VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG THỊ THANH HUYỀN ĐỖ MINH HOÀNG
TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
ĐỖ MINH HOÀNG
HOÀNG THỊ THANH HUYỀN
TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN TỪ GÓC NHÌN SINH THÁI
Ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 8.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ HƯƠNG THỦY
HÀ NỘI, 2018
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. VẤN ĐỀ SINH THÁI QUA CÁC THỜI KÌ VĂN HỌC VÀ
TRONG SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN .............................................................. 7
1.1. Vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam ............................................................... 7
1.2. Đỗ Phấn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại và cảm quan sinh thái
trong tiểu thuyết Đỗ Phấn .............................................................................................. 15
Chương 2. CẢM QUAN VỀ SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG TIỂU
THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN ................................................................................ 20
2.1. Kí ức và sự tái hiện vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội ............................. 20
2.2. Tự nhiên bị tàn phá và những ám ảnh sinh thái .................................................... 30
2.3. Các hình tượng sinh thái - thẩm mĩ ....................................................................... 42
Chương 3. CON NGƯỜI TRONG KHÔNG GIAN SINH THÁI ĐÔ THỊ
TRONG TIỂU THUYẾT CỦA ĐỖ PHẤN ..................................................... 59
3.1. Đô thị hóa và những chấn thương sinh thái .......................................................... 59
3.2. Hành vi, lối sống của con người trong không gian sinh thái đô thị ..................... 63
3.3. Cảm thức nơi chốn, không gian và thời gian nhìn từ cảm quan sinh thái........... 71
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 81
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tự nhiên và con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Con người có thể sống
hài hòa với tự nhiên, sống thuận theo tự nhiên, lấy thiên nhiên làm nguồn vui, làm lẽ
sống của cuộc đời. Ngược lại, thiên nhiên cũng có thể tác động lại với con người, nếu
như con người khai thác thiên nhiên một cách cạn kiệt. Ngày nay, khi khoa học kĩ thuật
phát triển, xã hội ngày càng tiến bộ, văn minh thì nhu cầu của con người ngày càng đầy
đủ hơn về mọi mặt. Đồng thời, nó cũng kéo theo nhiều hệ lụy của cuộc sống như làm
mất cân bằng sinh thái, khí hậu biến đổi, bão lũ, sạt lở vào mùa mưa, hạn hán vào mùa
hè, triều cường tăng nhanh, khủng hoảng môi trường tự nhiên, con người phải đối mặt
với nhiều nguy cơ sinh thái. Đây đang là vấn đề đáng quan tâm của nhiều ngành khoa
học, trong đó có văn học.
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa, nằm trong khu vực Đông Nam
Á. Với con người Việt Nam, thiên nhiên luôn là người bạn thân thiết. Vì vậy, tình yêu
thiên nhiên luôn là một nội dung quan trọng của văn học Việt Nam từ xưa tới nay. Trong
văn học dân gian, thiên nhiên là đối tượng nhận thức, cải tạo, chinh phục. Thiên nhiên tươi
đẹp thể hiện qua cánh cò, dòng suối, vầng trăng và thiên nhiên hiện ra ở vẻ đẹp phong phú
ở các vùng quê khác nhau. Trong văn học trung đại, hình tượng thiên nhiên gắn liền với lý
tưởng đạo đức, thẩm mĩ, thiên nhiên tượng trưng cho nhân cách cao thượng của các nhà
Nho, thiên nhiên còn là nơi thể hiện lý tưởng thanh cao, sống ẩn dật, không màng danh lợi
của các nhà nho đương thời. Trong văn học hiện đại, thiên nhiên thường gắn liền với tình
yêu quê hương đất nước và tình cảm lứa đôi. Văn học đương đại, thiên nhiên đang dần mất
đi vẻ đẹp vốn có của nó, do nhu cầu của con người, do quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Con người đã tác động vào thiên nhiên, mặc sức khai thác thiên nhiên mà không nghĩ
đến hậu quả khôn lường của nó. Môi trường tự nhiên bị đe dọa, con người đang phải đối
mặt với nhiều thách thức: sự nóng lên toàn cầu, chất thải công nghiệp, ô nhiễm môi
trường, đặc biệt là do sự thiếu ý thức của con người nên tỉ lệ rác thải công nghiệp, rác thải
sinh hoạt gia tăng. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của quá trình đô thị hóa, diện tích
1
trồng trọt ở nông thôn, diện tích cây xanh bị thu hẹp dần thay vào đó là các phố phường
chật hẹp, đông đúc. Tất cả những điều đó đang diễn ra hàng ngày trong đời sống xã hội.
Đứng trước sự khủng hoảng môi trường sinh thái, nhiều nhà văn gần đây đã bày tỏ quan
điểm và thái độ trước những vấn đề của đời sống và môi sinh.
Đỗ Phấn đến với văn chương khá muộn mằn, ở tuổi 50 Đỗ Phấn đã có những dấu ấn
thành công trong lĩnh vực hội họa. Cũng chính ở tuổi này Đỗ Phấn bắt đầu chuyển sang
sáng tác văn học. Đến 55 tuổi nhà văn mới có cuốn tiểu thuyết đầu tay ra đời và sau đó liên
tục cho ra mắt bạn đọc nhiều tác phẩm ở nhiều thể loại: tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết.
Với Đỗ Phấn cầm bút trước hết là thú tiêu dao “một cách nghỉ ngơi thư giãn có ích” nhưng
từ trong sâu thẳm có thể nhận thấy nhà văn đang rất lo lắng về sự sống của con người
trước thực tại, nhất là ở thủ đô - mảnh đất ngàn năm văn hiến - nơi ông có quãng thời gian
dài gắn bó. Nhà văn đã say sưa ngắm nhìn mảnh đất kinh kì với tất cả tình yêu của mình.
Với sức sáng tạo mạnh mẽ, chỉ trong gần mười năm trở lại đây, nhà văn đã cho ra đời hơn
hai mươi đầu sách (21 tác phẩm) trong đó có đủ các thể loại: tiểu thuyết, truyện ngắn,
truyện dài, tản văn và ở thể loại nào Đỗ Phấn cũng đạt được thành tựu nhất định, đặc biệt là
tiểu thuyết. Đỗ Phấn luôn day dứt về một Hà Nội đã phôi pha theo thời gian, không còn vẻ
đẹp thanh lịch như xưa nữa, mà thay vào đó là sự nhốn nháo, bộn bề hỗn tạp của phố
phường. Sự “thay da đổi thịt” của một đô thị đang vặn mình theo thời kinh tế thị trường sẽ
kéo theo nhiều vấn nạn xã hội như dân số tăng nhanh, nhà ở, giao thông, môi trường, công
ăn việc làm, mối quan hệ giữa người với người, đặc biệt là chất lượng cuộc sống của số
dân ấy, họ trở thành nạn nhân của vấn nạn sinh thái. Trong từng trang sách của Đỗ Phấn,
người đọc không chỉ thấy được vẻ đẹp thiên nhiên đất Hà thành mà còn có thể nhận thấy
cuộc sống con người nơi đây đang ngập trong dòng người hối hả, trong khói bụi của môi
trường, đang âu lo với các tệ nạn xã hội, đang cô đơn lạc lõng giữa dòng đời. Trong sáng
tác của mình, Đỗ Phấn bộc lộ khát vọng về một không gian sống an lành, thanh bình của
cư dân thành phố, ở đó thành phố phát triển trong sự giao thoa, cân bằng với thế giới tự
nhiên. Đặc biệt, nhà văn đã dành sự quan tâm của mình đến môi trường sinh thái gắn liền
với những vấn đề của đời sống đô thị hiện đại. Có lẽ, đây là một trong những phương diện
2
khiến cho tác phẩm của Đỗ Phấn thu hút được sự quan tâm của người đọc, khiến mỗi
người khi đọc tác phẩm của ông không khỏi không suy ngẫm về cuộc sống mà chính mình
đang sống. Nằm trong mạch vận động của văn học đương đại, sáng tác của Đỗ Phấn có
những đóng góp đáng kể trong việc thể hiện tâm thế nhập cuộc vào cuộc sống đang diễn
ra, thể hiện một cảm quan sinh thái rõ rệt.
Tiếp cận với các tiểu thuyết của Đỗ Phấn chúng tôi mong muốn tìm hiểu những đặc
điểm trong tiểu thuyết Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, từ đó góp thêm tiếng nói nhằm ghi
nhận những đóng góp của nhà văn đối với nền văn học Việt Nam. Lựa chọn đề tài: “Tiểu
thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái”, luận văn hướng đến đánh giá giá trị độc đáo
của tác giả Đỗ Phấn trong mảng viết về vấn đề môi trường sinh thái.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đỗ Phấn không phải là một nhà văn chuyên nghiệp, bởi trước khi cầm bút viết văn
ông là một họa sĩ đã thành danh. Mới xuất hiện trên văn đàn, chỉ trong vòng mười năm gần
đây Đỗ Phấn đã cho ra đời liên tiếp nhiều tác phẩm, với nhiều thể loại khác nhau. Với lòng
say mê văn chương nghệ thuật và sự nỗ lực mạnh mẽ, Đỗ Phấn đã cho ra đời nhiều tác
phẩm được người đọc đón nhận và đánh giá cao. Từ những tác phẩm đầu tiên của nhà văn
đã được khá nhiều độc giả và giới phê bình quan tâm, với nhiều bài viết đánh giá khác
nhau. Các tác phẩm của Đỗ Phấn đã được người đọc đón nhận và trở thành đối tượng
nghiên cứu trong nhiều bài viết và các luận văn thạc sĩ. Nhà nghiên cứu Đoàn Ánh Dương,
đã đánh giá cao tài năng của Đỗ Phấn ở lời bạt in ở trang bìa cuốn tiểu thuyết Rừng người:
“Đỗ Phấn tiêu biểu hơn các nhà văn khác ở chỗ là mẫn cảm nghệ thuật, cùng với những
trải nghiệm cuộc sống ở đô thị nên nhà văn đã hiểu rất rõ cái bát nháo của đời sống thị dân
cả mới và cũ” [47].
Trong cuốn Phê bình sinh thái tiếng nói bản địa - tiếng nói toàn cầu (Kỷ yếu hội
thảo quốc tế) của Viện Văn học, với bài viết Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái trong tiểu
thuyết Việt Nam từ sau đổi mới đến nay ThS. Nguyễn Thùy Trang cho rằng: “Trong sáng
tác của Đỗ Phấn nhuốm màu biến đổi khí hậu và thiên tai... Cuộc sống của người dân ven
đê sông Hồng sống dở chết dở khi hàng năm con sông Hồng đến mùa nước cạn và mùa
3
nước lên. Họ sống dật dờ, bấp bênh, không ổn định, không công ăn việc làm. Nhà văn
nhận thấy trên khuôn mặt của họ suốt ngày nhàu nhĩ lo toan nhàu nhĩ sợ” [79, tr.690]. Bài
viết Cảm quan sinh thái trong sáng tác của Đỗ Phấn của TS. Lê Hương Thủy cho thấy:
“Đô thị hóa trong sáng tác của Đỗ Phấn được thể hiện như một thực tế tất yếu cùng với xu
thế phát triển của đời sống, tuy nhiên, đi cùng với nó là những hệ lụy, những “chấn thương
sinh thái”, những tác động đến môi trường và con người” [79, tr. 831].
Sáng tác của Đỗ Phấn cũng là đối tượng trong nhiều bài viết của các nhà văn, nhà
phê bình viết về Đỗ Phấn, có thể kể đến các bài viết của Trần Nhã Thụy, Nguyễn Xuân
Thủy, Nguyễn Việt Hà, Phạm Ngọc Tiến, Nguyễn Chí Hoan... Trong vài năm gần đây,
nhất là ở bậc đào tạo sau Đại học của một số trường Đại học, tiểu thuyết của Đỗ Phấn trở
thành đối tượng nghiên cứu trong một số luận văn, luận án. Theo tiến trình của thời gian có
thể kể đến: Năm 2013, đề tài nghiên cứu “Hiện thực đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ
Phấn” của học viên Trần Kim Dũng ở Đại học Vinh, Nghệ An. Năm 2014, luận văn
nghiên cứu “Cảm thức phi lí trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của thạc sĩ Võ Thị Thanh
Hiền, Đại học Đà Nẵng và “Đề tài đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của học viên
Nguyễn Thị Hương, trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc Đại học Quốc gia
Hà Nội. Năm 2015, đề tài luận văn nghiên cứu “Đặc điểm tiểu thuyết của Đỗ Phấn” của
học viên Võ Hùng, trường Đại học Vinh, Nghệ An... Các bài viết, các đề tài nghiên cứu đã
có những phát hiện, đánh giá tài năng của Đỗ Phấn trong đó có những ghi nhận về dấu ấn
của Đỗ Phấn trong việc thể hiện những vấn đề về môi trường sinh thái thiên nhiên, cuộc
sống và con người nơi đô thị.
Với những thành tựu và đóng góp, sáng tác của Đỗ Phấn đã trở thành đối tượng quan
tâm trong nhiều bài viết, công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, vấn đề về môi trường, về sinh
thái đô thị thì chưa có luận văn, luận án nào nghiên cứu một cách có hệ thống. Vì vậy,
chúng tôi lựa chọn đề tài “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái” với mong
muốn đánh giá về tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn một cách toàn diện hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
4
Lựa chọn đề tài nghiên cứu Tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái, luận văn
hướng tới mục đích cơ bản sau:
- Làm sáng tỏ vấn đề về môi trường, về sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
- Phân tích, lí giải những đặc điểm về cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ
Phấn.
- Chỉ ra được những đóng góp về phương diện thể hiện những vấn đề môi trường
sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn trong bối cảnh văn học Việt Nam đương đại.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn hướng đến ba nhiệm vụ sau:
- Vấn đề sinh thái qua các thời kì văn học và trong sáng tác của Đỗ Phấn.
- Cảm quan về sinh thái tự nhiên trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
- Con người trong không gian sinh thái đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài hướng trọng tâm tìm hiểu những đặc điểm về tiểu thuyết của Đỗ Phấn từ góc
nhìn sinh thái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi nghiên cứu các sáng tác ở thể loại tiểu thuyết
của Đỗ Phấn:
- Vắng mặt (2010), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Chảy qua bóng tối (2011), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Rừng người (2011), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
- Gần như là sống (2013), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Con mắt rỗng (2013), Nxb Văn học, Hà Nội.
- Ruồi là ruồi (2014), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Rụng xuống ngày hư ảo (2015), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Vết gió (2016), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Rong chơi miền kí ức (2016), Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
5
Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu một số truyện ngắn, truyện dài và tản văn của Đỗ
Phấn và một số tác giả khác cùng viết về sinh thái đô thị làm đối tượng nghiên cứu và
tham chiếu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi sử dụng các phương pháp và thao tác nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu liên nghành văn học - văn hóa học: để xem xét vấn đề
sinh thái đô thị trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn qua các thời kì lịch sử.
- Phương pháp hệ thống: giúp người viết xâu chuỗi các mối quan hệ giữa con
người và tự nhiên để làm sáng tỏ vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
- Thao tác phân tích - tổng hợp: để xem xét một cách chi tiết và có cái nhìn khái
quát về vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
- Thao tác so sánh, đối chiếu: để thấy được vấn đề sinh thái trong tiểu thuyết của
Đỗ Phấn so với các thể loại khác của ông và so với các nhà văn khác.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn là công trình chuyên biệt nghiên cứu những đặc trưng trong cảm quan nghệ
thuật của Đỗ Phấn từ góc nhìn sinh thái. Những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp
phần làm sáng tỏ vấn đề sự thể hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, sự ảnh
hưởng tác động của con người đối với thiên nhiên ở đô thị hiện đại trong tiểu thuyết của
Đỗ Phấn. Qua đó, để thấy được những đóng góp của nhà văn trong sự phát triển của nền
văn học Việt Nam nói chung và vấn đề văn học sinh thái nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Vấn đề sinh thái qua các thời kì văn học và trong sáng tác của Đỗ Phấn.
Chương 2: Cảm quan về sinh thái tự nhiên trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn.
Chương 3: Con người trong không gian sinh thái đô thị trong tiểu thuyết Đỗ Phấn.
6
Chương 1
VẤN ĐỀ SINH THÁI QUA CÁC THỜI KÌ VĂN HỌC
VÀ TRONG SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN
1.1. Vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam
1.1.1. Nghiên cứu, phê bình văn học từ góc nhìn sinh thái
Chúng ta đang sống trong thế kỉ XXI - thế kỉ mà nhiều nhà nghiên cứu cho rằng
con người phải đối mặt với nhiều nguy cơ sinh thái nhất. Trong xã hội văn minh, hiện
đại cùng với sự phát triển của tốc độ đô thị hóa thì con người đang ngày càng khai thác
tự nhiên quá mức, khiến cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt không chỉ ở một
quốc gia mà trên toàn cầu. Chính vì vậy mà con người đang phải chịu rất nhiều hậu quả
của thiên nhiên gây ra: hạn hán, lũ lụt, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, nước biển
tăng cao... Cùng với sự biến đổi ấy, các nhà văn ngày càng có ý thức khám phá về
những vấn đề sinh thái cũng như mối quan hệ giữa môi trường sống và con người.
Theo tiếng La tinh sinh thái có nghĩa là nhà ở, nơi cư trú. Bất kì sinh vật nào sinh
sống trên trái đất đều cần nơi cư trú [33, tr.9]. Thuật ngữ sinh thái học có thể hiểu đó là
bộ môn khoa học nghiên cứu về mối quan hệ giữa môi trường và sinh vật sống [28,
tr.13]. Bộ môn khoa học gắn liền với sinh học và dần dần được phát triển trong nhiều
ngành khoa học khác. Thuật ngữ sinh thái học ra đời vào năm 1869 do nhà nghiên cứu
sinh vật người Đức đưa ra [33, tr.9]. Đến nay, sinh thái không chỉ là đối tượng nghiên
cứu của bộ môn sinh học mà còn là đối tượng nghiên cứu của nhiều nghành khoa học
khác, trong đó có cả khoa học xã hội và nhân văn.
Phê bình sinh thái với tư cách là một khuynh hướng phê bình văn hóa văn học,
thực chất nó là nghiên cứu mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con người được
thể hiện trong các tác phẩm văn học. Người dùng thuật ngữ “phê bình sinh thái” đầu
tiên là nhà phê bình người Mĩ tên là William Rueckert vào năm 1978 [28, tr.14]. Đến
những năm đầu của thập kỉ 90 phê bình sinh thái trở thành một phong trào phát triển
mạnh mẽ. Đến nay, phê bình sinh thái phát triển nhanh chóng ở nhiều quốc gia trên thế
giới. Các cuộc hội nghị khoa học về vấn đề môi trường trong văn học được tổ chức
7
thường xuyên. Có thể kể đến Hội nghiên cứu ngôn ngữ học hiện đại vào năm 1991,
với chủ đề “Phê bình sinh thái: Xanh hóa nghiên cứu văn học”. Những năm sau đó, các
chuyên luận được ra đời như những cột mốc của phê bình sinh thái: chuyên luận Phê
bình văn học sinh thái: tưởng tượng lãng mạn và sinh thái học tinh thần năm 1994;
Tưởng tượng môi trường: Thoreau, văn viết về tự nhiên và sự cấu thành của văn hóa
Mĩ vào năm 1995, cuốn Tuyển tập Phê bình sinh thái: Các mốc quan trọng trong Sinh
thái học Văn học của Cheryll Glotfelty năm 1996, cuốn Tuyển tập nghiên cứu xanh:
Từ chủ nghĩa lãng mạn tới phê bình sinh thái năm 2000 do Laurence Coupe biên tập;...
Sau này phê bình sinh thái phát triển sang nhiều nước ở Châu Âu, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Trung Quốc... đã đem đến một diễn đàn nghiên cứu phê bình văn học, ở đó cho
thấy các nhà nghiên cứu, phê bình đã có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đề môi trường
sinh thái trong sáng tác văn học.
Ở Việt Nam, công trình nghiên cứu về sinh thái Phê bình sinh thái - khuynh
hướng nghiên cứu văn học mang tính cách tân của Đỗ Văn Hiểu (2012) được coi là bài
viết công phu thể hiện tư tưởng nòng cốt về phê bình sinh thái từ trước đến nay. Một số
bài viết và công trình của các học giả nước ngoài đã được dịch bởi một số nhà nghiên
cứu Việt Nam như Hải Ngọc với công trình nghiên cứu Những tương lai của phê bình
sinh thái và văn học của Karen Thornber trong tập Phê bình sinh thái Đông Á: Tuyển
tập phê bình (2013), công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái - nhìn từ lí thuyết giải
cấu trúc (2013) của Nguyễn Thị Tịnh Thy, công trình nghiên cứu Phê bình sinh thái
của Kate Rigby do Đặng Thị Thái Hà dịch (2014), công trình Nghiên cứu văn học
trong thời đại khủng hoảng môi trường của Cheryll Glotfelty do Trần Thị Ánh Nguyệt
dịch (2014), Phương Lựu trong bài Cần tìm hiểu sự chuyển hướng của phê bình sinh
thái (2015), bài giới thiệu Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu văn học
của Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), bài viết của giáo sư Trần Đình Sử
Chuyển hướng văn hóa trong nghiên cứu văn học. Gần đây nhất là cuốn Phê bình sinh
thái là gì? Viện Văn học dịch do Hoàng Tố Mai chủ biên và một số cuộc hội thảo khoa
học về phê bình sinh thái diễn ra như: cuộc hội thảo khoa học Phê bình sinh thái -
8
Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu do Viện Văn học tổ chức (12/2017); tháng
01/2018 hội thảo khoa học Sinh thái học trong văn học Đông Nam Á: Lịch sử, Huyền
thoại và Xã hội của Hiệp hội Nghiên cứu liên ngành Văn học và Môi trường Đông
Nam Á tại Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội cho thấy
phê bình sinh thái đang là một hướng nghiên cứu được giới nghiên cứu quan tâm, đánh
dấu những bước chuyển quan trọng trong việc nghiên cứu phê bình sinh thái trong đời
sống văn học ở thời đại khủng hoảng môi trường.
Thời đại ngày nay mà chúng ta đang sống đặt ra một vấn đề nếu chúng ta không
thay đổi hành vi của mình thì sẽ phải đối mặt với thảm họa sinh thái. Trong văn học
vấn đề sinh thái trở thành một đề tài quan trọng mà các nhà văn cần khai thác. Qua các
tác phẩm văn học của mình, các nhà văn có thể thể hiện thái độ về văn hóa ứng xử của
con người đối với tự nhiên, phê phán những tư tưởng, những chính sách văn hóa xã hội
làm ảnh hưởng đến thế giới tự nhiên, dẫn đến tình trạng xấu đi của môi trường và nguy
cơ biến đổi sinh thái.
1.1.2. Một vài hình dung về vấn đề sinh thái trong văn học Việt Nam
Trong lịch sử văn học, con người là đối tượng trung tâm của văn học. Trong
nhiều tác phẩm văn học, con người vẫn thường được xây dựng và biểu hiện trong mối
quan hệ với thế giới tự nhiên. Trong văn học dân gian, con người luôn luôn đứng cao
hơn vũ trụ, con người tôn sùng tự nhiên qua những hành động lớn lao kiểu dời non lấp
bể, chống trời, tôn sùng tự nhiên qua việc nói đến kích thước thân thể khổng lồ trong
tác phẩm “Nữ oa vá trời”, “Thần trụ trời”... Trong nhiều câu ca dao, dân ca, hò vè các
tác giả dân gian đã khắc họa thiên nhiên vô cùng tươi đẹp, con người sống trong môi
trường ấy sẽ hưởng thụ và chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên thanh bình, yên ả của
quê hương đất nước: “Đường vô xứ Nghệ quanh quanh/ Non xanh nước biếc như
tranh họa đồ” (Ca dao). Việt Nam là một nước nông nghiệp, dân số chủ yếu sống bằng
nghề nông, cuộc sống con người thường xuyên phải chịu những tác động của tự nhiên,
phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên. Thiên nhiên đóng vai trò rất lớn trong đời sống của
cư dân nông nghiệp. Nó vừa là nguồn lợi, là môi trường đồng thời cũng là nỗi lo âu của
9
người dân. Mỗi khi bước chân ra đồng người nông dân luôn phải lo lắng sao cho mưa
thuận gió hòa, thực tế này được phản ánh trong ca dao: “Trông trời trông đất trông
mây/ Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/ Trông cho chân cứng đá mềm/
Trời yên bể lặng mới yên tấm lòng” (Ca dao).
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu về khoa học kĩ thuật, song với tình trạng biến
đổi khí hậu bất thường do sự tàn phá của con người thì sự khắc nghiệt của tự nhiên càng
trở nên khủng khiếp hơn. Hạn hán, lũ lụt xảy ra nhiều hơn, tàn khốc hơn, những trận động
đất kinh thiên động địa đã làm cho con người ngày càng khốn đốn. Con người tồn tại và
phát triển cùng với môi trường tự nhiên bởi vậy khi chỉnh thể sinh thái bị hủy hoại thì sự
sống của con người cũng sẽ bị đe dọa. Từ xa xưa, tác giả dân gian đã ý thức về môi
trường tự nhiên và sự chống trả vất vả của con người với thiên tai, điều này được thể
hiện trong chi tiết nước lũ dâng lên hàng năm, nước dâng lên bao nhiêu thì đồi núi cũng
dâng lên bấy nhiêu (Sơn Tinh, Thủy Tinh) để nói rằng con người vẫn chế ngự được
thiên nhiên, vẫn làm chủ được thiên nhiên. Trong văn học trung đại, cảm thức về sinh
thái là cảm thức hòa điệu: ca tụng thiên nhiên, xem thiên nhiên là nơi lánh trú tâm hồn, lí
tưởng hóa mối tương tác giữa con người và môi trường. Điều đó được thể hiện rõ trong
thơ Thiền thời Lí Trần, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Khuyến... Thiên
nhiên trong mối quan hệ với con người chủ yếu thể hiện ở hai khía cạnh vừa là nơi lánh trú
ẩn dật, vừa là người bạn thân thiết. Khi cuộc đời không như ý con người thường trở về với
thiên nhiên, sống chan hòa với thiên nhiên, Nguyễn Trãi đã dành tất cả tấm lòng ưu ái của
mình cho thiên nhiên: “Côn Sơn suối chảy rì rầm/ Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai/
Côn Sơn có đá rêu phơi/ Ta ngồi trên đá như ngồi đệm êm” (Bài ca Côn Sơn - Nguyễn
Trãi). Dưới ngòi bút của Bạch Vân cư sĩ - Nguyễn Bỉnh Khiêm, những tứ thơ đã thể hiện
cảm xúc giao hòa giữa thiên nhiên với tâm hồn thanh thản của nhà thơ khi sống ẩn dật nơi
quê nhà: “Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” (Nhàn - Nguyễn
Bỉnh Khiêm).
Việt Nam là một nước trong suốt chiều dài lịch sử có nhiều thế lực xâm lược.
Trong thời chiến do sự hủy hoại của chiến tranh nên nguồn tài nguyên thiên nhiên bị
10
tàn phá khiến cho môi trường bị ô nhiễm nghiêm trọng. Các nhà thơ, nhà văn đã có cái
nhìn về vấn đề này. Trong Bình Ngô đại cáo nhà văn Nguyễn Trãi đau xót vô cùng khi
chứng kiến cảnh: “Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường/ Xương Giang, Bình
Than, máu trôi đỏ nước” (Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi)
Đầu thế kỉ XX, cùng với cảm quan sầu đô thị, sự tàn phá thiên nhiên chính là từ
các công cuộc đô thị hóa, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, điện khí hóa... của con người.
Nhà thơ Tú Xương đã có dự cảm “Phố phường chật hẹp người đông đúc/ Bồng bế
nhau lên nó ở non” (Năm mới chúc nhau - Trần Tế Xương). Trong văn học hiện đại
các nhà văn đã có sự quan tâm hơn đến mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên và con
người. Thời kì văn học lãng mạn 1930 - 1945 gắn liền với quá trình đô thị hóa, nhiều
nhà văn, nhà thơ đã quay lưng lại thực tế, tìm về thiên nhiên. Có khi là thiên nhiên tươi
đẹp thơ mộng, như thực như hư dưới con mắt của thi sĩ Hàn Mặc Tử, nơi có những khu
vườn nhỏ nhắn, xinh xinh, những ngôi nhà lấp ló sau những vườn cây xanh mướt như
ngọc của xứ Huế: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?/ Nhìn nắng hàng cau nắng mới
lên/ Vườn ai mướt quá xanh như ngọc/ Lá trúc che ngang mặt chữ điền” (Đây thôn Vĩ
Dạ - Hàn Mặc Tử). Dưới con mắt của thi sĩ đa tình, nhà thơ Xuân Diệu biểu lộ một
tình thơ thật đắm say, ngất ngây về sự giao hòa giữa thiên nhiên và con người rất gần
gũi, thân thiết: “Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên/ Cây me ríu rít cặp chim
chuyền/ Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá/ Thu đến nơi nơi động tiếng huyền” (Thơ
duyên - Xuân Diệu).
Văn học giai đoạn từ năm 1945 - 1975, thời kì diễn ra cuộc chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mĩ và thực dân Pháp, này cũng có thể được xem xét dưới cái nhìn sinh thái, đó là
sự hủy hoại của môi trường trong chiến tranh, mỗi ngày có hàng nghìn, hàng vạn tấn bom
dội xuống đất nước Việt Nam. Nhân dân Việt Nam phải chịu bao khói thuốc chiến tranh, ô
nhiễm môi trường đất, nước và không khí. Tuy nhiên, vẫn có những vần thơ, những tác
phẩm thể hiện mối quan hệ gần gũi giữa con người và thiên nhiên, nhân dân ta chiến đấu
bảo vệ Tổ quốc, cũng là chiến đấu cho mỗi nhành hoa, ngọn cỏ, tấc đất của quê hương:
“Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam/ Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng” (Hoan hô
11
chiến sĩ Điện Biên - Tố Hữu). Thời kì này cội nguồn của cảm quan sinh thái là tình yêu
quê hương đất nước: tình yêu với hương cỏ mật, với hoa bưởi nồng nàn, với hoa ổi,
hoa doi ngát hương (Hương cỏ mật - Đỗ Chu, Hương thầm - Phan Thị Thanh Nhàn,
Mùa hoa doi - Xuân Quỳnh...), những hình ảnh, âm thanh gần gũi với mỗi người dân
như hình ảnh bếp lửa, tiếng gà (Bếp lửa - Bằng Việt, Tiếng gà trưa - Xuân Quỳnh), với
dòng sông, cánh đồng thân thuộc (Đồng chí - Chính Hữu, Tây Tiến - Quang Dũng,
Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi...). Trong giai đoạn văn học này các nhà
văn có nói đến thiên nhiên nhưng chủ yếu để biểu hiện cho sức sống vĩnh hằng, bất diệt
dẫu cho cuộc chiến tranh ác liệt đến mức nào (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh
Châu, Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành, Vòng cườm trên cổ chim cu - Chế Lan
Viên). Văn học có nói đến sự phá hoại của chiến tranh đối với tự nhiên nhưng chủ yếu
nghiêng về tố cáo tội ác của giặc (Dấu chân người lính - Nguyễn Minnh Châu, Cánh
đồng hoang - Nguyễn Quang Sáng...). Cụ thể trong tác phẩm Rừng xà nu Nguyễn
Trung Thành đã nói rất rõ sự phá hoại của bọn giặc khiến cho cả rừng xà nu trước cửa
làng Xô Man bị tàn phá khủng khiếp, cây nào cũng bị thương, có những cây xà nu bị
chặt đứt ngang nửa thân mình, nhựa ứa ra tràn trề.
