
LUẬN VĂN:
Đẩy mạnh họat động thông tin với việc
cải cách nền hành chính quốc gia trong
giai đọan hiện nay

Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ đầu thế kỷ XX, V.I. Lênin đó từng khẳng định: không có thông tin thỡ không
thể có tiến bộ trong bất kỳ một lĩnh vực nào của khoa học, kỹ thuật và sản xuất vật chất.
Đại văn hào Maksim Gorki đó từng viết: Sức mạnh và sự giàu cú của một dõn tộc khụng
phải là ở chỗ cú nhiều đất đai, rừng, gia súc và các loại quặng quí mà là ở số lượng và chất
lượng những con người có học thức, có lũng yờu tri thức, ở sự nhạy bộn và năng động của
trí tuệ. Sức mạnh của một dân tộc không những nằm trong vật chất, mà phần hết sức quan
trọng là nằm trong trí tuệ.
Trong lịch sử phỏt triển của xó hội loài người từ xưa đến nay, chưa bao giờ thông
tin lại đóng vai trũ to lớn và bao trựm đến vậy. Khó có thể hỡnh dung được một lĩnh vực
hoạt động nào của con người lại không cần đến thông tin.
Lý luận mác xít cho rằng, nắm được công cụ sản xuất thỡ mới nắm được quyền
hành. Công cụ sản xuất mà ngày nay người công nhân cần nắm để làm chủ lấy mỡnh
khụng phải là những cụng cụ “bỏ trong thựng hay như công cụ của xí nghiệp trong thời
công nghiệp ống khói. Nó là thứ vật dụng nằm trong đầu óc của công nhân”1. Đó là thông
tin, tri thức, là nguồn chủ yếu sáng tạo ra của cải và quyền lực.
Thông tin, tri thức là thứ của cải không bao giờ hết. Nếu như đất đai, máy móc có
thể chỉ cấp được cho một số cá nhân thôi, thỡ thụng tin, tri thức cựng lỳc cú thể cú nhiều
người sử dụng. Và nếu vận dụng thích đáng thỡ cú thể lại sinh ra nhiều tri thức mới. Tri
thức lấy khụng bao giờ hết và dựng khụng bao giờ cạn.
Trong Hội thảo quốc tế về chủ đề “Sử dụng tri thức phục vụ phát triển”, Phó Thủ
tướng Phạm Gia Khiêm đó phỏt biểu rằng: “Hiện nay 2/3 dõn số trờn thế giới cũn sống
trong nghốo đói, lạc hậu bởi thiếu vốn, thiếu các nguồn lực để phát triển, đặc biệt là tri
thức khoa học – công nghệ”. Khoảng cách to lớn về tri thức, trong đó có tri thức khoa học
– công nghệ, sự bất bỡnh đẳng về tiếp cận thông tin đặt các nước đang và chậm phát triển
trước những nhiệm vụ vô cùng khó khăn: phải tự nhận thức và tự đổi mới chính mỡnh để
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.117.

xây dựng được năng lực tiếp thu kho tàng tri thức nhân loại, để vượt qua nghèo đói, lạc
hậu và tiến tới phát triển, tham gia vào sáng tạo tri thức mới.
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX, sự phát triển như vũ bóo của khoa học,
cụng nghệ mà mũi nhọn là cụng nghệ thụng tin đó và đang tác động đến mọi nền kinh tế,
mọi chế độ xó hội trờn phạm vi toàn cầu. Một xó hội thụng tin, một nền kinh tế tri thức bắt
đầu hỡnh thành. Trong nền kinh tế đó, thông tin là tất cả, thành công của công việc là nhờ
vào “tư liệu thông tin, chứ chẳng phải là nhờ vào số tiền anh có... Tri thức có quyền lực
lớn nhất trong giao dịch”1. Việc tỡm kiếm, khai thỏc và sử dụng hiệu quả thụng tin cú ý
nghĩa quyết định đối với sự phát triển và thành công của mỗi cá nhân, tập thể, cộng đồng
và quốc gia. Thực tiễn xó hội đang chứng tỏ rằng, lợi thế so sánh sẽ thuộc về quốc gia nào
có năng lực tổ chức khai thác với hiệu quả cao nhất các nguồn thông tin và tri thức hiện có
của nhân loại. Ở Việt Nam, nhu cầu phát triển trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước đũi hỏi phải huy động được mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực thông tin là
vô cùng quan trọng.
