LUẬN VĂN: Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay
lượt xem 13
download
Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất. Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: LUẬN VĂN: Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay
- LUẬN VĂN: Đẩy mạnh họat động thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia trong giai đọan hiện nay
- Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất. Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan trọng là nằm trong trí tuệ. Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin. Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản xuất thỡ mới nắm được quyền hành. Công cụ sản xuất mà ngày nay người công nhân cần nắm để làm chủ lấy mỡnh khụng phải là những cụng cụ “bỏ trong thựng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời công nghiệp ống khói. Nó là thứ vật dụng nằm trong đầu óc của công nhân”1. Đó là thông tin, tri thức, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực. Thông tin, tri thức là thứ của cải không bao giờ hết. Nếu như đất đai, máy móc có thể chỉ cấp được cho một số cá nhân thôi, thỡ thụng tin, tri thức cựng lỳc cú thể cú nhiều người sử dụng. Và nếu vận dụng thích đáng thỡ cú thể lại sinh ra nhiều tri thức mới. Tri thức lấy khụng bao giờ hết và dựng khụng bao giờ cạn. Trong Hội thảo quốc tế về chủ đề “Sử dụng tri thức phục vụ phát triển”, Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đó phỏt biểu rằng: “Hiện nay 2/3 dõn số trờn thế giới cũn sống trong nghốo đói, lạc hậu bởi thiếu vốn, thiếu các nguồn lực để phát triển, đặc biệt là tri thức khoa học – công nghệ”. Khoảng cách to lớn về tri thức, trong đó có tri thức khoa học – công nghệ, sự bất bỡnh đẳng về tiếp cận thông tin đặt các nước đang và chậm phát triển trước những nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tự nhận thức và tự đổi mới chính mỡnh để 1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.117.
- xây dựng được năng lực tiếp thu kho tàng tri thức nhân loại, để vượt qua nghèo đói, lạc hậu và tiến tới phát triển, tham gia vào sáng tạo tri thức mới. Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bóo của khoa học, cụng nghệ mà mũi nhọn là cụng nghệ thụng tin đó và đang tác động đến mọi nền kinh tế, mọi chế độ xó hội trờn phạm vi toàn cầu. Một xó hội thụng tin, một nền kinh tế tri thức bắt đầu hỡnh thành. Trong nền kinh tế đó, thông tin là tất cả, thành công của công việc là nhờ vào “tư liệu thông tin, chứ chẳng phải là nhờ vào số tiền anh có... Tri thức có quyền lực lớn nhất trong giao dịch”1. Việc tỡm kiếm, khai thỏc và sử dụng hiệu quả thụng tin cú ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển và thành công của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng và quốc gia. Thực tiễn xó hội đang chứng tỏ rằng, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào có năng lực tổ chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri thức hiện có của nhân loại. Ở Việt Nam, nhu cầu phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đũi hỏi phải huy động được mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực thông tin là vô cùng quan trọng. Cải cách nền hành chính quốc gia là một đũi hỏi thường xuyên, luôn được coi là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào bởi vỡ nhiệm vụ này vừa đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế - xó hội của đất nước, vừa tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xó hội. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đó đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong nhận thức và tư duy. Với sự đổi mới sáng suốt đó, Việt Nam đó vượt qua thử thách gian nan và đi lên. Con đường đi đến đổi mới không hề đơn giản. Đó là kết quả của cả quá trỡnh nghiờn cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy, dựa trên những thông tin khoa học, thông tin lý luận về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, về những nhận thức mới đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường, bài học kinh nghiệm của các nước anh em, các nước phát triển, đang phát triển,... Trong suốt chặng đường đổi mới đó, thông tin, tri thức luôn là nguồn lực vô giá của Việt Nam. 1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.61.
- “Khi cơ chế thuận thỡ một sự thụng minh biến thành mười sự thông minh. Cơ chế chưa thuận thỡ một sự hư hỏng kéo theo hàng nghỡn sự hư hỏng. Quy luật phi tuyến ấy sẽ rất nghiệt ngó nhấn chỡm cỏc cộng đồng yếu kém, nhưng cũng mở ra cơ hội và khả năng nhảy vọt thần kỳ cho những cộng đồng thông minh và biết giá trị của trí tuệ thời nay”1. Ba mươi năm trước, các nhà khoa học Tây Âu đó từng phỏt hiện ra rằng họ thua kộm Mỹ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật khụng phải do thiếu người tài, mà chủ yếu do không có cơ chế quản lý thụng minh để có thể huy động và phát huy hết mọi tài năng trong xó hội. Ở Đông Á, với cơ chế quản lý thụng minh, Hàn Quốc và Singapore, Hồng Kông đó đuổi kịp thế giới phát triển chỉ sau 30 năm. Đạt được thành công đó, không phải nhờ người dân 3 nước này thông minh hơn người dân các nước khác, mà là những nhà lónh đạo, quản lý của đất nước, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của đất nước đó luụn quan tõm đến cải cách hành chính, tỡm ra được cơ chế quản lý thớch hợp để phát huy tiềm năng của dân tộc. Những tấm gương đó luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong suốt chặng đường đổi mới. Theo Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010, đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của cải cỏch bao gồm: Cải cỏch thể chế; Cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh; Đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách tài chính công. Toàn cầu hoá buộc các cộng đồng phải đoàn kết lại. Sự thông minh của từng người chỉ phát huy được thông qua sự thông minh tập thể, sự thông minh hệ thống của cả cộng đồng. Sự thông minh hệ thống của cả cộng đồng là nguồn trí tuệ cộng đồng, là nguồn cộng năng tạo ra sức mạnh to lớn đưa cộng đồng vươn lên. Từng người dân thông minh, từng nhà khoa học giỏi,... sẽ chưa đủ. Điều hết sức quan trọng, mấu chốt của sự thành công là một cơ chế quản lý cú thể tập hợp và phỏt huy được khả năng của mỗi người, hỗ trợ họ không ngừng phát triển tri thức trong suốt cuộc 1 Hoàng Tuỵ. Trí tuệ cộng đồng: Chỡa khoá vào kinh tế tri thức. Báo Người Lao động, Số Xuân Tân Tỵ, 2001.
