ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
PHAN THỊ BẠCH TUYẾT
CẠNH TRANH ẢNH HƯỞNG MỸ- TRUNG
TẠI TRUNG Á TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2012
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------------
PHAN THỊ BẠCH TUYẾT
CẠNH TRANH ẢNH HƯỞNG MỸ- TRUNG
TẠI TRUNG Á TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2012
CHUYÊN NGÀNH: QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 60.31.40
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. TRẦN NAM TIẾN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH -2015
MỤC LỤC
MỤC LỤC ..............................................................................................................................1
DANH MỤC VIẾT TẮT ......................................................................................................3
PHẦN MỞ ĐẦU ....................................................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................4
2. Mục đích nghiên cứu ...........................................................................................................6
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ..................................................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................................9
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu .......................................................................10
6. Bố cục của đề tài ...............................................................................................................11
Chương 1: TRUNG Á TRONG NHẬN THỨC CHIẾN LƯỢC MỸ- TRUNG SAU
CHIẾN TRANH LẠNH .....................................................................................................12
1.1. Vị trí địa chính trị của Trung Á .....................................................................................12
1.2. Trung Á trong nhận thức chiến lược của Mỹ .................................................................15
1.2.1. An ninh ........................................................................................................15
1.2.2. Chính trị .......................................................................................................17
1.2.3.Kinh tế ..........................................................................................................18
1.3. Trung Á trong nhận thức chiến lược của Trung Quốc ...................................................19
1.3.1. An ninh ........................................................................................................19
1.3.2. Chính trị .......................................................................................................21
1.3.3.Kinh tế ..........................................................................................................22
1.4. Sự hiện diện của Mỹ và Trung Quốc ở khu vực Trung Á trong thập niên 90 của thế kỷ XX .........................................................................................................................................23
1.4.1. Sự hiện diện của Mỹ ....................................................................................23
1.4.2. Sự hiện diện của Trung Quốc ......................................................................24
1.4.3. Cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ - Trung ở Trung Á trong thập niên 90 của thế kỷ XX ..............................................................................................................................26
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................................29
1
Chương 2: CẠNH TRANH ẢNH HƯỞNG MỸ-TRUNG TẠI TRUNG Á…………...31
2.1. Tình hình quốc tế và khu vực.........................................................................................31
2.1.1. Tình hình quốc tế .........................................................................................31
2.1.2. Tình hình khu vực ........................................................................................36
2.2. Trung Á trong chính sách của Mỹ và Trung Quốc ........................................................37
2.2.1. Trung Á trong chính sách của Mỹ ...............................................................37
2.2.2. Trung Á trong chính sách của Trung Quốc .................................................39
2.3. Cạnh tranh ảnh hưởng Mỹ-Trung tại Trung Á từ năm 2001-2012 trên các lĩnh
vực .........................................................................................................................................41
2.3.1.Trên lĩnh vực chính trị ..................................................................................41
2.3.2. Trên lĩnh vực Quân sự .................................................................................46
2.3.3.Trên lĩnh vực Kinh tế ....................................................................................53
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................................62
Chương 3: KẾT QUẢ, TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG ................................................63
3.1. Kết quả ...........................................................................................................................63
3.2. Tác động .........................................................................................................................67
3.2.1. Tác động đối với Mỹ và Trung Quốc ..........................................................67
3.2.2.Tác động tới khu vực Trung Á .....................................................................68
3.3.Tác động đến các cường quốc khác ................................................................................70
3.2.1 Đối với Nga ..................................................................................................70
3.2.1 Đối với Ấn độ ...............................................................................................74
3.4.Tác động đến Việt Nam ..................................................................................................77
3.5. Triển vọng ......................................................................................................................81
Tiểu kết chương 3 ................................................................................................................83
KẾT LUẬN ..........................................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................................88
2
DANH MỤC VIẾT TẮT
ASEAN: Hiệp hội các nước Đông Nam Á.
BTC: Đường ống dẫn dầu Baku – Tbilisi – Ceyhan.
CNOOC: Công ty Dầu mỏ quốc gia hải ngoại của Trung Quốc.
CSTO: Tổ chức hiệp ước an ninh tập thể.
EEC: Cộng đồng Kinh tế Âu – Á.
EIU: The Economic Intelligentce Unit.
GDP: Tổng thu nhập bình quân theo đầu người.
IMF: Quỹ tiền tệ quốc tế
NATO: Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
NGO: Các tổ chức phi chính phủ.
OECD: Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
OPEC: Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ.
OSCE: Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu.
SCO: Tổ chức hợp tác Thượng Hải.
US: United States of America
USD: Đơn vị tiền tệ.
WB: Ngân hàng thế giới
WTO: Tổ chức thương mại thế giới.
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khu vực Trung Á là không gian địa - chính trị độc lập mới xuất hiện sau khi Chiến
tranh lạnh kết thúc. Trung Á với hai vị trí quan trọng vào bậc nhất thế giới, đó là con
đường huyết mạch từ Đông sang Tây và trữ lượng khí đốt, dầu mỏ dồi dào, giờ đây đã “trở
thành trung tâm chú ý” của cả thế giới, nhất là các nước lớn.
Trung Á là một vùng của châu Á không tiếp giáp với đại dương. Vùng này trong
lịch sử có “Con đường Tơ lụa” và từng là điểm trung chuyển hàng hóa giữa Đông Á, Nam
Á,Trung Đông và châu Âu. Đôi khi người ta còn gọi nó là vùng Nội Á. Trung Á là một đất
nước có vị trí chiến lược quan trọng về địa chính trị, giao thông.
Nằm ở trung tâm lục địa Á-Âu gồm 5 quốc gia (Kargyzstan, Kygryxstan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan) có diện tích khoảng 5,6 triệu km2. Khu vực Trung Á nằm giữa
các khu vực chiến lược quan trọng của lục địa Âu – Á; Phía Đông giáp Trung Quốc và khu
vực Châu Á – Thái Bình Dương, phía Nam giáp Afghanistan, Trung Đông và hàng hoạt
các quốc gia Đạo Hồi, phía Bắc và Tây Bắc giáp khu vực Caucasus của Nga, Thổ Nhĩ Kỳ,
Châu Âu và Nga. Các nhà chiến lược cho rằng, muốn kiểm soát được toàn cầu thì trước hết
phải kiểm soát được đại lục Âu – Á, nhưng muốn kiểm soát được đại lục Âu – Á thì phải
kiểm soát được Trung Á, khu vực được mệnh danh là “trái tim của hòn đảo thế giới”. Từ
Trung Á có thể kiềm chế Nga từ phía Bắc, kiểm soát được Ấn Độ từ phía Nam, kiềm chế
Trung Quốc ở phía Đông và kiểm soát Châu Âu ở phía Tây của Trung Á. Nói như
Zbigniew Brenzinski trong tác phẩm Bàn cờ lớn thì “Trung Á là khu đệm, là nơi giáp ranh
hội đủ các nền văn minh chính giáo vùng Âu – Á từ cả bốn phía của thế giới. Vì thế, bất kỳ
một sự kiện nào xảy ra ở Trung Á sẽ ảnh hưởng không chỉ với khu vực mà còn làm thay
đổi cân bằng địa chính trị tại lục địa Âu – Á, khu vực được coi là trục phát triển của thế
giới.
Với vị trí này các nước Trung Á có nhiều thuận lợi để giao lưu với các nước trong
khu vực và trên thế giới, vì khu vực này có "con đường tơ lụa" đi qua nên được tiếp thu
4
nhiều giá trị văn hoá của phương Đông và phương Tây.
Là khu vực giàu có về tài nguyên thiên nhiên: Dầu mỏ, khí tự nhiên và than đá có ở
hầu hết các nước, ngoài ra còn có vàng, kim loại hiếm, muối mỏ… Địa hình chủ yếu là núi
và cao nguyên, có nhiều hoang mạc, sa mạc. Khí hậu mang tính lục địa sâu sắc, do vị trí
địa lý là khu vực nằm sâu trong lục địa lại có nhiều núi cao bao bọc.
Trước đây Trung Quốc đã ký với các nước Trung Á về vấn đề lắp đặt đường ống
dẫn dầu khi tàu chở từ Trung Đông vào đây và cho qua đường ống này để đi về Trung
Quốc; Trung Á trước đây chịu ảnh hưởng của Trung Quốc, và được Trung Quốc hỗ trợ rất
nhiều.
Kể từ sau sự kiện 11/9, Trung Á càng thu hút sự quan tâm của thế giới khi trở thành
không gian tồn tại và phát triển của chủ nghĩa khủng bố, mối đe dọa đến an ninh toàn cầu.
Chính vì vậy, khu vực Trung Á có vai trò rất lớn đối với nhiều nước, xét trên quan điểm
địa – chính trị, an ninh cũng như địa – kinh tế.
Bên cạnh sự quan tâm của Trung Quốc vào khu vực Trung Á thì Mỹ đã chuyển
mình và xác định mục tiêu Trung Quốc là đối tượng cạnh tranh của Mỹ kể từ sau chiến
tranh lạnh. Một Trung Quốc đang trên đà phát triển, sự trỗi dậy và có tầm ảnh hưởng lớn
và là đối trọng của Mỹ. Mỹ thay đổi chiến lược lớn từ Châu Âu sang khu vực Châu Á Thái
Bình Dương, đặc biệt là khu vực Trung Á mà trước đây Mỹ cho rằng đây là khu vực không
quá quan trọng. Mỹ muốn tạo ảnh hưởng của Mỹ lên Trung Á để tạo bước đệm bao vây,
kiềm hãm sự phát triển của Trung Quốc, làm giảm ảnh hưởng và lôi kéo các nước khác của
Trung Quốc ở khu vực Trung Á này.
Chính vì vậy mà hai nước Mỹ - Trung tạo ra sự cạnh tranh ảnh hưởng của mình ở
Trung Á qua những lãnh vực cụ thể như: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa, xã hội... Từ
đây, Trung Á phải cân nhắc kỹ trong chiến lược đối với từng nước, vì đây là quyền lợi rất
lớn của đất nước mình. Do vậy đề tài cần nghiên cứu kỹ vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng của
Mỹ - Trung ởTrung Á đầu thập niên thể kỷ XXI. Khu vực Trung Á đầy tiềm năng kinh tế
đặc biệt là năng lượng đã là nỗi bận tâm lớn của các cường quốc Mỹ - Trung.
5
Xuất phát từ những nhận định trên. Việc nghiên cứu cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ -
Trung ở Trung Á đầu thập niên thể kỷ XXI này là cần thiết vì nó mang ý nghĩa khoa học và
thực tiễn.
Như vậy, đề tài cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ-Trung ở Trung Á giai đoạn 2001-
2012 rất đáng để học viên nghiên cứu, từ đó sẽ đóng góp những ý tưởng cho Việt Nam
trong thời gian tới vì đây cũng là những vấn đề mới của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.
Do Việt Nam cũng nằm trong tình thế như khu vực Trung Á khi có sự cạnh tranh ảnh
hưởng của các cường quốc (Mỹ - Trung) và Việt Nam cần có chính sách phù hợp trong
từng giai đoạn để phù hợp với thực trạng quan hệ giữa Việt Nam với hai cường quốc Mỹ -
Trung.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu khách quan, khoa học và chân thực cạnh tranh ảnh của Mỹ - Trung ở
Trung Á mà không phải là các nước khác ở khu vực mà chỉ chọn Trung Á làm trọng tâm,
cạnh tranh ảnh hưởng trên các phương diện chính trị, kinh tế, quân sự và văn hóa xã hội…
từ năm 2001 đến 2012. Trên cơ sở đó, xác định được cạnh tranh ảnh hưởng của hai nước
lớn trên khu vực Trung Á trên các lĩnh vực trên.
Ở Trung Á những năm thập niên cuối của thể kỷ XX; Trung Quốc luôn có ảnh
hưởng rất lớn về chính trị, kinh tế, quân sự…. những năm đầu của thập niên của thế kỷ
XXI này Mỹ đã xác định vị trí chiến lược của Trung Á để kìm hãm sự ảnh hưởng của
Trung Quốc trong khu vực này, kìm lại một Trung Quốc đang trỗi dậy và đang có tầm ảnh
hưởng ở khu vực Trung Á, khu vực Châu Á Thái Bình Dương.
Nghiên cứu, phân tích để thấy được cạnh tranh của hai nước lớn này. Mục đích của
hai nước này về lợi ích riêng của từng quốc gia: xác định được sự cạnh tranh ảnh hưởng
của hai nước qua từng vấn đề cụ thể, chỉ ra được đâu là mặt tác động của hai nước lên
Trung Á và cả khu vực Trung Á, Châu Á Thái Bình Dương, trong đó có Việt Nam.
Trong khuôn khổ giới hạn của luận văn Thạc sỹ, cũng như giới hạn về tài liệu, thời
gian và kiến thức, luận văn này nhằm:
6
- Bước đầu tìm hiểu, phân tích, làm rõ những lợi ích của Mỹ, Trung Quốc, Trung Á. Từ đó,
đi vào phân tích sự cạnh tranh của Mỹ và Trung Quốc đã diễn ra như thế nào trên các lĩnh
vực chính trị, an ninh, kinh tế tại Trung Á.
- Đánh giá những tác động tới quan hệ quốc tế cũng như triển vọng của cuộc cạnh tranh này
đi về đâu.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ-Trung ở Trung Á đầu thập niên của thế kỷ XXI
(2001-2012), đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả ngoài nước và trong
nước hiện nay đang nghiên cứu. Hiện nay, có rất nhiều công trình đang nghiên cứu về cạnh
tranh ảnh hưởng của Mỹ-Trung ở Trung Á đầu thập niên của thể kỷ XXI. Các công trình,
bài viết được đề cập với nhiều cấp độ khác nhau, góc độ khác nhau từ đi sâu phân tích diễn
biến từng sự kiện, tập trung xem xét việc điều chỉnh và triển khai chính sách của mỗi nước
ở Trung Á từng thời kỳ, từng giai đoạn cho đến nhấn mạnh cuộc cạnh tranh khi âm thầm,
khi gay gắt của hai cường quốc ở đây. Các công trình tiêu biểu có thể kể thêm là: Thế giới
sau sự kiện 11/9 của Thông tấn xã Việt Nam xuất bản năm 2002; Thế giới, khu vực và một
số nước lớn vào năm 2004 do Nhà xuất bản chính trị quốc gia ấn hành; An ninh quốc tế
trong thời đại toàn cầu hóa của tác giả Vương Dật Châu xuất bản năm 2004.
Các vấn đề nghiên cứu cụ thể của đề tài chưa có, những vấn đề nghiên cứu ở khía
cạnh rộng lớn hơn đã có một số nghiên cứu đã xuất bản thành sách như: Quan hệ Mỹ -
Trung hợp tác và cạnh tranh luận giải dưới góc độ cân bằng quyền lực của Nguyễn Thái
Yên Hương (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011); Tác động của quan hệ Mỹ- Trung đến
an ninh khu vực Đông Nam Á sau chiến tranh lạnh của Học viện Ngoại giao (Hà Nội,
2008); Quan hệ Mỹ-Trung Quốc thập niên đầu thể kỷ XXI, Viện khoa học xã hội Việt Nam,
Viện Nghiên cứu Châu Mỹ của Lê Khương Thùy (Nxb. Khoa học Xã Hội, Hà Nội, 2012);
Quan hệ Hoa Kỳ- ASEAN 2001-2020 của Nguyễn Thiết Sơn ( Nxb Từ Điển Bách Khoa,
2012)… Các công trình này đi vào nghiên cứu ở mức độ rộng và chưa có nghiên cứu ở
mức độ hẹp và sâu sắc hơn.
Cụ thể, công trình nghiên cứu của Nguyễn Thái Yên Hương nói về quan hệ Mỹ -
7
Trung hợp tác và cạnh tranh luận giải dưới góc độ cân bằng quyền lực. Công trình này đã
nói lên quan hệ của Mỹ - Trung đang có những bước phát triển mạnh mẽ về chiều rộng lẫn
chiều sâu, ngày càng gắn kết trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế. Nhưng bên cạnh đó lại
có nhiều mâu thuẫn giữa hai cường quốc này có lúc dẫn tới gay gắt, đỉnh điểm và nó đã tác
động tới khu vực Châu Á- Thái Bình Dương, nơi mà Trung Quốc đang muốn xác lập vai
trò ảnh hưởng lãnh đạo của mình, trong khi Mỹ vẫn quyết tâm duy trì vị thế lãnh đạo tại
cùng khu vực. Quan hệ giữa Mỹ - Trung được các nhà hoạch định chính sách đối ngoại và
giới nghiên cứu quan tâm nhiều dưới nhiều góc độ khác nhau. Công trình quan hệ Mỹ-
Trung là một trong những việc làm quan trọng nhất trong tổng thể nghiên cứu quan hệ
quốc tế và kiến nghị chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời gian qua. Là cặp quan
hệ quan trọng nhất trong nền chính trị quốc tế hiện đại, Quan hệ Mỹ- Trung có vai trò trong
việc định hình cục diện quan hệ quốc tế, đại diện cho các nước lớn và vị trí không thể thiếu
trong việc giải quyết phần lớn các vấn đề khu vực và quốc tế. Quan hệ hai nước này không
chỉ tác động chung đến môi trường quốc tế mà còn có nhiều tác động cụ thể đến xử lý quan
hệ của Việt Nam với hai nước này trên nhiều lĩnh vực, nhất là phát triển về kinh tế và an
ninh. Công trình này giúp bổ sung và làm rõ thêm cơ sở lý luận quan hệ quốc tế, giúp cho
việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại Việt Nam với các đối tác chủ chốt trong
tình hình mới.
Ngoài ra, còn có công trình của Lê Khương Thùy (chủ biên) về Quan hệ Mỹ - Trung
Quốc thập niên đầu thể kỷ XXI, viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Châu
Mỹ. Công trình này chỉ ra các nước Đông Nam Á là nơi Mỹ- Trung có nhiều lợi ích cũng
sẽ chịu nhiều ảnh hưởng trong quan hệ Mỹ- Trung. Công trình này tập trung phân tích
những nhân tố chủ yếu chi phối quan hệ Mỹ - Trung, sự điều chỉnh, định hướng lớn của
chiến lược toàn cầu của Mỹ đối với Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung đầu thập niên của
thể kỷ XXI. Các chính sách đó được thực hiện thế nào thông qua phân tích cụ thể thực
trạng quan hệ Mỹ - Trung trên các vấn đề chính trị, kinh tế quân sự an ninh trong giai đoạn
2001-2012. Ngoài ra còn có các công trình khác cũng nói đến quan hệ Mỹ- Trung với các
nước ASEAN…
8
Tuy nhiên, phần lớn các tài liệu trên chỉ phản ánh phần nhỏ trong cuộc cạnh tranh
đó, thường là sau những sự kiện lớn tác động đến khu vực Trung Á như sau sự kiện 11/9,
sau khi Mỹ thiết lập các căn cứ quân sự ở một số nước Trung Á hay nhân dịp Tổ chức
Thượng Hải (SCO) họp Hội nghị thượng đỉnh, khi Mỹ hay Trung Quốc đạt được các thỏa
thuận với các quốc gia Trung Á về khai thác dầu khí, lắp đặt ống dẫn dầu … Có thể thấy
cho đến nay, các tài liệu xuất bản ở Việt Nam, chưa có một công trình nào nghiên cứu một
cách hệ thống, toàn diện và tập trung vào cuộc cạnh tranh Mỹ - Trung ở Trung Á sau giai
đoạn chiến tranh lạnh trên các lĩnh vực bằng các phượng tiện gì, hình thức như thế nào,
mức độ ra sao… Phần lớn các tác giả chỉ dành một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu
để đề cập đến tình hình các nước lớn ở Trung Á chứ không phải phân tích dưới góc độ các
nước lớn như Mỹ, Trung Quốc đã cạnh tranh hay liên kết như thế nào, chiến lược của nước
này để đối phó với nước kia ra sao…
Vì vậy, việc chọn đề tài này hiện nay là rất cần thiết, vừa mang tính khoa học và
thực tiễn, với mong muốn có cái nhìn sâu sắc hơn về tham vọng, mục tiêu của các nước lớn
(Mỹ - Trung) ở các quốc gia Trung Á.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng cụ thể của luận văn là cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ-Trung ở Trung Á.
Qua đó, luận văn đã khắc họa rõ nét tác động của sự cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ - Trung
ở Trung Á qua các từng khía cạnh cụ thể trong giai đoạn 2001-2012.
Về không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu sự cạnh tranh ảnh hưởng
của Mỹ-Trung ở khu vực Trung Á. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu, có một số vấn
đề được mở rộng ra ở một số khu vực và chủ thể khác có liên quan.
Lĩnh vực nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về ảnh hưởng của Mỹ- Trung ở Trung Á
trên các lĩnh vực cụ thể: chính trị, kinh tế (chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng
dầu mỏ, khí đốt), quân sự.
Về thời gian nghiên cứu: Đề tài tập trung vào giai đoạn 11 năm sau khi Mỹ quay lại
khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và đặc biệt là khu vực Trung Á giai đoạn 2001-2012.
9
Giai đoạn này là sự xác định quay trở lại khu vực này của Mỹ và xem Trung Quốc là đối
tượng cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực.
5. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, vì luận văn là đề tài chuyên về quan hệ quốc tế, nên
phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế sẽ được lựa chọn.
Trước hết là phương pháp lịch sử được chọn vì là tiến trình lịch sử vấn đề của các
nước, phương pháp lịch sử để thấy thời gian cần phân tích cho từng mốc thời gian cụ thể.
Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp hệ thống. Phương pháp này
giúp phân tích mỗi liên hệ giữa các nước với nhau. Một hệ thống ở đây được phân tích ở
cấp độ quốc tế, khu vực hoặc quốc gia, có hệ thống chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa xã
hội…Trong đó có sự tác động qua lại lẫn nhau, về mặt tích cực và tiêu cực. Trong đề tài
này, phân tích hệ thống về sự tác động của cấp độ quốc gia.
Bên cạnh đó còn có sử dụng phương pháp so sánh và phân tích chiến lược của mỗi
nước. Phương pháp so sánh để so sánh lợi ích của mỗi nước qua các mặt chính trị, kinh tế,
quân sự, văn hóa xã hội của mình. Ngoài ra, phương pháp này còn giúp phân tích quan
điểm chiến lược, so sánh và đưa ra các biện pháp chiến lược nhằm để thực hiện những mục
tiêu của mỗi nước.
Do đây còn là vấn đề mang tính liên ngành nên đề tài còn áp dụng các phương pháp
nghiên cứu liên ngành khoa học xã hội khác để đạt hiệu quả cao nhất trong nghiên cứu. Có
sử dụng đến các nhóm phương pháp nghiên cứu kinh tế để bổ trợ như: Phương pháp phân
tích thống kê, phương pháp phân tích lợi ích, phương pháp logic…
Luận văn cũng được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận Mác – xít.
Trong quá trình nghiên cứu và xử lý tài liệu tham khảo, luận văn quán triệt phương pháp
luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời đại và quan hệ giữa các quốc gia dân tộc.
10
6. Bố cục của đề tài
Ngoài các phần dẫn nhập, kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn với đề
tài cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ- Trung ở Trung Á giai đoạn 2001-2012 được hình thành
với nội dung gồm ba chương như sau:
Chương 1: Trung Á trong nhận thức chiến lược của Mỹ- Trung. Chương này tập
trung làm rõ vị trí chiến lược của Trung Á, vị trí Trung Á trong nhận thức của Mỹ, vị trí
của Trung Á trong nhận thức của Trung Quốc.
Chương 2: Cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ- Trung ở Trung Á trên lĩnh vực cụ thể
trong giai đoạn 2001-2012. Đây là chương chính yếu của luận văn. Trong chương này tổng
hợp, phân tích, so sánh sự cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ - Trung ở Trung Á qua các vấn đề
như: Chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa và xã hội. Qua đó, để thấy được sự cạnh tranh của
hai nước Mỹ- Trung ở Trung Á.
Chương 3: Tác động tới quan hệ quốc tế khu vực, thế giới và Việt Nam. Hai quốc
gia Mỹ- Trung đã có tác động tới khu vực Trung Á, các khu vực khác và các nước trên thế
giới. Chương này rút ra những đặc trưng của sự tác động trong thời gian tới. Đưa ra kiến
nghị cho Việt Nam về những giải pháp trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
11
Chương 1: TRUNG Á TRONG NHẬN THỨC CHIẾN LƯỢC MỸ- TRUNG SAU
CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Vị trí địa chính trị của Trung Á
Trung Á trước năm 1991 được biết đến là một bộ phận trong Liên Bang Xô Viết với
trình độ phát triển thấp hơn các nước cộng hòa khác trong Liên Bang, nằm ở vùng đất sâu
trong lục địa không có vùng thông thương ra biển… Khái niệm hẹp nhất là khái niệm chính
thức của các học giả Liên Xô cũ, xác định Trung Á chỉ bao gồm Uzbekistan,
Turkmenistan, Tajikistan và Kyrgyxstan. Trong thời kỳ Xô Viết, khái niệm này đã được sử
dụng nhiều ở bên ngoài Liên Xô. Sau khi giành được độc lập, các nhà lãnh đạo các nước
Trung Á đã họp ở Taskent và ra tuyên bố, khái niệm Trung Á bao gồm thêm Kazakhstan.
Hiện nay, mặc dù chưa thật sự được chính thức hóa, nhưng khái niệm Trung Á bao
gồm 5 nước Cộng hòa cũ là Turkmenistan, Tajikistan, Kyrgyxstan, Kazakhstan và
Uzbekistan được chấp nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu chính trị quốc tế trên thế giới.
Khái niệm “khu vực Trung Á” được sử dụng trong nội dung nghiên cứu của đề tài được
hiểu theo khái niệm hẹp như trên.
Như vậy, Trung Á là khu vực địa lý, phía Đông giáp Trung Quốc, phía Nam giáp
Afghanistan, Trung Đông và hàng loạt các quốc gia Hồi giáo; phía Bắc và Tây Bắc khu vực Kavkaz, Thổ Nhĩ Kỳ, Châu Âu và Nga. Trung Á có diện tích 1,6 triệu km2, dân số 61,3
triệu người, trong đó Kazakhstan 15,5 triệu, Kyrgyxstan 5,5 triệu, Tajikistan 7,5 triệu,
Turkmenistan 4,9 triệu, Uzbekistan 27,9 triệu. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Á là 319 tỷ USD, bình quân GDP đầu người là 5.200 USD1. Các dân tộc Trung Á có quan
hệ gần gũi nhau về lịch sử và văn hóa. Ngôn ngữ của đa số dân ở các nước cộng hòa Trung
Á thuộc nhóm tiếng Thổ, người dân Tajikistan nói tiếng Iran, ngoài ra tiếng Nga được sử
dụng bởi gần 6 triệu người Nga và người Ukraina thiểu số. Tôn giáo phổ biến nhất ở các
nước cộng hòa Trung Á là Hồi giáo dòng Sunni, chỉ riêng Tajikistan có đa số người hồi
1The World Factbook, July 2010, http://www.worldfactbook.com
giáo dòng Shiia.
12
Trung Á là khu vực rất rộng lớn, đa dạng về địa hình bao gồm vùng núi như Thiên
Tân, sa mạc rộng lớn như Kara Kum, Kyzyl Kum và những thảo nguyên mênh mông.
Thung lũng trù phú nhất là thung lũng Fergana, được cả trăm nước cùng chia sẽ và khai
thác. Khí hậu khắc nghiệt khiến phần lớn đất đai Trung Á rất khô cằn, không thuận tiện cho
trồng trọt. Nước là nguồn tài nguyên cực kỳ quý giá ở Trung Á, là nguyên nhân dẫn đến
một số tranh chấp quốc tế. Nguồn nước chủ yếu trong khu vực là biển Aral và hồ Balkhash,
cả hai là một phần của vùng lòng chảo Tây Trung Á rộng lớn, trong đó có cả biển Caspi.
Hai nguồn nước này đang cạn kiệt đáng kể trong những năm gần đây do các mục đích tưới
tiêu và công nghiệp. Đa số dân sống bằng nghề chăn thả gia súc. Các trung tâm công
nghiệp tập trung ở các thành phố lớn.
Ngay từ xa xưa trong lịch sử, Trung Á thường xuyên bị tổn thương bởi các cuộc tấn
công từ các cường quốc bên ngoài, bị xâm chiếm, chia chát nhiều lần dẫn đến tan vỡ chính
trị. Khu vực núi đồi, sa mạc, thảo nguyên trống trãi này luôn là đối tượng tranh giành
quyền kiểm soát của các đế quốc láng giềng như Hy Lạp, Ả Rập, Trung Quốc, Ba Tư. Bốn
thế kỷ trước công nguyên, người Trung Quốc cũng đã để ý tới khu vực này và mở đường
thông thương với các nước Nam Á hay Cận Đông – tiền thân của con đường tơ lụa nổi
tiếng. Tới giữa thế kỷ XI, dân Seljuk của tộc Thổ Phồn (Turk) mới thiết lập được ách cai trị
kéo dài được gần 200 năm thì bị quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn khuất phục vào thế
kỷ XIII. Cuối thế kỷ XIV, người anh hùng Timur (Tamerlane) đã đẩy lui quân Nguyên
Mông và lập ra một đế quốc kéo dài hơn trăm năm cho con cháu. Đầu thế kỷ XVI, một bộ
tộc Thổ - Mông là Shaybani Uzbek đã kết thúc đế quốc Timurid và cai trị khu vực này cho
tới khi Sa hoàng Nga bước vào, khoảng giữa thế kỷ XVIII và đặt ách thống trị từ giữa thế
kỷ XIX cho đến khi Liên Xô ra đời. Thế kỷ XIX, Trung Á đã là trung tâm của “cuộc chơi
lớn” do Anh phát động nhằm ngăn cản Nga, dùng nơi đây làm bàn đạp thâm nhập
Afghanistan và Ấn Độ. Đến năm 1936, các nước Trung Á đều trở thành các nước Cộng hòa XHCN thuộc liên bang Xô Viết2. Như vậy, trong lịch sử, khu vực này là “vùng đất săn”
2Bách khoa toàn thư, Wikipedia: https://vi.wikipedia.org/wiki/Trung_Á.
của các đế quốc lân cận, mỗi khi các bộ tộc địa phương bị suy yếu – có khi vì tương tranh –
13
khoảng trống chính trị nơi ấy trở thành một cám dỗ cho các đế quốc vây quanh. Trên thực
tế, đây cũng là điều đang xảy ra trong hiện tại.
Vai trò của Trung Á tạm thời bị lu mờ trong thời kỳ chiến tranh lạnh do khu vực này
nằm trong vùng ảnh hưởng của Liên Xô. Sau khi trở thành một không gian độc lập do sự
tan vỡ của Liên Xô và đặc biệt là sau sự kiện 11/9/2001, Trung Á trở thành khu vực thu hút
sự quan tâm của nhiều nước như Mỹ, Nga, Trung Quốc, EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Ấn Độ…
Mỗi nước có những toan tính lợi ích riêng của mình và gây ảnh hưởng theo những cách
khác nhau, khiến cho Trung Á trở thành chiến trường cạnh tranh của các nước. Trong các
đối thủ tham gia cạnh tranh tại Trung Á, cuộc cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc là cuộc
cạnh tranh gay gắt nhất khiến người ta cảm thấy như “cuộc chơi lớn” đang tái diễn tại
Trung Á. Việc Trung Á trở thành một “trung tâm đọ sức” giữa các lực lượng trên thế giới
nhằm giành giật vị trí tối thượng của mình có liên quan đến các vấn đề an ninh, kinh tế và
vị trí chiến lược.
Vị trí chiến lược: Trung Á nằm giữa ngã ba Châu Á, Châu Âu và Trung Đông, từng
nằm trên con đường thương mại chính nối liền Đông – Tây. Nơi đây là cửa ngõ đi vào
vùng chiến lược dầu khí xung quanh vùng biển Caspi, rốn dầu lớn thứ hai thế giới sau
Trung Đông. Trung Á tiếp giáp chỉ với các quốc gia lớn như Nga, Trung Quốc mà còn là
láng giềng của những “mỏ dầu thế giới” như Iran, Irac…
Có thể gọi lục địa Á – Âu là “nóc nhà thế giới” và gọi Trung Á cùng với khu vực
lân cận là “khu vực trung tâm” và lực lượng nào khống chế được “khu vực trung tâm” thì
sẽ khống chế được “nóc nhà thế giới”. Từ Trung Á có thể kiềm chế Nga từ phía Bắc, kiểm
soát được Ấn Độ ở phía Nam, kiềm chế Trung Quốc ở phía Đông và kiểm soát Châu Âu ở
phía Tây. Do vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng và nhạy cảm, nên bất kỳ một sự kiện nào
xảy ra ở Trung Á sẽ ảnh hưởng không chỉ đối với khu vực mà còn làm thay đổi cân bằng
địa – chính trị tại lục địa Âu – Á, khu vực được coi là trục phát triển của thế giới.
