intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

LUẬN VĂN: Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng

Chia sẻ: Ly Hai | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:58

557
lượt xem
148
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Doanh nghiệp Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc thù. Chất liệu kinh doanh chủ yếu của loại hình này là " Quyền sử dụng" các khoản kinh tế Ngân hàng vừa là nguồn "cung cấp" đồng thời cũng là nguồn "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động mua "bán này" thường thông qua một số công cụ, nghiệp vụ Ngân hàng. Là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn Ngân hàng Thương mại luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay để cho...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: LUẬN VĂN: Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng

  1. LUẬN VĂN: Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng
  2. Chương I Những vấn đề mang tính lí luận về Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. 1. Tổng quát về Ngân hàng Thương mại. 1.1 Khái niệm Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn. Doanh nghiệp Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc thù. Chất liệu kinh doanh chủ yếu của loại hình này là " Quyền sử dụng" các khoản kinh tế Ngân hàng vừa là nguồn "cung cấp" đồng thời cũng là nguồn "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động mua "bán này" thường thông qua một số công cụ, nghiệp vụ Ngân hàng. Là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn Ngân hàng Thương mại luôn tìm cách tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay để cho vay. Để thu hút tiền vào Ngân hàng đưa ra những điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. ở Việt Nam, khái niệm về Ngân hàng Thương mại đã được ghi rõ trong "Pháp lệnh Ngân hàng về NHTM, HTX tín dụng và Công ty tài chính" ban hành tháng 5 năm 1990 như sau: "Ngân hàng Thương mại là tổ chức tín dụng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán".Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại có vai trò hết sức quan trọng trong lĩnh vực phát triển kinh tế đó là: - Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. - Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. - Là nơi tích tụ và tập trung vốn. - NHTM làm kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá. - NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô kinh tế.
  3. - NHTM là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều kiện cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia. - NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế, tạo điều kiện cho nền kinh tế trong nước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh tế trên thế giới. - Các NHTM còn có vai trò làm tăng khả năng sinh lời của đồng tiền và giảm chi phí giao dịch, chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền. Với những vai trò trên Ngân hàng thực sự trở thành bộ phận không thể thiếu đối với bất kì nền kinh tế của một quốc gia nào. 1.2 Chức năng của Ngân hàng Thương mại Tầm quan trọng của Ngân hàng được thể hiện thông qua các chức năng của nó, chức năng của Ngân hàng Thương mại có thể được đưa ra dưới nhiều khía cạnh khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức năng sau: 1.2.1 Trung gian tài chính: Đây là chức năng cơ bản nhất, đặc trưng nhất của NHTM. Nó có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những nơi nhàn rỗi sang những nơi có thể sinh lợi hay nói cách khác NHTM đã thiết lập mối quan hệ tín dụng giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng sang chủ thể cần tiêu để phục vụ kinh doanh. Thực hiện chức năng này một mặt NHTM đi huy động và tập trung các nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế hình thành nguồn vốn cho vay. Mặt khác trên doanh số vốn đã huy động được Ngân hàng cho vay để đáp ứng các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng… của các chủ thể kinh tế. Góp phần đảm bảo cho sự vận động liên tục của bộ máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Như vậy NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay hay nói cách khác hoạt động tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay.
  4. Ngày nay quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn, sự phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa các Công ty (khi phát hành cổ phiếu ) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu Công ty… theo cách này Ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường. Như vậy thông qua chức năng này NHTM đang thực hiện chức năng xã hội của mình làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng, từ đó góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cải thiện đời sống nhân dân. 1.2.2 Trung gian thanh toán. Ngân hàng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, tức là Ngân hàng tiến hành thu thập tiền vào tài khoản hay chi trả theo lệnh của chủ tài khoản. Một trong những hoạt động của Ngân hàng có nguồn gốc xa xưa đó là hoạt động thanh toán hộ cho khách hàng của mình. Hoạt động này làm cơ sở cho hoạt động tín dụng ngày nay. Khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán Ngân hàng sẽ trả hộ và khoản trả đó sẽ trở thành khoản vay của khách hàng. Chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt chẽ và hữu cơ với trung gian tín dụng, Ngân hàng dùng số tiền gửi của người này để cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng là thủ quỹ của nền kinh tế xã hội có được điều kiện thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng. Khi các khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng họ sẽ được bảo đảm an toàn trong việc cất giữ, thực hiện thu chi nhanh chóng thuận lợi, nhất là đối với khoản thanh toán có giá trị lớn ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó khăn, không an toàn… Hiện nay séc và thẻ tín dụng đang dần dần được sử dụng rộng rãi ở nước ta. Điều này được gọi là thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện bởi các NHTM. Việc phát hành séc để rút tiền chuyển khoản trong cùng một Ngân hàng chỉ đơn thuần là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác. Nếu chỉ hai Ngân hàng trong cùng một thành phố thì tiến hành trao đổi séc trực tiếp, nhưng nếu nhiều Ngân hàng trong cùng một thành phố thì sự trao đổi sẽ được tiến hành thông qua các phiên giao dịch tiến hành thanh toán bù trừ do Ngân hàng Nhà nước chủ trì.