- đời hoạt động, có cơ chế biến xó hội thành xó hội học tập suốt đời, thường xuyên trao đổi, chuyển giao, vận dụng, sản xuất và phát triển tri thức. Tất cả những con người tài giỏi đó sẽ chỉ được phát huy mọi khả năng, tài trí trong môi trường kinh tế - xó hội lành mạnh và thoỏng đóng, tạo nờn bởi cơ chế quản lý thụng minh, biết khuyến khích mọi sáng kiến chủ động, mọi tài năng sáng tạo,biết hạn chế, loại trừ mọi yếu tố, mọi xu hướng tiêu cực. Bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thông tin khoa học cung cấp những thông tin như thế nào, con đường, cách thức thông tin ra sao để góp phần đổi mới sự lónh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà n ước, cải cách hành chính? Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong thời đại kinh tế tri thức, không dựa vào trí tuệ, học vấn thỡ khú cú thể vươn lên. Việc khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng trí tuệ của dân tộc là vấn đề quan trọng, song tổ chức, khai thác triệt để mọi tiềm năng ấy cho sự phát triển của đất nước nhờ một cơ chế quản lý thụng minh là điều vô cùng quan trọng, không thể thiếu. Đó là bài toán không hề đơn giản, trong đó, thông tin, tri thức, công nghệ thông tin đóng vai trũ hết sức quan trọng. Hiện nay, Việt Nam đang tích cực đổi mới, cải cách hành chính. Nghiên cứu vấn đề đẩy mạnh hoạt động thông tin phục vụ cải cách hành chính là một trong những vấn đề hết sức cấp thiết. 2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu Lịch sử của thông tin đó cú từ xa xưa, song mói đến những năm 40 của thế kỷ XX, thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Nhất là sau khi nhà bác học Mỹ C. Shanon vào năm 1948 tỡm ra lý thuyết thụng tin, khỏi niệm “thụng tin” và cỏc phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rói trong hầu khắp cỏc lĩnh vực của tự nhiờn và đời sống xó hội. Từ sự mở đầu gian truân nhưng đầy hứa hẹn đó, cho đến nay, hơn nửa thế kỷ, loài người đó nghiờn cứu thụng tin trờn nhiều bỡnh diện. Chỳng tụi tạm sơ bộ khái quát một số bỡnh diện chính như sau: 2.1. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện lý luận về thụng tin * Về khỏi niệm và loại hỡnh thụng tin có các nhà nghiên cứu khoa học tiêu biểu như: R. V. L. Hartley, người đầu tiên tóm tắt khái niệm thông tin vào năm 1924 và sau đó năm 1950, ông và C. E. Shanon (người Mỹ) đó hoàn thiện khỏi niệm thụng tin trờn quan
- điểm toán học. Năm 1971, nhà triết học Xụviết A. D. Ursul trỡnh bày chi tiết khỏi niệm thụng tin trờn quan điểm thực tiễn và lịch sử. N. Winner đó xem xột khỏi niệm thụng tin trờn quan điểm điều khiển học. J. M. Ziman đó mụ tả thụng tin như một hỡnh thức cơ bản của sự tồn tại vật chất bên cạnh không gian, thời gian và vận động. Từ những năm 60 của thế kỷ XX và những năm gần đây, người ta tập trung nghiên cứu thông tin trên quan điểm triết học và quan điểm xó hội (J. M. Ziman 1965; Jukov 1971; Ursul 1971 và một số người khác). Một trong những cỏch nhỡn hiện đại là xem quá trỡnh thụng tin dưới góc độ phản ánh. Trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” V. I. Lênin viết: “Mọi vật chất đều có thuộc tính họ hàng với cảm giác, là thuộc tính phản ánh”. Nh ư vậy, thuộc tính phản ánh là thuộc tính vốn có sẵn trong vật chất. Trong đó, nói đến thông tin phải nói đến hai ngôi: ngôi thứ nhất có nhiệm vụ phản ánh, ngôi thứ hai có nhiệm vụ cảm thụ phản ánh đó. Tuy nhiên, không nên hiểu đơn thuần khái niệm thông tin đồng nhất với khái niệm phản ánh. Thông tin là khái niệm tồn tại và hiện diện trong mọi vật, phản ánh quan hệ giữa hai ngôi: nguồn tin và người dùng tin. * Về sự hỡnh thành và phát triển của thông tin học. Những năm 90 của thế kỷ XX, người ta càng nói nhiều hơn về sự ra đời của xó hội thụng tin và nền kinh tế dựa trờn tri thức (GS. Nick Moore,...) với những đặc trưng cơ bản: Thông tin được coi là nguồn lực phát triển quan trọng nhất; Việc sử dụng thông tin ngày càng được mở rộng trong cộng đồng; Ra đời phát triển ngành công nghiệp mới ở ngay trong nền kinh tế: ngành công nghiệp thông tin. Tài liệu nghiên cứu về thông tin học ngày càng nhiều. Theo thống kê, toàn thế giới hàng năm công bố gần 10 ngàn tên tài liệu khác nhau về các vấn đề của thông tin học. Hơn nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó đạt được những thành tích đáng kể, lý giải được nhiều quy luật, phần nhiều là những quy luật riêng về hiện t ượng thông tin, về quá trỡnh và hệ thống thụng tin, về mụi trường của hoạt động thông tin. * Những nghiên cứu về xó hội thụng tin Bước vào thập niên 60, 70 của thế kỷ XX, các nhà khoa học Hoa Kỳ mà đại diện là F. Machlup, D. Bell và M. Porat đó đi tiên phong trong việc nghiên cứu cú hệ thống về xó hội thụng tin và nền kinh tế thụng tin. Năm 1962, trong công trỡnh cú tờn gọi “Sản xuất và