Sau năm 1975, văn học đặc biệt chú ý hơn đến những vấn đề liên quan đến sinh
thái. Tính liên nghành cũng được nhấn mạnh, nhiều tác phẩm được viết theo hướng tố
cáo sự phá hoại thiên nhiên của chiến tranh như Miền cỏ cháy của Nguyễn Minh Châu,
hay dòng “văn học da cam”, di chứng của chất độc da cam tàn phá môi trường, chất
độc dioxin với những khu rừng xác xơ trụi lá, mái đầu rụng hết tóc của các nữ thanh
niên xung phong, rồi những đứa con dị hình, dị dạng, không lành lặn của các cựu chiến
binh trở về từ chiến trường (Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo, Mười ba bến
nước - Sương Nguyệt Minh...). Khi chiến tranh đã lùi xa, người ta mới nhận ra rằng nó
không chỉ tổn thất về vật chất, mà còn tổn thất về tinh thần, về môi trường chưa thể
khắc phục ngay được, những hậu quả của nó vẫn còn để lại âm ỉ sau bao thế hệ.
Văn học sinh thái truy tìm nguồn gốc của nguy cơ sinh thái. Có lẽ thế, mà nhiều
tác phẩm trong thời gian này đã phê phán mặt trái của văn minh như tác phẩm của
12
Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Ngọc Tư, Sương Nguyệt Minh...
Bên cạnh đó, văn học sinh thái còn chú trọng đến trách nhiệm của con người đối với tự
nhiên, khẩn thiết lên tiếng kêu gọi con người hãy bảo vệ vạn vật trong tự nhiên để duy
trì cân bằng sinh thái: (Thung mơ của Hà Nguyên Huyến, Sống mãi với cây xanh,
Khách ở quê ra - Nguyễn Minh Châu, Giải vía - Hà Thị Cẩm Anh...). Văn học sinh
thái còn đặt ra trách nhiệm của con người đối với tự nhiên. Con người cần trân trọng,
yêu thương, che chở tự nhiên, nhìn vào tự nhiên mà điều chỉnh hành vi của mình.
Trong các tác phẩm văn học, các nhà văn đã có sự quan tâm đến các vấn đề xã hội, dân
sinh, hướng về đô thị, những vấn đề nảy sinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, những mâu thuẫn nảy sinh trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.
Sau năm 1975, các tác phẩm văn học đã chú ý nhiều hơn về mối quan hệ giữa
môi trường tự nhiên và con người sinh tồn trong môi trường ấy. Nhà văn Nguyễn Minh
Châu được coi là “người mở đường tinh anh” (Nguyên Ngọc) cũng đã có ý thức rất
sớm về vấn đề sinh thái. Tác giả để cho nhân vật của mình có những xử sự rất đỗi nhân
văn. Các tác phẩm cũng đề cập đến vấn đề lo âu về tương lai đô thị như Cỏ lau, Miền
cháy, Phiên chợ Giát, Sống mãi với cây xanh... Nguyễn Huy Thiệp, người đã tạo nên
“khúc ngoặt” (Lã Nguyên) cho văn xuôi Việt Nam sau 1975 cũng là người đưa ra được
những triết lí sinh thái thực sự có chiều sâu. Thời kì đầu, ông chưa khai thác sâu về mối
quan hệ giữa tự nhiên và con người nhưng cùng với quá trình phát triển đô thị, tác
phẩm của Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện kiểu nhân vật phản ứng với văn minh đô thị.
Trong truyện ngắn Chuyện tình kể trong đêm mưa nhân vật Bạc Kì Sinh không thích
người Kinh lên Tây Bắc khai hóa văn minh, nhân vật Doanh trong Những người muôn
năm cũ phỉ báng kết quả của việc tiếp thu văn minh đô thị. Từ đó, Nguyễn Huy Thiệp
băn khoăn đi tìm câu trả lời làm thế nào để con người sống yên ổn và hạnh phúc. Nhiều
trang viết của Nguyễn Huy Thiệp thể hiện nỗi bất an và lo âu, ở đó nhân vật thường rơi
vào niềm cô độc, đau đớn, có khi dẫn đến cái chết (Con gái thủy thần, Chăn trâu cắt
cỏ, Thương nhớ đồng quê...). Nguyễn Huy Thiệp cũng như nhiều nhà văn đương đại
đang đi tìm câu trả lời cho vấn đề vẻ đẹp tự nhiên đang dần bị mai một, về những bất
13
ổn của đô thị hóa. Sau này, nhiều tác phẩm của một số nhà văn đã viết trực diện về
những vấn đề của môi trường như Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên, Sâm cầm Hồ
Tây, Chuyến đi săn cuối cùng của Sương Nguyệt Minh, Khách đến Nha Trang của
Hoàng Minh Tường, Giải vía, Đối thoại với bất tử của Hà Thị Cẩm Anh, Con chó và
vụ li hôn của Dạ Ngân, Đàn sẻ ri bay ngang rừng của Võ Thị Xuân Hà, Bóng của cây
sồi của Đỗ Bích Thúy, Miền cỏ hoang của Trần Thanh Hà, Cánh đồng bất tận của
Nguyễn Ngọc Tư,... Các tác phẩm của Đỗ Phấn như Vắng mặt, Chảy qua bóng tối,
Rừng người, Rong chơi miền kí ức, Ruồi là ruồi, Gần như là sống, Rụng xuống ngày
hư ảo, Vết gió, Con mắt rỗng cùng một số truyện ngắn, truyện dài, tản văn cũng đều đề
cập đến vấn đề sinh thái.
Nhiều tác phẩm sau 1975 đều viết về sự nếm trải của con người với những khủng
hoảng môi trường sinh thái. Có lẽ, Nguyễn Ngọc Tư là một trong số nhà văn viết có sự
ám ảnh nhất. Thời kì đầu, các tác phẩm chỉ xoay quanh vấn đề tình cảm, về sau lồng
trong các câu chuyện là vấn đề thời sự, cụ thể là vấn đề môi trường. Các nhân vật trong
truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư hầu hết là sống và lớn lên trên mảnh đất chôn rau cắt
rốn nên có cái nhìn của người trong cuộc, trước sự đổi thay của quê hương mà thấy xót
xa. Tác giả đã nhìn thấy sự bạc màu của đất, sự biến mất của tự nhiên tươi đẹp, những
thảm họa thiên nhiên trút lên cuộc sống của con người như mùa nước nổi, xâm ngập
mặn của đồng bằng sông Cửu Long, cuộc sống của họ cứ phải nay đây mai đó, di
chuyển khắp nơi để sinh sống qua mùa nước nổi, đến những vùng nước ngọt để tồn tại.
Sinh ra và lớn lên ở vùng sông nước, Nguyễn Ngọc Tư phát hiện ra rằng: nước được
coi là yếu tố vô cùng quan trọng đối với con người. Nó là yếu tố quan trọng nhất cấu
thành sự cân bằng sinh thái tự nhiên. Con người không thể sống thiếu nước, đặc biệt là
nước ngọt, nước sạch. Trong Cánh đồng bất tận hình ảnh người dân xếp hàng dài đi
mua nước ngọt, họ phải nín thở để nước khỏi sánh ra ngoài thùng đựng nước, họ phải
tụt xuống ao tắm rồi lên rửa lại bằng nước ngọt nhưng chỉ đúng hai gàu, nước vo gạo
dùng để rửa rau, rửa rau xong thì dùng để rửa cá, họ phải tiết kiệm từng gáo nước. Họ
chỉ ao ước rất đơn giản là bao giờ được tắm một bữa nước ngọt cho đã đời. Ở tiểu
14
thuyết Sông, một lần nữa nhà văn nhắc lại tình cảnh thiếu nước ngọt đến trầm trọng của
người dân vùng sông nước... Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Ngọc Tư đã đặt ra
nhiều vấn đề về môi trường và số phận cá nhân trong chỉnh thể sinh thái, cảnh báo về
tình trạng biến đổi khí hậu trên từng dòng sông, mỗi ngôi nhà và từng số phận nhân
vật. Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm của các tác giả như: Con gái thủy thần, Chăn trâu
cắt cỏ, Những bài học ở nông thôn.... của Nguyễn Huy Thiệp, Kẻ ám sát cánh đồng
của Nguyễn Quang Thiều, Biển và chim bói cá của Bùi Ngọc Tấn, Chốn sơn khê,
Giường đôi xóm Chùa của Đoàn Lê và các truyện ngắn Khói trời lộng lẫy, Gió lẻ,
Ngọn đèn không tắt, Giao thừa, Sông... của Nguyễn Ngọc Tư.
Quá trình đô thị hóa đang phát triển hết sức nhanh chóng, nhất là những thành
phố đang trong quá trình phát triển theo hướng hiện đại văn minh không chỉ là trung
tâm văn hóa, chính trị, nhiều thành phố còn là nơi khủng hoảng về môi trường sinh
thái. Với một cái nhìn thấu suốt, nhiều tác phẩm viết về sinh thái đô thị thể hiện nỗi bất
an, lo âu của con người sống trong môi trường ấy. Có thể thấy, nhà văn Đỗ Phấn không
phải là người duy nhất viết về môi trường sinh thái đô thị mà đã có rất nhiều nhà văn
khác đã và đang viết về vấn đề này. Khi viết về vấn đề sinh thái đô thị, Đỗ Phấn có cái
nhìn và cảm quan đặc biệt, cái nhìn mẫn cảm của một nhà văn nhận thấy sự thay đổi
của thủ đô trước sự xâm lấn của văn minh đô thị.
1.2. Đỗ Phấn trong đời sống văn học Việt Nam đương đại và cảm quan sinh thái
trong tiểu thuyết Đỗ Phấn
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà văn Đỗ Phấn
Đỗ Phấn sinh năm 1956 trong một gia đình công chức tại Hà Nội. Năm 1980, ông
đỗ tốt nghiệp Đại học Mĩ thuật. Từ năm 1980 - 1989, ông là giảng viên giảng dạy Mĩ
thuật tại khoa Kiến trúc, trường Đại học Xây dựng Hà Nội. Hiện nay, Đỗ Phấn là một
họa sĩ tự do, là một nhà văn được nhiều độc giả biết đến. Đỗ Phấn là một người đi nhiều,
hiểu nhiều, biết rộng. Ông là “một giang hồ ham mê các hành trình dọc ngang nước Việt,
thi thoảng nổi hứng lại nhảy lên Tây Tạng, tạt ngang Paris... Chưa kịp gặp đã nghe bay
sang Bangkok hoặc vọt sang Australia...” [24]. Phải chăng, nhà văn đi khắp nơi trên đất
15
nước và thế giới để di dưỡng tinh thần và tìm nguồn cảm hứng sáng tác trong các tác phẩm
của mình.
Đỗ Phấn vẫn thường được nhắc đến với cương vị là một họa sĩ có tài, hơn 40 năm
cầm bút vẽ, Đỗ Phấn có một gia tài tranh đáng kể. Và hơn 10 năm nay ông gần như đã
ngừng bút vẽ, chỉ góp mặt trên báo chí với những minh họa và tranh Tết. Với Đỗ Phấn, vẽ
và viết đều có chung một mục đích là cái đẹp, sự lương thiện. Chất liệu để làm nên tác
phẩm của Đỗ Phấn chính là mảnh đất nơi nhà văn sinh ra và lớn lên. Chính nhà văn cũng
cho rằng: “Dù vẽ hay viết thì mục đích cuối cùng của tôi là tìm đến cái đẹp, cái thẩm mĩ,
cái nhân văn của cuộc sống. Nhất là Hà Nội hôm nay có phần mất mát, xô lệch quá chẳng
còn giữ được bao nhiêu. Là người con Hà Nội, tôi thấy mình cần có trách nhiệm phải lưu
giữ những nét đẹp của Hà Nội mà mình đã may mắn được trải qua, khi mà tình yêu làm
nó bị pha loãng bằng muôn nghìn cách” [68].
Trước khi cầm bút viết, Đỗ Phấn đã phải trải qua nhiều chức phận khác nhau. Đỗ
Phấn từng là thầy giáo đứng trên giảng đường đại học, là họa sĩ tài hoa. Ông đến với văn
chương khi tuổi đời không còn trẻ. Với sức sáng tạo dồi dào và cách làm việc nghiêm túc,
Đỗ Phấn liên tục cho ra đời nhiều tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau, từ tản văn đến
truyện ngắn, truyện dài và tiểu thuyết và ở thể loại nào cũng có những dấu ấn. Các tác
phẩm của ông gần như viết duy nhất một đề tài là Hà Nội. Mỗi tác phẩm là một thế giới
khác nhau thể hiện một cảm quan sinh thái về Hà Nội, thành phố đang từng ngày thay đổi
trong bối cảnh đương đại.
Về sự nghiệp văn học, sau hơn 10 năm cầm bút viết Đỗ Phấn là nhà văn có sức sáng
tạo đáng kinh ngạc. Ông đã cho ra đời các tác phẩm với nhiều thể loại khác nhau, từ tiểu
thuyết đến truyện dài, truyện ngắn, tản văn. Năm 2010, tiểu thuyết Vắng mặt được lọt vào
chung khảo giải văn Bách Việt. Năm 2014, truyện dài Dằng dặc triền sông mưa của Đỗ
Phấn đã dành giải thưởng ở hạng mục Văn xuôi của Hội nhà văn Hà Nội.
Ở lĩnh vực tiểu thuyết là các sáng tác: Vắng mặt (Nxb Trẻ - 2010); Rừng người (Nxb
Phụ nữ - 2011); Chảy qua bóng tối (Nxb Trẻ - 2011); Gần như là sống (Nxb Trẻ - 2013);
16
Con mắt rỗng (Nxb Văn học - 2013); Ruồi là ruồi (Nxb Trẻ - 2014); Rụng xuống ngày hư
ảo (Nxb Trẻ - 2015); Vết gió (Nxb Trẻ - 2016); Rong chơi miền kí ức (Nxb Trẻ - 2016).
Ngoài ra, ông còn cho ra mắt bạn đọc các tập truyện ngắn và truyện dài: Đêm tiền sử
(Nxb Hội nhà văn - 2009); Thác hoa (Nxb Trẻ - 2010); Kiến đi đằng kiến (Nxb Phụ nữ -
2009); Dằng dặc triền sông mưa (Nxb Trẻ - 2013).
Ông cũng là người viết nhiều ở thể loại tản văn và đa phần là viết về thủ đô Hà Nội
với các tác phẩm: Chuyện vãn trước gương (Nxb Hội nhà văn - 2005); Ông ngoại hay
cười (Nxb Lao động - 2011); Phượng ơi (Nxb Dân Trí - 2012); Hà Nội thì không có tuyết
(Nxb Trẻ - 2013); Ngồi lê đôi mách với Hà Nội (Nxb Trẻ - 2015); Ngẫm ngợi phố
phường (Nxb Trẻ - 2015); Đi chơi bờ hồ (Nxb Trẻ - 2018); Bâng quơ một thời Hà Nội
(Nxb Trẻ - 2018).
1.2.2. Cảm quan sinh thái của nhà văn Đỗ Phấn.
Nghiên cứu về vấn đề sinh thái là một chủ đề mang tính thời sự từng được đặt ra
trong bối cảnh của đời sống xã hội và đời sống văn học hơn một thập niên gần đây. Thời kì
văn học đương đại, vấn đề sinh thái mới được thể hiện một cách đa dạng trong nhiều tác
phẩm. Trong các sáng tác của mình, các nhà văn đã lên án sự hủy hoại môi trường của con
người, nhất là môi trường sinh thái đô thị. Giống như các nhà văn đương thời, Đỗ Phấn
cũng quan tâm đến vấn đề sinh thái. Ông sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Thăng Long văn
hiến lâu đời, ông hiểu rất rõ từng sự thay đổi, sự chuyển mình của đô thị nhất là những
năm gần đây khi quá trình đô thị diễn ra nhanh chóng, con người được tiếp cận với nền
văn minh tiến bộ nhưng cũng để lại nhiều hệ lụy khi tự nhiên bị phương hại, con người trở
nên bất an, con người muốn tìm về trạng thái cân bằng sinh thái. Ông viết về Hà Nội bằng
tất cả tấm lòng, bằng những chiêm nghiệm, những hồi ức xa xưa của mình.
Đỗ Phấn luôn tâm niệm “cả đời, tôi sẽ chỉ viết sách về Hà Nội” [32]. Chỉ trong
khoảng thời gian ngắn, Đỗ Phấn đã cho ra đời nhiều tiểu thuyết viết về Hà Nội: Vắng mặt,
Chảy qua bóng tối, Rừng người, Rong chơi miền kí ức, Ruồi là ruồi, Rụng xuống ngày hư
ảo, Vết gió... Tất cả đều là một bức tranh chân thực về phố phường Hà Nội. Ở đó ta thấy
được con người sống trong đô thị ngột ngạt đến mức nào? Họ được sống đầy đủ hơn về
17
vật chất nhưng họ lại phải đối mặt với nhiều vấn đề về môi trường sinh thái trong cuộc
sống. Đối với người thành phố để hướng đến một đời sống an nhàn hòa hợp với thiên
nhiên cũng khó khăn. Mong mỏi của Đức trong Rụng xuống ngày hư ảo là một thực tế.
Muốn uống trà ngon thì cần phải có quá nhiều điều kiện. Chẳng hạn, mang trà Thái
Nguyên về thành phố pha với nước máy đun sôi thì thấy nhạt phèo, đắng ngắt, chẳng còn
là vị của trà Thái Nguyên nữa. Rồi đến việc ngắm một vùng trời bình yên ở thành phố mới
thật là khó khăn, xung quanh họ chỉ thấy nhà cao tầng mọc lên san sát, đường phố lúc nào
cũng đông nghịt người nhất là lúc tan tầm. Khói bụi xe thì mù mịt, ra đường là phải đội mũ
bảo hiểm, đeo khẩu trang, bịt kín mít. Nhiều người phải sống trong một căn hộ tập thể chật
chội, trong các tòa nhà cao tầng quanh năm không nhìn thấy ánh sáng mặt trời. Sống trong
thành phố văn minh mà lúc nào cũng cảm thấy bất an. Có lẽ thế, mà cái cảm giác lạc loài,
cô đơn ngay chính trong “rừng người” của các nhân vật là không tránh khỏi. Nhân vật
chính thường phảng phất nỗi buồn khi những vẻ đẹp nguyên sơ của thủ đô không còn nữa
và rất muốn phục sinh lại nó. Những dòng sông, những làng mạc, những bờ ao tự nhiên
biến mất mà thay vào đó là những tòa nhà cao tầng, những khách sạn sang trọng hiện đại,
những hàng quán mọc lên san sát... chỉ trong một thời gian ngắn. Do cuộc sống bộn bề nên
tình người cũng ngày càng chia cắt. Không còn những bữa cơm anh em, bạn bè quây quần
trong những ngày Tết. Những ngày Tết họ rất ngại đến nhà nhau, họ đi du lịch khắp nơi để
thưởng thức không khí trong lành khác hẳn không khí ngột ngạt trong thành phố.
Có lẽ, sự can thiệp của quá trình đô thị hóa, nông thôn dần mất đi những ruộng lúa,
bờ tre, những cánh đồng quê trong trẻo, thanh bình, những hồn người mộc mạc. Thay vào
đó là những ngôi nhà san sát, những lớp thị dân lạc lõng, bơ vơ. Nhiều nhân vật trong tiểu
thuyết của Đỗ Phấn không dễ giữ mình để khỏi bị tha hóa theo lối sống thành thị. Đọc tiểu
thuyết của Đỗ Phấn, có thể thấy rất nhiều nhân vật đã trốn chạy khỏi thành phố đô hội. Họ
lên rừng, xuống biển, đi đến một nơi nào đó thật xa, nơi đó họ có thể được hưởng thụ
những gì mà thiên nhiên ban tặng mà thành phố không có. Một niềm ao ước giản đơn đối
với cư dân thành phố: một chuyến đi xa để họ được sống là chính mình, được hòa với
18
thiên nhiên, được sống trong sự ưu ái của thiên nhiên, đồng thời cũng để cho họ thanh lọc
tâm hồn, tránh xa phố phường hỗn tạp, bất an.
Với cảm quan tinh tế, Đỗ Phấn có một cách nhìn mới mẻ về mối quan hệ giữa tự
nhiên và con người. Hà Nội trong tình cảm trân quý của nhà văn được hiện lên một cách
chân thực với vẻ đẹp xưa cũ, một vẻ đẹp hiện đại của những ngôi cao tầng kết hợp với nét
cổ kính của những ngôi nhà rêu phong nơi phố cổ vẻ đẹp yên bình, sâu lắng của một kinh
thành sầm uất xưa kia. Với nhịp sống hối hả, tấp nập ngày nay, người ta vẫn không quên
tìm về Hà Nội với nét đẹp xưa cũ, một vẻ đẹp thanh bình, tĩnh lặng. Tất cả những vẻ đẹp
đó được thể hiện một cách khéo léo và sâu sắc trong các tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn.
Tiểu kết chương
Cùng với dòng chảy viết về sinh thái trong văn học như các nhà văn đương thời, Đỗ
Phấn đã thể hiện một cảm quan nghệ thuật riêng, đó là cảm quan sinh thái đô thị. Gần như
ở tác phẩm nào Đỗ Phấn cũng đề cập đến cảnh quan thiên nhiên, cuộc sống và con người
thủ đô. Trong tâm trí của nhà văn, thủ đô Hà Nội ngày xưa đã để lại cho ông nhiều kỉ niệm
tuổi thơ, nhiều hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, nhiều ấn tượng sâu sắc, còn thủ đô Hà Nội
ngày nay đã để lại cho ông nhiều lo âu, băn khoăn, trăn trở về cuộc sống, môi trường và
văn hóa đô thị. Thủ đô Hà Nội đang từng ngày phát triển về mọi mặt, người dân Hà thành
được hưởng thành quả của nền văn minh tiến bộ, song cũng để lại nhiều hệ lụy của sự phát
triển thủ đô, một trong những vấn đề đó là môi trường sinh thái. Nó không chỉ là nỗi trăn
trở của các nhà văn mà còn là nỗi trăn trở của nhiều ngành khoa học. Đỗ Phấn là nhà văn
có tình cảm đặc biệt với Hà Nội nên những lo âu, trăn trở về môi trường sinh thái ở thủ đô
được tác giả thể hiện trong các sáng tác của mình, đặc biệt là trong các tiểu thuyết.
19
Chương 2
CẢM QUAN VỀ SINH THÁI TỰ NHIÊN TRONG TIỂU THUYẾT
CỦA ĐỖ PHẤN
2.1. Kí ức và sự tái hiện vẻ đẹp tự nhiên (nguyên sơ) của Hà Nội
Khi nói đến Hà Nội, chúng ta không khỏi tự hào về mảnh đất “nghìn năm văn
hiến”. Hà Nội là nơi đã trải qua bao biến cố, thăng trầm của lịch sử, cũng là nơi
lưu giữ nhiều giá trị văn hóa truyền thống lâu đời. Từ xa xưa, nhân dân ta đã có
câu “Thứ nhất kinh kì, thứ nhì phố Hiến”. Đó là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh
tế, giáo dục, y tế... bậc nhất của cả nước, trong đó có cả vẻ đẹp của Hà Nội về mọi
mặt như văn hóa ẩm thực, về phố phường, cây cối, sông ngòi...
Trong văn học Việt Nam vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội đã đi vào tâm thức của cả
người viết và người đọc. Từ xưa, qua các bài ca dao, tác giả dân gian đã ca ngợi
vẻ đẹp của kinh thành Thăng Long “ngàn năm văn hiến”: “Gió đưa cành trúc la
đà/ Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương/ Mịt mù khói tỏa ngàn sương/
Nhịp chày Yên Thái mặt gương Tây Hồ” (Ca dao). Vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội
được nhiều văn nghệ sĩ lấy làm nguồn cảm hứng sáng bằng tất cả tấm lòng trân
trọng và nâng niu. Văn học trung đại, tác giả Trần Quang Khải có tác phẩm Phò
giá về kinh, Lê Hữu Trác (Thượng kinh kí sự), Nguyễn Du (Long Thành cầm giả
ca)... Văn học hiện đại, tác phẩm Những chiếc ấm đất, Chén trà sương của nhà
văn Nguyễn Tuân; Hà Nội 36 phố phường, Dưới bóng hoàng lan, Trở về của nhà
văn Thạch Lam; Món ngon Hà Nội của nhà văn Vũ Bằng... Văn học đương đại
các tác giả viết nhiều về vẻ đẹp của Hà Nội hiện tại như: Đỗ Phấn với tác phẩm
Dằng dặc triền sông mưa, Hà Nội thì không có tuyết, Vết gió, Rụng xuống ngày
hư ảo;... Nguyễn Trương Quý với tác phẩm Hà Nội là Hà Nội, Tự nhiên như
người Hà Nội, Mỗi góc phố một người đang sống;... Nguyễn Việt Hà với tác
phẩm Con giai phố cổ, Cơ hội của Chúa... Nguyễn Ngọc Tiến với Đi dọc Hà Nội,
Đi ngang Hà Nội, 5678 bước chân quanh Hồ Gươm... Ở mỗi tác phẩm, các nhà
20
văn, nhà thơ đã dành nhiều tình cảm trân quý của mình để tái hiện vẻ đẹp của Hà
Nội xưa và nay.
Đỗ Phấn là một trong những nhà văn đương đại viết nhiều về Hà Nội, bởi Hà
Nội luôn in dấu trong kí ức của nhà văn. Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội được nhà
văn thể hiện ở nhiều góc nhìn về văn hóa, con người, xã hội cũ được bảo tồn và
lưu giữ qua thời gian và không gian trải dài trong suốt quá trình phát triển của
thành phố. Chúng tôi nhận thấy, trong sáng tác của Đỗ Phấn vẻ đẹp tự nhiên
(nguyên sơ) của Hà Nội được tái hiện qua sự thứ nhận của chính tác giả về cảnh
quan thủ đô (làng hoa, loài hoa), từ những con phố, khúc giao mùa đến các loài
động vật, cũng như âm thanh đặc trưng của Hà Nội, không gian của thủ đô “ngàn
năm văn hiến”.
Nhớ lại kí ức về vẻ đẹp của Hà Nội xưa, nhà văn Đỗ Phấn tái hiện lại hình
ảnh các làng hoa ở Hà Nội như làng hoa Nhật Tân, Ngọc Hà, Hữu Tiệp. Ngày
xưa, đây là những làng hoa nổi tiếng bậc nhất của Việt Nam, ngày nay các làng
hoa này tuy không còn nữa hoặc đã bị thu hẹp bởi các làng hoa đã dần trở thành
các khu phố nhưng vẫn gợi nhớ về giấc mơ hoa của người Hà Nội. Đỗ Phấn đã
tưởng tượng đến bầu không khí trong lành xưa kia của các làng hoa, nơi vốn đã
làm đẹp cho phố phường Hà Nội một thuở. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn có hình
ảnh những mảnh vườn đầy đủ các loài hoa xanh đỏ tím vàng đua nhau khoe sắc
rực rỡ dưới ánh nắng lung linh. Bước vào làng hoa người đọc thấy mình như đang
ở trong rừng hoa: hoa cẩm chướng, hoa bướm, hoa sushi, hoa hồng, hoa dã quỳ...
tạo nên một sắc màu quyến rũ: “những mảnh vườn trồng hoa cẩm chướng và hoa
bướm. Lung lay những cánh mỏng hồng tím đỏ như đàn bướm chao liệng giữa
ngời ngợi xanh. Phải có những ô vườn nhỏ trồng hoa sushi vàng rượi như đàn trẻ
ngoan ngoãn xếp hàng thấp lè tè bên những luống violet tím mỡ màng và đám
hồng ta đầy gai góc. Rồi cũng phải có đâu đây thoang thoảng mùi ngọc lan mùi
hoa hồng mùi dã quì” [49, tr.131].
21
Trong nhiều sáng tác của mình, Đỗ Phấn đã tái hiện lại kí ức về Hà Nội xưa
với vẻ thanh bình, nguyên sơ, không khí trong lành, cây cối trong phố tranh nhau
khoe sắc thắm. Mỗi con phố đặc trưng bởi từng loài cây, loài hoa. Môi trường sinh
thái ở mỗi góc phố thật đẹp khiến cho người đi đường chỉ muốn dừng lại để ngắm
các loài hoa. Vào khoảng tháng ba và tháng tám hàng năm là mùi hương thoang
thoảng của cánh đồng lúa đang thời kì trĩu hạt, “mùi ung ủng chua của hoa gạo”,
“mùi hoa dạ lan ngát hương vào ban đêm” [59, tr.75], vào tháng năm những con
phố rợp bóng “hoa bằng lăng phảng phất tím” [47, tr.202] và “những chùm nụ
chớm hồng” [47, tr.202] của hoa phượng bắt đầu lấp ló sau những tán lá xanh um.
Khám phá tiểu thuyết của Đỗ Phấn, có thể nhận thấy, vẻ đẹp của Hà Nội
được tác giả biểu hiện cụ thể qua từng con phố. Mỗi con phố có một vẻ đẹp riêng,
mang đậm sắc thái của thủ đô. Bước vào thế giới tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức
của nhà văn, người đọc sẽ bắt gặp vẻ đẹp của con phố Hàng Hành, con phố này
xưa kia vốn nổi tiếng là một con phố êm đềm, thơ mộng, cả một con phố dài đều
rợp bóng hàng cây xà cừ cổ thụ. Từ xưa, con phố Hàng Hành cũng im ắng như
mọi con ngõ nhỏ Hà Nội. Những con đường dẫn vào phố vẫn còn lưu thông hai
chiều nhưng hầu như rất ít người đi vào con đường vắng vẻ ấy khiến cho con phố
tĩnh lặng, yên bình. Trong khu phố ấy chúng ta vẫn còn bắt gặp những ngôi nhà
kiến trúc Pháp nhỏ hẹp rêu phong và những mái nhà ngói một tầng rêu phong cũ
kĩ. Sống trong khu phố yên ả, tĩnh lặng như thế con người cảm thấy cuộc sống ở
giữa thủ đô giống như cuộc sống ở một thôn quê nào đó, với bầu khí quyển trong
lành, ít khói bụi của ô tô, xe máy.
