BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ MỸ HẠNH

ĐÓNG GÓP CỦA PHÓNG SỰ VÀ TIỂU

PHẨM NGÔ TẤT TỐ ĐỐI VỚI VĂN HỌC

VIỆT NAM 1930 - 1945

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN THÀNH THI

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007

MỞ ĐẦU

1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Ngô Tất Tố được coi là một trong những cây bút xuất sắc nhất của dòng văn học hiện

thực Việt Nam 1930-1945. Tài năng của ông được bộc lộ trên nhiều phương diện: sáng tác,

khảo cứu, dịch thuật… Ring ở mảng sáng tác, ông bộc lộ tài nămg trên nhiều thể loại: tiểu

thuyết, phóng sự, tiểu phẩm báo chí… Với thể loại nào, ơng cũng đã để lại những dấu ấn

sâu sắc trong lòng bao thế hệ độc giả. Chính vì thế suốt sáu thập kỉ qua, thân thế và sự

nghiệp sáng tác của ông đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, phê bình và biết bao

thế hệ sinh viên, học viên.

Tuy vậy, việc nghiên cứu văn chương Ngô Tất Tố chưa thật toàn diện, sự hiểu biết của

các thế hệ độc giả về ông cũng chưa đầy đủ: Người ta hầu như mới chỉ biết và quan tâm

nhiều đến một nhà tiểu thuyết Ngô Tất Tố với Tắt đèn, Lều chng mà chưa biết hoặc ít quan

tâm đến một nhà phóng sự Ngô Tất Tố với Việc làng, Tập án cái đình, một nh tiểu phẩm

Ngô Tất Tố với hàng trăm thậm chí hàng ngàn bài báo sắc sảo và có giá trị văn học. Gần

đây, khi cc tập Ngô Tất Tố chuyện người đương thời và Ngô Tất Tố tiểu phẩm báo chí của

nhà xuất bản Hội nhà văn ra mắt độc giả, không ít người giật mình: hĩa ra tất cả những gì đ

biết về Ngơ Tất Tố mới chỉ l một gĩc nhỏ; tc phẩm của ơng như lâu nay đ biết chỉ chiếm

khoảng một phần mười so với văn nghiệp phong phú, đồ sộ của ông. Trong phần tác phẩm

của Ngô Tất Tố mới ra mắt độc giả ấy, phóng sự và nhất là tiểu phẩm chiếm một số lượng

lớn. Việc tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu về ơng nhất l mảng phĩng sự, tiểu phẩm vì vậy sẽ gip

chúng ta vẽ lên một bức chân dung văn học đúng, đủ trung thực và sâu sắc về nhà văn- nhà

báo Ngô Tất Tố.

Trước đây, sách giáo khoa văn học ở trường phổ thông đ đưa tác phẩm Tắt đèn (Phổ

thông cơ sở), Lều chng (Phổ trông trung học) vào giảng dạy, đọc thêm. Hiện nay sách Ngữ

văn 11 lại giới thiệu thêm với công chúng học đường phóng sự Việc lng của Ngô Tất Tố

(bài đọc thm: Nghệ thuật băm thịt gà). Đó là một sự bổ sung rất kịp thời và cần thiết. Điều

đó càng cho thấy những người giáo viên văn học ở trường phổ thông như tác giả luận văn

này cần phải đọc, tìm hiểu cập nhật về Ngơ Tất Tố v sự nghiệp văn chương của ông, kịp

thời bổ sung những gì chưa biết, để việc giảng dạy tốt hơn.

Đó cũng chính là lí do chúng tôi chọn “Đóng góp của phóng sự và tiểu phẩm Ngô Tất

Tố đối với văn học Việt Nam 1930-1945” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.

2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Việc nghiên cứu về thân thế và sự nghiệp Ngô Tất Tố tính đến nay đã cĩ nhiều thành tựu

với một bề dày đáng quý, rất thuận lợi cho tất cả những ai đến sau muốn tìm hiểu su về ơng.

Có thể điểm qua một số bài viết và những công trình nghiên cứu về Ngô Tất Tố từ sau năm

1930 trở về đây để thấy rõ điều đó.

Theo trục thời gian, chng tơi tạm chia lịch sử nghiên cứu về Ngô Tất Tố, trong đó có

phóng sự và và tiểu phẩm thành ba chặng đường: trước 1945, 1945-1975 v sau 1975.

(cid:31) Trước 1945

Tuy thời kì ny chưa có nhiều công trình nghin cứu ring, nhưng sáng tác văn học và

báo chí của Ngô Tất Tố ngay từ năm 1931 đ được đánh giá rất cao. Tiu biểu l cc ý kiến của

Vũ Trọng Phụng, v cơng trình nghin cứu Vũ Ngọc Phan.

Vũ Trọng Phụng trong bài giới thiệu về tác phẩm Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã gọi Ngơ

Tất Tố l “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám làng nho”. (Báo Thời vụ số ra ngày

31.01.1931)

Trong “Nhà văn hiện đại”(1938-1940) Vũ Ngọc Phan khi giới thiệu bảy mươi chín

nhà văn Việt Nam tham gia sáng tác bằng chữ quốc ngữ từ cuối thế kỉ XIX đến đầu những

năm 40 của thế kỉ XX cũng đ dnh cho Ngơ Tất Tố một vị trí vẻ vang. Ơng gọi Ngơ Tất Tố l

“một tay kì cựu trong làng văn làng báo Việt Nam” “cĩ ĩc ph bình, cĩ trí xt đoán, có tư tưởng

mới”, v nhấn mạnh: “… về đường văn nghệ ông đã theo kịp cả những nhà văn thuộc phái

tân học xuất sắc nhất. Ngô Tất Tố là một nhà nho mà viết được những thiên phóng sự và

những thiên tiểu thuyết theo nghệ thuật Tây phương và ông đã viết bằng một ngòi bút đanh

thép, làm cho phái tân học phải khen ngợi”. Nhận xét này của Vũ Ngọc Phan đã khẳng định

tư tưởng mới mẻ, tiến bộ và tài năng nghệ thuật của Ngô Tất Tố. Tuy nhiên trong khi giới

thiệu tác phẩm của Ngô Tất Tố, Vũ Ngọc Phan chỉ giới thiệu “Việc làng”, “Lều chõng” và

một số công trình khảo cứu khác, không đề cập đến những bài văn ngắn của Ngô Tất Tố.

(cid:31) Từ năm 1945 đến năm 1975

Năm 1954, trên tạp chí Văn nghệ (số 54). Nguyên Hồng đã có bài viết xúc động về nhà

văn, nhà tiểu thuyết lão thành Ngô Tất Tố. Nguyên Hồng đã ghi nhận những đóng góp tích

cực của Ngô Tất Tố trong việc phản ánh đúng sự thật đời sống của người nông dân nơi luỹ

tre xanh. Ông viết: “Người nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa

ánh lên cái sức đấu tranh nhưng sự thống khổ của họ đem phơi bày ra đã được một phần

nào thật, thật trên cái đen tối của chế độ tàn bạo và ruỗng nát lúc bấy giờ”[33, tr.44].

Nguyên Hồng cũng cho rằng, nhân cách, con người và thái độ đấu tranh không mệt mỏi của

Ngô Tất Tố đáng để cho người đời sau học tập. Ông khẳng định: “Cái hình ảnh Ngô Tất Tố

dứt khoát với thù địch, không đội giời chung với thù địch, cái hình ảnh đôi mắt kính vằng

vặc say mê cúi xuống những dòng chữ rắn rỏi rõ ràng, miết lên những trang giấy giang

vàng ngà trên bàn tre làm việc, hình ảnh đó chúng ta luôn tưởng nhớ, xót xa thương tiếc,

quyết tâm học tập và nguyện sát cánh nhau chặt hơn nữa, làm việc nhiệt tình tận tụy, quyết

thắng”[33, tr.48]. Đó chính là tinh thần mà Ngô Tất Tố để lại cho đồng nghiệp và những thế

hệ sau. Bài viết của Nguyên Hồng đã khẳng định sự ảnh hưởng của Ngô Tất Tố đối với các

đồng nghiệp.

Trên tạp chí Văn nghệ số 8 năm 1958, Bùi Huy Phồn cũng có những đánh giá rất khách

quan về Ngô Tất Tố qua phóng sự “Việc làng”. Bùi Huy Phồn cho rằng lập trường giai cấp

của Ngô Tất Tố còn mơ hồ cho nên còn một số hạn chế nhỏ trong “Việc làng”. Ông cũng

cho rằng sự hạn chế này không lấy gì làm lạ, vì Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ một nhà nho.

Bùi Huy Phồn cũng khẳng định đóng góp lớn nhất của “Việc làng” là đã phản ánh một cách

chân thực đời sống của người dân quê, những nỗi thống khổ về tinh thần mà khó ai có thể

nhìn thấy được. Từ xưa đến nay người ta chỉ thấy người nông dân bị bóc lột về kinh tế, áp

bức về chính trị, ít ai thấy được nỗi khổ của người nông dân dưới gánh nặng của hủ tục.

Năm 1961, trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 3, Nguyễn Đức Đàn, qua phân tích một

số tác phẩm của Ngô Tất Tố trước 1945, đã chỉ ra “sự sáng tạo nghệ thuật của Ngô Tất Tố

có một ý nghĩa vị nhân sinh rõ rệt” [33, tr.65]. Nguyễn Đức Đàn đi đến kết luận “Bao giờ

ông – tức Ngơ Tất Tố - cũng đứng về phía những người bị đày đọa, bị áp bức. Chính nhờ đó

mà nhà văn đã vẽ lên được bức tranh chân thực của xã hội đương thời. Trong hoàn cảnh

lúc bấy giờ, ngòi bút Ngô Tất Tố dám dũng cảm tố cáo những cái xấu xa thối nát của xã

hội, xây dựng những hình tượng đẹp đẽ về người lao động cùng khổ đã là một thành công

lớn” [33, tr.66]

Năm 1962, trên tạp chí Văn nghệ số 61, Nguyễn Đức Bính cũng viết bài bàn về con

người và văn chương Ngô Tất Tố. Trong đó ông có đề cập đến phóng sự “Việc làng”, và

các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố. Nguyễn Đức Bính tiết lộ “Quyển Việc làng ra đời

năm 1940. Nhưng có thể tác giả đã nhẩm từ lâu, trong những buổi nhàn đàm với anh em ở

toà soạn tờ báo Hàng Da”. Ông còn cho rằng “Nếu có ai cho rằng đó là một tập văn kí sự

ghi lại những tệ tục ở nông thôn thì thật chưa hiểu được dụng ý của người viết. Mặc dù lời

văn có khi nặng tích chất khách quan của kẻ quan sát hiện thực, nhưng nên tìm ở trong đó

một tấm lòng nói thay cho nhiều tấm lòng” [33, tr.69]. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố,

Nguyễn Đức Bính khẳng định: “Ngô Tất Tố có một lối viết mới, độc đáo nữa là khác, không

chút gì nhắc lại lối văn biền ngẫu của các cụ đồ, giọng văn khi đậm đà, khi duyên dáng,

nhưng đặc biệt là dí dỏm; câu văn sắc cạnh, trong sáng, ngắn gọn, chữ dùng thường mạnh

dạn và ý nhị”[33, tr.77].

Trong quyển “Lịch sử văn học Việt Nam” tập 5 (1930-1945), xuất bản tại Hà Nội năm

1973, Nguyễn Đăng Mạnh khi phê bình “Lều chõng” và “Việc làng”, đã phân tích một số

đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật của phóng sự “Việc làng”. Ông nhìn nhận ở Ngô

Tất Tố một “lòng cảm thương sâu sắc đối với người nông dân”, “càng thông cảm với người

nông dân bao nhiêu , Ngô Tất Tố lại càng căm ghét bọn cường hào địa chủ bấy nhiêu”. Về

nghệ thuật, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: cả tập phóng sự Việc làng của Ngô Tất Tố tuy

quanh đi quẩn lại chủ yếu là nạn xôi thịt, nhưng với lối kể chuyện linh hoạt, người đọc

không thấy đơn điệu. Cuối cùng ông kết luận “Việc làng là một tập án đanh thép về hủ tục

và nạn cường hào ở nông thôn Việt Nam”.

Nhìn chung ở giai đoạn này, Người ta nhắc nhiều đến tiểu thuyết và phóng sự của

Ngô Tất Tố. Mảng văn tiểu phẩm chưa được đi sâu vào nghiên cứu. Từ sau năm 1975,

người ta mới bắt đầu chú ý tới những bài văn ngắn này của ông.

(cid:31) Sau 1975

Năm 1977, Nhà xuất bản văn học Hà Nội in “Ngô Tất Tố- Tác phẩm” Phan Cự Đệ chủ

biên. Đây là công trình đầu tiên giới thiệu một cách tương đối toàn diện về Ngô Tất Tố và

những thành công của ông trên các lĩnh vực: báo chí, sáng tác văn học, nghiên cứu dịch

thuật… Riêng ở lĩnh vực báo chí, tác giả đã có công sưu tầm và giới thiệu 112 bài báo của

Ngô Tất Tố được viết trong khoảng thời gian từ 1929-1943.

Trong cơng trình ny, Phan Cự Đệ, cũng như nhiều nhà nghiên cứu hồi bấy giờ nhận xét

đánh giá cịn nặng ci nhìn soi xt nhân thân, quan điểm lập trường của Ngô Tất Tố. Tuy vậy,

đáng chú ý là nhà nghiên cứu đ khẳng định: Ngô Tất Tố, với tư cách l “người bạn đường tin

cậy của giai cấp công nhân”, luôn đứng trên quyền lợi của dân tộc, của quần chúng bị áp

bức, luôn xuất phát từ một tấm lòng yêu nước thương dân mà sáng tác.

Về nghệ thuật, Phan Cự Đệ đánh giá cao nghệ thuật châm biếm sắc sảo của Ngô Tất Tố:

“… bất cứ lúc nào có điều kiện, Ngô Tất Tố sẵn sàng sử dụng những đòn đánh thẳng vào

mặt đối phương, không kiêng nể và ông phân biệt rất rõ lối đả kích và trào lộng đả kích để

đánh địch. Lối hài hước và trào lộng hài hước là để giải quyết những vấn đề mâu thuẫn

trong nội bộ nhân dân. Nụ cười của Ngô Tất Tố không phải là sự chế giễu lạnh lẽo vô tình,

không phải là thái độ bông phèng “lùng tùng xoè” như nhóm Tự lực văn đoàn, cũng không

phải là sự đả kích đôi khi vô chính phủ theo quan điểm hư vô chủ nghĩa của Vũ Trọng

Phụng, mà đây là một sự phê phán xã hội đứng trên lập trường một người trí thức yêu nước.

Chính lập trường đó đã tạo nên tiếng cười của Ngô Tất Tố, có nội dung xã hội sâu sắc, lành

mạnh, lạc quan và nói chung lúc nào cũng nhằm trúng đích, bắn chính xác vào kẻ thù của

dân tộc và của quần chúng bị áp bức bóc lột” [17, tr.57].

Năm 1978, Nhà xuất bản Giáo dục xuất bản công trình “Lịch sử văn học Việt Nam” của

Nhóm tác giả Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh,

Nguyễn Trác. Trong đó có một chương viết về “Ngô Tất Tố- nhà báo” do Nguyễn Đăng

Mạnh biên soạn. Nguyễn Đăng Mạnh đã nêu khái quát cuộc đời làm báo của Ngô Tất Tố, và

cũng đi đến những nhận xét rất tích cực “Nhìn chung, qua những bài bình luận, bút chiến,

phóng sự, ta thấy Ngô Tất Tố thực sự là một nhà báo hăng hái và chân thành chiến đấu cho

những yêu cầu cải cách dân chủ thật sự vì lợi ích của nhân dân lao động. Những việc ông

làm, những điều ông đấu tranh như thế đã khiến ông gần với cách mạng” [24, tr.201].

Nhìn chung, trong chương viết về Ngô Tất Tố, Nguyễn Đăng Mạnh đã đi vào nhận xét

những thành tựu, những ưu khuyết điểm của nhà báo Ngô Tất Tố về nội dung tư tưởng,

chưa đi vào phân tích giá trị nghệ thuật trong các tiểu phẩm của ông.

Năm 1987-1988, khoa Ngữ văn-báo chí, trường đại học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí

Minh ấn hành và lưu hành nội bộ giáo trình “Văn học Việt nam 1930-1945” (2tập) do Trần

Ngọc Hồng biên soạn. Phần viết về Ngô Tất Tố cĩ đề cập đến thành tựu của Ngô Tất Tố qua

hai tác phẩm “Việc làng” và “Tắt đèn” không thấy đề cập đến các tác phẩm báo chí.

Năm 1993, Nhà xuất bản văn học cho in “Tuyển tập Ngô Tất Tố” (2 tập) do Phan Cư Đệ

sưu tầm tuyển chọn, Trương Chính sắp xếp và giới thiệu. Trong lời giới thiệu về Ngô Tất

Tố, Trương Chính cũng đồng tình với quan điểm của Phan Cư Đệ cho rằng Ngô Tất Tố đã

vượt qua mọi sự ràng buộc của tư tưởng Nho giáo, là “một người có tư tưởng độc lập,

không chịu nhắm mắt theo những thành kiến của cổ nhân”. Ông cũng đi đến nhận định Ngô

Tất Tố là một nhà nho yêu nước, thương dân “Phú quý không ham, nghèo hèn không đổi dạ,

uy quyền không thể khuất phục”. Ngoài ra, Trương Chính còn phân tích để chỉ ra quan niệm

tiến bộ, nghiêm túc của Ngô Tất Tố trong nghề báo. Trương Chính không quan tâm nhiều

đến những hạn chế trong tư tưởng của Ngô Tất Tố mà chủ yếu tập trung làm nổi bật những

quan niệm tiến bộ của nhà nho Ngô Tất Tố, và khẳng định những thành công của ông về nội

dung cũng như nghệ thuật. Theo Trương Chính thì tiểu phẩm của Ngô Tất Tố gần với tạp

văn của Lỗ Tấn.

Đến năm 1999, nhà xuất bản giáo dục tái bản lần ba công trình “Văn học Viêt Nam

1900-1945”. Trong đó có chương XIII viết về Ngô Tất Tố do Phan Cự Đệ phụ trách. Phan

Cự Đệ đi phân tích từ tư tưởng tiến bộ của một nhà nho nghèo yêu nước đến những tác

phẩm tiêu biểu cho thành công của Ngô Tất Tố trên con đường nghệ thuật. Ông giới thiệu

về các tác phẩm phê bình, về tiểu thuyết “Tắt đèn”, về các phóng sự “Việc làng” và “Tập án

cái đình”, và về các tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố .

Ở phần viết về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Phan Cự Đệ đã khẳng định những đóng góp

lớn lao của Ngô Tất Tố về nội dung cũng như nghệ thuật. Về nội dung Phan Cự Đệ viết

“Văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố dường như làm thành một bộ sử biên niên của xã hội Việt

Nam những năm từ trước 1930 cho đến hồi đại chiến lần thứ hai” [21, tr.395]. Về nghệ

thuật thì “các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vừa mang tính chất của một bài bình luận chính trị,

bình luận xã hội nhưng đồng thời cũng là một tác phẩm văn học. Do đó nó vừa phải có sức

thuyết phục logic, có căn cứ và lập luận chặt chẽ, vừa phải xây dựng được những hình

tượng và có một sức truyền cảm mạnh mẽ, sâu sắc đối với người đọc” [21, tr.395]. Và,

“phong cách châm biếm trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là sự kết hợp hài hoà cái thâm

thuý của một nhà nho trí thức với cái vui hồn hậu, lạc quan, tính chiến đấu mạnh khỏe của

văn học dân gian” [21, tr.400].

Hai tập phóng sự “Việc làng” và “Tập án cái đình” cũng được Phan Cự Đệ đánh giá cao.

Ơng đặc biệt khẳng định giá trị hiện thực vào tính chiến đấu của nó “Trong hai phóng sự

“Tập án cái đình” và “Việc làng”, Ngô Tất Tố tìm cách phơi trần những sự thật xấu xa về

các hủ tục ở nông thôn, xem đó là một cái gì vô lý “quái gở”, “mọi rợ” và đặt chính quyền

thực dân trước nhiệm vụ phải giải quyết” [21, tr.409]

Nhìn chung, với bi viết ny, Phan Cự Đệ đã đưa ra được một cái nhìn khái quát toàn bộ

văn nghiệp của Ngô Tất Tố, chỉ ra một cách tương đối thỏa đáng những thành công, hạn chế

trong tư tưởng chính trị cũng như về hình thức thể hiện trong sng tc của nhà văn.

Xuất phát từ sự quan tâm sâu sắc đến nghệ thuật viết tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, năm

1983, trên tạp chí Văn học số 6, Lê Thị Đức Hạnh viết bài “Đặc sắc trong tiểu phẩm của

Ngô Tất Tố”. Trong bi viết ny, với lưu ý “những bài viết này chưa ai nghiên cứu kĩ, chưa

được chú ý nhiều về nghệ thuật, nhất là nghệ thuật trào phúng”, Lê Thị Đức Hạnh cho rằng:

“những tiểu phẩm của ông (Ngô Tất Tố) rất giàu tính nghệ thuật, là sự kết hợp nhuần

nhuyễn giữa lý trí và hình tượng thông qua những sự kiện, những tài liệu cụ thể, tạo nên

một sức thuyết phục mạnh”. Trong khi đi sâu phân tích nghệ thuật trào phúng trong tiểu

phẩm của Ngô Tất Tố, tác giả bài báo khẳng định: “… Ngô Tất Tố rất già dặn trong việc

vận dụng linh hoạt, sáng tạo nhiều thủ pháp nghệ thuật khi đề cập đến các vấn đề của xã

hội đương thời. Ông biết khai thác đề tài bằng cách đối lập một hiện tượng nào đó với khát

vọng mong muốn của nhân dân. Ông biết tô đậm những mâu thuẫn của hiện thực và khi thể

hiện chúng thì thông qua một ngôn ngữ giàu hình ảnh, đậm đà chất trữ tình nên ông đã tạo

được một hiệu quả phê phán lớn. Sự thông minh hóm hỉnh là một đặc trưng quan trọng của

nghệ thuật trào phúng cũng thấy bộc lộ qua từng câu, từng chữ, có khi trong toàn bài, đã

làm cho văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố để lại những ấn tượng khó quên trong lòng người

đọc” [33, tr.423-424].

Cũng nói riêng về tiểu phẩm, năm 1998, trên tạp chí Văn học số 11, Hà Minh Đức viết

bài “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố”. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, Hà

Minh Đức đánh giá cao tính thời sự, và tính luận chiến của nó: “Ngô Tất Tố không viết tiểu

phẩm để in trong sách hoặc trong tạp chí hàng tháng, nhiều tháng mà chủ yếu là in trên báo

hàng ngày, hàng tuần với tinh thần thời sự ứng chiến” [33, tr.444]. Hà Minh Đức cũng ghi

nhận tinh thần thương yêu dân và đấu tranh với những thế lực bóc lột đàn áp nhân dân. Tác

giả nhận định sự phê phán, đả kích của Ngô Tất Tố là không chạy theo từng việc nhỏ mà

“có cái nhìn bao quát vào bức tranh chung của xã hội, nhìn vào bản chất của các hiện

tượng”.

Năm 2001, Nhà xuất bản giáo dục đã xuất bản quyển sách “Ngô Tất Tố về tác gia và tác

phẩm” do Mai Hương và Tôn Phương Lan tuyển chọn và giới thiệu. Quyển sách đã tập hợp

tương đối đầy đủ những bài viết, những lời giới thiệu v những bài phê bình, nghiên cứu về

nhà văn- nhà báo-nhà dịch thuật Ngô Tất Tố. Trong đó có bài viết “Ngô Tất Tố tài năng và

tấm lòng” của Mai Hương, thể hiện lòng mến phục và trân trọng đối với Ngô Tất Tố. Đáng

chú ý l ý kiến giải thích về văn tài và động cơ viết văn của Ngô Tất Tố: “… Vượt lên mọi hư

danh, cám dỗ, Ngô Tất Tố “đã biết đánh đổi cơm áo để lấy cái quyền viết theo chỉ thị của

trái tim mình”, trái tim chỉ thuộc về đất nước mà ông hết lòng yêu thương, chỉ thuộc về

nhân dân mà ông thiết tha gắn bó. Chính đó là cái lõi để tạo nên tài năng lớn, đa dạng nơi

ông” [33, tr.30-31]

Nhìn chung dù viết dưới dạng bài báo, bài nghiên cứu, phê bình hay bài giới thiệu, dù

phân tích các tác phẩm tiểu thuyết, phóng sự, tiểu phẩm hay dịch thuật, phê bình, các nhà

nghiên cứu đều có sự nhìn nhận, đánh giá thống nhất với nhau ở quá trình phát triển tư

tưởng, quá trình lao động, sáng tạo, và quá trình đấu tranh không mệt mỏi vì nhân dân và

dân tộc của nhà văn lão thành Ngô Tất Tố. Tất cả mọi lời nhận định đều khẳng định tài năng

về mọi mặt của Ngô Tất Tố và những cống hiến to lớn của ông đối với nền văn học dân tộc,

với việc bảo tồn và phát huy những nét đẹp văn hoá vốn có của đất nước. Một số hạn chế

trong tác phẩm và tư tưởng của ông nếu được vạch ra, không hề làm giảm đi lòng yêu mến

và sự cảm phục của các đồng nghiệp và của các thế hệ độc giả từ xưa đến nay.

Tìm hiểu lịch sử nghin cứu vấn đề, ta nhân thấy:

Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu riêng, sâu về các mảng sáng tác của Ngô

Tất Tố. Phần lớn các sách thường chỉ sưu tầm và biên tập lại những bài viết trên các báo, tạp

chí hay một bài nghiên cứu nhỏ về Ngô Tất Tố.

Thứ hai, thnh tựu nghin cứu về sự nghiệp văn chương, báo chí của Ngô Tất Tố tính đến

nay đ kh dy dặn, phong ph. Giới nghin cứu cng ngy, cng mở rộng, khơi sâu nhiều mặt giá trị

trong sự nghiệp viết văn của ông, càng khẳng định thêm vị trí quan trọng của ông trong lịch

sử văn chương và báo chí Việt Nam 1930-1945. Việc cơng bố, in ấn cc cơng trình nghin

cứu về ơng trước thời đổi mới, trong một thời gian dài không tiến triển được bao nhiêu.

Có những cuốn sách về Ngô Tất Tố nhan đề tuy khác nhau nhưng nội dung bên trong

cũng chỉ là những bài viết cũ của các nhà phê bình quen thuộc. Mảng văn được nghiên cứu

nhiều và sâu nhất là tiểu thuyết, cụ thể là tác phẩm “Tắt đèn”, “Lều chõng”. Với thể loại

phóng sự, phần lớn các nhà nghiên cứu cũng chỉ xoay quanh phóng sự “Việc làng”, còn

“Tập án cái đình” và một số phóng sự khác chỉ được nói chung chung. Riêng mảng văn tiểu

phẩm, chiếm số lượng lớn trong văn nghiệp của Ngô Tất Tố, hầu như chưa được đầu tư

nghin cứu một cách xứng đáng ngoài những bài nghiên cứu của Nguyễn Đăng Mạnh, Lê

Thị Đức Hạnh, Trương Chính, Phan Cự Đệ, Vũ Quần Phương, Hà Minh Đức được in trong

nhiều tuyển tập nghiên cứu về Ngô Tất Tố.

Thực tế đó cho thấy việc nghiên cứu về phóng sự và tiểu phẩm của Ngô Tất Tố vẫn là

một việc làm hết sức cần thiết và có ý nghĩa.

3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Khi thực hiện đề tài này chng tơi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu chủ yếu

sau đây:

- Phương pháp so sánh: đặt các sáng tác của Ngơ Tất Tố trong sự đối chiếu so sánh với

các nhà văn khác nhất là các nhà văn cng thời với ông để tìm ra những đóng góp tích cực

của tiểu phẩm và phóng sự Ngô Tất Tố.

- Phương pháp hệ thống: đặt tiểu phẩm và phóng sự Ngơ Tất Tố trong trong tồn bộ sự

nghiệp sáng tác của ông cũng như trong bối cảnh văn xuôi nghệ thuật Việt Nam 1930-1945

để nghiên cứu, đánh giá đúng và đủ hơn về đóng góp của ông.

- Phương pháp loại hình được sử dụng để nghiên cứu phĩng sự, tiểu phẩm của Ngơ Tất

Tố từ gĩc nhìn thể loại.

Tất cả những quan điểm, những phương pháp được vận dụng nghiên cứu đề tài đều đứng

trên lập trường của chủ nghĩa duy vật Mác-Lênin để nhìn nhận, đánh giá vấn đề một cách

khách quan và khoa học.

4. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI

Mặc dù tài năng của Ngô Tất Tố thể hiện trên nhiều bình diện nhưng đề tài chỉ hướng

vào tìm hiểu những tác phẩm thuộc hai thể loại tiểu phẩm và phóng sự của ông.

Về phóng sự, chủ yếu tìm hiểu tập phóng sự “Việc làng”, “Tập án cái đình”, để thấy

được cái nhìn của Ngô Tất Tố về nông dân và nông thôn Việt Nam.

Về tiểu phẩm, số lượng tác phẩm mới tìm thấy của ông rất nhiều. Chúng tôi sẽ tiến hành

khảo sát các tiểu phẩm tiêu biểu trong ba quyển sách “Ngô Tất Tố tiểu phẩm báo chí”, Ngô

Tất Tố chuyện người đương thời” của nhà xuất bản Hội nhà văn, xuất bản năm 2005,

và“Ngô Tất Tố toàn tập”, tập 1, và chủ yếu là những tác phẩm được sáng tác trước 1945.

5. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Thông qua việc nghin cứu tiểu phẩm và phóng sự, hai mảng thể loại còn chưa được nhà

phê bình quan tâm nhiều, chúng tôi muốn thêm một lần khẳng định lại vị trí của ông trên

văn đàn bằng cách chỉ ra những đóng góp có ý nghĩa tích cực trong việc phát triển thể loại

phóng sự và tiểu phẩm nói riêng, phát triển ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật nói chung.

6. KẾT CẤU LUẬN VĂN

Ngoài Mở đầu, Kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương.

Chương1: Ngô Tất Tố v thể văn phóng sự, tiểu phẩm trong văn học Việt Nam hiện đại

(1930-1945). Chương này xác định vị trí của Ngô Tất Tố cùng với các thể loại sáng tác, phê

bình, dịch thuật đặc biệt là hai thể loại phóng sự và tiểu phẩm trên văn đàn Việt Nam. Từ đó

có cái nhìn khái quát về những đóng góp của ông trong quá trình phát triển và hoàn thiện

của văn học Việt Nam ở giai đoạn 1930-1945.

Chương 2: Những đóng góp của phóng sự Ngô Tất Tố đối với văn học Việt Nam

(1930-1945). Chương này nhằm khẳng định những đóng góp của Ngô Tất Tố trên bình diện

phóng sự về mặt nội dung và nghệ thuật.

Chương 3: Những đóng góp của tiểu phẩm Ngô Tất Tố đối với Văn học Việt Nam

(1930-1945). Chương này nhằm khẳng định đóng góp của Ngô Tất Tố trên bình diện văn

tiểu phẩm về nội dung và nghệ thuật.

Trong ba chương vừa nêu, chương ba tương đối phức tạp vì số lượng tác phẩm nhiều và

cũng có nhiều vấn đề mới cần được giải quyết, nên chúng tôi đầu tư kĩ hơn và dành số trang

nhiều hơn.

Chương 1

NGÔ TẤT TỐ VÀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ, TIỂU PHẨM

TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI (1930-1945)

Ngô Tất Tố trong lòng độc giả Việt Nam là một con người mẫu mực, nghiêm túc trong

cuộc sống cũng như trong hoạt động văn học. Đặc biệt trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật

ông nổi tiếng là một người đa tài. Nhắc đến Ngô Tất Tố là nhắc đến một nhà nho lão thành

với tư tưởng tiến bộ, một nhà văn, một nhà báo, một nhà nghiên cứu, phê bình, dịch thuật

xuất sắc. Ngô Tất Tố tham gia vào nhiều lĩnh vực sáng tác và ở lĩnh vực nào cũng tạo được

tiếng vang, được sự đồng tình ủng hộ của độc giả và đồng nghiệp.

Năm 1923, ông bắt đầu con đường hoạt động văn học với tác phẩm dịch từ Trung văn:

Cẩm Hương Đình, in tại Tản Đà tu thư cục (do Tản Đà mở từ năm 1922 tại 58 phố Hàng

Bông). Trong thời gian này, văn học nước ta đang tiến dần đến sự hiện đại hoá toàn diện.

Đây là giai đoạn giao thời của văn học, và từ đây Ngô Tất Tố đã có bước song hành cùng sự

phát triển của nền văn học. Tài năng của ông ngày càng pht triển, chín muồi. Ơng trở thnh

một trong những cây bút kì cựu của giai đoạn văn học 1930-1945, có nhiều đóng góp quan

trọng, được bạn bè đồng nghiệp cng cc thế hệ độc giả yêu mến. Vị trí của ông đã được

khẳng định trong văn học Việt Nam hiện đại (1930-1945) như là một nhà văn, nhà báo xuất

sắc, một nhà tiểu thuyết lớn, một nhà khảo cứu phê bình, dịch thuật đầy tài năng:

1.1. Ngô Tất Tố - nhà văn, nhà báo xuất sắc trong văn học Việt Nam (1930-

1945)

1.1.1. Một nhà báo với ngòi bút chiến đấu sắc bén

Nhắc đến sự nghiệp văn chương của Ngô Tất Tố trước hết là nhắc đến một Ngô Tất Tố

– nhà báo. Với mảng thành tựu xuất sắc về tạp văn tiểu phẩm. Năm 1926, ông chính thức

bước vào nghề báo và liên tục xuất hiện trên các báo An Nam tạp chí, Đông Pháp thời báo,

Thần chung, Phổ thông, Đông phương, Công dân, Hải Phòng tuần báo, Tương lai, Thời vụ,

Hà Nội tân văn, Con ong, Việt nữ, Tiểu thuyết thứ ba… với các bút danh như : Phó chi,

Thôn dân, Thiết Khẩu Nhi, Lộc Hà, Xứ Tố, Lộc Đình, Thục Điểu, Tuệ Nhỡn, Đạm Hiên,

Thuyết Hải, Hy Cừ, Xuân Trào…

Sự xuất hiện của Ngô Tất Tố trên báo chí đã gây được sự chú ý của nhiều độc giả, họ bắt

đầu quan tâm đến những bài báo ngắn trên các mục “Nói mà chơi”, “Nói hay đừng”… Với

cái nhìn sắc sảo, ngòi bút tài năng và một trái tim nhân hậu, ông đã tạo ra những sản phẩm

có giá trị vừa mang tính chiến đấu vừa mang tính giáo dục, được dư luận xã hội cũng như

các đồng nghiệp đánh giá cao.

Vũ Trọng Phụng đã giới thiệu về Ngô Tất Tố “Ngô Tất Tố là một nhà báo về phái Nho

học, và là một tay ngôn luận xuất sắc, trong đám nhà nho. Làng báo bắc Kì, Trung Kì, Nam

kì, cũng như độc giả, hẳn không ai mà lại không biết đến danh tiếng người ra đời từ khi thi

sĩ Nguyễn Khắc Hiếu chủ trương An Nam tạp chí và đã viết nhiều bài đại luận, khảo cứu,

bút chiến, phê bình, nhiều truyện lịch sử rất có giá trị, trong nhiều tuần báo và tạp chí cả

Nam lẫn Bắc. Với cái sự được đời hoan nghênh ấy Ngô Tất Tố chẳng cần ai giới thiệu

nữa…” [33, tr.409] Qua lời giới thiệu của Vũ Trọng Phụng, nhà báo Ngô Tất Tố hiện lên là

mot con người hoạt động rộng. Không chỉ rộng về không gian, từ Nam chí Bắc, mà còn

rộng về phạm vi hoạt động báo chí, ông có thể viết ở nhiều thể loại.

Trước hết phải kể đến phóng sự, một thể loại báo chí giàu chất văn chương. Ở thể loại

này Ngô Tất Tố đã tham gia một cách nhiệt tình và khẳng định được tên tuổi mình qua hàng

loạt những tác phẩm có giá trị.

Năm 1935, ơng viết phóng sự “Dao cầu thuyền tán” đăng trên báo Công dân. Ngòi bút

của ông đã không ngần ngại phanh phui tất cả những ung nhọt của xã hội. Chính vì vậy

cũng trong năm này, chính phủ cấm không cho ông viết Hải Phòng tuần báo, bắt ông dời

hiệu thuốc về quê và trục xuất ông khỏi các thành phố lớn.

Năm1939, ông cho đăng phóng sự “Tập án cái đình” trên báo Con ong.

Năm 1940, đăng phóng sự “Việc làng” trên báo Hà Nội tân văn.

Với hai tập phóng sự này, Ngô tất Tố thực sự là nhà báo hiểu biết sâu sắc về đời sống

người nông dân với biết bao nhiêu nỗi vất vả cơ cực. Bùi Huy Phồn đã khẳng định đóng

góp của “Việc làng” là giúp cho người đọc hiểu sâu sắc hơn về nỗi khổ của người nông dân.

Ơng viết: “Chúng ta chỉ mới biết rằng người nông dân bị bóc lột về kinh tế và áp bức về

chính trị. Rằng cuộc cách mạng chống đế quốc và phong kiến đã giải phóng cho người nông

dân thoát khỏi quan hệ sản xuất cũ. Nhưng còn điều mà chúng ta ít chú ý là, cũng nhờ có

cách mạng người nông dân còn được giải phóng thoát khỏi trăm ngàn thứ hủ tục nó trói

buộc, đè nén họ hàng ngàn vạn năm.” [33, tr.336]

Nói như vậy là Bùi Huy Phồn đã công nhận Ngô tất Tố là người góp phần hoàn thiện cái

nhìn toàn diện về đời sống cuả người nông dân, có nghĩa là khẳng định vị trí không thể thiếu

của thiên phóng sự “Việc làng”.

Nguyễn Đức Đàn và Phan Cư Đệ cũng đã khẳng dịnh vị trí của Ngô Tất Tố ở thể loại

phóng sự: “Ngô Tất Tố vốn xuất thân nho học. Nhưng đối với một thể loại mới mẻ như thể

loại phóng sự, Ngô tất Tố đã không tỏ vẻ bỡ ngỡ chút nào. Trái lại ngòi bút của ông khi nào

cũng vững vàng, chắc chắn, lời văn bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc. Việc làng đã

góp phần làm cho tên tuổi Ngô Tất Tố càng có thêm uy tín trong làng văn Việt nam” [33,

tr.361]

Một thể loại báo chí khác cũng góp phần làm nên thành công của toàn bộ văn nghiệp của

Ngô Tất Tố đó chính là thể loại tiểu phẩm. Bàn về tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, nhà nghiên

cứu Lê Thị Đức hạnh nhận xét: “Chưa nói tới các lĩnh vực khác, chỉ riêng ở văn tiểu phẩm

cũng đã thấy rõ được tính chất phong phú và đa dạng trong ngòi bút của Ngô Tất Tố. Ông

vừa có tài “viết mỗi ngày một chuyện” lại vừa có tài viết mỗi bài một kiểu”. Vì thế qua hơn

một trăm bài báo của ông, không thấy có sự đơn điệu trùng lặp. Trái lại độc giả dễ bắt gặp

những thú vị bất ngờ” [33, tr.424]

Phan Cự Đệ cũng đánh giá cao văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố: “Toàn bộ tiểu phẩm của

Ngô tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến

Việt Nam những năm trước cách mạng Tháng tám, nó đã cung cấp cho chúng ta những tài

liệu quý giá về văn học, sử học, xã hội học, dân tộc học (phong phú nhất là những tài liệu

về nông thôn và nông dân Việt Nam)” [33, tr.434]

Có thể nói trên lĩnh vực báo chí, Ngô Tất Tố đã tung hoành ngang dọc, viết hết mình,

chiến đấu hết mình. Ngày nay trên lĩnh vực ny Ngô Tất Tố được nhắc tên như một trong

những người đi tiên phong, có cống hiến to lớn cho sự nghiệp báo chí Việt Nam.

1.1.2. Một nhà tiểu thuyết lớn

Không chỉ khẳng định mình trên lĩnh vực báo chí, Ngô Tất Tố còn gây được ấn tượng

khó phai trong lòng độc giả bằng những trang tiểu thuyết đậm chất hiện thực.

Nhắc đến nhà tiểu thuyết Ngô Tất Tố là không thể không nhắc đến “Tắt đèn” cuốn tiểu

thuyết đã làm rơi nước mắt bao thế hệ người đọc. Có thể nói ai đã từng đọc Tắt đèn thì

không bao giờ có thể quên được không khí náo động, căng thẳng, ngột ngạt của làng Đông

Xá trong vụ thuế, dưới thời Pháp thuộc: cổng làng bị đóng chặt, việc đồng áng bị đình đốn,

dân làng bị dồn lại và bọn cường hào bắt đầu đốc thuế bằng gậy gộc, cùm kẹp, giữa tiếng

thúc dục dồn dập của “mõ cá trên cột đình”, “trống cái dưới xá đình”. Người nông dân đầu

óc căng thẳng chạy ngược chạy xuôi vay nợ, cầm đồ, “bán vợ, đợ con” hoặc kêu khóc thảm

thiết. Sau luỹ tre xanh, làng Đông Xá êm đềm lặng lẽ bỗng trở thành chiến trường.

Vũ Trọng Phụng, nhà văn cùng thời với Ngô tất Tố đã khẳng định: “Tắt đèn là một thiên

tiểu thuyết có luận đề xã hội (…) một áng văn hoàn toàn phụng sự dân quê, một áng văn có

thể gọi là kiệt tác, tòng lai chưa từng thấy” [33, tr.200]

Hồng Chương cũng khẳng định vị trí của Ngô Tất Tố qua “Tắt đèn”: “Với Tắt đèn, với

cuốn tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa duy nhất đó của ông, Ngô Tất Tố cũng đã xứng đáng

được liệt vào hàng các đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam”

[33, tr.242]

Nguyễn Đăng Mạnh khi nói về tác phẩm “Tắt đèn” cũng không ngần ngại khẳng định:

“Tắt đèn là một trong những thành tựu nghệ thuật xuất sắc nhất trong dòng văn học hiện

thực phê phán Việt Nam trước cách mạng” [33, tr.271]

Sự thành công của tiểu thuyết “Tắt đèn” có lẽ không còn ai phải bàn cãi, nhưng còn một

tác phẩm cũng không kém phần tiêu biểu của Ngô Tất Tố đó chính là tiểu thuyết phóng sự

“Lều chõng”, một tác phẩm miêu tả những bi kịch của những người trí thức thời phong kiến.

Khác với “Tắt đèn”, ở “Lều chõng”, Ngô Tất Tố miêu tả một cách thẳng thắn, chân thực

việc giáo dục và chế độ thi cử của phong kiến vào lúc suy tàn. Và sự ra đời của “Lều chõng”

đã góp phần hoàn thiện cái nhìn đầy đủ, toàn diện của Ngô Tất Tố về xã hội. Đó là cái nhìn

nhân hậu trước bao nỗi đắng cay cơ cực của người nông dân, cái nhìn cương trực, thẳng

thắn vạch trần mọi ung nhọt của xã hội phong kiến thối nát, bảo thủ lỗi thời. Đáng quý là ở

chỗ người có cái nhìn tiến bộ đó lại từng là một môn đệ của Khổng -Mạnh, của một nền

Hán học lâu đời.

“Tắt đèn” và “Lều chõng” cho đến nay đã khẳng định được sức sống bền bỉ vượt qua

mọi sự thử thách của thời gian, chinh phục biết bao thế hệ độc giả của biết bao thời đại.

Những thiên tiểu thuyết như thế đ khẳng định một cách vững chắc vị trí đầy vinh dự của

Ngô Tất Tố trong dòng văn học hiện thực phê phán Việt Nam 1930-1945.

1.1.3. Một nhà khảo cứu, phê bình, dịch thuật tài năng

Ngoài việc viết báo và sáng tác Ngô Tất Tố còn là một trong những nhà văn giu nhiệt

tâm đối với công tác nghiên cứu. Chẳng những ông nghiên cứu văn học mà còn có công

nghiên cứu cả triết học nữa. Ông nghiên cứu Mặc Tử, Lão Tử một cách công phu và thận

trọng. Những cái hay và cái dở của các học thuyết được phân tích một cách su sắc, cắt nghĩa

sng r. Ông không những am hiểu về triết học mà ông còn có khả năng áp dụng chúng để

phân tích nhận định về hiện thực xã hội Việt Nam. Trong tác phẩm “Mặc Tử”, ông ca ngợi

quan niệm phi nhạc, phi nho, phi mệnh, và một số quan điểm chính trị của Mặc Tử. Trong

tác phẩm “Lão Tử”, Ngô Tất Tố lại giơi thiệu cho ta thấy r vũ trụ quan và nhân sinh quan

của Lão Tử. Sau khi giới thiệu tác giả có nhận định, biểu dương những điểm tiến bộ và phê

phán những điểm thoái hoá tiêu cực. Giá trị của những công trình này là ở chỗ Ngô Tất Tố

không đóng khung trong việc khảo cứu các học thuyết cổ như xu hướng của nhiều nhà khảo

cứu lúc bấy giờ, thường chỉ biết giới thiệu học thuyết một cách sách vở, mà ở đây tác giả

biết vận dụng những kiến thức mới về triết học để phê phán, nhận định.

Về phê bình văn học, Ngô Tất Tố viết khá nhiều, từ phê bình các nhân vật đến phê bình

các tác phẩm của thời đại. nhưng phần nhiều là những bài ngắn đăng trên báo chí, in thành

sách thì chỉ có quyển “ Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim”

Đọc “Phê bình Nho giáo của Trần Trọng Kim” chúng ta thấy Ngô Tất Tố quả là một cây

bút phê bình sắc sảo và có tính chiến đấu. Lập luận của ông rất chặt chẽ, thái độ rất cương

quyết. Trong đoạn đầu tác giả xác định rõ: “Với một cuốn sách có quan hệ đến tư tưởng học

thuật của một dân tộc, không ai được phép vì nể tác giả mà nể luôn cả sai lầm trong sách

để di ngộ cho người đời sau”. Xuất phát từ thái độ cương quyết ấy, có nhiều đoạn Ngô Tất

Tố phê phán Trần Trọng Kim rất mạnh, ông cho rằng Trần Trọng Kim đã xuyên tạc Nho

giáo, và thứ nho giáo mà Trần Trọng Kim ca ngợi không phải là Nho giáo mà là “Trần

Trọng Kim giáo”!.

Nếu chúng ta đặt tác phẩm phê bình này của Ngô Tất Tố vào hoàn cảnh lịch sử lúc bấy

giờ thì sẽ thấy nó có những tác dụng tốt. Nó vạch cho mọi người thấy dụng tâm của Trần

Trọng Kim và chân giá trị của “nhà học giả” ấy.

Như vậy với ngòi bút sắc sảo vốn có, Ngô Tất Tố đã tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu,

phê bình một cách tự tin và có hiệu quả. Vẫn cái bản lĩnh hơn người của mình ông đã thực

sự chinh phục độc giả bằng những luận điểm sắc bén, thông minh.

Chưa dừng lại ở đó, tài năng của ông còn được bộc lộ một cách rõ rệt trong lĩnh vực dịch

thuật. Với vốn Hán học uyên thâm, ông đã tham gia dịch các tác phẩm thơ chữ Hán thời Lý

Trần, và thơ Đường, các bản dịch của ông hiện nay thường được đưa vào Sách Giáo Khoa

của học sinh cơ sở cũng như học sinh trung học và được coi là những bản dịch chuẩn mực.

Ông không chỉ đơn thuần dịch cu chữ thơ mà ông còn dịch được cả cái hồn cái thần của thơ.

Thơ ông dịch, vì thế là thơ dịch xuất phát từ trái tim, chứa đựng tình cảm chứ không đơn

thuần là một bản dịch nghĩa khô khan.

Đánh giá về sự nghiệp dịch giả của Ngô Tất Tố Trần Thị Băng Thanh cho rằng: “Làm

thơ, viết văn để lại dấu ấn đã khó, nói chi đến dịch. Vậy mà có thể nói Tản Đà và Ngô Tất

Tố là những dịch giả đã để lại được những dấu ấn của phong cách cá nhân. Điều đó cũng

hiếm và chính là cống hiến riêng, lớn của hai ông” [33, tr.518].

Nhìn tổng thể sự nghiệp của Ngô Tất Tố, người ta không thể không thán phục trước một

ngòi bút đa tài, mạnh mẽ và bền bỉ như vậy. Sự nghiệp của Ngô Tất Tố đã dành cho ông

một vị trí xứng đáng trong nền văn học nước nhà.

1.2. Phóng sự và một số đặc điểm chung từ gĩc nhìn thể loại

1.2.1. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của phóng sự

1.2.1.1. Sự ra đời của phóng sự

Phóng sự là một thể loại báo chí mà ngay từ khi nó ra đời đã làm chấn động công

chúng báo chí, còn các nhà cầm quyền thì ra lệnh đóng cửa các toà soạn báo vì tính chất

nguy hiểm của những bài phóng sự. Leonard Ray Teel-Ron Tay đã viết : “Phóng sự có thể

là vị trí quyến rũ hơn cả trong nghề báo” [Dẫn theo 20, tr.7], còn GS, TS Karel Storkal(

Tiệp Khắc) lại cho rằng: “Phóng sự là một trong những thể loại báo chí được người đọc

yêu thích nhất và cũng là một trong những thể loại khó nhất đối với người viết” [Dẫn theo

20, tr.7]

Quan trọng, hấp dẫn như vậy nhưng phóng sự lại xuất hiện trên báo chí rất muộn. Không

phải có báo chí là có thể loại phóng sự. Nhiều tài liệu nghiên cứu về báo chí truyền thông

đã cho rằng thể loại phóng sự ra đời đầu tiên ở Châu Au vào cuối thế kỉ XIX, gắn liền với

cuộc thắng lợi vì tự do báo chí dài suốt ba thế kỉ và sự phát triển vượt bậc của tư tưởng dân

chủ, tiến bộ ở các nước phương Tây. Có thể nói là do sự biến động của xã hội: kinh tế nhảy

vọt, khoa học kĩ thuật phát triển. Nhu cầu thông tin ngày càng cao của công chúng, họ đã

bắt đầu chán ngấy sự hư cấu và khát khao những điều chân thực về những mối quan hệ xã

hội phức tạp, về những bất công ngang trái trong xã hội đương thời. Cùng với sự tham gia

tích cực của các nhà văn vào địa hạt báo chí đã thúc đẩy thể loại phóng sự ra đời trên thế

giới vào cuối thế kỉ XIX.

Ở Việt Nam, Phóng sự ra đời muộn hơn. Nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng phóng sự bắt

đầu manh nha từ những tác phẩm có tính chất người thực, việc thực như “Hoàng Lê nhất

thống chí” của Ngô Gia Văn Phái. Hoặc phóng sự xuất hiện cùng với sự xuất hiện của báo

chí. Trong công trình nghiên cứu “Phóng sự báo chí” của nhà xuất bản Lí luận chính trị lại

cho rằng: Phóng sự chỉ có thể xuất hiện ở Việt Nam vào những năm 30 của thế kỉ XX, mặc

dù báo chí Việt Nam có từ năm 1865, với những lí do rất khách quan có tính thuyết phục

cao như sau:

Thứ nhất : Vào những năm 30 của thế kỉ XX, lợi dụng chính sách “Pháp -Việt đuề huề”

của chính phủ Pháp, hàng loạt thanh niên trí thức đã lên đường du học tại các nước Nhật,

Pháp. Trong đó có không ít những người làm nghề báo, và những trí thức Tây học đó khi trở

về nước đã mang trong mình những tư tưởng tiến bộ của phương Tây, như Hoàng Tích

Chu, Đỗ Văn, Phùng Bảo Thạch, Tạ Đình Bích…. Họ đã cùng nhau thực hiện một cải cách

quan trọng trong nghề báo: áp dụng vào Việt Nam lối viết báo và cách trình bày báo hiện

đại đã học được từ châu Âu, với lối hành văn gọn gàng, sáng sủa của người Pháp, khác với

lối văn biền ngẫu, chứa nhiều điển tích Trung Hoa. Phóng sự “Tôi kéo xe” của Tam Lang

Vũ Đình Chí được coi là một tác phẩm mở đầu cho lối viết này, được đăng trên tờ Đông

Tây vào tháng 8, 1932, do Hoàng Tích Chu và Đỗ Văn, hai người có công lớn trong việc

thay đổi diện mạo báo chí nước ta. Đặc biệt Hoàng Tích Chu đã cho ra đời hàng loạt bài báo

có thông tin thời sự nóng bỏng, tư liệu chính xác, mặc dù “lúc ban đầu độc giả xem đó là lố

lăng, không thích hợp nhưng lần hồi, họ làm quen được và xem đó là lối viết thích hợp trên

báo chí, nhiều người lại bắt chước Hoàng Tích Chu” [51, tr.126-127]. Cuộc thay cũ, đổi

mới này đã tạo điều kiện cho các thể loại báo chí mang phong cách hiện đại du nhập dần

vào Việt Nam, trong đó có Phóng sự. Năm 1942, nhà nghiên cứu phê bình Vũ Ngọc Phan đã

viết: “Ở nước ta, nghề viết báo là một nghề mới có, nên những thiên phóng sự xứng đáng

với cái tên của nó, cũng chỉ mới ra đời trong vòng mươi năm trở lại đây” [45, tr.520].