Ngoài ra, khu vực Trung Á tập trung nhiều khoáng sản quan trọng đặc biệt là dầu
mỏ và khí đốt thiên nhiên, trữ lượng dầu mỏ đứng thứ ba thế giới (sau Venezuela và Ả rập
Saudi). Trữ lượng dầu và hơi đốt thiên nhiên của khu vực này có khả năng vượt xa trữ
14
lượng của Cô Oet, vịnh Mexico hoặc biển Bắc. Nếu tính cả trữ lượng thềm lục địa khoảng
200 tỷ thùng, nguồn dầu mỏ Trung Á sẽ là động lực chính thúc đẩy kinh tế thế giới phát
triển trong thế kỷ XXI. Bởi vậy, khu vực này được mệnh danh là “căn cứ năng lượng của
thế kỷ XXI”.
Nguồn dầu mỏ phân bổ chủ yếu ở Azerbaijan và Kazakhstan chiếm 92% tổng trữ
lượng của vùng biển Caspi. Khí thiên nhiên tập trung chủ yếu ở Kazakhstan, Turmenistan và Uzbekistan, chiếm 95% trữ lượng khí thiên nhiên của khu vực3. Trữ lượng dầu mỏ của
Kazakhstan chiếm vị trí thứ 7 trên thế giới. Theo số liệu của Ủy ban trữ lượng Kazakhstan,
trữ lượng khí đốt có thể khai thác của toàn quốc gia hiện nay là 4 tỉ tấn, trữ lượng khí đốt có thể khai thác là 3000 tỷ m3. Tài liệu của cơ quan thông tin năng lượng thuộc Bộ Năng
lượng Mỹ cho thấy, tổng trữ lượng dầu mỏ của vùng biển Caspi thuộc Kazakhstan đạt
khoảng 101 – 109 tỷ thùng, chiếm khoảng 1/2 trữ lượng của cả khu vực biển Caspi, tổng trữ lượng khí đốt là 153.300 tỷ m3, chiếm khoảng 1/3 tổng trữ lượng cả vùng biển Caspi.
Nguồn tài nguyên hóa thạch dồi dào của Trung Á trở thành mục tiêu tranh giành của nhiều
nước, đặc biệt là các nước đang trong cơn khát năng lượng.
Vị trí địa lý chiến lược quan trọng, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú của
Trung Á khiến các cường quốc có tham vọng biến các khu vực này trở thành sân sau của
mình. Với những tham vọng đó, nối tiếp lịch sử, Trung Á lại trở thành địa bàn tranh giành
ảnh hưởng của các nước, đặc biệt là các cường quốc khu vực và thế giới, tác động mạnh
đến tình hình khu vực và quốc tế.
1.2. Trung Á trong nhận thức chiến lược của Mỹ
1.2.1. An ninh
Về an ninh: Trong những năm qua, chủ nghĩa khủng bố, sự bất ổn nguồn cung năng
lượng là mối nguy hiểm thực tế đối với an ninh quốc gia của Mỹ và ảnh hưởng đến chính
3Vladimir Naumkin (2008), “Sự trỗi dậy của Nga: Những tác động tới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương”, Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 73, trang 6-11
sách của Mỹ ở Trung Á.
15
Vị trí địa lý khu vực Trung Á rất đặc biệt, gần với một khu vực tập trung hàng loạt
các thế lực khủng bố quốc tế, bao gồm Afghanistan, Kashmir, khu vực Caucasuc, Tân
Cương và một số nước lân cận bị Mỹ nghi ngờ là ủng hộ thế thực Hồi giáo cấp tiến và thế
lực chủ nghĩa khủng bố như Iran, Pakistan… Khu vực Trung Á cũng vốn là khu vực luôn
bị thế lực chủ nghĩa khủng bố hoành hành. Vì vậy, về địa lý, khu vực Trung Á là khu vực
thuận lợi để tấn công, đối phó với chủ nghĩa khủng bố.
Sau sự kiện 11/9, mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố quốc tế đã trở thành mối đe
dọa an ninh nổi bật nhất của Mỹ. Chống khủng bố trở thành nhiệm vụ chiến lược của Mỹ
và cũng là lợi ích quan trọng hàng đầu của Mỹ ở Trung Á. Cùng với Trung Đông, Trung Á
là tâm điểm của cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ và các nước Uzbekistan, Kyrgyzstan,
Kazakhstan, Tajikistan đã trở thành các quốc gia “tiền tuyến” trong cuộc chiến chống
khủng bố trên phạm vi toàn cầu. Mỹ cần có sự trợ giúp của các nước Trung Á trong cuộc
chiến như cung cấp căn cứ, quyền bay quá cảnh, trang thiết bị… Mỹ cũng quan tâm ngăn
chặn khả năng các nước Trung Á trở thành căn cứ của các nhóm khủng bố quốc tế với mục
tiêu tấn công nước Mỹ khi Trung Á là mảnh đất lý tưởng cho hoạt động của Al Qaeda và
các nhóm Hồi giáo cực đoan khác do có vị trí địa lý quan trọng và hoàn cảnh xã hội phức
tạp sau khi tách khỏi Liên Xô. Mỹ cũng cho rằng các chính quyền độc tài, tham nhũng và
lạc hậu cũng tạo ra sự đè nén và đói nghèo, là căn nguyên của chủ nghĩa khủng bố, đặc biệt
là khi các phong trào Hồi giáo cực đoan tại các nước này mới chỉ bị gián đoạn chứ chưa bị
tiêu diệt.
Sự sụp đổ của Taliban đã làm dịu tình hình bất ổn an ninh ở khu vực Trung Á
nhưng căn cứ chủ yếu của chủ nghĩa khủng bố chưa được xóa bỏ, sự ổn định của
Afghanistan còn mong manh, khu vực xung quanh vẫn đang tồn tại căn cứ của thế lực
khủng bố, thế lực chủ nghĩa khủng bố vẫn có khả năng hoạt động mạnh. Trong bối cảnh
này, vai trò địa lý và chính trị của Trung Á đối với việc Mỹ tiến hành chống khủng bố quốc
tế không hề mất đi. Theo nhà phân tích chính trị Michael Hall, cố vấn của nhóm khủng
hoảng quốc tế (International Crisis Group) thì mối quan tâm của Mỹ ở Trung Á là về “sự
16
ổn định chính trị ở Trung Á, về khủng bố và ma túy đế từ Afghanistan4”.
1.2.2. Chính trị
Trước sự kiện 11/9, các nước Cộng hoà Trung Á thuộc Liên Xô cũ nằm ở vị trí thứ
yếu trong chính sách của Mỹ. Từ thế kỷ XVIII, Trung Á được coi là khu vực ảnh hưởng
truyền thống của Nga, là hậu phương chiến lược của Trung Quốc. Do vậy, dù có muốn, Mỹ
khó có thể vào được khu vực nằm giữa đất liền, cách Mỹ quá xa lại không có mối liên hệ
lịch sử và chiến lược nào với Mỹ. Vì lẽ đó, trong lịch sử Mỹ chưa từng tiến vào Trung Á và
cũng chưa từng thiết lập căn cứ quân sự ở khu vực này.
Khu vực bao gồm 5 quốc gia hậu Xô Viết cùng với Afghanistan và vùng lòng chảo
Caspi có vai trò quan trọng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ do vị trí gần với Nga, Trung
Quốc, Ấn Độ, Pakistan, Iran và các nước chủ chốt trong khu vực. Sự kiện 11/9 là cơ hội
bất ngờ để Mỹ và Trung Á xích lại gần nhau. Ngoài mục đích an ninh, lợi ích địa-chính trị
cũng là mục tiêu chiến lược quan trọng mà Mỹ theo đuổi ở khu vực này. Có mặt ở Trung Á
thông qua sự hiện diện quân sự, Mỹ có thể giám sát, kiềm chế Nga khôi phục sự kiểm soát
đối với Trung Á, ngăn chặn Nga và Trung Quốc hình thành liên minh chống Mỹ ở Trung
Á. Các nhà chiến lược Mỹ coi Trung Á là địa bàn quan trọng bởi có thể biến nó thành một
kết cấu mạng lưới giao nhau và từ những điểm nhỏ có thể kiềm chế Nga ở phía Bắc, kiểm
soát được Ấn Độ ở phía Nam, Trung Quốc ở phía Đông và Châu Âu ở phía Tây. Với việc
đặt chân vào Trung Á, Mỹ sẽ nối liền hai trọng điểm địa-chiến lược là Trung Đông và
Trung Á thành một khối thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau để Mỹ nắm giữ và chi phối toàn bộ
khu vực này, từ đó củng cố được không gian chiến lược của Mỹ ở Trung Á. Hơn nữa, cùng
với việc EU và NATO đang tiến về phía Đông, sự xuất hiện của Mỹ ở Trung Á sẽ chèn ép không gian và phạm vi ảnh hưởng của Nga đối với các nước trong SNG5.
Nếu Mỹ kiểm soát được Trung Á về chính trị, kinh tế thì đó là cơ sở vững chắc để
4 Sara Shenker (2005), “Struggle for Influnce in Central Asia”, BBC, http://news.bbc.co.uk/go/pr/fr/-/world/asia- pacific/4467736.stm 5 Nguyễn Đình Luân (2004), “Tìm hiểu logic kinh tế trong chính sách đối ngoại của Mỹ”, tạp chí nghiên cứu quốc tế số 3
ngăn chặn được chiến lược đa cực hoá của Nga, Trung Quốc, Ấn Độ chống lại thế lực đơn
17
cực của Mỹ. Như vậy, vai trò của Trung Á giúp Mỹ kiềm chế tam giác chiến lược Nga-
Trung-Ấn chống lại lợi ích bá quyền đơn cực của họ.
1.2.3. Kinh tế
Tự do tiếp cận các nguồn dầu mỏ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với Mỹ vì theo
báo cáo của tổ chính sách năng lượng quốc gia do Phó Tổng thống Cheney đứng đầu công
bố vào tháng 5/2011, thì trong 20 năm tới, lượng dầu mà Mỹ sử dụng sẽ tăng 1/3, trong khi
sản lượng dầu của Mỹ giảm 12% và đến năm 2020, lượng dầu nhập khẩu chiếm 2/3 nhu
cầu dầu lửa của Mỹ. Vì vậy, mối quan tâm đặc biệt của Mỹ tới Trung Đông, Trung Á,
Đông Nam Á, Tây Phi cũng là điều dễ hiểu.
Bên cạnh đó, nguồn năng lượng dồi dào tại khu vực và những lợi ích kinh tế -
thương mại khác vẫn luôn là quan tâm của chính quyền và nhiều công ty hàng đầu của Mỹ.
Với việc có mặt quân sự ngày càng gia tăng ở Trung Á, Mỹ đang không chỉ thay đổi cục
diện chính trị - an ninh mà ngày càng đẩy các nước khác, đặc biệt là Nga ra khỏi thị trường
này, đặc biệt là khai thác dầu lửa và từng bước chiếm tỷ lệ cao trong quan hệ kinh tế với
các nước Trung Á.
Sau khi Liên Xô tan rã, Mỹ bắt đầu tích cực can dự vào việc khai thác năng lượng
biển Caspi. Sau sự kiện 11/9, Mỹ cảm thấy không yên tâm vào khả năng cung cấp dầu mỏ
của Trung Đông trong tương lai, hứng thú hơn với các nguồn năng lượng các nơi khác trên
thế giới như Nga, Châu Phi, Trung Á và khu vực Caspi. Khu vực Trung Á và vùng biển
Caspi được coi là một trong những nơi dự trữ dầu mỏ lớn nhất, sau Trung Đông. Nếu như
Mỹ có thể khống chế Trung Á đi kèm với việc xây dựng đường ống dẫn dầu của các công
ty dầu lửa của Trung Đông đầy bất ổn và dễ dàng hơn trong việc gây sức ép các chính phủ
Hồi giáo Trung Đông tiến hành cải cách chính trị theo mô hình Phương Tây. Mỹ thông qua
việc kiểm soát đường ống vận chuyển dầu khí Trung Á để kiểm soát nguồn năng lượng
Trung Á.
Có thể thấy, Trung Á có tầm quan trọng chiến lược rất lớn mà Mỹ không thể bỏ qua
được. Với việc đặt chân vào Trung Á, Mỹ đã nối liền hai trọng điểm địa – chiến lược là
18
Trung Đông và Trung Á thành một khối thống nhất, hỗ trợ lẫn nhau để Mỹ nắm giữ và chi
phối toàn bộ khu vực này, từ đó củng cố được không gian chiến lược của Mỹ ở Trung Á và
Tây Á. Những căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Á chẳng những là đầu mối chi viện cho
quân Mỹ khi tiến hành các hoạt động tác chiến ở Afghanistan, mà còn trở thành một bộ
phận có tầm quan trọng vĩnh cữu nằm trong vòng cung phòng ngự chiến lược của Mỹ nối
liền từ Đông Phi tới Đông Á. Hơn nữa, cùng với việc Liên minh Châu Âu (EU) và Khối
quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO) đang tiến về phía Đông, sự xuất hiện của Mỹ ở
Trung Á cũng đã chèn ép không gian và phạm vi ảnh hưởng của Trung Quốc đối với các
nước trong SNG.
Nếu Mỹ kiểm soát được Trung Á về chính trị - kinh tế thì đó là cơ sở vững chắc để
ngăn chặn được chiến lược đa cực hóa của Nga, Trung Quốc, Ấn Độ chống lại thế đơn cực
của Mỹ. Như vậy, vai trò của Trung Á giúp Mỹ kiềm chế được tam giác chiến lược Nga –
Trung Quốc - Ấn Độ chống lại lợi ích chiến lược bá quyền đơn cực của Mỹ.
1.3. Trung Á trong nhận thức chiến lược của Trung Quốc
1.3.1. An ninh
Trung Á có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng đối với Trung Quốc. Một khu
vực Trung Á ổn định có lợi cho Trung Quốc bảo vệ an ninh của chính mình, có lợi cho
Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao, hợp tác trên các mặt tôn giáo, dân tộc, trao đổi
văn hóa, giao thông, năng lượng với các quốc gia trong khu vực này.
Trung Quốc và Trung Á gần nhau về mặt địa lý. Trung Quốc là nước giáp ranh với
các nước Trung Á nhiều nhất, gần các nước Trung Á nhất. Trung Quốc giáp với 3 nước
Trung Á là Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và là nước láng giềng gần gũi với hai nước
Trung Á khác là Uzbekistan và Turkmenistan. Trung Quốc có hơn 3000 km biên giới
chung với các nước Trung Á.
Bắc Kinh rất coi trọng khu vực Trung Á vì khu vực này có vị trí rất quan trọng đối
với môi trường an ninh phía Tây của Trung Quốc. Là một nước láng giềng ở Trung Á,
Trung Quốc có chung biên giới và có nhiều phong tục văn hóa tương tự như các nước
19
Trung Á. Quan hệ chính trị, kinh tế và thương mại giữa Trung Quốc và các nước này cũng
rất gần gũi. Như vậy, mối đe dọa đối với an ninh ở Trung Á sẽ ảnh hưởng một cách tự
nhiên đến Trung Quốc, đặc biệt là miền Tây Trung Quốc.
Lợi ích an ninh chiến lược đầu tiên của Trung Quốc ở Trung Á là ngăn chặn thế lực
ly khai “Đông Thổ”. “Đông Thổ” là cách gọi tắt của “Đông Turkistan”. Mục tiêu chính trị
của thế lực này là thành lập nhà nước “Đông Thổ” độc lập, vì vậy mà không một thủ đoạn
bạo lực hay khủng bố nào. Phong trào Đông Thổ hiện tại bắt đầu từ thế kỷ 20, thực tiễn
sớm nhất của phong trào Đông Thổ hiện đại là hai lần xuất hiện “nước cộng hòa Đông
Thổ” ở Tân Cương năm 1933 và 1944. Từ những năm 1990 đến nay, trong bối cảnh chủ
nghĩa khủng bố quốc tế lan rộng khắp, chủ nghĩa khủng bố của Đông Thổ có xu hướng
tăng lên, tạo thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với việc thống nhất đất nước và sự ổn định
xã hội của khu vực Tây Bắc Trung Quốc. Từ năm 1990 – 2001, thế lực khủng bố Đông
Thổ đã gây ra hơn 200 sự kiện khủng bố ở Tân Cương, làm 162 người chết và 440 người bị
thương.
Do các nguyên nhân lịch sử, dân tộc, văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo, Đông Thổ có
mối liên hệ chằng chịt với khu vực Trung Á, khiến Trung Á trở thành khu vực bên ngoài
quan trọng nhất ảnh hưởng tới an ninh khu vực Tây Bắc Trung Quốc. Một mặt, Trung
Quốc còn là một trong những căn cứ bên ngoài chủ yếu nhất của thế lực Đông Thổ. Rất
nhiều tổ chức của thế lực Trung Thổ đã dựa vào Trung Á để triển khai hoạt động, được các
tổ chức khủng bố quốc tế khu vực Trung Á ủng hộ tinh thần và trợ giúp vật chất. Khu vực
Trung Á cũng là nơi chúng có khả năng ẩn nấp. Mặt khác, Trung Á là con đường địa lý
quan trọng để thế lực Đông Thổ liên hệ với các thế lực chủ nghĩa khủng bố quốc tế, cũng là
con đường chính để chủ nghĩa khủng bố thâm nhập vào Trung Quốc. Các thế lực chủ nghĩa
khủng bố ngoài khu vực này có thể thông qua khu vực Trung Á để vận chuyển lậu vũ khí
và của cải vật chất của chủ nghĩa khủng bố vào Trung Quốc, điều khiển từ xa các hoạt
động khủng bố ở Tân Cương, Trung Quốc và các khu vực khác từ tổ chức khu vực Trung
Á.
20
Do vậy, chính sách và mục tiêu của Trung Quốc ở khu vực Trung Á đơn giản và rõ
ràng: Không để khu vực Trung Á trở thành căn cứ hoạt động bên ngoài của Đông Thổ,
không để khu vực Trung Á trở thành con đường chính để Đông Thổ liên hệ với khủng bố
quốc tế. Vì vậy, chính sách Trung Á của Trung Quốc là yêu cầu các quốc gia Trung Á
không áp dụng những chính sách làm hại tới việc thống nhất Trung Quốc và không ủng hội
chủ nghĩa chia rẽ của Trung Quốc, hạn chế và cấm Đông Thổ hoạt động trong lãnh thổ của
Trung Á, kiểm soát và ngăn chặn thế lực chủ nghĩa khủng bố và chủ nghĩa cực đoan từ
lãnh thổ Trung Á tiến vào Trung Quốc.
Do tình hình an ninh khu vực Trung Á có mối liên quan mật thiết với an ninh của
Tân Cương, sự bất ổn của khu vực Trung Á có ảnh hưởng trực tiếp tới tình hình an ninh
Tây Bắc Trung Quốc, Trung Quốc mong muốn cùng các nước Trung Á và Nga thiết lập cơ
chế an ninh khu vực, đảm bảo an ninh chung mang tính thể chế cho khu vực Trung Á. Điều
này vừa có lợi cho an ninh các nước Trung Á, vừa có lợi cho an ninh Trung Quốc. Một
trong những chức năng chủ yếu của Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) chính là điều này.
1.3.2. Chính trị
Duy trì khu vực Trung Á làm hậu phương chiến lược cho sự ổn định của Trung
Quốc cũng thuộc phạm trù lợi ích an ninh, nhưng đó là lợi ích an ninh với ý nghĩa chiến
lược và địa chính trị, vì vậy khác với nội dung lợi ích an ninh trong nước khi Trung Quốc
mở cuộc tấn công vào Chủ nghĩa Ly khai Đông Thổ được trình bày ở trên.
Duy trì khu vực Trung Á làm hậu phương chiến lược cho sự ổn định của Trung
Quốc nghĩa là đặt khu vực Trung Á trong toàn cục chiến lược đối ngoại của Trung Quốc,
nhận thức và xác định vai trò của Trung Á trong chiến lược ngoại giao của Trung Quốc. Từ
góc độ này có thể hiểu được chức năng và lợi ích của khu vực Trung Á đối với chiến lược
ngoại giao của Trung Quốc. Trung Á nằm ở Tây Bắc Trung Quốc, có chiều dài đường biên
giới hơn 3000 km với Trung Quốc, là một khu vực chiến lược tương đối độc lập xung
quanh Trung Quốc, nó là bộ phận cấu thành cơ bản trong phương hướng chiến lược vùng
Tây Bắc Trung Quốc. Chỉ khi khu vực Trung Á trở thành hậu phương chiến lược cho sự ổn
định của Trung Quốc, mới phù hợp nhất cho lợi ích chiến lược của Trung Quốc.Điều kiện
21
cơ bản để đảm bảo Trung Á là hậu phương chiến lược của sự ổn định của Trung Quốc là:
Trước tiên, giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và các nước
Trung Á, duy trì hòa bình và an ninh biên giới. Đây là điều kiện cơ sở để Trung Quốc phát
triển quan hệ với khu vực Trung Á.
Thứ hai, làm cho các nước Trung Á lựa chọn chính sách ngoại giao thân thiện với
Trung Quốc và duy trì mối quan hệ song phương tốt đẹp giữa Trung Quốc với các nước
Trung Á.
Thứ ba, không để các nước Trung Á rơi vào sự kiểm soát của các nước lớn hoặc tập
hợp các nước lớn có mối quan hệ chiến lược địa chính trị phức tạp với Trung Quốc.
Do vậy, một nguyên tắc và mục tiêu cơ bản được nêu ra trong chính sách ngoại giao
Trung Á của Trung Quốc là duy trì tình hữu nghị giữa các nước Trung Á và Trung Quốc,
ngăn chặn khu vực này bị các nước lớn hoặc tập đoàn nước lớn chỉ đạo.
1.3.3.Kinh tế
Trong chiến lược phát triển của mình từ nay đến năm 2050 trở thành nước công
nghiệp tầm trung, Trung Quốc đang thiếu nguồn năng lượng nghiêm trọng với dự đoán
phải nhập khẩu đến 70% lượng dầu cần thiết để phục vụ cho phát triển vào năm 2020. Do
vậy, với nguồn dầu lửa giàu có, Trung Á trở thành đầu mối giao thông quan trọng trong
quy hoạch chiến lược dầu lửa của Trung Quốc. Hiện nay, Trung Quốc nhập khoảng 50% dầu thô từ Trung Đông, 22% từ Châu Phi6. Tuy nhiên, sự bất ổn tiềm tàng của khu vực
Trung Đông có những rủi ro rất lớn. Nếu hợp tác năng lượng giữa Trung Quốc và khu vực
Trung Á (chủ yếu là Kazakhstan) có thể có bước đột phá khiến mỗi năm Trung Quốc nhập
20 triệu tấn dầu từ Trung Á, đến khi đó nguồn cung ứng năng lượng của Trung Á cũng sẽ chiếm 10% năng lượng Trung Quốc nhập khẩu7. Sau khi Nga và Trung Á trở thành khu
6 Thông tấn xã Việt Nam (12/12/2004), “Trung Quốc, Nga và Mỹ có thể hợp tác ở Trung Á”, các vấn đề quốc tế, trang 34-62 7 Thông tấn xã Việt Nam (12/12/2004), “Trung Quốc, Nga và Mỹ có thể hợp tác ở Trung Á”, các vấn đề quốc tế, trang 38
vực có nguồn cung cấp năng lượng ổn định, Trung Quốc có thể được đảm bảo cung cấp
22
năng lượng ổn định trong thời gian dài. Những rủi ro trong thay đổi của tình hình quốc tế
đang giảm ở mức độ tương đối lớn. Như vậy, tình hình đa dạng hóa nhập khẩu năng lượng
của Trung Quốc sẽ được cơ bản hình thành.
Nhưng hiện nay, quy mô dầu hỏa mà Trung Quốc được quyền khai thác ở Trung Á
không lớn. Năm 2002, Trung Quốc nhập từ Trung Á chỉ có hơn một triệu tấn dầu mỏ. Năm
1997, Trung Quốc và Kazakhstan đã ký hiệp định thi công đường ống dẫn dầu từ Atyrau
tới chân núi Ala thuộc Tân Cương, Trung Quốc. Với việc đường ống dẫn dầu dài hơn 1000
km này được hoàn thành năm 2005, mỗi năm đường ống này có thể vận chuyển sang Trung
Quốc từ 15-20 triệu tấn dầu.
Bên cạnh đó, thúc đẩy hợp tác kinh tế với Trung Á mang lại lợi ích to lớn cho Trung
Quốc. Khu vực Tây Bắc Trung Quốc, trước tiên là Tân Cương, là nơi được lợi ích chính
trong hợp tác kinh tế khu vực Trung Á. Khu vực Tây Bắc khá khó khăn khi hội nhập với
vùng kinh tế phía Đông của Trung Quốc, trong khi hợp tác kinh tế với các nước Trung Á là
con đường ngắn nhất để vùng Tây Bắc Trung Quốc phát triển. Chiến lược khai thác phía
Tây Trung Quốc cũng tạo cơ hội để các nước Trung Á tiến vào Tây Bắc Trung Quốc.
1.4. Sự hiện diện của Mỹ và Trung Quốc ở khu vực Trung Á trong thập niên 90
của thế kỷ XX
1.4.1. Sự hiện diện của Mỹ
Những năm 90 Mỹ gia tăng ảnh hưởng của mình ở khu vực Trung Á, không gian
hậu Xô Viết và các nước SNG, thông qua việc gia tăng sự cạnh tranh, ảnh hưởng đến chính
trị, an ninh kinh tế với Nga ở khu vực Trung Á. Các tập đoàn dầu lửa hàng đầu của Mỹ như
Excel Mobin, Conoco Philip đã xâm nhập vào thị trường Tuocmenistan, Kazacstan ở
Trung Á. Gia tăng ảnh hưởng ở khu vực Nam Capcado với chính quyền Aliev ở
Azecbaigian, Sebatnatze ở Gruzia.
Mỹ có ý đồ thiết lập hệ thống đường ống dẫn dầu từ khu vực Trung Á và Capsi qua
Azecbaigian và Gruzia, Thổ Nhĩ Kỳ đưa về Mỹ. Năm 1997, Mỹ thiết lập hệ thống đường
ống dẫn dầu Baku TbilisiXehan. Năm 1999, Mỹ thành lập tuyến dẫn dầu
23
BakuTbilisiEguren ra biển Đen. Mỹ lôi kéo các nước SNG ra khỏi vùng ảnh hưởng của
Nga, khuyến khích 3 nước Baltic gia nhập NATO, can thiệp vào cuộc tranh chấp của Nga
và Ukraine ở bán đảo Crum, can thiệp vào cuộc xung đột giữa Nga và Môndova ở
Krinhetsovie.
1.4.2. Sự hiện diện của Trung Quốc
Đến đầu những năm 90, số nhà thờ Hồi giáo hoạt động tại Tân Cương tăng gấp đôi.
Sự “Phục hưng Hồi giáo” này cùng với sự sụp đổ của Liên Xô đã làm chủ nghĩa Hồi giáo
và chủ nghĩa Dân tộc (cực đoan) của những dân tộc thuộc nhánh Turk ở các nước cộng hòa
hậu Xô Viết ở Trung Á phát triển rất mạnh.
Trong các quốc gia mới xuất hiện ở Trung Á từ lâu đã có rất nhiều người Duy Ngô
Nhĩ sinh sống – chỉ riêng tại Kazakhstan, con số trên là hơn 250.000 người. Sự xuất hiện
trên bản đồ thế giới các quốc gia mới (các nước hậu Xô Viết –ND) tại khu vực Trung Á có
cư dân vốn gần gũi với người Duy Ngô Nhĩ về văn hóa và ngôn ngữ, không chỉ là một tấm
gương cho cư dân gốc (người Duy Ngô Nhĩ) tại SUAR về chủ nghĩa dân tộc. Liên Xô sụp
đổ còn mở ra cho Trung Quốc một thị trường lớn – thị trường các nước Trung Á.
Đến đầu những năm 90, những cải cách của Đặng Tiểu Bình đã đưa lại những kết
quả đầu tiên và các doanh nghiệp phát triển bùng nổ của Trung Quốc bắt đầu đổ xô đi tìm
thị trường tiêu thụ các sản phẩm “made in China” tại Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan,
Tajikistan, Turmenistan (các nước cộng hòa Liên Xô cũ – ND). Chính người Duy Ngô Nhĩ,
do có sự gần gũi về văn hóa và ngôn ngữ với các thị trường đó, đã trở thành một mắt xích
trung gian chủ yếu trong thương mại (giữa các doanh nghiệp Trung Quốc với các nước
Trung Á). Chỉ trong vòng vài năm tại Tân Cương đã xuất hiện một “giai tầng” tư sản mới
nhờ làm vai trò trung gian giữa nền công nghiệp Trung Quốc với thị trường tiêu thụ tại các
nước Cộng hòa hậu Xô Viết.
Cũng chính sự pha trộn và kết hợp giữa sự phục hưng Hồi giáo, chiến thắng của chủ
nghĩa dân tộc tại các quốc gia láng giềng và sự xuất hiện của các nhà tư bản Duy Ngô Nhĩ
đã đem lại một kết quả mà Bắc Kinh không thể ngờ tới. Đến giữa những năm 90, người
24
Duy Ngô Nhĩ công khai và rõ ràng thể hiện sự bất bình của mình đối với người Hán.
Cuối năm 1990, 22 người bị giết tại Baren, một thị trấn gần Kashgar, trong một
cuộc nổi loạn nhỏ đứng đầu bởi Abdul Kasim, một nhà lãnh đạo của Phong trào Turkestan
tự do. Bắc Kinh cho rằng vũ khí của những người này được các tay súng của Afghanistan
cung cấp và họ phản ứng rất nhanh chóng và quyết liệt.
Sau khi Liên Bang Xô Viết sụp đổ vào năm 1991, các nước cộng hòa Trung Á thành
lập những quốc gia độc lập, phe ly khai Uighur tại Tân Cương càng được tiếp thêm sinh
khí từ nền độc lập của những nước láng giềng. Các nhóm Uighur lợi dụng sự yếu ớt của
những chính phủ của các nước mới thành lập và vùng biên giới mục rỗng của Tân Cương
với Kazakhstan, Tajikistan, Kyrgyzstan và Afghanistan để thành lập các trại huấn luyện
bên ngoài tầm kiểm soát của Trung Quốc.
Năm 1996, Nga tiếp tục cuộc chiến thứ hai với Chechnya, Tajikistan vẫn còn khốn
đốn sau cuộc nội chiến và chính phủ Uzbek của Karimov Hồi giáo vẫn đang phải đối phó
với những người theo trào lưu chính thống Hồi giáo tìm cách thành lập một chính phủ Hồi
giáo ở Uzbekistan. Trung Quốc e rằng sự bất ổn này sẽ lan sang Tân Cương, và Bắc Kinh
đã phát động một loạt các vụ đàn áp cùng một chiến dịch "đánh gục" để tái lập trật tự;
1.700 người "bị tình nghi khủng bố" đã bị bắt giữ.
Tháng 04 năm 1996, Trung Quốc tìm cách liên kết với các nước láng giềng phương
Tây của mình bằng cách tạo nên một nhóm quốc gia "Shanghai Five" bao gồm Trung
Quốc, Nga, Tajikistan, Kazakhstan và Kyrgyzstan để làm một bức tường thành chống lại
phe trào lưu chính thống Hồi giáo. Không lâu sau, các nước ký kết bắt đầu chung sức nỗ
lực nhằm tiêu diệt "ba sức mạnh ma quỷ" là Chủ nghĩa khủng bố, Chủ nghĩa ly khai và Chủ
nghĩa cực đoan.
Thái độ gây hấn mới của Trung Quốc gặp phải phản ứng dữ dội từ phe ly khai
Uighur: Tháng 05 năm 1996, một quan chức cao cấp tại Hội nghị Tư vấn Chính trị Nhân
dân Tân Cương bị ám sát và một số vụ ném bom các tuyến đường sắt Trung Quốc diễn ra
có liên quan đến các nhóm Uighur. Khi Afghanistan bắt đầu tấn công Taliban tháng 09
25
năm 1996, một số nhóm Uighur đã theo phe Taliban chiến đấu. Trung Quốc buộc tội
Taliban và Al-Qaeda đã tài trợ, trang bị vũ khí và huấn luyện cho các tay súng Uighur tại
Afghanistan. Sau sự kiện này, Trung Quốc lại càng gặp phải nhiều cuộc tấn công khác bên
trong Tân Cương. Vào cuối năm 1998, Trung Quốc e rằng bạo lực tại Tân Cương đang
tăng dần vượt tầm kiểm soát, và Bắc Kinh bắt đầu gia tăng ảnh hưởng của mình tại Trung
Á.
