc Nước Mĩ, nước Mĩ…sẽ
thấy. Ví dụ khi tôi viết: tôi đang mở cửa thì về mặt logic là không đúng bởi
thật ra lúc đó tôi đang ngồi viết. Song như thế, người đọc được nhập vào
hành động mở cửa của tôi. Cũng giống như việc chuyển từ phim 2D sang
phim 3D, khiến người đọc có cảm giác được tiếp xúc với đời sống thật.
Về sự thật, các nhân tố khiến tự truyện xuất hiện là:
-Nhận thức về sức mạnh sự thật trong văn chương
- Nền tảng văn hóa cho phép được viết sự thật
- Kỹ thật và các nền tảng khác làm cho người ta có thể trình bày sự
thật ở cách trực tiếp nhất
lý, thưa chị?
TG: Vậy chị quan niệm thế nào là tự truyện?
NVPV: Tự truyện nó vốn là một hình thức văn học. Tôi nghĩ là không
có gì là không hư cấu bởi vì khi kể một câu chuyện là đã chọn một điểm nhìn
như mình nhìn thấy. Khi kể lại bao giờ cũng có tính chất phiên dich, và có thể
có những cái sẽ bị quên bởi chính ký ức đã tự động xóa.
167
Nhiều sự việc được coi là hư cấu bởi nó chỉ là sự thật của tôi, nó vẫn là
một câu chuyện kể, vì thế, nó vẫn là văn học. Tất nhiên ở đây có sự phân biệt
ở tự truyện có nhiều hay ít hơn yếu tố văn học.
Những trường hợp phi hư cấu mà thiếu yếu tố văn học, trường hợp đó
có thể phân biệt ở chỗ: một bên là một sự việc còn một bên là một câu chuyện
có ý nghĩa văn học bởi chúng có yếu tố kỹ thuật. Những người viết các câu
chuyện kia, có thể là một tác giả, song không phải là một nhà văn.
Do thế, câu chuyện của cá nhân một người và được cho là sự thật, phải
là một câu chuyện văn học, có yếu tố thẩm mĩ mà không thể chỉ là những sự
việc xảy ra và những sự thật trần trụi.
TG: theo chị, yếu tố thầm mĩ có thể hiểu là gì? Đó có phải là khả
năng khái quát hóa, khả năng gợi sự liên tưởng…hay không?
NVPV: Khá khó khái quát nhưng có thể so sánh như thế này: một
người chụp ảnh nghiệp dư chụp ảnh sẽ khác với một nhiếp ảnh gia chụp.
Người ta phải ngầm nhìn thấy cái đẹp trong những sự việc mà người ta kể ra
và để nói một cái gì đấy chứ không chỉ là bản thân sự việc. Ngay ở cái ảnh
nghệ thuật có thể thấy nó đã được sắp xếp ánh sáng, khoảnh khắc chụp.
Chúng có bố cục riêng, điểm nhìn riêng tạo nên tính nghệ thuật. Nó phải có
độ nén và gợi lên nhiều hơn bản thân sự việc.
TG: Vâng, Cảm ơn chị. Theo chị những yếu tố nào chi phối việc
viết sự thật của nhà văn?
NVPV: Thực ra tiểu thuyết lại thật hơn sự thật. Một nhà văn khi con
người văn học lớn hơn thì người ta không ngại kể sự thật bởi động lực lớn
nhất là động lực kể chuyện. Những nỗi đau sẽ trở nên nhỏ nhoi trước đam mê
viết. Họ nhìn thấy cái đẹp trong những nỗi đau ấy. Có những nhà văn có
duyên kể về những sự thật hàng ngày làm cho chúng trở nên đẹp
Còn lại tất nhiên, người viết trong quá trình viết sự thật luôn phải trải
qua những đắn đo bởi sự thật luôn không chỉ có một mình mình, mà liên quan
đến nhiều người. Tôi nghĩ, nếu những gì mình viết ra có khả năng phá hỏng
168
cuộc đời một người khác thì họ sẽ lựa chọn có kể câu chuyện này hay không
và nó có đáng không. Viết bao nhiêu sự thật sẽ phụ thuộc và chính tuổi đời
của bản thân người viết.
Nếu sự thật chỉ thuộc về bản thân thì có lẽ sự lựa chọn sẽ dễ dàng hơn.
Mội chuyện chỉ khó khăn khi nó liên quan đến người khác. Tùy từng người sẽ
xử lý vấn đề thế nào.
Vấn đề văn hóa có liên quan đến việc viết sự thật. Điều này là câu
chuyện cá nhân. Nó là sự xử lý trên góc độ một nhà văn và góc độ một con
người. Tùy từng người để xử lý thế nào do mức độ trưởng thành của họ.
TG: Thế thì trường hợp tự truyện - tiểu thuyết là ứng xử hay chỉ
thuần túy là kỹ thuật?
NVPV: Nó là cả hai. Người đọc vốn thông minh, việc gọi đó là cái gì
không quan trọng. Quan trong là viết cái gì.
Hầu hết nhà văn trong thời kỳ đầu thì bản năng con người lớn. Song
càng trưởng thành thì con người văn chương sẽ lớn hơn. Faulkner có nói nếu
nhà văn thực sự là một nhà văn thì việc viết sách là mục đích tối cao (anh ta
có thể giết cả người thân của mình chỉ để viết) Mọi thứ như danh dự, tự trọng
đều không còn quan trọng.
