ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA THƠ CA DÂN GIAN TRONG THƠ TỐ HỮU

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Hà Nội-2014

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------------------------------------

NGUYỄN THỊ HẢI YẾN

SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA THƠ CA DÂN GIAN TRONG THƠ TỐ HỮU

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 01 21

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Lƣu Khánh Thơ

Hà Nội-2014

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

XÁC NHẬN SỬA CHỮA LUẬN VĂN THẠC SỸ SAU BẢO VỆ

Tôi là: PGS.TS Lý Hoài Thu, chủ tịch Hội đồng chấm luận văn Thạc

sỹ cho học viên Nguyễn Thị Hải Yến

Đề tài luận văn: Sự ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu

Mã số: 60 22 01 21

Học viên đã sửa chữa luận văn theo đúng quy định của nhà trƣờng và

quyết định của hội đồng ra ngày 08/12/2014.

Hà Nội, ngày 13 tháng 12 năm 2014

CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG

PGS.TS Lý Hoài Thu

LỜI CẢM ƠN!

Luận văn thạc sĩ của em đƣợc hoàn thành, bản thân em đã nhận đƣợc rất

nhiều những sự động viên và giúp đỡ của Thầy Cô và những ngƣời thân!

Trƣớc hết là sự quan tâm, chỉ bảo và giúp đỡ của Cô giáo PGS.TS Lƣu

Khánh Thơ.

Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành sâu sắc tới Cô giáo PGS.TS Lƣu

Khánh Thơ. Ngƣời thầy đã dày công tận tâm giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên

cứu đề tài và hoàn thành luận văn.

Nhân dịp này em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Thầy giáo chủ nhiệm lớp

Đại học Bùi Việt Thắng – giảng viên khoa Văn học Đại học KHXH&NV – ĐHQG

Hà Nội cùng bác Nguyễn Ngọc Thành (PGS.TS) Khoa triết học – Đại học

KHXH&NV – ĐHQG Hà Nội.

Em xin gửi lời cám ơn chân thành tới BGH trƣờng Đại học KHXH&NV,

Thầy Cô phòng Sau đại học, Ban chủ nhiệm khoa Văn học, tập thể Thầy Cô khoa

Văn học (đặc biệt là các Thầy Cô tổ Văn học Việt Nam hiện đại) đã giảng dạy và

giúp đỡ tạo điều kiện cho em trong khóa học và trong thời gian làm luận văn tại

trƣờng.

Cuối cùng, em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và em Bùi Văn

Ngân – ĐHQG Hà Nội thời gian qua đã đồng hành bên em, động viên, khích lệ em

trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.

Hà Nội, năm 2014

Học viên cao học

Nguyễn Thị Hải Yến

MỤC LỤC

Trang

1 MỤC LỤC

3 PHẦN MỞ ĐẦU

14 Chƣơng 1: Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện

đại và con đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu.

14 1.1. Ảnh hưởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại qua các

thời kỳ

1.1.1. Thơ Mới 15

1.1.2. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp 24

1.1.3. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước 29

33 1.2. Con đường sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu

1.2.1. Vài nét về tiểu sử của nhà thơ Tố Hữu 33

1.2.2. Con đường sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu 36

1.2.2.1. Thời kỳ trước cách mạng 1945: Từ ấy 36

1.2.2.2. Thời kỳ 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 – 1975) 37

1.2.2.3. Thời kỳ sau 1975:“Một tiếng đờn” (1979 – 1992) – “Ta với 39

ta” (1993 – 1999)

1.2.3. Quan niệm của Tố Hữu về thơ 39

1.2.3.1. “Thơ là chuyện đồng điệu – Tiếng nói đồng ý, đồng tình 40

đồng chí”

1.2.3.2. Sự thể hiện quan niệm về thơ trong sáng tác của nhà thơ Tố 41

1

Hữu

46 Chƣơng 2: Thơ ca dân gian và những mạch nguồn cảm xúc trong thơ

Tố Hữu.

46 2.1. Cảm xúc thơ bắt nguồn từ tình yêu thiên nhiên đất nước

51 2.2. Cảm xúc thơ bắt nguồn từ vẻ đẹp của nghĩa tình thủy chung

59 2.3. Mạch nguồn cảm xúc thơ về vẻ đẹp của người lao động

66 Chương 3: Sự ảnh hưởng thơ ca dân gian trong nghệ thuật thơ Tố

Hữu

66 3.1. Hình ảnh – biểu tượng thơ

3.1.1. Hình ảnh thơ 66

3.1.2. Biểu tượng thơ 72

87 3.2. Thể thơ

3.2.1. Thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ 88

3.2.2. Thể thơ lục bát 89

3.2.3. Thể thơ thất ngôn 94

3.2.4. Thể thơ song thất lục bát 96

98 3.3. Ngôn ngữ thơ

3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ 98

3.3.2. Ngôn ngữ thơ Tố Hữu 100

112 3.4. Giọng điệu

124 PHẦN KẾT LUẬN

126 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

2

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

1.1. Tố Hữu là một trong những ngọn cờ đầu của nền thơ ca cách mạng

Việt Nam. Ông xuất thân từ một thanh niên trí thức tiểu tƣ sản, và đƣợc giác ngộ lý

tƣởng cộng sản từ sớm.

Thơ Tố Hữu chan chứa chất trữ tình, đƣờng cách mạng đƣờng thơ gắn bó

chặt chẽ và xuyên suốt trong sự nghiệp của ông. Trọn cuộc đời với lý tƣởng cách

mạng, thi sĩ Tố Hữu chƣa bao giờ tách biệt khỏi nhà chính trị Tố Hữu. Bởi, con

đƣờng sáng tác thơ ca của Tố Hữu luôn luôn song hành với con đƣờng cách mạng

mà ông đã lựa chọn.

1.2. Sự trƣởng thành của tài năng thơ Tố Hữu luôn gắn liền với sự nghiệp

cách mạng của dân tộc. Tập thơ đầu tay Từ ấy ra đời năm 1937, đã khẳng định vị trí

quan trọng của ông trên văn đàn. Kể từ đó, con đƣờng sáng tạo của Tố Hữu là một

quá trình phát triển phong phú, đa dạng, với các tập thơ: Việt Bắc, Gió lộng, Ra

trận, Máu và hoa. Tiếp sau đó, từ sau năm 1978 – nhà thơ vẫn tiếp tục sự nghiệp

sáng tác của mình. Với các bài thơ ở thời kỳ này đã đƣợc tập hợp trong Một tiếng

đờn – (1992, Giải thƣởng Asean) và Ta với ta (1999). Hòa lẫn cùng hào khí thiêng

liêng của đất nƣớc, những vần thơ Tố Hữu chất chứa sự trầm lắng và suy tƣ, nhƣng

vẫn toát lên yếu tố kiên định lập trƣờng với những niềm tin sắt son trong công cuộc

đổi mới của Đảng, của đất nƣớc và dân tộc. Tố Hữu đƣợc tặng giải thƣởng Hồ Chí

Minh về Văn học nghệ thuật (1996).

1.3. Nói đến thơ Tố Hữu, bạn đọc đƣơng thời của chúng ta đều có chung

sự cảm nhận: “Thơ là tấm gƣơng của tâm hồn” – Đó là những trải nghiệm của tâm

hồn ngƣời chiến sĩ cộng sản, suốt một đời hy sinh và đấu tranh cho lẽ sống, tình đời

– tình ngƣời, nhƣng mang tính thời sự và đậm chất hiện đại.

Tố Hữu là một trong số những nhà thơ Việt Nam hiện đại thành công nhất

với việc vận dụng hình thức nghệ thuật dân tộc vào sáng tác của mình. Thơ Tố Hữu

đã tiếp thu ảnh hƣởng của yếu tố thơ ca dân gian – âm hƣởng cũng nhƣ nhịp điệu

3

của thể thơ dân gian luôn nhẹ nhàng, êm ái, phù hợp với tâm hồn con ngƣời Việt

Nam.

1.4. Đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đề cập tới Tố Hữu. Song

còn thiếu những đề tài nghiên cứu thơ Tố Hữu một cách hệ thống và chuyên sâu về

ảnh hƣởng của yếu tố thơ ca dân gian. Ta có thể thấy đƣợc sự ảnh hƣởng yếu tố thơ

ca dân gian, đã chiếm một vị trí quan trọng trong sự nghiệp sáng tác thơ ca của Tố

Hữu. Điều đó, đã trở thành một phần của đời sống tinh thần trong nhiều thế hệ bạn

đọc và cũng có ảnh hƣởng đối với nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Thơ Tố Hữu đã đƣợc chọn giảng ở cấp bậc Đại học và bậc THPT. Là một

giáo viên dạy văn ở bậc THPT – tôi rất yêu thích, tìm hiểu và nghiên cứu về thơ Tố

Hữu.

Tất cả những lý do trên đây, đã khiến cho bản thân tôi quyết định chọn đề

tài: Sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu.

2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:

Với việc nghiên cứu đề tài luận văn này, chúng tôi sẽ tìm hiểu và nghiên cứu

một cách hệ thống, toàn diện, khái quát về sự ảnh hƣởng của yếu tố dân gian trong

thơ Tố Hữu – từ nội dung lẫn hình thức thể hiện và đi đến sự đánh giá tài năng nghệ

thuật của Tố Hữu qua các sáng tác trong từng giai đoạn.

Qua đó, luận văn của chúng tôi sẽ góp phần khẳng định sự đóng góp của thơ

Tố Hữu đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

Bản thân tôi cũng hy vọng qua luận văn này, sẽ giúp cho chính mình trong

việc dạy và học về Tố Hữu ở bậc THPT.

3. Nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu:

Luận văn khảo sát yếu tố thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu.

Đối tƣợng chính là nghiên cứu toàn bộ thơ Tố Hữu trong các chặng đƣờng

sáng tác. Bên cạnh đó, luận văn cũng sẽ khảo sát và tìm hiểu một số tập thơ của các

tác giả khác, để từ đó có sự so sánh, đối chiếu, nhằm làm nổi bật vấn đề trong từng

khía cạnh của đề tài luận văn.

4. Phương pháp nghiên cứu:

4

Trong luận văn, chúng tôi sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:

Phương pháp phân tích – tổng hợp:

Giúp cho chúng tôi tiến hành việc phân tích các tác phẩm tiêu biểu của Tố

Hữu – và chỉ ra đƣợc sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian qua các sáng tác – từ đó chúng

tôi sẽ tổng hợp một cách khái quát với từng khía cạnh biểu hiện, sắp xếp theo luận

điểm của từng chƣơng trong luận văn.

Phương pháp so sánh:

Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp này để nêu bật đƣợc những khía cạnh đặc

trƣng riêng trong phong cách thể hiện về “sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian” của Tố

Hữu với một số nhà thơ khác.

Phương pháp thi pháp học:

Nghiên cứu hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học – đặt nó trong các

mối quan hệ với nội dung; chỉ ra các đặc trƣng của nhà thơ Tố Hữu.

5. Lịch sử vấn đề:

Trên thi đàn văn học Việt Nam hiện đại, Tố Hữu luôn đƣợc coi là một trong

số tác gia lớn tiêu biểu. Số lƣợng các công trình khoa học, cũng nhƣ các bài viết về

tác giả, sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu rất lớn. Cùng với sự sƣu tầm và lĩnh hội về

các tƣ liệu trong các bài nghiên cứu, chuyên luận của các nhà nghiên cứu văn học

về Tố Hữu, chúng tôi tổng hợp lại thành những mục sau đây:

5.1. Các công trình nghiên cứu khái quát về Thơ Tố Hữu:

Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã đƣa ra những nhận xét và đánh giá về

nhà thơ Tố Hữu một cách sâu sắc, rõ nét. Qua đó, khẳng định Tố Hữu luôn đƣợc

độc giả quan tâm và đề cập tới nhiều.

Chế Lan Viên trong Suy nghĩ và bình luận (NXB Văn học – Hà Nội 1971) đã

khẳng định: “Nói đến Tố Hữu – về thơ, phải nói vai trò mở đầu và hiện vẫn là dẫn

đầu của anh trong nền thơ ca hiện thực xã hội chủ nghĩa của chúng ta. Sự thành

công của anh trƣớc cách mạng đã xúc tiến sự hình thành của thơ hiện thực xã hội

chủ nghĩa sau cách mạng. Khi chúng ta đang tìm đƣờng, nhận đƣờng thì đã thấy

một ví dụ sống trên đƣờng là tác phẩm của Tố Hữu đây rồi”. Trong cuộc đời sáng

5

tác Tố Hữu luôn đƣợc đề cao là một tác gia hàng đầu của nền thơ Việt Nam hiện

đại.

Thành tựu của thơ ông luôn là một tấm gƣơng sáng ngời, luôn tỏa sáng trong

lòng độc giả - đặc biệt là thế hệ trẻ hôm nay. Thơ ông nhƣ một trang đời, trƣờng tồn

với thời gian lịch sử.

Chính trang thơ của Tố Hữu, phần nào đã để lại niềm tôn kính, cảm phục với

thi sĩ Bla-ga Đi mi trô va trong Ngày phán xử cuối cùng (NXB Thanh niên – Hà Nội

1973). Bà đã đƣa ra những lời nhận xét xác thực để khẳng định giá trị trƣờng tồn,

bất hủ về thơ của Tố Hữu: “Giống nhƣ căng đƣợc một sợi dây đàn từ mặt đất lên

bầu trời và gẩy lên bài ca mà cả mặt đất lẫn bầu trời đều hiểu đƣợc, vì nhà thơ ấy

muốn là tiếng nói của dân tộc mình”.

Nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan trong Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam

(NXB KHXH Hà Nội) cũng đã tổng kết lại một cách cô đọng và súc tích khi nói về

Tố Hữu: “Tố Hữu, nhà thơ lớn của ta, đã vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và

nghệ thuật ƣu tú của văn học dân gian vào sáng tác của mình”.

GS Hà Minh Đức với công trình nghiên cứu của mình trong Tố Hữu – Cách

mạng và thơ (NXB ĐHQG Hà Nội, 2004) đã có những lời đánh giá một cách triệt

để, sâu sắc về Tố Hữu “một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc” [10, 173].

Công trình nghiên cứu Tố Hữu – thơ và cách mạng (NXB Hội nhà văn 1996) đã tập

trung rất nhiều các bài viết về Tố Hữu trong các khía cạnh biểu hiện cụ thể.

Với rất nhiều công trình nghiên cứu về Thơ Tố Hữu, GS Hà Minh Đức ở bài

viết Từ ấy đến Một tiếng đờn (Nhà văn nói về tác phẩm – NXB Văn học, Hà Nội

1994) cũng đã khái lƣợc một cách tổng quan về sự trƣờng tồn của các tập thơ trong

hình thức và phƣơng diện biểu hiện cụ thể: “Từ ấy là một tập thơ mang rõ nét tình

cảm ban đầu chân thực, trong sáng của tuổi trẻ đến với cách mạng, cái tôi tìm đến

cuộc đời chung, đến lẽ sống đẹp để hòa nhập. Một tiếng đờn cũng là một khúc riêng

chung, là những chiêm nghiệm nghĩ suy của một đời trên nửa thế kỷ đấu tranh, qua

bao buồn, vui, đƣợc mất hồn thơ đang lắng lại với thời gian và tuổi tác và gợi mở

nhiều tâm sự của tác giả”.

6

Chuyên luận Thơ Tố Hữu (NXB ĐH và THCN, 1979) – Lê Đình Kỵ cũng

khái quát một cách trọn vẹn về hình thức và nội dung thể hiện; qua các tập thơ trong

từng thời kỳ lịch sử. Đó là một sự nhìn nhận, đánh giá – khẳng định giá trị trƣờng

tồn tập thơ Tố Hữu.

Đặc biệt trong chuyên luận “Thi pháp Thơ Tố Hữu” – Trần Đình Sử cũng đã

chỉ ra đƣợc những đặc sắc trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về thơ của Tố Hữu. Trần

Đình Sử cũng khẳng định trong công trình nghiên cứu của mình về thơ Tố Hữu đề

cập tới khía cạnh biểu tƣợng; hình ảnh qua tác phẩm.

Biểu tƣợng mà Trần Đình Sử đề cập trong thi pháp thơ Tố Hữu là “con

đƣờng”, đó là: con đƣờng là biểu tƣợng của sự thống nhất của không gian và thời

gian, là không gian vận động, không gian của con ngƣời đi tới”. [41, 171]

Tác giả Trần Đình Sử đã chỉ rõ những biểu tƣợng con đƣờng trong các tập

thơ của Tố Hữu qua các thời kì sáng tác. Trần Đình Sử đã viết: “Sự tổng hợp thơ Tố

Hữu nằm trong loại thơ trữ tình chính trị cũng là một điều hợp quy luật của sự phát

triển của thơ ca cách mạng Việt Nam và của thơ nói chung”. [41, 29]

Đỗ Quang Lƣu (tuyển chọn), nghiên cứu – bình luận thơ Tố Hữu: Đến với

thơ Tố Hữu: Đó là những sự suy nghĩ, những cảm xúc – hồi tƣởng khi đọc thơ Tố

Hữu: “Thơ Tố Hữu giữa những ngày tháng đầy sôi động của cách mạng tháng Tám,

lớp trẻ chúng tôi chợt thấy nhƣ lóe sáng lên trong tâm tƣ mình một điều gì đó bấy

lâu mình cũng hằng ấp ủ trong tiềm thức mà chƣa kịp nhận thức, chƣa hình dung ra

đƣợc thật cụ thể. Đến lúc này chợt thấy nó nhƣ rất gần gũi, rất hiển nhiên và dĩ

nhiên cũng giàu sức lôi cuốn biết mấy đối với chúng tôi - lớp đầu xanh tuổi trẻ vốn

luôn luôn khao khát cái mới, nay bỗng cảm thấy tràn đầy ƣớc vọng về cuộc sống; về

tự do; nhƣng không chỉ là cuộc sống và tự do của cá nhân mình, mà còn là của cả

một cộng đồng, một xã hội ngột ngạt quanh mình đang kết thành một khối nhất tề

đứng lên trong ánh sáng chói chang của cách mạng!...” [28, 243]

Lƣu Khánh Thơ trong Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại – đã

khái quát về sự ảnh hƣởng của tập thơ Từ ấy với phong trào Thơ mới: “Tƣ tƣởng,

tình cảm cách mạng ở một tâm hồn thi sĩ, đòi hỏi phải đƣợc thể hiện bằng một hình

7

thức nghệ thuật mới. Trong thời điểm đó thì “Thơ mới là hình thức thích hợp và có

hiệu quả nhất”. Nhà thơ Xuân Diệu đã nhận xét rất chính xác rằng: “Tố Hữu đã

dùng những yếu tố của phong trào Thơ mới lãng mạn đang thịnh hành đƣơng thời,

đem vào thơ của mình và diễn đạt cái tinh thần cách mạng lối mới, cách mạng vô

sản… cái phong cách lãng mạn kia, tức là cảm xúc đầy rẫy, đồng thời với việc cá

thể hóa”. Cảm xúc đầy rẫy và cá thể hóa, có lẽ đó là những đặc điểm lớn nhất tạo

nên sức hấp dẫn đặc biệt của Từ ấy. Điểm khác biệt lớn nhất của Thơ mới và Từ ấy

là thế giới quan và nhân sinh quan của chủ thể sáng tạo”. [54, 18-19]

Về sự vận động từ cái tôi đến cái ta trong thơ Tố Hữu, Nguyễn Bá Thành đã

nhận xét: “Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu vẫn giữ vị trí “tiền đạo” trong những

bài thơ viết trực tiếp về kỷ niệm quê hƣơng hay những vùng gắn bó. Nhƣng ngay ở

vị trí quan trọng đó thì cái tôi cũng đã bắt đầu hòa lẫn vào trong các nhân vật trữ

tình khác”. [50, 250]

“Ta có thể nói rằng trong thơ Tố Hữu, đã có một tiến trình vận động của cái

tôi, từ cái tôi trực tiếp đến cái tôi gián tiếp, đến cái tôi phƣơng tiện. Đó là quá trình

thơ từ bộc lộ cái tôi, đến phản ánh cái ta hay là từ cái tôi tự biểu hiện đến cái tôi

nhân danh, cái tôi thành viên. Sau này lại có thời gian trở về với cái tôi tự biểu

hiện”. [50, 251]

Có rất nhiều các ý kiến bàn luận đề cập đến các vấn đề cơ bản: Con đường

thơ, phong cách thơ và quan niệm về thơ của Tố Hữu. Điểm then chốt của các ý

kiến bàn luận này chủ yếu là những bài viết:

Bài viết của PIÈRREEMMANUEL Máu và hoa – Con đƣờng của nhà thơ Tố

Hữu trong lời tựa tập thơ Máu và hoa – Con đƣờng của nhà thơ Tố Hữu, bản tiếng

Pháp, Xuân Diệu dịch 8/7/1975, cũng có những lời nhận xét: “Một nhà thơ hiện đại

Việt Nam kể lại đời mình vừa đọc lên và bình luận những bài thơ của mình. Cuộc

đời ấy là một cuộc chiến đấu, nhƣng những bài thơ của anh là bấy nhiêu khúc hát ân

tình”. [15, 355]

Trong định hƣớng tƣ duy và quan hệ chủ thể trong thơ cách mạng 1945 –

1985. Ở vấn đề tƣ duy thơ hƣớng ngoại, Nguyễn Bá Thành đã đƣa ra sự tổng kết về

8

con đƣờng thơ Tố Hữu qua các sáng tác: “Từ tập Việt Bắc trở đi, thơ Tố Hữu chủ

yếu là hƣớng ngoại”. [50, 217]

Sự khẳng định rõ nét của Nguyễn Đăng Mạnh trong bài viết Con đường thơ

của Tố Hữu (in trong Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo

dục, tháng 4/1994) đã chỉ ra đƣợc những mặt mạnh cũng nhƣ mặt hạn chế của thơ

Tố Hữu với những nhận xét khái quát về các tập thơ trong sáng tác:

“Thành công của thơ Tố Hữu, xét đến cùng là do sự gặp gỡ may mắn giữa

dòng thơ tuyên truyền chính trị của những ngƣời cộng sản với một tài năng thực sự,

một thi sĩ thực sự, khiến cho, nói nhƣ Sóng Hồng, “Thơ chính trị” cũng có thể là

“Thơ trăm phần trăm, như các thơ khác”. Thơ Tố Hữu nhiều khi không tránh khỏi

phải trả giá cho những sự thiếu thống nhất nào đó giữa chính trị và chân lý đời sống,

giữa ý chí, ƣớc mơ và hiện thực.

Nhƣợc điểm này thực ra chẳng phải là riêng của Tố Hữu. Chẳng qua là vì Tố

Hữu chủ yếu chỉ làm thơ chính trị nên nhƣợc điểm ấy đã lộ ra rõ hơn mà thôi. Nhìn

chung, thơ Tố Hữu, từ bài đầu tiên đến tập thơ cuối cùng (Máu và hoa) đều đƣợc

sáng tác trong cảm hứng lãng mạn chủ nghĩa. Có thể nói Tố Hữu là nhà thơ tiêu

biểu nhất của “Cái thời lãng mạn” (Nguyễn Khải) trên đất nƣớc ta”. [23, 268]

Về Phong cách thơ Tố Hữu, cũng có khá nhiều bài viết đề cập tới. Song có

thể thấy bài viết của tác giả Nguyễn Văn Hạnh Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu

– một bài viết thể hiện khá đầy đủ, trình bày rõ nét về hình thức nghệ thuật của các

tập thơ trên nhiều phƣơng diện và chỉ ra đƣợc những đặc điểm lớn trong phong cách

nghệ thuật của Tố Hữu. “Phong cách của Tố Hữu rất đa dạng, bút pháp của anh linh

hoạt và luôn luôn phát triển. Tố Hữu vừa hùng tráng vừa tha thiết, vừa sảng khoái

vừa xót xa, vừa yêu thƣơng vừa căm giận. Hiện tƣợng bao giờ cũng phong phú hơn

quy luật. Đây chỉ mới là những nét tƣơng đối ổn định và dễ nhận thấy trong phong

cách nghệ thuật của anh.” (1967 – 1969, Nội san nghiên cứu văn học, Trƣờng

ĐHSP I, Hà Nội, số 3/1970) [32, 57]

Bài viết Quan niệm của Tố Hữu về thơ của Mai Hƣơng; đƣợc trích lọc qua

một số bài viết, bài nói, và sáng tác thơ, in trong Tạp chí Văn học, số 4/1975. Bài

9

viết này là một sự tổng kết những ý kiến trong quan niệm của Tố Hữu về thơ với

những nội dung và hình thức nghệ thuật. Từ đó tác giả Mai Hƣơng khẳng định “trên

những chặng đƣờng thơ, những chặng đƣờng hoạt động của anh, về thơ ngày càng

sáng rõ, sâu sắc và phát triển lên. Nói chung, những ý kiến của anh về đƣờng hƣớng

và nhiệm vụ của thơ ca nhƣ quan hệ giữa chính trị và thơ, quan hệ giữa đời sống và

thơ, vấn đề kế thừa và tiếp thu, về phong cách, đặc trƣng của thơ… Có thể coi là

những ý kiến cơ bản, có ý nghĩa quan trọng”… [33, 457]

5.2. Các công trình nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu:

Đặng Thai Mai (Mấy ý nghĩ) in trong sách Từ ấy, NXB Văn học, H_1959

(trang 9) – có nhận xét: “Tố Hữu là nhà thơ chỉ viết để phục cách mạng từ trƣớc đến

sau”.

Khi giới thiệu về tập thơ của Tố Hữu, tác giả Trần Huy Liệu trong bài viết tại

thành Hoàng Diệu 23/06/1946 – sau 9 tháng kháng chiến ở Nam Bộ cũng đã chỉ rõ

trong việc nhìn nhận về đời và thơ của Tố Hữu:

“Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển

về tƣ tƣởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động cách mạng của Tố Hữu.

Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh,

một công tác vận động của ngƣời cách mạng. Ngƣời Tố Hữu là một thi sĩ, một

chiến sĩ, nhƣng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là một thi sĩ”.

K và T trong Tố Hữu – nhà thơ của tương lai [70] - tại Báo Mới số 1, tháng

5/1939. Đó là những điều khẳng định những đóng góp về giá trị của thơ Tố Hữu ở

phƣơng diện nội dung và hình thức biểu hiện.

Bài nhận xét về tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu – Hà Xuân Trƣờng in trong

Báo Nhân Dân, số 329 – 24/01/1955: “Đây chính là phần mà nhà thơ Tố Hữu hấp

dẫn bạn đọc nhiều nhất, nâng cao tình cảm của chúng ta nhiều nhất. Và đây cũng

chính là phần sáng tƣơi nhất trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”.

Tác giả Lê Đình Kỵ, Từ ấy với phong trào Thơ mới (in trong Tạp chí Văn

nghệ, số 32 tháng 1/1960). Lê Đình Kỵ đã đánh giá cao về giá trị của tập thơ Từ ấy

trong nền cách mạng Việt Nam và qua đó tác giả cũng đi đến khẳng định “sự ảnh

10

hƣởng” của nền thơ Tố Hữu đối với phong trào Thơ mới – chỉ ra đƣợc mối tƣơng

quan của tập thơ với Thơ mới không chỉ hàm chứa ở hình thức mà còn biểu đạt ở

mặt phong cách sáng tác thơ Từ ấy. Vấn đề này Xuân Diệu cũng nhận định: “Tố

Hữu đã dùng những yếu tố của phong trào thơ lãng mạn đang thịnh hành đƣơng

thời, đem vào thơ của mình và diễn đạt cái tinh thần cách mạng lối mới, cách mạng

vô sản… Cái phong cách lãng mạn kia, tức là cảm xúc đầy rẫy, đồng thời với việc

cá thể hóa” (Bài của Xuân Diệu, trang 28 đến 30 – Tạp chí Văn học – số 28).

Hoài Thanh trong Tạp chí Nghiên cứu Văn học tháng 05/1960 cũng có bài

nghiên cứu đề cập tới tập thơ Từ ấy, thể hiện tiếng hát của một ngƣời thanh niên,

một ngƣời cộng sản. Hoài Thanh đã khái quát đầy đủ giá trị nội dung của tập Từ ấy

và khẳng định Từ ấy là một tập thơ đầu tay của Tố Hữu khi đón nhận lý tƣởng của

Đảng.

Trong một bài viết về Gió lộng – Hoài Thanh có nhận xét: “Gió lộng, một

bƣớc tiến mới của Thơ Tố Hữu, một tập thơ mang khí thế mới của cách mạng Việt

Nam (Tạp chí nghiên cứu Văn học, số 8/1962) “Gió lộng trƣớc hết là một tiếng ca

vui của nhân dân ta trên miền Bắc sau khi hòa bình lập lại”.

“Có thể nói Gió lộng vẫn tiếp tục cái gan dạ của Từ ấy trong một hoàn cảnh

mới”.

Rất Tố Hữu mà không đơn điệu. Từ bài này sang bài khác, phong cách

thƣờng vẫn khác nhau. Có thể nói riêng một tập Gió lộng có khá nhiều loại thơ. Đặc

biệt có hai loại rất khác nhau: loại Bài ca mùa xuân 1961 và loại Ba mươi năm đời

ta có Đảng… Những lời nhận xét tƣởng chừng đơn giản, song nó hàm chứa đƣợc

những vấn đề trọng tâm của Hoài Thanh khi nhắc tới tập Gió lộng trong thời điểm

trƣớc bối cảnh đổi thay của đời sống đất nƣớc sau chiến tranh.

Bảo Định Giang trong Mấy ý nghĩ về tập thơ Gió lộng in trong Tạp chí Văn

nghệ số 66, tháng 11/1962, đã khái quát một cách sắc nét: “Gió lộng là một tập thơ

trữ tình mang tính chất hiện thực và tính chất thời đại rất lớn. Đó là một thành công

mới của Tố Hữu. Gió lộng có những đặc biệt riêng chỉ có trong thời kỳ xây dựng

11

chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu trang thống nhất nƣớc nhà, trong khung cảnh

chung của cách mạng thế giới ngày càng thắng lợi”.

Tác giả Nguyễn Phú Trọng trong Tạp chí Văn học số 11 – 1968 cũng đã tổng

kết sâu sắc một cách cô đọng về sự ảnh hƣởng của ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu.

Bài viết với nội dung sâu sắc, dẫn dắt ngƣời đọc hiểu đƣợc sự ảnh hƣởng của thơ Tố

Hữu với cội nguồn văn hóa dân gian, đậm chất dân tộc.

Sự gặp gỡ của tác giả Hoàng Xuân Nhị trong bài viết Mấy suy nghĩ về thơ

sau cuộc gặp mặt đầu xuân với nhà thơ Tố Hữu (Tạp chí Văn học số 6, 1977).

Tác giả Hoàng Xuân Nhị đã đúc kết lại những nhận thức, ý tƣởng và nhận

xét khái quát về thơ Tố Hữu một cách khách quan:

“Bƣớc vào thế giới thơ Tố Hữu không dễ! Tâm trạng tôi lúc này, đầu xuân

Đinh Tỵ, nghiền ngẫm về thơ của đồng chí, là vừa hăm hở vừa băn khoăn…”

Hoàng Xuân Nhị cũng đã đề cập tới chủ đề bao trùm thơ Tố Hữu là cách

mạng Việt Nam. Ông đã định nghĩa về cách mạng và chỉ ra đặc điểm ở Tố Hữu qua

sáng tác.

Trịnh Bá Đĩnh (Tạp chí Văn học, số 10/1997), ghi lại một cách cụ thể và sắc

nét về sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong tâm hồn nhà thơ Tố Hữu với sự chắt lọc

của nhiều phƣơng diện nghệ thuật và nội dung các tập thơ một cách khác nhau.

Những ý kiến của các nhà nghiên cứu đi trƣớc là những gợi ý hết sức quý

báu trong việc nhìn nhận, đánh giá về sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian trong Tố

Hữu. Mặt khác cũng đã xác định cho chúng tôi có một hƣớng nghiên cứu khi xử lý

đề tài luận văn của mình.

6. Cấu trúc của luận văn:

Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn

đƣợc cấu tạo thành 3 chƣơng:

Chƣơng 1: Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại và con

đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu.

Chƣơng 2: Thơ ca dân gian và những mạch nguồn cảm xúc trong thơ Tố

Hữu.

12

Chƣơng 3: Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong nghệ thuật thơ Tố Hữu.

13

CHƢƠNG 1

Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại và con

đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu.

1.1. Ảnh hưởng thơ ca dân gian trong thơ Việt Nam hiện đại qua các

thời kỳ:

Từ thuở xa xƣa, thơ ca dân gian luôn là một nguồn cội tinh thần trong đời

sống mỗi con ngƣời Việt Nam. Chính điều đó, đã hình thành nên những nhà thơ có

những tiếng nói riêng trong nền văn học dân tộc, đƣợc rèn giũa và tôi luyện trong

nhiều giai đoạn văn học. Có thể thấy đƣợc mối quan hệ của sự ảnh hƣởng thơ ca

dân gian đối với thơ ca hiện đại. Đây là mối quan hệ tƣơng tác hai chiều, nó phát

triển song song tồn tại, gắn bó mật thiết với nhau. Đặc biệt ở mối quan hệ này nó

vừa mang tính quy luật cũng vừa mang tính phổ quát của thơ ca dân gian đối với

thơ ca Việt Nam hiện đại. Một trong những nét tinh túy nhất ở từng giai đoạn lịch

sử nhất định, cũng là bƣớc mở đƣờng tinh anh cho lịch sử văn học phát triển và đạt

đƣợc nhiều thành tựu đáng kể của nền thơ hiện đại Việt Nam qua các thời kỳ.

Điều đó, đã dần dần khẳng định vị trí của nền văn học Việt Nam mang đậm

đà bản sắc dân tộc, luôn là điểm tựa cho sự kế thừa và phát huy “bầu sữa mẹ nuôi

dƣỡng” từ xƣa và nay.

Chúng ta có thể nói đến những nét kế thừa và phát huy đó đƣợc tiếp tục phát

triển trong dòng thơ hiện đại Việt Nam, ở phƣơng diện sự ảnh hƣởng thơ ca dân

gian với thơ hiện đại Việt Nam.

Theo Hegel: “Thơ dân gian xem nhƣ một trong những dạng thức chính của

thơ ca trữ tình” [17, 1002]. Đó là vấn đề cơ bản phong phú, đa dạng, nhiều chiều

trên nhiều phƣơng thức thể hiện. Suy rộng ra thì thơ ca dân gian chính là nghệ thuật

ngôn từ dân gian Việt Nam và cũng là nơi lƣu giữ những giá trị truyền thống của

văn học dân tộc.

Tuy nhiên cũng có thể khẳng định lịch sử văn học là lịch sử tâm hồn dân tộc.

Nghiên cứu và tìm hiểu thơ ca dân gian cũng là tiếp nhận “những tinh hoa quá trình

sáng tạo nghệ thuật đầy cam go của mình” [5, 107]. Bởi vậy, cho nên việc tìm hiểu

14

nghiên cứu về lĩnh vực thơ ca dân gian có ảnh hƣởng nhƣ thế nào đối với dòng thơ

hiện đại Việt Nam, là một việc cần thiết.

1.1.1. Thơ mới:

Điểm khởi sắc của phong trào Thơ mới là đã nói lên đƣợc “Một nhu cầu lớn

về tự do và về phát huy bản ngã” (Tố Hữu). Phong trào Thơ mới đã thực sự góp

phần rất quan trọng trong việc đƣa văn học Việt Nam tiến thẳng vào thời kỳ hiện

đại. Và đó cũng là một cuộc đánh giá lại về các thể thơ cũ, tiếp thu những tinh hoa

của truyền thống, đồng thời học tập một cách sáng tạo thơ ca nƣớc ngoài, nhất là

thơ Pháp. Thơ mới có nhiều khả năng diễn đạt hơn hẳn lối “thơ cũ”, là nhờ ở thể

cách linh hoạt của Thơ mới trong cách hiệp vần phong phú, nhạc điệu dồi dào, lối

ngắt nhịp sinh động, ngôn ngữ gợi cảm, đầy hình tƣợng…

Đúng nhƣ nhận xét của Hoài Thanh trong thi nhân Việt Nam: “Ngày ngƣời

lái buôn phƣơng Tây thứ nhất đặt chân lên xứ ta, ngƣời ấy đã mang theo cùng với

hàng hóa phƣơng Tây, cái mầm để sau này nảy nở thành Thơ mới”. Ý tƣởng chủ

đạo của Hoài Thanh đó là sự thể hiện một cách biện chứng trong cách nhìn nhận về

phong trào Thơ mới khi nó xuất hiện và ra đời.

Chính sự đổi mới của phong trào Thơ mới (1932 – 1945), thực sự đem lại

“một cuộc cách mạng” trong lĩnh vực thơ ca – nhiều tên tuổi rạng ngời, mang phong

cách dấu ấn riêng của nền thơ ca hiện đại Việt Nam thế kỷ XX: Thế Lữ, Lƣu Trọng

Lƣ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính… Đó là sự

khởi nguồn chất dân gian ở lĩnh vực thơ ca của mình trong sáng tác. Bằng tài năng

và sự sáng tạo nghệ thuật của mình, các nhà Thơ mới đã tạo nên sự tiếp nối giữa thơ

ca dân gian với thơ ca hiện đại trong nền văn học dân tộc.

Theo thời gian của sự trƣờng tồn và sự xuất hiện trên thi đàn văn học, phong

trào Thơ mới đã thực sự gắn liền hƣơng vị dân gian trong sáng tác của các nhà thơ.