1.4.3. Cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ - Trung ở Trung Á trong thập niên
90 của thế kỷ XX
Tác động đối với quan hệ quốc tế ở Trung Á, cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước
lớn ở Trung Á tác động đến quan hệ quốc tế trong khu vực theo hai hướng thuận và nghịch.
Về tác động thuận: tạo điều kiện cho các quốc gia Trung Á nâng cao vị thế quốc tế
của mình. Về cơ bản, trước khi cuộc chiến chống khủng bố quốc tế mở màn ở Afghanistan
(năm 2001), các quốc gia Trung Á vẫn là những nước nghèo, tiềm ẩn nhiều bất ổn, xung
đột về dân tộc, sắc tộc tôn giáo... Từ năm 2001 đến nay, cùng với cuộc chiến chống khủng
bố quốc tế, Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Trung Quốc... đều gia tăng thâm nhập, cạnh
tranh ảnh hưởng với Nga ở khu vực này. Trong quá trình đó, các quốc gia Trung Á đã biết
khai thác lợi thế địa - chính trị của mình nhằm phát huy vai trò, nâng cao vị thế quốc tế của
mình.
Sau vụ nước Mỹ bị tấn công khủng bố ngày 11-9-2001, Tổng thống Nga V. Pu-tin là
người đầu tiên gọi điện chia sẻ với Tổng thống Mỹ G. Bu-sơ và "đồng ý" cho Mỹ lập căn
cứ quân sự ở Trung Á làm "cầu tiếp viện" cho chiến trường Afghanistan. Chỉ trong một
thời gian ngắn, Mỹ đã thiết lập 2 căn cứ quân sự ở Trung Á; một là căn cứ Carơsi Khanabat
thuộc Uzbekistan và hai là căn cứ Manát thuộc Kyrgyzstan. Hai căn cứ trên giữ vai trò là
"cầu tiếp viện" hậu cần cho quân đội Mỹ và NATO ở Afghanistan, quyết định không nhỏ
đến sự thành bại cho các hoạt động quân sự ở đây. Đổi lại, các quốc gia Trung Á cũng
nhận được sự “quan tâm”, “chăm sóc” đặc biệt của Mỹ cũng như Nga. Vào năm 2009, Nga
thuyết phục ông C. Bakyép đóng cửa căn cứ không quân Manát, với khoản viện trợ 2 tỉ
USD cho Kyrgyzstan. Để giành lại sự ủng hộ từ chính phủ nước này, Mỹ đã buộc phải tăng
26
giá thuê Manát gấp 3 lần, lên 60 triệu USD/năm và dành 150 triệu USD để nâng cấp kết
cấu hạ tầng cho Kyrgyzstan. Hiện nay, 4 trong tổng số 5 nước Trung Á (trừ Turkmenistan) đã tham gia Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO)8.
Thứ hai, thúc đẩy hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực trên tất cả các lĩnh vực vì
sự phát triển chung.
Tháng 6-2001, Diễn đàn hợp tác Thượng Hải đã phát triển thành SCO. Tổ chức này
đã tạo điều kiện và môi trường hợp tác hiệu quả giữa các quốc gia Trung Á với nhau và
giữa các quốc gia Trung Á với các nước lớn trong hàng loạt vấn đề, như chống khủng bố,
ly khai, trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại và an ninh.
Trong SCO, Nga và Trung Quốc hợp tác chia sẻ ảnh hưởng cùng nhau tạo sự gắn
kết về chính trị, an ninh, kinh tế, lôi kéo các nước Trung Á nhằm tạo thế đối trọng với Mỹ
và phương Tây. Hợp tác kinh tế và thương mại giữa các nước thành viên SCO đã phát triển
nhanh chóng kể từ khi thành lập. Cả Liên Hợp Quốc và Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) đều công nhận vai trò "hành lang vận tải" của các nước Trung Á khi tuyến đường
quốc lộ nối liền Trung Quốc với Tây Âu được xây dựng. Hiện nay, từng quốc gia đang độc
lập xây dựng phần đường nằm trên lãnh thổ của mình, còn SCO sẽ giải quyết vấn đề truyền
thông, tiến độ xây dựng, các vấn đề biên giới và loại hình vận chuyển hàng hóa. Lĩnh vực
hợp tác năng lượng được các nước Trung Á đặc biệt chú trọng và đẩy nhanh nhằm đưa
nguồn lợi tài nguyên phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Với Mỹ, nước này thực hiện chiến lược đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng và
khuyến khích các công ty dầu mỏ của mình tiến hành đầu tư và khai thác tại Trung Á nhằm
kiềm chế, ngăn chặn ảnh hưởng của Nga và Trung Quốc. Điều này đem lại những lợi ích
đáng kể cho các nước Trung Á. Nhánh đường ống "BacuTbilixiXâyhan" do Mỹ xây dựng
đi vào hoạt động từ tháng 6 năm 2006 đã giúp số khí đốt do Tumenixtan sản xuất không
cần phải đi qua Nga mà vẫn có thể vận chuyển bán cho phương Tây.
8Trường Sơn: Cuộc chiến năng lượng ở Trung Á ngày một khốc liệt, Tạp chí Tổ quốc điện tử, 17-5-2010
Tháng 2 năm 2008, Trung Quốc bắt đầu xây dựng hệ thống đường ống Tây - Đông
27
tại Trung Á (đi qua các nước Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan và
Uzbekistan). Đường ống này được đánh giá cao về ý nghĩa địa chính trị và chiến lược với
vai trò bảo đảm an ninh năng lượng cho Trung Quốc. Việc Trung Quốc xây dựng đường
ống Trung Á-Trung Quốc sẽ giúp phá vỡ thế độc quyền của Nga trong việc sở hữu các nguồn dầu khí, tăng lợi thế trong "mặc cả" cạnh tranh cho các nước Trung Á9.
Nhìn chung, sự gia tăng cạnh tranh ảnh hưởng của các nước lớn tại Trung Á đã tác
động thuận chiều đến quan hệ quốc tế trong khu vực, giúp các nước ở đây nâng cao vị thế
quốc tế, thúc đẩy sự hợp tác liên kết hội nhập khu vực và quốc tế, tạo đà cho các quốc gia
phát triển trong bối cảnh mới với lợi thế mới.
Về tác động nghịch: tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định chính trị, xung đột dân tộc,
sắc tộc, ảnh hưởng xấu đến quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực.
Thật vậy, sau khi "đứng chân" tạm yên ở Trung Á trong cuộc chiến chống khủng bố,
Mỹ đã tìm mọi cách để mở rộng ảnh hưởng tại khu vực này với mục tiêu bao vây, chia cắt
nước Nga, ngăn chặn Trung Quốc và "xuất khẩu", áp đặt nền dân chủ, tự do kiểu Mỹ đối
với tất cả các nước Trung Á. Cuộc "cách mạng hoa Tuy líp" nổ ra ở Kyrgyzstan (năm
2005) đã dựng lên chính quyền C. Bakyép thân Mỹ, nhưng cuộc "cách mạng sắc màu" này
cũng không lan rộng sang các quốc gia khác như nhiều người tiên đoán.
Cuộc nổi dậy của phe đối lập tại Kyrgyzstan (ngày 6/4/2010) lật đổ chính quyền của
Tổng thống C. Bakyép đẩy chính trường của quốc gia Trung Á này vào một diễn biến phức
tạp, gây ra xung đột sắc tộc, ảnh hưởng nghiêm trọng đến quan hệ với quốc gia láng giềng
Uzbekistan. Sự kiện này chính là hệ lụy mới từ việc tranh giành ảnh hưởng giữa các nước
lớn tại khu vực.
Việc Nga và Mỹ đều áp dụng biện pháp tương tự là nhằm "càu đồng" trong việc ứng
phó tình hình ở Kyrgyzstan gần đây cho thấy căn cứ không quân Manát chính là sự "tồn dị"
giữa hai nước, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến những kiểu tranh chấp tiềm ẩn tại khu vực.
9“Cạnh tranh giữa các Nước Lớn Tại Trung Á”,2/12/2010, http://http://www.tapchicongsan.org.vn
Trung Á vốn là nơi lý tưởng cho sinh sôi, phát triển, ẩn náu và bỏ trốn của các lực lượng
28
khủng bố quốc tế. Ngăn chặn có hiệu quả sự phát triển đó đòi hỏi sự hợp tác thực chất giữa
Mỹ và Nga cũng như các quốc gia Trung Á. Ngoài ra, mối quan hệ giữa các nước Trung Á
và Trung Quốc cũng sẽ bị ảnh hưởng sâu sắc, biên giới các nước Trung Á và Trung Quốc
sẽ biến thành một biên giới không an toàn.
Thứ hai, tạo ra “bãi lầy mới” níu chân các cường quốc ở khu vực.
Trung Á hiện nay đang nằm trong vòng cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ, Trung Quốc
và quan trọng nhất là Nga. Chỉ lấy riêng Kyrgyzstan làm ví dụ phân tích chúng ta đều thấy
cả Mỹ, Nga, Trung Quốc đều có lợi ích kinh tế, chính trị ở đây. Trước hết, Mỹ cần Chính
phủ lâm thời tiếp tục cho thuê căn cứ Manát phục vụ mặt trận chống khủng bố ở
Afghanistan. Tiếp theo, Trung Quốc cần bà Ôtunbaiiêva, Tổng thống tạm thời của
Kyrgyzstan khống chế nhóm Duy Ngô Nhĩ trong nước, không để rối loạn lan sang Tân
Cương. Còn Nga luôn ủng hộ Chính phủ lâm thời, cũng như bảo vệ khoảng 750.000 người
gốc Nga ở Kyrgyzstan khỏi cảnh hỗn loạn. Trong khi đó, Kyrgyzstan đang hội tụ khá nhiều
yếu tố để trở thành “Afghanistan thứ hai”, chẳng hạn: chính quyền yếu, không hiệu quả,
giới lãnh đạo chưa có tính pháp lý cao, các sắc tộc thường xuyên giao tranh, kinh tế suy
yếu... Do vậy, không cường quốc nào muốn can thiệp quá sâu vào tình hình ở đây, bởi có
khả năng Kyrgyzstan sẽ rơi vào nội chiến hoặc các cuộc xung đột xuyên quốc gia. Khi đó,
hậu quả sẽ rất lớn, có thể trở thành “bãi lầy”, níu chân các cường quốc vốn đang phải xử lý
rất nhiều khó khăn.
Tiểu kết chương 1
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy Mỹ và Trung Quốc có
những lợi ích địa – chính trị, an ninh, kinh tế quan trọng ở Trung Á. Tầm quan trọng của vị
trí chiến lược của Trung Á đối với Trung Quốc cũng dễ dàng nhận thấy rõ. Trung Á và
Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông, nhiều dân tộc thiểu số sống đan xen nhau trên khu
vực biên giới. Các hoạt động điên cuồng của 3 thế lực như chủ nghĩa tôn giáo cực đoan,
chủ nghĩa ly khai dân tộc, và chủ nghĩa khủng bố gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới sự ổn
định, phát triển của khu vực, đặc biệt là hoạt động cấu kết trong và ngoài của các phần tử
29
khủng bố Đông Thổ tạo thành mối đe dọa đối với an ninh biên giới và toàn vẹn lãnh thổ
Trung Quốc. Tình hình ổn định của khu vực Trung Á cũng có ý nghĩa vô cùng quan trọng
cho việc Trung Quốc thực hiện mục tiêu chiến lược khai thác khu vực phía Tây, đảm bảo
đa dạng hóa nguồn cung cấp năng lượng.
Bên cạnh đó, Mỹ được coi là một lực lượng bên ngoài mới có ảnh hưởng lớn tới
Trung Á. Với mục tiêu duy trì vị thế siêu cường số 1, Trung Á trở thành chìa khóa triển
khai tham vọng của Mỹ ở châu lục Á – Âu. Lợi ích của Mỹ ở Trung Á chủ yếu biểu hiện
trên phương diện chống khủng bố, địa – chính trị và nguồn tài nguyên dầu mỏ, do vậy
chính sách đối với Trung Á đã được chế định dựa trên những điều này. Mặc dù chính sách
của Mỹ đối với Trung Á đã dành được những hiệu quả tương đối như lợi dụng cuộc chiến
chống khủng bố thực hiện sự hiện diện quân sự, mở rộng ảnh hưởng ở khu vực này, chèn
ép hơn nữa không gian chiến lược của Nga, nhưng chính sách Trung Á của Mỹ cũng
thường gặp không ít trở ngại do tâm lý đề phòng của các quốc gia Trung Á.
Quan hệ Trung – Mỹ tại Trung Á là mối quan hệ đan xen lợi ích, vừa cạnh tranh,
vừa hợp tác và hình thành sự cân bằng lực lượng tại Trung Á. Với những điểm tương đồng
cơ bản về lợi ích, đặc biệt là lợi ích an ninh, Trung Quốc có sự liên kết với các nước khác
như Nga để làm chậm sự thâm nhập của Mỹ. Đối với Mỹ, Trung Á trở thành một mắc xích
quan trọng trong chiến lược toàn cầu của nước này, với tham vọng xây dựng Trung Á trở
thành một trật tự địa – chính trị dưới sự chủ đạo của Mỹ, kiềm chế Trung Quốc bành
trướng ảnh hưởng ở đây. Thứ tự lợi ích của Mỹ ở khu vực này được sắp xếp theo tầm quan
trọng đối với việc Mỹ bảo vệ và củng cố bá quyền toàn cầu: địa chính trị– năng lượng – an
ninh. Việc phân tích vị trí chiến lược của khu vực Trung Á đối với Trung Quốc và Mỹ chủ
yếu trên các phương diện chính trị, kinh tế, an ninh cho phép chúng ta lý giải được tại sao
trong khi đang “bận rộn” tìm kiếm lợi ích, ảnh hưởng tại các khu vực khác trên thế giới,
Mỹ và Trung Quốc vẫn không quên không cho phép mình “lơ là” công cuộc chinh phục
“đảo thế giới” Trung Á. Mỹ với chính sách “Đại Trung Á”, Trung Quốc thì chủ trương
“Tây tiến” đã khiến cuộc cạnh tranh trên “bàn cờ lớn” Trung Á thêm phần phức tạp và khó
dự đoán.
30
Chương 2: CẠNH TRANH ẢNH HƯỞNG MỸ- TRUNG TẠI TRUNG Á TỪ NĂM 2001 ĐẾN 2012
2.1. Tình hình quốc tế và khu vực
2.1.1. Tình hình quốc tế
Kinh tế
Trong báo cáo đánh giá nền kinh tế thế giới năm 2000, Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (OECD) cho rằng mặc dù giá dầu mỏ trên thế giới đã tăng 60% so với năm 1999
nhưng ảnh hưởng của việc giá dầu tăng cao không đáng kể so với cuộc khủng hoảng dầu
mỏ trong thập kỷ 70 và các thị trường tài chính khá yên ắng. Theo OECD, kinh tế thế giới
năm 2000 đạt tốc độ tăng trưởng là 4,1% cao hơn 0,6% so với mức 3,5% dự đoán hồi đầu
năm và lớn hơn 1,1% so với mức 3% của năm 1999. Uỷ ban kinh tế – xã hội của Liên hợp
quốc đưa ra đánh giá tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới là 4,3%. Các chuyên gia của
“Business Week” đánh giá là 4,5% cao hơn 1,5 % so với năm 1999. Còn quỹ tiền tệ quốc
tế (IMF) và ngân hàng thế giới (WB) đưa ra đánh giá lạc quan rằng tốc độ tăng trưởng của
kinh tế toàn cầu là 4,7% tăng 0,5% so với dự báo hồi tháng 4 năm 2000. Chỉ duy nhất tạp
chí EIU (the Economic Intelligentce Unit) đánh giá sự phát triển kinh tế thế giới chậm lại, chỉ là 2,8% thấp hơn 0,2% so với mức 3% năm 199910.
Tuy có nhiều đánh giá khác nhau về tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới song về cơ
bản phần lớn các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên toàn thế giới đều thống nhất nhận định
chung là năm 2000, kinh tế thế giới tăng trưởng nhanh và đạt mức tăng cao nhất trong hơn
một thập kỷ qua. Hoạt động thương mại, đầu tư được tăng cường mạnh mẽ đã giúp cho sự
phục hồi phát triển kinh tế ở phần lớn các quốc gia, khu vực trên thế giới đặc biệt là kinh tế
Mỹ, châu Âu và châu Á. IMF và WB cho rằng “kinh tế thế giới đạt được mức tăng trưởng
cao nhất trong hơn một thập kỷ qua là nhờ sự tăng trưởng mạnh của kinh tế Mỹ, châu Âu
10Bách khoa toàn thư: Kinh tế Thế Giới Wikipedia: https://vi.wikipedia.org
và sự tiếp tục phục hồi của các nền kinh tế Châu Á.
31
Theo đánh giá của IMF, WB và các cơ quan nghiên cứu kinh tế trên thế giới sự phục
hồi của nền kinh tế Nhật Bản, sự khởi sắc của kinh tế EU và tăng trưởng kỷ lục ở Mỹ góp
phần tạo ra sự tăng trưởng trên một phạm vi lớn của thế giới, làm cho bức tranh kinh tế thế
giới sáng hơn trong thập kỷ qua. Ngành hàng không chịu ảnh hưởng trực tiếp của tình hình
kinh tế này. Kinh tế phát triển tạo nên những nhu cầu lớn cho ngành hàng không. Không
chỉ lượng khách du lịch quốc tế tăng nhanh do thu nhập tăng mà cả lượng hàng hoá chuyên
chở bằng đường hàng không cũng tăng do kinh tế phát triển kéo theo sự gia tăng các hợp
đồng xuất nhập khẩu và cùng với nó là các hợp đồng chuyên chở. Ngày nay khi đời sống
được nâng cao cùng với sự phát triển của nền kinh tế toàn cầu thì người tiêu dùng không
chỉ đòi hỏi hàng hoá có chất lượng cao, giá rẻ mà còn đòi hỏi hàng hoá kịp thời, đúng mùa
vụ do đó hàng không có điều kiện để phát triển nghiệp vụ chuyên chở hàng hoá. Nếu vào
khoảng năm 1997 khi khủng hoảng kinh tế xảy ra ở châu Á khiến các công ty hàng không
đều lâm vào tình trạng lỗ vốn thậm chí nhiều Công ty đã phải tuyên bố phá sản thì trong
năm 2000 cùng với sự phục hồi kinh tế hàng không lại đạt tốc độ tăng trưởng cao. Điều đó
cho thấy ảnh hưởng rất lớn của sự phát triển kinh tế với sự phát triển của hàng không.
Theo những dự báo chính thức trong năm 2001 – 2002 tốc độ tăng trưởng của kinh
tế thế giới sẽ chậm lại đạt 4,2% so với mức 4,7% năm 2000. IMF lưu ý rằng các nguy cơ
vẫn đang tiềm ẩn trong nền kinh tế thế giới. Thứ nhất là sự mất cân bằng trong tài khoản
vãng lai của Mỹ, lên tới 400 tỷ USD. Thứ hai là tình hình bạo lực ngày càng gia tăng ở
Trung Đông làm cho giá dầu mỏ tăng dẫn đến các thị trường chứng khoán bị giảm sút khi
nỗi ám ảnh về tình trạng lạm phát mới trên toàn cầu khiến các nhà đầu tư lo ngại. Thứ ba là
vấn đề nợ của các nước nghèo, một đề tài có tính thời sự của nhiều hội nghị quốc tế. Thứ tư
là tác động của hiệu ứng nhà kính. Những nguy cơ này cũng khiến các hãng hàng không
phải xem xét lại hoạt động kinh doanh của mình cũng như dự tính đầu tư trong tương lai.
Tốc độ buôn bán tăng hơn hai lần. Hoạt động thương mại toàn cầu khởi sắc với tốc
độ tăng trưởng đạt 10% cao hơn 2 lần so với mức 4,3% năm 1999 và hơn 2,5 lần so với
mức 3,8% năm 1998. Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đánh giá “sản xuất quốc tế mở
rộng mạnh mẽ là do các liên kết kinh tế được tăng cường hơn bao giờ hết, từ Bắc Mỹ cho
32
đến Châu Âu, Châu Phi và Trung Á. Chính nhu cầu ở Bắc Mỹ và Châu Á đã giúp thương
mại hàng hoá thế giới tăng mạnh”.
Trong khi đó dòng vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới tăng lên mức kỷ lục do xu
hướng sáp nhập các công ty lớn nhất thành các công ty khổng lồ tiếp tục diễn ra mạnh mẽ.
Thị trường tài chính tiền tệ thế giới năm 2000 được đặc trưng bởi một loạt các sự kiện phản
ánh những nguy cơ gây bất ổn định và tính hay biến động vốn có của lĩnh vực này (giá dầu
mỏ leo thang, nguy cơ bùng nổ lạm phát ở nhiều nước, đồng Euro tụt dốc, đồng Yên dao
động thất thường, các cổ phiếu công nghệ cao giảm giá) cũng như những chính sách phản
ứng của các chính phủ trên thế giới nhằm duy trì sự ổn định và tăng trưởng bền vững của
nền kinh tế thế giới.
Giao lưu buôn bán đã vượt qua biên giới giữa các quốc gia. Ngày nay ngoại thương
đã trở thành một ngành không thể thiếu được không chỉ đối với các nước đang phát triển
mà ngay cả đối với những nước có nền kinh tế khổng lồ. Thương mại thế giới phát triển
nhộn nhịp tăng đều qua các năm và trở thành chỉ tiêu đánh giá tình hình phát triển của các
nước. Hầu hết các nước trên thế giới đều nỗ lực trong việc phát triển buôn bán với các
nước trong khu vực cũng như với các nước khác trên thế giới và việc tham gia tổ chức
thương mại thế giới trở thành mục tiêu của nhiều nước. Chính trào lưu này đã tạo ra các
nhu cầu lớn cho hàng không.
Chính trị - Xã hội
Biến cố kinh hoàng đầu tiên của thập niên này phải chờ đến 18 tháng sau, ngày
11/9/2001, mới đến, khi Al Qaeda tung siêu sát thủ đánh sập toà tháp đôi tại New York.
Cảnh tượng diễn ra ngay trước mắt hàng trăm triệu khán giả truyền hình khắp thế giới, làm
cho 2.974 người thiệt mạng. Một “cú đấm” vào siêu cường số một hành tinh đã dẫn đến hai
cuộc chiến tranh tại Iraq và Afghanistan, làm đảo lộn cuộc sống của người Tây phương.
Những nơi công cộng được giám sát nghiêm nhặt. An ninh hàng không được xiết chặt.
Cảnh sát và các cơ quan tình báo Tây phương tập trung mũi nhọn vào thế giới Hồi giáo, và
33
cả những công dân của mình theo đạo Hồi. Lãnh tụ Al Qaeda Oussama Ben Laden hạ
quyết tâm “huỷ diệt nền văn minh Tây phương”.
Năm 2002 virus SARS đe dọa tính mạng 6,8 triệu người Hong Kong với hội chứng
nghẹt thở, làm cho cả thế giới hốt hoảng. May thay, nó chỉ tấn công 8.000 người rồi “lui
quân”.
Hai năm sau đó, trận sóng thần đánh vào châu Á, làm cho 200.000 người thuộc mọi
quốc tịch, ở khắp các lục địa phải vong mạng. Dân địa phương, khách du lịch, kẻ tha
hương... cả thế giới được huy động để cứu người sống sót. Rồi đến năm sau, 2005 trận bão
Katrina, với “con mắt” đường kính 40km càn quét vùng New Orléans của nước Mỹ, bằng
những đợt sóng thần cao trên 10m và gió lốc 280 km/giờ. Một trận bão chưa từng thấy tại
Hoa Kỳ đã làm cho 1.836 người chết.
Hai năm kế tiếp, cuộc khủng hoảng tín dụng thứ cấp bùng nổ vào mùa hè 2007 cho
thấy thế giới tài chính đang đùa với lửa. Các ngân hàng trung ương vội vã bơm tiền vào để
đối phó nguy cơ sụp đổ toàn diện. Một năm sau, chấn động đã gây nên những hậu quả nặng
nề. Người ta còn nhớ hình ảnh nhân viên ngân hàng Lehman Brothers che mặt trốn đi.
Nhiều bà nội trợ phải gạt nước mắt lầm lũi ra khỏi căn nhà mua trả góp... Tại Pháp, nạn
thất nghiệp tăng vọt. Tầng lớp trung lưu điêu đứng do ngân hàng Société Générale bị thất
thoát 4,9 tỷ Euro chỉ do tay “nhân viên quèn” Jérôme Kerviel gây ra. Vào cuối năm 2007,
ông đã lén lút mang 50 tỉ euro đi đầu cơ. Trong lúc chính phủ Hoa Kỳ chi ra hàng tỉ USD
để cứu các ngân hàng thua lỗ, thì các ông chủ của họ lại tự thưởng cho nhau đến 18 tỷ. Một
nỗi ô nhục của chủ nghĩa tư bản.
Ngày 11/12/2008, FBI bắt ông vua lừa thế kỷ Bernard Madoff, kẻ đã từng tạo ra chỉ
số NASDAQ cho thị trường chứng khoán Mỹ. Ông ta làm biến mất 50 tỉ USD của khách
hàng bằng chiêu lừa Kim tự tháp của Charles Ponzi, dùng tiền người gởi sau trả lãi cho
người gởi trước. Kết quả, ngày 29/6/2009, Ông này bị tòa tuyên án 150 năm tù giam.
Với những hòn đảo nhân tạo và ngọn tháp cao 800 mét, Dubai tạo ra một ảo giác
khổng lồ trên sa mạc. Vương quốc không có dầu hoả nhưng chỉ có ước mơ vô hạn và khả
34
năng vay tiền tràn lan. Cuối cùng nợ nần quá nhiều, ngang bằng với tổng sản lượng trong
nước PIB, khiến cho lâu đài cát này sụp đổ.
Cùng lúc đó thế giới cũng gặt hái được những thành quả phi thường. Mạng Internet
bùng nổ. Từ con số 8,5 triệu người nối mạng vào năm 2000, thế giới đã tăng vọt lên 1,32 tỉ
người, chỉ trong năm 2008, chiếm 22% dân số. Người ta lên mạng để nghe nhạc, xem
phim, chụp ảnh, xem truyền hình, nghe điện thoại, kết bạn, nghiên cứu... Các siêu đại gia
Internet hầu hết xuất thân là những sinh viên trẻ tuổi mới tốt nghiệp, như Sergey Brin và
Larry Page tạo ra động cơ tìm kiếm trên mạng Google năm 1998. Năm 2008 trị giá của
Google là 210 tỉ USD. Hoặc Mark Zuckerberg, tốt nghiệp đại học Havard lập ra trang
mạng Facebook, trị giá hiện nay là 1,5 tỉ USD.
Một thế giới không có điện thoại di động là điều không thể tưởng tượng được trong
tương lai. Từ khoa học viễn tưởng, chiếc máy bé nhỏ này đã xâm nhập vào đời sống hàng
ngày. Cuối năm 2009, 79% dân Pháp trên 12 tuổi, tối thiểu cũng biết xài một điện thoại di
động.
Cuộc cách mạng di truyền trước tiên là một tiến bộ khủng khiếp của khoa học và y
học. Trong vòng mười năm, nó đã làm thay đổi bộ mặt nông nghiệp và lương thực với sản
phẩm chuyển hệ gien di truyền - OGM. Thay đổi công việc của cảnh sát bằng phiếu di
truyền và dấu vết AND. Giải quyết nhiều bí ẩn lịch sử, đơn giản hoá việc truy tìm thân
nhân và buộc các quốc gia phải xem lại các vấn đề đạo đức căn bản. Từ khi giải mã được
bộ gien di truyền của con người, tháng 6/2000, không có tháng nào mà các nhà khoa học
lại không tuyên bố tìm thấy hy vọng sống cho hàng triệu bệnh nhân ung thư, tiểu đường,
Parkinson, hay béo phì... Năm 2009, một trong hai loại thuốc là sản phẩm của kỹ thuật di
truyền.
Thật khó mở một tờ báo, hay nghe radio, xem truyền hình mà không nghe nói đến
sản phẩm sinh học, môi trường bền vững, hay động thái cứu nguy trái đất... Ngoài vấn đề
cơ bản là cách thức chống thay đổi khí hậu trái đất, ý thức môi trường của công chúng đã
xuất hiện. Hai biến cố dẫn đến một nguy cơ có vẻ còn xa vời: những trận bão lớn tàn phá
35
các nước và mùa hè nóng đến chết người tại Pháp năm 2003. Dù nguyên nhân thực sự còn
phải bàn cãi, nhưng đó cũng đủ lý do để tạo uy tín cho những bài diễn văn dài dòng nói về
môi trường.
2.1.2. Tình hình khu vực
Trung Quốc đã nhanh chóng phát triển và củng cố vị thế của mình tại Trung Á. Điều
này đang gây nên mối quan ngại không chỉ đối với Mỹ, phương Tây, đối với Nga mà đối
với chính các nước Trung Á. Còn nước Nga thì dường như chưa có một chính sách nhất
quán đối với Trung Á. Mỹ có một lập trường nước đôi liên quan đến cấu trúc an ninh khu
vực và đang ở vào tình trạng lực bất tòng tâm.
Trung Á là một trong các mục tiêu của chiến lược xoay trục của Mỹ sang châu Á,
nhưng là một bộ phận suy yếu của chiến lược đó. Lịch sử chính sách ngoại giao Mỹ từ khi
các nước Trung Á độc lập đến nay cho thấy ngay từ đầu Mỹ đã không có một kế hoạch
chiến lược Trung Á rõ ràng. Với tư cách là quốc gia có ảnh hưởng nhưng cách xa Trung Á,
không có biên giới chung với khu vực Trung Á, có thể nảy sinh ảnh hưởng quan trọng đối
với Trung Á, nhưng từ năm 2001 đến nay Mỹ không có chiến lược khu vực nhất quán. Mỹ
tiến vào khu vực Trung Á, ngay từ đầu đặt lợi ích của Mỹ vào phương diện an ninh chống
khủng bố và hợp tác năng lượng là chính.
Hiện nay, vấn đề an ninh Trung Á liên hệ chặt chẽ với ba tổ chức quốc tế, lần lượt là
Tổ chức hợp tác Thượng Hải (Trung Quốc, Nga và 5 nước Trung Á), Tổ chức hiệp ước an
ninh tập thể (CSTO) gồm Nga, Belarus, Armenia và 4 nước Trung Á - tháng 6 năm 2012
Uzbekistan rút khỏi tổ chức này, Tổ chức an ninh và hợp tác châu Âu (Mỹ, các nước châu
Âu, 5 nước Trung Á). Ba tổ chức này đều liên quan đến công việc giữ gìn an ninh khu vực
Trung Á. Nhưng ảnh hưởng của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải có tính quyết định đối với
tiến trình phát triển của Trung Á.
36
2.2. Trung Á trong chính sách của Mỹ và Trung Quốc
2.2.1. Trung Á trong chính sách của Mỹ
Mỹ đã đề xuất kế hoạch 'Con đường Tơ lụa mới' với tâm điểm là Afghanistan.
Washington muốn hợp nhất các nước ở Trung và Nam Á, các nước Caucasus, thậm chí cả
Mông Cổ và khu vực Tân Cương của Trung Quốc trong một chương trình có tên là "Kế
hoạch Đại Trung Á", vốn là một phần quan trọng trong chiến lược của Mỹ nhằm tái cân
bằng chiến lược sang khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Bản chất kế hoạch là Mỹ muốn
kiểm soát Afghanistan, song không có khả năng đầu tư tiền. Họ hy vọng nguồn lực sẽ được
các nước láng giềng của Afghanistan chia sẻ.
Mỹ lần lượt đưa ra "Chiến lược Đại Trung Đông" và "Chiến lược Đại Trung Á".