Với sự thật, điều quan trọng là mình ứng xử như thế nào đối với sự
thật. Nếu nhà văn coi sự thật là cái đẹp hay cái đẹp cao hơn sự thật thì họ sẽ
không còn nhu cầu tự vệ. Cái mà họ muốn cho người khác thấy vẻ đẹp của sự
thật lớn hơn nhiều bản năng sinh tồn.
TG: Chị có nhận xét gì về hiện tượng những người trẻ viết tự
truyện gần đây?
NVPV: Nói sự thật với những dồn nén về mặt xã hội là hành trình dẫn
đến nhu cầu tự truyện. Song đối với giới trẻ lại có điểm khác. Họ viết là để
tránh bị cuốn trôi, bị hòa lẫn và vì thế họ viết về mình.
TG: Xin cảm ơn chị.
-------------------------------------
169
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 2
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN MA VĂN KHÁNG)
Thời gian: 14h ngày 2/ 7 /2012
Tác giả (TG): Cháu cháo bác, gần đây, tự truyện đang trở thành
một hiện tượng văn hóa thu hút sự quan tâm của nhiều người viết và
người đọc. Bác là tác giả của Một mình một ngựa, một tác phẩm được
nhiều người đọc cho rằng đó là tự truyện. Bác có nhận xét gì về điều này?
Nhà văn Ma Văn Kháng (NVMVK): Tôi muốn nói về xuất phát của
cuốn Một mình một ngựa.
Sau năm 2007 tôi rất yếu. Khi nằm viện tôi bỗng nhớ tới một đoạn đời.
Cuốn tiểu thuyết này là một đoạn đời tách riêng khỏi các đoạn đời khác. Đó
là một môi trường riêng, một khoảng riêng tách khỏi lộ trình của cuộc đời
của tôi. Nó có những nét riêng độc đáo đối với cuộc đời tôi và đối với chính
bản thân tôi. Có lẽ điều đó đã tạo nên nhu cầu tự truyện.
Và tôi nghĩ, giữ lại một thời kỳ lịch sử, một thế hệ vàng của cách mạng
Việt Nam với những ấu trĩ, hồn nhiên và nhiệt huyết tạo nên một vẻ đẹp không
thể lẫn. Đó là hình ảnh của đời sống, là hình ảnh đời sống trong sự tồn tại
của nó. Những tính cách của các nhân vật là sự thật, các chi tiết là sự thật.
Ngay bản thân các nét tính cách của nhân vật cũng hoàn toàn thật bởi vốn
chính nó cũng đã khá điển hình. Những diễn biến của câu chuyện Một mình
một ngựa cũng hoàn toàn là những sự thật đã diễn ra
Thứ hai là yếu tố tự truyện là rất đậm đặc. Là nét chủ yếu tạo nên cốt
truyện. Các yếu tố cấu thành cũng đều là tự truyện. Song tất nhiên chúng đã
có những khúc xạ nghệ thuật. Nghĩa là nó đã có một khoảng lùi. Nói chính
xác hơn: cốt truyện là sự thật, song sự tham gia chủ quan của nghệ sĩ tạo
thành chất tiểu thuyết.
170
TG: Bác muốn người đọc đọc Một mình một ngựa như một tự
truyện hay như một tiểu thuyết có yếu tố tự truyện?
NVMVK: Sự thật của sự việc này là: Tôi đang là giáo viên ở Lao Cai
sau đó được điều về tỉnh ủy tỉnh Lao Cai. Thời gian đó khoảng 2 năm. Toàn
bộ công việc đều được kể lại trong tác phẩm. Lộ trình công tác của Toàn gần
như là sự thật hoàn toàn. Các nhân vật cũng là sự thật. Năm ông thường vụ
đều có cái tên cũng như hành động, tính cách của họ ngoài đời Muôi = Mười,
Bích = Địch, Tiến = Kiến… Thực sự, sự thật về họ đã là những nét khá điển
hình cho con người của thời đại đó rồi. Tất nhiên có sự tham gia của nhà văn.
Ví dụ nhân vật ông Quyết Định, mọi tính cách và sư việc đều là sự thật. Song
tôi có tô đậm hình ảnh một mình một ngựa và làm nổi bật cảm giác cô đơn
của ông ấy.
Người đọc đọc Một mình một ngựa sẽ thấy yếu tố tự thuật khá đậm đà.
Và nếu so sánh chuyện này với hồi ký Năm tháng nhọc nhằn năm tháng
nhớ thương sẽ sẽ thấy hoàn toàn khác.
Về cách đọc, người đọc phải phân biệt thành hai loại: một đọc theo
kiểu đối chiếu. bởi họ bị ám ảnh bởi sự thật quá nhiều. Những người này
thường có trình độ thấp. Một số coi là tiểu thuyết và chấp nhận những sự thật
được kể, những người này có trình độ cao hơn. Ví dụ các con của ông Quyết
Định (tên thật của ông ấy là Hoàng Khải Luận) đã đến gặp và cảm ơn tôi đã
viết về bố chúng, để chúng hiểu ông hơn.
Thực tế, sự hư cấu của tôi đối với nhân vật Quyết Định là nhằm xây
dựng nhân vật cao hơn hiện thực một chút. Các nhân vật đều được nâng lên
để mang tính đánh giá, tính khái quát. Còn tính tự thuật của nhân vật Toàn là
ở chỗ mang cái nhìn của tác giả và đánh giá các nhân vật khác.
Song tác phẩm vẫn là tiểu thuyết. Tinh tiểu thuyết cao hơn tự truyện.