Bằng tình cảm trân quý của mình đối với thủ đô, nhà văn tái hiện lại vẻ đẹp
của Hà Nội trong từng khoảnh khắc giao mùa. Thành phố Hà Nội có bốn mùa rõ
rệt trong năm, xuân hạ thu đông. Mùa nào cũng có những đặc trưng riêng, mùa
nào cũng quyến rũ lòng người. Trong sự cảm nhận của nhà văn, mùa xuân là mùa
của các loài cây đâm chồi nảy lộc, mùa của những con én gọi bầy sang xuân. Tiết
trời Hà Nội vào xuân như một bức tranh thủy mặc, thơ mộng, lãng mạn. Không
22
khí, sinh quyển trong lành ở thành phố khiến cho muôn loài sinh sống và tồn tại.
Trên phố là sắc màu của các loài hoa, dưới nước là hình ảnh của những “con chim
én chao liệng trên mặt hồ cất tiếng kêu như nới rộng thinh không” [47, tr.353]. Tất
cả hòa quyện vào nhau tạo nên một không gian thanh bình, yên tĩnh.
Trong lòng yêu mến của nhà văn, Đỗ Phấn nhận thấy thành phố Hà Nội có
những thời khắc giao mùa rất đáng chiêm ngưỡng và hưởng thụ. Không khí giao
mùa trong năm khiến cho người Hà Thành như nuối tiếc từng mùa thu qua. Cái rét
đầu đông đã đến, những cơn gió mùa bắt đầu về trên phố, vương trên mái tóc
người Hà Nội để lấy đi nốt những ẩm ướt của mưa dầm. Đỗ Phấn từng trải qua
nhiều năm ở Hà Nội, nhà văn cảm nhận được thời khắc cuối năm ở Hà Nội cũng
là lúc tiết trời khá lạnh nhưng lại là lúc phù hợp cho một số loài cây phát triển tươi
tốt. Không gian sống với nhiều cây xanh có thể xóa bớt những ưu phiền của cuộc
sống con người, nuôi dưỡng tâm hồn con người Hà Nội. Chẳng hạn như cây bồ đề
trên đường Trần Nhân Tông: “Hàng cây như một bức tường lá chắn ngang những
bon chen sôi sục phố phường. Chẳng hiểu sao cứ mỗi lần đi qua bức tường lá ấy
cũng thấy lòng thanh thản vợi đi rất nhiều những buồn phiền giăng mắc trong tâm
tưởng” [49, tr.39]. Nhìn những chiếc lá cây bồ đề đung đưa trong gió cuối năm,
con người như lạc vào cõi hư không, thấy tâm hồn mình thanh thản đến lạ thường:
“như có tiếng chuông chùa huyễn hoặc vọng về từ cõi thanh cao u tịch. Những
đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá. Những
người Hà Nội chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội, mà
hỗn hào đi đứng này chỉ để ngắm một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy”. [51,
tr.64].
Vào độ cuối mùa đông là lúc tiết trời lạnh nhất trong năm nhưng lại là lúc
giao thoa giữa đất trời và vạn vật. Cách đây mấy chục năm khi Hồ Hoàn Kiếm vẫn
còn rậm rạp đầy cây cỏ, khi dân số Hà Nội chưa đông như bây giờ, con người
chưa săn bắt các loài chim thì cứ đến cuối mùa đông, đầu mùa xuân là loài sâm
cầm và le le kéo nhau về hội tụ trên mặt hồ. Cảnh vật lúc này thật đẹp, ở trên phố,
23
dưới hồ cảnh vật hài hòa nên thơ vô cùng: “hàng cây cơm nguội trút hết lá chỉ còn
lại mớ cành khô ấy càng thêm mông lung huyễn hoặc. Mặt hồ xa xa loáng trắng
nổi lênh đàn le le, sâm cầm tụ lại dập dềnh trên sóng” [58, tr.230]. Theo sự quan
sát của nhà văn, cách đây mấy chục năm về trước, các loài chim di trú theo mùa ở
thành phố rất nhiều. Đó là lúc thiên nhiên thuận lợi cho việc sinh sôi nảy nở và
sinh sống của các loài chim. Lúc ấy, khi tự nhiên chưa tàn phá nhiều, vẫn còn
không gian cho thiên nhiên hoang dã, diện tích ao hồ chưa bị thu hẹp, muôn loài
chim vẫn bay về ao hồ của thủ đô vào mỗi mùa trong năm. Nhà văn hoài vọng về
hình ảnh của thế giới các loài chim xưa kia cũng là sự tiếc nuối cho môi trường tự
nhiên bị tàn phá, con người không còn được gần gũi với thiên nhiên, không còn
nhìn thấy các loài chim quý hiếm nữa. Trong trí nhớ của tác giả thì khoảnh khắc
thiên nhiên tươi đẹp luôn ẩn hiện: “Mùa di trú, chim sâm cầm, le le kéo về đậu
trên mặt nước Hồ Tây thành những mảng lớn lênh đênh trên sóng. Giữa sương
khói mặt hồ ẩn hiện thần tiên trong những lau lách lan man bên bờ. Cuối bãi sông
Hồng kéo dài về phía Hà Nam là những con giang, con sếu co ro một chân, im lìm
soi bóng nước như bức tượng xám. Những con quạ đen khề khà kêu khoái trá trên
những cây gạo ngoài bãi sông cùng với chim khách, chim cà cuống. Những con
chim trả quan hai màu đen trắng vẫy cánh ngó nghiêng rình mò dưới mặt nước
cồn cào đỏ. Thỉnh thoảng cất một tràng dài như gõ kẻng” [59, tr.156].
Không chỉ trong tiểu thuyết mà trong tản văn Bâng quơ một thời Hà Nội, Đỗ
Phấn cũng cho người đọc thấy được không gian sinh sống của các loài côn trùng,
gợi nhớ lại những kí ức ngày xưa, khi đô thị Hà Nội còn nhiều ao hồ, sông ngòi,
cây cối xanh tươi là nơi tồn tại của các loài sinh vật như xén tóc, bọ dừa, châu
chấu, cánh cam, sâu róm, chuồn chuồn... chúng chao liệng dưới bầu trời đầy nắng
và gió của thủ đô. Nhà văn đã quan sát tinh tế, miêu tả tỉ mỉ để nhận ra rằng chỉ có
bầu không khí trong lành thì các loài côn trùng mới sinh sôi nảy nở nhiều như thế.
Chúng như đang hòa mình không gian thiên nhiên tươi đẹp của thành phố, tạo cho
thành phố một sắc màu khó quên.
24
Vẻ đẹp của Hà Nội xưa còn được hiện lên trong kí ức của nhà văn Đỗ Phấn
với những âm thanh đặc trưng cho một thành phố êm đềm của những năm 60 ở
thế kỉ trước, đó là tiếng leng keng của tàu điện. Thuở ấy, đứa trẻ nào ở Hà Nội
cũng coi tàu điện là phương tiện đi lại thuận tiện nhất. Chúng đi chơi khắp Hà Nội
đều bằng tàu điện. Tiếng tàu điện leng keng rộn ràng trên sáu tuyến đường nội
thành dồn về ga chính Bờ Hồ bây giờ chỉ còn trong kí ức: “Phải đi tàu điện từ bờ
hồ Hoàn Kiếm theo tuyến Thụy Khuê - Bưởi. Xuống tàu ở chỗ đường Quán
Thánh đi bộ sang hồ. Từ đấy men theo bờ hồ mà đi mãi lên dốc đường Thanh
Niên rẽ sang Yên Phụ đón tàu điện bến cuối cùng về lại bờ hồ Hoàn Kiếm” [58,
tr.230].
Viết về vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội, trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn còn là kí ức
của không gian Hà Nội xưa cũ. Theo nhà nghiên cứu Trần Đình Sử “không gian
nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện
một quan niệm nhất định về cuộc sống” [11]. Trong kí ức của nhà văn, không gian
Hà Nội là không gian của những gian hàng ở Bách hóa Tổng hợp. Ở đó, lũ trẻ tha
hồ dạo chơi cả ngày mà không chán. Thời bấy giờ, các dịch vụ kinh doanh còn ít,
nhu cầu mua bán của con người chưa nhiều nên bọn trẻ có thể bước chân vào
Bách hóa để chơi, ngồi, nằm tùy ý. Kí ức ấn tượng nhất đối với nhà văn lúc ấy là
chiếc lan can nơi “chúng có thể làm chiếc cầu trượt rất an toàn trơn tru... Dàn tủ
kính trưng bày đồng hồ, mĩ nghệ trên tầng hai trên sàn lát gỗ lim lau bóng là nơi tụ
tập thích thú nhất” [57, tr.312]. Ngoài ra, con đường Cổ Ngư xưa (đường Thanh
Niên) cũng là một thời thương nhớ kỉ niệm tuổi thơ của bọn trẻ thủ đô với trò
chơi: “dốc Yên Phụ là nơi thả xe đạp chạy xa hàng trăm mét mới hết đà... lũ lượt
kéo lên Yên Phụ vào làng mua cá chọi chơi dịp nghỉ hè” [55, tr.224].
Với cái nhìn vừa chân thực vừa hài hước nhưng cũng rất khách quan, trong
tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức nhà văn đã tái hiện lại không gian Hồ Gươm của
mấy chục năm về trước khi nguồn nước trong hồ chưa bị ô nhiễm, chưa bị con
người vứt rác thải, túi ni lông xuống lòng hồ. Lúc ấy, Hồ Gươm, hồ Trúc Bạch
25
còn là sân chơi của trẻ con Hà Nội. Bọn trẻ được tắm ì õm vào những ngày hè oi
bức. Thậm chí chúng còn “ngâm mình cả ngày dưới hồ cũng không sao” [58,
tr.150]. Tuổi thơ của những đứa trẻ Hà Nội thường gắn liền với không gian Hồ
Gươm. Xưa kia, Hồ Gươm vẫn còn mang bóng dáng của một chiếc ao làng hoàn
toàn tự nhiên trong trẻo. Nguồn nước vẫn còn trong sạch, chưa bị ô nhiễm, nên
nhiều loài cây cỏ, động vật sinh sống như: tôm, cá, ba ba... Hồ Gươm thời bấy giờ
dưới cảm quan của Đỗ Phấn cảnh vật thiên nhiên và con người có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Hồ Gươm là phong cảnh, là nguồn sống, là chỗ chơi của bọn
trẻ Hà Nội. Ngược lại, bọn trẻ gắn bó với Hồ Gươm suốt cả tuổi thơ với nhiều kỉ
niệm khó phai. Đến nay, Hồ Gươm vẫn là một trong những thắng cảnh nổi tiếng ở
Hà Nội, là nơi có nhiều ngôi đền, ngôi chùa linh thiêng, thơ mộng nhất thủ đô:
“Hồ Gươm nước xanh leo lẻo, cây cầu Thê Húc mới sơn đỏ rực như một nét chấm
phá tài tình trên bức tranh thủy mặc” [43, tr.76]. Từ xa nhìn lại, cảnh vật xung
quanh Hồ Gươm như một bức tranh thủy mặc vừa thơ mộng, vừa thanh tịnh. Ven
hồ có những búi cỏ lẫn vào rễ của cây đa rồi tỏa bóng xuống mặt nước. Trong tháp
Hòa Phong có người bán sáo thổi lên những khúc nhạc quê da diết lòng người.
Hàng năm cứ đến mùa hè, xung quanh bờ hồ có các loài hoa đua nhau khoe sắc:
“Tháng năm, hoa phượng che rợp thân cầu Thê Húc sơn đỏ chói. Tháng bảy,
những cây vông nem trổ hoa vàng như thắp lửa bên dưới chân tháp. Hoa lộc vừng
tí tách rơi kết bè đỏ rực trên mặt nước thẫm xanh tháng bảy” [58, tr.222]. Hồ
Gươm không chỉ là nơi gắn liền với truyền thuyết lịch sử mà nó còn mang trong
mình một vẻ đẹp của tự nhiên duyên dáng giữa lòng Hà Nội. Đúng vậy, cứ mỗi
mùa hè đến, từ trên cao nhìn xuống Hồ Gươm giống như một lẵng hoa giữa lòng
thành phố. Xung quanh hồ có đủ các loại hoa: hoa lộc vừng, hoa phượng, hoa
bằng lăng, hoa sữa... đan xen nhau đua nhau khoe sắc duyên dáng, thơ mộng
quanh hồ. Đỗ Phấn đã cảm nhận vẻ đẹp của các loài hoa ở Hà Nội một cách tinh
tế. Với khả năng quan sát và cảm nhận tinh tế, nhà văn thấy được chính bởi thiên
nhiên trên những con phố đang được hưởng bầu không khí trong lành nên đã đem
26
lại cho thành phố những bông hoa tuyệt đẹp, làm cho sắc hoa ở Hà Nội thêm rực
rỡ: “Những nụ bằng lăng trĩu chịt trên đường Thợ Nhuộm bắt đầu hé ra những
cánh tím hướng lên bầu trời ngơ ngác xanh” [49, tr.215].
Đỗ Phấn thấy người Hà Nội rất ít khi được ngắm thủ đô trong khoảng không
gian thanh bình, vắng lặng, không tiếng xe cộ ồn ào của phố phường, không bon
chen tấp nập. Cũng có lúc, người đọc được dõi theo từng bước chân của nhà văn
đi dọc con phố vào buổi sáng sớm của một ngày nào đó để thấy hết vẻ đẹp thiên
nhiên ở thành phố nghìn năm tuổi này. Cảnh thiên nhiên thơ mộng được Đỗ Phấn
cảm nhận vào lúc đêm khuya thanh tĩnh với không gian vắng lặng, người Hà
Thành mới cảm thấy được vẻ đẹp tự nhiên của thành phố. Đó là hình ảnh lấp lánh
của ánh trăng vàng trên mặt hồ tĩnh lặng gần chùa Trấn Quốc. Hình ảnh thiên
nhiên thật đẹp: “chứa chan trên sóng nước Hồ Tây là ánh trăng sao động khẽ rùng
mình trong heo may phảng phất mùi hoa huệ” [57, tr.89]. Đứng trước không gian
thơ mộng đó, con người dường như quên đi hết vẻ mệt mỏi của cuộc sống hàng
ngày ồn ào, náo nhiệt: “không còn vướng bận gì đến nhọc nhằn phố xá” [57,
tr.90]. Khi ánh trăng lặn xuống mặt hồ, chỉ còn vương vấn “trên những lùm cây xa
tít một vài đốm sáng lung lay nhung nhớ. Mặt hồ tím biếc dần hiện rõ. Đằng đông
ánh nắng đã xôn xao trên những ngọn xà cừ chót vót xanh. Những nhấp nhô mái
nhà, những ồn ào xe cộ đã bắt đầu phá vỡ không gian êm đềm” [57, tr.90].
Là người gắn bó và có nhiều kỉ niệm với mảnh đất Hà Thành, Đỗ Phấn cảm
nhận được khoảnh khắc của từng con phố êm đềm trong đêm. Trong khoảng thời
gian này, thành phố yên tĩnh đến bất ngờ. Mọi vật như được giao hòa với nhau tạo
nên bầu không khí vô cùng tĩnh lặng. Chỉ có vài ngọn gió lang thang trên bầu trời
kéo những chiếc lá khô xao xác cuốn. Xa xa thoang thoảng mùi dạ lan thơm đến
ngất ngây. Khi các cửa hàng ở phố đã tắt hết đèn, dòng người qua lại trên đường ít
đi, đôi khi còn tịnh không còn một bóng người, các đèn tín hiệu giao thông đã “uể
oải nhấp nháy” [57, tr.124] là lúc đường phố tĩnh lặng nhất trong ngày. Đến năm
27
giờ sáng, thành phố bắt đầu lại ồn ào, sôi động cho một ngày mới. Tất cả “lại lùi
vào kí ức nhường chỗ cho những lo toan kiếm tìm” [57, tr.125].
Trong hoài niệm của nhà văn, không gian Hà Nội còn là nỗi nhớ về cây cầu
Long Biên. Nó không chỉ là phương tiện qua lại mà nó còn là nhân chứng lịch sử,
là niềm tự hào của người dân Hà Nội. Đây là cây cầu thép đầu tiên nằm bắc ngang
qua sông Hồng, nối hai quận Long Biên và Hoàn Kiếm của thành phố Hà Nội
ngày nay. Nó được kĩ sư người Pháp thiết kế và xây dựng trong bốn năm từ 1898 -
1902 giống như một “con rồng hùng vĩ kiêu hãnh” [57, tr.297]. Với lũ trẻ Hà Nội
lúc bấy giờ cũng coi cây cầu là một chỗ chơi thú vị. Cây cầu chứng kiến nhiều trò
tinh nghịch của tuổi thơ. Lúc ấy, tự nhiên vẫn còn hoang dã, các loài động vật ở
khu vực ruộng đồng gần đấy còn tồn tại nhiều. Bọn trẻ có thể hòa mình với tự
nhiên mà sinh sống. Hạnh phúc nhất là vào những này hè oi bức đi bắt cà cuống
trên những cánh đồng, thời gian ấy “cà cuống bay về rợp dưới đèn tha hồ mà bắt”
[58, tr.297], rồi kỉ niệm về những chuyến vượt cầu, thả xe đạp xuống dốc đầy thú
vị.
Tuổi thơ của nhà văn gắn liền với không gian của Bờ Hồ Hà Nội. Trong sự
quan sát và tái hiện sinh động của tác giả, người đọc như được đắm mình vào
không gian thiên nhiên thơ mộng của Bờ Hồ. Không gian Bờ Hồ trong cảm nhận
của Đỗ Phấn có đủ cả: mây, gió, trăng, hoa, nước, sắc màu. Cảnh vật thiên nhiên
trên trời, dưới nước hòa quyện với nhau tạo nên một không gian tuyệt đẹp: “Mặt
trời lặn xuống sau những rặng cây cối um tùm chỉ còn lại vài ba đốm vàng lang
thang trên mặt hồ dậy sóng. Chim le le đạp nước cất cánh làm cho những ánh
vàng tan tác xôn xao. Những cơn gió quẩn quanh lên đám bèo bập bềnh sát bờ đưa
chiều vào đêm bằng đốm sáng của vài con đom đóm vẽ vòng vu vơ trên mặt nước
tối. Bầu trời cao rộng nhấp nháy những vì sao sớm” [50, tr.114].
Trong tâm thức của nhà văn, nói đến vẻ đẹp của Hà Nội xưa, người đọc
không thể quên vẻ đẹp của khu chợ Đồng Xuân và chợ Bưởi. Đây là hai khu chợ
nổi tiếng của Hà Nội đến tận bây giờ. Ngày xưa, khi con người chưa tàn phá thiên
28
nhiên, nhiều người có niềm yêu thích chăm sóc cây cối và động vật, các loài cây
được người ta bày bán rất nhiều ở chợ. Bọn trẻ Hà Nội sướng nhất là được ra chợ
ngắm nhìn muôn loài hoa và muôn loài thú. Chúng coi mỗi buổi đến chợ là bước
vào cả một thế giới thần tiên xem cả ngày không chán mắt. Cây cảnh được bày
bán khắp hai bên đường, có đủ các loại: “cây trồng trong chậu và cây ươm bầu
đất. Cây thế già cỗi và cây non tự nhiên. Các loài phong lan được khai thác từ
rừng. Đuôi cáo, quế lan hương, phi điệp. Nhiều khóm đã có hoa xếp rải trên mặt
đất như bán rau. Vài khóm móc lên thân cây xà cừ cổ thụ. Những bông phi điệp
ngỡ ngàng tím lấp ló trong vàng tươi những tay cành um tùm rủ xuống” [50,
tr.213].
Cũng viết về vẻ đẹp của thành phố Hà Nội, nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết
lên những câu thơ ca ngợi cảnh đẹp đặc trưng của thủ đô Thăng Long “ngàn năm
văn hiến”: “Hà Nội có Hồ Gươm/ Nước xanh như pha mực/ Bên hồ ngọn Tháp
Bút/ Viết thơ lên trời cao”. Hà Nội với không gian yên bình, với vẻ đẹp của các di
tích lịch sử đã tạo nên cho thủ đô có một vẻ đẹp và truyền thống lịch sử riêng biệt,
làm nên nét đẹp văn hóa của đất Thăng Long kinh kì.
Vẻ đẹp tự nhiên của Hà Nội được Đỗ Phấn thể hiện trong những cuốn tiểu
thuyết giống như một bức tranh đủ màu sắc. Đúng như đánh giá của nhà phê bình
văn học Hoài Nam: “Tiểu thuyết của Đỗ Phấn có những trang văn miêu tả thiên
nhiên tươi đẹp, chúng giống như những bữa tiệc của màu sắc, âm thanh và ánh
sáng, tràn đầy sức sống và chúng có đủ khả năng để thanh lọc tâm hồn cho những
ai yêu thiên nhiên nhưng đang phải chịu cảnh ngập chìm trong khói bụi ô nhiễm
môi trường đô thị. Điều đó, có khả năng mời gọi người đọc cùng suy ngẫm với tác
giả về cuộc sống mà ta đang sống, đang phải đối mặt” [30].
Đọc những trang tiểu thuyết của Đỗ Phấn, nhớ lại vẻ đẹp của một Hà Nội
xưa, người đọc có thể hình dung ra một không gian Hà Nội cách đây mấy chục
năm về trước với bao vẻ đẹp thơ mộng. Một Hà Nội thanh bình, yên lặng với từng
hàng cây, góc phố, khu chợ, Bờ Hồ... đã tạo nên nét văn hóa cổ kính của thủ đô.
29
Không gian thủ đô với bầu không khí trong lành đã trở đi trở lại trong những trang
tiểu thuyết của nhà văn. Không gian ấy bây giờ nhiều khi chỉ còn trong kí ức của
người Hà Nội. Vẻ đẹp của Hà Nội xưa thẫm đẫm tình cảm thiết tha, trìu mến và
trân quý của nhà văn.
2.2. Tự nhiên bị tàn phá và những ám ảnh sinh thái
Môi trường tự nhiên là bao gồm tất cả các sinh vật sống và không sống xảy
ra trên trái đất, là không gian chúng ta sinh sống, là nguồn nước chúng ta uống, là
bầu không khí chúng ta hít thở, là âm thanh chúng ta nghe, là khung trời trong ô
cửa sổ, là cái cây ở trước nhà, là khoảng không gian bao bọc chúng ta hằng ngày...
Ngày nay, con người đang tàn phá môi trường sống của chính mình bằng nhiều
cách, vô tình hay cố ý đều đã và đang làm biến dạng hành tinh. Chính sự thiếu ý
thức của con người sẽ hủy diệt môi trường tự nhiên mà chúng ta đang sống. Ở
Việt Nam, sự tàn phá thiên nhiên do nhiều nguyên nhân khác nhau, ảnh hưởng lớn
đến môi trường sống của con người, nhất là những người dân đang sinh sống trên
mảnh đất thủ đô Hà Nội. Đã có nhiều nhà văn đề cập đến vấn đề này trong các
sáng tác của mình. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, tự nhiên bị tàn phá, bị hủy hoại
vừa do chiến tranh, vừa do chính con người gây nên. Sự tàn phá ấy đã làm mất đi
vẻ đẹp thanh bình vốn có xưa kia của thủ đô “ngàn năm văn hiến”.
2.2.1. Sự tàn phá tự nhiên do chiến tranh
Trong lịch sử dân tộc, Hà Nội là trung tâm phát triển về mọi mặt của nước
Việt Nam, đồng thời cũng là thành phố thường xuyên bị giặc ngoại bang xâm lược
tàn phá. Từ xa xưa, thành phố Hà Nội đã bị giặc Ân xâm chiếm, qua bốn nghìn
năm dựng nước và giữ nước kinh thành Thăng Long đã trải qua nhiều trận chiến
của triều đình Hán, Đường, Nguyên Mông, Minh, Thanh, Pháp, Nhật, Mĩ. Nhất là
những năm 60,70 của thế kỉ XX, Hà Nội đã phải quyết liệt đánh trả các cuộc chiến
tranh phá hoại bằng không quân của Mĩ. Đặc biệt năm 1972, mười hai ngày đêm
chiến đấu trên không của quân và dân Hà Nội đã khiến cho giặc Mĩ phải khiếp sợ.
Trong chiến tranh người dân Hà Nội bị thiệt hại nặng nề về người và của: cầu
30
Long Biên bị gãy đứt nhiều đoạn, phố Khâm Thiên bị xóa sạch trong một đêm,
bệnh viện Bạch Mai, sân bay, nhà ga, cầu đường ở Hà Nội đều là mục tiêu đánh
phá của đế quốc Mĩ, những trận mưa bom dội xuống Hà Nội đã làm chết hàng
nghìn người. Nỗi đau của người dân thành phố trong chiến tranh không sao kể
xiết.
Chiến tranh qua đi để lại bao nỗi đau về vật chất và tinh thần của người dân
Việt Nam. Các tác phẩm văn chương ra đời đã phản ánh nỗi đau đó. Từ văn học
dân gian đến văn học đương đại đều có những tác phẩm ghi lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc. Trong văn học dân gian có thể kể đến các tác phẩm: Thánh
Gióng; An Dương Vương và Mị Châu - Trọng Thủy... Văn học trung đại, các tác
phẩm như : Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi; Chạy
giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu,... Văn học hiện đại với
một số tác phẩm: Đất nước đứng lên của Nguyên Ngọc; Cỏ lau, Mảnh trăng cuối
rừng của Nguyễn Minh Châu; Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi của Nguyễn Tuân; Sống
mãi với thủ đô của Nguyễn Huy Tưởng; Bất khuất của Nguyễn Đức Thuận; Biên
bản chiến tranh 1-2-3-4.75 của Trần Mai Hạnh... Văn học đương đại, tác phẩm
tiêu biểu như: Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến; Đỉnh khói của Phạm Ngọc
Thuần; Hà Nội, một thời tuổi trẻ của Trần Văn Thụ; Thương thế ngày xưa của Lê
Minh Hà;... đều tái hiện lại nỗi đau mất mát của người dân Việt Nam trong chiến
tranh.
Từng chứng kiến sự tàn phá bởi cuộc chiến tranh ác liệt của đế quốc Mĩ nên
trong những trang viết của mình, nhất là ở tiểu thuyết, nhà văn đã tái hiện lại sự
tàn phá khốc liệt của chiến tranh do đế quốc Mĩ gây ra. Tuổi thơ của nhà văn đã
trải qua thời kì chiến tranh ở thủ đô nên ông thấu hiểu sức tàn phá của chiến tranh,
nhất là sự tàn phá bởi bom B52 của đế quốc Mĩ. Trong tiểu thuyết nhà văn đã tái
hiện lại sự tàn phá khủng khiếp của những trận bom B52 ở cây xăng Đức Giang,
Cầu Long Biên, Bờ Hồ, Nhà Hát lớn... cụ thể như ở cây xăng Đức Giang bên kia
bờ sông Hồng sau hai tiếng đồng hồ oanh tạc của máy bay Mĩ vào năm 1972 xung
31
quanh khu vực ở cây xăng và những vùng lân cận bị thiêu cháy hết, nhà cửa,
ruộng vườn, làng mạc đều bị thiêu cháy hết. Sau chiến tranh không khí nơi đây ô
nhiễm khủng khiếp, những cuộn khói đen cao nghi ngút “phủ kín cả bầu trời ảm
đạm” [52, tr.204]. Chiến tranh không chỉ làm cho người dân thủ đô mất đi những
người thân, làm tan hoang nhà cửa, ruộng vườn mà còn làm cho đời sống tự nhiên
và con người bị đe dọa từng ngày, từng giờ. Chiến tranh đã làm cho bộ mặt phố
phường thay đổi nhiều. Với sự quan sát và chiêm nghiệm, nhà văn Đỗ Phấn đã
nhận thấy: chiến tranh không chỉ ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe, cuộc sống
của con người, đến môi trường sinh thái mà còn làm mất thẩm mĩ cảnh quan đô
thị. Hình ảnh của thành phố đã thay đổi quá nhiều sau mỗi lần chiến tranh tàn phá,
người dân thành phố lại sửa sang lại: “chiếc đồng hồ cổ La Mã ở ngoài sảnh chính
của sân ga Hà Nội” [57, tr.133], nhà Bách hóa Tổng hợp cứ sửa đi sửa lại nhiều
lần không còn dấu vết của vẻ đẹp xưa nữa. Không chỉ quan sát từ đời sống hiện
tại, nhà văn Đỗ Phấn đã có những cảm nghiệm về quá khứ, ở đó cuộc sống con
người và động vật bị đe dọa trong chiến tranh khiến “những chuồng thú ở Hà Nội
cũng không còn dấu vết” [51, tr.62].
Cùng một khu phố ở Hà Nội, theo thời gian dưới tác động của chiến tranh Đỗ
Phấn nhận thấy có sự khác biệt. Khi chưa có chiến tranh, ở ngoài mặt phố Khâm
Thiên vẫn còn tồn tại nhiều ngôi nhà lá thông sang tận Xã Đàn và Hàng Bột, là
nơi buôn bán sầm uất, là nơi sinh hoạt của người dân. Trong chiến tranh, khi
những trận bom B52 năm 1972 của Mĩ đi qua làm cho người dân phải đối mặt với
sự hủy diệt: “cả dãy phố đã bị xóa sạch không còn một dấu vết gì nữa” [57, tr.47]
trong đêm 26/12. Cuộc sống của người dân thủ đô lại một lần nữa phải đối mặt với
sự hủy diệt. Ngày nay, khu phố Khâm Thiên đã hoàn toàn đổi khác do quá trình
đô thị hóa, dân số tăng nhanh, diện tích ao hồ bị thu hẹp lại, cuộc sống của người
dân đã chuyển dần thành “phố” hóa, môi trường ngày càng ô nhiễm do sinh hoạt
của con người, bởi: “người nhập cư kéo về đông đúc chen chúc trong những mảnh
đất trống ngày một hẹp đi. Sông hồ ao ngòi bên trong bị lấp hết đi” [57, tr.47].