Nguyễn Đăng Mạnh cũng nhận xét: “Vào đầu những Năm 30 của thế kỉ này ( tức thế kỉ XX )

cùng với sự phát triển mạnh mẻ của báo chí, một thể văn mới ra đời; thể Phóng sư”[41,

tr.63]

Thứ hai, lịch sử dân tộc ta vào những năm 30, của thế kỉ XX dồn dập những biến cố dữ

dội. Cuộc khủng hoảng kinh tế lớn 1929-1939, những cuộc khủng bố cách mạnh hết sức tàn

bạo của bọn đế quốc, sự bất công của xã hội đã đẩy người dân nghèo vào tình trạng hết sức

bi thảm. Thực trạng xã hội với hình ảnh cùng quẫn của tầng lớp tiểu tư sản và dân nghèo

thành thị; sự “phất” lên của những tên quan lại, địa chủ theo Pháp… là mảng đề tài hiện

thực nóng bỏng, được các nhà văn lựa chọn để “mổ xẻ”, bằng “một lối tả thực như văn kí

sự, trào phúng như văn châm biếm, cảm người ta như văn tiểu thuyết, mà trong lại bao gồm

tất cả lối bút chiến về việc, nói tóm lại dùng cái lối tạo nên một thể linh hoạt và có hiệu lực

vô cùng: thể Phóng sư” [45, tr.519].

Thứ ba: Vào những năm 30 của thế kỉ XX, nền giáo dục quốc gia đã được phát triển một

bước đáng kể. Các trường học phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đó là điều kiện tốt để

tạo ra một lượng độc giả lớn của báo chí Việt Nam. Công chúng báo chí không còn hứng

thú với tiểu thuyết lãng mạn như Bên bờ sông Hương hay Hồn bướm mơ tiên nữa. Họ đòi

hỏi phải có những tác phẩm báo chí vừa phản ánh cụ thể chính xác về hiện thực cuôc sống

đa dạng, bề bộn, vừa gợi cảm xúc trong lòng người đọc. Điều đó thúc đẩy phóng sự ra đời

và nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí “ là đứa con đầu lòng của nghề viết báo”.

Như vậy, có the khẳng định phóng sự Việt Nam ra đời từ khoảng những năm 30 của thế

kỉ XX do hoàn cảnh biến động của lịch sử thúc đẩy, có sự tham gia của các nhà văn vào địa

hạt báo chí và do công chúng báo chí đòi hỏi.

1.2.1.2. Qu trình phát triển của phóng sự Việt Nam

Ngay từ khi ra đời phóng sự đã tồn tại bằng một sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Nó len lỏi

vào đời sống con người, làm đảo lộn, tạo nên những “cú sốc” trong công chúng báo chí.

Theo từng thời kì lịch sử phóng sự ngày càng phát triển và ngày càng được hiện đại hoá. Có

thể xác định ba giai đoạn phát triển của phóng sự như sau:

Giai đoạn từ 1932-1945

Sự phát triển của phóng sự giai đoạn này được đánh dấu bằng tác phẩm phóng “Tôi kéo

xe” của Tam Lang Vũ Đình Chí, đăng lần đầu trên tạp chí Đông Tây. Ở giai đoạn này,

phóng sự vừa ra đời đã đạt tới đỉnh cao về nội dung và hình thức, thể loại. Tuy nhiên do đặc

điểm của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, và tình hình báo chí phức tạp của những năm

này, phóng sự ở giai đoạn này chia thành nhiều khuynh hướng khác nhau:

Khuynh hướng thứ nhất : Ca ngợi chế độ thực dân bảo hộ, làm tan rã tinh thần chống

ngoại xâm của một bộ phận công chúng thanh niên. Phóng sự “Tôi buôn lậu” đăng trên báo

Dân nói, Sài Gòn, tháng hai năm 1938, của Đồng Phương, mô tả việc tác giả bám theo

những đám buôn lậu vượt biên khá rùng rợn, hoặc những phóng sự mang tính chất mua vui

rẻ tiền, khơi gợi thị hiếu thấp hèn, đầu độc tâm hồn trong trẻo của thanh niên, đến nỗi khiến

Ngô Tất Tố phải thốt lên: “Họ không cần thuốc mê, chỉ dùng những văn thơ khêu gợi để đầu

độc những óc ngây thơ của phụ nữ” [Dẫn theo 20, tr.26].

Khuynh hướng thứ hai: Phản ánh cuộc sống bần cùng của người lao động, đề cập đến

nhưng bất công trong xã hội. Có thể nói rằng trong bối cảnh xã hội ngột ngạt của những

năm 1930-1945, các phóng sự của Trọng Lang như: Trong làng chạy (1935), Hà Nội lầm

than (1937) Làm dân (1938); Tam Lang với Tôi kéo xe (1932); Vũ Trọng Phụng với hàng

loạt tác phẩm như: Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934), Dân biểu và dân biếu

(1935), Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Một huyện ăn tết (1938); Ngô Tất Tố với Việc làng(1940),

Tập án cái đình (1939); Nguyễn Đình Lạp với Ngoại ô, Ngỏ hẻm, Thanh niên trụy lạc

(1937-1938), Những vụ án tình (1938)… đã phản ánh phần nào nỗi thống khổ của một dân

tộc thuộc địa. Tuy nhiên, những tác phẩm kể trên vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định

về mục đích và tính khuynh hướng, chưa tìm được biện pháp giải quyết vấn đề thực tiễn.

Khuynh hướng thứ ba: Là khuynh hướng của báo chí cách mạng. Những nhà phóng sự

theo khuynh hướng này hoạt động bí mật, làm nhiệm vụ chính là tuyên truyền chủ nghĩa

Mác-Lênin, lí tưởng cách mạng, khơi gợi lòng yêu nước và kêu gọi nhân dân tham gia cách

mạng. Cùng với cuộc chiến đấu vì độc lập tự do của dân tộc, thể loại phóng sự trên báo chí

cách mạng đã thực sự bám sát cuộc chiến đấu của quân và dân ta, cổ vũ và kịp thời động

viên tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc.

Giai đoạn từ 1945 đến những năm 80 của thế kỉ XX

Phóng sự được coi là một trong những thể loại báo chí hàng đầu, là tấm gương phản

chiếu bức tranh chân thực của thời đại qua các dấu mốc lịch sử trọng đại với những bài viết

có chiều sâu và có tác dụng giáo dục cao. Đại hội Đảng (1986) đã mở ra một thời kì phát

triển mới của dân tộc, xoá bỏ cơ chế bao cấp chuyển dần sang cơ chế thị trường theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là cơ hội tốt để phóng sự thể hiện vai trò mũi nhọn của mình.

Giai đoạn từ sau đại hội Đảng lần thứ VI (1986)

Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI với chủ trương mở cửa và chính sách đổi mới, dân chủ

hoá đời sống chính trị. Phóng sự đã thể hiện rõ vai trò xung kích của mình luôn có những vị

trí trang trọng trên trang nhất của nhiều tờ báo. Những nhà làm phóng sự trong giai đoạn

này đã mang đến cho công chúng những thiên phóng sự lớn, thực sự có giá trị, đáp ứng nhu

cầu thông tin ngày càng cao của công chúng.

Như vậy, mới chỉ mới khoảng hơn 70 năm có mặt tại Việt Nam thế nhưng thể loại phóng

sự đã nhanh chóng ổn định, trưởng thành và không ngừng vận động, phát triển trước sự đổi

thay của lịch sử, cuộc đời.

1.2.2. Khái niệm phóng sự

1.2.2.1. Thuật ngữ phóng sự

Theo tác phẩm “Phóng sự báo chí” (Nxb Lí luận chính trị) thì thuật ngữ phóng sự, tiếng

Anh là reportage, có nghĩa là truyền đạt, báo tin, thông báo. Được bắt nguồn từ gốc Latinh-

Repor- có nghĩa là giành được cái gì đó trong chuyến đi. Người trung Quốc dùng danh động

từ phóng sự với nghĩa là thăm hỏi, tìm hiểu sự tình, sự thật. Người Nga dùng từ “penopta”

là tường trình tỉ mỉ sâu sắc về sự việc xảy ra. Như vậy cùng với việc sử dụng rộng rãi thuật

ngữ Reportage để chỉ một thể loại báo chí mới ra đời – thể loại phóng sự, bản thân thể loại

phóng sự cũng đã bộc lộ mình là người thư kí của thời đại. Các nhà văn, nhà báo viết phóng

sự lúc bấy giờ nhận ra rằng cần phải viết một cách thẳng thắn, chính xác hơn về diễn biến,

hoạt động phức tạp của xã hội mà họ đã và đang sống, cần phải xem xét kĩ tại sao sự việc đó

lại xảy ra. Điều đó chỉ có thể thực hiện bằng thể loại phóng sự.

1.2.2.2. Một số quan niệm về phóng sự

Nhìn chung có rất nhiều quan điểm khác nhau, khi tiếp cận với phóng sự.

Trên thế giới: khi quan niệm về phóng sự thường tập trung ở hai xu hướng.

Xu hướng thứ nhất: Cho phóng sự là kể lại một câu chuyện có thật một cách ngắn gọn,

chính xác, các chi tiết tập trung trả lời cho các câu hỏi: Cái gì? Xảy ra ở đâu? Xảy ra như

thế nào? Có liên quan hoặc ảnh hưởng đến ai? Tại sao lại xảy ra như vậy? Có nghĩa là

người phóng viên khi viết phóng sự không bình luận, lí giải thêm, thậm chí không cần bộc

lộ mình là một nhân chứng lịch sử bằng cách xưng “tôi” trong bài. Xu hướng này chủ yếu

quan tâm đến lượng thông tin trong bài phóng sự, lượng thông tin càng cao thì bài viết càng

có giá trị. Nhà văn, nhà báo Mỹ, Mark Twain cho rằng “Phóng sự chỉ là một sự ghi chép

máy móc đơn thuần các sự việc chứ không phải là một công việc sáng tạo”

Có thể nói rằng quan điểm này là phiến diện vì lịch sử phát triển của phóng sự cho thấy

thể tài này không chỉ dừng lại ở mức độ ghi chép, tường thuật sự kiện. Mà nó còn lí giải, tìm

kiếm nguyên nhân sự việc cũng như gợi ý một hướng giải quyết.

Xu hướng thứ hai: Cho rằng phóng sự là thể loại báo chí mang bản chất tổng hợp kế

thừa phong cách sáng tạo của tất cả các thể loại báo chí khác (như Tin, Phỏng vấn, Tường

thuật, Điều tra…)và cả văn học. Chính vì vậy phóng sự vừa có khả năng phản ánh một bức

tranh tổng thể hoặc một lát cắt tiêu biểu, độc đáo của hiện thực khách quan. Hoặc đi sâu

khám phá một số phận con người hay một tập thể người trong những điều kiện tự nhiên và

hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể. Lại vừa có khả năng đem đến cho công chúng

báo chí những cảm xúc thẩm mĩ từ cái hay, cái đẹp của cuộc sống, của con người cụ thể.

Xu hướng này coi trọng cảm xúc của tác giả phóng sự, người có nhiệm vụ làm cho công

chúng tiếp nhận thông tin có thể “nhìn” thấy được không gian, thời gian, hành động, con

người, và diễn biến của sự việc. Qua đó công chúng sẽ thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa sự

kiện, người kể với họ.

Như trên đã nói, phóng sự đến với Việt Nam khá muộn, tuy nhiên khi đến Việt Nam

không phải nó được tiếp nhận một cách đồng nhất mà được tiếp nhận dưới nhiều góc độ

khác nhau, tạo ra nhiều ý kiến, quan điểm về đặc trưng thể loại không giống nhau.

Ngay từ những năm 30 của thế kỉ XX, Trong một lá thư gửi người bạn cũ, Vũ Trọng

Phụng, ông “vua phóng sự đất Bắc” đã viết : “Phóng sự là một thiên truyện kể với cơ sở mà

nhà báo đã từng mắt thấy tai nghe, trừ khi là một thiên “Phóng sự trong buồng” nhà báo

nghe ngưới ta kể lại cái mà mình chưa biết bằng tai, bằng mắt. Tôi hết sức tránh cái kiểu

viết Phóng sự như vậy.” [Dẫn theo 20, tr.33]. Có nghĩa là Vũ Trọng Phụng coi trọng tính

chất hiện thực của phóng sự. Nhưng cái hiện thực đó phải do chính nhà văn thể nghiệm qua.

Phải tìm tòi, phải hoá thân vào nó để cảm nhận mọi góc độ cuộc sống và mô tả lại một cách

chân thật, sinh động để giúp người đọc cảm thấy như mình đang “chứng kiến” sự kiện từ

đầu đến cuối. Và Ngô Tất Tố đã vận dụng điều này một cách triệt để, chính vì vậy những

trang Phóng sự của ông luôn giàu cảm xúc đối với hiện thực, những điều mà ông đã từng

mắt thấy tai nghe.

Phương Lựu lại nhấn mạnh tính chất chính luận của phóng sự. Ông cho rằng: “Phóng sự

nổi bật bằng những sự thực xác thực, dồi dào và nóng hổi (…) nội dung của Phóng sự lại

thiên về vấn đề mà người viết muốn đề xuất và giải quyết. Phóng sự do đó mặc dù chất liệu

chủ yếu vẫn là người thật việc thật, nhưng có màu sắc chính luận”. [53, tr.299]

Giáo trình nghiệp vụ báo chí của trường tuyên huấn Trung ương- Tập II, năm 1977, đã

khẳng định “Phóng sự là một trong những thể tài thông tin quan trọng của báo chí có ít

nhiều đặc trưng văn học , phản ánh quá trình xảy ra có quá trình diễn biến, bằng phương

pháp miêu tả tự thuật, lại có thể kết hợp nghị luận, nhằm nêu lên phẩm chất và tinh thần

của người và bộ mặt xã hội theo một hệ thống quan điểm và đường lối chính trị nhất định”

Từ điển Thuật ngữ văn học lại nhìn nhận : “Mục đích của Phóng sự là cung cấp cho

công chúng những tri thức phong phú, đầy đủ, chính xác, để họ có thể nhận thức, đánh giá

đúng người và việc mà họ đang quan tâm theo dõi (…) việc sử dụng một số phương tiện

biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, hướng vào thế giới

bên trong (ở một mức độ nhất định) của nhân vật …khiến cho phóng sự vốn từ báo chí, có

thể trở thành văn học” [Dẫn theo 20, tr. 39].

Cũng cùng quan điểm trên, năm 1992, trong cuốn “Kí báo chí”, Đức Dũng đã nêu ra một

định nghĩa về phóng sự : “Phóng sự là thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng

trình bày diễn tả những sự kiện, con người, tình huống điển hình trong một quá trình phát

sinh phát triển, đồng thời thẩm định hiện thực đó thông qua cái tôi trần thuật vừa tỉnh táo

vừa lí trí vừa cảm xúc với một bút pháp giàu chất văn học” [2, tr.60] .

Tóm lại có thể nói, tuy góc độ tiếp cận phóng sự có khác nhau dẫn đến nhiều quan điểm

phóng sự không giống nhau nhưng đều gặp nhau ở những điểm chung, cơ bản về chức năng

thể loại: Mô tả người thật, việc thật có tính chất thời sự, xã hội theo một quá trình vận động

khách quan. Chính vì vậy người ta có thể tập hợp các quan niệm để rút ra một khái niện thể

loại đầy đủ với đặc trưng của thể loại như sau:

“Phóng sự là một thể loại báo chí quan trọng, thông tin cụ thể và sinh động về con

người, sự việc, tình huống, hoàn cảnh có thật, có ý nghĩa thời sự theo một quá trình phát

sinh, phát triển thông qua cái Tôi tác giả và ngôn ngữ giọng điệu linh hoạt với bút pháp mô

tả tường thuật kết hợp với nghị luận.” [20, tr.44]

Khái niệm trên bao hàm những ý sau:

- Khẳng định phóng sự là một thể loại báo chí.

- Thừa nhận phóng sự phản ánh sự việc sự kiện, con người và những hành động, việc

làm có thật trong quá trình phát sinh, phát triển.

- Ghi nhận phóng sự có quan hệ mật thiết với văn học, sử dụng bút pháp văn học như tả,

bình, thuật và các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, hướng vào nội tâm nhân vật ở

mức độ nhất định.

- Lưu ý trong Phóng sự vai trò của cái Tôi rất quan trọng.

1.2.3. Đặc trưng của phóng sự

Ty theo quan niệm, gĩc nhìn, người ta cĩ thể nói đến nhiều đặc trưng của

phóng sự, trong phạm vi luận văn này chỉ xin đặc biệt lưu ý đến mấy nét đặc trưng

sau:

1.2.3.1. Phóng sự phản ánh sự thật

Đối tượng được phản ánh trong phóng sự bao giờ cũng là người thật, việc thật tiêu biểu

và có ý nghĩa xã hội. Phóng sự không chỉ phán ánh sự thật như các thể loại báo chí khác mà

còn có khả năng đi sâu khám phá số phận một con người, một tập thể người có tính chất

điển hình trong những bối cảnh điển hình. Phóng sự “Tôi kéo xe” của Tam Lang đã phản

ánh cuộc đời cực nhọc của người phu xe, đi sâu vào nỗi vất vả cũng như những cay đắng

của nghề kéo xe tay trong thời buổi xã hội lúc bấy giờ. Phóng sự “Kỹ nghệ lấy Tây” của Vũ

Trọng Phụng lại đề cập đến một lớp người trong xã hội với những số phận tuy không hoàn

toàn giống nhau nhưng cùng chung những tham vọng, những mánh khoé và những tủi nhục

như nhau. Đó chính là cuộc đời của những người phụ nữ lấy chồng ngoại quốc, phần lớn là

theo tiếng gọi của đồng tiền. Phóng sự “Việc làng”, “Tập án cái đình” của Ngô Tất Tố đề

cập đến những cuộc đời bé nhỏ, bất hạnh của người nông dân quanh năm bị gánh hủ tục đè

nặng, chết mòn mỏi vì những thứ lệ làng oái oăm, mọi rợ. Bên cạnh phản ánh hiện thực,

người làm phóng sự còn cố gắng thẩm định hiện thực và trả lời những câu hỏi mà hiện thực

đặt ra. Phóng sự không chỉ cho công chúng báo chí “biết” mà còn làm rõ bản chất bên trong

của sự kiện. Khi phóng sự chọn “con người” làm đối tượng phản ánh chính thì “việc” chỉ là

bằng chứng để làm rõ những thăng trầm, những biến cố trong số phận con người. Mỗi bức

chân dung cụ thể có thể nói lên một mảng hiện thực nào đó , hoặc minh chứng cho một

truyền thống lịch sử, một phong tục tập quán, một nếp nghĩ, nếp làm ăn của một dân tộc

hoặc một khuynh hướng xã hội nào đó, chân dung con người đó có thể là tích cực hay tiêu

cực, hạnh phúc hay bất hạnh, đáng biểu dương hay đáng phê phán, cần đồng cảm hay

khuyến khích.

Tính xác thực trong thông tin đòi hỏi người viết phóng sự phải thực sự hiểu biết về vấn

đề mình đề cập. Tác giả phải là người tận mắt chứng kiến sự việc hoặc tự mình tìm hiểu vấn

đề thông qua những nhân chứng đáng tin cậy, thậm chí người viết phóng sự phải xâm nhập,

thể nghiệm vào cuộc sống, nghề nghiệp mà mình muốn đề cập. Để viết được “Tôi kéo xe”,

tác giả Tam Lang Vũ Đình Chí đã phải cởi bỏ bộ đồ kí giả, chụp lên đầu chiếc nón và mặc

lên người bộ quần áo phu xe để hiểu đến tận cùng nỗi vất vả nhọc nhằn của những kiếp

“người ngựa” và từ đó kêu gọi xoá bỏ công việc đầy bất công ấy. Vũ Trọng Phụng cũng

phải cố gắng làm quen được những nhân vật đáng tin cậy để tìm những thông tin chính xác

cho phóng sự “Lục xì”, hoặc tự mình hoá thân thành những kẻ bán sức lao động trong

phóng sự “Cơm thầy cơm cô”. Ngô Tất Tố cũng phải đến từng nhà, thăm từng người để có

thể viết được những trang phóng sự về nông thôn đầy đủ và sâu sắc.

Phản ánh trong phóng sự không chỉ dừng lại ở một hiện tượng, một sự kiện đơn lẻ mà

còn trình bày một chuỗi các sự kiện. Các sự kiện, sự việc được đặt ra trong tiến trình lịch sử,

quá trình phát sinh phát triển khiến người đọc dễ dàng theo dõi và nắm bắt được vấn đề.

Người viết trình bày một cách khách quan diễn biến của câu chuyện, sự việc, đồng thời

cũng nhằm chứng minh cho một kết luận của mình hoặc từ đó gợi mở những vấn đề có ý

nghĩa xã hội nhất định.

Chính vì đặc trưng này của phóng sự, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan đã viết: “ở các

nước, người ta thường căn cứ vào những thiên phóng sự có giá trị để định lại pháp luật, sửa

đổi hình phạt, cải tạo xã hội. những thiên phóng sự xứng đáng với cái tên của nó đều có cái

chức vụ giúp cho người đời trong sự đào thải và cải cách. Người viết phóng sự chân chính

bao giờ cũng là người bênh vực lẽ phải, bên vực sự công bình” [45, tr.520]

1.2.3.2. Phóng sự sử dụng bút pháp miêu tả, tường thuật kết hợp với nghị

luận

Miêu tả và tường thuật vẫn luôn là bút pháp chủ yếu trong phóng sự, nó giúp người đọc

cảm nhận, hình dung được sự kiện, con người lồ lộ như đang hiển hiện trước mặt họ, khiến

cho sức hấp dẫn, tính chân thật, khách quan của phóng sự được tăng gấp bội.

Miêu tả là dùng lời hình ảnh để mô tả không gian, thời gian, hình dáng con người, diễn

biến của câu chuyện, các xung đột trong hành động. Miêu tả giúp cho những thông tin trong

phóng sự được chuyển tải một cách mền mại, uyển chuyển dễ đi vào lòng người.

Tường thuật là kể câu chuyện có thật theo ý đồ, góc độ đã chọn hoặc diễn biến trình tự

của sự kiện bằng các chi tiết, tình tiết, nhân chứng, tường thuật tạo nên tính sinh động, tác

giả dẫn dắt người đọc tới gần sự kiện, chính cách tường thuật của tác giả lúc chậm rãi, lúc

vội vã, giúp cho người đọc tiếp cận với sự kiện theo một tiến trình có hình thành và phát

triển.

Tuy nhiên, để có những phóng sự sắc sảo, người viết phải biết kết hợp với nghị luận ở

mức độ nhất định theo lối tả- bình- thuật, chẳng hạn khi cần phải có chính kiến, tỏ thái độ

trước hiện thực khách quan thì sử dụng lí lẽ để lý giải hoặc khẳng định vấn đề. Để làm được

điều này đòi hỏi người viết phải có đủ hiểu biết và kinh nghiệm để xử lí các dữ kiện, đưa ra

được những đánh giá đúng có tính định hướng đối với bạn đọc.

1.2.3.3. Ngôn ngữ phóng sự chính xác khách quan

Phóng sự phản ánh hiện thực một cách chân thật, khách quan, cho nên các phương tiện

ngôn ngữ được sử dụng trong phóng sự thường chính xác và khách quan. Có thể thấy đặc

tính của ngôn ngữ trong phóng sự là tính chính xác, tính hàm súc và biểu cảm.

Tính chính xác: Ngôn ngữ phóng sự phải biểu đạt đúng bản chất sự vật, hiện tượng trong

từng thời khắc nhất định, trong bối cảnh cụ thể, nhằm tạo ra một văn bản đơn nghĩa, dễ hiểu.

Tính hàm súc: Tính hàm súc của ngôn ngữ phóng sự nảy sinh từ yêu cầu phải cung cấp

một lượng thông tin cao về con người và sự kiện trong một diện tích ngôn ngữ hạn hẹp trên

trang báo, cho nên cần phải sử dụng từ ngữ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu đạt cao nhất,

thực hiện được chức năng giao tiếp lí trí có hiệu quả nhất.

Tính biểu cảm: Trong phóng sự, ngôn ngữ còn có thể biểu đạt chân thực những trạng

thái tình cảm (cảm xúc, tâm lí, thái độ, chính kiến) của đối tượng được miêu tả và của chính

tác giả nhằm tác động đến nhận thức, tình cảm của đối tượng tiếp nhận thông tin. Nhờ đó,

người tiếp nhận thông tin không chỉ đón nhận tri thức hiểu biết từ bài phóng sự mà còn có

thể sống với những sự kiện trong đó, có thể lo âu, trăn trở, hạnh phúc… Ngôn ngữ phĩng sự

qua đó mà thực hiện tốt chức năng tác động vào tâm lí tiếp nhận thông tin của người đọc,

thông qua tình cảm mà hướng dẫn nhận thức, thôi thúc hành động của con người. Và đây

chính là thế mạnh của thể loại phóng sự so với các thể loại báo chí khác.

Các thành phần ngôn ngữ trong phóng sư: Có nhiều căn cứ để phân loại các thành

phần ngôn ngữ của phóng sự. Có thể căn cứ vào sắc thái ngôn ngữ, tính chất thông tin được

chuyển tải trong phóng sự hoặc căn cứ vào chủ thể phát ngôn… để phân loại các thành

phần ngôn ngữ phóng sự. Nhìn chung có nhiều cách phân chia các thành phần ngôn ngữ

phóng sự, mỗi cách phân chia đều có ý nghĩa riêng. Tuy nhiên theo ý kiến của một số nhà

nghiên cứu, một bài phóng sự có ý nghĩa phụ thuộc rất nhiều vào năng lực ngôn ngữ của

chủ thể “kể”. Một câu chuyện như nhau nhưng người này lại kể một cách hấp dẫn nhưng

người kia lại không tạo được hiệu quả trong lời kể của mình. Ông vua phóng sự đất Bắc đã

từng phát biểu: “Phóng sự là một thiên truyện kể mà nhà báo đã từng mắt thấy, tai nghe”.

Theo đó, trong ngôn ngữ phóng sự đơn vị lời nói, lời kể về sự kiện của nhà báo là chính, và

trong quá trình kể của mình nhà báo có sử dụng đơn vị lời nói –lời kể của các nhân chứng

trong và ngoài sự kiện; các chi tiết nguyên dạng về diễn biến chính của sự kiện bản thể – có

thể xem đó như lời kể của tự thân sự kiện. Như vậy căn cứ vào chủ thể phát ngôn, có nghĩa

là đơn vị lời nói của các chủ thể kể để phân loại các thành phần ngôn ngữ trong phóng sự là

một trong những căn cứ phân loại hợp lí. Theo sự phân loại này ta có thể chia ngôn ngữ

phóng sự thành các thành phần sau:

Ngôn ngữ sự kiện: là toàn bộ thông tin, sự kiện được “vỏ ngôn ngữ” chuyển tải nguyên

dạng. Ngôn ngữ sự kiện chủ yếu được sử dụng dưới dạng biểu đạt thông tin, thường trung

tính về sắc thái biểu cảm.

Ngôn ngữ sự kiện thường gặp nhiều trong phóng sự hiện đại, còn các phóng sự những

năm 1930-1945 có tính chất gần với văn học hơn với báo chí nên trong các tác phẩm ít ngôn

ngữ sự kiện.

Ngôn ngữ tác giả: trong một tác phẩm phóng sự thì ngôn ngữ tác giả giữ vai trò hết sức

quan trọng, vai trò tổ chức và chỉ đạo đối với ngôn ngữ toàn tác phẩm, ngôn ngữ tác giả

được sử dụng trong phóng sự ở hai dạng, hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp.

Dạng trực tiếp gắn với đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “tôi” vừa mang tính chủ quan vừa

mang tính khách quan. Khách quan ở chỗ cái “tôi” chỉ đóng vai trò là nhân chứng lịch sử để

trình bày lại những điều mắt thấy tai nghe, tạo nên độ chính xác, khách quan của thông tin.

Còn cái “tôi” mang tính chủ quan thể hiện ở cách chọn chi tiết, chọn ngôn từ để biểu đạt

chính kiến, cái nhìn về sự vật hiện tượng theo cá tính độc đáo của riêng mình, đó chính là

phong cách sáng tạo riêng, nó tạo cho mỗi bài phóng sự là một thế giới khác biệt.

Dạng gián tiếp: là cc trường hợp tác giả ẩn đi, lùi xa như thể đứng ngoài sự kiện để tỉnh

táo lí trí dẫn dắt câu chuyện theo mục đích của mình. Những bài phóng sự không thấy chủ

thể phát ngôn, cái tôi tác giả trực tiếp xuất hiện, không có nghĩa là không có ngôn ngữ tác

giả. Thực chất đấy chỉ là một thủ pháp nghệ thuật để phản ánh hiện thực một cách khách

quan. Thông qua việc lựa chọn chi tiết, sắp đặt các tình tiết theo một hệ thống, khâu nối các

dữ kiện để bộc lộ thái độ, cách nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất của sự vật hiện tượng, tác

giả muốn xoá đi mặc cảm bị áp đặt nhận thức cho độc giả.

Dù xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp, cái tôi tác giả cũng là chủ thể bộc lộ cá tính sáng tạo

trong việc sử dụng “vỏ ngôn ngữ” để chuyển tải mục đích của mình. Ngôn ngữ tác giả

thường tạo nên một ưu thế đặc biệt của thể loại phóng sự.

Ngôn ngữ nhân vật: Đối tượng phản ánh của phóng sự là sự kiện, hiện tượng, một con

người hoặc một tập thể người, cho nên ngôn ngữ nhân vật xuất hiện trong phóng sự là hết

sức cần thiết, được coi như bằng chứng xác thực, cụ thể có thể thay lời tác giả khi tác giả ẩn

sau sự kiện. Thành phần ngôn ngữ này khiến cho câu chuyện mang tính khách quan tự thân

của nó mà không có sự can thiệp bớt xén của tác giả. Đây là thành phần ngôn ngữ được sử

dụng nhiều trong phóng sự.

1.2.3.4. Vai trò của cái tôi trần thuật trong phóng sự

Trong phóng sự cái “tôi trần thuật” đóng vai trò rất quan trọng. Đó là cái “tôi” đầy logic,

lí trí, giàu lí lẽ và trong chừng mực nào đó còn sử dụng sức mạnh của cảm xúc thẩm mỹ.

Cái tôi- tác giả trong phóng sự xuất hiện với ba tư cách:

Là nhân chứng khách quan: là người khám phá ra sự kiện, theo dõi, điều tra, nghiên cứu,

hỏi han các nhân chứng trong sự kiện.

Là người thẩm định khách quan: kiểm tra tư liệu qua nhiều nguồn để đảm bảo sự chính

xác chân thật, mọi chứng cứ thông tin trước khi đưa vào bài phải đảm bảo tư cách pháp lí

của chứng cứ, tư liệu.

Là người khâu nối dữ liệu, tình tiết, chi tiết rời rạc thành một tác phẩm phóng sự hoàn

chỉnh và sử dụng ngôn ngữ phù hợp để tạo giọng điệu phù hợp vơi tính chất sự kiện và tâm

lí của đối tượng tiếp nhận thông tin.

Ci tơi – tc giả trong phĩng sự xuất hiện với hai vai trò:

Vai trò là người dẫn truyện: có thể xuất hiện trực tiếp với đại từ nhân xưng “tôi” ở ngôi

thứ nhất, cũng có thể ẩn mình trong sự kiện để dẫn dắt câu chuyện mà chính mình đã mắt

thấy tai nghe, cũng có thể tác giả lấy mình ra để đối trọng với hiện thực như người trong

cuộc, cũng có thể lùi xa sự kiện để nhìn sự kiện một cách lí trí hơn.

Vai trò là người định hướng nhận thức cho bạn đọc: lựa chọn, sắp xếp chi tiết, chọn lời

nói nhân chứng phù hợp với ý đồ sáng tạo của mình, tạo ra sự khách quan trong nhận thức,

tiếp thu sự thật của bạn đọc.

Như vậy, người viết phóng sự không chỉ là nhân chứng khách quan để kể chuyện người

mà đôi khi cũng còn là người trong cuộc để xem lại mình trong mối quan hệ chung với xã

hội. Phải chịu trách nhiệm về chính mình và bài viết của mình trước dư luận xã hội. Điều đó

buộc người viết phóng sự phải thận trọng khi nhập cuộc. Tuy nhiên phóng sự hiện đại ở

Tây-u và các nước khác thường không sử dụng cái tôi- tác giả ở ngôi thứ nhất, trực tiếp,

thậm chí tác giả phóng sự cũng rất ít khi bình, bàn, kiến nghị giải pháp để giải quyết vấn đề

thực tiễn như phóng sự nước ta thường làm. Họ thường tỏ ra khách quan bằng cách ẩn mình

trong sự kiện, để sự kiện nói điều cần nói theo ý đồ của tác giả.

1.2.3.5. Kết cấu và việc sử dụng biện pháp tu từ

Về kết cấu: Không giống các thể loại báo chí khác, kết cấu của phóng sự thường được

tác giả nhào nặn rất linh hoạt, tuỳ thuộc vào đối tượng phản ánh và ý đồ, cũng có thể là ngẫu

hứng của tác giả. Đó là sự pha trộn giữa những mô hình cấu trúc kinh điển với sự sáng tạo

độc đáo của tác giả từ việc lựa chọn chi tiết đến việc sắp đặt các dấu mốc thời gian; việc sắp

xếp các nhân chứng trong một chỉnh thể logic; việc trình bày các biến cố, mâu thuẫn gay

cấn; việc biểu lộ cảm xúc trữ tình… Nhìn chung, kết cấu của phóng sự thường chặt chẽ và

logic, thống nhất hoàn chỉnh, rõ ràng chất phác và bình dị, không cố làm ra li kì ngoắt

ngoéo. Kết cấu mỗi bài phóng sự là do nội dung chi phối và sự sáng tạo của tác giả.

Về biện pháp tu từ: Phóng sự có thể sử dụng triệt để các biện pháp tu từ như: So sánh,

tương phản, ẩn dụ, liên tưởng, châm biếm, hài hước nhằm đạt kết quả cao nhất trong việc

phản ánh sự thật, tác động được đến suy nghĩ, tình cảm của độc giả.

Trên đây là một số vấn đề về thể loại phóng sự, góp phần khẳng định sự xuất hiện độc

lập của thể loại và không nhầm lẫn với các thể loại báo chí khác. Tuy nhiên mọi ranh giới

cũng chỉ ở mức độ tương đối, không thể tránh khỏi việc các thể loại xâm nhập vào nhau.

Qua một số đặc trưng cũng như theo các quan niệm của các nhà nghiên cứu trong và ngoài

nước thì thể loại phóng sự rất gần với văn học, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau, một tác

phẩm phóng sự khi vừa ra đời nó là một tác phẩm báo chí nhưng sau đó nó lại là một tác

phẩm văn học, chịu sự đánh giá phê bình của công chúng cũng như những nhà lí luận,

nghiên cứu các thế hệ. Tuy nhin, để được xem là phóng sự văn học, thì mỗi thin phĩng sự

phải l một chỉnh thể nghệ thuật đặc sắc, khơi dậy trong tâm trí người đọc cả một thế giới

hình tượng sinh động, mang đủ các giá trị hiện thực, giá trị nhân văn, và nhất là giá trị thẩm

mĩ. Các phóng sự Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô (Vũ Trọng Phụng), Việc làng, Tập án

cái đình (Ngô Tất Tố),…chẳng hạn, là những phóng sự văn học. Trong các phóng sự văn

học, lại có nhiều trường hợp tác phẩm hội đủ trong nó những phẩm chất của cả phĩng sự v

tiểu thuyết và thường được nhận diện thể loại bằng những cái tên kép – phóng sự tiểu thuyết

hay tiểu thuyết phóng sự như trường hợp Lều chng của Ngơ Tất Tố (tiểu thuyết phĩng sự),

Đồng quê của Phi Vân (phóng sự tiểu thuyết). Đương nhiên, những sự phân biệt này chỉ là

tương đối.

Nhìn chung thế thể loại phóng sự thường giữ một địa vị quan trọng trong các nền báo

chí, văn học, thường góp phần tích cực vo việc phong phú, đa dạng hĩa v hồn chỉnh thm bức

tranh thể loại văn học của các nền văn học. Trên thực tế, phóng sự đ cung cấp thêm cho nền

văn học các nước những tác phẩm giàu tính chất hiện thực và nhân văn.

1.3. Một số vấn đề về thể loại Tiểu phẩm

1.3.1. Khái niệm.

Tiểu phẩm theo tiếng La tinh là “Satira”, tiếng Nga ơịỵ, ìơị, có nghĩa là trào phúng,

châm biếm, đả kích.

Trong tác phẩm “Literari Terms and Literari Theory”, J. A. Cuddon trong khi định

nghĩa về tiểu phẩm đ đặc biệt nhấn mạnh tiêu chí hình thức - “ngắn”, tiêu chí chức năng-

“thảo luận”, “nghị luận” và tiêu chí hành chức – thẩm mĩ – “sinh động” và “dễ thích nghi”.

Ông viết: “Tiểu phẩm (tiếng Pháp là Essai ) là một tác phẩm bằng văn xuôi (Moral Essays

của Pope viết theo thể thơ là một ngoại lệ) . Thường chỉ vài trăm từ (như tiểu phẩm của

Bacon), cũng có thể dài bằng một quyển sách (như tác phẩm “Concerning Human

Understanding” của Locke). Và dù đơn giản hay phức tạp thì cũng thảo luận về một đề tài

hay một loạt đề tài. Nó là một trong những hình thức văn học sinh động nhất và dễ thích

nghi nhất” [66, tr.306-307].

Trong Từ điển tiếng Việt, tiểu phẩm được định nghĩa với ba tiu chí: “ngắn”, “thời sự” v

“cĩ tính chất chm biếm”. Tiểu phẩm cĩ thể là:

- Bài báo ngắn viết về vấn đề thời sự có tính chất châm biếm

- Màn kịch ngắn mang tính chất châm biếm hoặc đã kích.

Trn thế giới, quan niệm và cách vận dụng tiểu phẩm, tùy khu vực có những điểm khác

nhau. Chẳng hạn, theo tổng thuật của Dương Xuân Sơn, người Trung Quốc xem các loại

văn tự bạt, kí, truyện, văn tế, thư tín… có ngôn ngữ trau chuốt, tình cảm phong phú đều là

văn tiểu phẩm; người phương Tây xem văn tiểu phẩm (Essay-tiểu luận) là thể văn xuôi nhỏ,

kết cấu tự do, thiên về thể hiện các ấn tượng và ý kiến cá nhân trước các sự việc và vấn đề

cụ thể, không nhằm đưa ra cách lý giải bao quát, điều cốt yếu là có cách kiến giải mới mẻ,

gây ấn tượng sâu đậm. [52, tr.151-152]

Ở Việt Nam, cc nh nghin cứu đ cố gắng đưa ra định nghĩa khi qut, hoặc tìm kiếm đặc

trưng nổi bật nhất cho thể loại ny.

Theo quan niệm của Bùi Đình Khôi, “Tiểu phẩm là một thể loại báo chí ngắn gọn, mang

tính văn học được diễn đạt bằng một ngôn ngữ mang tính chất châm biếm hoặc hài hước về

một sự việc có thực, cụ thể hoặc khái quát, mà thông qua đó tác giả biểu hiện quan điểm

của mình trước những sự việc hoặc hiện tượng đó” [Dẫn theo 52].

Phan Cự Đệ cho rằng: “Loại văn châm biếm này – tức tiểu phẩm - phù hợp với yêu cầu

kịp thời, gọn nhẹ, súc tích của thể loại văn học chiến đấu trên báo chí hàng ngày, khuôn khổ

của nó phù hợp với điều kiện thì giờ của cả người viết lẫn người đọc” [21, tr.395].

Trương Chính, khi phân tích tiểu phẩm, cũng nhận xét về đặc trưng thể loại này: “Văn

tiểu phẩm thì phải ngắn, sắc, xoay chuyển nhanh, câu thường đặt theo lối phá cách” [33,

tr.431] và “Văn tiểu phẩm là văn tố cáo, vạch trần, châm biếm, đả kích có khi phải đả kích

thật mạnh” [33, tr.432].

Trong tác phẩm “Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật” của Dương Xuân Sơn, tác

giả đã cung cấp một khái niệm về tiểu phẩm khá đầy đủ: “Tiểu phẩm là thể loại báo chí ở

nhóm chính luận- nghệ thuật, mang tính văn học, được diễn đạt bằng ngôn ngữ châm biếm,

đả kích hoặc hài hước về một sự sự kiện, sự việc, hiện tượng có thực, cụ thể hoặc khái quát,

qua đó tác giả thể hiện quan điểm của mình về sự kiện, hiện tượng đó” [52, tr.153]

Phần lớn ý kiến trình by quan niệm về tiểu phẩm chủ yếu khác nhau ở cch nhấn mạnh tiu

chí, cách diễn đạt, còn nội dung thì tương đối thống nhất. Dựa vào đó, ta có thể tổng hợp lại

thành một số nhận xét về thể loại như sau:

Thứ nhất: Tiểu phẩm là một thể loại ngắn, gọn, súc tích như cái tên vốn có của nó.

Thứ hai: Tiểu phẩm là một thể loại báo chí nhưng mang tính văn học và một tiểu phẩm

hay rất gần gũi với một tác phẩm văn học.

Thứ ba: Tiểu phẩm là loại văn mang tích chiến đấu rõ rệt thông qua nghệ thuật trào

phúng châm biếm.

Thứ tư: Tiểu phẩm thể hiện rất r thái độ, quan điểm, ý kiến của chính người viết đối với

đối tượng được đề cập.

1.3.2. Lịch sử ra đời và phát triển của tiểu phẩm.

- Trên thế giới : Vào khoảng những năm 60-70 của thế kỉ XVIII, với sự xuất hiện của

các bài viết của Nôvicốp và Giécxen trên báo chí Nga. Và đầu thế kỉ XIX với sự xuất hiện

của những bài viết của cố đạo Guyliêng Giốp Phroa trên báo chí Pháp. Những bài viết của

họ là những bài bài ngắn về đề tài văn hóa, chính trị, xã hội với lời văn nhẹ nhàng, duyên

dáng, lúc đầu giống như những bài tiểu luận dần dần định hình thành thể loại với những đặc

điểm rõ rệt: tính thời sự, tính văn học, hoạt bát. Người ta gọi các bài viết này là Feuilleton,

và thể loại tiểu phẩm đã ra đời.

- Ở nước ta, các dạng trào phúng, tiểu phẩm, theo các nhà nghiên cứu, xuất hiện trên báo

chí khoảng những năm đầu của thế kỉ XX, ở những tờ báo như: Đông Dương tạp chí, Đông

Tây, Duy Tân, Phong Hóa, Vịt dực, Con ong… đã có nhiều bài viết mang tính chất châm

biếm, hài hước, in những hình hý hoạ, biếm hoạ…

Tuy nhiên phải đến thời kì Mặt trận Dân chủ (1936-1939), khi báo chí đã tiến bộ và

phong tro Cách mạng vơ sản có điều kiện phát triển công khai, thể loại tiểu phẩm mới thực

sự phát triển. Ta thấy có sự xuất hiện của các mục: “Mỗi ngày một chuyện”, “Nói mà chơi”,

“Thực hay bỡn”, “Câu chuyện ban mai” trên báo chí với những tên tuổi nổi tiếng như: Tam

Lang, Thông Reo, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… Phần lớn các tác

phẩm đều có kết cấu gọn nhẹ, súc tích, mang tính trào phúng và bắt kịp với những vấn đề

thời sự đương thời như: vạch trần bản chất xấu xa của chế độ thực dân phong kiến, sự đớn

hèn của những kẻ bán nước cầu vinh, thói hám tiền, hám danh vọng, địa vị, những hủ tục lạc

hậu, mê tín dị đoan, thói lố lăng kệch cơm của những kẻ học đòi u hóa, coi thường văn hóa

dân tộc… Ở giai đoạn này, thể loại tiểu phẩm thực sự đạt hiệu quả cao về nội dung lẫn hình

thức nghệ thuật, gây được sự hứng thú ở phần lớn công chúng, đánh dấu sự trưởng thành

vượt bậc của thể loại.

Trên đà đó, tiểu phẩm ngày càng phát triển và hoàn thiện cùng với quá trình phát triển

của nền báo chí Việt Nam.

Thời kí chống Mĩ cứu nước, tiểu phẩm phát triển mạnh nhưng chủ yếu là những tiểu

phẩm mang tính bút chiến, nội dung nhằm vạch trần bộ mặt thâm hiểm, những thủ đoạn xấu

xa tàn ác của đế quốc Mĩ và bè lũ tay sai bán nước. Tiêu biểu cho giai đoạn này là các tên

tuổi như: Lê Kim, Lã Vọng, Hoàng Trung Thông, Tú Mỡ…

Chiến tranh chấm dứt, lịch sử dân tộc lật sang trang mới, tiểu phẩm cũng nhanh chóng

thay đổi, hòa mình vào sư nghiệp xây dựng đất nước. Những vấn đề cấp bách được đặt ra,

các nhà viết tiểu phẩm tiếp cận với những đề tài mới: Những thói hư tật xấu như tệ nạn tham

nhũng, cửa quyền, ức hiếp quần chúng và những tệ nạn do chiến tranh để lại như: thói làm

ăn chây lười, ỷ lại vào tập thể trong công cuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội

chủ nghĩa. Giai đoạn này, tiểu phẩm đã làm nhiệm vụ góp phần làm trong sạch xã hội,

hướng dẫn quần chúng đi vào xây dựng nếp sống mới.

Thời kì sau 1986, cùng với sự đổi mới của cả nước. tiểu phẩm vươn lên phát triển nở rộ,

góp phần to lớn vào việc thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân

chủ, văn minh”.

1.3.3. Đặc trưng của tiểu phẩm

1.3.3.1. Tiểu phẩm thường ngắn gọn, súc tích

Đặc điểm đầu tiên để nhận diện văn tiểu phẩm đó là sự ngắn gọn, súc tích. Càng ngắn

gọn càng súc tích và càng gây được ấn tượng mạnh. Người viết văn tiểu phẩm thường

không kể lể dài dòng vì viết dài sẽ dễ lan man, nhiều khi lạc đề, mất điểm nút. Theo Dương

Xuân Sơn “Tiểu phẩm chỉ độ 300-1500 từ trở lại” [52, tr.165]. Tạo được một tác phẩm vừa

ngắn gọn vừa chuyển tải được ý tưởng của mình không phải là một điều dễ dàng, chính vì

vậy tiểu phẩm không dung nạp những “tay nghề” non yếu. Những người đã chọn tiểu phẩm

làm phương tiện phản ánh hiện thực cuộc đời, phải là những người có vốn hiểu biết, vốn

ngôn ngữ phong phú, phải có đôi mắt quan sát tinh tế, và một bộ óc khôi hài đầy trí tuệ.

Nhìn chung những ai đã thành công về thể loại này thường là những tay bút cứng cỏi. Vì chỉ

trong một số từ ngữ hạn định, tiểu phẩm phải chuyển tải được một dung lượng tri thức hàm

súc và đặc biệt là có ý nghĩa sâu sắc. Thể hiện được tư tưởng, quan điểm cũng như thái độ

của người viết đối với vấn đề được đề cập.

1.3.3.2. Tiểu phẩm thường có tính trào phúng, châm biếm và đả kích

- Tính trào phúng: Nghệ thuật trào phúng của tiểu phẩm thể hiện ở tính hài, đã là tiểu

phẩm thì phải chuyển tải nội dung thông tin qua các yếu tố hài hước, như thế mới gây được

ấn tượng mạnh , tác động vào tư duy của người đọc, và từ đó bật lên vấn đề. Trong tiểu

phẩm báo chí, trào phúng gắn liền với phạm trù mĩ học. Trào phúng có nghĩa là dùng lời nói

bóng bẩy, kín đáo để mỉa mai kẻ khác. Nghệ thuật trào phúng trong văn tiểu phẩm được sử

dụng nhằm đạt hiệu quả cao trong châm biếm, đả kích những thói hư tật xấu trong xã hội.

- Tính châm biếm, đả kích: Trào phúng chính là một phương tiện để thể hiện nội dung

châm biếm đã kích, đặc trưng cơ bản của tiểu phẩm là tính chiến đấu, với nội dung phê phán

đả kích những cái xấu, cái lạc hậu, cái tùy thời của một con người, một sự vật hiện tượng.

Cái hài hước trong tiểu phẩm không phải là cái hài giải trí mà nó là cái hài phê phán, vì

tính chất ngắn gọn của tiểu phẩm không cho phép người viết được diễn giải nhiều lời. Chính

vì thế, một vấn đề được đặt ra là làm sao để có thể gây sự chú ý của người đọc đối với bài

viết của mình. Nếu đã ngắn gọn mà còn là những lời lẽ giáo huấn khô khan thì chắc chắn

tiểu phẩm không thể nào chiếm được vị trí quan trọng trong lòng độc giả. Người viết tiểu

phẩm đã khéo léo chọn cho mình một phương pháp thể hiện là sử dụng bút phát trào phúng

làm chủ đạo. Trước là để gây sự chú ý tức thời, sau là khơi gợi suy nghĩ, cảm xúc cũng như

thái độ của tác giả từ tiếng cười đó. Người xưa thường phân biệt hai tiếng cười, một là tiếng

cười thể hiện sự vui sướng, hai là tiếng cười “ra nước mắt”. Tiếng cười trong thể loại tiểu

phẩm thuộc tiếng cười thứ hai. Tuy không đến mức cười ra nước mắt, thì tiểu phẩm cũng

làm cho người ta xót xa trước nhân tình thế thái. Và đằng sau những tiếng cười kia là những

bức chân dung biếm họa được người nghệ sĩ chụp, vẽ một cách sac nét nhằm phê phán, chê

bai, mỉa mai những ai đang đi ngược với lợi ích của nhân dân, đang phá hủy những giá trị

tốt đẹp của con người, cuộc đời.

Có thể nói, đã là văn tiểu phẩm thì không thể thiếu tính trào phúng và phê phán, đả kích.

Bởi đó là linh hồn của thể loại độc đáo này.

1.3.4. Nghệ thuật của tiểu phẩm

Đặc điểm hình thức v kĩ thuật thể hiện của tiểu phẩm thường bộc lộ r qua cc

phương diện; trào phúng, kết cấu, ngông ngữ, giọng điệu và biện pháp tu từ.

1.3.4.1. Nghệ thuật trào phúng

Nghệ thuật trào phúng trong văn tiểu phẩm rất đa dạng. Tác giả được quyền khai thác tối

đa về các biện pháp gây cười nhằm đem lại hiệu quả cho bài viết của mình.

Dân tộc ta từ lâu đã biết sử dụng tiếng cười đưa vào văn chương, hò, vè, ca dao …dần

dần tạo nên một bộ phận văn học lấy tiếng cười làm phương tiện tiếp xúc với đông đảo quần

chúng nhân dân lao động. Khi sáng tác tiểu phẩm báo chí, người viết sử dụng các thủ pháp

đặc sắc của văn học nghệ thuật để phản ánh xã hội, các thủ pháp gây cười mang đậm màu

sắc dân gian và giàu truyền thống dân tộc : thâm thúy, thông minh, dí dỏm. Tùy theo thái

độ, quan điểm của tác giả đối với đối tượng bị phản ánh mà tính hài hước trong tác phẩm

được thể hiện dưới một phong cách nào đó. Thông thường tính trào phúng trong tiểu phẩm

được tạo ra bằng các cách sau:

- Gây cười bằng cách tạo kết thúc bất ngờ: đây là loại tiểu phẩm mà đọc cho đến gần

hết tác phẩm, sự việc diễn ra một cách bình thường không có gì đáng chú ý. Chỉ đến khi kết

thúc sự việc mới bật ra cái nghịch lý, mâu thuẫn, tạo ra tiếng cười bất ngờ sảng khoái

- Gây cười bằng các chi tiết sinh động hài hước trong quá trình diễn biến sự việc. Các chi

tiết này được sắp xếp theo trình tự từ thấp đến cao và xuất hiện trong toàn tác phẩm. Từng

chi tiết tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuốn và tiếng cười của người đọc.

- Gây cười bằng cách kết hợp cả hai yếu tố trên: cũng có khi tiểu phẩm kết hợp cả hai

yếu tố trên trong quá trình xây dựng cốt truyện, loại kết cấu này như một xung đột kịch,

được dồn nén đến cao độ và được giải quyết bằng một kết thúc độc đáo, trong đó các hệ

thống chi tiết như là phần “thắt nút” và kết thúc như là phần “mở nút”.

Nhìn chung, do sự quy định của đặc trưng của thể loại nên nhà văn thường chọn cho

mình một thủ pháp tạo tiếng cười ấn tượng nhất, bất ngờ nhất và có hiệu quả nhất trong

phản ánh hiện thực. Điều đó làm nên sự phong phú, sinh động và hấp dẫn của thể loại.