Cải cách nền hành chính quốc gia là một đũi hỏi thường xuyên, luôn được coi là
nhiệm vụ chính trị hàng đầu của bất kỳ quốc gia nào bởi vỡ nhiệm vụ này vừa đáp ứng yêu
cầu của phát triển kinh tế - xó hội của đất nước, vừa tác động thúc đẩy sự phát triển kinh tế
- xó hội.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đó đánh dấu bước đổi mới quan trọng trong nhận
thức và tư duy. Với sự đổi mới sáng suốt đó, Việt Nam đó vượt qua thử thách gian nan và
đi lên. Con đường đi đến đổi mới không hề đơn giản. Đó là kết quả của cả quá trỡnh
nghiờn cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đổi mới tư duy, dựa trên những thông tin khoa học,
thông tin lý luận về thời đại, về cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, về những nhận
thức mới đối với chủ nghĩa Mác – Lênin, những vấn đề lý luận về kinh tế thị trường; vận
dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, với tư tưởng Hồ Chí
Minh soi đường, bài học kinh nghiệm của các nước anh em, các nước phát triển, đang phát
triển,... Trong suốt chặng đường đổi mới đó, thông tin, tri thức luôn là nguồn lực vô giá
của Việt Nam.
1 A. Toffler. Thăng trầm quyền lực, Nxb. Thanh niên, T.1, tr.61.

“Khi cơ chế thuận thỡ một sự thụng minh biến thành mười sự thông minh. Cơ chế
chưa thuận thỡ một sự hư hỏng kéo theo hàng nghỡn sự hư hỏng. Quy luật phi tuyến ấy sẽ
rất nghiệt ngó nhấn chỡm cỏc cộng đồng yếu kém, nhưng cũng mở ra cơ hội và khả năng
nhảy vọt thần kỳ cho những cộng đồng thông minh và biết giá trị của trí tuệ thời nay”1.
Ba mươi năm trước, các nhà khoa học Tây Âu đó từng phỏt hiện ra rằng họ thua
kộm Mỹ về kinh tế, khoa học, kỹ thuật khụng phải do thiếu người tài, mà chủ yếu do
không có cơ chế quản lý thụng minh để có thể huy động và phát huy hết mọi tài năng trong
xó hội.
Ở Đông Á, với cơ chế quản lý thụng minh, Hàn Quốc và Singapore, Hồng Kông đó
đuổi kịp thế giới phát triển chỉ sau 30 năm. Đạt được thành công đó, không phải nhờ người
dân 3 nước này thông minh hơn người dân các nước khác, mà là những nhà lónh đạo, quản
lý của đất nước, những nhà nghiên cứu và hoạch định chính sách của đất nước đó luụn
quan tõm đến cải cách hành chính, tỡm ra được cơ chế quản lý thớch hợp để phát huy tiềm
năng của dân tộc.
Những tấm gương đó luôn là bài học kinh nghiệm quý báu cho Việt Nam trong suốt
chặng đường đổi mới.
Theo Chương trỡnh tổng thể cải cỏch hành chớnh nhà nước giai đoạn 2001-2010,
đến năm 2010, hệ thống hành chính về cơ bản được cải cách phù hợp với yêu cầu quản lý
nền kinh tế thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa. Nội dung chủ yếu của cải cỏch bao
gồm: Cải cỏch thể chế; Cải cỏch tổ chức bộ mỏy hành chớnh; Đổi mới, nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; Cải cách tài chính công.