32
Mỗi lần bom B52 tàn phá, tài sản của nhân dân không còn nữa, nhà cửa, của cải,
trâu bò bị cháy rụi hết. Bên cạnh đó, bầu không khí cũng bị ô nhiễm nặng nề, bầu
trời nghi ngút khói, thậm chí người chết cũng không yên thân, bởi những chiếc
quan tài bị bom xới đi xới lại nhiều lần: “những chiếc quan tài dựng đứng cả trên
miệng hố bom. Có cái hở hoác cả tấm vải liệm ố vàng” [51, tr.266]. Chiến tranh
không chỉ hủy diệt sinh thái tự nhiên mà chiến tranh còn làm tổn hại nghiêm trọng
tinh thần của con người.
Viết về vấn đề chiến tranh tàn phá môi trường sinh thái, trong sáng tác của
Ngọc Giao là nỗi xót xa đau đớn hằn trên khuôn mặt của những người nông dân.
Đó là gia đình Xã Bèo vốn đã nghèo túng, nhờ chăm chỉ làm ăn gia đình anh tậu
được con trâu, mua được vài sào ruộng, tậu được thêm mảnh vườn bương nữa.
Niềm vui chưa kịp hưởng thì chiến tranh đã cướp đi hết: ruộng vườn, nhà cửa, trâu
bò bọn giặc đã “đạp séo tan tành” [16, tr.23] khiến cho Xã Bèo khiếp sợ, đau đớn
vô cùng: “Anh ngao ngán thấy rằng binh lửa rồi sẽ tới, thui trụi, tàn phế hết,
huống hồ là mấy chiếc măng non” [16, tr.13]. Còn trong tác phẩm Giấc mơ ông
lão vườn chim của Anh Đức, bom đạn của kẻ thù không chỉ tàn phá hàng ngàn
hecta rừng mà còn làm mất không gian quy tụ của chim chóc, mất chỗ ẩn náu của
đội quân du kích. Chứng kiến cảnh giặc tàn phá quê hương, nhà thơ Nguyễn Đình
Thi không khỏi xót xa về những mảnh ruộng, mảnh vườn của người dân bị giặc
giày xéo: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đâm nát trời chiều”
[67]. Hoặc trong tác phẩm Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh sự khốc liệt của
chiến tranh khiến cho cả khu rừng phải gánh chịu những tổn thất nặng nề: “rừng bị
tưới đẫm xăng đặc, cuồn cuộn lửa luyện ngục... Trên đầu trực thăng rà rạp các
ngọn cây và gần như thúc họng đại liên vào gáy từng người một mà bắn. Máu
tung xối, chảy tóe, ồng ộc, nhoe nhoét. Trên cái trảng hình thoi ở giữa truông, cái
trảng mà nghe nói đến ngày nay cỏ cây vẫn chưa lại hồn để mọc lên nổi hồi đó la
liệt xác người bị đốn, thân thể dập vỡ, tanh bành” [31, tr.11].
33
Mỗi một tác phẩm là một thông điệp gửi đến người đọc về sự tàn phá hủy
diệt của chiến tranh. Nhà văn Đỗ Phấn đã tái hiện lại qua những trang tiểu thuyết
để người đọc thấy được những kí ức không thể nào quên về hậu quả của chiến
tranh. Chiến tranh đã tiêu diệt cả cuộc sống, tàn phá cả môi trường sinh thái của
cư dân thành phố. Vì vậy, sáng tác của Đỗ Phấn cảnh báo con người về vấn đề
sinh thái: vì sự sống bình yên của con người, của sinh vật trên trái đất loài người
hãy chấm dứt mọi sự hủy diệt, chấm dứt bom đạn chiến tranh.
2.2.2. Con người tàn phá tự nhiên đô thị
Từ lâu Hà Nội luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong hội họa, thi ca. Mỗi
hàng cây, góc phố đã tạo nên vẻ đẹp cổ kính văn hóa cho Hà Nội. Ngày nay, ô
nhiễm môi trường đang hoành hành nghiêm trọng khiến cho nhiều vẻ đẹp tự nhiên
của Hà Nội chỉ còn trong kí ức. Theo các nhà nghiên cứu về môi trường thì Hà
Nội là một trong những thành phố ở nước ta đang bị ô nhiễm nghiêm trọng về mọi
mặt: ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm không khí đến mức báo động. Sự ô nhiễm này
chủ yếu là do con người tàn phá, tác động vào tự nhiên. Hà Nội là thành phố đang
phát triển và ngày càng đông đúc nên khói bụi tràn ngập khắp mọi nơi, tiếng ồn
diễn ra suốt ngày đêm. Thành phố đang dần vắng bóng những hàng cây xanh,
thêm vào đó nhiều nhà cao tầng, dần vắng bóng những mặt hồ trong vắt, thay vào
đó là những bãi rác khổng lồ. Thành phố chỉ cần nắng lên là mặt đường đã thấy
bỏng rát, hễ mưa to là nước ngập đến lưng thềm. Nhìn chung môi trường không
khí và nguồn nước nhiều nơi trong thành phố đang bị ô nhiễm nghiêm trọng.
Trong văn chương đã có nhiều tác phẩm viết về việc con người tàn phá tự
nhiên một cách không thương tiếc làm cho môi trường tự nhiên mất đi vẻ đẹp vốn
có xưa kia, đồng thời còn làm ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của con người
(Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê; Ngổn ngang phố xá của Nguyễn
Nhật Ánh; Những khoảng xanh Sài Gòn của Huỳnh Như Phương; Khói trời lộng
lẫy của Nguyễn Ngọc Tư; Phố của làng của Dạ Ngân; Lên núi thả mây của Lê
Văn Thao;...)
34
Đỗ Phấn là nhà văn có tình cảm đặc biệt với Hà Nội, ông viết về Hà Nội
bằng tất cả tình yêu và sự trân quý của mình. Ông xót xa vô cùng khi thành phố
“ngàn năm văn hiến” đã bị con người tàn phá một cách nhanh chóng làm cho
thành phố mất đi vẻ đẹp tự nhiên, ảnh hưởng đến môi sinh và cuộc sống của con
người. Nghiên cứu tiểu thuyết của Đỗ Phấn, chúng tôi nhận thấy sự khai thác tự
nhiên quá mức đã làm cho Hà Nội mất đi diện tích canh tác, mất đi các làng hoa,
hệ thống cây xanh,... thay vào đó là những tòa nhà cao ốc, những chung cư hiện
đại, những trung tâm mua sắm, những dự án văn phòng... mọc lên san sát để phục
vụ cho nhu cầu cuộc sống hiện tại của người dân.
Theo dòng thời gian, nhà văn Đỗ Phấn nhận thấy: bắt đầu từ những năm đổi
mới, do quá trình đô thị hóa nên mọi thứ trong thành phố được người ta thay đổi,
xóa bỏ nhiều, thay vào đó là những ngôi biệt thự, những tòa nhà lớn mọc lên để
phục vụ nhu cầu cuộc sống ngày càng đông của cư dân thành phố. Xưa kia, khi
phố xá chưa phát triển, xung quanh thành phố còn nhiều cánh đồng lúa “trải rộng
từ Thanh Oai qua Mỗ Lao, Mễ Trì, Mĩ Đình, Dịch Vọng, Cổ Nhuế” [57, tr.206].
Ngày nay, khi đô thị phát triển “phố phường chật hẹp người đông đúc” (Trần Tế
Xương) thì các cánh đồng lúa đã bị thu hẹp dần, thay vào đó là chung cư cao cấp,
hiện đại, các dự án văn phòng mọc lên ngày càng nhiều, diện tích trồng lúa ngày
một thu hẹp dần khiến cho nhiệt độ ở khu vực này cũng ngày một nóng lên do hệ
thống bê tông, hiệu ứng nhà kính.
Những chiêm nghiệm của nhà văn Đỗ Phấn cho thấy: trong vòng khoảng hơn
chục năm lại đây do tốc độ đô thị hóa, các làng hoa Nhật Tân, Ngọc Hà, Hữu
Tiệp, Nghi Tàm... không còn nữa, bây giờ đã là các con phố trong nội thành Hà
Nội. Nhà cửa cao tầng, biệt thự mọc lên san sát, nhiều con đường được mở rộng
và đổ bê tông sạch sẽ, không còn dấu vết gì của các ngôi làng hoa ngày xưa nữa.
Ngoài ra, các ngôi làng ở quanh Hà Nội cũng có sự thay đổi rõ rệt làm mất dần vẻ
đẹp nguyên sơ vốn có của nó, không còn bóng dáng của những khóm chuối,
những bụi tre, bụi trúc mà thay vào đó là “những ngôi nhà cao tầng hiện đại với
35
màu sơn tươi mới mọc lên liên tiếp. Đường làng đã bê tông hóa và nhựa hóa hoàn
toàn” [58, tr.213]. Do sự phát triển của đô thị nên những tòa nhà trong phố cũng
thường xuyên bị thay đổi về kiến trúc để phù hợp với nhu cầu của người dân. Bây
giờ ở Hà Nội rất hiếm thấy những ngôi nhà tường nâu, ngói cũ bởi nó đã: “nhường
chỗ cho những ngôi nhà cao tầng san sát” [49, tr.130]. Thậm chí, nhiều ngôi nhà
được tu sửa, mở rộng cơi nới khắp nơi, một số ngôi nhà thì dùng những tấm tôn
sắt, tôn nhựa bưng bịt kín mít giống như chiếc lồng sắt thép treo trước cửa sổ.
Đỗ Phấn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, ông có mối quan tâm đặc biệt với đời
sống của các loài cây trong thành phố. Đối với thủ đô Hà Nội, hệ thống cây xanh
được ví như lá phổi xanh của thành phố. Chúng có vai trò vô cùng quan trọng đối
với môi trường. Chúng có thể cải tạo khí hậu, bảo vệ môi trường sống đô thị, cải
tạo không gian kiến trúc cảnh quan và là một bộ phận không thể thiếu trong hệ
sinh thái tự nhiên. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, cây xanh đô thị luôn là vấn
đề được quan tâm nhiều. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, hệ thống cây xanh
Hà Nội đang bị con người tàn phá khiến nó không chỉ làm mất cảnh quan thẩm mĩ
của đô thị mà còn ảnh hưởng đến môi trường sinh thái ở thủ đô. Người dân đã hủy
hoại cây bằng nhiều cách khiến cho các loài cây chết dần chết mòn: “Bí mật lột
từng khoanh vỏ cây về đêm. Dội dầu máy cặn lên gốc cây về đêm. Trên một cây
cổ thụ thì đủ các loại đường dây treo trên cành. Điện lực và điện thoại, truyền hình
công khai chặt cành phát cây giữa ban ngày. Công trình nhà cửa xây mới nhổ tận
gốc những cây cũ già nua chiếm chỗ” [54, tr.55].
Đỗ Phấn thường có sự miêu tả đối lập giữa xưa và nay, qua đó có thể thấy
được sự tàn phá khủng khiếp của con người khiến cho cây cối trong thành phố mất
hết đi vẻ đẹp thanh bình, êm ả thuở xưa. Cây cối trong thành phố bị con người
khai thác đến cùng kiệt làm mất cân bằng sinh thái trong đô thị. Ngày nay, ở thành
phố dân số ngày càng đông, phương tiện đi lại ngày càng nhiều, lượng xe máy, ô
tô lưu thông trên các tuyến phố gấp nhiều lần so với trước kia. Vì vậy, khói bụi ô
nhiễm trên phố ngày một nhiều lên. Cây cối trong phố ngày một ít đi do bị chặt
36
phá nhiều. Dạo bước trên con phố nhìn thấy “cây cổ thụ què cụt ngơ ngác chênh
vênh cuối con đường” [50, tr.170] nhà văn Đỗ Phấn cũng xót xa đau đớn vô cùng
như chính mình mất đi một phần cơ thể. Vào mùa mưa bão, hàng loạt cây cối
trong thành phố đều bị chặt bớt cành, cũng không cần biết chúng xấu hay đẹp chỉ
cần chúng không bị đổ trong lúc mưa to gió lớn. Còn quanh năm chúng cũng
thường xuyên bị chặt cành để khỏi bị chạm vào đường dây điện trên phố. Có khi
chúng còn bị nhổ tận gốc vì một cơ quan, cá nhân nào đó chuẩn bị xây cao ốc, văn
phòng, siêu thị... Trong cảm nhận của nhà văn, hệ thống cây xanh đô thị ngày nay
đang phải chịu nhiều sức ép và tác động do các hoạt động của con người. Người
dân thành phố còn sử dụng cây xanh cho nhiều mục đích khác nhau nhằm phục vụ
cho các hoạt động của mình. Trong thời chiến, cây xanh ở thủ đô đã phải chịu
nhiều sự tàn phá của bom B52 của Mĩ. Trong thời bình, tưởng rằng chúng cứ thế
mà lớn lên để che chở cho thành phố bớt tiếng ồn của các nhà máy, xí nghiệp, bớt
lượng khói bụi của các phương tiện lưu thông trên đường, nào ngờ chúng cũng bị
tàn phá để sử dụng vào mục đích của con người. Có cây người ta đã đóng những
chiếc đinh to để treo những chiếc lốp xe đạp hỏng, những rổ rá, những giẻ lau nhà,
loa phường... trông rất mất thẩm mĩ. Nhiều cây người ta chặt đi để phục vụ cho
đường truyền Internet, truyền hình cáp, điện lưới, điện thoại: “chưa bao giờ cây
cối trong thành phố cùng lúc có nhiều kẻ thù đến thế” [50, tr.361].
Đô thị ngày một phát triển, mở rộng ra đến vùng ngoại thành, Đỗ Phấn nhận
thấy ở Hà Nội vài chục năm lại đây các ngôi chợ, các làng hoa Ngọc Hà, Hữu
Tiệp, Nhật Tân, nhiều ao hồ lớn như vùng Linh Đàm, Đầm Sét, Đầm Trấu, Đuôi
Cá, Thanh Trì.... cũng không còn nữa nhường chỗ cho các tòa nhà cao tầng mọc
lên, các khu đô thị, trung tâm mua bán... Sự mất dần của thiên nhiên trong đời
sống hiện tại của thủ đô khiến nhà văn cảm thấy tiếc nuối, cảm thấy bất an.
Đỗ Phấn chứng kiến đô thị phát triển, nhà văn thấy con người ngày càng khai
thác nguồn tự nhiên khiến cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, kể cả
trong nội thành và ngoại thành. Điều đó càng làm cho môi trường ô nhiễm nghiêm
37
trọng như tình trạng ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm công nghiệp. Hiện nay, ngày nào
người dân Hà Nội cũng phải chứng kiến cảnh nhộn nhịp tiếng xe, tiếng máy ở các
công trường: “công trường ngổn ngang tấp nập tiếng xe tiếng máy. Cả một vùng
hoang vu bỗng ầm ầm nhộn nhịp. Những chiếc xe tải lớn chở hàng nghìn mét khối
đá cuội khai thác từ mạn rừng núi Tây Bắc chuyển về” [53, tr.193]. Thậm chí, con
người còn khai thác thiên nhiên một cách khủng khiếp. Họ sử dụng mọi phương
tiện hiện đại để đánh bắt cá trong các đầm ao, sông hồ. Họ đang tiêu diệt tận gốc
các loài thủy sinh bằng cách “xuyệc cá bằng những bình điện đeo toòng teng sau
lưng và chiếc gậy tre có hai chĩa” [53, tr.160].
Nhà văn thấy rằng chính con người khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên
nên phải chịu sự trừng phạt của thiên nhiên, đó là những hậu quả của biến đổi khí
hậu, ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống của con người và môi trường sinh thái
như hiện tượng lũ lụt, động đất, sóng thần, nước thủy triều dâng cao, sạt lở nhà
cửa... Nhà văn cảnh báo đến một ngày nào đó sự giận dữ của thiên nhiên làm cho
lũ lụt tràn về, nước sông dâng lên cao “đột ngột nhấn chìm rất nhiều thành phố
làng mạc trên thế giới. Những trận động đất và sóng thần mạnh chưa từng thấy
quét đi hàng trăm nghìn người” [53, tr.317]. Như vậy, những gì của tự nhiên đang
tuột dần khỏi tay của con người. Thiên tai, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên.
Trong tiểu thuyết Rừng người, nhà văn Đỗ Phấn tái hiện cảnh ngập lụt trên dòng
sông Hồng vào độ tháng chín dương lịch hàng năm. Nước dâng lên cao nhấn chìm
toàn bộ vùng đất lân cận nhà cửa, hoa màu, làng mạc, cuộc sống đều được nằm
sâu dưới dòng nước, nhất là các bãi bồi bên ngoài đê không còn thấy bóng dáng
đâu nữa. Đến những cái nước giếng khoan của người dân gần đó cũng bị nước
sông Hồng tràn vào khiến cho nước giếng cũng đỏ lòm chẳng khác gì nước sông.
Dòng sông lúc này chỉ toàn thấy nước mênh mông, nhấn chìm tất cả các ngôi nhà
ở hai bên bờ sông, người dân phải căng lều bạt trên bờ đê ở tạm, không thức ăn,
không điện, không đèn đóm, không mạng Internet, không chợ búa... cuộc sống của
họ tách biệt hoàn toàn với cuộc sống phố phường và văn minh đô thị. Nhà văn Đỗ
38
Phấn cảm thương, đau xót khi tận mắt được chứng kiến cảnh lũ lụt tràn về hai bên
bờ sông Hồng, nó nhấn chìm tất cả làng mạc, xóm làng, hoa màu, của cải cũng bị
nhấn chìm hết khiến cho đời sống của nhân dân đói khổ, nghèo túng. Thậm chí
“có năm nước ngập lưng nhà. Anh đành dỡ ngói ngồi thu lu trên mái nhà suốt đêm
chịu đói” [45, tr.65]. Trong nhiều tiểu thuyết của mình, Đỗ Phấn thường đề cập
đến thiên tai và biến đổi khí hậu. Dòng sông Hồng là nơi người nông dân làm ăn
sinh sống được dòng sông đùm bọc quanh năm. Do sự khai thác tài nguyên thiên
nhiên đến mức cạn kiệt nên con người thường xuyên phải gánh chịu thiên tai,
không chỉ là lũ lụt mà còn hạn hán. Trong tiểu thuyết Vết gió là thực tế nhiều năm
nay bờ sông Hồng đã bị thu hẹp dần, hai bên bờ sông người dân xây nhà ở cao
tầng san sát, nhiều đống rác thải vứt bừa bãi trên đường, người và xe cộ tấp lập
chẳng khác gì trong phố. Dưới dòng sông không còn thấy những bãi cát phù sa
nữa, có khi dòng sông nước cạn đến tận đáy, nước trong veo, không còn màu đỏ
như tên gọi của nó nữa. Dòng nước sông Hồng thường xuyên cạn rạch quanh năm,
người dân cũng không có công ăn việc làm, đành phải sống dật dờ, bấp bênh. Mọi
công việc hàng ngày như đánh bắt cá, chở đò, xúc cát, đóng thuyền... không còn
tồn tại bởi dòng sông không có nước. Khi dòng sông cạn đến tận đáy, những bãi
cát bồi hai bên dòng sông cứ dài miên man vào tận sát bờ. Cuộc sống của người
dân hai bên bờ sông phải đối mặt với nhiều nguy cơ. Trong tiểu thuyết Gần như là
sống, nhà văn tái hiện cảnh tượng đáng thương của những người nông dân, cuộc
sống của họ hàng ngày đã nghèo đói, tiêu điều, đến mỗi khi mùa nước lên, họ
càng nghèo đói, đáng thương hơn. Cả một gia đình sinh hoạt trong một ngôi nhà
tạm bợ ven sông, không có gì đáng giá: vài tấm cót ép, vài miếng gỗ thùng hàng,
mấy mảnh ni lông, một cánh tủ lạnh có thể là buồng tắm, là chỗ thay quần áo. Đến
mùa nước lên ngôi nhà cũng sẽ nổi lên theo dòng nước, nó có thể biến thành một
toilet di động. Tất cả đàn ông, đàn bà, trẻ con, người lớn đều sinh hoạt, đi lại trên
những tấm gỗ đóng đinh nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Cuộc sống của họ như đang
bị nén lại một cách đáng thương. Ngoài ra nhà văn còn thấy những hậu quả của
39
thiên tai đối với người dân trong nội đô, thỉnh thoảng có những cơn gió thổi vào
thành phố làm cho đường phố tràn ngập cát, bụi bẩn, ô nhiễm khủng khiếp, thỉnh
thoảng những cơn gió bấc từ bờ sông Hồng thổi vào làm cho cây trong thành phố
“chết rét tím đen” [57, tr.362].
Đỗ Phấn cảm thấy nuối tiếc khi thành phố Hà Nội dần mất đi tiếng chim hót
trên cành cây cổ thụ. Sự khai thác tự nhiên quá mức của con người cũng đã làm
mất dần đi nơi cư trú, sinh sống của các loài chim trong thành phố. Bên cạnh đó,
nạn săn bắn chim chóc diễn ra ngày càng nhiều và bằng các phương tiện hiện đại.
Khoảng những năm 60 của thế kỉ trước cả thành phố rộ lên việc săn bắn chim
bằng khẩu súng hơi hiện đại của nước ngoài. Vì thế, nhiều loài chim quý hiếm mất
luôn từ ngày ấy. Bây giờ, thành phố hoàn toàn vắng bóng tiếng chim cu hoang dã,
cho dù cây cổ thụ trong thành phố vẫn còn đó. Những năm gần đây, con người
khai thác tài nguyên thiên nhiên ở bờ bãi sông Hồng suốt ngày đêm không ngớt.
Ngày nào cũng từ sáng cho đến đêm khuya, tiếng ồn của ca nô, tiếng máy, tiếng
xe tải... khiến cho các loài chim không còn nơi sinh sống, trú ngụ. Chúng đành
phải rời xa nơi này đến một nơi nào đó yên tĩnh để sinh sống. Ngày nào cũng thấy:
“tiếng máy, tiếng người át đi giọng hót trong lành và những đụn cát cao như núi
lấp hết vạt cỏ hoang xanh rì ven sông là chỗ trú ngụ và kiếm ăn của chúng” [45,
tr.262].
Ngày nay, trong các nhà hàng nổi tiếng ở Hà Nội, Đỗ Phấn còn thấy hầu như
tất cả các loài động vật và côn trùng đã “tụ họp” ở đây. Thỉnh thoảng trên những
con phố, người ta còn săn bắt những con chuột trong hang cùng ngõ hẻm. Sáng
hôm sau ra chợ là thấy những con chuột nằm ở chiếc mẹt bày bán. Chuột đã trở
thành một món ăn đặc sản của phố phường. Dân phố có thể chế biến được nhiều
món ăn từ chuột như: “Luộc ép lá chanh. Tẩm mật ong nướng giòn bì. Nấu nhựa
mận giả cầy” [57, tr.116]. Thật là khủng khiếp khi con người coi tất cả các loài
côn trùng là món ăn đặc sản của mình, nào là “ve sầu, dế, cào cào, châu chấu và
bọ cạp. Cà cuống và chuồn chuồn chưa lột xác. Trứng kiến và bọ xít. Nhắm với
40
rượu ngâm con bổ củi và ong đất” [49, tr.140]. Thậm chí đến cả những loài động
vật trên rừng khó săn bắt nhưng đến nhà hàng là vẫn có đủ không thiếu loài nào:
“hươu, nai, cầy, cáo, don, nhím, dúi, rắn, cá tầm, cá chình, cá nhệch, ba ba và
chim trời...” [56, tr.223]. Con người không biết rằng sự tàn sát cạn kiệt các loài
côn trùng đó sẽ gây ra hậu quả đối với môi trường sinh thái trên trái đất. Các loài
côn trùng có ích dần dần mất đi khiến cho sự tác động qua lại giữa các loài côn
trùng với tự nhiên, với trái đất không còn nữa, có thể làm cho trái đất không còn
độ tơi xốp, không còn độ kết dính nên rất dễ dẫn đến hiện tượng xói mòn, động
đất... Ngoài ra, nhà văn còn chứng kiến cảnh con người tàn sát, hủy diệt các loại
động vật đến tận cùng như cảnh bà chủ quán bún ốc khêu những con ốc bằng
“chiếc dùi móc đập ốc từng con một khêu ra. Lại dùng chính cái miệng ốc rêu sắc
lẻm áp vào mình ốc gạn đi rẻo ruột xanh bám theo chiều dọc thân ốc” [49, tr.201]
và cảnh bọn trẻ khiêng con dê vào rừng nướng. Họ lấy đôi chạc bằng thân tre để
đặt đòn nướng dê, rồi gom củi, cành lá và chất lửa xung quanh con dê đốt đến khi
“mùi dê nướng đã bắt đầu nan tỏa khắp cánh rừng” [58, tr.181] là được. Qua
những trang viết của Đỗ Phấn, chúng ta thấy rằng con người đã tàn phá thiên
nhiên đến mức báo động.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư cũng có những băn khoăn, trăn trở như nhà văn
Đỗ Phấn khi diện tích canh tác ngày một thu hẹp dần do quá trình đô thị hóa phát
triển. Nhà văn lo lắng khi nhân dân mất diện tích canh tác, trước hết là họ mất
công ăn việc làm, phải vất vưởng kiếm sống trên thành phố. Họ không thể quay về
cuộc sống thuần nông như xưa bởi: “những cánh đồng trở thành đô thị, những
cánh đồng ngoa ngoắt thay đổi vị của nước, từ ngọt sang mặn chát, những cánh
đồng vắng bóng người, và lúa rày mọc hoang nhớ đau nhớ đớn bàn chân xưa
nghẽn trong bùn quánh giờ đang vất vơ kiếm sống ở thị thành. Những cánh đồng
đó đã hất hủi cây lúa (và gián tiếp từ chối đàn vịt). Đất dưới chân chúng tôi bị thu
hẹp dần” [64, tr.213, 214]. Hơn lúc nào hết, sự hủy hoại tàn phá thiên nhiên của
con người ngày nay khiến chúng ta phải phải suy nghĩ lại về những hành vi của
41
mình. Từ góc nhìn sinh thái có thể thấy tiểu thuyết của Đỗ Phấn gợi nhiều ý nghĩa
và thông điệp trong cuộc sống. Những thông điệp về mối quan hệ giữa con người
và tự nhiên đã được nhà văn Đỗ Phấn chuyển tải đầy ám ảnh đối với người đọc có
ý nghĩa như một lời cảnh tỉnh: con người phải bảo vệ tự nhiên vì đó là môi trường
sống, là quê hương, là những kỉ niệm và là tâm hồn của mỗi người. Điều đó cho
thấy, Đỗ Phấn là nhà văn có quan điểm, cảm quan sinh thái rõ rệt theo sát những
bước chuyển của thành phố từ cái nhìn của người trong cuộc.
2.3. Các hình tượng sinh thái - thẩm mĩ
Cuộc sống của chúng ta luôn gắn bó mật thiết với thiên nhiên. Thiên nhiên là
người bạn, nếu con người biết cách sử dụng hợp lý thì thiên nhiên sẽ mang lại
nhiều điều tốt đẹp cho con người. Ngược lại, nếu con người khai thác kiệt quệ
thiên nhiên thì thiên nhiên sẽ đem lại nhiều hậu quả khó lường. Có lẽ thế, khi
chúng ta sống trong bầu không khí có nhiều cây xanh thì tâm hồn chúng ta luôn
cảm thấy sảng khoái và thanh thản. Chúng ta như tìm được chốn bình yên sau
khoảng thời gian ồn ào của cuộc sống. Còn sống trong không gian thiên nhiên bị
tàn phá thì con người cảm thấy bức bối, ngột ngạt, gây nhiều bất lợi về sức khỏe
và tinh thần. Điều đó được nhiều nhà văn quan tâm thể hiện trong các sáng tác văn
học, trong đó có nhà văn Đỗ Phấn. Đặc biệt Đỗ Phấn còn dùng nhiều hình ảnh
thiên nhiên trong các tiểu thuyết để nói về vấn đề sinh thái ở đô thị.
Theo thống kê của chúng tôi, trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, hình ảnh phố,
cây, sông, rừng được nhà văn sử dụng với tần suất khá cao. Nhà văn đã dùng các
hình ảnh đó nhiều lần trong sáng tác của mình như là những hình tượng mang ý
thức sinh thái thẩm mĩ.
Số
lượng
Tác Phố Cây Sông Rừng
phẩm
1. Vắng mặt 233 94 87 23
42
2. Chảy qua bóng tối 255 65 180 01
3. Rừng người 383 154 58 42
4. Con mắt rỗng 324 87 41 11
5. Gần như là sống 268 114 29 27
6. Ruồi là ruồi 279 69 48 28
7. Rụng xuống ngày hư ảo 352 117 44 23
8. Vết gió 397 184 47 34
9. Rong chơi miền kí ức 248 78 56 31
Bảng thống kê tần suất xuất hiện hình ảnh phố, cây, sông, rừng
trong 9 tiểu thuyết của Đỗ Phấn
Trong các cuốn tiểu thuyết của Đỗ Phấn hình ảnh phố, cây, rừng, sông được
tác giả nói đến nhiều. Nó được lặp đi lặp lại như là một dụng ý nghệ thuật của nhà
văn. Nhiều nhất vẫn là hình ảnh phố và cây. Với thủ đô Hà Nội phố chính là bộ
mặt phố phường. Cuộc sống của người dân trên phố được nhà văn đặc biệt quan
tâm. Hình ảnh: cây, sông là những hình ảnh thiên nhiên luôn song hành với phố,
gắn liền với phố mà tác giả muốn nói đến không chỉ mang ý nghĩa thẩm mĩ cho
thủ đô mà còn mang ý thức sinh thái. Hình ảnh cây cũng được nói đến nhiều vì Hà
Nội là thành phố có nhiều cây xanh. Nó không chỉ mang vẻ đẹp thẩm mĩ của thủ
đô mà nó còn mang lại bầu không khí, hệ sinh quyển trong thành phố. Thành phố
Hà Nội nằm bên bờ sông Hồng, con sông đã che chở đùm bọc nhưng cũng gây
nhiều hệ lụy cho người dân thủ đô. Hình ảnh “rừng người” trong sự đối lập với
rừng cây gợi nên thông điệp về một trạng thái sống: người Hà Nội sẽ cảm thấy
cuộc sống của mình như thế nào trong môi trường khủng hoảng sinh thái ngày
nay.
2.3.1. Phố như là hình tượng mang ý thức sinh thái
Theo các nhà nghiên cứu: Phố có nghĩa là thành phố, phố phường, là lối đi lại
được xác định trong quy hoạch đô thị, là nơi cư dân sinh sống đông đúc, có nhiều
nhà ở, cửa hàng, cửa hiệu buôn bán sầm uất. Việt Nam là một nước có nhiều thành
43
phố lớn nhỏ nhưng Hà Nội là thành phố lớn, đông dân và là thành phố phát triển
của cả nước.