1.3.4.2. Kết cấu của tiểu phẩm

Kết cấu của tiểu phẩm khá đơn giản nhưng mạch lạc, độc đáo, giàu sức thuyết phục. Một

tác phẩm tiểu phẩm thường có ba phần: Vào đề, diễn giải và kết luận. Phần vào đề có tính

chất gợi mở vấn đề cần bàn, cần đề cập trong tiểu phẩm sang sự chú ý tò mò cho người đọc.

Ví dụ tiểu phẩm “Mạ lại tin tức” cuả Ngô Tất Tố, phần vào đề ông viết “Coi cái đầu đề này

mà ai đoán được ở dưới mình nói cái gì, thì mình dầu kiết thì kiết, cũng xin thiết một chầu

hát.

Đố vậy mà chơi chứ cái đầu đề mình đặt rắc rối như vậy, thánh đoán cũng chẳng ra.

Thôi mình nói toẹt ngay đi kẻo độc giả sốt ruột”. Đúng như Ngô Tất Tố đã nói phần vào đề

cuả ông sốt ruột thật, ông cố tình kéo dài tạo sự tò mò cho người đọc khiến cho lượng thông

tin sắp được tác giả trình bày thật hấp dẫn.

Phần diễn giải dẫn dắt người đọc đi vào nội dung chính của vấn đề, tạo nút căng thẳng

và cởi nút, hoặc tạo tình huống rồi giải đáp tình huống đó. Trong “Mạ lại tin tức”, Ngô Tất

Tố dẫn dắt người đọc đi từ chỗ giải thích chữ “mạ”, sau đó đến cắt nghĩa cụm từ “mạ lại tin

tức”, dẫn đến nội dung chính của vấn đề cần phản ánh. Đó là hiện tượng “ở Hà Thành mới

có một vài tờ báo mạ lại tin tức”, với thủ đoạn như:

Giả sử đầu tháng Novembre ở Gia Định có bắt được một ngươì cộng sản chi đó, có báo

đăng cái tin ấy mà họ trót đã không biết, thì họ lờ đi luôn đến cuối tháng ấy mới đăng. Chứ

họ không đăng vào hôm sau mang tiếng là trích đăng cuả bạn đồng nghiệp. Khi đăng họ chỉ

đổi lại ngày tháng , đại khái đăng vào ngày 26 novembre thì ở trên họ đề là “Saigon 23

Novembre”, độc giả coi thấy cái đát ấy tưởng là việc mới xảy ra, tưởng là tin tức của báo

họ nhanh lắm [58, tr.51]

Phần kết luận cần khái quát vấn đề đang bàn, (đưa ra lời bình nếu cần thiết- theo chủ đề

). Lời bình có khi là lời cuả tác giả có khi là lời của nhân vật (nếu có). Tiểu phẩm “Mạ lại

tin tức” của Ngô Tất Tố, Vừa đưa ra kết luận lại kèm theo lời bình rất sâu sắc

“Đó là tin mạ lại, mạ lại như vậy thì mới sang xác rồi, đánh lừa độc giả thiệt dễ như bỡn.

Than ôi, thì buổi điêu ngoa các bà các cô sắm đồ, phân biệt đồ thật đồ mạ đã khó thay, mà

đến độc giả đọc báo phân biệt được tin “mạ” lại càng khó nữa.

Than ôi.”[58, tr.52].

Cũng như các thể loại khác, kết cấu của Tiểu phẩm cũng khá linh hoạt, có kết cấu cốt

truyện, có kết cấu sự kiện, ty thuộc vào mục đích và lượng thông tin cần cung cấp mà các

tác giả sẽ chọn cho mình một loại kết cấu phù hợp.

1.3.4.3. Ngôn ngữ, giọng điệu và biện pháp tu từ

Vì tiểu phẩm là một thể loại gần với văn học nên ngôn ngữ của tiểu phẩm cũng rất gần

với ngôn ngữ văn học. Người viết có khả năng tu từ với vốn từ phong phú. Tuy mỗi người

có phong cách riêng, nhưng mọi thủ thuật đều nhằm mục đích tạo ấn tượng mạnh và ảnh

hưởng trực tiếp tới người đọc.

Ngôn ngữ trong tiểu phẩm biến hoá linh hoạt, đặc biệt đậm chất hài hước, và được lựa

chọn kĩ càng. Chính vì vậy ngôn ngữ trong tiểu phẩm rất hàm súc, có sức thuyết phúc cao.

Bên cạnh ngôn ngữ, giọng điệu trong tiểu phẩm cũng là một trong những yếu tố tạo nên

giá trị của loại văn này. Giọng điệu trào phúng, phê phán, thông qua giọng điệu người đọc

có thể cảm nhận được người viết có thái độ như thế nào đối với con người, sự việc và hiện

tượng được đề cập trong tác phẩm. Đặc biệt vì đây là một thể loại có tính chiến đấu cao cho

nên giọng điệu trong tác phẩm là giọng điệu mỉa mai, chế giễu nhằm đấu tranh, bài trừ

những cái xấu trong xã hội.

Biện pháp tu từ được sử dụng trong tiểu phẩm cũng rất da dạng. Trong sự gần gũi ở

mức độ cho phép với văn học, các tác giả đã vận dụng một cách linh hoạt các biện phát tu từ

như lối ví von, so sánh, ngoa dụ, phóng dụ, cài bẫy… để có thể dẫn dắt người đọc suy luận

theo một hướng rồi bất ngờ tạo kết thúc theo hướng khác mà vẫn hoàn toàn logíc, gây nên

sự hứng thú, hấp dẫn. Tiếng cười từ cái hài cũng vì thế mà đậm đặc hơn. Sự việc có thể chỉ

ở mức độ vừa phải nhưng qua lối diễn tả của mình, tác giả có thể rất thành công trong việc

cường điệu khiến người đọc thấy thú vị và chắc chắn chủ đề của tác phẩm sẽ đọng lại lâu

hơn trong tâm hồn họ. Lối viết ẩn dụ để người đọc tự phát hiện ra ẩn ý của tác giả cũng

thường được sử dụng. Tuy nhiên để có tác dụng hữu hiệu, người viết phải có một kiến thức

rộng và ngòi bút sắc sảo, nhất là mức độ ẩn dụ cần phải phù hợp với nhận thức của đông

đảo độc giả, nếu không tiểu phẩm sẽ mất tác dụng thậm chí phản tác dụng.

Trn đây, luận văn đ xc định vị trí của Ngô Tất Tố trong văn học Việt Nam hiện đại

(1930-1945). Ông là một trong những nhà văn đại diện xuất sắc cho chủ nghĩa hiện thực

trong văn xuôi. Cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, ông đ khơi sâu

giá trị hiện thực và nhân đạo trong sáng tác của mình.

Luận văn cũng đ đề cập đến thể phóng sự và tiểu phẩm như là các thể loại kết hợp hài

hịa cc đặc điểm, ưu thế của báo chí và của văn học, xem xét các đặc điểm mang tính kĩ

thuật, thi pháp thể loại. Đó cũng là một quan niệm, một cách hiểu làm cơ sở cho việc đi sâu

tìm hiểu, nghin cứu phĩng sự v tiểu phẩm của Ngơ Tất Tố.

Các chương tiếp theo sẽ lần lượt khảo sát, tìm hiểu phĩng sự v tiểu thuyết của ơng.

Chương 2

ĐÓNG GÓP CỦA PHÓNG SỰ NGÔ TẤT TỐ ĐỐI VỚI

VĂN HỌC VIỆT NAM 1930-1945

2.1. Những đóng góp về nội dung

Văn học Việt Nam trong quá trình phát triển luôn hướng đến số phận con người. Giá trị

hiện thực, giá trị nhân đạo trở thành những thước đo giá trị của một tác phẩm văn học khi nó

ra đời.

Tuy nhiên giai đoạn văn học 1930–1945 phát triển theo nhiều khuynh hướng và phân

chia thành nhiều bộ phận rất phức tạp. Trên văn đàn luôn diễn ra những cuộc tranh luận, bút

chiến sôi nổi giữa “thơ mới” và “thơ cũ” giữa văn học “vị nghệ thuật” và văn học “vị nhân

sinh”. Sự xuất hiện của Ngô Tất Tố đã góp thêm một tiếng nói có giá trị đối với sự thắng lợi

của chủ nghĩa hiện thực. Có thể kể ra một số đóng góp của phóng sự Ngô Tất Tố đối với

văn học Việt Nam nói chung, văn học giai đoạn 1930-1945 nói riêng như sau:

2.1.1. Phóng sự của Ngô Tất Tố góp phần hoàn thiện bức tranh hiện thực

trong văn học về đời sống nông dân.

Phóng sự Việt Nam những năm 1930-1945 tuy là mới ra đời nhưng đã đạt những thành

tựu rực rỡ. Nhiều tác phẩm có giá trị ra đời đáp ứng được nhu cầu của hiện thực. Một trong

những đề tài được quan tâm sâu sắc đó chính là cuộc sống của người nông dân ở nông thôn

Việt Nam.

Trước và sau Ngô Tất Tố có không ít tác phẩm viết về nông thôn. Trước khi văn học

hiện thực chiếm được vị trí xứng đáng của nó, các nha văn lng mạn đã khai thc đề tài nông

thôn. Tuy nhiên cuộc sống lầm than của những con người bị áp bức ở sau lũy tre xanh, qua

cách tiếp cận chủ quan của nhà văn lng mạn chủ nghĩa, thường được phản ánh một cách sai

lệch. Họ thường thi vị hóa cuộc sống nông thôn. Trong tác phẩm của họ, khác hẳn với thế

giới no nhiệt của phố phường, nông thôn hiện ra như một thế giới của những đêm trăng,

những ngày hội, một thế giới của những cô thôn nữ xinh đẹp, ngây thơ, của những mối tình

đậm đà chất phác…

Đó là chưa nói đến những tác phẩm mang tính chất phản động như “Một làng An Nam”

của Bùi Đình Tá, xuất bản năm 1937, hết sức ca tụng chính sách duy trì trật tự ở nông thôn

của bọn thực dân Pháp.

Đến khi các nhà văn hiện thực phê phán xuất hiện, cuộc sống ở nông thôn mới được

phản ánh vào tác phẩm văn học một cách chân thực. Phong trào đấu tranh của quần chúng

đã giúp các nhà văn trông thấy những ung nhọt xấu xa của xã hội . Các tác phẩm viết về

nông thôn đã trở nên chn thực, sâu sắc hơn. Trong số đó, có thể kể đến Nguyễn Đổng Chi

với Túp lều nát (1937), Trọng Lang với Trong làng chạy (1935) và Làm dân (1942), Phi

Vân với tập phóng sự Đồng quê (1942)…

Tuy nhiên, có thể nói chỉ trong sng tc của Ngơ Tất Tố, Nguyễn Cơng Hoan, Nam Cao

thì văn học mới thực sự thể hiện một cách sinh động, thấm thía nỗi đau của người nông dân.

Trong số các nhà văn hiện thực Việt Nam, Ngô Tất Tố là một trong những người sống lâu ở

nông thôn và có hiểu biết sâu sắc về đời sống con người và xã hội ở nông thôn. Hầu hết các

nhà văn hiện thực đều có thể nhìn ra được số phận đau khổ, tội nghiệp của người nông dân.

Nhưng tùy thuộc và thế giới quan cũng như độ tinh tế trong cảm nhận hiện thực đời sống,

mỗi người sẽ có một góc độ phản ánh ring. Các nhà văn hiện thực, nĩi chung, đã nhìn thấy

được cuộc sống vất vả bần cùng của người nông dân. Nhưng phần lớn họ chỉ nhìn thấy

những gì đang diễn ra trước mắt, nn chưa phản ánh được toàn vẹn bức tranh đời sống nông

thôn cũng như số phận người nông dân. Ngô Tất Tố đã giúp họ làm điều đó. Cũng giống

như trong thân thể một con người, có những vết thương ngoài da chúng ta dễ dàng nhìn

thấy, cũng có những vết thương rỉ mu trong tâm hồn, những vết thương loại ny khĩ nhìn

thấy v cảm nhận hơn. Ci nhìn của Ngô Tất Tố thường đưa người đọc đi sâu vào trái tim, vào

tình cảm để thấu hiểu hết những nỗi đau của người lao động ngho. Giá trị của phóng sự

“Tập án cái đình” và “Việc làng” của Ngô Tất Tố là ở chỗ đó. Cảm nhận của Bùi Huy Phồn

khi đánh giá Việc làng của Ngô Tất Tố cũng là cảm nhận chung của nhiều người: “Phải nói

thực với nhau rằng khi đọc xong Việc làng, chúng ta- những người sáng tác văn nghệ- lại

càng thấy sự hiểu biết của chúng ta về đời sống mọi mặt của người nông dân nước ta quả

còn sơ sài, phiến diện quá, do ở đó mà sự thông cảm của chúng ta với những vui buồn,

sướng, khổ của họ cũng hời hợt quá…”.

Người nông dân Việt Nam dưới ách thống trị của phong kiến và thực dân đã chịu biết

bao khổ nhục. Họ bị đàn áp dã man về mọi mặc, bị bĩc lột đến tận xương tuỷ với biết bao

thủ đoạn thâm hiểm, độc ác.

Chúng ta đã từng đọc tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, tiểu thuyết “Bước đường

cùng” của Nguyễn Công Hoan, truyện ngắn “Chí Phèo”, “Lão Hạc” của Nam Cao… để

hiểu cái đói, cái khổ của nông dân vì sưu cao, thuế nặng vì cái nghèo đeo đẳng, vì bị bức

đến đường cùng không lối thoát. Bên cạnh đó những thiên phóng sự như Túp lều nát của

Nguyễn Đổng Chi viết về nông dân Trung bộ, cụ thể là nông thôn Hà Tĩnh. Tác phẩm phơi

bày một cách sắc sảo bộ mặt của bọn hào lý cùng những thủ đoạn bóc lột trắng trợn, thâm

hiểm của chúng và nhiều tệ nạn khác của chế độ cường hào. Tập phóng sự Đồng quê của

Phi Vân lại phản ánh đời sống của người nông dân Nam bộ. Mỗi người một vẻ, mỗi vùng

một cách sống khác nhau nhưng các tác giả đều tập trung phơi bày mọi nỗi khổ cực, nghèo

nàn, đói rách của người nông dân vì sự bóc lột tàn bạo của chế độ thực dân nửa phong kiến.

Cũng cùng một đề tài về người nông dân, v cuộc sơng, phong tục thơn qu, nhưng Ngô

Tất Tố với “Việc làng” và “Tập án cái đình” không chỉ khắc họa bức tranh hiện thực về

cuộc sống vật chất đơn thuần, ông khơi nguồn cảm hứng từ một nền văn hoá lâu đời của

Việt Nam - văn hoá Đình làng - để thể hiện gánh nặng tinh thần của người dân quê trước “lệ

làng”.

Nước ta có nền văn hoá lâu đời, với truyền thống yêu nước thương nòi, tình làng nghĩa

xóm bao giờ cũng đằm thắm, thân thiết. Cng với những đức tính tốt đẹp đó là những nghi lễ,

tục lệ thể hiện sự trân trọng, sự gắn bó, sự cần thiết của xóm làng đối với mỗi cá nhân trong

cộng đồng. Chính tâm lí đó đã làm nảy sinh nhiều tục lệ xoay quanh chuyện quan hệ giữa cá

nhân với làng. Và cũng từ đó, bọn cường hào, bọn hương lý “đục nước béo cị” đã bày đặt

ra đủ thứ lệ làng để bóc lột của cải, trấn áp tư tưởng của người dân. Thế nhưng không phải

ai cũng nhận ra đó là một kiểu bóc lột, thậm chí có người còn tôn sùng những hủ tục , xem

đó như là những gì tốt đẹp, vinh hạnh. Họ cho rằng làng càng nhiều hủ tục, càng nhiều nghi

lễ thì càng lớn mạnh, càng uy nghiêm.

Trớ trêu thay, người dân quê là những nạn nhân đau khổ của các hủ tục, bị lợi dụng, bị

“rút ruột”, lại cung kính, ngy thơ thực hiện những tục lệ đó một cách chân thành. Thậm chí,

cĩ người cịn coi trọng cc hủ tục ấy hơn cả tính mạng người thân, ruột thịt của mình. Ngô Tất

Tố bằng vốn hiểu biết về văn hoá phong tục người Việt phong phú, bằng cái nhìn sắc bén

đối với sự việc hiện tượng, ông đã vạch ra bản chất của những hủ tục chốn đình trung. Tất

cả chỉ là một sự lừa bịp. Một luật lệ làm giàu cho bọn thống trị từ nhỏ đến lớn. Để làm

được điều này, Ngơ Tất Tố đã thực hiện những cuộc điều tra thực tế rất tỉ mỉ, cơng phu. Ta

thấy mỗi câu chuyện trong “Việc làng”: hay “Tập án cái đình” đều là người thật - việc thật

mà chính Ngô Tất Tố đã tự mình thân chinh đến thăm hỏi và điều tra. Ơng đã tập hợp lại để

phán ánh, để phơi bày, để góp thêm một tiếng nói thương cảm trước những nỗi đau mà

người nông dân phải gánh chịu.

Việc làng gồm có mười sáu mẩu chuyện. Mỗi một chuyện là một hủ tục“quái gở”, “mọi

rợ”, và phía sau đó là một số phận bi thảm của người nông dân khi phải thực hiện những hủ

tục đó.

Cụ Thượng làng Lão Việt trong mẩu chuyện đầu tiên, là một người cả cuộc đời vì gánh

lệ làng mà không thể ngóc đầu lên nổi. Bác tâm sự: “Từ thuở mười bảy tuổi đến giờ tôi

không chơi một ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn

ngược, bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả (… ) những việc tôi làm, bất kì việc nào

tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời

nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con đành phải để

cho nó dốt nát” [57, tr.13].

Nguyên nhân của sự làm nhiều mà không khá chính là vì phải thực hiện những lệ làng

mà ở những câu chuyện tiếp theo Ngô Tất Tố sẽ cho chúng ta thấy.

Đó là một đám vào ngôi cho con, để lo cho chu tất ít cũng phải đến “trăm rưỡi bạc”.

Bác Cả Mão nhân vật chính của câu chuyện cũng là một trong những nạn nhân của “lệ

làng”. Theo Ngô Tất Tố người ta vào ngôi cho con chỉ tốn độ vài đồng bạc. Thế nhưng bác

Cả Mão là dân ngụ cư, nên lo “một đám vào ngôi” thật là tốn kém. Theo lời bác Hai, em trai

bác Cả Mão thì

Một bữa ăn này, ít ra anh tôi cũng phải tiêu đến năm, sáu chục đồng. Vì kiêng tiếng làm thịt

lợn, sợ rằng làng nước cho rằng húng mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực mua thịt lại quá

giết lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn, vừa thịt lợn tất cả mười một đồng bạc, đáng lẽ cũng

đủ chàn chát nhưng cụ chưởng lễ thích ăn thịt cầy, nên ông lý trưởng bắt giết thêm con cầy.

Chẳng nhẽ mời dân, mời làng ăn uống trong nhà, ngoài đình lại không có gì. Bởi thế chúng

tôi phải sửa cỗ xôi, con gà để ra lễ thờ. Bấy nhiêu món đã hết ngót hai chục rồi. Còn tiền

rượu, còn tiền thuốc phiện, còn tiền cung đốn họ đánh tổ tôm. Ông đã biết rõ, mọi khi làng

tôi có ai dám đánh “góp một”? lớn lắm chỉ góp năm hào. Hôm nay vì tiền nhà chủ bỏ ra,

được thì ăn, thua không phải trả, nên họ hò nhau đánh góp hai đồng. Rồi đấy ông xem, đến

lúc đứng dậy, ai cũng thua hết, anh tôi đưa ra bao nhiêu mất hút bấy nhiêu, chẳng lấy lại

được đồng nào hết … lúc nảy tôi nói trăm rưỡi là còn hà tiện, xong việc có lẽ hết hơn, chứ

bấy nhiêu tiền không thể nào đủ [57, tr.20-21].

Người nông dân cả đời làm lụng chỉ dám tính đến tiền xu, tiền hào, tiền đồng đã là ghê

gớm lắm. Chị Dậu (Tắt đèn – Ngô Tất Tố ) bán cả con, cả chó chỉ được có hai đồng bạc,

vậy mà bác Cả Mão chỉ lo một đám vào ngôi hết đến những “gần hai trăm bạc”. Đúng là

đem mồ hôi nước mắt, thậm chí là máu của mình đi đổ sông đổ biển.

Lo một lệ làng tốn kém như vậy nên không ít cảnh thật thương tâm được Ngô Tất Tố

khắc họa một cách đậm nét trong “Việc làng”. Đ úng là những nỗi cơ cực mà không thể

chia sẻ cùng ai!

Ơng Luỹ trong câu chuyện “Góc chiếu giữa đình”, vốn “thật thà, chăm chỉ”, chồng đi

làm thuê, vợ đi ở vú, và với “cái chính sách tiết kiệm trong một thời kì dài, đã đưa nhà ông

lên bậc có máu mặt, lưng vốn ở nhà đã có gần mẫu ruộng và nửa con trâu”[57, tr.38]. Tâm

lí người nông dân bao giờ cũng vậy, có chút của lại muốn thêm chút danh cho mở mày mở

mặt. Chính vì thế, ông đã nghe lời dụ dỗ ngon ngọt, bùi tai nên đem trăm bạc mua lấy cái

chức lý cựu. Để có một chức cựu hư danh đó, ông lại phải khao làng, tiệc tùng ăn uống linh

đình lại diễn ra. Bà con đang lúc rảnh rỗi kéo đến phụ giúp. Thế là để khao một “góc chiếu

giữa đình” ông đã tiêu tốn hết toàn bộ gia sản mà hai vợ chồng tằn tiện cả hơn nửa cuộc đời,

không dám ăn mặc, lại còn nợ thêm hơn bảy chục đồng. Kết thúc câu chuyện bà cựu –

chồng vừa được lên chức- lại phải ta Hà Nội ở vú để kiếm tiền trả nợ.

Tuy nhiên, mất cả gia tài như ông Luỹ, hay ông Quyết (Hạt gạo xôi mới) vẫn là còn may

mắn vì còn có chút của mà mất. Chứ không thiếu những người vì lo một bữa lệ làng mà phải

dỡ cả nhà làm củi bán. Đó là trường hợp của ông Linh Phúc trong “Cổ oản tuần sóc”. Cả

cuộc đời ông vất vả, chạy vạy miếng ăn đến nỗi cả hai vai chai sạn, dày lên thành hai cái

bướu to vì gánh thuê, cái ăn không đủ đừng nói đến cái mặc. Vậy mà năm nay ông lại lên

ngôi ông trùm. Mà lên ngôi ông trùm là một năm phải sửa oản hai lần, để làm được cái oản

thứ nhất với ông thật khó khăn. Ơng tính: “ nhà không sẳn, vay không ai tin, tôi đành dỡ hai

gian nhà làm củi để kiếm tiền mua gạo. Đáng lẽ tôi để vài bữa nữa mới dỡ nhưng vì thấy

trời mưa dầm chắc là củi đắt, nên mới dỡ từ hôm nay. Thôi thì túng kiết quanh năm hãy cho

qua cái lúc này. Bao giờ trời cho mở mắt, bấy giờ lại làm nhà khác. Vả lại, có bốn bố con ở

vào hai gian một chái vẫn còn vừa chán” [57, tr.76]. Còn có gì thấm thía hơn trước tình

cảnh của người nông dân “gà trống nuôi con” đó. Chưa thấy “trời cho mở mắt”, đã thấy tiếp

cái viễn cảnh ông phải dỡ nốt hai gian nhà còn lại để lo cái oản thứ hai. Đó là cái viễn cảnh

mà câu hỏi kết thúc câu chuyện của Ngô Tất Tố đã giúp người đọc hình dung ra được.

Thôi thì có nhà bán cũng còn mong kiếm lại được, vì thân thể được tự do, còn hai bàn

tay lao động, coi như là ông vẫn còn may, còn có thể hy vọng. Trường hợp anh xe trong

“Món nợ chung thân” thì coi như không còn gì để mất.

Theo lệ làng “một người nằm xuống, dù giàu, dù nghèo, nhà chủ cũng phải giết một con

lợn đãi “phe” một bữa dấm ghém, phe mới khiêng cho. Không được thế thì phải nhờ họ

mạc khiên giúp”. Người phu xe, khi vợ chết vì nghĩ tình và sợ vợ tủi vong hồn nên dù

không có tiền cũng cố vay để lo bữa rượu mời hàng giáp. Món nợ ba chục đồng đã khiến

người phu xe kéo xe cả đời cũng không trả nổi bởi vì “tiền công của con ở đấy, mỗi tháng

được một đồng rưỡi, trừ vào tiền lãi là vừa”. Đúng như Ngô Tất Tố kết luận “ Một bữa lệ

làng có thể gây cho người ta một món nợ lãi chung thân không trả hết”[ 57, tr.108]

Cùng cực đến thế mà vẫn chưa hết, người nông dân không chỉ đánh đổi gia tài, nhà cửa,

sức lao động mà thậm chí họ còn phải đánh đổi bằng cả tính mạng của mình chỉ vì những hủ

tục vô nhân đạo.

“Một tiệc ăn vạ”, là câu chuyện thương tâm về cái chết của người nông dân tên Sửu.

Không biết từ bao giờ, dân làng Việt Nam lại có tục lệ ăn vạ? Tiệc ăn vạ có nghĩa là:

“người nào có lỗi với “làng” thì “làng” cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo, đem ra điếm

làng mà ăn. Phí tổn bao nhiêu, người có lỗi đó phải chịu”. Đúng là những tục lệ “quái gở,

mọi rợ”. Mà cái danh “làng” ở đây là ai? Chính là một bọn vô nhân đạo luôn bày trò “đè

đầu cưỡi cổ người khác” gọi là những ông trùm. Chỉ vì bà Sửu không cho một trong những

ông trùm đó vay lúa, thế là chúng cố ý gây sự. Họ đổ vạ cho gia đình ông Sửu chửi làng và

bắt ông phải đền làng. Trong khi cả làng đang vui vẻ ăn uống thì ông Sửu đã thắt cổ tự tử ở

trong nhà. Đó là cái chết của một người nông dân bị tức tưởi, oan ức, bị dồn đến bước

đường cùng chỉ vì những tục lệ cổ hủ, lạc hậu và cái tâm lí lúc sống không ai ngồi cùng, lúc

chết làng không khiên thì là một điều cực nhục, sống không bằng chết.

Nếu không tự tử như ông Sửu thì cũng vì những tục lệ cổ hủ đó mà sinh ra ẩu đả gây ra

án mạng như trong câu chuyện”Cái án ông cụ”.

Có thể nói trong Việc làng Ngô Tất Tố muốn cho chúng ta thấy việc duy trì và thực hiện

những hủ tục ở nông thôn chính là con đường dẫn người nông dân đi dần đến cái chết.

Mỗi một mảnh đời trong Việc làng là một tiếng kêu cứu: hãy cứu người nông dân ra khỏi

những cạm bẫy, những nỗi đầy đọa về tinh thần dẫn đến sự đau đớn về thể xác.

Nếu như trong “Việc làng”, Ngô Tất Tố đề cập đến những tục lệ cổ hủ thì ở “Tập án cái

đình” ông tiếp tục cung cấp cho người đọc những nghi lễ cổ quái, vô nghĩa mà lúc nào cũng

làm cho những ngôi làng Viêt Nam ồn ào, huyên nào, khiến người nông dân phải bỏ công,

bỏ việc để chạy theo nó.

“Tập án cái đình” không đi vào miêu tả những hoàn cảnh riêng, thương tâm mà đi vào

phản ánh những nghi lễ tập thể. Nhân vật đám đông huyên náo được khắc hoạ, được miêu tả

thật buồn cười. Những ai chưa từng sống ở nông thôn, những ai chưa từng tận mắt chứng

kiến như Ngô Tất Tố có lẽ không thể nào tưởng tưởng nổi, vì nó giống như những trò chơi

của con trẻ. Nào là những nghi lễ “đuổi đánh thành hoàng”, “những cuộc thi giết lợn”, nào

là những cuộc “xuyên tường tạc bích” để kỉ niệm sự nghiệp của thành hoàng, những sự nổ

lực tập thể để được xếp hạng “lợn anh” hay “lợn em”…. Tất cả những hoạt động đó là để

duy trì cho cái phong hoá gì? Không ai biết. Đến ngay tác giả cũng không biết “Tôi đã bật

cười khi bốn tiếng (lợn anh lợn em) bắt đầu lọt vào lỗ tai vì vì tưởng trong nước Đại Nam

lại có nhà đạo đức nào sắp sửa duy trì phong hoá cho loài lợn”[57, tr.138], và người dân

trong các làng đang duy trì lễ hội cũng không biết “ngoài những người trên, chúng tôi còn

phải phù thụng những ông hương, ông lý và ông thần của làng sở tại. Nếu không như thế họ

cho là khinh họ, rồi mình khó mà ở yên với họ, vì thế tôi cũng không thể làm ngơ với ngày tề

thần của họ, dù mà tôi vẫn không biết ông thần ấy là ông thần nào” [57, tr.157]. Nói như

vậy có nghĩa những tục lệ tế lễ này đều do bọn hương lý bày ra. Người dân chỉ vì không

muốn mất lòng họ mà phải bỏ công bỏ việc đi theo. Tuy nhiên cũng không ít người tham gia

tế lễ với một niềm tin mãnh liệt vào thành hoàng.

Thế nhưng thành hoàng là ai, xuất thân như thế nào? Thật đáng kinh ngạc khi thành

hoàng chính là một “ông bốn cẳng”, hoặc một kẻ lúc sống chuyên “đào tường khoét ngạch”,

hoặc là một người mù. Còn có cả ông thần nói dối và dâm dục như ông Cuội. Tất cả chỉ vì

chết được giờ linh mà trở thành thành hoàng hoặc một vị thần được sùng bái. Giá trị phê

phán thể hiện rõ ở những sự xuất thân này của các vị thần

Ngô Tất Tố trong quá trình miêu tả lại những nghi lễ quái gở đã thể hiện được những

tâm tư tình cảm của nông dân trước sự phiền hà của hủ tục. Tuy không bi thảm như trong

“Viêc làng” nhưng sự tốn kém cũng không nhỏ, để chuẩn bị cho một cuộc thi giết lợn:

Mỗi năm có bốn đám, mỗi người phải nuôi một con ỷ, cứ đến hôm nay đem ra thờ. Của làng

có năm sáo ruộng treo giải, hễ ai làm xong trước và làm được cỗ nhất, nghĩa là cổ có nhiều

món thì sẽ được cấy năm sào ruộng ấy. Kể ra năm sào ruộng không đáng bao nhiêu, nhưng

nếu chậm, cỗ bé, thì sẽ mang tiếng với làng nước. Vì thế chúng tôi phải cố. Ông tính một

ngày như vậy, nhà tôi cũng phải tốn kém đến hơn trăm bạc, vì lát nữa còn phải mời làng ăn

uống một bữa. Như thế cấy năm sào ruộng của làng một năm đã bù lai được một phần mười

hay chưa?[57, tr.129].

Trong đình làng Việt Nam, hầu như làng nào cũng có chức quan đám. Nghe Ngô Tất Tố

kể về chức quan đám ở làng Th.S trong huyện Tiên Du mà đau lịng. Chức quan đám là chức

trông coi việc thờ cúng, hương khói cho nhà thánh. Chính vì vậy, luật lệ của quan đám rất

ngặt :

Suốt trong một năm tại chức, quan đám ban đêm phải ngủ tại đình, ban ngày không

được đi ra khỏi làng.

Ngoài những công việc thắp đèn, thắp hương , lau chùi đồ thờ, quét rũ mạng nhện

đình và đền, quan đám cũng được cất nhắc việc riêng của nhà mình nhưng phải kiêng

những viêc ô uế như gánh phân, gánh tro hay là giặt dịa, may vá quần áo cho vợ.

Người ta cũng cho phép quan đám được dự những đám ăn uống do người trong làng

mời đi , nhưng phải kiêng những đám ma tươi và những nhà mới có người chết.(…)

Một điều đáng sợ hơn hết, ấy là cái nạn vợ chửa. (…) Bởi vì nó là tang chứng tỏ

rằng trong khi hầu hạ nhà thánh quan đám đã làm việc ô ue” [57, tr.132-133]

Những luật lệ đó chứng tỏ đã là quan đám thì anh không được làm một con người đúng

nghĩa con người, mà phải làm chuyện trái tự nhiên, thu hẹp cuộc đời trong những miếu đình

nhỏ hẹp. Với người khác, những luật lệ đó có thể cũng không khó khăn mấy vì người làng ai

cũng tin và cũng có lòng đối với nhà thánh. Trường hợp ông Phức (trong “Được một trai

mất ba lợn”) cũng không ngoại lệ. Thế nhưng ông có những nỗi khổ không giống với những

người quan đám khác. Và chính cái hoàn cảnh riêng đó đã khiến ông mất sự nghiệp khi

được bầu làm quan đám.

Ông Phức không có con trai nối dõi tông đường, nên phải cưới vợ hai ở tuổi lục tuần.

Thế nhưng cưới vợ chưa được một năm cũng chưa được mụn con trai nào thì bị bầu làm

quan đám, suốt ngày chăm sóc đền, miếu không được gần vợ mới cưới. Chuyện vợ chồng ở

cái tuổi lục tuần đối với ông có thể không quan trọng song chuyện con cái mà lại là con nối

dõi tông đường thì không thể trì hoãn.

Thế rồi chuyện gì đến cũng đã đến. Vợ ông có chửa và ông bị “làng” bắt vạ vì làm ô uế

nhà thánh. Ông cố nài nỉ xin được giảm bớt tội. Nhưng “làng” mà đứng đầu là bọn hương lý

tham ăn, tham uống và tham bòn rút của dân sao có thể tha được miếng mồi ngon như thế.

Chúng dựa vào sự sùng bái thánh thần của dân làng để bắt vạ ông và rồi người ta bắt lợn,

mua rượu, mua gạo làm cỗ, ăn uống linh đình cả làng.

Sau cái ngày bị làng bắt vạ đó, ông Phức đã phải bán nhà để trang trải. Cả nhà ông phải

dọn ra ở túp lều tranh đầu làng.

Số phận của ông Phức chính là số phận của những người nông dân làm nô lệ cho hủ tục.

Tác giả đã khéo léo vạch rõ sự thống trị tinh thần người nông dân từ các hủ tục khi nhận xét

“năm sau tôi gặp lại ông. Bấy giờ ông đã dọn ra một túp lều tranh đầu làng, nhưng mà coi

bộ ông vui vẻ hơn trước”. Ông vui vẻ hơn vì ông được trở lại làm người, một con người

thực sự không còn là một nô lệ của thần thánh. Ông được trở về với cuộc sống đời thường,

với những buồn, vui, sướng, khổ của cuộc đời trần tục, dù có sống nghèo vẫn thấy vui hơn

cuộc sống của một ông đám trước đó. Giá trị nhân đạo và phê phán của truyện là ở chỗ đó.

Chúng ta đã quá quen với những hình ảnh người nông dân nghèo hèn bị bóc lôt đền tận

xương tuỷ như Chị Dậu (tiểu thuyết “Tắt đèn”- Ngô Tất Tố) anh Pha (Tiểu thuyết “Bước

đường cùng”- Nguyễn Công Hoan); những nỗi vất vả gian truân trên con đường kiếm sống

của nhân vật người nông dân trong phóng sự “Tôi kéo xe” của Tam Lang Vũ Đình Chí, và

cả hình ảnh người nông dân bị tha hoá, bị méo mó nhân cách như trong các phóng sự của

Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng… Tất cả đều làm cho chúng ta xúc động, phẫn uất. Nhưng

tập phóng sự “Việc làng” và “Tập án cái đình” của Ngô Tất Tố đ mang lại cho người đọc

cái cảm giác thật lạ. Không gy căm phẫn một cách mãnh liệt, không làm chúng ta rơi nước

mắt như đã từng khóc cùng chị Dậu, phĩng sự của Ngơ Tất Tố làm cho trái tim người đọc

đau đớn. Đúng là cái cảm giác đau xót, đau tận đáy lòng và âm ỉ mãi làm nhức nhối, nhưng

không khóc được mà chỉ nuốt vào trong ngấm dần, ngấm dần và chính vì thế mà rất khó

quên. Mang được cảm xúc này đến tâm hồn độc giả, Ngô Tất Tố phải thực sự thấu hiểu,

đồng cảm với nỗi đau của người nông dân. Góp phần hoàn thiện bức tranh đời sống người

nông dân trong văn học Việt Nam nói chung, giai đoạn 1930-1945 nói riêng, đó chính là

thành công lớn nhất, đóng góp có giá trị của Ngô Tất Tố.

2.1.2. Tố cáo thế lực phong kiến thực dân với những âm mưu thủ đoạn bóc

lột tàn nhẫn

(cid:31) Phóng sự Ngô Tất Tố vạch rõ âm mưu của gia cấp thống trị muốn dùng

hủ tục thống trị tinh thần và bóc lột của cải vật chất của người nông dân.

Bên cạnh việc phản ánh đời sống nhọc nhằn, thống khổ của người nông dân, Ngô Tất Tố

mạnh dạn lên án những thế lực núp phía sau hủ tục, những thế lực muốn duy trì sự tồn tại

của hủ tục vì mục đích thống trị của giai cấp. Các thế lực này được tổ chức từ nhỏ đến lớn,

cấu kết với nhau mà trực tiếp thực hiện chính là thế lực mà người ta gọi là “làng”. Theo

Ngô Tất Tố “làng” là ai? , “làng là bọn đó chứ ai đâu” [57, tr.81]. Đó là bọn hào cường,

địa chủ ở nông thôn, cố tình bảo tồn hủ tục để kiếm miếng ăn, bắt người nông dân nai lưng

ra làm, được bao nhiêu trang trải vào hủ tục bất nhiêu. Nhà nghiên cứu Bùi Huy Phồn đã

nhận xét giá trị của quyển “Việc làng”:

Bằng những tài liệu phong phú, một lối nhìn sâu sắc, tinh vi, và lời văn đanh thép như một

lời cáo trạng, nhiều khi châm biếm quá chua cay, nhà văn lão thành Ngô Tất Tố, trước đây

hai mươi năm, đã dùng thiên phóng sự Việc làng để lớn tiếng tố khổ lên những tệ lậu mà

bọn phong kiến địa chủ đã gieo rắc ở nông thôn, mà chúng cố che đậy dưới lớp sơn hào

nhoáng mệnh danh là những “thuần phong mĩ tục”!” [33, tr.332-333].

Trong mỗi câu chuyện ở “Việc làng” bên cạnh hình ảnh người nông dân thật thà đến tội

nghiệp, những người nông dân tự cho mình là nô lệ của “lệ làng”. Những con người lam lũ,

nhọc nhằn vì đời sống mưu sinh và vì gánh nặng hủ tục từ đời này sang đời khác, đời cha

mất đời con kế tục. Lại có một hình ảnh con người đối lập đó chính là những kẻ ăn trắng

mặc trơn, lợi dụng tâm lí coi trọng tình làng nghĩa xóm của người nông dân mà bày ra đủ

thứ luật lệ nhằm trục lợi cho mình.

Một đám vào ngôi là một minh chứng. Nạn phân biệt dân ngụ cư hay dân gốc của làng

đã khiến cho nhiều gia đình điêu đứng. Gia đình bác Cả Mão đành phải bỏ tiền làm đám vào

ngôi cho con mình để được “thành tổ. Không biết nhà bác Cả Mão vào ngôi thì được gì,

nhưng những kẻ đứng đầu làng thì tha hồ nhận tiền “cụ chưởng lễ ba chục, ông chánh hội

hai chục, ông lí trưởng mười lăm đồng, ông phó lý và ông phó hội mười hai đồng, thư kí,

trưởng ba mỗi người mười đồng,hương trưởng, lí cựu, tộc biểu, trương tuần mỗi người năm

đồng” [57,tr.19-20]. Ngoài tiền bỏ túi riêng còn được cung cấp tiền đánh tổ tôm, mà lại

đánh cao vì là tiền nhà chủ bỏ ra. Chưa hết họ còn được ăn uống linh đình, tuy đã có tiền

nhưng miếng ăn vẫn quan trọng, nói như Bác Hai em bác Cả Mão “Ở chốn thôn quê, ăn

uống là sự đều tiên. Muốn gì thì gì, hễ không có ăn thì việc không thành”[57, tr20].

Ngô Tất Tố đã vạch rõ cho người đọc thấy bản thân các “tục” chưa hẳn đã “hủ” mà làm

nên cái hủ lậu và quái gở chính là sự bóc lột trắng trợn, không còn chút tình người. Đến như

nhà ông Linh Phúc, để làm được cái oản tuần sóc phải dỡ cả nhà bán củi vậy mà họ vẫn

nhẫn tâm “”tiếng cười nói vui như ngày tết. Người ta khen ông phúc hết lòng lo việc thờ.

Người ta bảo ông Phúc phá nhà bán củi, thật là một người tháo vác, Người ta tán dương

oản của ông tốt và chuối của ông ấy mẫm. Rồi người ta thúc bách ông đi mua chịu lấy chai

rượu nữa”[57, tr.76]. Ngô tất Tố thật có tài, nói nhẹ mà đau, nói thâm thuý mà làm người ta

phẫn nộ. Người đọc thực sự phẫn nộ trước những kẻ bất lương hơn cả cầm thú. Đó chính là

bản chất của những kẻ “tiên chỉ” của làng mà Ngô Tất Tố muốn vạch cho mọi người cùng

biết. Thật đê tiện và trơ tráo! Đọc “Việc làng” và “Tập án cái đình” của Ngô Tất Tố có cảm

giác bọn hương thôn, địa chủ không hề tốn một bữa cơm nhà nào. Hôm nay thì bắt vạ nhà

này, mai thì vào đám nhà khác. Hết đám thì chúng lại bày mưu moi tiền của một kẻ goá bụa

cô đơn. Nhờ vào sự chăm chỉ và tằn tiện, bà cũng có chút vốn thế là bà trở thành trung tâm

chú ý của bọn “săn của” dân. Bà không có người thân, chỉ có một đức cháu thừa tự. Nhưng

tên này lại có tính ham chơi đã lừa tiền của bà nhiều lần. Lần này hắn cấu kết với bọn cường

hào xui bà đặt ruộng hậu. Bà cụ nghe hắn dụ dỗ bùi tai cũng đồng ý nộp đơn xin với các ông

kì dịch nộp ruộng đặt hậu. Rồi làm cỗ xôi, con gà, trước lễ thánh sau kính làng, lúc này bọn

hương thôn mới trở mặt: “ông Điển đòi năm chục, chánh hội, lý trưởng mỗi người đòi ba

chục. Có được thế họ mới kí tên vào đơn, thì việc mới xong. Thấy thế bà ta chết ngã cổ ra,

đã toan xin thôi. Nhưng họ lại doạ: nếu bà ấy bỏ dở việc này, ấy là bà đã đánh lừa làng họ

sẽ đệ đơn trình quan và sau khi bà ấy chết đi, làng không khiên nữa. Bà ấy hoảng quá,

không giám nói đến chuyện thôi đặt hậu” [57, tr.47]. Câu văn bằng lời mà như vẽ, hình

tượng những kẻ đứng đầu hương thôn hiện lên thật đê tiện, điểu cáng, toàn một loài sâu

mọt, dục khoét của cải của dân như thế Ngô Tất Tố không lên án sao được!

Câu chuyện “Xâu lòng thờ” có giá trị tố cáo sâu sắc. Bác Hai Đắc, một người nông dân

hiền lành, có hơi chút đần độn, vì không hiểu lệ chỉ để phần cụ Chưởng lễ một xâu lòng thờ,

đáng lẽ là phải hai xâu. Và khi cụ Chưởng lễ phát hiện ra bị thiếu mất một xâu lòng thờ đã

nổi giận “ghép bác vào tội tự nhiên cất phần của cụ, và bảo cho bác biết rằng việc ấy cụ

nhất định đưa lên quan xét” [57, tr.86-87]. Trước sự giận dữ của cụ chưởng lễ bác Hai Đắc

hết sức sợ hãi suốt hai ngày trời đi tìm ông Chánh Cựu nhờ giúp đỡ. Ông Chưởng Cựu trả

lời: “Nói với con mọt già ấy khó lắm, phi tiền không xong” [57, tr.89]. Chính bọn họ với

nhau mà còn công nhận điều đó, chỉ có tiền mới giải quyết được. Ngô tất Tố đã không ngần

ngại phanh phui cái tính hám tiền của chúng. Tuy nhiên câu chuyện chưa dừng ở đó, sau khi

ông Chánh Cựu đến nhà lão Chưởng lễ ra về đã nói “Tôi đã biết mà. Lão Chưởng lễ làng tôi

đểu lắm, cái gì cũng tiền. Tôi đến nói hộ thằng Đắc lão ta nhất định đòi hai điều: Một là

thằng Đắc giết lợn mời làng tế thánh để lấy một xâu lòng thờ biếu hắn; hai là nó đền cho

hắn trăm bạc. Mà hắn đã nói một trăm ít ra cũng phải sáu chục mới xong” [57, tr89]. Bản

chất tham lam độc ác của tên mọt già đã được vạch trần. Một xâu lòng thờ đáng giá một

trăm bạc chắc chỉ có ở nông thôn, nơi đang tồn tại hàng “ổ hủ tục”. Giá trị phê phán còn thể

hiện ở câu kết của ông chủ nhà: “Ay ở nhà quê khó thế ông ạ! Có của đã chắc giữ được mà

ăn đâu”[57, tr.89]. Vì sao có của mà không thể giữ được? Vì ở nhà quê còn biết bao kẻ như

ông Chưởng lễ, bòn rút, bóc lột, lừa đảo đến khi nào mà người nông dân không còn cái khố

để mặc. Thậm chí đến khi họ phải chọn cái chết để được giải thoát khỏi mọi sự bất công của

đời như ông Sửu trong “Một tiệc ăn vạ”.

Chẳng những bọn cường hào tìm cách bóp nặn dân chúng mà ngay cả bọn chúng với

nhau, vấn đề tranh ăn nhiều khi cũng gay gắt. Trên báo chí ngày xưa không ít những cây bút

trung thực đã nêu lên cai nạn xôi thịt ở chốn thôn quê. Việc tranh giành ăn uống, tranh giành

từng góc chiếu, miếng thịt hầu như không làng nào không có. Nhiều khi phải đưa nhau đến

cửa quan hoặc chia phe phái đánh nhau đến vỡ đầu. Điều này cũng được Ngô Tất Tố phản

ánh một cách sinh động trong truyện “Một chiếc lăm lợn”. Chỉ vì tranh nhau ngôi chủ tế và

cái lăm lợn mà xảy ra một cuộc hỗn chiến dữ dội làm nhiều người bị thương nặng. Vì miếng

ăn chốn đình trung mà họ có thể đánh mất nhân cách của mình.

Qua tập phóng sự “Việc Làng” và “Tập án cái đình” chúng ta thấy sở dĩ nạn xôi thịt,

rượu chè, các hủ tục ở nông thôn tồn tại lâu đời chẳng qua là vì: thứ nhất, những bọn cường

hào cố tình duy trì để mưu lợi riêng; thứ hai, qua bao nhiêu đời nông dân đã quen với những

hủ tục ấy. Bọn thống trị đã tạo cho nông dân cái tâm lí sùng kính các hủ tục, tôn kính các lệ

làng do chúng bày đặt ra. Những tập quán lâu đời đã ăn sâu vào nếp sống hàng ngày của

người dân ở nông thôn. Chỉ nuôi một con gà thờ mà họ mất bao nhiêu công phu tốn kém.

Thậm chí mẹ già ốm nằm trên giường bệnh người ta cũng không đoái hoài đến mà chỉ để

công chăm lo cho gà, nhà văn viết: “Bà cụ hình như cũng biết thân mình không quan hệ

bằng hai con gà nên mỗi khi thấy cháu gọi con lên buồng xem bà làm sao thì bà lại gạt

ngay đi: việc thờ không thể nói chơi. Cứ để thầy mày trông nom cho gà gọi lên làm gì” [57,

tr.65]. Người ta cấm không ai được gọi gà là gà mà phải gọi gà là “người”. Đến khi gà bị

cảm, cả làng chạy đến hỏi thăm không ai nhắc đến bệnh tình bà cụ đang trầm trọng mà chỉ

hỏi chứng bệnh con gà. Hôm làm lễ xong con gà cân nặng bảy cân. Ông ta sung sướng nói

“Đời tôi như thế là mãn nguyện”

Đọc “Tập án cái đình” càng thấm thía hơn. Người nông dân Việt Nam từ xưa luôn

nghèo đói lạc hậu, ngày hai bữa cơm cà cũng kiếm không ra, phải húp cháo thậm chí ăn

khoai độn, kiếm được miếng ăn đã là mệt vậy mà họ còn phải gánh biết bao hủ tục nghi lễ

rườm rà, tốn kém. Những cuộc thi giết lợn, mỗi năm vẫn diễn ra ở một số làng. Người nông

dân è cổ ra đóng góp, nuôi lợn, rồi thịt cúng đình. Bọn hương hào chánh tổng thì cứ mặc

sức mà thưởng thức, phân chia tranh giành. Dân làm, quan hưởng không cần biết cuộc sống

của người dân sau đó sẽ ra sao? Dựa vào tâm lí sùng kính, mê tín của người nông dân, bọn

cường hào lại bày ra đủ thứ cuộc thi, hễ lợn làng nào được làm “lợn anh” thì suốt năm đó

làm ăn phát đạt. Thế là những cuộc tranh giành lợn anh, lợn em vẫn cứ hàng năm diễn ra và

những kẻ đứng đầu làng lại được ăn uống phủ phê. Ngô Tất Tố không ngần ngại buông

những câu chế giễu thâm thúy “Tôi đã bật cười khi bốn tiếng lọt vào lỗ tai (Lơn anh- lợn

em) vì tưởng trong nước Đại Nam lại có nhà đạo đức nào sắp sửa duy trì phong hóa cho

lòai lợn” [57, tr.138] sau đó ông đi vào vạch trần âm mưu bóc lột của bọn cường hào qua

các cuộc thi “Lợn anh lợn em”:

Theo lệ hàng năm trong làng phải có hai người đương cai, mỗi người nộp cho làng

một con ỉ để cúng thần. Điều luật ấy người ta thi hành bằng cách bắt buộc. Người nào đến

tuổi nhất định phải theo, không thể chối cũng không bỏ. Hễ ai vô phúc mà bỏ ấy là mang

tiếng thiếu đóng, thiếu góp với làng, sống cũng như chết nếu họ còn ở trong làng. Bởi thế

những kẻ nghèo nàn đến lượt đương cai mà không có người giúp đỡ có khi phải bán nhà,

bán đất, bán con bán cái để nuôi lợn cho làng. Chẳng thà mất cả con cái nhà đất mà có con

lợn nộp làng còn hơn thiếu lợn của làng mà còn nhà đất con cái.[57, tr.140]

Theo quy định, mỗi con lợn thi phải nặng ít nhất là hai tạ, vì vậy người đương cai rất

tốn kém để nuôi được một chú “ỷ”. Cái nghèo của người nông dân “cơm không đủ no, áo

không đủ ấm” đối với chúng ta không còn lạ gì, vậy mà để nuôi một con lợn họ phải cần

những gì? Họ kể:

Trong hai năm trời hàng ngày cứ phải cung đốn bằng những chuối tiêu, bột nếp hay

là của ngon vật lạ trong các mùa, cũng đã hao tiền lắm rồi huống chi từ lúc mua con lợn

giống, đến khi rước một ông ỷ ra thờ, còn có nhiều lệ ngạch khác. Làng đi chọn ỷ, làng vào

thăm ỷ, tuần nào tiết ấy gia chủ phải có cơm rượu thết làng. Và những lúc trời trở gió, ông

ỷ ăn không ngon miệng, gia chủ lại phải sửa lễ ra đình kêu “đức thượng đẳng” vuốt ve cho

ngài, thì sự phí tổn còn biết đến đâu là hạn.[57, tr.140].

Không chỉ hao tài, tốn của, mà tinh thần của người nuôi lợn cũng rất căng thẳng. Trong

suốt thời gian nuôi lợn họ chẳng có ngày nào được thoải mái về tinh thần. Cái tâm đã lo

lắng thì con người cũng bất an, không thể nào sung sướng được để mà lo nghĩ chuyện gì

khác ngoài chuyện nuôi lợn. Phải chăng đó chính là mục đích của bọn thực dân phong kiến

khi muốn duy trì hủ tục. Ngô Tất Tố hiểu rất rõ tân trạng lo âu của người nông dân: “Những

người đến lượt nuôi ỷ trong hai năm trời, lúc nào cũng phải canh cánh lo sợ, chẳng khác

nuôi ông tường giặc trong nhà. Bao giờ ỷ ra đến đình, bấy giờ mới là vững dạ” [57, tr.140]

Thì ra những cuộc thi này mang tiếng là nhờ đức thượng đẳng phù hộ cho cả năm làm ăn

phát đạt, nhưng phát đạt đâu chưa thấy, chỉ thấy rằng hễ nhà nào phải nuôi ông ỷ là nhà đó

tán gia bại sản. Lợi ích cho dân không thấy nhưng lợi ích cho quan thì thấy rất rõ. Đường

nào thì chúng cũng được ăn, chẳng tốn tí công sức nào mà còn tiết kiệm được biết bao nhiều

là tiền của cho gia đình, đã giàu lại giàu thêm, đã sướng lại thêm bội phần sung sướng. Còn

người dân nghèo quanh năm cày “vỡ mặt” không đủ ăn lại còn phải nuôi lợn cho chúng.