Tôi nghiệm rằng, trong đời viết của mình, các nhà văn trải qua hai giai
đoạn: thời kỳ đầu là viết cho người khác, cho đời sống xã hội, chỉ đến một độ
171
nhất định, khi già, mới viết cho mình. Đó là quá trình phát triển của ý thức cá
nhân và những trải nghiệm. Bộc lộ cái gì của mình, những trải nghiệm và
chia sẻ. Đó là nhu cầu viết tự truyện.
TG: Khi viết câu chuyện này, ông có gặp những cản trở nào
không? Nghĩa là những băn khoăn, vướng mắc trong quá trình viết?
NVMVK: Không, tôi không ngại. Bởi vì tất cả những người liên quan
đều đã mất. Tôi nghĩ, đó là một giai đoạn đã kết thúc, những người ấy đã
hoàn thành sứ mệnh của mình. Việc viết như vậy cũng không ngại gì. Điều
quan trong với tôi là phải dựng lên hình ảnh của cái thời ấy. Cũng không sợ
hiểu lầm bởi mình có tấm lòng và trái tim chân thật. Nhưng bởi muốn nói sự
thật nên nhiều khi cũng bị hạn chế về tưởng tượng và hư cấu
TG: Bác có nhận xét gì về hiện tượng những người trẻ viết tự
truyện hiện nay?
Hơi vội. Cá nhân phải trải qua những trải nghiệm nhất định mới có thể
tự truyện. theo quy luật phát triển, cái tôi phải bắt đầu từ cái ta. Cái tôi cần
trưởng thành thì mới có thể viết và chiêm nghiệm được
TG: Xin cảm ơn bác
172
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 3
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN BÙI NGỌC TẤN)
Thời gian: 13h30 ngày 5/7/2012
Tác giả (TG): Chào Bác ạ. Gần đây, tự truyện đang ngày một thu hút sự
quan tâm của cả xã hội, không chỉ là người đọc và người phê bình mà cả
những cá nhân có nhiều điều muốn bộc lộ. Với tư cách là một nhà văn, bác có
nhận xét gì về hiện tượng tự truyện xuất hiện khá sôi nổi trong đời sống và văn
học hiện nay?
NV Bùi Ngọc Tấn ( NVBNT): Theo ý tôi thì là: có tự truyện là biểu hiện
thoáng hơn, dân chủ hơn. Đứng về nghệ thuật, đây là một tiến bộ. Ở các nước khác,
vấn đề này không phải đặt ra, nhưng ở nước ta, đó là một tiến bộ bởi trước đây, bao
nhiêu lâu rồi, các nhà văn việt nam phải viết về những cái mình chưa thật sự hiểu. Ví
dụ ông Đào Vũ viết Cái sân gạch hay ông Võ Huy Tâm viết Vùng mỏ là viết theo định
hướng. Có đi thâm nhập thực tế một thời gian song đó cũng chưa đủ để gọi là
hiểu…thành ra là viết nhưng phải cắt gọt thực tế theo một định hướng có sẵn. Vì thế,
đây (sự xuất hiện tự truyện) là một bước tiến bộ thể hiện dân chủ hóa trong đời sống
và nghệ thuật. Cũng nhấn mạnh rằng không ai ban phát dân chủ mà phải tự mình tạo
ra, mỗi nhà văn phải nong nó một tí thì mới có thể có được sự tự do để viết.
Bao nhiêu lâu nay, người đọc chán ngắt về cái mà mình không thực sự hiểu,
theo những mô thức, bây giờ được viết về cái mình hiểu nhất, đó là bản thân mình.
Nó làm nên trào lưu hấp dẫn.
Một vấn đề nữa là dân chủ thì văn chương phải được tự do. Văn chương
phải có những đề tài gần gũi với cuộc đời, với con người. Tôi nhớ là cuốn Số đỏ
từng được gọi là “tiểu thuyết cười dài”. Văn chương không nên đạo mạo, không chỉ
là sự đạo mạo mà cần phải là cuộc đời. Trách nhiệm của nhà văn, chính là phải
nhận ra chân lý cuộc sống ấy qua những chi tiết rất đời. Cuộc sống tù đày của tôi
được viết lại trong Chuyện kể năm 2000 (CKN2000) là một sự thực. Một sự thực
mà những con người trong đời sống bình thường không dễ tưởng tượng ra. Cuộc
sống của những năm tháng ấy thôi thúc được viết, được nói thật.
173
Nhưng viết tự truyện luôn đòi hỏi lòng trung thực và tinh thần dũng cảm.
Nhà văn phải dũng cảm thì mới có được tự do.
TG: Bác có nói rằng, viết tự truyện, sự trung thực là quan trọng. Sự
trung thưc đó, theo bác, là trách nhiệm nhà văn hay trách nhiệm công dân?
NV BNT: Với tôi, hai cái là một, không có đối lập nhau. Nhà văn trước tiên
phải nói sự thật. Nhà văn còn là người viết tác phẩm chân thực, đạt tới một cách
giản dị nhất, là đã hoàn thành trách nhiệm nhà văn. Biển và chim bói cá của tôi
được giải là vì nó nói thật nhất về đời sống của người Việt Nam. Cái làm tác phẩm
hay phải là 3 trong 1. Dấu ấn của riêng của tác giả, dấu ấn Việt Nam (dấn ấn dân
tộc) và tính chung nhân loại.
Còn dũng cảm là viết phải tin mình là người yêu nước để không run tay khi
thực tế, như tôi đã viết trong hồi ký về Nguyên Hồng, luôn có một ông kiểm duyệt,
một ông biên tập ngồi trên đầu ngọn bút. Dũng cảm mà tôi muốn nói, là phải viết
được cái căn cốt, không hớt váng.