Trong văn học, hình ảnh phố luôn được các nhà văn, nhà thơ, nhà biên khảo
ghi lại bằng những tình cảm thiêng liêng, trân trọng: “Rủ nhau chơi khắp Long
Thành/ Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai... Phồn hoa thứ nhất Long Thành/
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ” (Ca dao). Ngoài ra còn nhiều tác phẩm
như: Hà Nội phố của Phan Vũ; Phố của Chu Lai; Tinh hoa Hà Nội của Mai Thục;
1000 năm Thăng Long Hà Nội của Vinh Phúc; Phố phường Hà Nội xưa của
Hoàng Đạo Thúy; A đây rồi Hà Nội 7 món của Trần Chiến;... Các tác phẩm đều
viết về vẻ đẹp văn hóa, ẩm thực của thành phố, đồng thời các nhà văn cũng dành
những tình cảm đặc biệt của mình cho thành phố thân yêu.
Đi sâu tìm hiểu những sáng tác của Đỗ Phấn, chúng tôi nhận thấy trong tiểu
thuyết, hình ảnh phố được nhà văn tái hiện như là hình tượng mang ý thức sinh
thái. Nó không chỉ là những con phố đẹp mang linh hồn người Hà Nội, mang đậm
chất văn hóa, văn hiến của người Hà thành, mà còn là con phố bị tàn phá, bị ô
nhiễm môi trường. Phố là biểu tượng cho thủ đô, là hình ảnh trở đi trở lại nhiều
lần trong các trang viết của nhà văn (2739 lần). Điều đó chứng tỏ rằng, hình ảnh
phố ám ảnh rất lớn đối với Đỗ Phấn. Nhà văn ghi lại nhiều hình ảnh phố như thế,
cho thấy rằng tác giả viết về đời sống của người dân trong phố, quan tâm đến cuộc
sống phố phường.
Trước hết, phố là linh hồn của người Hà Nội xưa và nay. Hà Nội là thủ đô
của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa từ năm 1945 và là kinh đô của hầu hết các
triều đại phong kiến Việt Nam trước đây. Hà Nội là thành phố có nhiều con phố
nhỏ hợp lại. Mỗi con phố có một vẻ đẹp riêng, với không gian sinh thái riêng.
Thành phố Hà Nội phát triển theo tiến bộ của nền văn minh đô thị trên thế giới, vì
thế những building chọc trời, những tòa nhà cao tầng, những trung tâm thương
mại… mọc lên san sát. Bất kì khu phố nào trong thành phố cũng là niềm tự hào
của người dân Hà Nội. Con người ở khắp mọi nơi trên thế giới đều muốn khám
44
phá về thành phố “nghìn năm văn hiến”. Đối với người dân Việt Nam, thủ đô Hà
Nội là nơi thu hút rất nhiều người từ mọi miền trên Tổ quốc về đây sinh sống.
Trong thành phố có đầy đủ các ngành nghề, các trường Đại học danh tiếng, các
bệnh viện lớn, các trung tâm thương mại lớn, có nhiều cảnh quan nhân tạo và
không gian sinh thái đẹp... Ngoài ra, thành phố còn có nhiều công việc để con
người lựa chọn sinh sống: “Muốn đi học. Muốn chữa bệnh. Muốn mua sắm. Muốn
xuất ngoại. Muốn hồi hương. Muốn kiện cáo. Muốn chơi bời. Muốn tìm vận hội
đổi đời. Muốn chụp ảnh kết hôn...” [51, tr.155, 156].
Trong suy ngẫm của Đỗ Phấn, ông nhận thấy: Phố không chỉ là hình ảnh
mang vẻ đẹp của thủ đô mà phố còn là hình ảnh đang bị ô nhiễm, bị tàn phá trước
tác động của con người. Trong tiểu thuyết Rừng người, nhân vật Văn đã từng sinh
sống và làm việc ở thành phố gần năm mươi năm, có lúc anh chợt nhận ra thành
phố mà mình đang sinh sống luôn chìm ngập trong bụi bẩn. Thành phố thường
xuyên có các công trình xây dựng, các loại xe chuyên chở vật liệu đi lại, cho dù
ban đêm mới được lưu thông trên các tuyến phố, song thành phố cũng không tránh
khỏi bụi bẩn, ô nhiễm nguồn không khí. Thậm chí, trên các con phố, anh thường
bắt gặp hình ảnh, cống rãnh bị đào bới ngổn ngang, bừa bãi gạch, cát, xi măng.
Bạn bè anh “gọi đùa thành phố của anh chỉ có một phố thôi. Phố Hàng Đào” [47,
tr.258]. Đáng buồn hơn vào những hôm mưa to ngập lụt ở thành phố, công nhân
cầu đường còn mặc áo mưa đứng cầm cờ chỉ cho người đi đường để khỏi rơi
xuống cống rãnh. Những ngày ấy, cảnh đường phố ngập lụt, ô nhiễm môi trường,
nhất là ô nhiễm nguồn nước khủng khiếp, đi trên đường phố mà thấy ghê sợ khiến
cho người đi đường phải co chân lên xe để tránh dòng nước bẩn, bởi: “Đường phố
ngập. Rác rưởi lềnh bềnh. Dòng nước đen ngòm. Những chiếc xe máy rú ga rẽ
nước mà đi như tên bắn. Nguyệt ngồi trên xe anh co chân lên vì tránh dòng nước
bẩn” [47, tr.187]. Rồi cảnh tượng mỗi khi trời mưa to, gió lớn, nước dâng lên vỉa
hè, đường phố ngập đầy nước không thể đi được. Những con sóng tràn qua khe
cửa vào những ngôi nhà mặt đường, rác rưởi, nước đen ngòm lềnh bềnh, hôi thối
45
trên mặt phố chúng kết thành bè cùng nhau trôi về cuối phố. Bằng cái nhìn hài
hước, Đỗ Phấn cảm nhận: “rác rưởi như đàn vịt con lạc mẹ dạt vào bậc cửa” [50,
tr.378].
Đỗ Phấn là người gắn bó và nặng tình với thành phố, nhà văn thấy ngày nay
ở thành phố Hà Nội để tìm “một góc không gian thanh bình” [57, tr.13] để hưởng
không khí trong lành của đất trời, được nghe tiếng chim ca hót là điều hiếm hoi.
Thành phố là nơi cư dân tập trung nhiều nên việc tận dụng mọi địa điểm để xây
dựng nhà ở, nơi làm việc, buôn bán gần như không có một không gian tự nhiên
dành cho người và chim chóc như ngày xưa. Nhà văn nuối tiếc “những không gian
như thế cứ lần lượt rời xa trung tâm thành phố. Một cách phát triển đáng ra phải
theo chiều ngược lại. Nghĩa là ở trung tâm thì phải sạch đẹp thoáng rộng như một
niềm tự hào. Giờ thì trung tâm thành phố không còn gì đáng để ngắm nhìn nữa”
[57, tr.13]. Có lẽ thế, nhà văn xót xa khi trong thành phố càng ngày càng vắng
tiếng ve râm ran gọi mùa hè, tiếng chim ca hót mà chỉ nghe thấy tiếng ồn, tiếng
còi của xe máy, ô tô lưu thông trên đường phố: “Mùa ve sầu hình như mỗi năm
một ngắn. Đầu tháng sáu đã nhạt nhòa tiếng ve trưa. Chỉ còn chông chênh vài nhịp
ở mãi xa phía vườn Bách Thảo. Vườn tược, đất đai bị xáo trộn vì nhiều dự án đào
xới? Tiếng ồn của hàng triệu chiếc động cơ ô tô, xe máy ngày đêm hoạt động?
Hay vì nhịp sống mỗi ngày một thêm bận rộn làm lòng người chểnh mảng với
thiên nhiên” [51, tr.128].
Trong cảm thức của nhà văn, phố ở Hà Nội đã thay đổi nhiều, nó đang bị tàn
phá, đang bị ô nhiễm nghiêm trọng ở nhiều nơi. Ngày nay, những ngôi chợ cóc
(chợ cắp nách) mọc ra tràn ngập trên các tuyến phố. Chợ cóc thường diễn ra vào
buổi sáng sớm trước khi đi làm. Các khu chợ này chỉ mua bán trong vòng vài
tiếng đồng hồ, kẻ đứng, người ngồi, tất cả các hàng hóa thực phẩm có đủ hết, cũng
chẳng thiếu thứ gì và “dĩ nhiên rác cũng thế” [57, tr.314].
Không chỉ trong tiểu thuyết mà trong tản văn, Đỗ Phấn thường khắc họa cảnh
tượng tắc đường trên phố vào giờ tan tầm. Người đông như kiến, quãng phố chỉ
46
dài khoảng trăm mét, người và xe chen chúc nhau mà đi, cứ nhích từng bước, từng
bước, thậm chí họ còn trèo lên cả vỉa hè trên phố để đi: “Người và xe lèn chặt. Giờ
tan tầm tắc đường. Người dâng lên như nước. Tràn sang cả hai bên vỉa hè mà đi”
[46, tr.168]. Cũng viết về cảnh kẹt xe, tắc đường, đào bới, ngập lụt, ô nhiễm môi
trường ở thành phố, nhà văn Trần Nhã Thụy có cảm nhận về thành phố trong thời
khắc đặc biệt của một ngày: “Từ nhà tôi vào nội thành cũng có nhiều con đường
để đi... Nhưng nói chung là đi đường nào cũng bị... kẹt xe. Và đi đường nào cũng
thấy những dòng xe cộ đông nghẹt, sẽ thấy những gương mặt không có nụ cười, sẽ
thấy những ánh mắt mệt mỏi, và sẽ thấy đào đường khắp mọi nơi, lô cốt dựng
ngổn ngang, nước ngập tràn lan, bụi bay mù mịt” [74, tr.205]. Những hình ảnh đó
diễn ra trên phố hàng ngày không chỉ làm mất cảnh quan thẩm mĩ của đô thị mà
còn gây nhiều ô nhiễm cho người đi đường và người dân sinh sống ở thành phố.
Như vậy, Hà Nội là một thành phố văn minh, trung tâm văn hóa của cả nước.
Trong sáng tác của Đỗ Phấn, Hà Nội không chỉ mang nét đẹp văn hiến của thủ đô
mà còn là nỗi lo lắng của nhà văn. Ngày nay, Hà Nội đang phát triển theo hướng
văn minh, hiện đại hóa, song nó cũng đang trở thành nỗi trăn trở của nhiều người,
trong đó có nhà văn Đỗ Phấn. Nhà văn cho rằng: mỗi người dân Hà thành phải có
những suy nghĩ, hành động để không tàn phá, không làm ô nhiễm môi trường, biết
trân trọng yêu quý những gì mà thiên nhiên ban tặng cho con người. Không còn
con đường nào khác là con người phải tôn trọng thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên
xung quanh mình.
2.3.2. Cây - thiên nhiên thuần khiết
Cây xanh có vai trò vô cùng quan trọng. Nó vừa giúp con người cải thiện môi
trường sống, vừa giúp cân bằng sinh thái môi trường. Ở thủ đô, cây xanh được coi
là “lá phổi” của thành phố có tác dụng cải thiện cuộc sống của người dân như cải
thiện khí hậu, có khả năng ngăn chặn và lọc bức xạ mặt trời, giảm quá trình bốc
hơi nước, giữ độ ẩm cho đất và độ ẩm không khí, kiểm soát gió và lưu thông gió.
Đồng thời cây xanh có tác dụng rất lớn trong việc bảo vệ môi trường, như cung
47
cấp ô xi, hút khí cacbonic làm cho không khí ở thành phố trong lành hơn. Nó làm
giảm tiếng ồn của các nhà máy, của các phương tiện giao thông trong thành phố.
Đặc biệt, cây xanh còn có tác dụng ngăn giữ các khí bụi độc hại. Ở vùng ngoại ô
cây xanh còn có tác dụng chống xói mòn, điều hòa mực nước ngầm. Trong nội
thành các loài cây được trồng nhiều trên các tuyến phố như cây xà cừ, cây bàng,
cây cơm nguội, cây phượng, cây bằng lăng, cây bồ đề, cây lộc vừng, cây chò chỉ.
Trong văn học, cây là hình ảnh được nói đến rất nhiều. Văn học dân gian,
nhiều loài cây được nói đến như là những hình ảnh gắn với vũ trụ, nguồn gốc các
tộc người (cây si là cây vật tổ của người Mường; cây đa là cây vật tổ của người
Sre; cây rãi rác là cây vật tổ của người Mạ; cây smuk, cây blang là cây vật tổ của
người ÊĐê...). Văn học trung đại, cây là hình ảnh gắn với phẩm chất của con
người (cây mai tượng trưng cho đạo đức và khí tiết của con người; cây tùng tượng
trưng cho khí tiết của người quân tử...). Văn học hiện đại và đương đại, cây mang
hàm nghĩa của cuộc đời luôn sinh sôi, nảy nở.
Đỗ Phấn là nhà văn gắn bó với Hà Nội nên ông viết về Hà Nội bằng những
trải nghiệm thực tế của mình. Viết về Hà Nội, nhà văn dành mối quan tâm đặc biệt
cho các loài cây, cây như là hình ảnh của thiên nhiên thuần khiết. Cây không chỉ
là biểu tượng cho thẩm mĩ thủ đô mà cây còn là hình ảnh gắn liền với môi trường
sinh thái đô thị. Trong tiểu thuyết, hình ảnh cây được nhắc đi nhắc lại nhiều lần
(962 lần) cho thấy nhà văn Đỗ Phấn rất quan tâm đến cây ở Hà Nội. Mỗi cây có
một vẻ đẹp riêng, sắc màu riêng của từng con phố: phố Trần Hưng Đạo, Hai Bà
Trưng, Trần Phú, Phan Đình Phùng rợp trắng hoa sấu. Con đường Lý Thường
Kiệt nhuộm đỏ bạt ngàn hoa phượng tháng năm, con phố “Thợ Nhuộm bằng lăng
tím trời thổn thức... Con đường Hoàng Diệu, Lê Hồng Phong, Kim Mã rợp bóng
hai hàng cây xà cừ cổ thụ” [57, tr.255]. Gần như ở tác phẩm nào, nhà văn Đỗ Phấn
cũng có những quan sát và chiêm nghiệm về các loài cây trong thành phố. Hà Nội
là thành phố được thừa hưởng quy hoạch của nền văn minh Châu Âu do người
Pháp để lại sau hòa bình. Họ đã để lại cho Việt Nam nhiều giống cây trồng trong
48
đô thị có cách thức quy hoạch tính toán tỉ mỉ. Từ tầm vóc cây, độ tỏa rộng của lá
cành cho đến màu hoa và mùi hương của cây khiến cho Hà Nội có vẻ đẹp thiên
nhiên thơ mộng, đồng thời làm cho Hà Nội bớt nóng, bớt tiếng ồn, bớt bụi bẩn
hơn: “Hàng cây bàng trên phố Tràng Thi sau hòa bình đã đạt đến độ lớn cực đại
che phủ suốt chiều dài con phố. Mùa hè đi trên phố ấy gần như không nhìn thấy
ánh mặt trời... Phố Lý Thường Kiệt hoa phượng, phố Thợ Nhuộm bằng lăng, phố
Hai Bà Trưng cây nhội, phố Quang Trung hai hàng cơm nguội, Lê Hồng Phong,
Hoàng Diệu rợp tán xà cừ và rất nhiều cây con phố Hà Nội gợi nhớ nhung bằng
những hàng cây của mình” [59, tr.152, 154].
Nhớ về vẻ đẹp của các loài cây ở Hà Nội, Đỗ Phấn mơ ước cuộc sống của
con người luôn được hòa nhập với thiên nhiên, coi thiên nhiên là người bạn.
Trong Chảy qua bóng tối Đỗ Phấn từng viết về những giây phút lão Quảng ngồi
lặng giữa thiên nhiên lắng nghe tiếng chim ca hót. Dù không nhìn thấy nhưng lão
vẫn tưởng tượng ra những con chim xôn xao trên những cây phượng già với tán lá
xum xuê, cao rộng: “Vườn cây tếch, cây chò xanh mùa thu rụng xuống những
chiếc lá to như cái quạt. Chỉ mươi chiếc lá khô là đủ cho lão dọn một chỗ nằm
nghỉ trên bãi cỏ êm” [45, tr.93]. Có lúc ngồi dựa lưng vào gốc cây, lão thấy mình
như đang được nghe tiếng chim ca hót râm ran suốt ngày. Con chào mào gọi bạn,
con chích chòe tập hót, con chim khuyên tíu ta tíu tít vui vầy.
Mong ước về một thiên nhiên thuần khiết, Đỗ Phấn tiếc nuối vô cùng khi
những loài cây trong thành phố không còn “um tùm tỏa bóng”, “xùm xòa ra cả lối
đi” [51, tr.213] ở chùa Vũ Thạch. Không còn nhìn thấy những: “cây cỏ ven đầm
dày đặc. Những ngọn dừa nước bò lan ra xa nở những bông hoa tím sừng sững
trên mặt nước tối đen. Hoa nghê trắng như rắc muối trên những nhánh lá tím
nhọn. Hoa dã quỳ vàng rực trên những gò đất cao. Những bông cúc trắng cánh
đơn hoang dại phất phơ như cánh bướm lang thang trên bờ cỏ. Những bụi gai xấu
hổ trổ hoa như quả bông màu tím dịu dàng. Và còn nhiều loại hoa đồng nội nhỏ li
ti nữa” [52, tr.196] mà chỉ thấy, ở Hà Nội bây giờ cây cối đầy thương tích, khuyết
49
tật, trên thân cây sần sùi đầy cục mấu u nhọt, cành lá thì bị cắt tỉa không còn hình
dáng gì. Đỗ Phấn đau xót khi nhìn thấy “những cây bàng khúc khuỷu cụt ngọn
chĩa ra những cành ngang ngớ ngẩn” [49, tr.33]. Thậm chí, nhiều cây cổ thụ trong
thành phố đã bị biến mất do quá trình phát triển đô thị, do tác động của thiên nhiên
và sự tàn phá của con người. Làm thế nào để giữ gìn thiên nhiên, coi thiên nhiên là
người bạn với con người, đó là nỗi niềm trăn trở của nhà văn Đỗ Phấn.
Trong Dằng dặc triền sông mưa của Đỗ Phấn, người đọc vẫn có thể nhận
thấy hình ảnh cây ở Hà Nội xưa với vẻ đẹp thuần khiết. Đó là các loài cây dại mọc
ven đường, xum xuê, xanh tốt với những bông hoa nhỏ li ti mang đậm “hương
đồng cỏ nội” khi thiên nhiên chưa bị con người tàn phá, khi thành phố chưa phát
triển đô thị vẫn còn những con đường đất ở ngoài bờ đê sông Hồng: “Con dốc đê
Bác Cổ dẫn ra nhà con Hoa bây giờ cũng um tùm cây lá. Rất khó để nhận ra một
con đường. Cây nhọ nồi, cây cứt lợn chập chờn nở những bông hoa trắng. Cỏ may
mọc cao ngẩng đầu gối đâm những cái gai lước xước trên bắp chân cậu như châu
chấu đá” [52, 284].
Hà Nội là thành phố có nhiều cây. Mỗi con phố có loại cây đặc trưng. Những
hàng cây trên phố đã tô điểm làm đẹp cho thành phố nghìn năm tuổi, mang nét đặc
trưng văn hóa, văn hiến của thủ đô. Ngày nay, nhiều hình ảnh cây trên phố chỉ còn
trong hoài niệm của nhà văn. Do nhu cầu của cuộc sống của con người như mở
rộng phố xá, xây dựng nhà cao tầng, trung tâm thương mại, hệ thống cây xanh ở
Hà Nội đang mất dần đi vẻ đẹp tự nhiên... Chính điều đó, nó đã ảnh hưởng lớn đến
cuộc sống con người, vẻ đẹp và môi trường sinh thái của thủ đô.
2.3.3. Rừng cây - “rừng người”
Rừng là quần xã sinh vật trong đó cây rừng là thành phần chủ yếu sinh sống.
Rừng có vai trò vô cùng lớn đối với mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Đặc biệt, rừng có
vai trò vô cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi con người. Rừng không chỉ
là nơi cung cấp gỗ, củi, khoáng sản mà rừng còn là lá phổi để thanh lọc không khí,
điều hòa khí hậu, cân bằng sinh thái cho môi trường, bảo vệ đất, hạn chế sa mạc
50
hóa, hạn chế thiên tai... Rừng còn làm dịu bớt luồng khí nóng ban ngày của mặt
trời, đồng thời rừng còn duy trì được độ ẩm, ổn định khí hậu toàn cầu... Rừng còn
là nơi cư trú của các loài động thực vật, là nơi bảo vệ và chống xói mòn đất, là nơi
ngăn chặn gió bão, đảm bảo sức khỏe và sự sống của con người.
Trong văn học, rừng có vai trò to lớn quyết định thắng lợi của quân và dân ta
trong thời chiến. Rừng trở thành căn cứ địa cách mạng, bảo vệ quân đội ta và ngăn
bước chân của quân thù: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” (Việt Bắc - Tố
Hữu). Trong thời bình, rừng là nơi nghỉ ngơi an dưỡng, là điểm tham quan du lịch
của nhiều người. Ngày nay, rừng đang bị tàn phá nặng nề, nhiều nhà khoa học đã
lên tiếng để bảo vệ tài nguyên rừng. Vì thế, nhiều tác phẩm văn học ra đời góp
tiếng nói cùng với vấn đề khủng hoảng môi trường rừng hiện nay: tác phẩm Đất
rừng phương Nam của Đoàn Giỏi; Thập giá giữa rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê;
Tiếng rừng của Hiền Phương; Nghiệp rừng của Triệu Hoàng Giang; Thung mơ
của Hà Nguyên Huyến; Bãi vàng, đá quý, trầm hương; Chuyện cũ từ rừng; Tiền
rừng của Nguyễn Trí... Hầu hết, các tác phẩm đều nói đến vẻ đẹp của tài nguyên
rừng và sự tàn phá tài nguyên rừng của con người một cách kiệt quệ.
Theo bảng thống kê chúng tôi xác lập được hình ảnh rừng xuất hiện không
nhiều so với các hình ảnh phố, cây, sông nhưng vẫn ở tần suất cao (220 lần). Rừng
ở đây không chỉ mang hàm nghĩa là nguồn cung cấp tài nguyên thiên nhiên, mang
ý nghĩa sinh thái mà còn là hình ảnh được gợi nhắc trong mối liên hệ với cuộc
sống của con người, đúng hơn là nói đến cuộc sống của con người giữa “rừng
người”.
Trong tiểu thuyết, nhà văn Đỗ Phấn cho rằng: tài sản từ môi trường rừng là
vô cùng quý giá, nhiều người lợi dụng rừng vì mục đích bất chính và đã trở nên
giàu có từ nguồn tài nguyên rừng. Chẳng hạn, gia đình nhà Hưng trong Vết gió,
xưa kia bố Hưng chỉ là một người thợ mộc “gặp thời khai thác lâm sản ồ ạt nên
ông đã mở một xưởng cưa” [57, tr.171] nhưng thực chất là “điểm tập kết buôn bán
gỗ” [57, tr.171]. Từ đó, ông giàu lên nhanh chóng và ngôi nhà của gia đình Hưng
51
cũng được làm chủ yếu bằng gỗ từ tài nguyên rừng, đó là: “một ngôi nhà khổng lồ
toàn bằng gỗ lim nhập ngoại” [57, tr.172].
Nhà văn cho người đọc thấy được không gian thiên nhiên trong rừng thơ
mộng, bầu không khí trong rừng vô cùng trong sạch nếu như con người không
khai thác tàn phá tài nguyên rừng. Ở đó, con người có thể được nghe tiếng chim ca
hót vào buổi sáng sớm khiến cho không gian thiên nhiên sống động cả một khu
rừng: “Những khoảnh khắc rừng sáng lên. Mây trên đầu sà xuống. Loáng thoáng
nghe như tiếng đàn tiếng sáo dìu dặt trong thung xa” [50, tr.342]. Trong tiểu
thuyết Ruồi là ruồi lấy cảm hứng từ một khu rừng, nhân vật Hòa đã sáng tác bài
hát Biệt khúc ruồi sau một chuyến đi thăm trang trại trên rừng của Hùng. Bài hát
ấy được ban nhạc của Hòa đi biểu diễn khắp nơi trên thế giới, để tuyên truyền cho
mọi người biết rằng: ruồi là loài sinh vật nhỏ bé, chưa bao giờ chúng làm hại đến
thiên nhiên và ruồi cũng “chưa bao giờ được hoan nghênh trên bất cứ một quốc
gia hay vùng lãnh thổ nào. Thậm chí còn bị tàn sát và xua đuổi. Nhưng ngày nay
với những nghiên cứu đa dạng sinh học mới nhất chúng ta buộc phải thay đổi
quan niệm về một loài vật nhỏ bé phiền toái và đáng ghét ấy. Bởi chúng là một
phần trong cuộc sống trên hành tinh xanh của chúng ta... Bài hát nhằm kêu gọi ý
thức của chúng ta về việc hướng đến một trái đất cân bằng sinh thái. Mọi cỏ cây
và sinh vật sống trên hành tinh này đều phải được tôn trọng” [tr 53, tr.306].
Viết về môi trường, không gian của rừng, nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng
có những cảm nhận: “Khoảng thời gian này mà đi trong rừng, chân dẫm lên lớp lá
ải mục, hít thở không khí trong lọc, thỉnh thoảng lại được thót mình bởi một giọt
nước trên cây rỏ xuống vai trần thì thật tuyệt thú. Tất cả những trò nhố nhăng đê
tiện hàng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi cú nhảy của một con sóc nhỏ trên
cành dâu da” [76]. Theo nhà văn Nguyễn Trí trong các tác phẩm: Tiền rừng,
Chuyện cũ từ rừng, Đổi nghề, Trên đồi đất đỏ... rừng trở thành hình tượng mang ý
thức sinh thái. Nhà văn trăn trở khi con người đối xử tệ bạc với thiên nhiên, với
môi trường rừng. Con người đã khai thác, tàn phá rừng mà quên đi vị trí của rừng
52
trong hệ sinh thái. Họ đã tàn phá rừng bằng nhiều cách, khiến cho các khu rừng bị
mất dần, diện tích rừng bị thu hẹp lại. Câu chuyện cho thấy tác giả day dứt về môi
trường thiên nhiên rừng với lời cảnh báo: rừng sắp chết hay chính là con người
đang chết dần chết mòn.
Đỗ Phấn cho rằng: rừng không chỉ là rừng cây, mà rừng còn dùng để chỉ
“rừng người”. Trong sáng tác của mình, ông nhận thấy rừng cây và rừng người
đều giống nhau. Nếu như rừng cây có nhiều loài cây sinh sống thì “rừng người”
cũng có nhiều người sinh sống. Trong “rừng người” đông đúc, nhất là ở thành
phố, con người phải chen chúc nhau mà tồn tại. Cả rừng cây, “rừng người” đều bất
tận. Cuộc sống trong “rừng người” còn khó khăn hơn nhiều rừng cây. Bởi trong
“rừng người”, con người phải bon chen, tìm mọi cách để kiếm sống miễn sao là
tồn tại trong “rừng người”. Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn có đủ
các hạng người, có đủ các ngành nghề cùng tồn tại trong “rừng người”: công chức,
kinh doanh buôn bán, cắt tóc, gội đầu, sinh viên du học... tất cả với mục đích là
sống để tồn tại trong “rừng người”. Các nhân vật của Đỗ Phấn ngày nào cũng bon
chen trên con đường để kiếm sống sinh nhai. Năm giờ sáng đã phải chen chúc trên
đường tiến vào thành phố, người đi làm, người chở lương thực, thực phẩm vào
thành phố. Con người đi lại ngoài đường đông đúc cứ chen chúc nhau như đàn
kiến, rồi tìm mọi cách để lách mình qua đám đông. Hà Nội giống như một “cái túi
đựng người” [57, tr.55]. Thậm chí sống trong xã hội loài người họ còn tàn sát
nhau không thương tiếc. Trong tiểu thuyết Rụng xuống ngày hư ảo nhân vật
Khánh bị người cùng phòng trong tù giết chết, Hoàn bị Ngân là người yêu cũng
giết chết, Thủy bị Cường là người yêu cũ giết chết rồi ném đầu và xác một nơi để
phi tang. Trong tiểu thuyết Vết gió Hân chết là do cô tự tử vì bị làm nhục, Hưng bị
giết ở trong rừng là do bọn lâm tặc cướp đồ. Sống trong “rừng người” đông đúc
nhưng con người luôn thiếu thốn tình cảm và luôn cảm cô đơn, cô độc.
Nếu như trong rừng cây, tài nguyên rừng luôn bị khai thác đến kiệt quệ thì
sống trong “rừng người” con người lúc nào cũng cảm thấy bất an, con người luôn
53
tàn sát, hủy diệt lẫn nhau, coi nhau như kẻ thù, không mảy may thương tiếc. Nhà
văn thấy băn khoăn, day dứt, lo âu về cuộc sống của “rừng người” ngày nay.
2.3.4. Sông như là hình tượng mang ý thức sinh thái
Việt Nam là đất nước có mạng lưới sông ngòi dày đặc. Dù là một con kênh,
một con ngòi hay một dòng sông lớn như sông Hồng, sông Hương, sông Cửu
Long... thì đều tự hào là cái nôi của một vùng văn hóa xứ sở. Sông Hồng là con
sông giữ vị trí quan trọng không chỉ riêng của thủ đô Hà Nội - mảnh đất Thăng
Long ngàn năm văn hiến mà còn cả vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Sông
Hồng là cái nôi văn hóa hơn một nghìn năm Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
Sông là dòng nước lưu lượng lớn thường xuyên chảy, có nguồn cung chủ yếu
là từ hồ nước, từ các con suối hoặc từ các con sông nhỏ hơn nơi có độ dốc cao
hơn. Dòng sông có vai trò vô cùng quan trọng đối với tất cả những sinh vật sinh
sống trên trái đất. Nó không chỉ điều tiết nguồn nước cho sinh hoạt, thủy lợi, thủy
sản, giao thông mà còn cung cấp tài nguyên thủy sản, nước, khoáng sản, điều hòa
khí hậu, hấp thụ khí độc, bụi bặm, làm trong lành không khí...
Trong lịch sử, sông Hồng là dòng sông ghi dấu bao chiến công hiển hách của
dân tộc trong cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm. Trong văn học, dòng sông
Hồng là nguồn cảm hứng thi ca của nhiều nhà văn, nhà thơ như: Tràng giang của
Huy Cận, Gửi em ở cuối sông Hồng của Dương Soái; Bài ca trên bãi sông Hồng
của Phan Thị Thanh Nhàn...