Một người yêu dân như Ngô Tất Tố trước tình trạng đó ông đau xót biết dường nào!

Không chỉ dừng lại ở đó, bọn hương hào còn dùng hủ tục để bắt ép người nông dân, sau

đó cho vay nặng lãi, dồn họ vào những món nợ không sao trả nổi. Lãi mẹ đẻ lãi con, tiền

kiếm được hàng tháng không đủ trả tiền lãi huống hồ gì tiền vốn và thế là người nông dân

hiển nhiên trở thành người làm không công cho chủ nợ. Bị dồn đến chân tường của sự

nghèo khó phải “bán vợ đợ con”. Như lão Phúc trong “Cổ oẳn tuần sóc” phải cho hai đứa

con lớn đi ở cho người ta để kiếm miếng ăn vì bố không thể nuôi nổi. Như người Phu xe

trong “Món nợ chung thân” cả đời làm mướn nhưng áo quần rách như bươm bướm cũng

không có một đồng mà may, số tiền kiếm được chỉ đủ để trả lãi hàng tháng, món nợ đó trả

cả đời vẫn không thể hết được.

Cùng với việc bóc lột về tô thức những tập tục ấy làm cho nông dân đời đời không ngẩn

đầu lên được. Người nông dân cũng có thể trông thấy các tác hại của hủ tục song họ không

có cách nào thoát ra được cũng như không có cách nào thoát ra khỏi những vòng bóc lột áp

bức của địa chủ. Bọn cường hào ở nông thôn luôn tìm đủ mọi cách để duy trì và bảo vệ hủ

tục. Và đằng sau hủ tục là biết bao nhiêu cảnh đời éo le, ngang trái. Chính vì thế các tác

phẩm phóng sự của Ngô Tất Tố luôn có giá trị phê phán cao.

(cid:31) Phóng sự Ngô Tất Tố góp phần chống lại phong trào “phục cổ” với danh nghĩa

bảo tồn quốc ty nhằm khôi phục lại nền văn hoá phong kiến bảo thủ của bọn thực dân

và lũ bồi bút.

“Việc làng” và “Tập án cái đình” ra đời trong lúc bọn thực dân Pháp đang thi hành

chính sách phục cổ. Đế quốc Pháp đã bị phát xít Đức đánh bại. Ơ Đông Dương chúng đã

phải nhượng bộ phát xít Nhật. Uy tín của Pháp ngày cành giảm sút, lòng căm thù của quần

chúng ngày càng cao. Mặt trận Việt Minh thành lập năm 1941 đang ngày càng phát triển thế

lực. Bọn thực dân Pháp muốn kìm hãm nhân dân ta trong tình trạng lạc hậu ngu dốt, muốn

nhân dân ta đua nhau phục hồi những tục lệ cổ hủ mà lãng quên nhiệm vụ cách mạng. Đã có

nhiều nhà trí thức văn nghệ sĩ đã vô tình mắc phải âm mưu thâm độc ấy của kẻ thù.

Để thực hiện âm mưa thâm độc này bọn thực dân đã cấu kết với các thế lực phong kiến

địa phương mà tiêu biểu là các làng Viêt Nam những nơi dân trí còn thấp và tâm lí sùng bái

mê tín cao.

Phong trào “phục cổ” dưới hình thức bảo tồn quốc tuý để lại hâu quả khác nặng nề.

Trong bài “Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn hoá Việt Nam trong sáu năm chiến tranh

1939-1945” đăng trên báo Tiền Phong số 1, Nguyễn Đình Thi viết về thời kì 1940-1942

như sau:

Văn hoá Phong kiến được dịp tái sinh. Nó hét đắc thắng và lên tiếng mỉa mai những

sự “lầm đường lạc lối” trong những năm xã hội nối gót tư sản Pháp. Nó hô hào trở lại với

những giá trị cũ, với tôn ti trật tự, với luân lí Khổng Mạnh, với hương thôn, quan trường,

với gia đình. Những giá trị muôn đời ấy ngay đến Petanh đã chẳng phải công nhận đó sao.

Phong trào bảo thủ thụt lùi đã chiếm ưu thế một cách rõ rệt. Nó đã để ra “Trai nước nam

làm gì?” của Hoàng Đạo Thuý, “Thanh đạm” của Nguyễn Công Hoan, “Bút nghiêng” của

Chu Thiên, “Một nền giáo dục mới” của Thái Phỉ, tạp chí Tri tân của nhóm Nguyễn Văn

Tố, Nguyễn Tường Phượng

Phục cổ trở thành một cuộc vận động lớn cả trong chính trị và trong văn hoá, văn học.

Các nhà văn có trách nhiệm, có lòng yêu nước sớm nhận ra âm mưu thâm độc của kẻ thù

đã dùng ngòi bút của mình lên tiếng đấu tranh chống lại chủ nghĩa Phục cổ, cảnh tỉnh nhân

dân trước thủ đoạn của bọn xâm lược và bọn tay sai bán nước.

Trước nhiệm vụ nặng nề đó, Ngô Tất Tố bằng tấm lòng thiết tha yêu nước, sự cảm thông

thấu hiểu trước tình cảnh cùng cực của người nông dân lao động, và đặc biệt từ vốn hiểu

biết văn hoá sâu sắc, uyên thâm. Ông đã sớm nhận ra âm mưu của kẻ thù là đánh mạnh vào

nền văn hóa của chúng ta. Đối tượng lớn nhất của chúng là người nông dân- vốn ít hiểu biết,

dễ bị tác động và đặc biệt là rất mê tín. Lợi dụng những điều đó, chúng mượn tay các thế lực

phong kiến địa phương cố tình phổ biến và duy trì các hủ tục khiến cho dân chúng tin, sùng

bái, và chìm dần vào những cái lạc hậu, mê tín, hám hư danh, kn cựa nhau từng miếng ăn ở

chốn đình trung. Để từ đó biết bao bi kịch đã xảy ra cũng chỉ vì những sự phân biệt mâm

trên -mâm dưới, miếng ngon -miếng dở, chính cư-ngụ cư…

Có thể nói viết “Viêc làng” và “Tập án cái đình”, Ngô Tất Tố đã dựng lại toàn cảnh

người nông dân Việt Nam đang rên xiết trước những thủ đoạn thống trị hết sức đê tiện và

thâm độc của bọn cướp nước. Hàng loạt những thảm kịch, những chân dung con người bất

hạnh chính là những lời cảnh tỉnh đồng bào ta đừng biến mình thành nô lệ của hủ tục. Vì

như thế chính là rơi vào âm mưu của kẻ thù. Đó cũng chính là những lời tố cáo thẳng thắn,

mãnh liệt, gay gắt đối với thủ đoạn của bọn thực dân phong kiến. Đóng góp này của Ngô

Tất Tố quả không nhỏ, ý nghĩa của “Việc làng” và “Tập án cái đình” thật sâu sắc, và giàu

giá trị nhân đạo.

2.1.3. Góp thêm tiếng nói nhân đạo và hiện thực to lớn cho văn học Việt Nam

1930-1945

Từ những nội dung trên, chúng ta dễ dàng nhận ra hai giá trị tiêu biểu của phóng sự Ngô

Tất Tố nói chung, “Việc làng” và “Tập án cái đình” nói riêng đó là giá trị hiện thực và giá

trị nhân đạo.

(cid:31) Giá trị hiện thực:

Phóng sự Ngô Tất Tố đã phản ánh bức tranh tổng thể về đời sống nông dân ở nông thôn

Việt Nam mà mỗi tác phẩm là một lát cắt tiêu biểu. Ngô Tất Tố xuất phát từ nỗi đau và sự

bất bình trước hiện thực xã hội nên quyết tâm dùng phóng sự để vẽ lại hiện thực. Ông đã

làm được điều mà các nhà lí thuyết phóng sự coi trọng đó chính là phản ánh hiện thực và

tôn trọng hiện thực đúng như ý nghĩa của cái tên thể loại “phóng sự”. Hiện thực mà Ngô Tất

Tố phản ánh đó là hiện thực về đời sống văn hoá, tâm linh của con người, cụ thể là người

nông dân ở nông thôn việt Nam. Hiện thực về những sinh hoạt đình làng, được phủ dưới lớp

sơn hào nhoáng là thuần phong mĩ tục, thực sự là những luật lệ, nghi lễ cổ hủ, lạc hậu, được

duy trì như một phương tiện, một công cụ thống trị của giai cấp thống trị. Hiện thực về nạn

xôi thịt, về miếng ăn, chỗ ngồi nơi đình làng, từ lâu đã ăn sâu vào tâm lí người nông dân.

Hiện thực về nạn áp bức, bóc lột đầu thủ đoạn của bọn cướng hào ác bá, gây ra biết bao

cảnh thương tâm, đau đớn.

Đọc phóng sự của Ngô Tất Tố chúng ta thấy được xã hội Việt Nam trước cách mạng

Tháng Tám thật ngột ngạt, đời sống con người khốn khổ và tính mạng thật rẻ rúng, để từ đó

mà xót xa, cũng từ đó mà căm phẫn và cũng từ đó mà cảm ơn bác đầu xứ Tố của chúng ta.

(cid:31) Giá trị nhân đạo:

Bên cạnh giá trị hiện thực là giá trị nhân đạo, được thể hiện đậm nét qua từng bức chân

dung con người và cuộc sống. Ngô Tất Tố theo người nông dân từ làng này đến làng nọ, hỏi

hết người này đến người kia. Ẩn sau mỗi câu chuyện là một tấm lòng, một sự đồng cảm của

Ngô Tất Tố đối với người nông dân mà ông yêu mến.

Xuất phát từ lòng yêu quý, trân trọng nên người nông dân nào hiện lên trong phóng sự

của Ngô Tất Tố cũng thật chịu thương chịu khó, chăm chỉ làm ăn, tằn tiện, không dám tiêu

hoang một đồng kể cả khi họ có tiền như bà cụ trong “Nén hương sau khi chết”.

Cứ so sánh “Việc làng” của Ngô Tất Tố và “Làm dân” của Trọng Lang đăng trên báo

ngày nay suốt hai mươi lăm số từ tháng giêng đến tháng bảy năm 1938 thì rõ. Trọng Lang

nói những gì? Tả những gì trong thiên phóng sự này? Tác giả kể về những cô gái quê ngu

muội và đĩ thoã ra tỉnh để đi vào các nhà chứa, cách báo thù kì khôi của một anh nhà quê có

vợ ngoại tình; cách đền con của một chị nhà quê; cách chữa chó dại ở thôn quê; thói bán

con, máu mê cờ bạc ở nông thôn … bằng bấy nhiêu chuyện tác giả làm nổi bật mặt trụy lạc,

đê hèn ngu muội, hủ bại, nghèo nàn, khổ sở của những người nhà quê cả trai lẫn gái.

Trong khi các đồng nghiệp của mình tìm kiếm những đề tài đang được ưa chuộng, có

sức hấp dẫn như: viết về gái nhảy, gái đĩ, me Tây, về cờ bạc bịp, hút xách, về chọi gà, về ăn

cắp lừa đảo, về ông sư bà vải về bọn cơm thầy cơm cô…Họ vào nhà chứa, tiệm nhảy, tiệm

hút…. Tam Lang khoác áo phu xe, Vũ Trọng Phụng khoác áo thằng ở, Trọng Lang trà trộn

vào những người thất nghiệp… Có nghĩa là các đồng nghiệp của Ngô Tất Tố sẵn sàng lăn

xả vào bất cứ nơi nào kể cả những nơi không phù hợp với cuộc sống của họ. Riêng Ngô Tất

Tố vẫn không hề thay đổi tư cách. Bác vẫn là một con người mẫu mực của thời đại. Văn

chương của bác không ồn ào, náo nhiệt, không gây “Sốc” mà nó thâm trầm như chính con

người của bác vậy. Tuy trầm nhưng lại vô cùng sâu sắc, tinh tế. Ngô Tất Tố có khả năng

cảm nhận những điều tinh tế trong cuộc sống mà không phải ai cũng làm được . Người đọc

cảm nhận được ở Ngô tất Tố một tình cảm chân thành trân trọng đối với người nông dân.

Mỗi câu chuyện trong Việc làng và Tập án cái đình là một bức chân dung người nông dân

lương thiện hiền lành, thật thà và cái làm Ngô Tất Tố xót xa hơn cả đó chính là sự sùng tín

của họ . Chính vì sự sùng bái và mê tín mà vô tình họ đã trở thành nạn nhân của hàng tá hủ

tục. Tình thương của Ngô Tất Tố đối với người nông dân xuất phát từ sự đồng cảm chân

thành chứ không phải lòng thương hại, không phải với cái nhìn tội nghiệp pha chút khinh

khi của Vũ Trọng Phụng và Trọng Lang. Có thể nói, không chỉ có tiểu thuyết “Tắt đèn” mà

các phóng sự của Ngô Tất Tố cũng đều là những “áng văn hoàn toàn phụng sự dân quê”.

Và đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.

2.2. Những đóng góp lớn về nghệ thuật

2.2.1. Trần thuật sắc bn, hấp dẫn

Phóng sự của Ngô Tất Tố không phải là những bài báo cáo khô khan, trái lại nó là những

tác phẩm nghệ thuật được viết bằng một giọng văn trần thuật sắc bén và hấp dẫn. Tính hấp

dẫn của trần thuật trong phóng sự của Ngô tất Tố thể hiện ở nhiều yếu tố sau.

2.2.1.1.Cái tôi trần thuật đầy bản lĩnh.

Trong các phóng sự của mình, Ngô Tất Tố xuất hiện với tư cách là nhân chứng khách

quan, thẩm định và sắp xếp tư liệu. Ông không ngần ngại đi từ làng này đến làng khác, vừa

thăm viếng bạn bè vừa điều tra về đời sống của người nông dân ở nông thôn. Từ đó kết hợp

với vốn sống, đặc biệt là vốn văn hoá uyên thâm viết nên những trang phóng sự có giá trị

đến ngày nay.

Ngô Tất Tố còn xuất hiện trong các tác phẩm của mình với vai trò là người dẫn truyện,

ông đóng vai nhân vật xưng tôi, người đại diện cho tầng lớp trí thức đang theo dõi và kể lại

những điều mà mình tận mắt chứng kiến, tận tai nghe thấu. Nhờ có nhân vật người trí thức

xưng tôi Ngô Tất Tố trong các tác phẩm phóng sự, khiến cho chất hiện thực của các tác

phẩm càng được tăng lên gấp bội. Nhờ đó tạo được niềm tin cũng như sức hấp dẫn đối với

người đọc. Người đọc tin rằng Ngô Tất Tố có mặt trong tất cả các câu chuyện, những gì ông

nói đều là những gì ông đã được tận mắt chứng kiến.

Để làm tròn vai trò của một nhân chứng khách quan, Ngô Tất Tố chọn cho mình một

giọng trần thuật khá lạnh lùng. Ông luôn chuyển điểm nhìn trần thuật cho nhân vật, để cho

các nhân vật tự phát ngôn theo đúng đặc điểm tính cách của họ. Vì vậy, tuy là kể lại nhưng

tác phẩm vẫn chứa đựng tính khách quan rõ nét. Ngô Tất Tố không bao giờ trực tiếp bàn

luận, khen chê tốt xấu mà ông giử gắm vào trong các nhân vật của mình, để cho nhân vật tự

vạch trần những tiêu cực của các hủ tục ở nông thôn. Chẳng hạn trong chuyện “Góc chiếu

giữa đình” gia đình ông Luỹ mất cả cơ nghiệp chỉ vì bỏ tiền mua một chức Cựu để có được

một góc chiếu giữa đình. Kết thúc câu chuyện có giá trị phê phán rất cao mặc dù tác giả

không hề có nửa lời khen chê, bình luận:

“Cuộc linh đình còn mãi đến sáng hôm sau.

Năm hôm sau nữa, tôi gặp bà Cựu cắp nón đi ra cổng làng với một dáng điệu không vui.

- Chào ông ở nhà cháu đi làm đây.

Và không đợi tôi hỏi bà ấy cắt nghĩa:

- Cháu sang Hà Nội làm vú ông ạ. Có gần mẫu ruộng và nửa con trâu đã bán hết cả, lại còn

họ thêm hơn bảy chục đồng, nếu không đi làm thì lấy gì mà đóng họ” [57, tr.43].

Kiểu trần thuật khách quan này là một trong những đặc điểm của văn học hiện đại.

Trong xu hướng tiến dần đến một nền văn học hiện đại, trưởng thành hoàn thiện, các nhà

văn luôn cố che dấu “cái tôi’ của mình. Trong thể loại phóng sự điều này càng quan trọng

để đảm bảo lượng thông tin đưa ra là hoàn toàn chân thật. Đối với một rí thức Tây học mà

vốn văn hóa Phương Tây hiện đại đã ăn sâu và máu thịt của họ, thì việc thành công ở thể

loại phóng sự là điều dễ hiểu. Còn với Ngô Tất Tố, một người mà kiến thức Hán học đã

từng một thời thấm nhuần trong tư tưởng lại có thể ý thức một cách đầy đủ thể loại mới mẻ

này thì quả đáng khâm phục. Ngô Tất Tố đã đem đến cho Phóng sự Việt Nam cái nét thâm

trầm vốn có của người Việt, vẫn rất hiện đại, rất hợp thời mà vẫm mang đậm bản sắc văn

hóa của dân tộc. Đây chính là một thành công vĩ đại của Ngô Tất Tố trong thể lọai phóng

sự.

2.2.1.2. Nghệ thuật đối lập trong bút pháp trần thuật

Trong các tác phẩm phóng sự của Ngô Tất Tố chúng ta thấy tác giả thường sử dụng

những cách kể đối lập giữa các sự viêc hiện tượng. Cách kể này có giá trị phê phán rất cao.

Trong “Lớp người bị bỏ sót” tác giả sử dụng khá nhiều dạng trần thuật này.

“Nó là một túp lều tranh lụp xụp, đầy thê thảm. Nhưng lại có vẻ vui vẻ.

“Ở gian bên này khách khứa tấp nập. Người ta cười cười nói nói sốt sắng đợi hơi thở

cuối cùng của ông lão già” [57, tr.7].

Các câu kể có giá trị phê phán sâu sắc, trong lúc gia đình lão Thượng đang có chuyện

không vui, nhìn vào cảnh ngôi nhà “lụp xụp, thê thảm” như vậy nhưng theo tục lệ của làng

khách khứa vẫn đến một cách “tấp nập”, vẫn “cười cười nói nói”, vẫn “vui vẻ” như nhà có

đám cưới. Qua đó ta thấy được sự vô tâm, sự bất nhẫn của những con người đang làm nô lệ

cho hủ tục. Chính những tục lệ cổ hủ vô nhân đạo đã khiến cho họ có thói quen cười nói

trước sự hấp hối của người khác.

Đoạn cuối được Ngô Tất Tố miêu tả thật cảm động “Hết câu đó, cụ bỗng trợn hai mắt,

đờm ở trong cổ kéo lên khè khè. Cả nhà nhới nhác xúm lại. Cụ đã tắt thở. Cả lúc trong nhà

im lặng bỏ tiền và gạo vào miệng người chết, thì ở ngoài vườn người ta cũng hò reo để vật

con trâu” [57, tr.8].

Sự đối lập giữa hai hành động: bên trong thì “bỏ tiền và gạo vào miệng người chết”; bên

ngòai thì “vật con trâu”. Giữa hai cảm xúc: bên trong thì “im lặng” vì nổi đau mất mát; bên

ngoài thì “hò reo” vì chuẩn bị cho tiệc tùng, đình đám. Người nông dân chưa kịp đưa tiễn

người thân của mình đã phải lo tiền ăn uống cho làng xóm, vừa mất người, vừa mất của. Bởi

vậy nên có người chỉ làm đám xong cho người thân của mình mà suốt đời không ngóc dậy

được (Cổ oản tuần sóc). Thậm chí mắc cả một món nợ chung thân, cả đời làm mướn không

công vẫn chưa trừ hết nợ (Món nợ chung thân)

Để làm rõ dã tâm của bọn cường hào, trong Cổ oản tuần sóc”, người nông dân tên Linh

Phúc vì không có tiền làm cổ oản nên đành phải dỡ bớt hai gian nhà. Thế nhưng bọn hương

thôn không những không thương xót mà còn thể hiện rõ bản chất tham lam, độc ác của

mình. Chỉ bằng một đoạn văn đối lập Ngô tất Tố đã dựng lên được một bức tranh tòan cảnh,

lột tả hết bản chất dã man của bọn cường hào:

Tối ba mươi, vào khoảng nửa đêm tôi tình cờ lại đi qua cửa nhà ấy. Bấy giờ cái đầu nhà bị

phá hai gian vẫn còn bỏ trống chưa có bức vách. Nhưng mà trong nhà đèn thắp sáng

choang.

Lố nhố dưới bóng đèn tôi thấy độ hai chục người, chia làm bốn tốp, vây quanh bốn chiếc

mâm gỗ đầy những thịt đậu, đặt trên chiếc chiếu sàm sạp trải ở mặt đất. Tiếng cười nói vui

như ngày tết .[57, tr.76]

Câu miêu tả về cảnh trạng ngôi nhà ông Phúc chỉ có một, còn câu miêu tả cái vui vẻ, cái

thịnh soạn của người chứa trong đó thì lại nhiều. Giá trị phê phán càng phát huy hiệu lực khi

Ngô Tất Tố kể đến chuyện bọn chúng khen lão Phúc là “tháo vác” là “hết lòng lo việc thờ”,

nhẫn tâm hơn nữa là khen oẳn tốt và chuối mẫm. Chúng thừa biết để có được những gì hôm

nay cho chúng thưởng thức là người nông dân tội nghiệp kia phải dỡ cả ngôi nhà che nắng

che mưa của bốn cha con. Vậy mà chúng vẫn vui vẻ. Không biết cổ oản sau, khi ông Phúc

có thể dỡ nốt hai gian nhà còn lại chúng sẽ khen ông đến mức nào?

Cũng với bút pháp trần thuật quen thuộc, Ngô Tất Tố lại kể cho người đọc một câu

chuyện thương tâm về ông Sửu, người vừa đắc tội với kẻ đứng đầu làng, vì vậy coi như mắc

tội với làng và bị làng ăn vạ. Để làm rõ sự cùng cực của người nông dân cũng như vạch rõ

âm mưu dùng hủ tục bức người nông dân đến đường cùng của bọn hương thôn, Ngô Tất Tố

đã kết thúc câu chuyện bằng hai cảnh đối lập.

“Cuộc ăn uống linh đình mãi đến quá trưa mới tan.

Chiều hôm ấy, tôi còn ở đó, đã có tin nói lão Sửu thắt cổ ở trong nhà” [82,1]

Trong khi cả làng đang thỏa thuê ăn uống, thì người nông dân bị oan không biết giải bày

cùng ai đã kết liễu đời. Đó là cái chết tức tưởi, cái chết căm hờn, cái chết nhằm lên án bọn

người vô nhân đạo“ăn không nói có”, luôn mệnh danh là làng để cướp bóc của người nông

dân. Chúng không cướp được của thì chúng giết người, giết không phải bằng dao kiếm mà

chúng giết người nông dân bằng hủ tục. Thế mới thấy sức mạnh của những hủ tục tuy là vô

hình nhưng thật ghê gớm.

Trong truyện “Con gà thờ”, Ngô Tất Tố cũng với nghệ thuật đối lập đã đặt ra một vấn đề

mới. Đó là giá trị của một con người mà lại là người ruột thịt không bằng một con “gà thờ”

dưới áp lực của hủ tục.

Hãy nghe Ngô Tất Tố kể về một gia đình mà cùng một lúc cả gà và người mẹ già đều

ốm. Người mẹ già ốm nằm lâu nay thì không thấy ai đến thăm nhưng vừa nghe tin con gà

thờ ốm thì

Họ hàng làng nước kéo đến hỏi thăm rất đông. Người nào, người nấy nét mặt ngơ ngác như

đứng trước một tai nạn lớn của người ruột thịt.

Giữa lúc ấy bà mẹ của ông chủ nhà tôi lại nổi cơn bệnh. Ngồi ở nhà dưới cũng nghe tiếng

rên và tiếng “ôi chao”. Nhưng không ai nhắc đến bà cụ. Người ta chỉ hỏi chứng bệnh con

gà”.[57, tr.66].

Đấy chính là sức mạnh vô hình của hủ tục, nó có thể làm cho xã hội ngày một tồi tệ đi,

con người ngày một trở nên chai lì, khô cằn trước nỗi đau của người khác.

Đọc những câu văn của Ngô Tất Tố trong lời trần thuật tưởng chừng như vô tâm lạnh

lùng. Nhưng chúng ta vẫn thấy đau, thấy thấm thía, thấy thương cho những người nông dân

hiền lành. Bởi họ đang dần bị mê muội, đang trở nên ngày càng tàn nhẫn, ngày càng vô tâm

trước bất hạnh của con người. Và bất giác chúng ta lại liên tưởng xa hơn, phải chăng Ngô

Tất Tố qua các tập phóng sự muốn nhắn nhủ rằng nếu không xóa bỏ được hủ tục thì cái xã

hội nông thôn ngày một bị hủy hoại. Tình người ngày một biến mất, và điều đó cũng có

nghĩa là âm mưu của kẻ thù đã thành công. Chính vì không thể làm ngơ trước những điều có

thể xảy ra cho dân tộc nên ông đã viết, đã phản ánh để gây lên một làn sóng phẫn nộ, để

được mọi người ủng hộ cùng bắt tay vào cải tạo xã hội.

Nghệ thuật đối lập trong trần thuật đã được Ngô Tất Tố tận dụng một cách triệt để. Vì

vậy nó đã tạo thêm những lượng thông tin bổ sung thật sự quí giá. Đây cũng là minh chứng

cho sự thành công của Ngô Tất Tố trong việc vận dụng nghệ thuật viết phóng sự hiện đại.

2.2.1.3. Bút pháp miêu tả trong trần thuật.

Phóng sự của Ngô tất Tố sở dĩ có sức hấp dẫn là vì ông biết kết hợp nhuần nhuyễn

phương thức miêu tả trong tự sự. Chuyện kể của Ngô Tất Tố không chỉ giúp người đọc hiểu

được sự việc hiện tượng xảy ra mà còn có khả năng xây dựng trong tâm trí người đọc một

hình tượng lí thú, chính vì vậy mà ấn tượng để lại thật khó quên. Thông qua hình tượng

được miêu tả, người đọc cảm nhận một cách sâu sắc hơn ý nghĩa của tác phẩm mà tác giả

muốn gửi gắm.

Nghệ thuật miêu tả trong “Cổ oản tuần sóc” thật ấn tượng, Ngô Tất Tố miêu tả hình ảnh

ông Linh Phúc quảy đòn gánh “Kĩu kịt trên vai ông ấy, cái đòn gánh luôn luôn co lên, ẻo

xuống như con cá mè giãy cạn. Mỗi khi đôi đầu đòn gánh lướt xuống ấy là mỗi lần cái vai

ông ấy lệch đi, cái cổ ông ấy rụt lại, cái mồm ông ấy nhành ra, cái sườn ông ấy nghiên sang

một bên. Vậy mà đôi chân ông ấy vẫn cứ nhon nhón bước rảo để đưa cái đầu cung cúc cúi

xuống đằng trước, y như con cuốc lủi trong ruộng lúa.”[57, tr.72]. Với cách miêu tả ấn

tượng như vậy Ngô Tất Tố đã thực sự thành công trong việc xây dựng một hình tượng

người nông dân vất vả, cơ cực, cái khổ đau của một người đàn ông “gà trống nuôi con”, lam

lũ cả đời vẫn không thể đủ ăn hiện rõ trên cả vóc dáng. Cái dáng người khắc khổ đến tội

nghiệp, vì miếng cơm manh áo hàng ngày mà gánh oằn cả đôi vai. Thế nhưng, cái gánh

hàng trên vai ông kia vẫn còn nhẹ biết bao nhiêu nếu như cuộc sống cứ đơn thuần trôi qua

như thế. Nhưng cuộc đời ai cũng còn có những cái “gánh” vô hình, nó còn nặng gấp vạn

lần. Ông Phúc không chỉ gánh trách nhiệm của cả một gia đình bốn bố con mà ông còn có

một gánh nặng không thể nhờ cậy được ai đó chính là “gánh hủ tục”. Nó không chỉ khiến

ông lo lắng mà một ngày nào đó biết đâu nó còn khiến cho bố con ông không có chổ che

mưa che nắng vì mái nhà còn lại có thể sẽ phải bán đi để giải quyết cái gánh hủ tục mà ông

đang nặng mang. Trong “Việc làng” của Ngô Tất Tố chúng ta chưa thấy người chết vì cơ

cực vất vả mà chỉ thấy người chết vì cái gánh hủ tục nó đè bẹp.

Chưa hết hình tượng người nông dân đó còn hiện lên thật sinh động với đôi vai kì cục

“Trời ơi, đôi vai mới lạ làm sao! Nó giống hệt lưng cong lạc đà, mỗi bên có một cái bướu

lớn chừng bằng quả xoài tượng. Cố nhiên hai cái bướu ấy cũng bằng thịt. Nhưng nó là thứ

thịt cứng rắn, ấn không thấy lõm, bấm không thấy đau, màu da xù xì và mốc thếch như da

trăn gió” [57, tr.73]. Thật không còn gì có thể diễn đạt hết cái cơ cực, khốn khổ của người

nông dân hơn thế.

Nghệ thuật miêu tả đạt đến độ xuất sắc trong “Nghệ thuật băm thịt gà” cả câu chuyện

xoay quanh việc thằng Mới “băm thịt gà”, mới đầu là pha mỏ gà, tiếp đến là phao câu, đến

cánh gà rồi chân gà, tuy nhiên ấn tượng nhất vẫn là phần chặt mình gà:

Bây giờ thì đến mình gà. Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà bỏ ra

góc mâm. Rồi lật ngửa con gà lên thớt, hắm ướm dao vào giữa xương sống rồi giơ dao

chém luôn hai nhát theo chiều dài cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh

đều có một nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà một tay cầm cái dao phay, hắm băm lia

lịa như không chú ý gì hết (…). Mười nhát như một nó chỉ lên khỏi mặt thớt độ một gang và

cách cái ngón tay hắn độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc đụng vào mặt thớt, nhịp nhàng

như tiếng mỏ của phường chèo, không lúc nào mau, cũng không có lúc nào thưa. Mỗi tiếng

cốc là một miếng thịt băng ra. Miếng nào như miếng ấy đứt suốt từ xương đến da, không

còn dính nhau mảy may [1, tr.32]

Ngô Tất Tố đã vận dụng những từ ngữ miêu tả, những từ ngữ so sánh, kết hợp vừa miêu

tả hình ảnh vừa miêu tả âm thanh, khiến cho không chỉ có người chặt gà tài ba mà ta thấy

người qua sát cũng rất điêu luyện. Nếu Ngô Tất Tố xem thằng Mới là một nghệ sĩ thì có

nghĩa ông chính là người thẩm thấu rất nhạy cảm tác phẩm nghệ thuật của người nghệ sĩ đó,

có nghĩa ông chính là người có khả năng cảm thụ, thưởng thức nghệ thuật một cách tinh tế,

giống như Tử Kì hiểu tiếng đàn của Bá Nha như Bạch Cư Dị hiểu tiếng đàn của người ca

nữ.

Ngô Tất Tố không chỉ miêu tả để cho vui, cho hay mà còn có dụng ý cảm thông, phê

phán. Chính những hình ảnh và ngôn ngữ sinh động đó đã ẩn chứa thái độ thương cảm của

ông đối với từng người nông dân lam lũ. Và cũng chính những hình ảnh đó là bằng chứng

xác thực để ông lên tiếng tố cáo những kẻ cố tình duy trì những lễ nghĩa rườm rà, vô nhân

đạo.

Nếu như trong “Việc làng”, bằng lối trần thuật kết hợp với miêu tả, Ngô Tất Tố đã thành

công trong việc xây dựng những hình tượng nhân vật chân thực, sống động, thì trong “Tập

án cái đình”, tài năng đó cuả ông được thể hiện ở việc tái hiện những đám đông nhốn nháo.

Ngô tất Tố có khả năng lôi cuốn người đọc vào những câu văn biết nhảy múa. Lời văn

miêu tả, trần thuật cuả ông sinh động đến mức kì lạ. Chúng ta không nghi rằng mình đang

đọc văn mà nghĩ rằng mình đang được chứng kiến trực tiếp sự việc diễn ra. Một cuộc đánh

đuổi thành hoàng diễn ra thật ngộ nghĩnh, những con người, những gậy gộc, những âm

thanh… thật ấn tượng, thật gấp gáp và thật hài hước.

Cánh đồng trước đình bổng nghe có tiếng ầm ầm và thấy bóng lửa bốc lên sáng rực.

Anh lửa mỗi lúc một rõ thêm, tiếng ầm ầm mỗi lúc một gần lại.

Một lát sau hàng trăm bó đuốc đùng đùng chiếu vào cổng làng với những hàng gậy tre

nghênh ngang ở trước ánh lửa

Người đâu mà nhiều dữ vậy! Họ đi hàng ba, hàng tư, hàng năm một lũ dài kéo vào cửa

đình chẳng khác một đám quân chạy.

(…) Đám người cầm đuốc nhất tề rẽ ra hai hàng và đứng thẳng băng trước đình như hai

dãy cột đèn, làm cho sân đình thành một đoạn đường cái. Mấy trăm gậy tre nhất tề vừa múa

vừa theo đoạn đường giữa hai hàng đuốc nhẩy vào cửa đình.(…)

Đuốc vẫn cháy nỏ, trống cái vẫn thúc rền, tù và vẫn thổi dữ, đám gậy hùng dũng xông vào

lòng đình, tiếng người reo như xô mái ngói.

Bỗng như bị vật gì ngăn cản, mấy trăm người và mấy trăm gậy nhất tề chạy ra chỗ cũ như

một đàn vịt bị đuổi

Trống cái, tù và lại thưa. Các gậy lại thi nhau múa.[57, tr.117-118]

Ngô Tất Tố không chỉ huy động trí tưởng tượng, sự liên tưởng kết hợp với thị giác, thính

giác để xây dựng một bức tranh sinh hoạt cộng đồng mà ông còn vận dụng triệt để những

hình ảnh so sánh để làm nổi bật sự nhốn nháo của đám đông như :“chẳng khác nào một đám

quân chạy”, “tiếng người reo như xô mái ngói”, “như một đàn vịt bị đuổi”.Tuy nhiên từ

những hình ảnh so sánh sinh động trên ta có thể đọc được ý nghĩa phê phán, tố cáo của nó,

đó là những hoạt động vô bổ, nhố nhăng. Mục đích của những hoạt động đó không nhằm

phục vụ cho lợi ích của người nông dân, mà ngược lại còn khiến cho họ mệt mỏi về thể xác,

mụ mẫm về tinh thần.

Trong “Tập án cái đình”, hình tượng đám đông huyên náo như trên xuất hiện trong kh

nhiều truyện. Lời văn của ông như có nét vẽ đã vẽ nên những bức tranh biếm họa cực kì

sinh động. Đây là đoạn Ngô Tất Tố miêu tả một cuộc thi giết lợn:

Tiếng reo đồng thời nổi lên ồn ào với những tiếng ti u của các hiệu sừng, hiệu ốc. Trẻ con,

đàn bà những người vô sự hết thảy bạt ra ngòai tường bao lan, nhường khu đất trước đình

cho các đội đồ tể

Có thể tưởng như đám quỷ sứ phá ngục, những ông khỏe mạnh hung tợn chực ở chung

quanh các củi hùng hổ xúm lại, kẻ thì dùng dao chặt hết những sợi thừng trạc nhuộm đỏ,

người thì chém đanh, chém chốt, tháo hết các then cũi ra

Mỗi cũi chừng hơn mười người xấn vào. Nhanh như cắt họ túm ông lợn lôi ra sềnh sệch.

Lúc này đối với con lợn người ta không giữ lễ độ như trước.

(…) Cái sanh đựng muối đã được một người xách lấy hai quai và hứng dưới cổ con vật

đáng thương. Một người khách xắn gọn hai ống tay áo, lăm lăm cầm con dao bầu đâm vào

cổ nó, giữa lúc hai người béo lớn lật đật khiêng nồi nước sôi đi sau, để cho một người

nhanh nhẩu cầm gáo múc nước dội vào mông nó.

Bấy giờ công việc mới càng túi bụi ! tiết ở cổ lợn cứ việc chảy ra lòng sanh, nước ở

trong gáo cứ việc đổ vào mông lợn, người bưng cái sanh, người cầm cái gáo, người khiêng

cái nồi nước sôi cũng như những người túm bốn chân lợn, đều chạy như bắn”[1, tr.126-

127]

Người đọc không được chứng kiến tận mắt nhưng với lời kể và miêu tả của Ngô Tất Tố

có thể hình dung một cách đầy đủ một cuộc thi khủng khiếp của những cao thủ “giết lợn”

của các làng. Tất cả những điều này đều được xem là “thuần phong mĩ tục” ở các làng Việt

Nam!

Nhìn chung nghệ thuật trần thuật của Ngô Tất Tố trong phóng sự khá linh hoạt Lôi cuốn.

Bằng khả năng tái hiện hiện thực một cách sinh động, Ngô tất Tố đã chứng minh tài năng

viết phóng sự của mình qua việc kết hợp giữa tự sự, miêu tả và biểu cảm. Chính vì vậy các

tác phẩm phóng sự của ông có sức sống mãnh liệt và vòng đời của nó cũng dài hơn các tác

phẩm khác của các tác giả cùng thời. Thành công này của Ngô Tất Tố minh chứng cho

thành công của sự kết hợp giữa văn học và báo chí trong phóng sự, góp phần đưa phóng sự -

một thể lọai báo chí đến gần với phóng sự - một thể lọai văn học.

Nghệ thuật trần thuật trong phóng sự của Ngô Tất Tố thể hiện một ngòi bút vững vàng,

một con người thẳng thắn không hề khuất phục trước những biến thiên của cuộc đời. Ông

dám nói những gì mình muốn nói. Suốt trong các thiên truyện hình tượng con người Ngô

Tất Tố- một trí thức yêu nước thương dân, không hề thay đổi. Tư tưởng nhất quán, quan

điểm rõ rằng, những cái mà người viết phóng sự không thể thiếu. Ở Ngô Tất Tố có một cái

“Tôi” bản lĩnh mà những người viết phóng sự ở mọi thời đại thán phục và cần phải học hỏi .

2.2.2. Kết cấu giản dị nhưng chặt chẽ

“Việc làng” là tập phóng sự về những hủ tục nặng nề ở nông thôn Việt Nam trước cách

mạng thánh Tám. Những tục lệ “quái gở”, “mọi rợ” đó được trình bày lần lượt trong mười

sáu chương sách. Mỗi chương là một câu chuyện về cuộc đời của người nông dân dưới sức

ép của hủ tục. Tuy nhiên chúng vẫn có sự gắn kết chặt chẽ với nhau. Câu chuyện mở đầu

được Ngô Tất Tố sắp xếp để cho người đọc hình dung một cách khái quát sức ép cũng như

hậu quả của hủ tục ở thôn quê. Mười lăm câu chuyện tiếp theo là mười lăm dẫn chứng về tc

hại nặng nề của hủ tục đối với cuộc sống người nông dân. Tiu tn về tiền bạc, tài sản và lm

thiệt hại cả tính mạng. Tập phĩng sự kết thúc với câu chuyện “Món nợ chung thân” rất có ý

nghĩa. Nhan đề của câu chuyện này cho ta thấy, hủ tục tuy là con đường dẫn người nông dân

đến cái nghèo, cái hư danh, cái chết nhưng người nông dân không thể thoát khỏi vòng kiểm

soát của nó. Bởi nó là “món nợ chung thân” của họ. Mọi sự giãy dụa, vẫy vùng của họ đều

trở nên vô nghĩa. Người nông dân có thể hi sinh tất cả chứ không thể chiến thắng được

chính tâm lí của mình. Nếu họ có muốn thoát ra khỏi cái tâm lí xôi thịt, đình làng đó đi nữa

thì cũng không thể thoát khỏi tay những kẻ đang cố tình duy trì nó vì mục đích cá nhân.

Như vậy có nghĩa là cả đời người nông dân phải sống chung với nó, thậm chí như cụ

Thượng làng Lão Việt đến lúc chết vẫn chưa thể tự giải thoát cho mình mà còn phải trao lại

cho đức con trai tiếp tục gánh vác. Đích thực nó là món nợ chung thân rồi còn gì!

Tuy mỗi câu chuyện trong “Việc làng” là một sự kiện và một hủ tục khác nhau, nhưng

tất cả đều xoay quanh một chủ đề đó là những tục lệ cổ hủ đang kìm hãm sự phát triển về

mọi mặt cuộc sống con người. Điều đó đã tạo nên tích chặt chẽ cho tác phẩm.

Phóng sự “Tập án cái đình” cũng có kiểu kết cấu chặc chẽ này. Mười một mẩu chuyện

trong Tập án cái đình là mười một hình tượng những đám đông nhốn nháo, những nghi lễ

rườm rà. Nhưng tất cả đều tập trung xoáy sâu vào một chủ đề đó là những nghi lễ cổ hủ, vô

bổ đang tồn tại mạnh mẽ ở nông thôn Việt Nam. Nếu ở “Việc làng” cái bi nhiều hơn cái hài,

thì ở “Tập án cái đình” cái hài nhiều hơn cái bi. Thế nhưng ẩn dấu sau sự hài hước, sự nhố

nhăng của người, của việc lại là một nỗi đau. Mười môt mẩu chuyện, không chuyện nào là

không có cúng bái, không có thần thánh. Thế nhưng, mỗi thần một nghề, mỗi thần một kiểu

“hi sinh”. Tất cả tạo nên một thế giới thần thánh hài hước, nhảm nhí. Ý nghĩa phê phán giễu

cợt càng cao khi Ngô Tất Tố cho biết họ được trở thành thần thánh, thành hoàng chỉ vì “chết

được giờ linh”.

Đi sâu vào từng câu chuyện cụ thể ta sẽ thấy mỗi câu chuyện lại được xây dựng bằng

một lối kết cấu hết sức giản dị, nhưng chặt chẽ và hiện đại.

Ngô Tất Tố sử dụng phóng sự như một thể loại văn học chứ không đơn thuần một thể

loại báo chí. Vậy nên kết cấu của phóng sự rất linh hoạt, rất gần với truyện ngắn. Nguễn

Đăng Mạnh khi phê bình quyển Việc làng” đã khẳng định: “Nghệ thuật phóng sự của Ngô

Tất Tố trong Việc làng có khuynh hướng đi dần tới lối viết truyện ngắn” [33, tr.368]. Mặc

dù cốt truyện có nhiều biến đổi linh hoạt, nhưng nhìn chung vẫn có những đặc điểm tương

đồng với truyện ngắn.

Theo Lại Nguyên Ân, trong Từ điển văn học bộ mới:

“Truyện ngắn thường nhằm khắc họa một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan hệ

con người hay trong đời sống tâm hồn con người. Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện

phức tạp, chồng chéo. Nhân vật truyện ngắn ít khi trở thành một thế giới hoàn chỉnh, một

tính cách trọn vẹn, thường khi là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội

hoặc một trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của truyện ngắn thường tự giới hạn

về thời gian, không gian; nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời về con

người. Kết cấu truyện ngắn thường không nhiều tầng, nhiều tuyến mà được dựng theo kiểu

tương phản hoặc liên tưởng” [25, tr.1847].

Phóng sự của Ngô Tất Tố có những đặc điểm trên của truyện ngắn. Mỗi câu chuyện

trong “Việc làng” là một lát cắt tiêu biểu về cuộc sống của người nông dân. Câu chuyện nào

cũng có nhân vật, có cốt truyện rõ rệt. Mỗi truyện xây dựng một mâu thuẫn thể hiện bi kịch

tinh thần của người nông dân nơi thôn quê Việt Nam.

Kết cấu của các câu chuyện trong “Việc làng” đơn giản, không nhiều tầng nhiều tuyến.

Tuy nhiên rất chặt chẽ với trình tự sắp xếp các sự kiện hợp lí, làm nổi bật được vấn đề mà

tác giả muốn phản ánh. Ngô Tất Tố chỉ ghi lại một thời điểm nhất định trong cuộc đời người

nông dân. Ông chọn sự kiện tiêu biểu nhất trong cuộc sống vất vả của họ. Đó có thể là một

giây phút hấp hối trong “Lớp người bị bỏ sót”, một niềm vui trong “Một đám vào ngôi” cho

con, một cuộc ẩu đả dẫn đến án mạng trong “Cái án ông cụ”, một bữa sửa xôi mới trong

“Hạt gạo xôi mới”, hay một kế hoạch lo hậu sự của bà cụ trong “Nén hương sau khi chết”…

Vấn đề phản ánh trong phóng sự Ngô Tất Tố tưởng như đơn giản, thế nhưng sự sắp xếp sự

kiện, trình tự không gian, thời gian khiến cho sự việc được phản ánh trở nên giàu kịch tính,

và bao giờ cũng kết thúc trong bi kịch. Chính vì thế nâng giá trị của tác phẩm lên một mức

độ cao hơn.

Sự phát triển trong cốt truyện có khi được xây dựng bằng sự phát triển mâu thuẫn, từ bắt

đầu nảy sinh xung đột, đến phát triển và kết thúc. Chẳng hạn trong truyện “Một tiệc ăn vạ”,

xung đột, mâu thuẫn được bắt đầu từ việc một ông trong bốn ông trùm của làng đến nhà vay

thóc. Lão Sửu đi vắng, bà vợ ở nhà từ chối nói rằng không có. Sự trả thù của ông trùm

chính là sự phát triển của mâu thuẫn. Ông trùm vu cho lão Sửu tội chửi làng và trình làng

bắt vạ lão Sửu. Mâu thẫu, xung đột tiếp tục được nâng cao khi làng bắt lợn, mua gạo, mua

rượu ra đình. Tiệc ăn vạ được diễn ra linh đình. Xung đột phát triển đến đỉnh điểm và kết

thúc trong bi kịch chính là cái chết của lão Sửu. Người nông dân không chịu đựng được sự

ức hiếp vô cớ đã phải treo cổ tự tử, đó chính là giá trị tố cáo của truyện. Các câu chuyện

trong “Việc làng” đếu có kết cấu cốt truyện này, mâu thuẫn bao giờ cũng được dẫn dắt để

đẩy đến đỉnh cao. Ông Linh Phức trong “Cổ oản tuần sóc” cũng bắt đầu bi kịch của mình

từ việc người vợ bị bệnh hậu sản, bán hết mấy sào ruộng vẫn không chạy chữa được. Rồi vợ

ông mất, ông phải vay nợ để lo ma chay cho vợ, từ đó ông trở thành “con nợ”. Rồi ông phải

cho đứa con nhỏ nhờ người ta nuôi, đứa con lớn cho đi ở không công. “Lãi mẹ đẻ lãi con”,

ông làm bao nhiêu cũng không đủ trả nợ. Rồi ông lên chức ông trùm, và đỉnh cao của bi

kịch là việc ông phải dỡ nhà làm củi bán để lo cổ oản tuần sóc cho mình. Nỗi đau này nối

tiếp nỗi đau kia, kết thúc câu chuyện người nông dân bao giờ cũng bị bức đến đường cùng.

Đó chính là hiện thực, là cuộc đời được Ngô Tất Tố xây dựng lại trong tác phẩm của mình.

Tuy nhiên, quá trình kể lại các sự kiện, sự việc, và quá trình phát triển của mâu thuẫn,

xung đột được Ngô Tất Tố thể hiện theo những trình tự hợp lí, hấp dẫn. Ông thường bắt đầu

từ hiện tại, lúc sự kiện, sự việc đang xảy ra. Chẳng hạn bắt đầu cho “Một tiệc ăn vạ” là cảnh

dân làng tấp nập chuẩn bị cho một bữa tiệc linh đình, kèm theo những lời bàn tán, nhận xét

của những người đàn bà. Người đọc chưa hiểu chuyện gì xảy ra, tác giả cũng vờ như chưa

hiểu chuyện gì, đưa ra những lời phỏng đoán khiến sư việc càng thêm hấp dẫn. Và cuối

cùng mới mượn lời kể của một nhân vật trong câu chuyện để kể lại toàn bộ diễn biến của sự

việc và bi kịch của gia đình lào Sửu, kèm theo những lời nhận xét sâu sắc như: “Làng là bọn

nó chứ ai đâu” hay “Tội nghiệp lão ấy hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ vì nhà đã

lép vế, lại có bát ăn”. Câu chuyện kết thúc khiến cho người đọc cảm thấy nghẹt thở trước

tình trạng người nông dân bị bức đến đường cùng. Ngô Tất Tố thường chọn lối kết cấu

không theo trình tự thời gian này trong “Việc làng” vì thế tạo được ấn tượng mạnh mẽ trong

lòng người đọc. Đây cũng là lối kết cấu văn học hiện đại. Khảo sát mười sáu câu chuyện

trong Việc làng thì có mười một câu chuyện viết theo lối kết cấu đảo ngược, đan xen thời

gian này, còn lại năm truyện được viết theo lối kết cấu theo trình tự thời gian.

Ở “Tập án cái đình”, mỗi câu chuyện được biến hoá linh hoạt hơn trong kết cấu. Sự kiện

thường được chuyển tải qua lời kể của các nhân vật. Nó có sự đan xen giữa quá khứ, hiện

tại, giữa lời người trần thuật và lời nhân vật. Những câu chuyện trong “Tập án cái đình”

thường là những khung cảnh rộng mà tác giả đã “chụp” được trong quá trình xảy ra sự việc.

Trước khi vào sự kiện chính, tác giả bao giờ cũng giới thiệu với người đọc về ngôi làng và

những nghi lễ đặc biệt của nó (“Mỗi năm một cuộc đánh đuổi thành hoàng”; “Được một trai

mất ba lợn”; “Lợn anh, lợn em”, “Ơng thành hoàng đó đã bị cách rồi”, “Cuộc thi giết lợn”,

“Mỗi năm một lần đánh đuổi thành hoàng”, “Các cụ chỉ chung nhau bát nước mắm”). Hoặc

giới thiệu một nhân vật, mà nhân vật đó sẽ là người kể lại những nghi lễ cổ quái của làng

mình. Thường thì họ kể với niềm tự hào và một lòng kính trọng các vị thành hoàng (“Đuổi

giặc cho thần”, “Ai làm nên tội”, “Miếng thịt chùi dao”) nhằm gây sự chú ý của độc giả.

Người đọc cảm giác thích thú trước phần dẫn đắt của tác giả. Cuối cùng Ngô Tất Tố đưa

người đọc đến nơi sự kiện xảy ra, nơi thì náo động, nơi thì ngộ nghĩnh. Bằng nghệ thuật

quan st, miêu tả đặc sắc, kết hợp với sự linh hoạt, tinh tế trong dùng từ, người đọc cảm giác

như đang “tận mắt chứng kiến” sự việc xảy ra. Riêng câu chuyện “Vũng lội làng Ngang”,

Ngô Tất Tố mở đầu bằng bài thơ của cụ Nguyễn Khuyến, vừa vui vừa hấp dẫn, để tả cái

cảnh tượng kì dị của vũng lội làng Ngang. Tiếp theo tác giả kể về lịch sử của cái vũng lội đó

bằng một giọng văn hài hước. Và cuối cùng tác giả kết luận “Trải bao dâu bể miếu mạo của

ổng và cái vũng lội cũng vẫn nghiễm nhiên trường thọ với non sông” [57, tr.155]. Câu

chuyện tưởng chừng như chuyện hài hước, bông đùa, nhưng nó đã phản ánh đúng thực trạng

mê tín của người nông dân: họ vừa l tịng phạm, vừa l nạn nhn.

2.2.3. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, cảm xc

Đúng như lí thuyết về phóng sự đã được trình bày ở đầu chương hai, giai đọan phóng sự

của Ngô Tất Tố là giai đoạn 1930-1945, phóng sự còn mang nhiều đặc tính của một thể loại

văn học hơn một thể loại báo chí. Vì vậy, bên cạnh ngôn ngữ sự kiện vốn có của một bài

báo, phóng sự của Ngô Tất Tố còn thành công nhờ sự linh hoạt trong việc sử dụng ngôn ngữ

người trần thuật và ngôn ngữ nhân vật.

Dù là ngôn ngữ người trần thuật hay ngôn ngữ nhân vật thì ngôn ngữ trong phóng sự

“Việc làng” và “Tập án cái đình” cũng rất chính xác. Sự chính xác đó thể hiện cái tinh tế,

cái nhạy cảm của tác giả trong việc lựa chọn từ ngữ chứ không phải chính xác theo nghiã

logic khoa học. Ngô Tất Tố, trong hai thiên phóng sự của mình, luôn tỏ ra có tài lựa chọn từ

ngữ rất phù hợp với từng tình huống, từng hoàn cảnh và từng nhân vật. Đặc biệt bên cạnh sự

chính xác thì yếu tố biểu cảm thể hiện rất rõ và chính điều này đã tạo nên chất văn cho tác

phẩm phóng sự của ông.

Trước hết ta thấy Ngô Tất Tố tận dụng mọi khả năng diễn đạt của những tính từ để miêu

tả tâm trạng hay hành vi, thái độ của nhân vật.