  5. Quá trình trở nên phức tạp mất thời gian và tốn kém khi việc thanh toán bù trừ diễn ra giữa các Ngân hàng khác nhau của cùng đất nước, công việc thanh toán sẽ được tiến hành thường xuyên thông qua hệ thống liên Ngân hàng, các Ngân hàng có thể kết hợp hai hình thức thanh toán: liên hàng trước, bù trừ sau hoặc bù trừ trước, liên hàng sau, Như vậy các NHTM đã tạo ra sự vận động linh hoạt của đồng vốn, thúc đẩy quá trình sản xuất xã hội. 1.2.3 Tạo tiền. Một trong những khả năng chủ yếu của NHTM là khả năng tạo tiền. Chức năng này được thể hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM trong mối quan hệ với tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN. Sức mạnh của hệ thống NHTM nhằm tạo bút tệ mang ý nghĩa kinh tế to lớn. Hệ thống tín dụng năng động là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững chắc. Nền tín dụng Ngân hàng không tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất không thực hiện được và nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận và từ những nguốn khác sẽ bị hạn chế, hơn nữa các đơn vị có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển vốn không được sử dụng trong quá trình sản xuất nhưng trong các thời kì cao điểm mang tính thời vụ các hoạt động doanh nghiệp lại không đủ vốn để phục vụ nhu cầu sản xuất kinh doanh nên thực tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép vượt nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện kèm theo là những hậu quả kinh tế, xã hội mà quốc gia đó sẽ phải gánh chịu. * Hệ số tạo tiền của NHTM: m= 1/ (tỷ lệ dự trữ bắt buộc + tỷ lệ dự trữ tiền thừa + tỷ lệ thanh toán tiền mặt) - Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN ấn định để phục vụ cho chính sách quản lí vĩ mô của mình. - Tỷ lệ tiền thừa = ( tỷ lệ tiền mặt trong két/ huy động vốn) *100% - Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt: phản ánh lượng tiền ra khỏi Ngân hàng. Như vậy với chức năng này NHTM đóng vai trò như một kênh dẫn quan trọng để chính phủ thực hiện mục tiêu chính sách tài chính và tiền tệ.
  6. 1.2.4 Dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác. Ngoài các chức năng trên Ngân hàng còn có chức năng dich vụ tài chính khác như dịch vụ uỷ thác, dịch vụ kinh kỷ... 2. Hoạt động huy động vốn của NHTM. 2.1 Cơ cấu nguồn vốn của NHTM. Cũng giống như mọi hoạt động kinh tế khác, Ngân hàng muốn hoạt động được trước hết phải có vốn. Nhưng vì mặt hàng kinh doanh của Ngân hàng rất đặc biệt "kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ" cho nên nhu cầu về vốn của NHTM là rất lớn. Chính vì vậy cấu trúc nguồn vốn của các NHTM khá phong phú bao gồm các loại vốn sau đây: 2.1.1 Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng ( vốn tự có ). Vốn tự có của NHTM là những giá trị tiền tệ do NHTM tạo lập được, thuộc sở hữu của Ngân hàng. Vốn này chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng, song lại là điều kiện pháp lý bắt buộc khi mới bắt đầu thành lập một Ngân hàng. Do tính chất thường xuyên ổn định của vốn tự có, Ngân hàng có thể chủ động sử dụng vào các mục đích khác nhau như: trang bị cơ sở vật chất, tạo tài sản cố định phục vụ cho bản thân Ngân hàng, đặc biệt là tham gia đầu tư, góp vốn liên doanh. Mặt khác với chức năng bảo vệ, vốn tự có được coi như tài sản đảm bảo gây lòng tin đối với khách hàng, duy trì khả năng thanh toán trong trường hợp Ngân hàng gặp nhiều thua lỗ. Nó còn là một trong những căn cứ quyết định đến quy mô và khối lượng huy động vốn của Ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng vốn tự có là yếu tố cơ bản để xác định các chỉ tiêu an toàn của một NHTM. Như vậy quy mô và sự tăng trưởng của vốn tự có sẽ quyết định đến năng lực và sự phát triển của NHTM. Vốn tự có của NHTM bao gồm hai loại: - Vốn điều lệ: Là nguồn vốn ban đầu khi Ngân hàng thành lập do Nhà nước cấp nếu là NHTM quốc doanh, do đóng góp của cổ đông nếu là NHTM cổ phần hoặc do phần
  7. đóng góp của các bên nếu là Ngân hàng liên doanh với mức độ tuỳ theo quy mô của NHTM đó được pháp lệnh Ngân hàng quy định cụ thể. Vốn điều lệ có thể cao hay thấp nhưng mức tối thiểu phải bằng mức quy định của pháp luật. - Vốn tự có bổ sung: Vốn tự có của NHTM không ngừng được tăng lên theo thời gian nhờ có nguồn vốn bổ sung. Vốn tự bổ sung bao gồm + Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: Được trích từ lợi nhuận ròng hàng năm của NHTM theo một tỷ lệ nhất tuỳ từng Ngân hàng nhằm mục đích tăng cường vốn tự có ban đầu. + Quỹ dự trữ đặc biệt: Để dự phòng bù đắp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng nhằm bảo vệ vốn điều lệ. + Ngoài ra vốn tự có bổ sung vốn điều lệ còn bao gồm lợi nhuận chưa phân bổ hoặc các quỹ lợi nhuận khác như quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng… 2.1.2 Vốn huy động: Vốn huy động là những giá trị tiền tệ mà Ngân hàng huy động được từ các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội thông qua quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh toán, các nghiệp vụ kinh doanh khác và được dùng để kinh doanh. Bản chất của vốn huy động là tài sản thuộc các chủ sở hữu khác nhau. Ngân hàng chỉ có quyền sử dụng mà không có quyền sở hữu và có trách nhiệm hoàn trả đúng hạn cả gốc lẫn lãi khi đến kì hạn ( đối với tiền gửi có kì hạn ) hoặc khi họ có nhu cầu rút vốn để chi trả ( đối với tiền gửi không kì hạn ). Chính vì thế vốn huy động luôn biến động, nên Ngân hàng không được phép sử dụng hết số vốn đó vào kinh doanh mà phải dự trữ với một tỷ lệ hợp lý để đảm bảo khả năng thanh toán. Vốn huy động đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Vốn huy động bao gồm: + Tiền gửi của khách hàng. + Vốn đi vay.