TG: Trong tác phẩm của mình, tại sao bác chọn hình thức đề trên bìa là
tiểu thuyết mà không phải là tự truyện?
NVBNT: Viết tiểu thuyết thì tôi có quyền hư cấu hơn. Cuộc đời tôi là sự thật.
Nhưng cách lưu giữ của tôi khác với người khác. Hơn nữa, mỗi người có một cái
ăng ten riêng, để bắt sóng của hiện thực theo cách của mình. Hơn nữa, cách lưu giữ
của trí nhớ cũng thật đặc biệt. Nó chỉ lưu giữ những hạt vàng. Vì thế CKN2000 chỉ
viết những ký ức đậm nét, tiêu biểu, và đã có được một độ lùi nhất định.
TG: Dòng ký ức là một kỹ thuật khá tiêu biểu của tự truyện. Trong
CKN2000, đặc điểm này khá nổi bật, Bác có ý thức rằng mình đang tự truyện?
NVBNT: Tôi viết theo suy nghĩ, không chăm chăm nghĩ tới thể loại. Đối với
tôi, câu đầu tiên trong tự truyện rất quan trọng. Nó định vị thời gian và không gian
kể. Nó quyết định cách kể của toàn bộ câu chuyện. Trong CKN2000 có những
chương viết rất trong sáng về tình yêu, tình bạn, những cảm xúc về con cái rất nhỏ
như giặt quần áo cho chúng, dạy chúng câu cá… chỉ có thể là trải nghiệm thật,
phải là tự truyện.
174
TG: Trong truyện có hai khoảng, hai không gian kể chuyện đối lập
nhau, thời thanh niên được kể với những hồi ức tươi sáng, đẹp đẽ, nhưng đoạn
đời sau này thì trầm uất. Đây có phải là chủ ý?
NVBNT: Về khoảng trong sáng, đó là sự thật, sự thật về một thế hệ được
đào tạo, trưởng thành, chứng kiến trào lưu của cách mạng. Thế nhưng cuối cùng là
thất bại. Đó là sự thật. Tôi muốn nói tới sự thật đau đớn, những vận hành đau đớn
trong hành trình sống với lý tưởng.
Tôi cũng không định viết một câu chuyện tù. Có bạn đọc cho rằng đó chuyện
về tình yêu, có bạn đọc gọi đó là chuyện về gia đình…Thực chất đây là tự sự của
một thế hệ thanh niên với tâm hồn trong trẻo đến với cách mạng nhưng cuối cùng
thất bại.
TG: Với CKN2000 bác muốn người đọc đọc như tự truyện hay đọc như
tiểu thuyết?
Tôi muốn gọi đó là tiểu thuyết có tính tự truyện hơn. Bởi vì vẫn có nhân vật
hư cấu như Gìa Đô là sự tổng hợp của nhiều nhân vật. Tuy nhiên, các nhân vât hai
vợ chồng anh tù, ông Trần và ông Hoàng được viết đúng như sự thật, nhhững chi
tiết tả cuộc sống trong tù, sự kiện những tù nhân tranh nhau những quả ớt…là sự
thật. Tôi không thể bịa những gì mà cảm giác chưa được biết.
TG:Đối với một tác phẩm văn học, hai yếu tố là thẩm mĩ và sự thật cái
gì quan trong hơn?
NV BNT: Cái đẹp trong nghệ thuật là sự thật được viết nghệ thuật. Sự thật
văn học càng giản dị, chân xác càng có giá trị. Sự thật kiểu tự truyện và sự thật văn
học bổ sung cho nhau. Bây giờ người ta viết tự truyện chính bởi vì bị dồn nén hơn
nửa thế kỷ rồi. Bao nhiêu lâu người ta phải viết theo định hướng, và không được
viết về mình.
Bây giờ mới được viết.
TG: Vâng ! Xin cảm ơn bác!
175
PHỎNG VẤN SÂU SỐ 4
(PHỎNG VẤN NHÀ VĂN TÔ HOÀI)
Thời gian: 14h ngày 8/7/ 2012
Tác giả (TG): Cháu chào Bác, Bác là người viết tự truyện khá sớm, ngay
từ những năm 40, khi tuổi còn khá trẻ (khoảng 24 tuổi). Động lực nào thôi thúc
bác viết tự truyện? Gần đây, phong trào tự truyện đang diễn ra khá sôi nổi
trong đời sống và văn học. Bác có nhận xét gì về điều này.
Nhà văn Tô Hoài (NVTH): Tôi năm nay 91, cuộc đời tôi là một tự truyện.
Làng tôi là làng Nghĩa Đô, quê nội ở Thanh Oai. Tôi ở đây cho đến tận bây giờ.
Vừa rồi Thành ủy Hà nội tổ chức liên hoan 65 năm tuổi Đảng cũng ở đây.
Thuở nhỏ, tôi học sơ học ở trường Yên Thái, rồi sau đó là Yên phụ từ lớp
nhất. Ban đầu tôi làm thơ, sau mới viết văn xuôi. Tôi đỗ tiểu học Pháp Việt, cũng
thi vào trường Bưởi, trường Sư phạm nhưng không đỗ Dipplom, nên tôi đi làm cho
hãng giày Bata. Khi đó tôi bắt đầu viết. Chuyện Ông Dầu bà Dầu, Sự tích nước lên
cho báo Hà Nội Tân Văn và Tiểu thuyết thứ Bảy là thời kỳ này. Truyện đầu tiên mà
tôi viết là Dế mèn phiêu lưu ký. Tên của nó ban đầu là Con đế mèn. Các nhà văn Vũ
Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan là những người phát hiện và cổ vũ tôi. Cụ Vũ Ngọc
Phan đưa Con dế mèn đến nhà xuất bản của Vũ Đình Long và in ở đấy. Nhuận bút
Con dế mèn là 10 đ. Tiếp tinh thần ấy, tôi viết thành Dế mèn phiêu lưu ký, được
nhiều người đọc. Dế mèn phiêu lưu ký là tác phẩm giúp tôi trở thành nhà văn.
