
LUẬN VĂN:
DÂN TỘC MƯỜNG Ở PHÚ THỌ

1. Đặc điểm kinh tế và đời sống vật chất
- Về nguồn gốc, lịch sử:
Phú Thọ là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, được thành lập ngày 5/5/1903;
năm 1968 sát nhập với Vĩnh Phúc gọi là tỉnh Vĩnh Phú; đến ngày 1/1/1997 tỉnh Phú Thọ
được tái lập, dân số là 1.216.500 người, có 24 dân tộc anh em, trong đó có 171.620
người là dân tộc thiểu số, người Mường chiếm tỷ lệ đông nhất là 157.545 người (chiếm
91%).
Tộc người Mường (thổ tù họ Hà và phụ đạo họ Đinh) làm ăn sinh sống ở hai
châu Thanh Sơn và Yên Lập của Phú Thọ đã rất lâu và việc di cư từ tỉnh Hoà Bình đến
đã diễn ra từ nhiều thế kỷ trước. Sự biến đổi về môi sinh, quá trình lịch sử và dân số...
đã tác động mạnh đến nếp sống và phong tục tập quán của người Mường ở Phú Thọ,
khiến cho sắc thái văn hoá của họ vừa có những nét chung của văn hoá Mường, và
những nét riêng, độc đáo.
- Về vị trí định canh, định cư:
Người dân tộc Mường ở Phú Thọ cư trú tập trung ở vùng thung lũng chân núi,
nơi có độ cao không lớn, đặc điểm nổi bật trong phân bố dân cư của người Mường trong
tỉnh Phú Thọ là tính tập trung, cư dân Mường chiếm tới trên 90% dân số cả xã. Sự xen
kẽ giữa người Mường và người Việt trong các địa phương này cũng diễn ra theo nhiều
cấp độ khác nhau, những xã gần huyện lỵ thì người Mường và người Việt sống xen kẽ
nhưng thành từng làng hoặc chòm xóm riêng biệt, ở những nơi vùng sâu, vùng xa thì
mức độ xen kẽ là ngay trong cùng một làng nhưng tỷ lệ người Việt rất ít, có những nơi
như xã Trung Sơn, huyện Yên Lập; xã Lai Đồng, xã Tân Sơn, huyện Thanh Sơn tỷ lệ
người Việt cư trú là dưới 100 người trong một xã.
- Tính đặc thù trong kinh tế:
Người Mường sống định canh, định cư nên trong sản xuất nông nghiệp, chủ yếu
canh tác lúa nước, sản xuất nhỏ theo kiểu tự túc, tự cấp; ngoài việc cấy lúa nước họ còn
phát nương trồng lúa. Sau năm 1999, với dự án 135 hỗ trợ phát triển kinh tế cho các xã
miền núi đặc biệt khó khăn, đã tạo ra những bức đột phá trong chuyển dịch cơ cấu sản

xuất nông nghiệp của đồng bào Mường, nhờ đó mà mức sống và thu nhập của người
dân được cải thiện.
Cơ chế thị trường đã tác động rất lớn đến tập quán canh tác và chăn nuôi của cư
dân Mường, việc trao đổi, mua bán hàng hoá trong vùng Mường cũng diễn ra phong
phú và nhộn nhịp không khác gì các chợ miền xuôi, đây là điều kiện thuận lợi để người
dân thoát dần ra khỏi tập quán canh tác cũ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
đồng bào.
Nghề thủ công truyền thống của người Mường chủ yếu là nghề mộc, đan lát, dệt
vải. Trước đây, gia đình người Mường nào cũng có khung cửi, họ tự trồng bông, trồng
dâu, nuôi tằm và dệt vải, người phụ nữ làm ra những vuông vải cho mình, cho những
người trong gia đình và làm của hồi môn đem đến nhà chồng. Sự khéo léo thể hiện
trong những vuông vải trở thành một trong những tiêu chuẩn về giá trị của người phụ nữ
Mường. Hiện nay, huyện Thanh Sơn phục hồi được 3 làng nghề dệt vải ở Tân Phú, Lai
Đồng, Xuân Đài nhưng cũng gặp rất nhiều khó khăn (người biết dệt vải theo cách cổ
truyền không nhiều, vốn và đầu ra cho sản phẩm rất khó khăn). Mặc dù rất khéo léo
nhưng nghề mộc của người Mường chỉ dừng lại ở phạm vi tương trợ, giúp nhau dựng
nhà, làm khung cửi, làm đuống, cối giã gạo hoặc phục vụ cho sản xuất vui chơi chứ
không chuyên mộc, không làm hàng hoá; việc đóng các đồ gia dụng, làm gạch, xây
nhà... chỉ phổ biến trong thời gian gần đây.
Chính những nét đặc thù trong hoàn cảnh sống và kinh tế đã góp phần làm nên
những giá trị văn hoá vật thể, phi vật thể độc đáo của người Mường ở Phú Thọ. Tuy
nhiên, nhìn từ góc độ bảo tồn, phát huy những tinh hoa văn hoá cổ truyền thì tốc độ phát
triển nhanh và mạnh của kinh tế cũng làm cho các giá trị văn hoá Mường truyền thống
bị lãng quên, đặc biệt là các giá trị văn hoá tinh thần; những câu hát ví, những điệu múa
dân gian, những lễ hội cổ truyền của người Mường đang mai một dần, trong số ít các
thể loại văn hoá còn tồn tại và được phục hồi hiện nay cũng bị Kinh hoá khá cao.