Phần lớn các nhà thơ vẫn tiếp tục sáng tác với số lƣợng khá dồi dào và có những

thành tựu đạt tới đỉnh cao trên những chặng đƣờng mới – con đƣờng thơ ca của

riêng mình. Trƣớc hết có thể thấy: Thế Lữ - ngƣời “khởi điểm của những khởi

điểm”. Tên tuổi của Thế Lữ luôn gắn kết với tiến trình hiện đại nền văn học Việt

15

Nam ở nửa đầu thế kỷ XX. Là một trong những tác giả tiêu biểu của phong trào Thơ

mới (1932 – 1945). Bản thân Thế Lữ có ít nhiều chịu ảnh hƣởng của thơ ca dân

gian, tuy không đậm đặc nhƣ Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… nhƣng trong

thể tài sáng tác, đặc biệt thể thơ truyền thống dân tộc cũng ít nhiều mang dƣ vị dân

gian.

Thế Lữ với Mấy vần thơ – 1935, trong đó có những bài thơ nổi tiếng: Nhớ

rừng – Tiếng sáo Thiên Thai – Cây đàn muôn điệu. Trong khí thế của phong trào

Thơ mới, các thi nhân đã sáng tạo ra một nhịp điệu mới trên sự kế thừa và phát huy;

thi điệu dân gian. Thi điệu dân gian luôn lấy lục bát làm thƣớc đo trong dung lƣợng

câu chữ. Thế Lữ đã vận dụng thơ lục bát để tạo ra những trang Thơ mới của thời đại

một cách tinh tế và sống động.

Thơ lục bát vốn là thể thơ đƣợc hình thành và tồn tại từ xa xƣa và khi đến

Thế Lữ, nhƣ một phép màu nhiệm đƣợc khắc, tạc theo một phong cách riêng đầy

mới lạ:

Trời cao xanh ngắt – ô kìa!

Hai con hạc trắng bay về bồng lai.

Thế Lữ là ngƣời đầu tiên trong phong trào Thơ mới đã đem đến cho thể thơ

lục bát – một lối thơ vắt dòng theo kiểu phƣơng Tây. Số tiếng trong dòng thơ lục

bát, gần nhƣ không có thay đổi, nhƣng mối quan hệ dòng thơ đã dẫn đến sự phá bỏ

khuôn mẫu cũ. Đó là sự thay đổi quá mới của thơ Thế Lữ - dẫn đến sự cảm nhận

quá mới về tƣ duy cùng cảm nhận ngƣời đọc đối với lối diễn đạt quen thuộc gần gũi

đời thƣờng.

Thế giới Nàng thơ của Thế Lữ còn bộc lộ những cảm xúc về tự nhiên; không

gian vũ trụ. Thơ ông luôn hàm chứa một thế giới đơn sơ, hoang dã, cỏ sắc… tất cả

đều chứa đựng rung cảm hồn thơ luôn hòa trộn trong sự cảm nhận tinh tế. Không

chỉ đắm say trong những cảm xúc lãng mạn, “Cây đàn muôn điệu” – nhƣ một tuyên

ngôn nghệ thuật, một khẩu khí của thời thế bấy giờ.

Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng

Đƣờng trần gian xuôi ngƣợc để vui chơi

16

Tìm cảm giác hay trong tiếng khóc câu cƣời

… Anh dù bảo: tính tình tôi hay thay đổi

Không chuyên tâm, không chủ nghĩa, nhƣng cần chi ?

Tôi chỉ là khách tình si.

Ham vẻ đẹp có muôn hình, muôn thể

Mƣợn lấy bút nàng Ly Tao, tôi vẽ

Và mƣợn cây đàn ngàn phím, tôi ca…

Nhà thơ đã có sự hòa đồng giữa tâm hồn và cây đàn ngàn phím – trong vẻ

đẹp toàn mỹ ngoại giới, thanh sắc của dƣơng gian, thái độ thoát ly thực tại vô trách

nhiệm. Song đều có sự gắn kết giữa cõi tiên trong hƣ ảo, thực tại mang đậm sắc thái

của thi nhân.

Có thể thấy trong cách kết cấu bài thơ, câu thơ, Thế Lữ đã xuất phát từ

những làn điệu thơ dân tộc trong văn học dân gian, có sự ảnh hƣởng kết hợp thơ

Pháp ở lối thơ vắt dòng; điều đó đã tạo nên thể thơ uyển chuyển và biến hóa không

cùng với tâm trạng trƣớc thời thế bấy giờ.

Nếu nhƣ Thế Lữ là ngƣời “khởi điểm của những khởi điểm”, thì Lƣu Trọng

Lƣ cũng thuộc lớp thi sĩ “Thơ mới” đầu tiên. Ông là ngƣời có công đầu trong việc

thiết lập và để Thơ mới đƣợc hình thành và phát triển. Thơ ông không thật mới và

lạ, song giọng thơ luôn gần gũi và quen thuộc hồn thơ dân tộc. Bắt mạch cảm xúc

đó trong mọi hình ảnh, tứ thơ, âm thanh cuộc sống đƣợc chuyển vào thế giới mơ

mộng, trong tiềm ẩn “vang bóng một thời” của văn hóa cổ truyền dân tộc. Đó cũng

là một cách tân trong sáng tác để tránh sự nhàm chán theo cái cũ lỗi thời rập khuôn.

Nhiều sáng tác của Lƣu Trọng Lƣ đều có ảnh hƣởng giọng điệu thơ ca dân

gian:

Rồi ngày lại ngày

Sắc màu: phai

Lá cành: rung

Ba gian: trống

Xuân đi

17

Chàng cũng đi

Năm nay xuân còn trở lại

Ngƣời xƣa không thấy tới

(Vắng khách thơ)

Hồn thơ của Lƣu Trọng Lƣ, luôn chứa đựng những thở dài tuyệt vọng. Trong

cuộc đời bao lần mơ, bao lần ƣớc và những xốn xang trong tình yêu đều rơi vào sự

trớ trêu, bi đát. Năm tháng tuổi thanh xuân qua đi, Lƣu Trọng Lƣ vẫn chƣa thể thoát

ra khỏi những mộng mị của cuộc đời và thơ ca, để trở về đời sống thực thụ.

Hoài Thanh đã đƣa ra nhận định để khẳng định vị trí của Xuân Diệu: “nhà

Thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”. Thơ Xuân Diệu luôn thu hút và tiếp nhận

những tinh hoa đặc sắc của thơ ca dân gian. Bằng chính ngòi bút của mình, ông đã

chắt lọc những tinh túy nhất để tạo ra những vần thơ hay, tiêu biểu mang dáng dấp

thơ ca dân gian. Điều đó, có thể bắt gặp trong những vần Thơ mới hình ảnh con

ngƣời và hàm chứa hình ảnh về những làng quê nơi đồng bằng Bắc Bộ. Đây cũng là

một điều dễ hiểu, cảm xúc đƣợc thăng hoa và đƣợc sáng tác với những gì chân chất,

mộc mạc nhất nơi thôn dã.

Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

(Thơ duyên – Xuân Diệu)

Nhà thơ đã vận dụng nhiều yếu tố truyền thống, tái tạo lên những vần thơ

chan chứa của lòng mình. “Mây biếc” là một hình ảnh phi lý, tìm đâu ra đƣợc mây

biếc. Điều này trên thực tế là Xuân Diệu đã kế thừa từ thơ ca dân gian.

Bản thân Xuân Diệu tạo ra những thủ pháp “đánh tráo ngôn từ”. Vì vậy, từ

thơ ca dân gian bay vào Thơ mới, hồn thơ Xuân Diệu lẫn áng mây đã tô vẽ lại với

gam màu tƣơi mới.

Con cò đƣợc ca dao dân ca nhắc đến rất nhiều trong làn điệu hát ru con của

Đồng bằng Bắc Bộ:

Con cò bay lả bay la

Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng…

18

Đến hình ảnh “con cò trên ruộng” trong thơ Xuân Diệu có sự tiếp nối và

khác biệt giữa truyền thống và hiện đại, giữa phƣơng Đông và phƣơng Tây. Sự bình

yên trƣớc đây, đang dần từng bƣớc thay cho sự suy tƣ, trăn trở, băn khoăn tìm kiếm

lẽ đời… Từ thơ ca dân gian đến Thơ mới luôn luôn tạo ra khoảng cách – sự gạch

nối của nhiều thế kỷ. Khoảng cách này, theo thời gian dần đƣợc thu hẹp lại – cốt

cách nội lực dân tộc chính là nguồn cội dân gian luôn hằn in trong sáng tác của nhà

thơ.

Nhà thơ Huy Cận trong sáng tác của mình cũng đã viết những câu Thơ mới

mang đậm bản sắc thôn quê với sự thanh tao trong trẻo của hƣơng đồng gió nội: hoa

dại, rơm khô, nắng vàng, gió thoảng… Để rồi hòa điệu ngân vang trong một sự xao

xuyến khôn cùng trƣớc những hoang sơ thôn dã:

Một buổi trƣa không biết ở thời nào

Nhƣ buổi trƣa nhè nhẹ trong ca dao

Có cu gáy, có bƣớm vàng nữa chứ

(Đi giữa đường thơm)

Thơ mới đã kế thừa và phát triển những đặc sắc của thơ ca dân gian. Vì vậy,

nhiều nhà Thơ mới trong sáng tác của mình, hình ảnh thôn quê đƣợc gợi lên với

cảnh đẹp, tâm tình nơi thôn dã, thật gợi cảm, thiết tha…

Hàn Mặc Tử cũng là một trong số gƣơng mặt của Thơ mới 1932 – 1945.

Những vần thơ chan chứa niềm đau đều gợi lên xúc cảm thi nhân trƣớc cuộc đời bể

khổ. Cũng giống nhƣ các nhà thơ khác của phong trào Thơ mới, Hàn Mặc Tử có sự

ảnh hƣởng của lối thơ dân gian trong cách sử dụng cách tân lối hiệp vần liền để

sáng tác những vần thơ đạt hiệu quả thẩm mỹ cao.

Trong Mùa xuân chín, Hàn Mặc Tử viết:

Chị ấy năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng, nắng chang chang.

Cách hiệp vần với hai tiếng nắng – trắng đã gợi cho ngƣời đọc chúng ta thấy

đƣợc một tín hiệu cao trong hiệu quả nghệ thuật – và cũng từ đó có thể mƣờng

tƣợng đƣợc cái nắng, chói lòa đang dần xuất hiện trực tiếp trƣớc mắt.

19

Tác giả Lê Đình Kỵ đã nhận xét về bài thơ Mùa xuân chín, không xa lạ với

những trình tự quê hƣơng vào loại trong sáng nhất của Thơ mới.

Anh Thơ là tác giả những bức tranh quê thuộc vùng Kinh Bắc trƣớc năm

1945. Có thể thấy, đó là những bức tranh thiếu vắng ngƣời qua lại, hàm chứa những

nỗi buồn vô vọng trong không gian cuộc sống thƣờng nhật:

Sông mênh mông buồn mênh mông

Đêm dài thăm thẳm buồn trông hƣớng nào

Bức tranh quê đƣợc hiện lên sinh động trong khung cảnh quá gần gũi nhƣ

chính cuộc sống thƣờng ngày của thôn quê. Nữ thi sĩ Anh Thơ đã khái quát đƣợc

hiện thực đời sống xung quanh trong những khung cảnh ngày xuân. Cảnh sắc thôn

quê trong lễ tết, hội hè gợi niềm vui tƣơi mới hẹn ƣớc:

Có ngƣời qua xóm nhìn ngon mắt

Xuân chín trên cành, cam lẳng lơ.

Đời sống sinh hoạt văn hóa dân gian cũng đƣợc các nhà Thơ mới đƣa vào

trong sáng tác của mình. Trƣờng hợp “cái cổng làng” – một sự thể hiện của văn hóa

làng đã trở thành xúc cảm nghệ thuật thơ ca trong Thơ mới:

Sáng hồng lơ lửng mây son

Mặt trời thức giấc, véo von chim chào

Cổng làng rộng mở, ồn ào

Nông phu lững thững đi vào nắng mai

… Ngày mùa lúa chín thơm đƣa…

Rồi đông gầy chết. Xuân chƣa vội vàng

Mừng xuân ngày hội cổng làng

Là nơi chen chúc bao nàng thơ ngây.

(Cổng làng – Bàng Bá Lân)

Trong làn điệu của Thơ mới, khí thế của thời đại mới đƣa chúng ta tới Đoàn

Văn Cừ. Thơ của Đoàn Văn Cừ mang hơi thở mới – niềm vui đƣợc nhân lên gấp bội

về lễ hội dân gian:

… Để đi theo đám rƣớc lƣợn quanh làng

20

Các bà đồng khăn đỏ chạy lăng quăng

Đón các khách thập phƣơng về dự hội

Một chiếc kiệu đƣơng đi dừng bƣớc lại.

Rồi thình lình quay tít mãi nhƣ bay

Một bà già kính cẩn chắp hai tay

Đứng vái mãi theo đám ngƣời bí mật,

Trên bãi cỏ dƣới trời xuân bát ngát

Một chị đƣơng đu ngửa tít trên không

Cụ lý già đứng lại ngửng đầu trông

Mắt hấp háy nhìn qua đôi mục kỉnh…

(Đêm hội – Đoàn Văn Cừ)

Ở phần trích trên, nhà thơ đã dẫn dắt ngƣời đọc chúng ta trong lễ hội dân

gian sinh động. Đó là cảnh lễ hội dân gian, đặc biệt trong cách dùng từ ngữ dân

gian: khách thập phƣơng, du ngửa, mục kỉnh… đều đã để Thơ mới có sự tụ hội, du

nhập cuộc sống thƣờng nhật ở nơi làng quê thanh tịnh này. Trang thơ Đoàn Văn Cừ

cũng để ngƣời đọc chúng ta đi vào đời sống ngày mùa – thôn quê trong một hình

ảnh thực, tinh tế chứa đựng nhiều vẻ đẹp tính chất lãng mạn của quê hƣơng đất

nƣớc:

Lúa trải vàng nhƣ bể kén tơ,

Từng đôi chim sẻ tới nô đùa,

Mổ từng bông một trong khi gió

Bốc nhẹ mùi thơm phảng phất đƣa.

(Ngày mùa – Đoàn Văn Cừ)

Từ Thế Lữ, Lƣu Trọng Lƣ, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Anh Thơ,

Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ - đã có ít nhiều sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian – có lẽ

Nguyễn Bính là nhà thơ chịu ảnh hƣởng sâu đậm của văn hóa dân gian – một nhà

thơ dân gian hiện đại. Nguyễn Bính đã có sự tài ba trong vận dụng văn hóa dân

gian, nhất là ca dao dân ca, trong lối suy nghĩ quen thuộc của ngƣời thôn quê.

21

Hoài Thanh phải thốt lên: “Giá Nguyễn Bính sinh ra ở thời trƣớc, tôi chắc

ngƣời đã làm những câu ca dao mà dân quê vẫn hát quanh năm” [52, 343].

Để có vần thơ đơn sơ, mộc mạc đậm chất dân dã – Nguyễn Bính đã dựa từ:

Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày của ngƣời dân quê. Sự vận dụng sáng tạo trong lời

nói nghệ thuật của thơ ca dân gian một cách tinh tế, tự nhiên, đậm đà bản sắc làng

quê trong sáng tác của mình.

Nguyễn Bính thƣờng lấy những mảng đề tài về tâm tình – chuyện tình đôi

lứa của các cô gái thôn dã – ngƣời phụ nữ nơi miền quê ở các lễ hội dân gian – đêm

hội chèo của làng:

Bữa ấy mƣa xuân phơi phới bay

Hoa xoan lớp lớp rụng vơi đầy

Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ

Mẹ bảo: “Thôn Đoài hát tối nay”.

(Mưa xuân)

Và cũng từ những cách tân trong đổi mới sáng tạo thơ ca, Nguyễn Bính đã

vận dụng thành công ngôn ngữ thơ – ca dao dân ca lên tầm thơ hiện đại:

Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một ngƣời chín nhớ mƣời mong một ngƣời

Gió mƣa là bệnh của trời

Tƣơng tƣ là bệnh của tôi yêu nàng.

(Tương tư – Nguyễn Bính)

Có những hình ảnh, từ ngữ thơ trong ca dao dân ca, nhƣng ở đây đƣợc nói

qua cách diễn đạt lời thơ rất hiện đại và là đóng góp mới mẻ của Nguyễn Bính: thôn

Đông, thôn Đoài; chín nhớ mƣời mong, tƣơng tƣ. Hình ảnh các cô thôn nữ, các

chàng trai quê từ trong ca dao dân ca cũng đã đƣợc cách tân hóa trong sinh hoạt văn

hóa, chứa đựng những suy nghĩ, tâm trạng theo thời gian, đời sống thời đại thay đổi

mau lẹ:

Hôm qua em đi tỉnh về

Đợi em ở mãi con đê đầu làng

22

Khăn nhung quần lĩnh rộn ràng

Áo cài khuy bấm em làm khổ tôi…

(Chân quê)

Nguyễn Bính còn đƣa chúng ta về tới làng quê – một viễn cảnh từ xa xăm

trong thế giới cổ tích và cũng là thực tế nhãn tiền – của sự lẫn lộn giữa thế giới thực

và mộng ảo:

… Đồn rằng đám cƣới cô to

Nhà giai thuê chín chiếc đò đón dâu

Nhà gái ăn chín nghìn cau

Tiền cheo, tiền cƣới chừng đâu chín nghìn

Lang thang tôi dạm bán thuyền

Có ngƣời giả chín quan tiền lại thôi

(Giấc mơ anh lái đò)

Hôm nay dƣới bến xuôi đò

Thƣơng nhau qua cửa tò vò nhìn nhau;

Anh đi đấy, anh về đâu?

Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, canh buồm…

(Không đề - Nguyễn Bính)

Đọc những câu thơ trên, ngƣời đọc chúng ta nhƣ lạc bƣớc vào thơ ca dân gian, chắc

hẳn thơ Nguyễn Bính luôn có đậm chất ca dao cổ. Đó là sự ảnh hƣởng của văn hóa

dân gian nói chung và ca dao nói riêng, đã đem đấn cho Thơ mới một khởi sắc hồn

hậu trong tâm hồn Việt Nam.

Xuất phát từ những cội nguồn dân tộc, từ những tình cảm chân thành, mộc

mạc đã nảy sinh thứ tình cảm chung thủy với cảnh sắc và con ngƣời thôn quê. Qua

Nguyễn Bính – làn điệu thơ đó đã nâng lên bởi chính tƣ duy ngôn ngữ đậm màu sắc

dân gian: vƣờn rau, vƣờn chè, vƣờn chanh… ao bèo, giậu mồng tơi… đời sống thôn

quê trong những sinh hoạt đơn sơ, nhƣng rất hữu tình:

Sáng giăng chia nửa vƣờn chè

Một gian nhà nhỏ đi về có nhau

23

(Thời trước)

Tuy không phải là ngƣời duy nhất trong phong trào Thơ mới sáng tác theo

lối thơ ca dân gian. So với Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ… Nguyễn Bính

của chúng ta có phần đậm đặc hơn, am hiểu gần gũi đời sống thƣờng nhật thôn quê

trong sinh hoạt văn hóa dân gian.

Nguyễn Đăng Điệp đã nhận xét: “Nếu các nhà thơ khác chủ yếu tập trung

khắc họa bức tranh quê, nhìn những nếp quê bằng cái nhìn thƣởng ngoạn thì

Nguyễn Bính đi xa hơn nhiều: ông chạm tới linh hồn làng mạc” [6, 321]

Dù bao thập kỉ trôi qua, nhƣng thơ Nguyễn Bính vẫn giữ đƣợc sự cảm tình

của độc giả đƣơng thời. Và Nguyễn Bính luôn luôn có một vị trí quan trọng trong

không khí “hƣơng đồng gió nội”. Ông là nhà thơ chịu ảnh hƣởng thơ ca dân gian rõ

nét của phong trào Thơ mới Việt Nam vốn có nhiều khởi sắc và thành tựu đáng kể.

Văn hóa dân gian nói chung và ca dao nói riêng là một trong những nguồn

quan trọng đã góp phần sinh thành và tạo ra diện mạo cùng những đặc điểm của

Thơ mới.

Những trang mở đầu của thơ hiện đại Việt Nam, ảnh hƣởng lớn nhất và quan

trọng nhất là nó đã góp phần tạo nên cái “hồn dân tộc”, cái “tính cách Việt Nam”

của Thơ mới. [56, 64]

Các nhà thơ dù viết về vấn đề gì với những tâm trạng phức tạp thế nào thì

vẫn nằm trong “văn mạch dân tộc” nhƣ Xuân Diệu khẳng định. Đóng góp quan

trọng và trƣớc hết của Thơ mới là ở tƣ tƣởng, tình cảm mới. Và mặt khác là sáng

tạo những câu thơ nghệ thuật hơn trên cơ sở giọng điệu và cấu trúc thơ ca dân tộc.

Nói cách khác, công lao của Thơ mới là làm bùng nổ những tƣ tƣởng mới

trong những cái áo khoác mới, đƣợc kết bằng những chất liệu quen thuộc truyền

thống. [4, 492]

1.1.2. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp:

Nền văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám đó là nền văn học

hƣớng về đại chúng và dân tộc. Do vậy, nền văn học mới của ta luôn phải tìm tòi,

24

kế thừa phát huy những giá trị truyền thống vốn có từ xa xƣa của văn học dân gian

và văn học cổ điển.

Thơ ca kháng chiến đƣợc hình thành phát triển theo hƣớng dân tộc đại

chúng, đã tìm về với các thể thơ quen thuộc của dân tộc, nhƣ lục bát, thơ năm

chữ… Phong vị ca dao không chỉ thể hiện ở thể thơ, mà còn hiện ra trong những lối

so sánh, ví von, diễn đạt, xây dựng từ ngữ hình ảnh…

Chính Hữu là một nhà thơ trƣởng thành trong quân đội. Bài thơ Đồng chí

đƣợc Chính Hữu sáng tác năm 1948 – trong thời điểm nhà thơ đang cùng đồng đội

tham gia chiến dịch Thu Đông – Việt Bắc 1947. Thể tự do mà Chính Hữu sử dụng

trong bài Đồng chí, vốn đã xuất hiện ở phong trào Thơ mới – song chƣa có những

thành tựu đáng kể. Chỉ đến thơ kháng chiến chống Pháp, thì thể thơ tự do đƣợc xuất

hiện phổ biến và đạt đƣợc nhiều thành công, và luôn gần gũi với quần chúng. Nhà

thơ Chính Hữu đã sử dụng thể thơ này một cách phổ biến trong việc sử dụng xen kẽ

thơ tự do với thơ cách luật và tạo ra bài thơ có tính chất hợp thể. Vì vậy, cho nên

với thể thơ tự do, bài thơ Đồng chí – đƣợc coi là tác phẩm tiêu biểu của văn học

thời kỳ kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ đƣợc xây dựng trên những hình ảnh, ngôn ngữ chân thực, giản dị –

giàu sức biểu cảm – đã đƣợc Chính Hữu viết lên từ sự trải nghiệm của bản thân – để

từ đó khắc sâu trong lòng độc giả về hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ thời kỳ chống

Pháp:

Quê hƣơng anh nƣớc mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Đó thực là những lời tâm sự của những ngƣời lính cùng chung cảnh ngộ:

“nƣớc mặn đồng chua”. Có thể đó là một vùng đồng bằng chiêm trũng đất phèn, đất

mặn. “Đất cày lên sỏi đá” gợi nhắc tới một vùng trung du khô cằn – “chó ăn đá, gà

ăn sỏi”. Tác giả đã sử dụng tài tình những cụm từ giản dị quen thuộc trong văn học

dân gian, để gợi lên hình ảnh những con ngƣời có xuất thân từ những miền quê

nghèo khổ, tần tảo, lam lũ, sự hòa nhập cảnh ngộ của đất nƣớc trong cảnh nô lệ lầm

than dƣới gót giầy xâm lƣợc kẻ thù. Kiểu câu có kết cấu sóng đôi, đối ứng nhau

25

“quê hƣơng anh” – “làng tôi”, nƣớc mặn đồng chua, tạo nên sự đồng điệu giữa

những ngƣời lính trong kháng chiến. Bằng ngôn ngữ giản dị, hàm súc, gần gũi với

tâm tƣ ngƣời lính – có sự kết hợp với chất liệu dân gian – tạo nên dòng thơ mang

tính chất hiện thực đậm chất lãng mạn của hình tƣợng ngƣời lính kiên cƣờng dũng

cảm. Đất nƣớc non sông mờ cát bụi, họ không tiếc thân mình sẵn sàng ra đi trong

đoàn quân chiến đấu bảo vệ đất nƣớc, Tổ quốc thân yêu của mình.

Trần Hữu Thung, là một nhà thơ trƣởng thành trong phong trào thơ ca quần

chúng – khác Chính Hữu, ông lớn lên từ vùng đồng quê chiêm trũng. Ông đã vận

dụng thành công các thể thơ linh hoạt. Vốn đƣợc sinh ra ở miền quê giàu truyền

thống văn hóa, từ thuở trong nôi, cùng sự nuôi dƣỡng chăm sóc của cha mẹ, ông đã

lớn lên từ những dòng sữa đậm đặc thơ ca dân gian. Ký ức đem theo đó là những

bài hát ru, câu hát ghẹo, hát ví dặm… đã ảnh hƣởng hồn thơ của ông sau này. Vì lẽ

đó, thơ Trần Hữu Thung luôn có sự dính kết yếu tố thơ ca dân gian.

Thăm lúa là bài thơ diễn tả tâm trạng của một chị nông dân có chồng đi bộ

đội… và nỗi nhớ mong của ngƣời chồng ra đi chiến đấu mang đậm màu sắc dân

gian.

Những địa danh vùng quê xứ Nghệ… những đồ dùng phục vụ cuộc sống đều

đƣợc đƣa vào trong thơ: cái bồ, cái sọt, cái cày, áo cánh nâu, chiếc đọi, đôi đũa…

những thứ bình dị cuộc sống thƣờng nhật đều có mặt trong thơ của Trần Hữu

Thung:

Chiếc xắc mây anh mang

Em nách mo cơm nếp

Lúa níu anh trật dép

Anh cúi sửa vội vàng…

Đặc biệt cuộc sống nơi thôn quê đã đi vào thơ ông với nhiều vẻ trong sáng;

thanh lọc. Họ là những ngƣời dân chân chất, giản dị đi tham gia đội du kích để giữ

bình yên cho làng xóm, đợt dân công tiếp vận tiền tuyến, hòa quyện vào những

niềm vui của những ngƣời đã đem lại đời sống no ấm, ruộng đất cho dân cày…

Chung quy đó là tâm hồn chan chứa tình cảm dân tộc:

26

Xòe bàn tay bấm đốt

Tính đã bốn năm ròng

Ngƣời ta bao không trông

Ai cũng nhủ đừng mong

Riêng em thì em nhớ

(Thăm lúa)

Sự bảo tồn của truyền thống đƣợc biểu đạt tinh tế trong ngôn ngữ, nhịp điệu,

hình ảnh quen thuộc gần gũi với ngƣời dân chúng ta. Trong đó sự khác biệt tâm lý

dân tộc cũng đƣợc gắn kết, hòa nhập trong bài thơ – khiến ngƣời đọc chúng ta có

tƣởng tƣợng nhƣ đã từng gặp trong vốn ca dao dân ca đặc sắc Việt Nam.

Sự khởi sắc trong thơ ca kháng chiến chống Pháp còn thấy ở thơ Hữu Loan.

Hữu Loan đã xây dựng lên những hình ảnh quê hƣơng với vẻ đẹp truyền

thống: “giếng ngọt, cây đa”. Những cảnh sinh hoạt của văn hóa đậm chất dân gian,

nhân văn: hội vật, đánh đu, kéo hẹ,… dân ca quan họ với lời thề lứa đôi… có đời

sống tâm hồn phong phú, lãng mạn trong các sinh hoạt văn hóa cộng đồng. Ở bài

thơ Hoa lúa, có 2 câu cuối:

Ta đi đầu sát bên đầu

Mắt em thăm thẳm đựng màu quê hƣơng

Đây là câu thơ đƣợc viết dƣới dạng câu lục bát, hình ảnh đôi trai gái bên

nhau trong mắt ngƣời con gái. Bài thơ là lòng tự hào tin tƣởng về quê hƣơng và

những ngƣời con của quê hƣơng gian khổ, vẫn trữ tình với những giá trị nhân văn

đƣợc gìn giữ, đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng.

Văn học dân gian luôn là sự khởi nguồn của chất thơ, đƣợc nuôi dƣỡng trong

bầu sữa mẹ từ thuở trong nôi, luôn là nguồn cảm hứng cho nhiều thi sĩ. Thiết tƣởng

thơ ca hiện đại sẽ ngày một xa rời cội nguồn dân gian để hƣớng tới hiện tại. Nhƣng

tất cả hành trình cội rễ dân gian ấy lại đƣợc khơi nguồn từ chính dòng thơ, nét bút

của thơ hiện đại đậm đà hƣơng vị ngọt ngào thơ ca dân gian. Có thể khẳng định

Hoàng Cầm là một trong số những nhà thơ độc đáo của nền văn học Việt Nam hiện

đại. Thơ ông dẫn dắt chúng ta vào cõi mộng của những khao khát cổ tích trong

27

những huyền thoại dân gian. Bên kia sông Đuống, đó là bài thơ tiêu biểu trong thời

kỳ kháng chiến chống Pháp. Hoàng Cầm đã gửi vào trang viết của mình tình cảm

đối với một vùng quê bị giặc đóng chiếm.

Bên kia sông Đuống

Quê hƣơng ta lúa nếp thơm nồng

Câu thơ đã gợi lên cho ngƣời đọc chúng ta về một vùng quê trù phú với hƣơng vị

đậm đặc của vùng Kinh Bắc. Rồi những giá trị văn hóa dân gian đƣợc điểm tô qua

các huyền thoại, ca dao và đặc biệt là những hội hè, phong tục tập quán của vùng

đất Kinh Bắc. Nơi đây là một vùng đất giàu có, phì nhiêu… có truyền thống văn

hóa nghệ thuật lâu đời với những ngôi đền chùa cổ kính, lễ hội, vùng đất của làn

điệu dân ca quan họ; vùng đất của tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng. Đó là nét đặc

sắc truyền thống văn hóa của Kinh Bắc, mà cũng là nơi tiêu biểu cho văn hóa dân

gian toàn quốc:

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tƣơi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Và tranh Đông Hồ, đó là trí tuệ của dân gian mang bản sắc văn hóa dân tộc.

Bức tranh thƣờng miêu tả sinh hoạt dân gian, cảnh đánh vật, đánh ghen, hứng

dừa… Qua đó Hoàng Cầm gửi vào đó khát khao khẳng định một cuộc sống thanh

bình cho ngƣời dân thôn dã từ rất xa xƣa, hôm nay bị kẻ thù xâm chiếm.

Qua các bài: Thăm lúa – Trần Hữu Thung; Bên kia sông Đuống – Hoàng

Cầm; Hoa lúa – Hữu Loan… đều ghi nhận nguồn ảnh hƣởng vô cùng quan trọng và

tốt đẹp của văn hóa dân gian nói chung và ca dao nói riêng đối với thơ Việt Nam

hiện đại trong từng giai đoạn phát triển. [56, 64]

Dù sao thơ kháng chiến chống Pháp cũng còn mang nhiều nét “đại chúng”,

nét nghiệp dƣ hơn các giai đoạn sau. Điều đó một phần là do thơ kháng chiến đƣợc

xây dựng lên từ phong trào văn nghệ quần chúng, là nền thơ “từ nhân dân mà ra”.

Đó là nền thơ còn gắn liền với phƣơng châm “đại chúng” của văn nghệ kháng

chiến. Nhƣng khác với thơ dân gian; thơ kháng chiến có những định hƣớng lớn về

tƣ tƣởng và tình cảm. Các tác giả đã có ý thức coi thơ ca cũng là một vũ khí đánh

28

giặc, là sự nhân danh đồng chí, đồng đội để nói lên những tình cảm chung. Có thể

nói, cái gốc nhân dân, cái nguồn dân gian là cội rễ của thơ kháng chiến chống Pháp.

[50, 289]

1.1.3. Thơ ca thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước:

Khác với thơ ca kháng chiến chống Pháp, thơ chống Mỹ phản ánh cuộc đấu

tranh thống nhất nƣớc nhà “giang san thu về một mối”.

Cuối những năm 60, đầu những năm 70, thơ ca thời kỳ chống Mỹ, thực sự đã

có nhiều thành tựu đáng kể. Tập trung ở các nhà thơ chuyên nghiệp và nghiệp dƣ;

luồng không khí mới đã nở rộ bởi “tiếng hát át tiếng bom”. Rồi thơ ca kháng chiến

chống Mỹ đã dần từng bƣớc vƣợt khỏi rào cản “phong trào” mà nó đi sâu khái quát

hiện thực những năm 70. Các nhà thơ trẻ xuất hiện đã đem đến cho thơ một sức

sáng tạo mới mẻ, trong sáng – trong đó có những tài năng sớm đƣợc khẳng định:

Phạm Tiến Duật, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm… Những vần thơ ra đời trong

“khói lửa binh đao” của cuộc chiến nhƣng sự ảnh hƣởng của văn hóa dân gian nói

chung, ca dao nói riêng càng đậm đặc hơn đối với thơ ca hiện đại.

Theo dòng chảy thời gian lịch sử, lớp thơ trẻ cũng xuất hiện bằng những nỗi

trăn trở, suy tƣ. Nhƣng đều xuất phát từ một hình ảnh hiện thực cụ thể để tạo ra cấu

tứ thơ trong những tình huống sinh động; rồi khái quát lên một tƣ tƣởng mới lạ.

Bài thơ Đò Lèn gợi ra một miền quê giàu truyền thống văn hóa dân gian, một

miền quê nghèo chịu nhiều sự tàn phá của kẻ thù.

Thơ Nguyễn Duy thƣờng hƣớng về cái đẹp bình dị của đời sống thƣờng nhật.

Lời thơ của Nguyễn Duy có sự hòa quyện giữa tính cách dân gian và phong

vị cổ điển. Bên cạnh những dòng thơ mộc mạc, giàu chất sinh hoạt đời thƣờng:

Bắt chim sẻ ở vành tai tƣợng Phật

Bà mò cua xúc tép ở Đồng Quan

Bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn…

(Đò Lèn)

là những câu thơ trang trọng, hàm súc, suy tƣởng triết lý về nhân thế:

Mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm.

29

Tôi trong suốt giữa hai bờ hƣ thực

Dòng sông xƣa vẫn bên lở bên bồi…

(Đò Lèn)

Tre Việt Nam là bài thơ khái quát về con ngƣời Việt Nam trong lịch sử bao

hàm những phẩm chất cao quý mang tính chất truyền thống từ thuở xa xƣa để đƣợc

đúc rút tạo thành những câu lục bát uyển chuyển, nhẹ nhàng:

Chẳng may thân gãy cành rơi

Còn nguyên cái gốc truyền đời cho măng

Nòi tre đâu chịu mọc cong,

Chƣa nên đã thẳng nhƣ chông lạ thƣờng.

Lƣng trần phơi nắng phơi sƣơng,

Có manh áo cộc tre nhƣờng cho con.

(Tre Việt Nam – Nguyễn Duy)

Nguyễn Duy đã đƣa ra hình ảnh thật cụ thể về cây tre – song bao trùm đó là

tƣ tƣởng thời đại lớn. “Tre” thành những phẩm chất cao quý ngƣời Việt Nam nhƣ

một vũ khí đánh giặc; chở che cho ngƣời nông dân. Nguyễn Duy đã khái quát hóa

thơ ca dân gian để du nhập trong cội nguồn thơ ca hiện đại có tầm khái quát cao. Dù

vật đổi sao rời thời gian trôi đi, cây tre luôn mãi xanh tƣơi, tràn trề sức sống con

ngƣời Việt Nam, Nguyễn Duy ngắt câu cuối cùng:

Mai sau

Mai sau

Mai sau

Đất xanh tre mãi

Xanh màu tre xanh

Phạm Tiến Duật là nhà thơ trƣởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ.

Chiến trƣờng vào sinh ra tử đã sản sinh và bồi đắp cho hồn thơ Phạm Tiến Duật

nhiều phẩm chất tốt đẹp; hiện thực, phóng túng và tƣơi trẻ. Vấn đề hiện thực chính

là tình cảm của nhà thơ, đồng đội đƣợc hòa nhập trong ngôn ngữ đời sống của quần

chúng. Lửa đèn – đƣợc xây dựng dựa trên những cảm hứng chủ đạo xoay quanh ánh

30

lửa linh thiêng biểu tƣợng cho sức sống dân tộc. Đó là ánh lửa từ ngàn năm đƣợc

soi sáng và sƣởi ấm cho đất nƣớc, con ngƣời.

Nhƣng, ánh lửa đó nay đang bị chính kẻ thù tàn bạo đang từng ngày từng giờ

dập tắt:

Trên đất nƣớc đêm đêm

Sáng những ngọn đèn

Mang lửa tự nghìn năm về trƣớc

Lấy từ thuở hoang sơ

Giữ qua đời này đời khác

Vùi trong tro trong trấu nhà ta

Ôi ngọn lửa đèn

Có nửa cuộc đời ta trong ấy!