- phổ biến kiến thức ở Hoa Kỳ”, F. Machlup cho biết rằng, ngành công nghiệp kiến thức Hoa Kỳ vào năm 1958 đó chiếm tới 29% tổng sản phẩm xó hội, với 31% tổng lao động đang hoạt động của cả nước. Đến năm 1990, con số này là: ở Mỹ - 47,4%; ở Anh – 45,8%; ở Pháp – 45,1%; ở Đức – 40,0% tổng lao động đang làm việc. Theo sự xác định của tác giả, nền công nghiệp ấy bao gồm giáo dục, nghiên cứu, xuất bản và truyền thanh, truyền hỡnh. Năm 1967, D. Bell nói đến sự xuất hiện của xó hội hậu cụng nghiệp với nguồn lực quan trọng nhất để phát triển thuộc về thông tin và kiến thức. Năm 1974, trong luận án tiến sĩ của mỡnh, M. Porat nghiờn cứu một cỏch chi tiết về khu vực thông tin. Các nhà khoa học đó phõn chia cỏc quốc gia theo mức độ thông tin thành: Xó hội thụng tin cao; Xó hội thụng tin trung bỡnh; Xó hội thụng tin thấp. 2.2. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện tổ chức và quản lý thụng tin Trong lĩnh vực này, có lẽ, người đầu tiên quan tâm nghiên cứu là Lênin. Ngày 14/6/1921, Hội đồng Dân uỷ đó phờ chuẩn Sắc lệnh do Lờnin ký “Về việc nhập và phân phối tài liệu nước ngoài”, đồng thời thành lâp Uỷ ban Liên cơ quan trung ương về việc mua và phân phối tài liệu nước ngoài (viết tắt là KOMINOLIT). Với những chức năng và nhiệm vụ rừ ràng, KOMINOLIT thực chất trở thành cơ quan thông tin khoa học đầu tiên của Nhà nước xôviết. Sau Lênin, nhiều nhà khoa học Nga đó đạt được những thành tích nhất định trong lĩnh vực nghiên cứu thông tin, nhất là trờn bỡnh diện tổ chức và quản lý. Hơn nửa thế kỷ qua, các nhà khoa học đó nghiờn cứu việc tổ chức và quản lý thụng tin trờn những bỡnh diện sau: Xõy dựng chớnh sỏch quốc gia về thụng tin khoa học cụng nghệ; Về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thông tin khoa học; Nghiờn cứu cỏc mụ hỡnh tổ chức hoạt động thông tin khoa học công nghệ; Nghiên cứu trường hợp các nhà sản xuất cơ sở dữ liệu; Nghiên cứu về tác động của thị trường và vai trũ của nhà nước đối với việc phát triển hoạt động thông tin; Nghiên cứu về việc hiện đại hoá thư viện truyền thống; Nghiên cứu việc xây dựng thư viện số với cổng thông tin tích hợp; Nghiên cứu, phân tích và thiết kế hệ thống thông tin; Những vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xõy dựng chớnh phủ điện tử; Nghiên cứu về quản trị thụng tin và cụng nghệ thụng tin; Mụ hỡnh, tổ chức, quản lý thụng tin – tư liệu trong cơ quan lý luận; Những vấn đề an ninh thông tin,v.v... 2.3. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện đào tạo cán bộ thông tin
- Giữa những năm 60 thế kỷ XX, Viện sĩ A. I. Berg đó dự bỏo, thông tin sẽ trở thành khái niệm dẫn đầu trong các khoa học của thế kỷ XXI. Từ đó đến nay, rất nhiều tổ chức viện, trường đại học, các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu lĩnh vực đào tạo cán bộ thông tin. Trường Đại học Tổng hợp Harverd (Mỹ) nhiều năm đó tiến hành một chương trỡnh nghiờn cứu toàn diện về chớnh sỏch nguồn lực thụng tin. Cỏc viện sĩ Liờn Xụ (cũ) V. M. Gluscov, V. A. Traspesnicov đó đề nghị coi chỉ tiêu “trang bị thông tin” trong nền kinh tế và xó hội quan trọng như các chỉ tiêu “trang bị kỹ thuật”, “trang bị năng lượng”. Ở Việt Nam, nhiều năm nay, các trường như Đại học Văn hoá, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học Dân lập Đông Đô,... đó tổ chức nghiên cứu và biên soạn các chương trỡnh đào tạo hệ cử nhân và sau đại học về chuyên ngành thông tin học. Những cố gắng ban đầu đó cú kết quả khả quan. 2.4. Nghiờn cứu vai trũ và tỏc động của thông tin Là một dạng “tài nguyên” với những đặc điểm như: số lượng vô tận, luôn luôn được bổ sung, đổi mới và càng được sử dụng càng thêm phong phú, thông tin khoa học giúp con người sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và tiềm lực kinh tế - xó hội. Chớnh vỡ vậy, vai trũ và tỏc động của thông tin được các nhà khoa học hết sức quan tâm. Trong những năm 90 thế kỷ XX, nhiều cuộc hội thảo, hội nghị chuyên đề liên quan tới vấn đề thông tin phục vụ phát triển do UNESCO bảo trợ đó được tổ chức ở nhiều khu vực trên thế giới. Các chủ đề đó được thảo luận liên quan đến hội nghị chuyên môn gồm: Các tiền đề thông tin phục vụ phát triển kinh tế - xó hội; Xỏc định người dùng tin và khả năng khai thác thông tin quốc gia; Các nguồn lực trong lĩnh vực thông tin phục vụ phát triển - gồm 3 lĩnh vực chủ yếu để phát triển hoạt động thông tin: nguồn nhân lực, nguồn thông tin tư liệu và các phương tiện kỹ thuật; Thông tin phục vụ phát triển có tính chất công khai và hạn chế; Chiến lược tổ chức hệ thống các cơ quan thông tin thích hợp trong quá trỡnh phỏt triển. 2.5. Thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia Về vấn đề này, rải rác có những cụng trỡnh nghiờn cứu từng khớa cạnh của vấn đề như: Tin học hoỏ quản lý hành chớnh nhà nước với quá trỡnh cải cỏch hành chớnh hiện