Đây là các kế hoạch chiến lược mà Mỹ soạn thảo nhằm vào khu vực văn hóa Hồi giáo từ
Tây Á đến Trung Á. "Kế hoạch Đại Trung Á" được đưa ra nhằm vào những hậu quả của
cuộc chiến Afghanistan, là tìm cách xây dựng kế hoạch chiến lược an ninh Trung Á dân
chủ, phồn vinh với Afghanistan làm trung tâm. Theo S. Frederik Starr của Viện nghiên cứu
Caucasus Trung Á của Mỹ, Mỹ sử dụng cụm từ Đại Trung Á là để tìm cách thoát khỏi khái
niệm địa lý chật hẹp về khu vực này do Liên Xô trước đây đưa ra. Từ năm 2000 đến nay,
Tân Cương, Afghanistan cùng với 5 nước thành viên của Liên Xô trước đây đã trở thành
một bộ phận không thể thiếu của khu vực văn hóa này, cụm từ "Đại Trung Á" đã chấp nhận
sự thực này, cũng thừa nhận phạm vi của Đại Trung Á có lẽ còn rộng rãi hơn nữa, đó là
khu vực này còn bao gồm cả tỉnh Razavi Khorasan của Iran, phía Bắc Pakistan, Mông Cổ,
Cộng hòa Tatarstan, thậm chí bao gồm cả phía Bắc Ấn Độ.
Kế hoạch "Đại Trung Á" của Mỹ lấy kinh tế làm trọng điểm, mục tiêu gần đây chủ
yếu là giúp đỡ các nước Trung Á hạ thấp hàng rào thương mại với nhau, thực hiện thỏa
thuận vận tải mở cửa biên giới, thực hiện hợp tác kinh tế và thương mại khu vực Đại Trung
Á, thúc đẩy đi sâu mối quan hệ kinh tế giữa 5 nước Trung Á với khu vực lân cận của 5
nước này, thúc đẩy điều chỉnh kinh tế của khu vực Trung Á với toàn cầu, thực hiện việc
Trung Á hòa nhập với các quy tắc, quy phạm và thông lệ của Trung Á với quốc tế, để thúc
37
đẩy nhất thể hóa kinh tế khu vực Đại Trung Á. Chính sách chống khủng bố của Mỹ được
mở rộng đến Uzbekistan - nước láng giềng phía Bắc của Afghanistan, đồng thời mở rộng
hơn nữa đến tất cả các nước Trung Á. Mỹ nhận thức được rằng chính sách an ninh chống
khủng bố của Mỹ ở Afghanistan cần có sự hợp tác và cùng tham gia tấn công tổ chức
Taliban và Al Qaeda ở Afghanistan của các nước Trung Á. Từ đó, dần dần hình thành cục
diện hợp tác liên minh chống khủng bố Đại Trung Á của Mỹ. Đây là sự điều chỉnh của
chiến lược chống khủng bố từ chủ nghĩa đơn phương sang chủ nghĩa đa phương.
Vì vậy, những năm gần đây, Mỹ lần lượt triển khai mối quan hệ trên các lĩnh vực
với các nước Trung Á, cải thiện quan hệ hợp tác về các mặt như kinh tế và thương mại,
giáo dục đại học, vấn đề môi trường, vấn đề phụ nữ và trẻ em, tấn công tội phạm ma túy,
thúc đẩy các nước Trung Á đẩy nhanh tiến trình mở cửa thị trường và dân chủ hóa.
Mỹ xây dựng mạng lưới giao thông phía Bắc với Afghanistan làm trung tâm, đề
xuất khôi phục địa vị của Afghanistan với tư cách là đầu mối giao thông then chốt nối liền
Trung Đông, Trung Á, Nam Á và châu Á, mục đích là tăng cường quan hệ hợp tác với các
nước Trung Á trên lĩnh vực quân sự, bảo đảm chắc chắn tuyến giao thông của quân đội Mỹ
tại Afghanistan, Uzbekistan là quốc gia then chốt của tuyến giao thông này khi đi qua
Trung Á. Ngày 4/9/2012, Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách khu vực Nam Á và Trung Á
Robert Blake nói rằng: "Mối quan hệ giữa Mỹ và Uzbekistan là vô cùng phức tạp, liên
quan đến lợi ích quan trọng của Mỹ. Chính phủ Uzbekistan ủng hộ vấn đề Afghanistan, đặc
biệt là sự ủng hộ trong vấn đề tuyến đường phía Bắc, là tuyến đường trung chuyển vật tư
quân sự ra vào Afghanistan quan trọng của Mỹ".
Tháng 10/2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton đã tiến hành chuyến thăm con
thoi tới 4 nước Trung Á gồm Pakistan, Afghanistan, Tajikistan và Uzbekistan, tìm cách
thúc đẩy kế hoạch "con đường tơ lụa mới" trong khi phối hợp lập trường với những nước
này về xu hướng cục diện chính trị cho tương lai của Afghanistan. Mỹ muốn ràng buộc hơn
nữa lợi ích an ninh của cuộc chiến chống khủng bố Afghanistan với các nước Trung Á.
38
Đây là một dự án tham vọng. Then chốt của dự án là ở Afghanistan, Afghanistan
vẫn giống như "cái nút trong bình" thường cản trở vận tải đường bộ, như đường quốc lộ,
đường sắt, đường ống dẫn dầu khí cũng như mạng lưới truyền tải điện lực, vẫn chưa phát
huy được vai trò đầu mối giao thông then chốt mang tính chiến lược.
Từ đầu năm 2012, Mỹ liên tục cử các quan chức cấp cao tới thăm các nước Trung
Á, Nam Á, vận dụng tổng hợp các biện pháp kinh tế, quân sự và chính trị, mở rộng ảnh
hưởng ở khu vực này. Các quan chức cấp cao Mỹ đặt kỳ vọng cao vào triển vọng của kế
hoạch "Con đường tơ lụa mới". Trợ lý Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề của khu vực
Nam Á và Trung Á Robert Blake cho biết: "Kế hoạch này có nền tảng lịch sử, mục đích
của nó là muốn thiết lập cơ chế trao đổi xuyên biên giới về hàng hóa, nhân viên và văn
hóa." Chính phủ Mỹ muốn dựa vào kế hoạch "Con đường tơ lụa mới" để thực hiện mục
tiêu địa-chính trị của mình, củng cố thành quả chiến đấu ở Afghanistan, vạch ra hướng đi
cho tình hình khu vực; dựa vào hợp tác kinh tế, đẩy mạnh mức độ thâm nhập khu vực
Trung Á. Mỹ muốn xây dựng con đường đáng tin cậy để giành được nguồn tài nguyên
khoáng sản của Trung Á và khu vực xung quanh, đảm bảo các nguồn tài nguyên chiến lược
của Trung Á chảy về thị trường thế giới một cách thuận lợi; củng cố sự hiện diện quân sự ở
Trung Á, xây dựng thành trì để thực thi can thiệp vào Iran, hình thành khả năng răn đe đối
với Trung Quốc và Nga, đồng thời đảm bảo Mỹ có khả năng phản ứng nhanh đối với các
hoạt động của các phần tử khủng bố ở khu vực này.
2.2.2. Trung Á trong chính sách của Trung Quốc
Trung Á cũng rất quan trọng đối với Trung Quốc về an ninh năng lượng. Năm 2004,
Trung Quốc vượt Nhật Bản thành nước đứng thứ 2 thế giới về tiêu thụ năng lượng, sau đó
năm 2010 Trung Quốc bỏ qua Mỹ và đứng đầu thế giới. Để đối phó với nhu cầu đang tăng,
Trung Quốc theo đuổi một chiến lược đầy mưu mẹo là phân phối các khoản vay mềm cho
các nước nghèo (mà việc quản lý cũng nghèo nàn) tại Trung Á và đổi lại họ được tiếp cận
các nguyên liệu thô. Năm 2009, Kazakhstan nhận được 10 tỷ USD từ Trung Quốc để thúc
đẩy kinh tế. Cùng lúc, việc xây dựng đường ống dẫn dầu Kazakhstan - Trung Quốc được
hoàn thành, về cơ bản gần 3.000 km đường ống sẽ vận chuyển 200.000 thùng dầu/ngày
39
nhưng năm tới con số này sẽ tăng lên gấp đôi. Với các nguồn tài nguyên cơ bản như dầu,
khí, than, sắt, kẽm, đồng, titan, nhôm, bạc và vàng, quan hệ với Kazakhstan đặc biệt quan
trọng với Trung Quốc. Bộ trưởng Bộ dầu khí Kazakhstan gần đây thông báo rằng có 15
công ty lớn của Trung Quốc đang hoạt động tại nước này, con số các công ty có cổ phần
nhỏ hơn của Trung Quốc còn cao hơn. Các công ty này hàng năm khai thác khoảng 80 triệu
tấn dầu và khoảng 25 triệu tấn chuyển về Trung Quốc. Lớn mạnh lên, Trung Quốc đang trở
thành đối thủ của Nga trong lĩnh vực năng lượng tại Trung Á, trong khi Nhật Bản và Ấn
Độ thì chạy chậm theo sau. Trung Quốc đã có cổ phần lớn hơn trong lĩnh vực năng lượng
so với Nga. Năm 2009, Trung Quốc nhập khẩu 18 triệu tấn dầu của Kazakhstan còn các
công ty Nga (dẫn đầu là LUKOIL) mới có được 6,4 triệu tấn.
Bức tranh tương tự cũng diễn ra ở đất nước giàu năng lượng Turkmenistan. Tại đây
Trung Quốc đang tìm kiếm sự độc quyền xuất khẩu khí đốt thiên nhiên của nước này. Theo các con số của phía Trung Quốc, đến năm 2020 họ sẽ cần đến 200 tỷ m3 khí hàng năm, trong khi sản xuất trong nước chỉ ở mức 120 tỷ m3. Bắc Kinh đã ký các hợp đồng mua 40 tỷ m3 của Turkmenistan hàng năm.Tháng 12/2009 nhánh đầu tiên của đường ống dẫn khí Turkmenistan - Uzbekistan - Kazakhstan có công suất 13 tỷ m3/năm đã bắt đầu vận hành. Nhánh thứ 2 sẽ hoàn thành trong năm nay và tổng công suất năm sẽ là 60 tỷ m3. Năm 2009,
Trung Quốc cung cấp cho Turkmenistan khoản vay 3 tỷ USD để phát triển mỏ khí Nam
Yolotan. Năm ngoái, Trung Quốc cũng thông qua khoản vay bổ sung 4 tỷ USD để hoàn
thiện giai đoạn đầu của dự án.
Bắc Kinh xem Kyrgyzstan là cơ sở chiến lược cho việc mở rộng thương mại khắp
Trung Á và khoảng không gian Xô Viết cũ. Còn Bishkek về phần mình, tìm kiếm sự tối đa
hóa lợi nhuận từ việc tái xuất khẩu hàng hóa Trung Quốc. Việc thương mại này đem lại
cho Kyrgyzstan khoảng 250 triệu USD hàng năm.
Nhưng có một điều làm cư dân Trung Á lo ngại nhất đó là số lượng đang tăng lên
của cộng đồng người Trung Quốc tại mỗi một quốc gia. Trung Quốc thường đem theo
người của họ, các công nhân đến làm tại các dự án tại Trung Á. Theo đánh giá chính xác
40
nhất thì hiện có hơn 300.000 người Trung Quốc sống tại Kazakhstan; khoảng 200.000 tại
Kyrgyzstan và 150.000 ở Uzbekistan, Turkmenistan và Tajikistan. Sự có mặt đang tăng lên
của người Trung Quốc tại các nước này thường tạo ra những căng thẳng với cư dân địa phương và gây ra sự nghi ngờ về dự định của Bắc Kinh11.
2.3. Cạnh tranh ảnh hưởng Mỹ-Trung tại Trung Á từ năm 2001-2012 trên các
lĩnh vực
2.3.1.Trên lĩnh vực chính trị
Đã có rất nhiều học giả nhận định rằng Trung Á đã và đang trở thành bàn cờ để các
cường quốc chơi trò địa – chính trị với nhau. Và rõ ràng, Trung Quốc và Mỹ là các “diễn
viên” chính ở khu vực này.
Sau sự kiện 11/9/2001, tình thế đã xoay chuyển khá nhanh chóng. Định vị chiến
lược của Mỹ ở khu vực Trung Á được nâng cấp nhanh chóng. Mỹ thực hiện chiến lược
thâm nhập toàn diện vào khu vực Trung Á bằng việc thực hiện đóng quân lâu dài, tăng
cường ảnh hưởng kinh tế, tiến hành “cải tạo dân chủ thời kỳ hậu Liên Xô”. Ảnh hưởng của
Mỹ ở khu vực này tăng lên nhanh chóng. Do thực lực Trung Quốc ngày càng được khẳng
định, nhu cầu “mở rộng cánh cửa phía Tây” ngày càng thôi thúc Trung Quốc tiến sâu vào
Trung Á trên các lĩnh vực. Và tất nhiên, khi các “ông lớn” cùng tranh giành lợi ích ở cùng
một “mảnh đất” thì va chạm, cạnh tranh xảy ra là điều tất yếu. Và mỗi cường quốc đã tìm
hướng đi riêng của mình, hoặc “độc lập” tác chiến, hoặc “phối hợp” với “đối thủ” để cùng
“bật” lại đối thủ kia.
Về chính trị, Mỹ cố gắng xây dựng một ảnh hưởng lâu dài trong đó tập trung vào
kế hoạch Đại Trung Á.
Chính quyền Mỹ đang tìm cách tranh giành ảnh hưởng trong khu vực với Trung
Quốc và các nước khác. Washington đã thúc đẩy chiến lược quan hệ song phương với từng
11 Thời Ân Hồng (2004), Chiến lược đối ngoại lâu dài của Trung Quốc, Các vấn đề quốc tế(tài liệu tham khảo đặc biệt),tr.34-42
nước riêng biệt để tăng cường ảnh hưởng và trước mắt giành được sự ủng hộ của các nước
41
đối với cuộc chiến khủng bố của Mỹ ở Afghanistan. Về cơ bản, chính sách của Mỹ đối với
Trung Á sau sự kiện 11/9 tập trung vào những điểm quan trọng có mối quan hệ qua lại chặt
chẽ với nhau: thúc đẩy an ninh, cải cách trong nước và phát triển nguồn năng lượng.
Mỹ đã triển khai nhiều biện pháp để nâng cao vị thế ở Trung Á, kiềm chế vai trò và
vị trí của Trung Quốc tại khu vực này. Những hoạt động đối ngoại của Mỹ ở Trung Á trong
những năm gần đây cho thấy Mỹ đang tích cực xác lập ảnh hưởng, vai trò ở khu vực này cả
kinh tế, thương mại, chính trị - ngoại giao lẫn quân sự - an ninh. Rất nhiều hoạt động của
Mỹ ở Trung Á như diễn tập quân sự chung, viện trợ các phe đối lập, cho lực lượng đi theo
chủ nghĩa dân tộc cực đoan, dự án dẫn đầu từ Caspi… đã từng gây nên những phản ứng
gay gắt từ những nước khác.
Bên cạnh đó, Mỹ đã mua lại hoặc đầu tư những cơ quan báo chí, truyền thông đại
chúng, đẩy mạnh hoạt động của các tổ chức phi chính phủ ở các nước Trung Á để tiến hành
tuyên truyền về nền dân chủ Phương Tây, tuyên truyền giá trị và tư tưởng dân chủ phương
Tây đối với dân chúng, nhất là tầng lớp thanh niên, từ đó để các phe đối lập giành chính
quyền. Có thể nói rằng “các tổ chức báo chí, đoàn thể quần chúng phi chính phủ ở Trung Á
đã trở thành công cụ đắc lực và là người đi đầu trong cuộc “cải cách dân chủ” ở các nước khu vực này để lập ra chính quyền mới thân Mỹ12”.
Các tổ chức phi chính phủ (NGO) cũng là một công cụ quan trọng được Mỹ sử dụng
để gây ảnh hưởng tại Trung Á. Ngay khi các nước Trung Á vừa độc lập, các tổ chức phi
chính phủ tiến vào khu vực này để tiến hành thúc đẩy các hoạt động dân chủ và có những
ảnh hưởng khá lớn tới tình hình xã hội các nước Trung Á, trong đó có khá nhiều tổ chức
được sự ủng hộ của Chính phủ Mỹ và các tổ chức này lại thúc đẩy mục tiêu chính sách
Trung Á, đặc biệt là thúc đẩy tiến trình dân chủ cho lợi cho Chính phủ Mỹ. Ví dụ như Cơ
quan phát triển quốc tế Mỹ thuộc Bộ ngoại giao Mỹ xây dựng các “Trung tâm tài nguyên”
và “Tổ chức giúp đỡ kịp thời” ở mỗi nước Trung Á nhằm giúp đỡ các tổ chức phi chính
12 Thông tấn xã Việt Nam (4/7/2005), Trung Quốc với các nước Trung Á đang biến đổi, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 11-15
phủ quốc tế khu vực hoặc khu vực triển khai hoạt động.
42
Ngoài việc khai thác, mở rộng và lợi dụng mâu thuẩn chính trị trong nội bộ các
nước được Mỹ xem là mục tiêu ở Trung Á, các NGO của Mỹ còn một số “trò diễn” quen
thuộc như: Giúp đỡ một cách có trọng điểm các cơ quan báo chí độc lập ở nước sở tại, hoạt
động trong các ngành y tế, văn hóa, giáo dục và nữ quyền là các lĩnh vực đột phá để nhanh
chóng gây ảnh hưởng, lợi dụng những mâu thuẫn trong bầu cử, các thành phần thoái hóa,
bất mãn trong chính quyền hiện tại và các phần tử tội phạm trong các ngành sức mạnh làm
mũi nhọn để công kích, kích động tình cảm thù địch của quần chúng đối với chính phủ để
họ vùng lên phản đối… Thông qua các phương thức đào tạo, tư vấn và viện trợ trực tiếp để
bồi dưỡng tình cảm thân phương Tây trong các lực lượng quần chúng cơ sở và đội ngũ trí
thức. Để “thúc đẩy dân chủ toàn cầu”, Chính phủ Mỹ hàng năm dự chi ngân sách đến một
tỉ USD, trong đó khoản cấp cho phe đối lập ở các nước được coi là mục tiêu thông qua NGO chiếm tỷ lệ rất lớn13.
Có thể nói chính các tổ chức NGO đã ít nhiều làm biến đổi bộ mặt chính trị của lục
địa Âu – Á. Chỉ tính riêng trong tháng 3 tháng 2005 trong giai đoạn trước và sau cách
mạng màu ở Kyrgyzstan đã có hơn 50 tổ chức NGO của Mỹ nhảy vào can dự. Với hệ
thống liên lạc phức tạp và rộng khắp giữa các tổ chức NGO cũng đã đủ sức truyền bá thành
một “mặt bằng dân chủ” Mỹ trên thế giới. Hơn nữa, các tổ chức NGO lại có tính độc lập,
tính xã hội và phi lợi nhuận, được Chính phủ Mỹ tài trợ nên vừa là người phát ngôn cho
Chính phủ Mỹ, vừa tránh cho Chính phủ Mỹ khỏi lộ diện, không dẫn đến phản cảm và
nhiều tình huống khó xử khác. Những thủ đoạn mà Mỹ quen dùng như cung cấp viện trợ
cho phái đối lập, tăng cường tuyên truyền ý thức hệ, lợi dụng các tổ chức phi chính phủ
làm đội quân tiên phong chính trị trên đường phố vẫn sẽ được Mỹ tiếp tục vận động.
Một trong những chính sách có ý nghĩa chiến lược của Mỹ ở Trung Á là “kế hoạch
Đại Trung Á” được đưa ra vào năm 2005. Kế hoạch này được đưa ra trong bối cảnh Hội
nghị thượng đỉnh của SCO diễn ra ở Astana tháng 6 năm 2005 đưa ra thời gian biểu yêu
cầu Mỹ rút quân khỏi Trung Á. Khi đó, SCO đồng ý tiếp nhận Iran, Pakistan, Ấn Độ làm
quan sát viên, nhưng lại từ chối đơn của Mỹ xin tham gia Hội nghị thượng đỉnh SCO với tư 13 Thông tấn xã Việt Nam (22/08/2005) các tổ chức phi chính phủ Mỹ đứng sau các cuộc “Cách mạng màu sắc” ở Trung Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 11-16
43
cách quan sát viên. Thêm vào đó, sự thất bại của chính sách khu vực của Mỹ (chủ yếu là
chỉ Trung Á) đã buộc Mỹ phải chế định ra chính sách mới. Kế hoạch này về chính trị nhằm
tách Trung Á ra khỏi khối SNG, làm tan rã SCO, làm suy yếu ảnh hưởng của Trung Quốc,
chuyển biến cải cách chính trị ở Trung Á từ phương thức cấp tiến sang phương thức tiệm
tiến, xây dựng trật tự địa – chính trị dưới sự chủ đạo của Mỹ. Kế hoạch Đại Trung Á được
xem là “kế hoạch chiến lược mà Mỹ thực hiện ở khu vực nhằm vào Trung Quốc”, là một thủ đoạn nhằm thực hiện “dân chủ toàn cầu” của Mỹ14. Ngoài ra, kế hoạch này cũng nhằm
phân hóa các nước trong SCO, nhấn mạnh dùng thủ đoạn kinh tế để phục vụ cho mục đích
chính trị.
Trong khi đó, với những ưu thế về mặt địa lý và lịch sử, Trung Quốc nỗ lực xác
lập vị thế nước lớn của mình ở khu vực Trung Á.
Các nhà quan sát của Trung Quốc cho rằng khu vực Trung Á là nơi để Trung Quốc
“ xác lập hình tượng nước lớn, nâng cao vị thế quốc tế của mình, tạo ra cho Trung Quốc vũ đài chính trị cần thiết, cần nắm chắt cơ hội này15”.
Sau khi Liên Xô xụp đổ năm 1991, Trung Á được tự do quyết định vận mệnh của
mình. Trung Quốc đã tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi này “đẩy mạnh khai thác địa bàn Trung Á, khôi phục lại con đường tơ lụa mới, tiến sang hướng Tây16”. Nhưng để cạnh
tranh ảnh hưởng trực tiếp tại khu vực Trung Á với siêu cường là Mỹ và cường quốc có ảnh
hưởng truyền thống là Nga sẽ là thách thức quá lớn đối với Trung Quốc.
Hơn nữa, qua sự bùng phát “cuộc cách mạng màu sắc” mang tính dây chuyền tại
khu vực Trung Á gần đây, cũng có thể dự báo rằng trận quyết đấu chiến lược giữa các
nước lớn tại khu vực này trong tương lai sẽ ngày càng quyết liệt. Venera Galyamova, một
nhà nghiên cứu ở Viện nghiên cứu chiến lược Kazakhstan Institute cho rằng Trung Á đang
trở thành “chiến trường giữa một bên là Mỹ và bên kia là Nga và Trung Quốc”. Đối với
14 Thông tấn xã Việt Nam (16/3/2007), “về kế hoạch đại Trung Á của Mỹ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 49 15 Thông tấn xã Việt Nam (13/09/2003), “Trung Quốc ở Trung Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 6-9 16 Đỗ Minh Cao (2005), “Trung Quốc và ảnh hưởng Trung Quốc ở Trung Á”, Nghiên cứu Trung Quốc, Số 3 (61), trang 51-57
Trung Quốc, ảnh hưởng ở khu vực cũng có nghĩa là khẳng định họ cũng chính là một
44
cường quốc toàn cầu cạnh tranh với Mỹ”. Trung Á hiện đang trở thành một địa bàn của
khối Trung – Nga chính thức thách thức Mỹ. Trung Quốc, Nga và các nước Trung Á khác
trong Tổ chức hợp tác Thượng Hải (SCO) đang tìm cách đẩy Mỹ khỏi khu vực này, làm
thay đổi cán cân quyền lực và tăng cường sức mạnh của liên minh Trung – Nga trong cuộc chiến tranh giành ảnh hưởng ở Trung Á17.
Có thể thấy, Trung Quốc đang tìm mọi cách gạt Mỹ ra khỏi khu vực Trung Á. Tuy
vậy, người Mỹ không dễ dàng từ bỏ ảnh hưởng của họ trong khu vực, và do vậy “Bàn cờ
lớn” lại tiếp tục diễn ra. Tuy nhiên, ở một số khía cạnh khác, chính các nước ở Trung Á
mới là những người kiểm soát ván bài này, và các nước này sẽ ngã theo những ai hậu thuẫn
cho họ nhiều nhất … Bắc Kinh, Washington một lần nữa lại sử dụng khu vực Trung Á, địa
điểm diễn ra “Bàn cờ lớn”.
Trong ván cờ hiện nay, Washington tìm cách tiếp cận từng quốc gia trên cơ sở song
phương, đưa ra những khuyến khích đối với những nước nào ủng hộ hoạt động của Mỹ ở
Afghanistan, đồng thời tìm cách phá vỡ những thỏa thuận của SCO mang chiều hướng
chống Mỹ. Trong khi đó, Trung Quốc và Nga đang hành động phối hợp với nhau để lôi kéo
sự ủng hộ đối với các chính sách của SCO bằng việc bày tỏ sự ủng hộ đối với các chế độ
hiện nay và ngấm ngầm kêu gọi sự chú ý đối với những nổ lực cầm đầu trong việc phá hoại
các chính phủ trong khu vực. Các quốc gia, là nơi diễn ra ván cờ lớn, sẽ tiếp tục thay đổi sự
ủng hộ của họ từ chỗ dành cho Trung Quốc sang chỗ dành cho Mỹ, và ngược lại, chừng
nào họ vẫn tiếp tục nắm được quyền lực. Cũng bởi những mối quan hệ song phương, đa
phương phức tạp như trên nên nhiều chuyên gia dự đoán rằng cuộc đua của các cường quốc ở Trung Á “sẽ chưa thể dịu bớt trong thời gian trước mắt”18
Rõ ràng, điều mà Washington mong muốn nhất là tạo ra một tổ chức Trung Á không
có Trung Quốc. Một tổ chức như vậy sẽ là một nhóm chính trị và kinh tế có thể được lựa
chọn SCO và Cộng đồng Kinh tế Âu – Á (EEC). Ngoài ra tổ chức này cũng có thể bao gồm
17 Bảo Chung (2007), “Trung Á biết đi đường nào”, Báo Thế giới tại Việt Nam, trang 5 18 Thông tấn xã Việt Nam (15/08/2005), Trung Á và chính sách ngoại giao “Bàn cờ lớn”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 4-9.
Afghanistan, một trong những thách thức đối với Washington. Một tổ chức như vậy có thể
45
bao gồm Afghanistan, Kygryzstan và Kazakhstan. Tuy nhiên, triển vọng về khả năng thành
lập tổ chức này vẫn rất mờ mịt nên Washington sẽ tiếp tục hợp tác với từng nước trong khu
vực trên cơ sở song phương. Chiến lược đó là nhằm để làm suy yếu SCO và EEC thông
qua việc buộc từng nước phải điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với yêu cầu của Mỹ19.
2.3.2. Trên lĩnh vực Quân sự
Mỹ và Trung Quốc có cùng chung lợi ích là duy trì sự ổn định và tăng cường cuộc
chiến chống khủng bố ở Trung Á. Nhưng “cuộc chạy đua giành ảnh hưởng quân sự đã đẩy
Mỹ và Trung Quốc vào cuộc chạy đua ăn miếng trả miếng xung quanh việc thiết lập các
căn cứ quân sự ở Trung Á và liên tục tổ chức các cuộc tập trận chung với các nước Trung
Á. Mỹ xem các căn cứ quân sự ở khu vực Trung Á quan trọng và tìm cách chống lại sự ảnh hưởng của Trung Quốc”20.
Đối với Mỹ, việc duy trì các căn cứ quân sự của Mỹ ở Trung Á là một mục tiêu
quan trọng về chiến lược. Cuối năm 2001, các đơn vị quân đội Mỹ đã có mặt ngay giữa
trung tâm Châu Á. Việc có được các căn cứ quân sự đóng tại các nước Cộng hòa Trung Á
đã mở ra cho người Mỹ một đài quan sát mới hướng vào Trung Quốc, Nga, Afghanistan…
Hoa Kỳ đã lợi dụng thời điểm tiện lợi là cuộc chiến tranh chống khủng bố để dàn lực lượng
quân sự và các phương tiện kỹ thuật của mình trên lãnh thổ một nước lớn nhất (xét về số
dân) của khu vực Trung Á, đó là Uzbekistan và hai nước láng giềng là Afghanistan và
Kyrgyzstan. Mỹ bí mật ký với chính phủ Uzbekistan Hiệp định sử dụng sân bay Hanakek
để mở rộng sân bay cho máy bay Mỹ lên xuống khu vực này.
Vị trí chủ đạo trong tập đoàn quân Mỹ ở Trung Á hiện nay thuộc về căn cứ quân sự
Manas tại Kyrgyzstan, nơi hơn 3000 lính và phương tiện kỹ thuật quân sự đã được triển
khai. Phần lớn trang thiết bị kỹ thuật hàng không, dẫn đường, trinh sát và tìm kiếm cứu hộ
19 Thông tấn xã Việt Nam (25/10/2005), Mỹ và Nga tiếp tục giành ảnh hưởng ở Trung Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 8-15 20 Sarah Shenker (2005), “Struggle for influence in Central Asia”, BBC, xem tại http://news.bbc.co.uk/go/pr/fr/- /1/hi/world/asia-pacific/4467736.stm
đã được di chuyển đến đây. Về mặt tác chiến, chiến lược, việc sử dụng các căn cứ cho phép
46
kiểm soát không chỉ toàn bộ khu vực Trung Á, mà cả bầu trời phía trên Afghanistan cho
đến tận biên giới Ấn Độ - Pakistan. Trong tầm bắn của các máy bay tiêm kích của Mỹ cũng
bao gồm các khu vực phía Tây Trung Quốc và các thành phố lớn của Kazakhstan.
Có thể thấy, việc Mỹ đóng quân ở Trung Á chắc chắn không chỉ là nhu cầu đơn
thuần chống khủng bố. Năm 2002, Cựu Ngoại trưởng Mỹ Kissinger đã từng chỉ rõ “vấn đề
của cuộc chiến chống khủng bố chắc chắn không chỉ là bám sát tấn công các phần tử khủng
bố, vấn đề quan trọng nhất là tuyệt đối không để mất cơ hội quá tốt để điều chỉnh lại hệ
thống thế giới”.
Trong lịch sử, Trung Á luôn là phạm vi ảnh hưởng của Nga (trước đây là Liên Xô),
Mỹ chưa từng có cơ hội đi sâu vào nội địa gây ảnh hưởng tới khu vực này. Sau sự kiện 11
tháng 9, mặc dù Mỹ đã tự định nghĩa mình là “người mới đến”, nhưng ý đồ của người mới
đến lại quá rõ ràng, nghĩa là một mặc cung cấp chi viện cho các hành động quân sự ở
Afghanistan và khu vực Trung Đông, mặc khác muốn thâm nhập để ngăn chặn Trung
Quốc. Thứ hai, mặc dù chính quyền Bush nói rằng Mỹ đóng quân ở Trung Á xuất phát từ
nhu cầu chống khủng bố, nhưng từ tình hình hiện nay cho thấy, chưa biết tới khi nào cuộc
chiến này mới có thể chấm dứt, đây chính là cái cớ để Mỹ đóng quân ở Trung Á vô thời
hạn. Sau khi Tổ chức hợp tác Thượng Hải đưa ra “Tuyên ngôn của các nguyên thủ” sau
Hội nghị thượng đỉnh hồi tháng 7 năm 2005 yêu cầu liên minh chống khủng bố quốc tế rút
quân khỏi Trung Á, Chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, Richard nói rằng
đây là kết quả của hai nước lớn Trung Quốc và Nga ép buộc các nước nhỏ khác, đồng thời
nhắc lại tầm quan trọng của căn cứ Trung Á đối với cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ.
Sau đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Rumsfeld đã tới thăm Kyrgyzstan, yêu cầu nước này
đảm bảo sẽ không để quân Mỹ rút lui. Mỹ cũng chuẩn bị để sau khi phải rút ra khỏi căn cứ
Uzbekistan, sẽ tiếp tục thiết lập căn cứ quân sự ở các nước khác ở Trung Á. Điều này cho
thấy rõ sau khi Mỹ giành được cơ hội thực hiện đóng quân ở Trung Á với vô vàn khó khăn,
tuyệt đối sẽ không dễ dàng rút quân khỏi khu vực này.