  8. + Vốn phát hành các chứng từ có giá. 2.1.3 Các nguồn vốn khác. - Vốn tiếp nhận: gồm vốn tài trợ, vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác chương trình, dự án xây dựng cơ bản tập trung của Nhà nước hay trợ giúp cho đầu tư phát triển những chương trình, dự án có mục tiêu kinh tế, xã hội riêng. NHTM cho vay theo chỉ định của chủ nguồn vốn để hưởng hoa hồng. - Các loại nguồn vốn khác: được hình thành trong quá trình hoạt động của nghiệp vụ và được sử dụng theo quy định của Nhà nước. 2.2 Vai trò của nguồn huy động trong hoạt động, kinh doanh của NHTM. Nguồn vốn huy động giúp Ngân hàng tự chủ trong kinh doanh. Một Ngân hàng không thể hoạt động kinh doanh tốt nếu các hoạt động nghiệp vụ của nó hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đi vay: vay để cho vay, vay để đầu tư, vay để thanh toán. Ngược lại một Ngân hàng với nguồn vốn huy động dồi dào sẽ hoàn toàn tự quyết trong hoạt động kinh doanh của mình, không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Nguồn vốn huy động dồi dào cũng làm tăng khả năng của Ngân hàng chủ động đa dạng hoá các hoạt động kinh doanh nhằm phân tán rủi ro thu được lợi nhuận cao nhất, đạt mục tiêu cuối cùng là an toàn sinh lời. Nguồn vốn huy động ảnh hưởng quy mô tín dụng và các hoạt động khác. Vốn huy động có ảnh hưởng to lớn đến việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng tín dụng cũng như các hoạt động khác. Thông thường so với các Ngân hàng nhỏ, các Ngân hàng lớn có khoản mục đầu tư cho vay đa dạng hơn, phạm vi và khối lượng cho vay của các Ngân hàng này cũng lớn hơn. Trong khi các Ngân hàng lớn cho vay ở thị trường trong nước thậm chí quốc tế thì các Ngân hàng nhỏ lại giới hạn phạm vi hoạt động chủ yếu trong cộng đồng. Thêm vào đó, do khả năng vốn hạn hẹp nên các Ngân hàng nhỏ không phản ứng nhạy bén được với sự biến động của lãi suất, gây ảnh hưởng đến khả năng thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Nếu khả năng vốn của Ngân hàng đó dồi dào thì chắc chắn
  9. Ngân hàng sẽ mở rộng và đáp ứng được nhu cầu vay vốn, có đủ điều kiện để mở rộng thị trường tín dụng, tăng khả năng thanh toán và các dịch vụ Ngân hàng. Nguồn vốn huy động quyết định năng lực thanh toán và đảm bảo uy tín của Ngân hàng trên thị trường. Thật vậy trong nền kinh tế thị trường, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động đòi hỏi Ngân hàng phải coi uy tín trên thị trường là điều quan trọng. Uy tín đó trước hết phải thể hiện ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng. Mà khả năng thanh toán của Ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của Ngân hàng càng lớn. Với tiềm năng vốn lớn, nguồn huy động dồi dào, Ngân hàng có thể hoạt động kinh doanh với quy mô ngày càng mở rộng, tiến hành cạnh tranh có hiệu quả vừa giữ chữ tín vừa nâng cao thanh thế của Ngân hàng trên thị trường. Quyết định năng lực cạnh tranh của Ngân hàng: Thực tế đã chứng minh: quy mô trình độ nghề nghiệp, phương tiện kĩ thuật hiện đại của Ngân hàng là tiền đề cho việc thu hút nguồn vốn. Khả năng vốn lớn là điều kiện thuận lợi đối với Ngân hàng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng với các thành phần kinh tế xét cả quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian gia hạn cho vay thậm chí quyết định mức lãi suất vừa phải cho khách hàng, điều này sẽ thu hút ngày cành nhiều khách hàng, doanh số hoạt động của Ngân hàng tăng lên nhanh chóng và Ngân hàng có điều kiện thuận lợi hơn trong kinh doanh. Hơn nữa vốn của Ngân hàng lớn sẽ giúp cho Ngân hàng có đủ khả năng tài chính, kinh doanh đa năng trên thị trường, không chỉ đơn thuần là cho vay mà còn mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, kinh doanh dịch vụ thuê mua… Và chính những hình thức kinh doanh đa năng này sẽ góp phần phân tán rủi ro trong hoạt động kinh doanh và tạo thêm nguồn vốn cho Ngân hàng, đặc biệt là tăng sức cạnh tranh của Ngân hàng trên thị trường. 2.3 Các hình thức huy động vốn của NHTM Việt Nam. Để hiểu rõ hơn về hoạt động huy động vốn của NHTM ta có thể phân loại nghiệp vụ huy động vốn theo sơ đồ sau:
  10. Các nguồn huy động của NHTM Tiền gửi Vốn đi vay Vốn phát của khách hành các hàng chứng từ có Phá Phá Tiền Tiề Tiền Vay Vay t t gửi n gửi ngâ các TCTD hàn hàn khôn gửi tiết n kiệm h h g kì có hàn kỳ trá hạn kì g phi i T/gử T/gử Khôn Có Các i i g kì kỳ loạ than khôn hạn hạn i h g khá toán k/hạ c n 2.3.1 Huy động thông qua tài khoản tiền gửi. Tiền gửi tại NHTM bao gồm tiền gửi không kì hạn và có kì hạn. * Tiền gửi không kì hạn: Là khoản tiền gửi mà người sử dụng có thể rút ra sử dụng bất kì lúc nào và Ngân hàng phải thoả mãn yêu caàu đó của khách hàng. Tiền gửi không kì hạn có mức lãi suất thấp hoặc không được trả lãi tuỳ theo chính sách quản lý lãi suất của NHTW mỗi nước hoặc trình độ cạnh tranh của mỗi Ngân hàng và bao gồm hai loại sau đây: + Tiền gửi thanh toán: Đó là các khoản tiền gửi không kì hạn trước hết được sử dụng để tiến hành thanh toán chi trả cho các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các
  11. khoản chi phí khác phát sinh trong kinh doanh một cách thường xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại Ngân hàng trên hai loại tài khoản: Tài khoản tiền gửi thanh toán và tài khoản tiền gửi vãng lai. Đối với các khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng mở tài khoản này nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh toán và sử dụng thuận tiện dễ dàng đồng vốn khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ, có lúc dư có. Với tài khoản này khách hàng còn có thể được Ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong những khoảng thời gian nhất định. Đứng trên góc độ Ngân hàng, tiền gửi không kì hạn là khoản nợ mà Ngân hàng luôn phải chủ động trả cho khách hàng vào bất cứ lúc nào. Tuy nhiên xét tại một thời điểm nhất định nào đó, do có sự không khớp nhau giữa xuất và nhập trên mỗi khoản tiền gửi thanh toán tạo nên những tồn khoản và Ngân hàng được phép sử dụng vào kinh doanh. + Tiền gửi không kì hạn thuần tuý: Là khoản tiền kí gửi với mục đích an toàn tài sản, không mang tính chất phục vụ thanh toán, khi cần khách hàng có thể đến Ngân hàng rút ra để chi tiêu. Khác với tiền gửi thanh toán ở trên với loại tiền gửi này khách hàng không được sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. * Tiền gửi có kì hạn: Đây là loại tiền gửi có sự thoả thuận trước giữa khách hàng và Ngân hàng về thời gian rút tiền. Đại bộ phận nguồn tiền gửi này có nguồn gốc từ tích luỹ và xét về bản chất chúng được gửi với mục đích hưởng lãi. Đây là nguồn tiền gửi tương đối ổn định, Ngân hàng có thể sử dụng phần lớn tồn khoản vào kinh doanh. Chính vì vậy, các NHTM luôn tìm cách đa dạng hóa loại tiền giửi này bằng cách áp dụng nhiều kì hạn khác nhau vơí các mức lãi suất khác nhau nhằm đáp ứng nhu cầu của mọi khách hàng. ở các nước trên thế giới, nhất là các nước công nghiệp hoá phát triển tiền tiết kiệm là loại tiền có số lượng lớn thứ hai trong số các loại tiền gửi vào Ngân hàng.Đặc điểm của loại tiền này là người gửi tiền được giao cầm sổ tiết kiệm, sổ này được coi là giấy chứng nhận việc gửi tiền vào Ngân hàng của khách hàng. Xét về bản chất, đây là một phần thu nhập của cá nhân người lao động chưa sử dụng cho
  12. tiêu dùng. Họ gửi vào Ngân hàng với mục đích tích luỹ tiền một cách an toàn và hưởng lãi từ số tiền đó. Hiện nay trong các NHTM ở Việt Nam tiền tiết kiệm chiếm tỷ lệ lớn nhất trong tổng nguồn vốn huy động ( khoảng 60% - 70%). Tiền gửi tiết kiệm có các loại chủ yếu sau: * Tiết kiệm không kì hạn: người gửi tiền có thể rút ra một phần hay toàn bộ vào bất cứ lúc nào theo nhu cầu nhưng không được sử dụng các công cụ thanh toán để chi trả cho người khác. * Tiết kiệm có kì hạn: Đây là loại tiền được gửi vào Ngân hàng trên cơ sở có sự thoả thuận về thời hạn, lãi suất giữa khách hàng và Ngân hàng. Như vậy theo nguyên tắc, khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn. Tuy