- nay (TS. Đinh Hữu Phí); Đề xuất một số biện pháp để đẩy mạnh cải cách hành chính (ThS. Phạm Thanh Trung); Phát triển bền vững và xó hội thụng tin: cỏc xu hướng, vấn đề và mâu thuẫn (A. Levin – Nga); Bản chất thụng tin của quỏ trỡnh xõy dựng quan điểm quản lý hành chính (Phan Huy Quế); Chính phủ điện tử - lý luận và thực tiễn (Trung tâm Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia. Tổng luận khoa học),... Ngoài những bỡnh diện chủ yếu trờn, cỏc nhà khoa học trong nước và trên thế giới cũn nghiờn cứu rất nhiều bỡnh diện khỏc của thụng tin, thế nh ưng vấn đề thông tin với việc cải cách nền hành chính quốc gia vẫn là vấn đề cũn bỏ ngỏ, ít được bàn tới, chưa có đề tài nào nghiên cứu chuyên sâu. 3. Mục tiêu nghiên cứu * Về lý luận Làm rừ hệ thống cơ sở lý luận về thông tin, hoạt động thông tin khoa học, thông tin lý luận, thông tin và công nghệ thông tin, nguồn lực công nghệ thông tin, nguồn lực tri thức; mối quan hệ giữa thụng tin với cải cỏch nền hành chớnh quốc gia; vai trũ hoạt động thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia. * Về thực tiễn - Khái quát thực trạng hoạt động thông tin đối với công tác lónh đạo, quản lý nhà nước, cải cách nền hành chính quốc gia trong thời gian gần đây. - Đánh giá hiệu quả của thông tin đối với cải cách nền hành chính quốc gia. - Rút ra bài học kinh nghiệm về đẩy mạnh hoạt động thông tin với cải cách nền hành chính quốc gia. - Xây dựng hệ thống giải pháp khả thi đẩy mạnh hoạt động thông tin nhằm góp phần tích cực cải cách nền hành chính quốc gia trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 4. Nội dung và phạm vi nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- - Chương 1: Cơ sở lý luận của việc đẩy mạnh hoạt động thông tin với cải cách hành chính quốc gia. - Chương 2: Thực trạng hoạt động thông tin với cải cách hành chính quốc gia ở Việt Nam. - Chương 3: Phương hướng và giải pháp chủ yếu đẩy mạnh hoạt động thông tin phục vụ cải cách hành chính ở Việt Nam. Trong khuôn khổ một đề tài cấp bộ, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu việc đẩy mạnh hoạt động thông tin phục vụ cho cải cách hành chính quốc gia trong thời gian gần đây, đặc biệt là để góp phần hiện đại hoá nền hành chính quốc gia, xây dựng chính phủ điện tử, thực hiện Đề án Đơn giản hoá thủ tục hành chớnh trờn cỏc lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007-2010 (Đề án 30). 5. Phương pháp nghiên cứu Dựa trên phương pháp luận mác xít với quan điểm thực tiễn, biện chứng, lịch sử, khách quan để nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của vấn đề thông tin, phát triển thông tin, ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông phục vụ cải cách nền hành chính quốc gia. Đề tài tiếp cận từ góc độ thông tin học. Thế kỷ XXI là thế kỷ kinh tế tri thức chiếm vị trí chủ đạo. Trong nền kinh tế đó, năng lực đổi mới của quốc gia có liên quan đến tiền đồ và vận mệnh của dân tộc. Cải cách hành chính là công việc thường xuyên của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Hoạt động thông tin gắn bú mật thiết với việc tỡm kiếm tri thức, sản xuất và phổ biến tri thức, giao lưu, trao đổi tri thức, góp phần đẩy mạnh dân chủ nên nó ngày càng trở thành hệ thống trợ giúp không thể thiếu hỗ trợ nâng cao năng lực đổi mới quốc gia nói chung cũng như cải cách hành chính quốc gia nói riêng. Đề tài tiếp cận từ góc độ quản lý nhà nước. Cải cách hành chính ở Việt Nam là công việc mới mẻ, diễn ra trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm về quản lý hành chớnh nhà nước trong bối cảnh mới – kinh tế tri thức, toàn cầu hoá, khu vực hoá – có nhiều vấn đề vừa phải làm, vừa học hỏi, vừa phải rút kinh nghiệm, kể cả kinh nghiệm trong và ngoài nước. Việc hỡnh thành quan niệm và những nguyờn tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách hành chính, việc đề ra những nội dung, phương hướng, chủ trương, giải pháp thực hiện trong từng giai đoạn là một quá trỡnh tỡm tũi sỏng tạo khụng ngừng, là một
- quỏ trỡnh nhận thức liờn tục, thống nhất trong tiến trỡnh đổi mới, trong đó thông tin và tri thức đóng vai trũ hết sức quan trọng. Ngoài ra, Đề tài cũn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Thống kê; Điều tra; Phân tích - Tổng hợp; Phân tích văn bản; Đối chiếu – So sánh,... 6. Lực lượng nghiên cứu Tham gia thực hiện đề tài gồm các cán bộ nghiên cứu của Trung tâm Thông tin khoa học, cỏc nhà khoa học trong lĩnh vực thụng tin, quản lý nhà n ước, cải cách hành chính trong và ngoài Học viện. CHƯƠNG 1 CƠ Sở Lý LUậN CủA VIệC ĐẩY MạNH HOạT ĐộNG THÔNG TIN với CảI CáCH HàNH CHíNH quốc gia 1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN 1.1.1. Thông tin, tri thức, quan hệ giữa thông tin và tri thức Có nhiều định nghĩa khác nhau về thông tin. Thông tin được hiểu là thông báo, là tin tức, là tri thức được lựa chọn về các sự vật, hiện tượng được con người xử lý và sử dụng vào hoạt động có định hướng, có mục đớch của mỡnh dưới các hỡnh thức thớch hợp. Theo cỏch hiểu này, khỏi niệm thụng tin bao hàm cỏc yếu tố cơ bản là tin, vật mang tin, quy trỡnh chuyển tải tin, chủ thể xử lý và người sử dụng tin. Trong thực tế, cỏc yếu tố núi trờn cú hỡnh thức biểu hiện cụ thể, đa dạng, luôn