Chẳng hạn để miêu tả thái độ hành động của bác Cả Mão trong “Một đám vào ngôi” cho

con, sự phấn khởi của một người cha khi một gia đình dân ngụ cư như bác nay “cháu đã có

ngôi ở đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc làng của nó” [1, tr.22] Ngô Tất Tố

đã diễn đạt bằng hàng lọat những tính từ : “lật đật” chạy, “lễ phép” mời, “nhanh nhẩu”

chạy, “tung tăng” ra sân, “rón rén” lui ra, “vui vẻ” khoe, niềm vui của thật giản dị, hiền hậu.

Thái độ của bác là thái độ của một người con dân đối với quan lớn, nó trái ngược hoàn toàn

với những gì bác phải bỏ ra (“tất cả tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non non một trăm

còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả” [57, tr.22]). Ngô Tất Tố chỉ viết vậy

chứ không thể hiện thái độ gì thêm. Thế nhưng hình ảnh người nông dân đang làm nô lệ cho

hủ tục, đang trở thành nạn nhân của sự bóc lột mà họ không hề hay biết lại lấy làm vui

sướng, hả hê khiến cho chúng ta đau xót. Người đọc cùng đồng điệu với tác giả một niềm

cảm thương sâu sắc trước cảnh dân mình còn nghèo và lạc hậu lắm, cái tâm lí hiếu danh

khiến cho họ có thể mất cả cơ nghiệp, bị lừa đảo, bị rút ruột, bị khinh khi, bị lợi dụng…

Ngôn ngữ trong phóng sự của Ngô Tất Tố đôi lúc thể hiện cá tính của ông rất rõ, đặc biệt

là thể hiện thái độ của ông đối với sự vật hiện tượng.

Chẳng hạn trong “Ơng thần hoàng ấy đã bị cách rồi”. Thái độ phê phán, mỉa mai của tác

giả thể hiện rõ qua nghệ thuật dùng từ của ông. Ngô Tất Tố kể về thành hoàng “ngài là

người Về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường khóet ngạch thế nhưng ngài cũng bị

bắt và bị xử tử”. [57, tr.148] Các từ, ngữ vừa mang tính mỉa mai, vừa mang tính hài hước.

Nó mang tính hài hước bởi các thần mà các làng đang sùng bái chẳng qua vì họ chết được

giờ linh. Ngôn ngữ gai góc của Ngô Tất Tố còn công phá một cách mạnh mẽ hơn “mười bốn

tháng tám chính là cái ngày ngài phải hi sinh tính mệnh cho nghề nghiệp, vì thế hàng năm

cứ đến ngày ấy dân làng phải diễn một cuộc xuyên tường tạc bích để kỉ niệm sự nghiệp

của ngài”. [57, tr.149]. Những từ ngữ: hi sinh, tính mệnh, nghề nghiệp, kết hợp với cụm từ

“xuyên tường tạc bích” thể hiện khá rõ thái độ của Ngô Tất Tố đối với những hoạt động vô

bổ của các làng ở nông thôn. Thái độ lên án những nghi lễ kì dị, phản nhân văn mà bọn

hương hào đặt ra để thống trị nông dân, bắt nông dân phải phục tùng. Qua đó tạo nên tiếng

cười xót xa cho độc giả.

Đại từ nhân xưng trong phóng sự của Ngô Tất Tố đôi lúc cũng rất hài hước, thể hiện một

Ngô Tất Tố hóm hỉnh, thâm thúy. Trong truyện “Vũng lội làng Ngang” ông viết: “thì ra ông

Cuội này không phải ở trên cung trăng rơi xuống. Lúc sống ổng cũng là cái xác thịt do

người làng ngang đẻ ra. Không biết vô tình hay hữu ý mà người đã nặn ra ổng đem tất cả

những kiểu vụng về ở gầm trời dồn vào mặt ổng. Khiến cho bộ diện của ổng thành một chỗ

chứa những cái: mày rậm, mắt sâu, mũi lõ, răng vẩu, hai môi bì bì như hai con đỉa no máu”

[1, tr.151]. Ngôn ngữ rất phong phú, đặc biệt là những từ ngữ mang tính chất mỉa mai như :

ổng, nặn, dồn, chỗ chứa… cùng các từ miêu tả khá ấn tượng, cách miêu tả cố tình hạ bệ

nhân vật thần mà người nông dân luôn cúng bái.

Vì phóng sự của Ngô Tất Tố được tạo ra với tư cách là một thể loại văn học nên các loại

ngôn ngữ xuất hiện trong tác phẩm rất phong phú và linh hoạt.

Chẳng hạn ngôn ngữ người trần thuật, với sự chuyển đổi điểm nhìn liên tục, khi thì với

vai trò một người dẫn chuyện, khi thì đóng vai trò là một nhân vật đang tham gia vào sự

kiện, Ngô Tất Tố thực sự chinh phục người đọc trước khả năng biến hóa linh họat từ ngữ.

Dưới đây là một đoạn văn minh chứng điều đó:

“Vậy mà riêng cái chuông bầu của làng T.D thì ở đằng sau lại có lỗ thủng vừa lọt người

chui. Nó không tròn, không vuông, không bồ dục, không miếng huỳnh, chẳng ra cái hình gì

cả. Nếu nó là chỗ tường lở thì chỉ xây vào khoảng năm sáu viên gạch là kín, chứ không khó

nhọc chút nào. Đằng này người ta không xây mà ở trong lỗ, lại có bưng một lớp ván coi bộ

cực kì kiên cố. Hơn nữa miệng lỗ lại có những vết chân người và có trát vôi nhẵn nhụi coi

rõ là chỗ làm sẵn từ lúc dựng đình không phải có ai đào khoét.

Cái lỗ này là cái quan hệ chắc có lịch sử sao đó, không phải là một chuyện thường. Tôi

nghĩ thế, cách một tuần sau, tôi mới hiểu nhiệm vụ của quái vật ấy.” (“Ông thành hồng đó

bị cách rồi”) [57, tr.145].

Ngôn ngữ trần thuật hấp dẫn, cuốn hút người đọc vào câu chuyện đang kể, ngầm chứa

đựng một điều gì kì lạ bên trong mà đúng sau đó Ngô Tất Tố đã cho mọi người chứng kiến

một cuộc đánh đuổi thành hoàng ngoạn mục và rất hài hước.

Ngôn ngữ nhân vật trong phóng sự cũng không kém phần phong phú, Ngô Tất Tố sử

dụng ngôn ngữ cho từng loại nhân vat của mình rất phù hợp. Đặc biệt là ngôn ngữ của

những người nông dân quê như:

- “Các bà là bậc nhân đức từ bi, các bà cứ thương ông ấy riêng tôi tôi chẳng thương

chút nào. Anh em ít, vế cánh không có mà vẫn không biết thân lại còn cứ bướng thì ai người

ta để cho yên lành !”

- “Phải bà nói phải đấy! Mình ở trong làng sống nhờ làng, chết nhờ làng. Cái người đã

dám vác miệng chửi làng thì bị trừng trị là đáng kiếp lắm hơi đâu mà thương” (Một tiệc ăn

vạ). [57, tr.18] Những lời thoại hơi ngoa ngoắt tuy nhiên rất chân thực về tính cách của

người nông dân miền Bắc.

Nhìn chung ngôn ngữ trong phóng sự của Ngô Tất Tố đặc biệt trong “Việc làng” và

“Tập án cái đình” thường có sự biến đổi linh hoạt từ ngôn ngữ người trần thuật đến ngôn

ngữ nhân vật. Sự kết hợp tự nhiên giữa yếu tố miêu tả và biểu cảm, tạo cho phóng sự Ngô

Tất Tố một giọng điệu riêng. Tất cả những điều phân tích trên đây một lần nữa cho thấy

ngôn ngữ phóng sự của Ngô Tất Tố không phải là thứ ngôn ngữ báo chí nhất nhất theo bài

bản, khuôn phép mà là ngôn ngữ văn chương mềm mại uyển chuyển. Đó cũng là thành công

và đóng góp tích cực của Phóng sự Ngô Tất Tố đối với sự phát triển ngôn ngữ văn xuôi

nghệ thuật hiện đại của văn học Việt Nam 1930-1945.

Chương 3

ĐÓNG GÓP CỦA TIỂU PHẨM NGÔ TẤT TỐ

ĐỐI VỚI VĂN HỌC VIÊT NAM 1930-1945

Tiểu phẩm là một mảng sáng tác chiếm số lượng lớn trong toàn bộ văn nghiệp của Ngô

Tất Tố. Mảng sáng tác này thể hiện khá rõ đặc điểm, tính cách cũng như con người của ông

bởi nó là một thể loại báo chí mang tính văn học nhưng rất gần giũ với đời sống thường

ngày. Nó là những mẩu chuyện bình thường nhưng không tầm thường. Nó thể hiện sự quan

sát cũng như cái nhìn của nhà văn đối với những gì đang diễn ra xung quanh cuộc sống.

Ngô Tất Tố đã đến với tiểu phẩm một cách ngẫu nhiên và trở thành người bạn gắn bó thân

thiết, và gặt hái được những thành công đáng quí ở thể loại này.

3.1. Những đóng góp lớn về nội dung

Giai đoạn văn học 1935-1940 là giai đoạn có nhiều bước tiến quan trọng trong sự

phát triển cc thể loại văn học Việt Nam. Với sự phát triển và hoàn thiện về văn xuôi nghệ

thuật, các thể loại tiểu thuyết, truyện ngắn đã xuất hiện từ các giai đoạn trước đã thực sự

trưởng thành. Ngoài ra giai đoạn này còn xuất hiện các thể loại văn xuôi khác như tuỳ bút,

bút kí… Đặc biệt sự xuất hiện và lớn mạnh của hai thể loại phóng sự và tiểu phẩm, những

thể loại mang hơi hướng văn học hiện đại phương Tây rõ nét, đã góp phần to lớn vào việc

hiện đại hoá văn học. Một điều đáng phấn khởi là Ngô Tất Tố vốn xuất thân là một nhà Hán

học tiêu biểu, lại nhanh chóng hoà nhập vào những thể văn hiện đại và có những đóng góp

quan trọng cho sự phát triển của văn học nước nhà. Về phóng sự như chương hai đã nói,

Ngô Tất Tố đem đến cho phóng sự Viêt Nam một cái nhìn hoàn thiện, rất nhân bản, có giá

trị như một tập tư liệu về văn hoá lịch sử của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Ngô Tất Tố còn

một mảng sáng tác đồ sộ đó chính là hàng ngan Tiểu phẩm được đăng báo. Chúng ta có thể

mạnh dạn nói rằng ở thể loại này không ai qua được Ngô Tất Tố. Có thể xem ông như nhà

viết Tiểu phẩm chuyên nghiệp, một người nghệ sĩ lành nghề khó ai có thể bì kịp. Sự xuất

hiện của nhà văn Ngô Tất Tố trên các báo, ở các chuyên mục “Nói mà chơi”, “Thực hay

bỡn”, “Mỗi ngày một chuyện”… đã khiến cho thể loại Tiểu phẩm vốn đã gần với văn học

hoàn toàn trở thành một thể loại văn học. Sau đây là những đóng góp có giá trị về nội dung

tiểu phẩm Ngô Tất Tố.

3.1.1. Vạch trần bản chất xấu xa của các thế lực trong xã hội thực dân phong

kiến

Ngô Tất Tố tuy chưa thực sự là một người sớm đi theo cách mạng và thời gian ông đến

với cách mạng cũng chưa phải là nhiều, nhưng trong con người ông có tố chất của một

người cách mạng, luôn đấu tranh không mệt mỏi vì quyền lợi của nhân dân, của giai cấp vô

sản. Hà Minh Đức nhận xét: “Điều nổi bật trong Tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố là tinh

thần đấu tranh mạnh mẽ cho công bằng xã hội cho quyền sống của con người. Phẩm chất

ấy thể hiện trong các bài viết tạo nên linh hồn và dũng khí của ngòi bút” [33, tr.445]. Phan

Cư Đệ cũng đồng tình cho rằng: “Ngô Tất Tố chuyên sử dụng một loại văn Tiểu Phẩm để

vạch những chuyện chướng tai gai mắt, những chuyện bất công ngang trái trong xã hội

cũ.”[33, tr.433]. Với mục đích chiến đấu đó, trong các tiểu phẩm của mình, ông lên án tất

cả những thế lực, những tổ chức, những con người chạy theo lợi ích cá nhân vị kỉ, có âm

mưu, dã tâm bóc lột, làm giàu trên mồ hôi nước mắt của nông dân. Toàn bộ tiểu phẩm của

Ngô Tất Tố làm thành một bức tranh rộng lớn và chân thực về xã hội thực dân phong kiến

Việt Nam những năm trước cách mạng tháng Tám với những chân dung biếm hoạ sinh

động, sâu sắc. Đối tượng phê phán đả kích của ông là bọn thực dân, bọn quan, tư sản phong

(cid:31) Đả kích bọn thực dân cướp nước:

kiến, bọn tay sai bồi bút, bọn tư sản, bọn làm giàu bất chính…

Vào những năm 1930-1945, tình hình báo chí, và những sáng tác văn học đều bị

kiểm duyệt rất gắt gao, bị cắt xén, xoá bỏ, phạt tiền, phạt tù, đình bản…Thực dân Pháp một

mặt tìm đủ mọi cách để hạn chế, gây khó khăn hoặc ra lệnh đóng cửa các tờ báo có đăng

những bài mang tính chất cổ động làm thức tỉnh ý thức dân tộc và lòng yêu nước của nhân

dân ta. Mặt khác chúng tăng cường nâng đỡ, tạo điều kiện về mọi mặt đặc biệt về kinh tế.

Chúng sẵn sàng bỏ ra số tiền rất lớn để mua chuộc nhà báo và các nhà xuất bản chịu hợp tác

và làm công cụ tuyên truyền cho chúng. Trước sự kìm hãm về tinh thần, sự cám dỗ về vật

chất, đã không ít các cây bút, các nhà báo, chủ báo làm tay sai cho thực dân Pháp, quay lưng

lại với dân tộc. Một số khác tuy không theo Pháp nhưng không dám ra mặt đấu tranh, chống

đối, không dám thể hiện thái độ căm thù, bất hợp tác, không dám bộc lộ tình yêu nước của

mình. Riêng Ngô Tất Tố vẫn kiên định, vẫn hiện ngang dùng Tiểu phẩm để công kích, phê

phán, chê bai một cách mạnh mẽ. Có thể nói dù trong hoàn cảnh nào ông cũng không khuất

phục, thậm chí đối tượng bị ông đem ra mỉa mai, đả kích chính là nhưng tên thực dân cướp

nước. Ngô Tất Tố cũng lường trước được hậu quả và đã có lần ông bị cầm tù bốn tháng, bị

trục xuất khỏi các thành phố lớn, nhưng ông không hề run sợ. Viết tiểu phẩm, ơng làm đúng

như Lỗ Tấn đã nói: “Văn Tiểu phẩm muốn tồn tại thì phải là mũi dao nhọn, là khẩu súng có

thể cùng người đọc mở một con đường sống bằng máu” [Dẫn theo 33, tr.427].

Mũi dao nhọn, khẩu súng ấy Ngô Tất Tố chĩa thẳng vào kẻ thù của dân tộc là thực dân

Pháp đang đè đầu cưỡi cổ mà bóc lột nhân dân ta. Hễ có cơ hội là Ngô Tất Tố lột trần sự

thật trong các bài Tiểu phẩm của mình, đăng trên báo một cách công khai cũng không cần

nói bóng gió. Phan Cư Đệ cho rằng ngòi bút của “Ngô Tất Tố đã tấn công vào chủ nghĩa

thực dân kiểu cũ trên một số vấn đề cơ bản, đã vạch trần những chính sách ngu dân, mị dân

và mọi thủ đoạn thâm độc nhằm làm cho thanh niên rơi vào tâm lí tự ti dân tộc hoặc dần

dần sa vào con đường truỵ lạc.” [33, tr.437]

Trước hết Ngô Tất Tố phơi bày bản chất dối trá, giả nhân nghĩa của những tên thực dân

nhân danh mẫu quốc. Nhân bài báo của tờ “Pháp Việt tạp chí”, bàn về chính sách cai trị

toàn quyền Brévie rằng : “Ngài không dám như vua Henri IV mong cho một người dân quê

nghèo nhất nước Pháp có thể làm thịt một con gà trong ngày chủ nhật, mà chỉ mong cho

một người dân quê nghèo nhất xứ Đông Dương cũng có một bát gạo thứ hai…” Ngô Tất Tố

liền tiếp lời:

Lời nói thiết tha thành thực ấy, dân chúng tôi rất lấy làm cảm động, nhưng không khỏi làm

sửng sốt cho các nhà tư bản thực dân bên thượng quốc, hàng ngày ngấp nghé dòm sang. Vì

Đông Dương xưa nay vẫn có tiếng là một thuộc địa giàu có nhất của nước Pháp. Chẳng thế

mà luôn đứng đầu trong các việc đóng góp với mẫu quốc về quân phí, về quốc trái về lạc

quyên. Lại những con số xuất cảng, nhập cảng hàng năm cộng nên con số kếch xù (…). Lại

những cảnh tượng rực rỡ xa hoa trong các nơi thành thị, những công sở, những biệt thự,

những lâu đài kiến trúc, kinh phí hàng năm kể vạn kể triệu. Thế mà cái chính sách của quan

thủ hiến Đông Dương chỉ mong cho lũ dân nghèo có bt gạo thứ hai thì cũng hẹp hòi lắm

ru?...” [60, tr.342]

Đúng là giọng điệu của Ngô Tất Tố, và cũng chỉ có Ngô Tất Tố mới có thể viết được

những câu văn thẳng thắn đến vậy. Ông nổi tiếng là người nhìn xa, trông rộng, với con mắt

tinh tường. Ông biết bọn thực dân Pháp qua đây không phải với thiện chí, thiện tâm gì.

Nhiều người ở bổn quốc vốn là những tay bồi bếp, những kẻ không công ăn việc làm nhưng

sang Đông Dương cũng vênh vang lên mặt và vơ vết cho đầy túi tham. Chúng biến nước ta

thành thuộc địa, khai thác tài nguyên khoáng sản của ta, bóc lột sức lao động của nhân dân

ta để làm giàu cho chúng vậy mà còn giở giọng giả nhân giả nghĩa “mong cho một người

dân nghèo nhất xứ Đông Dương cũng có bát gạo thứ hai”. Ngô Tất Tố không ngần ngại

phanh phui, phân tích để phơi bày ra xem tấm lòng nhân đạo đó sâu được bao nhiêu hay chỉ

là “chiêu bài” đánh lừa người dân An Nam hãy tiếp tục cam chịu, nhẫn nhục và cống hiến

cho chúng.

Văn Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố còn là một phòng triển lãm những bức chân dung được

phác thảo theo kiểu biếm hoạ của giai cấp thống trị và những kiểu người điển hình trong xã

hội cũ.

Ngô Tất Tố đối với bọn thực dân khi thì ông gọi một cách chung chung “ông Tây”, khi

thì gọi thẳng những tên cá nhân cụ thể của chúng. Đối với người dân nghèo họ thường

không thể nhớ đến những cái tên cụ thể mà thường họ chỉ có thể gọi đó là ông Tây. Trong

Tiểu phẩm của mình, Ngô Tất Tố vẫn thường nhắc đến những hình tượng ông Tây “mũi lõ”,

“mắt xanh” là sự khiếp sợ của dân lành “Chỉ một cái danh từ ông Tây cũng đủ làm cho dân

quê chúng tôi rùng mình khiếp đảm mà tưởng tượng tới sự nóng nảy mạnh hơn của một ông

sen đầm” [Dẫn theo 33, tr.446] nhưng lại là niềm tự hào của những me Tây, chuyện “Cô

Tây Hoẻn” là một minh chứng. Chuyện rất hóm hỉnh và thú vị khi tác giả vạch trần văn hoá

hạ cấp của những tên lính thực dân trong sinh hoạt hàng ngày. Ngoài súng đạn, lưỡi lê và sự

thô bạo những người lính Tây còn cặp kè với những hạng gái được gọi là “me tây”, và Ngô

Tất Tố đã khéo léo phê phán cả hai loại người này “Một anh Tây lính mũi lõ râu xồm, mình

cao bụng phệ dắt chiếc xe đạp đi bên cạnh một người đàn bà phấn son sặc sỡ, quần áo lam,

giày cao gót, chiếc ô xanh biếc, chiếu xuống bộ mặt phấn bị mồ hôi loang lỗ, bộ răng trắng

nhom nhem khấp khyễnh như rã rụa, với bộp môi cong mỗi khi cười nói” [54, tr.127]. Một

sự thực không thể tránh đó là bọn Tây qua khiến cho nước An Nam ngày cang nhiều những

loại me Tây. Nhìn thì có vẻ như những chuyện cá nhân nhưng thực chất cũng là một vấn đề

chính trị xã hội. Nó khiến con người Việt Nam đặc biệt là những người phụ nữ, có khả năng

sinh ra những đứa con xinh xắn, học hành thành tài, vậy mà bộ phận này đang ngày càng bị

tha hoá, biến chất, bị mờ mắt trước đồng tiền, thành một trào lưu chạy theo lối sống đua đòi.

Đây là suy nghĩ của cô Tây Hoẻn, đại diện cho những suy nghĩ chung của những me Tây

trong xã hội “Rồi tôi sẽ dắt díu cho lũ trẻ làng ta ra ngoài ấy, dạy dỗ cho tiếng Tây thông

thạo, phấn son vào, ăn mặc vào rồi mối manh cho khéo, bùa thuốc cho linh, thay quyền cha

mẹ chúng mà gã bán cho Tây, thì phải biết là kha” [59 tr.130]. Ở đây, Ngô Tất Tố đã đặt ra

một vấn đề mang tính xã hội, nếu ai cũng suy nghĩ như thế này thì xã hội sẽ ra sa? Đạo đức

và văn hoá người Việt sẽ ra sao?

Như trên đã nói, trong những trường hợp cần thiết, ông còn gọi thẳng tên những cá nhân

cụ thể, đả kích trực tiếp mà không hề e dè, sợ sệt. Nào là Tholance đại nhân, thủ hiến Bắc kì

Pagès, lao công đại sứ Godart, nhân viên sở thương chính Dauret…

Ngô Tất Tố phê phán tính chất bất nhất của Pagès trong việc trục xuất các nhà báo Diệp

Văn Kì và Bùi Thế Mỹ bằng một câu hỏi sâu sắc “Thế ông thống đốc Pagès năm nay phản

đối ông thống đốc Pagès năm ngoái à?”. Hỏi nhưng nhằm khẳng định, mỉa mai, nhằm vạch

rõ sự thiếu nhất quán trong việc giải quyết vấn đề của một viên thống đốc.

Trong Tiểu phẩm “Ơng thống sứ với trận mưa hôm nọ”, Ngô Tất Tố đã dùng lối miêu tả

độc đáo, kể chuyện xưa để so sánh với chuyện nay, qua so sánh, bản chất của hiện tượng

được thể hiện một cách rõ ràng trên trang giấy

Các bạn nghĩ coi, quan nhỏ mọn như Trịnh Hoằng còn làm náo động lòng trời huống chi

Tholance đại nhân, một vị thủ hiến Bắc kì đại diện cho cả hai chính phủ Nam triều và Pháp

quốc, sự ở, sự đi của ngài há chẳng phải xoay được mệnh trời hay sao?

Dù trong lúc nhậm xứ này, ngài không thèm làm những việc như Trịnh Hoằng đã làm,

nhưng cái chánh tích của ngài cũng có nhiều điều đáng ghi chép: ngài đã chửi cái báo quốc

văn mà ông Robin thầy ngài đã khen- làm cho các báo quốc văn nhất tề không dám đăng lời

diễn thuyết của ngài. Chính ngài đã làm giàu cho một tiệm kim hoàn trong khi ái nữ của

ngài được thành gia thất và chính ngài đã trích bạc vạn ở tỉnh Bắc kì để nuôi nhà ông Lê

Thăng cái nhà chưa có ích gì cho dân Bắc kì” [59, tr.89-90].

Ngô Tất Tố thích nói thẳng, nói thực, không hề úp mở. Với cách nói nhẹ nhàng, tưởng

như đang kể công nhưng thưc chất là luận tội, tội nặng nhất là lấy công quỹ dùng vào việc

riêng. Tuy là người đại diện cho cả hai chíng phủ, Nam triều và Pháp quốc nhưng chưa làm

một điều gì có ích cho dân. Chính vì vậy mà khi ông ra đi trời đã đổ một trận mưa nhưng

không phải “mưa theo xe” như Trịnh Hoằng, mà là mưa để rửa hết vết nhơ nhuốc mà ông

Tholance trong thời gian làm việc ở đây đã để lại. Một trận mưa trả lại bầu không khí sạch

sẽ cho dân lành. Người đọc ngày nay khi đọc xong câu chuyện này thường có chung một

thắc mắc, với sự kiểm duyệt gắt gao, thực dân Pháp sẵng sàng bỏ tù, thậm chí giết chết, tại

sao Ngô Tất Tố có thể phê phán một cách thẳng thắn như vậy. Đó chính là dũng khí của một

người mang cốt cách của người cách mạng. Tuy còn nhiều điều hạn chế trong cách nghĩ,

đặc biệt ở tư tưởng cải lương, cho rằng chỉ cần người trí thức là có thể cải tạo được xã hội,

nhưng chúng ta vẫn có thể nhận ra Ngô Tất Tố sinh ra là để cho cách mạng và trong thực tế

đến 1945 ông đã thực sự gia nhập cách mạng.

Ngô Tất Tố còn chỉ ra cách làm việc vô lý, coi thường luật pháp của bọn thực dân thông

qua hành động của tên nhân viên sở Thương chính, ông Dauret. sự xấu xa, độc ác của hắn

hiện rõ trên trang giấy của Ngô Tất Tố:

Ơng Dauret có đem một bọn tuỳ tùng đến làng Ngãi Châu để khám muối lậu. Nhưng cái

làng vô lễ không biết chiều ý nhân viên nhà Đoan, trong khi ông này đến khám họ dám

không có một hột muối lậu nào cả

Chừng đã cáu về tội đã làm cho mình phải lặn ngòi ngoi nước tới nơi mà không kiếm được

chút tang vật gì xin bắt phạt họ để lấy hoa hồng. Ong Dauret liền sai lũ người tuỳ tùng

phóng hoả đốt ngôi đền của làng ấy. [58, tr.258-259]

Giọng văn châm biếm sâu cay, vạch trần sự cậy quyền cậy thế, sự lộng hành của lũ cướp

nước. Ẩn sau câu chữ là thái độ tình cảm, là sự căm thù tột độ của Ngô Tất Tố

Không chỉ đi vào lột trần bản chất, sự xấu xa, sự đê tiện của bọn thực dân, mà sâu xa

hơn, Ngô Tất Tố còn vạch rõ thủ đoạn thâm độc của chúng trong việc cai trị nước An Nam

nhỏ bé nhưng lại là vùng đất “bờ xôi ruộng mật” này.

Một trong những hạn chế của văn học hiện thực phê phán là không trực tiếp đánh thẳng

vào bọn thực dân cướp nước, kẻ thù số một của dân tộc. Trong những điều kiện mới của

Mặt trận Dân chủ, Ngô Tất Tố đã phần nào khắc phục được những hạn chế trên. Ông trực

tiếp lên án những luận điệu tuyên truyền lừa bịp của bộ máy tuyên truyền thực dân cũng như

của lũ bồi bút Quỳnh, Vĩnh về cái gọi là “công ơn khai hoá văn minh của nước đại Pháp đối

với dân An Nam” ông viết : chẳng ai dùng đến chữ “đánh chiếm”, người ta bảo đó là công

cuộc rất nhân đạo của mấy nước văn minh, vì thiên chức mà khai hoá cho các dân tộc dã

man … hễ mà mở miệng trước là lũ dân bị chinh phục, mấy ông văn minh không bao giờ

quên cái giọng chứa chan nhân nghĩa ấy. Tôi đang thành tâm kính phục cái nhân đạo của

mấy ông đó mà muốn tin rằng ở trên đời này chỉ có cuộc khai hoá không bao giờ có cuộc

đánh chiếm. Thế nhưng tôi vẫn còn phân vân và tự hỏi thầm: nếu quả như vậy thì ra cái

trận Au châu đại chiến 1914 cũng do mấy ông Nhật nhĩ nam định khai hoá cho nước Pháp

à?” [60, tr.366-367].

Không phải ai cũng sáng suốt để nhìn thấu tâm gan kẻ thù như Ngô Tất Tố. Ông không

muốn chỉ riêng mình nhìn thấy mà còn muốn cho mọi người cùng thấy. Chính vì thế ông đã

chọn thể loại ngắn gọn, giàu tính chiến đấu này để đấu tranh chống lại sự bịp bơm, thủ đoạn

nham hiểm của thực dân Pháp.

Trước hết Ngô Tất Tố vạch ra cho mọi người thấy, những thủ đoạn khai thác thuộc địa

của thực dân Pháp về kinh tế, chúng bóc lột nhân dân ta đến xương tuỷ, chúng ăn sung, mặc

sướng trên mồ hôi, nước mắt và máu của nhân dân ta “những quan lại công chức hàng năm

có biết bao gia đình khi nheo nhóc kéo sang, chẳng bao lâu đã phởn phơ kéo về, hành lí kĩu

kịt lại biết bao những tài chủ, nghiệp chủ và điền chủ cùng những danh công, đại thương,

lập nên những công ty vĩ đại, những cổ phần, những thương phiếu trên thị trường quốc tế có

một địa vị cao quý” [60, tr.335-336].

Ngô Tất Tố khẳng định công cuộc khai hoá thực chất là làm giàu cho chính quốc và tất

cả những lời hứa hẹn của thực dân Pháp đều là những lời hứa hão huyền, nhằm ru ngủ

những người dân nhẹ dạ cả tin. Trên thực tế, một mặt chúng thi hành các thủ đoạn vơ vét,

mặc khác thả nổi việc quản lý giá cả sinh hoạt, để cho bọn đầu cơ tha hồ thao túng. Vậy

nhưng trong các bài diễn văn chúng vẫn không thôi diễn lại những trò nhân nghĩa với những

cái tên rất hiện đại “thời kì kinh tế phục hưng của xứ Đông Dương”. Ngô Tất Tố đau đớn

lên tiếng “nếu như cái ngày những đồ ăn dùng đắt đỏ mà có thể gọi là kinh tế phục hưng thì

xứ Đông Dương thật xứng đáng nhận lãnh cái danh từ tốt đẹp ấy” [60, tr.149], Hơn ai hết

Ngô Tất Tố hiểu rằng nó chỉ có lợi cho bọn tư sản, bọn nhà giàu, đã giàu lại giàu thêm nhờ

buôn bàn cắt cổ. Còn những người dân vô sản, thời kì kinh tế chưa được gọi bằng những

ngôn ngữ đẹp đẽ “phục hưng” đã khổ lắm rồi, đã đói lắm rồi, nay lại còn bày ra cái kiểu

phục hưng vô nhân đạo này thì càng đói khổ gấp bội. Ngô Tất Tố đã vẽ lại hình tượng người

nông dân vô sản dưới thời kinh tế phục hưng như sau “những người gầy như con hạc,

những người mặt bủng da chì, những người hai mắt mòng mọng, đều là những nhà bác sĩ

đã phát minh ra cách dùng rau lang, rau má thay cơm, mà tự do họ đã thí nghiệm bằng bản

thân họ vậy”[60, tr.152]. Từ thương xót người dân vô tội, Ngô Tất Tố càng căm thù bọn

thực dân, ngòi bút chiến đấu của ông lại mạnh mẽ hơn trước “phải đánh nhanh, đánh gọn,

đúng đối tượng, đúng chỗ hiểm, đánh thật mạnh, có thể một gậy chất tươi” [33, tr.430], từ

đó ông đi sâu hơn vào những âm mưa thủ đoạn thâm độc của kẻ thù.

Để thực hiện được mục đích của mình, thực dân Pháp tung ra những khẩu hiệu “Pháp-

Việt đề huề”, “Pháp-Việt hiệp tác thân thiện”. Nhưng theo Ngô Tất Tố “Một kẻ nằm trên

giường, một người nằm dưới đất, một kẻ ăn thịt, một người gặm xương thì cái tinh thần thân

ái còn lâu mới thắm thiết đươc” [60, tr.345]. Hoàn cảnh khác nhau, bản chất khác nhau, một

kẻ thật thà thì làm sao có thể thân thiện hay hợp tác được với một kẻ đầy dã tâm. Bàn thêm

về vấn đề “hiệp tác”, Ngô Tất Tố đã dẫn lại nguồn tin trên báo Dân mới trong Nam cho biết:

việc tên quản lý một sở điền Tây là Robital, cùng với một người Tây lai tên là Philippe, và

một người tây đen, giả xưng là quan chủ tỉnh. Ba quan ba xét thuế thân, rồi bắt sáu, bảy

chục người về gặt lúa cho chúng. Vì kẻ bị bắt đi người không, nên quan lính giả hiệu hoành

hành đánh đập dân ngu giữa chợ Phố Sinh. Qua đó Ngô Tất Tố khẳng định:

Dân quê chúng tôi sống trong cảnh u uất tối tăm, chịu thiếu thốn chật hẹp về công lý, nhân

đạo đã quen, nên đã chẳng lấy làm lạ, mà lại còn nhận là một sự dĩ nhiên nữa. Chỉ một cái

danh từ ông Tây cũng đủ để dân quê chúng tôi rùng mình khiếp sợ (…) đối với những công

chức của chính phủ, họ đã in sâu trong óc là những giống sái lang bạo ngược. Ay pháp luật

và chính trị xứ này đã huấn luyện cho chúng tôi một cái tinh thần đặc biệt ấy! “hiệp tác”

sinh ra “hiếp tác” cũng vì thế! [60, tr.342-343].

Nếu ai cũng biết nghĩ như Ngô tất Tố thì thực dân Pháp còn biết lừa ai nữa?

Không chỉ mị dân bằng những câu khẩu hiệu trống rỗng, chúng còn thi hành chính sách

ngu dân, mà cụ thể là lôi cuốn nhân dân vào những phong trào phục cổ, bảo tồn quốc túy,

phong trào chấn hưng phật giáo, và truyền bá mê tín dị đoan, phong trào vui vẻ trẻ trung.

Ngô Tất Tố đã dùng tiểu phẩm của mình đả kích mạnh mẽ vào những phong trào nhằm ru

ngủ nhân dân trong cuộc sống nô lệ này, qua các tác phẩm : Mười năm nữa báo chí bắc kì sẽ

cổ động đến thò lò quay đất; Hỡi đồng bào Việt Nam chúng ta nên vẽ mình cho con cái

chúng ta; Cái ngày quốc tuý; Kiểu đất ở phố Hàng Trống; Họ lại kiếm ăn vào nắm xương

khô, Phải hỏi ngôi đền ấy thờ ông nào đã; Có lẽ là cuộc đấu phép; Chuyện hàng ngày; Xin

nhờ Lơ muya Cát Tường việc này nữa; Quan tỉnh Bắc Giang đối với ba ngàn cơ dân… Các

tác phẩm này của Ngô Tất Tố một mặt lột trần bộ mặt nham hiểm của bọn thực dân, một

mặt thức tỉnh tinh thần yêu nước, thà chết chứ không chịu làm nô lệ của nhân dân. Bài trừ

và đánh thức luôn là hai mục tiêu hàng đầu của tiểu phẩm nói chung, những sáng tác của

Ngô Tất Tố nói riêng.

Không chỉ tố cáo những thủ đoạn tuyên truyền lừa bịp, ngu dân mị dân, Ngô Tất Tố còn

vạch trần những âm mưa đầu độc bằng rượu, thuốc phiện, nhà săm, vi trùng hoa liễu, làm tê

liệt ý thức phản kháng, nhằm đẩy thanh niên vào con đường truỵ lạc, nhằm đưa đất nước

đến chỗ diệt vong. Để dễ dàng cai trị nước ta, chúng đầu độc đàn bà con gái và thanh niên,

những tầng lớp có khả năng sinh sản và đấu tranh xã hội. Đàn bà con gái thì mại dâm và

phần lớn đều mang trong mình vi trùng hoa liễu, thanh niên thì rượu và thuốc phiện. Những

điều lớn lao này hầu như các nhà văn có lương tâm đều dễ dàng nhận thấy, Vũ Trọng Phụng

cũng từng viết phóng sự và cả tiểu thuyết như: Lục xì, Làm đĩ, Cạm bẫy người, Giông Tố…

vẽ lên một xã hội Việt Nam bị đầu độc đến nỗi nhìn đâu cũng đầy rẫy những bức chân dung

gái điếm, bọn cờ bạc bịp, vi trùng hoa liễu, rượu và thuốc phiện. Cũng với nội dung phản

ánh đó nhưng Ngô Tât Tố chọn thể văn ngắn gọn, giàu tính chiến đấu. Tiểu phẩm của ơng

cũng dnh cho người đọc tự suy nghĩ như phĩng sự Vũ Trọng Phụng, nhưng để dịnh hướng,

dẫn dắt người đọc, Ngô Tất Tố còn đưa ra những lời bình luận sâu sắc, hài hước, mỉa mai.

Cch viết ny giúp người đọc dễ tiếp thu hơn tạo được con đường ngắn hơn để nâng cao nhận

thức tình cảm của họ. Hơn nữa các nhà văn cùng thời đều cho rằng việc thanh niên hư

hỏng, thuốc phiện và gái mại dâm là do hoàn cảnh xã hội, là do những phong trào vui vẻ, trẻ

trung, đặc biệt do sự giáo dục của nhà trường, chưa dạy giới tính cho học sinh. Riêng Ngô

Tất Tố với con mắt tinh đời của một nhà nho ông cho rằng thủ phạm chính là thực dân Pháp.

Ông đã tìm hiểu và đưa ra hai hình ảnh tương phản:

Ở nước Pháp “Thuốc phiện bị coi như một món thuốc độc, làm hại giống nòi. Bất cứ hút,

chỉ dắt một hộp thuốc phiên trong mình- dù là thuốc phiện của nhà Đoan Đông Dương mặc

lòng- đã phải ngồi tù hơn ba tháng rồi. Nếu số thuốc phiện nhiều hơn thì hạn tù cũng phải

dài hơn. Người ta nói ở bên ấy kiếm được thuốc phiện mà hút là sự rất khó” [60, tr.451]

Trong khi đó ở xứ Đông Dương:

Khắp các thành phố trong nước An Nam, mà cả Ai Lao, Cao Miên, những chỗ đã có vết

chân người Nam bước tới cũng vậy, thành phố nào cũng có những tiệm công yên (tức thuốc

phiện). Tuy rằng chính phủ chưa từng cho phép nhưng mà người ta vẫn mượn cái môn bài

tiệp trà để mà chiêu tập dân nghiện một cách công nhiên. Tại những thành phố sầm uất như

Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng mỗi nơi kể có hàng trăm tiệm. Nòi giống Rồng Tiên nhà ta từ

đàn ông cho đến đàn bà, từ người già đến người trẻ tha hồ ngửi hút, không bị ngăn cản một

chút nào hết [60, tr.450-451].

Ở nước Pháp “chính phủ lại chống nạn rượu bằng cách hạn chế số tiệm bán rượu và cứ

mỗi trăm lít rượu dùng để chế rượu khai vị, sẽ bị đánh thêm 300 quan tiền thuế” [60,

tr.452]. Còn ở thuộc địa, chính phủ chẳng những không cấm mà lại còn khuyến khích. Thậm

chí còn “được lệnh cưỡng bách cho uống là khác” vớí cách thức “Có nơi xin phép giết một

con bò phải có cái bông đã mua mấy chục chai rượu mới được. Mỗi suất đinh mỗi tháng

phải uống đủ một chai rượu, nếu kém tổng lý sẽ bị các quan phủ huyện quở trách” [60,

tr.452].

Nhận ra được âm mưu độc ác của kẻ thù, Ngô Tất Tố phân tích sự nguy hại của âm mưu

đầu độc bằng thuốc phiện. “Đối với dân tộc “dã man” đã bị người văn minh chinh phục,

thuốc phiện là một đạo giáo tốt đẹp có thể đưa họ đến cực lạc:

Đức chúa phù dung là đấng vạn năng, ngài đủ quyền phép làm cho đứa con chiên của ngài

trở nên hạng người từ bi ngoan ngoãn. Bởi thế tất cả những người tu theo tôn giáo “a

phiến” đều chừa được tội “hăng hái”, “tiến thủ”, nhất định để nghĩa vụ loài người đến kiếp

sau mới làm. Giả sử đạo giáo ấy mà được lan rộng thì những dân tộc “dã man” không bao

giờ còn xảy ra chuyện chính trị. Họ sẽ im lặng mà đem nòi giống lên cõi cực lạc để hưởng

cái hạnh phúc “tịch diệt” [60, tr.333]

Trong bài “Một hạng con nuôi của ả phù dung”, Ngô Tất Tố cũng khẳng định ma lực

của thuốc phiện:

Chẳng những nó có đủ sức để đưa cửa nhà, ruộng đất của người ta vào cái dọc tẩu mà còn

đủ phép làm cho người ta mất nhuệ khí, mất nghị lực, có khi mất cả nhân cách là khác.

Vì vậy, những người đã trót dan díu với nó, ai cũng dẫy dụa, muốn được li dị để sống lại cái

đời tự do của mình. Nhưng vì ma lực của nó rất thiêng nên không mấy người đứt tình lìa

thoát, thành ra người ta cứ phải ngậm cay nuốt đắng, phó tấm thân cho nó dày vò [59,

tr.190].

Sự nguy hiểm của nó không thể lường được, nó không chỉ phá huỷ trong tức thời mà còn

phá huỷ lâu dài đối với vận mệnh của đất nước. Nó biến nước ta thành một nuớc nô lệ vĩnh

viễn. Theo thống kê của Nguyễn Đình Lạp, chỉ tính riêng ở Hà Nội vào năm 1937, có sáu

ngàn gái điếm trong số mười tám vạn dân, một trăm nhà săm, ba trăm tiệm hút, bảy sòng

bạc lớn. Với số liệu kinh khủng như vậy, Ngô Tất Tố khẳng định “cứ để cho các nhà săm,

nhà chứa và nhà cô đào tự do hoành hành vài chục năm nữa thì vi trùng hoa liễu sẽ có thể

dần dần làm tiêu tất cả dân tộc Việt Nam, không phải thêm một điều kiện nào khác” [60,

tr.402]

Nhìn chung, thực dân Pháp sử dụng muôn nghìn vạn kế để cai trị nước ta, để làm ngu

muội và trụy lạc nhân dân ta, làm cho nhân dân ta lâm vào cảnh sống dở chết dở. Tội ác của

chúng chất chồng như núi nhưng không phải ai cũng có thể nhìn thấy được. Ngòi bút của

Ngô Tất Tố luôn tỉnh táo, và đóng góp to lớn, đáng khâm phục của ông chính là vạch trần

được mọi âm mưu, thủ đoạn đê hèn của bọn thực dân cướp nước, Tính chiến đấu của thể

(cid:31)

văn tiểu phẩm được khẳng định rõ rệt.

Đả kích bọn quan lại, địa chủ phong kiến, và bọn bồi bút tay sai

Chống giặc ngoài đã khó, thù trong còn khó hơn. Hiểu được nhiệm vụ nặng nề này, Ngô

Tất Tố đã tập trung chĩa mũi nhọn tấn công vào lực lượng quan lại phong kiến, bọn đầu cơ

chính trị, và lực lượng bồi bút, làm tay sai, làm công cụ tuyên truyền cho giặc.

Đối với bọn quan lại, chăn dân mà lại làm hại dân, người Việt Nam mà lại bán nước Việt

Nam, cam tâm làm tay sai cho kẻ thù, Ngô Tất Tố không chỉ phẫn nộ, căm thù mà còn

khinh khi, miệt thị.

Quan lại, địa chủ phong kiến được Ngô Tất Tố lên án toàn là loại sâu dân mọt nước.

Thường là những loại người cơ hội, nịnh bợ và mua quan bán tước. Trong tiểu phẩm

“Người có danh vọng trong làng”, Ngô Tất Tố đã miêu tả con đường hoạn lộ đầy suôn sẻ

của một tên quan lại

Bước công danh của ông thoăn thoắt tựa bậc thang, không bao giờ vấp xảy, từ ông khoá

mãi (khoá sinh mua) tới ông lí quyên (quyên tiền cho làng mà được) rồi tới ông bá quốc

(quốc trái) rồi đến chức hàn lâm ông đương cậy cục thực dễ dàng, đó là nhờ ở sức đồng

tiền mồ hôi nước mắt của người trong dân nhân lúc cha mẹ lâm chung hay buổi sưu thuế

cập kì ông lên một vốn bốn lời cho đẫy túi [59, tr.118].

Ngô Tất Tố mỉa mai “ông hết sức theo đuổi công danh một cách hăng hái, dù bán gia tài

mua lấy danh phận ông cũng chẳng từ, ông hết lòng mến phục các quan trên, từ ngày giỗ

mọn cho đến ngày tết to, trong các quan trên tỉnh dưới huyện không bao giờ vắng được mặt

ông, mà những đồ lễ của ông đưa đến bao giờ cũng được hơn người, ai cũng phải khen là

một người lịch sự phúc hậu, không cái kiện nào là cái kiện ông bị thua ai, mặc dù ông trái

mười mươi cũng vậy”[59, tr.119].

Đấy cũng là quan nhưng là quan tiền, tất cả đều cậy ở đồng tiền. Những loại quan như

thế này dân làm sao có thể sống cho xứng được. Người đã luôn dùng tiền mua quan, bán

tước, xử kiện vì tiền thì kẻ không có tiền bị họ xem là gì? Mà đã là người dân đen, quanh

năm “chân lấm tay bùn”, kiếm ăn từng bữa vẫn không đủ no thì lấy tiền đâu ra mà hầu

quan? Thế nhưng những loại quan kiểu này vẫn nhan nhản trong xã hội,

Sau khi mua được quan được tước, chúng lại bắt đầu tham ô, ăn cắp công quỹ hoặc bóc

lột của dân để gỡ “vốn” và làm giàu. Ngô Tất Tố viết bài “Yêu cầu một cuộc điều tra cách

làm giàu của quan lại An Nam” để vạch tội chúng. Ông bao giờ cũng là người soi thấu bản

chất của sự vật hiện tượng. Những vấn đề ông đặt ra trong tiểu phẩm của mình đều là những

vấn đề thiết thực. Ông cho rằng “đối với chính phủ, quan lại chỉ là kẻ thừa hành mệnh lệnh

nhưng về phương diện khác, quan lại lại là một nghề làm giàu rất mau chóng”. Rồi ông

phân tích kĩ hơn về vấn đề này: “Một ông hậu bổ kiết xác, thường qua quan trường một

vòng độ ít lâu tức thì có ô tô, có nhà lầu, có đồn điền, có tiền gửi ngân hàng nghiễm nhiên

là một nhà triệu phú. Trong thời kì ấy vợ rong chơi, con lêu lổng, gia đình suốt năm không

kiếm ra xu nào, cách ăn tiêu thì xa xỉ gấp trăm lần người khác” [59, tr.81]. Như thế có

nghĩa là cả gia đình chỉ có một người có công ăn việc làm, vậy mà không chỉ đủ ăn đủ mặc,

mà còn ăn sang, mặc đẹp, lại còn tiêu xài rất xa xỉ. Ngô Tất Tố còn kĩ càng điều tra về

lương bổng công chức để thêm một lần khẳng định sự giàu có của quan lại là không bình

thường: “Tri huyện tập sự mỗi tháng tám chục đồng, tổng đốc hạng nhất hơn ba trăm đồng

một tháng, ở các ngạch khác cũng có những chức lương bổng tương đương như vậy” và ông

đưa ra nghi vấn : “lương tháng của họ nuôi vợ nuôi con chưa đủ, cái giàu có kia ở đâu mà

ra?” [59, tr.81]. Càng phân tích càng thấy bất hợp lí, những gì bất thường đều không thể

bưng bít, đặc biệt không thể qua được đôi mắt tinh tường của Ngô Tất Tố, việc làm giàu của

quan lại là hoàn toàn bất chính, là bòn rút của dân “một quan lại đạt được mục đích làm

giàu, mấy nghìn dân chúng mất cơ, mất nghiệp”. Ngô Tất Tố lên án một cách gay gắt

“Quan lại là một phần nguyên nhân trong nỗi thống khổ của dân chúng. Quan lại giàu có

bao nhiêu, dân chúng khổ bấy nhiêu” [59, tr.81]. Nói thẳng, nói thật, nói không cần che giấu

đó chính là tính cách con người của Ngô Tất Tố và đây chính là một “đòn chí mạng” đánh

thẳng và bộ máy quan lại, là lời buộc tội, lời tuyên án đối với những kẻ đục khoét còn hơn

cả loài chuột.

Nói quan lại tham ô, bóc lột, bòn rút của dân là không sai nhưng chúng bòn rút bằng

cách nào? Trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, ta thấy chúng bòn rút đủ kiểu, hễ bóp được là

chúng bóp. Ngô Tất Tố phơi bày những thủ đoạn của chúng trước công luận:

Quan lại tham nhũng là những kẻ bóp dân như bà cô bóp con cháu à? Thủ đoạn của họ cực

kì mầu nhiệm, họ đã bóp người nào thì người ấy không thể không lè lưỡi ra, lè lưỡi cho đến

khi có đồ cúng họ… Thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề vẫn là những thứ kẻ quê rất sợ,

song chưa nguy hiểm cho dân bằng họ. Bởi thần, ma, cú, cáo quấy nhiễu có thể dùng mũ mã

mà cúng tiễn, muối gạo mà tống đi. Chứ đến những ông quan lại tham nhũng quấy nhiễu thì

không thể tiễn bằng mũ mã, cũng không thể tống bằng gạo muối [58, tr.223]

Ngô Tất Tố còn viết những tiểu phẩm kể rõ sự đê tiện của quan lại, địa chủ trong việc

bóp nặn dân. Tiểu phẩm “Họ vẫn ăn vào cái xác chết” kể về việc “làm tiền” của ông Lý Bá

từ một xác chết của người ăn mày xấu số ngoài chợ. Lợi dụng xác chết, lão Lý Bá cho gọi

người chủ gian hàng quà bánh, nơi xác chết người ăn mày đang nằm, đến dọa này, dọa nọ

khiến cho người nọ sợ khiếp vía ra lời xin lão cứu giúp. Đương nhiên muốn giúp thì phải bỏ

tiền ra. Lừa được người này, lão lại sai tuần phu khiêng xác chết qua gian hàng bác Khướu

bán thịt lợn. Và lại gọi người chủ kia đến, lại dọa là người ăn mày chết vì bệnh dịch tả, nếu

tin ấy ngày mai đồn ra thì bác khỏi làm ăn. Hoảng quá người bán thịt lại van xin cứu giúp,

và tiền lại vào túi Lý Bá. Sau đó xác chết lại được chuyển sang làng khác, và rồi lại tiếp tục

sang các làng lân cận, có nghĩa là làng nào quan lại, địa chủ cũng có cái kiểu đối xử tàn

nhẫn, bất nhân đối với người chết và đê tiện đối với người sống như thế. Đúng là kiếm tiền

bằng mọi cách kể cả cái xác chết cũng vẫn tận dụng tối đa. Ngòi bút của Ngô Tất Tố như có

dao kiếm, làm rát mặt bọn quan lại, địa chủ và làm đau đớn bao trái tim người đọc.

Tham ô có, ăn chặn có, lừa đảo có, thậm chí ăn cướp cũng có, nhưng ăn cướp đây là ăn

cướp ban ngày, ăn cướp công khai, đúng như câu ca dao:

“Con ơi nhớ lấy câu này.

Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”

Thế mà số đông vẫn bưng tai bịt mắt. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã phần nào cho chúng

ta thấy điều phi lí đó. Thủ đoạn ăn cướp của quan lại, địa chủ là muôn hình vạn trạng. Đây

là một trong những thủ đoạn tiêu biểu bị Ngô Tất Tố lật tẩy:

Một bọn cướp mươi lăm đứa, đủ giáo mác, sào gậy xông vào, bưng cổ, chẹn họng lấy hết

tiền nong, đồ đạc mà ra. Sáng hôm sau, chánh phó tổng, quản xã, kì mục, hương hội, tuần

phiên kéo tới nhà sự chủ chừng hai ba chục người để khám xét và lập biên bản. Cái biên

bản đó lập xong hay không xong, sự chủ hãy tổn phí về cơm rượu, thuốc xái để cung cho

bọn cướp ngày đã. Bọn lân bang, bọn tuần phiên muốn đỡ lôi thôi, tất phải có chè lá với

tổng lý thì trong biên bản mới nhẹ lời thắt buộc về đường cứu ứng. Sự chủ lại phải đưa tiền

cho lý trưởng đi trình quan, tiền ăn uống, xe pháo, tiền tem, tiền lễ thầy thừa, thầy lục, nha

lại và quan. Nếu thiếu thì cái tờ trình ấy, cái biên bản ấy bị bác là làm không đủ lý, phải về

làm lại, sự chủ muốn tránh số tiền phí tổn to kia, tất phải bán đường dài mua đường ngắn

bằng chút “vi thành”. Tiếp tờ trình ấy, quan bản hạt, hoặc thân hành đi, hoặc phái lục sự

đi, lại về khám biên một lần nữa. Thế là sự chủ lại khốn đốn về sự cung đốn lần nữa! Mất

của xót ruột, trông người tưởng ma, sự chủ bèn cung tình nghi cho thằng này thằng khác.