Những tác phẩm tự truyện mà tôi đã viết trước đây có Cỏ dại, trong kháng
chiến có Tự truyện. Sau này có Cát bụi chân ai, Ba người khác, Chiều chiều.
Cát bụi chân ai viết về các nhà văn, tôi viết ông Xuân Diệu đồng tính. Đầu
tiên tác phẩm có bị cấm. Có một anh sinh viên người Mỹ đã mời tôi làm chủ tịch hội
đồng tính. Cũng buồn cười. Bây giời Cát bụi chân ai đã được in. Cả Mười năm
cũng vậy.
Tất cả những gì tôi viết là câu chuyện đời tôi, gọi là tiểu thuyết cũng được,
gọi là tự truyện cũng đúng. Truyện Mười năm kể về phong trào cách mạng ở làng
176
tôi. Trong truyện có một cô gái, xinh đẹp, cách mạng song cũng khá lẳng lơ. Vì
nhân vật này nên tôi cũng bị phê bình.
Chiều chiều cũng vậy. Tất cả mọi chuyện tôi viết đều là thật. Chuyện có kể
về đợt đi học Nguyễn Ái Quốc. Cũng bị cấm. Bây giờ cũng in rồi, cả in chui, cứ in
chui. Mà in chui cũng nhiều.
TG: Khi viết những cuốn sách ấy, Bác có ý thức là mình đang viết tự
truyện không?
NVTH: Tôi cho đó là sáng tác. Những sáng tác của tôi dựa trên các câu
chuyện thật ấy. Tự truyện đối với tôi là sáng tác. Cuộc đời tôi không khác những gì
tôi viết. Trong Chiều chiều, tôi viết nhiều chuyện, ví như làm chủ tịch hội nhà văn Á
phi, chủ tịch ủy ban đoàn kết nhà văn, đi công tác nhiều nước. Tất cả những chuyện
đó là thật. Tôi cứ viết lẫn lộn giữa sáng tác và những sự thật như vậy. Từ những
chuyện đầu tiên là Con đế mèn. Con dế mèn bắt đầu từ hai thực tế: thực tế đời sống
và thực tế tư tưởng. Lúc bấy giờ ở thành phố có phong trào Ái Hữu và mặt trận
Bình dân. Lúc đó tôi làm thư ký hội ái hữu thợ dệt. Ông Văn Tiến Dũng làng bên
làm hội ái hữu thợ may. Lúc đó tư tưởng thế giới đại đồng đang sôi nổi. Nó chính
là Chủ nghĩa cộng sản sau này. Con dế mèn đi tìm thế giới đại đồng xuất phát từ sự
thật này.. Đó là những thực tế của riêng tôi, của chúng tôi ở thời đại ấy.
Ngoài ra thì có phong trào Âu tây tư tưởng cũng đang nở rộ. Các ông lý
trưởng chánh tổng của làng mang về các loại sách báo in tiếng Pháp. Chúng tôi
cũng được đọc. Các cuốn sách như Giulive du ký, Con chim xanh của
Mateclinh…là những cuốn sách mà tôi được đọc và chịu ảnh hưởng.
….Đời tôi luôn được thể hiện trong sáng tác của tôi.
(Về đời tôi còn có những chuyện tình nữa: Chuyện tình đầu tiên…)
TG: Một chủ đề xuất hiện trong tự truyện là chuyện về CCRĐ. Viết về
những sự thật này, Bác mong muốn điều gì ở người đọc?
NVTH: Những vấn đề này tôi rất thiết tha bởi những thực tế đó là những sự
thực lớn, từ vấn đề nông dân, đến những vấn đề chính trị. Thêm nữa, tôi luôn coi
trong thực tế (nghĩa là sự thật). Tôi cũng hết sức chú ý vấn đề ngôn ngữ, người ta
ăn nói thế nào…và đó chính là đặc điểm văn học của tôi. Ví dụ truyện Kim đồng,
truyện nhà Chử, tôi phải học lại sách tiếng Mường khá nhiều. Ngôn ngữ của văn
177
học đòi hỏi rất lớn, mình phải học. Kể những sự thật như thế, tôi rất chú ý đến ngôn
ngữ, sao cho nó phải thật. Ví dụ chữ ăn nằm, đừng nói là biết rồi, mà vẫn phải học,
phải học vô cùng.
TG: Với những chủ đề bị cấm, Bác có nghĩ là mình có những cách để
tránh không?
NVTH: Từ những câu chuyện về làng quê, ngày thơ ấu, khi trưởng thành
cho đến những bức chân dung các anh nhà văn, chuyện đi thực tế cho đến chuyện
đi học, chuyện làm ở khu phố của tôi đều là chuyện thật. Ngay chuyện học ở trường
Nguyễn Ái Quốc, rất thật, cả ở chuyện ăn cắp chuối, chuyện anh cán bộ ra
tòa…cũng là chuyện đã diễn ra thật. Vì điều đó mà đôi khi gặp những “hiểu
lầm”như chuyện Mười năm
Nhưng tôi không sợ những cái đó, tôi không để ý mà ngược lại rất thiết tha.