- luôn biến đổi trong những không gian, thời gian nhất định và có tác động lẫn nhau một cách biện chứng. Theo Từ điển An toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh, thông tin là (1) Bất kỳ một sự truyền thông hoặc thu nhận tri thức nào nh ư các sự kiện, dữ liệu hoặc các ý kiến, bao gồm các dạng số, đồ hoạ hoặc dạng tường thuật, cho dù bằng miệng hay lưu giữ trên phương tiện bất kỳ, kể cả các cơ sở dữ liệu máy tính hoá, giấy, vi dạng hoặc băng từ. (2) Thuật ngữ “dữ liệu”, “thông tin”, “tài liệu”, “hồ sơ” và “vấn đề” được xem như đồng nghĩa và có thể dùng trao đổi cho nhau. Chúng chỉ mọi dữ liệu bất chấp dạng vật lý của nú (vớ dụ, dữ liệu ở cỏc bản in trờn giấy, băng, đĩa hoặc chồng đĩa, trong các chíp nhớ, bộ nhớ truy nhập ngẫu nhiên (RAM), trong bộ nhớ chỉ đọc (ROM), vi phim hoặc vi thẻ, trên các đường truyền thông và ở các thiết bị đầu cuối hiển thị. (3) Tri thức vốn chưa biết đối với người nhận trước khi nhận được nó. Thông tin chỉ có thể được suy ra từ dữ liệu chính xác, hợp thời, thích hợp và bất ngờ. (4) Cỏc ý nghĩa gỏn cho dữ liệu bởi cỏc quy ước được thừa nhận dùng trong biểu diễn nó. Nếu nội dung của một thông báo đó được biết trước khi nhận nó thỡ khụng cú thụng tin mới nào được truyền tải1. Như vậy, thông tin nằm trong hệ thống các phạm trự của lý luận nhận thức, là một loại hỡnh của lĩnh vực hoạt động tinh thần, gắn liền với con người và hoạt động của con người với tư cách là chủ thể thông tin. Thông tin cũng là một khái niệm cơ bản và quan trọng của khoa học, vừa là một tiềm lực khoa học, vừa là một sản phẩm khoa học. Nội dung của thông tin hàm chứa tri thức. Nhưng tri thức được chuyển tải trong hoạt động thông tin là tri thức được lựa chọn. Tri thức là nội dung cơ bản của ý thức con người, có liên quan đến sự phản ánh một thuộc tính chung của mọi đối tượng vật chất. Song sự phản ánh của tri thức không giống như sự phản ánh vật lý, hoỏ học ở vật chất vụ cơ; cũng không giống như sự phản ánh ở động vật cấp thấp. Sự phản ánh của ý thức là sự phản ỏnh tớch cực, cú sự lựa chọn ở con người, thông qua cơ quan phản ánh là bộ óc người - một dạng vật chất có tổ chức cao nhất. Sự phản ánh ở con người không trực tiếp đưa đến tri thức mà phải qua một quá trỡnh nhận thức, quỏ trỡnh tư duy với nhiều hỡnh thức, với cỏc cấp độ khác nhau của sự phản ánh, bằng lao động và ngôn ngữ tác động đến 1 Ban Từ điển. Từ điển an toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh. Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H., 2001, tr. 317.
- đối tượng vật chất “bị phản ánh”, nhằm cải tạo tự nhiên, tái tạo lại hiện thực theo tính chất và theo nhu cầu thực tiễn xó hội. Quan hệ giữa tri thức và thông tin là quan hệ tương tác. Tri thức chuyển hoá thành thông tin và thông tin lại trở thành nguyên liệu, tiền đề cho tri thức mới mà cơ sở sâu xa là thực tiễn, là hiện thực khách quan. Sự phân biệt giữa tri thức và thông tin cũng có tính chất tương đối, tri thức ở chủ thể này lại là thông tin ở chủ thể kia và ngược lại. Hoạt động thông tin được thực hiện theo một quy trỡnh nhất định. Quy trỡnh này vừa cú tớnh khỏch quan, vừa cú tớnh chủ quan. Tớnh khỏch quan là ở chỗ dự muốn hay khụng muốn, quy trỡnh đó tồn tại và vận hành một cách độc lập bảo đảm thực hiện sự chuyển hoá tri thức thành thông tin và thông tin thành tri thức và chuyển tải đến người dùng tin. Tính chủ quan của quy trỡnh thụng tin là ở chỗ mức độ và hiệu quả sự chuyển hoá và chuyển tải phụ thuộc vào các chủ thể thông tin mà các chủ thể này không đồng nhất về nhu cầu, lợi ích, mục đích nhận thức,... Vật mang tin là hỡnh thức chứa đựng thông tin. Một nội dung thông tin có thể chứa đựng ở nhiều vật mang tin và một vật mang tin có thể chứa đựng nhiều nội dung thông tin. Có thể coi nội dung thông tin là “linh hồn”, cũn vật mang tin là “vỏ” của thụng tin. Hiện nay, nền kinh tế công nghiệp truyền thống đang từng bước quá độ lên một nền kinh tế mới – đó là nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức, gọi tắt là nền kinh tế tri thức, lấy hoạt động sản xuất, xử lý, phổ biến và sử dụng thông tin làm nội dung chính để tạo dựng nên một nền văn minh mới của nhân loại. Trong nền kinh tế đó, thông tin trở thành nguồn tài nguyên chủ chốt của mọi nền kinh tế quốc gia, khi các nền kinh tế đó phát triển tới giai đoạn mà nội dung “thông tin” bao trùm mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh, tổ chức và quản lý, trong đó thông tin chiếm một tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân (từ hơn 60% GDP trở lên) của một nước. 1.1.2. Thông tin khoa học Thông tin khoa học là loại thông tin lôgic được thu thập trong quá trỡnh nhận thức thế giới, phản ỏnh đúng đắn những quy luật của thế giới khách quan và được vận dụng trong thực tiễn xó hội.