2. Đặc điểm xã hội và lịch sử
- Về thiết chế xã hội và cộng đồng:
Thiết chế xã hội của người Mường ở Phú Thọ trước đây được chia thành mường
và xóm, đây là loại hình tổ chức có từ rất lâu đời, không chỉ có ở người Mường mà
người Thái cũng có cách phân chia như vậy.
Mường là tổ chức xã hội trên xóm và là tổ chức xã hội lớn nhất của người
Mường, dùng để chỉ một địa vực cư trú, một thái ấp, một vùng dân cư, hay để chỉ địa
vực cai quản của một lang cun, lang đạo hay thổ tù nào đó. Cũng giống như các vùng
Mường khác, tổ chức Mường của người Mường tỉnh Phú Thọ không quy định phạm vi
lớn, bé và có bao nhiêu xóm hợp thành. Nhưng điểm khác biệt ở tổ chức mường của
người Mường ở Phú Thọ đó là không có mường lớn bao chùm lên các mường nhỏ hơn
như ở Thanh Hoá hay Hoà Bình mà chỉ có các mường do nhà lang quản lý trực tiếp đến
các xóm.
Xóm là tổ chức xã hội dưới mường, là tập hợp dân cư thành cộng đồng theo
một địa vực lãnh thổ nhất định. Xóm được hình thành ở các bãi, gò cao hoặc chạy
dọc theo thung lũng, sông suối, nơi diễn ra các hoạt động lao động sản xuất hàng
ngày. Mỗi xóm chỉ có khoảng vài chục nóc nhà và đều có một con đường đất chạy
thẳng qua giữa làng, nhà của người Mường đều quay lưng vào núi, quay mặt trước
nhà ra suối hoặc cánh đồng, trong xóm thường có nhiều dòng họ sinh sống, nhưng
bao giờ cũng có một dòng họ là hạt nhân, dòng họ ấy có thể chiếm tới một nửa hoặc
quá nửa số nóc nhà trong xóm.
Về tổ chức làng xóm, người Mường sống dưới chế độ dường như là tiền phong
kiến, mỗi làng có một Thổ Tù, mỗi xóm có một Thổ Lang. Những người này có thể coi
như những chúa đất địa phương. Họ được gọi là quan lang. Quyền hành của họ cha
truyền con nối.
Một số người trong tầng lớp thứ dân chuyên lo việc cúng tế và các nghi lễ tôn
giáo là các ông mo và thầy cúng cũng được nhân dân tin cậy và nể trọng. Ngoài ra,
trong xã hội Mường cổ truyền có các mối quan hệ láng giềng, dòng họ; uy tín, và vị trí

của các dòng họ trong mỗi mường phụ thuộc vào nề nếp, gia phong của dòng họ đó,
quan hệ hôn nhân cũng phụ thuộc vào yếu tố này rất nhiều.
Qua tìm hiểu và so sánh thì thấy rằng thiết chế xã hội của người Mường ở Phú
Thọ và người Mường ở những nơi khác có những điểm tương đồng, cũng là thiết chế xã
hội theo kiểu xóm, mường, nhưng mường của người Mường ở Phú Thọ không có các
mường nhỏ dưới quyền mường lớn. Quan hệ giữa tầng lớp quý tộc thống trị với tầng lớp
bị trị cũng rất rõ ràng, bộ máy cai trị của Thổ tù trong các Mường ở Phú Thọ được tổ
chức đơn giản hơn, họ không có nhiều người giúp việc (các ậu) như ở Hoà Bình và
Thanh Hoá, không trực tiếp quản lý các làng, việc phân định dòng họ nhà Lang không
khắt khe như những mường ở nơi khác.
Dưới thời phong kiến và thực dân, năm 1883 triều đình nhà Nguyễn đầu hàng và
trở thành tay sai cho thực dân. Thực dân Pháp đã tiến hành một số cải cách hành chính,
sắp đặt lại bộ máy cai trị từ Trung ương đến địa phương. Một hệ thống hành chính mới
được hình thành và bao trùm lên cơ cấu tổ chức xã hội cũ, nhưng các tổ chức việc vẫn
do các nhà lang đảm nhiệm nên hầu như các hoạt động truyền thống, đặc biệt là các lễ
hội vẫn được duy trì, các Thổ lang, Thổ tù vẫn được dân làng lo phục dịch, biếu xén
như xưa.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam và chính quyền
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà quyết định xoá bỏ cơ cấu chính quyền cũ, thay vào đó là
một bộ máy hành chính mới và hệ thống các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội. Hệ
thống tổ chức hành chính mới được áp dụng đồng bộ trong cả nước đã làm cho tổ chức
xã hội cổ truyền của người Mường thay đổi cơ bản. Dù vậy, cơ cấu tổ chức hành chính
mới vẫn được xây dựng trên cơ sở là các làng và xóm trước đây, nên không có sự xáo
trộn về địa bàn quản lý hành chính, những mối quan hệ làng xóm, những tập tục, lễ nghi
truyền thống vẫn được duy trì, kế tục và phát huy với nhiều mức độ khác nhau.
- Về đặc điểm gia đình và hôn nhân:
Gia đình là một tế bào xã hội, là tổ chức phức tạp bao gồm nhiều yếu tố hợp
thành như: sinh học, tâm lý, kinh tế, văn hoá... Do vậy, tổ chức gia đình không giống
như bất cứ một tổ chức xã hội nào khác, nó được hình thành bởi quan hệ tình yêu và