Giặc muốn cƣớp đi,

Giặc muốn cƣớp lửa tim ta đấy…

Kẻ thù cũng không thể cƣớp đƣợc ánh lửa. Và cũng từ trong bóng tối, cuộc

chiến đấu của quân dân ta vẫn đƣợc chuẩn bị khẩn trƣơng, mau lẹ. Những ngọn đèn

đã lần lƣợt thắp sáng lên trong cuộc sống thƣờng nhật:

Nơi ngày đêm giặc điên cuồng bắn phá

Những ngọn đèn vẫn cứ thắp lên

Chiếc đèn chui vào ống nứa

Cho em thơ đi học ban đêm

Chiếc đèn chui vào lòng trái núi

Cho xƣởng máy thay ca rồi vội

Chiếc đèn chui vào chiếu vào chăn.

Cho những tốp trai làng đọc lá thƣ thăm.

Phạm Tiến Duật đã khái quát hóa thành những nét điển hình đặt trong những

hình ảnh tiêu biểu của thực tế chiến đấu chống Mỹ cứu nƣớc của nhân dân ta; có

sức khái quát – cảm hứng anh hùng cách mạng. Nhiều vần thơ có tính chất tạo hình,

gợi cảm mang đậm chất suy tƣởng và phong vị dân gian sâu sắc.

31

Giống nhƣ Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm cũng là một trong những

nhà thơ trƣởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt. Nhà thơ chiến đấu ở

chiến trƣờng Bình Trị Thiên. Thực tế cuộc chiến tranh gian khổ và ác liệt đã ƣơm

chồi cho nhiều nhà thơ về hình ảnh của nhân dân, của đất nƣớc. Bằng vốn hiểu biết

của mình Nguyễn Khoa Điềm đã đƣa ra đƣợc định nghĩa về đất nƣớc dựa trên yếu

tố thơ ca dân gian.

Nguyễn Khoa Điềm khéo léo sử dụng hàng loạt chất liệu của văn hóa dân

gian, nhất là các chất liệu đƣợc rút từ ca dao, thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, và

các phong tục tập quán của nhân dân.

Có thể thấy Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là sự nâng cấp rõ rệt của tƣ

duy thơ ca dân gian lên thơ ca hiện đại. Và đƣợc phát triển; lý giải trọn vẹn, tinh tế

thành hình tƣợng thơ mà thơ ca dân gian, rất khó có thể tạo đƣợc – mặc dù thơ ca

dân ca rất phong phú, sinh động. Sự khái quát hóa cao độ của tƣ duy thơ Nguyễn

Khoa Điềm đã phát triển ở mức độ cao trong việc thể hiện khái niệm về đất nƣớc,

nhân dân, dân tộc – truyền thống – hiện đại qua từng câu, chữ, hình ảnh cụ thể:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất nƣớc

Khi hai đứa cầm tay

Đất nƣớc trong chúng ta hài hòa nồng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi ngƣời.

Đất nƣớc vẹn tròn, to lớn.

(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)

Những bài thơ của lớp trẻ trong thời đại kháng chiến chống Mỹ đã góp phần

nâng cao tầm suy nghĩ cho thơ chống Mỹ. Các nhà thơ chú trọng tới thơ ca dân gian

khi họ viết về đề tài đất nƣớc, phong tục truyền thống, miêu tả những nhân vật gần

gũi với cuộc sống thôn dã.

Đây là một bƣớc phát triển mới của tƣ duy thơ về phía trí tuệ. Đến thời kỳ

chống Mỹ, thơ Việt Nam đã vƣợt xa những thành tựu ban đầu thời chống Pháp với

những đặc điểm khiêm tốn: hồn nhiên, giản dị, đại chúng… Thơ đã tự nâng mình

32

lên rất nhiều để đáp ứng với trình độ công chúng ngày càng cao. Các nhà thơ đã

không coi thƣờng công chúng bằng cách hạ thơ xuống thành những bài ca dao, hò

vè, những bài diễn ra lục bát mộc mạc. Đã gần “30 năm dân chủ cộng hòa”, đa số

công chúng độc giả đã có trình độ để phân biệt đƣợc thơ hay – thơ dở, ngay cả khi

nhà thơ làm xiếc với ngôn từ.

Nhƣ vậy, từ một nền thơ mở đầu với tính chất đại chúng, tính chất dân gian

là chủ yếu, có sự đóng góp của các nhà thơ lớp trƣớc, thơ ca Cách mạng Việt Nam

hiện đại đã vƣơn lên thành một nền thơ có tầm suy nghĩ lớn. Nhƣng cũng chính ở

giai đoạn trƣởng thành này, nhiều bài thơ đã giảm tính hồn nhiên tƣơi mát so với

buổi đầu. [50, 296]

Sự khảo sát ở trên đã cho thấy sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian với phong

trào Thơ mới; thơ kháng chiến chống Pháp và thơ kháng chiến chống Mỹ. Qua đó

khẳng định nguồn ảnh hƣởng của văn hóa dân gian nói chung và ca dao nói riêng

đối với thơ ca Việt Nam hiện đại.

1.2. Con đường sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu:

1.2.1. Vài nét về tiểu sử của nhà thơ Tố Hữu:

Năm 20 của thế kỷ 20.

Tôi sinh ra. Nhƣng chƣa đƣợc làm ngƣời.

Nƣớc đã mất. Cha đã làm nô lệ.

Ôi những ngày xƣa mƣa xứ Huế

Mƣa sao buồn vậy, quê hƣơng ơi!

Ngẩng đầu lên, không thấy mặt trời

Đất lai láng những là nƣớc mắt.

(Một nhành xuân)

Nói tới Tố Hữu (1920 – 2002) trƣớc hết có thể thấy, Tố Hữu là cánh chim

tiên phong của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Tên khai sinh là Nguyễn Kim

Thành. Bút danh Tố Hữu là do một nhà nho, vốn giỏi chữ nghĩa ở Huế tặng.

“Tố Nhƣ là tên chữ của Nguyễn Du. Do chịu ảnh hƣởng của giáo lí nhà Phật

nên ông muốn hƣớng tới cái bản ngã của mình tới chữ “Nhƣ” (Chân Nhƣ) – sự chân

33

thật, bất biến. Chữ Tố có nhiều nghĩa. Nghĩa gốc là lụa mộc chƣa hề nhúng vào

thuốc tẩy. Nghĩa dẫn thân của nó là chất phác. Tố Nhƣ nghĩa là cái bản chất của ta

là chân thật bất biến nhƣ Phật tính vậy. Khi tặng bút danh Tố Hữu cho Nguyễn Kim

Thành, nhà nho giải thích: Khổng Tử trên đƣờng đi chu du thiên hạ gặp Hạng Thác

(lúc đó là một cậu bé khoảng năm bảy tuổi) đang chơi với một lũ trẻ con. Khổng Tử

hỏi Hạng Thác: “Trên trời có bao nhiêu vì sao?”. Hạng Thác hỏi lại: “Thƣa Phu tử,

thế lông mi phu tử có bao nhiêu sợi ạ?”. Khổng Tử giật mình khen tặng Hạng Thác

một câu:

“Ngô nhi tố hữu đại chí”

(Thằng bé của ta vốn có chí lớn)

Sau này Hạng Thác trở thành một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Trung

Quốc. Nguyễn Kim Thành nhận bút danh Tố Hữu do nhà nho tặng nhƣng xin đổi

chữ “Hữu” nghĩa là có thành chữ “Hữu” nghĩa là “bạn hữu”. Tố Hữu là một ngƣời

bạn chân tình, trong sáng của mọi ngƣời. Suốt đời mình Tố Hữu đã trung thành và

xứng đáng với bút danh ấy”. (Theo TS. Phạm Minh Diệu – Thiết kế bài giảng Ngữ

Văn 11…). Có thể thấy hồn thơ Tố Hữu đƣợc tác động bởi nhân tố quê hƣơng, gia

đình và lý tƣởng cách mạng.

Tố Hữu sinh ra và lớn lên ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa

Thiên – Huế. Đó là một vùng đất nổi tiếng đẹp, thơ mộng có núi Ngự Bình – có

cung điện, lăng tẩm các vua nhà Nguyễn, có sông Hƣơng nƣớc xanh êm ả,hai bên

bờ liễu rủ,có những cô gái thẫn thờ vê áo mỏng – nghiêng nghiêng vành nón dáng

chờ ai trên sông, cũng là nơi sản sinh ra nhiều những làn điệu dân ca đậm chất trữ

tình đặc sắc nhƣ: Hò mái nhì, mái đẩy, điệu lí, điệu ca nam ai, nam bằng mƣợt mà.

Xứ Huế thơ mộng này vốn là kinh đô đã đƣợc tồn tại suốt mấy trăm năm của triều

đại nhà Nguyễn – nên rất giàu truyền thống văn hóa sinh hoạt cung đình:

Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thƣơng

Mái nhì man mác nƣớc sông Hƣơng.

(Quê mẹ)

34

Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, giàu truyền thống yêu

nƣớc. Cụ thân sinh là một nhà nho không đỗ đạt, phải vật lộn kiếm sống. Thân sinh

của Tố Hữu rất ham thích thơ ca và hay sƣu tầm văn học dân gian (ca dao, tục ngữ).

Đây cũng là nhân tố để hình thành nên một thi sĩ nhƣ Tố Hữu ngay từ thuở ấu thơ.

Tố Hữu đã đƣợc cha dạy cho các phép tắc để làm thơ theo lối cổ. Thân mẫu là con

của một cụ Tú, một ngƣời phụ nữ xứ Huế, giàu tình thƣơng và bà đã thuộc rất nhiều

ca dao, dân ca, Tố Hữu đƣợc mẹ nuôi dƣỡng trong những câu hát ru ngọt ngào

mang đậm chất Huế.

Bản thân Tố Hữu từ thuở nhỏ đã đƣợc sống trong thế giới làn điệu của thơ ca

dân gian với cha mẹ. Vì vậy, trong sáng tác của Tố Hữu về sau cũng chịu ảnh

hƣởng khá nhiều phong cách; giọng điệu của thơ ca dân gian xứ Huế. Tố Hữu là

ngƣời thiếu thốn tình cảm từ thuở ấu thơ. Thân mẫu qua đời khi Tố Hữu mƣời hai

tuổi, thân phụ đi làm xa, một năm sau Tố Hữu phải xa gia đình lên học ở trƣờng

Quốc học Huế. Năm 1936 (16 tuổi), Tố Hữu đã sớm giác ngộ lý tƣởng cộng sản,

khi phong trào mặt trận dân chủ Đông Dƣơng diễn ra giữa lúc tuổi thanh niên của

nhà thơ tràn đầy nhiệt huyết và rất tự nhiên, trở thành một ngƣời lãnh đạo chủ chốt

của Đoàn Thanh niên dân chủ ở Huế. 1938 (18 tuổi), ông đƣợc kết nạp vào Đảng

cộng sản Đông Dƣơng.

Tháng 4/1939, lúc đang đấu tranh tích cực phong trào học sinh, sinh viên

(thời kỳ mặt trận dân chủ, Tố Hữu đã bị thực dân Pháp bắt và chịu tù đày (1939 –

1942), trải qua nhiều nhà lao ở Huế, Qui Nhơn, Tây Nguyên. Đến tháng 3/1942, Tố

Hữu vƣợt ngục Đắc Lay (Kon Tum), trốn thoát ra Thanh Hóa, bắt liên lạc với tổ

chức và tiếp tục hoạt động cho tới Cách mạng tháng Tám. Thời kỳ Cách mạng

tháng 8/1945 – Tố Hữu đƣợc bầu là chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa ở Huế. Và mốc thời

gian từ sau Cách mạng tháng 8/1945 cho tới khi nghỉ hƣu (1986), Tố Hữu liên tục

giữ nhiều trọng trách cao trong bộ máy Đảng và nhà nƣớc (Ủy viên Bộ Chính trị),

Phó chủ tịch hội đồng bộ trƣởng, Bí thƣ Trung ƣơng Đảng. Là một trong những

ngƣời đóng vai trò quan trọng trong suốt mấy chục năm qua từ Cách mạng tháng

8/1945 đến 1986 – ông luôn là con chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt

35

Nam. Tố Hữu đến với thơ ca cũng là lúc đến với cách mạng. Ở ông đã có sự gắn bó

song hành giữa thơ và cuộc đấu tranh cách mạng của đất nƣớc dân tộc và luôn có

những thành tựu trong hình thức nghệ thuật thơ.

Do có những đóng góp lớn lao cho nền thi ca cách mạng, nhà thơ đã vinh dự

đƣợc đón nhận những giải thƣởng: Giải nhất của Hội nhà văn Việt Nam 1954 –

1955 (Việt Bắc) – Giải thƣởng Văn học ASEAN (1996); Giải thƣởng Hồ Chí Minh

về văn học nghệ thuật 1996.

1.2.2. Con đường sáng tạo của nhà thơ Tố Hữu:

Ông là nhà thơ cách mạng. Suốt cả cuộc đời, trái tim luôn “dành riêng cho

Đảng phần nhiều”.

Bản thân Tố Hữu luôn có sự thống nhất giữa cách mạng, chính trị – thơ ca.

Trong sự kiện giác ngộ lý tƣởng cách mạng thì cũng chính là lúc Tố Hữu đã khơi

nguồn cảm hứng sáng tác cho bản thân mình. Sự đồng hành với con đƣờng đấu

tranh của cách mạng từ 1940 cho đến mãi sau này. Con đƣờng thơ của Tố Hữu

đƣợc khắc sâu qua các tập thơ tiêu biểu, để phản ánh sự phát triển tất yếu của cách

mạng Việt Nam và những chuyển biến trong tƣ tƣởng cũng nhƣ cảm xúc chủ đạo

của nhà thơ. Giới thiệu về các tập thơ của Tố Hữu:

1.2.2.1. Thời kỳ trước cách mạng 1945: Từ ấy

Đƣợc sáng tác từ 1937 đến 1946, là chặng đƣờng mƣời năm của thơ Tố Hữu

với những năm tháng đầu tiên giác ngộ lý tƣởng cách mạng. Trải qua những năm

tháng thử thách cho đến khi trƣởng thành của ngƣời thanh niên cách mạng trong

một giai đoạn lịch sử có nhiều biến cố lớn làm rung chuyển và đổi thay sâu sắc xã

hội Việt Nam.

Tập thơ Từ ấy gồm 3 phần: Xiềng xích - Máu lửa - Giải phóng.

Máu lửa: Chính là tiếng reo náo nức mê say của một tâm hồn trẻ đang băn

khoăn kiếm tìm lẽ sống thì đã gặp đƣợc ánh sáng lý tƣởng của cách mạng, giác ngộ

cách mạng:

Mặt trời chân lý chói qua tim

36

Về nghệ thuật, đa số đƣợc sáng tác theo thể thơ thất ngôn, giọng điệu tha

thiết chân thành sôi nổi và chất lãng mạn trong trẻo. Nhƣợc điểm của phần này là có

cả những non nớt khó tránh của một tâm hồn trẻ.

Xiềng xích: chủ yếu thể hiện bức tranh tâm trạng của một ngƣời chiến sĩ trẻ

trong những năm tháng đầu tiên bị giam cầm đày đọa với những cuộc đấu tranh gay

go và cả những giây phút kề bên cái chết:

Đời cách mạng từ khi tôi đã hiểu

Dấn thân vô là phải chịu tù đày

Là gƣơm kề tận cổ súng kề tai

Là thân sống chỉ coi còn một nửa.

Ở phần này đã thể hiện sự trƣởng thành vững vàng của một ngƣời thanh niên

cách mạng qua những gian lao thử thách hiểm nghèo. Một tâm hồn tha thiết yêu quê

hƣơng đất nƣớc, luôn hƣớng về cuộc sống bên ngoài nhà tù, luôn khao khát tự do và

hành động.

Giải phóng đƣợc sáng tác từ 1942 – 1946 khi Tố Hữu thoát khỏi nhà tù thực

dân, tiếp tục con đƣờng hoạt động cách mạng. Giải phóng là tiếng hát ngợi ca

những năm tháng đầu tiên cả dân tộc đang sống trong niềm vui độc lập tự do. Giải

phóng là tiếng ca nồng nhiệt say sƣa ngây ngất trong niềm vui bất diệt với cảm

hứng lãng mạn dâng trào trƣớc những cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

1.2.2.2. Thời kỳ 30 năm chiến tranh cách mạng (1945 – 1975):

Tập thơ Việt Bắc (1946 – 1954):

Phản ánh chặng đƣờng chín năm kháng chiến trƣờng kỳ chống thực dân

Pháp của dân tộc Việt Nam – Việt Bắc là một thành tựu xuất sắc của nền văn học

hiện đại Việt Nam – là bản anh hùng ca phản ánh đầy đủ những chặng đƣờng gian

lao anh dũng với những bƣớc đƣờng đi lên của dân tộc từ những ngày đầu tiên

kháng chiến cho đến những ngày tháng lợi hoàn toàn. Tập thơ đã kết tinh những

tình cảm lớn của con ngƣời Việt Nam trong chín năm kháng chiến chống thực dân

Pháp.

37

Bao trùm tập thơ là tình yêu quê hƣơng đất nƣớc đƣợc biểu hiện trong nhiều

trạng thái phong phú và đa dạng: Tình quân dân. Tình nghĩa hậu phƣơng với tiền

tuyến, miền ngƣợc với miền xuôi:

Những đƣờng Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập nhƣ là đất rung.

Quân đi điệp điệp trùng trùng

Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan

Dân công đỏ đuốc từng đoàn

Bƣớc chân nát đá, muôn tàn lửa bay

Ngàn đêm thăm thẳm sƣơng dày

Đèn pha bật sáng nhƣ ngày mai lên.

Tập thơ Gió lộng (1955 – 1961):

Gắn liền với hai nhiệm vụ lớn của dân tộc, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã

hội ở miền Bắc và giải phóng dân tộc, cho nên tập thơ chan chứa niềm vui niềm tự

hào, lạc quan tin tƣởng vào cuộc sống mới, cũng nhƣ thể hiện những tình cảm sâu

đậm đối với miền Nam gắn với ý chí thống nhất nƣớc nhà. Tập thơ đã thể hiện niềm

vui chiến thắng gắn liền với niềm tự hào của con ngƣời làm chủ đất nƣớc, làm chủ

vận mệnh của mình, vững tin ở cuộc sống ngày mai tốt đẹp hạnh phúc.

Mang cảm hứng lãng mạn và khuynh hƣớng sử thi đậm nét và không tránh

khỏi cái nhìn xuôi chiều, giản đơn về cuộc sống ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Đặc

sắc nhất trong tập thơ là bài Mẹ Tơm – đã thể hiện những tình cảm chân tình về ân

nghĩa cách mạng, sự suy ngẫm về lẽ sống, lẽ đời:

Sống trong cát chết vùi trong cát

Những trái tim nhƣ ngọc sáng ngời.

Tập thơ Ra trận (1962 – 1971) – Tập thơ Máu và hoa (1972 – 1977):

Là chặng đƣờng thơ Tố Hữu từ khi kháng chiến chống Mĩ bắt đầu cho tới

ngày toàn thắng.

Cả hai tập thơ là khúc ca ra trận, là lời kêu gọi cổ vũ chiến đấu, là mệnh lệnh

tiến công quyết liệt hào hùng.

38

Thơ Tố Hữu những năm chống Mỹ mang đậm tính chính luận và cảm hứng

sử thi. Tiêu biểu cho đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam trong thời kỳ kháng

chiến. Nhiều tác phẩm thơ, câu thơ đã vƣơn tới âm hƣởng anh hùng ca, tập trung thể

hiện hình tƣợng cao đẹp về Tổ quốc Việt Nam.

Những bài thơ hay và để lại nhiều cảm xúc: Bác ơi; Trường ca theo chân

Bác; Nước non ngàn dặm.

* Nhƣợc điểm: Do đi theo hƣớng khái quát tổng hợp và chú trọng đến nội

dung chính luận thời sự nên thơ Tố Hữu không khỏi có đôi chỗ khô cứng nhƣ

những lời kêu gọi hô hào kháng chiến mệnh lệnh khẩu hiệu, ít cảm xúc nghệ thuật.

1.2.2.3. Thời kỳ sau 1975: Một tiếng đờn (1979 – 1992) –Ta với ta

(1993 – 1999)

Đây là hai tập thơ ở chặng đƣờng cuối cùng – thể hiện sự suy tƣ, chiêm

nghiệm về cuộc sống, lẽ đời – nên giọng thơ thƣờng trầm lắng. Dù khuynh hƣớng

trữ tình chính trị cùng độ nhạy cảm trƣớc vấn đề thời sự tuy không còn là những

mạch nguồn cảm hứng duy nhất hay nổi trội nhất, thì trƣớc sau, Tố Hữu vẫn luôn là

một ngƣời kiên định có niềm tin sắt son vào lí tƣởng và con đƣờng cách mạng mà

mình đã chọn.

Tố Hữu đã để lại nhiều tập thơ hay và tiêu biểu nhƣ Từ ấy, Việt Bắc, Gió

lộng, Ra trận, Máu và hoa.

Con đƣờng thơ Tố Hữu gắn liền với những chặng đƣờng cách mạng của dân

tộc Việt Nam. Thơ Tố Hữu hƣớng tới quần chúng công – nông – binh, hƣớng tới

những lẽ sống lớn của dân tộc.

Có thể khẳng định Tố Hữu là nhà thơ xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt

Nam. Ông xứng đáng đƣợc trao tặng giải thƣởng Hồ Chí Minh đợt 1/1996. Nhà thơ

Tố Hữu để lại một di sản văn học lớn vừa góp phần phản ánh bộ mặt của thời đại

của dân tộc, đóng góp cho tiến trình hiện đại hóa nền thơ ca của dân tộc Việt Nam.

1.2.3. Quan niệm của Tố Hữu về thơ:

Tố Hữu là nhà thơ của lý tƣởng cộng sản, những chặng đƣờng thơ Tố Hữu

luôn có sự gắn liền với những chặng đƣờng lịch sử cách mạng của dân tộc. Nhà thơ

39

đã trình bày quan điểm sáng tác của mình trong bài viết “Xây dựng văn nghệ nhân

dân Việt Nam” đƣợc trình bày tại đại hội lần thứ II của Đảng vào tháng 2/1951:

“Văn học và địa vị chủ yếu của văn học là văn chƣơng chính trị”. Nhà thơ đã từng

khẳng định: “Địa vị của thơ ca chính là chính trị”.

1.2.3.1. “Thơ là chuyện đồng điệu – Tiếng nói đồng ý, đồng tình đồng

chí”

Thơ hay phải đƣợc nhiều ngƣời đọc yêu thích, có đƣợc sự đồng điệu tâm hồn

của ngƣời đọc, nói tới niềm vui nỗi buồn của nhiều ngƣời. Tuy nhiên, cho dù thơ có

xuất phát từ đâu, thì baogiờ cũng là sự tinh tú, chất nhụy tinh hoa ở cuộc đời. “Thơ

là tiếng nói hồn nhiên nhất của tâm hồn”. Thơ là tiếng nói của tâm hồn, thơ đi từ

tâm hồn nhà thơ, lấy tình cảm cách mạng là sự khởi nguồn của tâm hồn thi sĩ và thể

hiện trong lĩnh vực sáng tạo của mình tác động tới tâm hồn bạn đọc. Tố Hữu đã đặc

biệt quan tâm tới tình cảm, tâm trạng cũng nhƣ đề cao đƣợc cái bản chất quan trọng

của thơ – đây là quan niệm quá quen thuộc trong thơ ca. Vì: “thơ là tiếng nói hồn

nhiên của tâm hồn con ngƣời trƣớc cuộc đời”…

Thông thƣờng thì quan niệm mà Tố Hữu đã đề cập đó là tình cảm, một vấn

đề luôn thu hẹp lại với tấm lòng có tính chất riêng tƣ của nhà thơ. Ông đã chú trọng

tới tính giai cấp, thời đại và đặt nó trong mối quan hệ sâu sắc của tình cảm cách

mạng trong thơ với lý tƣởng và giữa hiện thực với hình thức biểu hiện.

Do vậy, đó phải là những tâm hồn đồng điệu mới có đƣợc sự đồng cảm nên

nhà thơ khẳng định: “Thơ là điệu tâm hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu”.

Trong đời sống thi ca tất thảy đều nảy sinh một tấm lòng riêng có sự đan kết

hòa nhập giữa lý tƣởng và tình cảm chung nhất của quần chúng cách mạng – mang

một sự đồng cảm phong phú. Biểu hiện của sự đồng điệu đó chính là: “Tiếng nói

đồng ý, đồng tình”.

Thơ luôn gần gũi, sẻ chia với tất cả mọi tấm chân tình – đã đƣợc coi nhƣ là

một chuyện đồng cảm, đồng điệu. Mạch nguồn cảm xúc của thơ ca đƣợc thể hiện

trên mọi cung bậc tình cảm thời cuộc và có tác dụng đến thời cuộc bấy giờ: “phải ở

trong lòng đồng chí mới có tiếng vang đến tấm lòng đồng chí”. Và cũng chính từ

40

những tiếng nói đó là một sự thể hiện sâu sắc đƣợc cất lên từ chính tiếng nói của

cuộc đời vậy.

Có thể thấy rõ quan niệm về thơ của Tố Hữu, cái hứng khởi chủ đạo cảm

quan nghệ thuật đều khởi nguồn từ quan điểm thơ ca giai cấp vô sản. Chính sự giác

ngộ lý tƣởng cộng sản, quá trình tôi luyện trong đấu tranh cách mạng – đã hình

thành nên một Tố Hữu thời bấy giờ. Cách nhìn nhận mới mẻ trƣớc bình minh của

mặt trời cách mạng, khiến Tố Hữu đã có những quan điểm giai cấp biểu hiện trong

sự khẳng định tất yếu của thời đại, mang đậm tính chất xã hội tiến bộ so với các nhà

thơ khác cùng thời.

Bởi thế, câu nói của Tố Hữu “Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình tiếng nói

đồng chí” – đây là một quan niệm có tính chất chính trị thể hiện rõ sự thay đổi lớn

trong sự chuyển biến cũng nhƣ nhận thức về giai cấp – nên nó phù hợp với giai cấp

vô sản.

1.2.3.2. Sự thể hiện quan niệm về thơ trong sáng tác của nhà thơ Tố

Hữu:

Tố Hữu đã nói lên lý tƣởng sống và ý nghĩa sống của đời mình: Tôn thờ chủ

nghĩa, Đảng và nhân dân:

Dâng tất cả để tôn thờ chủ nghĩa.

Trong Bài ca mùa xuân 1961 – Tố Hữu đã thể hiện rõ quan niệm của mình:

Mà nói vậy: “Trái tim anh đó

Rất chân thật, chia ba phần tƣơi đỏ:

Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều

Phần cho thơ, và phần để yêu em…

Nhƣ vậy cuộc đời, trái tim và tâm hồn ấy đã dành riêng cho Đảng, dành cho

lý tƣởng, là những gì cao quý nhất và thiêng liêng nhất, phần cho thơ – chính là

cách mạng, nhân dân và những chặng đƣờng đấu tranh của lịch sử dân tộc, cho

những gì tƣơi đẹp của cuộc đời cách mạng. Đó là những cống hiến rất cao đẹp của

một tâm hồn thi sĩ lớn của dân tộc.

41

Ở trong các sáng tác của mình, đối tƣợng thơ Tố Hữu hƣớng tới đó là đồng

bào đồng chí, những ngƣời cùng chung lí tƣởng, cùng chung một hàng ngũ. Bƣớc

đƣờng hoạt động cách mạng, Tố Hữu đã đồng cảm với đời sống của những ngƣời

cần lao và chính họ là động lực thúc đẩy sự thành công của cuộc cách mạng. Trải

qua nhiều cuộc chiến tranh những chiến sĩ – thi sĩ cách mạng, bôn ba hoạt động

cách mạng đều có sự đùm bọc chở che của quần chúng nhân dân dù cuộc sống họ

chật vật, gian khó

Tháng ngày chát cổ cơm khoai sắn,

Rách rƣới lều che tạm gió sƣơng.

Cái khổ, cái nghèo nhƣ thấm đƣợc chất nhân văn, tinh thần đoàn kết tƣơng

thân tƣơng ái trong cuộc chiến giành độc lập nƣớc nhà. Khi giác ngộ lý tƣởng cộng

sản, tƣ tƣởng cảm xúc chủ đạo có sự thay đổi chuyển biến rõ rệt:

Tôi buộc hồn tôi với mọi ngƣời

Để tình trang trải với trăm nơi

Để hồn tôi với bao hồn khổ

Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

(Từ ấy)

Tâm hồn nhà thơ đã hòa nhịp đập với những con ngƣời cần lao và coi đó là

động lực, lẽ sống và niềm tin trong đấu tranh cách mạng.

Đặc biệt trong nội dung tƣ tƣởng tình cảm thơ Tố Hữu luôn là những vấn đề,

những hình ảnh của số đông liên quan, phản ánh đời sống của cộng đồng, của dân

tộc. Do đó, dễ bắt gặp sự cộng hƣởng rất lớn, sâu sắc và đông đảo của quần chúng

cách mạng.

Cuộc vận động của Đảng xuất phát từ sau 1948 đã là một vấn đề thay đổi lớn

trong đƣờng lối văn nghệ bởi hai mục tiêu đề ra “Cách mạng hóa tƣ tƣởng”, “quần

chúng hóa sinh hoạt” đƣợc văn nghệ sĩ chú trọng, có sự xác định rõ rệt hơn.

Cũng vì lẽ đó mà mối quan hệ của văn nghệ và cuộc sống đƣợc chú trọng

hơn; văn nghệ phải phục vụ cách mạng, nhân dân. Nội dung của tác phẩm cũng đều

phải có quan hệ giữa quần chúng và cách mạng. Thơ ca phải phản ánh những nỗi

42

đau khổ, căm thù, mong ƣớc và luôn luôn phải phù hợp thị hiếu thẩm mỹ quần

chúng nhân dân.

Ở Việt Bắc, quan niệm của Tố Hữu cụ thể, sâu sắc hơn. Ông chú trọng tính

nhân dân – đó là điểm tựa, là mục tiêu sáng tác:

Nhân dân là bể

Văn nghệ là thuyền…

Ở đây là mối quan hệ bản chất giữa nhân dân – văn nghệ, điều có thể hiểu

hơn là phải có sự nghiệp cách mạng thì mới có thơ, có thơ thì mới có sự tác động

thực thụ đối với quần chúng, cách mạng. Tố Hữu đã có những vần thơ miêu tả về

những con ngƣời kháng chiến ở chiến khu, ngƣời chiến sĩ vƣợt khó khăn, gian khổ

trong cuộc kháng chiến:

Gan không núng

Chí không sờn

Tâm tình ngƣời chiến sĩ cộng sản luôn gửi hồn mình thƣơng nhớ tới nơi chôn

rau cắt rốn – quê hƣơng yêu dấu. Đƣợc thể hiện trong ý thơ bà bầm, bà bủ “nằm ổ

chuối khô” canh cánh thƣơng nhớ ngƣời con đi đánh trận nơi xa, hay nỗi thƣơng

nhớ của những chiến sĩ thƣơng mẹ già nơi quê hƣơng… tất cả đều đƣợc phản ánh

vào thơ với biết bao tâm sự thân thƣơng, trìu mến, sẻ chia – dẫn tới sự hóa thân của

nhân vật trữ tình trong thơ – đó cũng là cảm xúc thật của Tố Hữu. Đây chính là một

quan niệm đúng đắn: “Nền văn học mang tính nhân dân sâu sắc”

Thơ Tố Hữu là sự thể hiện trong những tình cảm lớn – tình cảm với Đảng;

quần chúng… Nhà thơ thể hiện trong nhiều sắc thái tình cảm riêng. Để ghi lại sự

kiện về sự ra đời của Đảng, một hình ảnh thân thƣơng, gần gũi chứa đựng nhiều kỷ

niệm đẹp trong cuộc đời Tố Hữu:

Đảng ta, con của phong trào

Mẹ nghèo mang nặng khổ đau khôn cầm

Nhƣ đứa trẻ sinh nằm trong cỏ

Không quê hƣơng sƣơng gió tơi bời

Đảng ta sinh ở trên đời

43

Một hòn máu đỏ nên ngƣời hôm nay

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Dù dƣới bất cứ tình cảm nào, Tố Hữu đều thổ lộ lòng mình một cách trang

trọng, đầy nhiệt huyết. Và những tình cảm đó đƣợc hội tụ biết bao những tình cảm,

tâm tƣ, tấm lòng quần chúng nhân dân trong những sự kiện, những chuyển biến thời

đại cách mạng. Mỗi một vần thơ nhƣ chắp cánh nhiều ƣớc mơ bay xa của quần

chúng nhân dân, để họ tự ý thức và hành động đúng bƣớc đƣờng hoạt động cách

mạng gian nan nhƣng hào hùng.

Bài thơ Từ ấy đã từng là tiếng nói chung của lý tƣởng cách mạng với đông

đảo tầng lớp thanh thiếu niên Việt Nam, đã trở thành lý tƣởng sống của hàng triệu

trái tim những tâm hồn ngƣời Việt trong cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vƣờn hoa lá

Rất đậm ƣơng và rộn tiếng chim.

Quan niệm “Thơ là chuyện đồng điệu” đã thấm sâu, thấm suốt trong những

sáng tác thơ ca của Tố Hữu, để tạo nên vẻ đẹp riêng của thế giới nghệ thuật thơ Tố

Hữu.

Tiểu kết: Ở chƣơng này, chúng tôi đi vào tìm hiểu sự ảnh hƣởng thơ ca dân

gian trong thơ Việt Nam hiện đại cũng nhƣ con đƣờng sáng tạo của nhà thơ Tố

Hữu. Chính từ “nguồn sữa mẹ” của thơ ca dân gian, đã là cái nôi nuôi dƣỡng và

chắp cánh cho hồn thơ Tố Hữu. Từ đó hình thành nhân cách, tài năng, tâm hồn của

ngƣời chiến sĩ cộng sản vƣợt qua gian nan, qua các chặng đƣờng cách mạng. Vì lẽ

đó, con đƣờng thơ và con đƣờng cách mạng luôn song hành, nhƣ một tấm thảm đan

kết nhau để thể hiện tƣ tƣởng chủ đạo, cảm xúc, sự chuyển biến của ngƣời chiến sĩ

cộng sản vƣợt qua bao nhà tù, bao sự tra tấn dã man – không hề khuất phục, nao

núng trƣớc bè lũ tay sai và bọn thực dân. Tố Hữu đã để lại cho hậu thế, những vần

thơ “máu lửa” đƣợc coi là một bức tâm thƣ đậm chất thép mang cốt cách ngƣời

chiến sĩ cộng sản. Qua những vần thơ mộc mạc, ông đã gửi gắm quan niệm chân

44

thật của mình về thơ. Đó là điểm đáng trân trọng và khâm phục với tâm hồn thơ Tố

Hữu – rất Việt Nam, chan chứa sự đồng điệu trong thơ.

45

CHƢƠNG 2

Thơ ca dân gian và những mạch nguồn cảm xúc trong thơ Tố Hữu.

2.1. Cảm xúc thơ bắt nguồn từ tình yêu thiên nhiên đất nước

Đề tài tình yêu thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng cho các thi nhân qua

nhiều thế hệ sáng tác. Yêu nƣớc cũng là yêu cảnh đẹp non sông, yêu những con

ngƣời cần cù trong lao động sản xuất và trong chiến tranh chống ngoại xâm. Tất cả

đều đƣợc quy tụ lại và trở thành một nguồn xúc cảm nghệ thuật từ xƣa cho đến nay.

Quan niệm về thơ của Tố Hữu khi nói về đất nƣớc “Trông lại nghìn xƣa,

trông tới mai sau”; kết tụ những gì tốt đẹp nhất, đẹp đẽ nhất trong hiện tại, quá khứ,

tƣơng lai. Hình bóng non sông đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử và đã đƣợc ghi tạc

trong thơ:

Thơ ta ơi! Hãy cất cao tiếng hát

Ca ngợi trăm lần Tổ quốc chúng ta.

Việt Nam của chúng ta, là một dân tộc vốn có truyền thống yêu chuộng thi

ca. Thơ ca dân gian trong ca dao, dân ca của nhân dân lao động luôn là thơ, nhạc –

chan chứa chất trữ tình lãng mạn. Họ đã gửi gắm xúc cảm nghệ thuật của lòng mình

trƣớc thiên nhiên đất nƣớc.

Bức tranh “sơn thủy hữu tình” của Tổ quốc vốn là sự tuyệt mỹ. Hình ảnh con

ngƣời sinh sống trên mảnh đất đồng ruộng phì nhiêu, rừng vàng biển bạc… không

thể không rung động cảm nhận vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của dân tộc. Có sự hòa

nhập giữa tình cảm của con ngƣời với thiên nhiên từ rất xa xƣa tới nay:

Vì mây cho núi lên trời

Vì chƣng gió thổi hoa cƣời với trăng

Hoặc: Nƣớc trong xanh lặng ngắt nhƣ tờ

Một đàn cá nhớn nhấp nhô đầu ghềnh

Kì ai đứng ở đầu ghềnh…

Ngƣời nông dân đã “hỏi tuổi trăng”; “hỏi tuổi núi”; nghe đƣợc tiếng sóng,

tiếng chim, thu hút cảnh vật trong chính tâm hồn mình để hòa nhập với thiên nhiên,

đất trời…

46

Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng

Thấy mênh mông bát ngát…

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng,

Thấy bát ngát mênh…

Thân em nhƣ chẹn lúa đòng đòng,

Phất phơ dƣới ngọn ánh hồng ban mai.