Việc Mỹ đóng quân ở Trung Á có thể nói là hành động “bắn một tên trúng hai
đích”, tức là vừa đáp ứng được yêu cầu thực tế là lật đổ chính quyền Taliban, đồng thời
47
cũng phù hợp với mục tiêu chiến lược lâu dài của nước này tiến quân vào Trung Á. Và các
quan chức Mỹ cũng không hề dấu giếm tham vọng đóng quân lâu dài ở Trung Á. Cuối năm
2001, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Donald Rumsfeld đã tuyên bố: “Khi cuộc xung đột
Afghanistan kết thúc, chúng ta sẽ không rút khỏi Trung Á. Chúng ta muốn duy trì sự ủng
hộ đối với các nước Trung Á trong khi họ đang cố gắng cải cách nền kinh tế và xã hội
giống như họ đã ủng hộ chúng ta trong cuộc chiến chống khủng bố. Đây là những mối quan hệ lâu dài”21. Đầu năm 2006, ngoại trưởng C.Rice cũng khẳng định các căn cứ của
Mỹ tại Trung Á là “các điểm tựa của lực lượng liên quân”, đang giữ vai trò hàng đầu trong
việc giải quyết các vấn đề như hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai, giúp đỡ y tế và nhân đạo.
Mới đây, các quan chức Mỹ vẫn có những tuyên bố mơ hồ về thời điểm rút quân ở Trung
Á và thậm chí tuyên bố rằng họ không có ý định rút đi, bởi họ cần mở rộng sự giúp đỡ
thường xuyên các thể chế dân chủ, các tổ chức phi chính phủ và các phương tiện thông tin
đại chúng địa phương.
“Báo cáo chiến lược an ninh quốc gia Mỹ” năm 2002 trong khi đề cập đến “sự
chuyển đổi mô hình” của 3 nước lớn – Trung Quốc, Ấn Độ, Nga cũng đã đặc biệt nói tới
một số “nhận thức chung toàn cầu” đang dần dần hình thành. Sau khi báo cáo này chỉ ra
khá nhiều lợi ích chung giữa Mỹ với Trung Quốc, cũng phê phán hai nước này chưa chấp
nhận khái niệm cơ bản của “tự do” và dân chủ”, cho rằng đây sẽ là trở ngại cơ bản cản trở
các nước lớn hợp tác hơn nữa. Có thể nhận thấy, chính quyền Bush một mặt ý thức rõ tầm
quan trọng của hợp tác nước lớn dưới bối cảnh chống khủng bố, mặt khác vẫn liên tục gây
sức ép với Trung Quốc, sẽ kết hợp việc thúc đẩy dân chủ của Mỹ với triển khai hợp tác
nước lớn. Chính quyền Bush còn đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của nước lớn dân chủ
Ấn Độ, ra sức nâng cao tầm quan trọng của mối quan hệ song phương Mỹ - Ấn là cũng có
ý đồ kiềm chế Trung Quốc và Nga.
Về chính sách Trung Á của Mỹ, chính quyền Bush một mặt thể hiện không muốn
khiêu khích lợi ích cốt lõi của Trung Quốc; Mặt khác Mỹ tích cực truyền bá “dân chủ” và
21 US Department of State, Rumsfeld disscuses military response to terrorist attacks, Washington.
đóng quân ở Trung Á nhằm mưu đồ kiểm soát toàn khu vực Trung Á, tác động tới không
48
gian chiến lược và tình hình an ninh của Trung Quốc. Mặc dù chính quyền Bush coi chủ
nghĩa khủng bố là mối đe dọa hàng đầu hiện nay, nhưng từ lợi ích chiến lược lâu dài cho
thấy, Mỹ sẽ không từ bỏ sự phòng ngừa và kiềm chế đối với Trung Quốc. Điều này ắt sẽ
gây ảnh hưởng tiêu cực đối với quan hệ giữa Mỹ với Trung Quốc, gây bất lợi cho Mỹ thực
hiện mục tiêu chống khủng bố ở Trung Á”.
Vào thời điểm Mỹ đưa quân vào Trung Á, xuất phát từ yêu cầu chống khủng bố của
khu vực và mong muốn cùng với Mỹ triển khai hợp tác chiến lược trên phạm vi toàn cầu,
Trung Quốc đã không có những phản ứng rõ rệt.
Trong khi đó, Trung Quốc lại mong muốn tìm kiếm các cơ chế hợp tác song và đa
phương đối với các quốc gia vùng Trung Á, nhằm dần dần xây dựng ảnh hưởng của mình
ở khu vực này. Trung Quốc cũng không thể chấp nhận sự hiện diện quân sự trong thời gian
dài của Mỹ ở Trung Á. Việc xuất hiện những ảnh hưởng to lớn đặc biệt về quân sự của Mỹ
tại Trung Á đã tạo lập một vành đai quân sự xung quanh Trung Quốc hòng kiềm chế nước
này thông qua việc đóng quân quanh Trung Quốc ở phía Đông Bắc (bán đảo Triều Tiên),
phía Đông Nam (Philippines, Singapore và cam kết quân sự tại Đài Loan), phía Tây
(Afghanistan), các nước Trung Á. Bởi thế, thực tế toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc đã bị Mỹ “bao vây”22.
Vì vậy, vòng cung chiến lược Châu Á- Thái Bình Dương bao vây và ngăn chặn
Trung Quốc đã có cơ sở hình thành sau ngày 11/9/2001. “Mỹ đã hoàn thành nước cờ bao vây Trung Quốc ở các khu vực Trung Á, Nam Á và Trung Đông”23. Trước sự kiện 11/9,
hình thái cơ bản của môi trường chiến lược địa-chính trị xung quanh Trung Quốc “phía Đông căng thẳng, phía Tây ổn định” 24 . Sau sự kiện 11/9, nhất là sau chiến tranh
Afghanisatan, môi trường địa chính trị xung quanh Trung Quốc đã thay đổi rõ rệt, tính chất bất ổn cả phía Đông và phía Tây đều tăng lên25. Việc Liên Xô cải thiện quan hệ với Mỹ
22 Thông tấn xã Việt Nam (21/02/2004), “Liên minh chiến lược Mỹ-Nga là có thể”, Tài liệu tham khảo đặc biệt. 23 Phan Anh (11/2001), “Trung Á trong chiến lược toàn cầu của Mỹ”, Tạp chí kiến thức quốc phòng hiện đại, trang 6- 10 24 Hồ châu (2001), “Chiến lược đối ngoại của Nga thời kỳ Tổng thống Putin, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, (3) 25 Thông tấn xã Việt Nam (21/2/2004), “Liên minh chiến lược Mỹ-Nga là có thể”, Tài liệu tham khảo đặc biệt
cũng đặt ra những thách thức về cân bằng chiến lược có liên quan đối với Trung Quốc.
49
Có thể thấy khi quan hệ giữa Trung Quốc và Mỹ bình thường, mối đe dọa của Mỹ
đối với Trung Quốc mang tính chất ngầm nhưng khi quan hệ Mỹ-Trung xuất hiện khủng
hoảng nghiêm trọng, sẽ hình thành kiềm chế chiến lược đối với Trung Quốc, khiến Trung
Quốc rơi vào tình thế trước mặt, sau lưng đều có địch. Đối với Trung Quốc, khu vực Trung
Á là khu vực tiềm năng, là trọng điểm của tư duy chiến lược Tây tiến của ban lãnh đạo
Trung Quốc nên Trung Quốc khó có thể chấp nhận sự có mặt lâu dài của Mỹ ở đây. Thực
tế Trung Quốc chỉ chấp nhận sự có mặt của quân đội Mỹ ở Trung Á một cách miễn cưỡng.
Trung Quốc cho rằng các căn cứ quân sự lâu dài của Mỹ trong khu vực nhằm hạn chế ảnh
hưởng của Trung Quốc. Ngay sau khi Liên Xô tan rã, thông qua viện trợ tài chính,
Washington lôi kéo các nước Trung Á tham gia nhiều cuộc diễn tập quân sự chung với
quân đội Mỹ và bao vây địa-chính trị chiến lược của Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc
đang thực hiện chính sách hợp tác quân sự với Nga nhằm chống lại lợi ích và mối đe doạ
quân sự của Mỹ ở Trung Á.
Ngày 2/7/2005, chủ tịch Hồ Cẩm Đào và tổng thống Nga Putin ký tuyên bố chung
về trật tự quốc tế của thế kỷ XXI. Thông qua tuyên bố chung, hai nước muốn chuyển một
bức thông điệp rõ ràng đến các nước thành viên khác của SCO rằng Mỹ là nước làm nên
mối đe doạ tiềm tàng đối với chủ quyền của Trung Á và khẳng định Trung Quốc và Nga có
thể cung cấp các kế hoạch bảo đảm an ninh cũng như kinh tế tương tự như Mỹ nhằm mục
đích duy nhất là bảo vệ nguyên trạng hiện nay chứ không khuyến khích các nền kinh tế
theo hướng thị trường hoặc cải cách dân chủ. Như vây, trong bối cảnh địa-chính trị và địa-
chiến lược đang thay đổi nhanh chóng trong khu vực và thế giới, Trung Quốc đã và đang
bắt đầu triển khai nhiều biện pháp quan trọng để chống lại ảnh hưởng quân sự và liên quan
kinh tế-xã hội ngày càng tăng của Mỹ, đồng thời nâng cao vai trò vị thế của Bắc Kinh ở
Trung Á nói riêng và Châu Á nói chung. Hoạt động của Bắc Kinh đang diễn ra âm thầm,
lặng lẽ, dần dần và liên tục hàng thập kỷ qua, do đó sự có mặt của Trung Quốc tại Trung Á
26 Thông tấn xã Việt Nam (6/9/2005), cục diện chính trị Trung Á đang thay đổi, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 1-6
phát triển tới mức chưa từng thấy từ giai đoạn đỉnh cao của con đường Tơ Lụa cách đây hơn 800 năm26.
50
Có thể thấy sự hiện diện quân sự của Mỹ ở Trung Á luôn khiến Trung Quốc cảm
thấy bất an. Hơn nữa trong vài năm gần đây việc Mỹ liên tục phát động các “cuộc cách
mạng màu sắc” tại khu vực này, càng làm cho Nga và Trung Quốc cảm thấy sự có mặt
quân sự của Mỹ ở Trung Á sẽ mang lại nhân tố tiêu cực nhiều hơn nhân tố tích cực so với thời kỳ đầu27. Nga và Trung Quốc phản ứng với sự hiện diện ngày càng gia tăng của Mỹ ở
khu vực bằng cách củng cố SCO. “Nga và Trung Quốc thống nhất để làm đối trọng với
Mỹ. Chẳng hạn, họ sử dụng SCO để ngăn cản sự hiện diện quân sự của Mỹ ở khu vực
này”, Anara Tabyshalieva, nghiên cứu viên cao cấp tại Viện nghiên cứu khu vực ở Bishkek
(Kyrgyzstan).
Có thể nói, quá trình triển khai ảnh hưởng của Mỹ và Trung Quốc thể hiện rõ qua sự
tăng cường hợp tác quân sự với các quốc gia ở Trung Á.
Khi bắt đầu tiến hành cuộc chiến ở Afghanistan, Mỹ cùng các nước Trung Á phát
triển mối quan hệ song phương mật thiết. Mỹ đã đẩy mạnh các hợp tác an ninh với Trung
Á sau 11/9 theo 3 hướng:
Thứ nhất, thúc đẩy mạnh mẽ các hợp tác an ninh song phương, bao gồm cả việc ký
kết các thỏa thuận hợp tác, sử dụng căn cứ và sân bay, tăng cường sự hiện diện của quân
Mỹ trong khu vực;
Thứ hai, tăng cường chi tiêu cho viện trợ an ninh, các khoản thuê căn cứ và phí bay
quá cảnh cũng như chi phí cho nhân viên nhân sự;
Thứ ba, thúc đẩy quá trình các nước Trung Á gia nhập các khối quân sự và hợp tác
quốc tế như Tổ chức an ninh và hợp tác Châu Âu (OSCE), NATO…
Khi lập căn cứ quân sự ở Uzbekistan, Mỹ đã cung cấp cho Uzbekistan khoản tiền trị
giá 25 triệu USD để mua bán vũ khí và các trang thiết bị quân sự. Tại căn cứ không quân
Hanabad ở Uzbekistan, Mỹ đã rót khoản tiền từ 270 đến 300 triệu USD và khoản tiền này
còn tăng lên. Mỹ còn ký một hiệp ước hợp tác với Kyrgyzstan nhằm giúp thu thập các tin
tức tình báo và đào tạo, tiến hành các hoạt động huấn luyện chống khủng bố và diễn tập 27 Thông tấn xã Việt Nam (6/8/2005), “Mỹ-Trung Quốc-Nga tranh giành khu vực Trung Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 4-9
51
quân sự với Kygryzstan và Tajikistan. Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ đã cho Uzbekistan
vay khoản tiền trị giá 100 triệu USD để đối phó với nền kinh tế ảm đạm, viện trợ kinh tế cho Kazakhstan 52 triệu USD 28 . Ngoài ra, các khoản tiền cũng được Mỹ rót vào
Uzbekistan, Kygryzstan và Tajikistan, Kazakhstan qua các dự án phát triển năng lượng và
khí hydro… Mỹ vừa tham gia vào Tổ chức gìn giữ Hòa bình Trung Á trong đó có
Uzbekistan, Kygryzstan và Kazakhstan, đồng thời thúc đẩy quy chế thành viên cho các
nước này và các nước khác trong khu vực tham gia chương trình đối tác vì hòa bình của
NATO. Sau đó, Mỹ còn ra sức ủng hộ Khối thịnh vượng chung của các quốc gia Trung Á
trong đó có Kygryzstan và Tajikistan, Uzbekistan, Kazakhstan để hợp tác năng lượng,
nông nghiệp, khí hydro và giao thông để từ đó làm giảm những ảnh hưởng của Nga đến
khu vực này.
Trước sự tăng cường hợp tác an ninh, quân sự của Mỹ với các nước Trung Á, Nga
cũng đã thúc đẩy việc thành lập một liên minh chính trị-quân sự mới là Tổ chức hiệp ước
an ninh tập thể (CSTO). Tổ chức này được thành lập vào tháng 5/2002 tại hội nghị thượng
đỉnh Cộng đồng kinh tế Âu-Á (bao gồm Nga, Belarus, Armenia, Kazakhstan, Kyrgyzstan
và Tajikistan ở Dushanbe) với mục tiêu củng cố quan hệ quân sự giữa các nước thành viên.
Như vậy, về thực chất, trong không gian hậu Liên Xô đã ra đời một khối quân sự có đầy đủ
giá trị đầu tiên, tương tự NATO và hiệp ước Vascsava. Liên minh mới sẽ cho phép Nga
giải quyết cũng một lúc một số nhiệm vụ. Trước hết là việc “hợp pháp hoá” sự có mặt quân
sự của Nga tại các nước cộng hoà Liên Xô cũ là thành viên của SCTO. Hai là quân đội Nga
có khả năng kiểm soát được tình hình ở khu vực này.
Bên cạnh đó, Trung Quốc đã tăng cường hợp tác với Nga xây dựng một vành đai an
ninh tại Trung Á nhằm làm đối trọng với sự hiện diện của Mỹ. Năm 2003, các thành viên
SCO đã tổ chức tập trận chung ở Kazakhstan và Trung Quốc. Tháng 7/2004, cuộc tập trận
mang tên “Frontier” được tổ chức tại Kyrgyzstan với sự tham gia của quân đội Kazakhstan,
Kyrgyzstan và Tajikistan với các đơn vị lính dù 31, lữ đoàn lực lượng đặc biệt số 3, lữ
28. Thông tấn xã Việt Nam (6/9/2005), Liệu Mỹ có rút quân khỏi Trung Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 6-9
đoàn đặc biệt số 12 của cơ quan tình báo Nga. Tháng 6/2004, Nga và Uzbekistan thoả
52
thuận những cuộc tập trận chung ở phía Nam Uzbekistan. Nga cũng tăng cường nổ lực
nhằm củng cố an ninh khu vực, đặc biệt chú trọng đến việc tăng cường phối hợp hành động
trong khuôn khổ SCO, CSTO, Trung tâm chống khủng bố SNG và nhóm tác chiến khu vực
của Trung tâm chống khủng bố SNG đặt tại Bishkek. Bước đi quan trọng nhằm củng cố sự
hiện diện chính trị- quân sự của Nga ở khu vực là việc ký kết Hiệp ước đối tác chiến lược
Nga-Uzbekistan vào ngày 16/6/2004. Đặc biệt từ ngày 18-25/8/2005 Nga và Trung Quốc
đã có cuộc tập trận chung mang tên “sứ mệnh hoà bình - 2005” với quy mô chưa từng có
trong lịch sử hai nước khiến Mỹ và Nhật Bản không khỏi lo ngại.
Hợp tác quân sự của Trung Quốc với các nước Trung Á cũng không ngừng được
đẩy mạnh. Kyrgyzstan đã nhập khẩu 1,2 triệu USD thiết bị quân sự của Trung Quốc.
Kazakhstan mua các thiết bị thông tin liên lạc và các trang thiết bị cho lực lượng đặc nhiệm
với trị giá 3 triệu USD. Triển vọng cải thiện mối quan hệ hợp tác quân sự giữa Uzbekistan và Trung Quốc sau chuyển thăm của Tổng thống Uzbekistan Karimovvào tháng 6/200529.
2.3.3.Trên lĩnh vực Kinh tế
Do Trung Á là khu vực có nguồn tài nguyên năng lượng rất phong phú, hơn nữa về
trữ lượng dầu khí, biển Caspi được mệnh danh là “Vùng Vịnh thứ hai” của thế giới, nên
càng làm cho cuộc chiến tranh giành giữa Mỹ và Trung Quốc tại khu vực này càng trở nên
gay gắt. “Một cuộc chiến giành giật dầu lửa vừa mới triển khai ở khu vực Trung Á, không
phải chỉ do nguyên nhân thiếu hụt cung ứng dầu lửa hiện tại mà là sự để ý đến an ninh
năng lượng trong một thời gian khá dài từ nay về sau, đó là mối lo ngại về cung ứng năng lượng trong tương lai30.
Nguồn dầu khí Trung Á chia làm hai bộ phận: Nguồn năng lượng trên lục địa và
nguồn năng lượng dưới đáy biển Caspi. Phần năng lượng trên lục địa, theo thống kê, ba
29 Martha Olcott (2005) The Great Powers in Central Asia, Carnegie Endownment, 2005, trang 331-335 30 Vương Dật Châu (2004), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, NXB chính trị Quốc gia, Hà Nội
nước Kazakhstan là 19,8 tỷ thùng và Turkmenistan là 2,4 tỷ thùng. Trữ lượng khí đốt của Turkmenistan là 8.400 m3, Kazakhstan là 1.500 m3. Theo dự tính của các chuyên gia, năm
53
2010 sản lượng khai thác dầu mỏ khu vực Trung Á là khoảng 3.400.000 thùng/ngày, trong đó xuất khẩu 2.500.000 thùng/ngày31.
Nhưng cũng chính vì dầu mỏ, ngay từ xa xưa khu vực Trung Á đã trở thành vùng
đất tranh giành giữa các nước. Năm 1918, cuộc chiến tranh giành dầu mỏ Trung Á nổ ra
giữa Anh, Đức, Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1942, hơn 3 triệu quân Đức tấn công Liên Xô cũng
nhằm chiếm đoạt nguồn dầu mỏ của Trung Á, Iran và Iraq, mở đường khống chế toàn bộ
nguồn ở dầu mỏ ở vùng Vịnh, nhằm đáp ứng nhu cầu phục vụ chiến tranh, nhưng quân
Đức cuối cùng đã bị thất bại. Một nhà chiến lược người Anh đã đưa ra nhận định: Kẻ nào
khống chế được “Khu vực trung tâm” (Chỉ Trung Á và khu vực lân cận), thì kẻ đó sẽ
khống chế được “nóc nhà thế giới” (Chỉ lục địa Á – Âu). “Bất kể là do lợi ích kinh tế hay
lợi ích địa chính trị, tương lai Trung Á sẽ trở thành vũ đài đấu tranh giành năng lượng giữa các nước trên thế giới”32.
Sự phát hiện ra nguồn dầu khí Trung Á, nếu nhìn vào thời hạn ngắn thì thấy nó đã
làm thị trường dầu lửa thế giới giảm bớt sự phụ thuộc vào Trung Đông. Nếu nhìn vào thời
hạn dài thì nó có thể làm cho dầu lửa sống lâu thêm với tư cách là nguồn năng lượng của
kinh tế, giúp cho nhân loại có thời gian chuẩn bị tốt cho các nguồn năng lượng tiếp nối
thay thế trong thời đại hậu dầu lửa.
Tuy nhiên, chính vì tầm quan trọng của dầu khí Trung Á, nơi đây dang diễn ra một
cuộc cạnh tranh và hợp tác, đấu tranh và thỏa hiệp chưa từng có từ trước đến nay giữa Mỹ
và Trung Quốc. Trung Quốc đang khát nguồn năng lượng để cung cấp cho nền kinh tế
đang phát triển nhanh chóng, Mỹ tìm cách giảm phụ thuộc vào nguồn dầu mỏ Trung Đông
và Nga “thiết tha” khai thác các tuyến đường vận chuyển tiềm năng cho các nguồn năng
lượng của mình thông qua Trung Á.
Cuộc cạnh tranh trên lĩnh vực năng lượng chủ yếu là dùng các biện pháp giành
31 Thông tấn xã Việt Nam (20/03/2004), “Trung Á-tiêu điểm mới của cuộc đại chiến dầu mỏ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 5 32 Thông tấn xã Việt Nam (20/03/2004), “Trung Á-tiêu điểm mới của cuộc đại chiến dầu mỏ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 6
quyền khai thác, vận chuyển dầu mỏ ở khu vực này và đảm bảo được sự an toàn cho tuyến
54
đường vận chuyển.
Trong cuộc đối đầu với Trung Quốc về năng lượng, Mỹ nỗ lực xây dựng ảnh
hưởng với các nước trong khu vực nhằm hướng tới hạn chế Trung Quốc kiểm soát dầu
khí ở Trung Á.
Ngay từ khi Liên Xô mới giải thể, ngoại trưởng Mỹ lúc đó đã hai lần đến thăm
Trung Á và định ra chính sách Trung Á “tuần tự tiệm tiến”. Cùng với sự phát hiện nguồn
dầu lửa khổng lồ, chính sách “tuần tự tiệm tiến” được thúc đẩy nhanh chóng. Mỹ tuyên bố
vùng đất này có lợi ích kinh tế rộng lớn, chính sách Trung Á biến thành lợi ích thương mại
bảo hộ cho bản thân người đầu tư, đồng thời tranh thủ khai thác nguồn năng lượng. Năm
1991, công ty dầu lửa Castro của Mỹ đi đầu gõ cửa các quốc gia Trung Á và đã đạt được
một hợp đồng khai thác có số vốn lớn. Hiện nay có 7 công ty dầu lửa xuyên quốc gia của
Mỹ đang hoạt động tại khu vực Trung Á. Để tìm điểm đặt chân ở khu vực Trung Á, đầu
tiên Mỹ đã chọn Kazakhstan làm “bạn đồng minh chủ chốt ở khu vực Trung Á”. Hiện nay,
Mỹ đã được quyền khai thác các mỏ dầu đã thăm dò có trữ lượng 7 tỷ thùng ở Kazakhstan.
Để bảo vệ dầu lửa to lớn của Mỹ tại Trung Á (quy mô đầu tư của Mỹ ở khu vực này
chỉ đứng sau lợi ích dầu mỏ tại Trung Đông), tháng 9/1997, 500 binh lính thuộc sư đoàn đổ
bộ số 82 của quân đội Mỹ lần đầu tiên đến Trung Á, tiến hành diễn tập quân sự liên hợp.
Chính sách của Mỹ phát triển các nguồn năng lượng ở Trung Á và Nam Caucasus gắn liền
với việc ủng hộ đầu tư tư nhân của Mỹ, thúc đẩy an ninh năng lượng Phương Tây bằng
cách đa dạng hóa các nguồn cung ứng, phản đối việc xây dựng các đường ống dẫn dầu đi
qua Iran. Ngay cả trước khi xảy ra vụ 11/9, báo cáo của Tổng thống Mỹ tháng 5/2001 đã đề
xuất rằng việc khai thác dầu ở khu vực mà còn phải giúp điều hòa tình trạng cung ứng phập
phù trên thế giới về dầu hỏa.
Tuy vậy, chính sách của Mỹ mang tính hai mặt, vừa thúc đẩy sự đa dạng hóa các
nguồn cung ứng dầu hỏa và bảo vệ các nhà đầu tư Mỹ tại Trung Á, đồng thời hạn chế ảnh
hưởng của Trung Quốc đối với việc kiểm soát nguồn cung ứng này.
Trong khi đó, thông qua các cơ chế hợp tác song phương và đa phương, Trung
55
Quốc lại nỗ lực hướng tới tạo dựng lòng tin với các nước Trung Á.
Không có vị thế mang tính “độc quyền” như Nga, không rót tiền đầu tư một cách ào
ạt như Mỹ, Trung Quốc chọn cách tăng cường hợp tác song phương, tạo dựng lòng tin với
các quốc gia Trung Á để tìm chỗ đứng vững chắc trong ngành khai thác dầu khí ở Trung Á.
Gần đây, một số chuyên gia Trung Quốc đã lập luận chứng chiến lược năng lượng
“hướng Tây” của Trung Quốc. Họ cho rằng, bất kể vị trí địa lý, hay là vấn đề cung ứng và
an ninh vận tải, so với Trung Đông và Châu Phi, Trung Á vẫn là nguồn cung ứng dầu mỏ
lý tưởng của Trung Quốc. Như vậy, có thể giảm bớt sự lệ thuộc vào Trung Đông và tăng
thêm cơ số về an ninh năng lượng. Đồng thời, sự ràng buộc về năng lượng có thể tăng
cường lòng tin giữa Trung Quốc và khu vực Trung Á, bảo đảm hoàn chỉnh và an ninh vùng
biên giới phía Tây của Trung Quốc.
Thực tế từ mấy năm trước, Trung Quốc đã bắt đầu mở rộng hợp tác năng lượng với
các nước Trung Á. Tháng 9/2000, Trung Quốc và Kazakhstan đã ký hiệp định khai thác
dầu ở phía đông biển Caspi, tổng giá trị hợp đồng là 9,5 tỷ USD. Năm 2001, Tập đoàn dầu
khí Trung Quốc đã ký kết hiệp định với tập đoàn dầu mỏ và khí đốt thiên nhiên của Nga về
việc hợp tác xây dựng đường ống dẫn dầu từ vùng Angaska phía Bắc kéo dài xuống phía
Nam của Nga sang mỏ Đại Khánh của Trung Quốc, với tổng chiều dài là 2.400 km.
Điều đáng chú ý là trong cuộc chiến tranh giành quyền khai thác dầu lửa ở Trung Á,
Trung Quốc đã tỏ rõ tài năng của mình. Nhận thấy các quốc gia Trung Á rất thiếu vốn đầu
tư cho việc khôi phục và phát triển công nghiệp năng lượng và chính phủ các nước này
đang ráo riết tiềm kiếm nguồn đầu tư nước ngoài. Và các nhà đầu tư Trung Quốc đã nhanh
chóng nắm bắt được cơ hội này.
Trong cuộc cạnh tranh với các công ty dầu lửa lớn Phương Tây, Trung Quốc đã
dành được quyền khai thác mỏ dầu “Yiuchinli mới” nằm ở phía Đông biển Caspi thuộc
Kazakhstan. Mỏ dầu này có trữ lượng 1,5 tỷ thùng, mỏ dầu lớn thứ 2 của Kazakhstan. Mối
quan tâm của Trung Quốc tới Tajikistan cũng không hề nhỏ. Công ty liên doanh thăm dò
và chế biến dầu khí của Trung Quốc và Uzbekistan đã được thành lập. Có thể nói thắng lợi
56
của chính sách năng lượng Trung Quốc ở Trung Á đã thực sự làm các cường quốc như
Nga, Mỹ và Châu Âu chạnh lòng ghen tỵ. Năm 2005, Công ty Dầu mỏ quốc gia hải ngoại
của Trung Quốc (CNOOC) đã mua công ty sản xuất dầu mỏ lớn nhất của Kazakhstan là
PetroKazakhstan, với giá 4,2 tỷ USD. Kể từ năm 1997, CNOOC đã đầu tư gần 10 tỷ USD
vào Kazakhstan.
Quá trình cạnh tranh ảnh hưởng của Mỹ - Trung còn thể hiện rõ ở vùng biển Caspi.
Vùng biển Caspi, nằm ở phần giáp ranh của đại lục Âu – Á, nằm giữa Trung Á, Caucasus, Iran, chu vi bờ biển dài khoảng 7000 km và diện tích vùng nước là 380.000 km2. Trước khi
Liên Xô giải thể vào năm 1991, vùng biển Caspi chỉ có hai quốc gia là Liên Xô và Iran.
Sau khi Liên Xô tan rã thì số lượng các quốc gia thành viên là Iran, Nga, Azerbaijan,
Kazakhstan và Turkmenistan.
Mặc dù là “vùng đất quý về năng lượng” nhưng Trung Á lại ở cách rất xa thị trường
năng lượng. Làm thế nào để vận chuyển đến các nước tiêu dùng trở thành tiêu điểm quan
tâm của các nước “tiêu thụ lớn” của thế giới.
Một trong những dấu ấn của Mỹ với vùng biển này là việc xây dựng đường ống dẫn
dầu Baku – Tbilisi – Ceyhan (BTC). Washington đã thiết lập được một chỗ đứng vững
chắc trong ngành công nghiệp dầu mỏ ở khu vực này với việc các Công ty Mỹ và liên
doanh Anh - Mỹ đang kiểm soát tới 27% trữ lượng dầu mỏ và 40% khí đốt của khu vực
Caspi. Gần đây, một số công ty dầu lửa của Mỹ dựa vào thực lực kinh tế hùng hậu đã tích
cực can dự vào các vấn đề ở khu vực Caspi, đồng thời qua đó cũng đã giành được quyền
khai thác một số mỏ dầu tại khu vực này. Ngoài ra đối với Mỹ, nếu chỉ dựa vào quyền khai
thác dầu mỏ ở biển Caspi vẫn là chưa đủ, nhà nước này còn phải bảo đảm dầu mỏ khai thác ở khu vực này phải được vận chuyển an toàn tới phương Tây33.
Hơn nữa, biển Caspi nằm trong một khu vực địa lý luôn được các chiến lược gia
33Đinh Quý Đôn (2000), “Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sau chiến tranh
lạnh”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
theo trường phái địa – chính trị quan tâm. Kể từ 1995, Mỹ đã áp dụng một chính sách kiềm
57
chế mới dọc theo khu vực sườn phía Nam của Liên Xô cũ. Mục tiêu của Washington là
ngăn chặn các cường quốc lục địa thành lập các liên minh có khả năng thách thức vai trò
thống trị của Mỹ. Kiril Nourzhanov – giáo sư tại Trung tâm nghiên cứu các nước Ảrập và
Hồi giáo thuộc Đại học quốc gia Australia nhận định: “Trong chiến lượng này, Nga, Iran
và Trung Quốc là các mục tiêu hàng đầu, dầu mỏ chỉ đóng vai trò thứ yếu. Trong bất kể
trường hợp nào, Mỹ cũng phải thiết lập một hệ thống các chế độ có cảm tình với
Washington. Tuy nhiên, các đường ống dẫn dầu lại vô tình đáp ứng mục tiêu này và tạo ra lý do xác đáng để tiến hành trò chơi quyền lực đầy nguy hiểm”34.
Do vậy, bảo đảm an toàn tuyến đường vận chuyển dầu mỏ từ Caspi ra bên ngoài
cũng trở thành vấn đề hết sức quan trọng đối với Mỹ. Từ thời Bill Clinton còn làm Tổng
thống, Mỹ từng thúc đẩy việc xây dựng một đường ống dẫn dầu mới xuyên qua Trung Á.
Bộ môi trường Mỹ lúc đó ước tính vào năm 2010, khu vực biển Caspi sẽ là nguồn bù đắp
sự thiếu hụt năng lượng khi nhu cầu dầu mỏ của thế giới tăng lên 118,9 triệu thùng vào
năm 2020. Vào thời điểm đó, các nước thành viên Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ
(OPEC) ở Trung Đông có thể sẽ chỉ cung cấp được một nữa nhu cầu và đường ống dẫn dầu
mới này sẽ làm giảm sự phụ thuộc vào Mỹ đối với vùng Vịnh, khu vực chứa đựng nhiều
nhân tố gây bất ổn định. Trong kế hoạch “Đại Trung Á”, Mỹ cũng đã chủ trương “hình
thành chiến lược xuất khẩu năng lượng xuống phía Nam, kiểm soát nguồn năng lượng của Trung Á”35.