Bọn tình nghi bị bắt, muốn tìm cách gỡ mình, lại tiêu xưng ra dăm bảy anh nữa. Thế là một

vụ cướp đêm lại xảy ra năm bảy vụ cướp ngày nữa. Rút cuộc sự chủ mất của vẫn hoàn mất.

[60, tr.275-276]

Việc làm này của quan lại, địa chủ đúng là một kiểu cướp ngày. Người dân đang chết

đuối, đã không cứu còn đẩy cho chết luôn. Không báo quan thì chỉ bị một lần cướp, của mất

ít, còn báo quan thì thêm một lần cướp thứ hai, vét nốt số của cải còn lại mà dâng cho bọn

cướp ngày. Nhưng phải công nhận một điều: “cướp ngày” bao giờ cũng trơ trẽn hơn cướp

đêm!

Trong tiểu phẩm của Ngô Tat Tố hiện lên đủ thứ quan. Quan to có, quan nhỏ có, mỗi

loại quan đều được ông chĩa mũi nhọn ngòi bút của mình vào mà công phá. Tất nhiên Ngô

Tất Tố chẳng bỏ sót ai, kể cả hạng “nho” ở các phủ huyện. Hạng người này, Ngô Tất Tố gọi

là “một loại người sống lẩn lút trong hàng nha lại ở các phủ huyện, không có quyền hành,

trách nhiệm gì mà cũng chẳng có lương bổng gì, chỉ nhờ cái tài bợ đỡ luồn lọt mà sống trên

lưng kẻ khác bằng cách giả dối, lường gạt, mối lái cho việc hối lộ, làm ngòi cho việc thưa

kiện, ung dung được cơm no áo ấm quanh năm” [59, tr.145]… Xuất xứ tầm thường như thế

nhưng chúng cũng rất vênh váo, trong việc giao tiếp với người ở nha môn, hễ thấy người

dân nghèo rách rưới là chúng “khinh nhờn, rẻ rúng, đối đãi bằng cách cộc láo trắng trợn,

níu lấy áo, giằng lấy đơn, dè bỉu là ngu là dốt” [59, tr.145]. Còn đối với những người trông

có vẻ phong lưu, chúng lại thay đổi ngay thái độ “giả bộ trọng vọng kính cẩn, gây cảm tình

bằng những cách nịnh hót nhảm, làm thế nào cho người ta sai khiến bảo ban thì lấy làm

sung sướng lắm” [59, tr.146]. Như vậy bọn họ là những bọn người sống hai mặt rồi. Một

mặc hạch sách, ức hiếp, một mặt bợ đỡ. Cả hai mặt không có mặt nào sống xứng đáng là

một con ngườ. Có lẽ loài mà bọn chúng giống nhất là loài “tắc kè” đổi màu. Ngô Tất Tố

chửi thẳng mặt, và ông kêu gọi xã hội muốn tốt đẹp, muốn hưng lợi cho dân trước hết phải

trừ hết lũ sâu mọt, tuỳ thời này.

Một loại người nữa cũng bị lên án không kém phần quan lại địa chủ đó là bọn bồi bút tay

sai. Bọn này rất nguy hiểm và hậu quả mà bọn chúng gây ra cho đất nước An Nam cũng rất

gh gớm: phá hoại từ bên trong và phá hoại lâu dài. Ngô Tất Tố, với tư cách là một nhà văn

không xem bọn này ra gì. Ông gọi chung bọn chúng duy nhất một từ đó là bọn “vô lại”,

không chỉ vô lại mà còn “vô lại đến cực điểm”. Chữ “vô lại” theo từ điển Tiếng Việt có

nghĩa là “thiếu đạo đức, học thức và hành động ngang ngược bạo tàn” [4, tr.920]. Bọn này

thường là những kẻ cũng có máu mặt trong xã hội, luôn tìm những biện pháp để làm đẹp

lòng thực dân nhằm phục vụ cho mưu đồ riêng của mình. Với chúng quyền lực và đồng tiền

có thể sai khiến ngòi bút viết những điều giả dối, phi nghĩa.

Trong những tên bồi bút, quan lại tay sai, ta thấy Ngô Tất Tố chú ý và đả kích nhiều đến

Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Hai ông đều là trí thức Tây học, đều muốn đem hiểu

biết của mình cải tạo xã hội. Tuy nhiên suy nghĩ của hai ông không phù hợp với tình hình

đất nước ta lúc bấy giờ. Những lời giáo huấn, những bài báo của các ông đều có lợi cho sư

cai trị của thực dân Pháp. Tư tưởng trái với lòng dân, trái với cách mạng nhưng hai ông cứ

khăng khăng là đúng. Bởi các ông là những con người được thực dân đào tạo và nâng đỡ,

nên nhìn thấy nước mất, nhà tan mà vẫn cố tình làm ngơ lại còn biện hộ bằng những luận

điệu gần như mang tính phản động. Ngô Tất Tố, như trên đã nói là người nhìn xa trông rộng

lại có cốt cách một người cách mạng, phân biệt đúng sai, thị phi rất rõ ràng. Ông không ưa

hai ông Quỳnh, Vĩnh vì nhận ra ở họ cĩ những thủ đoạn giả dối, vờ vịt.

Trong hai năm từ 1930-1931, Ngô tất Tố viết mười bảy bài thì trong đó có bảy bài nói về

Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh. Trong đó ông tập trung vào Phạm Quỳnh. Ngô Tất Tố

đã gọi ông Phạm Quỳnh là “bạc tình lang” vì ông có tài “theo gió bỏ buồm”. Tập báo Nam

Phong đã thổi ông ta lên vù vù, tên tuổi Phạm Quỳnh chính là nhờ Nam Phong đưa lên cao.

Vậy mà khi tập báo gặp thời kì khó khăn, ông ta đành đoạn “ruồng rẫy ngay ả mà ôm ái

tình đi sang con đường chính trị (…) để cho ả sống dở chết dở, thoi thóp ngắc ngoải hai

tháng ra một số, ba tháng ra một số” [58, tr.32]

Bỏ tập báo Nam Phong sang con đường làm chính trị nhưng vẫn lớn tiếng cho rằng mình

chỉ làm van hoá, không làm chính trị. Tuyên bố không làm chính trị nhưng vẫn cho báo nghỉ

để soạn hiến pháp cho Trung Bắc kì. Thủ đoạn “Giấu đầu lòi đuôi” đó đã bị Ngô Tất Tố

vạch trần trong bài “Ông Thông Reo tiết lộ việc bí mật của ông Phạm Quỳnh”

Ông Thông Reo dám tiết lộ bí mật của ông Phạm Quỳnh”: “Tiên sinh Thượng Chi vẫn

tuyên bố không phải nhà chính trị mà lại nhè dịp sắp cĩ việc cải cách, xướng ra việc hiến

pháp là việc chính trị to như trời, vả lại hiến pháp không phải là hiến pháp trơn, hiến pháp

có đèo thêm việc giáo dục, lại nốii vào cái đuôi bảo tồn chữ quốc ngữ, để phá ngầm việc

sửa đổi chữ quốc ngữ của ông Vĩnh [58, tr.39-40].

Thực chất của việc này, theo Ngô Tất Tố và Phan Khôi, thì Phạm Quỳnh đang dòm ngó

chức Thượng thư Bộ học. Tài đấu đá cũng như với những thủ đoạn cơ hội, tuỳ thời đó thì

chức Thượng thư Bộ học chắc chắn vào tay của Phạm Quỳnh, thậm chí cĩ thể ông còn được

kiêm cả chức Tổng trưởng bộ lập pháp nữa. Lời văn của Ngô Tất Tố quả sắc nhọn, làm cho

đối tượng bị ê chề, nhục nhã một phen.

Không chỉ giữ một chức mà tien sinh Phạm Quỳnh một mình kiêm nhiều chức vụ, nhiều

trách nhiệm khác nhau. Trong bài “Phạm Quỳnh cãi lộn với ông Thượng Chi”, Ngô Tất Tố

đã phê phán:

Ở đời chỉ có cu cậu phường chèo là một mình có thể làm được đồng thời nhiều việc trái

nhau, vừa phường chèo, vừa phường trống, vừa tế viên, đông tán, vừa tế viên tây tán… Còn

Phạm phu tử là nhà học giả, dù có tài “theo gió bỏ buồm” mà một mình làm nên bấy nhiêu

chức tước trên kia, nhưng cũng không phải là người có bảy mươi hai phép hoá thân như

Dương Tấn ở truyện Phong thần, chắc không lẽ phút chốc ngài ngồi vào ghế Thượng Chi

mà chất vấn ông Phạm Quỳnh, phút sau ngài lại nhảy lên ghế ông Phạm Quỳnh mà đối đáp

với ông Thượng Chi [59, tr.48].

Chỉ ra sự vô lí đó, cuối cùng Ngô Tất Tố đưa ra việc ông Phạm Quỳnh viết hiến pháp mà

câu này mâu thuẫn câu kia. Ngô Tất Tố nĩi rằng đó là ông Phạm Quỳnh cãi lộn với ông

Thượng Chi. Ấy là hậu quả khĩ trnh khỏi của tình trạng một người kiêm quá nhiều việc khác

nhau.

Để lừa bịp quần chúng, thực dân Pháp lợi dụng những kẻ như Phạm Quỳnh, Nguyễn

Văn Vĩnh, Bùi Quang Chiêu,… Họ làm ầm lên quanh chủ trương “Trực trị”, “bảo hộ”, “lập

hiến”… Cả ba ông thi nhau đưa ra hiến pháp. Hiến pháp của họ Bùi chủ trương chỉ có hai

bộ chủ động: Chính phủ bảo hộ và nhân dân Việt Nam… Ông Quỳnh khi thảo hiến pháp

cho nước Nam cũng theo mẫu ông Bùi mà thêm vào hoàng đế Bảo Đại thành một cạnh nữa,

thành ra “hiến pháp chân vạc”… Tuy đi theo bước đường lập đảng của cụ Bùi, nhưng ông

Vĩnh quay về mặt quốc dân, lấy quốc dân làm tên đảng, chỉ thêm vào hai chữ đại biểu cho

người ta khỏi ngờ là đảng của hội kín Việt Nam. Mục đích của họ là đuổi nhau để tranh

giành quyền lợi và địa vị do chính phủ thực dân ban cho. Những việc làm hèn ha, nhục nhã

đó của họ đã bị Ngô Tất Tố phanh phui trước công chúng qua tiểu phẩm “Sau lưng cụ Bùi

Quang Chiêu, hai ông Quỳnh, Vĩnh đuổi nhau sồng sộc”. Họ bày ra các trò đó chỉ cốt là để

“Vinh thân phì gia”, chứ chẳng can hệ gì đến lợi ích của dân tộc cả.

Ngoài ra hai ông Quỳnh, Vĩnh còn bày trò qua mắt thiên hạ, thường xuyên xích mích với

nhau. Khi bàn chuyện cải cách thì mỗi ông giữ một ý. Rồi liên tục bút chiến dữ dội ở trên

báo. Đến nỗi tờ Ami du peuple (Bạn dân) đã đăng hình hai ông văn sĩ này đang đánh bốc

với nhau. Người ngoài nhìn vào ai cũng nghĩ mối quan hệ giữa hai người rất căng thẳng,

mâu thuẫn gay gắt. Nhưng riêng Ngô Tất Tố đọc ra ngay đây chỉ là một chiêu bài qua mắt

thiên hạ. Ngô Tất Tố bình luận: “Ơng Vĩnh và ông Quỳnh là bực khôn trẻ nỏ già khi nào lại

chơi kiểu dại dột ấy. Cứ ý mình tưởng thì hai ông Vĩnh, Quỳnh hồi này cũng có đánh chác

nhưng không phải đánh bốc, các ông ấy đánh bài Tây đấy” [59, tr.56]. Thực ra hai ông là

“cùng hội cùng thuyền với nhau” nhưng giả vờ bút chiến để đánh lừa thiên hạ và cốt để lấy

lòng chính phủ mà thôi.

Ngoài ba ông trên, Phạm Huy Lục cũng là một đối tượng thường xuyên bị Ngô Tất Tố

mỉa mai cay độc.

Từ chuyện ông này được bầu làm Viện trưởng Viện dân biểu Bắc kì. Ngô Tất Tố đặt ra

câu hỏi vì sao họ lại bầu ông Lục. Ngô Tất Tố đã tìm ra thủ đoạn của ông Lục. Không phải

vì ông Lục có học, hay do dân bầu ra mà vì trước khi bầu, ông Lục đã đưa các ông kia đi ăn

nhậu để lấy lòng. Nhân dân ta có câu “Ăn cây nào rào cây ấy”, ông cho họ ăn họ bầu ông là

phải. Hơn nữa, theo Ngô Tất Tố họ bầu ông Lục là họ “kính trời”, “sợ trời”. Sách Hán

Đổng Trọng Thư có chép rằng “Dân lấy sự ăn làm trời”, tính mệnh của dân quan hệ ở sự ăn,

ông Lục cho họ ăn, nên họ xem ông là “trời” và bầu cho ông đó thôi. Lấy chuyện xưa, nói

chuyện nay, Ngô Tất Tố đã chỉ rõ việc hám danh hám vị của một kẻ chẳng có gì là giỏi

giang. Ở bài “Đã thấy ông Phạm Huy Lục” Ngô Tất Tố còn đả kích mạnh mẽ hơn. Ông viết:

“Đáng lẽ ông Lục cũng không muốn ra ứng cử khoá này, nhưng nếu không làm dân biểu thì

ông ấy sẽ thành ra vô nghề nghiệp - vì ngoài nghề “dân biểu” ông Lục không còn biết một

nghề nào khác - sợ hoặc có ngày bị ghép vào tội du đãng, cho nên ông ấy ngậm cay nuốt

đắng cố theo đuổi với cuộc bầu cử năm nay” [59, tr.134]

Lên án các thế lực quan lại, bồi bút tay sai, Ngô Tất Tố còn dùng ngòi bút của

mình tấn công và những tổ chức chính trị văn hoá do thực dân và tay sai lập ra như : Viện

dân biểu, Hội khai trí tiến đức… Ông đòi giải tán Viện dân biểu vì nó chẳng có ích gì cho

dân cả. Viện bây giờ chỉ có hai nhiệm vụ: “ngồi đó để chính phủ hỏi ý kiến và đưa lên chính

phủ những điều nguyện vọng của dân. Thế nhưng hai cái nhiệm vụ ấy các ông dân biểu vẫn

chưa được phép làm cho trọn vẹn, nghĩa là khi chính phủ hỏi đến các ông ấy chỉ được trả

lời bằng những câu chính phủ định nói, khi nào trình bày nguyện vọng của dân, các ông ấy

chỉ được nói những điều chính phủ muốn nghe”. Vậy đó Viện dân biểu mà toàn thấy chính

phủ biểu. Ngay cả những ông dân biểu cũng phải buột mồm mà than chán vì Viện dân biểu

chưa đủ quyền lực để giải quyết một cái gì lớn lao. Theo Ngô Tất Tố, một viện dân biểu

không có ích lợi gì tại sao cứ để cho nó tồn tại? Hàng năm còn phải tốn bạc vạn để trả

lương, trả tiền cơm rượu, tiền tàu xe hội họp. Trong khi dân chung thì đói khổ, tiền thì nm

vào những trò vô bổ. Ông van xin mấy ông ở Viện dân biểu, buông tha cho cái nghị viện ,

đừng dùng nghị viện làm nơi tranh mối hàng buôn, mà làm hại cho dân. Con người của Ngô

Tất Tố bao giờ cũng nghĩ cho dân, vì thế những gì đi ngược lại với lợi ích của nhân dân là

Ngô Tất Tố ph phn. Là một nhà nho mẫu mực thật đấy nhưng khi cần luận chiến, tranh đấu

thì ông chẳng kém người Tây học.

Đó là đối với hội dân biểu, còn Hội khai trí tiến đức, theo Ngô Tất Tố nó là cái “hoạ”

cho quốc dân. Vì nó đã biến thành “hội gá bạc…, ổ chứa tổ tôm mất rồi”. Ngô Tất Tố khẩn

khoản van xin: “Quí hội đã chẳng khai trí tiến đức cho ai thì chớ, nhưng hãy tha cho quốc

dân đừng gây ra cái phong trào tổ tôm làm chi” [“Cái hoạ khai trí tiến đức”].

Phải công nhận Ngô Tất Tố là người đa tài, người ta nói ông có khả năng viết mỗi

ngày một bài, mỗi bài một kiểu quả không ngoa. Ngòi bút của ông ngày càng mạnh mẽ, tấn

công hết, tấn công đến cùng đối với các thế lực có hại cho tổ quốc, cho nhân dân.

(cid:31) Đả kích bọn tư sản, bọn làm giàu bất chính

Xã hội Việt Nam những năm 1930-1975 hết sức rối ren. Các tầng thống trị chằng chịt,

lớp quan lại phong kiến lớp thực dân, từ quan to đến quan nhỏ ra sức đàn áp, bóc lột và vơ

vết của dân. Luật pháp lỏng lẽo, mạng người như cỏ rác, đời sống nhân dân đói khổ, không

khí xã hội bức bối đến nghẹt thở. Thế nhưng hoàn cảnh xã hội đó lại là cơ hội cho biết bao

kẻ tuỳ thời, buôn gian, bán lận, làm giàu bất chính. Bọn “thừa nước đục thả câu” này có thể

thoát qua con mắt của luật pháp nhưng không thoát khỏi con mắt của Ngô Tất Tố. Một lần

nữa ông lại dùng ngòi bút cứng cõi của mình vạch trần bộ mặt gian lận của bọn tư sản, bọn

làm giàu bất chính.

Giai cấp tư sản cấu kết với thực dân hô hào cho phong trào “kinh tế phục hưng”, lợi hai

chữ phục hưng đó, giá cả tăng lên, đồ dùng trở nên đắt đỏ. Ngô Tất Tố nhận ra đây chính là

thủ đoạn bóc lột tận cùng của bọn tư sản và thực dân, ông viết:

Từ ngày đồng phật lăng hạ giá đến nay, hiện tượng kinh tế của phái hữu sản quả có khá

hơn trước. Nó khá cho mấy ông chủ ruộng, chủ đất đỏ, chủ mỏ than có lúa, có ca su, có

than đá mà bán. Nó kh cho những ông chủ hãng buôn to có vốn bỏ ra đầu cơ. Nó khá cho

những ông chủ xưởng thợ, chủ nhà mấy có tiền chế các hoá phẩm. Nó khá cho những người

có của mà bán. Nhưng nó không khá cho dân vô sản. Chẳng những không khá mà thôi nó

còn dìm dân vô sản xuống đất đen nữa [60, tr.150]

Tình hình kinh tế như thế, giai cấp hữu sản vốn đã dư ăn dư mặc, nay lại càng giàu lên

gấp bội. Bọn nhà giàu có lúa gạo trước đây còn cho vay nặng lãi nay chúng không thèm cho

dân vay mà cứ để đấy chờ bán. Người nông dân vô sản thật là tội nghiệp “chỉ trông vào giọt

mồ hôi, cái sản nghiệp mà trời đã ban cho họ”, “Bán mồ hôi mua gạo, mua vải, mua các sự

sống. Tai hại cho họ, cái giá mồ hôi cũng không theo kịp cái giá đắt đỏ của đồ ăn dùng”

[60, tr.151]

Qua việc phản ánh chân thật tình trạng sống ngột ngạt, khổ sở của người nông dân Ngô

Tất Tố muốn vạch trần bản chất thật của danh từ đẹp đẽ “kinh tế phục hưng”, thực chất là

một cuộc bóc lột công khai, dồn người dân vào con đường cùng tuyệt vọng, để có thể tồn tại

được họ phải làm tất cả những gì có thể có khi còn đánh mất cả nhân cách của mình “Trong

khi các nhà các nhà cầm quyền mừng rỡ tuyên bố cái danh từ tốt đẹp ấy, ở các thôn quê

không mấy đêm không xảy ra các vụ trộm đói, cướp đói và cướp giật” [60, tr.153]. Vì vậy

Phục hưng kinh tế kiểu này cũng chính là một kiểu cai trị, kìm hãm tinh thần của người An

Nam.

Bên cạnh đó Ngô Tất Tố mạnh mẽ lên án những kẻ “An Nam hút máu An Nam”, lợi

dụng thời cơ “đục nước béo cò”, làm giàu trên mồ hôi nước mắt và bao nỗi cơ cực đắng cay

của người nông dân vô sản. Tuy nhiên dân vô sản ở thành thị thì sức lao động còn có giá để

được bóc lột, kiếm lấy cái ăn. Còn dân vô sản ở nông thôn thì thê thảm hơn nhiều. Muốn

bán những giọt mồ hôi để kiến cái ăn cũng không có chỗ bán. Hết mùa cấy, mùa gặt thì

chẳng ai cần đến những giọt mồ hôi của họ, phải nằm úp bụng mà cầu khẩn mong cho ai

thuê mướn làm một việc gì đó. Và đấy chính là thời cơ để kẻ cho vay, kẻ đầu cơ bóp cổ bóp

họng.

Ở nông thôn Việt Nam có những bọn chuyên làm ăn bất chính, thất đức, đó là bọn cho

vạy nặng lãi. Bọn này toàn là hạng “máu lạnh”, hễ chỗ nào làm ăn được là chúng lăn xả và

mà ngấu nghiến. Ngô Tất Tố nhìn bọn này với một ánh mắt căm thù: “Bọn đó có thể chia ra

mấy hạng, đều là thứ người đầu trâu mặt ngựa, ăn thịt người không tanh. Cách cho vay của

chúng cũng có nhiều lối, mà toàn là lối bóp hầu bóp cổ, nạo tận xương tuỷ” [60, tr.173].

Ông còn vạch rõ những thủ đoạn của chúng:

Muốn vay của họ phải có ruộng đất, nhà cửa làm đồ bảo đảm, của bảo đảm đáng giá mười

đồng thì họ cho vay độ hai ba đồng. Mà văn tự phải viết bán đứt, và phải có triện lý trưởng

và triện trưởng bạ nhận thực hẳn hoi, nếu như quá hạn không trả, họ sẽ cứ việc dịch sổ mà

nhận lấy của bảo đảm, không phải kiện cáo lâu gì, chầy nhất được đến sáu tháng là cùng”

[60, tr.173]. Tiền lãi được tính với giá cắt cổ “nhẹ là tám phân, nặng là mười hay mưới lăm

phân, nghĩa là một đồng bạc trong một tháng phải chịu lãi tám xu, mười xu hay mười lăm

xu [60, tr.173]

Ngô Tât Tố hiểu tường tận đến chân tơ kẽ tóc của sự việc. Những thủ đoạn bóp nặn vô

nhân đạo của những bọn không thiết đến tình đồng loại. Thế nhưng chưa hết, chúng mưu

mô xảo quyệt đến mức có thể chuyển đổi cách làm ăn nhanh chóng. Chính phủ cấm nạn cho

vay nặng lãi chúng lại xoay sang mua rẻ sản nghiệp của kẻ cần tiền. Thủ đoạn này còn khốn

nạn hơn thủ đoạn cho vay nặng lãi. Đây chính là thủ đoạn bần cùng hoá người nông dân,

biến họ từ những người có ruộng trở thành kẻ trắng tay. Theo như Ngô Tất Tố việc mua rẻ

sản nghiệp của người nông dân này là còn đường dẫn người nông dân từ “anh hữu sản đến

anh vô sản, từ anh vô sản đến anh can án, từ anh can án tới anh trộm cướp…” [60, tr.266]

Người ta thường nói những kẻ thức thời thì dễ làm giàu. Thời buổi nhiễu nhương, loạn

lạc không ngờ lại là thời cơ thuận lợi cho những kẻ biết làm ăn, mặc dù sự làm ăn đó là làm

“dối” và ăn “gian”. Ngô Tất Tố đặc biệt chú ý đến một nghề làm ăn mà khiến cho một số

người từ kẻ làm thuê bước lên làm ông chủ, bà chủ, tiêu biểu là nghề “Lang băm”

Vấn đề này đã được Ngô Tất Tố viết hẳn một thiên phóng sự “Dao cầu thuyền tán”, để

vạch trần nghề lang băm chuyên bán thuốc giả. Ông đã lên án một cách mạnh mẽ bọn

người này:

Lạm dụng lòng tin của thiên hạ. Không còn biết kiêng nể sự đau đớn và sự lo âu của bệnh

nhân là gì nữa, lại chắc rằng không bao giờ bị búa rìu của pháp luật, bọn lang băm ấy là

bọn hèn nhát xấu xa nhất trong bọn đi lừa… cho nên nghề lang băm mỗi ngày một lan rộng,

yết thị ra phố phường, quảng cáo ra báo chí, truyền lời bằng máy truyền thanh, đặt chi

nhánh khắp mọi nơi, bài bác những phương php khoa học, công nhiên nhạo báng cái y học

chính thức là vô hiệu” [59, tr.360]. Ngô Tất Tố cảm thấy rất bất bình trước cảnh bọn người

bất nhân này vẫn cứ nhơn nhỡn tồn tại cùng với nghề nghiệp giết người của chúng mà

không có luật pháp nào trừng trị: “Dùng gươm dùng súng giết người thì bị tù tội, sao kẻ

dùng dao cầu thuyền tán giết hại bao nhiêu người lại được sống vẻ vang”. [59, tr.360]

Đề tài bức xúc này không chỉ được ông phản ánh trong phóng sự, m còn được Ngô Tất

Tố phản ánh trong những trang tiểu phẩm giàu tính chiến đấu của mình. “Cụ lang Bần” là

một câu chuyện tiêu biểu. Ngô Tất Tố chỉ giới thiệu sơ về quê quán, cũng như sự ngẫu

nhiên mà cụ lang Bần, một người phát vé tàu điện trở thành một đại danh y. Còn lại mọi

mánh khoé, mọi thủ đoạn và sự “lang băm” của cụ thầy thuốc này, đều do nhân vật tự phơi

bày ra cho người đọc thấy: Việc ơng bỏ nghề phát vé để làm nghề bốc thuốc, một người đến

chữ còn không biết cũng chưa bao giờ học qua một môn thuốc nào lại trở thành một danh y;

rồi chuyện bày mưu cho con trai - một anh bồi bếp - vào nhà một bác sĩ ngoại khoa để ăn

cắp nghề, sau này về cùng cha hợp tác làm ăn. Ngô Tất Tố ngao ngán thốt lên: “Từ bác xé

vé nhảy lên ông lang, từ anh bồi phụ nhảy lên ông đốc tờ, chẳng biết bao giờ hai cha con

nhà ấy sẽ gặp nhau, và lúc gặp nhau rồi thì cái kết quả sẽ ra sao?” [59, tr.94]. Ngô Tất Tố

muốn cho người đọc thấy rằng, vì đồng tiền người ta có thể làm tất cả kể cả việc đùa giỡn

với tính mạng con người. Vấn đề được đặt ra ở đây r rang l vấn đề lớn đối với toàn xã hội, là

vấn đề mà luật pháp cần phải can thiệp càng nhanh càng tốt, để tránh cho dân những tai hoạ

khủng khiếp.

Rồi còn biết bao nghề kiếm ăn từ những căn bệnh xấu xa trong xã hội. Nào là bán thuốc

trị bệnh hoa liễu, nào là bán thuốc cai nghiện, nhìn chung xã hội “thịnh” cái gì là bọn người

kiếm ăn lại bày ra cái đó để bán. Cái quan trọng là trong những cái đem ra bán đó, cái nào là

thật, cái nào là giả, không ai biết. Cả một xã hội đảo lộn trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố.

Dân tộc nào m lại không mong cho dân mình giàu có. Nhưng với truyền thống “Đói cho

sạch rách cho thơm”, Ngô Tất Tố không bao giờ chấp nhận lối sống bất chấp thủ đoạn để

kiếm tiền. Cả đời Ngô Tất Tố làm báo viết văn bao giờ cũng giữ vững ngòi bút trong sáng,

chí công vô tư của mình, kẻ thù đã từng vung tiền mua chuộc ông nhưng ông luôn giữ vững

lối sống “Phú quý không ham, nghèo hèn không đổi dạ, uy quyền không thể khuất phục”

Tóm lại, tất cả những thế lực nào gây hại cho dân đều được Ngô Tất Tố dùng ngòi bút để

đả kích, để châm biếm và phơi bày ra trước dư luận. Nói cách khác, ông làm tất cả cũng chỉ

vì xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân. Những gì liên quan đến đời sống, tính mệnh

và hạnh phúc của nhân dân đều liên quan đến Ngô Tất Tố. Dù sáng tác ở bất cứ lĩnh vực

nào, cái tâm của ông cũng hướng về người nông dân Việt Nam với tấm lòng cảm thông, lo

lắng.

Lỗ Tấn, nhà viết tiểu phẩm nổi tiếng ở Trung Quốc, quan niệm chiến đấu là sinh mệnh

của tiểu phẩm. Tiểu phẩm cùng sống chết với giai cấp mà nó đại biểu. Ngô Tất Tố đã dùng

tiểu phẩm như một vũ khí chiến đấu, đại diện cho những người lao động, nhân danh con

người mà chiến đấu, mà vạch trần, tố cáo một cách công khai, thẳng thắn tội ác của nhưng

lực lượng cướp nước, bán nước, hại dân. Đây là điều mà văn học hiện thực phê phán giai

đoạn này, vì nhiều lí do, vẫn chưa thực hiện được. Vậy l, bằng ngòi bút chiến đấu của mình

Ngô Tất Tố đã đem lại cho văn học hiện thực phê phán giai đoạn này một bản lĩnh mới, một

sức sống mới. Đó chính là đóng góp to lớn của ông.

3.1.2. Phản ánh thực trạng xã hội với sự xuống cấp về đạo đức, lối sống

Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, bên cạnh những vấn đề chính trị lớn lao, cũng đi sâu vào

phản ánh cuộc sống đời thường với những thói hư tật xấu, phản ánh kịp thời sự xuống cấp

về đạo đức, lối sống trong xã hội, góp phần cảnh tỉnh, cảnh giác cũng như lay thức lương tri,

buộc mỗi người trong xã hội phải quan tâm, suy nghĩ.

Những luồng gió mới từ phương Tây thổi vào xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỉ

XX, một mặt, mang lại những tư tưởng duy tân, sinh khí mới, mặt khác cũng làm đảo lộn

nhiều gi trị trong đời sống con người, nhiều quan hệ xã hội. Đạo đức của con người ngày

một đi xuống, mối quan hệ giữa người với người được cân đo, đong đếm bằng giá trị của

đồng tiền. Điều này trước Ngô Tất Tố đã không ít những nhà văn, nhà thơ, nhà chính trị

phản ánh. Cái hay của Ngô Tất Tố là ông biết chọn thể loại tiểu phẩm, để có thể chuyển tải

nội dung phản ánh một cách sâu sắc nhất. Dưới ngòi bút tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, xã hội

Việt Nam hiện ra thật sống động, muôn hình vạn trạng. Mỗi mẩu chuyện là một góc nhìn,

một khm ph. Đó là chân dung những con người bị tha hoá, biến chất vì nhiễm lối sống hiện

đại. Đó là những nghịch lí, nghịch gia đình mà các mối quan hệ đều bị đảo lộn, luân lí bị coi

thường. Tất cả tạo thành một xã hội mà người xấu nhiều hơn người tốt, người hiền bị hiếp

đáp, còn kẻ ác thì cứ nhởn nhơ sống. Ngô Tất Tố đã dùng tiểu phẩm phản ánh sự sa đoạ từ

trong gia đình đến ngoài xã hội.

Từ xa xưa trong quan niệm của người Việt, gia đình là một nền tảng vững chắc của xã

hội, rất được coi trọng, gìn giữ. Thế nhưng từ khi thực dân Pháp sang xâm lược nước ta,

ngoài sự đàn áp về chính trị, bóc lột về kinh tế chúng còn thi hành chính sách đầu độc về

văn hoá. Với danh nghĩa là khai hoá văn minh cho các nước Đông Dương, chúng đưa vào

nước ta những luồng văn hoá mới lố lăng, kệch cỡm, hịng làm mai mot hoặc phá hỏng nền

đạo đức vốn có của dân tộc. Mối quan hệ gia đình với những tôn ti trật tự bị đảo lộn.

Qua một số tiểu phẩm như: Một đức con quí, Tục chúc thọ sẽ phải đổi lại, Tìm cho được

hạt giống cây Kinh, Cái vạ giàu sang…, Ngô Tất Tố muốn cho người đọc thấy sự lung lay,

sự hư hỏng của chữ “Hiếu”. Xã hội thay đổi, ngôi vị cũng thay đổi. Con cái nghiễm nhiên

ngồi trên đầu trên cổ cha mẹ. Ở câu chuyện “Một đức con quý”, Ngô Tất Tố viết về một gia

đình đương thời, một mẹ, một con. Người mẹ từ khi chồng chết đã ở vậy thờ chồng nuôi

con. Nuôi con lớn rồi lại dựng vợ gã chồng cho nó. Thế nhưng người con trai từ sau khi

cưới vợ “không biết vợ chồng ông quý tử đó có nhiễm tư tưởng mới hay không, chỉ biết sau

khi cưới vợ cho con trật tự nhà ấy liền được xếp đặt đúng mốt gia đình tân thời, nghĩa là bà

mẹ liền bị giáng cấp, nhường chỗ cho nàng dâu ngồi lên và ông quý tử của bà nhiều khi còn

báo hiếu vợ bằng cách khinh rẻ mẹ nữa” [59, tr.192]. Đến khi có cháu, bà cụ không được

bế cháu, mà còn bị con dân mắng nhiếc tàn tệ. Tủi thân bà đã tự mình mua quan tài rồi tìm

đến cái chết. Ngô Tất Tố đau lòng buông một câu mỉa mai “Quý hoá thay ông con ấy. Thật

đã có công làm cho yên lòng những người không có con” [59, tr.193].

Nguyên nhân của lối cư xử bất hiếu đối với cha me, theo Ngô Tất Tố, là do “nhiễm tư

tưởng mới”, để chứng minh cho điều này trong tiểu phẩm “Tục chúc thọ sẽ phải đổi lại”,

Ngô Tất Tố đã đi so sánh hai gia đình, một của xưa và một của nay. Trong các gia đình xưa,

những gia đình nào có cha mẹ già “đều là gia đình có phúc”, những người cha, người mẹ

già ấy “chẳng những làm cho vui đẹp cửa nhà, còn có bóng mát che chở cho kẻ dưới”. Còn

“trong đời văn minh tiến bộ như bây giờ, nhà có cha mẹ già chưa hẳn đã là phúc cả” [59,

tr.198]. Rồi ông đưa ra một dẫn chứng về một gia đình mới, có cha mẹ ngoài 70, ông cụ vừa

mất được một tháng “trong dịp đau đớn, một cậu con trai và hai bà con gái nhất định đòi

mẹ phải chia gia tài. Các con còn dọa bà cụ: nếu không chịu chia sẽ làm lôi thôi cho mà

xem” [59, tr.199]. Ngô Tất Tố sau mỗi câu chuyện bao giờ cũng có lời bình sâu sắc, vừa mỉa

mai khinh bỉ, vừa đả kích. Trong trường hợp này, ông bình: “Nay mai Tết đến, ai vào những

nhà kiểu ấy mà chúc cho cha mẹ họ sống lâu mạnh khoẻ, có khi họ sẽ gạo muối tống quái.

Vậy thế cái tục chúc thọ có thể sẽ phải đổi lại. Đổi chữ “thọ” ra chữ “yểu” là nhà có phúc”

[59, tr.199].

Đồng tiền chính là tác nhân quan trọng, nó đã làm lu mờ chữ “hiếu” của những kẻ làm

con. Xung quanh chuyện chia gia tài, đã có biết bao chuyện thương tâm xảy ra. Chỉ vì

thương đứa con út, nên khi chia gia tài ông già T trong câu chuyện “Tìm cho được hạt giống

cây Kinh”, đã thêm cho đứa con út một toà nhà gác.“Ông trưởng nam biết được tin ấy liền

lập tức vác dao đến cổng người em gọi em ra đó để chém. May có hàng xóm can người em

mới sống sót được” [59, tr.203]. Vì chút gia tài mà anh em có thể trở mặt thành nghịch thù.

Ngô Tất Tố muốn vạch mặt những kẻ vì tiền mà dám giết cả người thân, thậm chí đó là cha

đẻ của mình. Chẳng hạn như trong câu chuyện “Cái vạ giàu sang”, sự giàu có của cha làm

nổi lòng tham ở đứa con bất hiếu, một người cha ở Nam Định đã bị con mình mưu sát. Ngô

Tất Tố bất bình: “khốn nạn, người ta xông pha tên đạn, dầu dãi nắng sương, đem hết trí

khôn sức khoẻ gây dựng cơ nghiệp, làm nên giàu sang, ai cũng mong rằng hưởng hết đời

mình rồi sẽ để lại cho con. Nào có ngờ đâu lúc đã giàu sang thân mình lại thành kẻ thâm

thù của con cái. Than ôi, giặc cướp ở ngoài còn khó giữ thay, giặc cướp trong nhà thì giữ

làm sao?” [59, tr.266].

Những gì Ngô Tất Tố bày trên trang giấy chính là thực trạng đạo đức của xã hội Việt

Nam thời buổi Tây, Ta lẫn lộn. Những con người đó, những sự việc đó không phải chỉ là

nhưng cá nhân riêng lẻ mà là mot hiện tượng, một trào lưu. Ta thấy cả một xã hội đang đi

xuống trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố. Nói về việc con cái vì tiền mà bất hiếu với cha mẹ,

Ngô Tất Tố kết luận: “trong quý quốc ta ngày nay, những bậc hiền nữ, hiền nam như thế có

lẽ không hiếm” [59, tr.199]. Kể về chuyện cây Kinh trong sách “Tục Tề Hài chí” giúp cho

anh em đoàn tụ và hiểu được mối quan hệ ruột rà máu thịt. Ngô Tất Tố ao ước “Phải nước

An Nam ngày nay cũng nhiều nhà đáng có cây đó” [59, tr.202]. Như vậy, việc con cái đối

đãi tệ bạc đối với cha mẹ đã trở thành một tệ nạn xã hội chứ không còn đơn thuần là chuyện

riêng của một gia đình nào cả.

Trong những gia đình mà các bậc cha mẹ là những người cổ xưa, những người tuân thủ

theo nề nếp gia giáo phong kiến, m còn điên đảo phức tạp thế, huống hồ những gia đình mà

cả vợ cả chồng đều là những con người được sinh ra và lớn lên trong một xã hội hỗn loạn,

tân thời. Ở những gia đình này, nề nếp bị phá hỏng ngay từ mối quan hệ vợ chồng.

Hoàng Văn Ấm dan díu với nhân tình, giết vợ chỉ vì tiền trong câu chuyện “Nên có cả

nữ oai”. Rồi chuyện những bà vợ của các ông bác sĩ tham biện, lục sự, thông phán… đánh

bạc vì không có việc gì làm trong “Chuyện hàng ngày”. Là những chân dung người chồng

người vợ trong thời hiện đại. Ngô Tất Tố cho chúng ta thấy thời nay, khó có thể tìm ra được

những người đàn ông “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” và những người phụ nữ có

đầy đủ “công, dung, ngôn, hạnh”,… Thay vào đó là những hạng chồng tiểu nhân bỉ ổi,

những hạng vợ lăng loàn, bài bạc… Chính vì thế, chuyện gia đình tan vỡ, chuyện li hôn diễn

ra ngày một nhiều. Theo Ngô Tất Tố, ngày xưa chuyện vợ chồng bỏ nhau rất đơn giản

nhưng ít khi xảy ra. Còn ngày nay, vợ chồng muốn li hôn phải trải qua nhiều khâu đoạn làm

thủ tục rất phức tạp, vậy mà “thiên hạ vẫn còn bỏ nhau oanh oách, thậm chí con cái hàng

lũ, người ta cũng cứ tuyệt tình với nhau. Cho hay nếu giản dị như phép đồng tiền, chiếc đũa

ngày xưa, có lẽ khắp xã hội này không còn cặp vợ chồng nào nguyên vẹn” [59, tr.205].

Từ chỗ vợ chồng coi thường nhau, con cái rẻ khinh cha mẹ, dẫn đến những mối quan hệ

gia đình khác cũng bị ảnh hưởng. Đó là mối quan hệ giữa mẹ chồng- nàng dâu, giữa ông bà

nhạc và con rể. Trong xã hội lúc bấy giờ không thiếu gì cảnh mẹ chồng khắc nghiệt với

nàng dâu. Nhưng đặc biệt lạ lung l ở thế kỉ XX có cảnh nàng dâu ức hiếp mẹ chồng (“Một

đứa con quí”), cảnh chàng rể tác yêu, tác quái đối với bố mẹ vợ (“Nhưng ông Ba Vì hoành

hành”, “Có thế mới là trời”). Trong câu chuyện “Những ông Ba Vì hoành hành”, Ngô Tất

Tố đã liệt kê một số dẫn chứng về hành động dã man của những ông con rể “Tuần lễ trước,

ông Nguyễn Văn Khiết ở huyện An Thi đã bị con rể đánh cho vỡ đầu và còn lăng mạ ông

nữa (…). Hôm mới đây, bà Nguyễn Thị Ngắn ở tỉnh Phú Thọ, cũng bị chàng rể đốc suất gia

nhân đánh cho nhiều vết thương” [59, tr.209]. Đó là những ông bà nhạc ở quê, còn những

ông bà nhạc ở thị thành thì lại chịu nạn con rể “đào mỏ”, mà đào mỏ ngay tối tân hôn mới là

đáng sợ.

Gia đình là tế bào của xã hội, là nền tảng của xã hội. Vậy mà trong nhiều gia đình An

Nam bây giờ hình như không còn tôn ti trật tự, không còn luân thường đạo lí. Tình trạng ny

tất kéo theo sự xuống cấp về văn hoá đạo đức của toàn xã hội.

Lớp người hư hỏng đầu tiên phải kể đến thanh niên. Do được sinh ra trong những gia

đình thiếu nề nếp. Thêm và đó cuộc sống xã hội hiện đại, tân thời đã lôi kéo họ vào con

đường trụy lạc, đánh mất nhân cách của mình. Ngô Tất Tố vẽ ra cho chúng ta thấy những cô

gái chỉ trạc mười hai, mười ba tuổi “tóc bỏ ngang lưng, bạo dạn nấp ở dưới nách những

chàng trai trẻ tuổi” [59, tr.222]. Và ông ngạc nhiên hỏi: “cớ sao những cô gái đó chưa “tơ”

mà đã hư thân thế”? Rồi ông khẳng định: đơn giản “đó là những bậc tài tử”. Ngô Tất Tố

chỉ ra nguyên nhân khiến cho các cô gái chưa đủ lớn lại cặp kè với những chàng trai đáng

tuổi chú mình “gây ra hạng con gái tài tử ấy cố nhiên là một số nhà viết tiểu thuyết vô

lương tâm, nhưng cũng bởi cả hoàn cảnh gia đình nữa” [59, tr.223]. Các nhà tiểu thuyết

lãng mạn cứ cho ra đời những tiểu thuyết với nhưng chuyện tình ướt át, đầu độc đầu óc các

cô cậu mới lớn. Yêu đương lén lút chưa đủ các cô cậu lại rủ nhau bỏ nhà đi. Cô Ng. Thị Gái

vốn là con nhà gia thế, vì yêu một công tử nên bỏ nhà theo chàng trai lên Hà Nội, làm nghề

ăn cắp tiền bạc đem về nuôi nhân tình. Chuyện bỏ nhà đi theo trai của cô Ng. Thị Gái quả là

đáng trách. Và đây cũng là một hiện tượng phổ biến trong xã hội. Một số bỏ nhà theo trai,

một số bỏ nhà theo nghề mại dâm. Đó là hậu quả của viêc tiểu thuyết tình dục xuất bản tràn

lan. Tuy nhiên, ở câu chuyện này, Ngô Tất Tố còn muốn nói đến một loại con trai “vô sỉ”.

Ông lên án gay gắt loại người này: “Bây giờ trong đời lại có hạng trai nằm dài, chực ả nhân

tình móc túi thiên hạ, để cung vào cái miệng ăn và cái miệng hút của mình thì đống nhục

của đàn ông cao lên mấy từng nữa” [59, tr.268]. Đó là gã nhân tình đã dụ dỗ cô Ng. Thi

Gái, để rồi nghiện hút, phải sống nhờ vào tiền ăn cắp của người yêu. Đến khi người yêu bị

bắt thì hắn không thấy đâu. Ngô Tất Tố thể hiện quan điểm một cách rõ ràng đối với hạng

đàn ông bám váy phụ nữ này: “Bạn đọc chắc cũng đồng ý với tôi, mà ước cho anh chàng đó

vào nằm nhà đá thay cho cô kia để làm gương cho kẻ chỉ trông vào vợ mà sống.” [59,

tr.268].

Thanh niên thời buổi đó như thế! Một số thì sống kí sinh, một số thì phá phách, “quái

gở”. Được bạn đọc cung cấp thông tin qua những lá thư gửi toà soạn về những đám thanh

niên phá phách, Ngô Tất Tố lập tức chọn lấy những lá thư tiêu biểu viết thành tiểu phẩm

“Vôi và Tri cụ còn rộng”, nhằm phê phán những đám thanh niên vô công rồi nghề. Một là

những môn đồ của “Sở Khanh”, chuyên đi chọc ghẹo các cô gái một cách vô liêm sỉ. Hai là

hạng vô lại, làm cho người khác bị lừa để cười chơi. Cả hai hạng này đều vô giáo dục như

nhau. Ngô Tất Tố ngạc nhiên hỏi: “Kì nhỉ, ảnh hưởng vì đâu xã hội Việt Nam lại nẩy ra

hạng thanh niên quái gở như vậy?” [59, tr.220]. Đó là một câu hỏi có ý nghĩa khẳng định

khẳng định sự tha hoá của con người, cũng như sự xuống cấp về đạo đức của xã hội đương

thời.

Xã hội Việt Nam lúc bấy giờ đâu chỉ có những nam nữ hư hỏng, còn có biết bao nhiêu

những điều trái tai, gai mắt. Con người trở nên lười nhác, muốn ăn mà không muốn làm.

Chính vì thế sinh ra một hạng ăn mày giả, hiện tượng này khiến cho các nhà nho, các nhà

chí sĩ yêu nước thấy mà đau đớn và nhục nhã. Ngô Tất Tố cũng đem hạng người này ra mà

đả kích một cách kịch liệt “…ăn mày xứ ta, trừ ra ít người già ốm tàn tật, hầu hết là kẻ lười

biếng. Những chuyện thuê con, mượn con, giả mù, giả què của chúng chắc là ngài đã nghe

qua, như thế chúng chết sớm ngày nào thân chúng mát mẻ ngày ấy, xã hội đỡ bẩn ngày ấy”

[59, tr.248]. Hiện thực xã hội quả đáng buồn, phải cần bao nhiêu ngòi bút giống như Ngô

Tất Tố để có thể rửa sạch những ung nhọt thối tha của xã hội, do chế độ thực dân tạo ra.

Ngô Tất Tố luôn luôn tỉnh táo phản ánh hiện thực với những thói hư tật xấu nhưng bao giờ

ông cũng tìm ra được thủ phạm lớn nhất đó chính là bọn thực dân cướp nước. Văn minh

phương Tây không phải là xấu. Tuy nhiên những cái mà thực dân Pháp chủ trương “nhập

khẩu” vào nước ta, thường là cặn b, phần lớn nằm trong mục đích cai trị với chính sách ngu

dân, huỷ hoại nền văn hoá truyền thống Việt Nam tốt đẹp bao đời của chng. Vào Việt Nam,

những thứ ngoại nhập ấy chủ yếu phát huy theo hướng tiêu cực.

Một mối quan hệ xã hội mà từ trước tới nay người Việt hết sức coi trọng, đó là mối quan

hệ thầy trò. Thế nhưng trong xã hội thực dân nửa phong kiến, mối quan hệ đó đang bị phá

vỡ. Người xưa từng nói “Tôn sự trọng đạo”, nhưng trong xã hội thời Ngô Tất Tố lại có kẻ

dám bán ruộng của thầy lấy tiền chia nhau! Tội đó là tội bất nghĩa. Ngô Tất Tố trong tiểu

phẩm “Đền đã vậy thì tội bất nghĩa thì sao” đã phân tích kĩ về vấn đề này để thấy được sự

xuống cấp về đạo đức văn hoá của xã hội. Ông đi từ việc khẳng định lại mối quan hệ thấy

trò trong xã hội “trước đây chừng bảy chục năm, thầy trò vẫn là món luân lí quan trọng,

chẳng kém cha con, vua tôi. Vì vậy người ta mới tôn thầy với vua và cha là bậc “Tam sư”.”

[59, tr.272]. Và để đáp đền công ơn dạy dỗ của thầy, những môn đồ ngày xưa phải thờ thầy

như con thờ cha, như bề tôi thờ vua. Ngoài ra người ta “còn góp tiền để làm nhà thờ và tậu

ruộng giỗ sau khi thầy tạ thế nữa” [59, tr.272]. Rồi ông cho rằng: “từ ngày Hán học bị bãi

bỏ, nghĩa thầy trò cũng theo đó mà suy dần trừ một ít con nhà gia giáo vẫn còn giữ thói cũ,

phần đông đều tưởng ông thầy ăn lương bằng tiền sưu thuế của nhà mình đóng, bổn phận

phải dạy mình học, cũng như thợ may, thợ mộc lấy tiền của mình, thì phải may áo làm nhà

cho mình, cho nên người ta đã quên mặt thầy, tên thầy sau khi thôi nghe tiếng giảng bài của

thầy” [59, tr.272]

Với thái độ và suy nghĩ đó, Ngô Tất Tố lên án mạnh mẽ kẻ đã dám bán ruộng của thầy,

Ví như ruộng đó là do họ tậu ra để cúng thầy, họ cũng không có quyền bán. Đằng này lại là

ruộng do người thầy “ăn dè buộc túm” tậu được mà giao cho họ, hòng nhờ họ và con cháu

thắp giúp nén nhang. Vậy mà họ dám bán để chia chc với nhau. Ngô Tất Tố cho rằng với

những kẻ bất nghĩa đó, nếu chỉ phạt đền ruộng lại cho thầy thì quá nhẹ. Cần phải truy cứu

chúng vì tội bất nghĩa.

Chưa hết, trong x hội bấy giờ, ngay cả cc bậc phụ huynh, những người đang gửi con học

nhà thầy, mong cho con mình biết được cái chữ của thầy, cũng cĩ lắm kẻ đang tâm lừa thầy

để kiếm tiền. Thật khốn nạn. “Bị kiện là phải” là câu chuyện bi hài kịch về một người thầy

đã bị cha của học trò lừa. Đó là thầy giáo X, hương sư của làng Phương Lũng tổng Đăng

Xa. Ngơ Tất Tố kể: “Lúc mới đến dạy học, ông này vẫn ăn cơm trọ ở nhà một người học trò

(…) ông gặp lý cựu X… trong lúc nói chuyện lý X cố mời ông giáo đến nhà mình nghỉ.

Tưởng ông lý cũng có đứa con học mình, chắc muốn cung đốn cơm nước để mình dạy thêm

cho đứa nhỏ ấy, nên ông giáo vui lòng nhận lời. Chẳng ngờ đến cuối tháng ông lý X đưa sổ

ra đòi gia sư phải trả đến mười tám đồng một tháng”[59, tr.212-213]. Lương tháng dạy học

của thầy chỉ có mười ba đồng, và người thầy đương nhiên trở thành con nợ của cha học trò.

Nhà văn bình luận: “cái người đã có can đảm tính tiền cơm tháng mười tám đồng bạc cho

một ông gia sư lương tháng mười ba đồng bạc tức là một người có đủ năng lực để dỡ nhà

thờ gia sư về làm củi đun” [59, tr.213]. Có tưởng tượng người thầy này chắc cũng chưa bao

giờ tưởng tượng ra những chuyện như thế. Từ đó mới thấy cuộc đời thay đổi quá nhiều.

Ngô Tất Tố không giống với các nhà văn tư sản, luôn tô vẽ cuộc đời thật đẹp, thật lãng

mạn. Ông dám nhìn thẳng vào hiện thực phản ánh đúng hiện thực mặc dù hiện thực đó có

chua chát đến mấy. Tuy nhiên những gì Ngô Tất Tố phản ánh đều mang tính chất xây dựng,

bài trừ những cái xấu, những cái tiêu cực để cầu mong cho một xã hội tốt đẹp hơn. Tuy ông

là một nhà nho, nhưng ông không bao giờ là người dùng con mắt cổ xưa để đánh giá vấn đề.

Những cái gì mơi mà tích cực ông đều trn trọng đón nhận. Chỉ những gì làm băng hoại đến

đạo đức con người, biến con người thành những cỗ máy làm tiền thì ông mới phê phán.

Nhưng thái độ phủ định của Ngô Tất Tố cũng không phải là phủ định sạch trơn. Ngô tất Tố

với thái độ đúng đắn, ông biết cái nào cần lên án, cái nào cần phê phán, làm sao để vừa loại

bỏ những cái cũ, lỗi thời, vừa phát huy được những cái văn minh mà không làm cho con

người ta biến chất, không làm cho đạc đức và các mối quan hệ xã hội bị đảo lộn, đó là vấn

đề ông mong muốn. Ơng không phản ánh hiện tại để quay về ca ngợi quá khứ, tri lại, ông

luôn hướng về một tương lại tốt đẹp, có sự dung hoà, cái gì đáng bỏ thì bỏ, đáng giữ thì giữ.