Rồi từ lũy tre làng, dòng sông thơ mộng… hay núi rừng trùng điệp, hùng vĩ,

tiếng hát đƣợc cất lên từ chính những con ngƣời lao động – ngợi ca dấu vết khắc tạc

của lịch sử ông cha ta đã dựng xây, bồi đắp lên núi, lên thành…

Đƣờng lên thành Lạng bao xa,

Cách một trái núi, cách ba quãng đồng.

Ai ơi đứng lại mà trông,

Kìa núi thành Lạng, kìa sông Tam Cờ…

rồi cảnh núi rừng Điện Biên hùng vĩ, hiểm trở:

Đƣờng lên Mƣờng – Lễ bao xa?

Trăm bảy mƣơi thác, trăm ba mƣơi ghềnh!

Thiên nhiên tƣơi đẹp không dừng lại ở đó, trở về với miền Bắc thân thƣơng:

Nƣớc sông Thao biết bao giờ cạn!

Núi Ba Vì biết vạn nào cây!

“Tức cảnh sinh tình”, hội tụ trƣớc cảnh đẹp thiên nhiên đất nƣớc – về đèo

Hải Vân:

Hải Vân bát ngát ngàn trùng,

Hòn Hồng ở đấy là trong vịnh Hàn

Thi sĩ dân gian đã ngƣợc dòng thời gian trở về đất Thăng Long “nghìn năm

văn hiến”, Hà Thành yêu dấu, với cảnh đẹp của Hồ Tây thơ mộng hữu tình nhƣ một

bài thơ Đƣờng thi đặc sắc:

Gió đƣa cành trúc la đà

Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xƣơng

Mịt mù khói tỏa ngàn sƣơng,

47

Nhịp chày Yên Thái, mặt gƣơng Tây Hồ.

Thơ ca dân gian đã chắt lọc đƣợc những tinh hoa tuyệt mỹ nhất về hình ảnh

đất nƣớc thân yêu – nơi ải Bắc xa xôi:

Đồng Đăng có phố Kì Lừa

Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh…

Xứ Huế thơ mộng cũng đã đƣợc khắc tạc trong vẻ đẹp mộng mơ, huyền diệu:

Núi Truồi ai đắp mà cao

Sông Hƣơng ai bới, ai đào mà sâu…?

Tố Hữu cũng đã miêu tả bức tranh cảnh đẹp đất nƣớc:

Rộn ràng thay, cảnh quê hƣơng

Nửa công trình, nửa chiến trƣờng xôn xao…

Và cảnh đẹp hữu tình đó còn thể hiện trong những khía cạnh cảm xúc về quá

khứ, đƣợc tôi đúc lên trong thời kì mới:

Đƣờng vào Khu Bốn vào Thanh

Không đi thì nhớ không đành, phải đi

Lắng nghe… nhƣ biển rầm rì

Đƣờng ra tiền tuyến lắm khi giục lòng?

Lòng yêu đất nƣớc quê hƣơng đƣợc ghi nhận trong những cảnh đẹp của nhân

dân thời xƣa qua ca dao – trở thành thân thiết, tƣơi đẹp trong thơ Tố Hữu:

Nƣớc non mình đâu cũng đẹp nhƣ tranh

Gƣơng mặt ngƣời ai cũng sáng long lanh…

Tình yêu cảnh đẹp thiên nhiên trong thơ Tố Hữu đã bƣớc sang một trạng thái

cảm nhận khác. Đó là sự tôn vinh với những di sản văn hóa truyền thống dân tộc:

Đêm khuya một tiếng bầu, tiếng trúc

Một câu hò cũng động trong tim…

Làn điệu hò của quê hƣơng, tức cảnh quê hƣơng trong ca dao đã đƣợc Tố

Hữu ƣơm mầm vẽ lên. Tố Hữu là một ngƣời có sự kế thừa và phát huy thơ ca dân

gian lên tầm vóc mới của dân tộc.Trong bài thơ Ta đi tới (tháng 8/1954) – ta bắt gặp

hình ảnh:

48

Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi!

Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt

Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nƣớc Bình Ca…

Một đất nƣớc giàu đẹp đã quyện vào ý thơ, với muôn điệu trong cung bậc

cảm xúc đổi thay ngày một đi lên trong giàu mạnh, tƣơi đẹp, dào dạt sức sống của

thời đại. Vẻ đẹp của Tổ quốc đích thực về ta, toát lên sự hồi sinh và đƣợc lan tỏa

khắp nơi trên mọi vùng miền Tổ quốc. Đứng ở độ cao đó là vẻ đẹp của “Rừng Cọ”,

đồi chè và ở góc độ thấp đó là đồng xanh tỏa ngát mùi hƣơng; dƣới góc nhìn cận

cảnh bức tranh sau cùng là dòng sông trong xanh phản chiếu cảnh mặt trời ánh nắng

chiếu rọi. Cảnh sông nƣớc càng tƣơi đẹp trong dòng sông lấp lánh nhƣ thầm hát về

những chiến công oanh liệt thuở trƣớc, trong tiếng hát thân thƣơng yêu đời hòa lẫn

tiếng hò nhịp trong nhịp sóng nƣớc của con sông.

Chúng ta còn bắt gặp trong những câu thơ:

Việt Nam đất nƣớc ta ơi!

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả dập dờn

Mây mờ che đỉnh Trƣờng Sơn sớm chiều

(Nguyễn Đình Thi – Bài thơ Hắc Hải – 1958)

Đây là những hình ảnh tiêu biểu đã đƣợc Nguyễn Đình Thi khắc vẽ lên với

bức họa đẹp về đất nƣớc Việt Nam. Nén xúc động lòng mình, nhà thơ đã cho chúng

ta thấy đƣợc đất nƣớc mình với những đồng lúa mênh mông; đất nƣớc trong những

khoảng trời mùa thu, xanh thẳm không cùng; đất nƣớc với “những cánh cò bay lả

dập dờn” trên cánh đồng, làng mạc. Đất nƣớc trong viễn cảnh dãy Trƣờng Sơn

trùng điệp…

Chỉ vài nét mềm mại, đã đƣợc Nguyễn Đình Thi tạo nên trong gam màu

sáng, đầy sức sống mãnh liệt về một đất nƣớc thân yêu giàu và đẹp “Đất nƣớc Việt

Nam rừng vàng biển bạc, đồng ruộng phì nhiêu màu mỡ…”. Hình ảnh về vẻ đẹp

của dòng sông thơ mộng xanh biếc đƣợc kết tụ trong bóng hàng tre đã đƣợc in dấu

49

trong tâm trí mỗi ngƣời dân Việt Nam. Đó là vẻ đẹp rất đỗi thân thƣơng, gần gũi,

mang màu sắc dấu ấn riêng của con ngƣời qua nhiều thế kỷ. Con sông đó đã ghi lại

những dấu ấn kỷ niệm của tuổi trẻ, chính nơi đây đã từng tắm mát cuộc đời – nâng

bƣớc chân nhà thơ trên mọi nẻo đƣờng kháng chiến. Mối tình với dòng sông cũng

chính là mối tình với ngày đã qua chất chứa nhiều kỷ niệm. Đó cũng là mối tình với

quê hƣơng, với miền Nam ruột thịt, suy rộng ra đó còn là tình yêu đất nƣớc Việt

Nam:

Quê hƣơng tôi có con sông xanh biếc

Nƣớc gƣơng trong soi tóc những hàng tre

Tâm hồn tôi là một buổi trƣa hè

Tỏa nắng xuống lòng sông lấp loáng…

(Tế Hanh, Nhớ con sông quê hương – 1956)

Cũng có thể thấy ở đây:

Đất nƣớc

Của những ngƣời mẹ

Mặc áo thay vai

Hạt lúa củ khoai

Bền bỉ nuôi chồng nuôi con chiến đấu

Đất nƣớc

Của những ngƣời con gái con trai

Đẹp nhƣ hoa hồng, cứng nhƣ sắt thép

Xa nhau không hề rơi nƣớc mắt

Nƣớc mắt để dành cho ngày gặp mặt.

(Nam Hà – Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi – 1966)

Nhà thơ đã khái quát đƣợc những vẻ đẹp khác nhau giữa đất nƣớc, con ngƣời

Việt Nam. Thật cảm động biết bao trƣớc những con ngƣời lao động bình dị, nhƣng

rất đỗi anh hùng của đất nƣớc ta.

Lời thơ thật tự hào khi tác giả nói và nhắc tới những ngƣời con trai, con gái

có tâm hồn cao quý, đẹp tựa nhƣ đóa hồng sắc thắm, nhƣng tất cả đều toát lên một ý

50

chí, nghị lực phi thƣờng. Họ là những con ngƣời đã tô điểm và vẽ lên một đất nƣớc

hùng vĩ, tƣơi đẹp. Trong đó là vẻ tiềm ẩn sản sinh ra con ngƣời vĩ đại viết lên trang

sử hào hùng, oanh liệt, thấm đầy máu và nƣớc mắt để có đƣợc nền độc lập tự do.

Tình yêu thiên nhiên đất nƣớc đƣợc biểu hiện muôn hình vạn trạng, tức cảnh

sinh tình. Vẻ đẹp non sông đó đã hòa nhập trong nhịp sống của thơ ca dân gian,

trong nhiều câu ca dao, để gửi gắm nỗi niềm tâm sự của mình trong lao động sản

xuất và trong đời sống thƣờng nhật.

Tiếp nối dòng thơ dân gian, các nhà thơ giai đoạn 1945 – 1975 đã có những

dòng, những đoạn thơ để ngợi ca quê hƣơng đất nƣớc Việt Nam một cách đậm đà,

chất chứa nỗi niềm của thời đại. Đó cũng là một sự cộng hƣởng, gạch nối giữa hai

thời đại thơ ca dân gian và thơ hiện đại Việt Nam, mang bản sắc và cốt cách tâm

hồn Việt Nam qua nhiều thế hệ xƣa – nay ngày một nâng cao.

2.2. Cảm xúc thơ bắt nguồn từ vẻ đẹp của nghĩa tình thủy chung

Việt Bắc đã đánh dấu những bƣớc chuyển biến lớn của thơ ca Tố Hữu song

song với sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đây là tập thơ đƣợc viết ở thời

kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lƣợc. Có thể khẳng định, đây là một tập

thơ thành công nhất của thơ ca Việt Nam giai đoạn này. Điểm tụ hội của tập thơ

Việt Bắc, là một bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài

gian khổ nhƣng nhất định thắng lợi – và cũng là sự kết tinh trong những tình cảm

lớn của con ngƣời Việt Nam trong kháng chiến toàn dân.

Từ tập thơ Từ ấy cho tới Việt Bắc, đã đánh dấu sự chuyển biến mạnh về cảm

xúc chủ đạo tập thơ. Cuộc kháng chiến toàn dân vĩ đại của dân tộc Việt Nam, đã

khiến cho cảm xúc nhà thơ thiên hƣớng tới những con ngƣời công nông binh, bình

thƣờng mà vĩ đại phi thƣờng thấu hiểu đƣợc nỗi khó nhọc, vui buồn, niềm tin của

quần chúng nhân dân.

Trƣớc hết, Việt Bắc là một bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến toàn dân,

toàn diện, lâu dài gian khổ, thắng lợi.

Mạch nguồn cảm xúc trong tập Việt Bắc đã thực sự khắc tạc về hình ảnh

nhân dân anh hùng trong cuộc kháng chiến: hình ảnh em bé liên lạc; hình ảnh anh

51

bộ đội, hình ảnh các anh chị dân công, hình ảnh bà mẹ, chị phụ nữ, ngƣời tiêu biểu

cho dân tộc Việt Nam anh hùng. Khuynh hƣớng cảm xúc chủ đạo đã ghi lại đƣợc

chặng đƣờng của cuộc kháng chiến. Tập Việt Bắc, đó còn là sự hội tụ kết tinh trong

những tình cảm lớn của con ngƣời Việt Nam kháng chiến.

Sự hội tụ của tập thơ Việt Bắc, là những tình cảm lớn lao của ngƣời dân Việt

Nam, ở thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp: tình yêu quê hƣơng đất nƣớc,

tình đồng bào, đồng chí sâu sắc, tình cá nƣớc giữa cán bộ, bộ đội và nhân dân; tình

gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phƣơng; lòng kính yêu lãnh tụ…

Hình ảnh nhân dân anh hùng qua trang thơ Tố Hữu, đó là những con ngƣời

thực trong cuộc kháng chiến trƣờng kì.

Lƣợm là em bé giao liên thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến. Hình ảnh đƣợc

ghi lại là một chú bé nhí nhảnh, hồn nhiên lạc quan:

Chú bé loắt choắt,

Cái xắc xinh xinh

Cái chân thoăn thoắt

Cái đầu nghênh nghênh

Ca lô đội lệch

Mồm huýt sao vang,

Nhƣ con chim chích,

Nhảy trên đƣờng vàng…

Lƣợm đã dũng cảm trên đƣờng liên lạc:

Vụt qua mặt trận,

Đạn bay vèo vèo.

Thƣ đề “Thƣợng khẩn”,

Sợ chi hiểm nghèo?

Lƣợm đã anh dũng ngã xuống nhƣ một ngƣời anh hùng:

Cháu nằm trên lúa

Tay nắm chặt bông

Lúa thơm mùi sữa

52

Hồn bay giữa đồng…

Với Việt Bắc, Tố Hữu đã khắc họa thành công về hình ảnh anh bộ đội trong

kháng chiến một cách chân thực, rõ nét. Đó là anh bộ đội lên Tây Bắc “Tay dao, tay

súng, gạo đầy bao, chân cứng đạp rừng gai đá sắc”. Các anh bộ đội, đã sống và

chiến đấu ở một hoàn cảnh cực kì gian nan, khó nhọc nơi miền rừng núi thuộc Tây

Bắc:

Lại những ngày đi, vắt với sƣơng,

Ngô bung, xôi nhạt, nƣớc lƣng bƣơng,

Đêm mƣa rình giặc, tai thao thức

Mùa lại mùa qua, rét nhức xƣơng.

(Lên Tây Bắc)

Khắc phục hoàn cảnh để chiến đấu, tiêu diệt giặc thù, đem lại hạnh phúc cho

nhân dân:

Mỗi bƣớc, vàng theo đồng lúa chín,

Lửa vui từng mái nứa tƣơi xanh

Cho dù cuộc sống còn quá nhiều vất vả, ngƣời lính đã phải trải qua trong

cuộc chiến – nhƣng với lòng quả cảm “không tiếc thân mình – không tiếc máu

xƣơng”, dâng hiến tuổi thanh xuân cho cuộc kháng chiến toàn dân. Trong cuộc

chiến quả cảm, các anh đã lập nên những kỳ tích lẫy lừng, nối chí cha ông thuở

trƣớc:

Hoan hô chiến sĩ Điện Biên,

Chiến sĩ anh hùng,

Đầu nung lửa sắt,

Năm mƣơi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mƣa dầm, cơm vắt,

Máu trộn bùn non,

Gan không núng,

Chí không mòn

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

53

Để rồi trang thơ Việt Nam lại in đậm dấu ấn trong lòng độc giả chúng ta về

hình ảnh các anh chị dân công Việt Bắc. Qua những câu thơ, bài thơ Tố Hữu đều

khắc họa về hình ảnh các anh chị dân công, những ngƣời dân ngày đêm phải vƣợt

gian nan tất cả cho tiền tuyến, để vận tải quân lƣơng. Thật cảm động và chan chứa

biết bao qua vần thơ của Việt Bắc mang đậm dấu ấn anh hùng thời đại khi tác giả

nói về những ngƣời dân công anh hùng đã làm những công việc thầm lặng, góp sức

tất cả cho tiền tiêu của Tổ quốc:

Dân công đỏ đuốc từng đoàn,

Bƣớc chân nát đá, muôn tàn lửa bay

(Việt Bắc)

Đẹp biết bao trong những trang thơ Tố Hữu, còn là những chị phụ nữ Bắc

Giang, dù bận rộn trăm bề, nhƣng vẫn hăng hái tham gia công tác kháng chiến và

làm trọn nghĩa vụ của một ngƣời dân đối với kháng chiến trong tƣ thế của ngƣời

làm chủ:

Nhà em phơi lúa chƣa khô

Ngô chửa vào bồ, sắn thái chƣa xong

Nhà em con bế con bồng

Em cũng theo chồng đi phá đƣờng quan

(Phá đường – 1948)

Xuất hiện trong trang thơ, ngƣời đọc chúng ta còn thấy “Bà mẹ Việt Bắc”,

vốn có lòng căm thù tột độ với bọn phong kiến thực dân dã man, và lòng tôn kính

Cụ Hồ – dù cô đơn vẫn có lời thơ đầy khẩu khí, anh hùng:

Tôi bảo: Mày đi, Mày lo cho khỏe.

Đừng nghĩ lo gì, ở nhà có mé

Bà đã đặt tất cả tâm huyết vào niềm tin tƣởng ngày mai chiến thắng, ngƣời

con sẽ trở về. Tuy cuộc sống nghèo khổ “bữa đói, bữa no” cùng với những ngƣời

con “lành nhƣ đất”, đứng lên làm cách mạng:

Tôi ôm lấy nó

Tôi kể trƣớc sau

54

Nỗi nhà mất bố

Nỗi anh chết tù

Mắt nó đỏ nọc

Nó cầm tay tôi:

“Mẹ ơi đừng khóc

Nƣớc độc lập rồi”

Với hình ảnh:

Bà bủ không ngủ, bà nằm

Càng lo, càng nghĩ, càng căm, càng thù

“Bà Bủ” nằm ổ chuối khô, đêm mƣa gần tết, nhƣng tâm trạng chất chứa nỗi

thƣơng nhớ ngƣời con, thƣơng những anh bộ đội – oán tránh bọn xâm lăng, gây ra

bao cảnh tang thƣơng không chỉ mình bà mà cho cả đại gia đình dân tộc Việt Nam

lúc bấy giờ.

Và cũng từ Bà Bủ, ngƣời đọc chúng ta còn nhớ tới những ngƣời mẹ Việt nam

và rất đỗi anh hùng thật đáng tự hào để mọi ngƣời dân tôn kính. Bà mẹ trong Bầm

ơi, tuy ngoài sáu mƣơi – nhƣng vẫn “chân lội dƣới bùn, tay cấy mạ non”, yêu

thƣơng các anh bộ đội nhƣ chính con ruột của mình.

Bà mẹ trong Cá nước, ở nơi hậu phƣơng – giữ cháu để các con của mình ra

đi đánh giặc và lao động sản xuất:

Bố đi đánh giặc còn lâu,

Mẹ mày cày cấy ruộng sâu tối ngày.

Hình ảnh vị lãnh tụ đáng kính của dân tộc Việt Nam, vị cha già dân tộc Việt

Nam đã đƣợc Tố Hữu ghi lại trong Việt Bắc:

Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời

Áo nâu túi vải, đẹp tƣơi lạ thƣờng!

Nhớ Ngƣời những sáng tinh sƣơng,

Ung dung yên ngựa trên đƣờng suối reo.

Nhớ chân Ngƣời bƣớc lên đèo,

Ngƣời đi rừng núi trông theo bóng Ngƣời.

55

Bác Hồ “ngƣời là niềm tin tất thắng”, vị chỉ huy trong cuộc kháng chiến toàn

dân của dân tộc Việt Nam anh hùng:

Ngƣời ngồi đó, với cây chì đỏ

Vạch đƣờng đi, từng bƣớc, từng giờ

(Sáng tháng năm)

Trên bƣớc đƣờng của cuộc kháng chiến toàn dân anh hùng, cách mạng Việt

Nam đã có nhiều thắng lợi đáng kể. Tập thơ Việt Bắc đã đƣợc nhà thơ Tố Hữu ghi

tạc trong những câu thơ, hình ảnh thơ về những thắng lợi to lớn của cuộc kháng

chiến anh hùng của nhân dân Việt Nam:

Anh kể chuyện tôi nghe,

Trận chợ Đồn, chợ Rã.

Ta đánh giặc chạy re,

Hai đứa cƣời ha hả.

Rồi Bông Lau, Ỷ La,

Ba trăm thằng tan xác.

Cành cây móc thịt da,

Thối inh rừng Việt Bắc.

Tàu giặc đắm sông Lô,

Tha hồ mà uống nƣớc.

Chín năm làm một Điện Biên

Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng

Tố Hữu đã gửi cảm xúc của mình trong những vần thơ để ca ngợi một chiến

dịch Điện Biên Phủ, lừng lẫy “năm châu”, chấn động địa cầu đầy hào khí anh hùng

thời đại:

Kháng chiến ba ngàn ngày,

Không đêm nào vui bằng đêm nay,

Đêm lịch sử, Điện Biên sáng rực,

Trên đất nƣớc nhƣ huân chƣơng trên ngực.

56

Dân tộc ta, dân tộc Anh hùng!

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

Thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1946 – 1954), đã tụ hội trong mỗi ngƣời

dân Việt Nam kháng chiến với những tình cảm lớn lao; đây có thể coi nhƣ một

thành công trong những tình cảm vĩ đại mang tầm vóc thời đại.

Việt Bắc chan chứa vẻ đẹp của thiên nhiên đất nƣớc hội tụ trong đó vẻ đẹp

trẻ trung, đầy sức sống mãnh liệt luôn gắn liền với con ngƣời kháng chiến:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tƣơi,

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lƣng.

Ngày xuân mơ nở trắng rừng,

Nhớ ngƣời đan nón chuốt từng sợi giang.

Ve kêu rừng phách đổ vàng,

Nhớ cô em gái hái măng một mình

(Việt Bắc)

có sự hòa quyện giữa thiên nhiên trong mỗi con ngƣời kháng chiến đánh giặc quả

cảm:

Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây

Núi dăng thành lũy sắt dày,

Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù

(Việt Bắc)

Hòa vào mạch cảm xúc về vẻ đẹp của nghĩa tình thủy chung đó là tình đồng

bào, đồng chí thật sâu nặng biết bao. Trang thơ Việt Bắc đã có rất nhiều câu thơ chất

chứa tình cảm mới, đƣợc xuất hiện ở đời sống tinh thần của tình cảm ngƣời dân

kháng chiến. Đó là biểu hiện của mối tình đồng bào, đồng chí cùng “chung lƣng đấu

cật” để vƣợt qua mọi gian nan, khó nhọc góp sức đƣa cuộc kháng chiến toàn dân tới

thắng lợi hoàn toàn. Quả đó là một mối thâm tình hết sức sâu nặng:

Mình về, có nhớ chiến khu,

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?

Mình về, rừng núi nhớ ai,

57

Trám bùi để rụng, măng mai để già

Sự gian nan biết bao “máu đã đổ” ác liệt nơi chiến trƣờng, những niềm tin

yêu cũng chính là sự kết tinh trong mối tình của ngƣời cán bộ với anh bộ đội và cả

những ngƣời công dân – họ cùng chung sức gánh vác một nhiệm vụ cao cả, vĩ đại:

kháng chiến; cùng chung một mục đích, một lý tƣởng rạng ngời chân lý: đƣa cuộc

kháng chiến toàn dân đến thắng lợi hoàn toàn:

Anh là Vệ quốc quân,

Tôi là ngƣời cán bộ…

… Gặp nhau mới lần đầu,

Họ tên nào có biết?

Anh ngƣời đâu, tôi đâu,

Gần nhau là thân thiết.

Một thoáng lặng nhìn nhau,

Mắt đã tìm hỏi chuyện.

Đôi bộ áo quần nâu.

Đã âm thầm thƣơng mến.

(Cá nước)

Có thể thấy Việt Bắc là một trong những biểu hiện thành công của những

tình cảm lớn của dân Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Đây là những nét

đặc sắc, độc đáo ở tập thơ Việt Bắc.

Con ngƣời luôn trở về mạch nguồn cảm xúc trong những trang thơ, mang

đậm chất nhân văn – chất trữ tình; hàm chứa tinh thần thời đại.

Tố Hữu qua những trang thơ tiêu biểu của tập Việt Bắc luôn luôn khắc họa

đậm nét về những hình ảnh con ngƣời bình thƣờng, để tạc nên pho sử huy hoàng

của cuộc kháng chiến vĩ đại.

Việt Bắc luôn xứng đáng là một bài ca chan chứa tình yên nƣớc, tinh thần

đoàn kết, niềm tin tƣởng, lạc quan của quần chúng nhân dân trong cuộc kháng chiến

toàn dân, tuy gian nan nhƣng rất đỗi anh hùng. Một thiên sử vàng chói lòa của cuộc

58

kháng chiến trƣờng kỳ lịch sử, mang đậm nghĩa tình thủy chung mà quân và dân ta

đã cùng “nếm mật nằm gai” sát cánh bên nhau chiến đấu để có đƣợc những thành

công vĩ đại, huy hoàng.

Dù lịch sử sang trang nhƣng với tập thơ Việt Bắc – đó là một thành công lớn,

một sự thực lịch sử, phản ánh đúng cuộc đấu tranh của toàn quân và dân ta trong giờ

phút thiêng liêng làm nên lịch sử lừng lẫy năm châu.

2.3. Mạch nguồn cảm xúc thơ về vẻ đẹp của người lao động

Lao động luôn là một chủ đề của thơ ca hiện đại Việt Nam từ sau cách mạng

tháng Tám đến nay. Đặc biệt trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp 1946 –

1954, nhà thơ Hoàng Trung Thông đã có những bài thơ Bài ca vỡ đất, với hai câu

thơ đặc sắc để ca ngợi và tôn vinh lao động và sự sáng tạo của con ngƣời:

Bàn tay ta làm nên tất cả

Có sức ngƣời sỏi đá cũng thành cơm.

Sau 1954 ở miền Bắc bƣớc vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhất là sau 1975

– đất nƣớc chuyển mình của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, lúc này lao

động đã trở thành một chủ đề lớn trong thơ ca xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Tính mốc sau 1954, miền Bắc nƣớc ta xây dựng chủ nghĩa xã hội và nhất là

sau 1975 – cả nƣớc có sự chuyển mình từ thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.

Lúc này cả nƣớc là một công trƣờng lớn, nhân dân cả nƣớc hăng say lao động sản

xuất trên các đồng ruộng, hầm mỏ, xí nghiệp và trong các công trình xây dựng lớn

để tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thơ ca hiện đại gắn chặt với cuộc sống của nhân dân, đất nƣớc, các nhà thơ

không thể không phản ánh công cuộc lao động xây dựng đất nƣớc của nhân dân. Do

vậy lao động đã trở thành chủ đề trung tâm của thơ ca viết về đề tài xây dựng chủ

nghĩa xã hội.

Chặng đƣờng sáng tác thứ ba của Tố Hữu gắn liền với giai đoạn mới của

cách mạng, nhấn mạnh hai nhiệm vụ chiến lƣợc đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

miền Bắc và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà ở miền Nam. Tập Gió lộng ca ngợi

cuộc sống mới, con ngƣời mới, tình cảm mới của nhân dân miền Bắc đang xây

59

dựng chủ nghĩa xã hội. Thơ ca xây dựng chủ nghĩa xã hội đã thực sự ghi lại hình

ảnh những ngƣời công nhân, đang hăng say lao động quên mình vì sự nghiệp xây

dựng đất nƣớc xã hội chủ nghĩa.

Hình ảnh chị lao công quét rác trong Tiếng chổi tre, đã đƣợc Tố Hữu khắc

họa sắc nét. Với nhịp thơ nhƣ đƣợc cắt vụn ra tƣơng ứng với nhịp của từng nhát

chổi đƣợc đƣa đi đƣa lại, Tố Hữu đã xây dựng lên hình ảnh ngƣời lao công quét rác

với những nhịp chổi quét đều đều, đơn điệu. Qua đó thấy đƣợc công việc vất vả,

mệt nhọc và hình ảnh của một con ngƣời lao động bình dị, thầm lặng hàng ngày

trong đêm khuya kiên nhẫn, quên mình vì cộng đồng xã hội:

Những đêm hè

Khi ve ve

Đã ngủ

Tôi lắng nghe

Trên đƣờng Trần Phú

Tiếng chổi tre

Xao xác

Hàng me

Tiếng chổi tre

Đêm hè

Quét rác…

… Chị lao công

Nhƣ sắt

Nhƣ đồng

Chị lao công

Đêm đông

Quét rác…

Tác giả Lê Đình Kị có nhận xét rất đúng rằng âm thanh của bài thơ rắn rỏi và

trong đó nhƣ có một nỗi gì xao xác. Nó là âm thanh của những công việc gian nan

vất vả của ngƣời đi trƣớc. Nhà thơ muốn nhắc lại với tất cả những em gánh hàng

60

hoa cái công dọn đƣờng, cái công giữ sạch lề đẹp lối của ngƣời đi trƣớc mà hình

ảnh ấy hiện lên thật vĩ đại qua hình ảnh chị lao công [23, 608].

Công việc của chị lao công, cho dù đó là một sự đóng góp lớn hay nhỏ cho

công cuộc chủ nghĩa xã hội; nhƣng tất cả đều mang một ý nghĩa cao quý thiêng

liêng. Trong công việc của ngƣời này đều có một mối quan hệ khăng khít tới việc

của ngƣời khác – nó là điều kiện tiên quyết cho sự thắng lợi của ngƣời khác. Nên

mỗi con ngƣời chúng ta đừng ai có quan điểm lệch lạc, thiếu hiểu biết làm những

công việc ô nhiễm phá hủy bầu không khí trong lành – sống có trƣớc có sau, đừng

bội vong quên đi những ngƣời đã vất vả mở đƣờng cho sự sống của chúng ta ngày

một xanh – sạch – đẹp hơn.

Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội có rất nhiều thi sĩ có những vần

thơ tạc khắc ghi lại một cách đậm nét về không khí của thời đại mới (1955 – 1961).

Bài ca mùa xuân 1961, có thể coi đó là một trong những đỉnh cao của nền

thơ hiện đại Việt Nam viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ đƣợc viết

trong bối cảnh sau đại hội Đảng toàn quốc lần thứ ba, mùa xuân đầu tiên với kế

hoạch 5 năm lần thứ nhất, mang đậm dấu ấn của thời đại.

Bài thơ mang không khí cảm hứng của một bài ca xây dựng một chế độ xã

hội mới đang mở: “đƣờng lên hạnh phúc rộng thênh thênh” và cũng chan chứa nỗi

niềm sâu thẳm.

Cành táo đầu hè rung rinh quả ngọt

Nắng soi gƣơng giọt long lanh.

Những hàng dƣơng liễu nhỏ

Đã lên xanh nhƣ tóc tuổi mƣời lăm.

Tôi viết cho ai bài thơ 61?

Bài ca mùa xuân 1961, có sự gắn liền với cái mốc cách mạng Việt Nam bằng

việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc…

61

Cảm hứng chủ đạo bài thơ, đó là cảm hứng ngợi ca một chế độ xã hội mới

với đỉnh cao hiện tại, nhà thơ đã nhìn về quá khứ trong sự cảm thông sâu sắc; hƣớng

tới tƣơng lai bằng đôi cánh của hiện tại, ƣớc mơ:

Chào 61: Đỉnh cao muôn trƣợng

Ta đứng đây, mắt nhìn bốn hƣớng

Trông lại nghìn xƣa, trông tới mai sau

Trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu.

Rồi trong thơ, đó là tiếng hát ngợi ca công cuộc dựng xây mới thật hào hùng,

sâu lắng. Không còn là hình ảnh xóm làng đổi mới từng ngày, từng giờ mà còn khắc

tạc trong thơ về hình ảnh của công nhân, nông dân ở khắp nhà máy, công trƣờng, xí

nghiệp đang từng phút, từng giây:

Dọn tí phân rơi, nhặt từng ngọn lá

Mỗi hòn than mẩu sắt, cân ngô

Ta nâng niu gom góp dựng cơ đồ.

Chung quy lại, vẫn là hình ảnh những con ngƣời trẻ tuổi đang cùng nhau xây

lại cuộc đời trong một khí thế tinh thần thời đại ít có một giai đoạn lịch sử nào so

đƣợc.

Đi ta đi! Khai phá rừng hoang

Hỏi núi non cao, đâu sắt đâu vàng?

Hỏi biển khơi xa, đâu luồng cá chạy?

Sông Đà, sông Lô, sông Hồng, sông chảy?

Hỏi đâu thác nhảy, cho điện quay chiều?

Trong Bài ca mùa xuân 1961 là một cách cảm nhận về dĩ vãng của cha ông

đầy tính nhân văn và cách mạng.

Bầu không khí mới của một chế độ mới, quan hệ mới giữa ngƣời với ngƣời

đều bộc lộ sự tin yêu, trân trọng, nhà thơ từng khẳng định:

Ngƣời yêu ngƣời sống để yêu nhau

Đảng cho ta trái tim giàu

Thẳng lƣng mà bƣớc, ngẩng đầu mà bay

62

Tố Hữu đã ghi tạc trong thơ về nỗi nhớ, vì một nửa đất nƣớc đang còn chìm

đắm dƣới gót giày xâm lăng, hình ảnh đồng bào, đồng chí đang ngóng trông. Bài

thơ đang chan chứa “tƣơi nhạc tƣơi vần”, bỗng chìm hẳn dƣờng nhƣ “tiếng mõ

tiếng súng”, “tiếng hò reo” của cách mạng miền Nam ngày đồng khởi không khí sục

sôi anh hùng. Và tác giả ví nỗi thƣơng nhớ về miền Nam đã đƣợc cụ thể hóa thành

“lửa cháy”. Đó cũng chính là hiện thực của cuộc sống đã đi vào thơ ca nhƣ một lời

hiệu triệu, đầy sức thúc giục; sục sôi vì đất nƣớc quên mình. Nói tới Bài ca mùa

xuân 1961 cảm xúc đƣờng đột trở về quá khứ, bao quát vấn đề thời đại hƣớng tới

tƣơng lai của đất nƣớc. Đó là một trong những bài thơ tiêu biểu sắc nét của nền thơ

hiện đại Việt Nam và với nhà thơ Tố Hữu.

Tiếp tục chặng đƣờng thơ của Tố Hữu, đặc biệt là tập thơ Máu và hoa (1972

– 1977), chặng đƣờng thứ năm đã diễn tả niềm vui “ngỡ nhƣ mơ”, khi đất nƣớc

thống nhất. Hình ảnh con ngƣời mới trong thời đại mới đã hoàn toàn khác xa so với

các giai đoạn trƣớc. Đất nƣớc vừa thoát khỏi nạn binh đao, con ngƣời Việt Nam

chúng ta lại cần cù hăng say lao động sản xuất – điều kiện tiên quyết này đã sản

sinh ra không ít gƣơng mặt anh hùng lao động trong thời đại mới. Nhà thơ Tố Hữu

đã khắc tạc hình tƣợng tiêu biểu, tấm gƣơng điển hình trong những công việc bình

dị đáng để ngƣời đọc mọi thế hệ chiêm nghiệm, suy xét. Một trong những hình

tƣợng tiêu biểu đó là Hồ giáo. Hồ giáo là ngƣời duy nhất của đất nƣớc Việt Nam

cho đến nay; anh đã đƣợc nhận hai lần danh hiệu anh hùng lao động. Anh là một

tấm gƣơng tiêu biểu, mà từ già tới trẻ đều gọi bằng Anh – Anh Hồ giáo. Qua trang

thơ hàm súc, gây ấn tƣợng mạnh về hình tƣợng điển hình cho một con ngƣời trong

thời đại mới.

Ở bài thơ Gặp Anh Hồ giáo – Tố Hữu đã ghi tạc cảnh đƣợc gặp Anh Hồ giáo

tại Tam Đảo – Ba Vì. Đây là hai vùng đất xa nhau về khoảng cách. Tác giả đã ca

ngợi và tôn vinh nghề “chăn bò” – một nghề cao quý ít ai có thể thành công đƣợc.

Hình tƣợng anh Hồ giáo đã đi vào thơ ca nhƣ một điển hình trong văn học về

anh hùng lao động, đậm chất nhân văn – chan chứa niềm cảm phục, yêu thƣơng.

63

Kết thúc bài thơ tính chất triết lý nhân sinh đã phần nào hồn nhiên, bình dị, sâu lắng

hơn khi đề cập tới tình bạn:

Cuộc đời không chỉ nhất thiết miếng ngon

Cần vui có tâm hồn bè bạn.

Tâm sự đời hơn, chân thành đó là sự trải lòng trong suốt quãng đời còn lại.

Chuyện hay dở, sự vui buồn nhƣ một đóa hồng đón ánh bình minh mặt trời chiếu

rọi trong niềm tin, lẽ sống tƣ tƣởng tình cảm của thi sĩ cách mạng.

Lao động cũng là một trong những chủ đề của thơ ca từ sau cách mạng tháng

Tám tới nay, đó là một chủ đề lớn của thơ ca viết về đề tài xây dựng chủ nghĩa xã

hội.

Thơ ca xây dựng chủ nghĩa xã hội đã khắc ghi những hình ảnh ngƣời công

nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác, hăng say lao động quên

mình để xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Chính tình yêu lao động, niềm say mê lao động quên mình; lao động một

cách thực thụ là ngƣời làm chủ cuộc sống, đất nƣớc. Đây chính là nét tiêu biểu

trong tâm hồn nhân dân lao động đã đƣợc khắc tạc trong thơ ca xây dựng chủ nghĩa

xã hội và sau ngày đất nƣớc hòa bình “non sông liền một dải”.