nhiên để khuyến khích người dân gửi tiền, Ngân hàng vẫn cho phép khách hàng được rút tiền trước kì hạn. Khi đó khách hàng thường phải chịu một mức lãi suất thấp hơn. Với loại tiết kiệm này, mục đích của người gửi là sinh lợi cho nên vấn đề lãi suất là rất quan trọng. Còn đối với Ngân hàng thì đây là nguồn vốn khá ổn định. Nhằm mục đích sử dụng cho các nhu cầu khác nhau của khách hàng cũng như nhu cầu về vốn của Ngân hàng, các Ngân hàng thường áp dụng các loại tiết kiệm với kì hạn 3,6,9 tháng, 1 năm, 2 năm… Với mỗi thời hạn, áp dụng các mức lãi suất thích hợp với từng thời kì theo ngyên tắc thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao. * Các loại tiết kiệm khác nhau như tiết kiệm xây dựng nhà ở: Tiết kiệm xây dựng nhà ở là một hình thức tiết kiệm của các tầng lớp dân cư do Nhà nước áp dụng nhằm hỗ trợ cho người dân sớm có nhà ở, rút ngắn thời gian chờ đểi đủ vốn góp phần vào việc thực hiện chính sách nhà ở của Đảng và Nhà nước. Đối với Ngân hàng loại tiết kiệm này tạo nguồn vốn ổn định, có thể phát triển thành những khoản cho vay, đầu tư trung và dài hạn đối với các công trình phát triển nhà ở đô thị hay nông thôn theo hướng quy hoạch của Nhà nước. Ngoài ra qua sản phẩm này Ngân hàng còn phát triển hàng loạt hoạt động nghiệp vụ như tín dụng thuê, mua, tư vấn về kinh doanh, đầu tư bất động sản… Cùng với hình thức này, Nhà nước cũng sẽ khuyến khích được quá trình hình thành các quỹ nhà ở trong xã hội giải quyết phần nào sức ép phát sinh từ vấn đề phát triển đô thị hiện nay với nguồn tài lực huy động từ dân cư là chính, dành được vốn ngân sách và vốn vay nước ngoài cho việc đầu tư các công trình trọng điểm thuộc chiến lược phát triển quốc gia.
  13. Theo hình thức này mọi công dân có nhu cầu mua sắm, cải tạo nâng cấp nhà cửa đều có thể gửi tiền tiết kiệm có thời hạn ít nhất một năm trở lên và được Ngân hàng cho vay vốn để cùng với số tiền tiết kiệm tạo được để làm nhà ở. Tiền gửi tiết kiệm được Ngân hàng trả lãi. Lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay dựa trên nguyên tắc bình đẳng đảm bảo cho lợi ích của người gửi và chi phí của Ngân hàng. Người gửi tiền và Ngân hàng kí hợp đồng gửi tiền tiết kiệm và vay vốn xã hộ xây dựng nhà ở để thực hiện việc gửi vốn, rút vốn, vay vốn. Người gửi tiết kiệm có thể vay vốn với mức vốn tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm tại thời điểm xin vay. 2.3.2 Huy động thông qua các thị trường. Vốn đi vay và quan hệ vay mượn giữa NHTM và NHTW, hoặc giữa các NHTM với nhau hay các tổ chức tín dụng khác. Các NHTM sẽ đi vay vốn để bổ sung vào vốn hoạt động của mình khi mà Ngân hàng đã sử dụng hết vốn khả dụng mà vẫn không đủ vốn hoạt động. Trong trường hợp Ngân hàng đã vay trên thị trường tiền tệ liên hàng của các NHTM hay các tổ chức tín dụng mà vẫn không đáp ứng được nhu cầu sử dụng vốn của mình thì Ngân hàng sẽ đi vay của NHNN. Tuỳ theo mục đích sử dụng và hình thức vay vốn, vốn vay của NHNN sẽ được chia thành các loại: Vốn vay để thanh toán và vay tái cấp vốn. * Vốn vay để thanh toán: các NHTM vay NHNN để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong thanh toán ( thời hạn vay thường ngắn hạn ). * Vay tái cấp vốn: NHNN cho NHTM vay trên cơ sở chứng từ có giá. Các chứng từ này phải đảm bảo tính hợp lệ, hợp pháp, đảm bảo an toàn. Tái cấp vốn gồm hai hình thức: + Tái chiết khấu: NHNN nhận các chứng từ có giá mà các NHTM đã chiết khấu trước đây để thực hiện các nghiệp vụ giống như các NHTM đã làm. Tuy nhiên việc tái chiết khấu đối với các NHTM đã được giới hạn trong mức cho phép ( hạn mức tái chiết khấu ) để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN. + Cho vay có đảm bảo: Là hình thức các NHTM đem các giấy tờ có giá đến các NHNN để làm vật bảo đảm xin vay vốn. Că cứ trên tổng mệnh giá các chứng từ có giá làm vật đảm bảo, NHNN sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất định tuỳ theo việc điều hành chính sách tiền tệ của Nhà nước trong từng thời kì.