Đó là sự thức thời trong con người nhà nho Ngô Tất Tố. Và đó cũng là đóng góp tích cực

của ông cho sự nghiệp văn học, giúp văn học hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng của mình là

phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội ngày một tốt đẹp.

3.2. Những đóng góp về nghệ thuật

Cù Thu Bạch ở Trung Quốc, qua nghiên cứu và phan tích tạp văn của Lỗ Tấn, cho rằng

tạp văn của Lỗ Tấn rất đa dạng, linh hoạt: có cái là kể việc, có cái trữ tình, có cái chính luận,

có cái là bình luận ngắn, có thể là tuỳ bút, có thể là nhật kí, thư, có thể là đối thoại, có thể là

nói một mình (độc bạch- monologue), có khi là tốc tả (esquesse), có khi là ngụ ngôn. Lỗ

Tấn chưa bao giờ để hình thức ràng buộc. Nói về bút pháp thì có khi chọn cch nĩi hm ẩn,

hàm súc, có khi nói toạc ra giấy trắng mực đen, có khi uẩn khúc, quanh co tức là “bút gãy”.

Nói thế có nghĩa là hình thức tạp văn (tiểu phẩm ) rất đa dạng. Nội dung nào thì hình thức

nấy, hình thức nào tiểu phẩm cũng cần dùng cả, để chuyển tải được nội dung mà người viết

muốn nĩi. Chính vì vậy việc tìm hiểu nghệ thuật của một cây bút viết tiểu phẩm không phải

là chuyện dễ. Một nhà viết tiểu phẩm chuyên nghiệp, bao giờ cũng để lại những dấu ấn

mang tính phong cách riêng. Cũng như trường hợp Lỗ Tấn, Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố

mang tính ngẫu hứng, thấy gì viết nấy, nên hình thức thể hiện cũng rất phong ph. Tuy nhiên,

với hàng ngàn tiểu phẩm đ đăng báo của Ngơ Tất Tố, chúng ta cũng cĩ thể nhận ra một số

đặc điểm nghệ thuật quan trọng trong cách viết tiểu phẩm của ông, như: kết cấu linh hoạt;

thủ php nghệ thuật nhuần nhị; cch nĩi m chỉ, hm ý su sắc; ngơn ngữ hĩm hỉnh, giọng điệu

biến hĩa,…

3.2.1. Kết cấu linh hoạt

Như trên đã nói hình thức nghệ thuật của Tiểu phẩm nói chung, Tiểu phẩm của Ngô Tât

Tố nói riêng rất đa dạng. Chính vì vậy việc xây dựng kết cấu tiểu phẩm của ông không bao

giờ rơi vào tình trạng đồng nhất, đơn điệu. Tuỳ thuộc vào nội dung của bài, tuỳ thuộc vào

dụng ý của tác giả mà ông chọn cho từng tác phẩm một lối kết cấu thích hợp. Tuy nhiên

cũng có thể thấy, các tiểu phẩm của Ngô Tất Tố về cơ bản thuộc vào hai kiểu kết cấu đó là

kết cấu sự kiện và kết cấu cốt truyện, và phần lớn là kết cấu sự kiện.

Với Kết cấu sự kiện, tác phẩm đưa một sự kiện ra làm trung tâm rồi bàn luận, nhận xét,

dẫn dắt để đi đến mấu chốt, bản chất của vấn đề. Tiểu phẩm viết theo kết cấu sự kiện cũng

có nhân vật. Có khi một hành động hay một tư tưởng nào đó của một nhân vật được chọn

làm sự kiện trung tâm, nhưng nhân vật đó cũng không cần phải xuất hiện từ đầu đến cuối

trong tác phẩm.

Phần lớn kếu cấu của Tiểu phẩm Ngô Tất Tố là viết theo lối kết cấu này, vì Tiểu phẩm là

một thể loại mà xét về hình thức thì phải đảm bảo được tính ngắn gọn, không lan man dài

dòng. Để đáp ứng được yêu cầu đó và đặc biệt để tính chiến đấu được rõ nét, người viết tiểu

phẩm thường chỉ chú tâm làm nổi rõ sự kiện.

Tiểu phẩm viết theo kiểu kết cấu sự kiện này của Ngô Tất Tố gồm có hai thnh phần rõ

rệt: nhan đề và nội dung. Hai thành phần này có quan hệ mật thiết với nhau, nhan đề của

tiểu phẩm phần nào chuyển tải được nội dung cơ bản sắp được đề cập trong truyện đó, và

nội dung cũng đi sâu làm rõ nhan đề được đặt. Chính vì vậy kết cấu của một bài tiểu phẩm

ngắn gọn nhưng bao giờ cũng chặt chẽ.

(cid:31) Phần nhan đề (Tít): Nĩi chung, với cc văn bản nghệ thuật ngôn từ, nhan đề thường

có ý nghĩa khi qut, dồn nn thơng tin. Với tiểu phẩm cũng như với các bài báo, nhan đề càng

quan trọng. Nhiệm vụ của nó là khêu gợi, là gây sự chú ý của người đọc. Nó là cái mồi nhử

quan trọng để độc giả chú ý tới toàn bộ tiểu phẩm. Nếu một vấn đề thực sự nóng bỏng, quan

trọng mà tựa đề không hay, không gây sự chú ý thì bài viết cũng có thể bị người đọc bỏ qua.

Nhan đề trong tiểu phẩm khác với nhan đề của các thể loại văn học khác. Nhan đề trong

các thể loại văn học như truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết thường là những nhan đề ngắn

gọn, mang tính chất khái quát, có khi mang tính chất trừu tượng. Khiến người đọc khi tiếp

cận tác phẩm mới chỉ có một ấn tượng, một ý niệm về tinh thần chung, chưa hề nắm bắt

được nội dung chính bên trong của tác phẩm đó.

Nhan đề trong tiểu phẩm có đặc điểm khác. Tiểu phẩm thực chất là một thể loại báo chí,

đã là báo chí thì phải trọng thơng tin, mang tích chất hấp dẫn, thậm chí cĩ thể “gây sốc” cho

người đọc ngay qua nhan đề. Với tiểu phẩm cũng vậy. Nhan đề tiểu phẩm thường được đặt

theo lối dùng một đoạn câu hoặc một câu hoàn chỉnh thu tĩm, giới thiệu sơ lược nội dung

của bài báo. Người ta thường gọi là “Tít”. Tạp văn muốn hay thì phải có “tít” hay. Một nhà

nghiên cứu văn học Trung Quốc khi nghiên cứu tạp văn Lỗ Tấn khẳng định “Báo chí đăng

bao nhiêu bài, biết cái nào hay phải xem cái tít cái đã. Tít hay hấp dẫn bạn đọc” [Dẫn theo

52] Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố tuy gần với văn học nhưng vẫn mang tính chất là những bài

báo. Ngô Tất Tố khi viết tiểu phẩm cũng rất chú trọng nhan đề. Chính vì vậy, ông đã tạo

được những tít hấp dẫn, lôi cuốn người đọc, và bao quát được nội dung chính của bài viết.

Tít trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố rất phong phú. Phần lớn là tạo được ấn tượng ngay

từ ban đầu. Đó là hiệu quả của kĩ thuật khéo léo, linh hoạt. Ngô Tất Tố sử dụng lối lặp từ

ngữ để đặt tít: “An Nam hút máu An Nam”, “Làng kiện làng” , “Ở trong Nam hai ông An

Nam tranh nhau làm An Nam”. Ơng sử dụng cả chơi chữ để đặt tít: “Hiệp tác hay hiếp tác”,

“Một người oan, một người không oan”. C php của tít cũng rất phong phú. Có những tít ở

dạng câu hỏi: “Chơi kiểu gì lạ vậy?”, “Còn gì nữa mà chưa giải tán viện dân biểu?”,…

hoặc một lời thách đố: “Đố biết ông Godard là người gì?”. Cĩ những tít dưới dạng câu cảm

thán “ Ừ thế chứ ! bấy nhiêu cô cũng nhiều rồi mà!”, “Khốn nạn ! ông Bùi Xuân Học lại bị

Hà thành ngọ báo công kích!”, …. Cĩ khi l một câu văn mang tính chất khẳng định “Không

phải đánh bốc, đánh bài Tây đấy.”, cu nghi vấn: “Ong Pagès chắc có đọc qua Trang Tử”.

Cũng có khi là một lời khuyên “Đừng giở ngón ấy ra nữa. Tôi can mấy ông Ngày nay”,

“Không nên quên một bọn văn sĩ”, hoặc một lời cầu khiến, nhờ vả mỉa mai: “Xin nhờ

Lơmuya Cát Tường việc này nữa”, “Việc này lại phải nhờ đến cụ nghè Bân”… Sự thay đổi

linh hoạt c php trong cách đặt tít, khiến cho tiểu phẩm của Ngô Tất Tố bao giờ cũng mới

mẻ, giu sức cuốn ht.

Số từ, độ dài ngắn cho một tít trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố cũng không bĩ buộc, cu

nệ. Tuỳ thuộc vào vấn đề. Có khi một tít chỉ vài ba từ, ví dụ: Hết năm; Cam Ranh; Cụ lang

Bần; Bác bếp Thả; Người nhà nước; Dân là quý; Thục Điểu chết…. Cũng có khi tít dài đến

mươi, mười lăm từ, ví dụ: Sau lưng cụ Bùi Quang Chiêu hai ông Quỳnh, Vĩnh đuổi nhau

sồng sộc; Đừng giở mấy ngòn ấy ra nữa tôi can mấy ông Ngày nay; Cái khí giới của bọn

phú hào dùng để bóc lột dân ngèo hay là nạn vay lãi ở thôn quê; Thuốc lậu, chuyện kiếm

hiệp, vé số giả và cụ Nguyễn Thượng Hiền… Sự linh hoạt này đã tạo nên tính cụ thể, gợi

cảm cũng như giá trị thông tin trong các tít của tiểu phẩm Ngơ Tất Tố.

Khi bàn về kĩ thuật viết tạp văn (tiểu phẩm), nhà nghiên cứu văn học Trung Quốc có

viết: “Tạp văn ngắn, nói lý lẽ nhỏ cho nên đề mục phải cụ thể. Đề mục không cụ thể, mục

đích viết cũng không cụ thể. Cái gì cũng nói rút cục chẳng nói rõ cái gì. Tạp văn kị nhất cái

trừu tượng suốt từ đầu đến cuối” [Dẫn theo 52]

Nhờ tính cụ thể đó mà người đọc chỉ qua nhan đề (tít) của một bài tiểu phẩm là có thể

nắm được vấn đề mà tác giả đề cập ở đó là gì, thuộc lĩnh vực nào. Ví dụ với ci tít “Một

hạng con nuôi của ả phù dung” của Ngơ Tất Tố, người đọc hiểu ngay vấn đề được đề cập ở

đây là thuốc phiện cng sức m hoặc ma qui của nĩ. Với cc nhan đề (tít): “Hiệp tác hay hiếp

tác”, “Vậy thì An Nam cũng phải có thuộc địa chư”, người đọc hiểu ngay vấn đề được đề

cập ở đây là vấn đề chính trị, v.v.

Như vậy cách đặt nhan đề (tít) tiểu phẩm của Ngô Tất Tố rất linh hoạt. Nhưng dù với bất

kì hình thức nào thì Tít của Ngô Tất Tố vẫn có một nét rất riêng đó là cái bản lĩnh và trí tuệ

sắc bén thể hiện trong từng từ ngữ.

(cid:31) Phần nội dung: Nội dung của một tiểu phẩm thường gồm ba phần: Vào đề, Diễn giãi

và Kết luận. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố cũng tuân thủ theo bố cục này. Tuy nhiên tuỳ vào

từng trường hợp mà trật tự có thể thay đổi.

Cũng như việc đặt tít, Vào đề cũng phải tạo được ấn tượng và sức hấp dẫn, đặc biệt phải

thực sự ngắn gọn, tránh lan man vì sẽ ảnh hưởng đến cảm hứng của người đọc. Phần Vào đề

cũng phải cung cấp những thông tin cốt yếu nhất, nếu người đọc không thấy thông tin nào

quan trọng trong câu đầu tiên thì sự chú ý sẽ không chuyển thành húng thú nữa mà sẽ mất

ngay.

Ngô Tất Tố có khả năng linh hoạt trong việc vào đề, có khi ông vào đề một các thân mật,

bằng cách xưng hô “mình” (Ơng Phạm Quỳnh là bạc tình lang, Nào ai đã thật làm anh ai,

Mạ lai tin tức…), “chúng mình” (Ai là đại biểu cho báo giới Việt Nam ở cuộc đấu

xảoParis). Có khi lơi kéo sự chú ý của người đọc bằng những động từ hết sức bình dị:

“trông” (Truyện Kiều sẽ ghi vào hiến pháp có ngày), “coi” (Tiên sinh Phạm Quỳnh cãi lộn

với ông Thượng Chi), “ngó” (Còn chờ gì nữa mà chưa giả tán viện dân biểu), “thấy” (Nghị

viện khoá tới sẽ là trách nhiệm của ai), “đọc” (Chúa trùm đảng áo nâu sẽ xuống địa

ngục)… Hoặc giả là những từ ngữ cảm thán, bộc lộ thái độ hài hước tạo được sự thích thú ở

người đọc như : “Hú vía! Tưởng là mất ông Phạm Huy Lục” (Đã thấy ông Pham Huy Lục),

“Té ra cụ Bùi Quang Chiêu lại định xin vào Đảng Xã hội cấp tiến” (Nước bạc cuối cùng

của cụ Bùi Quang Chiêu), “Té ra chính bên mẫu quốc chúng ta cũng có Pháp gian” (Mars

Aubert và Hoàng Thu Nhạc), “Chà cha! Nước lọ cũng có sóng cồn” (Đã dại thì thôi, định

hùn ai). Có khi việc vào đề được tiếp theo từ đề tựa (Tít). Chẳng hạn sau tít “Ở trong Nam,

hai ông An Nam tranh nhau làm An Nam”, Vào đề chỉ cần tiếp ngay “Cái chuyện cũng kì

đấy chứ!”. Tít, trong trường hợp này cũng đóng vai trò Vào đề.

Ngoài ra, ta còn thấy Ngô Tất Tố có một kiểu vào đề gián tiếp giàu chất văn, khiến

người đọc cảm thấy thú vị vì được đón nhận thêm một câu tục ngữ, một câu nói dân gian

hay một câu phong dao mà ông dùng để vào đề cho một vấn đề tương tự. Ví dụ: “Phong dao

có câu “Đàn ông chớ kể Phan Trần” (trong tiểu phẩm Hắn đáng đi ở tù thay), hay “Tục

ngữ thường nói “Ngắn hai dài một” (trong tiểu phẩm Ngắn hai dài một)… Với kiểu vào đề

này người đọc nhiều khi được tiếp xúc với những tri thức rất bất ngờ, có thể bật ra tiếng

cười như “Phong dao có câu “Bố vợ là vớ cọc chèo, mẹ vợ là bèo trôi sông, chàng rể là

ông Ba Vì” (trong tiểu phẩm Những ông Ba Vì hoành hành) hay “Tục ngữ có câu “Nhất sĩ

nhì nông, hết gạo chạy rông nhất nông nhì sĩ” (trong tiểu phẩm Ai nhất ai nhì),…

Như trên đã nói, kết cấu tiểu phẩm của Ngô Tất Tố phần lớn là kết cấu sự kiện, nên việc

vào đề bằng cách nêu các cụm từ chỉ thời gian chiếm số lượng lớn. Thời gian có khi cụ thể

ngày, giờ (Vì ghen nên nỗi Tây với Tàu hành hung, Một cái cảm tưởng khi đi coi Hoa kiều

kỉ niệm ngày quốc khánh…). Hoặc là sử dụng cụm từ chỉ thời gian qu khứ như “Bảy tám

tháng trước” (Ơng thống sứ với trận mưa hộm nọ), “Chừng như trong tuần lễ trước thì

phải” (Đăng nguyên văn một ít thôi). Hoặc là những cụm từ chỉ thời gian chung chung, như:

năm nọ, năm ấy, thưở xưa, gần đây, hôm vừa rồi… Những từ chỉ thời gian này giúp người

đọc xác định thời gian sự việc, hiện tượng xảy ra.

Cũng có những tiểu phẩm vào đề bằng từ chỉ không gian. Có khi là những không gian cụ

thể như: “Ở tỉnh Gia Định mới có một kì nhân” (Có thế mới tu được), “Ở tỉnh Bắc Giang

có một việc rất đáng cảm động” (Chuyện hàng ngày). Có khi là những không gian rộng như

: “Ở các nơi thành thị” (Một nghề mới lạ), “Khắp thế giới” (Cái nạn kiêng tên)… Với khả

năng mỗi bài viết mỗi kiểu này, Ngô Tất Tố quả là đáng để cho người khác phải học tập.

Diễn giải: Nếu xem văn tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là khẩu súng chĩa vào kẻ thù thì phần

vào đề có thể ví với hành động lên đạn sẵn sàng, và phần diễn giải chính là thao tác bóp cò,

nhắm thẳng kẻ thù mà bắn. Đọc đến phần diễn giải người đọc càng cảm thấy thú vị khi

được tiếp xúc với một trí tuệ giàu sức lập luận và phán đoán.

Ngô Tất Tố bao giờ cũng có những cách lập luận chặt chẽ, xoáy sâu vào vấn đề và đẩy

vấn đề lên cao, qua đó bộc lộ thái độ của mình.

Trước khi phơi bày hiện thực được phản ánh, Ngô Tất Tố thường có lối “trì hoãn” rất hài

hước. Ơng cố ý kéo dài sự chờ đợi của người đọc, khiến họ càng tò mò hơn. Cuối cùng,

Ngô Tất Tố đưa họ đến với nội dung chính cần biết, khiến họ cảm thấy bất ngờ thú vị.

Chẳng hạn, nói về việc một tờ báo ăn cắp tên ông Nguyễn Khắc Hiếu (Tản Đà) đặt vào toà

soạn cho có giá trị một chút, sau phần vào đề Ngô Tất Tố viết:

Việc gì?

Ông Nguyễn Khắc Hiếu bị bìm bìm leo.

Nói vậy chắc có người không tin.

Ông Hiếu hiện ở Hà Nam lo tính chuyện An Nam tạp chí, chớ có phải ông ấy vẫn

nằm ở xó rừng ngày trước đâu, mà bị bìm bìm leo được. [58, tr.46]. Sau đó ông kể về những

thất bại trong việc làm báo của Tản Đà. Trong khi Tản Đà đang đà thất bại, có kẻ đã mạo

danh ông, đặt tên cho một toà soạn. Chuyện vỡ lở, chúng lại quay ra nói xấu Tản Đ. Những

tưởng việc Ngô Tất Tố nói không liên quan gì đến việc Tản Đà bị bìm bìm leo, nhưng ông

bất ngờ kết thúc khiến cho người đọc hiểu ra vấn đề: “Than ôi! “Giạu đổ bìm leo”, nghĩ

như tình cảnh ấy ông Hiếu thật khổ sở vậy. Tôi nói ông Hiếu bị bìm bìm leo chính là nghĩa

thế.” [“Ông Nguyễn Khắc Hiếu bị bìm bìm leo”, [58, tr.50]. Lúc này người đọc mới ngã

ngửa ra việc bị bìm bìm leo của ông Hiếu không phải theo nghĩa đen mà là theo nghĩa bóng.

Ngô Tất Tố mượn hình ảnh của một câu nói dân gian để phản ánh tình cảnh của người đồng

nghiệp, người bạn Nguyễn Khắc Hiếu.

Ngô Tất Tố có nhiều cách tạo tình huống và giải đáp tình huống một cách linh hoạt. Tuỳ

vấn đề mà ông có cách lập luận khác nhau, để đạt được mục đích của mình là bắn trúng

đích, bắn chính xác vào kẻ thù của dân tộc và quần chúng bị áp bức bóc lột. Ngô Tất Tố

bằng những lập luận chặt chẽ của mình đã phản ánh hành động ám muội của Phạm Huy Lục

trong cuộc bầu cử vào viện dân biểu. Từ việc không thấy tên ông trong danh sách ứng cử,

Ngô Tất Tố khẳng định “chưa đến hơi thở cuối cùng thì dẫu sét đánh bên tai ông Lục cũng

không bỏ ghế dân biểu khoá này.” [59, tr.131]. Vì sao Ngô Tất Tố dám khẳng định như

vậy? Vì ông hiểu rất rõ con người này “nếu không làm dân biểu thì ông ấy sẽ thành ra vô

nghề nghiệp – vì ngoài nghề dân biểu ông Lục không còn biết một nghề nào khác – sợ bị

ghép vào tội du đãng”. Có nghĩa là ông Lục không bao giờ bỏ ứng cử, vậy tại sao không

thấy tên ông trong danh sách? Ngô Tất Tố lập luận: vì ở Hà Nội ai cũng biết “tận tổ chấy”

ông Lục nên chắc chắn chẳng ai bầu cho. Chắc thế nào ông Lục cũng chạy về Phú Thọ, vì ở

Phú Thọ người ta chưa biết rõ lắm về ông ấy, có khi cử tri còn bầu cho. Nhưng nếu ở Phú

Thọ thì giờ phút này cũng có tên rồi, tại sao vẫn không thấy tên ông trên báo chí? Ngô Tất

Tố lập luận tiếp: “Hay là ông ấy vận động ngầm với các báo, bảo họ đừng nói đến mình vội,

để ông có đủ thì giờ xoay xoả”. Tác giả cứ đưa ra vấn đề rồi lại dùng lập luận giả thiết để

giải quyết vấn đề, từ từ bản chất của vấn đề được hiện lên. Và cuối cùng ông muốn vạch

trần cho mọi người biết cái mánh khoé của ông Lục trong việc ứng cử vào viện dân biểu

cũng như lí do vì sao mà ông luôn được bầu. Ngô Tất Tố đánh đau, đối tượng bị ông đả kích

chắc là rất căm thù ông, thế nhưng ông hoàn toàn nói sự thật khiến họ không thể chối bỏ

được, lập luận ông đưa ra chặt chẽ, có căn cứ khiến người đọc tin phục.

Cũng bằng khả năng phán đoàn, lập luận này ông lần lượt vạch mặt bọn thực dân, với

các chính sách thâm độc. Bọn quan lại tay sai, bồi bút, với những thủ đoạn tuyên truyền, lừa

bịp nhằm đầu cơ chính trị lấy lòng thực dân. Cả bọn tư sản, bọn làm giàu với những thủ

đoạn xấu xa, bỉ ổi. Ngô Tất Tố chỉ ra hết, ông không nói thì thôi, đã nói là trúng, đã trúng

thì chúng chỉ có thể há mồm, trợn mắt, mà nuốt cái căm phẫn vào trong hoặc lắc đầu, bóp

trán, vì sự ê chề nhục nhã không biết gỡ vào đâu. Ông nói nhẹ, nói thẳng thắn, nói có cơ sở

thế mà như đâm vào tận huyết mạch của bọn thống trị, thượng lưu. Nếu không phải hạng

ngươì “mặt trơ trán bóng” chắc không thể chịu đựng nỗi sư công kích của Ngô Tất Tố. Ví

như ông Phạm Huy Lục, chắc phải trang bị một bộ mặt thật dày thì mới có thể chịu đựng

được sự đả kích qua các tiểu phẩm “Đâu mất ông Phạm Huy Lục”, “Đã thấy ông Phạm Huy

lục”, “Bọn dân biểu suy đới ông Phạm Huy Lục là phải”.

Như vậy ở phần diễn giải (trong kết cấu tiểu phẩm), Ngô Tất Tố bằng cách thắt nút, gỡ

nút, bằng đặt tình huống và giải quyết tình huống quyết đoán, linh hoạt đã đưa người đọc

đến những vấn đề hết sức thời sự và thú vị.

Kết luận: Phần kết luận là phần khái quát vấn đề và đưa ra lời bình. Ấn tượng nhất của

phần này là lời bình của tác giả, hoặc của nhân vật (nếu có), lời bình có sâu sắc thì bài viết

mới thực sự thành công và tạo được cảm nhận sâu sắc trong lòng độc giả. Ở khâu này cũng

khó có ai sâu sắc hơn Ngô Tất Tố.

Lời bình của ông vừa sâu, vừa sắc, vừa mang tính chất định hướng, mở ra một lối giải

quyết nào đó. Cho nên, tiểu phẩm của ông không bao giờ có cái nhìn tuyệt vọng. Mục đích

của nó không chỉ là sự công kích những cái xấu mà còn muốn cải tạo những cái xấu đó để

góp phần làm đẹp cho xã hội. Chẳng hạn trong “Yêu cầu một cuộc điều tra về cách làm giàu

của quan lại An Nam”, sau khi kết thúc phần lập luận ông khái quát lại vấn đề và khẳng

định: “Nhắc lại một lần nữa: quan lại tức là một phần nguyên nhân trong cảnh thống khổ

của dân”. Rồi ông đưa ra suy nghĩ của mình: “… không thể nhắm mắt nói rằng cứ để

nguyên cái bộ quan lại (…) nên thêm một cuộc điều tra về cách làm giàu của quan lại. Hễ

cách làm giàu bị bại lộ, thì nền tảng của giới ấy có thể lung lay. Dù chẳng được tự trị, trực

trị chi chi, nhưng được vậy cũng giảm đi một chút không khí khó thou.” [59,tr.82]. Trong

bài “Tương lai với Thái thượng lão quân”, Ngô Tất Tố đã kết luận bằng câu cảnh cáo bọn

tham nhũng: “Có muốn cho mình khỏi bị tương lai khu trừ, tốt hơn hết là các ông hãy rửa

cho sạch lòng ruột, từ nay đừng bóp nặn dân đen nữa. Cấp cấp như luật lệnh”[59, tr.224].

Có khi ông kết thúc bài bằng cách đưa ra một câu hỏi cho mọi người suy nghĩ. Trong bài

“Cháy nhà ra mặt chuột”, ông ví bọn quan lại cũng giống như lũ chuột, bắt mãi mà chưa

hết. Ngô Tất Tố đặt câu hỏi: “Nhưng chuột còn hay hết, chúng ta còn thấy chúng ra mặt nữa

thôi. Đố ai biết được?” [59, tr.77]. Khi viết về cụ lang Bần, vạch ra những thủ đoạn làm

giàu của hai cha con cụ, Ngô Tất Tố kết thúc bằng một câu hỏi lớn, thể hiện sự ái ngại đối

với tương lai của xã hội: “Từ bác vé xe, nhảy lên ông lang, từ anh bồi phụ nhảy lên anh đốc

tờ, chẳng biết bao giờ hai cha con nhà ấy gặp nhau rồi thì cái kết quả sẽ ra sao?” [59,

tr.94]. Trong bài “Đàn bà ăn hiếp đàn ông”, ông cũng đặt ra hai câu hỏi cuối bài: “Làm vợ

vua thì không được phép chơi trai, vậy mà các vua cứ được phép bắt hàng ngìn con gái nhốt

vào cung mà dùng lần? Con gái bắt con trai mà chơi là có tội vậy sao con trai cứ được mở

lầu xanh, lầu đỏ, đem com gái mà nhốt vào?” [59, tr.58]… Những câu hỏi mà Ngô Tất Tố

đặt ra toàn hướng vào những vấn đề cấp bách cần được giải quyết trong xã hội. Hỏi l nhằm

khẳng định những cái bất công, ngang trái trong cuộc đời, để thấy cuộc sống của con người

đang bị đe doạ vì sự xuống cấp của đạo đức xã hội.

Cũng có khi ông kết thúc tác phẩm bằng những lời mỉa mai, châm biếm. Để phê phán

một bài báo viết về Tạ Hiền tiên sinh ma không biết gì về Tạ Hiền. Sau khi cung cấp một

loạt thông tin về Tạ Hiền tiên sinh, Ngô Tất Tố kết luận: “…Vậy mà tờ báo của người đồng

huyện với tiên sinh viết lại không thèm biết đến cái tên của tiên sinh, cũng là sự lạ ở thế

gian. Lạ nữa là, không biết mà dám viết khảo cứu về tiên sinh, thật là coi trời bằng cây rau

má!” [59, tr.69]. Hoặc kể về việc ông Nguyễn Doãn T. bị nhổ nước bọt vào mặt. Ngô Tất Tố

dẫn tích của Lâu Sư Đức nhà Đường để so sánh, sau đó kết luận: “Ơng T khi mới xuất chính

ắt có đọc rồi. Thế thì trong lúc làm quan ông T. chắc biết trước mình sẽ có ngày phải thực

hành câu nói của Lâu Sư Đức. Bây giờ hưu rồi việc mới xảy ra. Đó cũng là may mắn lắm,

rửa chi cho tốn nước và hại xà phòng.” [59, tr.88]. Ngô Tất Tố luôn ở thế chủ động chính vì

thế lời nói của ông bao giờ cũng nhẹ nhưng hàm ý sâu xa, khiến cho người bị bắn phát súng,

tuy nhẹ, nhưng lại trúng chỗ hiểm nên khó lành.

Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn kết thúc tác phẩm bằng những lời đe doạ, buộc tội (Dân vô

sản với những ngày đã được gọi là kinh tế phục hưng, Cho no đủ đã, Hiệp tác hay hiếp

tác…). Ở một số bài ông còn mượn một đoạn thơ hoặc một khúc ca để kết luận cho bài viết

của mình (Ơng thống sứ với trận mưa hôm nọ, Hỏi thăm ông huyện vô danh,…).

Nhìn chung cũng như phần Tít, phần vào đề và diễn giải, phần kết luận luơn được Ngô

Tất Tố sử dụng cĩ nghĩa lí, biến hoá linh hoạt, tuỳ thuộc vào nội dung và đối tượng được

phản ánh. Đúng như các nhà nghiên cứu đã đánh giá ông có khả năng viết “mỗi ngày một

bài” và “mỗi bài một kiểu”.

Trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, ta còn thấy lối kết cấu ny nữa: kiểu kết cấu cốt truyện.

Ở đó, tiểu phẩm là câu chuyện có đầy đủ yếu tố như một truyện ngắn, có nhân vật, có sự

kiện và các nhân vật sự kiện này qua lại, giao tiếp với nhau. Đó là kết cấu có diễn biến của

sự kiện, sự việc đang diễn ra chứ không phải là một bài trình bày lại. Kiểu kết cấu này

chúng ta có thể thấy ở các tiểu phẩm “Cụ lang Bần”, “Bác Bếp Thả”, “Họ vẫn ăn vào cái

xác chết”, “Người có danh vọng trong làng”, “Có thế mới tu được”, “Chuyện hàng ngày”,

“Cô Tây Hoẻn”, …

Mỗi loại kết cấu mang một thế mạnh riêng. Nhưng với loại kết cấu nào, Ngô Tất Tố

cũng thể hiện được tài năng và bản lĩnh của mình. Tiểu phẩm của ơng luơn được xây dựng

bằng một hệ thống sự kiện chặt chẽ, logíc, đặc biệt sự linh hoạt để đạt được kết quả cao nhất

trong phản ánh. Kết cấu linh hoạt này cũng là một đóng góp to lớn của Ngô Tất Tố nhm lm

giu thm những vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ của thể loại tiểu phẩm nói riêng, các thể loại văn

học Việt Nam 1930-1945 nói chung.

3.2.2. Sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật đạt hiệu quả cao

- Lối so sánh ví von: Ngô Tất Tố trong quá trình phản ánh sự vật, sự kiện thường dùng

lối so sánh, ví von. Nhà văn có tài viết mỗi bài mỗi kiểu cũng là người có khả năng liên

tưởng phong phú và sử dụng phép so sánh một cách đa dạng, bất ngờ. Ông tận dụng mọi

hình thức so sánh như những thủ pháp nghệ thuật để phản ánh sự vật, hiện tượng.

Hình thức so sánh được sư dụng phổ biến nhất trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đó là

việc dùng những sự kiện, nhận vật trong quá khứ để phản ánh những nhân vật sự kiện

trong hiện tại. Tạm gọi là thủ pháp “lấy xưa để nói nay”.

Nhân vật, sự kiện trong quá khứ mà chúng ta đang đề cập trong tiểu phẩm của Ngô Tất

Tố thường là những nhân vật sự kiện trong sử sách Tàu. Điều này cũng dễ hiểu, vì Ngô Tất

Tố vốn xuất thân là một nho sinh, với một vốn Hán học uyên thâm. Việc mang dấu ấn Hán

học trong sáng tác là điều khó tránh khỏi. Huống hồ việc sử dụng vốn Hán học ở đây lại đạt

hiệu quả cao, chẳng những không mất đi tính hiện đại của tác phẩm mà còn thể hiện một

trình độ, một trí tuệ uyên thâm.

“Ông Thống sứ với trận mưa hôm nọ”, là một thành công tiêu biểu trong việc vận dụng

lối so sánh này. Đối tượng đả kích trong câu chuyện này là ông thống sứ Tholance. Sự kiện

được Ngô Tất Tố nhấn mạnh và lấy đó làm cái cớ để châm biếm là việc trời mưa vào trước

ngày ngài Thống sứ Tholance ra đi. Nhân vật được Ngô Tất Tố dùng để so sánh là Trịnh

Hoằng thời Hậu Hán, một người biết lo cho dân nên đi đến đâu thì trời đổ mưa tới đó, thiên

hạ gọi là những trận mưa theo xe. Cũng là nói chuyện trời mưa nhưng bản chất sự việc lại

không giống nhau, để lột tả sự khác biệt đó Ngô Tất Tố viết “ Mồng năm ngài mới đi, mồng

bốn trời đổ mưa, đó là trời cũng tỏ ý cảm động để ngài kịp ngó thấy. Vậy thì những hạt mưa

rào hôm nọ có thể cho là một cuộc tiễn chân Tholance đại nhân. Nó cũng là linh nghiệm

như những trận mưa theo xe của Trịnh Hoằng, nhưng một đằng mưa khi đến, một đằng mưa

khi đi, khác nhau chỉ có chỗ đó” [59, tr.90]. Sự khác biệt mà Ngô Tất Tố pht hiện, nhấn

mạnh đó lm tăng giá trị đả kích sâu sắc mạnh mẽ của tác phẩm. Một kẻ không thèm làm

những việc cho dân như Trịnh Hoằng đã làm, khi ra đi trời đổ mưa! phải chăng trời hiểu

lòng dân, muốn rửa sạch những dấu vết dơ bẩn, đem lại cho dân một bầu không khí mới,

mát mẻ, trong lành? Ngô Tất Tố thật thâm thuý, sâu cay.

Trào phúng, đả kích trong văn học không phải chỉ đến Ngô Tất Tố mới có. Ngay từ thế

kỉ XIX, Nguyễn Khuyến, Tú Xương đã được xem là những bậc thầy của văn chương trào

phúng. Ngô Tất Tố là sự kết hợp giữa hai nhà thơ này. Ta thấy ở ông vừa có chất “cay” của

Tú Xương vừa có chat “thâm” của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên giá trị phê phán và đả kích ở

ông mạnh mẽ hơn bởi nó được chuyển tải bằng một thể loại sắc, bén, “thần tốc”.

Sự so sánh thật đắt đôi khi gây ấn tượng mạnh mẽ, vì nó tạo cho tác phẩm một chiều sâu

tư tưởng và lm cho đối tượng đả kích thành một hình tượng nhân vật quen thuộc, vốn xưa bị

người đời nguyền rủa. Thái độ quay quắt, tráo trở của Phan Trần Chúc, chủ nhiệm tờ Tân

Việt Nam, được so sánh với mụ vợ quay quắt tráo trở của Chu Mi Thần. Phan Trần Chc l kẻ

đã chui vào chi nhánh đảng xã hội Pháp (SFIO) để tranh cử nghị viện, hô hào “anh em thợ

thuyền”, “chị em lao động”, rồi sau đó lại “dỗi với chủ nghĩa xã hội mà quay ra quảng cáo

cho đế quốc Nhật. Tuy nhiên việc bợ đỡ đến quốc Nhật cũng chăng được ăn là bao. Nên

chẳng bao lâu lại quay trở lại mà hô “anh em thợ thuyền”, “chị em lao động”. Hắn đã bị

quần chúng cho một bài học. Hệt như cái cch m vợ của Chu Mãi Thần khi xưa đ lm v ci kết

cuộc m b ta phải chịu: thấy chồng nghèo thì bỏ đi lấy người khác, đến khi chồng lập được

công danh lại muốn trở về nối lại tình xưa nghĩa cũ, nhưng bị chồng từ chối, vì bát nước đổ

đi không bao giờ hốt đầy được nữa. Một sự việc mang tính chính trị phức tạp như vậy, Ngô

Tất Tố chỉ cần một so sánh đơn giản là bản chất sự việc hiện lên thật ấn tượng, thích thú.

Kiểu so sánh “lấy xưa nói nay” cịn được sử dụng trong các tiểu phẩm như “Bãi nước bọt

trên mặt ông tuần phủ”, “Ơng Pages chắc có đọc qua Trang Tư”, “Bộ thuộc địa với anh

chàng Đặng Bá Đạo”,… Việc dùng chuyện xưa để thể hiện những vấn đề trong hiện tại như

vậy giúp cho tiểu phẩm của Ngơ Tất Tố không “lên gân”, không thuyết giáo khô khan mà

vừa gợi suy nghĩ, vừa đem lại hứng thú cho người đọc. Vấn đề trung tm thường bật lên một

cách tự nhiên, và sâu sắc.

Lối so sánh thứ hai được Ngô Tất Tố vận dụng là dùng những sự vật, hiện tượng tương

đồng để làm rõ hiện thực được phản ánh. Tạm gọi là so sánh tương đồng.

Kiểu so sánh này không cần phân biệt không gian, thời gian, đối tượng được so sánh,

cũng không cần phân biệt là người là vật hay là việc, chỉ cần sự vật được so sánh và sự vật

dùng để so sánh có cùng chung một bản chất như nhau. Việc vận dụng lối so sánh này của

Ngô Tất Tố đã giúp ông công phá mạnh mẽ vào những thế lực nhiều mưu mô, xảo quyệt.

Với lối so sánh này, có lúc Ngô Tất Tố chọn những cặp so sánh quen thuộc trong dân

gian như “chuột” với “quan lại”. Trong xã hội phong kiến xưa, người Việt thường ví những

bọn quan lại như những lũ chuột chuyên đục khoét của dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm, ở thế kỉ

XVI, đã từng có bài thơ “Ghét chuột”, phản ánh bản chất gian tham của bọn quan lại phong

kiến. Cùng trường liên tưởng đó, Ngô Tất Tố trong Tiểu phẩm “Cháy nhà ra mặt chuột” có

một sự so sánh rất thú vị giữa xã hội loài chuột và xã hội loài người với đám quan lại An

Nam. Xã hội loài chuột thì tồn những kẻ “hay ăn vụng, hay cắn hại lại hay truyền bệnh dịch

hạch cho người ta, cái giống chuột ai ai cũng ghét” . Chúng phần lớn là “bậc tài giỏi tinh

khôn”, chỗ nào cũng chui vừa, lại có cái tài “náu mình” rất kĩ. “Cũng nhờ cái kín đáo và

vững chãi đó mà các anh luôn sống trong nhà người ta mà người ta không bắt nổi”. Tuy

nhiên “cái hang ấy chỉ che chở cho các anh bình yên chứ không thể che chở cho các anh

trong cơn tai biến”. Chính vì thế, dù có trốn kĩ đến mấy, mà nhà cháy thì “các anh” cũng

phải lòi ra, cho nên dân gian có câu “cháy nhà ra mặt chuột” [59, tr.76].

Ngô Tất Tố nói kĩ về xã hội loài chuột, về bản chất cũng như cái kết cục của chúng trong

khi cháy nhà. Sau đó ông dùng một câu so sánh rất đắt giá: “Nhưng xét cho kĩ, chẳng riêng

gì xã hội loài chuột mới có trường hợp ấy, chính ở xã hội loài người cũng thường như thế.

Ngay như trong đám quan trường An Nam” [59, tr.76]. Như vậy vấn đề mà Ngô Tất Tố

muốn đề cập tất nhiên không phải là xã hội loài chuột mà chính là xã hội loài người mà cụ

thể là đám quan lại An Nam. Không cần phải diễn giải nhiều lời, chỉ qua sự so sánh đó,

người đọc cũng hiểu Ngô tất Tố muốn phản ánh điều gì. Đó là nạn quan tham, đục khoét

của công. Dù chúng có trăm phương nghìn kế, có trốn chui trốn nhủi mà làm những điều phi

pháp, thì cũng có ngày “cháy nhà” mà “ra mặt chuột”. Và, để thuyết phục độc giả tin theo

sự so sánh của mình, ông đưa ra một số dẫn chứng về việc quan lại tham ô bị đem ra toà xử

lí. Một câu hỏi được nêu ln thật nhức nhối ở cuối bi tiu phẩm: chuột còn thì quan lại tham ô

cũng còn, và biết bao giờ mới hết nạn quan tham của công?

Cũng có lúc ông chọn những sự việc hiện đại, nhưng gần gũi với sinh hoạt đời sống của

con người để phản ánh hiện thực như trong tiểu phẩm “Không phải đánh bốc, đánh bài Tây

đấy”. Để lật mặt hai kẻ đầu cơ chính trị như Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh, Ngô Tất Tố

đã chỉ ra những trò bịp bợm mị dân của các vị này. Việc hai ông bồi bút Quỳnh, Vĩnh cố ý

làm um chuyện cãi cọ, chuyện bất đồng ý kiến với nhau trên báo chí khiến công chúng cho

rằng họ đang mâu thuẫn gay gắt. Báo Ami du peuple còn đăng hình hai ông đánh bốc với

nhau. Tuy nhiên những trò lừa bịp này không qua được con mắt tình đời của Ngô Tất Tố.

Ông cho rằng Quỳnh và Vĩnh là bậc “khôn trẻ nỏ già”, có nghĩa là không già cũng chẳng

trẻ, thế là vào độ tuổi chín chắn và minh mẫn nhất rồi, làm gì có chuyện trẻ con như thế? Và

Ngô Tất Tố đã chỉ ra cho công chúng thấy bản chất thật của sự việc thông qua mot sự so

sánh khác độc đáo. Ông cho rằng hai ông Quỳnh, Vĩnh không phải đáng bốc mà là “đánh

bài Tây” đấy. Và ông đã chỉ ra cơ sở so sánh của mình:

Một chị đàn bà ngồi trong làm “cái”, miệng hát tay “tráo” ba quân ít xì, để cho hàng xứ

đến đánh, đánh trúng bài người thì được, đánh trúng bài hoa thì thua, nhưng cứ một mình

chị này thì chẳng ma nào dám đánh với, vì người ta biết rằng đánh với chị ấy tất thua. Bởi

vậy phải lại có một chị đàn bà khác ngồi ngoài làm con, cởi ruột tượng mà đánh, đánh một

cách hăng hái sát phạt, thiên hạ thấy vậy ngõi mắt đánh theo, lắm người phải dốc túi với

các chị. Tối đến chị cái, chị con đổ tiền làm một. Trừ vốn đi còn bao nhiêu chia nhau. Ay

cái lối đánh bài Tây nó thế”. [59, tr.56]

Hai ông Quỳnh, Vĩnh trong ci nhìn của Ngơ TấT Tố, cũng giống như hai chị đàn bà kia.

Cùng hội cùng thuyền nhưng giả vờ ci nhau để thử lòng người và để mưu lợi cho riêng

mình, nhằm lấy lòng thực dân để lo chuyện đầu cơ chính trị. Đúng là nói bao nhiêu ngôn

ngữ cũng không dễ hiểu bằng chọn được đối tượng so sánh phù hơp để làm bật lên vấn đề.

Cái tài của Ngô Tất Tố là ở đó.

Ngô Tất Tố chọn việc so sánh không chỉ độc đáo mà còn có ấn tượng thẫm mĩ rất cao,

chẳng hạn để khẳng định Phạm Quỳnh là một kẻ “theo gió bỏ buồm”, ông đã ví hắn như

“một bạc tình lang”. Ông ví tình cảm của tập báo Nam Phong đối với Phạm Quỳnh là “một

ả tình nhân rất tận tâm, rất đắc lực”, thế mà Phạm Quỳnh đã bỏ ả để ôm ái tình sang con

đường chính trị [58, tr.31-32], vậy ông Phạm Quỳnh chính là một “bạc tình lang” rồi còn gì.

Chuyện báo chí, chuyện chính trị mà Ngô Tất Tố lại cụ thể hoá bằng chuyện ái tình, vừa dễ

hiểu, vừa vui, và đặc biệt là gây được ấn tượng mạnh trong làng người đọc.

Ngô Tất Tố còn sử dụng lối so sánh đối lập. Ơng chọn đặt cạnh nhau những sự việc

trái ngược nhau về bản chất, về hành động để thể hiện nội dung phê phán của mình. Lối

so sánh này thể hiện rõ trong các tiểu phẩm như: “Ả xẩm Tàu mấy ông nhà giàu An Nam”,

“Chuyện hàng ngày”, “Ai nhất, ai nhì”, “Từ nay dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam thêm

một từng nữa”… Một số tác phẩm cuả ông đưa ra những tấm gương đạo đức hàng ngày để

sau đó so sánh với những thói hư, tật xấu với mục đích hướng thiện. Chẳng hạn ông đã so

sánh hành động nhân đạo của một “ả xẩm tàu”, đã giúp đồng bào tới hai chục đồng, số tiền

không phải là nhỏ đối với một một ả buôn son bán phấn. Ngược lại, “những người giàu có

hàng vạn, hàng triệu mà tiền bạc của họ cũng chỉ ních vào tủ sắt… có ai đem sổ quyên đến

hoặc về diễn dịch làm phúc mời họ thì họ lắc ngay cái đầu”. [59, tr.79] Với bọn nhà giàu

keo kiệt bủn xỉn, thiện tm còn thua một ả đàn bà ở tầng lớp cuối cùng của xã hội. Trường

hợp khác, Ngô Tất Tố ca ngợi chuyện cô Ng. Thị Kho bất chấp cái chết nhảy xuống sông để

cứu chồng, cuối cùng ca hai cùng chết, đối lập với số đông nữ giới thành thị: “Thị Kho là

một người thôn dân buôn xuôi bán ngược, mà đối với chồng còn biết giữ thuỷ chung “sống

cùng nhà, thác cùng mồ” như vậy, chẳng bù cho số đông nữ giới ở các thành thị, vẫn tự phụ

là có học mà về phẩm hạnh thì so với một người đàn bà nhà quê như Thị Kho còn kém xa,

chẳng biết có lấy thế làm tự xấu hổ không” [59, tr.235].

Cũng có khi ông so sánh những sự phân biệt đối xử trái ngược nhau để làm rõ sự bất

công của xã hội đương thời. Ông so sánh lớp “nhà nông”, với lớp “nho sĩ”, để thấy được nỗi

đau thời thế, thấy được cái “buổi chợ chiều” của nho học. Trí thức nho học không còn được

trọng vọng như trước (“Ai nhất ai nhì”). Ông lấy chuyện nước Pháp với chính sách cấm

thuốc phiện, truy sát tận gốc việc sử dụng và chứa chấp thuốc phiện, để so sánh với việc

thuốc phiện được tự do rãi khắp các nước Đông Dương. Từ đó chỉ ra âm mưu thâm độc của

kẻ thù, muốn dùng thuốc phiện để làm tê liệt tinh thần phản kháng của nhân dân ta.(Từ nay

dân Pháp lại khổ hơn dân An Nam hơn một từng nữa)…

Tóm lại, so sánh là một trong những thủ pháp chủ yếu nhằm thể hiện nội dung của Tiểu

phẩm. Muốn so sánh thành công và làm nổi bật được vấn đề, người cầm bút phải có khả

năng liên tưởng và tưởng tượng phong phú. Ngô Tất Tố vốn là một nhà văn nên với trí

tưởng tượng, liên tưởng giàu có phong phú của mình ông đã cung cấp cho độc giả nhiều sự

so sánh thú vị, đặc biệt chuyển tải được tư tưởng, tình cảm đến độc giả một cách hấp dẫn và

sâu sắc. Ông thực sự đem đến cho thể loại Tiểu phẩm một “hình dong” mới uyển chuyển,

đậm đà thoát khỏi bản chất khô khan, sự kiện vốn có của nó. Đó chính là những đóng góp

có ý nghĩa thẩm mĩ v ý nghĩa kĩ thuật của Ngô Tất Tố đối với nghệ thuật viết tiểu phẩm.

- Lối nói m chỉ, hàm ý : Bn cạnh thủ php so snh, lối nĩi m chỉ, hm ý cũng được Ngô Tất

Tố khai thác triệt để, sử dụng rộng ri trong tiểu phẩm của mình.

Lối nĩi m chỉ, hm ý trong trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố có thể được thực hiện thông

qua những hình ảnh so sánh.

Ngô Tất Tố thường dùng sự vật này để ám chỉ sự vật kia. Chẳng hạn nói chuyện “mưa”

nhưng thực chất là muốn vạch rõ bản chất xấu xa của bọn thực dân. Bản chất xấu xa của

chúng không chỉ có người biết mà đến trời ở trên cao cũng biết (Ông thống sứ với trận mưa

hôm no). Hoặc việc gọi hai ông Phạm Quỳnh và Nguyễn Văn Vĩnh đang “đánh bài Tây”,

cũng là một lối nói hàm ý. Ngô Tất Tố đã khéo léo mượn chuyện “kĩ xảo” trong đánh bài để

chỉ ra “kĩ xảo” đánh lừa thiên hạ của hai ông Quỳnh, Vĩnh. Tc giả không hề nói thẳng mà

chỉ kết luận có một câu “Ay cái lối đánh bài Tây nó thế” [60, tr.57]. Và người đọc cũng chỉ

cần một câu như thế là hiểu hai ông Quỳnh, Vĩnh đang chơi trò gì. (Không phải đánh bốc,

đánh bài Tây đấy).

Cĩ khi sự m chỉ, hm ý nằm ở những từ ngữ mang tính chất “ngược nghĩa”. Ông thường

dùng những từ ngữ thoạt nghe như khen, như đồng tình, nhưng thực chất bên trong là phê

phán, mỉa mai. Chẳng hạn trong bài “Kính mừng Việt Nam tổ quốc và tiếc thay cho làng báo

của nó”, Ngô Tất Tố dùng toàn những lời mỉa mai, bóng gió. Ông viết: “Có thế chớ, bài sớ

của báo “tổ quốc Việt Nam” thật đã thấu đến tai trời, mới có sự tốt lành ấy. Lá sớ quý giá

ấy thật là giá đáng ngàn vàng. Nếu không nếu tỉnh Hà Đông bị thiếu mất một ông tổng đốc,

thì tổ quốc có khi sẽ thành tổ … cò, chúng mình còm mặt mũi nào mà sống ở đời nữa”[59,

tr.213]. Những từ ngữ như “thấu đến tai trời”, “sự tốt lành”, “quý giá”, “giá đáng ngàn

vàng”…tưởng chừng như nhà văn mừng thật. Nhưng không phải, ngẫm sâu vào giọng điệu

ta sẽ thấy ngay thái độ không đồng tình của tác giả. Đó chỉ là cách nói mỉa mai trước hiện

thực. Cách viết này xuất hiện nhiều trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, tạo thành phong cách

độc đáo của ông. Trong bài “Chỉ có ông ấy đáng làm dân biểu”, viết về ông Phạm Huy Ngh.

ra ứng cử dân biểu. Ngô Tất Tố thể hiện bản chất vô liêm sỉ của ông lại này bằng những lời

văn có vẻ tán dương. Trước hết, Ngô Tất Tố khẳng định chỉ có ông ấy “xứng đáng làm dân

biểu”, sau đó ông chỉ ra vì sao mà xứng đáng “xứng đáng là vì trong lúc tranh cử, ông ấy đã

làm một việc oanh liệt, người khác không thể làm nổi. Việc lạy người sống”[60, tr.137]. Đến

đây thì người đọc hiểu ngay thái độ của Ngô Tất Tố và hiểu ông muốn chế giễu điều gì.

Cũng cùng một phong cách như thế, trong bài “Một đứa con quý”, ông viết: “Quý hoá thay

ông con ấy. Thật đã có công làm cho yên lòng những người không có con” [60, tr.193].

Hàm ý của câu đó là: thà không có con còn hơn sinh ra những đứa con bất hiếu như thế!

Trong tình hình báo chí luôn bị kiểm duyệt chặt chẽ, lối viết này đã giúp Ngô Tất Tố

vượt qua tai mắt của những kẻ chuyên cắt xén bài viết. Tuy nhiên lối viết m chỉ, hàm ý của

Ngô Tất Tố không quá sâu xa, khó hiểu, vì vậy người đọc vẫn dễ dàng nhận ra. Mục đích

của ông là viết cho quần chúng, nhân dân nên những thủ pháp nghệ thuật ông sử dụng cũng

phải gần gũi và dễ hiểu đối với họ.

3.2.2.3. Ngôn ngữ, giọng điệu.

Ngôn ngữ trong tiểu phẩm báo chí của Ngô Tất Tố có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngôn ngữ

văn học và ngôn ngữ báo chí.