Tiểu kết:

Nhìn tổng thể về sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian với những mạch nguồn

cảm xúc trong thơ Tố Hữu. Đây là điểm cốt yếu chủ đạo, nhấn mạnh và đề cập tới

nhiều khía cạnh của tình yêu thiên nhiên đất nƣớc trong ca dao, dân ca nói chung,

và trong thơ hiện đại cùng trang thơ Tố Hữu nói riêng, đều quy tụ để nói lên lòng

yêu quê hƣơng đất nƣớc. Đó là chủ nghĩa yêu nƣớc, sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong thơ

ca dân gian nối liền với thơ ca hiện đại Việt Nam. Sự biểu hiện đó còn chan chứa

trong những vần thơ phản ánh về vẻ đẹp và tôn vinh những ngƣời lao động trong

thời đại mới xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nƣớc nhà “Bắc

Nam liền một dải” nhƣ mong ƣớc của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc đƣơng thời. Đó

chính là sự chuyển đổi tƣ tƣởng tình cảm lớn trong hồn thơ Tố Hữu – vốn ảnh

hƣởng trong gia đình, truyền thống yêu chuộng thơ ca dân gian. Để tiếp tục mạch

64

nguồn cảm xúc cho từng chặng đƣờng phát triển của từng giai đoạn thơ tiêu biểu

ứng với từng thời kỳ tranh đấu của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên cảm xúc chủ đạo

của hồn thơ Tố Hữu không dừng lại ở đó, ông đã chắp cánh và nâng hồn thơ lên tầm

vóc vĩ đại – nghĩa tình thủy chung, gắn bó keo sơn mặn mà của cuộc kháng chiến

toàn dân “gian nan” mà “anh dũng”, thể hiện đƣợc tình quân dân nhƣ cá với nƣớc,

tình đồng chí đồng đội,… kết tụ lại chủ nghĩa yêu nƣớc mang đậm hồn thiêng sông

núi, chất chứa Hào khí Đông A thuở cha ông dựng nƣớc:

Nhƣ nƣớc Đại Việt ta từ trƣớc

Vốn xƣng nền văn hiến đã lâu…

(Đại cáo bình Ngô – Nguyễn Trãi)

65

CHƢƠNG 3

Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong nghệ thuật thơ Tố Hữu

Vốn sinh trƣởng trong một gia đình có truyền thống yêu thích thơ ca dân

gian, hồn thơ Tố Hữu luôn có ý thức rất rõ trong việc kế thừa và luôn tiếp thu một

cách tích cực thơ ca dân gian vào trong sáng tác của mình.

Những giá trị của thơ ca dân gian luôn là nhân tố tích cực đi theo cùng năm

tháng nung nấu ý chí và nghị lực phi thƣờng của một ngƣời chiến sĩ – thi sĩ cách

mạng Tố Hữu.

Qua những sáng tác trong những chặng đƣờng hoạt động cách mạng luôn

mật thiết hữu cơ với nhau. Thơ ông luôn tỏa sáng chất nhân văn, trữ tình thiết tha

nhất. Mỗi vần thơ nhƣ một lời hiệu triệu, thôi thúc, toát lên từ chính cội nguồn của

thơ ca dân gian, đi vào từng cuộc đời trong mỗi con ngƣời dân tộc Việt Nam. Tiếng

đàn, lời ca nhƣ những nốt nhạc, làn điệu ấm áp, trữ tình của dân gian thấm sâu nơi

hồn thơ Tố Hữu. Những vần thơ chan chứa nhƣ chính hơi thở thời đại khiến cho

sáng tác của ông luôn gần gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân.

Tố Hữu đã gọt giũa sắc nét những tinh hoa từ chất liệu cuộc sống đem vào thơ nhƣ

ngọn lửa thắp sáng niềm tin lý tƣởng trong thời đại mới.

Là một nhà thơ, một chiến sĩ cách mạng, cảm xúc chủ đạo trong sáng tác

phong phú và đa dạng. Lời thơ nhƣ quả ngọt, chất chứa nhiều tƣ tƣởng của nhà thơ

trong bƣớc đƣờng hoạt động.

3.1. Hình ảnh – biểu tượng thơ:

3.1.1. Hình ảnh thơ:

Trong thế giới nghệ thuật hình ảnh luôn là những sắc màu của thời gian,

không gian với sự vật, hiện tƣợng đƣợc lƣu giữ, ghi lại trong tâm trí của ngƣời nghệ

sĩ, tạo dựng nên bức tranh đẹp, huyền diệu cuộc sống trên các bình diện thẩm mỹ cụ

thể.

Nhà nghiên cứu Mã Giang Lân đã nhận xét: “Hình ảnh đƣợc hiểu là ngƣời,

vật, cảnh để lại ấn tƣợng và tái hiện trong trí nhớ chúng ta (hình ảnh ngôi nhà, hình

66

ảnh ngƣời mẹ, hình ảnh cuộc đời…) ở một mức độ, đó chỉ là những khái niệm,

trong đó cái biểu đạt và cái đƣợc biểu đạt trùng khít với nhau”. [26, 132]

Vì vậy, trong thơ ca ngƣời nghệ sĩ luôn tạo ra cho mình với những cảm xúc,

sự đúc kết tƣ tƣởng chủ đạo ý đồ cảm quan nghệ thuật thông qua hình ảnh, mang

sắc thái riêng cụ thể. Tố Hữu là ngƣời “đem vào thơ Việt Nam một không gian xã

hội sôi động những biến sự lịch sử” [41, 215] qua những hình ảnh trực quan, hùng

hồn, phong phú. Qua các sáng tác của mình, thông qua hình ảnh tƣơi tắn, sinh động

đƣợc đi vào thơ Tố Hữu nhƣ chính đời sống thƣờng nhật của nhân dân, và trong

cuộc chiến đấu toàn dân, nó đã in đậm trong tiềm thức của đồng bào đồng chí. Thơ

Tố Hữu luôn là những mạch nguồn cảm xúc, hơi thở thời đại mới có sức lôi cuốn,

hấp dẫn cụ thể. Yếu tố hình ảnh trong thơ ông là những vấn đề đƣợc đúc rút, chính

kinh nghiệm cuộc đời đƣợc cƣờng điệu và phóng đại. Tài nghệ của Tố Hữu khi xây

dựng hình ảnh trong thơ thật sắc nét, gợi cảm “lòng ngƣời rung lên và nhớ mãi”.

[23, 210]

Hình ảnh trong thơ Tố Hữu luôn có sự ảnh hƣởng sâu nặng tới độc giả và gợi

lên nhiều cảm hứng ca ngợi, say mê:

Ta ôm nhau, hôn nhau từng mái tóc

Hả hê chƣa, ai bịt đƣợc mồm ta

Ta hát huyên thuyên, ta chạy khắp nhà

Ai dám cấm ta say, say thần thánh?...

(Huế tháng Tám)

Đó là niềm vui sƣớng, chan chứa tình yêu thƣơng chân thành qua các hình

ảnh lạ, táo bạo… ở đây cƣờng điệu đã là một sự mới mẻ, làm đậm thêm trong

những hình ảnh biểu hiện vốn có từ xa xƣa. Tố Hữu là ngƣời chịu ảnh hƣởng nhiều

nhất của thơ ca dân gian trong phƣơng thức biện pháp tu từ thậm xƣng, cƣờng điệu,

nhƣng Tố Hữu đã có những cách vận dụng riêng trong sự liên tƣởng, cảm nhận và

phát hiện tứ thơ cho riêng mình. Bản thân nhà thơ vẫn thƣờng đẩy trạng thái, tính

chất của hình ảnh sang mức độ ấm áp hơn, rực rỡ hơn so với mức độ bình thƣờng

và có sức hấp dẫn mạnh.

67

Xuân hãy xem! Cuộc diễu binh hùng vĩ

32 triệu nhân dân

Tất cả hành quân

Tất cả thành chiến sĩ (…)

Tên lửa, tên tre

Lƣỡi lê, lƣỡi mác…

(Chào xuân 67)

Thủ pháp cƣờng điệu đã góp phần tăng thêm độ mạnh mẽ và quyết liệt hơn:

Đoàn quân nhỏ, một tinh thần thống nhất

Hai mƣơi lăm ngƣời, chỉ một đầu thôi.

Nghiến răng chặt và sủi bọt quanh môi

Rít lên những tiếng kêu dài ghê rợn!

“Đả đảo tra tấn! Đả đảo tra tấn!”

(Tranh đấu)

Cách thể hiện của Tố Hữu là ƣu thế lớn, giúp nhà thơ vận dụng thành thục

trong những tình cảm lớn thời đại. Tố Hữu là ngƣời không thuộc tuýp nhà thơ tìm

kiếm trong những hình ảnh mới lạ, nó là các phƣơng tiện để truyền tải cái tình đang

hàm chứa bên trong thể hiện những tâm tình ngọt ngào tha thiết. Có thể thấy trong

thế giới nghệ thuật, với rất nhiều hình ảnh tƣơi đẹp của cuộc sống trƣờng tồn đã đi

vào thơ ca nhƣ một nét khu biệt đặc thù. Trong ca dao hình ảnh mặt trời là một mô

típ thể hiện tâm tƣ tình cảm của con ngƣời ở mọi tƣ thế, trạng thái khác nhau.

Mặt trời đã mọc đằng đông

Em ơi! Thức dậy ra đồng kẻo trƣa

Thế gian kẻ cấy ngƣời bừa

Riêng em ngủ sớm dậy trƣa sao đành.

Mặt trời đã xế về Tây

Hỡi cô cắt cỏ bên đầy bên vơi

Cô còn cắt nữa hay thôi

68

Cho anh cắt với làm đôi chung tình

Mặt trời đã xế về Tây

Cô còn cắt cỏ bên đầy bên vơi

Cô kia cắt nữa hay thôi

Để tôi cắt đỡ làm đôi vợ chồng…

Điểm đặc sắc hơn trong ca dao về hình ảnh mặt trời, chữ thƣơng có trƣớc

chữ yêu đôi khi ngƣời nghệ sĩ cũng không đề cập tới, song vẫn biểu đạt tình yêu

một cách cụ thể, rõ rệt:

Thấy anh nhƣ thấy mặt trời,

Chói chang khó ngó, trao lời khó trao.

Hình ảnh mặt trời luôn là những hình ảnh tiêu biểu cho nguồn sáng, nguồn

sƣởi ấm, chói chang rực rỡ:

“Mặt trời là trái tim anh

Mặt trăng vành vạnh là tình của em”.

(Bầu trời vuông – Nguyễn Duy)

Trong thơ Tố Hữu: mặt trời chân lý là sự nhấn mạnh đúng đắn, hợp lẽ phải

của lý tƣởng cộng sản. Với hai động từ bừng, chói đã khẳng định sự giác ngộ lý

tƣởng cách mạng tới tác giả giống nhƣ mối tình sét đánh dự báo tƣơng lai vô cùng

sáng lạn đang ở phía trƣớc.

Mặt trời, một hình ảnh ƣớc lệ, đó là mặt trời chân lý, mặt trời Đảng:

“Mặt trời kia cờ Đảng giƣơng cao”

Đó còn là hình ảnh “Bác” là mặt trời; một câu tuyệt hay để ngợi ca và tôn

vinh hình ảnh Bác sánh ngang mặt trời vũ trụ, nhƣ vầng thái dƣơng tỏa hơi ấm con

ngƣời, vạn vật linh hồn đất Việt:

“Ngƣời rực rỡ một mặt trời cách mạng”

Hình ảnh lãnh tụ V.Lênin cũng đƣợc nâng lên – sánh cùng mặt trời:

Nhƣ mặt trời chói lọi giữa biển bao la

69

Không dừng ở sự tôn vinh ngợi ca về lãnh tụ kính yêu đặt ngang tầm không

gian vũ trụ bao la đậm chất nhân văn, nhà thơ Tố Hữu đã dốc bầu tâm sự, một cách

đầy thiện chí với mặt trời – coi đó nhƣ một sự đối đáp thể hiện tri âm cuộc sống

thƣờng ngày, một sự giản đơn, nhƣng thấm đƣợm chất tình:

“Mặt trời đỏ dậy

Có vui không?

Nhìn nam bắc tây đông

Hỏi cả hai mƣơi thế kỷ”

(Chào xuân 67)

Trang thơ Tố Hữu, còn là sự xây dựng những mô típ hình ảnh so sánh “nhƣ”

ở ca dao – dân ca vô cùng phong phú. Thủ pháp so sánh trong ca dao – dân ca, là

một khia cạnh nội dung mới trong thơ Tố Hữu hết sức hợp lý. Ví nhƣ, khi muốn đề

cập tới một trạng thái tâm lý chung của cộng đồng dân tộc về những tình cảm thì lối

so sánh đều toát lên sự dịu dàng truyền cảm, thấm đậm tình ngƣời:

Nguồn bao nhiêu nƣớc nghĩa tình bấy nhiêu…

Cách so sánh đã đƣợc nhà thơ Tố Hữu thể hiện trong trạng thái, tình cảm lớn

lao nâng lên thành quyền lợi của giai cấp, thời đại trong những câu thơ ngắn gọn,

chắc nịch khỏe khoắn:

Dù ai nói ngả nói nghiêng

Lòng ta vẫn vững nhƣ kiềng ba chân.

Dù ai rào dậu, ngăn sân

Lòng ta vẫn giữ là dân cụ Hồ.

Đọc những câu thơ trên, ngƣời đọc không thể không nhắc tới những câu ca

dao chứa đựng tƣ tƣởng, tình cảm của ngƣời dân lao động thật hàm súc:

Dù ai nói đông, nói tây

Lòng ta vẫn vững nhƣ cây giữa rừng…

Ra đình ngả nón trông đình

Đình bao nhiêu ngói thƣơng mình bấy nhiêu

70

Chúng ta còn bắt gặp sự vận dụng lối so sánh của việc dùng hình ảnh những

nhân vật truyền thuyết dân gian để nói lên sức mạnh của những con ngƣời trong

thời đại mới, tôn vinh sức mạnh dân tộc, thời đại một cách cụ thể và tiêu biểu:

Chào anh du kích đất Cam

Đẹp nhƣ pho tƣợng Đam San thuở nào…

Hồng quân cứu Va Ven xinh đẹp

Nhƣ Thạch Sanh đánh Ó, cứu nàng tiên…

Hoặc:

Lịch sử hôn Anh, chàng trai chân đất

Sống hiên ngang, bất khuất trên đời

Nhƣ Thạch Sanh của thế kỷ hai mƣơi…

Tố Hữu còn sử dụng lối nói của tục ngữ - thành ngữ giàu hình ảnh vào trong

sáng tác của mình để biểu đạt tƣ tƣởng chủ đạo cô đúc những kinh nghiệm truyền

thống đạo lý dân tộc một cách có cơ sở:

Ngọt bùi nhớ lúc đắng cay

Càng tức nƣớc càng xui bờ vỡ

Lòng dân ta nhƣ lửa thêm dầu…

Đời ta gƣơng vỡ lại lành…

Chim treo trên lửa, cá nằm dƣới dao…

Hình ảnh thơ là thế giới nghệ thuật vô cùng phong phú, đa dạng. Cách tiếp

cận và vận dụng của tác giả từ ca dao – dân ca đi vào trang thơ với những khía cạnh

tiêu biểu, để toát lên nội dung xúc cảm nghệ thuật. Kho tàng thơ ca dân gian luôn in

dấu trong những hình ảnh cụ thể, tiêu biểu. Nó nhƣ những vì sao tinh tú càng nhìn

lại càng sáng. Và cũng giống nhƣ mạch nƣớc ngầm, chảy suốt trong dòng suối tƣơi

mát của thơ ca dân gian vào thơ ca hiện đại Việt Nam. Lời ăn tiếng nói của nhân

dân, là những giá trị trƣờng tồn của thời gian lịch sử. Vì thế, hình ảnh thơ luôn tồn

tại trong tiềm thức, ý đồ sáng tạo của nhà thơ.

71

3.1.2. Biểu tượng thơ:

Xuất xứ của thuật ngữ là từ thuật ngữ symbole trong tiếng Pháp – khi dịch ra

tiếng Việt – ngƣời đọc có thể hiểu đó là những biểu tƣợng; tƣợng trƣng. Nhƣng

thuật ngữ này đã đƣợc đông đảo giới nghiên cứu dùng là biểu tƣợng trong những

công trình khoa học của mình. Khái niệm này là một loại khái niệm đa dạng, phức

tạp trong cách sử dụng về thuật ngữ này.

Trong những vấn đề đời sống sinh hoạt con ngƣời, hình ảnh cảm tính luôn đề

cập hiện tƣợng của thực thể thế giới bên ngoài đã đƣợc đƣa vào tri giác – coi đó là

nền tảng tạo nên biểu tƣợng. Do vậy, biểu tƣợng chính là một hình thức nhận thức

cao so với cảm giác nào đó và cho ngƣời đọc thấy đƣợc hình ảnh của sự vật lƣu lại

ở đầu óc, khi có sự tác động sự vật – hiện tƣợng phản ánh vào trong giác quan đã

chấm dứt hết.

Nên biểu tƣợng, chỉ góp phần phản ánh về dấu hiệu, những đặc sắc sự vật,

hiện tƣợng một cách khái quát hóa và lƣu giữ một chút về những gì tiêu biểu và hay

nhất. Biểu tƣợng phản ánh về một sự vật hoặc sự việc nào đó một cách quá mơ hồ,

khó xác định – chƣa đầy đủ – chƣa thật chính xác về một đối tƣợng đặt ở trong hình

ảnh đang đƣợc tri giác trực tiếp. Tuy vậy, biểu tƣợng ở góc độ chỉ phản ánh một

cách khái quát hóa và trừu tƣợng hóa trong hình ảnh mà thôi.

Có ý kiến khẳng định rằng: “Riêng một biểu tƣợng đối với thơ ca có thể có

vai trò to lớn đối với cách biểu hiện nên thơ”. Nhƣ vậy là, ngay trong bản chất khái

niệm biểu tƣợng đã bộc lộ ý niệm thấm đẫm các cung bậc màu sắc tình cảm. Tính

tự thân của khái niệm là giá trị lớn nhất của khái niệm biểu tƣợng. Tuy nhiên, cũng

phải nhìn nhận một vấn đề rằng, biểu tƣợng nghệ thuật nghĩa là phải qua sự nhào

nặn, tinh chế, mài giũa của ngƣời nghệ sĩ.

Theo Cao Bá Quát, những biểu tƣợng gốc là “kho trời chung” của tất cả mọi

ngƣời, nhƣng cũng không của ai cả… Ngƣời nghệ sĩ phải biết chiếm lấy cái mênh

mông không giới hạn ấy cho riêng mình, thành “vô tận của mình” mà không làm

thiệt hại đến ai cả, thậm chí còn làm phong phú thêm vốn hiểu biết của ngƣời khác.

72

“Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt, và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính,

nhà thơ biểu hiện cái khái quát” (F.Gớt)

Biểu tƣợng thơ là dạng của những biểu tƣợng ở mức độ cao nhất, mang đầy

đủ sắc thái của biểu tƣợng tƣởng tƣợng. Sự biểu hiện của nó rất phong phú, đa

dạng, các nhà thơ trong sáng tác đều tự khẳng định và sáng tạo theo phong cách

riêng độc đáo. Ở thơ ca dân gian, sự tồn tại của biểu tƣợng đều dựa vào những hình

ảnh thiên nhiên, đời sống thƣờng nhật con ngƣời bình dân.

Đối tƣợng khi tiếp nhận đều có sự hội nhập từ linh hồn; thần thái sự vật của

hình tƣợng trở thành biểu tƣợng. Thơ ca Việt Nam hiện đại, những biểu tƣợng lại

gắn liền với chính cuộc sống, tính cách của tác giả. Từ trong môi trƣờng sống, kinh

nghiệm sống từ thời ấu thơ cho tới lúc trƣởng thành qua những trải nghiệm cuộc đời

đã quyết định rất lớn tới sự hình thành biểu tƣợng. Biểu tƣợng của tác giả, ngƣời

đọc có sự cảm nhận rõ rệt, tác giả hóa thân vào nhân vật trữ tình rất đỗi quen thuộc,

nhập vai thể hiện tƣ tƣởng chủ đạo sáng tác đƣợc khắc họa đậm nét ghi lại tiềm thức

của nhà thơ theo dòng thời gian tồn tại trƣờng cửu ký ức cuộc đời.

Khi thấu hiểu tận vấn đề biểu tƣợng của nhà thơ, một phần độc giả chúng ta

đã hiểu đƣợc về chính nhà thơ; những xuất xử cuộc đời nhà thơ; sự trải nghiệm;

hoàn cảnh sống, nhân tố tác động tới hồn thơ về tinh thần cũng nhƣ ý tƣởng thời

đại, nguyên nhân tạo ý thơ dẫn tới hình tƣợng hóa nâng lên thành chính biểu tƣợng.

Có thể thấy trong thơ ca Việt Nam từ sau 1945; vấn đề biểu tƣợng, nhà thơ;

cộng đồng xã hội, đều xuất phát từ chính đời sống riêng tƣ, sự trải nghiệm trƣờng

tồn;… nhân tố tạo nên biểu tƣợng.

Non sông mờ cát bụi, dƣới gót giày xâm lăng của kẻ thù, biểu tƣợng thơ đã

mang dấu ấn đặt trong những lĩnh vực tình cảm riêng tƣ; hoàn cảnh cụ thể tác động

và có thể là điểm tụ hội giao kết giữa cá nhân – tập thể, hiện thực – lý tƣởng; sự

sống – trải nghiệm… Vấn đề trung tâm đặt nền móng của thế giới nghệ thuật thơ Tố

Hữu – đó là hình tƣợng tiêu biểu quan trọng.

 Biểu tượng “con đường”:

73

Chính cuộc cách mạng đã mở ra một không gian rộng. Con ngƣời đã tự vƣợt

ra không gian riêng tƣ hòa nhập cuộc sống cộng đồng. Vì thế, con đƣờng nhà thơ đã

từng trải qua cũng nhƣ tƣ tƣởng, tƣởng tƣợng để nói lên niềm tự hào, kiên trung

cách mạng.

Con đƣờng là biểu tƣợng cho những cuộc lên đƣờng từ sự gian nan đến

những chiến công hiển hách, thắng lợi hoàn toàn.

Là một thanh niên đƣợc giác ngộ cách mạng từ rất sớm, tƣ tƣởng, tình cảm

Tố Hữu phần lớn đã có những quan điểm, lý tƣởng cách mạng soi đƣờng trong các

chặng đƣờng thơ. Con đƣờng cách mạng là con đƣờng tự giải thoát những gông

xiềng nô lệ, những ấu trĩ, tìm ra chân lý để giải phóng, đem lại nền độc lập cho

nƣớc nhà.

Tố Hữu đã hình tƣợng hóa con đƣờng nhƣ một biểu tƣợng đích thực của thơ

ông. Con đƣờng ấy luôn rọi chiếu mỗi bƣớc đời nô lệ, sự thức tỉnh chân lý cách

mạng:

Ta bƣớc tới. Chỉ một đƣờng: Cách mạng

Con đƣờng theo nghĩa nôm na nhất là những lối đi đƣợc định hƣớng theo

những địa điểm cụ thể nào đó. Một khoảng không mà mỗi con ngƣời cần có sự cố

gắng vƣợt rào cản để đi tới đích đã lựa chọn, tính toán.

Con đƣờng trong văn học, có những tƣợng trƣng mang tính thẩm mỹ cao.

Con đƣờng đi đày, là sự dấn thân vào đấu tranh:

Đƣờng lên Đắc Sút, Đắc Pao

Đƣờng lên đỉnh núi Đắc Lay

Heo heo gió lạnh, sƣơng dày vắng chim

(Tiếng hát đi đày)

Vẫn là con đƣờng, nhƣng đó là sự rộng mở đƣợc gắn tới các địa danh non

sông đất Việt: Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên, Tây Bắc, Điện Biên:

Đƣờng Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên

Đƣờng lên Tây Bắc, đƣờng lên Điện Biên

Đƣờng cách mạng dài theo kháng chiến

74

Đến hôm nay đƣờng xuôi về biển

Đó là những muôn vạn nẻo đƣờng đƣợc nối tiếp với vùng quê Việt Bắc. Con

đƣờng “dài theo kháng chiến” là con đƣờng chông gai, gian lao nhƣng thật vẻ vang.

Chất chứa một nỗi niềm tự hào của nhà thơ, núi sông liền một dải, từ miền ngƣợc

tới miền xuôi đƣợc vẹn toàn vuông vức không bị cắt chia. Đất nƣớc non sông sạch

bóng quân thù, một khúc khải hoàn ca chiến thắng.

Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp; kết thúc chín năm kháng chiến

trƣờng kì gian khổ - anh dũng. Miền Bắc tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa

xã hội. Đó chính là nỗi reo vui của một kỷ nguyên độc lập; “miền Nam” vẫn còn

khói lửa binh đao. Cuộc sống lúc này đi vào trong thơ Tố Hữu chan chứa niềm vui

mới; sức sống mới.

Con đƣờng rộng mở thênh thang thật tƣơi vui, đang chào đón mỗi ngƣời dân

– một ngƣời chủ nhân đất nƣớc độc lập. Vƣợt qua con đƣờng mƣa bom bão đạn của

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, con đƣờng nay đã hoàn toàn khác xƣa. Đó

là một con đƣờng chứa đựng những niềm vui của làng hoa Ngọc Hà, cuộc sống

thanh bình đã trở về với nhân dân:

Hoa Ngọc Hà

Trên đƣờng rực nở

Hƣơng bay xa

Thơm ngát

Đƣờng ta

(Tiếng chổi tre)

Đây là viễn cảnh lao động đêm khuya trên đƣờng Trần Phú, một hình ảnh

đẹp, một lời nhắc hãy sống thật cao quý, không phụ sự hy sinh của thế hệ đi trƣớc.

Trong bài thơ Ba mươi năm đời ta có Đảng – Tố Hữu, nhắc tới con đƣờng

cách mạng với tất cả niềm tự hào, sự tin tƣởng tƣơng lai phía trƣớc – nƣớc nhà đƣợc

độc lập:

Đƣờng hạnh phúc gian nan lắm khúc

Đời đấu tranh không lúc dừng chân

75

Tố Hữu đã đề cập tới hiện thực cách mạng của dân tộc Việt Nam ở giai đoạn

này. Con đƣờng hạnh phúc lúc này, phía trƣớc còn nhiều gian nan, trắc trở, thậm chí

còn phải đổ máu và nƣớc mắt để giành lại non sông đất nƣớc. Ở xu thế thời đại lúc

này, con đƣờng đã có sự hội nhập tới bè bạn, các nƣớc anh em trên các châu lục của

mình: Đường sang nước bạn nhấn mạnh tình đoàn kết Việt Nam – Trung Hoa:

Đƣờng sang nƣớc bạn chiều xuân

Con tàu liên vận vui chân dặm trƣờng.

Sự mở rộng con đƣờng tới nƣớc Nga, đến với quê hƣơng của V.Lênin:

Có lẽ ngƣời đang mải giấc mơ

Để thấy trƣớc những bƣớc đƣờng lịch sử.

(Trước Kremlin)

Với mảnh đất Ba Lan, Tố Hữu đã gửi lòng mình qua những áng thơ tràn đầy

tia nắng chiếu rọi con đƣờng chân lý:

Em ơi, Ba Lan mùa tuyết tan

Đƣờng Bạch dƣơng sƣơng trắng nắng tràn

(Em ơi… Ba Lan)

Công cuộc kháng chiến chống Mỹ ác liệt, hào hùng, con đƣờng cách mạng

mang hơi thở cuộc kháng chiến mới của dân tộc. Cuộc chiến đấu tất cả vì miền

Nam thân yêu, Tố Hữu đã khái quát qua những vần thơ theo tƣ thế thời đại sục sôi

đất nƣớc hai miền Nam – Bắc:

Hỡi miền Bắc đó nặng đôi vai

Gánh cả non sông vƣợt dặm dài

Xẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc

Mà lòng phơi phới dậy non sông

(Theo chân Bác)

Biểu tƣợng con đƣờng, đó còn là:

Đƣờng cách mệnh sáng ngời chân lý

Đảng cầm cƣơng lịch sử giƣơng cao

76

Chúng ta thấy con đƣờng thơ Tố Hữu là sự giao nhau gắn kết giữa hai yếu tố,

hai nguồn cội đất nƣớc, dân tộc trong hình thức nghệ thuật thơ ca. Sự nối liền giữa

quá khứ – hiện tại trong bầu không khí lịch sử trọng đại:

Đường mòn Hồ Chí Minh là con đƣờng sáng tạo

Vì lẽ đó, biểu tƣợng con đƣờng đều đi tới khẳng định sự trƣờng tồn tất thắng

của lịch sử cách mạng Việt Nam, một đất nƣớc thống nhất. Con đƣờng chông gai

hƣớng tới hạnh phúc nhƣ một đƣờng huyết mạch dẫn dắt trong cảm hứng chủ đạo,

Tố Hữu đã tạo nên sự thống nhất chặt chẽ ý đồ nghệ thuật sáng tạo của mình.

Đất nƣớc thanh bình, non sông liền một dải, đây chính là tâm nguyện của

Chủ tịch Hồ Chí Minh trƣớc lúc đi xa.

Cây đàn muôn điệu lại vang xa trong lòng thế hệ bạn đọc Việt Nam, mỗi khi

học – đọc thơ Tố Hữu. Chính vì vậy, biểu tƣợng con đƣờng mang tính chất lẩn

khuất, sự lặng lẽ khôn cùng theo dấu bƣớc thời gian cuộc đời Tố Hữu.

Bản thân nhà thơ, luôn quan tâm tới thời cuộc xã hội và đất nƣớc, với những

lời lẽ đời thƣờng sâu lắng, cảm xúc. Hồn thơ vẫn toát lên sự tự tin, kiêu hãnh:

Sợ chi khúc khuỷu đƣờng muôn dặm

Ta vẫn là ta với ta

Con đƣờng cách mạng vẫn không ngừng bƣớc, nhƣ chính nhịp đập trái tim

ngƣời chiến sĩ – Tố Hữu luôn gửi trọn lòng mình cho đất nƣớc giang san. Con

đƣờng dù trong bất kỳ giai đoạn nào, cũng đều toát lên những ánh hào quang luôn

tỏa sáng, chiếu rọi soi đƣờng cách mạng thật nồng hậu thiết tha. Sự ngừng đập con

tim thi sĩ, nhƣng mãi mãi về sau sẽ trở thành bất tử trong lòng bè bạn năm châu và

độc giả ngƣỡng mộ ông. Con đƣờng, đó là con đƣờng của chân lý, của sự tìm về,

tìm lại dáng hình non sông đất nƣớc, viết lên một pho sử đồ sộ lớn lao về một bản

đồ Việt Nam hình chữ S đậm chất anh hùng ca và rất Việt Nam.

 Biểu tượng dòng sông:

Thơ ca dân gian Việt Nam, dòng sông đƣợc nói đến rất nhiều nhƣ một biểu

tƣợng cho quê hƣơng xứ sở… Dòng sông là sự hiện thân cho những dòng chảy vô

77

tận đƣợc diễn đạt trên nhiều bình diện khác nhau của cuộc sống đời thƣờng. Ví nhƣ

ở ca dao:

Ơn hoài thai nhƣ biển

Ngãi dƣỡng dục tơ sông

Em nguyền ở vậy không chồng

Lo nuôi cha mẹ hết lòng đạo con

Vai mang khăn gói sang sông

Mẹ kêu em dạ, thƣơng chồng phải theo…

Đôi khi dòng sông đƣợc gợi lên từ chính những thân phận đời ngƣời trong

hình ảnh cánh bèo trôi dạt lững lờ trên dòng sông. Ở ca dao, tác giả dân gian thƣờng

đề cập tới:

Thiếp than cha mẹ thiếp nghèo

Thiếp than phận thiếp nhƣ bèo

Hoặc trong ca dao đã đề cập dòng đời chẳng khác dòng sông, một khái niệm

đƣợc trừu tƣợng hóa đời con ngƣời:

Gió thổi lao xao khúc sông nào sóng nấy

Thuyền em đi giữa dòng anh thấy anh thƣơng

Yêu đất nƣớc, yêu cảnh trí non sông Tố Hữu đã thả hồn trong những thiên

nhiên tƣơi đẹp. Dòng sông trong thơ Tố Hữu xuất hiện nhiều, trở thành biểu tƣợng

đặc trƣng cho dòng chảy cách mạng. Sự vận dụng yếu tố thơ ca dân gian Tố Hữu ví

dòng sông cũng là thân phận con ngƣời, nhƣng đã đƣợc hóa thân trong nhân vật đời

thơ một cách rõ nét. Từ ấy – Việt Bắc có sự xuất hiện của dòng sông hoặc những từ

chỉ sự tƣơng tác sông – dòng nƣớc.

Dòng Hƣơng giang xuất hiện khá nhiều. Bên cạnh đó những sông Lô, sông

Thao, sông Đáy cũng là hình ảnh cho dòng sông ở mọi miền Tổ quốc.

Dòng Hƣơng Giang trong tập Từ ấy, để lại dấu ấn lớn với độc giả mọi thế hệ.

Đó là một dòng sông thơ mộng trữ tình:

Trên dòng Hƣơng Giang

78

Em buông mái chèo

Trời trong veo

Nƣớc trong veo

Em buông mái chèo

Trên dòng Hƣơng Giang

Tác giả qua đó gửi gắm sự thật niềm đau của kiếp sống giang hồ trên sông:

Trăng lên trăng đứng trăng tàn

Đời em ôm chiếc thuyền nan xuôi dòng

Thuyền em rách nát

Mà em chƣa chồng

Sự vô tình trƣớc không gian thời gian, theo quy luật tạo hóa dòng sông nhƣ

những số phận kiếp con ngƣời có thân phận bèo dạt mây trôi, cố tìm cho mình sự

sống trong sạch hơn.

Tập Gió lộng, dòng sông đã có sự rộn ràng của tiếng nhạc lời thơ – chan

chứa nhiều niềm vui:

Xƣa là rừng núi, là đêm

Giờ thêm sông biển, lại thêm ban ngày

(Xưa… Nay)

Suối ngàn đã chảy thành sông,

Đố ai tát cạn đƣợc dòng nƣớc xuôi

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Rồi dòng sông luôn là những nơi gắn bó kì tích chiến hào, đem đến nhiều

thắng lợi vẻ vang và cũng là nơi mở đƣờng cho cuộc chiến toàn dân.

Tiếng hát đâu mà nghe nhớ thƣơng

Mái nhì man mác nƣớc sông Hƣơng

(Quê mẹ)

Hoặc:

Bây chừ sông nƣớc về ta

Bến sông Nhật Lệ quân sang đêm ngày

79

Tình yêu thiên nhiên, đời sống cần lao, thƣơng những con ngƣời lao động

nghèo khổ, Bác đã đặt tình yêu thƣơng lên trên mọi tình cảm riêng tƣ của bản thân,

một tình yêu bao la chứa chan tinh thần nhân đạo cao cả. Tố Hữu đã ví tình yêu của

Bác nhƣ chính:

Dòng sông chảy nặng phù sa

(Theo chân Bác)

Ở Máu và hoa, cũng dòng cảm xúc tứ thơ tràn ngập những hình ảnh con

sông, tên núi gắn với những tên sông lớn: sông Cửu Long, Bến Hải, sông Hƣơng,

sông Trà, sông Ba… trong những xúc cảm tâm trạng khác nhau:

Rừng núi đã xanh màu giải phóng

Hãy trào lên ơi sóng Cửu Long

(Việt Nam máu và hoa)

Sông Bến Hải bên bồi bên lở

Sông Trà, sông Lại, sông Ba

Sông Hƣơng đành nhớ, chƣa qua sông Bồ.

Dòng Hƣơng nƣớc biếc trong veo…

(Nước non ngàn dặm)

Trong tập Một tiếng đờn, Tố Hữu viết về dòng sông cũng vẫn chan chứa thơ

mộng, hữu tình, một sự tin tƣởng cuộc sống thƣờng nhật. Dòng sông cũng xuất hiện

tƣơng đối nhƣng ít nhiều gắn với địa danh cụ thể:

Nhớ buổi chiều về thăm quê Đồng Khởi

Sông rạch Mỏ Cầy, xúm xít thuyền ghe

(Một khúc ca)

Con sông Dâu chảy về đâu

Mà lơ thơ… đến Luy Lâu lại dừng?

(Luy Lâu)

80

Biểu tƣợng dòng sông, nhƣ những dòng chảy lớn, tƣợng trƣng cho tƣ tƣởng

cảm xúc của nhà thơ trƣớc sự đổi thay vạn vật, đất trời lòng ngƣời. Đó còn là dòng

chảy tinh thần, nơi nuôi dƣỡng cội nguồn cách mạng, khí thế tranh đấu sục sôi, tuôn

trào: “ào ạt sóng vỗ”

 Biểu tượng con thuyền:

Trong cuộc sống thƣờng nhật cũng nhƣ ở những câu ca dao, hò vè… hình

ảnh dòng sông, con thuyền luôn đƣợc các tác giả dân gian gửi gắm qua những sáng

tác của mình thông qua hình ảnh quen thuộc và gần gũi:

Trúc dặn dò mai, bến dặn dò thuyền

Nghe ai quyến rũ, bỏ lời nguyền của anh

Bến dặn dò thuyền, trúc dặn dò mai

Nghe ai quyến rũ, không vãng lai chốn này.

Lênh đênh một chiếc thuyền tình

Mƣời hai bến nƣớc biết gửi mình vào đâu.

Lịch sử trƣờng tồn, Việt Nam của chúng ta vốn có một truyền thống văn hóa

đậm đà bản sắc dân tộc. Có rất nhiều biểu tƣợng: rồng bay, hoa sen, chùa Một

Cột… nhƣng có lẽ biểu tƣợng rất giản dị, bình dân, gần gũi đời sống của nhân dân

lao động đã đi vào thơ ca dân gian nhƣ nguồn văn hóa động viên tinh thần, luôn gắn

kết trong tiềm thức từ ngàn đời xƣa: con thuyền.