Về tổng thể, tuyến đường vận chuyển dầu mỏ từ Caspi ra bên ngoài có 5 đường
chính sau đây: Tuyến đường thứ nhất được gọi là “tuyến phía Bắc”, tuyến này thông qua
Nga và được coi là tuyến truyền thống. Tuyến thứ hai gọi là “tuyến phía Đông”, tuyến này
thông qua khu vực Tân Cương (Trung Quốc) để ra biển Thái Bình Dương. Tuyến thứ 3 và
thứ 4 được mệnh danh là “tuyến phía Nam”: một đường qua Afghanistan để ra Ấn Độ
Dương, còn đường kia qua Iran để chuyển tới vùng Vịnh. Đặc điểm chung của 2 tuyến
34 Thông tấn xã Việt Nam (18/5/2006), ảnh hưởng địa-chính trị của dầu mỏ khu vực Caxpi, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 7-11 35 Thông tấn xã Việt Nam (16/03/2007), “Về kế hoạch Đại Trung Á của Mỹ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 4-9
đường này là rất gần, nhưng sau khi lật đổ chính quyền Taiban, tuyến đường qua
58
Afghanistan mới được thực hiện, còn tuyến đường qua Iran thì Mỹ lại không muốn; Tuyến
đường thứ 5 có tên gọi là “tuyến phía Tây”, đây là tuyến đường mà cả Mỹ và phương Tây
đều cảm thấy mãn nguyện. Nhưng để khống chế được con đường này, Mỹ cần phải nắm chắc toàn bộ khu vực Trung Á”36.
Caspi nằm ở trung tâm và được coi là “cái rốn” của Trung Á, nguồn dầu lửa ở khu
vực này chỉ khi nào được vận chuyển ra thế giới bên ngoài thì mới có thể biến “vàng đen”
thành “vàng thật”. Nói cách khác, ai kiểm soát được sự vận chuyển dầu lửa khu vực này thì
có thể chi phối được cục diện chính trị cũng như tình hình kinh tế đối với khu vực Caspi.
Nói cách khác, ai kiểm soát được sự vận chuyển dầu lửa khu vực này thì có thể chi phí
được cục diện chính trị cũng như tình hình kinh tế đối với khu vực Caspi. Chính vì vậy,
Mỹ và các nước phương Tây quyết tâm xây dựng đường ống dẫn dầu dài 1730 km nhằm ổn
định cung cấp dầu lửa cho thị trường thế giới và đảm bảo an ninh dầu lửa cho Mỹ và các
nước phương Tây. Nằm trong một kế hoạch nhằm tách các quốc gia Trung Á ra khỏi ảnh
hưởng của Nga và đẩy Iran ra được khỏi cuộc tranh giành về quyền lợi dầu mỏ ở Trung Á,
từ năm 1997, Mỹ đã đưa ra dự án xây dựng tuyến dẫn dầu xuyên biển Caspi có tên gọi là
BTC, tên viết tắt là Baku (Thủ đô Azerbaijan), Tbilisi (Thủ đô Grudia) và Ceyhan (Một địa
danh trên bờ biển Địa Trung Hải của Thổ Nhĩ Kỳ). Đường ống BTC bắt đầu từ Baku đến
Tbilisi rồi tới cảng Ceyhan ở Địa Trung Hải.
Ngày 18/5/2005, giọt dầu mỏ đầu tiên đã chảy qua đường ống dẫn dầu BTC, khép
lại dự án tranh cãi sau hơn 10 năm thi công. Sau khi đi vào hoạt động đầy đủ vào năm
2009, tuyến đường ống dẫn dầu BTC vận chuyển 1 triệu thùng dầu/ngày, chiếm hơn 1%
tổng sản lượng dầu toàn cầu ra các thị trường thế giới. Theo các nhà quan sát, đối với Nhà
Trắng, BTC không chỉ là nơi vận chuyển dầu lửa, mà còn là dòng chảy của tự do và ảnh
hưởng.
36Thông tấn xã Việt Nam (06/8/2005), “Mỹ - Trung Quốc – Nga tranh giành khu vực Trung Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 8-11
Trong khi đó, Trung Quốc lại nổ lực xây dựng một lối đi riêng cho mình ở vùng
59
này. Trong lúc Mỹ ra sức cạnh tranh và giành giật nguồn dầu lửa xung quanh biển Caspi,
thì Trung Quốc đã nhanh chân chiếm được một vị trí ổn định xung quanh khu vực này
bằng việc xây dựng đường ống dẫn dầu dài 1000km từ Kazakhstan về Trung Quốc.
Dự án xây dựng đường ống dẫn dầu này lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1997.
Tháng 9/1997, Công ty dầu khí quốc gia Trung Quốc (PetroChina) đã đánh bại hai công ty
lớn của Mỹ và Nga trong cuộc đấu thầu khai thác hai mỏ dầu lớn của Kazakhstan và
Actyubinsk và Uchin, đồng thời hai nước cũng thương lượng lắp đặt đường ống dẫn dầu từ
hai mỏ dầu đó về Khu tự trị Tân Cương Trung Quốc. Nhưng khi nhận thấy giá thành lắp
đặt hai đường ống trên quá cao, lượng bơm dầu chưa cao và giá thành khai thác cũng cao
nên chương trình xây lắp đường ống tạm thời gác lại. Do nhu cầu dầu lửa ngày càng tăng,
nên tháng 5/2004, hai nước lại ký hiệp định sẽ nhanh chóng xây dựng đường ống dẫn dầu
và thực hiện các chương trình khai thác bằng đường ống. Theo phương án thiết kế, đường
ống này bắt đầu từ thành phố cảng Atyrau ở phía Tây trên bờ biển Caspi, đi qua khu vực
Actyubonsk mà Công ty PetroChina đang khai thác, xuyên qua lãnh thổ Kazakhstan qua
đèo Ala về khu vực Tân Cương Trung Quốc. Ngày 23/3/2005, công trình xây lắp đường
ống đoạn Tân Cương đi Kazakhstan chính thức khởi công, sau khi hoàn thành việc cung
cấp dầu toàn tuyến sẽ được ổn định và củng cố hơn nữa quan hệ hợp tác dầu lửa Trung
Quốc – Kazakhstan.
Tuy nhiên, Trung Quốc không phải là không vấp phải sự cạnh tranh quyết liệt từ
Mỹ. Mỹ ra sức kiềm chế Trung Quốc, kể cả nguồn cung cấp dầu lửa, để kiềm hãm sự phát
triển và trỗi dậy của Trung Quốc. Từ trước tới nay, Mỹ luôn tìm cách ngăn chặn sự hợp tác
dầu lửa Trung Quốc – Kazakhstan, vì vậy tiến trình hợp tác giữa hai nước thường bị gây
nhiễu và trắc trở, bởi Kazakhstan là nước nằm ngay bên bờ biển Caspi, nơi các công ty dầu
lửa của Mỹ đang ra sức khai thác và lắp đặt đường ống dài nhất thế giới tại đây. Sự hợp tác
37 Thông tấn xã Việt Nam (3/8/2005), Caxpi-Một đấu trường giữa Trung Quốc và Mỹ, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 17-20
của Kazakhstan với Trung Quốc chính là đe dọa và làm phân tán nguồn dầu lửa của các công ty Mỹ37.
60
Vì vậy, khi phát hiện thấy Trung Quốc tăng cường hợp tác với Kazakhstan, chính
phủ Mỹ đã thường xuyên gây sức ép, yêu cầu Kazakhstan hủy bỏ hợp đồng xây lắp đường
ống với Trung Quốc. Sau khi hai đường ống dẫn dầu ở khu vực biển Caspi hoàn thành và
đưa vào vận hành, tức một đường ống của Mỹ từ Baku qua Tbilisi tới Ceyhan và một
đường ống của Trung Quốc từ Atyrau bên bờ biển Caspi về Tân Cương Trung Quốc thì
cuộc cạnh tranh nguồn dầu lửa tại khu vực Caspi giữa hai nước Trung Quốc và Mỹ sẽ tăng
lên. Số liệu thăm dò địa chất cho biết trên thềm lục địa của Azerbaijan ở biển Caspi tới nay
chưa phát hiện thấy những giếng dầu lửa lớn, nên đường ống dẫn dầu Baku – Tbilisi –
Ceyhan hiện đang đứng trước rủi ro, chính vì vậy, thời gian qua Chính phủ Mỹ đã ra sức
dùng các biện pháp vừa cứng vừa mềm, vừa thuyết phục vừa hâm dọa để Chính phủ
Kazakhstan chuyển dầu lửa khai thác sang bơm vào đường ống của Mỹ. Chính phủ Mỹ
một mặt cam kết tăng viện trợ, giúp đỡ các mặt cho Kazakhstan, mặt khác gây sức ép kinh
tế, chính trị thậm chí dùng cả “cách mạng màu sắc” để đe dọa. Ngày 25/5/2005, khi đường
ống Baku qua Tbilisi tới Ceyhan chính thức vận hành, hiệu quả tương đối tốt, nên Chính
phủ Kazakhstan đã bắt đầu tích cực tham gia đàm phán với Mỹ, đồng thời cam kết
Kazakhstan sẽ thông quan đường biển Caspi để bơm dầu vào đường ống này cho Mỹ với
công suất 20 triệu tấn/năm. Nếu như Kazakhstan thiên về đầu tư và bơm dầu cho đường
ống Baku – Tbilisi – Ceyhan của Mỹ thì đương nhiên việc cung cấp dâu lửa cho Trung
Quốc sẽ phải cắt giảm, điều này đe dọa tới sự phát triển của Trung Quốc.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, dầu mỏ không phải là nguyên nhân dẫn đến sự
canh tranh địa – chính trị tại khu vực Caspi. An ninh năng lượng của Mỹ và Trung Quốc
không hề phụ thuộc vào dầu mỏ tại khu vực này. Dầu mỏ chỉ là cái cớ cho việc tranh giành
vai trò thống trị theo kiểu Chiến tranh lạnh. Ý đồ của Mỹ sử dụng BTC để cô lập Iran, ngăn
chặn “âm mưu bá quyền” của Trung Quốc, đã tạo ra một không khí thù nghịch trong khu
vực.
61
Tiểu kết chương 2
Có thể thấy, bằng nhiều hình thức, biện pháp, công cụ khác nhau, Mỹ và Trung
Quốc đã thâm nhập ngày càng sâu vào đời sống chính trị, kinh tế và an ninh của các nước
Trung Á. Bên cạnh việc tích cực thúc đẩy các mối quan hệ song phương, đa phương giữa
các nước Trung Á thì bản thân hai cường quốc này cũng không bỏ qua cơ hội kiềm chế lẫn
nhau để gia tăng ảnh hưởng, giành được những lợi ích lớn nhất về phía mình.
Sự tương đồng về lợi ích của Mỹ và Trung Quốc ở Trung Á trên các lĩnh vực chính
trị, đảm bảo an ninh và khai thác nguồn năng lượng giàu có ở khu vực Trung Á cũng đồng
nghĩa với sự va chạm về lợi ích. Và điều tất yếu là dẫn đến sự cạnh tranh. Đó có thể là sự
cạnh tranh công khai, cạnh tranh ngấm ngầm, cạnh tranh gián tiếp… Đó cũng có thể là các
hình thức dọa dẫm, ngăn chặn ảnh hưởng, khiêu khích hoặc có thể cũng hợp tác, liên kết để
cạnh tranh… Nhìn vào “bàn cờ Trung Á” từ sau chiến tranh lạnh đến nay, đặc biệt là sau
khi Mỹ đưa quân vào Trung Á năm 2001 thì có thể thấy Mỹ và Trung Quốc đã sử dụng
linh hoạt các biện pháp này để tranh giành ảnh hưởng tại Trung Á.
Để gây ảnh hưởng ở Trung Á, hạ thấp ảnh hưởng của Trung Quốc, Mỹ đã sử dụng
biện pháp đa phương, dựa vào NATO, OSCE… để tăng cường sự hiện diện quân sự ở
Trung Á, sử dụng các chiêu bài dân chủ và nhân quyền, tác động tới việc cải cách chuyển
đổi mô hình của các nước Trung Á, ngăn chặn Trung Quốc thông qua SCO thực hiện
“cùng quản lý” Trung Á. Mỹ cũng đã sử dụng tốt các “chiêu bài” tăng cường quan hệ song
phương với bản thân các quốc gia Trung Á để lôi kéo các quốc gia này đứng cùng chiến
tuyến với Mỹ.
Mặc dù tỏ ra khá thận trọng khi xử lý quan hệ với Trung Quốc ở khu vực Trung Á,
không khiêu khích “lộ liễu” lợi ích then chốt với Trung Quốc, nhưng việc Mỹ đóng quân
lâu dài ở Trung Á không thể không làm cho Trung Quốc cảnh giác cao độ với ý đồ chiến
lược của Mỹ ở khu vực này. Bên cạnh đó Trung Quốc lại đóng vai trò quan trọng đối với
Trung Á về an ninh năng lượng, phân phối các khoản vay mềm cho các nước nghèo, tìm
62
kiếm sự độc quyền xuất khẩu khí đốt thiên nhiên của Turkmenistan. Bắc Kinh xem
Kyrgyzstan là cơ sở chiến lược cho việc mở rộng thương mại khắp Trung Á và khoảng
không gian Xô Viết cũ. Tuy nhiên việc tăng lên đáng kể cộng đồng người Trung Quốc tại
mỗi quốc gia đang là điều cư dân Trung Á lo ngại nhất.
Chương 3: KẾT QUẢ, TÁC ĐỘNG VÀ TRIỂN VỌNG
3.1. Kết quả
Đối với Trung Quốc, mặc dù khởi động tương đối muộn và phải đối mặt với nhiều
khó khăn thách thức, nhưng chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại khu vực
Trung Á đã được triển khai mạnh mẽ và thu được những kết quả khả quan.
Trước hết xét riêng trên lĩnh vực năng lượng, Trung Quốc đã đẩy mạnh hợp tác đầu
tư, khai thác nguồn năng lượng tại Trung Á, bước đầu tạo được dấu ấn trong ngành công
nghiệp dầu khí của Trung Á; quy mô hợp tác đầu tư trong lĩnh vực dầu khí của Trung Quốc
tại khu vực không ngừng tăng lên. Ngoại giao năng lượng của Trung Quốc đã góp phần bổ
sung cho nguồn cung dầu khí trong nước, giảm bớt sức ép về tình hình thiếu hụt nguồn
cung. Đồng thời, thông qua phát triển một chiến lược bài bản về mua cổ phần của các công
ty dầu khí quốc gia Trung Á, các tập đoàn dầu khí lớn của Trung Quốc đang thực hiện
chính sách đầu tư, mua cổ phần của các công ty liên quan đến lĩnh vực khai thác, vận
chuyển dầu lửa của các nước Trung Á, ngày càng nắm giữ nhiều cổ phần trong các công ty
dầu khí ở các nước này.
Bên cạnh đó, có rất nhiều hợp đồng hợp tác trên lĩnh vực dầu mỏ và khí đốt giữa
Trung Quốc với Uzbekistan, Turkmenistan được ký dưới danh nghĩa “xây dựng quan hệ
láng giềng thân thiện”. Đáng chú ý như Tập đoàn phát triển công nghệ dầu khí Trung Quốc
và Turkmengas đã ký hợp đồng 14,5 tỉ USD về cung cấp thiết bị khai thác năm 2004, thỏa thuận xuất khẩu 30 tỉ m3 khí từ Turkmenistan sang Trung Quốc. Đến năm 2006, CNPC đã
ký với Uzbekistan thỏa thuận đầu tư 200 triệu USD thăm dò và khai thác dầu khí đến năm
2011; ký hợp đồng khai thác và phát triển khí thiên nhiên tại vùng biển Aral…
63
Không những thế, Trung Quốc còn đạt những thành quả lớn trong việc xây dựng các
đường ống dẫn dầu và khí nối Trung Á với Trung Quốc. Điều này không chỉ là thành quả
kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị, ngoại giao to lớn. Hai ví dụ điển hình là đường ống dẫn
dầu Kazakhstan-Trung Quốc và đường ống dẫn khí xuyên Á đi qua lãnh thổ các nước
Turkmenistan, Kazakhstan, Uzbekistan tới Trung Quốc.
Đường ống dẫn dầu Kazakhstan-Trung Quốc: Với hơn 3.000km chiều dài, đường
ống dẫn dầu dài 2.200 km nối Kazakhstan–Trung Quốc từ bờ biển Caspian của Cadactan
tới Alashakou của khu tự trị Tân Cương Trung Quốc có thể cung cấp dầu trực tiếp cho
Trung Quốc từ vùng Trung Á, có công suất thiết kế từ 800.000 đến 1.000.000 thùng
dầu/ngày. Với việc hoàn thành đường ống dẫn dầu này, lần đầu tiên Trung Quốc đã đảm
bảo nguồn cung cấp “vàng đen” bằng tuyến vận chuyển trên đất liền mà không nằm trong
tầm kiểm soát của Mỹ như đối với nguồn cung dầu trên biển từ Trung Đông và Xu đăng.
Dự kiến đến năm 2015, tuyến đường ống này sẽ cung cấp 6% lượng dầu thô nhập khẩu của
Trung Quốc. Về khía cạnh chính trị, đường ống dẫn dầu này cũng mang ý nghĩa rất lớn, là
một đối trọng thực sự với đường ống BTC do Mỹ hậu thuẫn; giúp cho Trung Quốc mở
rộng tầm ảnh hưởng tại Trung Á thông qua đầu tư rộng rãi và tạo công ăn việc làm cho hơn
50.000 người ở Kazakhstan, trong đó có nhiều người Duy Ngô Nhĩ, phần nào xoa dịu sự
bất mãn, thù địch với người Hán trong thành phần dân Duy Ngô Nhĩ và góp phần phát triển
vùng biên giới Tân Cương. Điều này góp phần mang lại thành công cho Chiến dịch Đại
khai phá miền Tây mà Trung Quốc đang thực hiện trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Đường ống dẫn khí đốt xuyên Á nối Trung Á với Trung Quốc có tổng chiều dài gần
7.000 km, với 1.833 km chạy qua lãnh thổ các nước Turkmenistan, Kazakhstan,
Uzbekistan và 4.860 km chạy trên lãnh thổ Trung Quốc. Dự kiến đến năm 2013, đường ống này sẽ đạt công suất tối đa và hàng năm sẽ cung cấp 40 tỉ m3 khí đốt trực tiếp từ
Turkmenistan tới khu tự trị Tân Cương và dẫn đến các thành phố lớn của Trung Quốc như
Thượng Hải, Quảng Châu, Hồng Kông. Với công suất trên, hệ thống đường ống xuyên Á
này sẽ đáp ứng phần lớn nhu cầu khí đốt của Trung Quốc, vốn được dự báo sẽ thiếu 50 tỷ m3 vào năm 2015.
64
Nói tóm lại, các hoạt động ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại Trung Á đã
góp phần đảm bảo nguồn cung năng lượng phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế, bảo đảm ổn
định an ninh và nhu cầu tiêu dùng của người dân Trung Quốc trong hiện tại và tương lai,
giảm thiểu nguy cơ gián đoạn nguồn cung, giảm bớt sự phụ thuộc vào nguồn cung từ Trung
Đông, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và mạnh mẽ, ổn định chính trị –
xã hội, nhất là ở vùng biên giới Tây Bắc, qua đó tạo dựng và mở rộng ảnh hưởng của
Trung Quốc tại các nước Trung Á.
So với các khu vực khác, chính sách ngoại giao năng lượng của Trung Quốc tại
Trung Á về cơ bản có những điểm tương đồng về mục tiêu, hướng triển khai, các biện pháp
thực hiện… Sự khác biệt giữa chính sách năng lượng tại Trung Á so với các khu vực khác
có thể thấy là, sự can dự của Trung Quốc tại Trung Á không đơn thuần chỉ vì động cơ năng
lượng hay lợi ích kinh tế, mà còn vì những lợi ích chính trị, an ninh, đó là giữ ổn định khu
vực biên giới phía Tây vốn có ý nghĩa an ninh chính trị quan trọng đối với Trung Quốc.
Trong một vài thập kỷ tới đây, về cơ bản, chính sách ngoại giao năng lượng của
Trung Quốc tại khu vực Trung Á sẽ vẫn được triển khai mạnh mẽ thông qua các biện pháp
như họ đang áp dụng hiện nay. Chỉ có điều khác là trong tương lai, cũng với sự trỗi dậy
mạnh mẽ của Trung Quốc, ảnh hưởng của Trung Quốc sẽ tăng lên rất nhiều so với hiện
nay, nên cuộc săn lùng tài nguyên chiến lược của Trung Quốc tại khu vực này sẽ diễn ra
một cách ráo riết hơn với những hành động mạnh dạn, cứng rắn hơn để bảo vệ lợi ích của
họ về năng lượng. Đồng thời, cuộc chạy đua giữa các nước lớn nhằm giành nguồn năng
38Thông tấn xã Việt Nam (13/09/2003), “Trung Quốc ở Trung Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 6-9
lượng chiến lược và cạnh tranh ảnh hưởng tại Trung Á còn lâu mới kết thúc, nhưng phần thắng dường như đang và sẽ nghiêng về phía Trung Quốc38.
65
Đối với Mỹ,việc đề ra kế hoạch “Đại Trung Á” những năm đầu thế kỷ XXI, trong
thời điểm Mỹ thúc đẩy cuộc cách mạng màu trong khu vực, nhằm đạt được ba lợi ích chiến
lược của Mỹ ở Trung Á là an ninh, năng lượng và cải cách tự do chính trị. Trên thực tế,
Mỹ đã xuất hiện tại khu vực này ngay đầu thập niên 90 thế kỷ trước. Các nước Kazakhstan,
Kyrgyzstan, Turkmenistan và Uzbekistan tham gia chương trình đối tác vì hòa bình của
NATO (PFP) năm 1994. Bộ Quốc phòng Mỹ thiết lập mối liên kết với các nước
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Uzbekistan Azerbaijian và Grudia, cung cấp vũ khí, trợ giúp đào
tạo cho quân đội những nước này.
Sau sự kiện 11/9/2001, nhân chiến dịch Afghanistan, Mỹ tăng cường sự hiện diện
quân sự tại Uzbekistan, Tajikistan và Kyrgyzstan để đồng thời thông qua bố trí lực lượng
quân sự tại khu vực, Mỹ có thể can dự mạnh mẽ hơn vào khu vực, tìm kiếm, đảm bảo được
nguồn cung năng lượng của họ trong tương lai phù hợp với lợi ích của Mỹ. Vì vậy, trong
kế hoạch “Đại Trung Á”, Mỹ đã chủ trương “hình thành chiến lược xuất khẩu năng lượng
xuống phía Nam, kiểm soát nguồn tài nguyên năng lượng của Trung Á”, xúc tiến và hậu
thuẫn mạnh mẽ cho các công ty đa quốc gia tham gia vào các dự án dầu lửa của khu vực.
Công ty Chervon đã xây dựng đường ống dẫn dầu biển Caspian (CPC) để chuyển dầu thô
được khai thác từ các công ty dầu lửa của phương Tây ở Kazakhstan tới điểm cuối là Biển
Đen thuộc Nga. Tuyến đường ống CPC dài 1.500 km đã hoàn thành vào năm 2003 với giá
trị 2,6 tỷ USD. BP và đối tác của mình cũng tiến hành xây dựng tuyến đường ống
BakuTbilisiCeyhan (BTC) dài 1.800 km trị giá 4,2 tỷ USD. Tuyến đường ống này hoạt động năm 2006 và có thể chuyển hàng triệu thùng mỗi ngày39.
Việc Mỹ tăng cường hiện diện tại khu vực bằng cả kinh tế và quân sự tạo ra những
lo ngại đối với Nga và Trung Quốc. Hai nước Nga và Trung Quốc đều tìm cách chống lại
(2009), US- China relations
the 21 st century: power
in
transition and peace.
39 Zhinqun Zhu http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/244-chinas-central-asia-problem.pdf
ảnh hưởng của Mỹ tại Trung Á
66
3.2. Tác động
3.2.1. Tác động đối với Mỹ và Trung Quốc
Đối với Trung Quốc, xu thế này có một vài ý nghĩa đối với Bắc Kinh. Ba tập đoàn
dầu mỏ quốc gia chính của Bắc Kinh, Tổng công ty dầu khí và hoá chất Trung Quốc
(Sinopec), Tổng công ty dầu khí hải dương Trung Quốc (CNOOC) và Công ty cổ phần
trách nhiệm hữu hạn dầu khí Trung Quốc (PetroChina) sẽ tiếp tục chính sách quyết liệt mở
rộng quy mô tiếp cận toàn cầu. Sự chú ý đặc biệt sẽ tập trung ở các quốc gia mà mức sản
xuất dầu có tiềm năng tăng như Iraq, Brazil và Venezuela bất chấp sự phức tạp chính trị,
vận chuyển xung quanh việc phát triển năng lượng ở các quốc gia này. Mặc dù một phần
của sự mở rộng này nhằm mục đích bảo đảm nguồn cung dầu mỏ cho Trung Quốc, các
công ty này cũng tìm cách giảm thiểu rủi ro và muốn trở thành các tập đoàn dầu khí toàn
cầu. Điều này có nghĩa rằng các công ty sẽ tiếp tục mở rộng hoạt động sang các nước như
Mỹ và Canada. Lấy ví dụ, CNOOC và Sinopec đã đầu tư vài tỷ USD vào các mỏ dầu khí đá phiến40. Những khoản đầu tư này cũng nhằm nâng cao trình độ công nghệ cho các tập
đoàn dầu khí Trung Quốc.
Bên cạnh đó, với sự tăng trưởng kinh tế nội địa Trung Quốc chậm lại và quốc gia
này đang trải qua giai đoạn chuyển đổi từ mô hình kinh tế hướng tới xuất khẩu sang mô
hình phụ thuộc nhiều hơn vào tiêu thụ nội địa, sẽ có sự suy giảm về cán cân thương mại.
Tăng nhập khẩu dầu và các loại hình năng lượng khác sẽ chỉ đẩy nhanh việc xóa bỏ cán
cân thương mại tích cực hiện nay của Trung Quốc dù sự thay đổi này đã diễn ra trong vài
năm. Nó cũng làm gia tăng rủi ro của Bắc Kinh với các nhân tố bên ngoài, không chỉ là các
vấn đề kinh tế mà còn là rủi ro về nguồn cung bằng đường biển. Bắc Kinh đã nỗ lực làm
giảm thiểu các rủi ro này bằng việc tăng nhập khẩu bằng đường bộ từ Nga và Trung Á,
nhưng điều quan trọng nhất vẫn là bảo đảm an toàn cho giao thông đường biển, vai trò từ
lâu đã do Mỹ đảm nhiệm.
Đối với Mỹ, khi sự tiêu thụ gia tăng đưa Trung Quốc trở thành nước nhập khẩu dầu
lớn nhất, Mỹ lại đang giảm sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu dầu khí từ nước ngoài. 40 Nguyễn Huy Quý (2008), Trung Quốc năm 2007, Nghiên cứu Trung Quốc, (số 2(81)), tr.3-12.
67
Ngành công nghiệp dầu mỏ của Mỹ đã trải qua bước tiến công nghệ vượt bậc giúp việc sản
xuất dầu của nước này tăng gần 40% trong 3 năm qua, đưa sản xuất nội địa lên mức cao
chưa từng thấy kể từ trước Chiến tranh vùng vịnh thứ nhất. Dù đây không phải là lý do duy
nhất khiến Mỹ giảm mạnh nhập khẩu dầu mỏ, Canada cũng đã tăng mạnh việc sản xuất dầu
của mình và đang xuất khẩu sang Mỹ bằng đường bộ. Kết quả là Mỹ ngày càng giảm nhập
khẩu dầu mỏ từ bên ngoài bằng đường biển. Xu hướng này dự kiến sẽ tiếp tục diễn ra trong
thời gian còn lại của thập kỷ này khi Mỹ và Canada tiếp tục tăng cường sản xuất dầu.
Tuy nhiên, việc sản xuất dầu của cả Mỹ và Canada không thể đạt mức đủ cao để
Washington không còn phải nhập khẩu dầu từ các nước khác. Bên cạnh đó, Mỹ hội nhập
lớn vào dòng chảy thương mại và thị trường tài chính toàn cầu. Chính vì thế, Mỹ sẽ vẫn rất
quan tâm đến thị trường dầu mỏ quốc tế cũng như việc bảo đảm an toàn tuyến giao thông
hàng hải không chỉ cho việc vận chuyển năng lượng mà còn các loại hàng hóa khác. Lấy ví
dụ, ngay cả khi nếu nhập khẩu năng lượng của Mỹ từ Trung Đông giảm, bất kỳ sự suy
giảm mạnh nguồn cung nào từ Trung Đông sẽ dẫn tới các hậu quả kinh tế nghiêm trọng ở
Trung Quốc và các quốc gia Châu Á khác, cuối cùng sẽ làm ảnh hưởng đến kinh tế Mỹ.
Ngoài ra, Mỹ sẽ tiếp tục nhập khẩu dầu thô Trung Đông vì những lý do cơ cấu. Ví
dụ, bang California và các bang duyên hải miền Tây không kết nối với phần còn lại của lục
địa bằng đường ống và việc xây dựng đường ống dẫn dầu tới các khu vực này khó khăn.
Chính vì vậy, các nhà máy lọc dầu tại đây sẽ tiếp tục tìm kiếm nguồn dầu thô từ Trung
Đông ngay cả khi Mỹ tiếp tục tăng sản xuất dầu trong nước.
3.2.2.Tác động tới khu vực Trung Á
Cách đây hai năm, Ngoại trưởng Mỹ là bà Hillary Clinton thông báo “Chúng tôi
quay trở lại châu Á" với vai trò là một cường quốc tại khu vực này. Một trong những bằng
chứng rõ rệt nhất của việc Washington tiến hành chính sách "xoay trục châu Á" là kế hoạch
bố trí 2.500 thủy quân lục chiến Mỹ tại miền Bắc Úc.
Vào thời điểm hiện nay, theo Bộ Quốc phòng Australia, không một thủy quân lục
chiến Mỹ nào có mặt ở Darwin. 200 người vừa hoàn tất chuyến công tác 6 tháng và tới
68
năm sau họ mới được thay thế, dự kiến sẽ có 1.150 người tới đây. Thực tế này khiến người
ta đặt câu hỏi về cam kết của Mỹ đối với chiến lược “xoay trục” sang châu Á. Việc Tổng
thống Barack Obama hủy chuyến công du 4 nước châu Á trong tuần này và không tham dự
2 cuộc họp thượng đỉnh khu vực do Chính phủ Mỹ bị đóng cửa khiến người ta nghi ngờ
hơn nữa chính sách phục hồi ảnh hưởng quân sự và kinh tế của Mỹ nhằm cân bằng với một
Trung Quốc đang trỗi dậy.
Trong khi đó, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã có mặt ở Indonesia, công bố
một loạt thỏa thuận trị giá khoảng 30 tỷ USD và sau đó sang Malaysia thông báo về mối
“quan hệ đối tác chiến lược toàn diện” với quốc gia Hồi giáo này, trong đó có việc nâng
cấp quan hệ quân sự. Ông Tập Cận Bình cũng tham dự hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn Hợp
tác Kinh tế (APEC) ở Bali (Indonesia) và hội nghị thượng đỉnh Đông Á (EAS) ở Brunei
trong tuần này. Kể từ năm 2011, Trung Quốc đã củng cố vị thế là bạn hàng lớn nhất đối với
hầu hết các nước ở châu Á và đầu tư trực tiếp của nước này trong khu vực đang tăng, mặc
dù Bắc Kinh có xuất phát điểm thấp hơn nhiều so với châu Âu, Nhật Bản và Mỹ. Các nước
nhỏ như Lào và Campuchia đã bị cuốn hút một cách mạnh mẽ vào quỹ đạo kinh tế của
Trung Quốc đến nỗi hai nước này hiện được gọi là “quốc gia khách hàng” của Bắc Kinh và
họ hỗ trợ lập trường của Trung Quốc trong các tranh chấp trong khu vực.
Ngoài việc thúc đẩy quan hệ thương mại, Trung Quốc cũng mở rộng ảnh hưởng
chính trị và quân sự ngoại giao trong khu vực, mặc dù nỗ lực này bị ảnh hưởng nặng do
căng thẳng kéo dài trong tranh chấp hàng hải với Nhật Bản, Philippines và một số nước
khác. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của 10 nước ASEAN kể từ năm 2009 và
đầu tư trực tiếp vẫn tăng, đi kèm với đó là ảnh hưởng kinh tế và ngoại giao của Bắc Kinh
trong khu vực ngày càng lớn mạnh. Năm 2012, các công ty của Trung Quốc đã đầu tư 4,42
tỷ USD vào Đông Nam Á, tăng 52% so với năm trước đó. Mức đầu tư vào nước láng giềng
Việt Nam tăng 142%. Theo các chuyên gia hải quân Nhật Bản và phương Tây, Trung Quốc
cho thấy họ có thể triển khai lực lượng rất xa bên ngoài vùng duyên hải của họ, khi hải
quân nước này thực hiện các cuộc tập trận phức tạp.
