
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TRONG LĨNH VỰC CÔNG NGHIỆP
-THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Người thực hiện : Nguyễn Thị Loan
Lớp : A1 - K37A
Giáo viên hướng dẫn : TS. Vũ Thị Kim Oanh
HÀ NỘI – 2002

LỜI NÓI ĐẦU
Đầu tư trực tiếp nước ngoài ( FDI ) đã và đang diễn ra trên quy mô toàn
cầu với khối lượng và nhịp độ chu chuyển ngày càng lớn. Đối với các nước
đang phát triển, bên cạnh việc phát huy nguồn nội lực trong nước, tận dụng vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài là một con đường để rút ngắn thời gian tích luỹ
vốn ban đầu, tạo nên tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế. Chính vì lẽ đó
mà FDI được coi như " chiếc chìa khoá vàng " để mở ra cánh cửa thịnh vượng
cho mỗi quốc gia.
Việt Nam cũng không thể đứng ngoài trước luồng xoáy của sự vận động
kinh tế thế giới đang diễn ra từng ngày, từng giờ này. Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam ban hành năm 1987 đánh dấu bước khởi đầu quá trình mở cửa nền
kinh tế, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại, kết hợp chặt
chẽ giữa việc phát huy có hiệu quả nguồn nội lực trong nước với việc thu hút
tối đa các nguồn lực bên ngoài cho chiến lược phát triển kinh tế.
Thực tế cho thấy trong những năm gần đây Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tại Việt Nam tập trung chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ (lĩnh vực
công nghiệp thu hút tới gần 50% tổng vốn đầu tư nước ngoài ) là rất phù hợp
với chủ trương của nước ta. Trong thế kỷ 21, nước ta chủ trương phát triển kinh
tế theo định hướng xuất khẩu trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp chế biến xuất
khẩu có khả năng cạnh tranh, có triển vọng thị trường và phát triển một số
ngành công nghiệp mũi nhọn làm nền tảng cho nền kinh tế cất cánh. Do vậy,
chúng ta phải ý thức được vai trò và vị trí đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước của ngành công nghiệp .
Xuất phát từ những suy nghĩ trên, tôi đã chọn đề tài khoá luận tốt nghiệp:
" Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp - Thực trạng và
giải pháp ". Mục đích của đề tài là trên cơ sở vận dụng những lý luận cơ bản
về đầu tư trực tiếp nước ngoài để phân tích, đánh giá đúng thực trạng tình hình

đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp ở Việt Nam và từ đó
đưa ra một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn này.
Đối tượng nghiên cứu của khoá luận tốt nghiệp là đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu là tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực
công nghiệp Việt Nam giai đoạn 1988-2001
Khoá luận đã sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như :
phương pháp phân tích định tính và định lượng, phương pháp thống kê, phương
pháp phân tích kinh tế, phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
…để xem xét và đánh giá, giúp các vấn đề nghiên cứu thêm sâu sắc.
Kết cấu của khóa luận ngoài Lời nói đầu và Kết luận gồm có 3 chương:
Chương I: Khái quát về công nghiệp Việt Nam và kinh nghiệm một số
nước về thu hút FDI trong lĩnh vực công nghiệp .
Chương II : Thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong lĩnh vực công
nghiệp
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có
hiệu quả nguồn vốn FDI trong lĩnh vực công nghiệp.
Hà Nội ngày 16 tháng 12 năm 2002
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Thị Loan

CHƯƠNG I
KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHIỆP VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM TỪ
MỘT SỐ NƯỚC VỀ THU HÚT FDI TRONG LĨNH VỰC
CÔNG NGHIỆP
1. Khái quát về công nghiệp Việt Nam
Với nội dung trình bày khái quát về quá trình phát triển của công nghiệp
Việt Nam trong thời gian qua, phần này nhằm đưa ra một cách nhìn nhận có
tính xuyên suốt và tổng thể về quá trình xây dựng và phát triển công nghiệp
Việt Nam, làm cơ sở cho những phân tích và đánh giá về hoạt động đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực công nghiệp ở các phần tiếp theo.
1.1. Con đường phát triển của công nghiệp Việt Nam
Quá trình phát triển công nghiệp Việt Nam kể từ 1945 đến nay đã diễn
ra hơn một nửa thế kỷ, trải qua nhiều thời kì với những đặc điểm và điều kiện
rất khác nhau. Sau ngày đất nước dành được độc lập, công nghiệp Việt Nam
được phát triển từ một điểm xuất phát quá thấp, phát triển trên di sản của một
nền công nghiệp bị chi phối bởi các chính sách kinh tế của thực dân Pháp, lạc
hậu xa so với các nước phát triển. Nền kinh tế, trong đó có công nghiệp, phát
triển què quặt, thấp kém và lệ thuộc vào công nghiệp của nước Pháp đế quốc.
Thiết bị, máy móc, công nghệ , tất cả đều nhập từ Pháp. Thực dân Pháp dựa
vào nguồn lao động dồi dào và rẻ mạt, duy trì nền sản xuất thủ công lạc hậu,
quy mô nhỏ để khai thác tài nguyên thành nguyên liệu đưa về chế biến sản
phẩm ở chính quốc. Do vậy, thực trạng công nghiệp Việt Nam lúc đó là : tỷ
trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế quá nhỏ bé, công nghiệp hầu như
không gắn với nông nghiệp và phục vụ phát triển nông nghiệp, quy mô sản xuất
nhỏ, trình độ kỹ thuật thủ công lạc hậu. Mặc dù trong quá trình phát triển sau

này, đặc điểm này có sự thay đổi song cho đến nay vẫn còn thể hiện khá đậm
nét.
Thời kì 1945-1954, nhân dân ta tiến hành cuộc kháng chiến đánh đuổi
thực dân Pháp bảo vệ độc lập dân tộc. Về kinh tế, Đảng chú trọng ưu tiên phát
triển nông nghiệp, thứ đến là thủ công nghiệp và thương nghiệp, công nghiệp
chỉ được xếp vào hàng thứ tư trong cơ cấu kinh tế trong đó quan trọng nhất là
công nghiệp chế tạo vũ khí. Thời kì khôi phục và cải tạo nền kinh tế 1955-
1960, công nghiệp được hướng trọng tâm vào khôi phục lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất với 2 loại hình doanh nghiệp công nghiệp quốc doanh và hợp
tác xã tiểu thủ công nghiệp . Thời kì 1960-1986, cả nước tiếp tục xây dựng cơ
sở vật chất cho nền kinh tế XHCN, đường lối phát triển kinh tế xuyên suốt của
Đảng ( được thể hiện trong Văn kiện Đại hội Đảng III, các kì Đại hội sau tuy có
một số điều chỉnh nhưng không lớn ) là : "…chủ yếu ưu tiên phát triển công
nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp
nhẹ, trong đó điện phải đi trước một bước, cơ khí là trung tâm, than thép là
lương thực của nền kinh tế quốc dân…"
Công cuộc đổi mới cơ chế nền kinh tế của Việt Nam được mở đầu bằng
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 1986 ). Kinh tế Việt Nam kể từ khi bắt đầu
công cuộc đổi mới đến giữa những năm 90 đã bước vào giai đoạn phát triển ổn
định và tăng trưởng cao, cơ cấu nền kinh tế quốc dân được chuyển đổi theo
hướng tích cực. Những chủ trương, chính sách và biện pháp đổi mới của Đảng
từ sau Đại hội VI đã tạo ra những bước chuyển biến tích cực, đặc biệt là trong
lĩnh vực công nghiệp. Công nghiệp nói chung phát triển theo hướng gia tăng
tương đối tỷ trọng các ngành sản xuất hàng tiêu dùng, trong khi vẫn duy trì
được một số ngành công nghiệp nặng có tác dụng tích cực đối với nền kinh tế.
Sản xuất công nghiệp đã đạt được tốc độ tăng trưởng khá cao và liên tục, tạo
tiền đề vững chắc hơn trong các năm sau. Đáng chú ý là trong những năm tiến
hành đổi mới, nhờ có chính sách đẩy mạnh các hoạt động kinh tế đối ngoại, đặc
biệt là việc ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tháng 12 năm 1987

