
LUẬN VĂN:
Ngân hàng Thương mại và hoạt
động huy động vốn của Ngân hàng

Chương I
Những vấn đề mang tính lí luận về Ngân hàng Thương mại và hoạt động huy
động vốn của Ngân hàng.
1. Tổng quát về Ngân hàng Thương mại.
1.1 Khái niệm
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn. Doanh
nghiệp Ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc thù. Chất liệu kinh doanh chủ yếu
của loại hình này là " Quyền sử dụng" các khoản kinh tế Ngân hàng vừa là nguồn
"cung cấp" đồng thời cũng là nguồn "tiêu thụ" đồng vốn của khách hàng. Tất cả
những hoạt động mua "bán này" thường thông qua một số công cụ, nghiệp vụ Ngân
hàng. Là một doanh nghiệp kinh doanh đồng vốn Ngân hàng Thương mại luôn tìm
cách tối đa hoá lợi nhuận. Ngân hàng kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay để cho vay.
Để thu hút tiền vào Ngân hàng đưa ra những điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền.
ở Việt Nam, khái niệm về Ngân hàng Thương mại đã được ghi rõ trong
"Pháp lệnh Ngân hàng về NHTM, HTX tín dụng và Công ty tài chính" ban hành
tháng 5 năm 1990 như sau:
"Ngân hàng Thương mại là tổ chức tín dụng kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ
mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm
phương tiện thanh toán".Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại có
vai trò hết sức quan trọng trong lĩnh vực phát triển kinh tế đó là:
- Đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục.
- Là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư.
- Là nơi tích tụ và tập trung vốn.
- NHTM làm kích thích sản xuất và lưu thông hàng hoá.
- NHTM là công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô kinh tế.

- NHTM là tổ chức thực hiện phân bổ vốn giữa các vùng qua đó tạo điều
kiện cho sự phát triển đồng đều giữa các vùng khác nhau trong cùng một quốc gia.
- NHTM là cầu nối nền tài chính quốc gia với nền tài chính quốc tế, tạo điều
kiện cho nền kinh tế trong nước hoà nhập với nền kinh tế trong khu vực và nền kinh
tế trên thế giới.
- Các NHTM còn có vai trò làm tăng khả năng sinh lời của đồng tiền và giảm
chi phí giao dịch, chi phí in ấn, bảo quản, vận chuyển tiền.
Với những vai trò trên Ngân hàng thực sự trở thành bộ phận không thể thiếu
đối với bất kì nền kinh tế của một quốc gia nào.
1.2 Chức năng của Ngân hàng Thương mại
Tầm quan trọng của Ngân hàng được thể hiện thông qua các chức năng của
nó, chức năng của Ngân hàng Thương mại có thể được đưa ra dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, nhưng nhìn chung được nhiều nhà kinh tế chấp nhận ở các chức năng
sau:
1.2.1 Trung gian tài chính:
Đây là chức năng cơ bản nhất, đặc trưng nhất của NHTM. Nó có ý nghĩa
quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế phát triển. Trung gian tài chính là hoạt động
cầu nối giữa cung và cầu vốn trong xã hội, khơi nguồn vốn từ những nơi nhàn rỗi
sang những nơi có thể sinh lợi hay nói cách khác NHTM đã thiết lập
mối quan hệ tín dụng giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng sang chủ thể cần tiêu để
phục vụ kinh doanh.
Thực hiện chức năng này một mặt NHTM đi huy động và tập trung các
nguồn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của các chủ thể trong nền kinh tế hình thành nguồn
vốn cho vay. Mặt khác trên doanh số vốn đã huy động được Ngân hàng cho vay để
đáp ứng các nhu cầu sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng… của các chủ thể kinh tế. Góp
phần đảm bảo cho sự vận động liên tục của bộ máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế. Như vậy NHTM vừa là người đi vay vừa là người cho vay hay nói
cách khác hoạt động tín dụng Ngân hàng là đi vay để cho vay.