Đỗ Phấn là nhà văn đã dành khá nhiều tâm huyết khi viết về dòng sông
Hồng, con sông gắn liền với thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến. Kết quả khảo sát
từ bảng thống kê trên cho thấy hình ảnh sông được nhà văn tái hiện nhiều lần (590
lần) với nhiều mục đích khác nhau, cho thấy: sông là hình ảnh thiên nhiên luôn
gắn bó, đồng hành với phố. Trong tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn, nói đến sông
là người đọc có thể hình dung ra hình ảnh con sông Hồng, bởi sông Hồng là con
sông gắn bó với thủ đô Hà Nội đồng thời cũng là con sông gắn bó với tuổi thơ của
nhà văn, làm nên nền văn hóa của kinh thành Thăng Long.
54
Trong kí ức của nhà văn, sông Hồng là dòng sông di dưỡng tinh thần người
Hà Nội, là nhân chứng lịch sử, tuy nhiên con người khai thác quá mức tài nguyên
thiên nhiên sông khiến cho dòng sông không còn vẻ đẹp thơ mộng nữa mà làm
ảnh hưởng đến cuộc sống và môi sinh của người dân. Trước hết, sông Hồng là
dòng sông nuôi dưỡng vật chất, tinh thần và tâm hồn người Hà Nội. Dọc hai bên
bờ sông Hồng là cuộc sống yên bình của người dân được dòng sông bao bọc, che
chở: “xanh mướt những ruộng rau, những giàn cà chua” [43, tr.329] và dòng nước
trong veo thơ mộng, là nơi lũ trẻ có chỗ để chơi đùa thỏa thích. Ở mỗi làng lại có
một bến sông, người ta có thể “tắm giặt”, “rửa rau vo gạo”, “lấy nước” [59, tr.85]
tùy thích. Ngoài ra, sông Hồng còn là dòng sông của lịch sử, mang đậm nét văn
hóa của thủ đô. Ngày xưa, Hà Nội là một thành phố có nhiều sông nước ao hồ
chằng chịt. Giao thông đường thủy vô cùng thuận lợi tạo điều kiện cho việc phát
triển kinh tế, văn hóa. Vì thế mà “đức Thái Tổ Lý Công Uẩn đã quyết định rời từ
Hoa Lư ra Thăng Long. Những con phố Hàng Bè, Hàng Buồm, Cầu Gỗ là những
chứng tích cho mạng lưới giao thông thủy cổ xưa ấy” [57, tr.278].
Bằng cái nhìn đầy trân quý của nhà văn, dòng sông Hồng được tái hiện như
một nhân chứng lịch sử. Nó nhẫn nại và kiên cường chứng kiến mọi sự việc diễn
ra trong thành phố. Trong những năm chiến tranh ác liệt, dòng sông là một nhân
chứng chứng kiến sự tàn phá ác liệt của Đế quốc Mĩ “từng chùm bom lõng thõng
rơi xuống” [52, tr.200] khiến cho dòng sông khói đen ngùn ngụt bốc lên bầu trời.
Ngày nay, dòng sông Hồng đã chứng kiến mọi sinh hoạt, mọi sự đổi thay của
người dân hai bên bờ sông. Dòng sông không còn nguyên sơ, thơ mộng nữa,
không còn những “đám cỏ bằng phẳng bên bờ sông”, “những nhánh cỏ ba lá như
những chong chóng”, “những bông cỏ may tím lịm”, “cỏ mần trầu sắp sửa lên
bông” [45, tr.160], mà chỉ thấy những hoạt động khai thác của con người trên
dòng sông, đó là: “những con tàu hút cát lầm lũi neo đậu suốt dọc dòng sông” [45,
tr.263], tiếng máy, tiếng người ồn ào, náo nhiệt suốt cả ngày đêm. Trong vài chục
năm lại đây, Hà Nội thay đổi một cách nhanh chóng. Trong Vết gió và Gần như là
55
sống nhà văn tái hiện dòng sông Hồng ngày càng cạn nên cuộc sống của người
dân hai bên bờ sông cũng có sự thay đổi nhiều. Dân số ngày càng đông, nạn tắc
đường diễn ra thường xuyên. Môi trường ô nhiễm ở hai bên bờ sông đến lúc phải
báo động.
Trong cảm quan của Đỗ Phấn: tự nhiên là để con người nương tựa, nó ban
tặng cho con người tất cả những gì mình có, nhưng con người không gìn giữ, bảo
vệ mà lại vô tâm khai thác tự nhiên đến mức cạn kiệt. Những năm gần đây có một
thực tế là vấn đề khai thác tài nguyên ở dòng sông đến mức báo động. Cứ mùa
nước lên trên dòng sông lại nhộn nhịp, người dân đã khai thác cát dưới lòng sông
khiến cho dòng sông lúc nào cũng ồn ào, náo nhiệt. Con người không biết rằng
khai thác nhiều cát dưới lòng sông sau này đến mùa nước lên bờ sông không chịu
đựng được sức tàn phá của nước, của sóng khiến cho bờ sông ngày càng suy yếu,
nguy cơ vỡ đê, lụt lội sẽ diễn ra, con người chỉ biết phục vụ lợi ích của mình trước
mắt mà không nghĩ đến tương lai. Vì vậy, hàng năm đến mùa khai thác cát dưới
lòng sông, là người dân phải chịu cảnh ầm ĩ suốt ngày đêm: “mùa làm ăn của cánh
vận tải đường sông. Suốt đêm, tiếng còi ca nô, tiếng máy, tiếng xe tải ì ầm vọng
vào trong xóm” [45, tr.135]. Bên cạnh đó, môi trường sinh thái ở các con sông
khác trong thành phố cũng ngày một ô nhiễm, các con sông như sông Tô Lịch,
Sông Sét, Kim Ngưu... từ lâu đã trở thành nỗi ám ảnh của vệ sinh công cộng.
Những con sông này, cá tôm cua cũng không thể sống nổi, bởi nước thải từ các
nhà máy, xí nghiệp trong thành phố thải ra, nước sông đen ngòm, mùi hôi thối bốc
lên khủng khiếp nhất là vào những ngày oi nắng và mưa to. Trong tiểu thuyết Gần
như là sống là hình ảnh dòng nước ở sông Tô Lịch vào những ngày mưa đen
ngòm, đặc sánh: “mùi cống nồng nặc trong cơn gió lạnh trùm lên dòng người chen
chúc trên mặt cây cầu dẫn vào thành phố” [50, tr.329]. Sự ô nhiễm nguồn nước và
không khí còn được Đỗ Phấn tái hiện trong tản văn Chuyện vãn trước gương, Ông
ngoại hay cười một cách cụ thể: chỉ cần đứng trên doi cát cuối bãi sông, người dân
đã ngửi thấy mùi phế thải của rác rưởi phố phường và “những âm thanh động cơ
56
náo loạn cả một khúc sông” [40, tr.172]. Dòng sông vào mùa nước lên: “nước
ngầu đỏ cồn cào mang theo rất nhiều rác rến và củi rều” [46, tr.173].
Cuộc sống hiện đại đã dần khiến con người đối xử thô bạo với thiên nhiên,
chỉ chú ý vào lợi ích cá nhân, gây nên nhiều hệ lụy cho môi trường. Trong các
sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư, Võ Diệu Thanh, Lý Lan... người đọc có thể thấy
được thực tế những cơn hạn hán kéo dài khiến cho người dân hai bên dòng sông
không đủ nước ngọt để dùng trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Khổ nhất là
thảm cảnh người dân đói nước, thèm nước, họ chỉ ao ước làm sao trước lúc cha
mẹ mình chết, họ “được tắm một bữa đã đời”. Những điều như thế xảy ra trong
cuộc sống thường ngày mới thấy rằng: tài nguyên thiên nhiên là vô giá nhưng phải
biết sử dụng hợp lí, không được khai thác cạn kiệt. Nếu con người khai thác quá
mức thì sau một thời gian nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt, đồng thời con
người phải tự gánh chịu hậu quả thiên tai mang lại. Đó là những băn khoăn lo lắng
của các nhà văn, trong đó có Đỗ Phấn.
Sông Hồng là dòng sông gắn bó với người dân Hà Nội, gắn bó với tuổi thơ
của nhiều đứa trẻ thủ đô. Dòng sông không chỉ mang vẻ đẹp của nền văn hóa của
thủ đô. Nhà văn trân trọng nâng niu những lợi ích mà dòng sông mang lại cho
người dân hai bên bờ sông. Sông Hồng là dòng sông của kỉ niệm, dòng sông của
tuổi ấu thơ, dòng sông của lịch sử, của văn hóa đã ghi bao kí ức khó phai. Ngày
nay, cuộc sống của người dân hai bên bờ sông văn minh hơn nhưng đi cùng với
quá trình đô thị hóa là những hệ lụy. Nhà văn Đỗ Phấn trong các sáng tác của
mình bên cạnh niềm hứng khởi về sự “thay da đổi thịt” của thành phố là trạng thái
bất an với những băn khoăn trăn trở, làm sao để dòng sông trở về với vẻ đẹp xưa
kia, làm sao dòng sông không bị khai thác, tàn phá và không bị ô nhiễm môi
trường nước.
Tiểu kết chương
Vấn đề sinh thái tự nhiên trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn được nhìn ở nhiều
góc độ khác nhau. Mỗi trang viết là một kí ức riêng về vẻ đẹp của Hà Nội xưa và
57
Hà Nội ngày nay khi tự nhiên đã bị con người tác động làm mất đi cảnh vốn có
của nó. Mặc dầu vậy, dù ở thời điểm nào, giai đoạn lịch sử nào thì Hà Nội vẫn
mang những vẻ đẹp riêng, đặc trưng riêng. Vẻ đẹp ấy vẫn còn tồn tại trong tiềm
thức, trong trí nhớ, trong tưởng tượng của những người đã và đang sinh sống, làm
việc ở mảnh đất thủ đô yêu dấu này. Nhà văn tái hiện vẻ đẹp nguyên sơ của thủ đô
Hà Nội giờ chỉ còn trong từng kỉ niệm, trong kí ức, trong những hoài niệm của
chính tác giả. Đỗ Phấn không chỉ trân trọng, trân quý nâng niu những vẻ đẹp thuở
xưa của thủ đô Hà Nội mà còn lo lắng cho Hà Nội ngày nay - một Hà Nội đang
từng ngày biến đổi do quá trình đô thị hóa. Đồng thời, nhà văn cũng thấy được sự
tác động của con người có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường, đến thẩm mĩ, đến hệ
sinh thái của thủ đô và mơ ước được sống trong bầu không khí môi trường tự
nhiên trong lành và khoáng đạt.
58
Chương 3
CON NGƯỜI TRONG KHÔNG GIAN SINH THÁI ĐÔ THỊ
3.1. Đô thị hóa và những chấn thương sinh thái
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị tính theo tỉ lệ phần trăm giữa số dân đô thị hay diện
tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng, một khu vực. Quá trình đô thị hóa
ảnh hưởng rất lớn đến các dịch vụ công cộng dẫn đến tình trạng bị quá tải, gây ách tắc giao
thông, tạo sức ép về việc làm và nhà ở. Đặc biệt đô thị hóa còn ảnh hưởng lớn tới môi trường
như rác thải và nước thải sinh hoạt làm ô nhiễm nguồn nước, không khí và phương hại đến
cảnh quan đô thị.
Trong văn học, vấn đề đô thị đã trở thành đề tài sáng tác của nhiều nhà văn, nhà thơ
như Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Tô Hoài... Sau năm 1975, đề tài
đô thị là một trong những đề tài được nhiều người viết quan tâm: Lạc chốn thị thành của
Phong Điệp; Huyền thoại phố phường của Nguyễn Huy Thiệp; Hà Nội trong mắt tôi của
Nguyễn Khải, Phố nhà binh của Chu Lai; Hà Nội những ngày trước tết của Thái Bá Tân;
Con giai phố cổ, Khải huyền muộn, Buổi chiều ngồi hát của Nguyễn Việt Hà; Ăn phở rất
khó thấy ngon, Hà Nội là Hà Nội, Tự nhiên như Hà Nội của Nguyễn Trương Quý... và Đỗ
Phấn với cả một sự nghiệp sáng tác viết về Hà Nội. Trong các sáng tác của ông cuộc sống
con người và môi trường đô thị được nhà văn biểu thị qua cảm quan sinh thái.
Là người chứng kiến thành phố phát triển từng ngày, Đỗ Phấn nhận thấy: đô thị phát
triển thường kéo theo những hệ lụy, những chấn thương sinh thái, ô nhiễm môi trường nước,
ô nhiễm không khí ngày càng nhiều. Đô thị hóa diễn ra ở thành phố làm cho bộ mặt thành
phố thay đổi từng ngày từng giờ. Các tòa nhà cao tầng mọc lên ở khắp mọi nơi, cây cối cũng
bắt đầu trồng mới, còn thấp bé “chẳng có ý nghĩa gì với tầng nhà cao chót vót” [49, tr.280].
Thậm chí, có những cây vừa trồng xong chưa kịp lớn đã bị đào lên, sống dở chết dở trên
những con phố dài. Hà Nội là một thành phố đang phát triển nên việc tu sửa các công trình
nhà cửa, vỉa hè, làm đường ống diễn ra thường xuyên và hầu như ở đâu cũng bê tông hóa,
cây cối nhỏ chưa kịp lớn, khói bụi của các phương tiện đi lại trên đường phố rất nhiều khiến
cho môi trường không khí ở thành phố ngột ngạt vô cùng, nhất là vào mùa hè dưới cái nắng
59
oi ả, đi trên phố Hà Nội, con người cảm thấy nóng bức, khó chịu vô cùng chẳng khác gì như
“một cái lò nung không khói” [49, tr.280].
Dân số phát triển, diện tích canh tác bị thu hẹp dần, lượng nước thải, rác thải sinh hoạt
ngày càng nhiều. Đỗ Phấn cảm thấy môi trường sinh thái bị ô nhiễm nghiêm trọng. Bất kì
con phố nào cũng thấy đủ các loại rác rưởi vứt bừa bộn trên mặt đường, gây mùi hôi thối,
ruồi muỗi, bẩn thỉu: “Vài bọc cuộng rau cỏ, thức ăn thừa. Mấy viên xỉ than tổ ong còn hồng
hơi lửa. Những chậu cây cảnh héo khô vỡ nát. Gạch vụn và chạt vữa xây nhà. Chó mèo và
chuột chết” [43, tr.12]. Kể cả những xóm làng mới nhập vào phố phường cũng thế. Chẳng
hạn, cái xóm Bến của lão Quảng từ khi nhập vào phố phường, con đường trong xóm đã trở
thành nơi chứa đựng rác rưởi, cái gì trong nhà không dùng được, người dân vứt ngay ra
đường: “vài chiếc xe công nông xẹp lốp”, “mấy đống gạch vụn dỡ phá nhà”, “những chiếc
sọt tre đựng hoa quả rách nát”, “vài cái vai giường người ta cũng vứt ra đường” [45,
tr.18,19].
Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, người đọc không chỉ thấy sự ô nhiễm môi trường ở
trên các phố phường mà còn thấy sự ô nhiễm nguồn nước ở các ao hồ trong nội thành và các
dòng sông quanh thành phố. Ở Bờ Hồ, kể cả trên đường và dưới hồ đều ô nhiễm bẩn thỉu,
mất vệ sinh. Những dòng nước đen ngòm từ phía sau lưng các nhà hàng chảy vào lòng hồ.
Dưới lòng hồ thì đầy đủ các loại rác của người dân vứt ra như: túi ni lông, cuộng rau đến
“quần áo và chiếu cũ. Vỏ lon bia và những ống bơm tiêm. Băng vệ sinh và những thức ăn
thừa nổi váng. Những chiếc đũa và những que kem. Phế thải sau một đêm tiêu thụ còn chưa
kể đến phần chìm sâu trong nước… những mùi vị kinh tởm bốc lên từ mặt hồ” [42, tr.55].
Có khi cả bát hương cũ cũng được vứt xuống lòng hồ. Nhà văn xót xa khi mỗi lần đứng
ngắm hồ Trúc Bạch ngày nay: rác rưởi bẩn thỉu, nước đen ngòm, hôi thối, con người chỉ cần
“ngâm mình dưới nước hồ năm phút là đã có thể chết vì nhiễm trùng” [58, tr.151]. Ngày xưa
ở hồ Trúc Bạch nguồn nước trong veo, không một gợn rác, là nơi để người dân nghỉ ngơi và
ngắm cảnh, thư thái tâm hồn. Ở Hồ Tây, cách đây mấy chục năm về trước có nguồn nước
sạch, có đủ các loài động vật sinh sống: tôm, cua, cá, ba ba.... Nó là nguồn cung cấp thức ăn
cho cư dân Hà Nội trong những ngày đói kém bao cấp. Ngày nay, Hồ Tây do nguồn nước ô
60
nhiễm nên các loài động vật không thể sinh sống nổi, thậm chí: “những con trai ốc bắt lên
mang đi xét nghiệm đều có hàm lượng chì vượt tiêu chuẩn cho phép đến vài chục lần” [57,
tr.228]. Sợ nhất là những ngôi nhà nằm cạnh con sông trong thành phố, con kênh nước thải
của làng, lúc nào cũng ngửi thấy mùi hôi thối, những ngôi nhà ở đấy thường xuyên phải
đóng cửa vì không ngửi được mùi. Đến mùa đông mà dòng nước vẫn còn đen ngòm “vẫn
bổi hổi bốc hơi phả ra một thứ mùi đáng sợ” [49, tr.132].
Qua từng trang tiểu thuyết của nhà văn Đỗ Phấn, người đọc còn thấy ở những khu
chung cư cao tầng hiện đại, rác rưởi vẫn được người dân vứt bừa bãi ra đường trông mất
thẩm mĩ phố phường lại còn làm ô nhiễm môi trường. Ở khu chung cư cao cấp Continental,
người ta vẫn thấy rác rưởi bừa bộn, ô nhiễm môi trường do ý thức của người dân: “cầu thang
máy cáu bẩn bởi lâu không có người quét dọn lau chùi. Mẩu thuốc lá và giấy ăn vứt đầy
dưới đất. Những tấm thép trắng sáng như gương trong buồng thang ố vàng vấy bẩn những
thứ kinh người. Dầu mỡ bám trơn tuột ở tay vịn. Máu khô từ những xác muỗi bôi lên tường
ngang dọc. Vài vệt mũi dãi chảy lòng thòng khô đét” [47, tr.193]. Không chỉ ở các khu
chung cư mà ở ngay trên các khu chợ nhỏ, chợ cóc, rác rưởi cũng được người ta vứt ngay ra
đường sau buổi họp chợ từ “rau quả dập nát, vỏ thùng hộp và lồng sọt tre, rơm rạ vàng ươm
và bẹ ngô trắng toàn lẫn với lông gia cầm bay tứ tán” [49, tr.88]. Thậm chí ở trong các rạp
chiếu phim ở Hà Nội sau chiến tranh, sự ô nhiễm môi trường được biểu hiện ngay từ khi
bước chân vào trong rạp là thấy mùi khai của nước tiểu, rác rưởi và đầu mẩu thuốc lá vứt
tràn lan.
Đỗ Phấn nhận thấy rằng, ngày nay con người khai thác thiên nhiên đến mức cạn kiệt
nên thường dẫn đến hiện tượng biến đổi khí hậu, trái đất nóng lên kèm theo mưa lũ. Trong
tiểu thuyết của Đỗ Phấn là hình ảnh mưa to, lũ lụt ở phố. Sau trận mưa là cảnh tượng đường
phố ngập, tầng hầm ở các khu chung cư cũng ngập lụt. Trong Rụng xuống ngày hư ảo Đỗ
Phấn thấy được nỗi khổ của người dân sống trong thành phố mà phải mặc áo mưa lội bì
bõm trên mảnh sân nước ngập đến gần đầu gối. Hai người bảo vệ mặc đồng phục ướt lướt
thướt chăng ngang sợi dây thừng ni lông màu đỏ trên mặt nước bên dưới mái hiên che ở cửa
hầm. Họ buộc sợi dây vào hai chiếc ghế tựa ngập gần hết chân báo hiệu cho người lấy xe ra
61
khỏi cửa hầm. Sau mỗi trận mưa, ở phố đều thấy cảnh: “đường phố ngập. Rác rưởi lềnh
bềnh. Dòng nước đen ngòm” [47, tr.187].
Theo sự quan sát của nhà văn, người đọc còn thấy trong tiểu thuyết của ông vấn đề
giao thông đô thị trở nên cấp thiết vô cùng do dân số Hà Nội tăng nhanh. Ngày nào ở Hà
Nội lượng xe cơ giới lưu thông trên các đường phố cũng nhiều. Vấn đề tắc đường xảy ra liên
tục, nhất là vào những giờ cao điểm, có nơi tắc đường đến hàng tiếng đồng hồ mới ra khỏi
các con phố như cầu Long Biên, cầu Chương Dương, đường Láng, ngã năm Khâm Thiên,
ngã tư Kim Liên - Giải Phóng, ở nút thắt cửa Nam và những chỗ chắn tàu, bến xe. Người đi
trên đường nhích từng bước một, ngột ngạt vì khói xe và tiếng còi xe inh ỏi như ở trên cầu
Chương Dương dòng người đông nghịt “cả một cây cầu dằng dặc những người” [43, tr.93],
nhất là những chiếc ô tô vừa đi chầm chậm vừa xả khói ra đường, vừa tuýt còi inh ỏi làm
cho không khí vô cùng ngột ngạt. Ngày nào cũng vậy, ở ngã năm Khâm Thiên cũng tắc
đường hàng tiếng đồng hồ vào lúc giờ tan tầm, dòng người, dòng xe đua nhau chen chúc dài
hàng cây số. Có những hôm đến tám giờ tối mà trên phố vẫn thấy ngột ngạt đủ các thứ mùi:
hơi người, khói xe, phế thải của cống rãnh ở các cửa hàng bên vỉa hè và rác thải sinh hoạt
của người dân làm ảnh hưởng đến thẩm mĩ, sức khỏe con người và môi trường đô thị.
Do quá trình đô thị hóa, những ngôi làng ở ngoài bờ bãi sông Hồng có sự biến đổi
nhiều. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, cuộc sống của họ bắt đầu thu dần giống như ở trong
phố, nhiều cửa hàng cửa hiệu mọc lên, các cơ sở kinh doanh bắt đầu hoạt động ảnh hưởng
tới cuộc sống và môi trường của người dân thủ đô. Trong tiểu thuyết Vắng mặt Đỗ Phấn
nhận thấy bộ mặt ngôi làng đã biến đổi thần tốc, các ngành nghề thủ công phát triển, nhà cao
tầng mọc lên san sát. Ngày nào người dân cũng phải chịu đựng “tiếng máy khoan. Máy cắt
gạch gào rú suốt ngày” [43, tr.336]. Ở một ngôi làng khác thì có nhiều căn hộ có diện tích sử
dụng bé tí, cũng đủ các thứ giống như các ngôi nhà ở khu tập thể trong thành phố. Nào là
chum vại, thùng phuy đựng nước và nồng nặc đủ các mùi khó tả: mùi dưa cà muối, mùi
khói bếp mùn cưa, mùi nước mắm, mùi phân gà, mùi nước gạo thiu, mùi nước đái “tất cả
trộn vào nhau. Quánh đặc. Váng vất” [52, tr.67]. Trên bức tường của các ngôi nhà còn thấy
viết và vẽ chằng chịt những quảng cáo như: khoan cắt bê tông, gia sư luyện thi, tẩy nốt ruồi,
62
thuốc đặc trị thiếu sinh lý,... [43, tr.293] đã làm cho bộ mặt phố phường không những mất
cảnh quan đô thị mà còn ảnh hưởng đến môi trường sống của người dân.
Từ cảm quan sinh thái, nhà văn Đỗ Phấn đã nhận thấy quá trình phát triển của Hà Nội
đem lại một nền văn minh tiến bộ, song cũng mang lại nhiều hệ lụy ảnh hưởng đến cuộc
sống và môi trường đô thị. Đỗ Phấn không chỉ cho người đọc thấy được bức tranh cuộc sống
của Hà Nội mà còn cho thấy những ám ảnh, lo lắng của nhà văn về môi trường sinh thái. Hà
Nội ngày càng phát triển nhưng đi cùng với nó là hệ lụy về ô nhiễm về môi trường.
3.2. Hành vi, lối sống của con người trong không gian sinh thái đô thị
3.2.1. Lối sống, thói quen sinh hoạt và mối quan hệ ứng xử của người dân thành thị
Lối sống là những nét điển hình được lặp đi lặp lại và định hình phong cách, thói quen
trong đời sống cá nhân, xã hội, dân tộc. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn lối sống, thói quen,
mối quan hệ ứng xử của người Hà Nội đang có những biến đổi cùng với sự thay đổi của đời
sống xã hội và được biểu hiện ở nhiều góc độ khác nhau: sinh hoạt trong không gian chật
hẹp, lối sống khép kín, vô cảm, thiếu kĩ năng trong cuộc sống, không gian sống chủ yếu là
kinh doanh buôn bán, tuy nhiên nhiều người vẫn giữ thú chơi hoa tươi và có mối quan hệ
giao hòa với thiên nhiên.
Là người từng trải ở thành phố, Đỗ Phấn nhận thấy, Hà Nội là mảnh đất được nhiều
người lựa chọn để xây cơ lập nghiệp. Có lẽ thế, mà Hà Nội ngày càng đất chật người đông.
Với cái nhìn vừa tỉ mỉ, vừa hài hước Đỗ Phấn miêu tả cảnh sinh hoạt của một gia đình ở
thành phố nhỏ bé, chật hẹp: “căn hộ chỉ vỏn vẹn hăm bốn mét vuông. Được chia làm hai
phòng. Trần nhà cao hai mét sáu... Hành lang một mét” [47, tr.31]. Theo tác giả đó là một
“chiếc hộp đựng người hoàn hảo”. Sống trong một khu nhà chật hẹp, thiếu thốn như thế,
người Hà Nội không tránh khỏi sự bó buộc.
Không gian sống ngày một bị thu hẹp, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, mật độ cư dân
cao và tình trạng bê tông hóa lan rộng đang là một thực tế của Hà Nội ngày nay. Điều này đã
tác động không nhỏ đến đời sống của con người đô thị. Nhà văn thấy không gian sống bị thu
hẹp dần khiến người Hà Nội càng ngày càng có lối sống khép kín, hình như ai cũng đang thu
mình lại. Họ ít quan tâm đến nhau, ít nói chuyện với nhau, ngay cả hàng xóm cũng chẳng
63
biết mặt nhau, càng ngày không gian sống càng thu hẹp dần khiến cho người Hà Nội rất ít
tình cảm dành cho nhau. Nét văn hóa quan tâm đến nhau đối với người Hà Nội ngày nay
thật hiếm hoi. Tác giả nhận thấy: “ở thành phố người ta có thể sống hàng chục năm sát vách
mà không cần biết tên nhau” [56, tr.132]. Thậm chí đi cùng thang máy lên tòa nhà chung cư
họ cũng không biết nhau, không chào nhau, có thì chỉ là cái gật đầu chào nhau mà thôi. Ai
cũng thấy tự nhiên mình như người xa lạ đối với nơi mình đang sống: “ở thành phố này, có
lẽ ai cũng thế, những người lạ chẳng bao giờ thành quen. Hoặc đã quen rồi lại trở thành lạ
lẫm” [53, tr.289]. Theo tác giả Đỗ Phấn, đô thị phát triển nên hình như cuộc sống lúc nào
cũng bận rộn, bon chen. Người dân đi lại trên đường rất đông, chen lấn nhau nhưng thật
buồn là họ không hề bận tâm đến nhau, ai cũng đội mũ bảo hiểm và đeo khẩu trang kín mít,
ai cũng cố tìm cho mình một khoảng trống vừa lách đủ chiếc xe của mình để thoát ra khỏi
đám đông thành phố. Vì lối sống khép kín nên người Hà Nội ngày nay theo cảm nhận của
nhà văn Đỗ Phấn thì họ rất ngại đến nhà nhau kể cả những ngày tết, nếu có muốn đến chơi
thì phải gọi điện báo trước, thực ra chỉ có “những người có nhu cầu gặp gỡ thì mới đến” [47,
tr.199]. Thậm chí những ngày thường và ngày nghỉ lễ, tết họ muốn đi du lịch, được ra khỏi
thành phố ồn ào náo nhiệt đến nơi còn hoang sơ để hưởng bầu không khí trong lành. Nhân
vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn thường mong muốn được về với vùng biển, nông thôn,
núi rừng dù chỉ trong thoáng chốc. Trong cuộc sống họ vẫn mong muốn có những lúc được
rời xa thành phố về với vùng biển, vùng nông thôn, vùng rừng núi để cho tâm hồn thanh
thản. Chẳng hạn như Tuấn và Thủy trong tiểu thuyết Vết gió, sau bao sự kiện diễn ra trong
cuộc sống hàng ngày của hai người ở thành phố, họ đã quyết định đi lên vùng rừng núi một
thời gian để di dưỡng tâm hồn. Lão Hoạt và lão Quảng trong Chảy qua bóng tối cũng phải
rời bỏ cái xóm Bến đến một nơi khác sinh sống, làm nên cuộc sống mới khác xa hoàn toàn
cuộc sống ở xóm Bến và cũng không muốn nhớ về cái xóm Bến nữa. Nhân vật Liên và
Hùng trong tiểu thuyết Ruồi là ruồi dù có một gia tài ở thành phố khá ổn định, con cái thành
đạt nhưng cuối cùng vẫn quyết định lên trang trại trên rừng sinh sống để quên đi những
chuyện buồn trong thời gian ở thành phố vừa qua, còn ngôi nhà ở thành phố chỉ thỉnh thoảng
hai vợ chồng thu xếp về dọn dẹp mà thôi.
64
Theo sự quan sát của nhà văn Đỗ Phấn, người Hà Nội nhiều năm nay còn có thói hiếu
kì, vô cảm. Bất kì có sự việc gì xảy ra trên đường phố là cũng xúm đen, xúm đỏ vào xem,
xem không phải là giúp đỡ người bị nạn mà chỉ là hiếu kì, xem xong rồi lại bàn tán như cháy
nhà, chết người, tai nạn giao thông, đánh cãi chửi nhau, cụ rùa bị ghẻ lở... Phần lớn đến xem
để thỏa mãn sự tò mò, phần thì mang đến sự cảm thông, phần thì mang đến sự giúp đỡ.