Tố Hữu trong hành trình cách mạng, cũng là sự hình thành chặng đƣờng thơ

đã đề cập tới con thuyền khá nhiều. Với ý nghĩa biểu tƣợng nghệ thuật, con thuyền

thƣờng đƣợc ông xây dựng để gửi gắm nỗi niềm mong ƣớc vƣợt thử thách dòng

chảy để đến bến bờ cao cả lớn lao. Tập thơ Từ ấy, con thuyền đƣợc xuất hiện nhiều

trong thơ của Tố Hữu, mang tính chất khái quát cao.

Trang thơ Tố Hữu đã cho chúng ta thấy đƣợc hình ảnh kiếp ngƣời nhỏ bé, vô

danh, tủi hờn nhƣ: kiếp củi một cành khô lạc mấy dòng (Tràng giang – Huy Cận),

con ngƣời không biết đi đâu về đâu trƣớc dòng đời trôi dạt:

Em đi với chiếc thuyền không

81

Khi mô vô bến rời dòng dâm ô?

Thuyền em rách nát còn lành đƣợc không?

Tố Hữu còn miêu tả những ngƣời thủy thủ, họ tồn tại trƣờng tồn vĩnh cửu

trƣớc thời gian, mặc dù:

Thuyền anh đã bao lần leo ngọn sóng

Trôi điêu linh trên vực mặn không cùng…

Tiếp bƣớc cha ông, Tố Hữu đã thể hiện ý chí quyết tâm đƣơng đầu với bão tố

cuộc kháng chiến, sức mạnh chiến đấu vì lý tƣởng và mục đích cao cả:

Chiếc thuyền tôi vui lƣớt giữa muôn thuyền

Nào cần chi biển rộng dẫu bình yên

Trở về đây trong mạn ván tan tành

Giữa lúc những thuyền kia đang lƣớt tới

Giờ quyết định, sự tất yếu, một phƣơng châm và mục đích làm kim chỉ nam

cho hành động quyết đoán vững chãi chèo chống con thuyền cách mạng tới bến bờ

vinh quang:

Tay bình tĩnh cứ ghì ôm vững lái

Còn bao nhiêu cứ cắm cổ bơi chèo!

Bạn thuyền ơi! Nỗ lực bơi chèo lên!

Với Việt Bắc, con thuyền xuất hiện khá nhiều; thể hiện niềm yêu đời, yêu

cuộc sống tha thiết…

Mình về ta gửi về quê

Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai

(Việt Bắc)

Hoặc: con thuyền là sự gắn kết về tình hữu nghị Việt Nam – Trung Hoa

trong Đường sang nước bạn:

Con tàu đƣa tôi đến Trung Hoa

82

Ở Ra trận, hình ảnh con thuyền cũng xuất hiện qua sự hoán dụ hình ảnh thật

cụ thể, trong những hành động lái tàu, chèo thuyền. Kí ức cuộc sống con ngƣời cứ

tràn ngập trong những khoảnh khắc chất chứa bao hi vọng trƣớc con thuyền chân lý,

đậm nét qua sự khắc họa của Tố Hữu về hình ảnh ngƣời mẹ Suốt chèo đò đƣa bộ

đội qua sông:

Một tay lái chiếc đò ngang

Bến sông Nhật Lệ quân sang đêm ngày

Trong Gió lộng, con thuyền xuất hiện không nhiều, song có sự hội tụ những

con ngƣời của đời sống nơi thôn dã trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp

xâm lƣợc:

Ngƣời trông gió bỏ buồm chọn lúc

(Theo chân Bác)

Tới Máu và hoa, con thuyền xuất hiện chủ yếu thể hiện sự tả thực, hình ảnh

thuyền bè giao hữu những miền quê và là sự đồng cảm sẻ chia khắp các miền đất

nƣớc:

Thƣơng em chín đợi, mƣời chờ

Con thuyền nay lại đỏ cờ sang sông.

(Nước non ngàn dặm)

Bây giờ nƣớc lớn thuyền lên

Bắc Nam mình lại nối liền thịt da

(Bài ca quê hương)

Sự trải nghiệm trong Một tiếng đờn khi đất nƣớc đƣợc độc lập, giang sơn liền

một dải, về lại với cội nguồn quê hƣơng khiến nhà thơ dốc bầu gửi gắm: Niềm hân

hoan trƣớc cảnh trù phú của quê hƣơng:

Sông rạch Mỏ Cày xúm xít thuyền ghe

(Một khác ca)

Bây giờ mùa gặt vàng thơm

Mênh mông mặt nƣớc cá tôm đầy thuyền

(Quảng Xương)

83

Tâm hồn nhà thơ cũng nhƣ chắp cánh bay theo cánh buồm, ngọn sóng:

Biển vui sóng giỡn mạn thuyền

(Lộc)

Ta với ta – những bầu nhiệt huyết, những lời tha thiết trong thơ Tố Hữu, con

thuyền xuất hiện chỉ là một con số không nhiều nhƣ trƣớc. Tác giả đã đặt niềm tin

vào lý tƣởng cách mạng, tìm và đón nhận nó nhƣ một điều mơ ƣớc trƣớc sự lãnh

đạo sáng suốt của Đảng, chân lý rạng ngời và con thuyền của mơ ƣớc khát vọng

trƣờng cửu:

Năm mƣơi năm buổi đầu đánh giặc,

Ngƣợc dòng Lô một chiếc thuyền con

(Về chiến khu xưa)

Biểu tƣợng con thuyền – nhƣ con thuyền chở chân lý, chở ƣớc mơ cho

những ngƣời cần lao, để từ đó nâng hồn thơ Tố Hữu lên ngang tầm ngọn sóng, đƣa

con thuyền cách mạng tới bến bờ vui – đất nƣớc độc lập.

Con thuyền, một khát khao, một niềm tin chỉ có tài vĩ đại nhƣ Chủ tịch Hồ

Chí Minh với đầy ý chí, nghị lực hành động sáng suốt để chèo lái con thuyền cách

mạng đi tới sự thành công.

 Biểu tượng ngọn cờ:

Đó chính là biểu tƣợng niềm tin quyết thắng trong một quốc gia hay bất kỳ

giang sơn xứ sở nào. Tố Hữu đã xây dựng đƣợc hình tƣợng lớn lao: ngọn cờ, cổ vũ

lòng yêu đất nƣớc và màu cờ sắc áo Việt Nam.

Trong Từ ấy ngọn cờ cũng đƣợc đề cập tới. Tố Hữu đã tách biệt hẳn và cụ

thể rõ ràng về lá cờ đỏ sao vàng không lẫn bất kỳ lá cờ nào.

Hình tƣợng cờ đỏ sao vàng tung bay, chập chờn trong giấc mộng khi ở trong

tù, Tố Hữu cũng tạo nên ý thơ trong hình ảnh:

Tôi hôm nay dầu xa tạm ngọn cờ

(Tâm tư trong tù)

Tác giả tạm xa, chờ thời cơ để quyết định giờ phút trọng đại của lịch sử.

Đó là:

84

Một ngọn cờ “dân chủ”, và là một khí thế thời đại mới của Tố Hữu cũng

đƣợc xuất hiện trong thơ:

Ôi ngọn cờ dân chủ đẹp làm sao

Tố Hữu đã gửi vào thơ trong hình tƣợng ngợi ca lãnh tụ Hồ Chí Minh – “nhƣ

ngọn đuốc soi đƣờng”, với sự đồng hành của ngọn cờ quyết thắng:

Trên đầu ta ngọn cờ dân tộc

Ngọn cờ đỏ sao vàng phấp phới.

(Hồ Chí Minh)

Việt Bắc – hình ảnh ngọn cờ phấp phới tung bay trong niềm kiên định; tự hào

– lá cờ của giặc cũng chỉ là sự khinh miệt, sự xa lánh – nhơ nhuốc “tanh tƣởi”.

Ở đây có sự đối lập hình ảnh:

Cờ chúng nó phất phơ đầu cột ấy

Chúng nó chào cờ! Ôi lá cờ tanh ôi biết mấy

(Bắn)

Tƣớng quân bay lố nhố cờ hàng

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

Lá cờ đỏ sao vàng; một niềm tin tất thắng:

Quyết chiến thắng cờ đỏ sao vàng vĩ đại

(Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

Tôn vinh lá cờ Tổ quốc; ngợi ca sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Bác kính

yêu:

Không gì vinh bằng chiến đấu dƣới cờ

Đảng chói lọi, Hồ Chí Minh vĩ đại

(Sáng tháng Năm)

đặc biệt trong niềm tự hào cuộc chiến đấu trƣờng kì gian khổ, thắng lợi – ngọn cờ

đƣợc miêu tả:

Ngọn cờ đỏ thắm, gió lồng cửa hang

(Việt Bắc)

85

Ở Gió lộng, ngọn cờ là những lá cờ đỏ sao vàng của đất nƣớc đƣợc nhà thơ

miêu tả qua hình ảnh:

Cờ đỏ gió tung trời

Cờ đỏ sông, đồng lúa, bờ tre

Ngọn cờ đỏ gọi…

Nhắc tới cờ là nhắc gợi tới niềm tin chiến thắng, tự hào tự tôn dân tộc.

Và Ra trận, lá cờ cũng đƣợc xuất hiện khác lá cờ trƣớc kia, đó là lá cờ của

cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa:

Cu Ba đây chói ngọn cờ hồng

(Từ Cu Ba)

Lá cờ Tổ quốc đƣợc cất lên tung bay trong sự hiện diện đổi thay đất trời,

niềm tự hào về một dân tộc anh dũng trong chiến đấu:

Ầm ầm biển lửa nhân dân

Đẹp nhƣ Huế dậy đầu xuân đỏ cờ

(Chuyện em)

Trong Máu và hoa ngọn cờ nhƣ một niềm tự hào:

Ta sẵn sàng xé nát trái tim ta

Cho Tổ quốc và cho tất cả

Lá cờ này là máu là da

Một tiếng đờn, ngọn cờ lẫn trong tâm trạng nhớ nhung; chan chứa niềm hy

vọng:

Luy Lâu còn đó… Gió mƣa

Vẫn nghe phần phật ngọn cờ Trƣng Vƣơng

(Luy Lâu)

Nhà thơ Tố Hữu trong những chặng đƣờng thơ đã khắc tạc cho mai hậu

chúng ta những hình ảnh thơ – những biểu tƣợng thơ kì vĩ. Từ đó nâng lên trong

tầm vóc lớn lao thời đại của những hình ảnh đặt trong những biểu tƣợng thơ qua các

tập thơ. Hình ảnh mặt trời, cao hơn đó là những biểu tƣợng dòng sông, con thuyền,

con đƣờng, ngọn cờ; đó chính là biểu tƣợng đẹp tiêu biểu của hồn thơ Tố Hữu đƣợc

86

chắt lọc một cách tinh tế nhất, cụ thể nhất – những tinh hoa của thời đại. Đó là hành

trình gian nan tranh đấu của một quãng đời chiến sĩ, thi sĩ luôn gắn kết hòa quyện

nhau; thể hiện ý chí niềm tin sắt son nghị lực phi thƣờng vƣợt qua sâu thẳm đêm

trƣờng cuộc đời hoạt động cách mạng. Tố Hữu đã đặt niềm tin, sự khát khao; sự tôn

vinh trong những hình ảnh – biểu tƣợng một cách cụ thể và chất chứa niềm tự hào

về đất nƣớc giang san của mình.

3.2. Thể thơ:

Nói đến thể thơ, trƣớc tiên hiểu thể là sự thể hiện cụ thể của từng loại. Xét

trên mặt vấn đề của lý thuyết cũng nhƣ ở bình diện của thực tiễn giữa các thể đƣợc

đặt trong từng loại. Có thể có nhiều cách, đây chƣa phải là cách cơ bản để có thể

định hƣớng. Vì vậy, khái niệm thể đủ để gọi tên cho các biểu hiện khác nhau giữa

các loại.

Nhiều khi chúng ta có thể định hƣớng đƣợc số lƣợng các câu thơ trong bài

thơ để nói về thể thơ: Thể thơ tứ tuyệt, thể thơ bát cú… Cũng có căn cứ trong một

câu về số tiếng để phân định thể thơ: thể thơ ngũ ngôn, thể thơ thất ngôn, thể thơ lục

bát… Do vậy, thể thơ là hình thức biểu hiện bên ngoài của âm hƣởng và nhịp điệu,

sự biến hóa phong phú cả về vần và nhịp của ngôn ngữ sẽ đƣợc phát huy và mang

lại những giá trị biểu đạt tự nhiên qua những vần thơ.

Hình thức biểu hiện tục ngữ là sự thể hiện ở văn vần cổ xƣa nhất – trọng tâm

nhất. Trong đó chứa đựng những vấn đề cốt yếu của văn vần: vần, nhịp, thanh điệu,

đối. Đó là sự đúc kết những kinh nghiệm, suy nghĩ đƣợc rút ra từ những thực tế, trải

nghiệm, dễ nhớ, dễ thuộc… từ ngƣời này sang ngƣời khác; đời này sang đời khác.

Chẳng hạn: “Đứt tay, hay thuốc”…

Ca dao, đồng dao thƣờng là những tiếng hát, lời ca chất chứa vần – điệu

đƣợc thể hiện dƣới dạng thức của câu thơ với số tiếng khác nhau; có thể là câu lục

bát hoặc lục bát biến thể trong một vị trí quan trọng nhất định:

Rủ nhau xuống biển mò cua

Mang về nấu quả mơ chua trong rừng…

87

Đó là thể thơ đƣợc nhà thơ bày tỏ lòng mình trong suy nghĩ tình cảm, tƣ

tƣởng chủ đạo đối với cuộc sống xung quang. Dung lƣợng thơ không lớn, nhƣng đó

là một dạng thơ thể hiện đầy đủ bản chất thơ dƣới dạng gốc và dạng thuần túy nhất

– tinh hoa thơ ca. Nó có thể tả - hoặc kể dƣới dạng thức trữ tình với tính chất trữ

tình; trữ tình – tự sự.

Ngoài những thể thơ quen thuộc và đƣợc sử dụng khá phổ biến nhƣ thể thơ

năm chữ, bảy chữ… thì thể thơ lục bát cũng đƣợc các nhà Thơ mới sử dụng rộng rãi

trong sáng tác của chính mình.

Đối với thể thơ có rất nhiều những thành công trong các bài thơ đƣợc viết

theo thể tám tiếng, thơ tự do, Tố Hữu quen thuộc với các thể thơ dân tộc từ thơ bốn

tiếng, năm tiếng, bảy tiếng tới thể lục bát, có những sáng tạo làm phong phú cho

hình thức thơ ca. Đọc thơ Tố Hữu, chúng ta thƣờng gặp cách phổ biến của lối so

sánh, chuyển nghĩa của thơ ca dân gian quen thuộc với tâm hồn ngƣời Việt Nam.

3.2.1. Thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ: Thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ trong

thơ Tố Hữu đƣợc sử dụng rất nhiều.

Thơ ca dân gian luôn là món ăn tinh thần quen thuộc thƣờng ngày của nhân

dân. Vè có hình thức theo kết cấu câu ngắn, bốn hoặc năm chữ, có khi là ca dao. Tố

Hữu đã có sự sáng tạo trong việc vận dụng vè truyền thống để tạo ra đƣợc những

thể thơ này. Với thể thơ bốn chữ hoặc năm chữ đã đƣợc nhà thơ sử dụng nhiều, câu

thơ chắc khỏe, tạo cho con ngƣời sự vật hiện tƣợng một cách dí dỏm phù hợp với

mọi lứa tuổi. Thể thơ bốn chữ ít đƣợc dùng trƣớc kia, nay đã dùng trở lại trong tập

Việt Bắc, thể này lại trở nên có khả năng thể hiện trên nhiều khía cạnh cụ thể. Trong

những trạng thái khác nhau: Lúc tƣơi trẻ, hồn nhiên, lạc quan yêu đời nhƣ những lời

ca muôn thuở:

Voi là voi ơi

Voi ta đầu thép

Voi cong chân đẹp

Voi nghểnh voi cƣời

(Voi)

88

Lúc thì gợi lên không khí sôi nổi, nhộn nhịp chan chứa niềm vui:

Cờ treo đỏ chói

Trên nóc trên cây

Pí lè inh ỏi.

Suốt đêm suốt ngày

(Bà mẹ Việt Bắc)

Với thể bốn chữ rất hiện đại đƣợc biểu hiện qua lời đối thoại. Ví nhƣ Lƣợm:

Cháu cƣời híp mí

Má đỏ bồ quân

Thôi chào đồng chí

Cháu đi xa dần.

Hoặc: Câu hỏi tu từ “Lƣợm ơi, còn không?”

Thể năm chữ vẫn có một vị trí trong thơ ca hiện đại, góp phần tạo nên những

tiếng thơ trong thời đại cách mạng con ngƣời mới. Nhà thơ đã có sự cách tân sáng

tạo trong kết cấu vè, để nâng lên thành thể thơ mang nội dung mới rất hiện đại, song

vẫn đậm chất truyền thống:

Trƣa nay trên đồi cao

Ta say sƣa vài phút

Chia nhau điếu thuốc lào

Nào anh hút, tôi hút…

3.2.2. Thể lục bát:

Theo sự tổng kết của các nhà nghiên cứu văn học dân gian, có tới 95% tác

phẩm mang chất liệu lời nói trong ca dao đƣợc sáng tác theo thể lục bát một cách

triệt để, cụ thể nhất. Sự phân biệt cụ thể, có thể thấy:

 Lục bát trong ca dao thƣờng ngắn gọn, súc tích hơn thể lục bát trong văn học

viết đƣơng đại.

Lỡ bước sang ngang – Nguyễn Bính độ dài tới 220 dòng.

Đêm giao thừa – Tố Hữu đạt tới 24 dòng.

Trong đó ca dao chiếm tỉ lệ tổng số lời tới hai đến bốn dòng – 75%.

89

 Lục bát trong ca dao có dạng thức biến thể:

Em thƣơng anh thầy mẹ ngăm nghe

Cậu, cô, chú, bác đòi đậu bè thả trôi

(7/9 tiếng)

Là một thể thơ luôn có sự tồn tại và gắn kết với dân tộc Việt Nam và đƣợc sử

dụng rộng rãi trong đời sống sinh hoạt nhân dân lao động… để diễn tả những sắc

thái cảm xúc dạt dào, thiết tha, bày tỏ tâm trạng lòng mình trong những nỗi nhớ

bâng khuâng, giai điệu trầm buồn – nghĩa tình ân sâu nghĩa nặng của chủ thể nhân

vật trữ tình. Ngƣời đọc chúng ta không hề thấy ngỡ ngàng khi những lời ca dao

đƣợc cất lên từ những chất giọng ngọt ngào tha thiết, tứ thơ, Truyện Kiều… đều

đƣợc những thi nhân sử dụng và tái tạo thành công thể thơ truyền thống này một

cách hữu hiệu nhất của đời sống sinh hoạt cộng đồng. Với những câu thơ lục bát, có

sự uyển chuyển nhƣ nhịp điệu quen thuộc từ trƣớc. Nhà thơ Tố Hữu, Xuân Diệu,

Nguyễn Đình Thi trong những vần thơ lục bát, biểu đạt nhiều đề tài thuộc các lĩnh

vực khác nhau. Tuy vậy, trong thơ hiện đại thƣờng vẫn mang dáng dấp của thơ ca

dân gian:

Việt Nam đất nƣớc ta ơi

Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

Cánh cò bay lả rập rờn

Mây mờ che đỉnh Trƣờng Sơn sớm chiều

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Một ngôi sao chẳng sáng đêm

Một thân lúa chín chẳng nên mùa vàng

Một ngƣời – đâu phải nhân gian?

Sống chăng một đốm lửa tàn mà thôi?

(Tố Hữu)

Trong những lối cấu trúc giản đơn, bình thƣờng nhất, còn có những câu lục

bát mang tính chất rất đặc biệt. Có những câu giãn ra trong một khổ thơ chung:

Con ông làm mật yêu hoa

90

Con cá bơi yêu nƣớc, con chim ca yêu đời

(Tố Hữu)

Hoặc: có những câu thơ vẫn còn giữ nguyên tắc của thể lục bát 6/8, song về

lối diễn đạt, có những nét và từ thật đặc biệt:

Trăng đi qua núi rừng

Hỏi anh T.S “có ƣng nhắn gì”

Qua rừng qua núi trăng đi

Nhắn giùm với bạn! “Có khi mình về”

(Tố Hữu)

Tố Hữu là một trong số những nhà thơ của thơ ca hiện đại Việt Nam có sự kế

thừa và tiếp thu những nét tinh túy và đặc sắc của Thơ mới – bản thân ông đã vận

dụng những thể thơ truyền thống của dân tộc một cách đắc địa nhất. Đặc biệt Tố

Hữu đã có sự thành công trong việc diễn tả những nghĩa nặng – tình sâu giữa ngƣời

cán bộ kháng chiến với quê hƣơng kháng chiến.

Ở Tố Hữu đã có kết hợp hài hòa cả chất giọng cổ điển và dân gian, để thể

hiện những nội dung và những tình cảm cách mạng, có gốc rễ trong truyền thống

tinh thần dân tộc. Tố Hữu đã làm phong phú cho thể thơ lục bát, đã đƣa thơ lục bát

lên một tầm cao lớn – thể hiện một vẻ đẹp mới khi giao hòa với chất giọng tâm tình

ngọt ngào của những bài dân ca xứ Huế:

Đây xứ mơ màng – đây xứ thơ

Bài thơ Việt Bắc đƣợc Tố Hữu viết theo thể lục bát – một thể thơ truyền

thống dân tộc. Những câu thơ bài thơ lục bát, đƣợc sử dụng một cách tổng hợp với

những nội dung khái quát cao vừa kể, vừa dựng ngƣời, dựng cảnh; tác giả đã lồng

ghép trong một bức tranh chung có kết hợp giữa tả tình, tả cảnh, màu sắc mang một

tâm trạng cụ thể rõ rệt.

Ở Việt Bắc – Tố Hữu đã sử dụng những từ, những cách so sánh; ví von nhƣ

trong ca dao vậy.

Nhớ gì nhƣ nhớ ngƣời yêu

Trăng lên đầu núi nắng chiều lƣng nƣơng

91

Những đƣờng Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập nhƣ là đất rung

Nghìn đêm thăm thẳm sƣơng dày

Đèn pha bật sáng nhƣ ngày mai lên.

Đặc biệt vần thơ Tố Hữu luôn có sự kết hợp với những hơi thơ của Truyền

Kiều – Nguyễn Du hòa lẫn trong tứ thơ, ngôn ngữ một cách hiện đại:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Trong những nỗi nhớ thƣơng của ngƣời cán bộ cách mạng đã đƣợc cảm nhận

bằng sự xúc động, nghẹn lời giữa “kẻ ở – ngƣời đi”:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trƣớc mặn mà đinh ninh

Mình đi mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nƣớc, nghĩa tình bấy nhiêu.

Những câu thơ lục bát êm dịu, đã khơi lên những cảm xúc trong lòng độc

giả. Độc giả chúng ta nhƣ đƣợc giao hòa trong tâm trạng của nhân vật trữ tình nhập

vai. Và với những từ ngữ: rừng nứa, bờ tre, mái đình, cây đa; những bông hoa

chuối, đóa mơ rừng; Ngòi Thia, sông Đáy; Phủ Thông; đèo Giàng… đã tôn nên

trong lòng một nỗi nhớ thƣơng thiết tha nhất. Nó đã in đậm trong tiềm thức con

ngƣời, trở thành một nỗi bâng khuâng khôn xiết ở tâm trạng con ngƣời một thời gắn

kết với mảnh đất quê hƣơng cách mạng: Việt Bắc. Bài thơ Việt Bắc đã thể hiện sự

vận dụng nhuần nhuyễn thể thơ dân tộc.

Nước non ngàn dặm có hơi thở Việt Bắc chất liệu lục bát tuôn trào. Việt Bắc

là sự giã từ một giai đoạn đã đi qua trong quá khứ, một quá khứ trong thực tại cần

phải đƣợc nhắc, nhớ tới. Đó là bài thơ mang tính chất trữ tình – tự sự. Nước non

ngàn dặm là “đƣờng ra phía trƣớc” – miền Nam, tiếng gọi thân thƣơng vẫn hằng

thúc giục chúng ta ở phía trƣớc. Đây là một bài thơ của một sự hợp ca; phong phú

92

nhiều hình thể. Nhà thơ đã theo dòng thời gian lật tìm những gì của lý trí và tình

cảm để đến với đất nƣớc và rút cuộc cũng hòa nhập với chính bản thân mình:

Đƣờng vào, nhƣ tỉnh nhƣ mê

Đƣờng ra phía trƣớc, đƣờng về tuổi xuân

Cũng nhƣ ở Việt Bắc, trong Nước non ngàn dặm, Tố Hữu cũng đã có tâm

trạng nhớ thƣơng nơi “chốn cũ” ngƣời xƣa trong tâm trạng bâng khuâng, nao lòng,

khôn xiết:

Nhớ thƣơng bạn, lại bùi ngùi

Nhớ làng Rô, nhớ ngƣời nuôi năm nào.

Hỏi già, già mất, còn đâu

Hỏi em, em đã từ lâu chết rồi.

Ôi! Làng Rô nhỏ của tôi

Cao cao ngọn núi, chiếc nôi đại bàng.

Theo mạch cảm xúc đứt – nối của những hồi ức, Tố Hữu đã hồi tƣởng về

một thời hoạt động giữa miền Tây Nguyên kì vĩ trong anh dạt dào kỉ niệm quá khứ,

hiện tại để trở về cội nguồn với niềm vui tất thắng. Song điều đó đã trỗi dậy trong

độc giả chúng ta một sự hòa nhập trong niềm kiêu hãnh, tự tôn về dân tộc Việt Nam

anh hùng.

Kính gửi cụ Nguyễn Du – Đây là bài thơ sáng tác khi có chuyến đi vào miền

Trung. Tố Hữu vào tới huyện Nghi Xuân, đúng dịp kỉ niệm 200 năm ngày sinh đại

thi hào dân tộc Nguyễn Du. Nỗi niềm thƣơng nhớ Nguyễn Du, là nguồn thi hứng

khiến cho Tố Hữu sáng tác bài thơ này.

Câu đầu và hai câu kết bài thơ – ngƣời đọc nhƣ trở về với phong thái ca dao

sâu đậm: toàn bài thơ cũng đƣợc Tố Hữu viết theo thể lục bát; một thể thơ truyền

thống dân tộc – thâu tóm toàn bộ khái quát về nội dung Truyện Kiều.

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân

93

Sự mở đầu, có phong thái ca dao – dân ca. Với hai từ “nửa đêm” mang tính

chất phiếm chỉ về mặt thời gian giống nhƣ những câu trong ca dao:

Đêm qua ra đứng bờ ao

Đêm qua mới gọi là đêm.

Hai câu kết; trong sắc thái cuộn trào của sóng, thể hiện sự hào hùng, oanh

liệt khí thế cuộc chiến:

Sông Lam nƣớc chảy bên đồi

Bỗng nghe trống giục ba hồi gọi quân.

3.2.3. Thể thơ thất ngôn:

Thể thất ngôn, nhìn chung không có sự thay đổi về cấu trúc, nhƣng có một

nét mới. Lối ngắt nhịp theo 3/4 trong thơ ca dân gian đã dần khác biệt so với trƣớc,

tạo nên những biểu hiện cho việc thể hiện xu hƣớng chủ đề hiện đại mới. Tố Hữu sử

dụng linh hoạt lối ngắt nhịp khác nhau, nhịp điệu có sự chuyển đổi một cách uyển

chuyển mau lẹ. Đặc biệt:

Anh đã đến / quê em Ban-tích

Sóng ngời xanh / ngọc bích biển khơi…

(Tố Hữu – Em ơi, Ba La)

Nhà thơ Tố Hữu là ngƣời sáng tác rất nhiều bài thơ theo thể thất ngôn. Trong

những bài thơ theo thể thất ngôn ấy đều mang một vẻ đẹp trang trọng cổ điển – màu

sắc cổ điển nhƣng không khuôn sáo, trái lại với sự biến hóa linh hoạt – hơi thơ rất

liền mạch, tự nhiên, diễn tả đƣợc những hiện thực phong phú – đa dạng với những

trạng thái cảm xúc khác nhau của con ngƣời – của dân tộc.

Quê mẹ – hình ảnh ngƣời mẹ sinh thành của nhà thơ đã đƣợc hòa nhập cùng

hình ảnh nơi xứ Huế lồng ghép với hình ảnh Tổ quốc thân yêu qua chất giọng đầm

ấm, ngọt ngào:

Mẹ không còn nữa, còn đây Huế

Con lớn lên con biết lẽ rồi.

Nƣớc mất nhà tan, đời khổ thế

94

Không làm nô lệ, đứng lên thôi!

Lửa chiến tranh nay đã tắt rồi

Mà lòng ta vẫn cháy không nguôi

Mẹ ơi, dƣới đất còn chua xót

Những tiếng giày đinh đạp núi đồi.

Huế lại về vui giữa Cộng Hòa

(Quê mẹ)

Hoặc:

Tôi lại về quê mẹ nuôi xƣa

Một buổi trƣa, nắng dài bãi cát

Gió lộng xôn xao, sóng biển đu đƣa

Mát rƣợi lòng ta ngân nga tiếng hát

(Mẹ Tơm)

Với Mẹ Tơm, hình ảnh một ngƣời mẹ có tấm lòng yêu nƣớc, luôn trung thành

với lý tƣởng cách mạng, căm thù giặc sâu sắc:

Thƣơng ngƣời cộng sản, căm Tây – Nhật

Buồng mẹ, buồng tim dấu chúng con

Mẹ Tơm, Quê mẹ… họ là những ngƣời mẹ chiến sĩ đƣợc thể hiện trong thơ

đều là những ngƣời mẹ có trái tim nhƣ ngọc sáng ngời chân lý bất tử vì Tổ quốc

thân yêu.

Bác ơi – là một trong số những bài thơ hay nhất viết về Chủ tịch Hồ Chí

Minh, lúc ngƣời qua đời. Bài thơ với lối kết cấu nhƣ một bài điếu văn cổ điển. Với

tính chất cổ điển trong kết cấu này đã nâng lên thành hình tƣợng thơ, cảm xúc của

Tố Hữu ở tầm cao mới.

Hình tƣợng Bác – vị cha già kính yêu, vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc – Cách

mạng Việt Nam đƣợc hiện lên trong những sự suy tƣởng, mang tính chất khái quát

cao, dạt dào xúc cảm:

95

Bác để tình thƣơng cho chúng con

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải, hồn muôn trƣợng

Hơn tƣợng đồng phơi những lối mòn

Tình yêu bao la của Bác kính yêu: “nâng niu tất cả, chỉ quên mình”. Cuộc

đời vì dân, vì nƣớc; phẩm chất giản dị thanh cao sáng ngời chân lý – Bác mãi giản

dị - vĩ đại. Tố Hữu đã bất tử hóa hình tƣợng Bác Hồ với niềm thành kính thiêng

liêng trong lòng dân tộc Việt Nam.

Theo chân Bác – không chỉ miêu tả về hình ảnh Bác Hồ kính yêu; mà Tố

Hữu còn cho bạn đọc chúng ta thấy đƣợc tấm lòng thƣơng yêu nhân dân bao la dạt

dào “nhƣ trời bể” của Bác chan chứa nghĩa tình toàn dân tộc với Bác.

Đây là kiểu thơ trữ tình – tự sự. Đặc biệt trong phần giữa của bài thơ Tố Hữu

đã dựa vào sự thật của lịch sử, mốc trật tự của thời gian – trên cơ sở của tính chất

trữ tình, tác giả đã níu kéo những dƣ âm của quá khứ trở về thực tại vào có sự giao

hòa với đối tƣợng thể hiện:

Lê Nin ơi, ngƣời thầy, ngƣời cha

Niềm tin trong sáng mãi lòng ta

Đêm nay nằm đó, mà thanh thản

Vầng trán mênh mông tỏa chói lòa.

Tố Hữu vừa hóa thân nhân vật trữ tình, vừa thể hiện nỗi lòng vừa kể chuyện

một cách cô đọng, súc tích có sự đan xen bức tranh đầy sức gợi và cảm động dạt

dào tha thiết. Quả đó là một ý tƣởng “nghệ thuật” mới lạ của Tố Hữu – tạo sự thành

công của bản trƣờng ca.

3.2.4. Thể song thất lục bát:

Đây là một thể thơ bắt đầu bằng hai câu thất (bảy, bảy) tiếp đến hai lục bát

(6,8) dùng để diễn tả tâm trạng.

Có những trƣờng hợp bắt đầu là hai câu lục bát tiếp theo là hai câu thất ngôn

nên gọi là lục bát gián thất, ít gặp.

96

Đặc biệt sau cách mạng tháng Tám, thể này ít đƣợc sử dụng, vì nhịp điệu quá

ổn định, đã gây ra những cảm giác đều đều lặp lại cho phù hợp với việc thể hiện

những sự hồi tƣởng hơn là sự đề cập tới những vấn đề hiện đại.

Nếu nhƣ lục bát vốn là sở trƣờng của Tố Hữu; thì ở thể song thất lục bát rất

khó tránh khỏi tính chất diễn ca.

Có thể thấy:

Ba mƣơi năm đời ta có Đảng

Hôm nay ôn lại quãng đƣờng dài

Cây khô cây lại đâm cành nở hoa

Thuở nô lệ, thân ta nƣớc mất

Cảnh cơ hàn, trời đất tối tăm

Một đời đau suốt trăm năm

Chim treo trên lửa, cá nằm dƣới dao!

(Ba mươi năm đời ta có Đảng)

Hoặc:

Ôi nhớ những năm nào thuở trƣớc

Xóm làng ta xơ xác héo hon

Nửa đêm thuế thúc trống dồn

Sân đình máu chảy, đƣờng thôn lính đầy.

Đó còn là:

Má già trong túp lều tranh

Ngồi bên bếp lửa đun cành củi khô

Một mình má, một nồi to

Cơm vừa chín, vùi tro, má cƣời…

Chết! Có tiếng gì rơi sột soạt?

Má già run, trán toát mồ hôi

Chạy đâu! Thôi chết, chết rồi!

97

Gót giày đâu đã đạp nơi liếp mành

(Bà má Hậu Giang)

Ông đã ghi lại những suy nghĩ, những hình ảnh và đặc biệt ở trong những

vần điệu quen thuộc luôn ám ảnh trong tâm trí nhà thơ. Với những dƣ vị tình cảm

trong cảm xúc chủ đạo tƣ tƣởng của Tố Hữu gửi lòng mình vào vần thơ thật dung

dị.

Tố Hữu là ngƣời sáng tác rất nhiều thể thơ: thơ lục bát, song thất lục bát

mang tính chất truyền thống của dân tộc. Dù sáng tác theo thể thơ nào, thơ Tố Hữu

cũng luôn phong phú, đa dạng, lúc chậm rãi, lúc dồn dập với những nhịp, âm thanh,

vần điệu gần gũi với thơ ca dân gian.

Mọi xúc cảm nghệ thuật trong thơ Tố Hữu đều có nguồn cội từ tình cảm mộc

mạc, chân thành với lý tƣởng cách mạng. Nhân vật trữ tình hóa thân – nhập vai

trong sáng tác đã đƣợc nâng lên tầm vóc của thời đại mới; Tố Hữu là một ngƣời đã

có sự kế thừa và phát huy truyền thống thơ ca yêu nƣớc của dân tộc và cũng là

ngƣời duy trì về thể thơ dân tộc trong mọi sáng tác của mình.

Đúng nhƣ lời khẳng định của GS. Nguyễn Đăng Mạnh: “Nếu Chế Lan Viên

làm sang cho thơ Việt Nam thì Tố Hữu làm giàu cho thơ Việt Nam”.

Ông quả là “lá cờ đầu” của nền thơ ca Việt Nam hiện đại – một nhà thơ, một

nhà chính trị lỗi lạc tiên phong của cách mạng Việt Nam đƣợc khắc tạc trong những

vần thơ quả cảm yêu nƣớc; trƣớc thực tiễn của lịch sử chống ngoại xâm oanh liệt

thuở nào.

Ôm đất nƣớc những ngƣời có vải

Đã đứng lên thành những anh hùng.

(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

3.3. Ngôn ngữ thơ:

3.3.1. Khái niệm ngôn ngữ:

Có thể thấy trong văn chƣơng thƣờng là sự thể hiện bằng nghệ thuật ngôn từ,

làm phƣơng diện cho sự biểu đạt. Những chất liệu ngôn từ đó với những đặc trƣng

98

nghệ thuật luôn đậm chất nhân văn trong đó luôn có xu hƣớng gắn kết lý tƣởng –

tính hình tƣợng cũng nhƣ những rung động mang sắc thái riêng.

Ngôn ngữ luôn là những công trình do con ngƣời sáng tạo – nó là những đặc

trƣng tiêu biểu thuộc về bản chất – sức mạnh tiềm ẩn con ngƣời. Giao tiếp bằng

ngôn ngữ, con có thể tự nhận thức ra thế giới xung quanh và cũng là tự thể hiện

mình với cộng đồng xã hội.

Do vậy, việc sử dụng thứ ngôn ngữ để làm công cụ biểu đạt – tác phẩm văn

chƣơng thƣờng mang những đặc điểm và ƣu thế rõ rệt mà các ngành nghệ thuật

khác không thể có.

Vì thế, nên “ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tƣ duy”.

“Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” – M.Gorki. Nhƣ đã đề cập ở trên,

những tác phẩm văn chƣơng về mặt ngôn ngữ văn học là yếu tố có vai trò quan

trọng để biểu đạt phong cách sáng tạo và tài năng sở trƣờng của chính tác giả khi

xây dựng – hƣ cấu tác phẩm.

Việc dùng ngôn ngữ trong tác phẩm văn chƣơng có chất liệu ngôn từ không

phải là sự giản đơn – mà là sự xuất hiện của “mã” mới phức tạp – đƣợc cấu thành

do một hệ thống của tín hiệu thứ nhất – ngôn ngữ tự nhiên. Việc xây dựng và hƣ

cấu thành tác phẩm nghệ thuật ngôn từ – tín hiệu ngôn ngữ đã mang một chức năng

thẩm mỹ – nơi xuất hiện hình tƣợng nghệ thuật. Đó cũng là sự biểu đạt của tính

chính xác, sự tinh tế – trong sáng của ngôn ngữ thơ. Chính sự lý giải đó, cho thấy

trong mỗi cá nhân tác giả đều có xu hƣớng, sở trƣờng, sở đoản… xúc cảm nghệ

thuật – tƣ tƣởng chủ đạo tác phẩm: âm thanh, hình ảnh, từ ngữ… hình thành phong

cách cá nhân trong quá trình sáng tạo nghệ thuật – tạo ra hiệu ứng thẩm mỹ trong

thơ. Chúng ta dễ dàng khẳng định: không thể có văn học nếu không có ngôn ngữ.

Bởi: văn học vốn là một loại hình nghệ thuật phản ánh thế giới bằng hình tƣợng

ngôn từ- bởi ngôn ngữ đó chính là những chất liệu biểu hiện mang tính đặc trƣng

của văn học, không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học. Văn học luôn

phản ánh hiện thực đời sống, biểu hiện tƣ tƣởng một cách trực tiếp – toàn vẹn của

tác giả. Ngôn ngữ văn học nói chung, ngôn ngữ thơ nói riêng đều bắt nguồn từ đời

99

sống, ngôn ngữ của toàn dân nhƣng đã đạt đến trình độ nghệ thuật. Ngôn ngữ cũng

là yếu tố đầu tiên để xây dựng nên một tác phẩm thơ ca và bắt đầu từ đời sống

nhƣng vận dụng và sáng tạo nói nhƣ thế nào thì tùy thuộc vào tài năng của ngƣời

nghệ sĩ. Tố Hữu không mạnh ở việc sáng tạo những từ mới, không thể hiện nhiều ở

cách nói mới. Tố Hữu thƣờng sử dụng các từ ngữ quen thuộc trong thơ ca truyền

thống ca dao – dân ca; gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của dân tộc. Lối nói

trong thơ Tố Hữu rất quen thuộc, nhất là những ƣớc lệ tƣợng trƣng; lối so sánh ví

von truyền thống nhƣng lại đƣợc biểu hiện những nội dung mới, tinh thần mới của

thời đại.

3.3.2. Ngôn ngữ thơ Tố Hữu:

Có thể thấy ngôn ngữ thơ Tố Hữu là ngôn ngữ thơ trữ tình điệu nói. Đây là

một trong những thành tựu tiêu biểu nền thơ ca hiện đại Việt Nam, thơ ông không

giống nhƣ thơ cổ điển trong những nguyên tắc về tổ chức lời thơ.

Ngƣời ta coi tiếng thơ nhƣ là những sự cộng hƣởng đặt trong mối quan hệ

ngoại cảnh. Đó là cách hiểu quan niệm thơ nhƣ một thể hiện của sự vô ngã – đề cao

hiện tƣợng khách quan – không thấy đƣợc tầm quan trọng của yếu tố chủ quan

trong chủ thể sáng tạo nhà thơ.

Tạo ra đƣợc cách cảm với thơ ca, là gửi gắm ý tƣởng chủ đạo trong sáng tác

với nguyên tắc hoàn toàn khác xa với những nguyên tắc của sự giao tiếp theo hƣớng

trực tiếp. Một trong những vấn đề cơ bản trong yếu tố của lời nói thƣờng khác xa so

với những câu kế tiếp một cách nhạt nhòa. Những yếu tố của từ ngữ của bài thơ đã

có sự nối tiếp theo những quy luật về đối, niệm, vần; số câu hạn định… trong đó,

các câu thơ thƣờng bị khuyết trống về hƣ từ quan hệ trong lời nói. Độc giả chúng ta

cũng cần phải tập trung để nghe từng lời nói trong thơ mà ngƣời ta để mắt tới những

ý vị trong hình ảnh – tính điệu của sự của hình.

Thơ ca cách mạng trong nhà tù, đa phẩn sáng tác chƣa tránh đƣợc sự liên

quan thơ điệu ngâm – đặc biệt cũng không vận dụng tới sự biểu đạt thơ điệu nói.

Nhà thơ Tố Hữu là một nhà Thơ mới của cách mạng, bản thân ông đã có sự phát

triển về mặt thơ trữ tình điệu nói ở thơ chính trị công dân – đƣa tiếng nói của đời

100

sống cách mạng kháng chiến vào thơ – để từ đó đề cập đến tiếng nói tâm tình đời tƣ

thành tiếng nói chính luận một cách cụ thể - đặc sắc.

Cách biểu hiện trong những đại từ nhân xƣng ở ngôi thứ nhất đã cho thấy sự

thể hiện của nhà thơ đã rõ rệt và quan điểm, tƣ tƣởng, tình cảm thật dứt khoát của

nhân vật trữ tình hóa thân nhập vai trong thơ.

Vì thế cho nên thơ trữ tình thƣờng có một đặc điểm quan trọng trong sự đổi

mới và sáng tạo.

Trong sáng tác thơ của mình, Tố Hữu thƣờng hay bắt đầu mạch cảm xúc từ

chữ “Tôi” – ta – chúng ta… Bản chất của cái tôi trong sáng tác thơ đã hình thành

nên một xúc cảm nghệ thuật – tƣ tƣởng chủ đạo của thơ ca cách mạng Việt Nam.

Đây là vấn đề cốt lõi để tạo ra một tiếng nói đanh thép trong thơ Tố Hữu.

Với thơ trữ tình điệu nói – ông đã có sự kết hợp giữa các lời chêm xen, sự hô

ngữ – thán ngữ, tiếng chào… tạo ra lời của ý thơ có những giọng điệu cảm xúc khác

nhau:

Anh vệ quốc quân ơi

Sao mà yêu anh thế!

Voi hăng lên nhé,

Trận này lập công…

Ý tƣởng trong thơ thƣờng tồn tại dƣới những lời nói tranh biện mang tính

chất lý lẽ, tuyên bố - khẳng định – từ đó yêu cầu phải có ngắt câu thơ sao cho một

cách tự nhiên trong đó chia ra nhiều khúc, có sự vắt dòng trong các dòng thơ:

Anh có hiểu cô đơn là nỗi khổ

Của lòng tôi? Thất thểu giữa muôn ngƣời

Vẫn thấy mình trơ trọi; muốn tìm nơi

Đầy nắng rát, vẫn còn nghe tái lạnh…

Khi đọc thơ Tố Hữu, chúng ta thấy những dấu chấm câu ở ngay giữa của

dòng thơ – điều đó đã tạo ra hình thức thể hiện câu thơ – bị bẻ gãy và có những xúc

101

cảm trong cách nói. Đặc biệt nhà thơ đã đặt ra rất nhiều những câu hỏi có tính chất

gợi mở, khẳng định – chất vấn…

Ai biết vì sao? Lúc đất trời

Chuyển mùa rét dữ, gió sƣơng rơi…

Tuy vậy, nhiều khi Tố Hữu ở trong thơ đôi chỗ có sự xuất hiện những lời đối

thoại, lời độc thoại hàm chứa những chất giọng biểu hiện sự cảm tính của hình ảnh

những bà mẹ: Bà Bủ; Mẹ Suốt… các chị (Lá thư Bến Tre), các anh: Anh hùng Hồ

giáo, Anh hùng Núp…

Đôi khi trong thơ trữ tình đã có sự nhập vai – thể hiện nhu cầu suy nghĩ –

nhận thức và đƣợc ẩn sau trong chất giọng đó – có lúc lại là những sự đối đáp luôn

gần gũi lời nói: Tiếng hát sông Hương, Bắn, Việt Bắc… Những điều đó, đã dẫn tới

sự thay đổi lớn trong hình thức nghệ thuật thơ dân tộc – dƣới ngòi bút của nhà thơ.

Dù sao, thơ Tố Hữu luôn có sự kết hợp của thơ điệu nói dƣới hình thức cách tân

truyền thống một cách đặc sắc.

Bản thân Tố Hữu đã luôn vận dụng linh hoạt về nhịp thơ truyền thống – ví

nhƣ giác quan của nhịp điệu – giúp ngƣời đọc dễ dàng nhận biết đƣợc đặc tính biểu

hiện câu thơ điệu nói và theo chiều ngƣợc lại:

Thác, / bao nhiêu thác, / cũng qua, /

Thênh thênh / là chiếc / thuyền ta / trên đời.

Sự nhận thức về một bài thơ hay cũng đủ để cho ngƣời đọc không thấy sự

xuất hiện câu thơ, ngƣời đọc dễ cảm nhận đƣợc hơi ấm dạt dào đầy tính chất nhân

văn. Và không nên phủ nhận – tiếng nói này thuộc về ai – và tạm coi là những tiếng

ca từ ngay chính bản thân mình, thuộc về mình. Ở đây vấn đề hiểu câu thơ; phong

cách không còn là điều tất yếu – mà nên xem nó nhƣ là một tính chất; tính điệu

chung – khẳng định những đặc tính của thi pháp. Trong sáng tác thì lời thơ, lời của

bản thân đời sống đã hòa nhập tạo mối quan hệ mật thiết – đời sống xã hội đƣợc

nhập vai – tạo ý đồ chủ đạo bài thơ. Thơ của Tố Hữu, là loại thơ mang tính chất

phát ngôn lý tƣởng cách mạng; những làn điệu chứa đầy ân tình và niềm tin yêu

cách mạng.

102

Ở trong câu thơ có sự đúc kết một cách hàm súc của những thành ngữ, cách

ngôn:

Ta bƣớc tới, chỉ một đƣờng: Cách mạng!

Trƣờng Sơn đông nắng, tây mƣa

Ai chƣa đến đó nhƣ chƣa rõ mình!

Nội dung biểu hiện thƣờng nghiêng về tình cảm và ý chí. Nó đƣợc xuất hiện

trong những giờ khắc lâm nguy, con ngƣời ta phải đối chọi giữa sống – chết; sự

rung động cao cả mà thôi – có thể khẳng định đây không phải là mảng thơ cách

ngôn của sinh hoạt cuộc sống đời thƣờng. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, nhƣng

nó không dễ viết.

Chính vì vậy, thơ của Tố Hữu thuộc loại thơ trữ tình điệu nói – có sự định

hƣớng tới chất liệu ngôn ngữ và trong cách tổ chức của lời thơ.

Tố Hữu đã cho rằng thơ của ông, đó là những tiếng hát – những bài ca: Tiếng

hát đi đày, Tiếng hát sông Hương… khi thể hiện với:

Thơ ta ơi, hãy cất cao tiếng hát

Là sự thể hiện tâm trạng – đầy tính chất bi kịch tới mức cao độ - mang đầy

chất thơ của chính cách mạng và hồi sinh. Điều đó đã tạo ra những sắc cảm nghệ

thuật một cách bay bổng – say mê.

Cách thức thể hiện về mặt ngôn từ trong thơ Tố Hữu là cả một thế giới đang

bừng sáng, trỗi dậy. Ông hay nhắc tới hình ảnh mặt trời trong các dạng thức khác

nhau: mặt trời chân lý, mặt trời lên… Hòa trong cảm giác ông thích hình ảnh về

nóng cháy – ngọn đuốc thiêng liêng, tim ta làm ngọn lửa…

Trong thơ Tố Hữu, cảnh vật đƣợc khắc tạc trong sự nảy nở, tƣơi tắn: “Căng

đầy sức dậy dáng non tơ…”. Tố Hữu là ngƣời đã sử dụng rộng khắp từ ngữ thể hiện

về những tình cảm thiêng liêng – từ đó tác động tới tâm hồn ngƣời đọc bằng những

xúc cảm mạnh mẽ, tha thiết nhất – nỗi khát khao – niềm vui hòa lẫn trong thơ. Đó là

nét thi pháp cổ điển nhất.

103

Nguyễn Đăng Mạnh đã khẳng định: “Thơ Tố Hữu ít có những tìm tòi sắc sảo

về ngôn từ”, “không có thiên hƣớng tạo ra những hình ảnh độc đáo tân kỳ có thể

gây đƣợc những bất ngờ đối với ngƣời đọc”. Nhà thơ thƣờng hay sử dụng những

vốn từ thơ ca mang tính chất cổ điển, dân gian; thơ lãng mạn theo cách tổ chức quen

thuộc – một nguyên tắc thật độc đáo trong cách dùng hình ảnh, từ ngữ.

Sự tiếp thu và học tập các truyền thống của thơ ca dân gian đã có từ rất xa

xƣa trong nhiều tác giả văn học hiện đại.

Việc ảnh hƣởng của thơ ca dân gian đã là sự nối tiếp của thơ ca hiện đại

trong từng hơi thở, câu chữ tác động đến tình cảm đời sống nhân dân.

Những vần thơ của Tố Hữu luôn dễ thuộc, dễ nhớ đậm chất dân tộc. Bản

thân nhà thơ luôn tâm niệm quần chúng nhân dân “là những kẻ vận tải cái hay ấy

qua các thời đại, nên họ rất dễ cảm xúc với những hình thức văn nghệ cũ, và điệu

cảm xúc bình dị của nhân dân đời trƣớc rất quen thuộc với họ”. [23, 326]

Vì vậy, Tố Hữu trong sáng tác của mình luôn chứa đựng khá nhiều những

yếu tố thơ ca dân gian coi nó nhƣ một phƣơng tiện mang tính chất đại chúng hóa và

phổ cập hóa thơ ca cách mạng. Đa số các bài thơ Tố Hữu đều mang ngôn ngữ quần

chúng nhân dân sâu sắc. Nhà thơ luôn có sự tìm tòi, tiếp thu và phát huy một cách

có sáng tạo thơ ca dân gian để hình thành ý thơ mang những lối nói, cách nghĩ cách

cảm của quần chúng nhân dân trong thơ của mình:

Mày đi tao nhớ

Tuổi đã lớn rồi

Liệu mà cƣới vợ…

Tội nghiệp con tôi

Tây nó giết mất

Con ơi! Con ơi!

Tố Hữu trong những trang thơ của mình đều có những nội dung và hình thức

biểu hiện phong phú đa dạng. Có những câu thơ nhƣ đƣợc mở rộng và có xu hƣớng

gần gũi lời ăn tiếng nói thƣờng nhật của nhân dân ta. Vì lẽ đó, việc tiếp thu lời ăn

104

tiếng nói của đời sống nhân dân, có thể thấy những bài thơ hoặc những câu thơ Tố

Hữu đã có sự cách tân đổi mới. Trong phong trào kháng Pháp, đuổi Nhật, kho tàng

ca dao cũng rất phát triển. Đây là một thể ngắn gọn, súc tích gần gũi tâm hồn quần

chúng nhân dân, và cũng là nơi để cho nhiều tờ báo dành riêng một chỗ đứng cho ca

dao lúc bấy giờ. Thơ ca dân gian là một yếu tố của phƣơng thức truyền miệng và

sáng tác tập thể trong sinh hoạt cộng đồng xã hội. Với bối cảnh xã hội Việt Nam

thời kỳ Pháp thuộc có rất nhiều cuộc chiến tranh liên tiếp xảy ra, những áp bức bất

công trong xã hội phong kiến, họ đã ứng khẩu thành văn chƣơng theo lối riêng của

mình. Tố Hữu là ngƣời chịu ảnh hƣởng tƣ tƣởng của thời kỳ đấu tranh cách mạng,

nên trong những bài thơ đều phảng phất hơi thở ca dao và có tác động lớn tới quần

chúng:

Chém choa ba đứa đánh phu

Choa đói choa rét bây thù gì choa

Bây coi Tây – Nhật là cha

Sƣớng chi bay hại nƣớc nhà, bà con

Liệu hồn bỏ thói du côn

Bằng không đòn lại trả đòn cho coi.

Chém cha cái lũ thực dân

Đã leo đằng cẳng lại lân đằng đầu…

(Tiếng hát trên đê)

Nhƣng cũng có khi đó là tiếng nói căm thù, cùng những lời có tính chất giáo

huấn của quần chúng nhân dân với kẻ thù xâm lƣợc, nó gần giống ca dao:

Chém cha cái giặc chết hoang

Làm cho thiếp phải gánh lƣơng theo chồng…

… Chém cha cái nƣớc sông Bồ

Nghĩ rằng bán nƣớc, ai ngờ bán con…

… Chém cha con mắt đa đoan

Càng lắm nhân ngãi, càng mang tiếng thù…

105

Ở đây đã có sự cách tân đầy sáng tạo trong cách nghĩ, cách cảm của quần

chúng với ca dao, nhà thơ đã tạo dựng tứ thơ ở từng hoàn cảnh, con ngƣời, sự việc

cụ thể trong kế thừa thể thơ dân gian. Nhiều bài thơ đã đƣợc Tố Hữu thể hiện trong

cách nói dân gian của từng vùng, ở từng địa phƣơng, cách điệu làm cho ngôn ngữ

thơ luôn gần gũi lời nói hàng ngày của quần chúng nhân dân…

Từ ngữ địa phƣơng “là một hình thái nhất định của ngôn ngữ. Hình thái ấy

có những đặc điểm riêng trong hệ thống ngữ âm, ngữ pháp, từ vựng và đƣợc sử

dụng ở một môi trƣờng địa lý hạn hẹp hơn môi trƣờng của ngôn ngữ”. [55, 249]

Ví nhƣ câu nói của ngƣời phụ nữ, có tính chất từ ngữ địa phƣơng rõ nét miền

xứ Thanh:

Củ chuối em đào ăn với hỏng xanh

(Tiếng hát trên đê)

Hoặc các bài Mẹ Suốt, Đi đi em, Nước non ngàn dặm… Tố Hữu đã vận dụng

lối nói của thơ ca dân gian của địa phƣơng vùng Quảng Bình – Huế, thể hiện tâm

trạng của từng nhân vật, đôi khi là lời tác giả, đặc biệt ở Tố Hữu thành công với

tiếng địa phƣơng, tạo cho thơ luôn gần gũi nhân dân vùng miền đó:

Bây chừ sông nƣớc về ta…

Thì tui cứ việc nắng mƣa đƣa đò…

Gan chi gan rứa mẹ nờ…

Rứa là hết! Chiều ni em đi mãi…

Nỗi niềm chi rứa Huế ơi

Những từ: chừ, tui, chi, nờ, ni, rứa… luôn mang đậm chất giọng của từ ngữ

địa phƣơng vùng Bình Trị Thiên. Nét đặc sắc trong thơ Tố Hữu, còn là lối gọi tên

nhân vật hợp với cách gọi giữa các địa phƣơng, những ngƣời mẹ nơi vùng đồng

bằng Bắc Bộ. Ngƣời ta gọi Bầm, Bủ, ngƣời con gái lúc còn ấu thơ ở Hậu Lộc là

Hỉm (Mẹ Tơm), ngƣời con trai lúc còn ấu thơ ở vùng Bình Trị Thiên là Cu theo

(Chuyện em Hòa)…

Nhà thơ Chế Lan Viên đã khẳng định: “Thơ Tố Hữu rất đại chúng, gần gũi

với lời nói thƣờng ngày của nhân dân, mà vẫn rất điêu luyện, nhuần nhụy, cái hay

106

cái đẹp của thơ Tố Hữu, là cái hay cái đẹp mà quần chúng nhân dân đều có thể hiểu

đƣợc.”

Với cái sắc màu địa phƣơng đã phần nào thể hiện đƣợc sự hòa hợp, kết gắn

giữa nhà thơ và đồng bào, tạo nên sức hấp dẫn cảm nhận khi tiếp cận thơ Tố Hữu.

Sở thích của Tố Hữu thiên về những say mê trong xúc cảm – đầy tính chất

của sự suy tƣởng và sự phát hiện những ý nghĩa bề sâu:

Em là ai, cô gái hay nàng tiên?

Em có tuổi hay không có tuổi…

Ông luôn trung thành với quan niệm thẩm mỹ truyền thống – cái đẹp luôn là

đối tƣợng thể hiện một cách trực quan sinh động trong chất thơ đầy sự so sánh, ví

von, câu hỏi tu từ…

Thơ ông là sự tƣơng phản ở chính trong thơ trữ tình chính trị điệu nói – đó là

cơ sở – nguyên tắc để xây dựng cho ý – câu – khổ thơ; ý vị thơ đã không để cho sự

tồn tại tính chất khôn khan mà tạo ra chất thơ một khí phách mang tính chất hùng

biện:

Tôi muốn viết những dòng thơ tƣơi xanh

Vẫn nóng viết những dòng thơ lửa cháy…

Hình thức tƣơng phản mà là những nguyên tắc tổ chức cốt lõi để tạo xúc cảm

thơ sâu sắc, thì ví von là sự rộng mở ý thơ của Tố Hữu.

Những câu thơ đã đƣợc nhà thơ sử dụng theo lối diễn đạt ví von kiểu ca dao

điều đó thể hiện sự sinh động, hấp dẫn gần gũi với quần chúng hơn:

Mƣa bao nhiêu hạt thƣơng bầm bấy nhiêu

Ở Tố Hữu, ông thƣờng hay dùng mô típ xƣng danh quen thuộc của thơ ca

dân gian: ca dao – dân ca. Trong trƣờng hợp ngƣời con gái đã tự giới thiệu về bản

thân, theo lối truyền thống dân gian thƣờng là: Em là…

Khi đi vào thơ Tố Hữu cũng sử dụng lối nói này:

Em là con gái Bắc Giang,

Rét thì mặc rét, nƣớc làng em lo

(Phá đường)

107

Hoặc khi cô gái giới thiệu về gia thất, thơ ca dân gian thƣờng hay thể hiện:

Nhà em lắm ruộng nhiều trâu…

Nhà em công việc bề bề…

Trong kho tàng ca dao Việt Nam, quần chúng nhân dân thƣờng thể hiện niềm

tự hào về cảnh đẹp thiên nhiên đất nƣớc, gửi lòng mình hòa nhập cảnh đẹp quê

hƣơng xứ sở một cách bình dị, đơn sơ:

Thấy dừa thì nhớ Bến Tre,

Thấy bông sen nhớ đồng quê Tháp Mƣời

Ai về Bình Định mà coi,

Con gái Bình Định múa roi đi quyền…

Ở Việt Bắc chúng ta cũng bắt gặp những kiểu kể, kiểu xƣng hô đó.

Muối Thái Bình ngƣợc Hà Giang

Cày bừa Đông Xuất, mía đƣờng tỉnh Thanh

Ai về mua vại Hƣơng Canh

Ai lên mình gửi cho anh với nàng

Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng

Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông

(Việt Bắc)

Sự ví von đều mang những đặc sắc riêng; điểm nhìn riêng là vấn đề tiêu biểu

cho tƣ duy thơ của Tố Hữu. Nó đã đƣợc khái quát hơn – cao hơn – trừu tƣợng

hơn…

Để chỉ tính chất xấu xa, bản chất man rợ - ác độc của kẻ thù – Tố Hữu ví von

– với vật mẫu ví xấu:

Lũ đế quốc nhƣ bầy quỷ sống…

Xác tăng nhƣ xác bọ hung đen bờ…

Đây là một hiện tƣợng độc đáo trong thơ Tố Hữu – với sự kết hợp thơ trữ

tình điệu nói có tính chất sử thi – chất thơ bay bổng, vừa mang tính chất hiện đại –

vừa tính chất cổ kính.

108

Tố Hữu là ngƣời đã phát huy cao độ về tính nhạc phong phú, đa dạng của

Tiếng Việt – đặc biệt là cách sử dụng tài tình các từ láy, thanh điệu, các vần thơ:

Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan

Đƣờng Bạch dƣơng sƣơng trắng nắng tràn

(Em ơi… Ba Lan…)

Có trƣờng hợp cả bài thơ dài có hình thức đối đáp Việt Bắc – Đó là lối kết

cấu mang tính chất hô ứng – “ngƣợc xuôi đôi mặt một lời song song”.

Ở trong rất nhiều bài thơ, Tố Hữu đã hình thành ý thơ theo kiểu kết cấu lối

đối đáp giữa nam và nữ, ca dao – dân ca vẫn thƣờng biểu hiện: Việt Bắc, Tiếng hát

sông Hương, Phá đường… Việt Bắc, nhà thơ đã cách tân và vận dụng thành công

kiểu kết cấu đối đáp ca dao – dân ca, để thể hiện tình cảm cách mạng giữa ngƣời

cán bộ miền xuôi và Việt Bắc trong khung cảnh chia tay giữa kẻ ở – ngƣời đi một

cách mặn mà tha thiết.

Cuộc đời cách mạng – chặng đƣờng thơ – luôn luôn có sự gắn kết – móc nối

song hành, đó là sự ảnh hƣởng cách dùng của đại từ nhân xƣng “ta – mình” trong

bài thơ Việt Bắc. Việc hình tƣợng hóa về Việt Bắc – ngƣời cán bộ cách mạng đƣợc

ví nhƣ đôi bạn tình “mƣời lăm năm”, thiết tha mặn nồng. Kẻ ở ngƣời đi lƣu luyến;

khó nói lên lời. Nhà thơ đã mƣợn thể hát đối truyền thống của dân tộc, mang sắc

thái ngôn ngữ đậm đà đƣợc biểu hiện trong những tình cảm mới.

Đại từ nhân xƣng “ta – mình” thiết tƣởng tồn tại ở trong ca dao, song ở Tố

Hữu đã thành đời sống chung của dân tộc, thể hiện những tình cảm lớn thời đại.

Ta – mình, hai nhân vật trung tâm của bài thơ Việt Bắc đƣợc lặp đi lặp lại

nhiều lần theo lối đối đáp có nhịp, cứ thay nhau bộc bạch tâm tình trong không khí

cận cảnh tiễn đƣa. Đôi khi là những câu hỏi:

Mình về thành thị xa xôi

Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?

Phố đông còn nhớ bản làng

Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng

109

Chia tay đầy lƣu luyến; Việt Bắc đã chủ động đặt ra những câu hỏi có tính

chất dồn dập, nặng nghĩa nặng tình; bộc lộc khát khao sự yêu thƣơng và đƣợc yêu

thƣơng:

Mình đi, mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?

Là câu thơ hay nhất của bài thơ Việt Bắc. Hai chữ “mình” trƣớc ngôi thứ hai

và chữ mình sau ngôi thứ hai – đại từ đổi ngôi – vốn không xuất hiện trong ca dao.

Câu thơ có nguồn cội trong ca dao, đƣợc nâng lên tầm vóc hiện đại, mới mẻ.

Anh có thể sẽ quên em, nhƣng ngay cả với chính anh, anh cũng sẽ có thể sẽ

quên…Đây là một câu hỏi chan chứa tính chất sâu nặng, da diết nhớ nhung trong

con mắt sâu thẳm mà thôi.

“Mình” ở đây quả trong sáng và anh hùng biết bao – và cũng là sự gắn bó kỉ

niệm từng đồng cam cộng khổ “miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai” – và

cũng sự chia bùi sẻ ngọt “Thƣơng nhau chia củ sắn lùi, bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp

cùng”. “Mình” đã ghi dấu trong những trang sử vàng, gắn liền với yếu tố địa danh

có tính chất di tích lịch sử quý giá: “Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa” đặt ra

câu hỏi “giữa chốn thành đô phồn hậu” – mình có dễ dàng thay lòng đổi dạ với ta

không và với cả chính bản thân mình nữa hay không?

Trong cuộc hành trình của “mƣời lăm năm” trƣớc, nhà thơ đã cho thấy diễn

biến tƣ tƣởng trong thời bình nên mƣợn chính lời Việt Bắc để ƣớm hỏi xa xôi, gợi

nhiều nghĩ suy. Vứt bỏ cái vỏ bề ngoài – cách thức đối – đáp; Việt Bắc còn là một

bài thơ lòng tự dặn lòng. “Uống nƣớc nhớ nguồn”, mình hãy nhớ lấy và tự nhớ lấy;

giữ gìn – phát huy những phẩm chất cao đẹp trong chín năm trƣờng kỳ kháng chiến

gian khổ - hào hùng. Ngƣời hỏi “có nhớ mình” không?; cũng là một điều thổ lộ hỏi

“có nhớ ta” không?, bởi lẽ “mình với ta – tuy hai mà một”.

Cách thể hiện tình cảm thật kín đáo, sâu sắc.

Câu hỏi tha thiết nơi Việt Bắc, để đáp lại ngƣời về xuôi đáp trả những câu

thơ đầy chí tình và cũng là câu trả lời:

Mình đi mình lại nhớ mình

110

Nguồn bao nhiêu nƣớc nghĩa tình bấy nhiêu

Sự lặp lại ba chữ “mình” trong một dòng thơ – “mình” ngôi thứ nhất nhớ

“mình” ngôi thứ hai. Bằng việc sử dụng ngôi thứ hai đại từ nhân xƣng không có gì

đặc biệt – đã hƣớng câu thơ trở nên có sự hòa quyện, gắn kết.

Chữ “ta” trong câu thơ:

Mình về mình lại nhớ ta

Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào

để trả lời câu hỏi:

Mình đi mình có nhớ mình

Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Với sự hỏi này, nhà thơ đã dùng ba đại từ ngôi thứ hai trong lời đáp của

ngƣời về xuôi; ông đã dùng ba đại từ ngôi thứ nhất. Việc chuyển đổi ngôi thứ rất

linh hoạt. Nhà thơ đã sử dụng tài tình đại từ ta – mình để tăng thêm ý những câu thơ

trong buổi chia tay.

Đó còn là những câu hỏi lẫn cùng câu trả lời:

Ta về, mình có nhớ ta?

Ta về, ta nhớ những hoa cùng ngƣời.

Ta – mình, mình – ta luôn có sự xoắn xuýt với nhau:

Ta với mình, mình với ta

Kiểu kết cấu theo lối đối đáp, mang dáng dấp mình – ta muôn thuở đã tạo

nên bóng dáng đôi trai gái chia tay nhau, tình tự trong thơ ca dân gian:

Mình về, ta chẳng cho về.

Ta nắm vạt áo, ta đề câu thơ

(Ca dao)

Mình về có nhớ ta chăng

Ta về ta nhớ hàm răng mình cƣời

(Ca dao)

Hoặc:

Bao giờ trạch đẻ ngọn đa

111

Sáo đẻ dƣới nƣớc thì ta lấy mình.

Tố Hữu đã sử dụng thể lục bát trong khung cảnh buổi tiễn đƣa tạo nên những

trạng thái tình cảm lúc hẹn hò, lúc chia tay, lúc nhớ mong…

Mình – ta đứng ở hai câu đầu tƣơng xứng hợp bích có sự gợi cảm và luôn

phù hợp với tâm trạng ngƣời ở lại bâng khuâng – bịn rịn, luyến lƣu – cảm giác yêu

và đƣợc yêu; sự nghi ngờ vô cớ…

Vì lẽ đó mình – ta ở đây thật cụ thể, mang âm hƣởng chủ đạo của mình – ta

muôn thuở thơ ca dân gian:

Mình rằng: Mình chỉ lấy ta

Để ta bán cửa, bán nhà ta theo…

Mình lấy đƣợc ta bõ công ao ƣớc

Ta lấy đƣợc mình thỏa dạ ƣớc mong…

Đây là lối diễn đạt thƣờng gặp rất nhiều trong ca dao dân ca:

Mình nói dối ta mình hãy còn son

Ta đi qua ngõ thấy con mình bò…

Mình – ta trong thơ ca dân gian truyền thống cũng thƣờng hay thể hiện tình

cảm sâu sắc nhƣ trong thơ Tố Hữu:

Bây chừ cầu lại bắc qua

Ván thơm gỗ mới cho ta gặp mình…

Đặc biệt với lời của ngƣời về ta với mình, một lần nữa lại có đan cài chặt chẽ

với nhau.

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trƣớc mặn mà đinh ninh

Ta với mình luôn luôn khắng khít tạo cảm giác lòng tin giữa ngƣời đi – kẻ ở

trong giờ phút tiễn biệt này. Hƣơng vị Việt Bắc là sự ấm nồng của ca dao dân ca;

tạo nên màu sắc dân tộc: ngôn ngữ dân tộc đã đƣợc chính nhà thơ Tố Hữu sử dụng

một cách nhuần nhị trong sáng, giản dị, gần gũi đời sống nhân dân. Có sự kết hợp

giữa dân tộc – hiện đại trong hai đại từ nhân xƣng ta – mình.

3.4. Giọng điệu:

112

Trong cuộc sống thƣờng nhật, giọng điệu chính là sự biểu hiện bằng giọng

nói, lời nói thể hiện nhất quán một quan điểm, một thái độ trong ứng xử giao tiếp

hàng ngày.

Với chính văn học, giọng điệu là thái độ, tình cảm của tác giả đối với những

sự vật, hiện tƣợng đƣợc đƣa vào trong sáng tác và đƣợc cảm nhận bằng những sắc

thái biểu cảm của lời thơ. Nó đƣợc bộc lộ qua nhiều yếu tố, phƣơng diện phạm trù

thẩm mỹ khác nhau để tạo nên phong cách riêng của cá nhân tác giả - và là sự tạo

thành tính chính thể văn bản. Những ngƣời có tâm huyết với văn học; có thể thông

qua đặc điểm về giọng điệu của một bài thơ mới lạ ở mấy dòng cũng đủ để xác định

tác giả của những tác phẩm ấy. Giọng điệu có thể là một chiếc chìa khóa để mở

những bí mật của tòa lâu đài tác phẩm, những ẩn ý của tác giả gửi gắm trong bài

thơ. Để thấy đƣợc thái độ, sự nhìn nhận trong ý đồ chủ quan của tác giả về con

ngƣời và hiện tƣợng đời sống đƣợc đƣa vào phản ánh trong thơ. Và là sự tập hợp

của yếu tố để tạo thành âm hƣởng chung và đƣợc trình bày, khái quát trong toàn bộ

sáng tác.

Chúng ta có thể phân biệt giữa giọng điệu và khái niệm ngữ điệu trong ngữ

học.

Ngữ điệu đƣợc hiểu là những vấn đề thuộc về câu trong ngôn ngữ nói phát ra

thành tiếng – âm tiết – bao hàm ngữ điệu trần thuật, nghi vấn, cảm thán… giọng

điệu của văn học là giọng điệu của phát ngôn – thuộc về ngôn từ bên trong, nội tại –

không cần đọc thành tiếng nhƣng vẫn tồn tại một cách khu biệt cụ thể. Khi tìm hiểu

vấn đề này, chúng ta không nên quá đồng nhất với giọng điệu bẩm sinh từ chính sự

vốn có trong cuộc đời tác giả.

Trong lĩnh vực thơ ca, giọng điệu luôn thuộc về chủ thể trữ tình – đƣợc xem

nhƣ có quan hệ thân tình với tác giả - đề cập tới cái tôi thứ hai của tác giả.

Chức năng của giọng điệu là sự khúc xạ trong giọng điệu chính tác giả - có

sự liên kết thành một chỉnh thể có sự thống nhất giữa ngữ điệu – nhịp trên cơ sở có

sự định hình ngữ điệu của chất liệu ngôn từ. Và là những yếu tố có sự liên kết văn

bản với ngữ cảnh ngoài văn bản, không khí xã hội, thời đại, từ đó đánh giá, ý chí và

113

cảm xúc của mỗi tác giả trong quá trình sáng tạo của bản thân mình. Có thể hiểu,

giọng điệu là sự thể hiện ở chính chất giọng, điểm nhấn, sự ngắt quãng, nhịp điệu và

còn có sự kết hợp trong các chi tiết, hình ảnh… tạo ra không khí riêng trong từng

tác phẩm.

Lời thơ cũng có thể có hai chất giọng. Ví nhƣ trong bài thơ ta có thể nhận ra

giọng của hình ảnh nhân vật trữ tình thơ có tiềm ẩn giọng thơ tác giả hóa thân qua

câu thơ. Nhà thơ đã có sự dung hợp, đó là ý đồ sáng tạo thơ ca của chính mỗi tác giả

– có những giọng điệu khác, đều xuất phát từ chính xúc cảm chủ đạo trong những

sắc thái hào hùng, lạc quan, tƣơi vui, hài hƣớc, dí dỏm, thâm trầm kín đáo, lặng lẽ –

buồn thƣơng… giọng điệu trữ tình sâu lắng đƣợc thể hiện trong lĩnh vực thơ ca –

luôn đƣợc coi là những đặc trƣng trong mỗi thi nhân, và chính là cách thức bộc lộ

chủ quan trong ý thức mỗi tác giả - tạo ra âm hƣởng chung trong cách nhìn, cách

nghĩ, cách cảm – và là thái độ, tình cảm, lập trƣờng cảm xúc chủ đạo của mỗi nhà

thơ. Giọng điệu đƣợc thể hiện trong lời thơ, tạo nên giọng điệu riêng mang phong

cách thời đại tác giả.

Xét trong thơ của Tố Hữu, ngƣời đọc thấy ngay đƣợc có một giọng điệu rất

dễ nhận ra – là giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, đằm thắm và cũng là tiếng nói của

tình thƣơng mến.