Bằng chứng là những cuốn đó đều được xuất bản, không có ai kỷ luật tôi.
TG: Bác có nghĩ rằng nếu không viết những chuyện như thế thì thế hệ
sau sẽ không biết về những gì xảy ra? và vì thế mà cần phải viết?
NV TH: Tôi cũng nghĩ như thế, nên tôi không e dè. Tôi nói vấn đề rất lớn
nhưng lại được viết rất cụ thể, đó là vấn đề ngôn ngữ. Thực sự tôi rất yêu và thiết
tha vấn đề ngôn ngữ.
Cô hỏi tôi có dự định viết hồi ký nữa không? Tôi cũng cứ nghĩ, ngày nào
đêm nào tôi vẫn cứ nghĩ đến ngày xưa, cuộc đời mình ra sao? Như thế nào? Nhưng
có lẽ cũng khó… bởi cuộc sống của mình có nhiều cái gian truân ….nên cũng khó.
Có một chuyện tình với một cô ở Dầu Tiếng. Cũng nhiều trăn trở băn khoăn, nhưng
thôi…
TG: Thời gian làm việc ở Hội nhà văn điều gì đọng lại nhiều nhất mà
bác muốn nói thêm?
NVTH: Cũng khó. Tình cảm cũng vừa vừa, còn chuyện thì cũng không có gì
đọng lại.
Sau giải phóng thủ đô, Tôi được bầu vào BCH Hội nhà văn, ông Nguyễn
Đình Thi làm tổng thư ký. Trong Nhân văn giai phẩm cũng không bị sai lầm gì. Sau
này, thời kỳ ông Nguyễn Bắc làm Hội nhà văn Hà nội, tôi ra làm Hội nhà văn Hà
Nội, cả anh Bằng Việt. Thời gian đó cũng dài, cho đến lúc về hưu. Tôi không kể tí gì
178
về thời kỳ đó, vì tôi cho rằng mình có kinh nghiệm, làm cho hết thì thôi, không có
giận dỗi gì, không yêu ai ghét ai. Ở Hội nhà văn cũng thế. Không có xung đột cũng
không có bon chen.
Về cuộc đời một số nhà văn mà Bác kể trong Cát bụi chân ai và Chiều
chiều có liên quan đến vụ Nhân văn giai phẩm, Bác có suy nghĩ gì?
Có một số nhà văn được kể như Đặng Đình Hưng, Trần Đức Thảo. Nhưng
cũng có một số người tôi không kể nhiều. Tôi cũng không đặt vấn đề chính trị với
các anh ấy. Người đầu tiên nhân văn là anh Nguyễn Hữu Đang. Anh Đạng vận
động cụ Phan khôi ra báo Nhân văn. Ông Nguyễn Hữu Đang là người thiết kế lễ
đài độc lập năm 1945.
Còn chuyện về Hoàng Minh Chính? Tôi cũng chỉ đánh giá rằng đó là người
rất hùng hồn, nhưng cuối cùng bị quy kết phản động. Ở trường Nguyễn Ái Quốc
ông ấy bị quy là Đảng viên xét lại.
…….
Về những chuyện này, tôi cũng chả nói gì nữa. Sự đời giờ cũng xa xôi quá
rồi.
Về Ba người khác: Các nhân vật đều có thật. Anh Bối là tôi, là thật. Miêu tả
anh này, là tôi miêu tả sự thực đã xảy ra, không mang tính chính trị. Những chuyện
tình với các cô rễ, chuỗi đều có thật. Nhưng anh ta không hỏng về chính trị. Còn
anh đội trưởng người khu Năm thì có vấn đề. Sau cải cách về, năm 1955 thì dinh tê
vào Sài Gòn. Sau này phản động, và bị ta xử. Các nhân vật khác còn lại cũng là
thật cả. Chuyện kỷ luật, sai lầm rồi sửa sai cũng là thật.
Tất các tiểu thuyết của tôi đều có yếu tố đời thật của tôi. Chúng khá rõ tính
tự truyện. Bởi vì đối với tôi, viết là thật. Tôi luôn quan niệm: thực tế, thực tế, thực
tế.
TG: Vâng, Xin cảm ơn bác! Chúc bác luôn mạnh khỏe!
179
PHỤ LỤC 2
TRƯNG CẦU Ý KIẾN NGƯỜI ĐỌC
- Phiếu trưng cầu ý kiến
- Xử lý số liệu thống kê
180
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM ------------&------------ PHIẾU TRƯNG CẦU Ý KIẾN Phiếu số………………
Xin chào!
Chúng tôi đang thực hiện một nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận các tác phẩm tự truyện trong đời sống văn hóa Việt Nam hiện nay. Chúng tôi hi vọng nhận được sự đóng góp ý kiến của quý anh/ chị vào nghiên cứu này bằng cách trả lời các câu hỏi dưới đây. Những ý kiến của anh ( chị) chỉ để phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
Cách trả lời: Anh ( chị) đọc kỹ câu hỏi và lựa chọn cho mình phương án trả lời phù hợp nhất với ý kiến của bản thân (đánh dấu vào ô vuông tương ứng), hoặc viết ra câu trả lời ở những chỗ được yêu cầu.
Anh ( chị) không cần ghi tên vào phiếu này!