Chẳng hạn có một cô gái bị chết trong nhà, người đi đường và người dân trong phố thi nhau
đến xem, cho dù cảnh sát có căng dây để bảo vệ, nhưng mọi người vẫn cứ “kiễng chân
nhướng mắt nhìn vào phía bên trong” [58, tr.234]. Hoặc một con ba ba già ghẻ lở ngóc đầu
lên mặt hồ phơi nắng cũng kéo đến hàng trăm người xúm đen xúm đỏ, tranh nhau chụp ảnh
và đếm nốt ghẻ. Có khi “đào đường nắp đặt cáp thông tin bắt gặp một chiếc tiểu sành. Xúm
đen xúm đỏ. Hồi hộp mở ra. Toàn đất. Bày đồ lễ cúng bái cho thỏa tính hiếu kì của người
xem. Đánh chửi nhau ngoài chợ cũng xúm đen xúm đỏ” [54, tr.56].
Là người gắn bó mấy chục năm ở Hà Nội, đồng hành cùng với sự phát triển của thành
phố nhà văn nhận thấy thói quen sinh hoạt của người dân có sự thay đổi. Người Hà Nội bây
giờ thiếu kĩ năng của người nội trợ, làm vài mâm cơm là ra nhà hàng đặt, đến đúng giờ thì họ
mang vào vừa nhanh, vừa ngon, với đủ các món. Vì thế bọn trẻ ngày nay thiếu kĩ năng sống
trong sinh hoạt hàng ngày.
Trong cuộc sống của người Hà Nội, Đỗ Phấn nhận thấy ở thành phố không gian sinh
hoạt bị thu hẹp dần để dành cho không gian kinh doanh buôn bán. Chỉ trong một con phố
nhỏ mà có tới hàng chục ngành mua bán khác nhau từ: đồ nội thất, quán ăn, đồ chơi trẻ em,
điện thoại di động, cửa hàng đồ điện tử điện lạnh cho đến cửa hàng thời trang, tiệm gội đầu,
quán cà phê, cửa hàng dụng cụ thể thao, cửa hàng bán xe gắn máy, cửa hàng bán dụng cụ
làm bếp gia đình và đại lý các hãng máy tính, cửa hàng quần áo. Bên cạnh đó, người Hà Nội
thói quen sinh hoạt cũ vẫn còn tồn tại, điều đó ảnh hưởng đến cuộc sống và môi trường. Ở
một số gia đình ở khu chung cư vẫn còn thấy: “cửa giả mở phanh, ca nhạc và xào nấu ỏm
tỏi. Rác rưởi vứt ra hành lang chung. Xì mũi bôi lên vách inox thang máy. Thắp hương cả bó
lên bàn thờ khiến cho hệ thống báo cháy inh ỏi. Biến luồng thang máy thành chỗ cho trẻ con
ăn bột. Nửa đêm khoan trộm vài chiếc vít nở đánh thức cả tòa nhà. Và hãi nhất là osin hàng
65
xóm bấm chuông vào chơi osin nhà mình” [58, tr.243] ảnh hưởng đến cuộc sống của các gia
đình hàng xóm, đồng thời cũng làm mất vệ sinh nơi công cộng, ô nhiễm môi trường trong
khu dân cư.
Tuy nhiên, một phương diện cần phải nói tới là có một bộ phận người Hà Nội trong
cảm quan của nhà văn vẫn giữ được nét đẹp, đó là thú chơi hoa tươi hàng ngày. Người chơi
hoa ngày một nhiều lên bởi họ muốn làm đẹp cho không gian ngôi nhà, cơ quan và cuộc
sống của mình. Dù nghèo hay giàu, người Hà Nội ngày nào cũng phải có một lọ hoa tươi để
ngoài phòng khách. Người Hà Nội chơi hoa đã “trở thành cái lẽ đương nhiên” và “tết đến
xuân về trong nhà cũng không thiếu lọ hoa tươi” [57, tr.326]. Nhiều người trên đường đi
làm, dù có cận giờ nhưng vẫn níu lại cửa hàng mua hoa mang đến công sở để cắm. Chơi hoa
đã trở thành tính cách của người Hà Nội. Cho dù thói thực dụng thị trường có len lỏi vào
từng căn nhà, ngõ phố thì chơi hoa vẫn giữ một vị trí đặc biệt trong lối sống và thói quen sinh
hoạt của người Hà Nội: “nhiều phòng làm việc cơ quan bây giờ còn đều đặn hoa hơn ở nhà”
[55, tr.234]. Hà Nội có nhiều loài hoa, mùa nào hoa ấy: “mùa xuân là đào, mai trắng, thược
dược, violet, đồng tiền”, “mùa hạ là hoa hồng, hoa loa kèn, cẩm chướng”, “mùa thu là cúc
vàng, cúc trắng. Susi và hoa bướm các màu”, “mùa đông là những bông cúc muộn, hoa lưu
ly và bắt đầu violet tím, hải đường đỏ và chậu bạch mai sớm” [57, tr.327].
Hà Nội phát triển theo nền kinh tế thị trường, trong cuộc sống đã bị mai một một số nét
văn hóa truyền thống. Tuy nhiên, lối sống của người Hà Nội được tác giả nhận thấy, ngày
nay vẫn giữ được một số nét đẹp cổ xưa, đó là họ thường tiếp khách đến chơi nhà bằng
những món ăn của đồng quê rất dân dã, khiến cho khách cảm thấy thân thiện như chính ở
nhà mình vậy. Những món “thịt gà ri luộc rắc lá chanh, lươn xào xả ớt và một nồi ốc nấu
chuối đậu béo ngậy” [45, tr.228] hoặc là những món ăn khoái khẩu của dân thành phố lâu
đời như “canh dưa nấu với cá trê đồng. Đậu phụ rán và rau kinh giới. Thịt lợn luộc ăn với
mắm tép” [47, tr.39]... Những món ăn dân dã đó đã làm nên nét đẹp ẩm thực của người Hà
thành.
Sự thay đổi môi sinh, không gian sống đã tác động không nhỏ tới cuộc sống của con
người đô thị làm thay đổi thói quen, lối sống của chính họ. Khắc họa những thói quen, lối
66
sống của con người thành thị trước tác động của đời sống, qua các tiểu thuyết của mình, Đỗ
Phấn đã đặt ra nhiều câu hỏi mang tính chất vấn về những vấn đề còn bất ổn trong bước
chuyển của đời sống. Ngoài lối sống và thói quen sinh hoạt của người dân đô thị Đỗ Phấn
còn nhận thấy mối quan hệ ứng xử rất đặc biệt với môi trường thiên nhiên trước sự tác động
của đời sống đô thị. Trong tiểu thuyết Vắng mặt nhà văn thấy con người có mối quan hệ mật
thiết với thiên nhiên và môi trường. Con người sống trong môi trường thiên nhiên được thiên
nhiên bao bọc, sống trong bầu không khí trong sạch làm cho con người có sức khỏe, ít bệnh
tật, con người hòa vào thiên nhiên thấy tâm hồn mình trong sáng hơn, thả hồn mình theo
thiên nhiên, được ngắm nhìn bầu trời trong xanh cao tít và đầy sao, vườn cây xum xuê cành
lá, ngắm những “con đom đóm vẽ vòng” [43, tr.152] qua những cành lá và được nghe tiếng
chim ca hót, “tiếng sóng thầm thì” [45, tr.8] vang xa.
Trước sự biến đổi của lối sống, cách sống của người dân đô thị, nhiều nhân vật trong
tiểu thuyết của Đỗ Phấn vẫn giữ được phép lịch sự trong giao tiếp. Chẳng hạn như nhân vật
Thông trong Con mắt rỗng trước chỗ đông người anh vẫn “cúi người thận trọng luồn lách
qua đám khách đông nghịt luôn miệng xin lỗi, xin lỗi” [49, tr.184]. Đây là tác phong của
người Hà Nội xưa, nhưng ngay chính người Hà Nội ngày nay tìm được một người như thế
là rất hiếm. Người Hà Nội ngày nay thường có mối quan hệ thân quen với mọi người. Quen
ở đây đồng nghĩa với nhờ vả. Trong công việc mà gặp người quen thì mọi việc suôn sẻ
nhanh chóng, mà ở Hà Nội có nhiều việc rất cần đến người quen, chẳng hạn: “Quen thầy cô
giáo để xin học cho con. Quen mậu dịch viên để đỡ phải xếp hàng mua thực phẩm. Quen
bác sĩ để được khám bệnh. Quen cảnh sát giao thông để xin biển số xe đẹp” [58, tr.191].
Cách đây khoảng hai chục năm về trước, ở thành phố những công nhân viên chức mà bỏ
việc thì bị dân phố coi như là kẻ phạm tội, phản động. Không tiêu chuẩn tem phiếu. Thậm
chí còn phải đi lao động công ích bốn mươi ngày trong năm. Vì thế, con người đã phải tự lừa
dối lòng mình, lừa dối người thân và mọi người xung quanh: “Dù bỏ việc cơ quan đã hơn
một năm, anh vẫn hàng ngày xách chiếc xe đạp tơi tả săm lốp rơi rụng gác đờ bu của mình
rời nhà đúng giờ hành chính” [58, tr.20].
67
Do quá trình đô thị phát triển người Hà Nội ngày nay có mối quan hệ ứng xử với thiên
nhiên và con người có sự thay đổi khác xưa. Cùng với những nét đẹp văn hóa đang được lưu
giữ, là những hành vi ứng xử mang tính thực dụng thể hiện những biến đổi về thái độ sống
của con người trong bối cảnh mới. Tiểu thuyết của Đỗ Phấn đã thể hiện được những phương
diện đa dạng này của đời sống.
3.2.2. Nỗi cô đơn của con người
Cô đơn là trạng thái tâm lí đơn độc của con người. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn nỗi
cô đơn được biểu hiện ở nhiều khía cạnh. Nhân vật thị dân trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn
thường mang trong mình một nỗi cô đơn đến cùng cực. Chẳng hạn như nhân vật Văn trong
tiểu thuyết Rừng người, dù ở giữa “rừng người” nhưng anh vẫn không tìm được tiếng nói
chung, anh vẫn thấy lạc lõng cô đơn ngay trong cuộc sống của chính mình. Nhiều lúc anh
phải đắm mình vào công việc để quên đi sự cô đơn. Anh thấy những bạn bè thân thiết cứ lần
lượt bỏ anh mà đi, anh sống trong khu nhà riêng của mình, thu hẹp mình lại trong bốn bức
tường, đi làm về là anh lại đóng cửa kín mít, anh không quan tâm đến hàng xóm của anh,
sống khép mình như thế khiến anh rất ngại gặp mọi người trong xóm. Nhiều lúc anh cảm
thấy xa lạ với tất cả mọi người nên anh càng cảm thấy cô đơn. Anh sống giữa “rừng người”
mà vẫn cảm thấy cô đơn đến tột cùng. Trong tiểu thuyết Vắng mặt, họa sĩ Vũ cũng cảm thấy
cô đơn vì cuộc sống của mình chẳng có ý nghĩa gì, đến đứa con gái là giọt máu của mình
cũng không dám nhận. Nỗi cô đơn khiến cho Vũ chuyển chỗ ở liên tục, chuyển ra ngoại
thành rồi lại chuyển vào trong phố. Lúc này, anh mới nhận ra rằng: sống giữa bao hàng xóm,
bạn bè mà anh vẫn thấy cô đơn, lạc lõng. Nhân vật lão Hoạt trong tiểu thuyết Chảy qua bóng
tối từng chứng kiến những việc xảy ra trong gia đình mình: vợ chết, hai thằng con vào tù.
Nhiều lúc lão thấy cô đơn ngay trong chính ngôi nhà của mình, cô đơn ngay ở nơi mình sinh
sống, người thân lần lượt rời xa lão. Vì thế, cả ngày lão chẳng nói chẳng rằng với ai. Thỉnh
thoảng lão lại mang rượu ra uống để quên nỗi buồn nhưng cũng chẳng giải quyết được. Lão
thấy cuộc sống trên bờ, trên phố làm cho lão khổ sở, bế tắc, đơn độc hơn “giữa đông đảo trên
bờ lão lại càng cảm thấy mình cô đơn hơn bao giờ hết” [45, tr.160] nên lão quyết định ra đi.
Lão rời bỏ căn nhà của cô con dâu mới xây, lão trở về với dòng sông, trở về với tự nhiên.
68
Dòng sông đã dang tay đón lão như người mẹ đón đứa con đi xa nay có dịp trở về. Một
mình lão lại lênh đênh trên dòng sông giống như ngày xưa gia đình lão sinh sống, lão thấy
mình trở về với thiên nhiên, với dòng sông có lẽ sẽ làm lão bớt cô đơn hơn. Lão đã hòa mình
vào thiên nhiên, được dòng sông che chở cho cuộc đời lão. Trong tiểu thuyết Rụng xuống
ngày hư ảo, nhân vật Đức chứng kiến những sự việc diễn ra xung quanh mình, bạn bè,
người thân quen đều bị chết một cách dã man. Anh cảm thấy lo sợ, lại sống cô đơn một
mình trong căn phòng nhỏ, không người thân nên căn bệnh cũ tái phát, rồi anh trở thành lẩn
thẩn, người ta cho anh vào viện tâm thần. Ở đó anh lại chứng kiến cuộc sống của những
người tâm thần khiến anh càng hoang mang, lo sợ và anh đã ảo tưởng được loắt choắt cánh
dơi mang anh đi dạo khắp phố phường.
Nhiều nhân vật trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn cảm thấy nỗi cô đơn đã khiến con người
thường thu nhỏ lại như để phòng thủ trong căn phòng của mình ở khu tập thể, ở tòa chung
cư cao cấp với bốn bức tường kín mít, ngột ngạt. Trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn, thường thì
đàn ông cô đơn thường chìm đắm trong rượu rồi khi tỉnh ra thì thấy chán vô cùng: “chán
mình thì lại uống” [47, tr.107], còn đàn bà cô đơn thì thường tìm đến đàn ông bất chợt để
chìm đắm trong dục vọng: “trống vắng sau một cuộc tình khiến cô ấy khó lòng giấu được
những điều đang nghĩ. Nhưng rất có thể sự trống vắng vừa trải qua của cô ấy lại sắp bắt gặp
một rỗng không khác” [50, tr.197]. Vì quá cô đơn nên nhiều khi thị dân thường coi mình
như một thứ rác rưởi bỏ đi, một thứ rác rưởi ở ngoài đường: “thỉnh thoảng còn có thêm một
vài anh chị nghiện oặt phê thuốc ngồi bó gối cúi gầm mặt ven đường. Rớt dãi chăng tơ kéo
cước lòng thòng xuống mu bàn chân” [43, tr.12]. Nỗi cô đơn của con người được thể hiện
ngay trong công việc của mình. Nhân vật Hân trong Vết gió, sau khi cửa hàng rượu bị đóng
cửa, Hân không có việc làm. Đây là một thảm họa lớn đối với cô, sống trong thành phố đông
người tai tiếng buôn rượu lậu của Hân đã khiến cô choáng váng, lo lắng. Bây giờ lại không
thể mở cửa hàng, không dám ra ngoài, không dám giao tiếp với ai, suốt ngày chỉ ở trong nhà
với bốn bức tường. Ngày lại ngày qua đi, cô rơi vào trạng thái trầm uất, cô đơn không lối
thoát. Chưa bao giờ, Hân cảm thấy “cô đơn kinh khủng” [57, tr.188] như lúc này. Hoặc sau
những cuộc vui, những cuộc tụ tập bạn bè, con người lại rơi vào một nỗi cô đơn ngay chính
69
trong ngôi nhà của mình, giống như nhân vật Nguyệt trong Rừng người: “sau những ồn ào
náo nhiệt của đám khách hôm nay, nàng lại đang chuẩn bị cho những giờ phút cô đơn mệt
mỏi và đợi chờ?” [47, tr.63]. Ở thành phố, ngoài chuyện bù khú với bạn bè, ngoài công việc,
ngoài việc gặp gỡ đàn bà. Tất cả những điều đó cũng chỉ để khỏa lấp nỗi cô đơn nhất thời
của con người mà thôi. Cô đơn chồng chất cô đơn “hai nỗi cô đơn cộng lại hình như chỉ để
thành một nỗi cô đơn lớn hơn thì phải” [54, tr.107]. Nỗi cô đơn đeo bám con người, len lỏi
vào tận những góc khuất thầm kín nhất của con người. Nhà văn như đi sâu vào từng nhân
vật để cảm nhận được sự cô đơn của họ. Nguyệt sống một mình ở ngôi biệt thự trên rừng
không người thân, mỗi lần bạn bè đến chơi rồi ra về nàng lại cảm thấy cô đơn trong bốn bức
tường của căn phòng vì không có người để giao tiếp. Khi chuyển về thủ đô một mình nàng ở
căn phòng trong khu chung cư cao cấp tĩnh lặng, trống trải tít trên tầng 12 tách biệt hoàn toàn
với cuộc sống phố phường, không một bóng cây xanh, nhìn sang xung quanh chỉ thấy hệ
thống nhà kính. Sống trong căn phòng trên cao một mình, đến ánh nắng mặt trời Nguyệt
cũng không chia sẻ được với ai. Vì vậy, nỗi cô đơn dâng lên trong lòng nàng hơn bao giờ
hết. Nhân vật lão Quảng trong Chảy qua bóng tối, cũng cảm thấy cô đơn ngay trong căn nhà
của mình khi thằng cu Nghĩa bàn với lão lên vùng sơn cước sinh sống. Nó không biết rằng
vài năm nay lão heo hút cô đơn một mình trên căn gác nhỏ tầng ba lắm rồi. Căn gác đó
chính là ngọn núi cô đơn đối với lão bởi nó đã ngăn cách lão với thế giới bên ngoài bằng bốn
bức tường ngột ngạt. Ngoài ra, lão cô đơn hơn vì tất cả mọi người, hàng xóm, những người
thân lần lượt bỏ lão mà đi. Cuối cùng, phép thử của lão với thằng cu Nghĩa và Nhàn đã cho
ra kết quả còn hơn cả cô đơn. Vì quá cô đơn nên lão tính chuyện là rời bỏ ngôi nhà của
mình, đắm chìm xuống vào dòng sông, hy vọng dòng sông cuốn đi, nhưng lão đã được dòng
sông cưu mang và cho lão sống một cuộc đời khác hẳn cuộc sống ở xóm Bến, bởi ở Trung
tâm bảo trợ đó có tình yêu thương của mọi người. Tuy nhiên, nỗi cô đơn trong cuộc sống
thực tại khiến con người thường rơi vào trạng thái sợ hãi. Họ sợ tất cả, sợ cái nhìn của mọi
người xung quanh, sợ cuộc sống. Vì vậy, con người thường chạy chốn khỏi nơi mình đang
sinh sống. Các nhân vật như Hùng và Liên trong Ruồi là ruồi, Thủy và Tuấn trong Vết gió,
lão Hoạt và lão Quảng trong Chảy qua bóng tối là những con người như thế.
70
Nỗi cô đơn đã đeo bám dẫn đến con người sống thờ ơ, vô cảm với mọi người và với
chính mình. Họ sống mà “gần như” là không sống, một cuộc sống không mục đích, không ý
nghĩa, không tương lai, không hy vọng. Thậm chí lại trở thành những người xa lạ ngay chính
nơi mình sống, mình sinh ra và lớn lên. Tất cả những điều đó đã ám ảnh người đọc trong
suốt các tác phẩm của nhà văn. Nhìn chung, sự cô đơn của các nhân vật chủ yếu là do môi
trường đô thị, diện tích sinh sống chật chội, bức bối trong các tòa nhà không có cây xanh,
không khí ngột ngạt, không quan hệ với mọi người xung quanh. Vì vậy, nỗi cô đơn của con
người trong đô thị ngày càng nhiều, đó cũng là sự ám ảnh của nhà văn về cuộc sống của thị
dân trong quá trình đô thị hóa.
3.3. Cảm thức nơi chốn, không gian và thời gian nhìn từ cảm quan sinh thái
3.3.1. Ý thức nơi chốn
Nơi chốn là nơi sinh ra và lớn lên. Đỗ Phấn sinh ra và lớn lên và gắn bó với thủ đô Hà
Nội gần trọn vẹn cuộc đời, những tâm sự của nhà văn hầu như đã gửi gắm vào các trang tiểu
thuyết. Ý thức về nơi chốn được Đỗ Phấn tập trung thể hiện qua không gian Bờ Hồ, về ẩm
thực, về các ngôi chùa của Hà Nội xưa và nay.
Với Đỗ Phấn ý thức về nơi chốn của nhà văn gắn bó với những kỉ niệm về tuổi thơ ở
Hà Nội, đó là không gian ở Bờ Hồ, bờ bãi sông Hồng, Bách hóa Tổng hợp và những nơi đi
sơ tán trong những năm chiến tranh. Trong tiểu thuyết Rong chơi miềm kí ức, nhà văn tái
hiện những kỉ niệm ở không gian Bờ Hồ với những trò chơi ngày trẻ dại, có khi nhà văn
cùng nhóm bạn nhảy tàu điện đi từ Bờ Hồ theo tuyến Thụy Khuê - Bưởi, xuống đường
Quán Thánh chơi, rồi lại nhảy tàu về đúng đến Bờ Hồ, rồi lán lại chơi những trò chơi bắt ve,
bắt dế, đánh khăng đánh đáo. Có lẽ nhớ nhất tuổi thơ của nhân vật trong tác phẩm là được
thả mình vào thiên nhiên của thủ đô, được câu cá, vớt tôm và được tắm dưới hồ cả ngày
không chán. Ở không gian Bách hóa Tổng hợp là nơi cậu và lũ bạn cả ngày lang thang chơi
suốt ngày trong Bách hóa, được ngắm nhìn những hàng hóa đẹp không chán mắt. Nhớ
những ngày ở bờ bãi sông Hồng, cậu và con Hoa được tung tăng ngắm nhìn thiên nhiên thơ
mộng: “những đốm cỏ may cỏ gà lốm đốm rải rác trên mặt đất”, “tiếng chim sơn ca vời vợi
trên cao”, thưởng thức “bát ngát gió sông Hồng” [52, tr.56], rồi ngắm cả một ổ chim với bốn
71
quả trứng nâu hồng, những con chuồn chuồn đủ màu sắc, những chú bọ ngựa và “dòng sông
cồn cào nước xiết” [52, tr.53]... Ở không gian ngôi chùa, nơi mà gia đình nhà cậu đi sơ tán,
cậu nhớ tỉ mỉ đến từng chi tiết cỏ cây nơi đây: “những tàu lá chuối tiêu xanh om”, “những
cây thầu dầu lá tía lốm đốm quả đen”, “rau sam và rau rền cơm mọc hoang dại” [52, tr.86],
hàng cây xoan, bờ tre, đám bèo tây với những bông hoa tím biếc, những ngọn dừa nước,
những bông hoa dã quỳ vàng rực, những bông cúc trắng hoang dại, những cánh bướm lang
thang trên bờ cỏ, những bụi gai xấu hổ với bông hoa tím dịu dàng... Những năm đói khổ
phải đi sơ tán, sống ở một vùng quê cậu mới nhận ra rằng cuộc sống ở đây được hòa mình
vào tự nhiên, được hưởng những gì thiên nhiên ban tặng mà một đứa trẻ ở thành phố không
có được. Cậu nhớ năm con sông Hồng vào mùa nước lũ, những mớ củi rác gỗ lềnh bềnh
trên dòng sông hành trình hàng nghìn cây số từ trên rừng vùng thượng nguồn trôi về đến chi
lưu con sông Hồng, cậu đã đi “vớt củi rều về phơi kín sân chùa” [47, tr.229]. Tất cả những kỉ
niệm tuổi thơ đều hằn sâu trong trí nhớ của một đứa trẻ.
Nhớ về mảnh đất mình sinh ra và lớn lên với bao kỉ niệm, Đỗ Phấn còn hiểu tỉ mỉ chi
tiết về từng món ăn ẩm thực của người Hà thành. Trong bữa cơm ngày Tết cúng gia tiên,
người Hà Nội dù nghèo hay giàu trên bàn thờ cũng phải đầy đủ “bốn bát, bốn đĩa. Bao gồm
bát ninh măng chân giò lợn, bát miến nấu lòng gà, bát canh mọc viên nấu nấm, bát bóng thả
súp lơ. Đĩa giò lụa, đĩa thịt gà luộc rắc lá chanh, đĩa nem rán, đĩa xôi. Khá giả hơn thì tám bát,
tám đĩa. Hơn nữa thì bày cỗ mấy tầng bát đĩa với những món chim tần hạt sen, vi yến bào
ngư cực kì trân quý [60, tr.22]. Đây là những món ăn trân quý để cúng tổ tiên. Còn ngày
thường, người Hà Nội có nhiều thứ quà ngon ẩm thực khác như: xôi lúa, xôi xéo, bánh cuốn
Thanh Trì, món bún ốc Pháp Vân, bún chả, bún mọc, miến lươn, mì vằn thắn Đình Tràng,
cốm làng Vòng... Ngày nay, người Hà Nội còn có nhiều món ăn phù hợp với sự phát triển
kinh tế của gia đình mình, nhiều món ngon được ra đời như món chim quay, gà tần hạt sen,
ba ba hồng xíu, phở xào giòn ở phố Tạ Hiện. Ngoài ra trong bữa cỗ hiện đại ngày nay, người
Hà Nội cũng có đủ các món ngon như: “tôm chiên xù, cá điêu hồng hấp xì dầu, thịt bò lúc
lắc và mấy món canh nấm có nước dùng thơm mùi sá sùng” [50, tr.225]. Những món ngon
này khiến cho người Hà Nội nhớ mãi mỗi khi đi xa.
72
Cuộc sống ngày một đổi thay, không gian về Hà Nội in đậm trong sáng tác của Đỗ
Phấn là những ngôi đền chùa miếu mạo nổi tiếng như: phủ chúa Liễu, đền Bạch Mã, đền
Voi Phục, đền Quán Thánh, đền Kim Liên, chùa Trấn Quốc, chùa Vũ Thạch, chùa Bà Đá,
chùa Chân Tiên, chùa Vân Hồ, chùa Quỳnh Lôi, chùa Liên Phái, chùa Vua, đền Hai Bà
Trưng, chùa Thiên Phúc, chùa Quán Sứ. Xung quanh Hồ Tây và hồ Trúc Bạch là một quần
thể chùa chiền đền phủ, đây là những ngôi đền, ngôi chùa linh thiêng ở Hà Nội. Không gian
ở các ngôi chùa trong thành phố vô cùng yên tĩnh, thanh bình, thơ mộng. Người dân đến đây
vừa để cúng lễ, vừa để thưởng thức bầu khí quyển trong lành tự nhiên. Nơi đây có vô vàn
các loài cỏ cây hoa lá thanh tao, tinh khiết, nhiều cây cổ thụ xanh mát quanh năm. Thỉnh
thoảng vài ngọn gió ở Hồ Tây thổi cành lá phi lao trên con đường vào chùa vi vút như điệu
nhạc khoan thai, êm ái. Quanh năm mùi hương của các loài hoa: “hoa sói, hoa ngâu, hoa
mộc lan, hoa ngọc lan” [58, tr.247] phảng phất hương thơm quyến rũ.
Sự ý thức về vẻ đẹp của thủ đô Hà Nội cũng chính là sự đau xót khi giá trị tinh thần
ngày một phôi pha. Những ngôi nhà mặt phố đã bị tu sửa theo ý thích của cá nhân làm mất
đi vẻ đẹp thẩm mĩ của thủ đô. Những “chiếc nón trắng và tà áo dài thướt tha” [57, tr.9] rồi
cũng không còn nữa. Những kí ức đẹp đẽ về con người chân chất theo năm tháng cũng bị
phai nhạt.
Quê hương - đối với Đỗ Phấn thân thương vô cùng, bởi đó là nơi ông sinh ra và lớn lên
với biết bao kỉ niệm. Nhớ về Hà Nội là nhớ về những gì hằn sâu trong trái tim nhà văn. Có lẽ
thế mà nhà văn luôn nâng niu, trân quý những vẻ đẹp còn có được trong cuộc đời này.
3.3.2. Tái hiện hiện thực đời sống từ sự đối lập không gian - thời gian
Tác phẩm văn học là sự phản ánh hiện thực đời sống khách quan của con người. Mỗi
tác phẩm là một thế giới nghệ thuật khác nhau. Trong tác phẩm của Đỗ Phấn, ông đã tái
hiện hiện thực đời sống của người Hà Nội từ sự đối lập không gian và thời gian. Đối với thị
dân cũ và mới, nhà văn đã ghép những mảnh đời bên cạnh nhau vừa tương hợp, vừa đối lập
để làm nên một góc nhỏ Hà thành vừa xô bồ, vừa trầm lắng. Nhân vật trong tiểu thuyết của
Đỗ Phấn được soi từ nhiều ngành nghề, nhiều số phận khác nhau.
73
Khảo sát tiểu thuyết của Đỗ Phấn, có thể nhận thấy nhà văn đã tái hiện hiện thực cuộc
sống của người dân đô thị từ sự đối lập và đa dạng không gian. Cuộc sống của thị dân diễn ra
hàng ngày trên phố với đầy đủ các ngành nghề: công chức, kinh doanh, buôn bán, cắt tóc gội
đầu,... Trong tiểu thuyết Rừng người, chỉ với vài nét phác họa, nhà văn cho người đọc thấy
được cuộc sống của những thị dân trên phố thị từ xưa đến nay. Ở Hà Nội người ta có thể làm
nhiều nghề để sinh sống. Trước kia, Nguyệt vốn là một giảng viên của trường Đại học Kiến
trúc. Nguyệt đã theo Khôi - một dân kinh doanh bất động sản đã có vợ con ở Hà Nội, hai
người lên một trang trại trên rừng để sinh sống, hàng ngày Khôi đi làm để Nguyệt ở nhà
chăm nom vườn tược nhà cửa. Một mình giữa mênh mông núi rừng, Nguyệt buồn chán,
nàng thường xuyên phải gọi bạn bè đến chơi. Sau một thời gian làm ăn Khôi bị bắt, Nguyệt
đã bán trang trại trở về thành phố sinh sống. Còn Huyền bạn của Văn, trước kia là sinh viên
trường Thương mại, ra trường cô làm ở công ti thực phẩm cao cấp, vì muốn trở thành thị
dân nên Huyền đã nhúng tay vào buôn bán người qua biên giới, quan hệ với người nước
ngoài để có một chung cư cao cấp ở Hà Nội sinh sống, nhưng cuối cùng đường dây buôn
bán bị lộ nên nàng đã tự tử. Còn Nhung là một cô gái miền quê, trở thành sinh viên Đại học.