Toàn cầu hoá buộc các cộng đồng phải đoàn kết lại. Sự thông minh của từng người
chỉ phát huy được thông qua sự thông minh tập thể, sự thông minh hệ thống của cả cộng
đồng. Sự thông minh hệ thống của cả cộng đồng là nguồn trí tuệ cộng đồng, là nguồn cộng
năng tạo ra sức mạnh to lớn đưa cộng đồng vươn lên.
Từng người dân thông minh, từng nhà khoa học giỏi,... sẽ chưa đủ. Điều hết sức
quan trọng, mấu chốt của sự thành công là một cơ chế quản lý cú thể tập hợp và phỏt huy
được khả năng của mỗi người, hỗ trợ họ không ngừng phát triển tri thức trong suốt cuộc
1 Hoàng Tuỵ. Trí tuệ cộng đồng: Chỡa khoá vào kinh tế tri thức. Báo Người Lao động, Số Xuân
Tân Tỵ, 2001.

đời hoạt động, có cơ chế biến xó hội thành xó hội học tập suốt đời, thường xuyên trao đổi,
chuyển giao, vận dụng, sản xuất và phát triển tri thức. Tất cả những con người tài giỏi đó
sẽ chỉ được phát huy mọi khả năng, tài trí trong môi trường kinh tế - xó hội lành mạnh và
thoỏng đóng, tạo nờn bởi cơ chế quản lý thụng minh, biết khuyến khích mọi sáng kiến chủ
động, mọi tài năng sáng tạo,biết hạn chế, loại trừ mọi yếu tố, mọi xu hướng tiêu cực.
Bước vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
thông tin khoa học cung cấp những thông tin như thế nào, con đường, cách thức thông tin
ra sao để góp phần đổi mới sự lónh đạo của Đảng, cải tiến sự quản lý của Nhà nước, cải
cách hành chính? Kinh nghiệm của các nước đi trước cho thấy, trong thời đại kinh tế tri
thức, không dựa vào trí tuệ, học vấn thỡ khú cú thể vươn lên. Việc khơi dậy và phát huy
mọi tiềm năng trí tuệ của dân tộc là vấn đề quan trọng, song tổ chức, khai thác triệt để mọi
tiềm năng ấy cho sự phát triển của đất nước nhờ một cơ chế quản lý thụng minh là điều vô
cùng quan trọng, không thể thiếu. Đó là bài toán không hề đơn giản, trong đó, thông tin, tri
thức, công nghệ thông tin đóng vai trũ hết sức quan trọng. Hiện nay, Việt Nam đang tích
cực đổi mới, cải cách hành chính. Nghiên cứu vấn đề đẩy mạnh hoạt động thông tin phục
vụ cải cách hành chính là một trong những vấn đề hết sức cấp thiết.
2. Tỡnh hỡnh nghiờn cứu
Lịch sử của thông tin đó cú từ xa xưa, song mói đến những năm 40 của thế kỷ XX,
thông tin mới vươn lên để trở thành một mũi nhọn của thời đại. Nhất là sau khi nhà bác
học Mỹ C. Shanon vào năm 1948 tỡm ra lý thuyết thụng tin, khỏi niệm “thụng tin” và cỏc
phương pháp nghiên cứu có liên quan tới thông tin mới được sử dụng rộng rói trong hầu
khắp cỏc lĩnh vực của tự nhiờn và đời sống xó hội.
Từ sự mở đầu gian truân nhưng đầy hứa hẹn đó, cho đến nay, hơn nửa thế kỷ, loài
người đó nghiờn cứu thụng tin trờn nhiều bỡnh diện. Chỳng tụi tạm sơ bộ khái quát một số
bỡnh diện chính như sau:
2.1. Nghiờn cứu trờn bỡnh diện lý luận về thụng tin
* Về khỏi niệm và loại hỡnh thụng tin có các nhà nghiên cứu khoa học tiêu biểu
như: R. V. L. Hartley, người đầu tiên tóm tắt khái niệm thông tin vào năm 1924 và sau đó
năm 1950, ông và C. E. Shanon (người Mỹ) đó hoàn thiện khỏi niệm thụng tin trờn quan