Ngày nay quan niệm vai trò trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn, sự phát
triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của chức năng
này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa các Công ty (khi phát hành cổ
phiếu ) với những nhà đầu tư, chuyển giao các mệnh lệnh trên thị trường chứng
khoán, đảm nhận việc mua bán trái phiếu Công ty… theo cách này Ngân hàng làm
trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên thị trường.
Như vậy thông qua chức năng này NHTM đang thực hiện chức năng xã hội
của mình làm cho sản phẩm xã hội được tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng, từ đó
góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế cải thiện đời sống nhân dân.
1.2.2 Trung gian thanh toán.
Ngân hàng là thủ quỹ của các doanh nghiệp, tức là Ngân hàng tiến hành thu
thập tiền vào tài khoản hay chi trả theo lệnh của chủ tài khoản. Một trong những
hoạt động của Ngân hàng có nguồn gốc xa xưa đó là hoạt động thanh toán hộ cho
khách hàng của mình. Hoạt động này làm cơ sở cho hoạt động tín dụng ngày nay.
Khi một khách hàng thiếu tiền để thanh toán Ngân hàng sẽ trả hộ và khoản trả đó sẽ
trở thành khoản vay của khách hàng. Chức năng trung gian thanh toán gắn bó chặt
chẽ và hữu cơ với trung gian tín dụng, Ngân hàng dùng số tiền gửi của người này để
cho người khác vay. Xuất phát từ chức năng là thủ quỹ của nền kinh tế xã hội có
được điều kiện thực hiện các dịch vụ thanh toán theo sự uỷ nhiệm của khách hàng.
Khi các khách hàng gửi tiền vào Ngân hàng họ sẽ được bảo đảm an toàn trong việc
cất giữ, thực hiện thu chi nhanh chóng thuận lợi, nhất là đối với khoản thanh toán có
giá trị lớn ở mọi địa phương mà nếu khách hàng tự làm sẽ rất tốn kém, khó khăn,
không an toàn…
Hiện nay séc và thẻ tín dụng đang dần dần được sử dụng rộng rãi ở nước ta.
Điều này được gọi là thanh toán không dùng tiền mặt được thực hiện bởi các
NHTM. Việc phát hành séc để rút tiền chuyển khoản trong cùng một Ngân hàng chỉ
đơn thuần là sự chuyển vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác. Nếu chỉ hai Ngân
hàng trong cùng một thành phố thì tiến hành trao đổi séc trực tiếp, nhưng nếu nhiều
Ngân hàng trong cùng một thành phố thì sự trao đổi sẽ được tiến hành thông qua
các phiên giao dịch tiến hành thanh toán bù trừ do Ngân hàng Nhà nước chủ trì.

Quá trình trở nên phức tạp mất thời gian và tốn kém khi việc thanh toán bù trừ diễn
ra giữa các Ngân hàng khác nhau của cùng đất nước, công việc thanh toán sẽ được
tiến hành thường xuyên thông qua hệ thống liên Ngân hàng, các Ngân hàng có thể
kết hợp hai hình thức thanh toán: liên hàng trước, bù trừ sau hoặc bù trừ trước, liên
hàng sau, Như vậy các NHTM đã tạo ra sự vận động linh hoạt của đồng vốn, thúc
đẩy quá trình sản xuất xã hội.
1.2.3 Tạo tiền.
Một trong những khả năng chủ yếu của NHTM là khả năng tạo tiền. Chức
năng này được thể hiện thông qua hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM
trong mối quan hệ với tỷ lệ dự trữ bắt buộc của NHNN. Sức mạnh của hệ thống
NHTM nhằm tạo bút tệ mang ý nghĩa kinh tế to lớn. Hệ thống tín dụng năng động
là điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế theo một hệ số tăng trưởng vững
chắc. Nền tín dụng Ngân hàng không tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình
sản xuất và những hoạt động của nó thì trong nhiều trường hợp sản xuất không thực
hiện được và nguồn vốn tích luỹ từ lợi nhuận và từ những nguốn khác sẽ bị hạn chế,
hơn nữa các đơn vị có thể phải gánh chịu tình trạng ứ đọng vốn luân chuyển vốn
không được sử dụng trong quá trình sản xuất nhưng trong các thời kì cao điểm
mang tính thời vụ các hoạt động doanh nghiệp lại không đủ vốn để phục vụ nhu cầu
sản xuất kinh doanh nên thực tế cần một số cung tiền tệ vừa đủ và không được phép
vượt nếu tiền cung ứng tăng quá nhanh, tất yếu lạm phát sẽ xuất hiện kèm theo là
những hậu quả kinh tế, xã hội mà quốc gia đó sẽ phải gánh chịu.
* Hệ số tạo tiền của NHTM:
m= 1/ (tỷ lệ dự trữ bắt buộc + tỷ lệ dự trữ tiền thừa + tỷ lệ thanh toán tiền mặt)
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do NHNN ấn định để phục vụ cho chính sách quản lí vĩ mô
của mình.
- Tỷ lệ tiền thừa = ( tỷ lệ tiền mặt trong két/ huy động vốn) *100%
- Tỷ lệ thanh toán bằng tiền mặt: phản ánh lượng tiền ra khỏi Ngân hàng.
Như vậy với chức năng này NHTM đóng vai trò như một kênh dẫn quan
trọng để chính phủ thực hiện mục tiêu chính sách tài chính và tiền tệ.