- 1.1.3. Tài nguyên thông tin Tài nguyên thông tin của một cơ quan thông tin có thể được hiểu là vốn tài liệu của cơ quan đó. Đó là một tập hợp có hệ thống những xuất bản phẩm và những vật mang tin khác nhau tồn tại dưới dạng tư liệu văn bản, tư liệu điện tử,... được lựa chọn phù hợp với tính chất, loại hỡnh và chức năng, nhiệm vụ của cơ quan đó. a. Xét về chất liệu vật mang tin, vốn tài liệu có thể được chia làm hai loại cơ bản sau: * Vốn tài liệu văn bản gồm các loại tài liệu bằng văn bản như: sách, báo, tạp chí, luận văn, luận án, các đề tài nghiên cứu, các số liệu thống kê,... Hiện tại, vốn tài liệu này chiếm tỷ lệ lớn trong các cơ quan thông tin. * Vốn tài liệu điện tử gồm những tư liệu được lưu trữ dưới dạng số (các loại tài liệu được lưu giữ trên băng từ, đĩa CD-ROM,...) sao cho có thể truy nhập được bằng các thiết bị xử lý dữ liệu. Vốn tài liệu này thường bao gồm: - Các cơ sở dữ liệu phục vụ khai thác trực tuyến của thư viện và các trung tâm thông tin: Mục lục tra cứu công cộng trực tuyến (OPAC). - CD-ROM chứa các cơ sở dữ liệu chuyên ngành được phục vụ riêng lẻ hay trên mạng máy tính. - Nguồn tư liệu do được số hoá và tập hợp dưới hỡnh thức bộ sưu tập số của cơ quan thông tin. - Các tạp chí, sách, tài liệu điện tử trên mạng Internet mà các cơ quan có thể đặt mua như tạp chí, tài liệu in và sẽ được cấp quyền truy cập. b. Xét về mức độ công bố hay không công bố, vốn tài liệu có thể được chia làm hai loại * Vốn tài liêu được công bố - Trước hết, đó là những tài liệu do các nhà xuất bản ấn hành bằng văn bản được phân phối qua các kênh phát hành chính thức như nhà xuất bản, các công ty, các đại lý phỏt hành,... mà cơ quan thông tin thu thập được thông qua việc mua, được biếu, tặng, trao
- đổi,... Loại này chiếm tỷ trọng lớn trong các loại vốn tài liệu hiện có ở các cơ quan thông tin. - Thứ hai, gồm các tài liệu điện tử do các cơ quan thông tin, cơ quan nghiên cứu khoa học, các công ty,... sản xuất dưới dạng băng từ, các đĩa CD-ROM, các xuất bản điện tử trên mạng Internet,... được truy cập miễn phí hoặc các cơ quan thông tin có thể mua quyền truy cập,... * Vốn tài liệu không được công bố hay cũn gọi là tài liệu “xỏm”, tài liệu nội sinh do các cơ quan chính phủ, các viện nghiên cứu tạo ra trong quá trỡnh nghiờn cứu, hoạt động,... Đó thường là các đề tài nghiên cứu, các báo cáo, các chương trỡnh, dự ỏn, cỏc luận văn, luận án,... Loại tài liệu này tuy chiếm tỷ trọng nhỏ, số bản ít (thường chỉ là 1 bản in, hoặc đĩa CD, hoặc một bộ gồm cả 2 loại trên) nhưng nội dung thông tin hết sức đa dạng, phong phú, hàm lượng khoa học cao, có ý nghĩa lớn đối với người dùng tin. 1.1.4. Cơ sở dữ liệu Cơ sở dữ liệu – Database là cấp tổ chức cao nhất của dữ liệu. Cơ sở dữ liệu là tập hợp các dữ liệu về các đối tượng cần được quản lý, được lưu trữ đồng thời trên các vật mang tin của máy tính điện tử và được quản lý theo một cơ chế thống nhất, nhằm giúp cho việc truy cập và xử lý dữ liệu được dễ dàng và nhanh chóng, đầy đủ. Cơ sở dữ liệu bao gồm một tệp hoặc một tập hợp các tệp dữ liệu. Thông tin trong các tệp này có thể chia nhỏ thành các biểu ghi, mỗi biểu ghi lại bao gồm một hoặc nhiều trường. Sử dụng từ khoỏ, cỏc lệnh tỡm tạo bởi cỏc toỏn tử tỡm tin, người dùng tin có thể nhanh chóng lựa chọn ra các biểu ghi thoả món yờu cầu tỡm tin đặt ra. Có nhiều cách phân loại cơ sở dữ liệu khác nhau. a. Căn cứ theo bản chất của thông tin được lưu giữ, người ta phân biệt ba loại cơ sở dữ liệu chính sau: * Cơ sở dữ liệu thư mục bao gồm các dữ liệu thư mục (tác giả, nhan đề, các yếu tố xuất bản, các đặc trưng số lượng,...), các chỉ số phân loại, tóm tắt, chú giải, từ khoá,... cho phép người sử dụng truy nhập trực tiếp và tức thỡ cỏc thụng tin thư mục trong kho dữ liệu và thụng tin cần tỡm hiển thị ngay trờn màn hỡnh. Đồng thời nó cũng cho phép tạo ra
- nhiều sản phẩm trung gian như các ấn phẩm thư mục, các tạp chí tóm tắt, các bộ phiếu mục lục,... * Cơ sở dữ liệu dữ kiện chứa các thông tin cấp một. Đó là các số liệu hay các dữ kiện cụ thể về các đối tượng, các quy trỡnh hoặc cỏc phương pháp (thường là dưới dạng số, ngoài ra cũng được trỡnh bày dưới dạng văn bản, hỡnh ảnh, biểu đồ, đồ thị,...). Những thông tin này đó được xử lý, biờn tập và cú thể dựng trực tiếp, không cần tới một nguồn dữ liệu bổ sung nào. * Cơ sở dữ liệu toàn văn chứa các thông tin cung cấp toàn bộ văn bản tài liệu. b. Căn cứ theo loại hỡnh tài liệu có các cơ sở dữ liệu sau: cơ sở dữ liệu sách, cơ sở dữ liệu tạp chí, cơ sở dữ liệu về phát minh, sáng chế, cơ sở dữ liệu các công trỡnh khoa học,... Ngày nay, cơ sở dữ liệu là bộ phận không thể thiếu được trong các hệ thống thông tin. 1.1.5. Công nghệ thông tin Có nhiều định nghĩa về công nghệ thông tin. Theo Từ điển an toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh, công nghệ thụng tin là sự thu nhận, xử lý, lưu giữ và phổ biến thông tin tiếng nói, hỡnh ảnh, văn bản và số nhờ sự kết hợp dựa trên vi điện tử của tin học, viễn thông và video. Công nghệ thông tin nảy sinh như một công nghệ tách riêng nhờ sự quy tụ của các kỹ thuật tin học, viễn thông và video, tin học cung cấp khả năng xử lý và lưu giữ thông tin, viễn thông cung cấp phương tiện để truyền thông nó và video cung cấp thiết bị hiển thị hỡnh ảnh chất lượng cao. Sự quy tụ đó đó được xúc tác nhờ sẵn có các linh kiện và thiết bị vi điện tử phức tạp, tin cậy và chi phí có hiệu quả. Các phát triển tổng thể trong điện tử học cũng đó kớch thớch việc tỡm kiếm những tiờu chuẩn quốc tế chung, nhất là trong tin học và viễn thụng, mở đường cho các ứng dụng quy mô lớn của công nghệ thông tin. Công nghệ thông tin là thuật ngữ dùng để chỉ các ngành khoa học và công nghệ liên quan đến thông tin và các quá trỡnh xử lý thụng tin. Theo quan niệm này, thỡ cụng nghệ thụng tin là hệ thống cỏc phương pháp khoa học, công nghệ, phương tiện, công cụ, bao gồm chủ yếu là các máy tính, mạng truyền thông và hệ thống các kho dữ liệu nhằm tổ
- chức, lưu trữ, truyền dẫn và khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn thông tin trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế, xó hội, văn hoá,... của con người1. Công nghệ thông tin là động lực nũng cốt và xung kớch của cuộc cỏch mạng khoa học và cụng nghệ hiện đại, dẫn dắt nhân loại bước vào kỷ nguyên trí tuệ. Các tiêu chuẩn đánh giá an toàn công nghệ thông tin và an toàn thông tin theo Uỷ ban Cộng đồng Châu Âu đưa ra gồm 8 tiêu chí: - Nhận dạng và xác thực – các chức năng thiết lập và kiểm chứng mó nhận dạng đó khai bỏo của một người sử dụng; - Kiểm soát truy nhập – các chức năng kiểm soát luồng thông tin giữa những người sử dụng, giữa các quá trỡnh và các đối tượng và việc sử dụng các tài nguyên của những đối tượng đó kể cả quản trị và kiểm chứng các quyền truy nhập; - Phân định trách nhiệm – các chức năng ghi việc thi hành các quyền để thực hiện các hoạt động an toàn có liên quan; - Kiểm toán – các chức năng phát hiện và điều tra các biến cố mà có thể đe doạ đối với an toàn; - Tái sử dụng đối tượng – các chức năng kiểm soát việc tái sử dụng các đối tượng dữ liệu; - Độ chính xác – các chức năng đảm bảo tính đúng đắn và tính nhất quán của thông tin có liên quan tới an toàn; - Độ tin cậy của dịch vụ - các chức năng đảm bảo tính nhất quán và mức độ sẵn sàng của dịch vụ; - Trao đổi dữ liệu – các chức năng đảm bảo sự an toàn của dữ liệu trong quá trỡnh truyền qua cỏc kờnh truyền thụng. 1.1.6. Truyền thông 1 Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương. Ban Khoa giáo Trung ương. Ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nxb. CTQG, H., 2001, tr.27.
- Truyền thụng là quỏ trỡnh chuyển thụng tin theo cỏc phương tiện khác nhau từ một điểm, người hoặc thiết bị tới một điểm, người, hoặc thiết bị khác1. 1.1.7. Kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia Kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia là hệ thống các mạng truyền thông, máy tính, các cơ sở dữ liệu, các phương tiện điện tử dân dụng, sẵn sàng đưa đến những lượng thông tin to lớn với mọi hỡnh thức thể hiện, sử dụng mọi lỳc và ở bất kỳ đâu, do đó nó tạo ra những phương thức hoạt động hoàn toàn mới cho con người. Cơ sở dữ liệu thủ tục hành chính trên Website: http://csdl.thutuchanhchinh.vn là một trong những thành tố của kết cấu hạ tầng thông tin quốc gia. 1.1.8. Hành chính Thuật ngữ “hành chính” xuất phát từ tiếng Latinh “Administratio” là quản lý, lónh đạo. Theo từ điển tiếng Pháp, thỡ “hành chớnh” là hoạt động quản lý, điều hành các công việc hàng ngày của cơ quan nhà nước bằng pháp luật, là dịch vụ công. Theo Đại từ điển tiếng Việt2, hành chính thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước theo luật định, thuộc về công văn, giấy tờ, kế toán trong cơ quan nhà nước. Trong Hành chính học đại cương, các tác giả lại có cách định nghĩa khác. Theo nghĩa rộng, hành chính là những biện pháp tổ chức và điều hành của các tổ chức, các nhóm, các đoàn thể, hợp tác trong hoạt động của mỡnh để đạt được mục tiêu chung. Theo nghĩa hẹp, hành chính, là hoạt động quản lý cỏc cụng việc nhà nước, xuất hiện cùng với nhà nước. Như vậy, theo các cách tiếp cận trên thỡ hành chính đều có điểm chung là hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành, là hoạt động có mục đích, phục vụ lợi ích chung. Đa số các hoạt động hành chính là hoạt động của cơ quan nhà nước. 1 Ban Từ điển. Từ điển an toàn thông tin Anh - Việt và Việt – Anh. Nxb. Khoa học và kỹ thuật, H., 2001, tr. 117. 2 Đại từ điển tiếng Việt. Nxb. Văn hoá thông tin, H., 1998.