Sở dĩ Tố Hữu trong thơ luôn mang một giọng điệu tâm tình, ngọt ngào tha

thiết đó, có phần là do sự thừa hƣởng từ điệu tâm hồn con ngƣời xứ Huế ở cả giọng

nói lẫn câu ca, điệu hò xứ sở của một vùng đất thiên nhiên mang vẻ đẹp thơ mộng,

gợi cảm. Chất giọng này cũng xuất phát từ quan niệm của Tố Hữu về thơ: … “Nó là

tiếng nói của ngƣời nào đó đến với ngƣời đó có sự cảm thông chung dựa trên cơ sở

đồng ý đồng tình (…)”.

Chế Lan Viên đã nhận xét đúng đắn về thơ Tố Hữu: “Thơ Tố Hữu là thơ

cách mạng, chứ không phải thơ tình yêu… Nhƣng thơ anh là thơ của một tình nhân,

anh nói các vấn đề bằng trái tim của một ngƣời say đắm. Cái sức mạnh lớn nhất của

Tố Hữu là quả tim anh”. Và đã đƣợc thể hiện qua cách xƣng hô, lối trò chuyện giãi

bày tâm sự với các đối tƣợng: Anh em ơi! Bạn đời ơi! Đồng bào ơi!; anh vệ quốc

114

quân ơi… anh chị em ơi… rồi đến những dòng miêu tả thiên nhiên đất nƣớc: Xuân

ơi xuân, Hƣơng Giang ơi…

Tố Hữu là nhà thơ có sự thành công về thơ trữ tình – chính trị. Ông đã luôn

tạo ra sức hấp dẫn trong hồn thơ của mình. Vì thế nên trong mỗi trang thơ đều có sự

kết dính giữa tình cảm, lẽ sống, tƣ tƣởng – và luôn có sự cộng hƣởng rộng lớn. Tuy

nhiên chất trữ tình – chính trị của ông lại đƣợc viết ra dƣới một giọng điệu riêng –

giọng điệu tâm tình ngọt ngào, chan chứa tình thƣơng mến.

Giọng điệu tâm tình ngọt ngào của Tố Hữu đều có sự ảnh hƣởng từ chính

chiếc nôi của quê hƣơng và gia đình với những nguồn cội thơ ca dân gian.

Tố Hữu là nhà thơ cách mạng của nền văn học Việt Nam ở giai đoạn từ trƣớc

Cách mạng tháng Tám 1945 đến sau 1975. Thơ ông là những bài ca về lý tƣởng lẽ

sống đến mọi mối quan hệ của ngƣời cách mạng… đều trở thành những tình thƣơng

mến, ân sâu nghĩa nặng. Giọng điệu tâm tình dịu ngọt là những nét đặc sắc đậm đà

của thơ Tố Hữu, chứa đựng trong đó nhiều trạng thái xúc cảm: tình quê, tình non

nƣớc, tình yêu Đảng, yêu Bác Hồ, tình mẹ con, đồng chí, đồng bào… đó chính là

những dƣ vị ngọt ngào nồng ấm trong thơ Tố Hữu. Đọc thơ ông, ngƣời đọc thƣờng

thấy ở cách xƣng hô mang giọng điệu tha thiết:

Hƣơng Giang ơi, dòng sông êm

Qua tim ta vẫn ngày đêm tự tình

Vẫn là duyên đó quê anh

Gió mƣa nay lại trong lành mặt gƣơng

(Bài ca quê hương)

Huế ơi, quê mẹ của ta ơi!

Nhớ tự ngày xƣa, tuổi chín mƣời

(Quê mẹ)

Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!

(Bác ơi!)

Mình về rừng núi nhớ ai

115

Trám bùi để rụng, măng mai để già

(Việt Bắc)

Khi nói về những con ngƣời và những vùng đất thân yêu, Tố Hữu thƣờng

mang chất giọng xót xa, niềm cảm thông:

Hà ơi, tiếng mẹ ru nhè nhẹ

Cay đắng bao nhiêu nỗi đoạn trƣờng

(Quê mẹ)

Cũng có khi, Tố Hữu hay dùng những từ ngữ thể hiện sự vỗ về, trân trọng để

đề cập tới nhiều tấm gƣơng cách mạng:

Ôi bóng ngƣời xƣa, đã khuất rồi

Tròn đôi lấm đất trắng lƣng đồi

(Mẹ Tơm)

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông, mọi kiếp ngƣời

(Bác ơi!)

Đồng hành cùng giọng thơ chan chứa niềm thƣơng mến là chất giọng đầy

hứng khởi say mê. Suốt trong từng tập thơ, ngƣời đọc luôn bắt gặp con ngƣời luôn

say mê lý tƣởng, con ngƣời, đất nƣớc, lãnh tụ và đặc biệt trong sự tranh đấu. Ở

niềm say mê đó đã làm cho câu thơ nhiều sự trùng điệp:

Cô đơn thay là cảnh thân tù!

Tai mở rộng và lòng sôi rạo rực

Tôi lắng nghe tiếng đời lăn náo nức

Ở ngoài kia vui sƣớng biết bao nhiêu!

Tôi chƣa hết, nghĩa là chƣa hết hận

Nghĩa là chƣa hết nhục của muôn đời

Nghĩa là còn tranh đấu mãi không thôi…

(Tâm tư trong tù)

116

Dù đƣợc sử dụng phong phú, đa dạng với nhiều thể thơ khác nhau, song ở Tố

Hữu đã rất thành công với thể thơ lục bát (Việt Bắc, Kính gửi Cụ Nguyễn Du…).

Với lối ngắt nhịp, gieo vần trong thơ Tố Hữu tự nhiên, êm dịu đã khiến cho chất

giọng của thơ ở trong trạng thái du dƣơng, trầm bổng, dễ thuộc, dễ nhớ.

Bài thơ Việt Bắc đã thể hiện dƣới dạng một tình cảm vô cùng lớn, đó là tình

cảm của nhân dân cách mạng đối với cán bộ cách mạng, đƣợc cấu tứ theo lối đối

đáp quen thuộc của phong vị chất ca dao – dân ca.

Thơ Tố Hữu là thơ trữ tình điệu nói. Bởi ông đã tạo ra rất nhiều những giọng

nói một cách phong phú của thơ trữ tình cách mạng. Nội dung đƣợc thể hiện trong

thơ ông với những chất giọng rắn rỏi, khúc chiết của một nhà cách mạng đầy nhiệt

huyết lý tƣởng Đảng.

Từ ấy – nhà thơ thiên về khai thác giọng nói đầy sự nhiệt huyết trong cách

nói cƣờng điệu hóa, mang tích chất lãng mạn. Chất giọng lãng mạn đã tạo ra một

kiểu giọng điệu, khi bản thân Tố Hữu đã muốn thế vào chỗ đứng của tiếng thơ tỏ

lòng điệu ngâm, kín đáo… là một lý tƣởng mới trong nhân sinh quan cách mạng –

giọng nói Từ ấy là chất giọng của một sứ giả của thế giới cộng đồng mới tâm sự trò

chuyện với “những tù nhân khốn nạn của bần cùng”. Vì thế, Từ ấy có sự gắn kết

giữa giọng nói lãng mạn trong những lời nhiệt huyết.

Đến Việt Bắc, Tố Hữu đã có những bƣớc chuyển mình với việc xây dựng

hình tƣợng giọng nói quần chúng thân thiết, đậm nét. Trong lĩnh vực thơ ca, đối

tƣợng của tiếng thơ bây giờ của Tố Hữu là hình ảnh anh bộ đội, anh thợ máy, chị

dân công, là các bà bầm, bà mế, bà bủ. Sự thay đổi này là do sự thay đổi trực tiếp về

thị hiếu thẩm mỹ của quần chúng trong thơ.

Khi đóng vai với tƣ cách ngƣời cán bộ:

“Tôi là ngƣời cán bộ”

Có khi hòa nhập đồng điệu với thơ ca – với tƣ cách nhà thơ:

“Lát rồi chim nhé, chim ăn

Bác Hồ còn bận khách văn đến nhà”

117

Nhà thơ đã nâng lên ở tầm khái quát mới trong các giọng thơ khác nhau,

nhƣng nổi trội vẫn là giọng nói tâm tình nhỏ nhẹ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ,

chất liệu của giọng điệu trong thơ Tố Hữu đã có sự đổi khác hoàn toàn so với trƣớc.

Hiện tại giọng nói đƣợc với cả nƣớc, với dân tộc hai miền – với thế giới, với kẻ thù.

Đây quả là một giọng nói của bậc vĩ nhân – ngƣời đại diện cho dân tộc – cách

mạng; đƣợc thể hiện phong phú, và trong một giọng nói của một cái tôi hàm chứa

nhiều vai. Gió lộng đã khắc họa những hình tƣợng của giọng nói tƣơi đẹp, tự hào

nhất. Tiếng thơ nhƣ tiếng hát – thực chất là một tiếng reo vui tha thiết, gọi mời.

Sự kế tiếp những hình thức thơ ca dân gian trong thơ của mình, đây cũng là

một thành công lớn của Tố Hữu.

Vũ Ngọc Phan đã viết: “Hát ru em – một loại dân ca này phổ biến khắp trong

nƣớc, mỗi miền hát một cách khác nhau, nhƣng có chung một phong thái là đều

ngân nga, êm dịu. Nội dung những bài hát ru em rất phong phú: có thể là những

cảnh vật xinh xinh, những ý thơ ngây phù hợp với tuổi nhỏ; nó cũng có thể là những

tình cảm thắm thiết của ngƣời phụ nữ biểu lộ trong bài ca, phù hợp với tâm tình

ngƣời hát, nó cũng có thể là những tƣ tƣởng đả kích giai cấp phong kiến. Hát ru em

đều là những bài ca dao sẵn có, ngƣời hát tự thêm những tiếng đệm, tiếng láy và

tiếng đƣa hơi, tùy theo từng điệu hát ru em của mỗi miền. Hát ru em thƣờng là lục

bát thông thƣờng hay lục bát biến thể”. [36, 505]

Với giọng điệu trong lời ru, đã đƣợc nhà thơ sử dụng nhƣ một thủ pháp nghệ

thuật đặc sắc. Lời hát ru thƣờng để lại cho mỗi con ngƣời chúng ta từ lúc ấu thơ, với

những xúc cảm đầu tiên trong đời. Tố Hữu đƣợc sinh thành và lớn lên trong những

lời ru êm đềm của chính ngƣời mẹ nơi miền quê xứ Huế, nên thơ ông luôn đậm chất

trữ tình sâu sắc. Lời ru đó, luôn đƣợc Tố Hữu nhắc tới nhiều lần trong sáng tác của

mình.

Ông là ngƣời đã sử dụng thành công nhất giọng thơ Kiều, một cách tài tình –

một giọng thơ chứa đựng những trải nghiệm nhân tình thế thái, một lối nói êm dịu,

thể hiện gián tiếp. Tố Hữu đã coi đó là những tiếng thƣơng, tiếng ru:

Tiếng thƣơng nhƣ tiếng mẹ ru những ngày

118

(Kính gửi Cụ Nguyễn Du)

Hát cho con nghe nhƣ tiếng mẹ ngày xƣa…

Sông vòng quanh nhƣ đôi cánh tay tròn

Ôm con nhỏ ru trong lòng mát rƣợi.

Trong Nước non ngàn dặm – đó là viễn cảnh không khí dân gian, đậm nét:

Sông Bến Hải bên bồi bên lở

Cầu Hiền Lƣơng bên nhớ bên thƣơng

Êm dòng Thạch Hãn đêm trăng

Những lo ngƣợc gió Tam giang nặng chèo.

Toàn bộ bốn câu trên đầu có dáng dấp của câu ca dao. Bài thơ đi vào tiềm

thức con ngƣời nhƣ một tiếng ru và để lại lòng ta những niềm yêu thƣơng vô bờ.

Trong Nước non ngàn dặm – Tố Hữu cũng đã có câu thơ:

Trƣờng Sơn đông nắng, tây mƣa

Ai chƣa đến đó nhƣ chƣa rõ mình

Dải đất Trƣờng Sơn cũng là sự thể hiện của nghĩa tình Nam Bắc, là sự quyết

chí chiến đấu để “dải đất” trọn vẹn trong lòng Tổ quốc thống nhất. Những cách thể

hiện đó chính là những tiếng ru trầm bổng đƣợc cất lên từ những tƣ tƣởng chủ đạo

trong cảm xúc tác giả.

Tố Hữu là ngƣời sử dụng thành công trong cách chọn câu chữ, vần, âm

thanh, nhịp điệu.

Với bài thơ dài trên ba trăm câu, hầu nhƣ không có đến một lần nào Tố Hữu

để lỡ nhịp, ngang cung. Quả đây là một tiếng ru. Một tiếng ru luôn chứa niềm

vƣơng vấn, day dứt khôn nguôi.

Những tiếng ru “ời” của ngƣời mẹ.

Gió mùa thu mẹ ru con ngủ

Năm canh chày thức đủ vừa năm…

119

Lời mẹ ru con ngủ, hay cũng là lúc lòng mẹ đã thức tỉnh hơn bao giờ hết. Dù

có gian nan đời thƣờng, cơ cực – nhƣng lời ru trong lòng mẹ với con khi ngủ đều có

chút do dự cõi lòng về đời, về bản thân.

Điểm đáng chú ý ở đây, tiếng ru lại đƣợc cất lên ngay chính lúc mƣa bom

bão đạn kẻ thù, với những thắng lợi của dân tộc – cũng đâu phải vì những ngƣời

làm mẹ và nhiều ngƣời làm thơ đã lãng quên đi những giọng ru thuở nào. Tiếng ru

là một mối quan hệ, chỉ sự hiện diện – nâng niu, vỗ về – một cách thể hiện gián tiếp

– nhƣ tựa nói về ngƣời khác.

Lối hát ru mang tính chất truyền thống dân tộc Việt Nam, đã đƣợc Tố Hữu

đem đến cho ngƣời đọc về lại những nghi thức sinh hoạt đời thƣờng của nhân dân,

với một tình cảm tha thiết, giản dị của con ngƣời mới xã hội chủ nghĩa. Tiếng ầu ơ

của bà ru cháu trong bài Cá nước, rất cảm động sâu lắng:

Cháu ơi cháu lớn với bà

Bố mày đi đánh giặc xa chƣa về

Cháu ngoan cháu ngủ đi nhe

Mẹ mày ra chợ bán chè bán rau

(Cá nước)

Tiếng ru ời của ngƣời mẹ ru con:

Con ơi con ngủ cho ngoan

Sang canh trăng lặn, buổi tan mẹ về…

(Phá đường)

Tố Hữu trong những áng thơ ca của mình, luôn có sự ảnh hƣởng của thơ ca

dân gian xứ Huế với những lời ru tha thiết, dịu êm vỗ về con trẻ trong nôi:

Con ngƣời muốn sống, con ơi

Phải yêu đồng chí, yêu ngƣời anh em…

Tiếng ru với nhiều sắc thái cụ thể, tƣơi vui không nhƣ những giọng chất chứa

sự ngậm ngùi, cay đắng tủi hận ngày trƣớc. Lời ru đã khác xƣa, nó không phải là

nỗi niềm băn khoăn, thao thức của ngƣời mẹ:

120

Tiếng mẹ ru xƣa chồng chất đắng cay

Trong đôi mắt thức đêm dài thăm thẳm

(Tơ tăm chồi biếc – Xuân Quỳnh)

Hoặc:

Tre già yêu lấy măng con

Chắt chiu nhƣ mẹ yêu con tháng ngày.

Khúc hát ru thấm đƣợm tình ngƣời, đã đƣợc nhà thơ thể hiện trong những

nội dung mới, cách mạng. Có rất nhiều ý kiến khác nhau đƣa ra “khô khan”, nhƣng

nó thật hàm súc dễ thuộc và dễ nhớ. Bên cạnh lời ru ngọt ngào đƣợc cất lên từ chính

ngƣời bà, ngƣời mẹ, ngƣời cha đó lại là những lời mang tính chất giáo huấn đậm đà.

Sự ảnh hƣởng lối thơ ca dân gian luôn để lại dấu ấn trong lời ngƣời mẹ ru con quen

thuộc:

Ru con con ngủ cho lành

Để mẹ gánh nƣớc rửa bành con voi…

Công cha nhƣ núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc trong nguồn chảy ra…

Những tiếng ầu ơ đƣợc cất lên trong thơ Tố Hữu, không có gì khác lạ với

quần chúng nhân dân, tình cảm gia đình đã đƣợc gắn kết với tình cảm xã hội, có sự

hòa nhập cái riêng và cái chung một cách cụ thể sinh động:

Thƣơng cha, thƣơng mẹ, thƣơng chồng

Thƣơng mình thƣơng một, thƣơng ông thƣơng mƣời…

Lời ru, điệu hát ầu ơ đƣợc Tố Hữu thể hiện với ngôn ngữ thật bình dị, trong

sáng, luôn gần gũi quần chúng nhân dân. Đúng nhƣ lời nhận xét của Xuân Diệu

(Phê bình giới thiệu thơ) đã viết: “Trăm miệng một lời đều yêu thích. Chƣa bao lâu

nhiều ngƣời đã thuộc, và ở các xã, các mẹ các chị đã hát ru con”.

Vì thế, tiếng nói trong thơ Tố Hữu đã có sự gắn kết giữa giọng nói thân

thƣơng, ân tình của ca dao – với tiếng nói trầm lắng thơ ca cổ điển.

Trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại, việc tiếp thu thơ ca dân gian và thơ ca

cổ điển đã trở thành mục tiêu cho nhiều thi nhân. Để có sự kết hợp tinh tế, nhuần

121

nhuyễn trong thơ điệu nói một cách mới lạ, trong giọng ca dao đầy tính chất mến

thƣơng chan chứa tính chất cổ điển sâu sắc.

Những câu hò nơi quê nhà – đã làm cho Tố Hữu luôn băn khoăn ray rứt. Câu

hò đó từ trƣớc đấy mƣời năm đã cùng hòa trong tiếng trúc, tiếng bầu của thơ ông

một cách lay động:

Ôi miền Nam, vì sao mỗi lúc

Mây chiều xa bay giục cánh chim

Đêm khuya một tiếng bầu, tiếng trúc

Một câu hò… cũng động trong tim.

(Miền Nam)

Câu hò chất chứa cả một tâm hồn, thể hiện nỗi niềm sâu nặng đối với quê

hƣơng.

Tiểu kết:

Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian trong nghệ thuật biểu hiện của thơ Tố Hữu

luôn là những nét khu biệt cụ thể hóa giữa hình ảnh – biểu tƣợng thơ; thể thơ và

ngôn ngữ, giọng điệu một cách sinh động trong nội dung, hình thức các tập thơ theo

chiều hƣớng khác nhau.

Hòa lẫn tứ thơ trong những hình ảnh cụ thể mang đậm nét nghệ thuật, tƣ

tƣởng, cảm xúc chủ đạo nhà thơ. Những nét biểu tƣợng trong thơ – tiêu biểu, đã có

sự hòa nhập của thể thơ – ngôn ngữ – giọng điệu – tạo nên một chỉnh thể thống nhất

của con đƣờng thơ trong sáng tạo nghệ thuật – đƣợc tạo nên từ chính bƣớc đƣờng

hoạt động cách mạng.

Tố Hữu là ngƣời thành công ở thể thơ lục bát; nâng tầm vóc thơ ông lên vị trí

hàng đầu thơ Việt Nam hiện đại. Chất liệu nghệ thuật có sự gắn kết trong ngôn ngữ

trong sáng giản dị, gần gũi đời sống nhân dân. Lời ru câu hò đậm đà bản sắc dân

tộc.

Sự ảnh hƣởng thơ ca dân gian tới hồn thơ Tố Hữu đó là kết nối một cách trực

tiếp theo chiều hƣớng tích cực việc sử dụng ngôn ngữ, biện pháp tu từ; cấu trúc câu

122

thơ một cách sáng tạo và triệt để nhất. Thơ Tố Hữu là một viên ngọc quý của thơ ca

cách mạng.

123

PHẦN KẾT LUẬN

1. Lớn lên trong bối cảnh “Phận nghèo, nƣớc mất, dân nô lệ”, Tố Hữu đƣợc

lý tƣởng Đảng soi đƣờng, giác ngộ và dìu dắt. Ông là một trong số những nhà thơ

tiêu biểu hàng đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam. Tác phẩm đƣợc viết dƣới góc

độ hình thức cũng nhƣ nội dung phong phú, có sự kết hợp truyền thống – hiện đại.

Nó nhƣ một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tƣ tƣởng, cảm xúc chủ đạo của nhà thơ.

Bản thân Tố Hữu đƣợc sinh ra và lớn lên trong gia đình giàu truyền thống yêu

chuộng thơ ca dân gian, đây cũng là nhân tố tác động không nhỏ tới hồn thơ Tố

Hữu sau này. Thơ ông luôn ảnh hƣởng thơ ca dân gian đƣợc biểu hiện trong nhiều

khía cạnh, nội dung biểu đạt. Là một trong số những tác giả thành công nhất của

việc vận dụng thơ lục bát vào sáng tác của mình. Ngôn ngữ thơ trong sáng, có tính

hình ảnh, biểu tƣợng cao, lối diễn đạt ví von so sánh, mô típ xƣng hô quen thuộc

truyền thống, giọng điệu trữ tình, tiếng ru ngọt ngào tha thiết… Thơ Tố Hữu là sản

phẩm của cuộc đấu tranh cách mạng, đồng thời cũng là ngƣời đóng vai trò trong sự

tuyên truyền cổ động, ngƣời truyền lệnh cách mạng. Thơ Tố Hữu đã có sức cảm hóa

lớn đông đảo quần chúng nhân dân. Với vị trí đặc biệt, thơ Tố Hữu có sự ảnh hƣởng

nhất định đến các xu hƣớng vận động của nền thơ ca cách mạng Việt Nam giai đoạn

1945 – 1975.

2. Từ việc tìm hiểu đề tài, đƣa ra những hệ thống hóa một cách toàn diện,

đầy đủ nhất về sự ảnh hƣởng đó trong sáng tác của Tố Hữu. Với bảy tập thơ phân

chia thành năm chặng đƣờng thơ, nhà thơ đã đạt đƣợc nhiều thành tựu trong nền thơ

Việt Nam hiện đại. Thơ ông luôn hấp dẫn, dễ thuộc, dễ nhớ, gần gũi lời ăn tiếng nói

hàng ngày của nhân dân, đậm chất truyền thống thơ ca dân gian. Bầu sữa ngọt ngào

thơ ca dân gian, luôn chảy trong trái tim nhà thơ, đƣợc chắt lọc và tôi luyện từ cuộc

sống đời thƣờng. Sự tiếp nhận của thơ ca dân gian trong thơ Tố Hữu không rơi vào

những lối mòn, cách viết cũ hoặc tự mình xóa bỏ cá tính bản thân mà ngƣợc lại nhà

thơ đã tạo ra một phong cách thơ phong phú đa dạng hấp dẫn. Việc tiếp thu thơ ca

dân gian đối với Tố Hữu có ý nghĩa quan trọng, góp phần làm nên vẻ đẹp trong sự

nghiệp sáng tác của nhà thơ.

124

3. Xuất hiện trên thi đàn văn học Việt Nam từ trƣớc cách mạng, trải qua ba

mƣơi năm chiến tranh cách mạng (1945 – 1975) và thời kỳ sau 1975, thơ Tố Hữu

vừa ca ngợi lý tƣởng, vừa là tiếng nói đời sống tâm hồn dân tộc qua các chặng

đƣờng.

Pie Emmanuel, là nhà thơ và Viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp đã nhận định về Tố

Hữu: “Thơ tự nhiên là sự diễn đạt, sự giác ngộ của anh về số phận của dân tộc mình

(…). Nhà thi sĩ ấy muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình”. Trong thơ Tố Hữu có

sự kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố cách mạng và dân tộc của nghệ thuật và sáng tạo

thi ca. Thơ ông đã đạt đƣợc những thành tựu xuất sắc trong dòng thơ cách mạng.

Trong thơ ca của Tố Hữu luôn có sự tiếp nối và kế thừa truyền thống nền thơ ca

cách mạng đầu thế kỷ và đƣợc nâng lên thành thơ trữ tình – chính trị trong thời đại

mới. Đó là những nét đặc sắc khái quát trong quan niệm thơ, nguồn cảm hứng, hình

ảnh, biểu tƣợng, ngôn ngữ, giọng điệu…

Xuân Diệu đã khẳng định về Tố Hữu: “Thơ Tố Hữu là thơ của một chiến sĩ

cách mạng, thơ của một nhà cách mạng làm thơ”.

Thơ Tố Hữu đã có sự hiện diện trong đời sống cách mạng và đời sống văn

học của dân tộc ta nhƣ một hiện tƣợng đặc biệt có sức hấp dẫn, cổ vũ tới hàng triệu

ngƣời. Đây quả là thành công, niềm vinh hạnh lớn đối với nhà thơ Tố Hữu. Dù thời

đại có những đổi thay, thơ Tố Hữu cũng có thay đổi cùng với việc tiếp nhận của độc

giả, công chúng yêu văn học. Những trang thơ của ông luôn là một chứng tích nghệ

thuật, phản ánh diện mạo của thời kỳ hào hùng, đau thƣơng mà anh dũng, chói ngời

trang sử vàng của đất nƣớc.

4. Những kết quả nghiên cứu trong luận văn của chúng tôi, đã khái quát

những phƣơng diện cơ bản nhất sự ảnh hƣởng của thơ ca dân gian trong thơ Tố

Hữu. Thế giới nghệ thuật thơ Tố Hữu vẫn có thể đƣợc khai thác trên nhiều phƣơng

diện, nhiều góc độ biểu hiện khác, tiếp tục mời gọi những ngƣời đã và đang quan

tâm tới sự nghiệp sáng tác của Tố Hữu một tác giả lớn trên thi đàn văn học Việt

Nam.

125

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tài liệu nghiên cứu lý luận phê bình:

[1] Bùi Văn Ba, Nguyễn Xuân Nam – Thành Thế Thái Bình – Lê Văn Khoa

(1976), Thường thức lý luận văn học, NXB Giáo dục.

[2] Hữu Đạt (2000), Ngôn ngữ thơ Việt Nam (in lần thứ 2), NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

[3] Phan Cự Đệ; Trần Đình Hƣợu (…), (1999) – Giáo trình văn học Việt Nam

(1900 – 1945), NXB Giáo dục.

[4] Phan Cự Đệ (chủ biên), (2005) – Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo

dục.

[5] Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, NXB Văn học, Hà

Nội.

[6] Nguyễn Đăng Điệp, Nguyễn Văn Tùng tuyển chọn và biên soạn (2010), Thi

pháp học ở Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam.

[7] Hà Minh Đức – Lê Bá Hán (1985), Cơ sở lý luận văn học tập II, NXB ĐH và

THCN Hà Nội.

[8] Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, NXB

Giáo dục.

[9] Hà Minh Đức (1998), Văn học Việt Nam hiện đại – Bình giảng và phân tích

tác phẩm – NXB Hà Nội.

[10] Hà Minh Đức (2004), Tố Hữu – Cách mạng và thơ, NXB ĐHQGHN.

[11] Hà Minh Đức (Tuyển chọn và giới thiệu), (2008) – Xuân Diệu ông Hoàng

của thơ Tình yêu, NXB Giáo dục.

[12] Hà Minh Đức (chủ biên) – Phạm Thành Hƣng – Đỗ Văn Khang, Phạm

Quang Long – Nguyễn Văn Nam – Đoàn Đức Phƣơng – Trần Khánh Thành

– Lý Hoài Thu, (2008); Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

[13] Nguyễn Thị Bích Hải (2006), Thi pháp Thơ Đường – NXB Thuận Hòa Huế.

[14] Lê Bá Hán, Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (1997), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB ĐHQG Hà Nội.

126

[15] Nguyễn Thị Hạnh, Thạch Thị Toàn, Nguyễn Anh Vũ (biên soạn), (2011), Tố

Hữu Thơ và đời, NXB Văn học, Hà Nội.

[16] Nguyễn Văn Hạnh – Huỳnh Nhƣ Phƣơng (1999), Lý luận văn học vấn đề và

suy nghĩ, NXB Giáo dục.

[17] Hegel (2005), Mỹ học, Phan Ngọc giới thiệu và dịch, NXB Văn học, Hà Nội.

[18] Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà Văn, H.

[19] Dƣơng Văn Khoa (2001), Văn học suy nghĩ và cảm nhận (Bình giảng thơ),

NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.

[20] Nguyễn Xuân Kính, (1992), Thi pháp ca dao, NXB Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

[21] Lê Đình Kỵ, (1979), Thơ Tố Hữu – chuyên luận, NXB Sự thật, Hà Nội.

[22] Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa, (1995), Phong cách học Tiếng Việt,

NXB Giáo dục, Hà Nội.

[23] Phong Lan – với sự cộng tác của Mai Hƣơng (tuyển chọn và giới thiệu),

(1999); Tố Hữu về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục.

[24] Mã Giang Lân (1998), Văn học Việt Nam (1945-1954) – NXB Giáo dục.

[25] Mã Giang Lân (2000), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, NXB Giáo dục.

[26] Mã Giang Lân (2011), Những cấu trúc của thơ – NXB ĐHQG Hà Nội.

[27] Nguyễn Văn Long (chủ biên), (2008); Giáo trình văn học Việt Nam hiện đại

tập II (từ sau Cách mạng tháng 8/1945), NXB Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

[28] Đỗ Quang Lƣu (tuyển chọn), (2006); Nghiên cứu – bình luận thơ Tố Hữu,

NXB Văn hóa thông tin.

[29] Phƣơng Lựu – Trần Đình Sử - Nguyễn Xuân Nam – Lê Ngọc Trà – La Khắc

Hòa – Thành Thế Thái Bình, (2002) – Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

[30] Phan Ngọc (1984), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[31] Bùi Văn Nguyên – Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam, hình thức và thể

loại, NXB KHXH.

127

[32] Nhiều tác giả (2011), Phê bình và bình luận văn học, tác giả trong nhà

trƣờng Tố Hữu, NXB Văn học.

[33] Nhiều tác giả (1996), Tố Hữu – Thơ và Cách mạng, NXB Hội Nhà văn.

[34] Nhiều tác giả, (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, NXB KHXH.

[35] Lê Lƣu Oanh – Phạm Đăng Dƣ (2004), Giáo trình lý luận văn học – NXB

ĐHSP.

[36] Vũ Ngọc Phan (1971), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam; NXB KHXH Hà

Nội.

[37] Đoàn Đức Phƣơng (2005), Nguyễn Bính hành trình sáng tạo thi ca, NXB

Giáo dục.

[38] Đoàn Đức Phƣơng (ĐHQG Hà Nội – ĐH KHXH&NV) (2008), Phương

pháp luận nghiên cứu văn học, Hà Nội.

[39] Lê Chí Quế - Võ Quang Nhơn – Nguyễn Hùng Vĩ (1990), Văn học dân gian

Việt Nam, Hà Nội.

[40] Trần Đăng Suyền (2012); Phương pháp nghiên cứu và phân tích tác phẩm

văn học, NXB Giáo dục Việt Nam.

[41] Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, NXB Tác phẩm mới.

[42] Trần Đình Sử (2007), Giáo trình dẫn luận thi pháp học (sách dành cho hệ

đào tạo từ xa) – Huế

[43] Trần Đình Sử (chủ biên), 2008 – Lý luận văn học - tập I, NXB ĐHSP.

[44] Trần Đình Sử (chủ biên) – La Khắc Hòa – Phùng Ngọc Kiếm – Nguyễn

Xuân Nam (2008), Lý luận văn học tập II_ Tác phẩm và thể loại văn học,

NXB Đại học Sƣ phạm.

[45] Trần Đình Sử (2012), Lý luận và phê bình văn học – NXB Giáo dục Việt

Nam.

[46] Hoài Thanh (1960), Từ ấy – Tiếng hát của người thanh niên cộng sản, phê

bình và tiểu luận, NXB VH, Hà Nội.

[47] Hoài Thanh (1965), Gió lộng – Một bước tiến mới của thơ Tố Hữu trên đà

tiến nhanh của Cách mạng, tập I, NXB VH, Hà Nội.

128

[48] Nguyễn Bá Thành (1999), Thơ Chế Lan Viên với phong cách suy tưởng,

NXB Giáo dục Hà Nội.

[49] Nguyễn Bá Thành (2006), Bản sắc văn hóa Việt Nam qua giao lưu văn học,

NXB ĐHQG Hà Nội.

[50] Nguyễn Bá Thành (2012), Giáo trình Tư duy thơ hiện đại Việt Nam, NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội.

[51] Nguyễn Bá Thành, Bùi Việt Thắng (1990), Giáo trình văn học Việt Nam

1965 – 1975, Hà Nội.

[52] Trần Khánh Thành, Lê Dục Tú tuyển chọn và giới thiệu (2007), Huy Cận về

tác giả - tác phẩm, tái bản lần thứ tƣ, NXB Giáo dục – Hà Nội.

[53] Bùi Việt Thắng (2007), Văn học Việt Nam (1945 – 1975) (Văn tuyển), NXB

Đại học Quốc gia Hà Nội.

[54] Lƣu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại,

NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.

[55] Hoàng Tuệ (1998), Tuyển tập ngôn ngữ học, NXB Giáo dục.

[56] Nguyễn Quốc Túy (1994), Thơ mới Bình Minh thơ Việt Nam hiện đại

(Nghiên cứu – Khảo luận – Thẩm bình thơ), NXB Văn học, Hà Nội.

[57] Chế Lan Viên, (1971) – Thơ Tố Hữu - Suy nghĩ và bình luận, NXB VH, Hà

Nội.

Tác phẩm văn học:

[58] Nguyễn Bao (Tuyển chọn và giới thiệu), (2007) – Tuyển tập thơ Tố Hữu

(Văn học Việt Nam hiện đại), NXB Văn học.

[59] Hà Minh Đức viết lời giới thiệu (2002) – , Thơ Tố Hữu,

NXB Giáo dục.

[60] Nhóm Trí thức Việt tuyển chọn và giới thiệu (2012), Tố Hữu Thơ và đời,

NXB Văn học, Hà Nội.

[61] Lữ Huy Nguyên sƣu tầm và tuyển chọn (2002), Hàn Mặc Tử Thơ và đời

(Văn học Việt Nam hiện đại), NXB Văn học, Hà Nội.

129

[62] Tuấn Thành – Anh Vũ tuyển chọn (2005), Việt Bắc tác phẩm và lời bình

(Văn học Việt Nam hiện đại Tố Hữu), NXB Văn học, Hà Nội.

[63] Tuấn Thành – Vũ Nguyễn (tuyển chọn) (2007), Thơ mới tác phẩm và lời

bình _ (Văn học Việt Nam hiện đại), NXB Văn học, Hà Nội.

[64] Hoàng Trang tuyển chọn (2010), Tố Hữu Tác phẩm và lời bình, NXB Văn

học, Hà Nội.

Báo, tạp chí:

[65] Lại Nguyên Ân, Vài ý nghĩ nhân hội thảo về Tố Hữu, http://www.viet-

studies.info/LaiNguyenAn_ToHuu.htm, ngày 04/10/2010.

[66] Nguyễn Việt Chiến, Xúc xắc mùa thu, Báo Hà Nội mới, số 8421 – 27/6/1992.

[67] Tố Hữu, Bài viết về tác phẩm Ra trận,

http://www.sggp.org.vn/vanhoavannghe/2007/12/134566/.

[68] Trịnh Bá Đĩnh, (1997), 60 năm cuộc đời sáng tạo thơ ca, TCVH Số 10.

[69] Nguyễn Xuân Kính, Những vấn đề thời sự của thi pháp học và thi pháp ca

dao.

[70] K và T (5/1939) – Tố Hữu - Nhà thơ của tương lai, Báo mới số 1.

[71] Lê Đình Kỵ, Từ ấy với phong trào Thơ mới – TC Văn nghệ, Số 32/tháng 1-

1960.

[72] Đặng Thanh Lê, Từ một kiệt tác văn học – suy nghĩ về mối quan hệ ảnh

hưởng giữa văn học dân gian và văn học viết (Tạp chí Văn học số 1 – 1982).

[73] Tâm Linh, “Sáu mươi năm, họ đi bên nhau cho đến cuối cuộc đời, bây giờ

còn lại một mình, bà Vũ Thị Thanh càng thương nhớ “Anh Lành” – Bà ngồi

viết hồi ký Ký ức người ở lại”, http://thethaovanhoa.vn/van-hoa-giai-tri/ba-

vu-thi-thanh-viet-hoi-ky-ve-to-huu-moi-tinh-dep-trong-doi-va-ca-trong-tho-

n20101018110259061.htm, thứ hai ngày 18/10/2010.

[74] Lê Mai, Hai vĩ nhân trong thơ Tố Hữu, http://danluan.org/phan-hoi/98492,

ngày 27/09/2013.

[75] Nguyễn Phú Trọng, Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu, TCVH, Số

11/1968.

130

[76] Trƣơng Nguyên Việt, Người đồng chí, người vợ thủy chung của nhà thơ Tố

Hữu, http://nhandan.com.vn/vanhoa/dong-chay/item/20313102.html, thứ hai

ngày 13/05/2013.

[77] Trƣơng Nguyên Việt, Vũ Thị Thanh – Ký ức người ở lại,

http://nhandan.com.vn/vanhoa/dong-chay/item/20313102.html, thứ hai ngày

13/05/2013.

[78] Thơ Tố Hữu trong lời ca của các nhạc sĩ, http://baicadicungnamthang.net/tu-

lieu/tho-to-huu-trong-loi-ca-cua-cac-nhac-si-357.html.

131