  14. 2.3.3 Huy động thông qua phát hành những chứng từ có giá. Vốn phát hành của Nhà nước thuộc loại " chủ đọng thu gom ". Thực chất cuả hình thức chủ động huy động vốn này là Ngân hàng huy động vốn tiền tệ băng việc phát hành những chứng từ có giá. Trong đó kì phiếu là phiếu nợ ngắn hạn với mệnh giá quy định, trái phiếu là loại phiếu nợ trung và dài hạn. Hai loại phiếu nợ trên được Ngân hàng phát hành từng đểt, tuỳ theo mục đích với sự chấp thuận của NHNN hoặc hội đồng chứng khoán Quốc gia. Trong huy động vốn dưới hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, các NHTM phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi Ngân hàng thiếu vốn mà vốn tự có và vốn huy động tiền gửi không đủ trang trải. Như vậy khi huy động vốn dưới hình thức này, các Ngân hàng phải căn cứ vào đầu ra để quyết định về khối lượng huy động, mức lãi suất và thời hạn, phương pháp huy động. Khối lượng vốn này chỉ được huy động trong một thời gian nhất định, khi đã huy động được đủ khối lượng theo dự kiến các Ngân hàng sẽ ngừng việc huy động. 3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động vốn của NHTM. 3.1 Kinh tế và chính trị. Hoạt động của một Ngân hàng nói chung và hoạt động nguồn vốn nói riêng không thể thoát ly khỏi môi trường kinh doanh, đặc biệt là môi trường kinh tế và chính trị. ổn định kinh tế là một nhân tố ảnh hưởng lớn tới khả năng khai thác các nguồn vốn của NHTM. Nếu nền kinh tế không ổn định, thường xuyên có lạm phát cao, dân chúng sẽ tìm cách đầu tư vào bất động sản, vàng và ngoại tệ mạnh. Trong những trường hợp đó nếu các NHTM muốn huy động được nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư sẽ phải bỏ ra một khoản chi phí lớn. Nếu nền kinh tế thường xuyên ổn định sẽ khuyến khích mọi người dân yên tâm và tạo điều kiện cho mọi nguồn vốn có thể sử dụng vào đầu tư sinh lời. ổn định chính trị trong nước sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, tăng thêm thu nhập cho người lao động và có cơ hội cho mọi khoản vốn nhàn rỗi được
  15. sung dụng vào đầu tư phát triển kinh tế. Đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong từng thời kì là một nhân tố tác động đến khả năng khai thác vốn của các NHTM. Trong điều kiện nước ta hiện nay, mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế là " dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh". Đường lối và chủ trương thực hiện đường lối đúng đắn sẽ tăng thêm khả năng đầu tư cho nền kinh tế. 3.2 Yếu tố niềm tin Trong điều kiện kinh tế thị trường, một điều quan trọng là các tổ chức kinh tế phải tạo lập được uy tín trên thương trường. Uy tín đó phụ thuộc vào nhiều yếu tố song đối với một NHTM, thì tăng trưởng đều trong nhiều năm, phục vụ khách hàng tận tình và đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu của khách hàng sẽ lấy được lòng tin và tạo điều kiện cho khả năng khai thác các nguồn vốn của Ngân hàng. 3.3 Yếu tố tiết kiệm trong nền kinh tế. Như ta đã biết, vốn huy động của một NHTM chủ yếu được hình thành từ nguồn huy động trong dân cư. Đây là lượng tiền tạm thời nhàn rỗi có được chủ yếu là do tiết kiệm. Chính vì lẽ đó, công tác huy động vốn của một Ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn của yếu tố tiết kiệm. Nếu không có tiết kiệm sẽ không có vốn đầu tư sản xuất do không huy động và tập trung được vốn. Ngược lại nếu tỉ lệ tiết kiệm trong nước cao sẽ làm tăng khối lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội qua đó có thể làm tăng quy mô và chất lượng công tác huy động vốn của NHTM. Tuy nhiên, bản thân yếu tố tiết kiệm này lại chịu sự chi phối tác động của rất nhiều yếu tố khác nhau như: + Thu nhập của dân cư: dân cư có thu nhập cao thì khối lượng tiền dành cho tiết kiệm có thể cũng càng nhiều, bởi vì với mức thu nhập lớn thì khả năng thoả mãn các nhu cầu thiết yếu sẽ cao hơn và do đó sẽ có nhiều khoản tiết kiệm hơn. + Tâm lý tiêu dùng của dân cư: tâm lý tiêu dùng của dân cư rất khác nhau giữa các vùng, các địa phương và các quốc gia. Có thể nói cùng một mức thu nhập, cùng một mức giá sinh hoạt nhưng ở nơi này lượng tiền bỏ vào tiết kiệm rất lớn nhưng ở nơi khác lại rất nhỏ do tâm lý thích tiêu dùng của dân cư ở đây. Chính vì vậy thu nhập cao chưa hẳn tiết kiệm đã cao.