Các nhà máy đóng tàu Trung Quốc đang sản xuất nhiều tàu ngầm thông thường và
69
nguyên tử, tàu khu trục, tàu tuần tra trang bị tên lửa, với mức độ cao hơn so với bất kỳ
nước nào khác. Từ các cảng, kể cả từ một căn cứ hải quân mới ở phía Nam đảo Hải Nam,
tàu chiến Trung Quốc thực hiện các cuộc tuần tra thường xuyên hơn, với số lượng nhiều.
Đây là sự thay đổi sâu rộng nhất trong cán cân thăng bằng quyền lực hàng hải ở châu Á kể
từ ngày hải quân Liên Xô tan rã. Ngoại giao quân sự của Trung Quốc với Đông Nam Á
đang phát triển nhanh chóng, trong lúc Bắc Kinh tiến hành các bước để thúc đẩy điều họ
mô tả là “trỗi dậy hòa bình”. Tàu quân y Peace Ark của Hải quân Trung Quốc gần đây đã
chữa trị cho hàng trăm bệnh nhân tại Myanmar, Campuchia và Indonesia, lần đầu tiên tàu
làm nhiệm vụ này trên toàn Đông Nam Á.
Các chiến hạm Trung Quốc đang quay trở về sau các cuộc tuần tra chống cướp biển
quốc tế ở Vịnh Aden. Những tàu này đã thăm các cảng Đông Nam Á, trong đó Singapore
và Việt Nam. Tuy nhiên, các nhà phân tích và ngoại giao cho rằng Bắc Kinh còn phải mất
một thời gian dài mới có thể bắt kịp với Mỹ, vốn là nước giữ vai trò thống trị trong thời gian dài, và các cường quốc quân sự trong khu vực như Australia, Nhật Bản và Nga41.
3.3.Tác động đến các cường quốc khác
3.2.1 Đối với Nga
Afghanistan và Trung Á: những thách thức và lợi ích của nước Nga. Nước Nga phải
bằng mọi cách tránh việc đơn phương can thiệp bằng vũ lực vào công việc nội bộ của
Afghanistan.
Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Liên bang Nga tại Afghanistan, Phó Tiến sỹ sử học
Mikhail Konarovski, một trong số khách mời của Hội nghị Trung Đông và Trung Á trong
không gian địa chính trị tổng thể được khai mạc tại AlmaAta ngày 11 tháng 10, đã đề cập
41Elizabeth Wishnick (2009), Russia, China, and The United States In Central Asia: Prospects For Great Power
Competition And Cooperation In The Shadow Of The Georgian Crisis.
www.strategicstudiesinstitute.army.mil/pdffiles/PUB907.pdf
tới điều này trong báo cáo của mình. Các nhà đồng tổ chức hội nghị là Quỹ xã hội
70
Aleksandr Knhiaev, Trung tâm Ariana Afghanistan, Khoa quan hệ quốc tế Trường đại học
tổng hợp quốc gia Kazakhstan mang tên A Farabi, Trung tâm nghiên cứu nước Đức, Phòng
Đông phương của hãng thông tấn REGNUM, Phòng thông tin InfoRos, Cổng thông tin
Radiotochka (Kazakhstan), Cổng thông tin Zonakznet.
Hãng thông tấn REGNUM trên cương vị đối tác của hội nghị có đủ thẩm quyền để
công bố toàn văn bản báo cáo do tác giả cung cấp.
Sau khi chế độ Taliban tại Afghanistan bị sụp đổ vào năm 2001, cộng đồng thế giới
đã tỏ ra quá lạc quan khi cho rằng, cuộc khủng hoảng Afghanistan, cuối cùng cũng đã được
giải quyết. Nhưng mọi sự đã diễn ra theo một kịch bản khác, mặc dù về mặt nguyên tắc,
dựa vào kinh nghiệm thực tiễn lịch sử của đất nước này, chúng ta đã có thể dự kiến những
gì mà hiện tại đang chứng kiến. Hơn một thập niên hiện diện của quân đội nước ngoài và
đầu tư tài chính tập trung của họ không thể bảo đảm được vị thế vững chắc về chính trị-
quân sự và kinh tế cho chính quyền mới ở Kabul và phá tan ảnh hưởng của các các phe
nhóm vũ trang chống chế độ. Không đạt được mục tiêu đã đặt ra, bắt đầu từ năm 2011,
NATO từng bước rút lực lượng quân đội hạn chế, và sẽ triệt thoái toàn bộ lực lượng của
mình vào cuối năm 2014.
Mốc thời gian này càng đến gần thì cuộc bàn thảo dự kiến các kịch bản phát triển
tình hình khác nhau ở nước cộng hòa Hồi giáo Afghanistan và ảnh hưởng của nó tới những
khu vực lân cận, mà trước hết là Trung Á, trong giới nghiên cứu càng trở nên sôi nổi. Quan
điểm chiếm ưu thế hơn cả là, nếu không có sự hòa giải ở đất nước này và đưa vấn đề
Afghanistan ra khỏi bế tắc thì trên thực tế sẽ không thể đảm bảo được sự ổn định và an
ninh ở khu vực này của đại lục. Tình hình ở Afghanistan sau năm 2014 sẽ gây ảnh hưởng
nghiêm trọng tới khu vực, và có thể ở mức độ lớn hơn đáng kể, so với những gì mà chúng
ta quan sát được trong giai đoạn quân đội nước ngoài hiện diện tại đây. Trước việc các phe
nhóm vũ trang Trung Á, liên quan tới Taliban, trong thời gian gần đây gia tăng hoạt động
tại các vùng đất phía Bắc của nước cộng hòa Hồi giáo Afghanistan, có thể dự đoán, sự tích
cực như thế sẽ vẫn còn tiếp tục kéo dài sau năm 2014. Hiện tại thật khó nói trước, hoạt
động như vậy sẽ hiệu quả tới mức độ nào, nhưng nó sẽ vẫn diễn ra là điều hết sức rõ ràng.
71
Bối cảnh ở Afghanistan trong tình hình tổng thể mới và sự bất ổn của tình hình dự
kiến trong tương lai ở đất nước này, chắc chắn (thông qua Trung Á) sẽ gây ảnh hưởng tới
nước Nga. Chính thể ở Kabul càng cấp tiến bao nhiêu, thì ảnh hưởng như thế càng có khả
năng trở nên bất lợi bấy nhiêu. Lượng người nhập cư trái phép từ Trung Á vào Nga cũng
có thể trở thành môi trường dung dưỡng thêm cho điều này. Hiện nay trên lãnh thổ nước
Nga đã có những trường hợp tuyển mộ lính đánh thuê và thành lập các trung tâm truyền bá
bất hợp pháp những tư tưởng Hồi giáo mang nội dung cực đoan. Bên cạnh đó, thỉnh thoảng
các quan sát viên lại đưa ra những luận điểm hoàn toàn vô căn cứ, dường như cố tình
phóng đại nguy cơ như thế ở nước Nga nhằm bảo đảm cho mình có thêm ảnh hưởng trong
khu vực.
Trong bối cảnh này có thể tổng hợp một số kịch bản phát triển của tình hình tại
Afghanistan sau khi quân đội nước ngoài triệt thoái, mà các nhà phân tích nêu ra. Lạc quan
hơn cả là chính thể hiện nay có khả năng giữ vững được chính quyền và sự ổn định chung
trong nước. Sự phát triển như thế, tất nhiên sẽ là điều mà Kabul và cộng đồng khu vực và
thế giới mong đợi nhiều nhất. Những người ủng hộ quan điểm này khẳng định hoàn toàn có
đủ các điều kiện về chính sách đối ngoại thuận lợi cho việc hiện thực hóa kịch bản nêu
trên. Những điều kiện hiện nay về căn bản khác hẳn tình hình trước khi quân đội Liên Xô
triệt thoái trong giai đoạn 1988-1989. Các biện pháp nhằm ổn định vị thế của chính quyền
trung ương, bao gồm cả việc xây dựng lực lượng an ninh Afghanistan, được dẫn ra để
chứng minh cho điều này. Đồng thời, một luận điểm rất đáng chú ý nhận định rằng, tất cả
những điều kiện mới dường như có thể đảm bảo khả năng giữ vững chính quyền trong
nước của lực lượng an ninh Afghanistan, bởi lẽ họ sẽ phải tranh đấu vì sự sống còn của
mình.
Trong số các quân nhân, đặc biệt là tầng lớp binh sĩ, chắc gì đã có nhiều người ủng
hộ chính quyền hiện nay. Vì thế, sau năm 2014 chính phủ ở Kabul sẽ phải đơn thương độc
mã đối mặt với những kẻ thù của mình, lực lượng an ninh, ít ra cũng sẽ phải đối mặt với sự
suy yếu nhanh chóng về tiềm lực chiến đấu của họ. Hơn nữa, ngay lúc này, dù có những
biện pháp mang tính động viên về mặt tổ chức mà chính phủ và các cố vấn nước ngoài tiến
72
hành, nạn đào ngũ vẫn đang là một trong những vấn đề nghiêm trọng nhất của lực lượng an
ninh Afghanistan. Điều này làm giảm sút một cách nhanh chóng khả năng tự kiểm soát và
đảm bảo an ninh trong nước của họ.
Quá trình hòa giải dân tộc diễn ra quá chậm chạp. Các bên thù địch vẫn ngoan cố
bám giữ lập trường của mình. Rõ ràng, Taliban không quan tâm tới các cuộc đối thoại và
vẫn hy vọng, sau năm 2014 quyền lực trên một phần đáng kể lãnh thổ nước cộng hòa Hồi
giáo Afghanistan bằng cách này hay cách khác sẽ rơi vào sự kiểm soát của họ. Bên cạnh
đó, trong giai đoạn “mujahedin” đối đầu với nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
Afghanistan cũng như hiện nay, cán cân chính trị tinh thần vẫn nghiêng về phía các phần tử
nổi dậy. Nhân tố ủng hộ mạnh mẽ từ bên ngoài cho phong trào của họ là sức mạnh đang
ngày càng tăng của chủ nghĩa cực đoan Hồi giáo và chủ nghĩa khủng bố trên thế giới, “mùa
xuân Arabia”, sự lớn mạnh của trào lưu Hồi giáo hóa đang diễn ra ở Pakistan, trong bối
cảnh “các phần tử Taliban Pakistan” đang gia tăng ảnh hưởng tới sự chia rẽ chính trị ở
Islamabat. Khuynh hướng “phục chế” Trung Á đang tạo ra cho chúng môi trường tiểu vùng
thuận lợi.
Bất chấp sự biệt lập, phân tán của mình, các phần tử Taliban cả trong tương lai cũng
chắc gì sẽ tham gia vào những cuộc đối thoại nghiêm túc với Kabul (hơn nữa với những
điều kiện của chính phủ về việc họ phải chấm dứt những hoạt động quân sự, thừa nhận
Hiến pháp hiện hành và chế độ chính trị của đất nước). Mặt khác những yêu sách của
Taliban giờ đây cũng không thể chấp nhận được đối với Kabul. Và như vậy sự đối đầu sẽ
vẫn tiếp tục. Trong khi đó vị thế của Kabul đã bị đột ngột yếu đi do Mỹ khôi phục những
cuộc tiếp xúc trực tiếp với các đại diện của Taliban vào tháng 6 năm nay. Sự phối hợp chặt
chẽ giữa các phần tử Taliban hai nước Afghanstan và Pakistan tạo điều kiện cho các chiến
binh tràn qua biên giới Afghanistan-Pakistan.
Một trong những thách thức nghiêm trọng nhất đối với chính sách đối nội của
Afghanistan vẫn là vấn đề giữa các sắc tộc trong bối cảnh giác ngộ và hoạt tính chính trị
của các dân tộc thiểu số trong những thập niên gần đây đã tăng lên đáng kể. Đảng dân chủ
nhân dân Afghanistan trong hơn một thập niên nắm chính quyền của mình đã góp phần
73
không nhỏ cho sự tiến bộ này. Trong khuôn khổ việc tìm kiếm những phương án, nếu như
không bảo đảm hóa giải được, thì ít nhất cũng giảm thiểu một ở một chừng mực nhất định
sự căng thẳng trong các mối quan hệ giữa các bộ tộc. Một vài nhà phân tích đã đề xuất xây
dựng cơ cấu nhà nước liên minh tại Afghanistan theo dấu hiệu các vùng lãnh thổ quốc gia
(miền Bắc, trung tâm và cực Tây Nam là những vùng dân tộc thiểu số, toàn bộ lãnh thổ còn
lại- là vùng Pushtun). Nhưng việc hiện thực hóa kịch bản như thế là cực kỳ khó khăn trong
điều kiện tại nước này không có những ranh giới cư trú rõ ràng của từng tộc người cụ thể,
cũng như về mặt chính sách. Điều này có thể làm nổ ra vòng xoáy mới trong cuộc nội
chiến và đẩy nhanh các quá trình phi hội nhập trong không gian địa chính trị rộng lớn hơn, và dẫn tới sự bất ổn nghiêm trọng hơn trong khu vực42.
3.2.1 Đối với Ấn độ
Những vấn đề đặc biệt quan trọng sắp tới vẫn là tương lai của sự giúp đỡ quốc tế
cho Afghanistan và những nguồn ủng hộ. Kabul rất cần một “chương trình nghị sự thiết
thực”, mà việc hỗ trợ thực thi nó có thể tác động hiệu quả tới cả những chương trình đa
phương. Tổ chức có tên gọi “Tiến trình Istanbul” có thể nhận về mình sứ mệnh như thế.
Được khởi động vào năm 2011 theo sáng kiến của Kabul và Ankara, tổ chức này đã đặt ra
nhiệm vụ liên kết nỗ lực của chính phủ cộng hòa Hồi giáo Afghanistan và các nước láng
giềng nhằm đẩy mạnh hợp tác toàn diện trong lĩnh vực an ninh và phát triển kinh tế, đồng
thời thừa nhận vai trò của Afghanistan là mắt xích quan trọng liên kết các nước trong khu
vực. Các quốc gia chủ đạo phương Tây cam kết hỗ trợ tiến trình này bằng mọi biện pháp,
đồng thời coi đây ít nhất cũng là kế hoạch ưu tiên hàng thứ 2 của mình. Một lộ trình như
thế còn có thể nhằm khẳng định, cả Mỹ cũng như các đồng minh châu Âu của mình sẽ
không quan tâm tới việc duy trì lâu hơn nữa vai trò thao túng những công việc của
Afghanistan, và đang cố gắng đùn đẩy toàn bộ trách nhiệm phát triển kinh tế xã hội cho các
quốc gia trong khu vực, trong khi vẫn muốn nắm giữ những vấn đề then chốt về chính trị-
quân sự của nước này. Nhưng hiện tại vẫn chưa thấy bất kỳ hành động thực tế nào của các
42Hồ châu (2001), “Chiến lược đối ngoại của Nga thời kỳ Tổng thống Putin, Tạp chí nghiên cứu Châu Âu, (3)
nước tham gia tiến trình này trên nền tảng chung. Bên cạnh đó, các nước láng giềng có ảnh
74
hưởng tới Afghanistan như Pakistan, Ấn Độ và Iran muốn phát triển các mối quan hệ kinh
tế với Kabul hơn, đặc biệt là ở bình diện song phương. Tình hình tương tự cũng diễn ra
trong khuôn khổ Tổ chức hợp tác Thượng Hải. Đồng thời, trong bối cảnh chính trị chung,
trong số tất cả những thành viên của tổ chức này, chỉ có nước Nga công khai ủng hộ các
điều kiện sơ bộ mà Kabul đưa ra cho cuộc đối thoại với Talban.
Tình hình vẫn diễn biến theo chiều hướng ngày càng xấu đi ở nước cộng hòa Hồi
giáo Afghanistan, những cuộc tập kích vũ trang thường xuyên và các hành động khủng bố
của Taliban đang chứng minh mối đe dọa của một vòng xoáy mới trong cuộc khủng hoảng
Afghanistan sẽ xảy ra sau năm 2014. Việc Washington bác bỏ kế hoạch sau năm 2015 cắt
giảm tổng quân số của lực lượng an ninh quốc gia xuống còn 228 ngàn người và duy trì
đến năm 2017 việc cung cấp tài chính ở mức độ 352 ngàn người cũng thể hiện sự thiếu tin
tưởng vào quá trình phát triển ổn định ở đất nước này. Trước những thách thức mới, chính
quyền Mỹ đang quan tâm tới việc tiếp tục phối hợp với nước Nga, tìm kiếm những hình
thức hợp tác mới với các nước cộng hòa Trung Á thành viên của Tổ chức hợp tác Thượng
Hải và Hiệp ước an ninh tập thể. Đồng thời, cũng như trong những năm đầu của chiến dịch
Afghanistan, phía Mỹ thấy được sự hợp tác như thế không những chỉ tốt cho việc thực hiện
nhiệm vụ bảo đảm hậu cần quá trình rút quân của NATO, mà cho cả việc giám sát lâu dài
những lợi ích của nước Nga và Trung Quốc tại khu vực nhạy cảm này. Về phía mình, giới
tinh hoa lãnh đạo các quốc gia Trung Á cũng đề cập tới việc vận dụng tình hình một cách
hợp lý cho những lợi ích của mình, gồm cả việc đối thoại với Moscow và Bắc Kinh.
Đường lối như thế đang được Tashkent thể hiện và Washington tích cực cổ súy. Vì Mỹ
nhận thức rất rõ vị trí đặc biệt của Uzbekistan ở Trung Á và trong cấu trúc “Mạng phân
phối phương Bắc” vận tải hàng hóa của NATO. Kỳ vọng thường xuyên bảo đảm cho mình
vị trí đặc lợi ở phía Bắc Afghanistan nhờ yếu tố sắc tộc cũng như việc kiểm soát các tuyến
giao thông huyết mạch, sẽ được mở rộng trong tương lai với vai trò chủ đạo của mình cũng
thúc đẩy nước cộng hòa Uzbekistan quan tâm tới điều này.
Sự quan tâm đặc biệt cũng được người Mỹ giành cho Kazakhstan một nước cộng
hòa đang phát triển năng động, trong tương lai có khả năng trở thành đầu tàu ở khu vực
75
này, kể cả nhờ hình ảnh đang từng ngày thay đổi của Astana trên trường quốc tế.
Tadjikistan và Kyrgyzstan là 2 trong số những nước láng giềng Trung Á của cộng hòa Hồi
giáo Afghanistan có khả năng dễ bị tổn thương nhất trong trường hợp tình hình ở biên giới
phía Nam đất nước mình xấu đi, thể hiện sự nhạy cảm đặc biệt đối với việc hợp tác quân sự
trên thực tế cùng Washington. Ngoài những điều lạc quan, các kịch bản tiêu cực nhưng
hiện thực hơn về sự phát triển của tình hình tại Afghanistan sau năm 2014 cũng được xem
xét. Trong đó có khả năng chính quyền trung ương chỉ duy trì được sự kiểm soát từng phần
lãnh thổ đất nước; trên thực tếcó thể diễn ra sự chia rẽ về địa lý và chính trị của
Afghanistan, dẫn tới sự ra đời trên lãnh thổ nước này một số tiểu quốc gia và cuộc nội
chiến chung “huynh đệ tương tàn”; Taliban trở lại nắm hoàn toàn quyền lực. Không loại
trừ việc kết hợp các kịch bản này, và cả việc xuất hiện lực lượng thứ ba nào đó với những
khẩu hiệu và mục tiêu chính trị của mình. Nhưng có lẽ nó chủ yếu sẽ mang đặc điểm bảo
thủ truyền thống.
Vì thế có lẽ cần phải sẵn sàng trước những phương án phát triển sự kiện tổng hợp
phức tạp hơn trong bối cảnh chế độ tương lai ở Kabul sẽ không chỉ là Hồi giáo mà là Hồi
giáo cấp tiến. Nhưng lúc này chỉ có thể đồn đoán về mức độ bảo thủ và thù địch với tất cả
những gì không dính dáng tới đạo Hồi. Vì vậy cần phải có sự đoàn kết quốc tế và hợp tác
về những vấn đề mang tính nguyên tắc liên quan tới sự phát triển tiếp theo của tình hình ở
nước cộng hòa Hồi giáo Afghanistan. Trong bối cảnh như vậy điều chủ yếu đối với cộng
đồng khu vực và thế giới, dù với bất kỳ kịch bản phát triển tình hình nào ở nước này cũng
phải đồng thuận về mặt chính trị, đòi hỏi chính quyền mới ở Kabul không được phép gây
ra nguy cơ bất ổn cho khu vực. Bên cạnh đó, nếu trước đây nhiệm vụ tránh “Taliban hóa”
lan rộng ra khỏi ranh giới Afghanistan đáp ứng lợi ích, trước hết của nước láng giềng phía
Bắc, nhưng thời gian gần đây vần đề trên đã bắt đầu ngày càng làm cho cả Islamabat bất
an- những phần tử Taliban lúc đầu được nước này o bế để phá hoại Afghanistan, thì nay
thường xuyên đe dọa sự ổn định của chính Pakistan. Những ý tưởng trung lập hóa
Afghanistan dưới sự bảo hộ về chính trị của các nước láng giềng và các siêu cường thế giới
ở mức độ nhất định được đưa ra trong bối cảnh đó giống với đề xuất của nước Nga (được
các thành viên Tổ chức hợp tác Thượng Hải ủng hộ) đưa nước này trở lại quy chế trung
76
lập, đã được ghi trong bản hiến pháp năm 1964.
Xuất phát từ những bài học của quá khứ, điều quan trọng hiện nay là làm rõ triệt để
những ý đồ tiếp theo của người Mỹ và NATO ở Afghanistan để phá tan sự quan ngại của
Nga và Trung Quốc cũng như một số quốc gia khác. Tiếp tục củng cố sự hợp tác theo lộ
trình của Hội đồng Nga NATO có thể là cách tốt nhất thể hiện tình đoàn kết quan trọng của
cộng đồng quốc tế trước những thách thức tương lai từ lãnh thổ cộng hòa Hồi giáo
Afghanistan. Đã có những ví dụ tốt về việc này như: “Mạng phân phối phương Bắc”, Quỹ
sửa chữa kỹ thuật trực thăng theo lộ trình bay, đào tạo cán bộ cho hoạt động chống khủng
bố. Và một trong những điều có ý nghĩa lớn lao có thể là xây dựng một quy chế xác định
cho sự tương tác giữa liên minh NATO và Hiệp ước an ninh tập thể (Moscow ủng hộ
nhưng Brussel phản đối). Đồng thời Moscow phải quyết định, làm thế nào để sự hợp tác
như thế phải phù hợp với lập trường không chấp nhận sự hiện diện lâu dài của lực lượng
quân sự Mỹ tại Afghanistan đã công bố của mình. Lộ rình riêng nhằm củng cố sườn phía
Nam của Hiệp ước an ninh tập thể, tăng cường sự minh bạch của tổ chức này trên hướng
Trung Á (điều được thấy rõ trong thời gian gần đây) cần phải được tiến hành song song
một cách tích cực. Cũng theo định hướng này, cần phải nghiên cứu sự phát triển trong
tương lai các mối quan hệ quân sự song phương với Uzbekistan. Afghanistan sau khi quân
đội NATO triệt thoái sẽ vẫn là khu vực chao đảo, bất ổn và đầy mâu thuẫn lâu dài, và việc
lôi kéo nước này vào ma trận hợp tác kinh tế đòi hỏi những nỗ lực đáng kể của cộng đồng khu vực và quốc tế43.
Đồng thời, dù của tình hình tại Afghanistan và xung quanh nước này phát triển theo
kịch bản nào sau năm 2014, thì nước Nga vẫn phải bằng mọi biện pháp tránh đơn phương
can thiệp bằng vũ lực vào công việc nội bộ của nước này. Điều đó sẽ gây ra những hậu
quả chiến lược tiêu cực nhất cho lợi ích quốc gia nói chung, và cho sự ổn định nội bộ của
nước Nga nói riêng.
3.4.Tác động đến Việt Nam
43Quan hệ tam giác Mỹ - Ấn – Trung, Các vấn đề quốc tế (tài liệu tham khảo đặc biệt), 6/2008, tr.9-21.
Tuy không phải là một nước lớn nhưng Việt Nam đang chiếm một vị trí quan trọng
77
nhất định trong chính sách đối ngoại của cả Mỹ và Trung Quốc, cũng như chịu tác động
đáng kể bởi sự biến động của mối quan hệ Mỹ-Trung. Là một quốc gia có chung biên giới
với Trung Quốc và có vị trí địa chiến lược, địa kinh tế quan trọng trong khu vực Đông Nam
Á, việc chịu những tác động khá lớn từ quan hệ Mỹ-Trung là điều dễ hiểu. Tầm quan trọng
vị trí địa chiến lược của Việt Nam có thể trở thành “khu đệm hoặc bàn đạp” của cả hai
nước Trung Quốc và Mỹ trong chiến lược khu vực. Như trước đây Mỹ coi Việt Nam là khu
đệm ngăn chặn cộng sản, nhưng nay lại có thể coi là vị trí quan trọng trong việc tăng cường
quan hệ với khu vực để cân bằng lại sự trổi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc còn Trung Quốc
trước đây coi Việt Nam là bàn đạp lấn xuống phía Nam, nay lại có thể coi là khu đệm
chống lại sự xâm nhập của Mỹ. Vì vậy, cả hai đều muốn tranh thủ lôi kéo với ý đồ riêng
của mình.
Trước hết và quan trọng nhất là do các lợi ích địa chiến lược trong quan hệ với Việt
Nam mang lại. Ngoài ra, còn phải thấy rằng trong đánh giá của Mỹ và Trung Quốc, Việt
Nam là một quốc gia đang nổi lên với vai trò quan trọng trong khu vực Đông Nam Á (tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao, chính trị xã hội ổn định, quan hệ tốt với các quốc gia trong khu
vực) trong bối cảnh ASEAN đang đẩy mạnh nhất thể hoá song còn tồn tại nhiều vấn đề
chưa có giải pháp thấu đáo (cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc tại đây, bất ổn
tại Thái Lan, Mianma…hợp tác thực chất trong một số vấn đề phát triển còn chậm và chưa
bền vững). Việt Nam cũng thể hiện và trách nhiệm trong các liên kết lớn hơn như trong
khuôn khổ APEC, ASEM, WTO và gần đây nhất là khi tham gia Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc với vai trò Uỷ viên không thường trực (2008-2009). Mỹ và Trung Quốc cũng chú
ý đến Việt Nam với vai trò là một bạn hàng kinh tế-thương mại - đầu tư đang trên đà phát
triển và bổ sung đáng kể vào quan hệ kinh tế với cả hai nước này (Mỹ là thị trường xuất
khẩu lớn nhất của Việt Nam, Trung Quốc là nguồn nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam).
Bước sang thế kỷ XXI, cả Mỹ và Trung Quốc đều có sự điều chỉnh chiến lược của
mình trong quan hệ của Việt Nam và xu hướng này sẽ tiếp tục trong thời gian 10 năm tới.
Dù không chiếm ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của Mỹ nhưng Việt Nam ngày
càng trở nên quan trọng trong chính sách của Mỹ đối với khu vực Châu Á-Thái Bình
78
Dương. Mỹ đã, đang và sẽ tiếp tục điều chỉnh chính sách của mình theo hướng ủng hộ các
nước Việt Nam độc lập, phát triển có vai trò lớn hơn trong các khuôn khổ diễn đàn khu vực
và quốc tế, đồng thời có tiếng nói tích cực hơn đối với vai trò của Mỹ tại các diễn đàn này
(nhất là khi Mỹ đã tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác-TAC và Diễn đàn Đông Á-
EAS). Mỹ tiếp tục ủng hộ Việt Nam không ngừng cải cách kinh tế trong hướng thị trường
hoá, tiếp tục mở của nền kinh tế và hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hệ thống này, đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi cho các công ty Mỹ tham gia kinh doanh tại Việt Nam. Để hổ
trợ các hướng chính sách chính nêu trên Mỹ không ngừng thúc đẩy hợp tác trên các lĩnh
vực khác liên quan đến giáo dục, y tế, nhân đạo, hợp tác tiểu vùng sông Mê Kong. Ngoài
ra, Mỹ cũng kiềm chế có mức độ về vấn đề nhân chủ, nhân quyền tôn giáo trong quan hệ
với Việt Nam. Để đối trọng với Mỹ, Trung Quốc buộc phải đặt Đông Dương nói chung và
Việt Nam nói riêng là một trọng điểm chiến lược phía Nam cùa Trung Quốc. Việt Nam sẽ
trở thành đối tác quan trọng của Trung Quốc ở khu vực Đông Nam Á cả về kinh tế, chính
trị lẫn quân sự. Trung Quốc không ngừng khai thác sự giao thoa về ý thức hệ giữa Trung
Quốc và Việt Nam để gắn kết hai nước về mặt chính trị ưu tiên đón và đưa các đoàn lãnh
đạo các cấp để không ngừng tăng cường các liên kết chính trị, tiến hành tham vấn chính
sách tương đối thường xuyên giữa hai nước kể cả ở trung ương và trong quan hệ với một số
địa phương quan trọng giữa hai nước. Mặt khác, Trung Quốc cũng có những “nhượng bộ”
nhất định hay điều chỉnh hành vi cho phù hợp trong quan hệ với Việt Nam khi có liên quan
đến một số vấn đề nhạy cảm hoặc trong giải quyết một số vấn đề khu vực và quốc tế. Để
tăng cường ảnh hưởng với khu vực nói chung và với Việt Nam nói riêng, Trung Quốc đã
không ngừng tăng cường ảnh hưởng về văn hoá-xã hội, kinh nghiệm phát triển; đồng thời,
cũng có khả năng tiếp tục thúc đẩy một số hợp tác kinh tế-thương mại theo hướng cùng có
lợi trong quan hệ với các nước khu vực cũng như Việt Nam trong thời gian 10 năm tới.
Mặt khác qua nghiên cứu quátrình diễn biến của quan hệ Mỹ Trung thời gian qua trong hơn
30 năm qua cũng có thể nhận thấy rõ: vì những quyền lợi và mục đích chiến lược của mình,
Trung Quốc và Mỹ có thể có những “nhân nhượng” nhằm đạt được mục đích của họ trong
Đông Nam Á, đặc biệt là bán đảo Đông Dương. Việt Nam đã trở thành một nhân tố để
Trung Quốc gây sức ép với Mỹ trong việc rút quân khỏi Việt Nam, thể hiện trong thông
79
cáo chung Thượng Hải năm 1972. Đến năm 1974, thực hiện thông cáo chung Thượng Hải,
Mỹ đã không có phản ứng khi Trung Quốc chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Sau
năm 1975, một số “nhân nhượng” Mỹ-Trung Quốc có tác động rất xấu đến tình hình Việt
Nam, mà đỉnh cao là xung đột biên giới giữa Trung Quốc và Việt Nam vào năm 1979.
Trong thời gian từ 1979-1989 Trung Quốc và Mỹ đã phối hợp hành động để chống các
nước Đông Dương; bao vây, cô lập Việt Nam, “làm cho Việt Nam chảy máu” trong vấn đề
Campuchia. Lịch sử này hoàn toàn có thể lập lại trong thời gian tới với những mức độ khác
nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh thực tế.