Sau một thời gian Nhung cặp kè với một đại gia bị vợ hắn đến trường đánh ghen, xấu hổ
Nhung bỏ học đi làm cave trong các quán karaoke... Như vậy, mỗi con người là một mảnh
đời khác nhau, ai cũng cố gắng để trở thành thị dân nhưng cuộc sống của họ cũng chẳng
viên mãn mà rất buồn tẻ. Sống trong không gian môi trường đô thị, ai cũng bon chen để trở
thành thị dân. Nhưng càng bon chen thì họ càng cảm thấy bất an, ngột ngạt. Sống trong môi
trường ở thủ đô họ phải đối mặt với cuộc sống bộn bề, với hệ lụy của đô thị hóa: nạn tắc
đường ngày một tăng, khói bụi của các phương tiện ngày càng nhiều,với môi trường ngày
càng ô nhiễm... Mỗi khi đi ra đường họ lại bịt khẩu trang, đội mũ kín mít để tránh nắng
nóng, tránh khói bụi, tránh tiếng ồn... Sống một thời gian ở thành phố chật hẹp, bức bối, Văn
và Nguyệt đã cùng nhau đi du lịch, trở về vùng nông thôn mạn thành phố Vĩnh Yên để chơi
một thời gian cho khuây khỏa tâm hồn, để được sống trong khoảng không gian thoáng đãng,
có nhiều cây cối tươi tốt, không còn phải sống trong căn phòng trên tầng cao, không phải
nghe ồn ào phố xá.
74
Cũng tái hiện cuộc sống của người dân phố thị, trong tiểu thuyết Chảy qua bóng tối,
Đỗ Phấn cũng cho người đọc thấy được sự đổi thay ở cái xóm Bến bên bờ sông Hồng khi
nó được chuyển dần lên phố, đó là cuộc sống xô bồ, buôn ngược bán xuôi của người dân.
Trước kia, xóm Bến là một ngôi làng trù phú ngoài đê với cảnh buôn bán tấp nập trên bến
dưới thuyền và thường xuyên phải chịu những những trận lụt lội kinh hoàng của dòng sông.
Bây giờ ngôi làng của lão teo tóp vắng vẻ, dân cư trong xóm tản mát mỗi người một nơi.
Người thì làm ruộng, người thì buôn bán, cũng không còn cảnh buôn bán tấp nập như trước
nữa. Làng không có ruộng. Những bãi bồi ven sông chỉ trồng được một vụ màu khiến cho
dân không đủ sống. Cái đầm cuối bãi sông cũng không thể thả cá. Mùa nước lên nó lại hòa
mình với dòng sông làm một và chỉ là nơi để cho lũ chim dẽ chân hồng mỗi mùa đông tìm
về kiếm ăn. Từ khi cái xóm Bến đã nhập vào phường Hợp Thiện bên trong đê thành một tổ
dân phố thì cư dân đã đông lên rất nhiều gồm cả mới và cũ. Những người mới đến họ mua
lại nhà cửa đất đai của những người trong xóm để tạm trú dài ngày. Họ sống khép kín, hạn
chế giao thiệp. Nhưng cũng không kém phần bừa bãi hỗn hào của dân ngụ cư. Đường xóm
được người dân vứt rác bừa bãi, đủ các thứ giống như một núi rác. Cái xóm Bến êm đềm
ngày xưa không còn nữa mà nó sắp thành cái xóm liều bãi rác, bẩn thỉu, ô nhiễm. Gia đình
lão Quảng xưa kia với căn nhà cấp bốn, nay đã là một dãy nhà cho thuê trọ, rồi sau này đã
xây ngôi nhà ba tầng khang trang, sạch sẽ. Gia đình lão Hoạt vốn xưa kia cả gia đình sống
lênh đênh trên con đò rách, chật chội, lão đã từ bỏ con đò lên bờ cùng vợ và bốn đứa con.
Kéo cả nhà lên bờ để sinh sống, vợ lão tìm một chỗ ngồi trên chợ đầu mối bán hoa quả, còn
con cái lão có thể lang thang ngoài phố để kiếm sống. Gia đình chú Thuận lợi thế gần chợ
buôn may bán đắt mà trở nên giàu có nhanh chóng. Xóm Bến từ khi nhập vào phố thì bắt
đầu “thay da đổi thịt”, nhà lão Quảng xây mấy phòng cho thuê trọ. Thằng cu Nghĩa - con
nuôi của lão đã bỏ học lang thang cùng mấy đứa trẻ xóm chợ, rồi cũng quan hệ với con bé ở
nhà nghỉ còn trẻ nên thằng cu Nghĩa phải đi tù một thời gian. Ra tù nó lại làm dân cò chài
cave cho các quán karaoke xung quanh xóm Bến. Hai thằng con lão Hoạt đều dính vào vòng
lao lí và bị đi tù. Cô con dâu Thúy lại cặp kè với thằng Sơn “muối” - đàn em của chồng
Thúy. Lão Hoạt và lão Quảng không thể chịu được những gì diễn ra trên phố, nên lão đã
75
quyết định ra đi, rời xa cái xóm Bến. Lão Hoạt thì lại lênh đênh trên chiếc thuyền, trở về với
sông nước để được sống trong không gian thanh bình, thoáng đãng, được dòng sông che
chở, bao bọc. Một mình một thuyền lão cứ đi, đi đến nơi nào mà lão cảm thấy an lành là bến
đậu của lão. Còn lão Quảng vì quá bức bối trong ngôi nhà của mình, lão định quyên sinh
dưới dòng sông, nhưng dòng sông đã cưu mang lão, giúp lão sống lại lần nữa và lão được
đưa vào Trung tâm bảo trợ của một huyện. Ở đó, lão cảm thấy cuộc sống dễ chịu hơn ở phố
nhiều, mọi người yêu thương và sẻ chia lẫn nhau, không còn cảm thấy bức bối, cô đơn nữa.
Còn trong Vết gió, tác giả lại miêu tả cuộc sống của người dân đô thị ở góc độ khác
nhau. Tuấn, Thủy, Hân, Hưng, Diễn đều là những người có học hành, có trí thức nhưng vì
muốn sống ở đô thị nên họ đã bỏ nghề được học hành mà theo làm nghề khác như Thúy vốn
là sinh viên Ngoại thương ra trường không xin được việc với đồng lương ít ỏi, cô xoay sang
cắt tóc gội đầu thì lại tồn tại được ở trên phố. Hưng là sinh viên Đại học Thể dục thể thao,
nhưng anh lại chuyển sang làm lái xe buôn bán đồ cổ. Tuấn và Hân vốn đi du học về nhưng
lại chuyển sang buôn bán rượu. Diễn vốn là sinh viên kinh tế nhưng lại đi lừa người và cuối
cùng phải vào tù. Sau bao ngày sóng gió của cuộc đời, Tuấn và Thủy vốn là bạn học ngày
xưa, nay đã gặp nhau nối lại mối quan hệ gần gũi hơn và hai người đã cùng nhau đi du lịch ở
vùng rừng núi, thoát khỏi không gian phố phường ngột ngạt để trở về rừng núi hòa vào với
thiên nhiên rừng núi, Tuấn và Thủy như cảm thấy xoa đi được vết đau trong cuộc sống hiện
tại nơi phố phường.
Ở tiểu thuyết Ruồi là ruồi, tác giả lại miêu tả cuộc sống của những người dân cũ và
mới ở xóm ruồi. Mẹ con nhà Liên bươn chải từ nhà quê với bao tủi nhục bước chân ra phố
được Khai cưu mang. Những ngày sống xa lạ trên phố, Liên làm cave cho các quán hát. Rồi
cô được Hùng yêu thương và lấy làm vợ. Cuộc sống của Liên đổi thay từ đấy, sung túc và
hạnh phúc hơn. Và từ đó Liên làm ăn phát đạt, cô không còn đi làm thuê nữa mà đã mua
được quán hát của người chủ cũ và đứng lên làm chủ. Song công việc làm ăn cũng gặp trắc
trở, Liên phải đóng cửa quán hát. Sau này Liên và Hùng quyết định rời bỏ thành phố lên
rừng sống cho thanh thản.
76
Trong suy tư của tác giả, cuộc sống của người dân đô thị luôn phải gánh chịu tất cả
những chi phối của cuộc sống. Để có được cuộc sống ở thành thị người dân phải chấp nhận
mọi thứ, nhất là những gia đình sống ở các khu tập thể cũ, chật hẹp, tối om mà người ta
thường gọi là khu “ổ chuột”. Bởi cả một gia đình có tới bốn hoặc sáu người chỉ sống trong
một căn nhà hơn hai mươi mét vuông, nhà nào rộng thì bốn mươi mét vuông. Trong căn nhà
ấy, họ sinh hoạt đủ thứ, ngoài hành lang vừa để thùng phuy nước, bếp đun, vại cà, vại dưa,
nuôi lợn, nuôi gà. Thậm chí đến lối đi cũng phải nhỏ hẹp. Còn so với chung cư cao cấp bây
giờ thì khu tập thể xưa kia sập sệ hơn nhiều. Ngày nay khu chung cư cao cấp thay đổi nhiều,
đã khang trang hơn, sạch sẽ hơn rất nhiều. Tuy nhiên còn một số chung cư vẫn còn tồn tại
như nhà cửa vẫn còn bừa bãi, bẩn thỉu, hành lang vẫn còn để rác rưởi. Chính cuộc sống tùy
tiện của họ đã làm nên bộ mặt phố phường ô nhiễm ngày nay.
Tiếp cận, tìm hiểu tiểu thuyết của Đỗ Phấn, có thể nhận thấy hầu như ở tác phẩm nào
tác giả cũng viết về hai trạng thái: vẻ đẹp của thiên nhiên Hà Nội xưa và sự phôi pha theo
thời gian của Hà Nội nay. Khảo sát cuốn tiểu thuyết Vết gió, người đọc thấy được thiên
nhiên xưa kia của thủ đô Hà Nội mang vẻ đẹp nguyên sơ một thuở, một vẻ đẹp thuần khiết
khi chưa có sự tàn phá của con người. Đứng từ xa ngắm nhìn vẻ đẹp của thành phố nghìn
năm tuổi, nhà văn như thấy mình được sống lại mấy chục năm về trước. Những bãi bồi phù
sa trên dòng sông Hồng, những thửa ruộng ngô xanh non biếc lá xung quanh hai bên bờ
sông Hồng, những đàn chim di trú bay qua Hà Nội, những bầy giang, bầy sếu đứng nghỉ
chân ở bãi bồi trên sông, những cây cổ thụ xanh tốt mượt mà... Còn ngày nay là những ngôi
nhà kiên cố lấn ra sát tận mép nước sông Hồng, vào mùa nước cạn dòng nước trong veo
nhìn thấy cả đáy sông. Những cơn gió bốc theo đám bụi đỏ ngầu trên bãi sông len lỏi vào
trong từng khu phố. Những đoàn người đông kịt trên các con đường mỗi khi tan tầm. Những
hàng cây mang trên mình đầy thương tích, sần sùi, u cục... Điều đó cho thấy rằng môi trường
thiên nhiên trong thành phố đã có sự thay đổi, làm mất đi nhiều giá trị thẩm mĩ của thủ đô và
ảnh hưởng đến môi trường sinh sống của người dân đô thị.
Trong tiểu thuyết Rong chơi miền kí ức người đọc còn bắt gặp vẻ đẹp của những cánh
rừng thơ mộng, với bầu không khí trong lành, thỉnh thoảng có những bầy dê, cả dê mẹ và dê
77
con ríu rít bên nhau, sột soạt gặm lá cây nuôi thả trong rừng, những tán rừng nguyên sinh vẫn
còn xanh ngắt, những bông hoa cỏ dại mọc đầy trên mặt đất, những cánh bướm chập chờn
xanh biếc xưa kia... Cảnh vật trong rừng giờ chỉ còn trong hoài niệm. Ngày nay, những con
dê trong rừng đã bị con người tàn sát, họ bắt và nướng con dê dưới ngọn lửa trong rừng, rồi
đem uống rượu mật gấu với thịt dê nướng. Nhà văn đau xót vô cùng khi các loài động vật
trong rừng bị con người tàn sát không thương tiếc.
Tóm lại, tái hiện hiện thực cuộc sống của người dân đô thị, Đỗ Phấn là người hiểu sâu
sắc, bởi nhà văn đã từng trải qua bao sóng gió suốt mấy chục năm trời ở đô thị cho nên ông
thấu hiểu những cảnh đời, những số phận ở đô thị. Với Đỗ Phấn dù viết về bất cứ ai, nghề
nghiệp nào, thời đại nào cũng đều được nhà văn viết với lòng trân trọng, nâng niu. Sự tái
hiện hiện thực đời sống từ sự đối lập không gian - thời gian là một cách thức để nhà văn diễn
tả được nhiều chiều kích của hiện thực.
Tiểu kết chương
Cuộc sống của người dân đô thị trong quá trình phát triển ngày nay được Đỗ Phấn
dựng lên qua những trang tiểu thuyết thật cụ thể. Từ lối sống, thói quen sinh hoạt, đến mối
quan hệ ứng xử, nỗi cô đơn của con người đều được nhà văn khái quát thật sinh động. Hiện
nay, khi dân số Hà Nội ngày một đông, nhu cầu cuộc sống ngày càng cao, những tác động
của con người tới môi trường tự nhiên ngày càng nhiều, do vậy những hiểm họa đối với môi
trường, những chấn thương sinh thái ngày càng trầm trọng. Với những thủ pháp nghệ thuật
đặc sắc, nhà văn Đỗ Phấn đã đem đến cho người đọc những sắc màu đa dạng về cuộc sống,
về con người đô thị hiện đại của Hà Nội. Bằng tình yêu của mình với Hà Nội, nhà văn Đỗ
Phấn đã cho người đọc thấy được tình cảm chân thành, những lo âu, băn khoăn của chính
tác giả về lối sống, tính cách và cuộc sống của người Hà Nội.
78
KẾT LUẬN
1. Hà Nội là nguồn cảm hứng sáng tác của rất nhiều nhà văn, nhà thơ. Từ trước đến
nay đội ngũ các nhà văn sáng tác về thủ đô Hà Nội là vô cùng phong phú. Truyền thống
văn chương ấy bây giờ vẫn được phát huy. Nhiều nhà văn đương đại đã viết về thủ đô Hà
Nội với tất cả tình yêu, niềm say mê và lòng tôn trọng của mình.
2. Chọn Đỗ Phấn - một trong những tác giả tiêu biểu có nhiều sáng tác bộc lộ rõ cảm
quan sinh thái trong văn học đương đại để nghiên cứu là một cách thức để tìm hiểu sự độc
đáo, hấp dẫn trong tiểu thuyết của Đỗ Phấn khi viết về vấn đề sinh thái đô thị. Hình ảnh thủ
đô Hà Nội trong cảm quan của Đỗ Phấn được hiện lên cụ thể, sinh động. Những vẻ đẹp tự
nhiên nguyên sơ của Hà Nội được thể hiện bằng tất cả tình cảm của tác giả với thủ đô. Bày
tỏ lòng yêu mến với thiên nhiên xưa của Hà Nội. Đồng thời, tác giả còn bày tỏ niềm
thương cảm, xót xa, nỗi lo âu về sự mất đi của nhiều cảnh quan tự nhiên vốn có, thay vào
đó là những kiến trúc cao tầng thiếu quy hoạch, những dòng sông, con phố bị ô nhiễm
nghiêm trọng làm mất cảnh quan sinh thái, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân phố
thị. Thực chất, nhà văn muốn cảnh tỉnh mọi người hãy bảo vệ môi trường sinh thái thành
phố, đề cao sự hành xử của con người đối với thiên nhiên để cho thành phố ngày càng văn
minh, sạch đẹp.
Quá trình đô thị phát triển kéo theo nhiều hệ lụy của cuộc sống, đó là những chấn
thương sinh thái, hiểm họa đối với môi trường, đặc biệt những thay đổi trong hành vi, thói
quen, lối sống và mối quan hệ ứng xử của con người trong không gian sinh thái đô thị đã
ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống và môi sinh của người dân thành phố. Đô thị phát triển
người dân được hưởng nền văn minh tiến bộ, đời sống của người dân nâng cao, nhu cầu đi
lại bằng các phương tiện thuận lợi; tuy vậy, người dân cũng phải chịu những hệ lụy của nó,
đó là tình trạng ô nhiễm môi trường ngày càng tăng, lượng rác thải sinh hoạt và rác thải
công nghiệp cũng tăng lên đáng kể, môi trường tự nhiên trong thành phố bị ô nhiễm
nghiêm trọng khiến cho người dân trên phố đi lại thường xuyên phải đeo khẩu trang, bịt
kín mặt.
79
Đô thị phát triển, nhiều nhà cao tầng, nhiều trung tâm thương mại, chung cư hiện đại
được mọc lên, các con phố cũng được bê tông hóa, diện tích canh tác, diện tích cây xanh bị
thu hẹp dần. Sinh sống trong môi trường đô thị đất chật, người đông, lại bon chen vì miếng
cơm manh áo nên con người thường cảm thấy ngột ngạt. Bên cạnh đó con người thành
phố lại ít quan hệ giao tiếp với nhau, nếu có chỉ là vì mục đích nào đó nên con người
thường rơi vào trạng thái cô đơn, buồn chán. Vì thế, nhiều nhân vật trong sáng tác của Đỗ
Phấn, người dân thường muốn thoát khỏi không gian của phố thị ồn ào để đến một nơi xa
trung tâm thành phố, ở đó không có bon chen, không có sát phạt mà chỉ có không gian
trong lành mát mẻ, có bầu không khí trong trẻo để di dưỡng tinh thần, quên đi những nhọc
nhằn trong cuộc sống thực tại.
3. Với cảm quan của Đỗ Phấn, người đọc có thể nhận ra Hà Nội - nơi “chôn rau cắt
rốn” - được nhà văn thể hiện bằng tất cả tình cảm trân quý của mình. Các hình ảnh thiên
nhiên phố, cây, sông, rừng luôn gắn liền với phố, điều đó có thể thấy nhà văn đã tái hiện lại
cuộc sống của người dân thành phố một cách đặc biệt. Đồng thời, nhà văn còn tái hiện lại
cuộc sống của người dân phố thị từ sự đối lập không gian và thời gian để thấy được nhiều
chiều của hiện thực. Điều đó được thể hiện bằng tình cảm, sự gắn bó, sự chiêm nghiệm
của một tâm hồn nghệ sĩ yêu mến Hà Nội. Với cái nhìn đa diện của nhà văn, chúng ta thấy
một Hà Nội vẫn đang phát triển, đang vươn tới tương lai tốt đẹp để xứng đáng là một
thành phố xanh - sạch - đẹp của cả nước.
Với quá trình lao động miệt mài, nghiêm túc nhà văn Đỗ Phấn đã thể hiện tấm lòng
chân thành của mình đối với phố thị, những băn khoăn, lo âu về sự bất trắc của xã hội đang
trong quá trình phát triển. Thông qua việc thực hiện đề tài người viết muốn góp thêm tiếng
nói khẳng định những đóng góp của nhà văn Đỗ Phấn về dòng văn học sinh thái nói riêng
và nền văn học Việt Nam nói chung.
80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thúy Anh (2011), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của
người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ, Hội Văn nghệ dân gian
Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội.
2. Thái Phan Vàng Anh, “Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI từ góc nhìn
hậu hiện đại”, http://www.bichkhe.org, (19/04/2012).
3. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc Gia Hà
Nội.
4. Trần Lê Bảo (2005), Văn hóa sinh thái nhân văn, Nxb Đại học Sư phạm
Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư
phạm Hà Nội.
6. Lê Nguyên Cẩn (2014), Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa, Nxb Đại
học Quốc Gia Hà Nội.
7. Cheryll Glotfelty (1996), “Nghiên cứu văn học trong thời đại khủng
hoảng môi trường”, Trần Thị Ánh Nguyệt dịch, Tạp chí Sông Hương, số
305, tháng 7.
8. Quế Duy (1992), Tuyển tập thơ Tú Xương, Nxb Văn học, Hà Nội.
9. Đoàn Ánh Dương (2011) “Lưỡng lự và chiêm nghiệm” (Tạp chí Văn
nghệ, số 35, 36).
10. Xuân Diệu (1940), Tuyển tập Xuân Diệu, tập 1, thơ, Nxb Văn học, Hà
Nội.
11. Vũ Minh Đức, “Không gian nghệ thuật trong văn học”,
http://yume.vn/thaygiaovanchuong artele, (14/06/2010).
12. Anh Đức (1969), Giấc mơ ông lão vườn chim, Nxb Giải phóng, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
81
14. Nguyễn Đăng Điệp (2014), Thơ mới từ góc nhìn sinh thái văn học văn
hóa. In trong Thơ Việt Nam hiện đại tiến trình và hiện tượng, Nxb Văn
học, Hà Nội.
15. Trịnh Bá Đĩnh (2018), Từ kí hiệu đến biểu tượng, Nxb Đại học Quốc Gia
Hà Nội.
16. Ngọc Giao (1950), Đất, Nxb Cây thông, Hà Nội.
17. Nguyễn Việt Hà “Như là lời tựa”, http://nico-paris.com/tin-tuc-255/nhu-
la-loi-tua---nguyen-viet-ha.vhtm, (23/10/2012).
18. Đặng Thị Thái Hà (2014), Cái tự nhiên từ điểm nhìn phê bình sinh thái,
Luận văn thạc sĩ, Đại học Sư phạm Hà Nội.
19. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Đỗ Văn Hiểu (2012), “Phê bình sinh thái - khuynh hướng nghiên cứu văn
học mang tính cách tân”, Tạp chí Phát triển Nghiên cứu và khoa học, Đại
học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.
21. Nguyễn Chí Hoan, “Chuyện Hà Nội qua tiểu thuyết của Đỗ Phấn”,
http://hanoimoi.com.vn/Tin-tuc/sach/598708/chuyen-ha-noi-qua-tieu-
thuyet-cua-do-phan, (22/07/2013).
22. Mai Hoàng, “Vẽ Hà Nội qua con chữ”, http://nico-paris.com/tin-tuc-
625/ve-ha-noi-qua-con-chu---mai-hoang.vhtm, (03/10/2014).
23. Nguyễn Xuân Kính, Đăng Nhật Phan (2001), Kho tàng ca dao người Việt,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
24. Nguyễn Tham Thiện Kế, “Đỗ Phấn, ông “xe ôm” đa tài”,
https://www.tienphong.vn/van-nghe/do-phan-ong-xe-om-da-tai.tpo,
(28/11/2010).
25. Nguyễn Khải (1995), Hà Nội trong mắt tôi, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà
Nội.
26. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bạch Vân quốc ngữ thi, Nxb Văn học, Hà Nội.
82
27. Phương Lựu (2015), “Khuynh hướng phê bình sinh thái trong nghiên cứu
văn học”, báo Văn nghệ, số 40.
28. Hoàng Tố Mai (chủ biên) (2017), Phê bình sinh thái là gì?, Nxb Hội nhà
văn, Hà Nội.
29. Vũ Quang Mạnh (2011), Môi trường và con người - sinh thái học nhân
văn, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
30. Hoài Nam, “Viết văn, việc không chỉ của nhà văn”, http://nico-
paris.com/tin-tuc-245/viet-van-viec-khong-chi-cua-nha-van---hoai-
am.vhtm, (07/09/2012).
31. Bảo Ninh (2014), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
32. An Ngọc, “Họa sĩ, nhà văn Đỗ Phấn: “Cả đời, tôi sẽ chỉ viết sách về Hà
Nội”, https://www.vietnamplus.vn/hoa-si-nha-van-do-phan-ca-doi-toi-se-
chi-viet-sach-ve-ha-noi.vnp, (09/10/2014).
33. Trần Thị Ánh Nguyệt, Lê Lưu Oanh (2016), Con người và tự nhiên trong
văn xuôi Việt Nam sau 1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái, Nxb Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
34. Trần Văn Nhĩ (dịch thơ), Ức Trai thi tập (Nguyễn Trãi), Nxb Văn hóa văn
nghệ, Hà Nội.
35. Trần Đỗ Nghĩa, “Nhà văn Đỗ Phấn, người hồi sinh văn học thị dân Hà
Nội”, http://esquirevietnam.com.vn/lifestyle/giai-tri-lifestyle/nha-van-
phan-nguoi-hoi-sinh-van-hoc-thi-dan-ha-noi, (08/07/2016).
36. Nhiều tác giả, “Phê bình sinh thái - cội nguồn và sự phát triển” (Đỗ Văn
Hiểu dịch từ tiếng Trung: “Tuyển tập văn luận văn học sinh thái Trung
Quốc và thế giới): http://tapchinhavan.vn/news.
37. Nhiều tác giả (2000), Bàn về Tiểu thuyết, Nxb Văn hóa thông tin.
38. Nhiều tác giả (2007), Hai mươi truyện ngắn đặc sắc về Hà Nội, Nxb
Thanh niên, Hà Nội.
83
39. Lê Lưu Oanh, Trần Thị Ánh Nguyệt (2016), “Khuynh hướng phê bình
sinh thái trong nghiên cứu văn học”, Tạp chí Lí luận phê bình văn học
nghệ thuật, số 41, tháng 1.
40. Đỗ Phấn (2005), Chuyện vãn trước gương, Tản văn, Nxb Hội nhà văn, Hà
Nội.
41. Đỗ Phấn (2009), Đêm tiền sử, Truyện ngắn, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
42. Đỗ Phấn (2009), Kiến đi đằng kiến, Truyện dài, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
43. Đỗ Phấn (2010), Vắng mặt, Tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
44. Đỗ Phấn (2010), Thác hoa, Truyện ngắn, Nxb Quân đội nhân dân, Hà
Nội.
45. Đỗ Phấn (2011), Chảy qua bóng tối, Tiểu thuyết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
46. Đỗ Phấn (2011), Ông ngoại hay cười, Tản văn, Nxb Lao động, Hà Nội.
47. Đỗ Phấn (2011), Rừng người, Tiểu thuyết, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
48. Đỗ Phấn (2012), Phượng ơi, Tản văn, Nxb Dân trí, Hà Nội.
49. Đỗ Phấn (2013), Con mắt rỗng, Tiểu thuyết, Nxb Văn học, Hà Nội.
50. Đỗ Phấn (2013), Gần như là sống, Tiểu thuyết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
51. Đỗ Phấn (2013), Hà Nội thì không có tuyết, Tản văn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
52. Đỗ Phấn (2013), Dằng dặc triền sông mưa, Truyện dài, Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
53. Đỗ Phấn (2014), Ruồi là ruồi, Tiểu thuyết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
54. Đỗ Phấn (2015), Rụng xuống ngày hư ảo, Tiểu thuyết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
55. Đỗ Phấn (2015), Ngồi lê đôi mách với Hà Nội, Tản văn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
84
56. Đỗ Phấn (2016), Ngẫm ngợi phố phường, Tản văn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
57. Đỗ Phấn (2016), Vết gió, Tiểu thuyết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
58. Đỗ Phấn (2016), Rong chơi miền kí ức, Tiểu thuyết, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
59. Đỗ Phấn (2018), Bâng quơ một thời Hà Nội, Tản văn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ
Chí Minh.
60. Đỗ Phấn (2018), Đi chơi Bờ Hồ, Tản văn, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
61. Y Phương (2010), Tháng giêng, tháng giêng, một vòng dao quắm, Nxb
Phụ nữ, Hà Nội.
62. Y Phương (2016), Fừn nèn củi tết, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
63. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
64. Nguyễn Ngọc Tư (2018), Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
65. Hàn Mặc Tử (1995), Đau thương, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
66. Thornber K (2014), “Những tương lai của phê bình sinh thái và văn học”
(Hải Ngọc dịch), http://hieutn1979.wordpress.com.
67. Nguyễn Đình Thi (1956), Người chiến sĩ, Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
68. Khánh Thư, “Đỗ Phấn viết về Hà Nội xưa: Vẽ ra những cái đẹp để thêm
yêu”, http://danviet.vn/van-hoa/do-phan-viet-ve-ha-noi-xua-ve-ra-nhung-
cai-dep-de-them-yeu.html, (25/12/2016).
69. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2014), Sáng tác và phê bình sinh thái - tiềm năng
cần khai thác của văn học Việt Nam, Hội thảo khoa học phát triển văn học
Việt Nam trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện văn học.
70. Nguyễn Thị Tịnh Thy (2013), Phê bình sinh thái - nhìn từ lý thuyết giải
cấu trúc, Văn học hậu hiện đại - lý thuyết thực tiễn, Lê Huy Bắc chủ biên,
Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
85
71. Nguyễn Thị Tịnh Thy ((2017), Rừng khô, suối cạn, biển độc... và văn
chương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
72. Nguyễn Xuân Thủy, “Đỗ Phấn: Sống trong đô thị, viết về đô thị”,
http://nico-paris.com/tin-tuc-163/do-phan-song-trong-do-thi-viet-ve-do-
thi---nguyen-xuan-thuy.vhtm, (11/08/2012).
73. Trần Nhã Thụy, “Họa sĩ - nhà văn Đỗ Phấn: văn chương không cần lắm
điều”, https://www.facebook.com/notes/nhà-sách-trực-tuyến-
bookbuy/họa-sĩ-nhà-văn-đỗ-phấn-văn-chương-không-cần-lắm-điều,
(23/09/2011).
74. Trần Nhã Thụy (2014), Cuộc đời vui quá không buồn được, Nxb Trẻ, Tp.
Hồ Chí Minh.
75. Nguyễn Thiện, “Đỗ Phấn mải miết với triền sông Hà Nội”, http://nico-
paris.com/tin-tuc-626/do-phan-mai-miet-voi-trien-song-ha-noi.vhtm,
(03/10/2014).
76. Nguyễn Huy Thiệp (1995), Truyện ngắn chọn lọc Nguyễn Huy Thiệp, Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
77. Nguyễn Trãi (1956), Lam Sơn thực lục, Nxb Tân Việt, Hà Nội.
78. Nguyễn Thùy Trang (2016), Phê bình sinh thái ở Việt Nam từ góc nhìn
văn hóa, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học “Thành tựu Văn học Việt Nam ba
mươi năm đổi mới” (1986 - 2016), Đại học Khoa học, Đại học Huế.
79. Viện Văn học (2017), Phê bình sinh thái, tiếng nói bản địa - tiếng nói
toàn cầu (Kỷ yếu Hội thảo quốc tế), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
80. Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa văn học tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn
học, Hà Nội.
81. Trần Hải Yến (2014), Nghiên cứu phê bình sinh thái hiện đại và di sản
văn hóa; nhìn từ cách sinh thái học tìm về Tam giáo (Phật giáo, Nho giáo,
Đạo giáo), Hội thảo Khoa học phát triển Văn học Việt Nam trong bối
cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế, Viện văn học.