________________________________________________________________________ Câu 1. Cho biết mức độ đọc sách của anh/ chị Thường xuyên Không thường xuyên Câu 2. Trong các loại sách anh/chị đọc có tự truyện không? (Ghi chú: tự truyện là một loại văn xuôi viết về đời tư tác giả, do tác giả viết hoặc kể lại. Chuyện thường đươc kể từ ngôi thứ nhất hoặc ngôi thứ ba). Có Không Nếu có, xin tiếp tục câu tiếp theo, nếu không, xin dừng tại đây.
Câu 3. Anh/chị đọc loại sách này là vì: (Đánh dấu vào ô vuông tương ứng) Nghe giới thiệu trên truyền hình, đài phát thanh, báo, mạng Internet Nghe bạn bè giới thiệu Vì sở thích cá nhân Thấy mọi người đọc thì cũng đọc Vì tò mò muốn xem thực hư thế nào Ý kiến khác (Xin ghi rõ)…………………………… Câu 4. Mục đích đọc loại sách này đối với anh/ chị:
(Đánh dấu vào ô vuông tương ứng) Hiểu thêm về đời tư của những người nổi tiếng Hiểu về những sự thật mà mình chưa hề được biết hoặc biết chưa rõ ràng Có thể học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc sống Để giải trí và thư giãn Để phục vụ cho nhu cầu công việc
181
Câu 5. Mức độ đọc loại sách tự truyện của anh/chị:
5.1. Tự truyện của các tác giả Việt Nam
Thường xuyên Lý do………………………………………… Thỉnh thoảng Lý do……………………………………… Hiếm khi Lý do……………………………………… Không bao giờ Lý do…………………………………………
5.2. Tự truyện của các tác giả nước ngoài
Thường xuyên Lý do……………………………………… Thỉnh thoảng Lý do………………………………………… Hiếm khi Lý do………………………………………… Không bao giờ Lý do………………………………………… Câu 6. Anh (chị) thích đọc loại tự truyện nào sau đây:
Tự truyện của các diễn viên, nghệ sĩ, người mẫu, cầu thủ bóng đá
Tự truyện của các doanh nhân, chính trị gia Tự truyện của các nhà văn Tự truyện của những người vượt lên hoàn cảnh Câu 7. Nếu giới thiệu một cuốn tự truyện cho bạn bè của mình đọc, anh/chị sẽ giới thiệu cuốn nào? Xin nói đôi nét về cuốn sách …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………………………………… ……………………………………………… Xin anh/chị vui lòng cho biết các thông tin về bản thân:
Tuổi: Giới tính: Trình độ học vấn: Nghề nghiệp hiện tại : Nơi ở hiện tại: Cảm ơn anh/chị đã tham gia trả lời!
182
BẢNG XỬ LÝ SỐ LIỆU THỐNG KÊ
Muc do doc sach cua anh/ ch?
Percent
Cumulative Percent
Frequenc y
Valid Percent
74.6
thuong xuyen
150
74.6
74.6
25.4
51
25.4
100.0
Va lid
khong thuong xuyen
201
100.0
100.0
Total
Trong cac loai sach anh/chi doc co tu truyen ko?
Frequency Percent
Cumulative Percent
Valid Percent
co
145
72.1
72.1
72.1
khong
56
27.9
100.0
Va lid
Total
201
100.0
27.9 100.0
Anh/ chị đọc loại sách này là vì lý do
Neu co doc loai sach nay la vi li do/nghe ban be gioi thieu
Neu co doc loai sach nay la vi li do/so thich ca nhan
Neu co doc loai sach nay la vi li do /khac (ghi ro)
Neu co doc loai sach nay vi li do/thay moi nguoi doc minh cung doc
Neu co doc loai sach nay vi li do/to mo muon doc xem thuc hu the nao
Neu co doc loai sach nay la vi li do/nghe gioi thieu tren truyen hinh, dai phat thanh, bao mang, internet..
52
39
64
8
21
201
Vali d
N
149
162
137
193
180
0
Miss ing
183
Muc dich doc loai sach nay/de phuc vu nhu cau cong viec
Mục đích đọc loại sách này đối với của Anh / Chị Muc dich doc loai sach nay/de giai tri va thu gian
Muc dich doc loai sach nay/co the hoc hoi them nhung kinh nghiem song
Muc dich doc loai sach nay/mang lai nhung cam xuc sau sac ve con nguoi va cuoc song
Muc dich doc loai sach nay/hieu them doi song cua nguoi noi tieng
Muc dich doc loai sach nay/hie u them nhung su that ma minh chua he biet hoac chua biet ro rang
33
57
59
65
36
24
Vali d
N
168
144
142
136
165
177
Miss ing
Percent
Cumulative Percent
M?c do doc tu truyen cua anh/chi (cua tac gia Viet Nam) Valid Percent
Frequenc y
4.1
thuong xuyen
6
3.0
4.1
64.9
thinh thoang
90
44.8
60.8
93.2
hiem khi
42
20.9
28.4
Vali d
100.0
10
5.0
6.8
khong bao gio
Total
148
73.6
100.0
System
53
26.4
Mis sing Total
201
100.0
184
M?c do doc tu truyen cua anh/chi (cua tac gia nuoc ngoai)
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
8.3
12
6.0
8.3
thuong xuyen
63.9
80
39.8
55.6
thinh thoang
88.2
35
17.4
24.3
hiem khi
Vali d
100.0
17
8.5
11.8
khong bao gio
144
71.6
Total
100.0
57
28.4
System
201
100.0
Mis sing Total
Anh/ chị thích đọc loại tự truyện nào?