Những hướng điều chỉnh chính sách nêu trên của Mỹ và Trung Quốc đặt ra cả thời
cơ và thách thức cho Việt Nam. Việc cả Mỹ và Trung Quốc đã muốn lôi kéo, khống chế
Việt Nam nhằm tranh giành ảnh hưởng của mình trên bán đảo Đông Dương và khu vực
Đông Nam Á tạo ra thời cơ cho Việt Nam tăng cường quan hệ nhiều mặt (kể cả trong một
số lĩnh vực nhạy cảm) với cả hai nước, tạo thế đối ngoại quan trọng cho Việt Nam trong
bối cảnh Việt Nam tiến hành “hội nhập quốc tế”; đồng thời tạo thời cơ cho Việt Nam tham
gia sâu rộng và có vai trò quan trọng trong các diễn đàn khu vực và đa phương (đặc biệt là
ASEAN, WTO/TPP và Liên Hợp Quốc; có thể nói đến nay, Mỹ là nước thúc đẩy vai trò và
tiếng nói của Việt Nam tại các diễn đàn này nhiều hơn, xong Trung Quốc cũng có thể làm
tương tự nếu Việt Nam và Trung Quốc có nhiều sự tương đồng về lợi ích trong các vấn đề
cụ thể trong mười năm tới tại các diễn đàn này); ngoài ra, việc tranh thủ cơ hội do cả Mỹ
và Trung Quốc muốn tăng cường quan hệ với Việt Nam mang lại sẽ giúp Việt Nam lựa
chọn tốt hơn và tận dụng các cơ hội hợp tác kinh tế - thương mại – đầu tư với cả Mỹ và
Trung Quốc để tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế trong nước cũng như quan hệ kinh tế
quốc tế, góp phần tích cực hoàn thành mục tiêu cơ bản về “công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đến năm 2020 như Đảng và Nhà nước đề ra. Mặt khác, Việt Nam cũng đứng trước những
thách thức lớn trong quan hệ với cả hai quốc gia Mỹ và Trung Quốc. Trong bối cảnh toàn
cầu hoá, khu vực hoá, những mâu thuẫn trong quan hệ Mỹ - Trung khi ở mức không kiểm
soát được sẽ làm tình hình an ninh trong khu vực trở nên bất ổn, đe dọa đến những lợi ích
của Việt Nam. Việt Nam cũng phải đối phó với áp lực nhất định từ những nhóm lợi ích tại
80
Mỹ hoặc Trung Quốc trong việc tăng cường quan hệ với một nước và giảm quan hệ với
nước còn lại; đặc biệt là sự nghi kỵ trong quan hệ song phương với hai quốc gia này trong
nhiều vấn đề cụ thể (vấn đề Biển Đông, hợp tác an ninh – quân sự, vấn đề đổi mới thể chế
chính trị,..). Ngoài ra, một trong những rủi ro lớn nhất đã có sự kiểm chứng từ lịch sử quan
hệ Mỹ - Trung liên quan đến Việt Nam là trong những tình huống và hoàn cảnh nhất định,
việc Mỹ và Trung Quốc có những “nhân nhượng” vì các lợi ích nhiều mặt của hai nước
này và lợi ích các đồng minh của họ, lợi ích của Việt Nam sẽ bị tác động tiêu cực. Diễn
biến và những cọ sát trong quan hệ Mỹ - Trung và những điều chỉnh chính sách của hai
nước chủ quyền, an ninh, phòng thủ và kinh tế của Việt Nam khi Trung Quốc tăng cường
triển khai kế hoạch phòng thủ quân sự xuống khu vực Biển Đông.
Như vậy có thể thấy rằng, đối với Việt Nam và các nước Đông Nam Á nói chung,
quan hệ Mỹ - Trung ổn định sẽ tạo ra môi trường hoà bình, ổn định để phát triển, đồng thời
tạo cơ hội để Việt Nam và các nước Đông Nam Á cân bằng quan hệ với các nước lớn,
tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi cho công cuộc phát triển trong nước và mở cửa hội nhập
quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tế, khi cạnh tranh Mỹ - Trung vượt quá mức kiểm soát hoặc
khi có những thoả hiệp nhất định giữa hai quốc gia này liên quan đến dự phát triển của Việt
Nam và các nước Đông Nam Á cân bằng quan hệ với các nước lớn, tranh thủ mọi điều kiện
thuận lợi cho công cuộc phát triển trong nước và mở của hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trên
thực tế, khi cạnh tranh Mỹ - Trung vượt quá mức kiểm soát hoặc khi có những thoả hiệp
nhất định giữa hai quốc gia này liên quan đến sự phát triển của Việt Nam và các nước
Đông Nam Á, Việt Nam và các nước này sẽ chịu nhiều tổn thất về lợi ích và hậy quả của
nó có thể kéo dài trong nhiều năm và rất khó để khắc phục lại.
3.5. Triển vọng
Liên minh Kinh tế Á-Âu mới thành lập vào tháng 5-2014 giữa Nga, Kazakhstan và
Belarus (Kyrgyzstan sẽ sớm gia nhập), trong khi Trung Á tỏ ra lưỡng lự việc chính thức
ủng hộ SREB. Trong khi đó, các doanh nghiệp Trung Quốc để lại ấn tượng tiêu cực do ít
chú ý đến văn hóa và tôn giáo bản địa, không tích cực thực hiện trách nhiệm xã hội khi
kinh doanh trong khu vực.
81
Do lo ngại về mối nguy hiểm Afghanistan một lần nữa trở thành một "thiên đường"
an toàn cho các nhóm thánh chiến khác nhau, đầu năm nay, Điện Kremlin đã cam kết mở
rộng căn cứ quân sự của mình trong khu vực và hiện đang cung cấp một lượng lớn thiết bị
quân sự cho Kyrgyzstan và Tajikistan, hai quốc gia Trung Á có căn cứ quân sự của Nga và
là thành viên của Tổ chức Hiệp ước an ninh Tập thể (CSTO) - một khối an ninh thời hậu
Xô Viết.
Nga đã hứa sẽ cung cấp hợp đồng vũ khí trị giá hơn 1,2 tỷ USD cho quân đội
Kyrgyzstan và Tajikistan, bao gồm cả máy bay trực thăng quân sự, hệ thống phòng không,
xe tăng, xe bọc thép và nhiều loại vũ khí phục vụ chương trình huấn luyện quân sự cho các
sỹ quan. Các nhà quan sát cho rằng sự giúp đỡ trên của Nga là nhằm phản ứng với những
kế hoạch của chính phủ Mỹ viện trợ hoặc bán các thiết bị quân sự hiện đang được sử dụng
tại Afghanistan với mức giá ưu đãi cho các nước Trung Á thay vì vận chuyển nó về Mỹ với
chi phí rất cao. Nếu kế hoạch trên của Washington trở thành hiện thực, Mỹ sẽ thiết lập
được mối quan hệ chặt chẽ với một số quốc gia Trung Á và dễ dàng xâm nhập vào nơi
được coi là “sân sau”của Nga, chính vì vậy Moskva đã thực hiện một quyết định chưa từng
có - đó là cung cấp một số lượng lớn các thiết bị quân sự của mình cho Kyrgyzstan và
Tajikistan.
Trong khi đó, Trung Quốc cũng đang tăng cường ảnh hưởng của mình tại khu vực
này. Quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Trung Á những năm gần đây đã bước lên một
tầm cao mới. Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Kazakhstan, là đối tác thương
mại lớn thứ hai của 4 nước Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Turkmenistan, là quốc
gia đầu tư chính của những nước nói trên. Các khoản vay từ Trung Quốc có hy vọng trở
thành nguồn vốn quan trọng đối với việc phát triển kinh tế của các nước Trung Á. Chỉ
riêng các dự án lớn của Kazakhstan, Trung Quốc đã cung cấp một khoản vay trị giá 13 tỷ
USD.
Với việc Nga đưa ra Liên minh Á-Âu, Mỹ đề ra và kế hoạch “Con đường Tơ lụa
mới” và chiến lược Đại Trung Á, thì tháng 9/2013, trong chuyến thăm của Chủ tịch nước
82
Trung Quốc tới Trung Á, ông Tập Cận Bình đề ra đại chiến lược “Vành đai kinh tế Con
đường Tơ lụa” của Trung Quốc – một dự án toàn diện mở rộng ra các hướng Đông, Tây,
Nam, Bắc. Nếu phát triển thuận lợi, nó có thể hợp nhất khoảng 3 tỷ người. Trong khi đó,
dự án của Nga có dân số và thị trường nhỏ hơn tới 10-15 lần. Liên quan tới cơ sở hạ tầng,
Trung Quốc có thể giúp các quốc gia Trung Á khôi phục và xây dựng đường bộ và đường
sắt tới châu Âu. Trong khuôn khổ “Vành đai kinh tế Con đường Tơ lụa”, Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO) và Cộng đồng Kinh tế Á-Âu có thể hợp tác với nhau, và không loại trừ
khả năng bao hàm cả “Con đường Tơ lụa mới” của Mỹ. Nghĩa là dự án Trung Quốc sẽ
“nuốt” cả dự án của Nga và Mỹ.
Trên cơ sở ưu thế về vũ khí, trang bị và là nước xuất khẩu vũ khí lớn thứ hai thế giới
cùng với việc nước này đang thực hiện kế hoạch hiện đại hóa quân sự quy mô lớn, Nga dự
kiến sẽ thay thế một số thiết bị quân sự cũ bằng hệ thống vũ khí mới tiên tiến hơn và các vũ
khí cũ này có thể sẽ được bán với mức giá thấp cho các nước có mối quan hệ truyền thống.
Lô hàng đầu tiên trong kế hoạch chuyển giao vũ khí của Nga cho hai quốc gia trên sẽ được
thực hiện đầu năm nay trong khi kế hoạch của Mỹ dường như đang bị đình trệ do
Washington kèm vấn đề nhân quyền tại một số nước Trung Á. Các gói vũ khí do Nga cung
cấp sẽ giúp Kyrgyzstan và Tajikistan tăng đáng kể khả năng chiến đấu của quân đội hai
nước này và giảm mức độ phụ thuộc vào sự bảo vệ trực tiếp của Moskva, đồng thời sẽ đối
phó tốt hơn với các mối đe dọa từ một Afghanistan không ổn định, và với nước cờ mới
này, Nga có thể khẳng định vị thế thống trị của mình tại khu vực này trong bối cảnh cuộc
tranh giành ảnh hưởng giữa các cường quốc ở Trung Á ngày càng tăng.
Tiểu kết chương 3
Quan hệ Mỹ - Trung đã trãi qua 40 năm thăng trầm và là mối quan hệ song phương
quan trọng nhất trên thế giới hiện nay. Đó là quan hệ của một nước có thế mạnh nhất thế
giới về quân sự, chính trị và kinh tế nhưng đang bị suy yếu một cách rõ nét với một nước
đông dân nhất, có những bước phát triển kinh tế ngoạn mục, chiếm vị trí thứ hai thế giới;
cũng là mối quan hệ giữa một nước phát triển lớn nhất với một nước đang phát triển lớn
83
nhất thế giới.
Sự cộng gộp giữa Trung Quốc và Mỹ chiếm đến 1/10 diện tích đất đai, ¼ dân số,
1/3 GDP của thế giới. Tổng kim ngạch xuất khẩu thương mại hàng hóa chiếm 40% thế
giới. Tổng kim ngạch thương mại song phương giữa hai nước đạt mức 446,64 tỷ USD năm
2011. Mỹ và Trung Quốc là hai đầu tàu lớn của kinh tế thế giới, đều là Ủy viên thường trực
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các công việc
quốc tế.
Tương quan lực lượng giữa Mỹ và Trung Quốc đang có thay đổi đáng kể. Từ đầu
thế kỷ XX đến nay, Mỹ suy yếu tương đối, sau sự kiện 11/9/2001, rồi cuộc chiến ở
Afghanistan và Irac, đặc biệt là khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, Mỹ càng khó
khăn và tụt dốc. Tỷ trọng của Mỹ trong GDP thế giới giảm từ 27% năm 2000 xuống 26%
năm 2007.
Trong khi đó, Trung Quốc sau hơn 30 năm thực hiện cải cách, mở cửa, đã phát triển
thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới nếu tính theo tỷ suất sức mua (PPP), nền thương mại
lớn thứ ba thế giới và là “công xưởng của thế giới”, tương tự như Anh sau cuộc cách mạng
công nghiệp. GDP của Trung Quốc năm 2000 bằng 12% của Mỹ, tới năm 2010 lên 40%,
hiện nay vẫn tiếp tục gia tăng. Nếu như trong 20 năm qua, kinh tế Mỹ tăng trưởng trung
bình 3% mỗi năm, cao hơn của Nhật Bản 0,3%, cao hơn của Đức và Pháp tới 1,1% thì
cũng trong hai thập niên qua mỗi năm kinh tế Trung Quốc tăng 9,5%.
Quan hệ Mỹ - Trung là quan hệ phức tạp, có những điểm tương đồng và dị biệt, là
mối quan hệ điển hình về hợp tác và đấu tranh, cạnh tranh trong xu thế chung hiện nay.
Tương đồng và hợp tác vì cả hai nước đều cần nhau trong quan hệ kinh tế, thương
mại để cùng có lợi, thúc đẩy phát triển lẫn nhau. Mỹ hiện là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Trung Quốc và Trung Quốc chiếm tới 10% tổng sản lượng xuất khẩu của Mỹ2. Từ khi
gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn và
tăng nhanh nhất của Mỹ, riêng trong năm 2006, xuất khẩu của Mỹ sang Trung Quốc tăng
32% và nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc tăng 18%. Hai nguồn vốn lớn ổn định hệ thống
84
tài chính Mỹ là USD dầu mỏ và thặng dư thương mại của các nước khác, nhất là Trung
Quốc, nước có thặng dư thương mại lớn nhất thế giới. Ngược lại, Trung Quốc cần nguồn
vốn đầu tư lớn và khoa học công nghệ tiên tiến của Mỹ. Hiện nay khoảng một nữa tỷ trọng
của Trung Quốc trong công nghiệp chế tạo toàn cầu thuộc về các công ty nước ngoài, trong
đó các công ty Mỹ là một bộ phận rất quan trọng.
Sự dị biệt cũng rất rõ, Trung Quốc và Mỹ là hai nước khác biệt về chính trị, ý thức
hệ, truyền thống văn hóa, lịch sử. Hai nước luôn cạnh tranh, đấu tranh nhau vì lợi ích chiến
lược lâu dài; đồng thời dễ đụng độ nhau vì lợi ích trước mắt, thường xuyên ở nhiều lĩnh
vực và nhiều khu vực. Một số chính khách Mỹ cho rằng sự trổi dậy của Trung Quốc là đe
dọa nghiệm trọng những lợi ích và vị thế siêu cường của Mỹ, do đó cần phải ngăn chặn khi
Mỹ còn mạnh, trước khi quá muộn. Cũng có người cho rằng, sự trỗi dậy của Trung Quốc là
một cơ hội lớn. Mỹ không thể ngăn chặn nên cần phải “can dự” với Trung Quốc để định
hướng sự trỗi dậy này theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ. Song, quan điểm ủng hộ chính sách
“can dự” với Trung Quốc vẫn là chủ đạo. Tổng thống Barack Obama khi vận động tranh cử lần đầu đã khẳng định: “Trung Quốc là một đối thủ cạnh tranh nhưng không phải kẻ thù”.
Trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, quan hệ Mỹ - Trung
không chỉ diễn tiến trong khuôn khổ của hai nước, mà còn chịu tác động bởi những quan
hệ phức tạp khác trong các cấu trúc song phương, đa phương mà cả Mỹ và Trung Quốc
tham dự. Quan hệ giữa hai nước lớn nhất này còn là nhân tố tác động lớn đến trật tự kinh
tế- chính trị của thế giới đương đại, mà ở đó mỗi quốc gia, dân tộc đều có mong muốn hòa
bình, hợp tác, hữu nghị, bình đẳng, dân chủ và tiến bộ.
85
KẾT LUẬN
Cùng với những “điểm nóng” và “vấn đề nóng” hiện nay trong nền chính trị thế giới
như cuộc xung đột Trung Đông, vấn đề hạt nhận trên bán đảo Triều Tiên, vấn đề hạt nhân
Iran, chính sách đơn phương của Mỹ, sự trổi dậy của Trung Quốc… thì cuộc cạnh tranh
của Mỹ và Trung Quốc ở Trung Á vẫn thu hút được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều học
giả, các chuyên gia, các nhà phân tích chính trị. Trên thực tế, khó có thể đưa ra những đánh
giá chính xác về vị thế hiện nay của Mỹ và Trung Quốc ở Trung Á và cũng khó có thể làm
phép so sánh xem hiện nay Mỹ và Trung Quốc ai đang chiếm thế “thượng phong” ở Trung
Á.
Nhưng có điều rõ ràng là kể từ sau Chiến tranh Lạnh kết thúc đến nay, Trung Á đã
trở thành “bàn cờ” để Mỹ và Trung Quốc tranh giành ảnh hưởng và tùy từng thời điểm mà
nước này hay nước kia chiếm ưu thế. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc
cũng khiến cho nước này tự tin thâm nhập sau vào Trung Á qua con đường đầu tư thương
mại. Lúc này mặc dù là siêu cường duy nhất trên thế giới nhưng dường như Mỹ vẫn còn xa
lạ với khu vực này.
Trận tuyến chống khủng bố ở Afghanistan đã mở ra cơ hội “ngàn vàng” cho Mỹ
bước vào Trung Á. Vị thế có vẻ độc tôn và khá yên ổn của Trung Quốc bị đảo lộn. Và lúc
này, sự cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc không chỉ dừng lại ở mặc trận chính trị mà trên
cả lĩnh vực an ninh, kinh tế, văn hóa và đặt biệt là lĩnh vực dầu khí. Cuộc cạnh tranh khi
gay gắt, công khai, lúc trực diện, khi gián tiếp… nhưng dường như cường quốc nào cũng
đặt lợi ích quốc gia của mình lên trên hết. Dù vậy, khi cuộc cạnh tranh giành lợi ích có vẻ
được đẩy lên đến đỉnh điểm thì các cường quốc này cũng có những “điểm dừng” khá hợp
lý để bảo đảm sự yên ổn cho Trung Á bởi chỉ khi các quốc gia Trung Á ổn định thì những
lợi ích của các cường quốc này mới được đảm bảo.
Nhưng câu hỏi đặt ra là liệu Trung Quốc và Mỹ có thể “chung sống hòa bình” ở
Trung Á hay không? Có thể nhận thấy những lợi ích chung của Mỹ và Trung Quốc là cơ sở
86
khách quan để Mỹ và Trung Quốc có khả năng hình thành khung hợp tác ở Trung Á. Tuy
nhiên, để Trung Quốc và Mỹ có thể bắt tay hợp tác ở Trung Á, các bên cần phải khắc phục
hai trở ngại chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, hiểu và bỏ qua vấn đề Mỹ hiện diện quân sự lâu dài ở Trung Á. Mỹ đã
từng cam kết không duy trì sự hiện diện quân sự lâu dài ở Trung Á. Trung Quốc cũng hy
vọng như vây. Nhưng ý định thực tế của Mỹ là sẽ duy trì sự hiện diện quân sự lâu dài ở
Trung Á. Chấp nhận điều kiện này là tiền đề quan trọng để Trung Quốc và Mỹ hợp tác ở
Trung Á.
Thứ hai, tìm được hình thức thích hợp để Trung Quốc và Mỹ tiến hành hợp tác
mang tính cơ chế ở Trung Á. Trung Quốc và Mỹ không có bất cứ kênh đối thoại và sân
chơi hợp tác 2 bên nào ở Trung Á. Đây là trở ngại lớn cho đối thoại và hợp tác của 3 nước.
Vì vậy, quá trình hợp tác 2 bên giữa Mỹ và Trung Quốc ở Trung Á sẽ là khó khăn
và phức tạp. Nguyên nhân cơ bản là sự trái ngược trong mâu thuẩn an ninh truyền thống và
an ninh phi truyền thống. Trong khái niệm an ninh phi truyền thống, Mỹ và Trung Quốc
tồn tại mâu thuẩn. Việc giải quyết mâu thuẩn này được quyết định bởi sự thay đổi của quan
niệm, vừa được quyết định bởi sự hiểu biết lẫn nhau giữa Trung Quốc và Mỹ ở tầm cao
chiến lược.
87
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bảo Chung (2007), “Trung Á biết đi đường nào”, Báo Thế giới tại Việt Nam, trang 5
2. Đào Lê Minh, Nguyễn Ngọc Mạnh (2000), “Chiến lược kinh tế của Mỹ đối với khu vực
Châu Á – TBD sau chiến tranh lạnh”, Châu Mỹ ngày nay.
3. Đào Lê Minh, Nguyễn Ngọc Mạnh (2000), “Chiến lược kinh tế của Mỹ đối với khu vực
Châu Á – TBD sau chiến tranh lạnh”, Châu Mỹ ngày nay.
4. Đinh Quý Đôn (2000), “Chính sách kinh tế của Mỹ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương sau chiến tranh lạnh”, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Đỗ Minh Cao (2005), “Trung Quốc và ảnh hưởng Trung Quốc ở Trung Á”, Nghiên cứu
Trung Quốc, Số 3 (61), trang 51-57
6. Đỗ Minh Cao, “Chiến lược năng lượng của Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI”.
7. Đỗ Minh Cao, “Trung Quốc và vấn đề Trung Á”, Nghiên cứu Trung Quốc, số 4 năm 2005.
8. Đỗ Ngọc Toàn, Chiến lược “Đi ra ngoài” của Trung Quốc, Nghiên cứu Trung Quốc, số 2
năm 2005 Nguyễn Đình Luân (2004), “Tìm hiểu logic kinh tế trong chính sách đối ngoại
của Mỹ”,tạp chí nghiên cứu quốc tế số 3
9. Đỗ Tiến Sâm & M.L.Titarenko (2009), Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI, NXB Từ
điển Bách Khoa.
10. Đỗ Tiến Sâm (2007), “Báo cáo phát triển Trung Quốc: tình hình và triển vọng”, NXB Thế
giới.
11. Hồ An Cương (2003), Trung Quốc những chiến lược lớn, NXB Thông tấn.
12. Hồ Châu (2001), “Chiến lược đối ngoại của Nga thời kỳ Tổng thống Putin, Tạp chí nghiên
cứu Châu Âu, (số 3)
13. Lê Bá Thuyên (1997), Hoa Kỳ: Cam kết và mở rộng, Engagement and
EnlargementStrategy (Chiến lược toàn cầu mới của Mỹ), NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
14. Lê Khương Thùy: Chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Chính quyền G.W. Bush.
88
15. Lê Văn Mỹ (2007), “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Ngoại giao trong bối cảnh quốc tế
mới”, NXB Khoa học - xã hội.
16. Lê Văn Mỹ, Bước đầu tìm hiểu về “Ngoại giao láng giềng” của Trung Quốc từ sau Chiến
tranh Lạnh, Nghiên cứu Trung Quốc, số 3 năm 2005.
17. Lê Văn Sang (1996), “Chiến lược kinh tế Châu Á - TBD của Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay.
18. Mạnh Tường Thanh (2002), Chiến lược an ninh đối ngoại và vai trò quốc tế của Trung
Quốc.
19. Nghê Kiện Trung (2001), Trung Quốc trên bàn cân, NXB Chính trị Quốc gia. Tạp chí.
20. Nguyễn Huy Cố & Lê Huy Thìn (2006), “Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới”, NXB
Thế giới.
21. Nguyễn Huy Cố & Lê Huy Thìn (2006), Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới, NXB Thế
giới.
22. Nguyễn Thị Hạnh (2006), “Mỹ điều chỉnh chiến lược đối với ASEAN trên lĩnh vực an ninh,
quân sự và chính trị sau sự kiện 11/9/2001”, Châu Mỹ ngày nay.
23. Nguyễn Thiết Sơn. (2002), “Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI”, Trung tâm NC Bắc Mỹ, NXB
Khoa học xã hội - Hà Nội - 2002.
24. Oxtrovxkij: Vấn đề nhiên liệu – năng lượng và sự cần thiết phải tiến hành chính sách tiết
kiệm năng lượng và bảo vệ môi trường ở Trung Quốc , Nghiên cứu Trung Quốc, số 5 năm
2008.
25. Peter Nolan (2005), Trung Quốc trước ngã ba đường, NXB Chính trị quốc gia.
26. Phạm Quang Minh (2007), Tập bài giảng môn “Quan hệ quốc tế ở Châu Á - Thái Bình
Dương”
27. Phan Anh (11/2001), “Trung Á trong chiến lược toàn cầu của Mỹ”, Tạp chí kiến thức quốc
phòng hiện đại, trang 6-10.
28. Thế giới sau Chiến tranh Lạnh (2006), NXB Quân đội nhân dân.
29. Thông tấn xã Việt Nam (06/8/2005), “Mỹ - Trung Quốc – Nga tranh giành khu vực Trung
Á”, Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 8-11
30. Thông tấn xã Việt Nam (12/12/2004), “Trung Quốc, Nga và Mỹ có thể hợp tác ở Trung Á”,
các vấn đề quốc tế, trang 34-62
89
31. Thông tấn xã Việt Nam (12/12/2004), “Trung Quốc, Nga và Mỹ có thể hợp tác ở Trung Á”,
các vấn đề quốc tế, trang 38
32. Thông tấn xã Việt Nam (13/09/2003), “Trung Quốc ở Trung Á”, Tài liệu tham khảo đặc
biệt, trang 6-9
33. Thông tấn xã Việt Nam (15/08/2005), Trung Á và chính sách ngoại giao “Bàn cờ lớn”, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, trang 4-9.
34. Thông tấn xã Việt Nam (16/03/2007), “Về kế hoạch Đại Trung Á của Mỹ”, tài liệu tham
khảo đặc biệt trang 4-9
35. Thông tấn xã Việt Nam (18/5/2006), Ảnh hưởng địa-chính trị của dầu mỏ khu vực Caxpi,
Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 7-11
36. Thông tấn xã Việt Nam (20/03/2004), “Trung Á-tiêu điểm mới của cuộc đại chiến dầu
mỏ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 5
37. Thông tấn xã Việt Nam (20/03/2004), “Trung Á-tiêu điểm mới của cuộc đại chiến dầu
mỏ”, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 6
38. Thông tấn xã Việt Nam (21/02/2004), “Liên minh chiến lược Mỹ-Nga là có thể”, Tài liệu
tham khảo đặc biệt.
39. Thông tấn xã Việt Nam (22/08/2005) các tổ chức phi chính phủ Mỹ đứng sau các cuộc
“Cách mạng màu sắc” ở Trung Á, Tài liệu tham khảo đặc biệt trang 11-16
40. Thông tấn xã Việt Nam (25/10/2005), Mỹ và Nga tiếp tục giành ảnh hưởng ở Trung Á, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, trang 8-15
41. Thông tấn xã Việt Nam (3/8/2005), Caxpi-Một đấu trường giữa Trung Quốc và Mỹ, Tài
liệu tham khảo đặc biệt, trang 17-20.
42. Thông tấn xã Việt Nam (4/7/2005), Trung Quốc với các nước Trung Á đang biến đổi” Tài
liệu tham khảo đặc biệt, trang 11-15
43. Thông tấn xã Việt Nam (6/8/2005), “Mỹ-Trung Quốc-Nga tranh giành khu vực Trung Á”,
Tài liệu tham khảo đặc biệt, trang 4-9
44. Thông tấn xã Việt Nam (6/9/2005), Cục diện chính trị Trung Á đang thay đổi, Tài liệu
tham khảo đặc biệt trang 1-6
90
45. Thông tấn xã Việt Nam (6/9/2005), Liệu Mỹ có rút quân khỏi Trung Á, Tài liệu tham khảo
đặc biệt, trang 6-9
46. Thời Ân Hồng (2004), Chiến lược đối ngoại lâu dài của Trung Quốc, Các vấn đề quốc tế
tài liệu tham khảo đặc biệt.
47. Trương Hiểu Hà (2005), “Những sách lược làm thay đổi Trung Quốc”, NXB Văn hóa
thông tin.
48. Vương Dật Châu (2004), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, NXB chính trị Quốc
gia, Hà Nội
B. TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG ANH
49. A Precarious Balance: Clinton and China- Current History Review, 9/1998.
50. Alan Collins (200), The security Dilemmas of Southeast Asia, Singapore: ISEAS
51. Bonnie Glaser. Sino-U.S.: drawing lessons from 2005. Commetary February 3, 2006.
Pacific Forum CSIS.
52. Boris Rumen (2005) Central Asia at the End of the Tratrisition, New York: Armonk N.Y.
M.E. Sharpe, p.154
53. CSIS: Smart Power in US- China Relations, Mach 2009.
54. Christie, Clive J(2000), Lịch sử Đông Nam Á hiện đại,Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
55. Daniel Twinin,. Americas Grand Design in Asia. The Washington Quaterly. Summer 2007.
pp.79-94.
56. E.Grebenshicov (2003), Tạp chí Á – Phi ngày nay, số 1, HVCTQGHCM, thông tin chuyên
đề chính trị thế giới năm 2003, số 1 (3-2004).
57. Elizabeth Wishnick (2009), Russia, China, and The United States In Central Asia:
Prospects For Great Power Competition And Cooperation In The Shadow Of The
Georgian Crisis. www.strategicstudiesinstitute.army.mil/pdffiles/PUB907.pdf
58. Erica Downs (2011), Inside China, Inc: China Development Basnk‟s Cross-Border Energy
Deals, John L. Thornton China Center Monograph Series, Brookings, Number 3, p87.
59. Evelyn Goh, Understanding Hedging in Asia - Pacific Security. Commetary September 1,
2006. Pacific Forum CSIS.
91
60. Frank Ching. U.S. and China: The Great Thaw. Commetary October 26, 2006. Pacific
Forum CSIS.
61. Gerald D. Finn (2007), China- US Economic and Geoographic relations, Nova Scien
pubilsihers.
62. Grant E. ( 2000), Where China meet Southeast Asia. Social and Culture Change in the
border regions. USA: St. Martin Press.
63. James A. Kelly (Former Assistant Secretary of State, Counselor to the Pacific Forum and
Senior Adviser to CSIS) Commentary (March 10, 2005).
64. James A.Lelly (2004), Bản điều trần trước ủy ban đối ngoại hạ Viện Mỹ, Ngày 2/6/2004.
65. John Fuston (2001), Government and Politics in Southeast Asia, Singapore: ISEAS.
66. Joseph S. Nye. The Future of U.S China Relations. Commetary March 17, 2006. Pacific
Forum CSIS
67. Lehman, F. K..(1981), Military Rulein Burma Since1962, Singapore:Maruzen Asia.
68. Lord Winston (1993), Confirmation Hearing, Statement before the Senate Foreign
Relation Committee, Washington, DC, March 31.
69. Martha Olcott (2005) The Great Powers in Central Asia, Carnegie Endownment, 2005,
trang 331-335
70. Michael T. Klare. Not Terrorism China drives up US Military Spending. Commetary April
7, 2006. Pacific Forum CSIS.
71. Ralph A. Cossa. 2006 National Security Strategy: Its All About Democracy. Pacific Forum
CSIS. Commentary, March 29, 2006.
72. Randall B. Ripley và James M.Lindsay: Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau Chiến tranh
lạnh. NXB. Chính trị quốc gia, Nà nội-2002.
73. Richard F. Grimmentt (2002), “Việc sử dụng sức mạnh quân sự phủ đầu của Hoa Kỳ: hồ
sơ phủ đầu”, Chương trình nghị sự Chính sách đối ngoại Mỹ, Tạp chí Điện tử Bộ Ngoại
giao Hoa Kỳ, số 4, tập 7.
74. Robert Sutter (2009), The Obama administration and US policy in Asia, Contemporary
Southeast Asia
92
75. Robert Sutter, Why Rising China Cant Dominate Asia. Commetary September 11, 2006.
Pacific Forum CSIS.
76. Robert Zoellick. U.S. Wants Deeper Cooperation with China, States Zoellick Says. Meeting
with Chinese Officials, initiates Strategy Dialogue, 03 August 2005.
77. Sara Shenker (2005), “Struggle for Influnce in Central Asia”, BBC,
http://news.bbc.co.uk/go/pr/fr/-/world/asia-pacific/4467736.stm
78. Stephen Bosworth. U.S. Interests in a changing Asia. Commetary September 8, 2006.
Pacific Forum CSIS.
79. Stephen M.Walt (2005), “In the National Interest: A New Grand Strategy for American
Foreign Policy”http://www.bostonreview.net/BR30.1/walt.html
80. The White House (2002). The National Security Strategy of the United States of America,
http://whitehouse.gov/nse/nss3.html.
81. The World Factbook, July 2010, http://www.worldfactbook.com
82. Thomas J. Christensen. U.S. Relations with the Peoples Republic of China. Statement
before the House Committee on Foreign Affairs, Subcommittee on Asia, the Pacific and the
Global Environment. Washington DC, March 27, 2007.
83. U.S Security Policy Challenges for the 21th Century. USIA Review, 1998. N03, Vol.3
(7/1998).
84. US Agency for International Devolopment (2004), US Foreign Aid: Meeting the
challenges of the 21st Century, January, http://usinfo.state.gov.
85. US Congress (2005), “China-Sountheast Asia Relations: Trends, Issues and Implications
for the United States”, Congressional Resarch Service Report for Congress, February 8.
86. US Department of State, Rumsfeld disscuses military response to terrorist attacks,
Washington
87. Vladimir Naumkin (2008), “Sự trỗi dậy của Nga: Những tác động tới khu vực Châu Á-Thái
Bình Dương”, Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 73, trang 6-11
88. Zhinqun Zhu (2009), US- China relations in the 21 st century: power transition and peace.
http://www.crisisgroup.org/~/media/Files/asia/north-east-asia/244-chinas-central-asia-
problem.pdf