Tiểu phẩm trước hết là một thể loại báo chí, vì vậy ngôn ngữ biểu đạt bao giờ cũng ngắn

gọn, chính xác. Tiểu phẩm của Ngô Tất Tố đã đạt đến độ gọn gàng, chính xác và truyền đạt

thông tin một cách sáng sủa. Ngôn ngữ trong tiểu phẩm của ông luôn tạo cho người đọc cảm

giác đó là ngôn ngữ tự thân mang tính khách quan của sự việc, sự kiện, chứ không hề có sự

suy diễn chủ quan của người viết. Ngôn ngữ khách quan này bị chi phối bởi tích chất thời sự

của vấn đề mà Ngô Tất Tố đề cập. Phần lớn đề tài mà Ngô Tất Tố đề cập trong tiểu phẩm

của mình là những vấn đề chính trị, xã hội nóng bỏng.

Bên cạnh tính chất khách quan, chính xác. Ngôn ngữ trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố

còn giàu tính chiến đấu. Ngôn ngữ trong tiểu phẩm của ông, đặc biệt trong những bài viết

mang tính chất châm biếm, đả kích mạnh mẽ, thường rất sắc nhọn, gai góc. Ngòi bút của

ông đại diện cho công lí, cho chính nghĩa và quyền lợi của người lao động, vì vậy ngôn ngữ

chính là vũ khí sắc bén, với nhiệm vụ thiêng liêng là chiến đấu với kẻ thù của dân tộc. Cũng

giống như Lỗ Tấn, Ngô Tất Tố dùng văn tiểu phẩm để đấu tranh với kẻ thù và đấu tranh với

nội bộ quần chúng. Một mặt ông đánh thẳng vào bọn thực dân cướp nước, bọn quan lại bán

nước và làm tay sai cho kẻ thù. Mặt khác ông cũng chỉ ra những cái xấu, cái chưa tốt của

quần chúng nhân dân, của đồng nghiệp…tuỳ từng đối tượng chiến đấu mà ông dùng ngôn

ngữ khác nhau. Nhưng dù đối tượng đả kích là ai thì ngôn ngữ trong tiểu phẩm của Ngô Tất

Tố bao giờ cũng thể hiện một cái nhìn đúng đắn, một sự phân tích, suy luận có cơ sở khoa

học. Đảm bảo được đặc điểm chung của ngôn ngữ báo chí. Chức năng này của Ngô ngữ

không chỉ tham gia trực tiếp vào việc xây dựng và kiến trúc nội dung của tác phẩm mà còn

được thể hiện ngay ở “tít” của mỗi tiểu phẩm, ví dụ như “Hiệp tác hay hiếp tác”, “Mười

năm nữa báo chí Bắc kì sẽ cổ động đến thò lò quay đất”, “Một cuộc tẩy uế nghị viện Bắc

kì”…

Thành công về ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không chỉ dừng lại ở đó. Ngôn ngữ chính xác,

khoa học, và giàu tính chiến đấu trong tiểu phẩm của ông lại được kết hợp một cách nhuần

nhuyễn với ngôn ngữ của văn chương nghệ thuật. Như ta đã biết, nhờ sự kết hợp giữa văn

chương và báo chí này, Ngô Tất Tố đã đạt được những thành công không nhỏ ở thể loại

phóng sự. Với khả năng sáng tạo đó, ông lại gặt hái thành công ở thể loại tiểu phẩm. Có thể

nói, ở Ngô Tất Tố có sự hoà hợp của con người văn chương và con người báo chí.

Ngô Tất Tố sống nhiều ở nông thôn, bản tích ông lại thích cái vẻ giản đơn, mộc mạc,

thâm thuý của người dân quê. Vì vậy trong tiểu phẩm của mình, ông vận dụng khá điêu

luyện vốn từ ngữ dân gian, những lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân. Chính những

vốn từ ngữ dân dã đó đã đem đến cho tiểu phẩm của Ngô Tất Tố một sức hấp dẫn mãnh liệt,

biến những bài báo khô khan của ông thành những câu chuyện thú vị, dễ hiểu, và gần gũi

với người đọc.

Trước hết là những cụm từ, những thành ngữ, tục ngữ dân gian được Ngô Tất Tố vận

dụng đúng văn cảnh, bộc lộ được những khả năng diễn đạt phong phú. Bản chất của sự vật,

hiện tượng, con người được gọi tên một cách ấn tượng. Ông gọi Phạm Quỳnh là một “nhà

dở học giả, dở chính trị”, có tài “theo gió bỏ buồm”, khiến bản chất của tên bồi bút tay sai,

kẻ đầu cơ chính trị này thể hiện một cách rõ nét. Còn ông gọi bọn tư sản, đóng vai ông chủ

hầm mỏ, chủ nhà máy là “Bọn ăn chó cả lông, ăn hồng cả hột”, không còn câu nào có thể

diễn đạt bản chất tham lam, bóc lột của bọn họ hơn thế!. Bọn cho vay nặng lãi ở nông thôn

lại được ông gọi là “thứ đầu trâu, mặt ngựa, ăn thịt người không tanh”. Còn bọn quan lại

tham những ở chốn hương thôn là “những kẻ bóp dân như bà cô bóp cháu”…

Lời ăn tiếng nói hàng ngày, mang đậm sắc thi phương ngữ Bắc bộ cũng được ông khai

thác triệt để, tạo nên những cảm xúc thẩm mĩ khó quên trong lòng độc giả. Những từ như:

“coi”, “ngó”, “bỏ t ráo”, “chẳng mần vua thì mần quan” (Con cháu khôn hơn ông Vải), “Đi

tu thì mặc nâu sồng mà lỵ” (Chẳng tu thì cũng như tu). Thậm chí cả những từ ngữ xuề xoà

của người nông dân như: “Cái ngôi đền ở giữa phố choèn choèn bằng cái quán nước, thè lè

ra mép đường đi, chẳng biết là thờ chi mà coi bộ sầm uất hết sức” (Kiểu đất ở phố hàng

trống), hoặc: “Ơng Thông Reo, người viết báo Trung lập, hôm nọ đã bô bô đem cái việc ấy

nói toẹt lên báo rồi” (Ông Thông Reo dám tiết lộ bí mật của ông Phạm Quỳnh)… Ông đưa

vào tiểu phẩm cả những lời nói chua ngoa, đáo để như: “ổng ăn dưng ngồi rồi đã gần một

năm rồi độ này ngứa nghề lại vào làm quản lí báo Công luận”, hoặc: “nói ra thì ngứa máu

ông Phan Khôi” (Có người bảo ông Nguyễn Văn B. thất tiết)…

Ngô Tất Tố đã khéo léo kết hợp tính chất đả hích, châm biếm sắc sảo với khẩu ngữ dân

bình dân, gần gũi, tạo nên một giọng điệu trào phúng đặc sắc.

Phong cách của nhà văn thể hiện ở nhiều phương diện, nhưng ở Ngô Tất Tố rõ nhất là ở

ngôn ngữ và giọng điệu. Một nhà văn có tài bao giờ cũng có tiếng nói riêng, giọng điệu

riêng, không pha tạp hoặc lẫn lộn với ai cả. Giọng điệu đó phải gây được ấn tượng trong

lòng người đọc.

Đọc tiểu phẩm, phóng sự, cũng như đọc những sáng tác khác của Ngơ Tất Tố, chúng ta

dễ dàng nhận ra giọng điệu của ơng. Giọng điệu trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố rất gần

với giọng điệu trong “Việc làng” và “Tập cái án đình”, đó là giọng điệu trào phúng sâu sắc,

nhẹ nhàng nhưng thâm thuý.

Người đọc cảm thấy thích thú trước cách nói quanh co, mát mẻ, khen đấy m cũng chê

đấy. Chẳng hạn, ông khen báo Grande Réfome đưa ra đề nghị trừ “nạn nhân mãn”, “bằng

cách tuyệt đường sinh dục” là “một cách giải quyết đến tận gốc”, “cái giải pháp ấy mới

giản dị làm sao!” Lại cĩ lời bình cch giải quyết ấy l: “nhân đạo thay”! Sau đó ông vờ bàn

cách “cứ để cho nhà xăm, nhà chứa và nhà cô đào tự do hoành hành thì vi trùng hoa liễu có

thể dần dần tiêu diệt cả dân tộc Việt Nam”. Rồi cuối cng, thật bất ngờ, ơng thẳng thừng bc

bỏ với lập luận: “Ở xứ Đông Dương cũng can đến người Việt Nam để làm cu li khai mỏ, lấy

mủ cao su và vỡ điền hoang cho những nhà đại điền chủ” (Phải chừa lại số người làm cu

li). Lối mỉa mai này của Ngô Tất Tố tuy nhẹ nhàng, nhưng đối tượng bị đả kích lại rất đau.

Chẳng hạn trong “Cô này làm gương cho những nhà kén rể”, ông viết: “Cái đám cưới này

kể ra cũng là cái quả báo của nhà cụ nọ thật đấy, song cũng còn được cô con gái ấy là hạng

mặt dày mày dạn, nên ông cụ ấy mới được có con, có cháu lại có rể. Nếu cô gái ấy là người

có chút liêm sỉ thì đâm đầu xuống ao chuôm rồi còn gì. Vậy thì cô đó cũng có thể làm

gương cho những nhà kén rể” [60, tr.65]

Nh văn thường sử dụng những kiểu câu song hành trong tiểu phẩm để tạo giọng điệu

mỉa mai châm biếm như khi liệt kê các chức vụ của Phạm Quỳnh: “Tiên sinh Phạm Quỳnh

hay là ông Thượng Chi, tức ông chủ nhiệm kiêm chủ bút báo Nam Phong, tức là người đã

đề xướng ra việc kỷ niệm ông Nguyễn Du, tức người đã đem Truyện Kiều thành Thánh thư

Phúc âm của dân tộc Việt Nam, tức ông tổng thư kí của hội Khai trí Tiến Đức, tức người

phù giá đức tiên hoàng Khải Định trong khi đang du Pháp, tức ông chủ cái biệt thự “Hồng

Nhân” ở ấp quan Quận Hoàng, tức ông chủ cái nhà lầu số 5 phố Hàng Da Hà Nội (…), tức

người sáng lập ra cái “hiến pháp tam giác.” [60, tr.48]. Cách viết như thế ny này còn thấy ở

các tiểu phẩm: “Người khác làm ông Bùi Bằng Đoàn thì như thế nào?”, “Đố biết ông

Godard là người gì?”…

Giọng điệu châm biếm của Ngô Tất Tố được vận dụng tối đa trong những bài mang tính

chất bút chiến. Liên tục ba bài bút chiến trên báo Phổ Thông để đả kích việc báo Nông công

thương bợ đỡ Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố viết bằng một giọng giễu cợt. Trong tiểu phẩm

đăng ngày 7.19.1930, ông gọi báo Công nông thương là “em”, xưng là “các ông anh”. Ơng

viết: “Em mình lại sợ thân hình bé bỏng, sợ báo thù hoặc khó như nguyện, buộc luôn bác

chủ Đông Tây của em cái tội thoá mạ các báo để hùn cho các ông anh rộng mồm lớn xác

vào hùn mà binh. Thôi đi! Đã dại lại còn định hùn ai? Cái ngĩn hợp tung liên hoành của em

bay giờ dùng làm sao được? [60, tr.38]. Giọng điệu châm biếm giễu cợt đó khiến báo Công

nông thương “nổi ngay cái tiết loài người lên” (từ dùng của Ngô Tất Tố), viết lại một bài trả

đũa, đáp lại, Ngô Tất Tố bồi thêm một đòn nặng nề hơn: “Ấy, đại ý quý bài của Nông công

thương đại báo dơ thế, nhưng đại báo viết công phu lắm, có lẽ dùng hết tâm huyết, chỉ có

một mẩu mà lôi thầy Ẩm Băng vào, lại kéo cả Không Tử, Lão Tử và Trang Tử tới nữa. Cũng

phải chẳng thế ai biết đại báo có người biết chữ nho” [60, tr.42]. Đó là bài đăng ngày 10.10,

còn bài đăng ngày 13.10, Ngô Tất Tố lại gọi cái động thái của báo Công nông thương là

“Vừa chạy vừa quay cổ lại, vừa quay cổ lại vừa chạy, ấy thái độ của cái báo tí hon”; rồi ông

cơng kích trực diện: “bị dùi mà nín đi cũng chẳng ai nói đến làm gì, nhưng lại không nín,

cãi lại, cãi lại cứ việc cãi lại, cũng chẳng hỏi tới, vì cải lại mà giở giọng xúc xiếm chực hùn

mình vào bè, chẳng vào bè với trẻ ranh, cực chẳng đã mình phải nói toẹt chỗ hóm vặt ấy ra”

[60, tr.43].

Ngô Tất Tố cứ nhẹ nhàng vừa giễu vừa mắng. Người đọc cảm thấy ông rất hóm hỉnh,

còn đối tượng bị đả kích lại “tức lộn ruột” nhưng không làm gì được, vì lí lẽ, bt lực đâu mà

cãi lại với Ngô Tất Tố - một người vốn uyên thâm về mọi mặt, v từng được xem là một tay

ngôn luận kì khơi của lng bo Bắc Kì.

Trong tiểu phẩm của mình, tuỳ từng đối tượng mà ông lựa chọn giọng điệu cho phù hợp.

Đối với những thói hư tật xấu trong nội bộ nhân dân ông dùng giọng hài hước, giễu cợt

nhằm bài trừ nó. Còn đối với bọn bồi bút, bọn tay sai bán nước, bọn đầu cơ chính trị ông

dùng giọng văn mỉa mai, châm biếm. Đối với bọn thực dân cướp nước ông lại viết bằng một

giọng văn cứng cỏi, thể hiện thái độ bất hợp tác. Ơng vạch r những thủ đoạn cai trị tàn bạo,

thâm độc của chúng bằng giọng câm biếm, đả kích sắc sảo (Hiệp tác hay hiếp tác, Một

hạng con nuôi của ả phù dung, Cho no đủ đã, Phải chừa lại số người làm cu li…). Như vậy,

giọng văn trào phúng trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố rất nhiều sắc độ, luôn biến hóa linh

hoạt và đặc biệt luôn mang đậm cái “tôi” của tác giả, nhà văn Ngô Tất Tố..

KẾT LUẬN

1. Ngô Tất Tố là một trong những đại diện tiêu biểu của Văn học Việt Nam nói chung,

Văn học hiện thực phê phán 1930-1945 nói riêng. Những đóng góp của ông thật sự có ý

nghĩa lớn lao trong việc xy dựng, phát triển bo chí Việt Nam v nền văn xuơi tiếng Việt hiện

đại. Trn văn đàn, ông là một nhà tiểu thuyết, nhà phóng sự, nhà tiểu phẩm hiện đại xuất sắc.

Trong lng bo, ơng l nh bo cự phch, cĩ nhiều cơng lao. Trong lĩnh vực khảo cứu, ph bình dịch

thuật, ơng cũng cĩ những đóng góp xứng đáng.

Ơng là một trong số ít nhà văn có có khả năng sáng tác văn xuôi với nhiều thể loại mà ở

thể loại nào cũng đạt được thành công. Trong đó, đặc biệt phải kể đến thành công của ông

trong tiểu thuyết, phóng sự, tiểu phẩm,…

2. Về mặt nội dung, cảm hứng, các tác phẩm phóng sự cũng như tiểu phẩm của Ngô Tất

Tố đều xuất phát từ cảm hứng hiện thực, cảm hứng nhân đạo và cảm hứng văn hoá của một

con người có trái tim yêu nước, thương dân và có ý thức bảo vệ những di sản văn hoá tốt

đẹp của dân tộc.

Trong các sáng tác của Ngô Tất Tố – tiu biểu l “Việt làng” và “Tập án cái đình” –

thường mang đậm dấu ấn văn hoá của dân tộc. Tuy nhiên, Ngô Tất Tố tiếp cận văn hoá trên

cơ sở phản ánh hiện thực, chính vì thế ông không thi vị hoá, không một chiều ca ngợi cũng

như kêu gọi mọi người hãy bảo vệ giữ gìn nó. Ngô Tất Tố tiếp cận văn hoá đình làng Việt

Nam và chỉ ra những sự cổ hủ, lạc hậu của nó, mong muốn cải tạo, thay đổi nó cho phù hợp

với lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Đây cũng là một nét mới trong văn học Việt Nam, lần

đầu tiên ta thấy có người dám nhìn thẳng, dám phê phán những cái mà từ lâu đã được gọi là

“thuần phong mĩ tục”. Thế nhưng sự phê phán đó lại được đông đảo người đương thời ủng

hộ vì nó hợp với thời đại, hợp với lòng người.

Phóng sự và tiểu phẩm của Ngô Tất Tố giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. Xã hội

Việt Nam những năm 1930-1945 dưới sự thống trị của hai tầng áp bức bóc lột: phong kiến

và thực dân, người nông dân bị bức đến đường cùng, khóc than, rên xiết, cùng cực, tủi nhục

đủ đường. Trong khi đó bọn quan lại phong kiến, bọn cường hào ở thôn làng cấu kết với

bọn thực dân cướp nước luôn tìm đủ mọi cách ăn chặn, bóc lột, đàn áp những người nông

dân quanh năm “Bán mặt cho đất, bán lưng cho trời” mà vẫn không đủ ăn. Trước biết bao

sự bất công ngang trái đó, Ngô Tất Tố không thể làm ngơ. Mỗi trang phóng sự là một mảng

hiện thực tăm tối về đời sống nông thôn và là một số phận khốn khổ của người nông dân.

Mỗi trang tiểu phẩm của ơng là một lời bênh vực, đòi lại công bằng, tự do và cơm áo cho

người nông dân. Với những thin phĩng sự những bi tiểu phẩm hiện thực và nhân đạo của

mình, Ngô Tất Tố nói chung đã góp phần đưa văn học đến gần với con người, cuộc đời.

Ơng đ gĩp thm được một tiếng nói có trọng lượng cho sự thắng thế của phái “Văn học vị

nhân sinh”, và sự phát triển, hoàn thiện của văn học hiện thực phê phán giai đoạn này.

3. Văn học giai đoạn 1930-1945 khơng ngừng hiện đại hoá một cách mạnh mẽ. Công

chúng văn học cũng như những nhà trí thức tiến bộ giai đoạn này luôn cố gắng xây dựng

một nền văn hiện đại đậm đà bản sắc dân tộc. Nhiệm vụ này được trao cho những nhà trí

thức mới, trí thức Tây học. Thế nhưng không ai ngờ một trí thức Nho học “cuối mùa” như

Ngô Tất Tố lại có thể có những đóng góp to lớn đến vậy vo cơng cuộc ny. Ngô Tất Tố rất

linh hoạt trong sáng tạo nghệ thuật. Tuỳ đặc điểm đối tượng và tính chất của vấn đề mà ông

có thể lựa chọn cho mình một hình thức thể loại hay phương tiện nghệ thuật thích hợp. Các

nhà phê bình luôn cho rằng ngôn ngữ trong tác phẩm của Ngô Tất Tố rất mới, rất hiện đại,

mặc dù ông không phải là một trí thức Tây học. Tiểu thuyết, phóng sự hay tiểu phẩm, đều

có lối viết ngắn gọn, kết cấu giản dị. Đó là một đóng góp lớn lao trong cơng cuộc xây dựng

một nền văn học hiện đại hoá.

Cái tôi trong phóng sư và tiểu phẩm của Ngô Tất Tố là cái tôi đầy bản lĩnh, nhưng cũng

đầy tình nhân ái. Cái tôi đó có khi được ẩn dấu dưới một lối viết khách quan, có khi hài

hước với giọng điệu châm biếm nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, cũng có khi thách thức, tuyên

chiến với kẻ thù xâm lược. Tất cả đều xuất phát từ một trái tim, một tấm lòng yêu thương và

lo lắng cho dân, vì dn.

4. Kết quả nghiên cứu của luận văn cho thấy Ngơ Tất Tố đ gĩp cơng lớn trong việc định

hình v pht triển hai thể văn phóng sự và tiểu phẩm, nhất là trên phương diện kĩ thuật thể

loại.

Trong phĩng sự của Ngô Tất Tố, người đọc được thưởng thức một lối trần thuật sắc bn v

hấp dẫn, một nghệ thuật kết cấu giản dị, chặt chẽ, ngơn ngữ giu hình ảnh, gợi cảm, giu chất

văn.

Trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố, người đọc lại được thưởng thức một thể văn -báo chí

hiện đại với kết cấu linh hoạt đặc sắc từ cách đặt tít đến vào đề, diễn giải, bình luận, kết

luận; thưởng thức một loại bài báo ngắn sử dụng tinh xảo nhiều thủ pháp nghệ thuật, như so

sánh, ẩn dụ, lối nói ám chỉ, hàm ý, … với giọng điệu châm biếm, mỉa mai nhiều cung bậc

sắc độ.

Bên cạnh những đóng góp đáng kể vào nghệ thuật viết báo, nhất là viết tiểu phẩm và

phóng sự, Ngô Tất Tố đã trực tiếp tham gia xây dựng nền báo chí, tham dự vào quá trình

thúc đẩy sự phát triển văn chương quốc ngữ.

5. Những thành công và đóng góp của Ngô Tất Tố cĩ thể giải thích bằng nhiều nguyn

nhn: do ông luôn bám sát hiện thực đời sống và yêu cầu tranh đấu, phản ánh đúng v sâu sắc;

sự hiểu biết tường tận về x hội, lĩch sự, văn hóa; lối viết sắc sảo, hiện đại, và hấp dẫn người

đọc, hồn toàn làm chủ vấn đề và kĩ thuật thể loại, v.v. Tuy vậy phải thấy rằng, nguyn nhn cơ

bản mang ý nghĩa quyết định l tư tưởng tiến bộ, tình cảm yêu nước thương dân, lòng căm

thù mãnh liệt đã trở thành động lực thôi thúc ông sáng tác. Bi học lớn nhất từ thnh cơng của

Ngơ Tất Tố l phải đứng vững trên lập trường dân chủ, trên mảnh đất hiện thực để sống,

tranh đấu, v viết.

P. M. H

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Vũ Bằng (1993), Bốn mươi năm nói láo,Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

2. Đức Dũng (1992), Kí báo chí, Nxb Thông tin, Hà Nội.

3.

Nguyễn Đình Chú (1987), Cần nhận thức đúng thời kì văn học 1930- 1945, Nxb Văn

Học, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

5. Cao Đắc Điểm (2002), “Nhà báo Ngô Tất Tố – thên một lần đánh giá”, Tạp chí Người làm

báo( số 5).

6. Cao Đắc Điểm (2002), “Ngô Tất Tố với nghề làm báo”, Tạp chí Báo chí và tuyên truyền (số 5,

số 6)

7. Cao Đắc Điềm (2004), “Cái tâm làm báo và cách viết báo của Ngô Tất Tố”, Báo người Hà

Nội, số tết Giáp thân.

8. Hà Minh Đức (2000), Cơ sở lí luận báo chí đặc tính chung và phong cách, Nxb ĐHQG, Hà

Nội.

9. Hà Minh Đức (1971), Nhà văn và tác phẩm , Nxb Văn Học. Hà Nội.

10. Hà Minh Đức (1998), “Tiểu phẩm văn học và báo chí của Ngô Tất Tố”, Tạp chí văn học, (số

11).

11. Hà Minh Đức (1997), “Ngô Tất Tố nhà văn tin cậy của nông dân”, Sách Các nhà văn được

giải thưởng Hồ Chí Minh, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

12. Nguyễn Đức Đàn (1961), “Ngô Tất Tố một cây bút chiến đấu xuất sắc trong văn học Việt

Nam”, tạp chí nghiên cứu văn học, (số 3)

13. Nguyễn Đức Đàn (1974), “Ngô Tất Tố và thời đại”. Báo Văn nghệ, (số 44), ngày 5.4.

14. Nguyễn Đức Đàn – Phan Cư Đệ (1999), Bước đường phát triển tư tưởng nghệ thuật của Ngô

Tất Tố, Nxb Hội nhà văn. Hà Nội.

15. Phan Cư Đệ (1985), “Nhà văn Ngô Tất Tố”, Báo Nhân dân ngày 28.7.

16. Phan Cư Đệ (1993), “Ngô Tất Tố trong sự nghiệp đổi mới hôm nay”. Sách Ngô Tất Tố với

chúng ta. Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.

17. Phan Cư Đệ (1977), Ngô Tất Tố –tác phẩm, Nxb Văn học, Hà Nội.

18. Lữ Huy Nguyên – Phan Cư Đệ (1996), Ngô Tất Tố toàn tập, Tập I, NxbVăn học, Hà Nội.

19. Nhiều tác giả (1997), Phóng sự chọn lọc, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

20. Nhiều tác giả (2005), Phóng sự báo chí, Nxb Lí luận chính trị. Hà Nội.

21. Nhiều tác giả (1999), Văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Nhiều tác giả (2005), Vũ Trọng Phụng phóng sự và tiểu luận, Nxb Văn Học, Hà Nội.

23. Nhiều tác giả (1964), Sơ lược lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945. Nxb Văn học, Hà Nội.

24. Nhiều tác giả (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập V(1930-1945), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

25. Nhiều tác giả (2004), Từ điển văn học bộ mới, Nxb Thế Giới.

26. Lê Thị Đức Hạnh (1983), “Đặc sắc trong tiểu phẩm của Ngô Tất Tố”, Tạp chí văn học (số 6).

27. Lê Thị Đức Hạnh (1993). “Đóng góp của Ngô Tất Tố về báo chí”, Báo Người Hà Nội, tháng

5.

28. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

29. Bạch Văn Hợp (1985), Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, ĐHSP TPHCM.

30. Nguyên Hồng (1954), “Ngô Tất Tố”, Tạp chí văn nghệ (số 54), tháng8.

31. Mai Hương (1993), Ngô Tất Tố với chúng ta. Nxb Hội Nhà văn. Hà Nội.

32. Mai Hương (2003), Ngô Tất Tố một tài năng lớn và đa dạng, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.

33. Mai Hương – Tôn Hương Lan (2001), Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

34. Khoa Ngữ văn trường ĐHSP Hà Nội (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

35. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hoà văn học Việt Nam 1900-1945, Nxb Văn hoá

thông tin, Hà Nội.

36. Kim Lân (1997). “Những ngày sống với bác Tố”. Tuyển tập Kim Lân. Nxb Văn học, Hà Nội.

37. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

38. Phong Lê (2005), Về văn học Việt Nam hiện đại nghĩ tiếp…, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

39. Phương Lựu (2004), Lý luận và phê bình văn học, Nxb Đà Nẵng.

40. Nguyễn Đăng Mạnh – Nguyễn Đình Chí – Nguyên An, Tác gia văn xuôi Việt Nam

41. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, Nxb Giáo

dục.

42. Nguyễn Đăng Mạnh (1999) “Vũ Trọng Phụng- ông vua phóng sự”, Vũ Trọng Phụng Toàn

Tập, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

43. Vương Trí Nhàn (1994). “Nhà nho thức thời cây bút tình cảm Ngô Tất Tố”. Tạp chí văn học

(số 1).

44. Nguyễn Phan (1993). “Thân thế và văn nghiệp Ngô Tất Tố”. Tạp chí Văn học (Sài Gòn) (số

174).

45. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, Nxb Văn học, tái bản lần VI, Hà Nội.

46. Thế Phong (2004), Cuộc đời viết văn làm báo – Tam Lang – Tôi kéo xe, Nxb Tổng hợp, Đồng

Nai.

47. Bùi Huy Phồn (1958). “Đọc lại Việc làng”. Tạp chí Văn nghệ, (số 8).

48. Vũ Trọng Phụng, Phóng sự và tiểu luận (2005), Nxb Văn học, Hà Nội.

49. Vũ Quần Phương (1996). “Về tạp văn xã hội của Ngô Tất Tố”. Phụ san tạp chí Thế giới mới.

50. Phan Quang (1994), “Ngô Tất Tố đôi điều cảm nhận”. Báo Văn nghệ (ngày1.1).

51. Thiếu Sơn (1933), Phê bình và cảo luận, Nxb Nam Kí, Hà Nội.

52. Dương Xuân Sơn (2004), Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội.

53.

Trần Đình Sử- Phương Lựu- Nguyễn Xuân Nam (1997), Lí luận văn học,Tập II, Nxb

54. Tạ Ngọc Tấn (1999), Bàn về tiểu phẩm Ngô Tất Tố, sách Từ lý luận đến thực tiễn báo chí,

Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

55. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, Nxb Trẻ.

56. Hoàng Trung Thông (1985), “Nhớ mãi bác Ngô Tất Tố”, Tạp chí văn học (số 1).

57. Ngô Tất Tố, Việc làng tác phẩm và dư luận (2002), Nxb Văn học, Hà Nội.

58. Ngô Tất Tố, Tiểu phẩm báo chí (2005), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

59. Ngô Tất Tố, Chuyện người đương thời (2005), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

60. Ngô Tất Tố toàn tập, tập I (1996), Nxb Văn học, Hà Nội

61. Ngô Tất Tố, Lều chõng tác phẩm và dư luận (2002), Nxb Văn học, Hà Nội.

62. Hoài Việt (2005), Ngô Tất Tố một hành trình văn hoá, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

63. Lê Trí Viễn (1987), Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội.

64. Hoàng Dạ Vũ ( 1996), “Ngô Tất Tố và những luống cày”, Báo Văn nghệ, Hội nhà văn Việt

Nam, (số 43), ngày 26.10.

65. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2004), Phê bình văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX (1900-1945),

Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

66. J. A. Cuddon (1992), Literari Terms and Literary Theory, (tái bản lần 3), Penguin Books.

Giáo dục, Hà Nội.

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1: NIÊN BIỂU HOẠT ĐỘNG BÁO CHÍ CỦA NGÔ TẤT TỐ:

1983

- Sinh tại làng Cói Lộc Hà, kẻ Cói, xứ Đông ngàn , tỉnh Bắc Ninh. Nay là thôn Lộc Hà , xã

Mai Lâm huyện Đông Anh Hà Nội.

- Xuất thân trong gia đình Nho học có truyền thống hiếu học.

- Là con thứ hai nhưng là trưởng nam với bảy anh chị em ba trai bốn gái.

1898

- Lên sáu tuổi được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê.

- Lớn lên đi trọ học, sống ở nhiều làng quê trong vùng. Sau đó theo học tại huyện Lang Tài

và phủ Thuận Thành.

1906

- Thống sứ Bắc Kì ra nghị định, thi hương ngoài chữ Hán còn có bài thi chữ quốc ngữ và bài

thi chữ pháp từ tự nguyện đến bắt buộc.

1907

- Ngoài chữ Hán và chữ Nôm, phải đi học và biết chữ quốc ngữ.

1912

- Học tư chữ Pháp một thời gian ngắn

- Khai sổ ứng thí thi hương khoa Nhâm Tý.

- Qua được khảo hạch thì thi hương ở kì đệ nhất.

1913

- Dạy học chữ Hán ở Gia Thượng, Đông Trù.

1915

- Đỗ đầu khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh.

- Thi hương lần thứ hai, khoa At Mão – khoa thi hương cuối cùng ở Bắc ky. Qua được kì đệ

nhất nhưng bị hỏng ở kì đệ nhị.

- Dịch cuốn truyện cổ Trung Hoa Cẩm Hương đình.

1916

- Dạy học chữ Quốc ngữ ở những nơi trước đây mình dạy chữ Hán.

1923

- Sách Cẩm Hương Đình đứng tên Tống Lang Ngô Tất Tố do Tản Đà Tu thư cục và Nghiêm

Hàm An quán – Hà Nội ấn hành.

1926

- Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu mời Ngô Tất Tố cùng làm An Nam tạp chí.

- Trên mười số đầu của tạp chí, 24 lần có mặt bút danh Ngô Tất Tố, Lộc Hà Ngô Tất Tố.

- Viết những bài tranh luận về gia đình, bàn về nghĩa tự cường của đất nước, khảo dịch Thế

giới vĩ nhân liệt truyện, luận về quyền hạn của chính phủ và nhân dân, nhời dặn con cháu

của Trần Danh An…

- Đăng gọn truyện Ngô Việt xuân thu trên An Nam tạp chí.

1927

- Vào Sài Gòn với dự kiến viết cho An Nam tạp chí, nhưng không thành. Theo lời mời của

Diệp Văn Kì, ở lại viết cho Đông pháp thời báo.

1928

- Trên Đông Pháp thời báo với các bút danh Ngô Tất Tố, T., T.T., Ng.T.T., viết nhiều thể

loại báo chí, làm thơ, dịch thơ,bình thơ, khảo về tình hình jmột số nước đồng văn phương

Đông, dịch các truyện ngắn “Mẫu hậu thất tiết”, “Truyện Tạ Huyền”, các truyện dài “Hoàng

Hoa Cương”, “Giấc mộng lầu son” (Hồng lâu mộng)

1929

- Trên Thần Chung (Đông pháp thời báo) với các bút danh Ngô Tất Tố, N.T.T., Kim Ngô,

tiếp tục viết chuyên luận, dịch thơ, đăng khảo dịch nhiều kỳ “Vì sao Tàu phải lìa Nga”

1930

- Trên Đông phương mở chuyên mục “Nói chơi”, tiếp tục viết tiểu phẩm với các bút danh:

Thục Điểu, Dân Chơi. Ở các mục khác dùng các bút danh T., Lộc Hà, Ngoan Tiên, Ngô Tất

Tố, bàn về nghề báo và tranh luận về cách viết của Hoàng Tích Chu, Đăng các kí sự “Thăm

gò Đống Đa”, “Từ Hà Nội lên thăm Đền Hùng”

- Trên báo Ngọ viết kí sự “Đi thăm chùa hương”

1932

- Viết bài gửi báo Công luận, Đông pháp, Đuốc nhà Nam…

1933

-Với bút dnh Phó Chi, trên Thực nghiệm dân báo mở chuyên mục “Chuyện giữa giời”. Ở

các mục khác dùng các bút danh Thôn Dân, T.T., Lộc Hà, Ngô Tất Tố.

- Đứng tên Thọ dân y quán chủ nhân viết các bài bàn về soạn sách thuốc Tàu bằng chữ

Quốc ngữ.

- Mở cuộc tranh luận với Nguyễn Quốc Tuý bào Đông phương. Bình về bộ lại và Ngô Đình

Diệm. Trao đổi với Phan Khôi, Đào Duy Anh, Trần Trọng Kim, Nguyễn Khắc Hiếu…và

bàn về bút chiến với binh chiến.

1935

- Trên báo Công dân phê phán Phan Trần Chúc về việc viết truyện lịch sử

- Với bút danh Tuệ Nhỡn viết phóng sự “Dao cầu thuyền tán”.

1936

- Trên Tương lai dùng tên chính là bút danh Lộc Đình viết chính luận.

- Đăng truyện ngắn “Một ổ chó và một đứa con” một chương của Tắt đèn đứng tên Thôn

Dân.

1937

- Trên Tương lai mở chuyên mục “Nói mà chơi” viết tiểu phẩm với bút danh Phó Chi. Ở các

mục khác dùng các bút danh T., Lộc Đình, Tuệ Nhỡn, Ngô Tất Tố.

- Đăng truyện ngắn “Cái bánh trưng”, “Trời tối”.

- Tham gia hội nghị báo giới Bắc kì lần thứ nhất và thứ hai và cuộc đấu tranh của báo giới

đòi thả nhà báo Lê Bá Chấn, kết tội “phản đảng”những kẻ làm báo hoạt động phá ngang

chống lại phong trào báo giới

- Trên Tiểu thuyết thứ Ba: đăng truyện lịch sử “Vua Tây chúa Nguyễn”, phóng sự “Giết

người lấy của”, tiểu thuyết dã sử “Trong rừng nho”.

- Trên Việt nữ đăng toàn truyện “Tắt đèn”.

1938

- Trên Thời vụ mở chuyên mục “Gặp đâu nói đấy” sau chuyển thành “Thật hay bỡn” với bút

danh Xuân Trào, có khi viết tắt là XT.

- Trên các mục khác như “Làng tôi, Đời dân quê, Thời vụ thôn quê, Thời sự, Quốc tế, Thời

vụ các tỉnh”…dùng tên chính với các bút danh Đạm Hiên, T., Thuyết Hải, có khi viêt tắt là

T.H.

- Đăng “Đã đến lúc phải phê bình lại bộ Nho giáo của Trần Trọng Lim”, phóng sự “Làm no

hay cái ăn những ngày ngập nước”, kí sự “Nước non Cao Bằng”, “Thăm Yên Bái”.

- Viết kí chân dung “Cụ lang Bần, bác Bếp Thả, Cô Tây Hoản, Thầy Cò, Thầy học của tôi,

Người có danh vọng trong làng”…

1939

- Trên Thời vụ tiếp tục dùng các bút danh và chuyên mục như năm 1938.

- Đăng các truyện “Mớ rau trong hòm”, “Một vụ kiện”, phóng sự “Vài chấm nhỏ của thời

đại đã qua”, khảo dịch “Ngày xưa, ngày nay và ngày mai của nước Nhật Bản” đăng phóng

sự tiểu thuyết “Lều chõng”

- Trên báo Con Ong mở chuyên mục “Ném bùn sang ao”, viết tiểu phẩm với bút danh Phó

Chi. Đăng phóng sự “Tập án cái đình”

- Trên Tao đàn viết chân dung văn học Tản Đà và Vũ Trọng Phụng.

1940

- Trên Hà Nội tân văn viết phóng sự “Việc làng”, truyện cổ tích “Suối hoa đào”

- Trên Trung Bắc chủ nhật, đặc san của Trung Bắc tân văn mở chuyên mục “ Thơ và Tình”

với bút danh Cối Giang, trên các mục “Nguồn văn tìm vàng”, “Dưới mắt chúng tôi”… dùng

bút danh cối giang và T.

Từ 1941-1945

- Trên Đông Pháp (từ tháng 3, năm 1945 đổi thành Đông phát) với bút danh Hy Cừ viết 656

tiểu phẩm trên chuyên mục “Chuyện hàng ngày”

- Đăng liên tục các truyện dịch dài “Bóng Lê tàn” tức “Hoàng Lê nhất thống chí”, “Một đêm

đầu bạc”, “Tiếng tiêu đỉnh núi”

- Trên Ngày mai (Xuân At Dậu) viết hồi ký “Tết cổ điển”.

1945

- Tham gia cách mạng Tháng Tám ở quê nhà.

1946

- Gia nhập Hội Văn hoá cứu quốc.

- Dự Hội nghị Văn hoá cứu quốc tại Hà Nội

Từ 1947 đến 1954 trên Việt Bắc

- Đứng tên chính, viết Quà tết bộ đội, Buổi chợ Trung du, Gửi bạn, Vĩnh Thụy ca, Nữ chiến

sĩ Bùi Thị Phác, Anh Lộc… đăng trên các báo và tập san: Văn nghệ – Hội văn nghệ Việt

Nam, Cứu quốc.

- Dự Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ I.

- Được bầu vào Ban Chấp hành Hội Văn nghệ Việt Nam, là chi hội trưởng hội văn nghệ liên

khu 1, sau là hội văn nghệ Việt Bắc.

- Năm 1948 gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

1954

- Mất ngày 20 tháng 4 năm 1954, tức 18 tháng 3 năm Giáp Ngọ tại ấp Cầu Đen xã Quang

Tiến huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang.

1961

- Được truy tặng Huân chương Kháng chiến hạng nhất.

1963

- Lễ chuyển di hài cốt từ ấp Cầu Đen xã Quang Tiến huyện Yên Thế tỉnh Bắc Giang về

nghĩa trang liệt sĩ xã Mai Lâm huyện Đông Anh Hà Nội.

1975

- Ngay sau ngày giải phóng Sài Gòn, trường tiểu học Cơ Đốc đổi tên là trường cấp I-II Ngô

Tất Tố, từ 1996 là trường trung học- tiểu học Ngô Tất Tố tại quân Phú Nhuận, thành phố Hồ

Minh.

1985

- Tại quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh quyết định đặt tên đường Ngô Tất Tố. Và

năm 2000, kỷ niệm hai mươi lăm năm giải phóng Sài Gòn, đã khánh thánh chung cư lớn

mang tên Ngô Tất Tố.

1995

- Tại Hà Nội, lập giải thưởng báo chí Ngô Tất Tố thường xuyên, hàng năm. Và năm 2003

tiến hành nghiên cứu khoa học “Di sản báo chí Ngô Tất Tố – ý nghĩa lý luận và thực tiễn”

1996

- Được tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt I.

1998

- Hoàn thành xây dựng khu tưởng niệm đặt hài cốt tại quê hương.

- Thủ đô Hà Nội quyết định đặt tên phố Ngô Tất Tố ngay cạnh Khu Văn Miếu Quốc Tử

Giám. Trước đó (1995) có trường tiểu học Ngô Tất Tố và sau đó là trường dân lập Ngô Tất

Tố ở huyện Đông Anh.

2005

- Với 26 bút danh trên 27 bài báo và tạp chí trong Nam ngoài Bắc và trên chiến khu Việt

Bắc, tổng số tác phẩm đăng báo (tính đến đầu năm 2005) lên đến gần một nghìn năm trăm.

Trong số đó lượng mới tìm thêm gần một nghìn bốn trăm.

PHỤ LỤC 2: MỘT SỐ BÀI VIẾT MỚI VỀ NGÔ TẤT TỐ ĐĂNG TRÊN BÁO.

1. Ngô Đắc Điểm – “Cái tâm làm báo và cách viết của Ngô Tất Tố”

Ngô Tất Tố- nhà văn hoá nổi bật của đất nước trong thế kỉ XX với ba loại văn chương của

tác giả “Văn chương báo chí, văn chương phóng sự tiểu thuyết và văn chương khảo cứu”.

Quả đúng như vậy! Di tác to lớn mới tìm thấy cho biết: sự nghiệp văn chương của Ngô Tất

Tố trải rộng trên những năm lĩnh vực, ngoài ba loại trên còn có cả văn chương khoa học lịch

sử và văn chương dịch thuật.

Ngay trong tác phẩm đầu tay – sách dịch Cẩm Hương Đình, xuất bản lần thứ nhất

cách đây 80 năm, người đọc dễ nhận ra cách viết quốc văn gảy gọn, dễ hiểu của Ngô Tất

Tố. Không đi sâu vào lao động dịch thuật, một sở trương trong năm thế trận văn chương của

Ngô Tất Tố, nhưng trận thử bút đầu đời của tác giả cho thấy rõ ràng: nếu không nắm vững

tư duy ngôn ngữ và điều khiển thành thạo cả hai ngôn ngữ, ngôn ngữ được dịch là Hán văn

và ngôn ngữ dịch là quốc văn thì không tài nào chuyển ngôn ngữ thành công như thế.

Quả là ngạc nhiên với dịch giả vừa đỗ đầu xứ, mới 22 tuổi, học chữ quốc ngữ chẳng

được bao lâu, đâu đã tiếp cận được nhiều với văn hoá Âu Tây hồi đo, mà khi dịch truyện cổ

nước ngoài khiến cho độc giả không chỉ ngày nay mà chắc hẳn bạn đọc viết quốc văn ngày

đó đều cảm giác như đọc truyện trong nước.

Càng đi sâu vào khảo cứu di sản báo chí của tác giả càng nhận ra bản năng thấu hiểu

tư duy ngôn ngữ mẹ đẻ và nội lực tài tình điều khiển ngôn ngữ tiếng Việt của Ngô Tất Tố

Trong khi phê bình lối viết báo “cột lốc quay cuồng lộn ngược” của Hoàng Tích Chu

(1931), Ngô Tất Tố “nguyện có thần ngòi bút” đã nêu rõ : “Chữ quốc ngữ mang tiếng là

nôm na, nhưng chữ nào cũng có nghĩa nấy”, “đã gọi là văn thì ngoài sự đạt ý còn phải theo

thế câu mà đặt chữ”, tác giả hết sức coi trọng “chữ dùng tiếng đặt”, viết “phải tuân theo luật

thiên nhiên của chữ quốc ngữ”, viết như nói và phải theo “thói quen của cha ông mình vẫn

nói” tác giả viết như nói nhưng không hạ thấp chuẩn mực của văn viết.

Nghệ thuật lặp từ và tài nhân hoá là yếu tố quan trọng tạo nên sức hấp dẫn và lôi

cuốn bạn đọc trong quá trình bút chiến và luận chiến. Khi viết bất cứ cái gì nhân cách hoá

được, tác giả đều thành thục nhân cách hoá, từ những vật vô tri vô giác cho đến những hiện

tượng sự việc tưởng như phức tạp khó hiểu

Tất cả thủ pháp và kỹ xảo trong nghề viết như nêu trên của tác giả chỉ là công cụ và

phương tiện để thực hiện ý tưởng nhất quán, trước sau như một; là viết công khai mọi sự

thật “viết xác chỉ, trực diện, chính diện”, không mập mờ phiếm chỉ, không viết bóng nói gió.

Tác giả phê phán gay gắt cách viết “mập mờ, điêu ngoa, giả dối mạ lại tin tức”, quyết liệt

chống lại “lối văn ăn gian, lối văn bịp, bịp với ăn gian cùng là một môn”

Ngô Tất Tố nhấn mạnh “nghề viết cần phải có đức thật thà, nghĩa là cái gì mình biết

thì hãy nói, mà đã nói thì phải nói rõ ràng gãy gọn”

Báo chí Ngô Tất Tố bao gồm nhiều thể loại, trong đó cây cột sống là tiểu phẩm. Cái

thần tình, cái độc đáo của tiểu phẩm phải là: nhân kể lại cụ thể mọi sự việc diễn ra trong

cuộc đời, người viết vận dụng vốn sống, nguồn hiểu biết, tài cấu tạo và biểu đạt của mình để

uyển chuyển “xuất thần” cái điều mà tác giả định nêu ra với bạn đọc, cái điều bao hàm một

ý tứ khác hơn, cao hơn, xa hơn, thâm thuý hơn…so với sự đời, chuyện đời vừa kể. Ay đấy!

Cái khó, cái thành công của tiểu phẩm là ở chỗ đó. Không phải toàn bộ tiểu phẩm của Ngô

Tất Tố là tuyệt hảo, nhưng hầu hết tiểu phẩm của tác giả đã thành công, được độc giả tán

đồng và trụ lại với thời gian, chính là nhờ biệt tài “xuất thần”

Báo chí Ngô Tất Tố đề cập toàn diện, nhiều chiều đến mọi mặt cuộc sống và thực

trạng xã hội nước ta nữa đầu thế kỷ XX, không chỉ vạch trần những điều ác, mà ngợi ca

những điều lành điều thiện, không chỉ viết về dân quê thôn làng , mà toàn cảnh đến các giai

tầng đang phân hoá trong xã hội, đến sự biến động ghê gớm chốn thành thị, cả xứ thuộc địa

trời Nam lẫn đất bảo hộ phương Bắc.

Tính nhân văn cao cả, tấm lòng rất mực yêu thương quí trọng con người, tư tưởng xã

hội thấm đượm nhân bản khắc sâu vào tâm não, hoa nhập trong xương máu đã hun đúc nên

cốt cách tâm thức làm báo của Ngô Tất Tố, đã thôi thúc Ngô Tất Tố viết báo để thực hiện

ước nguyện suốt đối đam mê can thiệp và ham muốn tận cùng gánh vác việc đời. Tích

cương trực của người thực học, khí tiết của con người biết tôn trọng và giữ gìn truyền thống,

đã không dập khuôn nguyên mẫu mà ngoan cường giao hoà được tinh hoa đạo làm người

của nho học với tâm linh cao đẹp của tổ tiên dân tộc và đặc biệt hơn nữa, độc đáo hơn nữa

là không xu thời trước tràn ngập của Âu hoá, mà biết chọn lục những xu hướng tiên tiến của

phương Tay và thế giới bên ngoài.

Nhờ vậy đã tạo nên những “sắc thái Ngô Tất Tố” độc lập, mới lạ, bất ngờ vẫn trong

một “con người Ngô Tất Tố” bình dị, thân quen.

Bên cạnh tài hoa thiên bẩm, tư cách nghề nghiệp quý báu hàng đầu của Ngô Tất Tố

là miệt mài đến đam mê học hỏi. Ngô Tất Tố xác định: “Học thầy chưa đủ, học những ông

cô bà dì, ông chú bà bác cũng vẫn chưa đủ… người ta còn phải tốn nhiều công phu: bề cao

còn phải thu lượm từ thời thượng cổ trở xuống, bề rộng còn phải góp mặt từ bốn phương trở

về”, sao cho “người ta đẻ vào đời nay mà biết tư tưởng của người xưa, sống ở xứ này mà

biết công việc ở xứ khác.

Báo Người Hà Nội, số tết Giáp Thân, 2004

2. Nguyễn Chí Mỳ: “Ngô Tất Tố- một nhân cách làm báo”.

Ngô Tất Tố là nhà báo lớn của làng báo nước ta, là kiện tướng của dòng báo chí công khai

yêu nước tiến bộ, là nhà văn hàng đầu sáng lập nền văn học mới, là nhà văn hoá nổi tiếng

của đất nước thế kỉ XX.

Ngô Tất Tố là người Hà Nội, hoạt động báo chí của Ngô Tất Tố chủ yếu diễn ra ở đất

Hà Nội. Trên lĩnh vực báo chí Ngô Tất Tố là niềm tự hào của báo giới Thủ Đô. Hà Nội

chúng ta có giải báo chí Ngô Tât Tố được tổ chức thành công thường xuyên hàng năm, từ

năm 1996 đến nay.

Ngô Tất Tố là kí giả lão luyện, suốt đời đam mê say đắm và hết lòng với nghề báo,

lấy hứng thú làm báo viết báo là lẽ sống, làm con đường tồn tại. Phải chăng đây là cái đức

hàng đầu của nhân cách làm báo. Trên trận địa sôi động của báo chí hiện nay, ai đó một khi

nhiệt huyết với nghề chớm bị thuyên giảm , cái tình với ngừ đời vưa kém tình nồng hậu , sự

nhạy bén với sự đời hơi lơi lỏng một chút … là ngay lập tức báo động thảm cảnh người đó

đang bắt đầu lìa khỏi đội ngũ báo giới hoặc đang lâm vào nguy cơ chân trong chân ngoài

với nghề mà không biết

Ngô Tất Tố tiêu biểu cho lớp kí giả vừa sáng tác vừa ý thức cao về nghề báo. Là nhà

báo có bản lĩnh đặc biệt, nhiều lần tự biến đổi, đã vượt lên chính mình Ngô Tất Tố trân

trọng và hết lòng giữ gìn truyền thống tốt đẹp, tự chủ của đất nước, quyết liệt nâng cao ý

thức dân tộc và khát hao hướng tới hiện đại.

Ngô Tất Tố làm báo viết báo dựa trên tầm cao vận dụng tài tình cốt cách văn hoá

Phương Đông với tinh hoa tiên tiến hiện đại của văn hoá Phương Tây.

Dũng khí và trí tuệ làm báo, tính dân tộc và tính hiện đại trong báo chí Ngô Tất Tố ,

năng lực ngoại ngữ uyên thâm- đối với tác giả là Hán học, là những bài học sáng giá, còn

nguyên giá trị đối với chúng ta, những người làm báo cách mạng giữa buổi bùng nổ dữ dội

của thông tin và công nghệ thông tin hiện nay

Báo Người Hà Nội, số tết Giáp Thân, 2004

PHỤ LỤC 3: MỘT SỐ HÌNH ẢNH CHỤP ĐƯỢC TRONG CHUYẾN VỀ THĂM

QUÊ HƯƠNG NGÔ TẤT TỐ

Hình 1: Toàn cảnh khu mộ Ngô Tất Tố

Hình 2: Mộ Ngô Tất Tố xây năm 1999.

Hình 3: Nhà của gia đình Ngô Tất Tố, xây năm 1968 (trên nền nhà cũ), sau khi Ngô tất Tố mất hơn 10 năm.

Hình 4: Ngôi Nhà hiện tại (xây năm 2006, trên nền nhà cũ). Hiện nay gia đình cháu trai trưởng của Ngô Tất

Tố đang sinh sống.

Hình 5: Toàn cảnh nhà con cháu Ngô Tất Tố tại Lộc Hà.

Hình 6 – 7: Ngôi Đình làng.

Nơi đây ngày xưa đã từng tồn tại biết bao hủ tục của làng Lộc Hà. Năm 1960 đã được xây dựng lại trên nền

ngôi đình cũ. Hiện nay dùng để hội họp và sinh hoạt văn hoá, văn nghệ của làng.

Ngày 10 tháng 3, Thôn Lộc Hà tổ chức ngày hội làng. Mội gia đình đóng góp một ít tiền, còn lại trích từ quỹ

của thôn, che rạp trước sân đình và tổ chức ăn uống vui vẻ. Ngày nay những hủ tục ở làng Lộc Hà cũng như

ở các làng khác của nông thôn Việt Nam đã không còn tồn tại. Khẳng định những quan điểm, tư tưởng của

Ngô Tất Tố trong quá khứ là đúng, là nhìn xa trong rộng.

Hình 8: Bàn thờ Ngô Tất Tố cùng vợ và các con. Bộ lục bình “cá chép hoá rồng” là kỉ vật từ thời

Ngô Tất Tố để lại.

Hình 9:

Huân

chương kháng chiến hạng nhất của Ngô Tất Tố

Hình 10: Bìa hai quyển sách xuất bản năm 2005, do Cao Đắc Điểm (con rể Ngô Tất Tố, chồng bà Ngô Thị Thanh Lịch) sưu tầm và biên soạn. Giới thiệu những tác phẩm của Ngô Tất Tố đăng trên báo, mới được tìm thấy qua việc tìm hiểu bút danh của ông.