  16. 3.4 Tính đa dạng và tiện ích của các hình thức huy động vốn. Hình thức huy động mà Ngân hàng đưa ra càng phong phú đa dạng, linh hoạt và thuận tiện thì khả năng thu hút vốn từ trong nền kinh tế càng lớn. Điều này xuất phát từ sự khác nhau trong nhu cầu cũng như tâm lý của dân cư, chính sự đa dạng hoá các hình thức huy động của Ngân hàng sẽ giúp thoả mãn được hầu hết các nhu cầu mong muốn đa dạng của dân cư vì mỗi người đều tìm được cho họ những hình thức tiết kiệm mà họ ưa thích nhất. Tuy vậy mức độ đa dạng của mỗi hình thức huy động mà Ngân hàng đưa ra còn phụ thuộc rất lớn vào đặc điểm kinh tế của khu vực và khả năng của Ngân hàng. 3.5 Các dịch vụ mà Ngân hàng cung cấp: Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu được phục vụ của người dân càng cao, người ta sẵn sàng bỏ ra một lượng tiền lớn hơn cần thiết để mua một sản phẩm có dịch vụ đi kèm theo vì những dịch vụ kèm theo sản phẩm đó đem lại cho người ta sự thuận lợi và thoải mái. Bản thân các hoạt động của Ngân hàng cũng là dịch vụ, vì thế cho nên Ngân hàng nào tổ chức tốt công tác dịch vụ thì sẽ có khả năng thu hút được nhiều khách hàng hơn và việc tổ chức tốt công tác dịch vụ kèm theo trong công tác huy động vốn nói riêng và trong các hoạt động khác của Ngân hàng nói chung được xem như là một trong những biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động của Ngân hàng. 3.6. Chính sách lãi suất: Đây là một trong những yếu tố qua trọng hàng đầu tác động trực tiếp đến tâm lý của người gửi tiền, tuy nhiên không phải Ngân hàng cứ đưa ra lãi suất cao là có thể thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi trong dân cư mà vấn đề là ở chỗ với mức lãi suất cụ thể mà Ngân hàng đưa ra sẽ đem lại cho người gửi tiêng mức lợi nhuận là bao nhiêu. Điều đó có nghĩa là mức lãi suất mà Ngân hàng đưa ra phải phù hợp với quan hệ cung cầu về vốn và cần lớn hơn tỷ lệ lạm phát. Tuy nhiên, mức lãi suất này cũng không được quá cao, vì nếu quá cao sữ đẩy giá đầu ra lên cao hạn chế việc mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác tín dụng. Chính vì thế, khi đưa ra mức lãi suất huy động cụ thể, Ngân hàng phải căn cứ vào tình hình nền kinh tế, vào quan hệ
  17. cung cầu về vốn, vào chính sách tín dụng và phương hướng phát triển kinh tế của đất nước. 3.7 Một số yếu tố khác: * Quy mô vốn tự có: Vốn tự có là nguồn vốn quan trọng của Ngân hàng, nó đảm bảo lòng tin của khách hàng đối với Ngân hàng cũng như gián tiếp quyết định giới hạn tối đa của quy mô nguồn vốn. * Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác huy động vốn: Đây là một trong các nguồn lực quan trọng để Ngân hàng hoạt động hiệu quả. Đó là mạng lưới các chi nhánh, các quầy giao dịch đặt ở vị trí có thuận lợi cho việc giao dịch không, phương tiện làm việc của Ngân hàng hiện đại hay chậm chạp thô sơ… * Tài sản vô hình của Ngân hàng: Nói đến tài sản vô hình trước hết phải kể đến uy tín, sự nổi tiếng của Ngân hàng, uy tín của các thành viên trong hội đồng quản trị, trong ban giám đốc. Đây là tài sản vô cùng quý giá trong hoạt động huy động vốn. Thuộc loại tài sản vô hình còn có mối quan hệ mà Ngân hàng đã tạo lập được với các khách hàng hiện có và những khách hàng tiềm năng. Ngoài những yếu tố trên, công tác huy động vốn còn chịu ảnh hưởng bởi chính sách của mỗi một Ngân hàng như: Chính sách khách hàng, chính sách sản phẩm mới, chiến lược marketing… 4. Mối quan hệ giữa huy động vốn và sử dụng vốn của NHTM NHTM hoạt động theo nguyên tắc " đi vay để cho vay" do đó giữa hoạt động huy động và hoạt động sử dụng vốn có mối quan hệ biện chứng với nhau. Để có vốn cho vay, Ngân hàng phải thực hiện công tác huy động. Tuy nhiên, số lượng vốn huy động, cơ cấu, loại hình, thời hạn huy động phụ thuộc vào phương hướng kinh doanh tức là vào chiến lược tín dụng của Ngân hàng. Trong trường hợp Ngân hàng không muốn tăng doanh số cho vay mà vẫn muốn thay đổi tốc độ lợi nhuận thì lúc này Ngân hàng phải có sự thay đổi trong cơ cấu huy động vốn, giảm bớt loại vốn huy động có lãi suất cao, tăng cường huy động vốn có lãi suất thấp hơn, còn trong trường hợp Ngân hàng muốn thu hẹp hoạt động tín dụng thì bắt buộc phải có sự thay đổi tương ứng trong hoạt động huy động vốn nhằm giảm bớt một cách tương ứng lượng tiền không cần thiết, nhờ đó tránh được những chi phí mà Ngân hàng có
  18. thể phải gánh chịu nếu không có sự đồng bộ giữa huy động vốn và sử dụng vốn. Ngược lại, hoạt động huy động vốn cũng có ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng trong trường hợp khi mà Ngân hàng áp dụng đầy đủ các biện pháp như thay đổi lãi suất, cải thiện công tác dịch vụ… nhưng cũng thể tăng được khối lượng vốn huy động dẫn đến việc phải thực hiện chính sách tín dụng có lựa chọn, không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của khách hàng. Tóm lại: giữa hoạt động huy động vốn và hoạt động tín dụng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, để thực hiện tốt công tác này phải thực hiện tốt công tác kia, không được xem nhẹ bất kỳ công tác nào, phải luôn hiểu rằng sự hoạt động nhịp nhàng của hai hoạt động này là cở sở để đảm bảo hiệu quả trong hoạt động kinh doanh của NHTM. Kết luận: Trên đây là những vấn đề mang tính lý luận chung về Ngân hàng và hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế. Chương nay nhằm cung cấp các lý luận cơ bản về hoạt động nguồn vốn của Ngân hàng, nó trả lời cho các câu hỏi: Ngân hàng Thương mại là gì? Chức năng vai trò của nó đối với nền kinh tế? Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng là gì?…Từ cơ sở lý luận trên em xin đi sâu vào nghiên cứu cụ thể tình hình huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa trong những năm qua và đặc biệt là trong năm 2000. Trên cơ sở thực tế đó đánh giá kết quả đạt được những mặt tồn tại và nguyên nhân của tồn tại ấy, từ đó sẽ cho em các cơ số để đưa ra các giải pháp chủ quan của mình.