- Cỏc lý giải trong cuốn Hành chính học đại cương về khái niệm hành chính có lẽ phù hợp với phương pháp tiếp cận của khoa học hành chính hơn. Bởi vỡ, trong lịch sử phỏt triển của hành chớnh học - bộ môn khoa học về hành chính, đặc biệt là trong thời đại ngày nay, khái niệm đó được sử dụng một cách phổ biến, rộng rói. Hành chớnh được coi như một phương tiện không thể thiếu mà các tổ chức cần phải sử dụng để thực hiện có hiệu quả mục tiêu của mỡnh. Như vậy, theo cách lý giải trờn, cú thể đưa ra khái niệm về hành chính như sau: Hành chính là một hoạt động trong lĩnh vực tổ chức, quản lý và điều hành được tiến hành trên cơ sở ràng buộc bởi những quy tắc nhất định do nhà nước hoặc do các chủ thể khác quy định hoặc thừa nhận, có tính chất bắt buộc, áp đặt hoặc mệnh lệnh nhằm đạt tới một mục đích phục vụ cho lợi ích chung đó được xác định. 1.1.9. Cải cách hành chính Do chế độ chớnh trị khỏc nhau, do trỡnh độ phát triển kinh tế - xó hội của cỏc nước khác nhau, đồng thời do có sự khác biệt trong quan điểm và các cách tiếp cận khác nhau nên giữa các nước có cách hiểu khác nhau về cải cách hành chính. Trong cuốn Hành chính học đại cương, cải cách hành chính được lý giải theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng, cải cỏch hành chớnh là một quỏ trỡnh thay đổi cơ bản lâu dài, liên tục cơ cấu quyền lực hành pháp và tất cả các hoạt động có ý thức của bộ mỏy nhà nước nhằm đạt được sự hợp tác giữa các bộ phận và cỏ nhõn vỡ mục đích chung của cộng đồng và xó hội. Đồng thời, phối hợp các nguồn lực để tạo ra hiệu lực và hiệu quả quản lý cỏc sản phẩm phục vụ nhõn dõn thụng qua cỏc phương thức tổ chức và thực hiện quyền lực. Theo cách phân tích này, cải cách hành chính là những thay đổi được xây dựng có chủ định nhằm cải tiến cơ bản các khâu trong hoạt động quản lý của bộ mỏy nhà nước như lập kế hoạch, cải cách thể chế, tổ chức, công tác cán bộ, tài chính công, điều hành, phối hợp, kiểm tra và đánh giá. Theo nghĩa hẹp, cải cỏch hành chớnh là quỏ trỡnh thay đổi nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hành chính, cải tiến tổ chức, chế độ và phương pháp hành chính cũ, xây dựng
- chế độ và phương pháp hành chính mới trong lĩnh vực quản lý của bộ mỏy hành chớnh nhà nước. Trong cỏc tài liệu của Liờn Hợp Quốc về cải cỏch hành chớnh thỡ đó chính là những cố gắng có chủ định nhằm đưa những thay đổi cơ bản vào hệ thống hành chính nhà nước thông qua những cải cách có hệ thống hoặc các phương thức để cải tiến ít nhất một trong bốn yếu tố cấu thành của nền hành chính công: 1. Thể chế; 2. Cơ cấu; 3. Đội ngũ công chức; 4. Tiến trỡnh. Ở nước ta, căn cứ vào Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám Ban Chấp hành Trung ương Khoá VII, Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Khoá X, có thể hiểu cải cách hành chính là trọng tâm của công cuộc tiếp tục xây dựng và kiện toàn Nhà nước Cộng hoà Xó hội chủ nghĩa Việt Nam, bao gồm những thay đổi có chủ định nhằm hoàn thiện thể chế của nền hành chính; cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành của bộ máy hành chính các cấp và đội ngũ cán bộ công chức để nâng cao hiệu lực, năng lực và hiệu quả hoạt động của nền hành chính phục vụ nhân dân tốt hơn. 1.1.10. Thủ tục hành chính là một quy phạm pháp luật quy định trỡnh tự về thời gian, về khụng gian khi thực hiện một thẩm quyền nhất định của bộ máy nhà nước, là cách thức giải quyết công việc của các cơ quan nhà nước trong mối quan hệ với các cơ quan, tổ chức và cá nhân công dân. Thủ tục hành chính là cơ sở và là điều kiện cần thiết để cơ quan nhà nước giải quyết công việc của công dân và các tổ chức theo pháp luật. Cải cách thủ tục hành chính là điều kiện cần thiết để tăng cường, củng cố mối quan hệ giữa nhà nước và nhân dân, tăng cường sự tham gia quản lý nhà nước của nhân dân, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các doanh nghiệp, các tổ chức theo pháp luật. 1.1.11. Chính phủ điện tử Chính phủ điện tử là chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tăng cường khả năng truy nhập và cung cấp các dịch vụ của chính phủ tới các công dân, các doanh nghiệp và các nhân viên chính phủ 24/24 giờ, 7/7 ngày trong tuần và ở bất kỳ nơi đâu. Các dịch vụ của chính phủ điện tử có thể chia làm 2 nhóm chính:
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn - Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty bánh kẹo Hải Châu
66 p | 467 | 151
-
LUẬN VĂN: Một số chính sách và giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và Trung Quốc
89 p | 285 | 69
-
LUẬN VĂN : ĐẨY MẠNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG LIÊN DOANH SHINHAN VINA
70 p | 156 | 36
-
Luận văn: Giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng NN&PTNT chi nhánh Bà Triệu
28 p | 107 | 19
-
Luận văn: Đẩy mạnh công tác tiêu thụ mặt hàng bánh kẹo tại Công ty siêu thị Hà Nội
43 p | 112 | 19
-
Luận văn:Đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đăk Nông
24 p | 116 | 19
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đẩy mạnh hoạt động kinh doanh của Công ty Dược phẩm Đông Á trong bối cảnh hiện nay
99 p | 21 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đẩy mạnh hoạt động marketing của Viettel thị xã Hồng Ngự
114 p | 13 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Chính sách xã hội Huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh
112 p | 13 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Đẩy mạnh hoạt động xây dựng thương hiệu du lịch Hạ Long
130 p | 9 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Đẩy mạnh hoạt động cho vay doanh nghiệp của BIDV - Chi nhánh Hạ Long
101 p | 17 | 6
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Đẩy mạnh hoạt động cho vay mua ôtô tại Ngân hàng TMCP Việt Nam thương tín chi nhánh Hà Nội
116 p | 11 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đẩy mạnh hoạt động Marketing trực tuyến cho Trung tâm Kinh doanh VNPT Lạng Sơn tại thành phố Lạng Sơn tỉnh Lạng Sơn
113 p | 14 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh quản lý: Đẩy mạnh hoạt động marketing nhằm tiêu thụ xi măng tại Doanh nghiệp tư nhân Tiến Trường
120 p | 8 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đẩy mạnh hoạt động cho vay đối với trang trại tại chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Đăk Lăk
97 p | 9 | 4
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Đẩy mạnh hoạt động marketing tại các ngân hàng thương mại trên địa bàn thành phố Đồng Hới tỉnh Quảng Bình
127 p | 5 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh doanh và quản lý: Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn huyện Hồng Ngự
103 p | 9 | 2
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Đẩy mạnh hoạt động bán hàng tại Công ty cổ phần 22 Tổng cục Hậu cần, Bộ Quốc Phòng
122 p | 1 | 1
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn