
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG……………..
LUẬN VĂN
Đánh giá hiệu quả sản xuất
kinh doanh của công ty bảo hiểm
Dầu khí khu vực Duyên Hải

Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty bảo hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải
Nguyễn Thị Thu Huyền – QT1103N 1
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là nước đông dân thứ 13 trên thế giới và có cơ cấu dân số trẻ (số
người dưới độ tuổi 35 chiếm 65 - 68%). Tốc độ tăng trưởng GDP trung bình của
Việt Nam trong những năm gần đây là 7 - 7,5%. Những đặc điểm này khiến thị
trưởng bảo hiểm Việt Nam, cả nhân thọ và phi nhân thọ, đều có tiềm năng lớn để
phát triển. Theo BMI ước tính, tỷ lệ đóng góp của phí bảo hiểm gốc nhân thọ và
phi nhân thọ trong GDP của Việt Nam năm 2010 tương ứng là 0,8 và 0,88. Các tỷ
lệ này trong năm 2011 là 0,83 và 0,93. Theo đó, thị trường bảo hiểm Việt Nam dự
kiến tăng trưởng trên 20% trong năm 2010 và 2011. Trước sự suy thoái của nền
kinh tế toàn cầu, kinh tế xã hội của Việt Nam cũng bị ảnh hưởng nặng nề. Sản
xuất kinh doanh bị giảm sút nghiêm trọng trong khi nền kinh tế Việt Nam trước
đây có đến 70% tổng giá trị sản phẩm xuất khẩu hướng tới thị trường quốc tế nay
đã bị thu hẹp. Nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh thu hẹp quy mô sản xuất, người
lao động không có việc làm thường xuyên nên thu nhập bị giảm sút. Tình hình
này ảnh hưởng lớn tới khả năng tài chính của các cơ sở, cá nhân người tham gia
bảo hiểm. Ngành đóng tàu, vận tải biển, hàng không, xây dựng lắp đặt… không
có khả năng đóng phí bảo hiểm hoặc nợ đóng phí bảo hiểm với số lượng lớn.
Khai thác bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ cũng vì thế gặp khó khăn trong tìm
kiếm khách hàng tiềm năng cũng như muốn đẩy mạnh hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
Muốn tồn tại và đứng vững trên thị trường, công ty bảo hiểm cần phải có
một nguồn vốn đủ mạnh bởi vì vốn là tiền đề quan trọng nhất trong mọi hoạt
động kinh doanh của một công ty thương mại, dịch vụ. Để có nguồn vốn đủ
mạnh, các công ty bảo hiểm phải thực hiện nhiều hoạt động nhằm huy động
được nguồn vốn đủ lớn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của mình.
Là thành viên của Tổng công ty cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam,
công ty bảo hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải luôn phấn đấu hoàn thành hoạt
động kinh doanh theo mục tiêu, chiến lược chung và nhiệm vụ chung mà Tổng

Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty bảo hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải
Nguyễn Thị Thu Huyền – QT1103N 2
công ty đã giao phó. Mặc dù công ty mới được thành lập hơn 9 năm, tài sản và
nguồn vốn còn ít, vốn huy động từ các ngân hàng là chủ yếu, khả năng đầu tư
chưa thực sự phát triển nhưng chừng đó thời gian cũng đã minh chứng một điều
rằng: hoạt động kinh doanh của công ty không phải là yếu kém.
Sau một thời gian ngắn thực tập tại Công ty Bảo hiểm Dầu khí khu
vực Duyên hải, em đã nhận thấy được rằng tình hình hoạt động kinh doanh
của công ty còn có nhiều vấn đề cần quan tâm. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài
làm khóa luận tốt nghiệp:“ Đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty bảo
hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải”. Hy vọng đề tài em nghiên cứu sẽ một
phần nào giải quyết được các vấn đề còn tồn tại trong hoạt động kinh doanh
của công ty.
Đề tài nghiên cứu những lý luận chung nhầt về hoạt động kinh doanh
của một công ty bảo hiểm, đặc điểm và vai trò của các hoạt động kinh doanh
bảo hiểm, tìm hiểu và phân tích các nguyên nhân, phân tích và đánh giá các
chỉ tiêu tài chính ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Từ đó đưa
ra những giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động kinh
doanh tại công ty bảo hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải.
Đối tượng nghiên cứu của để tài: Hiệu quả kinh doanh cảu Công ty bảo
hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải.
Phạm vi nhiên cứu của đề tài: Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động
kinh doanh tại công ty bảo hiểm trong những năm gần đây.

Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty bảo hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải
Nguyễn Thị Thu Huyền – QT1103N 3
PHẦN 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM VÀ HIỆU QUẢ KINH
DOANH
1.1 Khái quát về bảo hiểm
1.1.1 Khái niệm bảo hiểm
“Bảo hiểm là hoạt động thể hiện người tham gia bảo hiểm cam kết bồi
thường (theo quy luật thống kê) cho người tham gia bảo hiểm trong từng trường
hợp xảy ra rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm với điều kiện người tham gia nộp một
khoản phí cho chính anh ta hoặc cho người thứ ba”.
1.1.2 Sự cần thiết khách quan của bảo hiểm
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như hoạt động sản xuất kinh doanh hàng
ngày dù đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ
gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro đó do nhiều nguyên nhân:
- Các rủi ro do thiên nhiên gây ra như bão, lụt, hạn hán, động đất, sét, lốc,
sương muối, dịch bệnh…làm ảnh hưởng đến sản xuất, đến đời sống và đến sức
khỏe của con người.
- Các rủi ro do biến động của khoa học và công nghệ. Khoa học kỹ thuật
và công nghệ phát triển làm tăng năng suất lao động, thúc đẩy nền kinh tế và tạo
điều kiện thuận lợi cho cuộc sống của con người; nhưng mặt khác cũng gây ra
nhiều tai nạn bất ngờ như tại nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, tai nạn ô tô…và
làm tăng nguy cơ mất việc của người lao động.
- Các rủi ro do môi trường xã hội. Những rủi ro này chịu tác động của
nhiều yếu tố và ảnh hưởng trực tiếp đến mọi thành viên trong xã hội như ốm
đau, dịch bệnh, mất việc làm, trộm cắp, hỏa hoạn…
Bất kể do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường gây cho con người
những khó khăn trong cuộc sống như mất hoặc giảm thu nhập, phá hoại nhiều
tài sản làm ngưng trệ sản xuất và kinh doanh của các tổ chức, doanh nghiệp, cá
nhân…và làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.

Đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh của công ty bảo hiểm Dầu khí khu vực Duyên Hải
Nguyễn Thị Thu Huyền – QT1103N 4
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có nhiều biện pháp khác nhay
nhằm kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả của rủi ro gây ra. Hiện nay, theo
quan điểm của các nhà quản lý rủi ro có hai nhóm biện pháp đối phó với rủi ro
và hậu quả do rủi ro gây ra – đó là nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro và nhóm
các biện pháp tài trợ rủi ro.
- Nhóm các biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi
ro, ngăn ngừa tổn thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử
dụng để ngăn chặn hoặc giảm thiểu khả năng xảy ra rủi ro.
+ Tránh né rủi ro là biện pháp được sử dụng thường xuyên trong cuộc
sống. Mỗi người, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh đều lựa chọn những biện pháp
thích hợp để né tránh rủi ro có thể xảy ra, tức là loại trừ cơ hội dẫn đến tổn thất.
Chẳng hạn, để tránh các tai nạn giao thông người ta hạn chế đi lại,…để tránh các
tai nạn giao thông người ta chọn những nghề không nguy hiểm…Tránh né rủi ro
chỉ với những rủi ro có thể né tránh được. Nhưng cuộc sống có rất nhiều rủi ro
bất ngờ không thể né tránh được.
+ Ngăn ngừa tổn thất – các biện pháp ngăn ngừa tổn thất đưa ra các hành
động nhằm làm giảm tổn thất hoặc giảm mức thiệt hại do tổn thất gây ra. Ví dụ,
để giảm thiểu các tai nạn lao động người ta tổ chức các khóa học nâng cao chất
lượng các hoạt động đảm bảo an toàn lao động; để phòng chống hỏa hoạn, người
ta thực hiện tốt phòng cháy chữa cháy…
+ Giảm thiểu tổn thất – người ta có thể giảm thiểu tổn thất thông qua các
biện pháp làm giảm giá trị thiệt hại khi tổn thất đã xảy ra. Ví dụ, như khi có hỏa
hoạn, để giảm thiểu tổn thất người ta cố gắng cứu các tài sản còn dùng được hay
trong một tai nạn giao thông, để làm giảm thiểu các thiệt hại về người và của
người ta đưa ngay những người bị thương đến nơi cấp cứu và điều trị…
Mặc dù biện pháp kiểm soát rủi ro rất có hiệu quả trong việc ngăn chặn
hoặc giảm thiểu rủi ro nhưng khi rủi ro đã xảy ra, người ta không thể lường hết
được hậu quả.