  19. Chương II Thực trạng công tác huy động vốn tại Ngân hàng Công thương Đống Đa. 1. Tình hình phát triển kinh tế trên địa bàn và ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của Ngân hàng Công thương Đống Đa 1.1. Khái quát quá trình phát triển kinh tế quận Đống Đa trong những năm gần đây Quận Đống Đa là một quận nội thành của thành phố Hà Nội, với tổng số 26 phường. Nói đến quận Đống Đa là nghĩ tới một địa bàn tập trung nhiều công ty (bưu điện, điện lực, cung cấp nước...) doanh nghiệp, các công ty tư nhân...các địa điểm trên tạo cho quận Đống Đa các tiềm năng về phát triển kinh tế – xã hội. Với lợi thế đó, trong năm qua, quận Đống Đa đã đạt được sự phát triển đáng kể, các công ty tư nhân ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu thành phần kinh tế tập trung tại các khu Kim Liên, Đường Tây Sơn, Nguyễn Lương Bằng, các họ tư thương này hoạt động khá hiệu quả. Bên cạnh đó quận Đống Đa còn có trung tâm Thương mại Quốc tế là nơi trưng bày, quảng cáo, buôn bán các sản phẩm danh tiếng. Các loại hình dịch vụ của quận càng phát triển các nhà nghỉ khách sạn vẫn thu hút được rất nhiều khách, các trung tam giải trí, thể thao như Starbowl...cũng đóng góp cho ngân sách Nhà nước một phần không nhỏ, mặt khác thu nhập của dân cư trên địa bàn ngày càng tăng, tình trạng thiếu công ăn việc làm tại đây rất ít. Sự phát triển của quận Đống Đa đã tác động trực tiếp lên hoạt động của Ngân hàng Công thương Đống Đa. Sự đa dạng hoá của các thành phần kinh tế, sự phát triển của các thành phần kinh tế trên địa bàn là tiền đề để Ngân hàng Công thương Đống Đa mở rộng phạm vi tín dụng, mở rộng khả năng nâng cao tiền gửi của tổ chức kinh tế. Thu nhập của dân cư nâng lên làm cho lượng tiền dành cho tiết kiệm cũng tăng.
  20. Qua tổng quát tình hình phát triển của quận Đống Đa ta thấy Ngân hàng Công thương Đống Đa đang có nhiều thuận lợi trong hoạt động cũng như công tác tín dụng huy động vốn. 1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Công thương Đống Đa. 1.2.1. Đặc điểm của Ngân hàng Công thương Đống Đa 1.2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa là một chi nhánh cấp II phụ thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam, đặt trụ sở tại 187 Tây Sơn _ Đống Đa – Hà Nội. Trước năm 1998 Ngân hàng Công thương Đống Đa là ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Nhà nước thành phố Hà Nội. Sau khi hệ thống ngân hành nước ta chuyển thành hệ thống ngân hàng cấp một sang hệ thống ngân hàng cấp hai thì Ngân hành Ngân hàng Nhà nước quận Đống Đa chuyển thành Ngân hàng Công thương Đống Đa theo Nghị định 53/HĐBT nay là Chính phủ. Cho đến ngày 1/4/1993 thì Ngân hàng Công thương Đống Đa chuyển thành Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Đống Đa là một quận có địa bàn rộng, với tổng số 26 phường là nơi tập trung nhiều công ty, doanh nghiệp, tổ hợp sản xuất và các hộ tư thương. Do đó Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa có một lượng khách hành lớn, đa dạng, phong phú tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng mở rộng quy mô, khối lượng hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ tín dụng. Trải qua hơn 40 năm hình thành và phát triển Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa đã không ngừng đổi mới các hoạt động kinh doanh, dịch vụ để thích ứng với nền kinh tế tế thị trường. Tuy nhiên có nhiều thuận lợi song Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa cũng gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh của mình, một địa bàn mang tính nội địa dễn đến sự kém phát triển của các nghiệp vụ Ngân hàng Quốc tế. Mặc dù vậy, Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa vẫn phát triển ổn định trong nhiều năm qua. Từ chỗ cơ sở vật chất nghèo nàn, lạc hậu đến nay Ngân
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2