Anh/chi thich doc loai tu truyen/nha van
Anh/chi thich doc loai tu truyen/cua dien vien, nguoi mau, cau thu bong da
Anh/chi thich doc loai tu truyen/cua doanh nha, chinh tri gia
Anh/chi thich doc loai tu truyen/nhung nguoi vuot len hoan canh
Valid
27
60
71
52
N
Missing 25
174 1.0000
141 1.0000
130 1.0000
149 1.0000
50
1.0000
1.0000
1.0000
1.0000
Percenti les
75
1.0000
1.0000
1.0000
1.0000
Mục đích đọc tự truyện của Anh / chị và Giới tính
Giới tính
Tổng
Muc đích đọc tự truyện
Nam
Nữ
12
21
33
1. Hiểu thêm về đời tư của người nổi tiếng
6
49
56
2. Hiểu về những sự thật mà mình chưa biết
11
46
57
8
56
64
3. Học hỏi thêm những kinh nghiệm sống bổ ích 4. Mang lại những cảm xúc sâu sắc về con người và cuộc sống
1
34
35
5. Để giải trí, thư giãn
7
16
24
6. Phục vụ nhu cầu công việc
185
Anh chị thich đọc loại tự truyện nào và Giới tính
Giới tính
Nam
Nữ
Tổng
Loại tự truyện 1. Tự truyện của diễn viên, người mẫu, cầu thủ 2. Tự truyện của chính trị gia, doanh nhân 3. Tự truyện của nhà văn 4. Tự truyện của người vượt lên hoàn cảnh
5 14 9 6
22 44 62 45
27 58 71 51
Giới thiệu một tự truyện mà Anh/ Chị biết
Tự truyện của tác giả nước ngoài
Tự truyện của tác giả Trong nước
55
54
Valid
N
146
147
Missing
gioi thieu
Frequency
Percent
Valid Percent
Cumulative Percent
97
48.3
48.3
48.3
ai da an het nhung c
.5
.5
48.8
1
ba nguoi khac
.5
.5
49.3
1
Ben thang cuoc
.5
.5
49.8
1
bong
.5
.5
50.2
1
bong, co dai
.5
.5
50.7
1
burning alive
1.0
1.0
51.7
2
cat bui chan ai
2.5
2.5
54.2
5
chien binh cau vong
.5
.5
54.7
1
co mot pho vua di qua pho
.5
.5
55.2
1
V al id
cuoc doi Henry ford
.5
.5
55.7
1
dung bao gio di an m
.5
.5
56.2
1
1.0
1.0
57.2
2
dung bao gio tu bo khat vong
dung vung tuoi 24
.5
.5
57.7
1
duong ra bien lon
1.0
1.0
58.7
2
eat,play,love
.5
.5
59.2
1
em se den cung con m
.5
.5
59.7
1
186
hat giong tam hon
.5
.5
1
60.2
hay cham soc me
.5
.5
1
60.7
hoi ky ly quang dieu
.5
.5
1
61.2
Hoi ky Obama
.5
.5
1
61.7
hoi ky song doi
1.0
1.0
2
62.7
jack Ma, tt steve job
.5
.5
1
63.2
k gia dinh
1.0
1.0
2
64.2
k gioi han
1.5
1.5
3
65.7
khong lac loai
.5
.5
1
66.2
khong phai huyen thoai
.5
.5
1
66.7
ky uc vun
.5
.5
1
67.2
luoc su thoi gian
.5
.5
1
67.7
Ma van : triet ly sô
.5
.5
1
68.2
Madam Nhu
1.0
1.0
2
69.2
mai mai tuoi 20
2.5
2.5
5
71.6
nguyen oi
.5
.5
1
72.1
nhat ky son moi - ga
.5
.5
1
72.6
nhung mau chuyen ve
.5
.5
1
73.1
nhung ngay tho au
2.0
2.0
4
75.1
nk dang thuy tram
7.0
7.0
14
82.1
.5
.5
1
82.6
nk dang thuy tram, duong den tay tang
.5
.5
1
83.1
nk dang thuy tram, phia sau buc tuong
nk dang thuy tram.
.5
.5
1
83.6
Oscar va ao hong
.5
.5
1
84.1
phia sau buc tuong
.5
.5
1
84.6
Song va khat vong
.5
.5
1
85.1
tat ca chi la thu thach
.5
.5
1
85.6
that lac coi nguoi
.5
.5
1
86.1
the gioi qua la rong lon
1.0
1.0
2
87.1
The story of my expr
.5
.5
1
87.6
toi di hoc
1.5
1.5
3
89.1
Toi la con gai cua m
.5
.5
1
89.6
toi la Zlatan
.5
.5
1
90.0
tottochan tottochan, cho toi x
1.0 .5
1.0 .5
2 1
91.0 91.5
187
1
.5
.5
92.0
tottochan, nk dang thuy tram
Tren duong
1
.5
.5
92.5
tt Alex Ferguson
1
.5
.5
93.0
tt Benjamin
1
.5
.5
93.5
tt Benjamin, tt ng hien le
1
.5
.5
94.0
tt cua mot pn An Do
1
.5
.5
94.5
tt Dang tieu binh
1
.5
.5
95.0
tt Mandela
1
.5
.5
95.5
tt Miley Cyrus
1
.5
.5
96.0
tt steve job
2
1.0
1.0
97.0
tt ve ho chi minh
1
.5
.5
97.5
tu duy va chia se
1
.5
.5
98.0
tu su mot nguoi ixlam
1
.5
.5
98.5
yeu va song
3
1.5
100.0
201
100.0
1.5 100.0
Total
188