BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐAI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM THẾ KỶ XX
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Hà Nội - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐAI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI NGUYỄN THỊ THANH XUÂN
TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM THẾ KỶ XX
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Văn Phƣợng PGS. Nguyễn Văn Long
Hà Nội - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này là của cá
nhân tôi. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu và nội
dung được trình bày trong Luận ántrung thực và chưa
từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.Tôi xin
hoàn toàn chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
NGHIÊN CỨU SINH Nguyễn Thị Thanh Xuân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 2
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu....................................................................... 2
2.1. Đối tượng nghiên cứu ......................................................................................... 2
2.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ...................................................................................... 2
4.1. Phương pháp phân tích tác phẩm văn học ........................................................ 2
4.2. Phương pháp so sánh .......................................................................................... 3
4.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học ................................................................... 3
4.4. Phương pháp liên ngành .................................................................................... 3
5. Đóng góp của luận án ............................................................................................ 3
6. Cấu trúc của luận án ............................................................................................. 3
NỘI DUNG ............................................................................................................... 4
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .................................. 4
1.1. Nhận thức về các khái niệm cơ bản .................................................................. 4
1.1.1. Khái niệm phóng sự ......................................................................................... 4
1.1.2 . Khái niệm tiểu thuyết ...................................................................................... 5
1.1.3. Khái niệm tiểu thuyết phóng sự ...................................................................... 6
1.2. Điểm lại tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết phóng sự ................................ 13
1.2.1. Về tiểu thuyết phóng sự giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945 .................... 13
1.2.2. Về tiểu thuyết phóng sự giai đoạn từ1945 đến 1975 ..................................... 18
1.2.3. Về tiểu thuyết phóng sự giai đoạn từ sau 1975 đến hết thế kỷ XX .............. 20
1.3. Đề xuất hƣớng nghiên cứu của luận án .......................................................... 25
CHƢƠNG 2: TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐẾN 1945 ................................................................................................................... 26
2.1. Các tiền đề lịch sử - xã hội, văn hoá, văn học ................................................. 26
2.1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội .................................................................................... 26
2.1.2. Tiền đề văn hoá ............................................................................................... 27
2.1.3. Tiền đề văn học ................................................................................................ 29
2.2. Sự hình thành và diện mạo tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến
1945 ............................................................................................................................ 30
2.2.1. Sự hình thành tiểu thuyết phóng sự .............................................................. 30
2.2.2. Diện mạo tiểu thuyết phóng sự ....................................................................... 33
2.3. Những thành tựu của tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945 .... 35
2.3.1. Thành tựu về nội dung .................................................................................... 35
2.3.1.1. Sự lên tiếng kịp thời về các vấn đề nóng hổi của xã hội nông thôn Việt Nam
dưới chế độ thực dân, phong kiến ............................................................................. 35
2.3.1.2. Phơi bày và phản biện đanh thép các vấn đề bức xúc của đô thị Việt Nam
dưới chế độ thực dân, phong kiến .............................................................................. 39
2.3.1.3. Phê phán tái hiện sắc sảo chế độ khoa cử lỗi thời, qua đó phê phán phong
trào phục cổ .............................................................................................................. 50
2.3.2. Thành tựu về nghệ thuật ................................................................................ 54
2.3.2.1. Nghệ thuật kết cấu: sự dung hợp độc đáo giữa tiểu thuyết và phóng sự ... 54
2.3.2.2. Nhân vật - những điển hình bất hủ ............................................................... 59
CHƢƠNG 3: TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1975 . 72
3.1. Vài nét về bối cảnh lịch sử - xã hội và văn hoá tƣ tƣởng .............................. 72
3.2. Sơ lƣợc diện mạo tiểu thuyết phóng sự giai đoạn 1945 – 1975..................... 73
3.3. Một số thành tựu của tiểu thuyết phóng sự 1945 – 1975 .............................. 75
3.3.1. Nhạy bén trong vấn đề nông thôn .................................................................. 75
3.3.2. Cập nhật tinh thần chiến đấu của quân và dân ta-kịp thời phát hiện vấn đề
trong cuộc chiến đấu ................................................................................................. 85
3.3.3. Phát hiện mặt trái ở thành thị ........................................................................ 90
CHƢƠNG 4: TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN HẾT
THẾ KỶ XX .............................................................................................................. 94
4.1. Những bối cảnh lịch sử - xã hội, văn hóa, văn học từ 1975 đến hết thế kỷ XX ..... 94
4.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội ................................................................................. 94
4.1.2. Bối cảnh văn hóa ............................................................................................. 95
4.1.3. Bối cảnh văn học ............................................................................................. 96
4.2. Diện mạo của tiểu thuyết phóng sự từ 1975 đến hết thế kỷ XX ................... 97
4.3. Những thành tựu của tiểu thuyết phóng sự từ 1975 đến hết thế kỷ XX ... 100
4.3.1. Thành tựu về nội dung .................................................................................. 100
4.3.1.1. Tinh thần nhập cuộc, tham gia trực tiếp vào các vấn đề thời sự nóng bỏng
gay gắt của đời sống xã hộ ....................................................................................... 100
4.3.1.2. Tinh thần chống tiêu cực và đề xuất các giải pháp xã hội ......................... 110
4.3.1.3. Nhận thức lại hiện thực nông thôn ............................................................. 118
4.3.2. Thành tựu về nghệ thuật .............................................................................. 122
4.3.2.1. Tinh thần tìm tòi và cách tân thể loại ......................................................... 122
4.3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đa dạng ...................................................... 129
4.3.2.3. Một số đóng góp về ngôn ngữ ..................................................................... 140
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ .................................................... 151
TÀI LIÊU THAM KHẢO ..................................................................................... 152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Cho đến những năm cuối thế kỉ XX, tiểu thuyết Việt Nam đã có diện mạo đa
dạng của tiểu thuyết hiện đại với nhiều xu hướng khác nhau, tiểu thuyết lịch sử, tiểu
thuyết tự thuật, tiểu thuyết huyền ảo, tiểu thuyết hoạt kê, tiểu thuyết trinh thám, tiểu
thuyết khoa học…trong đó có tiểu thuyết phóng sự. Mỗi loại nói trên, trong tư cách
là một thể tài, phải trải qua các chặng đường: hình thành, vận động và phát triển
đồng thời tạo nên những kết tinh nghệ thuật riêng, chứa đựng cả một lịch sử phong
phú, hấp dẫn cần được nghiên cứu.
1.2. Tiểu thuyết phóng sự là một thể tài năng động, nó nhạy bén với những vấn đề
bức xúc, kịp thời phản ánh và lên tiếng thể hiện quan điểm riêng trước các vấn đề
đó. Ưu thế của tiểu thuyết phóng sự trước hết là ở sự tiếp cận hiện thực đời sống
nhanh nhạy, quan tâm kịp thời và tập trung cao độ vào những vấn đề chính trị xã hội
đang được công chúng chú ý, rất nhạy bén nhận ra hiện thực mới, dũng cảm xông
vào chiếm lĩnh nó bằng phương thức hiệu quả nhất. Tiểu thuyết phóng sự đồng thời
làm được cả hai việc: nhận diện, miêu tả và đề xuất những kiến nghị cùng bạn đọc.
Do đó tiểu thuyết phóng sự đã tạo nên hiệu ứng bất ngờ có tác dụng dây chuyền, lan
rộng thấm sâu vào đời sống xã hội tạo nên sự gắn bó mật thiết và kịp thời giữa văn
chương với đời sống.
1.3. Tiểu thuyết phóng sự thế kỉ XX, cũng như các thể loại khác, đến nay đã góp
vào gia tài tiểu thuyết Việt Nam một di sản không nhỏ. Tuy nhiên, chưa có công
trình chuyên biệt nào nghiên cứu, tìm hiểu về vấn đề này. Với luận án nghiên cứu về
tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỉ XX, tác giả đề tài muốn tìm hiểu về sự vận
động và những thành tưụ, đóng góp của tiểu thuyết phóng sự trong tiến trình văn
xuôi Việt Nam thế kỉ XX.
Từ việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX,
điểm lại các công trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: hầu hết các nghiên cứu mới
chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát các tác giả, tác phẩm cụ thể. Ở thời điểm thập kỉ đầu
của thế kỉ XXI nhìn lại, chúng tôi thấy chưa có một công trình chuyên biệt nào
2
nghiên cứu về sự xuất hiện và quá trình vận động, phát triển của thể tài tiểu thuyết
phóng sự Việt Nam của một thế kỷ vừa đi qua. Bởi vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu và
nghiên cứu vấn đề này trên cơ sở gợi mở và kế thừa những người đi trước để làm rõ
sự vận động và khẳng định giá trị của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX. Trong quá
trình tìm hiểu đề tài chúng tôi tập trung vào tác phẩm tiêu biểu kết tinh những thành
tựu của tiểu thuyết phóng sự trong mỗi giai đoạn văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi tìm hiểu sự xuất hiện của tiểu thuyết phóng sự, diện mạo, tình hình
sáng tác ở từng giai đoạn. Lựa chọn, khảo sát, nghiên cứu các tác phẩm đã được
đánh giá cao để chỉ ra mạch vận động của thể tài tiểu thuyết phóng sự trong thế kỷ
XX. Để nhận diện rõ hơn, luận án còn tìm hiểu một số hiện tượng có liên quan đến
đối tượng: thể tài phóng sự, tác phẩm thể hiện sự ghi chép trong văn học Trung đại,
tác phẩm ký sự là tiền đề, cội nguồn góp phần xuất hiện thể tài tiểu thuyết phóng sự
trong thế kỷ XX, tiểu thuyết phóng sự trong thế kỷ XXI. Một số tác phẩm có yếu tố
phóng sự trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận án là cung cấp một công trình có tính bao quát, toàn diện về
tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX. Luận án đặt ra nhiệm vụ xác định khái
niệm, các quan niệm về tiểu thuyết phóng sự, khảo sát di n biến của thể tài này qua
các giai đoạn để thấy được sự phong phú của tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết
phóng sự nói riêng làm rõ sự vận động của tiểu thuyết phóng sự trong tiến trình phát
triển văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: Được sử dụng phân tích các cứ liệu
cụ thể trong tác phẩm văn học để minh chứng cho những nhận định, những khái
quát trong luận án.
3
4.2. Phương pháp so sánh: Đặt đối tượng nghiên cứu trong mối tương quan với các
thể tài tiểu thuyết khác để thấy rõ đặc điểm và đóng góp riêng của tiểu thuyết phóng
sự, chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt của thể tài tiểu thuyết phóng sự với
tiểu thuyết khác trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX.
4.3. Phương pháp tiếp cận thi pháp học: Luận án vận dụng các khái niệm thi pháp
học để tìm hiểu cách thức tiếp cận, khám phá hiện thực của tiểu thuyết phóng sự tìm
ra đặc sắc nghệ thuật trong kết cấu, cách xây dựng nhân vật, ngôn ngữ độc đáo mới
lạ của tiểu thuyết phóng sự.
4.4. Phương pháp liên ngành: Tiểu thuyết phóng sự là thể tài có sự gần gũi với thể
phóng sự, vì vậy cần huy động những tri thức liên ngành báo chí và văn học, tìm
hiểu những đặc điểm của thể tài, phân biệt với các thể tài báo chí và văn học khác.
5. Đóng góp của luận án
Luận án là công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu một cách tương đối toàn
diện và hệ thống về tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX. Luận án chỉ ra sự
đóng góp của thể tài này trong bức tranh chung của nền văn xuôi Việt Nam thế kỷ
XX. Luận án sẽ dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên cứu cho giáo viên, học sinh các
trường phổ thông, sinh viên, học viên ngành Ngữ văn các trường Cao đẳng, Đại học
và những ai quan tâm đến thể tài này.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án được triển khai làm 4 chương
Chƣơng 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Chƣơng 3: Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam từ 1945 đến 1975
Chƣơng 4: Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam từ 1975 đến hết thế kỷ XX
4
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Nhận thức về các khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm phóng sự
Thể loại phóng sự ra đời rất sớm ở phương Tây, từ thế kỷ XVI, cùng với sự
xuất hiện của báo chí và các phương tiện in ấn công nghiệp, do đòi hỏi thông tin của
xã hội nên phóng sự ở thời kỳ này còn mang nặng tính chất thông tin, đơn giản về
các sự kiện. Ở Việt Nam, phóng sự chỉ thực sự phát triển từ thập kỷ 30 của thế kỷ
XX nhưng mau chóng đạt được những thành tựu rực rỡ, đóng vai trò là một trong
những thể văn xuôi xung kích trong đời sống báo chí. Đã có rất nhiều nhà nghiên
cứu đưa ra định nghĩa về thể loại này:
Từ điển thuật ngữ văn học do GS.TS Trần Đình Sử bổ sung, chỉnh lí, Nxb Giáo
dục, tái bản 2004, đã đưa ra cách hiểu về phóng sự như sau:
Phóng sự (tiếng Pháp: reportage): một thể thuộc loại hình kí. Phóng sự ghi chép
kịp thời những vụ việc nhằm làm sáng tỏ trước công luận một sự kiện, một vấn đề
có liên quan đến hoạt động và số phận của một hoặc nhiều người và có ý nghĩa thời
sự đối với một địa phương hay toàn xã hội. Mục đích của phóng sự là cung cấp cho
công chúng những tri thức phong phú đầy đủ, chính xác, để họ có thể nhận thức,
đánh giá đúng người và việc mà họ đang quan tâm theo dõi. Vì thế, người viết
phóng sự thường sử dụng những biện pháp nghiệp vụ báo chí như điều tra, phỏng
vấn, đối thoại, ghi chép tại chỗ…Ngày nay họ còn sử dụng cả những phương tiện
máy móc (máy ảnh, máy ghi âm, máy quay phim...) vào công việc này. Việc sử
dụng một số phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ
giàu hình ảnh hướng vào thế giới bên trong (ở một mức độ nhất định) của nhân
vật… khiến cho phóng sự vốn từ báo chí, có thể trở thành văn học, một số tác phẩm
thuộc loại này thường được chấp nhận như là những tác phẩm văn học có giá trị
[112, tr.257].
Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến, trong khi so sánh các đặc điểm về thể loại
đã nhận xét: "Trong số các thể ký văn học, có lẽ thể phóng sự là thể loại gần với
5
ký báo chí hơn cả" [51]. Trong phóng sự, vai trò cái tôi trần thuật - nhân chứng
khách quan rất quan trọng. Trải qua một quá trình vận động và phát triển, lý luận
về phóng sự hình thành và từng bước được phát triển gặt hái nhiều thành công,
từng bước được cụ thể hoá, có đường nét, có góc cạnh rõ ràng. Thể loại phóng sự
trên thế giới và ở nước ta hiện nay dần ổn định và trở thành một thể tài có nội
dung và hình thức khu biệt, đạt được nhiều thành tựu đáng kể, ngày càng phát
triển phong phú, đa dạng. Nó nằm trong các thể loại ký báo chí của hệ thống thể
loại báo chí, có diện mạo riêng, có lý luận thể loại riêng.
1.1.2. Khái niệm tiểu thuyết
Có nhiều định nghĩa về tiểu thuyết, ở đây chúng tôi chỉ xin trích dẫn một số ý
kiến tiêu biểu:
Mikhain Bakhtin di n giải về tiểu thuyết như sau: "Tiểu thuyết là thể loại văn
chương duy nhất luôn luôn biến đổi, do đó nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn,
nhạy bén hơn sự biến chuyển của bản thân hiện thực. Chỉ có kẻ biến đổi mới hiểu
được sự biến đổi. Tiểu thuyết sở dĩ đã trở thành nhân vật chính trong tấn kịch phát
triển văn học thời đại mới, bởi vì nó là thể loại duy nhất do thế giới mới ấy sản sinh
ra và đồng chất với thế giới ấy về mọi mặt. Tiểu thuyết về nhiều phương diện đã và
đang báo trước sự phát triển tương lai của toàn bộ văn học"[2].
Như vậy, theo quan niệm về tiểu thuyết của Mikhain Bakhtin thì tiểu thuyết là
một thể loại luôn luôn biến đổi, sinh thành. Nói đến tiểu thuyết là nói đến cái nhìn
cuộc sống như một thực tại đang vận động với vô vàn yếu tố ngổn ngang bề bộn, là
nói tới các hình tượng nhân vật độc đáo - những con người nếm trải chịu nhiều khổ
đau dằn vặt của cuộc đời…một cách khái quát nhất.
Từ điển Thuật ngữ văn học định nghĩa: "Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có
khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu
thuyết có thể phản ánh được số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong
tục, đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính
cách đa dạng" [112]. Theo cách hiểu này, trong quá trình vận động và phát triển,
6
diện mạo của tiểu thuyết không ngừng thay đổi. Tuy vậy, vẫn có thể rút ra một số
đặc điểm sau:
Đặc điểm tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư,
yếu tố đời tư càng phát triển thì chất tiểu thuyết càng tăng.
Đặc điểm thứ hai là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc sống, không thi vị
hoá, lãng mạn hoá, lý tưởng hoá. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời,
đang sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn
bao gồm cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười, bi và hài, cái lớn
lẫn cái nhỏ.
Thứ ba, nhân vật của tiểu thuyết là "con người nếm trải", tư duy, chịu nhiều khổ
đau, dằn vặt của cuộc đời. Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con người biến đổi
trong hoàn cảnh, con người đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo.
Thứ tư, ngoài thành phần chính yếu của tiểu thuyết là cốt truyện, nhân vật, tiểu
thuyết còn được tạo dựng bởi hệ thống sự kiện, biến cố và những chi tiết tính cách,
suy tư của nhân vật về thế giới, về đời người, phân tích cặn kẽ các di n biến tình
cảm, trình bày tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ giữa người và
người, về đồ vật, môi trường,…
Đặc điểm thứ năm, tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ, cho phép người
trần thuật có thể có thái độ thân mật, thậm chí suồng sã đối với nhân vật của mình từ
giọng điệu đến ngôn ngữ.
Tóm lại, tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả
năng nghệ thuật của các thể loại khác.
1.1.3. Khái niệm tiểu thuyết phóng sự
Ở Việt Nam hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa chính thức đầy đủ về tiểu
thuyết phóng sự. Thuật ngữ tiểu thuyết phóng sự được nhắc tới đầu tiên từ công
trình Nhà văn hiện đại (quyển thượng) (1943) của Vũ Ngọc Phan. Vũ Ngọc Phan để
hẳn một mục đề "Tiểu thuyết phóng sự" thể hiện sự quan tâm đến vấn đề này. Ông
nhận xét về Bút nghiên của Chu Thiên như sau: "tập Bút nghiên của ông tuy đề là
tiểu thuyết trơn, nhưng có thể coi như là một tập ký sự về cái lối đi học đi thi của
7
ông cha chúng ta thuở xưa, hay đặt nó vào loại tiểu thuyết phóng sự cũng được"
[110]. Tóm lại, ta có thể hiểu, trong quan niệm của Vũ Ngọc Phan, tiểu thuyết
phóng sự là sự kết hợp giữa tiểu thuyết với phóng sự, là một dạng ghi chép, trình
bày về sự việc đồng thời phản ánh một cách có nghệ thuật về đời sống bên trong của
con người, có tình tiết có dẫn chứng. Không trực tiếp định nghĩa về tiểu thuyết
phóng sự nhưng qua cách phân tích, di n giải của Vũ Ngọc Phan, ông hiểu rằng tiểu
thuyết phóng sự là sự kết hợp giữa điều tra ghi chép một hiện trạng, một vấn đề xã
hội và đồng thời thể hiện những điều đó qua tính cách số phận của con người. Quan
niệm của Vũ Ngọc Phan rõ ràng là chưa đầy đủ, còn phiến diện vì ông chưa quan
tâm đến tính thời sự nóng hổi của thể tài. Những tác phẩm đậm đặc tính thời sự như:
Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Vũ Ngọc
Phan đã không xếp vào tiểu thuyết phóng sự mặc dù ông vẫn quan tâm đến cách
viết, cách miêu tả, cách lập truyện và xếp các nhà văn này vào trong mục: những
nhà viết phóng sự.
Tiếp sau Vũ Ngọc Phan, một số nhà nghiên cứu phê bình và học giả cũng quan
tâm đến thể tài tiểu thuyết phóng sự ở những góc độ khác nhau như: GS Trương
Chính, GS Nguy n Đăng Mạnh, GS.TS Trần Đăng Suyền, Nguy n Hoài Thanh, TS
Trần Đăng Thao, nhà báo Hoài Việt, ….
Khi đánh giá về ngòi bút sắc sảo theo lối hiện thực phê bình của Vũ Trọng
Phụng, GS Trương Chính đã quan tâm đến thể tài tiểu thuyết phóng sự như sau:
“ ng Vũ Trọng Phụng đã d ng tài phóng sự của ông để viết Giông tố và chúng ta
có thể nói: “Giông tố chính là một phóng sự viết thành tiểu thuyết” [22, tr.148].
Khi viết lời giới thiệu cho tập phóng sự nghệ lấy Tây, GS Nguy n Đăng
Mạnh đã đề cập đến thể tài tiểu thuyết phóng sự khi đưa ra thiên hướng hoà trộn
giữa tiểu thuyết và phóng sự trong các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng: “Vũ Trọng
Phụng dường như sinh ra để viết phóng sự và tiểu thuyết” [87, tr.206], bởi phóng sự
của Vũ Trọng Phụng có yếu tố tiểu thuyết và tiểu thuyết của ông thường có nhiều
chất phóng sự.
8
Tìm hiểu về chất phóng sự trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, Nguy n Hoài
Thanh cũng chạm đến sự giao thoa giữa phóng sự và tiểu thuyết: “Trong các tiểu
thuyết của Vũ Trọng Phụng đều ít nhiều có chứa cái “giọng” phóng sự" [135,
tr.484], đồng thời bước đầu tìm hiểu được chất phóng sự thể hiện trên một số
phương diện nội dung và nghệ thuật trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng.
Thuật ngữ tiểu thuyết phóng sự được nhắc tới trong luận án Phó tiến sĩ của Trần
Đăng Thao khi ông đã dành hẳn một chương “giới thuyết về tiểu thuyết phóng sự”
và một mục nghiên cứu về “khả năng tiểu thuyết hoá các chất liệu phóng sự” của
Vũ Trọng Phụng [140, tr.12]. Luận án Tiến sĩ của Nguy n Thành khi nói về tiểu
thuyết Vũ Trọng Phụng cũng chú ý đến sự dung hợp hai thể loại phóng sự và tiểu
thuyết trong sáng tác của ông. Nguy n Thành đã tán đồng quan điểm của rất nhiều
nhà nghiên cứu trước đó khi chỉ ra rằng: “Những cứ liệu lịch sử cho thấy một số chi
tiết, sự kiện được mô tả trong Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ là những chi tiết, sự kiện thực
sự của xã hội Việt Nam năm 1936. Ngòi bút tiểu thuyết có biệt tài phóng sự Vũ
Trọng Phụng đã không bỏ qua chúng khi tạo dựng những bối cảnh xã hội cho tác
phẩm của mình. Và vì vậy các tiểu thuyết tiêu biểu của ông giàu tính chân thực -
lịch sử” và “đưa chất phóng sự vào tiểu thuyết, tác giả Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê đã
tạo cho tác phẩm của mình có sức mạnh về tính chân thực và sức thuyết phục của
những hình tượng điển hình” [137, tr.130].
Tác giả Trần Văn Minh đã nhắc tới thuật ngữ tiểu thuyết phóng sự trong bài viết
của mình và cho rằng: “Lều chõng là quyển tiểu thuyết mang nhiều tính chất phóng
sự” [96]. Hoài Việt đánh giá về Lều chõng như sau: “một tiểu thuyết phóng sự mang
tính chất luận đề, lấy chuyện học hành, thi cử ngày xưa mà lên án”[160]…
Sau này, trong những tiểu thuyết phóng sự, Nguy n Mạnh Tuấn khẳng định:
"khuynh hướng tiểu thuyết của tôi là khuynh hướng lý giải trực tiếp các vấn đề thời
sự nóng bỏng của đời sống. Tác phẩm của tôi - đó chính là những kiến nghị của tôi
về các vấn đề của cuộc sống hôm nay" [232]. Qua phát biểu của nhà văn, ta có thể
thấy, mặc dù Nguy n Mạnh Tuấn không gọi nó là tiểu thuyết phóng sự nhưng tiểu
thuyết của ông chứa đầy chất phóng sự và có thể nói: những cuốn tiểu thuyết của
9
Nguy n Mạnh Tuấn xuất hiện vào giữa những năm tám mươi như: "Đứng trước
biển và Cù lao Tràm", thực sự là những cuốn tiểu thuyết phóng sự tiêu biểu.
GS.TS Trần Đăng Suyền, khi viết về Lều chõng đã cho rằng: "Với bút pháp hiện
thực đôi chỗ tinh tế (khi miêu tả tâm lý cô Ngọc, vợ Nghè Long)…tác phẩm đã vượt
lên Nhà Nho, Bút nghiên của Chu Thiên, Thanh Đạm của Nguyễn Công Hoan,
khẳng định vị trí xuất sắc của một tiểu thuyết phóng sự" [128].
Khi nghiên cứu về tiểu thuyết của Vũ Trong Phụng GS.TS Trần Đăng Suyền đã
chỉ ra: " Vốn là cây bút phóng sự sắc sảo, Vũ Trong Phụng luôn bộc lộ một tinh thần
nhập cuộc mạnh mẽ, xông xáo vào nhiều lĩnh vực của đời sống. ng là người chủ
động có ý thức trong việc đưa thời sự của tin tức, sự việc mà là thời sự của tình cảm
thời đại, thời sự đã kết đọng thành tâm tính, thành tâm trạng phẫn uất mãnh liệt của
nhà văn. Mở rộng cánh cửa nghệ thuật ông đã để cho những sự kịên nóng hổi của
đời sống chính trị xã hội a vào tác phẩm tạo nên một kiểu tiểu thuyết mà nhiều nhà
nghiên cứu gọi là tiểu thuyết - phóng sự" [125].
Điểm lại một số cách nhìn nhận đã có về tiểu thuyết phóng sự chúng tôi đề xuất
cách hiểu về tiểu thuyết phóng sự như sau:
Rất khó để tóm lược trong một định nghĩa ngắn gọn và đầy đủ về tiểu thuyết
phóng sự, bởi chính bản thân thể tài này cũng rất đa dạng. Trên cơ sở khảo sát tiểu
thuyết phóng sự ở Việt Nam, chúng tôi thấy có thể xác định khái niệm tiểu thuyết
phóng sự từ nhiều bình diện mà chủ yếu là trên những bình diện chính như sau:
1.Tiểu thuyết phóng sự thường ra đời trong hai hoàn cảnh đặc biệt có tính quy
luật. Thứ nhất đời sống văn học có những bước ngoặt, thứ hai đời sống xã hội có
những biến thiên quan trọng. Lịch sử xã hội càng biến động, tiểu thuyết phóng sự
càng phát huy được thế mạnh trong việc bắt mạch các vấn đề, sự kiện của hiện thực
và trình bày nó một cách sinh động hấp dẫn. Sức hấp dẫn của tiểu thuyết phóng sự
chủ yếu ở chỗ trước hết nó hướng vào những sự kiện mang tính thời sự trong đời
sống xã hội. Cảm hứng chính của tiểu thuyết phóng sự là ở chỗ nó luôn hướng tới
những vấn đề mang tính cập nhật, khám phá, phơi bày những hiện tượng tiêu cực và
mang tính phản biện xã hội. Tính phản biện xã hội của tiểu thuyết phóng sự là một
10
trong những đặc trưng cơ bản của thể tài này. Viết để làm thay đổi cái nhìn của con
người đối với xã hội, hay thay đổi quan niệm của công chúng là một trong những
công năng chính của tiểu thuyết phóng sự. Chẳng phải ngẫu nhiên, các tác giả tiểu
thuyết phóng sự thường nhằm vào những sự thật khủng khiếp bị che giấu, phơi bày
những bí mật kinh hoàng hay lật tẩy những lớp vỏ ngụy trang d gây ngộ nhận.
Do đó, tiểu thuyết phóng sự là một thể tài có tính chất quan sát, khảo cứu, phân
tích tư liệu, điều tra ghi chép, di n tả sự thật nóng bỏng và bức xúc của cuộc sống
kết hợp với nghị luận nhằm phản biện, tái hiện cuộc sống sinh động, cập nhật hiện
thực đa màu sắc, những bức tranh phong tục, đạo đức, xã hội ở mọi hoàn cảnh.
2. Tiểu thuyết phóng sự không phải là sự kết hợp cơ học của hai thể loại phóng
sự và tiểu thuyết mà là sự tổng hợp những yếu tố mang tính đặc thù của hai thể loại
để tạo thành một tiểu thể loại mới. Trong đó, tính sự kiện, tính vấn đề mang sự nóng
hổi của đời sống được chuyển vào các câu chuyện, những số phận, những tính cách
của con người tạo nên thể tài tiểu thuyết có khuynh hướng phóng sự.Tiểu thuyết
phóng sự tái hiện hiện thực bề thế, chân thực, đa dạng, phức tạp của xã hội rất gần
gũi với đời sống thực và có sự kết tinh, lắng đọng của nghệ thuật, có tính thẩm mỹ
cao. Tiểu thuyết phóng sự mang những đặc điểm của phóng sự song lại đậm chất
tiểu thuyết ở các phẩm chất văn học. Cũng như tiểu thuyết nói chung, tiểu thuyết
phóng sự là bức tranh của cuộc sống sinh động bởi có sự hiện diện của những trang
tả cảnh, tả tình, sự lắng đọng của những tính cách, số phận nhân vật nhưng lại có
cách tiếp cận hiện thực đời sống theo kiểu thông tấn, báo chí, quan tâm kịp thời và
tập trung cao độ vào những vấn đề chính trị - xã hội đang được công chúng chú ý,
nhạy bén nhận ra hiện thực, dũng cảm xông vào chiếm lĩnh nó bằng phương thức
hiệu quả nhất. Tiểu thuyết phóng sự miêu tả, đề xuất đối thoại và kiến nghị cùng bạn
đọc tạo nên hiệu ứng bất ngờ, tác dụng dây chuyền, lan rộng, thấm sâu vào đời sống
xã hội tạo nên không khí văn chương sôi động. Tiểu thuyết phóng sự không chỉ
dừng lại ở việc phơi bày các sự kiện, hiện tượng của đời sống mà còn đi vào lý giải,
phân tích, hoá thân vào số phận tính cách của nhân vật. Tiểu thuyết phóng sự có
cách di n đạt theo lối văn thông tấn của báo chí, tuy hết sức ngắn gọn, cô đọng song
11
đầy đủ thông tin, nóng hổi tính thời sự đồng thời kết hợp với hư cấu của tiểu thuyết
để phân tích thế giới bên trong tâm lý của nhân vật, sử dụng các phương tiện để
miêu tả, biểu cảm tạo nên giá trị của tác phẩm. Tiểu thuyết phóng sự thường có sự
dung hợp về thể loại: tính chặt chẽ, bám sát sự kiện gắn với những xung đột của xã
hội, mặt khác không bỏ qua việc khắc họa tính cách, số phận của nhân vật. Tính sự
kiện nổi trội chi phối trong kết cấu của tác phẩm dẫn đến tính tốc độ nhanh mạnh
của tác phẩm.
3. Tiểu thuyết phóng sự, sử dụng ngôn ngữ khá phong phú: có hệ lời thô nhám,
dường như còn bám đầy bụi bặm và nóng hổi hơi thở của đời sống thực tế; có hệ lời
miêu tả trực tiếp sự việc đang di n ra, giàu tính sự kiện, sống động tính thời sự, cập
nhật; có hệ lời đầy tính sáng tạo, ngôn ngữ tinh tế tái hiện, phân tích, khắc họa tính
cách nhân vật, đời sống nội tâm nhân vật. Cách di n đạt trong tiểu thuyết phóng sự
phong phú, đầy tính hiện thực nhưng lại giàu cảm xúc, sâu lắng, di n tả được sâu
sắc nội tâm, suy nghĩ từ đáy sâu tâm hồn của con người…
Tuy nhiên, những điểm đã nêu trên mới chỉ là những điểm chung nhất để nhận
diện thể tài tiểu thuyết phóng sự. Trong thực tế văn học, phóng sự là một thể tài có
sự đa dạng vận động theo từng giai đoạn văn học cũng như mang đặc điểm riêng
trong phong cách của mỗi tác giả về mặt nội dung đề tài. Ta có thể nhận diện một số
dạng chính của tiểu thuyết phóng sự như sau:
Tiểu thuyết phóng sự nghiêng về bình diện khảo cứu các hiện tượng văn hoá
như: Bút nghiên của Chu Thiên, Lều chõng của Ngô Tất Tố. Tiểu thuyết phóng sự
mang đậm tính thời sự nóng bỏng và cảm hứng phản biện xã hội trong sáng tác của
Vũ Trọng Phụng và Nguyên Hồng, Ngô Tất Tố như: Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ, Bỉ vỏ,
Tắt đèn. Tiểu thuyết phóng sự thiên về tính chất tư liệu, điều tra thực trạng của đời
sống xã hội như: Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguy n Đình Lạp. Tiểu thuyết phóng sự
phát hiện, đề xuất, kiến nghị những vấn đề có ý nghĩa thời sự trong đời sống xã hội
và kinh tế đưa ra những định hướng cập nhật vấn đề xã hội, kinh tế, đất nước trong
giai đoạn nhất định như: Xung đột, Chủ tịch huyện của Nguy n Khải, Cái sân gạch
của Đào Vũ, Đi bước nữa của Nguy n Thế Phương, Đường trong mây, Chiến sĩ, Ra
12
đảo của Nguy n Khải, Vào đời của Hà Minh Tuân, Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguy n Khắc Trường, Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, Cù lao
Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng, Những ngày
thường đã cháy lên của Xuân Cang, Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải.
Song những nét nổi bật làm nên đặc trưng của tiểu thuyết phóng sự là: tính vấn đề,
cập nhật các chủ đề nóng đang là mối quan tâm của xã hội, có tính cấp thiết, nhận
thức lại, phản biện lại một vấn đề, phanh phui, lật tẩy vấn đề, phơi bày mặt trái của
xã hội…Tất nhiên, để tạo thành tiểu thuyết phóng sự không phải chỉ có sự phanh
phui, phơi bày, ghi chép sự việc như trong phóng sự mà phải mang những đặc điểm
của một tiểu thuyết có cốt truyện, có sự mâu thuẫn, xung đột, có một thế giới nhân
vật đầy sức sống. Từ những phân tích ở trên, chúng tôi có thể đề xuất khái niệm về
tiểu thuyết phóng sự như sau:
Tiểu thuyết phóng sự là một thể tài của tiểu thuyết, về đề tài có tính cập nhật với
những vấn đề xã hội nóng bỏng, mang tinh thần phản biện, sử dụng các phương
thức, khảo cứu điều tra, ghi chép, để xây dựng một thế giới nghệ thuật vừa mang
tính hư cấu vừa giàu giá trị phản ánh hiện thực.
Mặc dù, khái niệm tiểu thuyết phóng sự chưa được các nhà nghiên cứu quan tâm
và luận giải rõ ràng, chưa thật quen thuộc với độc giả và người nghiên cứu văn học
Việt Nam nhưng trong lịch sử phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX nó đã
có thành tựu tiêu biểu như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Bỉ vỏ của
Nguyên Hồng, Lều chõng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Bút nghiên của Chu Thiên,
Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguy n Đình Lạp, Xung đột, Chủ tịch huyện, Đường trong
mây, Chiến sĩ, Ra đảo của Nguy n Khải, Cái sân gạch của Đào Vũ, Đi bước nữa
của Nguy n Thế Phương, Vào đời của Hà Minh Tuân, Những khoảng cách còn lại,
Đứng trước biển, C lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ của Ma Văn
Kháng, Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải, Những ngày thường đã cháy lên
của Xuân Cang, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường. Một số
giai đoạn, tiểu thuyết phóng sự đã có thành công để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm
13
trí người đọc. Trải qua một thế kỷ hình thành và phát triển, tiểu thuyết phóng sự đã
có vị trí vững vàng trong sự phát triển của tiểu thuyết hiện đại Việt Nam thế kỷ XX.
1.2. Điểm lại tình hình nghiên cứu về tiểu thuyết phóng sự
Trong một thế kỷ ra đời hình thành và phát triển, thể tài tiểu thuyết phóng sự ở
Việt Nam có một số lượng tác phẩm phong phú, tác giả ngày càng đông đảo qua các
giai đoạn, đặc biệt giai đoạn 1930-1945 và sau 1975. Luận án sẽ tìm hiểu diện mạo
chung của thể tài này trong các chương nội dung và trình bày ở các phần sau. Tuy
nhiên, để đánh giá những tiểu thuyết phóng sự, luận án sẽ tập trung vào những tác
phẩm, theo chúng tôi là tiêu biểu nhất cho thành tựu và đặc điểm của thể tài này ở
mỗi giai đoạn. Cụ thể là:
1.2.1. Về tiểu thuyết phóng sự giai đoạn từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Trong khi tìm hiểu, nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng, nhóm sưu tầm, tuyển chọn
và giới thiệu Nguy n Ngọc Thiện, Hà Công Tài [132] đã tổng kết, điểm qua có hàng
trăm bài báo, tiểu luận, chương sách, các công trình nghiên cứu, phê bình về Vũ
Trọng Phụng. Có hàng chục luận án Tiến sĩ, Thạc sĩ, từ Bắc chí Nam quan tâm đến
Vũ Trọng Phụng. Không thể nào thống kê và khảo sát chi tiết được toàn bộ những
nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng. Chính vì thế, luận án chỉ điểm lại những ý kiến có
liên quan đến đặc điểm của tiểu thuyết phóng sự của ông, sau đây là một số nhận
định tiêu biểu:
Trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng, bút pháp phóng sự được sử dụng tuyệt
vời đạt đến trình độ điêu luyện. Hiện Chy đã phát hiện chất phóng sự ở lối hành văn
trong tiểu thuyết của ông như sau: “Văn ông Vũ Trọng Phụng vẫn là thứ văn khúc
chiết, rạch ròi của nhà phóng sự mà truyện Giông tố phảng phất như một thiên
phóng sự đi sâu vào một gia đình trưởng giả đầy trụy lạc” [20].
Vũ Ngọc Phan đã khẳng định: “cây bút của Vũ Trọng Phụng trong những năm
đầu là một cây bút phóng sự, một cây bút phóng sự đầy sắc sảo và khôn ngoan, sau
ông luyện nó ra một cây bút tiểu thuyết, nhưng cái giọng phóng sự vẫn còn”[110,
tr.541]. Đặc biệt, Vũ Ngọc Phan đã quan tâm tới tiểu thuyết Giông tố nhìn từ góc độ
xây dựng nhân vật. Ông đã chỉ ra rằng: “những nhân vật trong Giông tố đáng lý
14
phải tả nhiều chỗ b ng nét bút não n ng cho ph hợp với những cảnh thê lương của
họ, thì lại hiện dưới những nét bút sắc sảo quá, dưới những nét bút phóng sự chủ ý
là gây cho người đọc những mối căm hờn đối với những bất công”[110, tr.544]. Tuy
nhiên, Vũ Ngọc Phan cũng không đánh giá cao việc Vũ Trọng Phụng xây dựng
nhân vật bằng bút pháp phóng sự, ông cho rằng: “Về đường nghệ thuật, có lẽ chỗ ấy
là chỗ sút kém trong Giông tố”[110, tr.544]. Ta thấy với quan điểm này, nhà phê
bình Vũ Ngọc Phan mâu thuẫn với khá nhiều ý kiến đề cao việc Vũ Trọng Phụng
đưa chất phóng sự vào trong tiểu thuyết, đặc biệt với nhiều nhà nghiên cứu ở giai
đoạn sau 1986.
Thời kỳ sau Cách mạng tháng Tám thành công, việc đánh giá về văn chương Vũ
Trọng Phụng tiếp tục được đặt ra trong Hội nghị tranh luận văn nghệ ở Việt Bắc
tháng 9 năm 1949 với các ý kiến của Nguyên Hồng, Tố Hữu và Nguy n Đình Thi,
các nhà nghiên cứu cho rằng Vũ Trọng Phụng đã lên tiếng phanh phui thực chất xấu
xa của xã hội đương thời. Khi viết về Vũ Trọng Phụng, Phạm Thế Ngũ cũng đã chỉ
ra: “công phu điều tra, khiếu quan sát sự lịch duyệt của tác giả” và đề cao “một cây
bút tả chân già dặn linh hoạt như chụp được sự thật” [108, tr.116] trong các bài
phóng sự, hơn thế nó còn được thể hiện trong nhiều tiểu thuyết như: Giông tố, Số
đỏ, Vỡ đê.
GS Nguy n Đăng Mạnh, đã nhận thấy đặc điểm cơ bản của ngòi bút Vũ Trọng
Phụng đó là: khả năng chiếm lĩnh cuộc sống tầm khái quát tổng hợp hiếm có ở
những nhà tiểu thuyết cùng thời, khuynh hướng khái quát triết lý và một nghệ thuật
trào phúng bậc thầy, GS Nguy n Đăng Mạnh cũng nhấn mạnh tính chất thời sự,
nóng bỏng của các tiểu thuyết: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê: “hệt như cuốn phim thời sự.
Đương thời ít có cuốn tiểu thuyết nào lại gần với không khí chính trị của thời đại
đến như thế. Tiểu thuyết mà muốn chạy đua với thông tin báo chí. Nhiều nhân vật
trong Giông tố, Số đỏ được xem như những bức chân dung ký họa chưa ráo mực
của một số tên tuổi có thực lúc bấy giờ” [87, tr.206]. Trong những phóng sự xuất
sắc của Vũ Trọng Phụng chúng ta đã thấy được sự tiệm cận của nhà văn với thể loại
tiểu thuyết, mấy năm sau đó Vũ Trọng Phụng đã chuyển hẳn sang lãnh địa tiểu
15
thuyết, ngòi bút có thiên hướng thông tấn, kí họa tiếp tục được phát huy một cách
hiệu quả tạo nên một giọng rất riêng trong tiểu thuyết của ông.
Trong hội nghị khoa học tháng 10 năm 1992, nhân kỷ niệm ngày sinh Vũ Trọng
Phụng do Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh tổ chức, GS
Nguy n Văn Hạnh đã đưa ra vấn đề khá nổi bật được nhiều người quan tâm: “Do
theo sát những vấn đề của cuộc sống, của thời sự cho nên tiểu thuyết của Vũ, đúng
như một số nhà nghiên cứu đã nhận xét, mang nhiều tính chất phóng sự. ết hợp
tiểu thuyết và phóng sự là một cách tân thành công của Vũ về mặt thể loại. Điều kỳ
lạ là sự kết hợp tiểu thuyết và phóng sự này đã tăng chất hiện đại cho tác phẩm của
Vũ và làm cho người đọc bây giờ, ngạc nhiên, thích thú” [49, tr.67].
Hơn 10 năm trở lại đây, vấn đề về chất phóng sự trong tiểu thuyết của Vũ Trọng
Phụng được đề cập đến trong các luận án Tiến sĩ, luận văn Thạc sĩ Ngữ Văn với các
mức độ và mục đích khác nhau.
Năm 2008, TS Trần Đăng Thao đã bổ sung, chỉnh sửa một số nội dung trong
luận án Phó tiến sĩ năm 1996 của mình in thành sách: Đặc sắc văn chương Vũ Trọng
Phụng, tác giả đã đánh giá về nhà văn họ Vũ như sau: “Với Vũ Trọng Phụng, một
khi các tư liệu đi vào tác phẩm của ông, chúng đã được nhà văn sắp xếp, xử lý một
cách nghệ thuật, chúng đã được tiểu thuyết hoá, được ông đặt vào đúng vị trí cần
đặt, biến chúng trở thành một bộ phận gắn bó hữu cơ trong tác phẩm, chúng trở
thành nhân chứng, hành vi, động thái của nhân vật, trở thành hơi thở, nếp cảm, nếp
nghĩ của nhân vật, chúng tồn tại trong máu thịt của nhân vật”[141, tr.160].
TS Nguy n Văn Phượng khi viết về ngôn từ nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng trong
phóng sự và tiểu thuyết, đã đánh giá như sau: "ngôn từ của Vũ Trọng Phụng có khuynh
hướng đặc tả trần trụi, cực thực trong đó có ngôn từ giễu nhại phản lãng mạn, ngôn từ
dục tính và đặc tả thân xác, ngôn từ cường điệu, phóng đại để hủy diệt và triệt hạ, ngôn
từ đối thoại cá thể hóa, độc thoại, độc thoại nội tâm và phức điệu" [116].
Ngoài những nghiên cứu và đánh giá trên, trong luận án Tiến sĩ của Đinh Lựu
[84], luận án Tiến sĩ của Nguy n Thành [137] và một số luận án, luận văn khác đã
16
đề cập đến sự kết hợp một cách tài tình giữa phóng sự và tiểu thuyết trong sáng tác
của tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng [84, tr.137].
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ít có nhà văn nào lại được đánh giá
phê bình của giới nghiên cứu, bạn đọc phong phú và phức tạp như Vũ Trọng Phụng.
Trần Hữu Tá [130], đã thống kê được 230 bài tiểu luận, phê bình về nhà văn, ngoài
ra còn có ba cuốn sách viết về ông và còn rất nhiều luận văn, luận án đã tiếp tục lấy
sáng tác của Vũ Trọng Phụng làm đề tài nghiên cứu.
Ngô Tất Tố, là nhà văn tiêu biểu trước 1945, một hiện tượng, điển hình đ p và
sáng ở chặng chuyển mình của văn hóa dân tộc từ truyền thống sang hiện đại. Ông
đã để lại cho đời một số lượng không nhỏ các sáng tác trên nhiều lĩnh vực hoạt
động. GS Phong Lê đã không chút e dè khi cho rằng: “Ngô Tất Tố đứng vào hàng
những văn gia của thế kỷ ” [75].
Nguy n Đức Đàn, Phan Cự Đệ nhận xét về Ngô Tất Tố như sau: “Một nhà văn
hiện thực ưu tú”; Vũ Trọng Phụng đánh giá Ngô Tất Tố là “một tay ngôn luận xuất
sắc trong đám nhà Nho”[44], trong các tác phẩm của ông luôn có sự khám phá sâu
xa, là những dự cảm, phát ngôn, hiện thân của những vấn đề về đất nước, nhân dân,
Tác giả đã để lại cho đời rất nhiều tác phẩm: Tắt đèn, Lều chõng…Đặc biệt tác
phẩm Lều chõng một cuốn tiểu thuyết cùng với thời gian nó là tài sản đáng giá của
văn chương nước nhà vì nó phản ánh sâu sắc thực tế chế độ khoa cử của Việt Nam
thời kì phong kiến bằng cách dựng lên một bức tranh chân thực và sinh động về chế
độ giáo dục cũ xưa, giáo điều dưới triều nhà Nguy n.
Tác phẩm Lều chõng là cuốn tiểu thuyết về giáo dục và khoa cử thời phong kiến
triều Nguy n, đã nhanh chóng trở thành tác phẩm nổi tiếng của Ngô Tất Tố với
những giá trị sâu sắc về nội dung, độc đáo về nghệ thuật. Tác phẩm trở thành tâm
điểm cho những luồng ý kiến khác nhau của đông đảo giới phê bình văn học. Xung
quanh vấn đề về loại thể của tiểu thuyết đã có nhiều ý kiến cho rằng đây là tiểu
thuyết hiện thực, tiểu thuyết phong tục, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết tư liệu…
Bên cạnh những bài viết đề cao, biểu dương tác phẩm Lều chõng, có không ít tác giả
phê phán phủ nhận, các ý kiến cho rằng Lều chõng là tác phẩm phục cổ, ca ngợi quá
17
khứ có những ý kiến cho rằng Lều chõng là sự hoài vọng, lưu luyến của tác giả với
quá khứ. Thế Phong cho rằng: “Lều chõng là cuốn truyện hoài vọng dĩ vãng, một dĩ
vãng vàng son của một thế hệ nho sĩ qua đi, hình ảnh đặc sắc của khoa thi cuối
cùng” [111]. Tác phẩm Lều chõng cũng được đánh giá, của các nhà nghiên cứu, các
học giả về mặt nghệ thuật nhưng không sôi động như vấn đề thể loại và nội dung,
Vũ Ngọc Phan đã nhận xét như sau: “Đạt đến một trình độ cao về nghệ thuật”,
“không một chỗ nào xuống đến độ tầm thường”[110].
Tắt đèn của Ngô Tất Tố phơi bày đến tận cùng bản chất xấu xa, bẩn thỉu của chế
độ thực dân phong kiến Việt Nam, đặt ra một vấn đề bức xúc trong xã hội đương
thời đó là: thuế đánh vào việc làm người ở trên đời và thuế đánh vào cả người chết.
Tác phẩm đã bênh vực quyền sống của người nông dân. Ngay từ khi ra đời Tắt đèn
đã được dư luận và báo chí tiến bộ đánh giá cao.
Vũ Trọng Phụng, đã nhận xét: " Tắt đèn xứng đáng là áng văn mới mẻ nhất về
loại văn chương xã hội ngày nay", " một thiên kiệt tác hoàn toàn phụng sự dân
quê…khiến người đọc phải có những tư tưởng cải tạo xã hội"[115]. Phú Hương
đánh giá tác giả Tắt đèn qua việc mô tả sinh động: “ những sự tàn bạo ghê gớm,
những chuyện hà lạm hèn mạt, những cảnh đói nghèo tai hại" ở nông thôn, và
khẳng định viết về cuộc đời người nông dân sau lũy tre xanh thì "Tắt đèn đã rất
thành công" [57].
GS.TS Trần Đăng Suyền đã nhận xét: "Tiểu thuyết Tắt đèn (1939) xuất hiện đã
đáp ứng được một vấn đề thời sự nóng trong thời kỳ mặt trận Dân chủ: vấn đề nông
dân, đặc biệt là vấn đề sưu thuế. Ở đây, có thể nói, yêu cầu của thời đại đã bắt gặp
sự thôi thúc bên trong của chính nhà văn. Tiếng nói nghệ thuật của Ngô tất Tố trong
Tắt đèn đã hoà c ng tiếng nói đòi cải cách dân chủ, đấu tranh đòi giải quyết vấn đề
đời sống nông dân của toàn xã hội" [128]. Có hàng chục bài viết của các nhà văn,
nhà nghiên cứu, các luận án tiến sĩ, thạc sĩ quan tâm tới các khía cạnh khác nhau của
Tắt đèn như: GS Nguy n Đăng Mạnh, GS Phong Lê, PGS Nguy n Hoành Khung,
GS Hà Minh Đức, Nguyên Hồng, Nguy n Tuân, Nguy n Công Hoan, Vũ Bằng,
Nguy n Đức Đàn, Phan Cự Đệ, Như Phong, Hồng Chương…Trong bảy thập kỷ
18
qua, Tắt đèn đã được tái bản nhiều lần càng khẳng định được giá trị của tác phẩm ở
những tầng cao hơn, tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm.
Trong khoảng thời gian này, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng cũng đã khiến cho người
đọc phải suy nghĩ và cảm động về cuộc đời của những con người sống ở nơi đô thị
phồn hoa, lộng lẫy nhưng đầy bất hạnh, một thế giới chưa từng được khám phá
trong văn học nước ta bấy giờ. Nhà văn Bùi Hiển nhận xét: tác phẩm "đã mở ra
trước mắt người đọc một thế giới hầu như chưa được khám phá trong văn học ta
cho đến lúc bấy giờ" [52, tr. 278].
Vũ Ngọc Phan cho rằng đây là: "Một cuốn tiểu thuyết về đời truỵ lạc của bọn ăn
cắp, nhưng có một tính cách nửa tâm lý, nửa xã hội, làm cho người đọc phải suy
nghĩ và cảm động" [109, tr.40]. Nguy n Văn Dân đã nhận xét về Bỉ vỏ như sau: " Là
cả một bản hoà tấu dành cho nhạc cụ tâm lý, khi thống thiết, khi bi ai, khi căm giận,
khi thương cảm. Ở thời kỳ này, sức mạnh của Nguyên Hồng là yếu tố tâm lý. hi
cần nhấn mạnh chỗ nào, ông chỉ việc gia tăng yếu tố cảm xúc tâm lý lên thôi. Tính
chất đa tâm lý đó lại không thể vượt quá ngưỡng tâm lý của người đọc. Nó chỉ làm
tăng biên độ xúc cảm chứ không hề vượt quá tần số của người đọc" [26,tr.88].
Bút nghiên của Chu Thiên lại đề cập đến một vấn đề của xã hội đó là cái lối đi
học, đi thi của ông cha ta ngày xưa. Chu Thiên là tác giả mấy tập lịch sử tiểu thuyết
nhưng ông được người đọc chú ý đến một cách đặc biệt từ khi quyển Bút nghiên ra
đời. Viết về Bút nghiên của Chu Thiên, Vũ Ngọc Phan có nhận định sau: " Tuy có
một vài khuyết điểm ở trên, quyển Bút nghiên, của Chu Thiên đáng kể là một quyển
sách viết rất công phu. Về đường nghệ thuật - nếu xét về phương diện tiểu thuyết -
Bút nghiên không b ng được quyển Lều chõng của Ngô Tất Tố, nhưng về mặt khảo
cứu về những cách học hành của ông cha chúng ta thủa xưa thì Bút nghiên cũng
khá đầy đủ"[110].
1.2.2. Về tiểu thuyết phóng sự giai đoạn từ 1945 đến 1975
Giai đoạn này tiểu thuyết phóng sự đã gặt hái được thành công ở một số tác
phẩm tiêu biểu của Nguy n Khải, Hồ Phương, Nguy n Đình Thi...Hầu hết những ý
kiến phê bình và nhận xét đều khẳng định hướng đổi mới trong phong cách sáng tác
19
của các tác giả. Trong đó, các tiểu thuyết của Nguy n Khải thu hút được sự quan
tâm khá đặc biệt của dư luận.
Với Xung đột nhà văn Vũ Tú Nam nhận xét: "Xung đột không có một cốt truyện
với những nhân vật chính phát triển trọn vẹn từ đầu tới cuối. Từng phần của truyện
tách rời ra vẫn có một giá trị độc lập. Đây đúng là những trang ghi chép, phác họa
về người, về việc theo sát cuộc sống thực đang diễn biến phức tạp theo thời gian",
"Xung đột là một tác phẩm có nhiều sáng tạo. Trong đó, ngòi bút Nguyễn hải đã
mang một sắc thái riêng. Với lối kể chuyện ít lời, sáng sủa, hấp dẫn, lúc châm biếm,
lúc thơ mộng (…), với khả năng phác họa nhanh, sắc, phân tích đi sâu vào người và
việc, Nguyễn hải thật có phong thái của một người viết tiểu thuyết, có khả năng
hiện thực đáng quý" [98]. Khi đọc Xung đột (Phần II) của Nguy n Khải nhà văn Hồ
Phương đã chỉ ra và khẳng định những ưu điểm của tác phẩm: "Chỉ b ng một vài
nét gọn gàng thôi, Nguyễn hải đã dựng, đã miêu tả lên được những nhân vật có
da, có thịt, cá tính rõ ràng và sinh động lạ thường (…), như những người đang
sống, đang hoạt động ở ngay trước mặt chúng ta vậy (…). Bất cứ con người nào,
việc gì trên trang sách của anh đều phải có góc, có cạnh, có màu sắc rực rỡ rõ rệt
(…), ngay trong khi tả cảnh, Nguyễn hải cũng đã vẽ nên được những nét độc đáo,
mới mẻ, đầy sức gợi cảm và để lại những ấn tượng khó phai mờ trong lòng người
đọc" [114]. Nguy n Huệ Chi cũng đưa ra một cách nhìn khác: "Chỗ đặc biệt của
Nguyễn hải là một cách nhìn sâu, một khả năng phát hiện vấn đề nhạy bén.
Nguyễn hải đã có ngòi bút hiện thực tương đối nghiêm ngặt" [19] .
Chủ tịch huyện của Nguy n Khải đã nêu lên những vấn đề đang di n ra hàng
ngày ở nông thôn Việt Nam sau hòa bình. Khi nhận xét về phong cách Nguy n
Khải, Phan Hồng Giang đã chỉ ra nét nổi bật của tác phẩm đó là: "Tính vấn đề của
con người và sự kiện", và ông cũng chỉ ra rằng ngòi bút của Nguy n Khải: "Không
né tránh những sự thật không đẹp mắt, không b i tai" và "ghi nhận được những sự
việc tự nó chứa đựng tiếng cười"… [48]. Nhà nghiên cứu Song Thành nhận xét về
tác phẩm Đường trong mây như sau: "Đường trong mây được Nguyễn hải viết khá
đều tay, một số trang đọc hấp dẫn vì có nhiều chi tiết mới lạ, nhiều sự kiện lý thú, và
20
khám phá thông minh, kết luận sắc sảo (…). Có chương xuất sắc (…), có những câu
thật cảm động (…), có những hình ảnh đẹp, rất thơ (…). Nhưng sao đọc Đường
trong mây, tôi vẫn cảm thấy không thỏa mãn (…) hình như vì sự chững lại trong
bước đi của anh. (…), người đọc mong đợi ở anh hơn thế bởi vì cuộc sống mỗi ngày
một đổi mới…" Song Thành cũng đặt ra một vấn đề với tiểu thuyết đương thời: "Đã
đến lúc không nên để chậm nữa, văn học ta cần có ngay những cuốn tiểu thuyết
xứng đáng với tầm vóc thời đại của mình" [136]. GS Nguy n Đăng Mạnh lại cho
rằng: Đường trong mây: "Thiên về lý trí", "trừ một vài đoạn có màu sắc trữ tình
cảm động (…), còn nhìn chung Đường trong mây trầm và hơi khô" GS Nguy n
Đăng Mạnh đi đến khái quát về ngòi bút Nguy n Khải: "Với một cơ sở nhận thức
chính trị chắc chắn, anh biết dựa theo chiều hướng phát triển tất yếu của hiện thực,
của thời đại để tìm hiểu, suy nghĩ, khám phá, và tham gia bàn bạc các vấn đề trên
tinh thần trách nhiệm của một ngòi bút chiến đấu. Anh lại có khả năng quan sát, ghi
nhận mau lẹ và thể hiện tốt. Anh cũng biết làm chủ tư liệu của mình để chế biến và
sử dụng đúng chỗ, đúng lúc vào những chủ đề thích hợp" [95]. Viết về người chiến
sĩ trong Chiến sĩ Ngô Thảo đã nhận xét: "Chiến sĩ không phải là câu chuyện về
những bước thăng trầm của một anh lính đi lạc", "Chiến sĩ như tập trung thể hiện
đời sống bên trong của người lính" Ngô Thảo cũng khẳng định: "Với Chiến sĩ,
Nguyễn hải đã ghi được một nét khá tiêu biểu của người lính chống M " [142].
Ngoài những tác phẩm kể trên, còn một số tác phẩm như: Cái sân gạch của Đào Vũ,
Đi bước nữa của Nguy n Thế Phương, Vào đời của Hà Minh Tuân…được một số
nhà nghiên cứu và phê bình nhận xét, đánh giá ở những cung bậc khác nhau nhưng
chúng tôi không dành thời lượng nghiên cứu sâu.
1.2.3. Về tiểu thuyết phóng sự giai đoạn từ 1975 đến hết thế kỷ XX
Tiểu thuyết phóng sự trở lại thu hút quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình bởi
sự xuất hiện của những tên tuổi tiêu biểu như: Nguy n Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng,
Nguy n Khải, Xuân Cang, Nguy n Khắc Trường…Hà Xuân Trường nhận định:
“Điều đáng mừng cho sự phát triển của nền văn xuôi nước ta là c ng với sự cố
gắng đổi mới văn chương, đổi mới phong cách là sự khám phá, sự suy tư, trên nhiều
21
vấn đề của cuộc sống, sự phanh phui trên nhiều mặt những tính cách của con người
đã chiến đấu hôm qua và những con người đang xây dựng cuộc sống mới hôm nay”
[150]. Một trong những bước chuyển mình đầu tiên của văn xuôi thời đổi mới, đó là
tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn, anh đã xông xáo, không e ngại, né
tránh những vấn đề bức xúc của cuộc sống với những tác phẩm gây xôn xao dư luận
và nổi bật trong văn đàn như: Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, C lao
Tràm. Năm 1982 xuất hiện tiểu thuyết Đứng trước biển. Trên báo chí đã có hàng
loạt bài nghiên cứu, phê bình và giới thiệu. Nhìn chung các bài viết dù ở lĩnh vực,
khía cạnh, thời điểm nào cũng đều khẳng định sự thành công nổi bật của Nguy n
Mạnh Tuấn, đó là anh đã dũng cảm xông thẳng vào các vấn đề cấp bách, nổi cộm và
đầy gai góc, phức tạp của đời sống hiện thực, đánh giá cao tính chiến đấu, kịp thời
của tác phẩm. Tôn Phương Lan nhận xét: “cái chính yếu hơn để Đứng trước biển có
sức hấp dẫn vẫn là nó đã đặt ra và giải quyết được những vấn đề nóng bỏng đang
là những nỗi niềm băn khoăn mong đợi của nhiều người”[69].
Xuân Thiều cho rằng: “Nguyễn Mạnh Tuấn có cái nhìn khá tỉnh táo. Nói cái tích
cực mà không lên gân, lên cốt, nói cái tiêu cực mà cũng không hốt hoảng, không la
lối om sòm. Sự miêu tả có mức độ bao gồm tính lôgic bên trong ấy đã phản ánh xã
hội một cách trung thực” [143, tr.87]. Bên cạnh các nhà nghiên cứu văn học, bạn
đọc Lê Nhật Quang (Viện kinh tế học) cũng có ý kiến: “Đứng trước biển đã phả vào
các quan điểm lý luận kinh tế, hơi vị nồng ấm của thực tiễn khiến cho lý luận giảm
phần kinh viện, tước bỏ phần xơ cứng. Tôi muốn có lời mời anh chị làm nghề
nghiên cứu hoặc quản lý kinh tế ở trình độ như tôi nghĩa là còn kém cỏi, còn phải
khổ luyện nhiều, xin hãy tìm đến các nhân vật chính diện của Đứng trước biển mà
học, học cách suy nghĩ, cách tổ chức hành động, cách phục vụ cách mạng trên mặt
trận kinh tế trong đó quan trọng nhất là cách phát hiện, trân trọng, bảo vệ, bồi
dưỡng những con người trung thực, có tài năng” [117, tr.61]. Ngoài việc chỉ ra
những thành công của tác phẩm đó là tinh thần nhập cuộc của nhà văn vào các vấn
đề gai góc của xã hội, một số bài viết đã chỉ ra những hạn chế của Đứng trước biển
đặc biệt là mặt nghệ thuật. Đỗ Ngọc Thạch đã nhận định: “so với Những khoảng
22
cách còn lại thì Đứng trước biển quả có kém đi sự uyển chuyển và không dễ đọc liền
một hơi” [133, tr.80]. Từ Sơn nhận xét: “Tôi không cho r ng Đứng trước biển là
một tác phẩm toàn bích. Nó còn những chỗ non yếu, những chỗ đáng lẽ có thể thể hiện
tốt hơn. Tỉ như đoạn kết và một vài chương còn chưa “nhuyễn” còn gây nên một cảm
giác giả tạo. Tự thoại của một số nhân vật còn mang dáng dấp“văn hoa của tác giả…”
[120, tr.64].
Hai năm sau, xuất hiện tiểu thuyết phóng sự Cù lao Tràm, vừa ra đời, tác phẩm
đã gây xôn xao dư luận bạn đọc cả nước. Trên báo chí hàng loạt bài viết về Cù lao
Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn, tác phẩm đã trở thành một hiện tượng độc đáo trên
văn đàn những năm tám mươi, thành tiêu điểm cho các nhà phê bình, nghiên cứu.
Các bài viết giới thiệu Cù lao Tràm và đánh giá cao thành công nổi bật của tác giả
trong việc phản ánh và lý giải hàng loạt vấn đề xã hội cấp bách ở nông thôn Nam
Bộ. Tác giả Lâm Tùng trên báo Nhân dân đã khẳng định: “Cù lao Tràm - một hiện
tượng mới trong văn học”, “Nguyễn Mạnh Tuấn là một cây bút hăng hái và táo bạo,
xông xáo vào những vấn đề gay go nhất, trực tiếp nhất…đó là một khuynh hướng
tiểu thuyết rất đáng khuyến khích” [156, tr.79].
Báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Đảng đã liên tiếp trích đăng tiểu thuyết
Cù lao Tràm. Việc trích đăng tác phẩm trên báo Nhân dân là “một hiện tượng ngoại
lệ, hiếm thấy lại một lần nữa chứng tỏ C lao Tràm thực sự là “ một hiện tượng mới
trong văn học” [7]. Báo Sài Gòn giải phóng cũng xuất hiện một loạt bài cổ vũ tác
phẩm Cù lao Tràm…[8].
Dương Trọng Dật khẳng định: “C lao Tràm - niềm tin mãnh liệt vào nông thôn
mới XHCN…Nguyễn Mạnh Tuấn quả có sự kết hợp nhịp nhàng giữa giác quan nhạy
bén của người nghệ sĩ và tầm nhìn sâu rộng của người hoạt động xã hội” [27, tr.9].
Lê Phú Khải cũng cho rằng:“Cù lao Tràm đã vẽ lên một bức tranh toàn cảnh, đặc
sắc về nông thôn Nam Bộ…đã thở được hơi thở của nông thôn Nam Bộ, đã nhận
diện được đầy đủ các thế lực đang cản trở bước cải tạo nông thôn XHCN ở Nam
Bộ” [61, tr.18]. Qua đó, chúng ta nhận thấy một điều không thể chối bỏ: hiệu ứng xã
hội dành cho tiểu thuyết của Nguy n Mạnh Tuấn rất lớn và một lần nữa khẳng định
23
sức mạnh của văn chương quả là ghê gớm khi nó đã mạnh dạn nói lên những vấn đề
bức xúc của đời sống nhân dân.
Ma Văn Kháng là một cây bút sung sức của văn xuôi Việt Nam đương đại. Mưa
m a hạ của Ma Văn Kháng là một tiểu thuyết có chất phóng sự bởi tính thời sự và
nóng hổi của tác phẩm. Mưa m a hạ đã tạo nên những cuộc tranh luận sôi nổi,
khuấy động không khí văn chương đương đại, gây hứng thú trong giới nghiên cứu
và phê bình văn học. Ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu, phê bình có nhiều
điểm giống nhau ghi nhận sự đổi mới tư duy tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong
quá trình sáng tác. Đọc Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng, nhà văn Nguy n Thái Vận
đã nhận xét: "Mưa m a hạ cuốn hút người đọc không chỉ ở cốt truyện hấp dẫn, ở
những tính cách nhân vật sắc nét, hay ở những trang miêu tả kỳ thú, những nhận
xét, những triết lý sâu sắc và đúng chỗ, mà trước hết vì tác phẩm đã gợi nghĩ được
một vấn đề bức thiết của ngày hôm nay" [159]. GS.TS Trần Đăng Suyền, đã nhận
thấy: " Giá trị của Mưa m a hạ không chỉ là ở chỗ mạnh dạn lên án cái tiêu cực, mà
chủ yếu là đã xây dựng được cách nhìn, thái độ đúng đắn trước những cái xấu,
những cái ngáng trở đi lên chủ nghĩa xã hội" [127]. Bên cạnh các bài viết trên, còn
có nhiều công trình của các nhà nghiên cứu, phê bình như: PGS.TS Nguy n Thị
Bình, PGS.TS Nguy n Bích Thu, Thiếu Mai đã quan tâm đến tác phẩm ở những góc
độ khác nhau…
Những ngày thường đã cháy lên của Xuân Cang đã hướng ngòi bút của mình
vào những vấn đề búc xúc, mặt trái của xã hội để phanh phui, mổ xẻ. Nhà phê bình
Lê Dục Tú đã nhận thấy: " Cuốn tiểu thuyết đã đề cập đến một vấn đề hết sức nóng
hổi và nhức nhối đó là cuộc đấu tranh cho sự thật. Cuộc đấu tranh này hết sức cam
go, quyết liệt mà muốn đi đến chân lý không phải chỉ có báo chí mà toàn xã hội đều
phải vào cuộc. Tác phẩm đã gây được sự chú ý của bạn đọc chính ở thông điệp này.
Nhà văn Xuân Cang đã gặt hái thành công khi phát hiện ra cái "tạng" của mình ở
thể loại tiểu thuyết, phóng sự chính luận mà ông bắt đầu thể nghiệm" [148]. Cùng là
tác phẩm được giải thưởng về tiểu thuyết của Hội nhà văn 1991 nhưng Mảnh đất
lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường ngay từ khi mới xuất hiện đã gây
24
được sự chú ý của nhiều người, đặc biệt trong giới văn nghệ. Đã có không ít các nhà
nghiên cứu, phê bình, bạn đọc quan tâm và đề cập đến những vấn đề trong tác phẩm.
Có rất nhiều cuộc hội thảo, tranh luận về tác phẩm, hàng loạt các bài phê bình đã
được in trên các trang báo, tạp chí. Bao quát các bài phê bình ta thấy có những ý
kiến đánh giá, tổng quát mang tính khái quát cao như công trình nghiên cứu của
PGS.TS Nguy n Thị Bình: “Cuốn sách của Nguyễn hắc Trường đã đem lại cho ta
một hình ảnh nông thôn, trong chân dung những con người vừa là tội nhân vừa là
nạn nhân mà lịch sử đang giao cho họ một nhiệm vụ quá lớn” [10, tr.6], Hội thảo do
Báo Văn nghệ tổ chức với sự tham gia của nhiều nhà văn, nhà phê bình có uy tín
năm 1990 [104], thảo luận về Mảnh đất lắm người nhiều ma [103], một số bài viết
trên Đài Tiếng nói Việt Nam…Đặc biệt, Mảnh đất lắm người nhiều ma đã chuyển
thể thành kịch bản phim với cái tên Đất và Người của hãng phim Đài Truyền hình
Việt Nam đã được công chiếu tháng 11 năm 2003. Các bài viết, các nhận xét tuy có
nhiều ý kiến khác nhau nhưng nhìn chung việc đánh giá về giá trị cuốn tiểu thuyết
khá thống nhất. GS Nguy n Đăng Mạnh cho rằng: "Mảnh đất lắm người nhiều ma"
c ng một mạch với "Tắt đèn, Chí Phèo" của Ngô Tất Tố và Nam Cao và khẳng
định: “làng Giếng Chùa là sự cộng lại của hai làng Đông Xá và Vũ Đại”. Tác phẩm
đã làm: “sống lại nguyên vẹn những lề thói nông thôn, những xung đột phe phái
“quần ngư tranh thực” của bọn cường hào, ác bá đồng thời nó cũng đưa ra một
cách nhìn hết sức mới mẻ về hiện thực của nhà văn đó là “nhìn thẳng vào sự thật”
[89]. Với điểm này, ý kiến của GS Hà Minh Đức và nhà nghiên cứu Hồng Diệu khá
thống nhất với GS Nguy n Đăng Mạnh: “Nguyễn hắc Trường đã viết về nông thôn
với cái nhìn chân thực, chủ động, làm bộc lộ qua trang viết một nông thôn có nhiều
biến động, xáo trộn, đấu tranh giữa cái tốt và xấu, tranh chấp giữa các thế lực” -
GS Hà Minh Đức [47]. “Nhà văn đã vạch trần những thủ đoạn xấu, những việc làm
dã man người đời khó có thể nghĩ ra và thực hiện”- Hồng Diệu [28]. Bên cạnh
những ý kiến ngợi ca vẫn còn những nhà nghiên cứu chưa đồng tình với tác phẩm ở
một số phương diện, cuốn sách có cốt truyện chưa được dàn dựng cẩn thận…Liệu
những ý kiến đó có khắt khe với Nguy n Khắc Trường chăng ? Phải tìm hiểu và đặt
25
tác phẩm trong bối cảnh những năm tám mươi của thế kỷ XX chúng ta mới thấy
được những đóng góp của tác giả đối với tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Qua đánh
giá và sự nhìn nhận ở mức độ khác nhau về Mảnh đất lắm người nhiều ma chúng ta
thấy được một hiện tượng nổi bật trong tiểu thuyết giai đoạn này. Bởi vậy, việc
nghiên cứu đánh giá đúng giá trị của tác phẩm cũng giúp chúng ta nắm bắt được
chiều hướng vận động của văn xuôi Việt Nam đương đại.
Tổng hợp lại các nghiên cứu, đánh giá về tiểu thuyết phóng sự Việt Nam nêu
trên, chúng ta hiểu được giá trị của các tác phẩm trong sự phát triển và vận động của
văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX.
1.3. Đề xuất hƣớng nghiên cứu của luận án
Từ việc tìm hiểu lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX,
điểm lại các công trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy: hầu hết các nghiên cứu mới
chỉ dừng lại ở mức độ khảo sát các tác giả, tác phẩm cụ thể. Cho đến thời điểm đầu
của thế kỉ XXI nhìn lại, chúng tôi thấy chưa có một công trình chuyên biệt nào
nghiên cứu về sự xuất hiện và quá trình vận động, phát triển của thể tài tiểu thuyết
phóng sự Việt Nam trong một thế kỷ vừa đi qua. Bởi vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu
và nghiên cứu theo phương hướng này trên cơ sở gợi mở và kế thừa những người đi
trước để làm rõ sự vận động và khẳng định giá trị của tiểu thuyết phóng sự Việt
Nam thế kỷ XX.
26
CHƢƠNG 2: TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ ĐẦU THẾ KỶ XX
ĐẾN 1945
2.1. Các tiền đề lịch sử, xã hội, văn hoá, văn học
2.1.1. Tiền đề lịch sử - xã hội
Những năm đầu của thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có sự biến động dữ dội về mọi
mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Sự tiếp xúc với phương Tây đã thúc đẩy
nhanh quá trình Âu hóa mà sự phát triển của các đô thị đã hình thành và nuôi dưỡng
trong lòng nó mô hình của một xã hội hàng hóa. Xã hội Việt Nam từ mô hình phong
kiến, tiểu nông chuyển dần sang hình thái thực dân nửa phong kiến. Mâu thuẫn cơ
bản trong xã hội là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với bộ máy thống trị của chủ nghĩa
thực dân và phong kiến. Phong trào yêu nước giải phóng dân tộc từ đầu thế kỷ XX
vẫn không lúc nào nguội tắt. Năm 1925, Phan Bội Châu bị bắt ở Trung Quốc và bị
đưa về nước. Nhà chí sĩ Phan Chu Trinh về nước và mất năm 1926 ở Sài Gòn, cả
nước dấy lên phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh, đấu tranh đòi thả cụ
Phan Bội Châu. Lãnh tụ Nguy n Ái Quốc về hoạt động ở Quảng Châu, Trung Quốc
thành lập tổ chức Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội (1925) và thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam(1930) trên cơ sở hợp nhất các tổ chức cộng sản trong
nước. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (1930) của
Quốc dân Đảng do Nguy n Thái Học lãnh đạo bị thất bại nhanh chóng. Thực dân
Pháp và bọn tay sai tiến hành những cuộc đàn áp tàn ác đẫm máu những người tham
gia các phong trào cách mạng, đặc biệt là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh 1930-1931.
Lịch sử dân tộc Việt Nam chưa bao giờ có nhiều sự kiện, biến cố dồn dập đến thế.
Xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ xuất hiện những giai tầng mới, xã hội thực
dân nửa phong kiến nảy sinh trong lòng nó mối quan hệ mang tính chất tiền tư bản
chủ nghĩa. Các đô thị mới mọc lên và phát triển nhanh chóng cùng với các cuộc khai
thác thuộc địa của chủ nghĩa thực dân Pháp (lần thứ nhất 1897 - 1913, lần thứ hai
1919 - 1928) các đô thị phong kiến có từ trước cũng chuyển biến theo hướng tư bản
chủ nghĩa. Các tầng lớp dân cư ở đô thị đông lên một cách nhanh chóng. Giai cấp
công nhân hình thành cùng với cuộc khai thác thuộc địa ngày càng lớn mạnh và trở
27
thành lực lượng cách mạng nòng cốt. Tầng lớp tiểu tư sản ở thành thị cũng ngày
càng đông đảo, bao gồm các viên chức, tiểu thương, học sinh, sinh viên…Các tầng
lớp thị dân đông lên nhanh chóng, hình thành ở họ những mối quan hệ và nhu cầu
mới. Ở nông thôn, cơ cấu giai cấp chưa có nhiều biến động nhưng mâu thuẫn giữa
giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ và bộ máy cường hào phong kiến ngày càng
gay gắt, chính sách bóc lột tàn bạo bằng sưu cao, thuế nặng đã đẩy bộ phận đông
đảo nông dân vào tình cảnh bị bần cùng hoá, một bộ phận trong số đó tìm ra thành
thị để trở thành đội quân cung ứng sức lao động rẻ mạt, hoặc bổ sung vào đội quân
thất nghiệp, một số bị lưu manh hoá.
2.1.2. Tiền đề văn hóa
Dưới sự tác động của xã hội thực dân nửa phong kiến, đầu thế kỷ XX ở Việt
Nam đã xuất hiện một kiểu con người mới: con người cá nhân thấm nhuần ý thức hệ
tư sản, họ đã nhanh chóng trở thành một tầng lớp mới, sống theo kiểu phương Tây.
Mô hình văn hóa cổ truyền dần bị phá vỡ. Việt Nam, có sự giao thoa giữa hai nền
văn hóa phương Tây - phương Ðông, nên ý thức của con người cũng thay đổi, các
vấn đề xã hội như: hôn nhân gia đình, nạn mại dâm, cờ bạc, nạn thất nghiệp, nghiện
hút…đã trở thành nỗi bức xúc buộc con người phải tìm hiểu, nói lên suy ngẫm và
trăn trở. Xã hội đảo điên, mọi chuẩn mực đạo đức bị xáo trộn, đời sống nhân dân vô
cùng tăm tối, biết bao nghịch cảnh trớ trêu, tệ nạn hoành hành. Bộ máy thống trị
thực dân đưa ra nhiều phong trào, chủ trương về văn hoá để lôi kéo các tầng lớp dân
cư nhất là thanh niên. Mục đích làm họ xa rời phong trào đấu tranh yêu nước. Đó là
các phong trào như: cổ động Âu hoá, vui vẻ trẻ trung, thi sắc đ p, phong trào phục
cổ…Những biến động xã hội ấy, đã tác động mạnh mẽ đến các nhà văn, nhà báo và
họ ngay lập tức muốn ghi lại những sự thật nóng hổi đó. Các nhà báo nhanh chóng
dùng ngòi bút của mình để phản ánh, tố cáo cái xã hội hỗn loạn đầy bất công, ngang
trái mà không cần chờ đến thời gian. Hoàn cảnh xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà văn tập trung ngòi bút lột tả, khám phá bản chất xã hội. Xã hội Việt Nam đã
chứa đựng trong nó đầy ắp các mâu thuẫn và xung đột gay gắt, các biến động dữ dội
và đổi thay nhanh chóng, nóng bỏng…đó là mảnh đất màu mỡ, là đề tài phong phú
28
cho các đề tài phóng sự và tiểu thuyết phóng sự khai thác. Văn minh phương Tây
tràn vào Việt Nam, mang theo những mặt tiêu cực và cả những mặt tích cực. Văn
hóa phương Tây ngày càng thâm nhập sâu vào đời sống xã hội Việt Nam từ vật chất
đến tinh thần, ở cả thành thị và nông thôn. Con người với những quan niệm sống
xưa kia đã thay đổi. Đặc biệt là sự thức tỉnh ý thức cá nhân đã sớm tạo cho họ
những khát vọng dân chủ tiến bộ nhưng mặt khác, văn hoá phương Tây cũng làm
băng hoại bao giá trị đạo đức cổ truyền, làm cho xã hội bị đảo lộn, xới tung lên, lạnh
lùng đẩy những giá trị tinh thần lùi sau giá trị vật chất, giá trị vật chất lên ngôi đã
biến bao kẻ thành nô lệ của đồng tiền. Bao mối quan hệ thiêng liêng xưa trong xã
hội giờ đây bị biến thành hàng hóa. Những nghịch cảnh trớ trêu, bao tệ nạn ngang
nhiên trở thành quốc nạn: cờ bạc, gái điếm, nghiện hút, trộm cắp…Làm cho xã hội
đảo điên. Bên cạnh đó, nạn tham nhũng, con người ăn ở vô liêm sỉ, táng tận lương
tâm, lừa lọc lẫn nhau đầy rẫy trong cuộc đời. Mọi mối quan hệ giờ đây không còn
tìm được chân giá trị chỉ còn là giả dối, lừa đảo khiến con người hoang mang không
tin vào các giá trị từng bền vững. Nho giáo mất dần địa vị tôn nghiêm, các quan hệ
gia đình, gia tộc biến đổi. Văn hoá, tư tưởng phương Tây tràn vào, từ cách ăn mặc,
sinh hoạt đi đứng, nói năng, giao tiếp, nhận thức đến cách mặc âu phục, quan niệm
về nhân sinh. Hoài Thanh nhận thấy nền văn hoá phương Tây đã xâm nhập vào
nước ta: “ Chúng ta ở nhà tây, đội mũ tây, đi giầy tây, mặc áo tây. Chúng ta d ng
đèn điện, đông hồ, ô tô, xe lửa, xe đạp…còn gì nữa! Nói làm sao cho xiết những
điều thay đổi về vật chất, phương Tây đã đưa tới giữa chúng ta! Cho đến những nơi
hang c ng ngõ hẻm, cuộc sống cũng không còn giữ nguyên hình ngày trước. Nào
dầu tây, diêm tây, nào vải tây, chỉ tây, kim tây, đinh tây. Đừng tưởng tôi ngụy biện.
Một cái đinh cũng mang theo nó một chút quan niệm của phương Tây về nhân sinh,
về vũ trụ và có ngày ta sẽ thấy thay đổi cả quan niệm của phương Đông" [18] tác
động đến chỗ sâu kín trong con người Việt Nam, đã biến đổi tâm hồn con người
Việt Nam ta. Giáo dục, thi cử, chữ Hán chấm dứt lần lượt ở ba kỳ. Các nhà trường
Pháp - Việt ra đời đã tạo nên lớp trí thức mới - trí thức Tây học, thay thế cho trí thức
Nho học thời trước.
29
2.1.3. Tiền đề văn học
Ở nước ta trước đây, chưa có thể phóng sự nhưng đã manh nha ở thể loại vè,
những bài vè kể về cuộc sống, về nhân tình thế thái ở làng xóm, cộng đồng…chính
là phóng sự dưới dạng thức thô sơ truyền miệng. Đầu thế kỷ XX, ở Việt Nam xuất
hiện một hệ thống nhà in, nhà xuất bản, những phương tiện in ấn hiện đại đã góp
phần quan trọng vào việc thúc đẩy báo chí ra đời và nhanh chóng phát triển. Đó
cũng chính là điều kiện thuận lợi cho phóng sự nảy sinh và phát triển rộng rãi.
Trong xã hội hiện đại, con người luôn phải nhanh nhạy trong việc nắm bắt, cập nhật
thông tin. Việc đem lại những thông tin và cập nhật chính xác vốn không phải sở
trường của thơ ca, kịch nói, tiểu thuyết. Các hình thức khác của báo chí, nặng về lối
văn thông tấn cũng khó phát huy tác dụng, chỉ lối viết có khả năng bao quát rộng,
tìm hiểu sâu về những vấn đề nóng bỏng, bức xúc đang là trung tâm chú ý của dư
luận xã hội, phù hợp với thị hiếu của số đông bạn đọc Việt Nam.
Trên bối cảnh xã hội và văn hoá đã có nhiều biến đổi, nền văn học Việt Nam ở
đầu thế kỉ XX cũng tạo ra những biến đổi quan trọng trong giai đoạn giao thời. Bên
cạnh những thể loại truyền thống đã xuất hiện những thể loại văn học mới được tiếp
nhận từ Phương Tây như tiểu thuyết, truyện ngắn hiện đại, kịch nói, phê bình văn
học. Đến đầu những năm 30 xuất hiện thể phóng sự được du nhập từ phương Tây
tác phẩm đầu tiên đánh dấu mốc ra đời của thể này là Tôi kéo xe (1932) của Tam
Lang. Các thể tài văn học truyền thống cũng dần có những biến đổi đáng kể để phù
hợp với nhu cầu và thị hiếu mới của quần chúng, nhất là công chúng ở đô thị. Tiểu
thuyết và truyện ngắn quốc ngữ xuất hiện đầu tiên ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX và
phát triển rầm rộ ở đầu thế kỉ XX, rồi lan toả ra miền Bắc, đã sớm có được những
thành công với những tên tuổi đáng kể, từ Nguy n Trọng Quản đến Hồ Biểu Chánh,
Phú Đức, Trần Thiên Trung ở Nam Bộ, Trọng Khiêm, Nguy n Trọng Thuật, Đặng
Trần Phất, Hoàng Ngọc Phách, Phạm Duy Tốn, Nguy n Bá Học ở miền Bắc. Sang
đầu những năm 30 tiểu thuyết trưởng thành và phát triển vượt bậc đã thực sự mang
tính hiện đại mà trước hết là các tiểu thuyết của Khái Hưng, Nhất Linh trong nhóm
Tự lực văn đoàn, tiếp đó là các tiểu thuyết thuộc khuynh hướng hiện thực chủ nghĩa
30
của Vũ Trọng Phụng, Nguy n Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng…Từ sau tác
phẩm đầu tay của Tam Lang, phóng sự nở rộ và nhanh chóng đạt được thành công
với nhiều tác phẩm gây được tiếng vang rộng rãi. Xuất hiện một đội ngũ những nhà
văn kiêm nhà báo đã khẳng định vị trí của mình ở thể loại phóng sự như Vũ Trọng
Phụng, Tam Lang, Ngô Tất Tố, Trọng Lang. Trên tiền đề sự phát triển lớn mạnh của
hai thể tài: tiểu thuyết và phóng sự đã thúc đẩy sự ra đời của thể tiểu thuyết phóng
sự trong văn học Việt Nam vào giữa những năm 30 của thế kỉ XX.
2.2. Sự hình thành và diện mạo tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945
2.2.1. Sự hình thành tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Để tìm hiểu được sự hình thành của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam, chúng ta
ngược dòng thời gian trở về quá khứ. Thể văn ký sự ghi chép về sự việc, con người
đã có từ thời kỳ Trung đại ở Việt Nam với các tác phẩm: Việt điện U Linh của Lý Tế
Xuyên, Lĩnh nam chích quái của Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Trong những tác phẩm
này, bên cạnh những yếu tố truyền kỳ chúng ta vẫn thấy dấu vết về sự việc có thực
trong buổi đầu dựng nước của dân tộc. Thế kỷ XVIII có nhiều biến động dữ dội,
nhanh chóng trở thành tâm điểm thu hút sự quan tâm, chú ý của những người cầm
bút, đã xuất hiện một số tác phẩm như: Vũ trung t y bút của Phạm Đình Hổ, Thượng
kinh ký sự của Hải thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác. Các tác phẩm này, là pho tư liệu
đầy ắp những sự kiện được chắt lọc từ chính cuộc sống. Qua đó, chúng ta có thể
khẳng định, những tác phẩm mang tính chất ký trong nền văn xuôi Việt Nam xuất
hiện tương đối sớm chứ không phải đến đầu thế kỷ XX mới bắt đầu lộ diện trên văn đàn.
Những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ở phố Hàng Nâu, Nam Định nhà
Thơ Tú Xương [241], trước những điều chướng tai, gai mắt ở xung quanh đã ghi lại
trong những bài thơ trào phúng đặc sắc, như những bức ký họa thần tình về xã hội
thành thị trong buổi giao thời. Có thể xem đó như là những phóng sự bằng thơ trào
phúng. Trước đó, từ cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện một số tác phẩm du ký ghi chép
như: Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất hợi của Trương Vĩnh Ký [198]. Tác giả (ghi chép) lại
những gì quan sát được trên cuộc hành trình từ Nam kỳ ra Bắc kỳ, qua nhiều tỉnh
31
thành. Ở đầu thế kỷ XX, trên Nam Phong, Phạm Quỳnh cũng đã ghi lại khá rõ
những ấn tượng về sự việc, con người, phong cảnh nơi ông đã đến như cố đô Huế…
Những năm 30 của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam ngổn ngang bao sự kiện bức
xúc, nóng bỏng, hàng loạt tấn bi hài kịch di n ra, xã hội đầy rẫy ngang trái, bất
công. Xã hội có nhiều biến động, đã tạo nên những hiện tượng bức xúc. Trong mục
Việt Nam nhị thập thế kỷ xã hội ba đào ký của Tản Đà, tục bản An nam tạp chí với
yêu cầu: "viết những điều mắt thấy tai nghe trong khoảng 30 năm nay để giao dịch
kiến văn, sau là làm tài liệu cho người sau viết sử", Nguy n Công Hoan được mời
viết, đã phơi bày những mặt trái, lố lăng của xã hội đương thời với các truyện ngắn
như: Oẳn tà ro n, Tinh thần thể dục, Cô kếu, gái tân thời. Đầu năm 1932 Việt Nam
mới chính thức xuất hiện phóng sự đầu tiên: Tôi kéo xe của Tam Lang. Sau đó, hàng
loạt tác phẩm phóng sự đã gây chấn động văn đàn như: Cạm bẫy người, nghệ lấy
Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì của Vũ Trọng Phụng, Việc làng của Ngô Tất Tố, Làm
dân của Trọng Lang, Cường hào của Nguy n Đình Lạp, Hối lộ của Phan Ngọc Thọ,
chuyên mục B n lầy nước đọng của Hoàng Đạo…cùng với sự phát triển của phóng
sự, tiểu thuyết Việt Nam cũng phát triển nhanh trên con đường hiện đại hoá. Từ
những tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên ở Nam Bộ của Hồ Biểu Chánh, Trần Thiên
Trung đã nhanh chóng phát triển ra Bắc kỳ và lan rộng cả nước với các tác phẩm
tiêu biểu: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Nho Phong của Nguy n Tường Tam.
Phóng sự có những bước tiến rất nhanh trên con đường phát triển, tiểu thuyết trưởng
thành trên con đường hiện đại hoá. Một số nhà văn vừa là nhà báo nhạy bén với
những vấn đề xã hội, có năng lực khát quát hoá và hư cấu, tưởng tượng đã là những
tác giả đầu tiên sáng tạo thể tài: Tiểu thuyết phóng sự.
Phóng sự đã được đăng trên báo, in thành sách, viết thành tác phẩm có khuynh
hướng phóng sự: ví dụ tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố tiền thân là phóng sự có
tên: Một đứa con và một ổ chó năm 1936 in trên báo sau đó được tác giả gia công,
xây dựng thành câu chuyện có số phận nhân vật, bổ sung thêm nhiều sự kiện, chi
tiết và in thành sách mang tên Tắt đèn. Có thể coi đây chính là tiểu thuyết phóng sự.
Trường hợp Giông tố của Vũ Trọng Phụng cũng có những chi tiết thú vị. Đầu tiên
32
tiểu thuyết này được đăng từng kì trên báo, sau đó bị cấm nên đổi tên thành Thị
Mịch và cũng bị cấm phải chờ thời điểm thuận lợi mới in thành sách và mang tên
Giông tố, đây cũng là tiểu thuyết phóng sự đậm nét.
Tiểu thuyết phóng sự là sự kết hợp giữa hai thể loại: phóng sự báo chí với tiểu
thuyết văn học. Thực tế, đây là cuộc kết hôn tự nhiên giữa phóng sự báo chí và tiểu
thuyết văn học để tác phẩm vừa truyền tải những vấn đề bức xúc của thời đại vừa có
tính nghệ thuật, khơi gợi những tầng sâu của tình cảm con người. Nó là thể loại kép,
sự kết hợp tự nhiên giữa văn và báo, đảm nhận sứ mệnh nghệ thuật của nó như đã
nói ở trên (khi con người ta không dừng ở lại nhu cầu tiếp nhận thông tin mà muốn
đi sâu hơn, hiểu biết sâu sắc hơn), nắm được các sự kiện, các tình huống có vấn đề.
Mục đích của hưởng thụ văn chương không bao giờ dừng lại ở việc nắm bắt thông
tin, sự kiện mà còn đi xa hơn, đòi hỏi cao hơn là tiếp nhận những giá trị về nghệ
thuật và thẩm mỹ…Báo chí lên tiếng phản ánh hiện thực xã hội, phanh phui các hiện
tượng trong cuộc sống, dư luận dấy lên dữ dội nhưng xong nhiệm vụ thì vai trò của
báo chí cũng kết thúc, dư luận nguội đi chìm vào quên lãng. Tiểu thuyết phóng sự
thì lại khác vì tiểu thuyết phóng sự vừa lưu giữ các chứng cứ thời đại (văn học có
nhiệm vụ neo giữ lại lịch sử - người thư kí trung thành của thời đại) vừa tham gia
giải quyết những vấn đề lớn trong xã hội. Khi đọc và nghiên cứu tiểu thuyết phóng
sự, độc giả, người nghiên cứu vừa lấy thông tin, số liệu, chứng cứ bên cạnh đó lại
thỏa mãn nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của mình, tìm đến cái đ p, biểu hiện cảm
xúc nghệ thuật và gu thẩm mỹ của mình.
Một số nhà văn có khả năng phân tích sắc sảo vấn đề đời sống, mặt khác lại là
những nhà báo xuất sắc, họ đã kết hợp thành công phóng sự và tiểu thuyết, điển
hình như Vũ Trong Phụng, Ngô Tất Tố, Nguy n Đình Lạp. Thể tài tiểu thuyết
phóng sự ra đời khi hội tụ đầy đủ các điều kiện đã nhanh chóng đạt được những
thành tựu vững chắc và chứng tỏ sự trưởng thành, đã xuất hiện những tên tuổi khẳng
định tài năng độc đáo của mình ở thể tài tiểu thuyết phóng sự như: Vũ Trọng Phụng,
Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Chu Thiên, Nguy n Đình Lạp.
33
2.2.2. Diện mạo tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945
Diện mạo của tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945 rất phong phú đa
dạng. Tiểu thuyết phóng sự có tính thời sự và cảm hứng phản biện, phê phán xã hội
sâu sắc thể hiện trong sáng tác của các tác giả. Tiểu thuyết phóng sự đi vào khảo
cứu các vấn đề văn hoá như: Bút nghiên của Chu Thiên, Lều chõng của Ngô Tất Tố.
Tiểu thuyết phóng sự khám phá, quan sát, phân tích kịp thời thực tại xã hội ở góc độ
điều tra trong Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguy n Đình Lạp. Tác phẩm có tính thời sự và
cảm hứng phản biện xã hội sâu sắc trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng, Ngô Tất Tố với những tác phẩm tiêu biểu như: Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ, Bỉ vỏ,
Tắt đèn. Với Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã chiến đấu mạnh mẽ, quyết liệt chống lại
cái xấu, cái ác. Mỗi dòng chữ viết ra như muốn cựa quậy, đả phá cái xã hội đã đến
hồi cáo chung, mỗi lời nói của nhân vật trong tác phẩm đều thể hiện sự bất bình, uất
ức có sức mạnh tố cáo xã hội. Viết Giông tố tác giả muốn cuốn đi tất cả một thực
trạng xã hội đen tối đã gây biết bao đau khổ cho người dân vô tội, trả lại cho họ
cuộc sống bình yên. Viết Vỡ đê hẳn Vũ Trọng Phụng rất cay đắng và đau xót trước
một thực trạng xã hội bẩn thỉu. Nó như càng thôi thúc và nung nấu cháy bỏng ý
muốn công kích, đả phá vào cái trật tự xã hội hiện thời, loại bỏ những gì xấu xa,
ngang trái để khao khát kiến thiết một xã hội mới công bình và tốt đ p hơn. Với Số
đỏ, Vũ Trọng Phụng đã đưa lên sân khấu cả một xã hội đang quay cuồng, đảo điên
trong cơn lốc Âu hóa, cả một xã hội chạy theo Âu hóa một cách mù quáng, cả một
xã hội đề cao Âu hóa tuyệt đối, cả một xã hội không còn là mình nữa, họ đánh mất
tất cả, họ mất cả phần lương tri tối thiểu cần có ở mỗi con người. Tắt đèn của Ngô
Tất Tố đã cảnh tỉnh lương tâm, đánh thức mỗi con người. Người chết rồi cũng phải
đóng thuế. Vì một xuất nộp sưu mà người m đã phải bán cả con và chó, đứa bé
phải ăn cơm thừa của chó…Nhìn sâu vào số phận con người, thật sự con người
không bằng con chó. Người đàn bà chạy khắp đó đây bán chó, bán con, bán sữa chỉ
vì thuế làm người. Bỉ vỏ của Nguyên Hồng đã đưa người đọc đến một vùng đô thị
Hải Phòng với những con người tiêu biểu cho mặt trái xã hội đương thời. Những
34
con người này lần đầu tiên xuất hiện trong văn chương Việt Nam thời thực dân,
phong kiến. Đó là những tay anh chị, giang hồ, kẻ trộm cướp, kẻ móc túi, người lừa
đảo, gái điếm…họ là những người ở đáy cùng của xã hội. Nguyên Hồng đã phanh
phui thực trạng xã hội đô thị và chỉ ra nguyên nhân người lương thiện trở thành kẻ
lưu manh, có cuộc đời lầm lỗi là do bọn thực dân, phong kiến. Tác giả tố cáo thế lực
thống trị trong xã hội đã trực tiếp và gián tiếp đẩy những con người lương thiện vào
cuộc đời "bỉ vỏ" và khát vọng thay đổi xã hội. Tác phẩm Bút nghiên của Chu Thiên
và Lều chõng của Ngô Tất Tố lại phê phán phong trào phục cổ của xã hội thực dân,
phong kiến. Với Lều chõng của Ngô Tất Tố, việc thi cử kiểu cũ và nền Hán học đã
đi vào dĩ vãng, quá khứ đã được niêm phong lại một lần nữa với thái độ dứt khoát.
Bút nghiên của Chu Thiên và Lều chõng của Ngô Tất Tố đã tái hiện lại quá khứ có
nhiều yếu tố nghệ thuật nhưng vẫn mang tính thời sự. Đó là thái độ trước chủ trương
phục cổ của nhà cầm quyền thực dân đương thời. Công chúng đang muốn có một hồ
sơ về cái chết của nền Hán học thì hai tác phẩm đã xuất hiện để minh chứng cho
điều này. Giữa lúc Tây học đang chiếm thế thượng phong thì xuất hiện tiểu thuyết
viết về Hán học mà tiểu thuyết ấy lại được công chúng đón nhận. Các tác phẩm đã
lên tiếng phê phán việc học hành, khoa cử của ông cha ta ngày xưa và lôi cuốn độc
giả hưởng ứng theo dõi là một thành công. Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguy n Đình Lạp
đã cho độc giả thấy được xã hội đô thị đương thời Việt Nam từ góc nhìn một vùng
ngoại ô. Tác giả đã tập trung khám phá, điều tra về cuộc sống cơ cực, lam lũ, vất vả,
đói nghèo xơ xác của những người dân vùng ngoại ô Hà Nội. Những con người,
những cuộc đời chìm ngập trong buồn thương, lo lắng, uất hận song vẫn giàu lòng
nhân ái, khảng khái, hào hiệp, sẵn lòng chia sẻ, cưu mang, đùm bọc lẫn nhau, giúp
đỡ nhau trong hoạn nạn. Hai tác phẩm đã phát huy được thế mạnh của nhà văn, vốn
hiểu biết khá phong phú, sâu sắc về cuộc sống của những người dân nghèo thành thị
đồng thời thể hiện thái độ cảm thông, trân trọng vẻ đ p nhân ái trong tính cách của
những con người nghèo khổ nơi đây…Một số tiểu thuyết như: Lầm than của Lan
35
Khai, Con trâu, Chồng con của Trần Tiêu cũng ít nhiều có chất phóng sự nhưng
chúng tôi không dành thời gian nghiên cứu.
2.3. Những thành tựu của tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945
2.3.1. Thành tựu về nội dung
2.3.1.1. Sự lên tiếng kịp thời về các vấn đề nóng hổi của xã hội nông thôn Việt Nam
dưới chế độ thực dân, phong kiến
Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam giai đoạn này, đã bao quát được những hiện
trạng, đời sống của con người để từ đó tham gia vào cuộc đấu tranh xã hội. Tiểu
thuyết phóng sự đã góp phần phơi bày xã hội nửa thực dân phong kiến, phanh phui
những mặt trái, những bức xúc của xã hội trong bức tranh đa màu sắc. Từ nông thôn
đến thành thị, mọi vấn đề bức xúc của xã hội được quan tâm như nạn sưu thuế sự
bóc lột và áp bức bóc lột của địa chủ, cường hào ở nông thôn, gian tham, độc ác.
Những tệ nạn thành thị như: lưu manh, trộm cắp, gái điếm…Những chính sách mị
dân như: chủ trương phục cổ, phong trào Âu hoá cũng kịp thời bị bóc trần, lên án
trong các tiểu thuyết phóng sự. Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam giai đoạn 1930 -
1945 không ngần ngại phanh phui, phơi bày những vùng khuất lấp, những ung nhọt,
tệ lậu của xã hội đương thời. Tiêu biểu như các tác giả: Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất
Tố, Nguyên Hồng, Nguy n Đình Lạp…Với những tác phẩm tiêu biểu: Giông tố, Số
đỏ, Vỡ đê, Bỉ vỏ, Tắt đèn, Ngoại ô, Ngõ hẻm, Lều chõng.
Nông thôn Việt Nam được các nhà tiểu thuyết phóng sự phơi bày, phanh phui
bằng ngòi bút phóng sự sắc sảo và tiểu thuyết điêu luyện trong các tác phẩm: Giông
tố, Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng, Tắt đèn của Ngô Tất Tố.
Giông tố của Vũ Trọng Phụng, sức mạnh ngòi bút của Vũ Trọng Phụng được
PGS Trần Hữu Tá khẳng định: “…L ng sục vào cái hoạt động muôn mặt của xã
hội, đào xới mọi tầng vỉa phức tạp, lật tung các góc cạnh khuất lấp, giúp người đọc
hiểu đúng, sâu và sớm phần chìm tảng băng của những vấn đề thiết yếu mà họ vốn
chưa biết hoặc chưa cặn kẽ, thậm chí chưa chính xác” [130, tr.21]. Bởi vậy, tiểu
thuyết phóng sự Giông tố của Vũ Trọng Phụng có chất thời sự nóng hổi và đậm đặc.
36
Làng Quỳnh Thôn nhỏ bé, từ bao đời đắm chìm trong sự trì trệ, lạc hậu cổ hủ
với những kiếp sống lam lũ, bần cùng của những người nông dân quanh năm đầu tắt
mặt tối. Làng quê ấy, luôn lo âu phấp phỏng bởi bọn lý dịch, cường hào mượn cớ
này nọ mà bóp nặn khiến người nông dân khó lòng mà sống yên phận. Làng Quỳnh
Thôn tưởng như bình yên trong cuộc sống thôn quê nhưng lại có nhiều điều bất ổn
xảy ra. Con gái của cụ đồ Uẩn là Thị Mịch bị hiếp dâm, đám dân đen của làng đã
“dại dột” “lôi thôi, lốc thốc đã kéo nhau ” [208, tr.20] đi kiện để mang họa vào thân.
Cụ đồ Uẩn, có cuộc sống thanh bạch cũng sa vào chốn công đường mà hết sạch cái
vốn dành dụm suốt một đời làm thầy đồ. Một gia đình, đang sống một cách yên ổn
bỗng dưng rơi vào cảnh khốn cùng: Thị Mịch phải chờ đêm xuống để đi bới khoai,
bẻ trộm ngô sinh sống qua ngày, ông đồ phải ăn cháo cám…Đó còn là làng Quỳnh
Thôn với cảnh đám đông hỗn loạn: " Trong đình lúc ấy vang ầm lên những lời bàn
tán và cãi nhau. Giọng người nào cũng lè nhè những hơi rượu:
- Anh nào còn nói nữa thì ông đánh dập cổ xuống đấy!
- Th ng nào cấm ông, thì ông chẻ xác ra!
- Chỗ này là chỗ việc làng, chúng mày không được đem chuyện riêng nhà người
ta mà bới móc.!.." [208, tr.143].
Qua tình cảnh của gia đình ông đồ Uẩn, Giông tố đã chỉ ra nguyên nhân người
nông dân bị đẩy vào cảnh nghèo khó, khốn cùng. Tai họa bỗng dưng ập đến với
người nông dân không ai khác chính là thế lực thống trị tàn bạo. Trong những trang
văn nóng bỏng tính thời sự, Vũ Trọng Phụng đã tỏ rõ lập trường giai cấp của mình,
đứng về phía những người dân nghèo ở làng quê, vạch mặt, tố cáo bọn tư sản địa
chủ. Sự toàn diện của một ngòi bút tài năng thể hiện trong tác phẩm, còn được kiểm
chứng ở chiều sâu sự kiện mà tác giả đề cập, năng lực phân tích xã hội với những vi
mạch của đời sống vốn rất phong phú và phức tạp, đó là điều tra cặn kẽ các vấn đề
nhức nhối của xã hội đương thời. Cũng từ sự việc xảy ra ở làng Quỳnh Thôn, Vũ
Trọng Phụng đã nhận thấy sự xuống cấp về đạo đức của con người. Con người có
thể làm bất cứ điều gì cho dù có xấu xa và táng tận lương tâm đến mức nào. Những
37
hành vi đồi bại của con người góp phần khiến cho xã hội ấy trở thành “xã hội chó
đểu”, “xã hội vô nghĩa lí”.
Vỡ đê của Vũ Trọng Phụng cho người đọc thấy một không khí chính trị ngột
ngạt, căng thẳng trong những ngày đê vỡ ở nông thôn Việt Nam. Cuộc sống khốn
khó, chật vật trong từng gia đình, xóm làng, huyện xã được tác giả miêu tả hết sức
sinh động và chân thực. Với con mắt nhà nghề của người viết phóng sự chuyên
nghiệp và trí tưởng tượng phóng khoáng, phi thường của một nhà tiểu thuyết tầm
cỡ, Vũ Trọng Phụng đã thu vào ống kính của mình rất nhiều kiểu người, loại người
của xã hội đương thời. Những con người ấy, hơn 300 phu hộ đê, họ đủ mọi tầng lớp,
trong đó có đàn bà và trẻ con bị đói khát, rét mướt và nhọc mệt với những trận roi
mây, những tiếng rên rỉ, kêu khóc…qua cái nhìn của Phú: "Đó là đám đông có độ
sáu chục là đàn bà và trẻ con bị đày đọa trong cái đói khát, rét mướt và nhọc mệt,
trong những trận roi mây bật ra những tiếng rên rỉ, kêu khóc", “bốn chục người n m
co quắp, chồng chất lên nhau mà ngủ, ngổn ngang, lổng chổng như một lớp cá mè
(…)Một lần nữa, những cái thế n m tuy có đổi mà kỳ chung sự hỗn độn vẫn nguyên
là sự hỗn độn vì những cái đầu này lại chúi vào những cái đít khác, cái chân của
người nọ lại đặt lên cái mặt của người kia. Một giấc ngủ, tuy vậy, cũng thần tiên.
Một đống người, tóm lại, sung sướng, nếu cái ngủ là phương pháp cuối c ng chống
với cái đói ” [209, tr.52]. Những người nông dân, họ gồng mình lên để chống chọi
với nguy cơ vỡ đê bằng tất cả sự nhọc nhằn, vất vả, bệ rạc. Hình ảnh của họ mới
thảm thương làm sao? Cảnh hộ đê như một thước phim tư liệu ngắn về cảnh đê sắp
vỡ như phơi bày tội ác của bọn thực dân, phong kiến. Những con người thấp cổ bé
họng, sinh hoạt tạm bợ trong cảnh nước sôi lửa bỏng, thật hỗn độn, buồn thảm vẫn
toát lên nỗi xót xa, ái ngại của nhà văn.
Tiểu thuyết phóng sự còn thể hiện thế mạnh là tính thời sự nóng hổi và cảm
hứng phản biện sâu sắc xã hội để dựng lên bức tranh nông thôn Việt Nam trước
cách mạng. Bằng con mắt điều tra nhạy bén, sắc sảo của nhà báo, bằng sức mạnh
nghệ thuật của nhà văn, Ngô Tất Tố đã hướng ngòi bút của mình vào cái nơi được
38
coi là nóng bỏng nhất trong xã hội bấy giờ. Đó là nông thôn Việt Nam với chính
sách sưu thuế qua tác phẩm Tắt đèn.
Bằng ngòi bút nóng bỏng tính thời sự, Ngô Tất Tố đã dựng lên cảnh náo loạn
đầy tính căng thẳng, hỗn độn ở làng quê trong vụ sưu thuế: đó là cảnh bọn lý dịch
tra khảo, lùng sục, đánh đập người dân chưa nộp thuế. Ngô Tất Tố đã dựng lên màn
kịch giữa cảnh chị Dậu vì tức nước vỡ bờ đã đứng dậy đánh lại cai lệ và người nhà
lý trưởng bất chấp tất cả, không còn biết sợ là gì: " - Mày trói ngay chồng bà đi, bà
cho mày xem! Thà ngồi t . Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu
được"[223]. Ngô Tất Tố là nhà văn am hiểu sâu sắc đời sống thôn quê Việt Nam.
Qua tiểu thuyết phóng sự Tắt đèn, (phóng sự Việc làng, Tập án cái đình), Ngô Tất
Tố đã phản ánh một cách đa dạng, sâu sắc về thực trạng nông thôn Việt Nam. Qua
những tiểu thuyết và phóng sự về nông thôn của Ngô Tất Tố, các nhà Xã hội học,
nghiên cứu Văn học và Lịch sử có thể tìm thấy được những tư liệu quí giá về nông
thôn Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945 mà không phải bất cứ một tác phẩm nào cũng
có được. Đi truy tìm bản chất của vấn đề, người viết tiểu thuyết phóng sự phải tìm
ra đầu mối để kết nối các sự kiện, hiện tượng với nhau một cách lôgic, phải biết
cách điểm trúng huyệt của vấn đề. Ở Tắt đèn chúng tôi nhận thấy, chất phóng sự kết
hợp tài tình với chất tiểu thuyết. Thuế làm người quả là một điều vô lý. Vì sinh ra và
có mặt ở trên đời nên phải nộp thuế. Suất sưu của anh Dậu đã nộp rồi nhưng vì còn
thiếu một suất của anh Hợi, em anh Dậu đã chết từ năm ngoái nhưng: " chết cũng
không trốn được sưu nhà nước! Là vì th ng em…mới chết tháng giêng An Nam mà
"sổ thông quy" của làng đã làm từ đầu năm Tây…" [223], thế mà người đàn ông này
phải chịu bao nhiêu trận đòn roi của bọn tay sai và chết đi sống lại nhiều lần ngoài
đình. Chỉ vì suất sưu của người đã chết mà chị Dậu, một người phụ nữ "chân yếu tay
mềm" đã phải chạy vạy khắp nơi để tìm ra đủ số tiền để nộp sưu. Cuối cùng cực
chẳng đã chị đứt ruột bán đi đứa con gái ngoan ngoãn, hiếu thảo của mình và một
đàn chó vừa mở mắt, cả hai gánh khoai, nguồn lương thực cuối cùng của gia đình để
lấy tiền nộp sưu cho chồng, rồi phải lên tỉnh đi ở vú, để có tiền nộp nốt suất sưu của
em chồng đã chết. Tắt đèn cho người đọc thấy được một sự thật đau lòng: đó là sự
39
cầu cứu, van xin của những đứa trẻ ngây thơ, trong sáng bỗng trở thành một món
hàng bị đem đi bán chỉ vì mấy đồng bạc nộp sưu cứu cha khỏi bị đánh đập dưới đòn
roi của bọn phong kiến, cường hào và thực trạng cuộc chia ly thấm đẫm nước mắt,
giữa một bên là bà m và một bên là đứa con gái bảy tuổi đứt ruột đẻ ra. Ngô Tất Tố
cất lên tiếng kêu cứu những con người mà cụ thể ở đây là đứa trẻ không được quyền
làm con, bị cha m mang bán cho cho nhà giàu để lấy một đồng bạc. Tắt đèn có tính
thời sự nóng bỏng và tính vấn đề sâu sắc bởi đây là một bản tố khổ chân thật, sâu
sắc, chan hoà nước mắt và lòng căm phẫn của hàng triệu nông dân nghèo bị bóc lột
trong kỳ sưu thuế của thực dân, phong kiến. Không thể không xúc động trước tiếng
khóc nức nở xé ruột của chị Dậu hoà lẫn tiếng van lơn tha thiết tội nghiệp của cái
Tý: "U bán con thật đấy ư? Con van u, con lạy u, con còn bé bỏng, u đừng đem bán
con đi, tội nghiệp. U để cho con ở nhà chơi với em con". " U nhất định bán con đấy
ư? U không cho con ở nhà nữa ư? hốn nạn thân con thế này. Trời ơi! Ngày mai
con chơi với ai? Con ngủ với ai?" [223].
Ngô Tất Tố đã dựng lên hiện thực xót xa ở một làng quê Việt Nam. Chỉ vì một
suất thuế làm người mà thảm cảnh đã di n ra với một gia đình đang bình yên. Thật
ghê gớm, thảm hại, nhưng tất cả điều đó không hãm được sự thúc thuế, cay nghiệt
và độc ác khi: " Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ thì ông sẽ dỡ cả nhà
mày đi, chửi mắng mà thôi à !", " chết cũng không trốn được sưu nhà nước" [223].
2.3.1.2. Phơi bày và phản biện đanh thép các vấn đề bức xúc của đô thị Việt Nam
dưới chế độ thực dân, phong kiến
Những năm 1930 - 1945 của thế kỷ XX, tiểu thuyết phóng sự Việt Nam còn lật
tẩy, phanh phui các vấn đề bức xúc của đô thị dưới chế độ thực dân, phong kiến.
Cuộc sống đô thị với mặt trái, có những tệ nạn xấu xa đang hàng ngày di n ra và tàn
phá môi trường Việt Nam. Cuộc sống đô thị với nhiều con người cùng cực, lam lũ
chịu nhiều bất hạnh khổ đau…Đô thị với những kẻ thượng lưu trọc phú, tàn bạo, đê
tiện bỉ ổi sẵn sàng cấu kết với thực dân như đại địa chủ Tạ Đình Hách (Giông tố của
Vũ Trọng Phụng) để bóc lột, đàn áp dân lành …Đó là âm mưu của thực dân, phong
kiến lôi cuốn dân ta vào phong trào "Âu hoá","Vui vẻ trẻ trung" của bọn chúng mà
40
quên đi nỗi đau mất nước, lầm than, quên việc tìm ra con đường giành độc lập, tự do
cho dân tộc (Số đỏ của Vũ Trọng Phụng). Đó là những con người, do bị xã hội vùi
dập và là hậu quả của những cuộc lừa đảo đã bị đẩy vào con đường cùng không lối
thoát trở thành kẻ lưu manh, trộm cắp, gái bán hoa…Lớp người ở đáy cùng của xã
hội như: Tám Bính, Năm Sài Gòn…(Bỉ vỏ của Nguyên Hồng). Đó là đô thị với
những con người cùng cực, lam lũ chịu nhiều bất hạnh khổ đau…(Ngoại ô, Ngõ hẻm
của Nguy n Đình Lạp)…
Đô thị Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XX, được phơi bày với cảm hứng
phê phán xã hội được các nhà tiểu thuyết phóng sự tập trung bút lực để phanh phui,
mổ xẻ trên văn đàn. Phản ánh những vấn đề của cuộc sống đương đại với tính nóng
hổi những biến cố, sự kiện bất ngờ đang di n ra từng giờ, từng phút là sở trường và
hứng thú của các nhà tiểu thuyết phóng sự. Chốn thị thành, ăn chơi, sa đọa làm băng
hoại, tha hóa, biến chất bao con người lương thiện được Vũ Trọng Phụng phanh
phui, lật tẩy trong Số đỏ. Vũ Trọng Phụng đã chứng tỏ là một ngòi bút thật sự năng
động, nhanh nhạy, sắc bén, không chỉ có khả năng lật tẩy vấn đề mà còn mang một
sức mạnh chiến đấu hết sức quả cảm. Vấn đề bức xúc của đô thị Việt Nam đang
xoáy lên dữ dội trong cơn lốc Âu hóa. Con người đang bị tha hoá về đạo đức trước
làn sóng Âu hóa tạo lên bức tranh ảm đạm của thành thị. Cơn lốc đó, thổi gió bụi
vào từng căn nhà, từng cửa hàng cửa hiệu, cuốn phăng đi mọi giá trị đạo đức hàng
nghìn năm bền vững. Với phạm vi hiện thực được phản ánh, Vũ Trọng Phụng luôn
có ý thức miêu tả cuộc sống trong tính lịch sử, cụ thể của nó. Vũ Trọng Phụng đã
nổi danh ở các thiên phóng sự dài kỳ trên báo. Cảm quan của một nhà báo tinh nhạy
khiến ông không thể bỏ qua được những vấn đề sốt dẻo của đời sống đô thị. Vũ
Trọng Phụng rất tinh nhạy trong việc nắm bắt bản chất sự việc, chính điều này, đã
đưa ông đi xa hơn một số cây bút cùng thời như Trọng Lang, Ngô Tất Tố, Nguy n
Đình Lạp. Văn hoá Việt Nam buổi giao thời đã tạo điều kiện cho Vũ Trọng Phụng
khai thác sinh hoạt của đô thị chủ yếu ở bình diện văn hóa, đạo đức. Nhà văn đã
phát hiện, trong đời sống hỗn tạp và xô bồ ở chốn thị thành, con người ta giành giật
nhau, đua chen nhau về quyền lợi, địa vị trở thành hiện tượng vô cùng phổ biến
41
thậm chí bất chấp cả luân thường đạo lí. Có những điều, trong hàng ngàn năm là
chuẩn mực, quy định mối quan hệ có tính luân lí giữa con người với con người thì
nay bị bóp méo, bị đảo lộn. Con người thích chạy theo những hư danh, những giá trị
phù phiếm hơn là sống với cuộc đời thực của mình. Vũ Trọng Phụng còn phanh
phui cuộc sống đô thị với những mặt trái, tệ lậu xã hội và việc thâm nhập của văn
minh phương Tây. Ông nhìn nhận vấn đề trước hết bằng con mắt của một nhà báo
xông xáo, nhạy bén, một nhà văn thẫm đẫm tinh thần nhân văn. Thủ đoạn thống trị
và bóc lột tàn bạo của giai cấp thống trị, tư sản dẫn đến đời sống bần cùng và tha
hóa của con người nơi đô thành là do sự thao túng, lộng hành quái ác của cơ chế
đồng tiền... Phong trào Âu hóa như một đại dịch tàn phá, hủy hoại những giá trị văn
hóa tinh thần người Việt. Bên cạnh đó, lại phô ra những cái dởm, nhố nhăng, đồi
bại, chất chứa nhiều tệ nạn của đời sống xã hội. Vũ Trọng Phụng nói nhiều đến
phong trào Âu hóa trong dòng trôi ồ ạt của đời sống đô thị buổi giao thời. Phong
trào Âu hóa được thể hiện đậm đặc trong Số đỏ. Từ nhà đến ngõ, ngoài đường, trong
các cửa hàng mốt, sân quần vợt, trên các tờ báo…Nơi đâu người ta cũng hô hào cổ
vũ cho Âu hóa. Lời phát biểu tại l khánh thành sân quần vợt của Xuân Tóc Đỏ là
một dấu hiệu rất rõ của sự Âu hoá: “giai gái tự do giao thiệp với nhau, như thế là
một dấu hiệu của sự tiến bộ, của Âu hóa” [210, tr.158], làn gió Âu hóa đã lan tỏa
khắp nơi, Xuân Tóc Đỏ đã nhận thấy: “…Tôi, từ hôm nay mà đi, là đã dự một phần
vào cuộc cải cách xã hội rồi…Vậy tôi phải chăm chỉ và nhất là phải hiểu những việc
tôi làm… chưa được Âu hóa mấy!... Một sự trở ngại trên đường tiến hóa. Thể
thao… nòi giống…Hạnh phúc là cái gì khác nếu không là sức khỏe của vợ chồng?
gắng sức anh em luyện tập, không phải là cải cách bề ngoài như lối cổ hủ… giữa
buổi canh tân này, cái gì hủ lậu ta đào thải đi!” [210, tr.126]. Tiệm may Âu hóa của
vợ chồng Văn Minh được coi là đi đầu với những mốt y phục vô cùng gợi cảm do
họa sĩ TYPN thiết kế. Những cái tên lãng mạn, ỡm ờ của mỗi bộ y phục đã tạo biết
bao cảm hứng cho Xuân Tóc Đỏ, Tuyết, Văn Minh, bà Phó Đoan. Đô thị, trong
phong trào Âu hoá, có hình ảnh của hai vợ chồng Văn Minh là những người đi đầu
trong phong trào Âu hóa bởi họ ra sức quảng bá cho thời trang và thể thao song họ
42
lại là những người thiếu sức sống và thiếu hiểu biết về thời trang nhất qua bức chân
dung ký họa bất ngờ nhưng lại xuất thần: “rồi đến một chàng thiếu niên cao ngẳng,
gầy đét, lỗ hầu, hai mắt như ốc nhồi, tóc cũng uốn quăn, âu phục lối du lịch, chui ở
xe ra đưa tay cho thiếu nữ mặc quần đ i trắng, tóc búi, giầy cao su, tay cắp hai cái
vợt, chui ra sau c ng” [210, tr.10]. Bức chân dung ký họa để lại ấn tượng sâu sắc
với độc giả, chỉ một lần đọc là khó có thể quên. Trong cuộc sống đô thị, Vũ Trọng
Phụng đã kí họa một sery chân dung tiêu biểu cho lớp người thượng lưu, trưởng giả
lúc bấy giờ. Mỗi nhân vật mang một dáng vẻ khác nhau song họ đều có điểm chung
là sự giả dối, lố bịch, kệch cỡm, nhố nhăng và mất nhân tính. Những con người
thành phố, bởi thế mà hiện lên rất đa dạng. Mỗi nhân vật được Vũ Trọng Phụng
khắc họa dường như là một con rối thì đúng hơn, chúng đang múa may, quay cuồng,
nhào lộn trên sân khấu của đời sống đô thị. Bằng con mắt hài hước châm biếm
nhưng thực chất Vũ Trọng Phụng đã phê phán phong trào Âu hóa, đã lật tẩy vấn đề
đó. Ông không thể nào giấu nổi sự căm phẫn của một con người vốn mực thước và
khuôn phép khi thấy cả xã hội vì Âu hóa mà xuống cấp về đạo đức. Xuân Tóc Đỏ là
một nhân vật bất hủ của sự nhố nhăng, pha tạp, bát nháo của xã hội thành thị, cùng
với bà Phó Đoan, ông Văn Minh, ông TYPN…Tất cả những con người này như
mang dấu ấn của tầng lớp thị dân trong một nước bị văn minh phương Tây ập đến
và ngự trị. Nhà văn phơi bày hình ảnh cả một xã hội thành thị vì Âu hóa mà xuống
cấp về đạo đức và những gì nó phô di n thật lố bịch, nực cười. Hình ảnh một xã hội
đô thị bát nháo còn được thu gọn trong hình ảnh đám tang cụ cố tổ của một đại gia
đình danh giá. Một đám tang mà có di n thuyết về xã hội Âu hóa, có những ông bạn
đâu phải đến chia buồn với gia chủ mà đến để phô trương thân thế thì đúng hơn: lũ
con cháu tươi cười hoan hỉ, đám con cháu trong gia đình họa sĩ TYPN, ông Joseph
Thiết, Xuân Tóc Đỏ, sư cụ tăng Phú đến “góp vui” cho tang gia, đám bạn tài tử của
cậu Tú Tân thi nhau trổ tài khiến người hai bên đường phố đổ ra xem nhiều vô
kể…Tạo nên một cảnh tượng nhốn nháo, nhố nhăng, kệch cỡm chưa từng có. Với
con mắt nhà nghề vốn đã từng là một phóng viên thành thạo, cộng với tài năng sáng
tạo của nhà văn, Vũ Trọng Phụng đã đưa ống kính của mình khắp một lượt, quay
43
cận cảnh từng nhóm người, chĩa cả ống kính vào sát tận bên trong mà ghi lấy câu
chuyện thú vị của họ trong nhà đám. Vũ Trọng Phụng còn đẩy ống kính ra xa hơn
để ghi lại toàn cảnh đám tang. Cụ bà cố Hồng mãn nguyện vì có tới sáu cái xe xuất
hiện khi đang đưa đám tang, giữa thanh thiên bạch nhật, trước hàng trăm cặp mắt
thán phục của thiên hạ thể hiện sự linh đình về đám tang của một gia đình có thế
lực: “xe nào cũng che hai lọng”, cụ thốt lên một cách sung sướng: “Ấy giá không có
món ấy thì ta thiếu chưa được to, may mà ông Xuân nghĩ hộ tôi” [210, tr.176]. Đám
ma đâu còn là sự tiếc thương đưa ti n người chết về nơi an nghỉ mà trở thành một
đám rước phô trương, pha tạp giữa văn hóa Tây-Ta-Tàu. Sự tôn nghiêm, tiếc thương
của đám tang trở thành đám rước như một l hội hóa trang di u hành trên đường
phố. Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến những vấn đề thời sự nóng hổi của cuộc sống
đô thị đang được quan tâm đó là Âu hoá. Phanh phui, lật tẩy hiện thực là tiếng nói
thể hiện cảm hứng phản biện xã hội mạnh mẽ của một cây bút đầy bản lĩnh, có
lương tâm và trách nhiệm đối với con người. Cảm hứng ấy, đã tạo tiền đề và tiếp
sức cho những cây bút tiểu thuyết phóng sự sau này gặt hái thành công. Vũ Trọng
Phụng cũng giống như nhà văn Pháp, Balzac của thế kỷ XIX, hai văn tài cùng muốn
gửi đến hậu thế một thông điệp: hãy vùi lấp, chôn sâu tất cả những gì độc ác, giả
dối, thấp hèn của con người để con người sống đúng nghĩa con người mà tạo hoá đã
ban tặng. Bởi vậy, trong bài Điếu văn đọc trước mộ Vũ Trọng Phụng, Lưu Trọng Lư
đã khẳng định: “Tất cả cái sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng là phơi bày, là chế nhạo
tất cả những cái rởm, cái xấu, cái bần tiện, cái đồi bại của một hạng người, của một
thời đại. Vũ Trọng Phụng, đối với thời đại của Vũ Trọng Phụng, cũng giống như
Bal zac. Hai văn tài tuy có cách biệt nhưng ở đây người ta cũng thấy một cái giọng
chua chát, bực dọc ấy. Hai nhà văn kia không hề đề xướng một cái gì, chỉ có phá
hoại mà thôi. Đó là một việc cần thiết trong việc gây dựng lại một nền kiến trúc mới
mẻ và đẹp đẽ” [82, tr.59]. Trong xã hội đô thị, dưới cái nhìn của Vũ Trọng Phụng
mọi thói hư, tật xấu và tệ nạn được phanh phui, bóc trần. Đô thị còn chứa rất nhiều
tệ nạn xã hội. Đó là sự cùng quẫn của những con người nghèo khổ, thất nghiệp và
phá sản, sự đổi đời nhanh chóng của một vài kẻ nghèo hèn, nỗi chán đời của những
44
trí thức, công tử nửa mùa…những kẻ sa chân vào tội lỗi, cờ bạc, hút sách, mãi dâm,
lừa đảo, ức hiếp con người…Tội lỗi, cái xấu, cái ác lan tràn đầy rẫy trong xã hội đô
thị được Vũ Trọng Phụng đề cập khá chi tiết và chân thực trong các phóng sự và
tiểu thuyết phóng sự của ông. Đó là tệ nạn hút thuốc phiện trong xã hội đô thành với
những con số biết nói. Chúng tôi nhận thấy hầu như trong tiểu thuyết nào của ông
cũng có ít nhất một khay bàn đèn thuốc phiện. Thuốc phiện, những thú ăn chơi xa
đọa của con người, được Vũ Trọng Phụng phản ánh hết sức chân thực trong Giông
tố, Số đỏ. Vũ Trọng Phụng không chỉ phơi bày nó như lên án một tệ nạn xã hội mà
qua đó nhà văn lên tiếng gián tiếp tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã đầu độc nhân
dân ta bằng rượu và thuốc phiện. Trong Giông tố có hàng loạt nhân vật bị mê hoặc
bởi nàng tiên nâu. Giông tố đã dựng lên một hiện thực không chỉ sa đọa, xuống cấp
về đạo đức của con người thể hiện trong mối quan hệ làm ăn phức tạp của bọn tư
bản mà còn rất nhiều tệ nạn khác trong đó có thuốc phiện. Đám đông của đám
doanh thương tụ tập trong phòng khách nhà Nghị Hách. Đó là “làng bẹp” ở tiệm hút
chú Sềnh mà Vạn Tóc Mai hay lui tới, có cả giới ăn chơi lẫn phóng viên của một vài
tờ báo, là bữa tiệc trác táng cuối cùng với gái và thuốc phiện của Long trước khi tự
kết li u đời mình. Một đô thị suy đồi với đám thiếu niên trác táng trong buổi dạ tiệc
cuối cùng của Long…Đó là, hình ảnh cụ cố Hồng luôn mơ màng bên bàn đèn với
một thằng bồi tiêm…( trong Số đỏ)…Qua đó, chúng ta thấy một bộ phận người Việt
Nam đang chìm đắm trong sự mê hoặc của nàng tiên nâu…Nhà văn họ Vũ đã kết
hợp với tài năng của nhà báo một cách nhuần nhuy n để làm nóng lên cái không khí
chính trị và thời sự khá mới mẻ. Những chất liệu phong phú của đời sống xã hội đô
thị hiện lên sắc nét dưới ngòi bút của nhà văn mới ngoài hai mươi tuổi của Vũ
Trọng Phụng thật vô cùng dữ dội. Khi lật tẩy hiện thực xã hội, Vũ Trọng Phụng
không chỉ cho độc giả thấy được tính chân thực lịch sử của bức tranh xã hội với
muôn vàn biểu hiện phong phú và phức tạp mà ông còn đặt nó trong trạng thái đầy
biến động với những đổi thay bất ngờ đến chóng mặt. Sự xáo trộn của đời sống gắn
chặt với sự thăng trầm của con người. Số phận mỗi con người như trò đùa của con
tạo. Không ai đoán trước được sự thay đổi khôn lường của nó. Đó là hoàn cảnh, môi
45
trường xã hội toàn những bất trắc, phi lí, ngẫu nhiên khi nhà văn cảm nhận được độ
hối hả, quay cuồng dữ dội của đời sống. Vũ Trọng Phụng nắm bắt và chiếm lĩnh
hiện thực với một qui mô rộng lớn, bằng sức khái quát, tưởng tượng phong phú, phi
thường. Hiện thực trong tác phẩm của Vũ Trọng Phụng luôn có xu hướng vươn tới
để ngang bằng với hiện thực vốn có ngoài cuộc đời. Ở mỗi tác phẩm, Vũ Trọng
Phụng lại có ý đồ riêng trong việc khái quát hiện thực.
Có hàng trăm tờ báo hoạt động khá sôi nổi và hoạt động báo chí càng trở nên
nhộn nhịp hơn khi luồng gió Dân chủ thổi đến năm 1936. Vũ Trọng Phụng là người
hơn ai hết hiểu tiếng nói và giọng điệu của mỗi tờ báo đại diện cho tổ chức nào. Tác
giả cũng thấm thía hơn ai hết nỗi cơ cực của mỗi nhà báo. Vũ Trọng Phụng càng
thấm thía thân phận cay đắng của nhà báo phải tác nghiệp trong một xã hội mà
quyền lực và đồng tiền chi phối. Đồng tiền đã thao túng tất cả, đã che mắt công
minh của một vị quan huyện giữa công đường khi xét xử vụ Nghị Hách hiếp dâm
gái quê. Đồng tiền đã bẻ cong ngòi bút mấy ông chủ báo khi Nghị Hách băn khoăn:
- “Tôi chỉ sợ không trách nổi cái ghế nghị trưởng sẽ có năm bảy tờ báo chửi tôi là
vô học…Người Tây có vẻ cáu kỉnh mà r ng: - Những đứa nào chê ông là vô học thì
ông sẽ lấy giấy bạc dán vào mồm nó, cho nó câm đi! Còn báo chí thì sợ gì? ng chỉ
việc ký vài cái ngân phiếu cho mấy th ng chủ báo!” [208, tr.185]. Trong các tiểu
thuyết phóng sự tác giả đã chỉ ra cho người đọc thấy được bọn nhà báo xu nịnh, a
dua theo thời cuộc như tay nhà báo trong Vỡ đê, ngồi chép một cách mẫn cán và
nhẫn nhục những lời một vị quan phụ mẫu hộ đê đang bất bình về việc 300 phu hộ
đê toan làm loạn do một tên thiếu niên trí thức cầm đầu. Báo giới Nam Kỳ tung hô
“Một nghĩa cử hiếm có” của nhà triệu phú Tạ Đình Hách khi phát chẩn cho dân
nghèo những bút danh Ngọn đèn ló, Thiên Lôi, Bút Tháp…của tờ Đông Phương
nhật báo khiến cho Phú phải ngao ngán (Trong Vỡ đê). Đó là tờ “Gõ mõ”, cơ quan
ngôn luận của Hội Chấn hưng Phật giáo do sư cụ Tăng Phú làm chủ báo. Trong Số
đỏ thì lại bộc lộ cái tôn chỉ lỗi thời của tôn giáo và báo chí…Trong Vỡ đê, Phú thấy
người dân làng mình, kể cả những người võ vẽ chữ Nho lẫn chữ quốc ngữ tranh
nhau đọc báo để biết mấy cái “tin vặt, nạn xe cộ, trộm cướp, những vụ hiếp dâm”
46
[209, tr.21]. Trong tòa soạn báo “Lao động”, hàng chục người “những tay cách
mạng cả”, có nhiều kẻ trông phong lưu như công tử lại bàn bạc, nói chuyện chính
trị: đó là chủ nghĩa quốc gia, là mặt trận bình dân, chủ nghĩa xã hội, là bạo động,
phản động, chiến đấu…
Vấn đề bức xúc của đô thị Việt Nam xưa không chỉ hiện lên qua những tệ nạn,
thói hư tật xấu của con người trước làn sóng Âu hóa. Đô thị còn được phơi bày qua
hình ảnh của kẻ trọc phú lộ rõ nguyên hình khi câu kết với thực dân để trở thành đại
tư sản khét tiếng đó là Tạ Đình Hách trong Giông tố. Theo một số nhà nghiên cứu
thì Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nhân vật này từ những nguyên mẫu có thực ngoài
đời. Từ nhân vật có thực ở ngoài đời Vũ Trọng Phụng đã xây dựng nhân vật Tạ
Đình Hách, GS Trương Chính đã từng nói về Tạ Đình Hách: “hắn là một nhân vật
qúa quan trọng trong xã hội ngày trước. Và nếu ai tò mò có thể tìm thấy tên và ảnh
hắn trong cuốn “Những nhân vật Đông Dương”, in năm 1941” [24, tr.140]. Đô thị
Việt Nam trong Giông tố của Vũ Trong Phụng với những mặt trái, những tệ lậu
chưa đủ, Nghị Hách đã bổ sung thêm cho bức tranh ấy thêm phần hoàn chỉnh. Vũ
Trọng Phụng, đã kết hợp một cách tài tình giữa phóng sự và tiểu thuyết để mổ xẻ
chân tướng Nghị Hách một kẻ gian hùng đã câu kết với thực dân để bóc lột ức hiếp
dân lành và trở thành một đại tư sản vô cùng độc ác. Tên đại tư sản Nghị Hách,
chúng ta tưởng như hắn từ cuộc sống đô thị mà bước vào tiểu thuyết không cần tô
vẽ, đắp điếm gì cũng đầy đủ rồi. Chính vì thế, khi tiếp xúc với những con người
trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng chúng ta có cảm giác như gặp họ đâu đó
ngoài cuộc đời. Bởi vậy, tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng có sức hấp dẫn
lâu dài cùng thời gian và độc giả.
Tiểu thuyết phóng sự còn thể hiện công năng của mình khi phanh phui lật tẩy,
phân tích điều tra những vấn đề nhức nhối, những mặt trái của xã hội đô thị trong
tác phẩm Bỉ vỏ của Nguyên Hồng. Cuộc sống đô thị hiện lên trong Bỉ vỏ với những
con người khổ sở, đói nghèo và không may mắn được sống cuộc đời lương thiện. Bỉ
vỏ là tác phẩm đầu tay của Nguyên Hồng nhưng đã cho người đọc thấy được cuộc
đời truỵ lạc của những kẻ lưu manh, trộm cắp, phơi bày một hiện thực, mặt trái xã
47
hội đô thị mà hầu như chưa được khám phá trong văn học Việt Nam cho đến lúc bấy
giờ. Đó là những tay anh chị, những người sống dưới đáy cùng, những cặn bã của xã
hội. Nguyên Hồng đã dựng lên và quan tâm đến đời sống của tầng lớp đó, góp phần
phơi bày, phanh phui, bóc trần hiện thực của đời sống đô thị Việt Nam thời thực
dân, phong kiến. Trong xã hội, toàn những cạm bẫy, lừa lọc, chém giết, gái điếm, cờ
bạc…Xã hội ấy, dường như không còn chỗ cho những người lao động, lương thiện
tồn tại. Nguyên Hồng đã chỉ ra, nguyên nhân do đâu mà con người trở nên tha hoá
và biến chất như thế. Không phải nguyên nhân nào khác mà do chính môi trường,
hoàn cảnh sống xô bồ, hỗn độn, phi nhân tính đã tạo ra. Bằng cảm hứng phản biện
của phóng sự và ngòi bút hư cấu độc đáo của tiểu thuyết, Nguyên Hồng đã dựng lên
một xã hội đô thị Việt Nam có nhiều đối tượng sống bằng rất nhiều nghề khác nhau
để tồn tại. Họ là những người: "dưới đáy" cùng xã hội những người "cặn bã" của xã
hội. Những con người không có quê hương, gia đình, những người thân thích để lấy
chốn đi về hoặc có quê hương, gia đình nhưng tất cả đã từ bỏ họ, hoặc nữa là bản
thân họ đã chủ động từ bỏ tất cả để chấp nhận một cuộc sống này…Đô thị hiện lên
với những kẻ lưu manh, trộm cướp: "Lấy quê hương và gia đình làm đề lao, anh em
thân thích là tụi đồng nghệ quỷ quyệt đã bao lâu lười biếng, gian ác, thuốc sái quen
thân đi, sức lực yếu đuối lắm" [177]. Nguyên Hồng đã lật tẩy hiện thực nghiệt ngã
và chỉ ra nguyên nhân trực tiếp và gián tiếp đẩy những con người lương thiện vào
con đường lưu manh, vào đời "bỉ vỏ" đó, chính là bọn thực dân, phong kiến. Tác giả
đã dũng cảm chĩa ngòi bút của mình vào thế lực thống trị trong xã hội bấy giờ để
dóng lên một hồi chuông thống thiết, bộc lộ khát vọng thay đổi xã hội. Xã hội đầy
rẫy bất công, độc ác và lừa lọc, đã đến hồi cáo chung. Nguyên Hồng đã cho độc giả
thấy được cuộc sống cơ cực, lầm than của những người lao động nghèo ở các thành
phố Hà Nội, Nam Định và Hải Phòng. Đặc biệt là Hải Phòng, Tác giả đã lên tiếng
phanh phui sự thật, những ung nhọt của xã hội trên trang văn. Tiểu thuyết phóng sự
của Nguyên Hồng đã vẽ ra trước mắt người đọc một thành phố cảng có vườn hoa,
có chợ, có những ngõ hẻm, xóm tha hương với những con người vô cùng khốn khổ.
Những người dân nghèo đô thị họ sống lam lũ, vất vả, cơ cực trong ngõ hẻm tối
48
tăm, lầy lội, bẩn thỉu, chắp vá: "mái thì dột nát che đậy b ng chiếu, b ng vải bao,
bức vách thì lở vữa ám khói đầy mạng nhện, giường phản thì thấp hẹp, bề bộn, hôi
hám, rách rưới" [177]. Bến tàu, bến xe, bến sông, chợ búa...đầy rẫy người lao động
khổ cực, rách rưới, bê tha, đói khát, những người đàn bà buôn bán lam lũ, gầy guộc,
hắt hiu, những đứa trẻ rách rưới…Đô thị hiện lên với biết bao hạng người, đại diện
cho mặt trái của xã hội. Những con người mà cuộc đời của họ đầy bất hạnh và tội
lỗi. Những con người lương thiện, đói nghèo, khốn khổ nhưng phải sống trong cảnh
đầy bất an của một xã hội hỗn loạn mà: "Nguyên Hồng đã không hề run tay khi
dựng lên những cảnh r ng rợn: cảnh cướp giật, giết người, những cặp mắt rình mò
của mật thám, những trại giam vang lên những tiếng rít ghê rợn của cửa sắt…Tiếp
đó là những nhà chứa nhơ bẩn, tanh hôi, rác rưởi…" [177]…Tất cả, như cái bẫy
giăng ra, bủa vây và làm ngạt thở cuộc sống của bao người. Trong môi trường độc
hại ấy, con người làm sao thoát khỏi tình trạng biến chất và tha hoá. Họ là nạn nhân
đáng thương của một xã hội có hoàn cảnh, môi trường sống nghiệt ngã, phi nhân
tính, vô nhân đạo. Bằng thế mạnh của tiểu thuyết phóng sự, Nguyên Hồng đã phanh
phui sự thật có tính thời sự nóng hổi để tố cáo sâu sắc xã hội đô thị Việt Nam thời
thực dân, phong kiến. Xã hội đô thị đã biến một con người trong trắng, lương thiện
trót một lần lầm lỡ như Tám Bính không được cảm thông bị đẩy vào con đường lưu
manh truỵ lạc. Qua cuộc đời của Tám Bính, Nguyên Hồng đã phanh phui những vấn
đề bức xúc của xã hội đô thị Việt Nam đồng thời thể hiện tình yêu thương sâu sắc
những nạn nhân và gạn đục, khơi trong, trân trọng những đức tính tốt đ p còn lại
của họ. Tám Bính bị Tham Chung lừa gạt, cha m nhục mạ bán đứa con chưa đầy
tháng tuổi của cô đi vì sợ làng phạt vạ và điều tiếng. Cô phải dứt ruột lìa xa đứa con,
trốn lên Hải Phòng tìm Tham Chung nhưng thành phố có nhiều cạm bẫy đã từng
bước xô đẩy Tám Bính, từ một cô gái quê lương thiện xuống vực sâu của cuộc sống
tăm tối, tội lỗi…Đô thị Hải Phòng đầy những cạm bẫy, lừa lọc, lưu manh, trộm cắp,
chém giết, cờ bạc, gái điếm…đã bủa vây Tám Bính, dồn cô vào cuộc sống của
những kẻ lưu manh nhơ nhớp, nhục nhã, ê chề và bất hạnh…Bên cạnh Tám Bính,
Nguyên Hồng còn cho độc giả thấy một xã hội đầy rẫy những kẻ mánh khoé, đê
49
tiện, lừa lọc. Đó là bọn Sở khanh, những dân "chạy vỏ", "chạy dọc" ngang tàng, táo
tợn…Đặc biệt là thế giới lưu manh, có diện mạo, tính cách, hành vi, ngôn ngữ đều
khác biệt. Thế giới lưu manh ấy, cùng với những chuyện đâm thuê chém mướn,
cướp giật, giết người rất d cuốn hút người đọc, đã đem đến cho tiểu thuyết phóng
sự Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX hiện thực mới mẻ, sinh động và hấp dẫn.
Cũng đề cập đến cuộc sống đô thị nhưng Nguy n Đình Lạp lại quan tâm đến đời
sống của tầng lớp thị dân nghèo sống chui rúc, khổ sở trong những ngõ hẻm, ngoại ô
Hà Nội qua tác phẩm Ngoại ô. Nguy n Đình Lạp đã dựng lên một thực trạng xã hội
ngoại thành Hà Nội xưa với những sự việc xảy ra hàng ngày trong cuộc sống của
con người. Tác giả muốn thuật lại những điều mắt thấy tai nghe về hạng dân nghèo
ở một ngoại ô Hà Nội - Ô cầu Dền, về miền Vạn Thái, Bạch Mai. Hạng dân nghèo
với đủ các đối tượng: những người bán hoa quả rong, bọn đồ tể và cả những tay
"anh chị". Câu chuyện trong tác phẩm chỉ đơn giản xoay quanh một gia đình làm
nghề bán bánh giầy bánh giò là bác Vuông. Nhưng từ một gia đình, Nguy n Đình
Lạp đã cho người đọc thấy được cả thế giới ngoại ô Hà thành xưa kia. Bác Vuông
làm nghề bán bánh giầy bánh giò nhưng có lòng hào hiệp, khảng khái hay ra tay
giúp đỡ người nghèo, bênh vực kẻ yếu, giúp đỡ cô đầu Huệ bị hà hiếp, bác lấy vợ lẽ,
vợ cả bác chết về bệnh dịch, bác hóa điên bị đưa đi nhà thương Vôi vì thương nhớ
vợ cả và uất cái Khuyên hư theo thằng đồ tể Nhớn bỏ đi trước khi bác định làm l
cưới cho nó lấy con bác Mỗ...Vô số những sự việc đã xảy ra ở ngoại ô nghèo.
Nguy n Đình Lạp đã xây dựng tuyến nhân vật nối nhau, kết dính sự kiện xoay
quanh gia đình bác Vuông bán giầy giò và con rể bác làm đồ tể: " Bác Vuông và bác
Nhớn đã đứng vào giữa bọn người nhốn nháo, dang tay giới thiệu: - Đây là bác
Thịnh. Nhớn trợn mắt, nhanh nhảu hỏi.." [220, tr.59]. Trong Ngoại ô, số lượng nhân
vật nhiều, phát triển đa tuyến. Nguy n Đình Lạp đã rất khéo léo và tài tình khi miêu
tả tâm lý nhân vật. Chẳng hạn như là cách nói vòng vo và có vẻ ngập ngừng, sượng
sùng của cô đầu Huệ khi hỏi vay tiền bác Vuông. Cái tâm lý và cách đối đáp của bác
Vuông gái, một người suốt đời, không chỉ biết phục tùng mà còn kính phục chồng,
trong lúc bàn chuyện gả chồng cho con gái, sự chuyển biến, cảm động trong tâm
50
trạng S o, từ lúc hết sức căm giận Nhớn đến chỗ thông cảm, tha thứ và thương bạn,
cả ý nghĩ của một đứa trẻ (còi) muốn cho chị nó lấy chồng là anh hàng phở cũng
thật hồn nhiên và đơn giản, đúng với tâm lý trẻ con. Hoặc tình bạn giữa S o và
Nhớn tuy có lúc sóng gió dữ dội, nhưng vẫn đ p đẽ chung thủy…Bằng ngòi bút tiểu
thuyết phóng sự với điều tra, cập nhật những tư liệu ta thấy ở đây có rất nhiều hạng
người, từ những người lương thiện đến kẻ lưu manh, trộm cắp, thám tử, gái điếm
…qua đoạn trích sau: "(Đó là một anh đồ tể (Nhớn) nói với một gã kẻ trộm (Thịnh) -
Gã này có cái khác những phường ăn sương là hay giúp đỡ những người yếu thế và
nghèo nàn. Rồi những tay "hảo hán" kia cũng đều khen bác Thịnh: - Quả tiếng của
đại huynh không sai sự thực. Hai chúng tôi ráng sức đấu mà cũng không tài nào hạ
nổi đại huynh…- Anh em cứ quá khen. Tài nghệ tôi hãy còn phải luyện thêm nhiều
nữa. "Bác Thịnh vừa cười, vừa khiêm tốn trả lời mọi người. Mụ Táo đã trợn to mắt,
lè dài lưỡi, cất tiếng như lệnh vỡ nói chen vào: - Bác Thịnh thì còn phải kể. Chúng
tôi xin tôn bố lên làm tr m.. " [220, tr.120-121]. Tuy vậy nhược điểm của tác phẩm
là tiến độ của câu chuyện chậm làm cho người đọc cảm thấy phẳng lặng và trầm
buồn. Nguy n Đình Lạp đã điều tra, phân tích những tư liệu về vùng ngoại ô Hà Nội
để nói lên một thực trạng đô thị xã hội Việt Nam xưa. Viết về cuộc sống của người
dân đô thị ở vùng ngoại ô tác giả đã miêu tả rất kỹ, sát thực, gần gũi với cảnh đau
khổ của hạng dân nghèo ở đây để hoàn thiện thêm về bức tranh đô thị Việt Nam thời
thực dân, phong kiến. Tuy Ngoại ô còn có nhiều đoạn không được gọn, đơn giản,
thẳng tuột, lời nhiều, ý ít bởi tác giả đã dùng lối văn tả thực nhưng chưa được điêu
luyện song người đọc vẫn hình dung được một Ngoại ô Hà Nội xưa có tính hiện
thực đậm nét những năm đầu thế kỷ XX.
2.3.1.3. Tái hiện và phê phán sắc sảo chế độ khoa cử phong kiến lỗi thời, qua đó
phê phán phong trào phục cổ
Tiểu thuyết phóng sự phơi bày thực chất chế độ khoa cử của chế độ phong kiến
qua tiểu thuyết phóng sự Lều chõng của Ngô Tất. Trong lúc chính quyền thực dân
đang đề cao và hô hào phong trào phục cổ thì Lều chõng của Ngô Tất Tố lại phanh
phui chế độ thi cử của nhà nước phong kiến. Thực dân phong kiến đã tìm mọi cách
51
mị dân, làm lạc hướng nhân dân xa rời phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bằng cách làm sống lại tư tưởng Nho giáo lỗi thời dưới danh nghĩa: “ khôi phục nền
luân lý đạo đức và văn hóa cổ truyền”, hay còn gọi là phong trào “ văn hóa phục
cổ”. Không khí phục cổ cũng đang được một số tác phẩm văn học lãng mạn tô son
vẽ phấn. Lều chõng xuất hiện: " như tiếng chuông thức tỉnh những ai đang khao
khát muốn trở về với thời đại hoàng kim của kẻ sĩ" [44]. Ngô Tất Tố đã viết Lều
chõng bằng ngòi bút tiểu thuyết phóng sự sắc sảo để bóc trần, phê phán quyết liệt
việc học hành thi cử ngày xưa. Lều chõng đã dựng lại một cách chân thực, cụ thể và
sinh động bức tranh bi hài của chế độ giáo dục và khoa cử mục nát, lỗi thời dưới
triều Nguy n. Qua đó, Ngô Tất Tố muốn làm nổi bật tấn bi kịch tinh thần của những
nhà Nho trí thức. Những con người suốt đời nuôi một lý tưởng tuyệt đối, lấy khoa
cử làm con đường tiến thân. Nhưng trớ trêu thay, cái mục đích mà họ kỳ vọng vào
lại không đạt được và những kẻ sĩ ấy lại rơi vào tình trạng hoàn toàn tuyệt vọng, trở
thành nạn nhân của chế độ đó. Ngòi bút của Ngô Tất Tố đã không ngần ngại khi
phanh phui sự thật thi cử, khoa bảng ngày xưa, trường thi như một sân khấu tuồng,
các quan giám khảo giống hệt những quan phường chèo, còn sĩ tử, chỉ vì danh vọng
mà xô đẩy, chen chúc giống như những chú hề, vai phụ không tên tuổi. Sĩ tử sẵn
sàng lao vào bả công danh mà không cần đến một chút toan tính, cân nhắc xem họ
sẽ được những gì sau cuộc đua đó. Dường như trước mắt họ không còn con đường
nào khác ngoài con đường công danh đang lôi cuốn. Trường thi nơi tôn nghiêm để
tuyển chọn nhân tài cho đất nước nhưng việc hối lộ, gian lận…ngang nhiên di n ra.
Môi trường thi cũng không được trong sạch bởi luôn ngập bùn nước và mùi khó
chịu. Những sĩ tử, hứa h n nhân tài của đất nước mà làm bài thi khi: ”ngồi trên
chõng cũng không khác gì ngồi dưới đáy ao, đít áo, đũng quần nước b n thấm vào
bê bết”, “ai cũng như ai, mặt tái mét, môi thâm sì, quần áo lấm bê bết như người
đào dưới đất lên”[224]. Thật khổ khi có những cụ già râu tóc đã bạc phơ trượt chân
ngã: “ n m chỏng gọng trên đường, cuộn áo, lều gác chéo giữa cổ, chiếc chõng tre
và cái tráp sơn đè sấp đè ngửa trên bụng”[224]. Một cảnh tượng thật cười ra nước
mắt khi có cụ già khóc nức nở không đậu thi vì đã thi mười khóa và đã bán hết cả
52
nhà cửa ruộng vườn. Có cụ còn bi thương hơn do già nua, ốm yếu vẫn cố gắng lết
vào trường thi và đã chết gục ở đó. Thế mới biết cái bả công danh nó mê hoặc kẻ sĩ
biết nhường nào, khiến họ không còn biết đến trời đất là gì và không còn biết mình
là ai khi cứ cố tình cắp quyển đi thi để rồi chuốc lấy cay đắng. Ngô Tất Tố đã lách
ngòi bút vào tận nơi tưởng chừng như tôn nghiêm nhất để lật tẩy một sự thật: những
sĩ tử trong chốn trường thi hiện nguyên hình là một đám người không có sĩ khí, nhẫn
nhục cúi đầu, uốn gối tuân thủ những quy chế, luật lệ hết sức vô lý để cố giành giật
cho được mảnh bằng. Một cảnh tượng hãi hùng khi nhận kết quả thi cử: kẻ đỗ “nhẩy
lên như choi choi” gào lên “Sỏ lợn về ai! Sỏ lợn về ai!”, kẻ hỏng thi say rượu, chửi
bới, ném gạch, đá vào cửa trường, “nôn thốc nôn tháo khắp cả đường cái”, “ gào
chán, khóc chán, họ lại đành đạch giẫy ở mặt đường như những người ngộ
gió”[224]. Ngô Tất Tố dùng ngòi bút tiểu thuyết phóng sự của mình để mổ xẻ, lên
án những nho sĩ thoái hóa, biến chất. Những kẻ sĩ chỉ vì bả công danh, vì giành giật
miếng ăn ở góc chiếu giữa chốn đình trung mà vứt bỏ cả sĩ khí, để trở thành những
kẻ phàm tục, hèn hạ, thô bỉ. Ngô Tất Tố đã không thương tiếc, khi phản ánh tấn bi
kịch chua chát của tầng lớp nho sĩ trí thức dưới chế độ phong kiến. Đào Vân Hạc là
một nho sĩ tuổi trẻ, nổi tiếng học giỏi một vùng, là người có cá tính, tài hoa phóng
túng khác thường. Vân Hạc cũng phản đối gay gắt lối học nhồi sọ, giáo điều, phê
phán lối văn sáo bã giả dối. Vân Hạc là người thông minh, sáng tạo, có đầu óc suy
nghĩ độc lập, táo bạo, văn chương của anh sắc sảo, tài hoa. Nhưng anh không được
người đời trọng dụng. Văn chương của anh bị coi là thứ văn “ bướng bỉnh”, vượt ra
ngoài khuôn phép của văn chương cử tử cho nên đã có lần bị rớt thi một cách cay
đắng. Có một kỳ thi, Đào Vân Hạc làm bài xuất sắc, đáng đỗ Giải Nguyên nhưng
vẫn bị triều đình đánh trượt vì văn chương của anh có nhiều suy nghĩ táo bạo và
vượt ra ngoài khuôn phép:“ Văn chương anh ta tuy cũng khá đấy, nhưng phải cái tật
rất lớn là có nhiều đoạn rắc rối bướng bỉnh, không chịu theo đúng khuôn phép. Đó
là một điều tối kỵ trong các lối văn cử nghiệp" [224]. Khi đi thi Đình, ai cũng hy
vọng Vân Hạc sẽ đỗ Đình Nguyên, nhưng thật không ngờ trước khi treo bảng anh đã
bị bắt giam và tù tội chỉ vì đã sơ ý “ phạm húy” trong bài thi. Đào Vân Hạc là một
53
người không ham khoa cử nhưng vì muốn mở mày mở mặt cho họ hàng và đặc biệt
là của vợ cho nên anh vẫn phải cắp quyển đi thi. Mặc dù anh đã nhận thấy: "đỗ để
làm gì ngoài cái ý muốn làm sướng lòng người vợ thân yêu”, “ Tôi đi thi thì chẳng
qua là đi hộ mình, vì mình háo hức muốn làm bà Cử, cho nên tôi phải chiều lòng”
[224] và thấm thía sự nhục nhã của việc thi cử: “Thà bỏ mẹ nó mà ra cho rảnh, thi
với cử thế này thì nhục hơn con chó!...” [224]. Lều chõng của Ngô Tất Tố đã phê
phán chế độ khoa bảng lỗi thời ngày xưa để mang đến cho độc giả một bức tranh
vừa lịch sử, vừa hiện thực, không chút tô điểm, thi vị thế giới sĩ tử, khoa hoạn đầy
tính cách bi thảm và khôi hài của chế độ phong kiến.
Tiểu thuyết phóng sự còn khảo cứu về việc học hành, thi cử của ông cha ta thời
phong kiến qua tác phẩm Bút nghiên của Chu Thiên. Bút nghiên không cho người
đọc hiểu về cách thi cử của các sĩ tử ngày xưa như Lều chõng của Ngô Tất Tố. Tác
phẩm giúp độc giả biết về việc học hành của cha ông ta ngày xưa qua nhân vật Trần
Đức Tâm: từ lên sáu tuổi đi học vỡ lòng trường ông đồ trong làng… Mười hai tuổi
đi trọ học làng khác, mười lăm tuổi học lớp đại tập…Và đỗ đầu xứ, đỗ thủ
khoa…đỗ Hoàng giáp…Có thể nói cuộc đời đi học, đi thi của Trần Đức Tâm di n ra
rất suôn sẻ, hầu như không gặp một sự trở ngại nào trên con đường học hành khoa
bảng. Trần Đức Tâm, một hình ảnh kiểu mẫu của nhà Nho. Một con người đạo mạo,
mực thước, cả đời hành đạo, khuôn phép, đã đỗ đạt thành tài và có được tất cả. Theo
Vũ ngọc Phan, Bút nghiên của Chu Thiên nói "về các trường thi và khảo quan, về
các bài thi tác giả viết tách hẳn ra một lối riêng, lối biên khảo, chẳng khác nào bài
Lược khảo về khoa cử Việt Nam, từ khởi thủy đến khoa Mậu Ngọ (1918) của Trần Văn Giáp ( Đăng trong khai trí Tiến Đức, tập san số 2 và 3 - tháng 1, tháng 6 năm
1941)" [110]. Nhà nghiên cứu cũng cho rằng: "Ở những đoạn hoàn toàn tiểu thuyết,
tác giả lại tả nhiều cái quá đáng, như tả một ông đồ nghiêm khắc với học trò". Với
Bút nghiên, Chu Thiên cho rằng, nhà Nho là một con người gương mẫu về mọi mặt,
và: "mọi bậc là mọi nghề như làm ruộng, thợ mộc, sơn son, cho chí người dệt vải,
người đi cày đều thấp kém cả chỉ có mũ cao áo dài, võng lọng vua ban, thật là sung
sướng và danh giá hơn người"[110]. Qua đó, ta thấy Bút nghiên ít nhiều có hướng
54
phục cổ khi đề cao giá trị của Nho học và vai trò của Nho sĩ trong xã hội cũ. Về mặt
tư tưởng Bút nghiên của Chu Thiên không tiến bộ bằng Lều chõng của Ngô Tất Tố.
Đây chính là điểm hạn chế của Chu Thiên cần phải khắc phục để tác phẩm có giá trị
hơn. Tóm lại, Bút nghiên của Chu thiên là một tập tiểu thuyết được nhìn ở bình diện
khảo cứu các hiện tượng văn hoá, cụ thể là khảo cứu về việc đi học, đi thi của ông
cha ta ngày xưa như trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan đã nhận xét: "Chu
Thiên chuyên về mặt khảo cứu ấy nhiều quá, nên trong tập Bút nghiên, truyện gần
như là phụ; hình như tác giả cần đến việc chỉ là cốt diễn tả cho hết những lối học
lối thi của ta thuở xưa cho có thứ lớp, chứ không phải tác giả muốn d ng việc để
viết nên những đoạn có tình tiết, có cơ mưu làm cho động tác luôn luôn thay đổi,
gây được nhiều cảm hứng cho người đọc…Cái hay của Bút nghiên ở cả những đoạn
khảo về lối học, về văn bài, về cách giảng dạy từ những lớp tiểu tập đến những lớp
đại tập trong thời khoa cử nước ta thuở xưa"[110, tr. 944].
2.3.2. Thành tựu về nghệ thuật
2.3.2.1. Nghệ thuật kết cấu: sự dung hợp độc đáo giữa tiểu thuyết và phóng sự
Có rất nhiều thể loại tiểu thuyết khác nhau như: tiểu thuyết tâm lý, tiểu thuyết
hoạt kê, tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết phóng sự, tiểu thuyết trinh thám…Mỗi thể
loại có thế mạnh ở một phương diện. Tiểu thuyết phóng sự thành công với sự kết
hợp giữa phóng sự và tiểu thuyết. Khi tác giả gia tăng chất phóng sự vào tiểu thuyết
sẽ tạo nên sức mạnh phê phán ngược lại tác phẩm có yếu tố hư cấu sẽ đạt đến trình
độ cao về nghệ thuật. Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 đã
đạt được nhiều thành tựu về nghệ thuật. Đó là kiểu tiểu thuyết phóng sự tập trung
cao độ, dồn nén tất cả sự kiện, biến cố, số phận, nhân vật vào tận cùng của sự căng
thẳng trong mùa sưu thuế như: Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Giông tố của Vũ Trọng
Phụng lại mở ra một không gian rộng lớn từ nông thôn đến thành thị…Với đủ các
tầng lớp tư sản, phong kiến, địa chủ, cường hào, thầu khoán, quan lại, tiểu tư sản, trí
thức, thày phán, công chức, cộng sản, chủ báo, phóng viên, đến công nhân, nông
dân, làm thuê, lưu manh, trộm cắp, gái mới…Đó là việc khảo cứu tường tận, cung
cấp kiến thức về bức tranh thi cử của chế độ phong kiến qua hình tượng sĩ tử trong
55
tác phẩm Lều chõng của Ngô Tất Tố. Đó là xây dựng những nhân vật bất hủ của tiểu
thuyết phóng sự như chị Dậu và vấn đề thuế thân và tinh thần phản kháng, Xuân
Tóc Đỏ và vấn đề cái "rởm", Nghị Hách và vấn đề tư bản hoá.
Tập trung cao độ dồn nén các vấn đề, sự kiện, số phận nhân vật trong một không
gian, thời gian hẹp
Tiểu thuyết phóng sự Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã tập trung cao độ, dồn nén tất cả
sự kiện, biến cố, số phận nhân vật vào tận cùng của sự căng thẳng trong mùa sưu
thuế. Ngô Tất Tố đã gói tất cả các tình tiết, di n biến của tác phẩm vào một thời
gian rất ngắn, bốn ngày, bốn đêm và trong bốn không gian rất h p. Chỉ bằng mấy
địa điểm quen thuộc: nhà của chị Dậu, sân đình làng Đông Xá, nhà Nghị Quế và tư
thất của quan phủ Tư Ân. Bằng cách mô tả các sự kiện dồn dập, Ngô Tất Tố đã
dựng lên thực trạng của nông thôn Việt Nam trong kỳ sưu thuế thật căng thẳng chứa
đầy mâu thuẫn và xung đột. Thời gian, không gian ở đây di n ra một cách liên tục
không hề đứt đoạn, dồn nén các vấn đề quan trọng có ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc
đời và số phận của người nông dân. Chỉ trong vòng một ngày mà các sự kiện, mâu
thuẫn, liên tiếp xảy ra một cách gay gắt để phơi bày nỗi thống khổ của người nông
dân Việt Nam trong mùa sưu thuế: " Chỉ trong hơn 100 trang mà các sự kiện, các
mâu thuẫn cọ sát nhau đến nảy lửa. Tất cả câu chuyện sưu thuế, đánh đập chè chén,
bán con, bán chó… liên tiếp xảy ra trong vòng một ngày ở một làng quê nhỏ bé"
[223]. Xây dựng được kết cấu cho tác phẩm hợp lý chặt chẽ là cả một nghệ thuật,
không d đạt được với bất kỳ nhà văn nào. Bằng kết cấu mang đậm chất tả thực của
phóng sự nhưng lại đầy màu sắc hư cấu của tiểu thuyết, Ngô Tất Tố đã rất thành
công trong xây dựng kết cấu của tiểu thuyết phóng sự Tắt đèn. Khi phanh phui mổ
xẻ những vấn đề của xã hội phong kiến thực dân trong mùa sưu thuế, Ngô Tất Tố đã
chọn một không gian chật h p tù túng, dồn nén các sự kiện nhân vật vào một thời
gian rất ngắn để tập trung khám phá những số phận, những cuộc đời. Đó là không
khí hết sức ngột ngạt, căng thẳng ở một làng quê trong mùa sưu thuế đặc biệt, thuế
làm người của chế độ thực dân phong kiến. Ngô Tất Tố đã dồn nén các sự kiện, biến
cố trong một thời điểm hết sức điển hình để đẩy mâu thuẫn lên cao không thể kìm
56
nén được khi miêu tả sự phản kháng của chị Dậu. Người phụ nữ này vì không thể
chịu đựng được nữa và "tức nước vỡ bờ" lên đã vùng dậy…Tác giả chọn viết về nạn
sưu thuế và dồn câu chuyện vào trong một vụ thuế, đã phản ánh thực trạng nông
thôn Việt Nam ở thời điểm nóng bỏng nhất, bộc lộ rõ nhất xung đột giai cấp gay gắt
giữa người nông dân lao động nghèo khổ với các thế lực thống trị. Làng Đông Xá
cũng như bao làng quê của nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ có những con người
đang quằn quại và ngụp lặn trong khổ đau bởi sự tra khảo, đánh đập bọn thống trị
trong kỳ nộp thuế. Tình cảnh của gia đình chị Dậu trong những ngày này không phải
là hiếm trong xã hội xưa. Nhưng chọn vấn đề nông thôn Việt Nam trong những
ngày sưu thuế ở một làng quê nhỏ h p để phanh phui sự thật, Ngô Tất Tố đã chứng
tỏ là bậc thầy về việc tố cáo sâu sắc, phơi bầy sự thật, đầy đủ nhất, đạt tới sức khái
quát cao về thực trạng nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Tắt đèn có cốt truyện
rõ ràng, kết cấu chặt chẽ, hệ thống nhân vật hợp lý, tình tiết mạch lạc…Có phần
khai đoan, thắt nút, tạo tình huống căng thẳng, mâu thuẫn cực độ, kịch tính được
đẩy lên đến đỉnh điểm…Tất cả đều tập trung, góp phần làm nổi bật chủ đề của tác
phẩm. Tắt đèn của Ngô Tất Tố là một tiểu thuyết phóng sự đạt đến đỉnh cao về nghệ
thuật. Tiểu thuyết phóng sự này, đã chọn được những chi tiết rất đặc sắc, có ý nghĩa
điển hình, đồng thời đã tổ chức, sắp đặt chúng một cách khoa học để nêu bật vấn đề.
Tắt đèn là một tiểu thuyết phóng sự tiêu biểu trong số những tiểu thuyết phóng sự
Việt Nam đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, bên cạnh thành công, Tắt đèn vẫn còn bộc lộ
một số hạn chế đó là một số câu văn chưa được đầu tư, còn đơn điệu, vụng về, chưa
có giá trị cao về nghệ thuật. Ngòi bút của nhà văn chưa khai thác, phám phá những
vấn đề phức tạp của tâm lý con người. Bằng sự dung hợp thể loại, tác giả đã mang
đến cho bạn đọc nghệ thuật kết cấu độc đáo trong tiểu thuyết phóng sự Tắt đèn,
điểm mạnh của tác phẩm đã tạo ra phong cách riêng của nhà văn. Phong cách của
Ngô Tất Tố đã thâm nhập và chi phối đến chiều sâu của cảm hứng trong tiểu thuyết
phóng sự tạo nên sự hấp dẫn kỳ lạ của tác phẩm và lôi cuốn người đọc bao thế hệ.
Mở rộng chiều kích và đa dạng hóa không gian nghệ thuật
57
Nếu như Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã tập trung dồn nén các sự kiện, biến cố trong
kỳ sưu thuế thì Giông tố của Vũ Trọng Phụng mở ra một không gian rộng lớn từ
nông thôn đến thành thị. Trên nền cảnh đó, hiện diện một thế giới nhân vật phong
phú, đa dạng từ tầng lớp tư sản, phong kiến, địa chủ, tiểu tư sản, trí thức, thày phán
đến nông dân, làm thuê, lưu manh, trộm cắp, gái điếm…Với Giông tố, Vũ Trọng
Phụng thể hiện một năng lực xây dựng cốt truyện bậc thầy. Mỗi chương, mỗi đoạn
đều có sự liên kết, ràng buộc chặt chẽ với nhau, chịu sự quyết định và chi phối của
một cốt truyện thống nhất. Các sự kiện, biến cố, hợp lý, có sự thống nhất trong
chỉnh thể qua đó tác phẩm có điều kiện bộc lộ sâu sắc, rõ ràng nội dung và tư tưởng
chủ đề. Hàng loạt các sự kiện, tình huống trong tác phẩm thống nhất, đan xen, xoắn
xuýt nhau, cái trước là tiền đề của cái sau, cái sau là hệ quả của cái trước cùng phát
triển là những thông tin, tư liệu nhưng lại mang giá trị thẩm mỹ. Nhờ tài xử lý thông
tin của phóng sự và năng lực hư cấu của tiểu thuyết, Vũ Trọng Phụng đã có kiệt tác
về tiểu thuyết phóng sự. Bằng tài năng đặc biệt, nhà văn họ Vũ đã thu hút tinh hoa
của văn chương đưa vào báo chí và ngược lại chuyển hóa sức mạnh báo chí vào các
tác phẩm văn chương. Văn chương và báo chí hòa quyện đan xen vào nhau tạo
thành tiểu thuyết phóng sự, do đó Giông tố của nhà văn họ Vũ trở nên hấp dẫn lôi
cuốn độc giả nhiều thế hệ. Vũ Trọng Phụng chỉ ra một kinh nghiệm quý báu trong
việc tổ chức tác phẩm. Xét từ bình diện cấu trúc, một tác phẩm tốt phải có cấu trúc
lô gíc từ bên trong. Nội dung dù sâu sắc, đề tài dù hấp dẫn nhưng tác phẩm chỉ thực
sự có giá trị khi nó đạt tới một kết cấu hợp lý, tối ưu. Kết cấu như thế sẽ có khả năng
chiếm lĩnh hiện thực rộng lớn. Nó tạo chỗ dựa vững chắc như một yếu tố kết dính,
một cái xương sống để tác phẩm có thể bao quát được những sự kiện bề bộn, phức
tạp mà vẫn đứng vững như một cơ thể thống nhất và sinh động. Các nhà nghiên cứu,
phê bình cũng hết sức coi trọng vấn đề này khi xem xét, đánh giá tác phẩm dưới ánh
sáng thi pháp và lý thuyết tiểu thuyết. Với nghệ thuật kết cấu - sự kết tinh thể loại
độc đáo, Vũ Trọng Phụng đã nắm bắt và chiếm lĩnh hiện thực ở một mức độ rộng
lớn, sức khái quát tưởng tượng, phong phú. Hiện thực trong Giông tố của Vũ Trọng
Phụng luôn có xu hướng vươn tới hiện thực vốn có ngoài cuộc đời. Mỗi tác phẩm
58
của nhà văn có một thiên hướng và ý đồ riêng trong việc khái quát hiện thực. Đặc
biệt Giông tố của Vũ Trọng Phụng đã phản ánh hiện thực trên một pham vi rộng
lớn, trình độ và năng lực khái quát hiện thực cao. Tác phẩm đã tái hiện cả một thời
kỳ xã hội đầy biến động với nhiều hạng người, loại người và các tầng lớp xã hội
khác nhau, trên nhiều bình diện xã hội. Kết cấu của Giông tố hoành tráng, không
gian nghệ thuật của tác phẩm trải dài từ nông thôn đến thành thị, trong nhiều khung
cảnh khác nhau. Bao nhiêu khung cảnh là bấy nhiêu môi trường sống và hoạt động
của khá nhiều nhân vật thuộc đủ các tầng lớp xã hội. Qua 30 chương của Giông tố,
tác giả đã phơi bày hiện thực rộng lớn của xã hội đương thời với nhiều tầng lớp,
nhiều giai cấp trong những quan hệ và môi trường xã hội khác nhau. Đó là cảnh "xôi
thịt" ở làng Quỳnh Thôn, cảnh thành thị, biệt thự hoành tráng của Nghị Hách, nhà
hàng, khách sạn tráng lệ uy nghi, hoa lệ, chuyện sâu mọt trong huyện đường, sau
nghị trường, chốn ăn chơi truỵ lạc, không khí dung tục, tởm lợm của những nhà
chứa, tiệm hút, những gái điếm, đầm lai, lính da đen…Cảnh sống sau luỹ tre làng
của thôn quê nghèo, tầng lớp tiểu tư sản thành thị, cảnh sống vương giả của bọn địa
chủ tư sản...Giông tố của Vũ Trọng Phụng còn mở ra liên tiếp những mảng hiện
thực khác của thành thị, vùng mỏ, hải đảo và không gian nghệ thuật còn mở rộng.
Nếu không có một khả năng khái quát và sức tưởng tượng phong phú, Vũ Trọng
Phụng đã không thể xây dựng được một không gian mang tầm cỡ vĩ mô cho tác
phẩm và cũng không thể thổi vào tác phẩm một sức sống nghệ thuật mãnh liệt như
thế. Phải chăng sự thành công đó của nhà văn còn được tạo nên bởi một năng lực
đặc biệt của một “ông vua phóng sự đất Bắc” không phải ai cũng có được. Vũ
Trọng Phụng đã dựng lên trong Giông tố hàng loạt các sự kiện, biến cố, thời gian,
không gian trải dài và rộng lớn. Các sự kiện, biến cố liên tục biến đổi và vận động
hối hả với nhiều mâu thuẫn, căng thẳng gay gắt đầy kịch tính. Những yếu tố đó, đã
góp phần tạo nên một thực trạng xã hội Việt Nam đương thời trong cơn "Giông tố"
quay cuồng, đảo điên đến chóng mặt. Giông tố đã chỉ cho người đọc thấy được sự
biến đổi khôn lường của xã hội Việt Nam xưa. Vũ Trọng Phụng đã để cho các sự
kiện thay đổi liên tục từ "phong trào bình dân" đến chủ nghĩa quốc gia", "chủ nghĩa
59
quốc tế" từ " viện dân biểu", đến " đại hội đồng kinh tế" [208] để thấy được sự phức
tạp và biến cố dữ dội của Việt Nam thời thực dân, phong kiến. Giông tố đã điểm
đúng và trúng vào lực lượng chính đã gây ra sự mục ruỗng cho xã hội đương thời.
Vũ Trọng Phụng thẳng tay chỉ mặt những kẻ đã bị tiền bạc và danh vọng thao túng
mà đẩy con người và xã hội đến bờ vực thẳm của sự thối nát và báo hiệu hồi cáo
chung. Các tình huống có vấn đề trong Giông tố cuốn người đọc vào kết cấu câu
chuyện vừa hồi hộp căng thẳng song hấp dẫn và cuốn hút người đọc. Tác phẩm của
Nam Cao thường dắt người đọc từ những sự, kiện tình tiết bên ngoài để soi chiếu
vào đời sống nội tâm bên trong của nhân vật. Vũ Trọng Phụng lại để cho kết cấu tác
phẩm với những gấp khúc, căng thẳng, bất ngờ thú vị toát lên bản chất và bộ mặt
của nhân vật. Giông tố của Vũ Trọng Phụng có kết cấu lắt léo, biến đổi liên tục,
di n biến không xuôi chiều mà luôn tạo ra những đột biến không thuận chiều, tính
quy luật thông thường như bị phá vỡ, vì thế tác phẩm tạo cho độc giả nhiều bất ngờ
và khó đoán trước vấn đề. Vũ Trọng Phụng không chỉ xây dựng các nhân vật cụ thể
với những di n biến xoay xung quanh cuộc đời của họ mà còn tái hiện được không
khí của thời cuộc với những sự kiện nổi bật, bởi vậy sức hút của tác phẩm đã vượt
qua mọi thời gian và không gian đến với độc giả…Tiểu thuyết phóng sự của Vũ
Trọng Phụng chứa một nội dung hiện thực phong phú có dung lượng thông tin đầy
ắp sự kiện, ngồn ngộn và sinh động như chính hơi thở của cuộc sống. Tác giả đã tạo
dựng một bức tranh rộng lớn, với đầy đủ mọi hạng người, mọi lớp người, đề cập đến
nhiều vấn đề nhức nhối của thời đại. Đến với Vũ Trọng Phụng, nhiều nhà nghiên
cứu đã nhận thấy nhà văn có khả năng bao quát hiện thực trên một quy mô rộng lớn.
Việc bao quát hiện thực trên một quy mô tầm vóc lớn, mang đến cho văn chương
Vũ Trọng Phụng một bề rộng luôn có xu hướng mở ra đến vô cùng phạm vi đời
sống được phản ánh.
2.3.2.2. Nhân vật - những điển hình bất hủ
Nhân vật đa dạng, bề bộn trong các tiểu thuyết phóng sự với nhiều hạng người
khác nhau. Đọc tiểu thuyết phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguy n
Đình Lạp. Chúng ta nhận thấy, tác giả nhập vai vào đủ hạng người, hóa thân vào các
60
nhân vật vào mỗi kiếp sống của cả đô thị lẫn làng quê Việt Nam. Bằng ngòi bút của
những nhà văn đầy tâm huyết và tinh thần trách nhiệm cộng với sự sắc sảo của nhà
báo già dặn, thế giới nhân vật hiện lên rõ nét và phong phú với những: quan lại, tư
sản, tiểu tư sản, địa chủ, cường hào, phu mỏ, phu đồn điền, nông dân, người ở,
những tay anh chị, ma cô, cờ bạc, gái điếm và những hạng người ở dưới đáy xã hội.
Chị Dậu và vấn đề thuế thân, tinh thần phản kháng của người nông dân
Một trong những đặc sắc của tiểu thuyết phóng sự là khắc họa được những nhân
vật bất hủ của những vấn đề thời đại. Ngô Tất Tố đã xây dựng được nhân vật bất hủ
chị Dậu. Chị Dậu, tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam điển hình Ngô Tất Tố đã
dày công xây dựng và thành công nhất. Chị Dậu, là người phụ nữ lao động ở nông
thôn mặn mà, khoẻ mạnh, cuộc đời chị khổ đủ đường bởi vì nghèo khó, lận đận,
khiến anh Dậu cũng phải thốt lên khi chứng kiến nỗi khó nhọc của vợ: " khốn nạn
cái thân đàn bà như nó, thật là khổ đủ đường" [223]. Chị Dậu, chính là hình ảnh của
người phụ nữ Việt Nam truyền thống vừa là hiện thân của tình trạng bị bóc lột, bần
cùng hoá, của người nông dân Việt Nam trước cách mạng. Ở chị luôn toát lên vẻ
đ p tâm hồn và phẩm chất tốt đ p của người phụ nữ Việt Nam cho dù trong hoàn
cảnh, cực khổ cùng đường. Chị Dậu là người giàu lòng thương yêu, vị tha và đức hi
sinh. Trong lòng chị lúc nào cũng đầy ắp tình thương dành cho chồng con. Thương
chồng, chị chạy ngược, chạy xuôi tìm cách cứu chồng thoát cơn hoạn nạn và sẵn
sàng chịu thay đòn roi cho chồng. Chị sẵn sàng làm tất cả mi n là chồng chị được
yên thân: " Có đánh thì ông cứ đánh tôi đây này. Bao nhiêu tôi xin chịu cả. Chồng
tôi đau ốm chẳng làm gì nên tội" [223]. Tắt đèn đã mạnh dạn lên tiếng khi để cho
chị Dậu dám ra sức chống lại thế lực thống trị. Đã hai lần, chị Dậu lấy thân thể của
mình để che trở cho chồng trước đòn roi của bọn lính tráng. Ngô Tất Tố đã dùng
ngòi bút phóng sự nóng bỏng và nghệ thuật hư cấu của tiểu thuyết để cho chị Dậu
phải bán con. Khi phải bán con, chị như đứt từng khúc ruột. Chị đau đớn dày vò khi
nghĩ đến cảnh phải xa con. Chị day dứt, khi đứa con gái bé bỏng, ngoan ngoãn của
chị chẳng có tội tình gì chỉ vì một xuất sưu của bố mà mang thân đổi lấy một đồng
bạc. Chị xót xa trước cảnh con gái phải về nhà người ta làm tôi tớ…Lúc nào chị
61
cũng nghĩ đến chồng con: " Chồng ta hôm nay có dứt cơn sốt rét hay không? Cái
Tỉu từ sáng tới giờ xin ai bú được? Th ng Dần có chịu chơi ngoan hay lại gào khóc
quấy bố? cái Tý ở nhà lão Nghị có được yên thân không hay vẫn bị chửu, bị đòn?"
[223]. Chị Dậu là người phụ nữ đảm đang, tháo vát, trụ cột của gia đình trong cơn
khốn cùng hoạn nạn. Chị Dậu thông minh, sắc sảo. Tuy mù chữ song khi giải quyết
công việc thì chị là người linh hoạt, có tính quyết đoán, đối đáp rành mạch. Chị
không d bị người đời lừa gạt, không ngu ngơ trước thủ đoạn của bọn thống trị. Chị
Dậu rất giàu lòng vị tha nhưng lại rất có ý thức về nhân phẩm. Mặc dù khốn đốn vì
mấy đồng bạc để nộp sưu nhưng chị đã khinh bỉ:" ném tọt cả nắm giấy bạc" vào mặt
tên tri phủ Tư Ân, Ngô Tất Tố đã thể hiện thái độ trân trọng con người khi để chị
Dậu trong sạch và có những hành động phản kháng. Hai lần suýt bị cưỡng hiếp thì
cả hai lần chị đều chống lại quyết liệt và thoát ra được. Ngô Tất Tố đã để chị Dậu từ
chối nắm bạc của tên tri phủ Tư Ân trong khi chị đang rất cần tiền. Chị Dậu còn là
người tiềm tàng khả năng phản kháng ngoan cường, dũng cảm. Bị đẩy vào tình
huống gay cấn, để bảo vệ chồng đang bị đau ốm chị đã vùng lên đánh lại tên cai lệ
và người nhà lý trưởng. Hành động của chị thể hiện sức mạnh tiềm tàng, tinh thần
phản kháng chống lại bất công, ngang trái của người nông dân, người phụ nữ Việt
Nam dưới chế độ thực dân, phong kiến. Hành động đó rất phù hợp với lô gíc tính
cách của chị. Tắt đèn của Ngô Tất Tố đã dùng ngòi bút tiểu thuyết phóng sự phanh
phui thực trạng nông thôn Việt Nam qua việc đẩy mâu thuẫn xã hội lên cao để hành
vi, thái độ của nhân vật được bộc lộ. Hành động của nhân vật, đáp ứng được nguyện
vọng của người nông dân đương thời là phản kháng lại xã hội đã đè nén áp bức và
đẩy họ vào con đường cùng không lối thoát. Ngô Tất Tố đã dựng lên không khí oi
bức, giông bão trong Tắt đèn. Tác giả phản ánh mâu thuẫn giai cấp ở nông thôn đã
đến lúc gay gắt lên tới tột đỉnh đòi hỏi phải được giải quyết. Phải nhanh chóng cải
thiện đời sống nhân dân. Muốn giải phóng nông dân thì không có con đường nào
khác là đánh đổ bọn thực dân và quan lại địa chủ, phong kiến. Ngô Tất Tố đã dùng
ngòi bút có tính thời sự, phản biện quyết liệt của tiểu thuyết phóng sự để chị Dậu
62
phản kháng lại giai cấp thống trị. Sự phản kháng của chị xảy ra trong một tình thế vì
đến bước đường cùng không còn cách nào khác đã phải vùng dậy. Đức hy sinh vì
chồng, vì con của chị Dậu đã khiến chị quên cả hiểm nguy, đánh lại cai lệ và người
nhà lý trưởng: " Thà ngồi t . Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không
chịu được" [223]. Trước đó, văn học chỉ đặt vấn đề cho tự do luyến ái, hạnh phúc
lứa đôi nhằm giải phóng người phụ nữ ra khỏi sự ràng buộc của l giáo phong kiến.
Đến Ngô Tất Tố đặt ra vấn đề giải phóng phụ nữ phải đi liền với giải phóng giai
cấp. Có giải phóng được giai cấp thì phụ nữ mới được giải phóng vì phụ nữ là người
bị bóc lột và chịu nhiều đau khổ nhất. Bởi vậy, chúng ta thấy được ý nghĩa tiến bộ
của nhiều vấn đề xã hội đặt ra trong Tắt đèn. Ngô Tất tố không chỉ tố cáo, đả phá xã
hội cũ trong Tắt đèn một cách dữ dội qua hành động chị Dậu dám chống lại thế lực
thực dân, phong kiến mà ở đó còn thấm đẫm tinh thần nhân văn cao quí. Tắt đèn là
một bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hoà nước mắt và lòng căm phẫn của hàng
triệu nông dân nghèo bị bóc lột mà đại diện là chị Dậu. Chị Dậu là nhân vật điển
hình bất hủ vì khi chúng ta đem so sánh với những nhân vật nữ khác cùng thời thì
chị Dậu không thể lẫn vào đâu giữa vô vàn nhân vật ấy. Chị Dậu, qua ngòi bút của
Ngô Tất Tố hiện lên là một người phụ nữ bộc trực, ngay thẳng, dịu dàng, kín đáo,
thật thà, chất phác nhưng lại thông minh sắc sảo. Chị nhún nhường, nhẫn nhục, chịu
đựng mà vẫn tiềm tàng khả năng phản kháng ngoan cường, dũng cảm. Cá tính của
nhân vật không chỉ thể hiện ở nét độc đáo, điểm khác biệt của nhân vật mà còn thể
hiện ở chỗ nhân vật chân thực, có sự vận động phát triển của tính cách, các hành
động có lô gíc và để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Chị Dậu là một nhân vật có
sức sống mãnh liệt, tưởng như chị vừa từ văn chương bước ra ngoài cuộc đời. Chị
Dậu là nhân vật kết tinh giá trị về tư tưởng và nghệ thuật của Tắt đèn, là nhân vật
điển hình bất hủ Ngô Tất Tố đã tập trung xây dựng, đúng như GS.TS Trần Đăng
Suyền đã nhận xét: "Với hình tượng chị Dậu, lần đầu tiên trong văn học Việt Nam
có một điển hình nghệ thuật xuất sắc, vừa chân thực vừa đẹp đẽ, toàn vẹn và giàu
sức sống về người phụ nữ nông dân lao động" [126].
63
Nghị Hách và vấn đề Tư bản hoá
Tác phẩm của Vũ Trọng Phụng có tính thời sự nóng bỏng của phóng sự và nghệ
thuật hư cấu điêu luyện của tiểu thuyết. Bên cạnh thành tựu về nghệ thuật kết cấu,
Vũ Trọng Phụng còn bộc lộ một thế mạnh xây dựng nhân vật điển hình và những
vấn đề thời đại. Nhân vật đặc sắc, đa dạng về tính cách, cá tính, hành vi sắc nét, có
hồn, thần thái là điển hình của thời đại. Họ là những con người bằng xương, bằng
thịt, trong không khí nóng bỏng những năm 30. Những nhân vật này là sản phẩm
tiêu biểu của xã hội thực dân, phong kiến bạo tàn. Vũ Trọng Phụng bằng ngòi bút
điêu luyện đã xây dựng được tính cách nhân vật sinh động, khiến nhân vật ấy trở
nên nổi bật hơn. Hệ thống nhân vật điển hình bất hủ xuất hiện đậm đặc trong thế
giới nhân vật của Vũ Trọng Phụng càng khẳng định tính thời sự và cảm hứng phản
biện trong cá tính sáng tạo độc đáo của tác giả. Thế giới nhân vật trong Giông tố
chen chúc những kẻ xấu xa, bỉ ổi, đáng bị lên án, phê phán. Nghị Hách là nhân vật
phản diện điển hình của Vũ Trọng Phụng. Hành động đồi bại của Nghị Hách với Thị
Mịch hiện lên ở đầu tác phẩm hé mở bản chất đê tiện dâm ô của tên địa chủ độc ác.
Chiếc xe hòm của hắn vô tình hỏng bên đường nhưng đã làm cho cả làng Quỳnh
Thôn bình yên bỗng trở nên lao đao, người bị cách chức, kẻ bị làm nhục, ông đồ bị
khuynh gia bại sản…Nghị Hách, ngày càng gây ra tội ác nhiều hơn. Nghị Hách là
kẻ táng tận lương tâm, hắn sẵn sàng đổi trắng thay đen cho dù hành động có bỉ ổi
đến bao nhiêu. Nghị Hách không chỉ được Vũ Trọng Phụng khắc họa nhân vật ở cái
dâm, đểu cáng mà cả ở sự tàn nhẫn và độc ác. Nghị Hách là một nhân vật máu lạnh
có tính cách đa dạng về sự xấu xa, đồi bại. Nghị Hách lạnh lùng thản nhiên thực thi
tội ác khi ra lệnh cho tài xế phóng xe ô tô ch t chết người Trương Tuần. Hắn ung
dung ngồi hút thuốc phiện trước cảnh Tài Nhì đang "o n mình như sợi tóc hơ trên
ngọn lửa" đau đớn vì hắn ra lệnh đánh cho một trận tơi bời đòn roi. Ý của Nghị
Hách là ý trời, tưởng chừng hắn có thể điều hành cả thiên hạ. Không ai được phép
chống lại Nghị Hách cho dù việc đó đúng hay sai. Tất cả những ai làm trái ý hắn
đều phải chịu số phận cay đắng, bất hạnh do chính hắn gây ra, kể cả những đứa con
ruột, vô tội của hắn. Có nhà nghiên cứu đã nhận xét: “Đó là một hình tượng đầy
64
đặn, phức tạp, có bề dày xã hội, đồng thời lại là một cá tính hết sức độc đáo, song
không phải độc đáo kiểu biếm họa của nghệ thuật trào phúng mà là con người sống
động mang tính chân thực cao, giống như bản thân đời sống” [87]. Tính cách điển
hình của nhân vật Nghị Hách còn được thể hiện cụ thể hơn, khách quan hơn qua
người thân của hắn. Chính họ là người tố cáo, phơi bày bộ mặt ghê tởm của Nghị
Hách. Vạn Tóc Mai là con rơi của Nghị Hách nhưng đã rất hồ hởi khi phơi bày bộ
mặt thật của cha mình: “-…Tớ biết nhiều điều đểu giả của mon père lắm. Tớ sẽ nói
hết tất cả cái tội ác của lúy ở ngoài mỏ, trong xưởng máy, ở đồn điền…” [208,
tr.232]. Tú Anh, con trai Nghị Hách, được cưng chiều nhưng không thể chịu nổi
trước hành động dâm ô bỉ ổi của cha đã phải thốt lên: " - ng có biết r ng nhiều
người th oán ông lắm rồi không? ng muốn từ tôi xin cứ từ, nhưng mà để cho tôi
nói vài lời đã! Tôi đã đến lúc không nín được rồi… - Thưa ông, ông là cha tôi, điều
đó lúc nào tôi cũng nhớ lắm. Tôi chịu ơn ông nhiều lắm, nhưng mà ông đã làm
nhiều điều bỉ ổi lắm…ông giết tôi đi!"[208, tr.193-194]. Tội ác của Nghị Hách
không thể đo đếm được bởi hắn gây ra quá nhiều. Vũ Trọng Phụng thật tài tình khi
thể hiện bộ mặt gian xảo của Nghị Hách qua mô tả trực tiếp cuộc điện thoại của hắn:
“Alô! Phải! Chính ông chủ đây…Phu goòng phải cho làm đêm, được. Thế cai
thầu với hãng tàu biển Năm Sao là làm sao?... Thế à! Thế thì ông phải cố mà tranh
lấy bốn đồng rưỡi một tấn thôi vậy. Nếu sợ lỗ thì hạ lương kíp phu xuống hào hai…
không sợ! Th ng nào phản đối thì đổi nó vào kíp đêm… không thì loại vợ con chúng
nó ra…Được đấy, th ng nào kì kèo thì đuổi hẳn” [208, tr.257]. Vũ Trọng Phụng
không e dè khi đưa ra những thủ đoạn tàn nhẫn, không ghê tay của Nghị Hách, hắn
sẵn sàng đưa người lương thiện vào bước đường cùng không lối thoát mi n là có lợi
cho hắn cho dù đó là hành vi như thế nào. Hắn là một kẻ không có trái tim của con
người: “…Lừa lọc mọi người, cầm nhà bắt nợ mọi người, giết người, hiếp… người,
những việc như thế không phải người thường làm nổi, hoặc đó là người không có
quả tim” [208]. Trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng có một hệ thống nhân vật đa
dạng, với các mối quan hệ chồng chéo, đan cài lẫn nhau, nhưng tất cả các nhân vật
ấy đều bổ sung làm nổi bật và xoay quanh nhân vật điển hình là Nghị Hách. Ông già
65
Hải Vân kể chi tiết, tỉ mỉ từng mốc thời gian trong quá khứ của Nghị Hách gây tội
ác càng tô đậm thêm bộ mặt thật tàn bạo vô lương tâm của hắn:
" - Bác Hách! Cứ bình tâm! Cưỡng sao nổi số giời! Trong việc này dễ có
Hoàng thiên dúng tay vào, dễ thường có luật quả báo!…Bác nên nhớ lại lúc bác bỏ
một chục quả đấm b ng đồng vào hòm tôi, để chiếm đoạt vợ tôi...!" [208]. Có thể
nhận thấy, mỗi một số phận bất hạnh trong Giông tố lại càng tố cáo, tô đậm sự đê
tiện và độc ác của hắn. Nghị Hách lừa đảo, gian ác, giết người…Tưởng chừng như
không ai có thể đụng được đến hắn, làm gì được hắn. Nhưng Nghị Hách gieo gió thì
phải gặt bão, đó là qui luật tất yếu. Nghị Hách lồng lộn lên như con thú dữ, khi bắt
gặp cảnh vợ hắn ngoại tình với cung văn. Trước phản ứng dữ dội của Nghị Hách bà
Nghị không những không sợ mà còn bình tĩnh vạch tội ác của chồng càng làm cho
Nghị Hách không thể chịu nổi. Dường như sức chịu đựng, sự dồn nén đã đến lúc
bung ra, bà vợ không cần giữ vị thế là một bà Nghị uy quyền nữa mà muốn bóc trần
sự thật bẩn thỉu được bao bọc bấy lâu nay bằng lời chửi thẳng thừng:
" - Ừ đấy! Bà thế đấy!...Nó là cung văn thật đấy nhưng bụng dạ nó tốt, nó ăn ở
có nhân nghĩa…còn hơn cái mặt mày!..Đồ lường đảo! Quân giết người! Đồ lường
thầy phản bạn”[208].
Nghị Hách những tưởng tiền và quyền lực sẽ áp đảo tất cả. Hắn đã nhầm khi
chứng kiến cảnh này. Thật phũ phàng cho kẻ mạnh, bản chất đồi bại của hắn bị vạch
trần, thể hiện qua lời nói, hành động của con trai hắn. Thật trớ trêu khi phơi bày tội
ác của Nghị Hách cho thiên hạ thấy lại do chính người vợ của hắn. Chân dung bất
hủ của tay đại tư sản, ở cuối tác phẩm được nhà văn khắc họa bằng một màn bi hài
kịch cho thấy đầy đủ hơn bản chất dâm ô, độc ác và lưu manh của hắn. Tội ác vô
cùng tận của Nghị Hách sẽ phải được trả giá rất đắt khi cơn giông tố ập đến gia đình
hắn. Xây dựng một nhân vật điển hình và có sức sống bằng ngòi bút sắc sảo, điêu
luyện của mình, Vũ Trọng Phụng đã liên tiếp cho độc giả thấy được những màn bi
hài kịch sống động vì sự tàn ác phi nhân tính của Nghị Hách. Chỉ có ngòi bút căm
uất mãnh liệt như Vũ Trọng Phụng mới có thể khắc họa nên cảnh tượng rùng rợn
này. Nguy n Tuân đã nhận thấy ngòi bút của Vũ Trọng Phụng thật dũng cảm và tỉnh
66
táo đến lạnh lùng khi mổ xẻ một xã hội có những con người vô liêm sỉ, trâng tráo
đánh mất nhân tính: “Sự trâng tráo của cái xã hội lấy của đè người ấy lại còn lên tới
cái mức mặt dày mày dạn vô liêm sỉ cao độ mà chỉ có ngòi bút Vũ Trọng Phụng mới
phân tích nổi và tổng hợp được hết”, "Chỉ có ngòi bút của Vũ Trọng Phụng mới đủ
sức dựng lên được một nhân vật bạo chúa đến mức mất nhân tính đáng sợ” [151].
Trong quan hệ xã hội, Nghị Hách khiến cho thiên hạ phải điêu đứng, khốn khổ.
Trong quan hệ gia đình hắn khiến cho con cái phải đau khổ, phải tự tử vì hắn. Việc
làm đại dâm, đại ác trắng trợn của Nghị Hách bị phơi bày, lên án quyết liệt. Nhưng
núp bóng thực dân, Nghị Hách vẫn ung dung, tung hoành uy quyền của mình. Nhân
vật điển hình Nghị Hách, trong văn xuôi Việt Nam, chưa hề có nhân vật tư sản, địa
chủ nào “sánh” được. So với sự tàn bạo của Nghị Lại (Bước đường c ng - Nguy n
Công Hoan), tính tham lam, keo kiệt của Nghị Quế (Tắt đèn - Ngô Tất Tố) thủ đoạn
xảo quyệt của Bá Kiến (Chí Phèo - Nam Cao)…Đã rất tiêu biểu cho bộ mặt của bọn
địa chủ đương thời nhưng vẫn chỉ có ảnh hưởng trong một vùng nông thôn nhỏ h p.
Những nhân vật ấy, không thể trải dài trên phạm vi rộng lớn từ nông thôn đến thành
thị bằng sự độc ác, đểu giả, dâm ô trắng trợn cỡ bạo chúa như Nghị Hách trong
Giông tố. Khi xây dựng nhân vật Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng không để nhân vật
gợi lên trong lòng độc giả cảm giác khoa trương, phóng đại hay có tâm lý căm ghét
cá nhân của nhà văn. Bởi, Vũ Trọng Phụng đã xây dựng thành công nhân vật trong
hoàn cảnh điển hình. Nghị Hách chỉ có thể lộng hành được trong xã hội phi nhân
tính, dưới sự thống trị của bọn thực dân phong kiến. Nhân vật Nghị Hách cho chúng
ta thấy được xã hội thực dân mục ruỗng đã đến lúc phải lật đổ và cần có một cơn
bão táp cuốn trôi đi tất cả những xấu xa đang tồn đọng bấy lâu nay. Như vậy, xây
dựng thành công nhân vật điển hình bất hủ Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng đã để ngòi
bút có tính thời sự nóng bỏng của mình thể hiện cảm hứng phản biện quyết liệt
trước những bất công của xã hội.
Xuân Tóc Đỏ và vấn đề cái " Rởm"
Ngoài nhân vật điển hình bất hủ là Nghị Hách, Vũ Trọng Phụng xây dựng được
nhiều nhân vật khác trong đó có Xuân Tóc Đỏ. Xuân Tóc Đỏ là nhân vật đặc sắc
67
trong Số đỏ. Hắn đại diện cho sự kệch cỡm, lố lăng của một xã hội văn minh Âu hoá
rởm. Xuân Tóc Đỏ là một nhân vật gây được ấn tượng sâu đậm đối với độc giả.
Xuân Tóc Đỏ, chỉ qua một thời gian ngắn đã từ một kẻ hạ lưu bước vào một gia
đình danh giá. Hắn được mọi người tung hê, với cái danh cao quý: nhà cải cách xã
hội, giáo sư quần vợt, đốc tờ, anh hùng cứu quốc…Xuân Tóc Đỏ được Vũ Trọng
Phụng xây dựng bằng tính thời sự nóng hổi của phóng sự và chất tiểu thuyết đậm
đặc. Vũ Trọng Phụng dùng nhân vật Xuân Tóc Đỏ để phơi bày tất cả sự lố lăng,
kệch cỡm, lai căng của xã hội đương thời trong phong trào Âu hoá. Chất phóng sự
kết hợp với nghệ thuật trào phúng tạo nên tính cách của nhân vật độc đáo. Xuân Tóc
Đỏ, vốn là kẻ bụi đời, làm những nghề hạ lưu và sống lay lắt nơi đường phố: "Th ng
Xuân lấy đầu hè xó cửa làm nhà, lấy sấu ở các phố, cá Hoàn iếm làm cơm, nó đã
bán phá xa, bán nhật trình, làm chạy hiệu rạp hát, bán cao đan hoàn tán trên xe lửa
và vài ba nghề tiểu xảo khác nữa. Ánh nắng mặt trời làm cho tóc nó đỏ như tóc Tây.
Cảnh ngộ đó tạo nên một đứa hoàn toàn vô giáo dục, tuy nó tinh quái lắm, thạo đời
lắm"[210, tr.10-11]. Xuân bị người bác họ đuổi ra khỏi nhà bởi vì nhìn trộm bác gái
tắm. Xuân Tóc Đỏ còn bị người Pháp đánh và đuổi việc khi nhìn trộm một cô đầm
thay đồ ở sân quần vợt. Xuân Tóc Đỏ rất may mắn vì được bà Phó Đoan cưu mang.
Sự may mắn của Xuân có sự nâng đỡ của những kẻ lắm tiền hợm hĩnh, dâm đãng,
hãnh tiến như bà Phó Đoan, vợ chồng Văn Minh…Bản thân, lai lịch dâm đãng vì
hay nhìn trộm đàn bà tắm nên Xuân Tóc Đỏ lọt vào mắt bà Phó Đoan và được bà
mang về nhà. Khi được bà Phó Đoan, một me Tây phóng đãng “thương”, cưu mang
hắn nhanh chóng hòa mình vào giới thượng lưu, quen dần với những lời tâng bốc và
cứ thế leo lên bậc thang danh vọng mà không gặp bất cứ sự trở ngại nào…Mặc dù
được Vũ Trọng Phụng giới thiệu ấn tượng và đặt vào hoàn cảnh rất tự nhiên trong
màn mở đầu nhưng nhân vật Xuân Tóc Đỏ hiện ra vẫn bộc lộ bản chất vô học mà
nhà văn đang muốn phơi bày. Nhân vật này, khi gặp môi trường thuận lợi, từ một
đứa trẻ láu cá hắn nhanh chóng đã hoà nhập vào xã hội thượng lưu. Mặc dù Xuân
Tóc Đỏ đã đặt chân vào giới thượng lưu nhưng ngôn ngữ đường phố với những câu
cửa miệng như: “mẹ kiếp”, “nước mẹ gì” vẫn còn rơi rớt lại bộc lộ bản chất lang
68
thang bụi đời vô học của hắn. Vũ Trọng Phụng muốn tung ra cuộc đời một sản
phẩm đặc biệt của xã hội, của nhiều môi trường. Trong con người Xuân Tóc Đỏ có
cả bản chất hạ lưu, vô học với phong thái thượng lưu trưởng giả thành thị. Bản chất
ấy, vừa “ngớ ngẩn” lại vừa “tinh quái” lại “thạo đời”. Xã hội bịp bợm, giả dối đã
tạo dựng lên một Xuân Tóc Đỏ lố lăng, với những thói rởm đời, ba hoa, đại bịp. Mọi
di n biến, tình tiết xoay quanh nhân vật được tác giả kể cứ như đùa mà thật. Xuân
Tóc Đỏ được mọi người cố tình tô vẽ như một vai hề trên sân khấu tuồng để lợi
dụng. Sau khi bị lợi dụng đóng vai một sinh viên trường thuốc thành công, nhân vật
Xuân Tóc Đỏ đã biết lợi dụng thời cơ để vận động đúng hướng trong quá trình tiến
thân của mình. Cứ thế hắn lừng lững tiến thân bằng bản chất ma ranh, láu cá, lừa
bịp, biết lợi dụng thời cơ…Khi người ta cố tình tô vẽ cho một chân dung thì người
ta sẽ càng quảng cáo, tung hô và mong muốn cái "rởm" phải trở thành sự thật. Đặt
chân vào giới thượng lưu, Xuân Tóc Đỏ mới nghiệm ra rằng, thế giới vỉa hè nhem
nhuốc, bẩn thỉu nơi hắn xuất thân so với thế giới sang trọng của những ông chủ bà
chủ nơi hắn ngẫu nhiên rơi vào, nhìn bề ngoài có vẻ khác nhau nhưng thực chất
cũng dơ dáy, bẩn thỉu, xấu xa như nhau. Bằng ngòi bút sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã
dám phanh phui tầng lớp thượng lưu trong tác phẩm của mình. Tác giả cho người
đọc thấy được quy luật ngược đời của một xã hội quái gở, kì quặc. Những gì là đê
tiện xấu xa, bỉ ổi nhất đáng lẽ không được xã hội chấp nhận và phải lên án thì lại
được tâng bốc và đánh giá cao. Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng là
một điển hình bất hủ về một loại người hãnh tiến trong xã hội đô thị bấy giờ. Khi
xây dựng nhân vật này và quá trình tiến thân nhanh chóng của anh ta, Vũ Trọng
Phụng muốn phanh phui, lật ngửa tất cả mọi xấu xa, ung nhọt của xã hội thượng
lưu, cơ chế “lừa bịp” của xã hội đương thời. Cho nên Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
mặc dù chủ yếu phản ánh xã hội trên bình diện sinh hoạt song mang đậm tính thời
sự và tính chiến đấu sâu sắc. Qua nhân vật Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng đã dựng
lên một điển hình xuất sắc có giá trị phê phán xã hội nhưng ở một góc độ khác. Vẫn
là khối căm hờn của Vũ Trọng Phụng nhưng bây giờ khối căm hờn biến thành chuỗi
cười dài hả hê công phá mạnh mẽ vào những cái nhố nhăng, lố bịch của xã hội
69
đương thời. Cũng từ nhân vật Xuân Tóc Đỏ, Phan cự Đệ đã nhận thấy một phương
diện phê phán tố cáo, lên án xã hội sâu sắc: “Thông qua cái may mắn của Xuân Tóc
Đỏ, Vũ Trọng Phụng cũng đã lên án cả cái xã hội tư sản lố lăng, giả dối, vô nghĩa
lý” [210, tr.429]. Xuân Tóc Đỏ quả là nhân vật điển hình đặc sắc nhất trong số
những nhân vật điển hình trong tác phẩm, tố cáo dữ dội phong trào Âu hoá ở Việt
Nam. Thông qua hàng loạt nhân vật, tiêu biểu là Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng đã
tái hiện lại nhiều sự kiện xã hội đương thời và tác giả coi đó chỉ là những “trò hề”
trên sân khấu. Qua nhân vật Xuân Tóc Đỏ, Vũ Trọng Phụng đã phát hiện được bản
chất bịp bợm và cái cơ chế lừa bịp của giới thượng lưu nơi đô thị xưa. Ngòi bút của
Vũ Trọng Phụng bộc lộ hết tài năng của nhà tiểu thuyết phóng sự cộng hưởng với sự
khinh bỉ và lòng căm hờn. Chúng ta có thể tán đồng với nhà văn Nguy n Khải: Số
đỏ của Vũ Trọng Phụng xứng đáng là “cuốn sách làm vinh dự cho mọi thời đại” và
nhân vật Xuân Tóc Đỏ đã phát triển theo đúng quy luật xã hội, phản ánh được đúng
bộ mặt của xã hội, nhân vật đó đã vượt ra khỏi khuôn khổ xã hội đương thời. Trong
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng chỉ có khoảng ba mươi nhân vật nhưng Vũ Trọng Phụng
đã đề cập đến đủ mọi hạng người trong xã hội đô thị Việt Nam vào những năm 30
của thế kỷ XX. Vũ Trọng Phụng đã nắm bắt rất trúng, đúng, tính cách và bản chất
của nhân vật qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ của Xuân Tóc Đỏ khi còn lang thang nơi vỉa
hè, làm những nghề hạ lưu là thứ ngôn ngữ của bọn vô học, đểu giả lại thích nói
những câu: “Chả nước mẹ gì cả! Than ôi cái cảnh đêm thu tịch mịch cần làm như
gợi khách đa sầu” [210, tr.7]. “Mẹ kiếp! Chứ xưa nay có mua mũ bao giờ mà tóc
chả đỏ” [210, tr.11], “Mẹ kiếp! Quần với chả áo!” [210, tr.52]…Song khi bước vào
giới thượng lưu, hắn đã nhanh chóng tiếp thu thứ ngôn ngữ mới mẻ, lịch thiệp:
“Chúng tôi rất lấy làm hân hạnh!” [210, tr.55], cứ như thế bằng sự hoạt ngôn, Xuân
Tóc Đỏ đã chinh phục được nhiều người. Vai trò của Xuân Tóc Đỏ trở nên quan
trọng, đến mức tưởng rằng nếu thiếu hắn thì cuộc Âu hóa sẽ khó thành. Nhà văn đã
để cho nhân vật nói đúng ngôn ngữ của con người mình, tầng lớp mình, thời đại
mình qua đó góp phần thể hiện tính cá thể độc đáo và tính khái quát chung của nhân
vật. Ngoài việc thể hiện phương diện cá nhân, ngôn ngữ còn là yếu tố thể hiện
70
phương diện xã hội của nhân vật. Nghiên cứu văn phẩm của Vũ Trọng Phụng,
chúng ta thấy vô số những kẻ ngu xuẩn, ích kỷ, tàn nhẫn, độc ác, lưu manh có ngôn
ngữ vô cùng lố bịch và dâm đãng. Nhân vật do Vũ Trọng Phụng tạo ra hầu như là
những kẻ có ngôn ngữ dâm đãng vì các nhân vật được hấp thụ đời sống của xã hội
đương thời. Một số nhà nghiên cứu cho rằng các nhân vật này có sự ảnh hưởng của
Freud nhưng chưa hẳn “tác giả là một đồ đệ của Freud”[139]. Khi đánh giá về các
nhân vật của Vũ Trọng Phụng có rất nhiều người quan tâm, có chiều hướng khẳng
định, có chiều hướng phê phán. Vũ Ngọc Phan cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác
không đồng tình với Vũ Trọng Phụng khi ông quá sa đà trong việc khai thác “cái
dâm” ở các nhân vật. Một số khác lại đánh giá cao về giá trị nghệ thuật xây dựng
nhân vật. Qua hình ảnh nhân vật Xuân Tóc Đỏ tác giả đã lật tẩy xã hội với các nhân
vật đại diện cho mặt trái của xã hội thượng lưu. Nhân vật Xuân Tóc Đỏ tinh khôn
láu cá, bịp bợm đã biết lợi dụng môi trường ấy để thăng tiến, biết đắp điếm mọi sự
ngu dốt và vô học của mình để tiến thân. Nhân vật ấy, trở thành nhân vật thật độc
đáo khi xã hội đặt vào hắn những cơ hội để trở thành nhân vật trung tâm tiêu biểu
cho văn minh, lịch sự của phong trào Âu hoá để che đậy sự giả trá, mặt trái của xã
hội đương thời.
Qua nghiên cứu về thế giới nhân vật điển hình của Vũ Trọng Phụng, chúng ta
thấy cả những thành công và hạn chế. Thế giới nhân vật trong tác phẩm của Vũ
Trọng Phụng đông đúc, phức tạp, thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Các nhân
vật được đặt vào trong một hoàn cảnh cụ thể bao trùm là một hoàn cảnh xã hội đầy
biến động, bát nháo, đầy rẫy những xấu xa. Trong một xã hội như thế, các nhân vật
thường có sự thay đổi số phận, có khi cực kỳ nhanh chóng. Ở mỗi hạng người, mỗi
giai cấp, tác giả đều tô đậm những nét tính cách tiêu biểu, nhân vật trở nên rõ nét,
sinh động có nhiều nhân vật trở thành những điển hình. Vũ Trọng Phụng có những
đóng góp quan trọng trong việc đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của
những vấn đề thời đại theo xu hướng hiện đại, mang dấu ấn sáng tạo độc đáo. Đến
với nhân vật của Vũ Trọng Phụng độc giả được chứng kiến tận mắt sự tráo trở, khôn
lường của lòng người với muôn vàn gương mặt, thuộc nhiều tầng lớp khác nhau
71
trong xã hội nhà văn sống. Ông thường có xu hướng hoà trộn giữa thế mạnh của
phóng sự vào trong tiểu thuyết để tạo nên những nhân vật điển hình. Vũ Trọng
Phụng đặt cái nhìn của một nhà báo, một cây bút phóng sự để soi chiếu, mổ xẻ, phân
tích bản chất con người. Vì thế con người, qua lăng kính của “ông vua phóng sự đất
Bắc” hiện ra rất thực, rất sống và có tính nghệ thuật cao.
Tóm lại: Tiểu thuyết phóng sự là thể tài mới xuất hiện đến những năm 30 của
thế kỷ XX đã hội đủ các điều kiện về văn hoá, văn học để phát triển phong phú,
nhanh chóng đạt được những thành tựu với những tên tuổi tiêu biểu như: Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguy n Đình Lạp, Chu Thiên. Có những tác
phẩm đạt đến đỉnh cao về giá trị như: Giông tố, Vỡ đê, Số đỏ, Bỉ vỏ, Tắt đèn đã góp
phần vào sự phát triển của tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XX.
72
CHƢƠNG 3: TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1975
3.1. Vài nét về bối cảnh lịch sử - xã hội và văn hoá, tƣ tƣởng
Từ 1945 đến 1975, đất nước Việt Nam có nhiều biến cố lịch sử trọng đại, tác
động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng Tám năm 1945 đã mở ra một kỷ nguyên độc lập sau gần trăm năm dưới ách
thống trị của thực dân Pháp. Vị thế con người Việt Nam được nâng lên một tầng cao
mới. Nhưng thực dân Pháp âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa,
Đảng, Bác Hồ đã động viên muôn người như một đồng sức, đồng lòng quyết tâm
đánh giặc cứu nước cho dù khó khăn đến đâu.
Chúng ta đánh thắng giặc Pháp bằng chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ lừng lẫy
năm châu, chấn động địa cầu. Tháng 7 năm 1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết,
hoà bình lập lại trên đất Việt Nam. Miền Bắc được giải phóng và đi vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Từ đây, cả dân tộc lại tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, chống đế quốc Mĩ xâm lược. Quân và dân Việt Nam, chiến
đấu kiên trì, bền bỉ hơn hai mươi năm vô cùng khốc liệt, mùa xuân năm 1975, đã
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Về vấn đề văn hoá, trong Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) của Đảng Cộng
sản Đông Dương đã xác định: văn hoá là một mặt trận quan trọng của cuộc đấu
tranh cách mạng. Đồng chí Trường Chinh với Bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và văn
hoá Việt Nam trình bày tại Hội nghị văn hoá toàn quốc (tháng 7 năm 1948) ở Việt
Bắc đã tiếp tục khẳng định thêm quan điểm đó. Cũng trong bản báo cáo này, đồng
chí đã đề ra ba phương châm để xây dựng nền văn hoá mới của Việt Nam: dân tộc,
khoa học, đại chúng. Các giá trị văn hoá dân tộc được phục hồi và phát huy. Điều
kiện chiến tranh kéo dài và do sự đối lập về ý thức hệ trong thời kì "chiến tranh
lạnh" trên thế giới nên việc giao lưu về văn hoá của nước ta bị hạn chế. Văn hoá của
Việt Nam, chỉ giao lưu, trao đổi chủ yếu trong khối các nước xã hội chủ nghĩa đặc
biệt là Liên Xô, Trung Quốc. Chính việc này, cũng ảnh hưởng đến đời sống văn
hoá, văn học ở nước ta. Bối cảnh ấy, đã tác động đến nền văn hoá Việt Nam nói
chung, văn học nói riêng, vận động chủ yếu theo khuynh hướng sử thi để đáp ứng
73
yêu cầu của thời đại. Tuy nhiên vẫn có một số tác phẩm phản ánh các vấn đề của đời
sống xã hội. Một số tác giả phát hiện, phản ánh kịp thời, nóng hổi những vấn đề xảy
ra trong cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước. Hoàn cảnh của đất nước, đã tạo điều
kiện cho văn hoá, văn nghệ phát triển. Văn nghệ tập trung vào ca ngợi và nêu gương
con người trong ý thức dân tộc, giai cấp. Bao trùm toàn bộ đời sống xã hội và đất
nước giai đoạn này là chiến đấu cho độc lập tự do và thống nhất Tổ quốc, cho lý
tưởng xã hội chủ nghĩa. Văn hoá, văn nghệ lúc này làm nhiệm vụ cổ vũ chiến đấu,
như Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Văn hoá, nghệ thuật cũng là một mặt trận, anh chị
em là chiến sĩ trên mặt trận ấy" [97].
3.2. Sơ lƣợc diện mạo tiểu thuyết phóng sự giai đoạn 1945-1975
Một đặc điểm cơ bản của văn học giai đoạn 1945-1975 là sự nổi trội và bao
trùm của khuynh hướng sử thi, chất sử thi thấm sâu vào các thể loại chi phối đến
việc lựa chọn đề tài, chủ đề, hệ thống nhân vật, xây dựng nhân vật, kết cấu, ngôn
ngữ của các tác phẩm. Văn học chủ yếu hướng vào ngợi ca tinh thần yêu nước, xây
dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta. Chất phóng sự đã chuyển hướng sang ký sự
để phản ánh kịp thời những vấn đề của cuộc chiến đấu và xây dựng xã hội mới. Ký
sự phát triển đã thâm nhập vào tiểu thuyết. Nhu cầu về điều tra, phát hiện những vấn
đề xã hội đã lùi lại, ưu tiên cho việc ca ngợi chủ nghĩa anh hùng và tinh thần yêu
nước, thể loại phóng sự mờ đi, ký sự nổi lên. Thể loại ký rất thích hợp với ghi chép
những hình ảnh thời đại kháng chiến, phục vụ cho tuyên truyền, ca ngợi những tấm
gương người thực, những điển hình tiêu biểu, thể ký lấn át các thể loại khác. Tuy
nhiên, bên cạnh việc ghi chép ngợi ca những tấm gương tiêu biểu có những tác
phẩm, tác giả đã chú ý nhạy bén phát hiện vấn đề phản ánh kịp thời, nóng hổi những
vấn đề xảy ra trong cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước. Đã xuất hiện một số tiểu
thuyết có yếu tố phóng sự khi lên tiếng phanh phui, điều tra mặt trái, tiêu cực của xã
hội nhưng vẫn khẳng định hướng tới cách mạng như: Sắp cưới (1957) của Vũ Bão,
Cái sân gạch (1959) của Đào Vũ, Đi bước nữa (1960) của Nguy n Thế Phương, Mở
hầm (1961) của Nguy n Dậu, Những người thợ mỏ (1961) của Võ Huy Tâm, Vào
đời (1963) của Hà Minh Tuân, Xung đột (1959), Chủ tịch huyện (1972) của Nguy n
74
Khải, Đất làng (1974) của Nguy n Thị Ngọc Tú. Một số tác phẩm kịp thời phản ánh
cuộc chiến đấu của quân và dân ta như: Xung kích (1951) của Nguy n Đình Thi,
V ng mỏ (1951) của Võ Huy Tâm, Cửa sông (1967) của Nguy n Minh Châu,
Đường trong mây (1970), Ra đảo (1970), Chiến sĩ (1973) của Nguy n Khải, Mẫn và
tôi (1973) của Phan Tứ…Ít nhiều cũng có chất tiểu thuyết phóng sự. Đặc biệt những
tác phẩm của Nguy n Khải giàu tính chính luận - thời sự, kịp thời phát hiện và soi
rọi vào những vấn đề xã hội, chính trị trong cuộc đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội và
cuộc chiến đấu chống Mỹ. Xung đột của Nguy n Khải đã đề cập đến cuộc đấu tranh
quyết liệt giữa cán bộ, bộ đội và nhân dân ta với bọn phản động đội lốt tôn giáo
đang điên cuồng chống phá cách mạng ở một vùng Công giáo. Xung đột của
Nguy n Khải khám phá ra nhiều vấn đề có tính thời sự, đó là vấn đề niềm tin tôn
giáo trong những người nông dân bị lợi dụng, đó là mối quan hệ giữa tôn giáo và
chính trị. Chủ tịch huyện lại đặt ra một vấn đề mang tính thời sự sâu sắc: vấn đề tổ
chức sản xuất nông nghiệp ở nông thôn và phẩm chất đạo đức của cán bộ trong công
cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nông thôn. Đó là mối quan hệ giữa tài và đức, thái
độ đối với cấp trên, đối với tập thể, đối với quần chúng nhân dân. Từ đó khẳng định,
đối với người cán bộ không được quan liêu xa rời dân. Đi bước nữa phản ánh tình
trạng nông thôn với nhiều vấn đề phức tạp trong sự chuyển mình tiến tới cuộc sống
mới. Nguy n Thế Phương đề cập đến một vấn đề phải đi bước nữa trong ý thức của
con người trong xã hội để đấu tranh chống lại tư tưởng lạc hậu lỗi thời đảm bảo
quyền sống cho con người đặc biệt là phụ nữ. Cái sân gạch của Đào Vũ quan tâm
đến vấn đề hợp tác hoá nông nghiệp, nông thôn với nhân vật tiêu biểu là lão Am.
Cái sân gạch muốn thể hiện tâm tư, trăn trở của người nông dân có nên vào hợp tác
xã hay không. Người nông dân đang bắt đầu tiếp xúc với một phương thức làm ăn
mới cho nên họ đắn đo, cân nhắc vấn đề vào hợp tác xã cũng là lẽ đương nhiên. Vào
đời của Hà Minh Tuân lại cung cấp cho người đọc mặt trái của đời sống thành thị
cũng không kém phần phức tạp và đầy cạm bẫy. Cuộc sống nơi thành thị nghèo khó
đã đẩy một cô gái Hà Nội xinh đ p, hiền dịu rơi vào cảnh trớ trêu và đau khổ.
75
Nhưng cô không cam chịu trước nghịch cảnh đã vươn lên tự khẳng định mình trong
cuộc sống.
3.3. Một số thành tựu của tiểu thuyết phóng sự 1945-1975
3.3.1. Nhạy bén trong vấn đề nông thôn
Vấn đề nông thôn trên con đường cải tạo và xây dựng cuộc sống mới là một
hướng Nguy n Khải tập trung khai thác, chính vì thế mà tiểu thuyết Xung đột, Chủ
tịch huyện đã xuất hiện để đáp ứng được vấn đề xã hội quan tâm. Tác phẩm Xung
đột ra đời sau khi tác giả đi thâm nhập thực tế ở xứ đạo huyện Nghĩa Hưng tỉnh
Nam Định được nhiều người quan tâm và khẳng định tài năng của Nguy n Khải.
Tác phẩm đề cập đến vấn đề đấu tranh giai cấp quyết liệt giữa cán bộ, bộ đội và
nhân dân ta với bọn phản động đội lốt tôn giáo ngày đêm đang chống phá cách
mạng ở một xứ đạo. Cuộc đấu tranh phức tạp, gay gắt trong Xung đột đã đưa ra
nhiều vấn đề có ý nghĩa: vấn đề mê tín dị đoan, vấn đề niềm tin tôn giáo tồn tại
trong người nông dân bị lợi dụng. Vấn đề xã hội rất căng thẳng, đầy mâu thuẫn
trong cuộc đấu tranh giai cấp thời kì đầu xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa ở
vùng nông thôn miền Bắc nước ta. Nguy n Khải tập trung miêu tả cuộc đấu tranh
cách mạng thấm sâu vào đời sống nhân dân thông qua hình ảnh của những cán bộ
trẻ, lực lượng trực tiếp đấu tranh bảo vệ chính quyền nhân dân mới được thành lập.
Môn là một chủ tịch vững vàng nhưng thẳng thắn, chân thành, mẫu người của công
việc của giai cấp cách mạng trong xây dựng đất nước và kháng chiến. Phó chủ tịch
Nhàn là một phụ nữ nhưng rất cứng rắn, chị xử lí công việc một cách cương quyết,
chắc chắn nhưng khi đêm về chị lại mềm lòng trước Chúa. Chị luôn yêu Chúa và tin
tưởng ở Chúa. Thuỵ là một cán bộ kháng chiến cũ, một du kích dũng cảm trong
kháng chiến. Anh bị hiểu lầm trong cải cách ruộng đất nhưng vẫn một lòng một dạ
đi theo cách mạng tin thưởng vào Đảng, kiên định với con đường đã lựa chọn.
Nguy n Khải tập trung phản ánh quá trình thoái hoá, biến chất của Thuỵ là một bài
học kinh nghiệm xương máu cho những cán bộ ở nông thôn. Dù trong mọi hoàn
cảnh, khó khăn và thử thách người cán bộ cách mạng luôn phải giữ mình, kiên định,
nắm bắt tình hình, đi đúng hướng, nếu đi ngược với qui luật sẽ bị tụt hậu và bị
76
nghiền nát. Nguy n Khải đã khắc họa hình ảnh người cán bộ trong những ngày đầu
xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân vùng Công giáo một cách sinh động. Đội
ngũ cán bộ cách mạng như từ đám đông bước ra với nhiều dáng vẻ và quan điểm
khác nhau tiêu biểu cho một giai đoạn lịch sử đầy biến động của nông thôn miền
Bắc trên con đường đi lên xã hội chủ nghĩa. Có cán bộ vững vàng như Môn, cán bộ
nao núng như Nhàn, người thoái hoá, biến chất như Thuỵ…Trong cuộc đấu tranh
quyết liệt, ngấm ngầm phức tạp giữa lực lượng cách mạng và phản cách mạng sau
cải cách ruộng đất đòi hỏi phải được giải quyết một cách quyết liệt để mang lại cuộc
sống bình yên cho nhân dân. Trong tác phẩm Xung đột còn đặt ra vấn đề đấu tranh
tư tưởng trong chính bản thân cán bộ cách mạng giữa chân lý của Đảng và các tín
đồ của Chúa. Nguy n Khải đã nêu ra một vấn đề bức xúc và sâu xa đó là giải phóng
tinh thần của con người khỏi những mê muội mà bọn phản động đang phủ kín, giải
phóng tâm lý cầm tù nhẫn nhịn trong sự lạc hậu cằn cỗi tâm hồn của người dân mà
kẻ xấu đầu độc.
Xung đột của Nguy n Khải đã xây dựng một mô hình nhân vật tiêu biểu cho xu
hướng tiến bộ và những nhân vật đi ngược lại quyền lợi của giai cấp, dân tộc.
Trong Xung đột nhân vật Môn đã sáng suốt chỉ ra rằng không thể vừa là người cán
bộ trung thành với cách mạng vừa là con chiên ngoan đạo mù quáng tuyên truyền
chống phá đắc lực cho giáo hội. Anh đã mạnh dạn lên tiếng, một cán bộ của Đảng
quỳ xuống xưng tội trước cha là một hành động: " đầu hàng của kẻ trực tiếp nộp khí
giới…lúc ấy khó mà phân biệt được ở hai người, phần nào là Chủ tịch xã, phần nào
là con chiên thường, phần nào là cha thay quyền đức chúa Giê su, phần nào là
người cầm đầu phe đối lập" và khi đó kẻ thù sẽ nắm lấy thời cơ để tấn công người
đó làm mất mặt trước giáo dân: "nắm lấy dịp này mà làm nhục kẻ đã cứng lòng
chẳng tin, khiến nó mất hết uy tín trước giáo dân". Môn cũng sáng suốt nhận ra vấn
đề: "có lẽ thời buổi này tôn giáo không thể đứng riêng một mình chăng? "[188,
tr.104]. Anh là người lên tiếng cảnh tỉnh người đứng đầu giáo xứ là cha Vinh:" Thưa
cha, cha khoác áo thầy tu đi truyền đạo phải dạy dỗ giáo dân biết kính Chúa nhưng
còn phải biết yêu nước nữa chứ" [188, tr.95]. Môn là người kiên quyết không khoan
77
nhượng khi đấu tranh quyết liệt với kẻ thù để bảo vệ đường lối của Đảng và phong
trào xã hội chủ nghĩa. Nhưng con người anh từ đáy sâu tâm hồn còn có một cuộc
đấu tranh khác cũng vô cùng cam go, dai dẳng khiến anh trăn trở, dằn vặt. Cuộc đấu
tranh giành lại đồng đội, đồng chí của mình từ tay kẻ thù. Cuộc chiến này không hề
d dàng chút nào khi các đồng chí của anh đang ngày càng trượt xuống hố sâu của
niềm tin tôn giáo mù quáng và cám dỗ của vật chất. Những thứ đó tuy rất tầm
thường nhưng có sức mạnh ghê gớm lần lượt kéo Nhàn, Thuỵ, dần xa rời anh xuống
vực sâu. Trong con người của Môn lúc nào cũng bất an bởi: " không lúc nào thấy
trong lòng được thư thái, vui vẻ, đêm không lúc nào là không tr n trọc lo nghĩ"
[188]. Thuỵ là người bạn rất thân thiết từ nhỏ với anh đã nhiều lần làm anh tức giận.
Có những lúc Môn giận bạn nắm chặt tay, nghiến răng nghĩ kế sẽ cho hắn một bài
học " vạch mặt" làm cho "điêu đứng" vì những âm mưu đê tiện của Thuỵ nhưng khi
đối mặt anh lại quên hết tức giận vì nhớ lại những kỷ niệm xưa kia…Môn vật lộn,
giằng xé đau đớn nhiều khi bế tắc trước sự sa ngã của Thuỵ. Bản lĩnh cứng rắn
không khoan nhượng của anh đôi lúc cũng không thể phát huy hết tác dụng khi bảo
vệ đồng chí, đồng đội. Đấy cũng chính là điểm hạn chế của Môn mà anh cần phải
khắc phục để xử lý công việc được hiệu quả hơn….Bên cạnh Môn là Nhàn, một
trong những người của bộ máy cán bộ địa phương được nhà xứ và dân chúng kính
nể: " Trong Uỷ ban chỉ có chị là người duy nhất được người trong nhà xứ và kẻ
ương bướng ngoài đời phải nể vị. Chị thuộc lớp mới lớn lên, hoà bình mới vào du
kích (…) chị làm việc có lý lẽ, sáng suốt, nhiều nghị lực" [188, tr.49]. Nhàn là một
Phó chủ tịch cứng rắn trong công việc, trong đấu tranh chống mọi âm mưu phá hoại
của kẻ thù chị không sợ hãi nhưng trước Chúa chị rất mềm yếu: " Trước mặt Chúa
và trong giờ phút thiêng liêng của đêm tối (…), Nhàn chỉ còn và chỉ muốn là một
đứa trẻ hết sức thơ ngây và trong trắng (…), sung sướng được chịu ơn thiêng liêng
của Chúa và hãnh diện vì lòng mến chúa hơn cả mọi người" [188, tr.143]. Nhàn
còn cho rằng: " tất cả mọi chuyện lớn nhỏ của thế gian chỉ là sự sắp đặt, sự thử
thách của Chúa mà thôi" [188 tr.144]. Con người của Nhàn luôn có sự giằng xé bên
trong khiến day dứt với câu hỏi: " Sao tôi lại là con chiên của Chúa! Tôi không thể
78
bỏ đạo được mà tôi cũng không thể bỏ hoạt động được. Tôi muốn làm cả hai nhưng
không ai để cho tôi được yên thân (…). Tôi theo Chúa, tôi theo Chính phủ, tôi theo
cả hai mà không được sao? [188, tr.141]…Thuỵ đã khẳng định với Linh mục
Thuyết: " Con là cán bộ cách mạng, chín mười năm nay theo một con đường thì
theo mãi đến chết". Thuỵ là một người có học lại thông suốt giáo lý anh đã cảm
nhận thấy rằng: " Mình như nhành nho mà đức Chúa Lời là cây nho, chân lý Đảng
càng làm rõ thêm đạo lý của Chúa, làm nhành hoà hợp c ng cây sinh được hoa
thơm trái lạ." [188, tr.32]. Với Thuỵ lòng tin theo Đảng và đức tin theo chúa Lời
gần như là một, trong anh " sự tin yêu Đảng có nhiễm cả sắc màu tôn giáo". Thuỵ là
một cán bộ có trách nhiệm và kiên định trước kẻ thù, có lòng tin tuyệt đối vào lý
tưởng của Đảng. Thuỵ cũng rất đau xót trước cái chết của đồng chí khi bị đội cải
cách giết. Nhưng bị cha Thuyết mua chuộc và cám dỗ bằng của cải và vật chất anh
đã bỏ đồng chí, bỏ Đảng Thuỵ đang "hấp hối" trong sự nhầy nhụa của những âm
mưu đê tiện.Thuỵ là một cán bộ đã bị sa ngã trước mọi cám dỗ của cuộc đời. Anh đã
trở thành kẻ tha hoá biến chất hoàn toàn: "Vừa kiêu ngạo, vừa khắt khe vì e sợ
những đứa khác coi thường mình, lấn át, áp chế mình" [188, tr.293]. Con người
biến chất của Thuỵ đã nhi m sang cả người thân của anh ta. Vợ Thuỵ, m vợ, Toán
em ruột của Thuỵ …cũng luôn gây sự và khó chịu với mọi người xung quanh: "
Cũng gây cho mình sự h n học đối với chung quanh, và sự ghen ghét, th h n ở
người đàn bà còn dai dẳng, ngu ngốc gấp mười lần anh đàn ông nữa" [188,
tr.353]…Nguy n Khải cho người đọc nhận thấy, cả gia đình Thuỵ đã đi ngược lại
với quyền lợi của tập thể, đã để cho chủ nghĩa cá nhân lấn át, gây mất niềm tin trong
quần chúng. Những ngày sa ngã bị mất lòng tin của mọi người Thuỵ cũng rất đau
đớn, suy ngẫm, dằn vặt sa sút về tinh thần:" Như người ốm đứng…không đi đâu,
suốt ngày quanh quẩn ra vào rồi n m ườn nghĩ ngợi" [188, tr.352]. Thuỵ đã thay
đổi hoàn toàn từ hình dáng bên ngoài đến nội tâm bên trong, anh càng ngày càng có
tâm trạng bất an và rơi vào con đường cùng không có lối thoát. Xung đột của
Nguy n Khải đã xây dựng nhân vật Thuỵ là một mẫu người đánh mất niềm tin lý
tưởng cách mạng và lập trường tư tưởng. Một con người tâm huyết đã dày công xây
79
đắp và phấn đấu không mệt mỏi vì sự nghiệp của mình. Con người một thời đã tôn
thờ lý tưởng đặt hết niềm tin và khi cần có thể hy sinh cả tính mạng của mình để có
được. Nhưng trong gang tấc đã đánh mất tất cả lý tưởng, lòng tin, sự nghiệp, ước
mơ hoài bão. Anh không tìm ra con đường đi đúng cho bản thân bởi những toan tính
đen tối cùng những kẻ đối đầu với Đảng. Con người Thuỵ giờ đây chỉ còn sự bất
mãn, hận thù và tiếc nuối. Những gì đã qua mặc dù vất vả nhưng cũng đầy vinh
quang chỉ còn trong quá khứ…Ngày đầu xây dựng cuộc sống mới ở nông thôn vô
cùng khó khăn, bề bộn và phức tạp Thuỵ không có bản lĩnh kiên định như Môn, anh đã
sa ngã và tha hoá hoàn toàn.
Đối với nhân vật phản diện, với cái nhìn sắc sảo của phóng sự và ngòi bút điêu
luyện của tiểu thuyết Nguy n Khải đã vạch trần bản chất thật của chúng. Những kẻ
nhân danh Chúa, núp bóng Chúa khoác áo thầy tu nhưng luôn ngấm ngầm tổ chức,
giật dây, kích động chống phá cách mạng như cha Vinh, cha Thuyết, thầy Thịnh.
Những con chiên cuồng tín một cách mù quáng nấp sau tháp chuông nhà thờ ra sức
chống phá cách mạng như Minh Gộc, Quảng, Lý, vợ Tường… trong tác phẩm Xung
đột còn đặt ra vấn đề đấu tranh tư tưởng trong chính bản thân cán bộ cách mạng
giữa chân lý của đảng và các tín đồ của Chúa. Nguy n Khải đã nêu ra một vấn đề
bức xúc và sâu xa đó là giải phóng tinh thần của con người khỏi những mê muội mà
bọn phản động đang phủ kín, giải phóng tâm lý cầm tù nhẫn nhịn trong sự lạc hậu
cằn cỗi tâm hồn của người dân mà kẻ xấu đầu độc. Tác giả mong muốn con người
thoát khỏi những mê muội, nhận ra ánh sáng của cuộc đời mới và vươn lên vì cuộc
sống của bản thân. Với những trang văn còn nóng hổi hơi thở cuộc sống, mang đậm
màu sắc phóng sự Xung đột đã dẫn người đọc đến một vùng nông thôn Công giáo,
một lĩnh vực mới mẻ trong văn chương nước nhà. Tác phẩm đã mạnh dạn đưa ra
những vấn đề phức tạp, đầy mâu thuẫn ở một vùng nông thôn Công giáo. Bằng ngòi
bút phóng sự sắc sảo kết hợp với chất tiểu thuyết dày dạn Xung đột của Nguy n
Khải đã khai thác, khám phá chiều sâu nội tâm của nhân vật giàu tính nhân văn và
đầy thuyết phục. Xung đột của Nguy n Khải lôi cuốn người đọc bởi tính thời sự
nóng bỏng ở cách nhìn, cách đánh giá vấn đề có tầm bao quát và xây dựng một thế
80
giới nhân vật đa dạng. Nhưng đôi khi mạch truyện còn lỏng lẻo, không nhất quán,
đường đi của nhân vật đứt đoạn đột ngột tạo cảm giác hẫng hụt cho người đọc.…
Vấn đề nông thôn Việt Nam còn được Nguy n Khải thể hiện đậm nét trong tác
phẩm Chủ tịch huyện. Nguy n Khải đã quan tâm đến một vấn đề mang tính thời sự
sâu sắc. Vấn đề phẩm chất và năng lực cán bộ ở nông thôn trong phong trào hợp tác
hoá. Phong trào hợp tác hoá nông nghiệp ở nông thôn đã nảy sinh những cán bộ xã
quan liêu, xa rời thực ti n, quyết đoán, bỏ qua những ý kiến của tập thể để hạch sách
nhũng nhi u, gây khó khăn cho nhân dân. Nguy n Khải không chỉ đề cập đến vấn
đề sản xuất nông nghiệp ở nông thôn, tác giả đã đề cập đến vấn đề đạo đức, nhân
phẩm và tâm lý, tính cách của những cán bộ trẻ trong những năm bảy mươi của thế
kỷ XX. Nguy n Khải cũng không ngần ngại khi đưa vấn đề phẩm chất thiết yếu của
người cán bộ trong giai đoạn xây dựng kinh tế. Quan hệ giữa tài và đức, thái độ đối
với cấp trên, đối với tập thể và quần chúng nhân dân như thế nào là đúng. Để giải
quyết được những vấn đề nêu trên, Nguy n Khải đã tập trung thể hiện nhiều mặt
trong đời sống và công tác của những cán bộ từ tỉnh xuống xã. Một Bí thư Tỉnh uỷ
(Bí thư Tỉnh uỷ Quang), ba cán bộ huyện (Bí thư huyện uỷ Tạo, Chủ tịch huyện
Hiệp, Thường vụ huyện uỷ phụ trách tổ chức Vang) và đội ngũ cán bộ xã (An, Đàm,
Mộc, Khang)...Chủ tịch huyện Hiệp là một lãnh đạo nhiệt tình xông xáo, anh biết
điều hoà các mối quan hệ. Anh xác định cho mình một nguyên tắc sống phải tự học
tập, rèn luyện, thẳng thắn, suy ngẫm, phê bình và tự phê bình: "tranh luận gay gắt
giữa mình với mình, tự mình kết luận những việc làm của mình…Bao giờ cũng phải
thành thật, với mình, với mọi người, ngay cả khi sai lầm cũng là thành thật" [186,
tr.424]. Những vấn đề của ngày hôm nay với biết bao việc cần phải làm và quan tâm
lại vô cùng phức tạp khiến anh mất rất nhiều công sức mà vẫn chưa đạt được kết
quả như mong muốn. An, chủ tịch xã rất trẻ nhưng sắc sảo trong quản lý kinh tế.
Anh tự tin, có học thức và quyết đoán trong công việc. Nguy n Khải đã chỉ ra rằng:
người cán bộ tháo vát, giỏi, tinh tường, khôn ngoan nhưng nếu không thường xuyên
trau dồi phẩm chất đạo đức, xem lại chính mình, tỉnh táo trước mọi hành động lời
nói thì việc rơi vào cạm bẫy là điều không tránh khỏi, bởi vậy người cán bộ mới
81
luôn phải giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng, có bản lĩnh kiên cường dù trong
bất kỳ hoàn cảnh nào. Hiệp, An, Khang…là những cán bộ tháo vát, năng động, xông
xáo, chủ động trong công việc và có thể làm thay đổi, chuyển biến mọi tình thế.
Những người cán bộ này, đầy tự tin, táo bạo có năng lực và tâm huyết với công
việc. Bằng những lời nói và hành động của mình họ đã thuyết phục được quần
chúng. Nhưng ở những con người này cũng tồn tại những hạn chế. Chủ tịch huyện
Hiệp nhiệt tình, quyết đoán trong công việc nhưng chưa phân định rõ ràng ranh giới
của nguyên tắc và nhân nhượng. Bí thư Tỉnh uỷ Quang, bí thư Đảng uỷ xã Khang…
đều là những cán bộ tốt, mỗi người đều có những mặt mạnh những điểm đáng quí
nhưng chưa phải là những hình mẫu lý tưởng. Gộp chung lại những ưu điểm của cán
bộ này, chúng ta sẽ có một cán bộ lý tưởng vừa có tâm có tầm lại vừa có tài. Ngòi
bút tiểu thuyết đậm chất phóng sự của Nguy n Khải đã không né tránh những mặt
trái của xã hội, thẳng thắn phê phán những vấn đề tiêu cực của đời sống. Tác giả
mong muốn khơi ngợi ở người đọc khả năng nhận thức hiện thực một cách chân
thành, đúng mực, sẵn sàng đấu tranh với những trở ngại trong cuộc sống của mỗi cá
nhân. Nguy n Khải khéo léo đan cài vào Chủ tịch huyện những mẩu chuyện hài
hước qua lời đề dẫn ở mỗi chương tạo nên sự hấp dẫn thú vị bất ngờ của tác phẩm.
Bên cạnh những con người hết lòng vì cuộc sống mới ở nông thôn trong những ngày
đầu xây dựng đất nước còn có những lực lượng đi ngược lại với quyền lợi của nhân
dân của dân tộc. Những thầy tu nhân danh chúa, núp dưới bóng chúa tìm cách ngấm
ngầm chống phá cách mạng, lợi dụng lòng tin của những con chiên kích động, xui
khiến họ chống phá cách mạng.
Mô hình nhân vật kiểu mới với xu thế tích cực và tiêu cực được Nguy n Khải
phán ánh đậm nét trong Chủ tịch huyện. Chủ tịch huyện Hiệp là nhân vật tiêu biểu
cho nhân vật kiểu mới với xu thế tích cực. Anh đã từng trăn trở, trước đây khi còn là
cán bộ nằm vùng: " hông có việc gì xảy ra trong ba xã Hiệp lại không biết tỉ mỉ và
có ngay những cách đối phó sắc bén kịp thời" [186, tr.472]. Nhưng bây giờ ngày
nào, tuần nào anh cũng xuống xã, về làng gặp gỡ mọi người mà vẫn không nhận ra
sự tức giận, nghi ngờ ở họ, không biết đến cả việc ở Bắc Hoà người ta làm đơn xin
82
ra khỏi hợp tác xã. Bao câu hỏi lớn luôn thường trực trong Hiệp khiến anh dằn vặt
không sao dứt ra được. Tại sao trước kia khi còn gian khổ thiếu thốn trăm bề, cơm
không có mà ăn chỉ toàn khoai, ngô với rau, dìm mình trong nước, trong hầm mà
con người vẫn hiểu nhau, đồng cam cộng khổ, chân thành với nhau vượt qua tất
hiểm nguy khốn khó. Hôm nay, đã có tất cả: vật chất đủ đầy, phương tiện đi lại
thuận lợi, môi trường sống khá giả sao mọi người giữ khoảng cách, e dè không nói
thật và chân thành với anh. Anh không thể hiểu và cắt nghĩa được căn nguyên của
vấn đề là do đâu? từ trong đáy sâu tâm hồn anh vẫn mong muốn được gần gũi và
chia ngọt sẻ bùi với mọi người như thời gian khổ trong kháng chiến. Những băn
khoăn, day dứt, trăn trở của Hiệp cũng là thử thách đặt ra cho người lãnh đạo trong
xã hội mới. Người lãnh đạo không chỉ có kiến thức về chuyên môn, nắm vững
đường lối chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Người lãnh đạo
còn phải am hiểu về văn hoá, xã hội, có tầm nhìn bao quát, lắng nghe, thấu hiểu
được tâm tư nguyện vọng của nhân dân và đặc biệt quản lý không chỉ là khoa học
mà phải là một nghệ thuật. An là một chủ tịch xã còn rất trẻ nhưng anh đã rất sắc
sảo và quản lý kinh tế rất giỏi. Anh tự tin, quyết đoán, có kiến thức thực ti n, mạnh
dạn trong đường lối và quyết sách đặc biệt là lĩnh vực kinh tế nhưng cũng rất thận
trọng trong từng lời nói của mình. Trong các cuộc họp huyện: " Anh thích ngồi yên
lặng hàng buổi để cuối c ng đứng lên nêu bật một vấn đề mấu chốt nào đó, phân
tích nó b ng những hoạt động thực tiễn của xã mình rồi kết luận thành từng điểm
rất sắc gọn và dễ nhớ" [186, tr.394]. An là một cán bộ giỏi của cách mạng giai đoạn
đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội nhưng ở người chủ tịch xã này vẫn có những điểm
hạn chế cần khắc phục đó là do được "nuông chiều" nên An hay lấn át tập thể, chủ
quan. Nếu không có sự giúp đỡ và góp ý chân thành của Khang thì anh đã sa vào cái
bẫy vật chất mà chính anh cũng không lường trước được…Bên cạnh những con
người hết lòng vì cuộc sống mới ở nông thôn trong những ngày đầu xây dựng đất
nước còn có những lực lượng đi ngược lại với quyền lợi của nhân dân của dân tộc.
Những thầy tu nhân danh Chúa, núp dưới bóng Chúa tìm cách ngấm ngầm chống
phá cách mạng, lợi dụng lòng tin của những con chiên kích động, xui khiến họ
83
chống phá cách mạng. Một con người đã từng có một quá khứ: là Quan Ba, dẫn lính
về đốt trụi xứ Hỗ, cướp bóc và tra tấn người không biết ghê tay, nay lại là một linh
mục làm nhiệm vụ coi sóc phần hồn của con chiên đó là Cha Vinh. Cố vấn cho cha
là tu sĩ Thịnh chuyên dạy đàn hát cho các em nữ trong nhà thờ nhưng: " hoạt động
về phần đời hơn là phần đạo…thầy thực không phải là thày tu tầm thường mà là
một người hoạt động chính trị xuất sắc", [186, tr.24], thầy mới hai mươi tư tuổi mà
"làm tới trưởng khu Cao Mại, một tay xây dựng tới hai mươi bảy xã uỷ, lãnh tụ liên
thôn diệt cộng toàn khu", thầy còn trẻ mà đã thành đạt và đầy quyền uy" thầy chỉ
tạm náu mình trong chiếc áo dài thâm xẻ tà nhưng uy quyền thầy còn gấp bội những
áo ch ng thâm bịt tà" [186, tr.24]. Cha Thuyết về thay cha Vinh vẫn ấp ủ một tư
tưởng" thiết lập một xứ Công giáo tự trị ". Chống phá cách mạng hơn cả là cha Lân
ở Tòa giám. Cha là người có giọng nói: " trơn nhãy như bọc ngoài một lớp nhớt
mỏng, rất khó nắm được ý thật của người nói và càng khó đề phòng [186, tr.325].
Cha là thầy cả về rao truyền lời Kinh Thánh trong xứ đạo với ý tứ sâu sắc kín đáo,
lời lẽ văn hoa, giọng nói hùng hồn, bàn luận rộng rãi nhưng cha cũng là " thủ phạm
của những âm mưu nguy hiểm nhất" [186, tr.325] chống phá cách mạng và với mục
đích mượn toà giảng làm bàn đạp tấn công chế độ mới: " Chúng ta vẫn còn một thứ
vũ khí sắc bén mà không kẻ nào tước nổi, đó là cái lưỡi của chúng ta. Chúng ta hãy
còn một khu vực tranh chấp mà không kẻ nào dám đoạt lại: đó là toà giảng của nhà
thờ. Từ đấy chúng ta sẽ tấn công ra, sẽ chiếm đoạt lại tất cả" [186 tr.325]. Nạn nhân
của bọn thầy tu là những người nông dân họ đã bị biến thành những con chiên mù
quáng bị chúng giật dây như: Quảng, Lý, Minh Gộc, vợ Tường…Tiêu biểu là Minh
Gộc, vợ Tường, chuyên đi lừa người khác, sẵn sàng đổi trắng thay đen để trục lợi và
gây rối ở xứ Hỗ...Nhưng bên cạnh đó vẫn có những quần chúng tiến bộ như bà Tình,
ông Dương sẵn sàng tố giác cha Vinh và những âm mưu thủ đoạn của phe nhà thờ
hết lòng bảo vệ lẽ phải…
Tóm lại, qua những vấn đề ở vùng nông thôn Công giáo Việt Nam, Nguy n
Khải đã phản ánh một hiện trạng nông thôn trong những ngày đầu tiến lên chủ nghĩa
xã hội đặc biệt là phong trào hợp tác hoá nông nghiệp nông thôn. Nguy n Khải
84
không chỉ đưa ra vấn đề nông thôn Việt Nam vùng Công giáo: người dân nghèo, mê
muội trong tôn giáo, khó khăn của những người cán bộ trong những ngày đầu xây
dựng xã hội chủ nghĩa mà ông còn đề cập đến những vấn đề có ý nghĩa nhân sinh
sâu sắc. Từ đó ông có một mong muốn, làm thế nào để con người có thể thoát khỏi
những suy nghĩ lạc hậu, cổ hủ đè nặng lên họ hàng trăm năm nay, làm thế nào con
người vươn lên làm chủ và đấu tranh cho cuộc sống tự do, hạnh phúc. Cải cách
ruộng đất, xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nông thôn là một sự kiện trọng đại
nhưng giải phóng con người về mặt tư tưởng, tinh thần cũng quan trọng và vĩ đại
không kém. Trong sự đổi thay của hoàn cảnh mới, liệu những con người này, cả
người dân và cán bộ mới có kịp thời thích ứng để trở thành những người chủ của
cuộc sống, tương lai và đất nước mới hồi sinh không?. Bằng sự nhạy cảm của một
nhà báo trước vấn đề bức xúc của xã hội sự kết hợp điêu luyện chất hư cấu của một
nhà tiểu thuyết Nguy n Khải đã luôn khao khát tìm đến sự thật và đề xuất một
hướng giải quyết tối ưu những căn nguyên dẫn đến sự xung đột ở nông thôn một xứ
đạo. Đó là vấn đề con người, vấn đề phục chế tâm hồn con người và sự đoàn kết
cộng đồng để hoà hợp tôn giáo xây dựng đất nước ngày một tươi đ p hơn.
Quan tâm đến vấn đề nông thôn, các tác giả còn quan tâm đến phong trào hợp tác
hoá nông nghiệp khi phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người nông dân. Tác phẩm
Cái sân gạch của Đào Vũ đã thể hiện tâm tư, nguyện vọng, băn khoăn, trăn trở của
người nông dân. Trong phong trào xây dựng hợp tác xã nông nghiệp ở miền Bắc,
lão Am là một lão nông bảo thủ, kiên quyết không gia nhập hợp tác xã ở lại làm ăn
riêng lẻ. Lão Am suy đi tính lại sau đó mới đồng ý cho cả gia đình viết đơn vào hợp
tác xã còn lão thì không. Lão Am đã quyết bỏ ra vùng mỏ để làm ăn nhưng sau đó
được sự vận động, phân tích khuyên giải của một người quen bên Tỉnh uỷ lão đã từ
bỏ ý định và xin vào hợp tác xã làm ăn tập thể…..
Đi bước nữa của Nguy n Thế Phương là một trong những tác phẩm viết về vấn
đề nông thôn Việt Nam sau hoà bình. Đi bước nữa đưa ra vấn đề hạnh phúc, hôn
nhân gia đình ở nông thôn Việt Nam đó là người phụ nữ muốn vượt qua rào cản gia
đình muốn tìm đến một hạnh phúc mới. Xây dựng hình ảnh người phụ nữ cô đơn
85
trong cảnh chồng mất sớm muốn lập gia đình mới nhưng bị gia đình nhà chồng ngăn
cản, các thế lực nhà chồng tìm mọi cách để chiếm đoạt đất đai, quyền lợi…Nguy n
Thế Phương muốn đứng về phía người phụ nữ để mưu cầu hạnh phúc cho họ. Để
giải phóng cho bản thân phụ nữ cả gia đình, gia tộc và xã hội phải vượt qua rào cản
cổ hủ, lạc hậu và thành kiến trước đây thì mới giải phóng được phụ nữ.…Đi bước
nữa của Nguy n Thế Phương đề cập đến một vấn đề chưa hề được quan tâm ở vùng
nông thôn từ trước đến nay. Trước kia vấn đề này đã được các tác giả quan tâm
nhưng chủ yếu ở thành thị, nay ở nông thôn Nguy n Thế Phương đã mạnh dạn đưa
ra vấn đề này là việc làm hết sức thời sự, phá vỡ suy nghĩ cổ hủ đã ăn sâu vào tiềm
thức của người dân quê nông thôn Việt Nam. Đi bước nữa đã lên tiếng bênh vực
người phụ nữ, phụ nữ ở nông thôn là người chịu thương chịu khó, lo toan gánh vác
công việc trong gia đình nhưng họ lại là người chịu nhiều thiệt thòi và bất hạnh
nhất. Đặc biệt trong vấn đề tình cảm riêng tư, người phụ nữ không được xã hội quan
tâm và luôn tạo cho họ bức tường ngăn cản tìm đến hạnh phúc.
3.3.2. Cập nhật tinh thần chiến đấu của quân và dân ta- kịp thời phát hiện vấn đề
trong cuộc chiến đấu
Bên cạnh những tác phẩm đề cập đến vấn đề nông thôn còn một số tác phẩm viết
về chiến tranh và người lính để cập nhật tinh thần chiến đấu của quân và dân ta - kịp
thời phát hiện vấn đề trong cuộc chiến đấu như: Chiến sĩ, Đường trong mây, Ra đảo
của Nguy n Khải.
Tác phẩm Đường trong mây của Nguy n Khải đề cập đến những hoạt động của
một đại đội công binh có nhiệm vụ mở đường, sửa đường và bảo vệ đường đảm bảo
con đường thông suốt cho chiến dịch. Nhiệm vụ của các chiến sĩ công binh tưởng
chừng như đơn giản nhưng rất cam go, căng thẳng vì ngày đêm bom Mỹ cày sới,
phá nát những tuyến đường. Chiến sĩ của đơn vị đêm ngày vừa làm nhiệm vụ bảo vệ
những con đường vừa bảo vệ tính mạng của mình và đồng đội trước mưa bom bão
đạn của kẻ thù trút xuống. Nguy n Khải đặt ra nhiều vấn đề khiến người đọc phải
trăn trở, suy ngẫm. Hoàn cảnh sống, chiến đấu gian khổ và hiểm nguy ranh giới giữa
sự sống và cái chết rất mong manh. Mối quan hệ giữa con người với con người ở
86
đây phải như thế nào để phù hợp với hoàn cảnh khốc liệt. Tình bạn, tình đồng chí,
tình yêu trong những giây phút căng thẳng, quyết liệt giữa hi sinh và sự sống rất
mong manh cần phải có điều kiện để thích nghi với môi trường. Hàng ngũ cán bộ
phải có biện pháp quản lý và làm việc như thế nào để chiến sĩ trong đơn vị thích ứng
với hoàn cảnh cam go nơi chiến trường khốc liệt nhưng vẫn phải phấn đấu và trưởng
thành…Mối quan hệ giữa tiền tuyến và hậu phương như một dây nối, một mắt xích
quan trọng trong sự vận hành của một cỗ máy để động viên nhau, quyết tâm hoàn
thành nhiệm vụ chiến thắng kẻ thù thống nhất đất nước. Cuộc chiến đấu của các
chiến sĩ đại đội bốn đang ngày đêm âm thầm nơi rừng sâu để mở đường, sửa đường
và bảo vệ con đường đảm bảo cho những cung đường được thông suốt bộ đội hành
quân chiến đấu, nhân dân vận chuyển lương thực, thực phẩm, vũ khí, thuốc
men…tiếp tế cho chiến trường. Cuộc chiến với những quả bom rơi, bom nổ chậm
mà chiến sĩ ta phải đến tận nơi để trực tiếp kiểm tra và đối mặt với cái chết. Những
con đường bom cày, đạn xới và mưa lũ cuốn trôi khiến những chiến sĩ phải đắp đi
đắp lại nhiều lần. Người chiến sĩ còn phải lần và tìm theo dấu vết của bọn thổ phỉ,
biệt kích, phản động trong những hang cùng, lối mòn của rừng sâu, những đỉnh núi
chênh vênh bên bờ vực thẳm…Hoàn cảnh sống, môi trường làm việc của các chiến
sĩ công binh rất căng thẳng, cam go, ngh t thở bởi chỉ có không gian nơi rừng sâu
đêm tối và cái chết luôn kề cận. Trong không gian nghiệt ngã nơi chiến trường khốc
liệt tưởng chừng như ngh t thở ấy vẫn ánh lên những trang văn giàu chất chữ tình.
Đó là cảnh sinh hoạt tập thể của bộ đội, tiếng cười nói râm ran, tếu táo của những
anh lính trẻ tinh nghịch, tiếng đàn cất lên trong không gian của núi rừng xa xăm,
tiếng hát át tiếng bom…hình ảnh thiên nhiên đ p đẽ nên thơ nơi miền Tây của tổ
quốc, cảnh Mỵ chải đầu trước cửa hầm một buổi sáng đ p trời và bình yên ở miền
biển của Quảng Bình…Tất cả những cảnh đó, đem đến cho người đọc một sức hấp
dẫn mới lạ của tác phẩm. Nguy n Khải đã kết hợp tài tình giữa chất thời sự của
phóng sự và nghệ thuật hư cấu điêu luyện của tiểu thuyết để tạo thành một tiểu
thuyết phóng sự lôi cuốn người đọc.
87
Tác phẩm Đường trong mây có hình ảnh những lớp cán bộ đã trải qua hai cuộc
chiến tranh, từ kháng chiến chống thực dân Pháp họ lại tiếp tục tham gia chống đế
quốc Mỹ. Qua hai cuộc chiến quyết liệt, người cán bộ đã không ngừng nêu cao lý
tưởng cách mạng vươn lên. Tham mưu trưởng Vịnh là người "được việc" nhưng
thẳng thắn, chân thành, bình tĩnh giải quyết công việc. Anh không ngần ngại khi chỉ
ra điểm mạnh và điểm yếu của bản thân và đồng đội để khắc phục và hoàn thành tốt
nhiệm vụ. Vị Tham mưu trưởng là một mẫu người điển hình mẫu mực với những
đức tính của người chỉ huy nơi chiến trường cam go, khốc liệt. Anh là tấm gương để
đồng đội noi theo và chiến đấu kiên cường dũng cảm, giành thắng lợi. Thụ là một
chính trị viên trong kháng chiến chống thực dân Pháp nhưng bắt tay vào cuộc kháng
chiến chống đế quốc Mỹ anh chưa nhập cuộc. Trong con người anh bao vấn đề được
đặt ra nhưng anh chưa biến nó thành hành động cụ thể. Thụ đang cố rèn luyện mình
để nhanh chóng thích nghi với hoàn cảnh của cuộc chiến mới. Chính trị viên Thụ đã
gần bốn mươi tuổi nhưng anh vẫn cố gắng vượt qua mọi khó khăn thử thách hoàn
thành nhiệm vụ với Đảng, với chiến sĩ của mình. Anh có được sức mạnh ấy là: " cái
ý thức phụ trách của một Đảng viên cộng sản trước giai đoạn then chốt của lịch sử
dân tộc." [182]. Nguy n Khải xây dựng nhân vật Thụ muốn chỉ ra việc thích nghi
với cuộc chiến mới của người chiến sĩ cần phải có một quá trình. Mặc dù người cán
bộ cách mạng rất giàu lòng yêu nước, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, kiên định, tỉnh táo
trước mọi vấn đề nhưng khi chuyển sang một hoàn cảnh, môi trường mới lúc đầu
còn bỡ ngỡ, e dè là chuyện đương nhiên. Sau đó, với lòng tự hào dân tộc, quyết tâm
cao độ, trách nhiệm với đồng đội họ sẽ nhanh chóng thích nghi và trở nhành những
cán bộ tốt, đảm nhiệm những trọng trách quan trọng, đón nhận những nhiệm vụ
nặng nề trong chiến đấu.
Tác phẩm Chiến sĩ của Nguy n Khải khai thác đề tài ở một góc độ mới, khắc họa
thành công hình tượng người chiến sĩ. Chiến sĩ đã giới thiệu với chúng ta hàng loạt
nhân vật với nhiều câu chuyện lý thú, hấp dẫn. Chuyện của bộ binh, công binh, pháo
binh, thiết giáp, hậu cần, quân y, anh nuôi, thủ kho, liên lạc, thợ sửa chữa thiết
giáp…Chuyện bộ đội ở tiền tuyến, chuyện những bà vợ chiến sĩ và người thân ở hậu
88
phương…Nguy n Khải đã dựng lên một loạt chân dung tinh thần các chiến sĩ.
Những người chiến sĩ họ đều có tên riêng, có độ tuổi khác nhau nhưng hầu như tác
giả đã không chú ý nhận diện những điểm riêng của mỗi người. Nguy n Khải đã
hướng tới những phẩm chất chung làm nên gương mặt tiêu biểu của cả cộng đồng.
Đó là sự hy sinh, tình đồng chí, đồng đội, ý chí quyết chiến, quyết thắng, tình thần
đồng cam cộng khổ, chia sẻ…là hiện thân của chủ nghĩa anh hùng cách mạng với
niềm tin, tinh thần dũng cảm, ý chí quật cường lý tưởng đúng đắn. Tất cả tạo nên
một sức mạnh to lớn của toàn dân tộc sẵn sàng tấn công kẻ thù và sẽ giành chiến
thắng. Nhân vật Huy là một trong mười ba người lính của bộ đội thiết giáp, là xe
trưởng của xe số 239 anh hùng. Huy đã bị lạc đơn vị khi xe của anh bị đứt xích và
rơi vào tình thế bất đắc dĩ đầy gian khổ trên chiến trường khói lửa rộng lớn. Lần thứ
nhất Huy đi trinh sát và bị lạc vào đơn vị bộ binh, anh trở thành chiến sĩ vây ép và
chiến đấu như một chiến sĩ bộ binh thực thụ. Lần thứ hai Huy lại bị lạc nhưng trong
tình trạng khó khăn hơn nhiều. Một mình với vết thương khá nặng trên vai, đói khát,
thiếu vũ khí đau đớn lết đi từng bước trong rừng. Huy luôn hướng về đồng đội anh
nghĩ rằng: " hông một ai có thể đứng vững chỉ b ng hai chân của mình nếu như
sau lưng họ là một khoảng trống" [184, tr.643] và chính tình đồng chí đã tiếp sức
cho anh vượt qua mọi khó khăn, giành giật lấy sự sống trở về đơn vị. Những ngày
Huy bị lạc đơn vị được gặp gỡ và tiếp xúc với nhiều người, khiến anh suy nghĩ rất
nhiều. Anh đã nhận ra được chân giá trị của cuộc sống, cũng từ đó Huy đã định ra
những tiêu chuẩn sống cho riêng mình. Từ trong tác phẩm Chiến sĩ nhân vật Huy
bước ra ngoài đời, anh trở thành người đại diện cho quan niệm của tác giả, cho
những suy nghĩ, tâm tư, nguyện vọng của người chiến sĩ cách mạng. Trong tác
phẩm Chiến sĩ, Nguy n Khải đã xây dựng nhân vật Thuỳ là chiến sĩ bị thương vào
mắt, phải bỏ đi một mắt nhưng anh đã vượt lên hoàn cảnh tập luyện ngay từ trên bàn
mổ với ý nghĩ: " phải rèn ngay từ đầu, không nên đợi đến ngày mai, không nên tự
hứa với mình, tự nhân nhượng với mình" [184, tr.669]. Khi người chiến sĩ phải
sống trong tình huống "chỉ có một nửa mặt, một nửa mặt sống, một nửa mặt đã
chết" anh vẫn "tập bắn súng, tập ném lựu đạn, tập chạy, tập nhảy…" [184]. Với ý
89
chí và nghị lực như vậy đã giúp Thuỳ vượt qua khó khăn đứng vững vị trí chiến đấu
không phải xa rời đồng đội. Chiến sĩ Hoà lại được Nguy n Khải khai thác ở góc độ
khác với những vẻ đ p riêng mà chung. Sự hy sinh của Hoà và xe của Hoà được tác
giả xây dựng thành biểu tượng cho chiến công của binh chủng xe tăng. Xác xe tăng
của Hoà nhìn xa như nắm đấm: " Các ngón khác vẫn nắm lại, riêng một ngón lại
chĩa thẳng ra"tạo thành" khối tượng đài h ng vĩ được đúc b ng thép già, b ng đất
đỏ, b ng máu người" [184, tr.771-772]. Hòa trở thành nhân vật tiêu biểu cho người
chiến sĩ: " Tên đồng chí ấy là gì?
- Chiến sĩ!…
- Đồng chí ấy hy sinh như thế nào nhỉ?
- hông! Có hy sinh đâu.
- Sao bảo có người hy sinh?
- Trưởng xe hy sinh?
- hông vẫn sống, người ấy thì chết thế nào được" [184, tr.772].
Nguy n Khải đã giới thiệu với chúng ta rất nhiều nhân vật chiến sĩ khác nhau
nhưng đều tập trung thể hiện khí phách dũng cảm, hiên ngang, ý chí kiên cường của
người chiến sĩ cho dù họ gặp muôn vàn khó khăn và trong bất kỳ tình huống nào.
Nguy n Khải đã dựng lại cuộc chiến đấu thầm lặng nơi miền Tây của Tổ quốc
với tác phẩm Chiến sĩ khắc họa hình ảnh người chiến sĩ bị lạc để từ chính người
chiến sĩ là người nói lên những lý tưởng của Đảng.
Nguy n Khải tiếp tục đề tài về người lính với tác phẩm Ra đảo để di n tả lại
cuộc chiến đấu anh dũng của những chiến sĩ nơi hải đảo biên cương của Tổ quốc chỉ
có trời và biển cả mênh mông. Tác giả đã lấy sự kiện chiến đấu làm tâm điểm tập
trung của tác phẩm. Ra đảo là một cuộc chuẩn bị chiến đấu, chiến đấu một cách hiên
ngang, dũng cảm, oai hùng của người chiến sĩ quanh năm đối mặt với sóng gió của
biển cả và sự bao vây của bom đạn kẻ thù, GS Nguy n Đăng Mạnh đã cho rằng: "Ra
đảo là một bài thơ của biển cả quật cường, là khúc tráng ca sảng khoái của những
người anh h ng nơi đầu sóng ngọn gió của miền Bắc chống M và thắng M " [95].
90
Ra đảo của Nguy n Khải là một tác phẩm có yếu tố phóng sự đã đề cập đến một
cuộc chuẩn bị chiến đấu của chiến sĩ, dân quân và đồng bào Vĩnh Linh. Phẩm chất
anh, hùng khí phách hiên ngang, tháo vát, thông minh và tinh thần đồng đội của
thủy thủ Vĩnh Linh được Nguy n Khải khắc họa một cách rõ nét như Hà, M ,
Phan…Những con người của vùng đất anh hùng vừa tổ chức cuộc sống dưới địa đạo
vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa tiếp tế cho chiến sĩ ngoài Cồn Cỏ, với những thuỷ
thủ giàu kinh nghiệm với những con thuyền: " Gió to có thể bẻ gãy cột, đạn súng
trường có thể xuyên thủng ván, chạy nhờ sức gió, nhờ chèo tay" , " Một v ng biển,
một dải đất, một hòn đảo ngày đêm bị phơi trần dưới tầm cánh của máy bay trinh
sát, bị phơi trần trong tầm bắn của các cỡ đạn pháo, bị xới đảo bởi những loạt bom
tọa độ và bom bầy vẫn chứa đựng một sự bí mật to lớn. Một điều không thể tính
toán được, không thể ăn cắp được bởi nó n m ngay bên trong mỗi thuỷ thủ đêm đêm
kéo buồm, chèo thuyền ra khơi" [183, tr.102].
Qua những tác phẩm viết về chiến tranh cách mạng các tác giả đã thể hiện một
cách sinh động và chân thực nhưng vẫn giàu chất thơ, màu sắc lãng mạn của một
thiên anh hùng ca cách mạng. Những tác phẩm này trong kháng chiến chống đế
quốc Mỹ cứu nước, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ca ngợi những con
người có lý tưởng cách mạng. Nhưng trong đó, tác giả cũng thẳng thắn nêu bật nên
vấn đề trong hoàn cảnh cuộc chiến đó là mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh,
ý chí quyết tâm của con người vượt qua mọi hoàn cảnh. Những chiến sĩ anh hùng
trong những năm tháng chống đế quốc Mỹ khốc liệt luôn luôn đối mặt với mọi hoàn
cảnh đầy cam go thử thách và quyết liệt không tránh khỏi có những lúc suy nghĩ dằn
vặt và nao núng tinh thần. Hoàn cảnh ấy, là môi trường nuôi dưỡng lý tưởng, rèn
luyện lòng kiên định, trung thành, nghị lực của người chiến sĩ. Bản lĩnh của người
chiến sĩ càng được tôi luyện khi ngày đêm đối diện với kẻ thù…
3.3.3. Phát hiện mặt trái ở thành thị
Tác phẩm Vào đời của Hà Minh Tuân cung cấp cho người đọc một thực trạng ở
thành thị nhưng cũng có rất nhiều vấn đề cần phải bàn bạc và suy ngẫm. Phát hiện
mặt trái của xã hội thành thị là một việc làm hết sức mới trong thời điểm này. Trước
91
kia chúng ta đã có Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng là những nhà tiểu thuyết phóng
sự rất mạnh tay khi phanh phui những mặt trái của xã hội đô thị đương thời trên
trang văn của mình. Hôm nay vẫn viết về đô thị nhưng Vào đời của Hà Minh Tuân
phản ánh một cách chân thực về số phận của người phụ nữ khi bắt đầu vào đời đã
gặp cảnh éo le và muôn vàn khó khăn trắc trở trên đường đời nhưng cô vẫn vượt
qua. Nhân vật chính trong Vào đời của Hà Minh Tuân là một cô gái Hà Nội tên là
Sen tuổi độ đôi mươi, xinh đ p hiền dịu. Gia đình cô rất khó khăn, Sen phải bỏ học
để giúp bố m nuôi hai em nhỏ…Vào đời của Hà Minh Tuân là câu chuyện của một
cô gái cuộc đời bắt đầu gặp sự cố vì bị bố m bắt lấy một bác sĩ trẻ mới chết vợ.
Không đồng ý bởi sự sắp đặt của cha m Sen lén ghi tên đi thanh niên xung phong ở
mỏ thiếc Tĩnh Túc Cao Bằng nhưng bị phát hiện và cấm không cho ra khỏi nhà. Nếu
như sự việc chỉ dừng ở đấy thì không có gì phải bàn nhưng vấn đề đặt ra trong tác
phẩm đó là: Sen không cam chịu bèn tìm cách thoát khỏi gia đình xin vào làm việc
ở một công trường xây dựng ngoại thành Hà Nội. Hà Minh Tuân đã để cho một cô
gái Hà Nội không quen với nắng gió làm việc trong một môi trường lao động không
phù hợp. Thời gian đầu Sen không chịu nổi, tưởng như không thể vượt qua, có
những lúc cô đã định bỏ nghề về phố tìm một việc nh nhàng hơn. Nhưng thời gian
cũng dần trôi, được sống làm việc trong môi trường tập thể, bên cạnh những công
nhân tận tuỵ, gương mẫu như Trần Lưu - Bí thư Đoàn thanh niên, Sen đã cố gắng
làm việc, rèn luyện, hoà mình với tập thể để trở thành người công nhân thật sự.
Cuộc đời của Sen tưởng như cứ thế trôi đi một cách bình yên nhưng sự thật phũ
phàng đã ập đến với cô. Hà Minh Tuân đã đẩy kịch tính lên cao khi dồn nhân vật
vào những tình huống bất ngờ và trớ trêu, cay đắng, tủi nhục…Trong một lần tan
lớp dạy bổ túc đêm, trên đường về nhà Sen đã bị Mai và Song là hai kẻ cùng nhà
máy, háo sắc và vốn rất mê vẻ đ p của cô hãm hiếp. Vì đêm tối lại bị bịt mắt nên cô
không nhận ra kẻ hại mình. Sen thật đau khổ, ê chề, căm giận nhưng không tìm ra
kẻ đã hại mình là ai và cô đành im lặng ngậm đắng nuốt cay. Một thời gian sau, Sen
được cử đi học lớp công nhân cơ khí, cô làm quen với Hiếu và coi như người anh
khi đã chia sẻ những tâm tư thầm kín nhất của mình. Thật trớ trêu khi Mai cùng học
92
một lớp với Sen, hắn luôn tìm cách đeo bám tỏ tình, khi không được thì quay sang
đe dọa nói bóng nói gió nên Sen đã lờ mờ nhận ra kẻ đã gây tai họa cho mình. Mặc
dù yêu Hiếu nhưng Sen vẫn không nguôi nhớ tới Lưu. Hà Minh Tuân đã để cho Sen
nhận lời lấy Hiếu khi anh đã hiểu hết về cô và chấp nhận tất cả… Sự kiện Hiếu cưới
Sen để làm vợ vào thời điểm những năm sáu mươi của thế kỷ XX là việc làm vô
cùng mới, không d gì được xã hội chấp nhận. Nhưng bất chấp búa rìu dư luận đôi
bạn trẻ đã được nhà máy đứng ra tổ chức đám cưới theo đời sống mới. Vào đời của
Hà Minh Tuân đã mang đến cho người đọc một cảm giác bất an khi tác giả xây
dựng cuộc đời của một cô gái Hà Nội không hề bình yên. Cô bị chính kẻ đã cướp đi
sự trong trắng của mình giờ lại đang tâm tàn phá. Hiếu trở thành kẻ bất mãn, làm
liều, quay lưng lại với tập thể, bê tr với công việc, bỏ mặc vợ con…Trong hoàn
cảnh đầy trớ trêu và ngột ngạt của cuộc sống vợ chồng Sen ngậm ngùi, cay đắng tìm
cách vượt qua. Cô cố gắng làm việc tốt, thu xếp công việc gia đình chăm lo cho
chồng con một cách chu đáo. Sen được đi dự đại biểu thanh niên tích cực lao động
xã hội chủ nghĩa toàn quốc vì có thành tích trong lao động và cải tiến kỹ thuật. Đối
với Vào đời, Hà Minh Tuân đưa ra hàng loạt thử thách với cô gái trẻ. Cuộc đời
tưởng đã mỉm cười với cô gái thủ đô nhưng tai họa bỗng đâu ập đến với gia đình
Sen. Con trai bị bại liệt và chết, chồng bỏ đi và bị công an bắt cải tạo trên Tây Bắc
vì tòng phạm cùng với Mai và Song. Sen nén đau đớn và hờn căm những kẻ đã gây
ra bi kịch cho gia đình cô để vươn lên đứng vững trong cuộc đời. Trong Vào đời, Hà
Minh Tuân đã để Sen gặp rất nhiều éo le, trắc trở có lúc tưởng như không thể gỡ rối
và đứng bên bờ vực thẳm. Nhưng cô gái Hà Nội đã vượt qua bao khó khăn và thử
thách trong cuộc đời để vươn lên tự khẳng định mình. PGS.TS Bích Thu nhận xét : "
hi vừa ra mắt bạn đọc đã bị búa rìu dư luận phê phán vì các "tội": thiếu tính đảng,
bôi đen chế độ, bóp méo hình ảnh người lính cách mạng…Cái gọi là có" vấn đề "
trong tác phẩm Vào đời là do quan niệm về hiện thực và con người của một thời chi
phối. Thực chất âm hưởng chủ đạo của Vào đời là ca ngợi và khẳng định sự vươn
lên của con người trong mọi hoàn cảnh. Âm hưởng chủ đạo ấy gắn liền với thái độ
phê phán những khía cạnh tiêu cực của hiện thực xã hội. Đó chính là tiếng nói có
93
lương tâm và trách nhiệm của nhà văn trước cuộc đời." [145]. Vào đời của Hà Minh
Tuân đã cuốn hút người đọc ở chỗ tác giả đã tạo ra sức mạnh và bản lĩnh cho một cô
gái bước vào đời gặp bao điều bất hạnh. Nhưng cô vẫn can đảm gạt nước mắt làm
việc bởi cô luôn tâm niệm rằng mình chính là chỗ dựa duy nhất cho chồng và con
trong lúc khó khăn tuyệt vọng. Quan trọng hơn cả là cô đã xác định được chân giá
trị của cuộc sống, cuộc đời rất tươi đ p, tương lai và hạnh phúc đang chờ cô ở phía
trước. Và hơn nữa, xung quanh cô còn có biết bao người sẵn sàng chia sẻ và giúp đỡ
cô trong công việc và trên đường đời. Qua đó tác giả muốn gửi đến bạn đọc một
thông điệp con người không d gì bị gục ngã trước mọi khó khăn và thử thách nếu
họ có bản lĩnh vững vàng, bình tĩnh tháo gỡ và vượt qua khó khăn vươn lên làm chủ
chính mình.
Tóm lại: Giai đoạn 1945-1975 do những điều kiện lịch sử yêu cầu đối với nền
văn học mới nên nền văn học chủ yếu theo khuynh hướng sử thi. Văn học hướng
vào khẳng định, ngợi ca cuộc kháng chiến và xây dựng xã hội mới, phóng sự không
có điều kiện phát triển, thể ký nổi trội. Tuy nhiên, cùng với sự vận động của xã hội,
đời sống và văn học vẫn có những tiểu thuyết có yếu tố phóng sự phát hiện, nêu vấn
đề có tính cập nhật xã hội, đề xuất những định hướng giải quyết theo chiều hướng
cách mạng tiêu biểu như: Xung đột, Chủ tịch huyện, Đường trong mây, Chiến sĩ, Ra
đảo…của Nguy n Khải. Những tác phẩm này, đã nhạy bén trong việc phát hiện
những vấn đề nông thôn trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và cập nhật tinh
thần chiến đấu của quân và dân ta, kịp thời phát hiện vấn đề trong cuộc chiến đấu,
kế tục vào dòng chảy của thể tài tiểu thuyết phóng sự Việt nam thế kỷ XX.
94
CHƢƠNG 4
TIỂU THUYẾT PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN HẾT THẾ KỶ XX
4.1. Bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học giai đoạn từ sau 1975 đến hết thế
kỷ XX
4.1.1. Bối cảnh lịch sử - xã hội
Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ cứu nước của nhân dân ta thắng lợi, đất
nước được độc lập, thống nhất liền một dải đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng đằng sau
khúc khải hoàn chiến thắng là cuộc sống thời bình đầy cam go và thử thách. Chúng
ta phải xây dựng nền kinh tế kiệt quệ bị tàn phá nặng nề của 30 năm chiến tranh.
Đất nước không còn chiến tranh, song tiếng súng vẫn nổ ở biên giới phía Tây Nam,
phía Bắc. Chính sách bao vây, cấm vận nhằm cô lập nước ta với các nước trên thế
giới gây cho nhân dân ta khó khăn về nhiều mặt. Các thế lực thù địch vẫn điên
cuồng và ngấm ngầm phá hại đất nước trên nhiều phương diện. Trên thế giới, hệ
thống các nước xã hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng và tan rã. Đặc biệt Liên bang
Xô viết, trụ cột của hệ thống xã hội chủ nghĩa đã sụp đổ. Cho đến giữa những năm
80, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã
hội. Thành tựu đó, so với yêu cầu đặt ra còn thấp cần phải cố gắng rất nhiều. Tư duy
bao cấp về kinh tế không còn phù hợp với thời bình. Nó trở thành vật cản trên con
đường phát triển của nền kinh tế sau hoà bình. Trên đất nước ta, lối tư duy cũ, tư
tưởng chủ quan, duy ý chí là những nguyên nhân dẫn đến sự khủng hoảng kinh tế -
xã hội ngày càng nặng nề, trầm trọng. Năm 1986, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đói
nghèo và lạc hậu. Đất nước ta, dần thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng trước đây. Bộ mặt đất nước dần đổi thay và đang chuyển sang một
thời kỳ mới. Đất nước thời mở cửa, Việt Nam làm bạn với tất cả các nước trên thế
giới trên tinh thần hợp tác đôi bên cùng có lợi và không xâm hại đến chủ quyền của
nhau. Từ nền kinh tế bao cấp, chuyển sang nền kinh tế đa thành phần, là thời cơ tốt
song cũng đầy thách thức. Nền kinh tế thời mở cửa đã đạt được thành tựu nhất định
song cũng có những vấn đề cần phải khắc phục. Kinh tế thị trường đã chi phối rất
95
lớn đến nền kinh tế đất nước, nhiều ngành phát triển nhưng cũng không ít lĩnh vực
không tồn tại được, bị phá sản…Từ mặt trái của cơ chế thị trường và xu hướng đổi
mới dẫn đến xã hội có một số công dân, đặc biệt là lớp trẻ có tâm lý thực dụng, sính
ngoại. Những công dân thời mở cửa này, có lối sống hưởng thụ coi trọng giá trị vật
chất, xem nh giá trị tinh thần. Bộ máy quản lý còn nhiều bất cập, cồng kềnh, trì trệ,
chậm được cải cách, tệ nạn tham nhũng xuất hiện. Đảng, Chính phủ, Nhà nước đang
tìm ra biện pháp ngăn chặn, xử lý một cách tích cực. Nông thôn, trong chiến tranh là
hậu phương lớn, vững chắc, giờ đây trước cơn lốc của cơ chế thị trường cũng có
nhiều vấn đề phải nhận thức lại. Một số không nhỏ cán bộ ở nông thôn biến chất lợi
dụng chức vụ và quyền hạn của mình để nhũng nhi u, hạch sách, gây phiền hà cho
nhân dân. Tất cả những yếu tố trên, tạo cho đất nước ta những cơ hội nhưng cũng
đầy thách thức trên con đường hội nhập, phát triển để đi tới mục tiêu: "công b ng,
dân chủ, văn minh" như đường lối mà Đảng đã chỉ ra.
4.1.2. Bối cảnh văn hoá
Bối cảnh lịch sử, xã hội, đã tác động rất lớn đến tình hình văn hoá của đất nước
ta thời điểm này. Nền văn hoá đã thay đổi, văn hoá truyền thống vốn được lưu giữ
từ bao đời nay, có nguy cơ bị đảo lộn, xói mòn. Đường lối mở cửa của Nhà nước đã
ảnh hưởng đến lĩnh vực văn hoá. Sự giao lưu văn hoá mở rộng trong thời kỳ toàn
cầu hoá và phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Văn hoá nhiều nước trên
thế giới có điều kiện để thâm nhập vào nước ta, từ điện ảnh, truyền hình đến âm
nhạc, văn học và các loại hình nghệ thuật khác, tạo điều kiện giao lưu, tiếp nhận
những trào lưu và thành tựu văn hoá của thế giới một cách nhanh chóng. Nhưng mặt
khác cũng tạo ra sự phức tạp và nhiều khó khăn trong việc định hướng tiếp nhận các
giá trị văn hoá tiên tiến, tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực, giữ gìn bản sắc văn
hoá dân tộc. Đảng ta đã đề ra đường lối về văn hoá, văn nghệ là: " Xây dựng nền văn
hoá, văn nghệ tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc"[15]. Văn hoá thời hội nhập đa sắc
màu đã ảnh hưởng đến tư duy nhận thức của con người Việt Nam. Văn hoá đã dần
thâm nhập vào các lĩnh vực khác của con người. Người nông dân không còn là nông
dân thuần tuý (làm nông nghiệp và sống ở nông thôn) như ở giai đoạn trước nên họ
96
đã có cái nhìn về văn hóa khác trước. Công nhân, cán bộ công chức, trí thức…của
thời đổi mới cũng có sự thay đổi nhận thức về không gian văn hoá. Thực tế cuộc
sống, xã hội đã thay đổi dẫn đến sự thay đổi tư duy văn hoá, bởi văn hoá, văn nghệ
phản ánh bộ mặt của xã hội. Khi nhu cầu nhận thức và thưởng thức văn hoá, nghệ
thuật đã thay đổi, buộc người viết cũng phải thay đổi theo.
4.1.3. Bối cảnh văn học
Khi chiến tranh kết thúc, lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới, độc lập, tự
do. Đất nước chuyển sang giai đoạn với hiện thực đầy những biến đổi bất ngờ. Mười
năm đầu sau khi chiến tranh kết thúc, đề tài về chiến tranh vẫn được các nhà văn
quan tâm như: Sao đổi ngôi - Chu Văn, Đất trắng - Nguy n Trọng Oánh, Năm 1975
họ đã sống như thế - Nguy n Trí Huân, Trong cơn gió lốc - Khuất Quang Thuỵ,
Nắng đồng b ng - Chu Lai…Các tác phẩm này vẫn tiếp tục theo cảm hứng sử thi,
nhưng đã chú ý đến mô tả sự khốc liệt của chiến tranh. Vào những năm tám mươi,
nhất là từ khi có công cuộc đổi mới đất nước, nhu cầu thẩm mỹ dần thay đổi, đặt ra
nhiều thách thức đòi hỏi văn học phải tìm tòi, đổi mới để bắt nhịp cuộc sống.
Khuynh hướng sử thi mờ nhạt dần. Các tác giả đi vào“nhận thức lại” đáp ứng nhu
cầu nhìn thẳng vào sự thật và nhận diện con người sau chiến tranh. Nhà văn đã
mạnh dạn nhìn lại hiện thực vừa qua, phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, lên
án những lực lượng, tư tưởng và thói quen đã lạc hậu, lỗi thời trở thành vật cản trên
bước đường phát triển của xã hội. Khuynh hướng thế sự đời tư đã được quan tâm.
Một số nhà văn đã nhạy bén với thời cuộc, thay đổi cách viết, hướng ngòi bút của
mình vào cuộc sống đương thời với những tồn tại của xã hội và chiêm nghiệm về
đời sống nhân sinh như: Mưa m a hạ, M a lá rụng trong vườn - Ma Văn Kháng,
Bên kia bờ ảo vọng - Dương Thu Hương, Những khoảng cách còn lại, Đứng trước
biển, C lao Tràm - Nguy n Mạnh Tuấn, Những ngày thường đã cháy lên - Xuân
Cang, Giấy trắng - Triệu Xuân, Điều tra về một cái chết, Cha và con và… Gặp gỡ
cuối năm, Thời gian của người - Nguy n Khải, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc
hành, Bến quê - Nguy n Minh Châu. Những tác phẩm đánh dấu cho một cuộc
chuyển động rầm rộ sau này về đổi mới cách làm ăn đó là: Nhìn dưới mặt trời -
97
Nguy n Kiên, Bí thư cấp huyện - Đào Vũ, Đứng trước biển, Cù lao Tràm - Nguy n
Mạnh Tuấn…Không khí đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI, đã tiếp thêm sức
mạnh cho nhu cầu nói thật, nói thẳng của nhà văn và đã tiếp sức cho thể tài phóng
sự, tiểu thuyết phóng sự phát triển. Hàng loạt các bài phóng sự, viết về thực trạng
nhức nhối của xã hội, tạo ra sự quan tâm sôi nổi trong công chúng: Suy nghĩ trên
đường làng của Hồ Trung Tú, Tiếng kêu cứu của một v ng văn hoá của Võ Văn
Trực, Người đàn bà quỳ của Nguy n Văn Ba, i cam sao mà đắng của Trần Thanh
Hà, Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc, Vua lốp của Trần Huy Quang. Tiểu
thuyết xuất hiện trên văn đàn thể hiện tinh thần nhập cuộc của các nhà văn cùng các
vấn đề xã hội như: Bến không chồng của Dương Hướng, Chuyện làng ngày ấy của
Võ Văn Trực, Thuỷ hoả đạo tặc của Hoàng Minh Tường. Từ nền tảng phát triển
mạnh mẽ của văn xuôi đã xuất hiện nhiều tiểu thuyết phóng sự có tính thời sự nóng
bỏng và có cảm hứng phản biện xã hội sâu sắc. Sự vận động tích cực của tư duy văn
học, đã giúp tiểu thuyết phóng sự đạt đến độ kết lắng mới.
4.2. Diện mạo của tiểu thuyết phóng sự từ sau 1975 đến hết thế kỷ XX
Tiểu thuyết phóng sự từ 1975 - 2000 có diện mạo phong phú. Ngay từ sau 1975
đã xuất hiện tác phẩm bám sát đời sống thực ti n nhân sinh, ít nhiều có tính phóng
sự như: Đất trắng của Nguy n Trọng Oánh. Đầu những năm tám mươi tiểu thuyết
đã tập trung phát hiện vấn đề, phản ánh vấn đề nóng bỏng của xã hội chuẩn bị cho
tinh thần đổi mới, tiền đổi mới như: Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển,
Cù lao Tràm - Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ - Ma Văn Kháng, Giấy trắng -
Triệu Xuân, Thời xa vắng - Lê Lưụ. Trong các tiểu thuyết này ít nhiều có yếu tố
phóng sự nhưng có một số tiểu thuyết mang đậm chất phóng sự như: Những khoảng
cách còn lại, Đứng trước biển, C lao Tràm - Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ -
Ma Văn Kháng. Năm 1986 khi có chủ trương đổi mới của đảng, nhu cầu nhận thức
lại, tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, quan tâm đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
cảm hứng phê phán, tinh thần dân chủ được kích thích, cổ vũ và được tiếp thêm sức
mạnh dẫn đến một loạt tiểu thuyết có tính phóng sự ra đời như: Điều tra về một cái
chết - Nguy n Khải, Những ngày thường đã cháy lên - Xuân Cang, Những mảnh đời
98
đen trắng - Nguy n Quang Lập, Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguy n Khắc
Trường, Bến không chồng - Dương Hướng, Thuỷ hoả đạo tặc - Hoàng Minh
Tường….Tiểu thuyết phóng sự được phản ánh ở góc độ tinh thần nhập cuộc, tham
gia trực tiếp vào các vấn đề thời sự nóng bỏng gay gắt của đời sống xã hội như:
Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển, C lao Tràm của Nguy n Mạnh
Tuấn. Tiểu thuyết phóng sự thể hiện tinh thần chống tiêu cực và đề xuất các giải
pháp xã hội như: Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng, Những ngày thường đã cháy lên
của Xuân Cang, Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải. Tiểu thuyết phóng sự
được đánh giá ở bình diện nhận thức lại hiện thực nông thôn như: Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường.
Cùng là tiểu thuyết phóng sự nhưng ta thấy được sự khác biệt giữa giai đoạn
1930 - 1945 và 1975 - 2000. Chẳng hạn, với tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, Ngô
Tất Tố tiểu thuyết phóng sự đã phê phán mạnh mẽ trên lập trường dân chủ, tiến bộ,
dân tộc (Vũ Trọng Phụng phê phán sự lai căng giữa Âu hoá, sự tha hoá biến chất
của con người, lên án tội ác của Nghị Hách, cảm thông với những con người bị đọa
đầy…). Nhưng tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn, phê phán đi liền với
khẳng định hướng tích cực cho một vấn đề (đổi mới cách làm ăn, tìm ra một hướng
đi mới cho nền kinh tế, mang lại cơm no áo ấm, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho con người. Điều này, thể hiện rất rõ trong một số nhân vật: Ba Đức - Đứng
trước biển, Năm Trà - Cù lao Tràm). Những khoảng cách còn lại, Đứng trước biển,
Cù lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn đã thể hiện tính thời sự nóng hổi của phóng sự
kết hợp với nghệ thuật hư cấu của tiểu thuyết để viết về vấn đề xã hội đang di n ra
hàng ngày ở miền Nam. Tác phẩm đã cho người đọc hiểu được vấn đề cải tạo tư
sản, đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh hay nông thôn miền Nam. Những mâu
thuẫn, xung đột của một gia đình với môi trường xã hội, giải quyết vấn đề bức xúc
trong quản lý kinh tế và xã hội, các lề thói, các quan niệm đang phủ định lẫn nhau,
cái mới, cơ chế, cách tổ chức quản lý xí nghiệp, cách nhìn con người qua chủ nghĩa
thành phần, phá hoại ngấm ngầm của kẻ địch...Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng đã
phản biện sâu sắc vấn đề đạo đức xã hội, đặc biệt là sự xuống cấp về đạo đức của
99
người phụ nữ Việt Nam. Nét đ p truyền thống của người phụ nữ Việt Nam đã bị xói
mòn và nhạt phai bởi kinh tế thị trường. Ma Văn Kháng lên tiếng phanh phui vấn đề
tiêu cực trong xã hội, những vấn đề khuất tất trong sử dụng cán bộ, người trí thức bị
vùi dập…tác giả chỉ ra vấn đề tiêu cực đã ngăn cản cuộc sống chân chính, cản bước
đi lên của xã hội. Chống tiêu cực không chỉ là nhiệm vụ và trách nhiệm của mỗi
người mà phải đòi hỏi cả xã hội phải vào cuộc...Nguy n Khải đề xuất các giải pháp
xã hội qua việc phơi bày, phanh phui một vấn đề có tính thời sự ở một vùng nông
thôn Việt Nam sau hoà bình. Tác giả đã mạnh dạn đề xuất một giải pháp của vùng
đạo Cao đài: cần xoá bỏ mọi ảo tưởng niềm tin mù quáng vào thứ tôn giáo phản tiến
bộ, hãy nhìn thẳng vào sự thật để suy ngẫm và hành động đúng. Nguy n Khải muốn
hướng tới một tôn giáo chân chính phục vụ cuộc sống con người và vì con người.
Nguy n Khải mong muốn sẽ có được sự hoà hợp giữa các tôn giáo Việt Nam và
Nhà nước cách mạng để xây dựng đất nước ngày một văn minh, tiến bộ và giàu đ p
hơn. Những ngày thường đã cháy lên của Xuân Cang đề cập đến một đề tài mới
trong tiểu thuyết phóng sự: vai trò của báo chí và người làm báo trong xã hội. Xuân
Cang đã cho chúng ta nhận thấy sự đổi mới về nội dung hiện thực là một sự đột phá,
táo bạo. Nhà văn đã có niềm tin vững vàng vào sức mạnh của văn chương. Chất
phóng sự, thể hiện rõ ràng trong tiểu thuyết đó là tính thời sự nóng hổi, ý thức chiến
đấu kiên quyết, bản lĩnh của một nhà văn công dân muốn nhập cuộc kịp thời với
những chuyển động mạnh mẽ của cuộc sống, rút ngắn khoảng cách giữa văn chương
và cuộc đời. Xuân Cang đã không ngần ngại chống tiêu cực và cũng mạnh dạn đi
vào lý giải những vấn đề thời sự của xã hội để tìm ra một giải pháp tối ưu hơn.
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường có tính thời sự nóng hổi
khi phanh phui sự thật về xung đột phe phái, những cuộc tranh giành quyền lực
trong xóm làng của xã hội nông thôn Việt Nam. Ngoài ra một số tiểu thuyết: Đất
mặn, Bão biển, Giáp mặt của Chu Văn, Cửa gió, Người không mang họ của Xuân
Đức, Chân dung một quản đốc của Nguy n Hiểu Trường, Ác mộng của Ngô Ngọc
Bội cũng có chất phóng sự nhưng chúng tôi không nghiên cứu sâu.
100
4.3. Những thành tựu của tiểu thuyết phóng sự từ 1975 đến hết thế kỷ XX
4.3.1. Thành tựu về nội dung
4.3.1.1. Tinh thần nhập cuộc, tham gia trực tiếp vào các vấn đề thời sự nóng bỏng
gay gắt của đời sống xã hội
Tiểu thuyết phóng sự Đứng trước biển, C lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn
đã thể hiện tính thời sự nóng hổi của phóng sự kết hợp với nghệ thuật hư cấu của
tiểu thuyết để viết về vấn đề xã hội đang di n ra hàng ngày ở miền Nam. Từ miền
Bắc vào Sài Gòn, Nguy n Mạnh Tuấn được tiếp xúc với thành phố đã từng chịu ảnh
hưởng của xã hội cũ, một thành phố hết sức năng động nhưng vô cùng phức tạp tiêu
biểu cho hiện thực miền Nam sau giải phóng. Tác giả đã từng tâm sự: “Tôi bất ngờ
và choáng váng trước muôn vàn hiện tượng và con người đang diễn ra trước mắt
mình” [155]. Nhưng với bản lĩnh của người cầm bút, Nguy n Mạnh Tuấn quyết tâm
lao vào thực tế để tự tìm hiểu và khám phá nó. Nguy n Mạnh Tuấn (mong ước tác
phẩm của mình có ích và góp phần đáp ứng được các vấn đề đang đặt ra và có tính
hiện thực): “mong ước và phấn đấu sao cho tác phẩm của mình có ích, thiết thực
góp phần giải đáp được những câu hỏi đang day dứt mọi người” [155]. Tiểu thuyết
phóng sự của ông dù viết về đề tài cải tạo tư sản, đổi mới quản lý kinh tế quốc
doanh hay nông thôn miền Nam đều được đông đảo công chúng quan tâm. Tính thời
sự nóng bỏng của đời sống, thể hiện đậm đặc trong tiểu thuyết phóng sự Những
khoảng cách còn lại của Nguy n Mạnh Tuấn. Tác giả đã đề cập đến mâu thuẫn xung
đột của một gia đình với môi trường xã hội. Một chế độ mới, tư tưởng, lối sống của
những người cách mạng và tình thương đã góp phần xóa bỏ dần: “những khoảng
cách còn lại” trong mỗi gia đình của miền Nam sau 1975. Xã hội miền Nam sau hoà
bình, vẫn còn phức tạp và gặp nhiều khó khăn nhưng tác giả cũng đã dự đoán ra khả
năng phần thắng sẽ thuộc về cách mạng và chủ nghĩa xã hội: “Xã hội này d có khó
khăn đến thế nào đi nữa nó vẫn cứ tiếp tục tiến lên như một logic lịch sử” [232].
Nguy n Mạnh Tuấn đã nhận thấy khả năng này bởi vì tác giả đã nhận diện được
hiện thực và bản chất vấn đề. Nhà văn đã lường hết được sự gay go quyết liệt của
các mâu thuẫn trong xã hội nhưng mâu thuẫn trong gia đình rồi nhất định sẽ tìm ra
101
lối thoát. Bên cạnh vấn đề nêu trên, Những khoảng cách còn lại của Nguy n Mạnh
Tuấn còn đưa ra và lý giải hàng loạt vấn đề bức xúc như: người cách mạng phải đấu
tranh với chính mình như thế nào để chiến thắng những cám dỗ của đời sống tư sản,
vấn đề vận dụng quan điểm, lập trường cách mạng vào các quan hệ đời
thường…Cuộc đấu tranh này, cũng rất gay go, phức tạp đang di n ra như những đợt
sóng ngầm, ở miền Nam, Nguy n Khải cho rằng: “Trong chiến tranh chỉ có một con
đường để thoát ra là phải đánh thắng địch còn trong cuộc sống hàng ngày thì hình
như có nhiều lối thoát đã tạo nên một cuộc sống dư dật thoải mái. Chiến tranh ồn
ào náo động mà lại có cái yên tĩnh, cái giản dị của nó. Hòa bình yên tĩnh thanh bình
mà chứa chấp những sóng ngầm những gió xoáy bên trong. Nhiều người không chết
trong lao t , trong chiến tranh mà lại chết trong ao t trưởng giả khi cả nước đã
giành được tự do độc lập”[62]. Những khoảng cách còn lại của Nguy n Mạnh Tuấn
đã đề cập kịp thời những vấn đề thời sự còn nóng hổi của xã hội và đạt được thành
tựu nổi bật trong tiểu thuyết đầu tay của nhà văn.
Đứng trước biển của Nguy n Mạnh Tuấn đưa người đọc vào một hiện thực ngổn
ngang bề bộn các vấn đề: những xung đột gay gắt, các lề thói, các quan niệm đang
phủ định lẫn nhau, cái mới, cơ chế, cách tổ chức quản lý xí nghiệp, cách nhìn con
người qua chủ nghĩa thành phần, những kẽ hở có nguy cơ đưa đến thất bại do sự phá
hoại ngấm ngầm của kẻ địch…Đứng trước biển đề cập đến hàng loạt các vấn đề: sử
dụng cán bộ, áp dụng kỹ thuật, giá cả, tình yêu và hôn nhân…Nếu không phải là cây
bút già dặn kinh nghiệm, chắc tác phẩm sẽ rơi vào tình trạng ôm đồm. Ngược lại,
Nguy n Mạnh Tuấn đã xử lý các chất liệu hiện thực rất thông minh. Các mối quan
hệ hiện ra bất ngờ song vẫn tự nhiên. Từ đó, bạn đọc nhận thức được: cuộc sống
hôm nay vốn rất phồn tạp, có biết bao vấn đề đặt ra cần chúng ta phải xem xét, bàn
bạc và lý giải. Tác giả đã không ngần ngại, nêu ra nhiều vấn đề kể trên nhưng anh
cũng không sa vào những chi tiết gay cấn hay vụn vặt. Nguy n Mạnh Tuấn đã chọn
lọc và tập trung vào những gì nóng bỏng, cấp thiết nhất của hiện thực, để phá bỏ
những gì ràng buộc, những cản trở trong cơ chế và xây dựng một cách làm ăn mới
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Trong khoảng mười năm sau 1975, độc giả
102
rất chú ý đến các tác phẩm viết về đề tài “chống tiêu cực”, những vấn đề bức xúc
của xã hội. Quan tâm đến hiện thực: “ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh sáng,
màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ”- Nguy n Khải [62],
ở thời điểm này, đang là niềm khát khao, chờ đợi của nhiều người và trở thành một
vấn đề cấp thiết đối với văn học. Tiểu thuyết Đứng trước biển không chỉ cho ta thấy
cái tiêu cực đang di n ra như thế nào mà còn tiếp cận vấn đề ở một chiều sâu mới.
Đó là nhận diện cái mới, đang âm thầm sinh thành rồi trở thành những nhân tố tích
cực, tiến bộ, thực sự cách mạng, đã đẩy lùi và chiến thắng những tiêu cực như thế
nào. Nguy n Mạnh Tuấn đã nhạy bén đề cập vấn đề cấp thiết đang làm nhiều người
quan tâm. Đó là tìm ra một phương thức làm ăn mới trong công nghiệp sau 1975.
Phương thức làm ăn năng động phù hợp với mong ước của số đông người lao động
chân chính là đâu? Không d phát hiện ra vấn đề mang ý nghĩa mấu chốt của hiện
thực ngổn ngang thời hậu chiến này. Cách đặt vấn đề của Nguy n Mạnh Tuấn như
vậy là rất táo bạo so với thời điểm ấy. Nguy n Mạnh Tuấn đã đưa ra một vấn đề khi
quan sát và miêu tả quá trình xí nghiệp đánh cá Sao Mai, từ chỗ chỉ có thua lỗ, trì trệ
đã vươn lên trở thành một đơn vị làm ăn tiên tiến. Vấn đề đặt ra: để tìm được một
hướng làm ăn mới phải nhận diện được giá trị đích thực của mỗi người, trước hết là
ở người lãnh đạo. Người cán bộ tiên tiến, phải là người có khả năng đạt ngang tầm
hoặc cao hơn nhiệm vụ mới. Người cán bộ ấy, không được thỏa mãn với quá khứ
vinh quang, không đóng khung nhận thức khi đã biết là lạc hậu. Người cán bộ mới
phải luôn nhìn về phía trước với những đổi thay hàng ngày, phải nhìn nhận, đánh
giá con người ở trạng thái động. Người cán bộ, còn phải là người tâm huyết với tập
thể, phải đau với nỗi đau của tập thể vui với niềm vui của họ: “Phải có nỗi bất bình
khẩn thiết, phải có nỗi lo toan cụ thể, thật sự của người trong cuộc đang đau nỗi
đau của tập thể b ng nỗi đau của chính mình”[233]. Ba Đức (giám đốc mới của xí
nghiệp đánh cá Sao Mai) là một người như thế, ông rất đau xót trước thực trạng bê
bối của xí nghiệp. Từ nỗi đau ấy, Ba Đức quyết tâm thay đổi toàn bộ xí nghiệp, từ
cơ cấu tổ chức đến phương pháp lãnh đạo quản lý và nề nếp làm việc. Ba Đức có
lòng nhiệt tình cháy bỏng cùng với tư duy sáng tạo, năng động đã tiếp cho ông sức
103
mạnh để có niềm tin mạnh mẽ:“Xí nghiệp không có lãi, không đủ sản lượng cá theo
kế hoạch nhà nước giao, không đảm bảo đời sống cho cán bộ công nhân viên,
chúng ta sẽ chẳng còn đủ tư cách gì để nói văn hoa về sự tươi đẹp của lý tưởng và
chủ nghĩa xã hội” [233]. Ba Đức đi đến một quyết định táo bạo là phải thay đổi:
"Phải có kết quả tốt đẹp của thực tế. Muốn đạt được kết quả này, chúng ta phải chịu
đựng một sự đổi thay. Nhất định phải như vậy” [233].
Nguy n Mạnh Tuấn cho người đọc thấy được, người lãnh đạo có nhận thức tích
cực và năng động sẽ là nhân tố quyết định đối với sự phát triển của xí nghiệp. Xí
nghiệp Sao Mai dưới sự lãnh đạo của Ba Đức đã dần dần trở thành một mô hình
mẫu về cơ cấu quản lý kinh tế, lấy hiệu quả kinh tế và kinh doanh lương thiện làm
thước đo giá trị. Nếu như thời điểm đổi mới, khi có quyết định của Đảng về phá bỏ
cơ chế quan liêu bao cấp để chuyển sang nền kinh tế thị trường thì người như Ba
Đức là bình thường. Nhưng những năm tám mươi của thế kỷ XX, việc làm của Ba
Đức là một sự đề xuất táo bạo, một quan niệm dũng cảm đầy tinh thần trách nhiệm
trước sự phát triển của nền kinh tế và xã hội. Đứng trước biển của Nguy n Mạnh
Tuấn là những “kiến nghị” về cách quản lý kinh tế trên cơ sở dám hoài nghi, nhận
thức lại tính khoa học của cơ chế hiện hành. Tuy nhiên, trên con đường cải cách xí
nghiệp, để đạt được những thành quả như vậy, Ba Đức và những người tiên tiến như
ông đã phải trải qua biết bao cam go thử thách, những rào cản rất khó vượt qua, với
bao ràng buộc của một cơ chế…Bên cạnh đó, có vô số kẻ quan liêu, cơ hội đang
ngày đêm rình rập, tìm cách ngăn cản sự đi lên của cuộc sống mới. Trong cuộc đấu
tranh ấy, những con người tiên tiến phải đối mặt với hàng loạt khó khăn và phải đấu
tranh với cả chính mình để đạt được mong muốn. Đứng trước biển đưa độc giả tới
một hiện thực nóng hổi, ngổn ngang bề bộn có nhiều vấn đề cần phải nhận thức lại
và quan tâm. Đó là xung đột di n ra gay gắt, các lề thói, quan niệm đang phủ định
lẫn nhau. Vấn đề đổi mới đang là tâm điểm dẫn tới sự va chạm mạnh nhất với cơ
chế. Nguy n Mạnh Tuấn, phơi bày một thực trạng là: cơ chế làm ăn cũ của xí
nghiệp bất cập ở cách tổ chức quản lý, cách nhìn con người qua chủ nghĩa thành
phần, những kẽ hở có nguy cơ đưa đến thất bại do sự phá hoại ngấm ngầm của kẻ
104
địch…Nguy n Mạnh Tuấn đã chỉ ra, kẻ địch chưa đáng sợ bằng sự lạc hậu trì trệ
của một số cán bộ chủ chốt. Đứng trước biển của Nguy n Mạnh Tuấn đặt ra vấn đề,
phương thức làm ăn mới, năng động nhưng có phù hợp với mong ước của số đông
người lao động chân chính không. Tác giả cũng chỉ ra khó khăn: vấn đề mang ý
nghĩa mấu chốt của hiện thực ngổn ngang thời hậu chiến này không d chỉ ra bởi nó
được nguỵ biện dưới nhiều hình thức. Nhà văn đã nhạy bén và tỉnh táo phát hiện ra
cái lỗi thời của cơ chế quản lý kinh tế qua cách làm ăn của một xí nghiệp và mạnh
dạn chỉ ra nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Nguy n Mạnh Tuấn đã bình tĩnh,
phân tích, lý giải và phơi bày các nguyên nhân kìm hãm, làm suy giảm sức sản xuất
dẫn xí nghiệp đến chỗ trì trệ. Một là: cơ chế lãnh đạo quản lý kinh tế đã lỗi thời, lạc
hậu. Hai là: Năng lực của lực lượng cán bộ rất yếu kém. Ba là: những người cán bộ,
tuy có đầy đủ nhiệt tình và phẩm chất cách mạng nhưng lại thiếu linh hoạt và năng
động, người cán bộ thừa lập trường, có nhiệt huyết cách mạng nhưng lại thiếu tài
năng, người cán bộ còn có định kiến, h p hòi khi nhìn nhận đánh giá về con
người…Tác giả cũng thẳng thắn phê phán loại người cơ hội hay lạc hậu như Chín
Tâm, Năm Miên. Phê phán sự nhu nhược đã để cho tình cảm lấn át lý trí như giám
đốc cũ (Lê Tám), hay người chỉ biết đến chuyên môn thuần túy như kỹ sư Hai Tiến.
Đồng thời Nguy n Mạnh Tuấn không hề né tránh, e dè, nể nang khi dám thẳng thắn
phê phán những nhân vật có chức vụ cao như Giám đốc Sở Thủy sản Bảy Thu, Thứ
trưởng Bộ Hải sản Vinh một người: "dám dũng cảm nhận chức thứ trưởng nhưng
lại không đủ dũng cảm đấu tranh với những sai trái của một người dưới quyền"
[233]. Đề tài về lĩnh vực kinh tế là một đề tài khó viết, khi triển khai, tác giả rất d
rơi vào sự áp đặt chủ quan và khiên cưỡng. Đã có tác giả viết về đề tài này, ít nhiều
tạo được dư luận tốt nhưng cũng chưa được công chúng đón nhận. Nhưng Đứng
trước biển đã vượt qua các trở ngại ấy và được công chúng đón nhận nồng nhiệt.
Nhà văn thường không phải là nhà kinh tế, thậm chí rất lơ mơ về quy luật kinh tế.
Nhưng với Đứng trước biển, Nguy n Mạnh Tuấn đã làm tốt vai trò tham mưu cho
Đảng cho Nhà nước về vấn đề đổi mới quản lý kinh tế. Đứng trước biển đã có đóng
góp rất quan trọng vào mảng văn học viết về đề tài kinh tế của văn học Việt Nam
105
thế kỷ XX. Ngòi bút sắc sảo của Nguy n Mạnh Tuấn đã dũng cảm đi vào tận ngõ
ngách của những xung đột, mâu thuẫn và ranh giới mong manh giữa cái đúng và cái
sai trong làm ăn kinh tế. Hiện thực cuộc sống phản ánh trong tác phẩm, đầy sóng
gió, dồn dập những sự kiện, nhưng chính vì vậy nó gần gũi hơn với bạn đọc. Bên
cạnh những người tiên tiến có đầu óc linh hoạt, sáng tạo là những kẻ lạc hậu, bảo
thủ. Đồng thời có những người suốt đời tận tụy trung thành với cách mạng lại có
những kẻ chỉ quen đi đường vòng và cưỡi lên lưng người khác, dẫm lên vai người
khác để mưu cầu lợi ích riêng tư. Cuộc đấu tranh giữa đúng và sai di n ra nhiều lúc
rất căng thẳng, bởi nó như một ma trận rất khó phân biệt giữa thật và giả, nhất là
chúng ta chưa quen với việc thừa nhận mình sai. Có vấn đề hôm nay đúng nhưng
ngày mai lại là lạc hậu, là sai…có vấn đề chỉ đúng về lý thuyết nhưng lại là không
phù hợp với điều kiện thực ti n…Cuộc sống hôm nay, nhiều cơ hội nhưng cũng đầy
thách thức. Nhà văn phải có cái nhìn sắc sảo, phải phân biệt được tiên tiến và lạc
hậu trong hiện thực đa dạng, phong phú. Nhà văn phải giúp độc giả phân biệt được
đâu là thật đâu là giả, cho dù có được ngụy trang dưới bất cứ hình thức nào. Điều
đáng quý ở Nguy n Mạnh Tuấn là trước một hiện thực mới mẻ, phức tạp, anh đã
không xử lý theo công thức quen thuộc là đổ lỗi cho thiên tai địch họa hay quy trách
nhiệm cho một cá nhân mà thẳng thắn nêu ra vấn đề xem lại phương thức làm ăn và
cách quản lý kinh tế. Cảm hứng chủ đạo của tác phẩm là tính thời sự nóng hổi, cảm
hứng phản biện xã hội và tinh thần nhập cuộc của nhà văn để khẳng định cái mới
bằng một thái độ rõ ràng và dứt khoát…Đứng trước biển của Nguy n Mạnh Tuấn
thể hiện những quan niệm về con người và cuộc đời. Tác giả đã đặt vào nhân vật,
mượn nhân vật phát ngôn cho chính mình. Nguy n Mạnh Tuấn đã tạo được rất
nhiều câu nói: "triết lí chính luận" của nhân vật. Chẳng hạn, Bí thư Thành uỷ kiến
nghị về yêu cầu cấp bách phải đổi mới cơ chế quản lí kinh tế từ Trung ương đến các
ngành, Ba Phi bày tỏ quan niệm về nhân sinh, về tình yêu lứa đôi…Đứng trước biển
của Nguy n Mạnh Tuấn đã đạt được nhiều thành công, tuy nhiên, tác phẩm nhiều
chỗ còn triết lí nặng nề, dài dòng, khiên cưỡng.
106
Phát huy thế mạnh của thể tài tiểu thuyết phóng sự, tập trung phản ánh những
vấn đề thời sự nóng bỏng của hiện thực cuộc sống, Nguy n Mạnh Tuấn tiếp tục gặt
hái thành công với tác phẩm Cù lao Tràm. Trong Những khoảng cách còn lại, tác
giả tập trung thể hiện các xung đột, mâu thuẫn nội bộ gia đình, tiêu biểu cho cuộc
đấu tranh giữa hai con đường: xã hội chủ nghĩa và phi xã hội chủ nghĩa. Với Đứng
trước biển, C lao Tràm, nhà văn lại chọn điểm nóng nhất, bức xúc nhất, vấn đề
đúng và sai trong lãnh đạo quản lý kinh tế công, nông nghiệp để khai thác. Qua hai
tác phẩm này, Nguy n Mạnh Tuấn đã trở thành nhà văn đi đầu trong việc phản ánh
kịp thời những vấn đề thời sự nóng bỏng và tinh thần nhập cuộc của nhà văn vào
những vấn đề của xã hội hôm nay. Cù lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn có tính thời
sự khi nêu ra một vấn đề rất nóng ở miền Nam sau giải phóng đó là, năng lực của
người cán bộ lãnh đạo và vấn đề cải tạo và xây dựng nông thôn mới. Cù lao Tràm
có văn phong không đặc sắc nhưng thành tựu do Cù lao Tràm mang lại không thể
phủ nhận. Nguy n Mạnh Tuấn đã đưa vấn đề có tính thời sự và bám sát mảng đề tài
mang ý nghĩa chính trị, xã hội rộng lớn bằng một sự chân thành và có trách nhiệm.
Tác giả hầu như đã hoá thân vào nhân vật chính, vai một cán bộ quản lý xông xáo,
lăn mình vào công việc. Từ chỗ đứng của người cán bộ trong cuộc, Nguy n Mạnh
Tuấn đề xuất các vấn đề quản lý kinh tế như: cải tạo và xây dựng kinh tế, sử dụng
lao động và phân phối sản phẩm, cơ chế chính sách phù hợp, đội ngũ cán bộ quản
lý... Nguy n Mạnh Tuấn đã nhất quán trong sáng tác với một chủ đề trung tâm, đó là
cuộc đấu tranh gay go quyết liệt giữa một bên là chủ nghĩa xã hội, những con người
tiên tiến nhạy bén, tích cực với một bên là những phần tử lạc hậu, biến chất, cơ hội
trong nội bộ cách mạng. Với tinh thần trách nhiệm của người cầm bút cùng ngọn lửa
nhiệt tình cách mạng, tác giả đã khẳng định được xu thế chiến thắng của chủ nghĩa
xã hội trong cuộc đấu tranh. Cù lao Tràm đã thu hút được sự chú ý của đông đảo
bạn đọc vì nhà văn đã đặt ra và lý giải được những vấn đề thời sự cấp thiết liên quan
đến hàng triệu người Việt Nam. Người đọc đã tìm thấy trong tác phẩm hiện thực
cuộc sống, những kinh nghiệm phong phú về các mối quan hệ xã hội, làng xóm, tìm
thấy những gợi ý hữu ích cho các câu hỏi đang day dứt lòng người. Cù lao Tràm đã
107
trực tiếp tấn công vào cái xấu, cái ác...chống tiêu cực, bi kịch cá nhân của con
người, mạnh dạn, tỉnh táo đi vào lý giải trực tiếp những vấn đề thời sự còn nóng
bỏng của đời sống xã hội. Để lý giải những vấn đề, Nguy n Mạnh Tuấn đã xây
dựng hoàn cảnh điển hình: xã Tân Phú (Cù lao Tràm) là một xã tiêu biểu cho nông
thôn Nam Bộ sau giải phóng. Mặc dù đất đai phì nhiêu nhưng người nông dân ở đây
nghèo vẫn nghèo, đời sống văn hóa thấp, các tệ nạn xã hội vẫn còn rơi rớt lại. Cán
bộ của xã Tân Phú trình độ văn hoá thấp, không điều hành được sản xuất tập thể đã
thế lại ấu trĩ, quan liêu và cơ hội, khiến đời sống của bà con nông dân vốn đã khổ lại
thêm khổ cực hơn. Bệnh thành tích còn khá nặng nề (cưỡng ép nông dân vào tập
đoàn chỉ cốt lấy thành tích báo cáo cấp trên). Tác giả đã đưa ra một vấn đề có tính
chất thời sự, phẩm chất, năng lực cần có của người cán bộ lãnh đạo và đường lối
chính sách hợp lý trong việc cải tạo và xây dựng nông thôn Nam Bộ. Để làm được
việc đó, tác phẩm đã đặt ra và lý giải hàng loạt vấn đề cấp bách: vấn đề kết hợp giữa
cải tạo và xây dựng, giữa kinh tế và văn hoá xã hội, giữa sử dụng lao động và phân
phối sản phẩm...Có thể thấy, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nông thôn Nam
Bộ cũng đầy khó khăn, gian khổ, lắm chông gai. Trong Cù lao Tràm, Nguy n Mạnh
Tuấn đã để chính nhân vật trực tiếp kể về cuộc đời mình và đời sống nhân dân trong
xã. Tâm sự của người trong cuộc thật là cảm động. Tất cả cứ hiện dần ra trước mắt
người đọc một bức tranh sinh động về đời sống và con người ở nông thôn Nam Bộ.
Tác giả đã dũng cảm đề xuất các vấn đề mang ý nghĩa xã hội cấp thiết. Đó là, tình
trạng suy thoái đạo đức, năng lực quản lý yếu kém của cán bộ. Cán bộ quan liêu,
cưỡng bức bà con vào tập đoàn, chạy theo mục tiêu kinh tế mà xem nh đời sống
văn hoá. Việc sử dụng sức trẻ ở nông thôn hoặc khai thác uy tín của cán bộ hưu trí.
Việc áp dụng kỹ thuật mới và đưa máy móc vào đồng ruộng đến việc thu mua nông
sản của nông dân…Ở mỗi vấn đề, Nguy n Mạnh Tuấn đã dùng cuộc đối thoại giữa
các nhân vật để phân tích khá sắc sảo. Chẳng hạn, việc Ba Năng Hiệu trưởng trường
cấp hai ở xã kiến nghị phương án tận dụng lực lượng giáo viên đóng góp vào sự
nghiệp xây dựng văn hoá nông thôn mới. Hay việc Mười Tân kiến nghị phương
pháp sử dụng cán bộ hưu trí như thế nào? Tuy nhiên, không phải vấn đề nào sự lý
108
giải của tác giả cũng triệt để và có sức thuyết phục. Hạn chế của Cù lao Tràm là tác
giả ôm đồm nhiều vấn đề trong tác phẩm mà không phải vấn đề nào cũng được triển
khai, giải quyết thấu đáo. Tác phẩm cũng có phần sa vào minh họa cho các quan
niệm ý kiến của tác giả. Nhưng cho dù không có tính thuyết phục thì ý kiến tác giả
đưa ra cũng tạo hứng thú kích thích đối thoại tích cực, lôi cuốn bạn đọc phải suy
nghĩ và trăn trở. Nhà văn đã có tinh thần nhập cuộc và hướng ngòi bút của mình
tham gia vào đời sống, cùng bàn bạc về vấn đề tổ chức sản xuất và quản lý kinh tế.
Tính thời sự nóng bỏng, luôn thường trực trong Cù lao Tràm, dường như nhà văn đã
hoá thân cùng nhân vật giải quyết hầu hết các vấn đề vừa cụ thể vừa nguyên tắc do
thực tế xã hội đề ra, có nên cưỡng bức nông dân vào hợp tác xã hay không? Thực
hiện khoán sản phẩm ra sao? Phát triển nghề phụ như thế nào? Có nên sử dụng
người là “ngụy” cũ có năng lực vào quản lý sản xuất không?...Trong Cù lao Tràm
cảm hứng phê phán, phản biện xã hội rất nổi bật, Nguy n Mạnh Tuấn đã tỉnh táo
nhận ra bộ mặt nhiều loại kẻ thù của xã hội chủ nghĩa, đó là bọn phục thù giai cấp
đang điên cuồng tìm mọi cách chống phá cách mạng như Ba Hoàng, Bảy Long.
Những cán bộ biến chất, ham quyền lực, mượn danh cán bộ cách mạng để mưu cầu
lợi ích riêng như Tư Khanh. Nguy n Mạnh Tuấn là người chiến sĩ chống tiêu cực,
đã dũng cảm dùng ngòi bút của mình đi vào mọi ngõ ngách của đời sống hiện thực
không khoan nhượng, vạch mặt chỉ tên kẻ thù đưa chúng ra trước ánh sáng dư luận
kể cả khi chúng là người giữ chức trọng quyền cao…Với quan điểm của Nguy n
Mạnh Tuấn, những loại người ấy hàng ngày, hàng giờ đang làm xói mòn niềm tin
của bà con nông dân với cách mạng với chế độ mới. Những con người này, thực sự
làm tổn hại uy tín của Đảng, làm suy yếu chính quyền trong khi chúng đang đưa ra
những luận điệu bảo vệ đường lối của Đảng. Bên cạnh cảm hứng phê phán trên,
chúng ta cũng gặp sự đánh giá suy ngẫm của tác giả về người nông dân Nam Bộ.
Mặc dù người nông dân ở đây nghèo khổ, ít được học hành, bị ảnh hưởng nặng nề
bởi tàn dư của xã hội cũ nhưng những con người này, lại có phẩm chất tuyệt vời:
nhân hậu, thẳng thắn, một lòng, một dạ đi theo Đảng và tin vào con đường dân chủ,
no ấm mà Đảng đã sáng suốt lựa chọn. Năm Trà, má Năm Sương, bác Chín Bảo,
109
chú Ba Thịnh là những con người hết lòng vì Đảng vì cách mạng. Trong cuộc họp
chú Ba Thịnh đã nói với bà con nông dân, một lần nữa lại bộc lộ rõ bản chất cách
mạng của họ: “Tụi bay làm cách mạng, tụi bay phải hiểu dân. Muốn cho dân tin
mình, phải bày, phải làm cho dân thấy có cái đúng, cái lợi, dân mới theo... đã tin
rồi, đảm bảo vô lửa cũng vô tuốt [231, tr.156].
Cù lao Tràm đã vượt qua sự phản ánh hiện thực đơn giản, công thức, thuyết phục
và lôi cuốn người đọc không phải bằng con mắt của cán bộ tuyên huấn chỉ quan tâm
đến dạy dỗ, ban phát chân lý mà ở những trăn trở, day dứt và nhu cầu được nói
thẳng, nói thật. Tác phẩm của Nguy n Mạnh Tuấn thật dữ dội, khiến người đọc phải
giật mình tự hỏi trước những vấn đề gai góc của hiện thực đặt ra trong tác phẩm.
Tiểu thuyết phóng sự Nguy n Mạnh Tuấn mang đến cho độc giả một tiếng nói
riêng, có khả năng kích thích, đối thoại, kiến nghị, phản biện. Tiểu thuyết phóng sự
của Nguy n Mạnh Tuấn đậm đặc tư liệu từ cuộc sống. Nguy n Mạnh Tuấn coi việc
viết văn không chỉ là những kỹ thuật đơn thuần mà đó là một nghề phải tìm hiểu
cuộc sống hiện tại một cách kỹ lưỡng, dấn thân để rồi phản ánh và lý giải nó: “văn
chương của tôi những người sành sỏi quá hay kị, nếu khó tính có thể khó đọc”. Xin
các anh chị bỏ qua điều đó coi gi m liệu có ích gì cho cuộc sống hay không? Có gì
sai sót, kém chính xác, các anh chị cứ góp ý để tôi sửa" [231, tr.73]. Các tình tiết,
sự kiện hiện lên trong tác phẩm bề bộn, dồn dập, chưa được chọn lựa, sàng lọc kỹ
lưỡng đó là: vấn đề cải tạo và xây dựng, sử dụng lao động và phân phối sản phẩm,
kinh tế và văn hoá, phát huy tiềm năng của cán bộ hưu, khả năng của thanh niên,
học sinh, đào tạo cán bộ...Sự “tham lam” trong sáng tác của Nguy n Mạnh Tuấn thể
hiện rõ đặc trưng của thể tài tiểu thuyết phóng sự: kể là chính, phơi bày là chính hay
nói cách khác, tả thực là chính, chưa kịp, chưa cần kết tinh, cô đặc. Xét về đặc trưng
nghệ thuật của tiểu thuyết, đây là nhược điểm, hạn chế nhưng bạn đọc đang khao
khát sự thật, cho nên Nguy n Mạnh Tuấn đã viết, viết một cách khẩn trương mà
không kịp gọt giũa. Có nhiều nhận xét, đánh giá về Cù lao Tràm nhưng hướng ngợi
ca, khẳng định vẫn là chính. Bằng tiểu thuyết phóng sự, Nguy n Mạnh Tuấn là
người thể hiện tinh thần nhập cuộc vào vấn đề xã hội, có tính chất thời sự, nóng hổi
110
của những năm đầu đổi mới đó là: “văn chương áp sát với đời sống, để khẳng định
sự cần thiết của nó như một vũ khí tinh thần chứ không phải như một thú vui để
nhấm nháp của một số người, hoặc một vật trang trí, có hay không cũng được”
[155, tr.40]. Cù lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn mang nhiều chất thông tấn báo
chí, dựng lên hiện thực xã hội đầy rẫy cái tốt, cái xấu. Ngòi bút chống tiêu cực, nhìn
thẳng vào sự thật để phanh phui, mổ xẻ tạo nên một hiệu ứng xã hội tức thời.
Nguy n Mạnh Tuấn đã sử dụng một cách tối đa thế mạnh của thể tài tiểu thuyết
phóng sự, là tính thời sự nóng hổi và nghệ thuật điêu luyện nên tác phẩm của anh
thành công vang dội. Chúng ta không thể phủ nhận, những vấn đề bức xúc của đời
sống nhân dân khi được phản ánh trong văn chương thì có sức mạnh vô cùng to lớn.
Tại sao tác phẩm lại hấp dẫn và lôi cuốn bạn đọc như vậy? Cái gì đã lôi cuốn độc
giả gần bảy trăm trang sách? Đó không phải là văn chương sao? Phải chăng, tính
thời sự nóng bỏng kết hợp với nghệ thuật hư cấu đã tạo nên giá trị đặc sắc của tác
phẩm và có sức hút như thế!
4.3.1.2. Tinh thần chống tiêu cực và đề xuất các giải pháp xã hội
Ma Văn Kháng là nhà văn đi đầu trong phong trào chống tiêu cực và đề xuất các
giải pháp xã hội. Khi viết tiểu thuyết, đặc biệt là tiểu thuyết phóng sự tác phẩm của
Ma Văn Kháng đầy ắp tính chính luận. Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng thể hiện
tinh thần chống tiêu cực và đề xuất các giải pháp xã hội, tác giả đã không ngần ngại
khi đề cập đến vấn đề tiêu cực trong xã hội. Ma Văn Kháng đã phản biện sâu sắc
vấn đề đạo đức xã hội, đặc biệt là sự xuống cấp về đạo đức của người phụ nữ Việt
Nam. Nét đ p truyền thống của người phụ nữ Việt Nam đã bị xói mòn và nhạt phai
bởi kinh tế thị trường. Ma Văn Kháng lên tiếng phanh phui vấn đề tiêu cực trong xã
hội, những vấn đề khuất tất trong sử dụng cán bộ, người trí thức bị vùi dập…
Ma Văn Kháng luôn viết về người phụ nữ với những gì tốt đ p và trân trọng
nhất. Trong tác phẩm Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng, hình ảnh phụ nữ bao giờ
cũng đ p. Có người chỉ còn là những bóng hình thấp thoáng trong ký ức của người
sống nhưng ấn tượng về họ thì thật khó phai mờ, như vợ ông Cần. Tiếc thay những
người phụ nữ nhà văn gửi gắm và kỳ vọng, họ bỗng trở thành những người xa lạ
111
trong cơn lốc của cơ chế thị trường. Họ vừa đáng trách nhưng cũng vừa đáng
thương. Trong mỗi con người luôn tồn tại cái xấu lẫn cái tốt, cái cao cả và cái thấp
hèn. Loan trong Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng là một điển hình. Loan có tâm hồn
trong sáng và ngây thơ ở thời thơ ấu: " Chợt thấy cô bé ngồi khóc khóc thút thít ở
góc nhà. " Sao thế Loan?" Anh hốt hoảng bước tới và nhận ra cô bé vừa đọc xong
cái tiểu đoạn nói về cô bé Cô - dét khốn khổ đi lấy nước lúc đêm khuya trong truyện
dài của Vích to Huy-gô" [195]. Những tháng ngày Loan xa người yêu nhưng cũng
chính là người thầy, người anh của mình, cô đã bắt đầu hư hỏng và nhi m dần
những tính cách của con người thực dụng. Loan trở thành con người khác, chán học
và hay bỏ học đi chơi với lũ bạn hư đốn: " Vào lớp chín thì cô bỏ học luôn, hay đàn
đúm c ng bạn bè, rong chơi nay ch a này mai đền miếu nọ và cuối c ng thì chán
hoàn toàn" [195]. Con người nói chung và phụ nữ nói riêng rất cần cái căn bản và
cốt lõi của nền tảng văn hoá, của đạo lý để định hướng cho họ cách ứng xử trong
cuộc sống. Loan trong tác phẩm của Ma Văn Kháng đâu còn là người phụ nữ căn
cơ, chân chỉ hạt bột, lúc nào cũng phải lo toan cho cuộc sống đời thường mà cô đã
biến thành một con người thực dụng với những suy nghĩ rất hiện đại. Viết về phụ
nữ, Ma Văn Kháng luôn bênh vực cho những khát khao vật chất bình thường của
người phụ nữ. Loan đã phải vật lộn với cuộc đời, phải tính toán, mưu sinh một cách
chi li để có được cuộc sống đầy đủ hơn người. Nhưng trong cuộc mưu sinh đầy
khốc liệt ấy Loan không giữ được "căn cốt" của đạo lý và cô đã không chiến thắng
vật chất tầm thường. Loan đã không vượt qua ranh giới đó nên cô đã đánh mất tất
cả: tình yêu đ p, trong sáng với Trọng, mất sự nghiệp, danh dự và phản bội Tổ
quốc. Khi khẳng định nhu cầu chính đáng về cuộc sống vật chất đầy đủ, tác giả nhấn
mạnh đến sự định hướng điều chỉnh hành vi, cách ứng xử của con người trong cuộc
mưu sinh khắc nghiệt cho đúng với chuẩn mực và giá trị của cộng đồng. Bởi giữa
nhu cầu bản năng với những dục vọng thấp hèn chỉ là một ranh giới mong manh.
Loan, nếu thường xuyên có người nâng đỡ và làm chỗ dựa tinh thần thì sẽ vững
vàng hơn trong cuộc đời đầy khó khăn, thử thách và biến động. Loan đã có lúc thiếu
bờ vai để chia sẻ và chỗ dựa về mặt tinh thần nên người phụ nữ ấy đã bị bản năng
112
chế ngự, bị cái xấu cuốn vào vòng xoáy của nó, nhiều khi quá đà sẽ dẫn đến sa ngã,
thậm chí còn có những hành động vô liêm sỉ. Không phải ngẫu nhiên mà Ma Văn
Kháng nói như vậy, cuộc sống đâu phải đơn giản mà vốn rất phong phú, phức tạp và
đầy biến động bất ngờ. Con người luôn tồn tại cả phần con lẫn phần người. Ma Văn
Kháng còn lên án lối sống thực dụng, vụ lợi đang tràn lan. Những tệ lậu, lối sống
làm băng hoại đạo đức ấy, đang ngày đêm làm xói mòn nhân phẩm, đạo đức con
người trong đó có phụ nữ. Trong M a lá rụng trong vườn Ma Văn Kháng đã đề cập
đến vấn đề nhân phẩm và đạo đức con người đang bị mai một: " Xã hội đang có
những bước chuyển. Con người đang đứng trước sự lựa chọn: Trở nên tốt đẹp và có
thể phải chịu sự khổ sở về vật chất; hay đểu giả, tàn bạo và sống sung sướng về mặt
vật chất. Trở nên tốt: khó; trở nên xấu: dễ. hi đã không được định hướng, khi bị
những ham muốn vật chất tầm thường chi phối, con người dễ bị sa ngã, nhất là phụ
nữ, bởi họ là những người phải đối diện với cái ăn, cái mặc hàng ngày" [195]. Sự sa
ngã của họ là do không kiềm chế nổi bản năng, bởi thiếu một nền tảng văn hoá đạo
đức. Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng đã dóng lên hồi chuông chống tiêu cực, đã
làm nóng lên bầu không khí văn học thời kì trước đổi mới làm cho người đọc háo
hức tiếp nhận một hiện thực lâu nay còn giấu kín. Đó là nhà văn đau xót cho những
người trí thức chân chính, đ p đẽ luôn bị dồn đẩy vào những hoàn cảnh đầy bi kịch.
Ma Văn Kháng đã không ngần ngại vạch mặt những kẻ bất tài vô dụng nhưng chỉ
tìm mọi cách để phá hại cuộc sống và sự nghiệp của người khác. Nhân vật Trọng
trong Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng là nạn nhân của thói đố kị, bị những kẻ giả
danh trí thức chèn ép, hãm hại. Trọng là người có tài năng, có lý tưởng, khát vọng
với những hoài bão được cống hiến hết mình cho sự nghiệp, được làm việc trong
môi trường thuỷ lợi để nghiên cứu về những tổ mối trong thân đê. Anh đã trình bày
nguyện vọng được chọn nghề của mình với cha: " Ba à, ông Ăng - ghen có nói: các
dân tộc phương Đông, trong lịch sử thường làm hai việc lớn, chống giặc ngoại xâm
và làm thuỷ lợi. Con muốn đi vào một ngành gắn liền với lịch sử dân tộc, ba ạ"
[195]. Người trí thức được Ma Văn Kháng trân trọng ca ngợi bởi trí tuệ và kiến thức
uyên thâm, gửi gắm những triết luận tư tưởng của mình đã bị vùi dập một cách tàn
113
nhẫn bởi sự tranh giành vị trí và sự ghen tức của những kẻ bất tài, vô dụng. Trọng
đã bỏ qua tất cả, anh cam chịu vì anh yêu công việc, say mê nghiên cứu khoa học
vươn lên khẳng định mình. Cho dù bị oan uổng, ghen ghét, đố kị Trọng vẫn là người
của công việc và hết lòng vì mọi người. Trọng đã không hổ th n là người trí thức
chân chính và anh đã trở thành tấm gương điển hình về lòng dũng cảm và hy sinh
quên mình để cứu con đê. Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng đã lên tiếng phê phán
hiện thực. Mặt khác, nhà văn thể hiện sự phẫn nộ của mình, khi viết về vấn đề tiêu
cực đang hiện hữu trong xã hội. Đó là những kẻ vô học, bất lương nhưng nhờ vào sự
may mắn, sự luồn lạch và cơ hội của mình đã leo lên vị trí lãnh đạo để tác oai, tác
quái. Đó là những kẻ dốt nát, vô sản lưu manh như Hưng. Bọn chúng đang hoành
hành trong xã hội, đẩy người trí thức như Tự, Khiêm. Trọng, Nam, Thiên vào
nghịch cảnh " tài cao phận thấp" đầy uất ức tủi nhục…Ma Văn Kháng thể hiện nỗi
xót xa trước những nghịch cảnh của cuộc đời thể hiện qua người trí thức để lên tiếng
thức tỉnh xã hội, hãy trân trọng người trí thức và đừng để lãng phí chất xám một
nguồn tài nguyên vô giá thượng đế đã ban tặng. Trong Mưa m a hạ với hình tượng
tượng trưng là những tổ mối trong thân đê đã gây được ấn tượng trong lòng người
đọc nhưng chưa thật sắc sảo, còn gượng ép, một phần là do ý nghĩa thực và ý nghĩa
tượng trưng của tác phẩm có khi không được nảy sinh trên cùng một hình tượng
chân thật, cụ thể, không lồng được vào nhau, đan cài với nhau.
Mưa m a hạ đã chỉ ra vấn đề tiêu cực là những hiện tượng đi ngược với quy
luật, ngăn cản cuộc sống chân chính, cản bước đi lên của xã hội. Việc chống lại tiêu
cực không chỉ bằng sức lực, tâm trí của mỗi người mà phải có sự góp sức của cả xã
hội. Ma Văn Kháng đã dùng ngòi bút thể hiện tính thời sự nóng hổi kết hợp với tính
chính luận để viết về những vấn đề tiêu cực, những mặt trái của xã hội đang di n ra
hàng ngày trong xã hội Việt Nam những năm tiền đổi mới.
Những ngày thường đã cháy lên của Xuân Cang là một tác phẩm đưa người đọc
đến một đề tài mới trong tiểu thuyết phóng sự: vai trò của báo chí và người làm báo
trong xã hội hiện nay. Những ngày thường đã cháy lên kể về những truyện di n ra
hàng ngày của một nhà báo. Tòa soạn báo vẫn có những bài báo được đăng với
114
những tin nóng hổi, sốt dẻo hấp dẫn người đọc: "Một giám đốc cho xe về quê chở đá
lấp hẳn một cái ao để xây ngôi biệt thự hai tầng lộng lẫy mà chủ nhân của nó không
tốn một giọi mồ hôi và một xu nhỏ ", " Một công ty lương thực ở Hoài sơn, cơ quan
có hai mươi tư người thì mười tám người ra toà. Cả Chánh và Phó giám đốc đều ra
trước vành móng ngựa"[165]. Nhưng nóng bỏng và cháy lên là những bài báo phản
ánh tinh thần chống tiêu cực và đề xuất các giải pháp xã hội đã khiến Phó tổng biên
tập một tờ báo lớn ở trung ương là Thuận Hữu phải suy tư, dằn vặt thể hiện thái độ,
tư tưởng, lập trường của mình. Đó là những cuộc điện thoại đe dọa tính mạng bản
thân và gia đình bởi có những bài báo viết về vấn đề bức xúc trong xã hội. Một bài
báo viết về một vụ ăn chặn tiền thưởng của công nhân ở công trường Quang Trung.
Bài viết về vụ Giám đốc Nông trường cao su có tên là Đỗ Anh Sớm đã đuổi việc và
bắt giam công nhân vào thùng Kô nét, khai khống diện tích trồng cây cao su, bán
phân đạm chăm sóc cao su lấy tiền tiêu sài, hãm hiếp công nhân nữ trồng rừng, cấm
và ghi vào sổ đen người nào đọc báo phê phán lãnh đạo nông trường…Bài báo liên
quan đến ông Thường, một lãnh đạo cao cấp của Bộ. Một bài đề cập đến vụ chìm
tàu sông Tràm 20, khi có cơn lốc xoáy bão số 12 làm nhiều thuỷ thủ chết. Bốn bài
báo này, đã phanh phui, vạch trần thủ đoạn tinh vi những vấn đề khuất tất, tiêu cực
trong xã hội lên tiếng bênh vực người công nhân. Nếu được đăng, bài báo sẽ đáp
ứng những bức xúc và mong mỏi bấy lâu của người lao động: " Để xem ông nhà báo
có dám viết, dám đăng không". Bài báo nào cũng có những giá trị ở những nội dung
khác nhau và thu hút bạn đọc…Việc đăng được những bài báo như thế cũng không
hề đơn giản vì sức ép từ bên trên yêu cầu phải thay một số từ nhạy cảm, và số phận
của một số người bị đe dọa. Người có nguy cơ phải chuyển đi nơi khác, có người đã
có quyết định thăng chức nhưng bị đình lại, người bị quy vào trách nhiệm liên đới,
người suýt bị hãm hại…Nhưng vì quyền lợi của người lao động và cuộc sống của
gia đình họ, vì lương tâm nghề nghiệp bài báo vẫn được đăng. Thuận Hữu đã hiểu
được rằng khi bài báo ra đời anh phải đương đầu với bao khó khăn và thách thức
song anh vẫn quyết tâm để những bài báo xuất hiện. Khi làm được như thế, Thuận
Hữu cảm thấy thanh thản hơn trong cuộc đời vốn vô cùng phức tạp. Nhà văn Xuân
115
Cang đã gặt hái được nhiều thành công ở thể tài tiểu thuyết phóng sự. Những ngày
thường đã cháy lên đã kịp thời hướng ngòi bút của mình vào những vấn đề bức xúc
của xã hội cần phải được giải quyết trong cuộc sống thường nhật. Tác phẩm có
những tư liệu quí giá, phong phú tạo nên tính chân thật của tác phẩm.
Những ngày thường đã cháy lên của Xuân Cang hấp dẫn người đọc bởi tính thời
sự nóng hổi và những nhức nhối của vấn đề tiêu cực được phanh phui và mổ xẻ trên
văn đàn. Cuộc đấu tranh này rất cam go, quyết liệt nếu muốn đi được đến chân lý
phải có sự vào cuộc của báo chí và toàn xã hội…
Nguy n Khải đã có một số tác phẩm viết về đề tài tôn giáo như: Xung đột, Cha
và con và,… Sau 1975, Nguy n Khải cảm nhận được những đổi thay đang di n ra
từng ngày trong mỗi con người, mỗi sự kiện của đất nước. Những đổi thay ấy, đang
len lỏi vào từng ngôi nhà, từng số phận con người, quan tâm tới sự thay đổi trong
nhận thức, tâm lý, lối sống của họ. Đất nước những năm sau hòa bình có nhiều vấn
đề cần phải quan tâm. Ngòi bút phóng sự đầy tính chính luận, sắc lạnh của Nguy n
Khải đã vạch trần, lật tẩy bộ mặt của những kẻ đội lốt tôn giáo đang huỷ hoại cuộc
sống và con người ở nông thôn Nam Bộ. Nguy n Khải nhận ra những phương diện
lạc hậu và sự bất lực, thất thế của tôn giáo giả danh trong quá trình phát triển của đất
nước. Đồng thời, Nguy n Khải cũng tỉnh táo nhận thức về tôn giáo chân chính phục
vụ cho cuộc sống của con người và tác giả đã đề cao tôn giáo vì con người. Viết về
đề tài tôn giáo, Nguy n Khải chú ý xây dựng chân dung những thầy tu với con
đường tu hành qua nhiều cách sống, nhiều kiểu người. Trước đây, những nhân vật
này được nhìn như là những đại diện tiêu biểu cho các thế lực chống đối cách mạng.
Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải đầy ắp tính chính luận và mở ra một hiện
thực phức tạp trong nội bộ một tôn giáo: đạo Cao Đài. Điều tra về một cái chết trình
bày quá trình nhận thức của trí thức cũng là một tín đồ, họ trăn trở trên con đường đi
tìm niềm tin xác tín, đi tìm sự hoà hợp giữa đạo và đời. Đó là Tư Tốn, một nhân vật
mới bốn mươi tuổi nhưng đã phải tìm đến cái chết, bởi niềm tin tôn giáo bị phản
bội. Những điều một thời đã là niềm tin, là lý tưởng mà anh tôn thờ, thì giờ đây,
bỗng chốc phơi bày ra những mặt xấu. Từ việc mất hết niềm tin, thất vọng, Tư Tốn
116
đã tìm cách: " trốn chạy cái mộng tưởng đã một thời là niềm tin của mình" [190].
Nguy n Khải xây dựng nhân vật Tư Tốn là một nhà tư tưởng với ý tưởng làm cách
mạng tôn giáo. Nhưng con đường làm cách mạng tôn giáo của Tư Tốn gian truân,
bế tắc, cuối cùng anh phải đem theo cả ước vọng ấy xuống mồ. Tư Tốn là người
thông minh, học ít hiểu nhiều. Trong Toà Thánh, Tư Tốn được coi như một thần
đồng. Anh được các vị chức sắc cao nhất của đạo nể trọng và đặt nhiều hy vọng. Họ
mong muốn, Tư Tốn sẽ trở thành trụ cột của đại đạo trong tương lai. Anh là người
trí thức ham suy nghĩ, hay tìm tòi và luôn muốn lật ngược lại vấn đề để đi tới tận
cùng của chân lý. Tư Tốn luôn đặt dấu hỏi về những chuyện thần kỳ của đạo. Anh
băn khoăn thắc mắc về những chuyện thần tiên, huyền bí: " cái chuyện thần tiên
giáng cơ là có thật không" [190, tr.367]. Chuyện cơ bút? là sao, hay chỉ do tưởng
tượng: " ai giáng cơ? Do sự huyền bí nào mà cơ giáng" [190, tr.368]. Trước sự nhơ
nhớp và những tội ác được nghe về hội Thánh, Tư Tốn vẫn cứ bán tín bán nghi.
Trong con người của Tư Tốn không chỉ có phẩm chất của một trí thức mà quan
trọng hơn là phần của một tín đồ. Anh cho rằng: " Đói ăn thì chết, nhưng đói thượng
đế sẽ thành thú vật"[190, tr.373]. Chính vì đức tin ấy, đã giúp Tư Tốn đứng vững
trong mọi sóng gió với ý định muốn cải cách tôn giáo, tôn giáo sẽ góp phần làm mới
những công dân ở đây: " Sẽ làm một cuộc cách mạng tôn giáo vĩ đại", ở đó" Mỗi tín
đồ của kỳ đạo mới phải là một công dân gương mẫu" [190, tr.444]. Tư Tốn tin
tưởng rằng: anh đã có sức mạnh của Thượng đế trong tim nên anh đã bất chấp tất cả,
khó khăn, thử thách, vượt qua mọi hiểm nguy luôn rình rập, một mình:" gánh vác
được sự nghiệp to lớn trong đơn độc" [190, tr.373]. Tư Tốn có nguyện vọng làm
một cuộc cách mạng tôn giáo, chấn chỉnh lại hội thánh Cao Đài, phát huy những
tinh hoa của một đạo giáo bằng một chữ Tâm. Anh xác định, làm cuộc cách mạng
tôn giáo phải bằng thiện chí và tình yêu đạo cuồng nhiệt chứ không cần thủ đoạn và
sự nhẫn tâm. Bằng nhiệt huyết và sự chân thành nhưng Tư Tốn lại rơi vào bi kịch,
bởi hiện thực cuộc sống và hiện thực tôn giáo không như anh nghĩ. Khi đã nhận ra
mình là ai, cũng là lúc Tư Tốn muốn làm người bình thường cũng không thể được
nữa. Một con người, còn quá trẻ, khi giã biệt cuộc đời ở tuổi bốn mươi, phải chết thê
117
thảm bởi niềm tin tôn giáo bị phản bội. Việc Tư Tốn chết là bi kịch của một con
người, đang trốn khỏi đồng đạo, khỏi ác mộng: "… trốn chạy khỏi đồng đạo, trốn
chạy khỏi cái ác mộng tưởng đã một thời là niền tin của mình" [190, tr.437]. Kết
cục của cuộc chạy trốn, là ở một tiệm cà phê nơi Tư Tốn chết. Cái chết bi thảm của
Tư Tốn và con đường hành đạo của anh bế tắc bởi niềm tin ngây thơ bị phá sản.
Cuộc truy tìm chân lý đạo, cuộc chạy trốn khi chân lý bị sụp đổ của Tư Tốn đã để
lại trong lòng độc giả một khoảng trống buồn thương. Nhưng chúng ta nhận thấy,
trong sâu thẳm ấy, bản chất của con người vẫn sáng tỏ và quan trọng hơn, mỗi
người cần tự nhận ra mình là ai? Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải tiếp tục
đề tài về tôn giáo mà ông đã thể hiện qua Xung đột, Cha và con và,…tác giả đã chỉ
ra, những phương diện lạc hậu và bất lực của tôn giáo trong quá trình phát triển xã
hội và xu hướng tất yếu là sự hoà trộn giữa tôn giáo và dân tộc. Qua nhân vật, là
những thầy tu tiến bộ, Nguy n Khải đã phanh phui, lật tẩy bộ mặt của những kẻ đội
lốt tôn giáo đồng thời Nguy n Khải cũng chỉ ra rằng, tôn giáo của thời đại mới là
tôn giáo phục vụ cuộc sống con người và vì con người. Từ nhận thức này, Nguy n
Khải đã đặt ra một vấn đề: sự hoà hợp tự nguyện, tích cực giữa các tôn giáo Việt
Nam và Nhà nước cách mạng. Điều tra về một cái chết đề cập đến những mưu sâu,
kế hiểm và thủ đoạn: "Còn hôm nay, dầu đạo đã trải qua ba chìm bảy nổi, những
người từng trải đã chết hoặc quá già, nhưng luật lệ đã thành tập tục, mưu mẹo và
thủ đoạn những kẻ còn sống lại cao sâu, bí hiểm khôn lường.." [190, tr.445]. Điều
tra về một cái chết đã miêu tả phân tích di n biến tâm lý của nhân vật Tư Tốn một
cách rất tinh tế để thấy được đặc sắc về nghệ thuật của tác phẩm…Vẫn là giọng
chính luận đề xuất các giải pháp về xã hội với suy tư, trăn trở về cuộc đời nhưng với
Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải lời văn như nhuốm sự đắng cay, chua
chát bởi sự tàn nhẫn của cuộc đời: " Cháu chỉ có thiện chí thôi, chỉ có một tấm lòng
sốt sắng vì đạo thôi. ng Hai chép miệng: - hông đủ, trên đời này có một việc nên
làm mà không nên làm, đó là cái thiện chí. Có một việc không nên làm mà lại nên
làm đó là cái tàn bạo. ông Hộ pháp vẫn thường nói thế" [190, tr.434].
118
Bằng ngòi bút phóng sự điêu luyện, đầy tính chính luận, Nguy n Khải đã đề
xuất các giải pháp xã hội qua việc phơi bày, phanh phui một vấn đề có tính thời sự ở
một vùng nông thôn Việt Nam sau hoà bình. Nguy n Khải đã thẳng thắn đề xuất
một giải pháp của vùng đạo Cao Đài: đó là cần xoá bỏ mọi ảo tưởng niềm tin mù
quáng vào thứ tôn giáo phản tiến bộ, hãy nhìn thẳng vào sự thật để suy ngẫm và
hành động đúng. Từ đó, hướng tới thứ tôn giáo chân chính phục vụ cuộc sống con
người và vì con người, cho dù là tôn giáo gì đi chăng nữa thì mục đích cuối cùng
vẫn là tốt đời đ p đạo. Và Nguy n Khải mong muốn sẽ có được sự hoà hợp giữa các
tôn giáo Việt Nam và Nhà nước cách mạng để xây dựng đất nước ngày một văn
minh, tiến bộ và giàu đ p hơn.
4.3.1.3. Nhận thức lại hiện thực nông thôn
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường là tiểu thuyết phóng sự
đi vào vấn đề nhận thức lại hiện thực, nhận thức lại vấn đề nông thôn Việt Nam.
Tiểu thuyết phóng sự đã bỏ qua sự mô tả, sao chép hiện thực, đi vào nhận thức lại,
phản biện xã hội để khám phá chiều sâu cuộc sống nông thôn Việt Nam. Qua những
con người, số phận, mảnh đời cụ thể, Mảnh đất lắm người nhiều ma đã có những
phát hiện mới mẻ, phản ánh đúng thực trạng nông thôn Việt Nam thời đổi mới.
Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường cái đói, cái
nghèo và xung đột phe phái vẫn hiện diện. Cái đói tưởng như đã vĩnh vi n qua đi
nhưng lại đau xót lộ diện ngay trong thời bình. Cái đói len lỏi móng vuốt vào cả
xóm Giếng Chùa, và mọi người cũng vật vã vì nó: " cái cười lúc đói không ra tiếng,
lại bóp cho héo quắt cả mặt, trông mà nẫu ruột"[226]. Nông thôn đói nghèo nhưng
cán bộ ở đây không lo chống đói cho dân mà chỉ lo giành giật địa vị. Chính quyền
cách mạng ở nông thôn đã trở thành nơi để họ tranh giành quyền lực. Mấy chục năm
cách mạng đã qua tình hình ở nông thôn vẫn trì trệ, những phong tục lạc hậu bao đời
nay như: ý thức dòng họ, thói gia trưởng, tính ích kỷ, nhỏ nhen đố kỵ, đặc biệt là
việc coi thường người phụ nữ…vẫn còn tồn tại. Giữa những năm tám mươi, văn
xuôi Việt Nam đã có cái nhìn khác lạ, một cách nhìn và biểu hiện khác về con
người, nó vừa mang tính đối lập vừa mang ý nghĩa bổ sung cho thời kỳ trước. Tiểu
thuyết bắt đầu có những đổi mới, tìm tòi trong cách nghĩ, cách nhìn về con người
119
nông thôn: Cù lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn là sự khởi đầu, khai phá, Thời xa
vắng của Lê Lựu là sự tiếp nối và tiếp đó Mảnh đất lắm người nhiều ma lại là một
sự kết tinh. Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường thể hiện tinh
thần thực ti n, khao khát tiếp cận sự thật, đi sâu vào hiện thực cuộc sống với tất cả
sự phức tạp, bộn bề mà không đi theo “lối mòn” sẵn có của các nhà văn lớp trước.
Trong sự vận động của văn xuôi nói chung, tiểu thuyết phóng sự nói riêng, Nguy n
Khắc Trường đã thể hiện một cái nhìn riêng, một tư tưởng có tính thời sự và nhận
thức lại về con người. Tác giả đã dựng lên thực trạng nóng bỏng của nông thôn Việt
Nam bằng ngòi bút phóng sự sắc sảo và nghệ thuật tiểu thuyết điêu luyện. Dưới
ngòi bút của nhà văn, phơi lộ ra sự tha hoá của con người nông thôn thật dữ dội, bất
hạnh, không khí ngột ngạt, căng thẳng như bủa vây lấy người nông dân. Nguy n
Khắc Trường đã vẽ ra trước mắt người đọc một mảnh đất hỗn độn, xô bồ, một mảnh
đất giữa ma và người không rạch ròi, trong người có ma trong ma có người trong
thiện có ác, trong ác có thiện. Tác phẩm đưa ra một thực trạng “xuống cấp” của
nông thôn, rung lên một hồi chuông cảnh tỉnh con người hãy nhìn lại chính mình
hãy cố gắng vớt lại phần tình người, lấy lại niềm tin ở con người. Lòng tốt của con
người xưa kia nay đâu? Chỉ còn những bi kịch của con người và phơi lộ ra sự tha
hoá trong con người. Hiện thực đang được tái hiện không còn đơn giản là không khí
làm ăn tập thể đang phơi phới đi lên của những hợp tác xã, hay tinh thần đoàn kết
tương thân tương ái của bà con nông dân. Sự thật ở đây được khơi sâu vào nhiều
tầng, nhu cầu nhận thức lại, lật tẩy vấn đề ở nông thôn cần được xem như là một
nhiệm vụ cấp thiết: “Con người đang được nhìn nhận, lý giải theo nhiều hướng,
nhiều chiều”, “con người đang được xem xét với nhiều chiều sâu mới” - Trần Đình
Sử [123]. Tiểu thuyết phóng sự bộc lộ ưu thế của mình trong cách: “nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, bao quát được những vấn đề cơ bản
của đời sống và những số phận con người trong sự vận động phát triển và đáp ứng,
đòi hỏi những bức xúc của công chúng đương thời. Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguy n Khắc Trường có tính thời sự nóng hổi khi xung đột phe phái, quần ngư
tranh thực của xã hội nông thôn ngày xưa như vẫn còn rơi rớt. Những cuộc tranh
giành quyền lực trong làng tinh vi và hiện đại hơn nhiều so với làng Vũ Đại ngày
120
ấy. Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma con người ta thường mượn dòng họ để
trừng trị nhau, mượn danh đoàn thể, tổ chức để đấu đá, sát phạt nhau...Mối thâm thù
giữa hai dòng họ gay gắt đến mức con người có thể làm những chuyện động trời.
Con người được Nguy n Khắc Trường phanh phui trong Mảnh đất lắm người nhiều
ma đã mất hết nhân tính vì thù hằn. Ở họ, dường như không thấy điểm tốt mà toàn
thấy mưu ma chước quỷ, đen tối và lòng hận thù. Tư tưởng thù hằn, truyền kiếp
giữa hai dòng họ đã chi phối toàn bộ suy nghĩ, hành động của con người biến họ
thành những kẻ độc ác, bất nhân bất nghĩa, chà đạp lên luân thường đạo lý, không
trừ thủ đoạn nào, ngay cả việc đào mả bố người khác lên với mưu đồ: “lấy âm trị
dương” yểm bùa và “đào lên lấy ván, lật sấp bố nó xuống! còn gỗ ván dổi sẽ đóng
một bộ xa lông thật mốt, rồi tìm cách đem bán cho chính anh em, họ hàng nhà nó”
làm cho “cả nhà nó không ngóc lên được” [226]. Mối thù dòng họ đã ăn sâu vào
tâm khảm của những con người ở đây. Dòng họ Trịnh Bá để trả thù dòng họ Vũ
Đình, đã không từ bất kỳ thủ đoạn nào. Không chỉ đối với kẻ thù của mình mà cả
người hiền lành khác cũng bị lôi kéo vào mục tiêu đấu đá lẫn nhau của hai dòng họ.
Lão Quyềnh, một kẻ khốn đốn, cả cuộc đời chẳng biết làm hại ai nhưng đến lúc chết
đi rồi vẫn thêm một lần nữa phải hy sinh để cứu danh cho kẻ khác. Đặc biệt, con
người còn biến dạng, độc ác không có nhân tính khi làm điều ác cả với người thân
trong gia đình mình. Bà Son là một người phụ nữ hiền lành, chăm chỉ làm ăn, hết
lòng vì chồng vì con và gia đình nhà chồng mà cũng bị lợi dụng, cuối cùng đành
phải tìm đến cái chết để giải thoát đời mình. Nhận thức lại và phanh phui hiện thực
nông thôn Việt Nam đương thời, phải chăng là thế mạnh của tiểu thuyết phóng sự.
Ngòi bút phóng sự đã thoả sức tung hoành trong tiểu thuyết Mảnh đất lắm người
nhiều ma dựng lên trước mắt người đọc một hiện thực phũ phàng. Cuộc xung đột
giữa cánh này với cánh kia, mượn danh đoàn thể, thực chất là cuộc xung đột giữa
các dòng họ, các gia đình mang nặng tư tưởng phong kiến và len lỏi chi phối đến
quyền hành trong làng xã. Xã hội phong kiến xưa, chức “Lý trưởng” là mục tiêu
giành giật quyền lực của hai dòng họ thì giờ đây chức “Bí thư Đảng uỷ” xã lại là
mục tiêu chính và tính chất hình thức tranh giành ngày nay còn tinh vi hơn nhiều.
Tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, giúp tác giả đi sâu khai thác các vấn đề tộc họ để
121
thấy được những mặt trái, góc khuất của nông thôn. Tư tưởng dòng họ đã ngấm sâu
vào máu của những con người ở cái làng Giếng Chùa miền trung du êm ả. Tâm lý
họ tộc trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường rất nặng nề.
Tác giả đã đặc tả lão Hàm vốn là một anh thợ mộc, hàng ngày chỉ quen với công
việc đục đẽo nhưng là một trưởng tộc dòng họ Trịnh Bá đầy thế lực. Trịnh Bá Hàm
là người có khả năng điều hành những việc trong làng xã. Ông bí thư Đảng uỷ là
người có vị trí cao nhất trong bộ máy cán bộ ở làng xã nhưng cũng phải phục tùng
sự chi phối của ông trưởng họ. Việc đấu đá giữa các dòng họ trong Mảnh đất lắm
người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường cũng di n ra hết sức căng thẳng và phức
tạp. Những cuộc họp kín của hai gia tộc với tất cả khẩu khí căng thẳng và nhịp điệu
hối hả, khẩn trương. Cuộc họp của họ Vũ Đình do Vũ Đình Phúc là người quyết
định hay cuộc họp nhà Trịnh Bá do Trịnh Bá Thủ là chủ mưu. Với những cuộc họp
bàn nhằm mục đích thanh trừ nhau, tìm cách hãm hại nhau bằng mọi âm mưu và thủ
đoạn. Mảnh đất lắm người nhiều ma như căng lên bởi không khí ngột ngạt vì những
hận thù không thể hàn gắn giữa hai dòng họ. Mối hận thù thâm sâu của hai dòng họ
đã gây lên bi kịch thương tâm và làm tha hoá con người. Trịnh Bá Hàm chỉ vì mối
tình của cha và mối tình của mình đã bất chấp tất cả. Trong cải cách ruộng đất, vì
tham vọng cá nhân ghê gớm mà Vũ Đình Phúc đã đấu tố cha ruột của mình. Và
cũng ba mươi năm sau vì ý thức dòng họ và mối thù xưa kia mà Vũ Đình Đại tha
thứ và trở về với đứa con đại bất hiếu mà ông đã ruồng bỏ từ lâu để giúp nó bày
mưu tính kế trong cuộc chiến với dòng họ Trịnh Bá. Lòng hận thù còn âm ỉ lâu dài
truyền kiếp từ đời này sang đời khác. Bà Son và Vũ Đình Phúc yêu nhau say đắm
nhưng vì mối thù giữa hai dòng họ mà không lấy được nhau. Sau này Tùng và Đào
lại rơi vào bi kịch này, họ rất đ p đôi nhưng làm sao có thể vượt qua được tư tưởng
đã ăn sâu vào tiềm thức của những con người ở hai dòng họ. Mối thù giữa lão Hàm
với Vũ Đình Phúc không đội trời chung và Hàm có thể làm bất cứ điều gì để trả thù
cho kẻ đã từng yêu vợ mình. Bà Son, một người phụ nữ hết lòng vì chồng, con, gia
đình và dòng họ thế mà vẫn bị chồng hành hạ, sự hy sinh cả đời của bà cũng không
bằng mối thù của dòng họ: “Một người đàn bà đã làm hết bổn phận của một người
vợ, tận tâm, tận lực khi buồn cũng như khi giận bà nén chặt vào tim, nén sâu vào
122
lòng chứ không một lời than oán ấy lại là nơi để ông Hàm trút hết mọi bực tức. ng
hành hạ người vợ của mình một cách cực đoan, vu oan vô cớ và nhiều khi dồn bà
đến chân tường. Vậy ra, người vợ sống với mình cả đời cũng không lớn b ng mối
th h n dòng họ ngấm vào máu từ bao đời nay” [226, tr.286]. Cực chẳng đã vì quá
nhục nhã và đắng cay bà Son phải chọn cái chết để giải thoát cho cuộc đời mình. Bà
Son chết những tưởng mối thù hai dòng họ được hoá giải nhưng cái chết của bà
không thay đổi được gì. Mối thù dòng họ vẫn còn, những con người nhỏ nhen, ích
kỷ và đố kỵ vẫn say mê thù hằn, vẫn kiên quyết chiến đấu với hận thù đến cùng.
Những con người vì họ tộc đã bất chấp tất cả luân thường đạo lý, chà đạp lên tất cả
để đố kỵ, ganh đua bè cánh đạt lấy mục đích, gây mất đoàn kết âm ỉ, lâu dài. Ý thức
dòng họ trong Mảnh đất lắm người nhiều ma đã hằn sâu và trở thành ý thức hệ của
con người, ăn sâu vào “thâm căn cố đế”của người nông dân. Nơi vùng quê miền
trung du, tưởng như yên bình này lại đầy rẫy kẻ có những “mưu ma chước quỷ”, nó
không để cho ai yên và bản thân không mấy lúc ngồi yên. Một nông thôn, hiện lên
dưới ngòi bút sắc sảo của tác giả thật hỗn loạn, phức tạp với những con người nhỏ
nhoi, đê tiện suốt đời chỉ ôm một mối hận thù mà mất hết cả nhân cách, chà đạp lên
luân thường, đạo lý. Đâu còn tình nghĩa xóm làng yên bình, thay vào đó là không
khí ngột ngạt, căng thẳng bởi lòng hận thù không đội trời chung. Những vấn đề
nóng bỏng, bức xúc của hiện thực nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều ma đã
giúp chúng ta phần nào nhận diện bức tranh làng quê Việt Nam ở nhiều góc độ. Tác
giả đã phơi bày hiện thực bức tranh muôn màu của cuộc sống nông thôn để chúng ta
thấy được giá trị, sức mạnh của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới.
4.3.2. Thành tựu về nghệ thuật
4.3.2.1. Tinh thần tìm tòi và cách tân thể loại
Tiểu thuyết phóng sự có nghệ thuật kết cấu đặc sắc. Các tác phẩm có cốt chuyện
giàu tình huống, tác giả đặt nhân vật vào tình huống gay cấn bất ngờ, dồn dập các sự
kiện, xung đột căng thẳng, gay gắt, các sự kiện biến đổi gấp gáp liên tục làm cho
nhân vật quay cuồng, buộc phải hành động trong các tác phẩm tiêu biểu như: Đứng
trước biển, C lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng,
123
Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải, Mảnh đất lắm người nhiều ma của
Nguy n Khắc Trường…
Đứng trước biển của Nguy n Mạnh Tuấn ngổn ngang các sự kiện, các tình tiết:
vấn đề chống tiêu cực trên con đường tìm ra phương thức làm ăn mới phù hợp với
hiện trạng xã hội để đạt được hiệu quả kinh tế, về vấn đề tổ chức quản lí kinh tế,
việc đánh giá lại một cơ chế xã hội, khả năng áp dụng khoa học kĩ thuật vào sản
xuất, vấn đề sử dụng cán bộ, tình hình thi đua, tình yêu và hạnh phúc gia
đình…Chọn một vấn đề có tính thời sự, năm thứ ba sau giải phóng để phản ánh,
Nguy n Mạnh Tuấn đã đi vào nơi nóng bỏng nhất của lĩnh vực kinh tế, vấn đề quốc
hữu hoá, quốc doanh hoá các xí nghiệp, các công ty tư nhân. Xí nghiệp đánh cá Sao
Mai mà tác giả tập trung xây dựng được sáp nhập từ hai công ty tư nhân lớn Long
Hải và Long Vân. Sau đó, các nơi tiếp tục sáp nhập vào Sao Mai nên có tổng cộng
trên một trăm tàu đánh cá các loại và làm ăn đã thua lỗ kéo dài. Bao nhiêu câu hỏi
đặt ra là làm như thế nào? và làm với ai? để tìm ra một phương thức làm ăn mới,
thay đổi một cơ chế quản lí kinh tế. Các sự kiện di n ra dày đặc: phá bỏ hay cải tiến
xí nghiệp, phá bỏ dần cơ chế cũ đã lạc hậu để áp dụng một cách quản lí kinh tế mới,
cải cách bộ máy quản lí của xí nghiệp đã quá tải, dốt nát, bảo thủ, trì trệ, chắp vá,
nhu nhược…Từ nhân vật Ba Đức, Nguy n Mạnh Tuấn đã khái quát toàn bộ tác
phẩm, phanh phui toàn bộ mặt trái của xí nghiệp bằng hệ thống các biến cố, mâu
thuẫn, tình huống phức tạp. Ba Đức đã dám nhìn thẳng vào thực trạng tồi tệ của xí
nghiệp, nhìn thẳng vào sự bất lực do non kém trình độ tổ chức, quản lý kinh tế để từ
đó sáng suốt tiến hành một cuộc cải tổ vô cùng khó khăn. Ông mạnh dạn chỉ ra
nguyên nhân dẫn đến tình trạng phá sản của xí nghiệp là do cơ chế quản lý cũ kỹ,
lạc hậu người lãnh đạo trình độ quản lý kinh tế yếu, bảo thủ và Ba Đức quyết tâm
cải cách toàn bộ xí nghiệp. Hàng loạt nhiệm vụ được đặt ra và đòi hỏi phải giải
quyết kịp thời. Đổi mới cơ chế lãnh đạo, phương pháp quản lý xí nghiệp, cơ cấu tổ
chức bộ máy cán bộ. Ban hành quy chế của xí nghiệp. Quy định nhiệm vụ, quyền
hạn của cán bộ, công nhân, chức năng nhiệm vụ của các phòng ban. Xây dựng kỷ
luật lao động, an toàn trong sản xuất, thi đua khen thưởng. Đưa ra các biện pháp
124
tuyên truyền, vận động, khuyến khích người lao động, quan tâm đến tâm tư, nguyện
vọng của người lao động…Với mục đích cuối cùng là tăng năng xuất lao động, tăng
hiệu quả công việc, lấy sản lượng cá làm thước đo giá trị lao động của thủy thủ,
thuyền trưởng và của công nhân trong xí nghiệp. Nguy n Mạnh Tuấn đã đặt nhân
vật vào các tình huống giàu kịch tính để đẩy mâu thuẫn lên cao. Ba Đức dám nghĩ,
dám làm nhưng cũng gặp hàng loạt các tình huống hết sức gay cấn: xí nghiệp làm ăn
tồi tệ, cảng cá lộn xộn, bát nháo, trưởng phòng tài vụ Chín Tâm tìm cách chống đối,
gây khó khăn về tài chính, con trai sa lưới pháp luật, tàu đánh cá đang trong thời vụ
làm ăn thiếu thốn vật tư, nguyên liệu, giám đốc cũ không chia sẻ, gánh vác công
việc…Nhưng cuối cùng Ba Đức đã vượt lên tất cả và xây dựng được xí nghiệp ngày
một phát triển.
Cù lao tràm của Nguy n Mạnh Tuấn đề cập đến vấn đề bức xúc của nông thôn
Nam Bộ trên con đường hợp tác hoá. Hiện trạng nông thôn Nam Bộ được khẳng
định: " có thật chín mươi phần trăm ở một xã c lao miền Tây Nam Bộ" [231,
tr.350]. Trong Cù lao tràm cuộc đấu tranh chống tiêu cực di n ra trên nhiều phương
diện, cả lý thuyết và thực ti n (ý thức tư tưởng và thực ti n hành động), cả kinh tế
lẫn văn hoá từ tỉnh đến huyện. Các xung đột di n ra căng thẳng, nhiều khi Năm Trà
bị dồn vào con đường cùng: bí thư huyện uỷ Tư Hoan dồn nén đến án kỉ luật, xoá bỏ
mọi thành tích. Chủ tịch xã Hai Biền cho dân quân bắt giam chín mươi ba hộ nông
dân chưa chịu nộp đơn vào tập đoàn. Năm Trung thể hiện thái độ cương quyết từ
chối đường lối vào tập đoàn mà chủ tịch xã đang cố thực hiện. Hay những tình
huống gay cấn: Năm Trà bị mất chức bí thư chi bộ, Hiệu trưởng Ba Năng bị hành
hung, con gái không chịu ở lại sản xuất…Nguy n Mạnh Tuấn đã nắm bắt nhanh
khẩn trương những vấn đề nóng bỏng của cuộc sống, dám đối mặt với nó, cố gắng
tìm ra những lời giải đáp thắc mắc, băn khoăn của người đọc. Các tình huống lần
lượt xuất hiện, xung đột ngày càng căng thẳng đòi hỏi phải được giải quyết và đẩy
nhân vật sang một giai đoạn mới, một bước ngoặt mới với kiểu kết thúc có hậu. Gần
bảy trăm trang sách, biết bao sự kiện và nhân vật xung đột, mâu thuẫn, di n biến.
Đôi khi tác giả cũng rơi vào hạn chế xây dựng hình tượng nhân vật có tính nguyên
125
mẫu hơn là hình tượng nghệ thuật (chất thông tấn nhiều hơn chất nghệ thuật). Chi
tiết khắc họa nhân vật, chân dung, tính cách nhân vật chưa được cọi trọng và miêu tả
hợp lý, chưa được đầu tư xây dựng chiều sâu nên nhân vật chưa có những ước mơ
khát vọng, tâm tư thầm kín…chưa đạt đến trình độ xuất sắc về nghệ thuật.
Nguy n Mạnh Tuấn đã sử dụng đặc trưng của tiểu thuyết phóng sự kể, phơi bày
là chính, chưa cần gọt dũa, ôm đồm sự kiện nên chưa đạt đến trình độ cao về nghệ
thuật. Cốt truyện có sự kiện các tình tiết được sắp xếp, xoay quanh một biến cố, mỗi
tác phẩm là một chuỗi biến cố, các biến cố tương đối hoàn chỉnh và độc lập, từng
mảng đời sống được ghép trên một mạch truyện thống nhất nhưng có khả năng mở
rộng dung lượng về mọi hướng. Từ đặc điểm này dẫn đến tác phẩm văn học của
Nguy n Mạnh Tuấn có khả năng chuyển thành kịch bản điện ảnh. Nguy n Mạnh
Tuấn chọn cách tổ chức cốt truyện rành mạch, nhiều biến cố, liên tục dồn dập, căng
thẳng, các đoạn tương đối hoàn chỉnh được kết dính, tạo nên một cách tổng thể
thống nhất, mạch truyện phát triển mau l , mở chỗ này, đóng chỗ kia cuốn hút người
đọc, buộc người đọc phải theo dõi. Cốt truyện được tập trung xây dựng hết sức hấp
dẫn, góp phần tạo nên hứng thú cho người đọc. Tiểu thuyết phóng sự giàu sự kiện,
tình huống, hấp dẫn nhưng không rơi vào những nội dung đã quá nhàm chán như:
những khách sạn và gái điếm, du đãng, bảo kê, lừa lọc, cạm bẫy…Tác phẩm hấp
dẫn bởi những xung đột, mâu thuẫn gay gắt mang ý nghĩa xã hội và thời sự cấp bách
của nó.
Cũng như Nguy n Mạnh Tuấn, Ma Văn Kháng hăng hái viết về những mặt trái
tiêu cực của xã hội. Tác giả đã quan tâm đến số phận con người và những biến động
của nó trong xã hội thời mở cửa. Tác phẩm của Ma Văn Kháng thể hiện tinh thần
chống tiêu cực quyết liệt, tác giả đã hướng phản ánh của mình vào những mặt trái
của xã hội và đã mạnh dạn đề cập đến những vấn đề tiêu cực bằng tác phẩm văn
học. Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng rất nhiều sự kiện, tình tiết, gay cấn, có nhiều
mâu thuẫn được đẩy lên tới đỉnh điểm. Viết về những con người nghiên cứu cách
tìm và diệt tổ mối trong thân đê, Ma Văn Kháng đã quan tâm đến vấn đề bảo vệ đê
điều, chống thiên tai lũ lụt của nhân dân Việt Nam. Từ việc chống thiên tai, tác giả
126
muốn nói đến: "chống những hiện tượng tiêu cực, ngăn trở cuộc sống chân chính,
cản bước đi lên Chủ nghĩa xã hội"[195]. Hàng loạt các vấn đề được đặt ra: tình hình
chống bão lụt, đấu tranh giữa cái tích cực và cái tiêu cực, vấn đề miếng cơm manh
áo hàng ngày, những kẻ quay cuồng vì đồng tiền…nhiều nhân vật được tác giả lật
tẩy bản chất. Mưa m a hạ có nhiều xung đột mâu thuẫn tập trung vào nhân vật
Trọng. Là một trí thức trẻ, nhiệt huyết, say mê với nghiên cứu khoa học và công
việc nhưng cuộc đời đã không ưu ái anh. Bị vùi dập, đố kỵ, va vấp và cản trở trong
công việc nhưng Trọng vẫn yêu nghề, anh quyết tâm bảo vệ chân lý khoa học đến
cùng. Gặp phải trắc trở trên đường đời, nhiều phen uất ức khi va chạm với những
con người ích kỷ nhỏ nhen trong công việc, anh rơi vào thất vọng. Nghiên cứu về
vấn đề đê điều, Trọng đã ngộ ra thực trạng cuộc sống hiện nay: "Cuộc đấu tranh
trên những con đê có cái gì đó gần gũi lắm với cuộc đời hiện nay. Nhìn thấy tính
chất phức tạp của cuộc đấu tranh chống tiêu cực, nhưng thái độ, hành động của
Trọng lại thiếu bình tĩnh, có phần đơn độc. Từ một tầm tư tưởng cao hơn, và chỗ
đứng đúng đắn hơn, Nam và Ngoạn nhận rõ thực trạng của cuộc sống hiện nay"
[195]. Ma Văn Kháng đã để cho Trọng nhiều khi bị cắn rứt lương tâm, bị thử thách
trước những cái lưới cuộc đời giăng ra. Đó là những tệ nạn, tiêu cực trong vấn đề
cơm áo hàng ngày, trong quan niệm về đạo lý thông thường đã bị xáo trộn, gây nên
sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người. Trước những kẻ lợi dụng tình hình khó khăn
của xã hội, tìm mọi cách để tiến thân, trước cám dỗ của vật chất, trước tình
yêu…Trong con người của Trọng đôi lúc bị giằng xé, toan tính khiến anh phải rất
tỉnh táo để lựa chọn cho mình một hướng đi đúng đắn. Trong tình yêu của anh cũng
tồn tại nhiều sự đối lập, gây nên những xáo trộn, tranh luận quyết liệt. Trong anh
luôn tồn tại mâu thuẫn không sao giải quyết được. Loan, ngây thơ hồn nhiên, trong
sáng ngày xưa anh yêu thương hết mực và Loan thực dụng, ích kỷ, thô thiển bây giờ
nhưng Trọng vẫn yêu và tình yêu ấy anh thấy mong manh, vô cùng xa lạ song Trọng
không sao dứt ra đựơc. Ma Văn Kháng đẩy mâu thuẫn tới đỉnh cao đó là cuộc quyết
chiến giữa con người với thiên nhiên và cũng là việc khẳng định mình của những
con người hết lòng vì công việc và yêu khoa học. Trọng đã hy sinh trong khi cùng
127
mọi người quên mình cứu con đê nhưng tấm gương của anh thì còn mãi trong tâm
trí người đọc vì tinh thần dũng cảm và say mê nghiên cứu khoa học.
Với thế mạnh của tiểu thuyết phóng sự, Mưa m a hạ đã mang đến cho người
đọc sự cảm thông đối với những con người chân chính bị vùi dập và thái độ phẫn
uất những kẻ cơ hội, bất nhân. Mưa m a hạ dày đặc các sự kiện, biến cố, tình huống
căng thẳng, mâu thuẫn, không khí ngột ngạt như trước mỗi cơn mưa, đặc biệt là cơn
mưa mùa hạ. Không khí ấy, gây nên những dằn vặt, trăn trở trong tâm trí người đọc.
Mặc dù, cách lý giải các số phận của nhân vật còn có phần đơn giản nhưng Mưa
m a hạ muốn khẳng định cái xu hướng tất yếu của cái tích cực với tiêu cực, cái cao
cả với sự thấp hèn…Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng đã đề cập đến vấn đề tổ mối
trong thân đê nhưng sự thể hiện này chỉ có tính chất tượng trưng. Mong muốn của
tác giả là thông qua đó để nói tới con người, mỗi người cần phải soi lại chính mình
để tự hoàn thiện và sống có ích hơn trong cuộc đời.
Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải đầy ắp các sự kiện, tình huống, những
xung đột, mâu thuẫn bị dồn nén căng thẳng và lên đến đỉnh điểm. Ngòi bút tiểu
thuyết phóng sự sắc sảo của Nguy n Khải đã chỉ ra cho người đọc những kẻ lợi
dụng tôn giáo đang ngày đêm phá hoại cuộc sống và con người. Điều tra về một cái
chết được thể hiện bằng một loạt mâu thuẫn của nhân vật Tư Tốn. Anh ta là một con
chiên ngoan đạo, đã quá tôn thờ lý tưởng tôn giáo. Nhưng anh đã nhầm vì những gì
anh đặt hết niềm tin vào đó thì nay không phải như thế. Tư Tốn như người vô hồn,
lang thang, bế tắc không tìm ra con đường cho mình. Mâu thuẫn đã được đẩy lên tới
đỉnh điểm. Bên bờ vực thẳm vì đức tin không còn anh đã tìm đến cái chết để tự giải
thoát cuộc đời. Bốn mươi tuổi nhưng Tư Tốn đã phải chết một cách oan ức khi niềm
tin tôn giáo không còn. Bằng sự nhạy cảm của một nhà văn luôn khao khát tìm hiểu
sự thật lòng người, Nguy n Khải đã ngụp lặn vào sự hỗn độn của những sự kiện, sự
việc để lần tìm ra đầu mối của cái sợi dây bí ẩn, cột chặt người dân xứ đạo với nhà
thờ. Tác giả nhận thức đúng đắn về tôn giáo. Nếu tôn giáo chân chính phải phục vụ
cho cuộc sống của con người, và chúng ta rất đề cao tôn giáo vì con người. Điều tra
128
về một cái chết của Nguy n Khải mong muốn có sự hoà hợp giữa các tôn giáo Việt
Nam để xây dựng đất nước giàu đ p hơn.
Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường có nhiều sự kiện dồn
dập, tình tiết, mâu thuẫn căng thẳng. Đó là thực trạng nông thôn dữ dội, đói nghèo,
xung đột, gây bè kéo cánh, tranh giành lẫn nhau. Hàng loạt sự kiện xảy ra như: tranh
giành quyền lực, mượn danh nghĩa tập thể để đấu đá, thù hằn giữa hai dòng họ, đào
mả bố nhau, bày mưu tính kế để lừa những người hiền lành lương thiện...Trong
Mảnh đất lắm người nhiều ma người ta mượn dòng họ để trừng trị nhau, mượn danh
tập thể, tổ chức để lật nhau, hạ gục nhau…leo lên chức này chức kia. Mối thù truyền
kiếp của hai dòng họ đã lên đỉnh điểm khiến người ta có thể làm chuyện xưa nay
chưa từng có, đào mả lên để yểm bùa. Tình làng nghĩa xóm không còn, chỉ toàn
lòng hận thù. Vì mối thù giữa hai dòng họ Trịnh Bá và Vũ Đình, người ta không trừ
một thủ đoạn nào. Những người thân trong gia đình, người hiền lành cũng bị lợi
dụng trở thành mục tiêu sát phạt của hai dòng họ như bà Son, lão Quyềnh. Bà Son,
khi còn trẻ: "… đẹp nhất làng. Mặt hoa da phấn, thắt đáy lưng ong. Đi một bước là
có người theo, người ghẹo một bước. Nhưng chưa có anh nào lọt được vào cặp mắt
lá răm vừa đen vừa sắc của cô" [226], bà là niềm mơ ước khát khao của bao trai
làng, song cuộc đời lại đầy bất hạnh. Phải theo ý cha m , bà Son dứt bỏ mối tình với
giáo Phúc kết hôn với anh Hàm: " một người không được hào hoa phong nhã như
cậu giáo Phúc"[226]. Cuộc hôn nhân đó, là một sự giày vò, đầy đọa khủng khiếp
đối với một cô gái đ p như Son. Khi phải chung sống cùng người chồng xấu xí thô
bỉ, bao khát khao yêu đương bà đành đào sâu chôn chặt trong lòng. Bà Son sống âm
thầm, lặng lẽ hết lòng cung phụng chồng con. Là con dâu trưởng được cả dòng họ
nhà chồng khâm phục kính nể. Bà Son là một người phụ nữ dịu hiền, chịu thương,
chịu khó, bà chỉ có một mong muốn đơn giản là sống yên phận mà cũng không
được. Tình huống trở nên căng thẳng, bị dồn đẩy vào chỗ khó xử. Vì chồng, vì con
và dòng họ, bà đã chịu sự sai bảo của nhà chồng trở thành kẻ dối trá, vu khống cho
người mình thương yêu để bảo vệ thanh danh cho nhà chồng cứu lão chồng bỉ ổi
khỏi vòng tù tội vì đào trộm mả cha kẻ tình địch. Bà đã bị lợi dụng nhưng vì chồng
129
vì con và cả dòng họ nhà chồng nên: “Còn một chút gì trong đáy lòng bà, bà phải
vét nốt! Cái điều xưa kia là tội lỗi, là tai tiếng để cả dòng họ phải khổ lây, là cái gai
trong lòng ông Hàm thì bây giờ lại là lá b a bảo hộ cho chính ông Hàm, cho cả
dòng họ Trịnh Bá!”[226]...
Thời điểm những năm sau đổi mới, văn chương với tinh thần phê phán, dám nói
thẳng nói thật và thể hiện thái độ dám chịu trách nhiệm trước những điều mình viết
ra được số đông độc giả quan tâm. Với kết tinh thể loại trên tinh thần tìm tòi và cách
tân các nhà văn đã góp phần làm phong phú thành tựu của thể tài tiểu thuyết phóng
sự từ sau 1975 đến hết thế kỷ XX.
4.3.2.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật đa dạng
Tiểu thuyết phóng sự giai đoạn này đã xây dựng một thế giới nhân vật đa dạng.
Đó là những con người tích cực, tiêu biểu cho cái mới, cái tiến bộ, cái tốt và con
người tiêu cực, tiêu biểu cho cái xấu, cái lạc hậu. Trong văn học giai đoạn trước,
nhân vật tích cực thường được nhấn mạnh ở lập trường chính trị, nhiệt tình cống
hiến, ít được chú ý đến tài năng và trí tuệ. Trong Đứng trước biển, C lao Tràm
Nguy n Mạnh Tuấn đã khẳng định lại quan niệm này, buộc người ta phải nhìn nhận
lại giá trị tài năng của nhân vật Ba Đức. Đây là một nhân vật tích cực được Nguy n
Mạnh Tuấn dành rất nhiều công sức miêu tả. Ba Đức là một giám đốc hơn hẳn các
giám đốc khác ở chỗ, ông dám nhìn thẳng vào thực trạng tồi tệ của xí nghiệp, nhìn
thẳng vào sự bất lực do non kém trình độ tổ chức, quản lý để từ đó sáng suốt tiến
hành một cuộc cải tổ khó khăn nhưng đúng đắn nhất. Ông cũng không vội vã đổ lỗi
cho điều kiện khách quan mà nhận thức được nguyên nhân chủ yếu là cơ chế lãnh
đạo quản lý đã lạc hậu với những người lãnh đạo trì trệ, bảo thủ. Ông nung nấu
quyết tâm cải cách toàn bộ xí nghiệp, từ cơ chế lãnh đạo đến phương pháp quản lý,
từ vấn đề tổ chức bộ máy cán bộ đến việc xác lập kỉ luật nề nếp mới trong sản xuất,
từ việc sử dụng quyền hạn của giám đốc đến các biện pháp tuyên truyền, khuyến
khích bằng lợi ích vật chất cho người lao động…Mục đích tối cao của tất cả mọi đổi
thay này là nhằm tăng năng xuất lao động, tăng hiệu quả làm việc, lấy sản lượng cá
làm thước đo giá trị đích thực của thủy thủ, thuyền trưởng và của mọi người trong xí
130
nghiệp. Ông biết con người là mấu chốt của mọi vấn đề, nên không thể tăng năng
xuất nếu con người không được chăm sóc tốt. Ngay việc nhìn nhận sử dụng cán bộ
trẻ cũng thể hiện quan niệm tích cực của Ba Đức: "…quan điểm của tôi khi đánh giá
bọn trẻ, mình phải cố đứng vào hoàn cảnh của chúng mà xét chứ không nên lấy tuổi
trẻ của mình ra mà xét chúng. Tuổi trẻ của mình là anh nông dân mặc áo lính. Còn
tuổi trẻ của chúng là tri thức thời đại công nghiệp. Về tương lai chúng sẽ sống lâu
hơn mình. Nếu hiện tại, mình không cố gắng đánh giá đúng chúng, tới lúc mình
chết, sẽ không có ngày giỗ đâu." [233, tr.165]. Vào thời điểm những năm tám mươi,
không phải người Việt Nam nào cũng tán thành với Ba Đức. Chính quan niệm sử
dụng cán bộ tích cực của Ba Đức đã giúp ông có thể tập hợp được đội ngũ cán bộ
tốt. Là người cộng sản, Ba Đức vô cùng đau xót trước sự trì trệ của xí nghiệp, trước
đời sống nghèo khổ của thủy thủ và công nhân xí nghiệp. Ông đã ủng hộ những cái
mới với thái độ dứt khoát: "Riêng tôi, tôi cho r ng, cứ phá ra mà làm, có thể sẽ sai
lầm hay thất bại, nhưng sự vỡ ra này vừa là thể nghiệm cũng vừa là thực tế bức
bách ta khẩn cấp tìm tòi sáng tạo và dứt khoát sẽ tìm được lối đi sáng sủa, đúng đắn
nhất. Còn hơn ngàn lần sự trì trệ ngưng đọng trong yên ổn giả tạo. Tới một lúc nào
đó hối không kịp" [233, tr.204].
Cù lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn đã tập trung vào xây dựng nhân vật tích
cực điển hình Năm Trà. Nguy n Mạnh Tuấn đã để cho nhân vật tự bộc lộ qua suy
nghĩ, hành động của mình. Năm Trà từ miền Bắc trở về, sau chuyến đi học tập kinh
nghiệm làm ăn, chị đã xây dựng một cung cách làm ăn mới, kiên quyết thực hiện
chủ trương cải tạo và xây dựng nông thôn theo nhận thức mà chị thu hoạch được.
Cuộc đời Năm Trà là tấm gương sáng về bản lĩnh, có tầm nhìn xa, dám đấu tranh và
đấu tranh đến cùng để chống lại mọi sai trái của những loại cán bộ cơ hội, dù họ ở
cương vị nào, thậm chí là cấp trên trực tiếp lãnh đạo mình.
Như vậy, nhân vật tích cực của Nguy n Mạnh Tuấn ít nhiều đều là những con
người "đi trước thời đại", lấy lợi ích nhân dân làm chuẩn chứ không bảo thủ khi chủ
trương của nhà nước cùng với những tư tưởng ở nhiều cán bộ đã lỗi thời. Nhân vật
tích cực trong tiểu thuyết phóng sự Nguy n Mạnh Tuấn là sự kết hợp nhuần nhuy n,
131
hài hòa giữa tính chân thực khách quan với tính lý tưởng. Không phải nhà văn nào
cũng thành công ở phương diện này. Nhiều tiểu thuyết viết về đề tài xây dựng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta trước 1975 đều có tình trạng: nhân vật phản diện hoặc tiêu
cực thường sắc sảo và chân thực hơn còn những nhân vật tích cực, nhân vật chính
diện, những con người mới, thường mờ nhạt, khô cứng, thiếu hơi thở của cuộc sống
thực nên thiếu sức thuyết phục và thường để lại cảm giác hời hợt. Tiểu thuyết phóng
sự của Nguy n Mạnh Tuấn đã phần nào vượt qua tình trạng đáng buồn ấy. Nhân vật
tích cực trong tác phẩm của anh vừa là con người của đời thường với những dục
vọng bình thường lại vừa là con người lớn hơn các hoàn cảnh đã sinh ra nó, trở
thành hình mẫu của tương lai. Qua những nhân vật ấy, người đọc không bị cảm giác
về một ngòi bút công thức, d gây ức chế mà tin rằng trong những hoàn cảnh, tình
thế ấy, nhân vật tất yếu phải nói như vậy, phải làm như vậy. Chẳng hạn, quyết định
của Ba Đức: "Ai trong chúng ta, kể cả tôi, không đảm đương trách nhiệm mình đang
giữ, đã tới lúc tự sáng suốt nhận ra và dũng cảm nhường chỗ cho người khác xứng
đáng hơn…từ nay, trên cương vị giám đốc, tôi sẽ cương quyết thực hiện và bảo vệ
mọi quan điểm lãnh đạo xí nghiệp mà tôi tin mình đang đúng. Thời gian vừa đủ sẽ
kiểm nghiệm các kết quả. Và kết quả này sẽ khẳng định năng lực của tôi. Nếu thất
bại, có nghĩa là tôi không làm nổi công việc quá sức mình. Tôi sẽ tự nguyện từ
chức" [233, tr.201-202]. Khi đó, Ba Đức bị dồn tới chân tường nếu do dự một chút,
nhân nhượng một chút thôi "phe bảo thủ" sẽ quật ngã ông. Khi mới về xí nghiệp
ông cũng dự định sử dụng biện pháp quản lý ôn hòa để không làm đảo lộn nề nếp
cũ. Nhưng ông đã thất bại. Xí nghiệp bê bối vẫn hoàn bê bối. Nhận ra sai lầm của
lối lãnh đạo ôn hòa, Ba Đức quyết định lao vào cuộc chiến đấu mới: "Tại sao "làm
chủ", rút cục lại khổ hơn trước ?Tại sao cố gắng để mọi việc "tốt đẹp", vẫn đầy rẫy
những phi lý, bất công, tiêu cực? Những câu hỏi rất nhiều và nếu không trả lời kịp
thời và hợp lý b ng thực tế thì biện chứng đúng đắn của mọi thứ lý thuyết đều biến
thành không tưởng". Phải có kết quả tốt đẹp của thực tế. Muốn đạt được kết quả
này chúng ta phải chịu đựng một sự đổi thay. Nhất định phải như vậy" [233, tr.203].
Nhân vật tích cực trong tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn không phải là
132
những người không có tỳ vết cho nên những người này, không quá xa lạ với người
đọc. Họ cũng có đời sống thường nhật, với tất cả ưu và nhược điểm thông thường
của cõi người. Ba Đức đã có lúc suy tư dằn vặt, nhân nhượng trong điều hành công
việc. Ông băn khoăn không vứt bỏ Năm Miên mặc dù biết quá rõ bản chất ích kỉ của
anh ta chỉ vì mắc nợ với người ta. Ông không chấp nhận tình yêu của con trai với
Liên vì cô đã từng có một đời chồng. Khi xí nghiệp làm ăn tốt, trở thành xí nghiệp
tiên tiến, ông cũng muốn người đời nịnh bợ, ngợi ca. Năm Trà, mặc dù là một bí thư
xã giàu bản lĩnh nhưng vẫn có lúc nhu nhược, nh dạ và tin người nên bị mắc lừa, bị
kết tội: "chống lại đường lối chính sách của Đảng". Những biểu hiện đa dạng và
phức tạp ấy đã khiến cho tính cách của nhân vật sống động, chân thực, rất đời
thường, khiến họ gần gũi và thuyết phục người đọc hơn. Những nhân vật tích cực
như Ba Đức, Năm Trà, Mười Tân, Ba Năng vừa là sản phẩm của thời đại đã qua vừa
báo trước sự xuất hiện của một thời đại mới.
Bên cạnh nhân vật tích cực, tiểu thuyết phóng sự còn phơi bày, lật tẩy những
nhân vật cơ hội, lạc hậu, bảo thủ một cách khá sinh động, phong phú. Trong Đứng
trước biển và Cù lao Tràm Nguy n Mạnh Tuấn khắc họa nhân vật tiêu cực ở ngay
trong hàng ngũ cách mạng, trong lòng nhân dân. Do vốn sống phong phú, trình độ
nhận thức sâu hơn về đối tượng, Nguy n Mạnh Tuấn đã xây dựng được một số nhân
vật đạt đến độ điển hình khá sâu sắc như: Năm Miên, Chín Tâm trong Ðứng trước
biển, Tư Khanh, Tư Hoan, Tư Sáng trong Cù lao Tràm. Những nhân vật này, chúng
ta như đã gặp đâu đấy, hàng ngày xung quanh mình hay thoáng ở một nơi nào đó.
Phó giám đốc phụ trách tổ chức Năm Miên trong Đứng trước biển, một nhân vật
điển hình cho loại người máy móc, cực đoan, rất giả dối. Năm Miên luôn hô hào
mọi người phải cảnh giác, chuyên chính vô sản và có đạo đức cộng sản nhưng lại
tìm mọi cách để hại người hơn mình. Năm Miên chỉ chăm lo cho lợi ích của cá
nhân. Những người đầy uy quyền và hống hách, quan liêu như trưởng phòng tài vụ
Chín Tâm, điển hình cho loại người dốt nát nhưng đầy tham vọng về quyền lực. Ở
loại người ấy, chân lý chính là do họ định ra. Tiền bạc của nhân dân và Nhà nước
được họ coi như một phương tiện để lũng đoạn mọi chuẩn mực, đổi trắng thay đen
133
như trở bàn tay và dùng cho ban phát ơn huệ. Tư Khanh là kẻ xảo trá và cơ hội, luôn
miệng: "…em nhiệt liệt tán thành ý kiến của chị Năm" nhưng thâm tâm lại đang
toan tính âm mưu quỷ quyệt. Đó cũng là loại người cục bộ địa phương một cách lố
bịch, có năng lực đấy nhưng lòng đầy đố kỵ "luôn luôn sợ những người hơn mình
hơn sợ kẻ th " [231, tr.133]. Hàng loạt nhân vật tiêu cực được Nguy n Mạnh Tuấn
phơi bày, lật tẩy với một thái độ phê phán dứt khoát nhưng không nghiêm trọng hóa.
Anh bình tĩnh phân tích, lí giải tận cội nguồn dẫn con người đến sự tha hóa. Sở dĩ
Năm Miên, Chín Tâm dám tác oai, tác quái như vậy chính là do cơ chế quản lý quan
liêu, trì trệ, duy ý chí, dung túng đã tạo điều kiện cho chúng. Trưởng phòng tài vụ
Chín Tâm làm sao có thể yên thân nếu không có một lãnh đạo nhu nhược, thiếu
năng lực lãnh đạo như Lê Tám. Tư Hoan, Tư Khanh là những kẻ cơ hội, thích phô
trương hình thức và dám ngang nhiên làm trái đường lối chính sách cải tạo và xây
dựng nông thôn…Qua hình tượng các nhân vật tiêu cực, người đọc không những
nhìn thấu bản chất của những kẻ cơ hội mà còn thấy được cả những nguyên nhân
dẫn đến những hành vi tiêu cực của chúng. Một đặc điểm khá nổi bật trong việc xây
dựng nhân vật tiêu cực trong tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn là phê
phán các nhân vật ấy theo một tiêu chí đúng, sai nhất quán: cái đúng là cái phù hợp
với điều kiện thực tế của cuộc sống, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội thiết thực, cái
không phù hợp với thực ti n đổi mới sẽ trở thành sai. Đó cũng chính là cơ sở khoa
học để nhà văn phê phán một giám đốc như Lê Tám. Mặc dù Lê Tám có phẩm chất
đạo đức trong sáng, nhiệt tình, tận tụy với công việc nhưng thiếu năng lực lãnh đạo,
thiếu sự nhạy bén trong nhận thức cái mới và trở nên bất lực trước cuộc sống bấp
bênh của công nhân. Hoặc một chủ tịch xã như Hai Biền có bản chất cách mạng
trung thành, hăng hái trong mọi công việc nhưng không nhận ra sai lầm của mình
khi anh ta mang mọi ứng xử của cuộc sống thời chiến vào thời bình. Cũng nhờ xác
định rõ được ranh giới giữa đúng và sai, tốt và xấu, tiến bộ và lạc hậu, thái độ khẳng
định con người hay phê phán, tác phẩm đã giàu tính thuyết phục, không rơi vào
gượng ép. Nhà văn không né tránh cái điều trước đây nhiều người không dám đụng
đến. Đó là sự bất ổn của cơ chế Nhà nước, sự kém cỏi về năng lực và đạo đức của
134
các nhà quản lý. Nguy n Mạnh Tuấn thuộc số ít nhà văn, đã dũng cảm sớm đề cập
đến những vấn đề tiêu cực một cách thời sự và phơi bày chúng trong các tiểu thuyết
phóng sự. Trong tác phẩm của anh, có những nhân vật quyền cao chức trọng nhưng
không gương mẫu và năng lực kém. Đó là,Thứ trưởng thiếu kiên quyết, một vị
tướng nhu nhược và bất lực, một Phó bí thư Tỉnh ủy quan liêu, kiêu ngạo. Nguy n
Mạnh Tuấn thường thể hiện tính cách nhân vật qua hành động, nhất là hành động
trong những tình huống dồn dập, căng thẳng. Nguy n Khải xây dựng tính cách nhân
vật chủ yếu qua miêu tả tâm lý còn Nguy n Mạnh Tuấn tập trung vào miêu tả hành
động. Tác giả đặt nhân vật vào các tình huống giàu kịch tính để nhân vật có thể hành
động liên tục, từ đó nhân vật có điều kiện bộc lộ rõ bản chất, tính cách của mình.
Trong Đứng trước biển, muốn bộc lộ nét tính cách đặc trưng của Ba Đức là dám
nghĩ dám làm, tác giả đã đặt nhân vật vào một loạt các tình huống hết sức gay cấn:
tình trạng xí nghiệp bê bối, cảng cá lộn xộn, trưởng phòng tài vụ Chín Tâm tìm đủ
cách để gây khó khăn về tài chính, Ba Phi, con trai duy nhất thì bị công an giữ vì
bán xăng dầu trái phép, vật tư, phụ tùng thay thế cho tàu đánh cá trong lúc thời vụ
khẩn trương thiếu nghiêm trọng, giám đốc cũ Lê Tám bất mãn, lừng chừng không
ủng hộ…Giữa lúc Ba Đức đang đau đầu vì hàng loạt vấn đề tại xí nghiệp thì vợ ông
bị bệnh nặng phải cấp cứu, nhà bị đòi…Chính những tình huống đó làm tính cách
Ba Đức bộc lộ mạnh mẽ nhất: quyết đoán, giàu bản lĩnh, ông dứt khoát phá bỏ cơ
chế quản lý cũ, cải cách toàn bộ xí nghiệp. Trong Cù lao Tràm, tính cách của người
nông dân Nam Bộ chỉ bộc lộ mạnh mẽ khi xảy ra xung đột căng thẳng. Đó là, chủ
tịch xã Hai Biền cho dân quân bắt giam chín mươi ba hộ nông dân chưa chịu nộp
đơn vào tập đoàn. Đối mặt với Hai Biền, Năm Trung đã đứng bật dậy tuyên bố thái
độ quyết liệt khước từ vào tập đoàn mà Hai Biền đang cố thực thi: "đánh giặc là
chánh nghĩa, nên mất xương máu tao cũng mất huống chi ruộng vườn. Còn bây giờ
hả?Toàn những chuyện bê bối, một mẩy đất, chết tao cũng không nhả. Vô tập đoàn
mà sống, không phải mời ta c ng vô, chớ vô để ăn cháo, uống nước trắng… có
chém đầu tao cũng không theo" [233, tr.112].
135
Khi đem so sánh với các tác giả khác, tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh
Tuấn rất giàu kịch tính và cuốn hút người đọc một phần quan trọng là nhờ hành
động bất ngờ của nhân vật trong tình huống căng thẳng. Mối quan hệ qua lại giữa
hoàn cảnh và tính cách nhân vật được Nguy n Mạnh Tuấn xử lí khá nhuần nhuy n.
Tác giả đã tạo dựng được những hoàn cảnh điển hình để khám phá con người. Dù
đó là chuyện một gia đình, một xí nghiệp hay một xã ấp, tác giả cũng phát hiện ra
những ý nghĩa xã hội phổ biến. Tuy nhiên, về cấu trúc nhân vật, tiểu thuyết phóng
sự của Nguy n Mạnh Tuấn chưa có thay đổi gì đáng kể so với truyền thống. Hành
động của nhân vật, thường là bộc lộ dần tính cách đã có sẵn chứ không phát triển,
thay đổi tính cách ngay. Nếu như nhiều nhân vật của Nguy n Khải có khả năng tự
mổ xẻ thế giới nội tâm của mình để qua một số hành động then chốt ở điểm nút của
mâu thuẫn, tính cách nhân vật có sự đột biến thì nhân vật của Nguy n Mạnh Tuấn,
bản chất của họ được xác định ngay từ đầu, trong quá trình phát triển cốt truyện các
nét tính cách được hoàn chỉnh dần chứ không đột biến. Trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật, Nguy n Mạnh Tuấn thường ít sử dụng độc thoại nội tâm để miêu tả đời
sống bên trong của nhân vật. Vì thế, nhiều nhà nghiên cứu, phê bình nhận xét về
nhân vật của anh thiếu chiều sâu tâm lý, chưa đặc sắc về nghệ thuật. Nhân vật của
anh ít có những dằn vặt nội tâm dữ dội như các nhân vật của Nguy n Khải hay Ma
Văn Kháng. Tuy nhiên, từ Đứng trước biển đến C lao Tràm nhược điểm này được
anh khắc phục ít nhiều. Cù lao Tràm, do đặt nhân vật ở vị trí người trong cuộc tự kể
về mình nên tác giả có điều kiện đi sâu vào thể hiện đời sống tâm lí bên trong của
nhân vật. Giống như một cuốn nhật kí, tính cách của Năm Trà được bộc lộ khá sâu
sắc và cảm động qua nhiều đoạn độc thoại nội tâm, qua những suy nghĩ, những day
dứt của nhân vật trước vấn đề của đời sống (chẳng hạn những đoạn thể hiện suy
nghĩ của Năm Trà với má mình, hay các đoạn độc thoại nội tâm của Năm Trà khi bị
mất chức bí thư chi bộ, khi hiệu trưởng Ba Năng bị hành hung, khi giữ đứa con gái
yêu quí ở lại sản xuất, khi đối đầu với Tư Khanh, Tư Hoan ...) qua nhân vật Năm
Trà, Nguy n Mạnh Tuấn đã cố gắng trong việc nhập vai nhân vật. Trong tác phẩm
có rất nhiều các nhân vật xuất hiện như: Năm Trà, Ba Năng, Mười Tân, Chín Bảo,
136
Hai Biền, Tư Hoan, Tư Khanh, Ba Hoàng, Bảy Long…Mỗi nhân vật một vẻ, vừa có
những đặc điểm tiêu biểu cho một kiểu người nhất định, vừa có những nét riêng độc
đáo nên đã để lại những dấu ấn khó quên trong lòng độc giả. Nguy n Mạnh Tuấn
nắm bắt nhanh những vấn đề sôi động của cuộc sống và dám đối mặt với nó, cố
gắng tìm ra những giải pháp góp phần trả lời những băn khoăn của chính người đọc.
Nhiều khi, chính sự nóng vội khiến tác phẩm của Nguy n Mạnh Tuấn còn hạn chế.
Đôi khi nhân vật (cả chính diện lẫn phản diện) còn mang tính nguyên mẫu hơn là
hình tượng nghệ thuật. Những chi tiết khắc họa chân dung ngoại hình, tính cách
nhân vật chưa được chú ý đúng mức. Chiều sâu nội tâm nhân vật, những ước mơ
khát vọng đời thường, những tâm tư, ước nguyện riêng tư thầm kín chưa được coi
trọng, chưa được miêu tả hợp lí…Hạn chế này, một phần xuất phát từ đặc điểm của
thể loại tiểu thuyết phóng sự: chất thông tấn báo chí nhiều hơn chất nghệ thuật. Với
những tác phẩm sau, Nguy n Mạnh Tuấn đã khắc phục được điểm này, khi suy tư
nhiều hơn về thân phận con người và xây dựng được nhân vật thành công hơn.
Tóm lại, trong các tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn cách xây dựng
nhân vật đa dạng với nhiều tính cách, đặc điểm khác nhau giống như một dấu gạch
nối giữa truyền thống và hiện đại. Nguy n Mạnh Tuấn đã phát huy thế mạnh của
phóng sự là sẵn sàng phanh phui, phơi bày một cách nhanh nhất trên sự kết hợp với
nghệ thuật miêu tả, hư cấu của tiểu thuyết để kịp thời đưa ra những vấn đề có tính
thời sự của xã hội.
Nguy n Khắc Trường đã xây dựng được một hệ thống nhân vật đa dạng ở nông
thôn Việt Nam những năm đầu đổi mới với nhiều vấn đề cần phải nhìn lại, nhận
thức lại. Các nhà văn giai đoạn trước thường quan tâm đến cái chung, đến phong
trào hơn là con người. Những gì thuộc về riêng tư con người thường ít có tư cách
tồn tại độc lập bởi vì không có cơ sở xã hội, không có chỗ đứng cho “cái riêng” cho
“cá nhân” cho thân phận con người và hạnh phúc cá nhân. Trong Mảnh đất lắm
người nhiều ma, tác giả đã mạnh dạn thể hiện ở góc nhìn phê phán, những con
người khôn ngoan, lọc lõi biết lợi dụng hoàn cảnh, nắm lấy hoàn cảnh để tiến thân
bằng những thủ đoạn bỉ ổi, đốn mạt. Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n
137
Khắc Trường xây dựng được thế giới nhân vật đa dạng đã đánh dấu một bước tiến
trong văn xuôi đổi mới. Tác giả đã để nhân vật xuất hiện đúng với bản chất của
mình cho dù cố tình dấu trong một cái vỏ bọc an toàn.
Trịnh Bá Thủ là người ở cương vị đứng đầu bộ máy quyền lực một xã. Trịnh Bá
Thủ là nhân vật đáng gờm bởi những thủ đoạn có một không hai của hắn. Một kẻ
thủ đoạn, nham hiểm, tàn nhẫn, độc ác. Thủ dùng dòng họ để kéo bè, kết cánh củng
cố quyền lực của bản thân.Theo suy tính của hắn, trong họ có người nắm chính
quyền thì hắn mới có công cụ trong tay, mới lợi dụng được danh nghĩa tổ chức
Đảng để trục lợi, thực hiện tham vọng của mình. Lão Thủ không nhậu nh t, rượu
chè say sưa nhưng hắn lại sa vào men quyền lực. Quyền lực đã trở thành ma lực để
hút hắn, là một thứ không khí để hắn hít thở hằng ngày, quyền lực đã biến hắn thành
một kẻ độc đoán: “hàng ngày đến đây là Thủ có niềm thích thú là được nhấm nháp
ngắm vuốt cái quyền lực của mình, nó hiện ra trong những săn đón, cung phụng ở
xung quanh” [226, tr.166]. Hắn sẵn sàng làm tất cả chỉ vì quyền lực. Hắn đã dùng
mọi thủ đoạn bỉ ổi, đê tiện, hèn mạt nhất để đạt được mục đích của mình. Thủ đã
bày binh bố trận, lập mưu, dùng bà Son và Cao để vu khống cho Vũ Đình Phúc, kẻ
thù số một của hắn phải gục ngã trên chiến trường chính trị. Con ma quyền lực đã
ăn sâu vào con người của Thủ tiêu diệt chất thanh niên, bản lĩnh một thời trai trẻ của
hắn, khiến Thủ trở thành một kẻ hoàn toàn khác, một con ma độc ác, thủ đoạn,
nham hiểm đến ghê người. Trịnh Bá Thủ đã dùng thủ đoạn hết sức bỉ ổi và độc ác,
đó là dùng Cao, trợ thủ đắc lực của mình làm nhục bà Son để đổ tội cho Phúc, khiến
bà Son phải tìm đến cái chết cay đắng và tủi nhục. Trịnh Bá Thủ, chính là thủ phạm
gián tiếp đẩy bà Son tìm đến cái chết oan ức, nghiệt ngã kết li u đời mình. Trịnh Bá
Thủ, bí thư Đảng bộ một xã có bề ngoài với phong thái là người có học, thâm trầm,
biết cương, biết nhu, luôn tính toán kỹ càng mọi việc trước sau rất cẩn thận. Trịnh
Bá Thủ bề ngoài là con người gương mẫu, một cán bộ hết lòng vì dân. Để chứng tỏ
mình là con người năng động, được cấp trên chú ý cất nhắc, Thủ không từ chối bất
cứ một việc gì, dù khó khăn nặng nhọc. Với đối thủ Vũ Đình Phúc, bề ngoài Trịnh
Bá Thủ vẫn đối xử cởi mở đúng với l nghĩa, đạo lý của người Việt, Thủ vẫn đi
138
viếng đám ma Vũ Đình Đại, cha đẻ của Vũ Đình Phúc nhưng việc đến đám ma thực
chất là để thăm dò và thực hiện mưu sự ngấm ngầm, chuẩn bị hành vi đánh gục phe
cánh của Phúc. Thủ là đại diện cho con người khát thèm danh vọng và quyền lực,
sẵn sàng chà đạp lên đạo lý để đạt được mục đích. Có những lúc Trịnh Bá Thủ cũng
cuống lên không làm được việc gì trước khi bước vào cuộc tranh giành quyền lực: ''
…Thủ chỉ còn cuống lên với ý nghĩ phải thắng! Phải thắng để sáng mai bước vào
cuộc đối chất, anh phải làm chủ tình thế ngay từ đầu" [226, tr.271]. Khai thác con
người ở góc độ bi kịch, tha hóa liệu có phải là sự hạ thấp con người và hoài nghi con
người không? mà chính là sự cảnh tỉnh con người và nâng con người lên để con
người d nhận diện cái ác, cái xấu vươn tới cái tốt và làm cho con người ngày một
hoàn thiện hơn. Bên cạnh Trịnh Bá Thủ, là Vũ Đình Phúc, lão Hàm, những kẻ có
nhiều mưu ma, chước quỷ. Lão Hàm, tiêu biểu cho tư tưởng dòng họ đã ăn sâu và
len lỏi chi phối quyền hành trong xã. Ông bí thư Đảng uỷ xã cũng phải phục tùng sự
chi phối của ông trưởng họ, một người lao động bình thường, lại là một cố vấn thực
thụ cho việc giải quyết việc công kể cả sắp xếp nhân sự, lời ông Hàm nói với Thủ: "
Chú cao phiếu nhất phải không?...lại đúng dịp ông Đang hưu đợt này, vậy chú phải
thay chân ông ấy giữ ngay cái triện đỏ, tức r ng là phải làm Bí thư. Chứ còn Chủ
tịch cũng chỉ là thứ triện xanh! Th ng T ng nhà Sang cũng trúng hả? Chỉ cho nó
các chân chạy ngoài, hữu danh vô thực thôi!" [226, tr.66].Vũ Đình Phúc là một
người đã từng chinh phục và làm mềm lòng người con gái đ p nhất làng Giếng
Chùa gây lòng thù hận trong lòng Trịnh Bá Hàm. Vũ Đình Phúc không kém thủ
đoạn so với Thủ. Con người bị chủ nghĩa thành phần, chủ nghĩa lý lịch dồn đuổi đã
đánh mất nhân tính và trở nên điêu ngoa và tàn nhẫn. Vì quyền lợi cá nhân mà đã
làm méo mó đi cả những quan hệ vốn rất thiêng liêng như tình cha con, nghĩa vợ
tình chồng, tình làng xóm…Để tránh liên quan đến cha, bị quy thành phần địa chủ
người con sẵn sàng từ bỏ cha m của mình. Trước kia vì lợi ích của cá nhân, Vũ
Đình Phúc cũng đã dùng mọi thủ đoạn để đạt được mục đích không từ người đó là
cha đẻ của mình. Vũ Đình Phúc, vì muốn được yên thân đã quay lưng lại cha m ,
phản lại đạo đức và bổn phận làm con. Không chỉ dừng lại ở đây, để củng cố địa vị,
139
quyền lực Phúc đã lập bè, phái, tận dụng mọi cơ hội để hạ bệ Thủ. Không đủ sức
mạnh đánh bại đối thủ hắn dùng những lá thư nặc danh, xúi giục người trong họ thi
nhau kiện cáo. Bà Son là một nhân vật đáng thương trong tác phẩm, bà đã bị đẩy
vào vòng luẩn quẩn, dồn vào con đường cùng không sao thoát ra được. Mâu thuẫn
đã lên tới tột đỉnh, cuối cùng vì quá nhục nhã, đắng cay bà Son phải chọn cái chết để
giải thoát cho cuộc đời mình. Bà chết, tưởng rằng xoá được mối thù giữa hai dòng
họ nhưng cái chết của bà Son không thay đổi được gì. Mối thù vẫn còn đó, những
con người nhỏ nhen, ích kỷ và đố kỵ vẫn còn đó. Họ vẫn không quên thù hằn và
kiên quyết chiến đấu với hận thù đến cùng. Cái chết oan khiên của bà Son như một
tiếng sét giữa bầu trời, dóng lên một hồi chuông cảnh tỉnh về bi kịch của con người
đặc biệt là số phận của người phụ nữ. Mảnh đất lắm người nhiều ma còn xây dựng
một số nhân vật được coi là dị biệt như: Cô Thống Biệu, Chu Văn Quyềnh: '' trí não
của lão thì đại thể thế này: vắt chiếc áo, vắt khăn mặt lên vai, nhưng lại loay hoay
cả giờ đi tìm khăn và áo" [226, tr.211]. Họ là người khờ khạo với những hành động
ngây ngô để bổ xung cho tác phẩm thêm phần sinh động, giúp tác phẩm thoát khỏi
lối mòn cũ kỹ, phá vỡ mọi quy phạm hình thức trước kia. Nhân vật tiêu biểu của
Nguy n Khắc Trường sống có nội tâm, suy nghĩ dằn vặt và có di n biến tâm lý phức
tạp, khiến cho người đọc không đoán biết được di n biến hành động của nhân vật.
Đó chính là một thành công mở ra cái nhìn toàn diện về con người, mở ra những
chiều sâu mới mẻ và thú vị để khám phá sự bí ẩn, vô cùng, vô tận của con người.
Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam từ 1975 - 2000 đã xây dựng một thế giới nhân
vật đa dạng, nhiều tầng lớp khác nhau để nhận thức lại một cách sâu sắc vấn đề xã
hội với cảm hứng phê phán và tinh thần nhìn thẳng vào sự thật. Đồng thời các tác
giả cũng xây dựng được một số nhân vật tích cực, đại diện cho xu thế phát triển của
đời sống xã hội. Các tác phẩm thường chú trọng đến những hoàn cảnh, tình huống
điển hình và có ý nghĩa thử thách đối với nhân vật. Trên cơ sở những hoàn cảnh,
những tình huống ấy buộc nhân vật tự bộc lộ bản chất của mình. Trong giai đoạn
hiện nay, khi sự phức tạp của nền kinh tế thị trường đã khiến cho cái xấu cái tốt, cái
ác, cái thiện đang có nguy cơ lẫn lộn thì những trăn trở, băn khoăn, những ước vọng
140
về một cuộc sống tốt đ p, hữu ích càng phải trở thành mục đích, ý nghĩa sáng tạo
của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam.
4.3.2.3. Một số đóng góp về ngôn ngữ
Sự biến đổi của ngôn ngữ văn học liên quan chặt chẽ với sự biến đổi của tư duy
văn học. Mặt khác, ngôn ngữ cũng là một hiện tượng có tính độc lập bởi hơn ở đâu
hết, văn học là "nghệ thuật của ngôn từ". Ngôn ngữ trong tiểu thuyết phóng sự giai
đoạn từ 1975 - 2000 đan xen giữa ngôn ngữ thông tấn và ngôn ngữ nghệ thuật. Xét
toàn diện về ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự giai đoạn 1975 - 2000 chúng tôi thấy:
Ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự giai đoạn này rất gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của nhân dân, giầu chất hiện thực, có tính đại chúng nhưng cũng đầy suy tư,
triết lý, chiêm nghiệm về nhân sinh. Trong tiểu thuyết phóng sự, bước đổi thay của
ngôn ngữ lúc đầu gắn liền với khát vọng được "nói thật". Sự cổ vũ của Đảng "nhìn
thẳng vào sự thật" cho phép nhiều tác phẩm tham gia chống tiêu cực, phanh phui
mặt trái của đời sống. Ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự bắt đầu bớt đi vẻ trang trọng,
ít du dương, rào đón mà gần gũi với đời thường, chân thật trong giọng điệu, thô
nhám trong từ ngữ...dần dần, ý thức về ngôn ngữ trở nên tự giác hơn và có vẻ như
đặt mình trong thể đối lập với thơ ca. Ngôn ngữ trong tiểu thuyết phóng sự còn tìm
đến sự dung hợp giữa ngôn ngữ thông tấn tả thực trần trụi và ngôn ngữ nghệ thuật
giàu cảm xúc. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là sự khúc xạ của ngôn ngữ đời
sống. Song đây là thứ ngôn ngữ đã được lựa chọn, được sắp xếp và được cách điệu
hoá theo ý muốn chủ quan của nhà văn. Ngôn ngữ đang có những chuyển biến rất
mạnh mẽ cùng với nhịp sống mới và điều này thể hiện rất rõ trong tiểu thuyết. Nó
phá vỡ tính quy phạm, hướng tới di n tả dòng chảy mãnh liệt, phức tạp của đời sống
xã hội và tâm hồn con người.
Ngôn ngữ còn đậm tính chính luận trong tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh
Tuấn, Nguy n Khải. Đặc điểm này rõ nhất qua ngôn ngữ người kể chuyện. Ngôn
ngữ người kể chuyện là phương tiện cơ bản giúp nhà văn đánh giá nhân vật, xác
định tính cách chung và miêu tả các sự kiện trong cuộc sống. Mang cảm hứng chính
trị - xã hội, tiểu thuyết phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn trong Đứng trước biển, C
141
lao Tràm có rất nhiều đoạn người kể chuyện trực tiếp bày tỏ quan điểm, chính kiến
của mình. Ở đó, người kể chuyện không dấu mình mà công khai bộc lộ quan điểm,
thái độ như đoạn Năm Trà đoàn tụ với chồng: "Tôi thấy mấy câu chuyện đến đây có
vẻ đau xót hơn. Đã đành họ đoàn tụ lại, nhưng vẫn là hai mảnh khác răng làm sao
lắp khít được. Người nọ nói tiếp nhẫn nhục chịu đựng, mà vẫn không bớt đau khổ vì
người kia, để tròn hai chữ đạo lý. Nếu không phải tôn trọng sự thực, đoạn này tôi sẽ
dứt khoát cho họ chia tay nhau vĩnh viễn..Vừa đỡ mang tiếng kết thúc có hậu lại vừa
"tham gia" giải phóng phụ nữ" [231, tr.392]. Trong lời kể ở Đứng trước biển tỏ rõ
thái độ chủ quan của người kể chuyện: "Chín Tâm là vợ của một vị tướng nên tính
lộng hành của bà ta tự nhiên ph hợp với sự kiêng nể của xã hội quanh mình. Xuất
thân từ một cô gái nhan sắc chuyên buôn thuốc tây từ v ng Pháp chiếm ra căn cứ.
Tâm gặp, yêu, rồi lấy một anh bộ đội cấp tiểu đoàn… bà lần lượt tốt nghiệp trung
cấp và đại học… trở thành một cán bộ đúng tiêu chuẩn. Và cũng như nhiều người,
tiến bộ b ng ảnh hưởng của người khác lại cứ tưởng do tài năng của mình" [231,
tr.31]. Có lúc, lời kể bộc lộ thái độ căm thù trước những loại người cơ hội nham
hiểm, lúc lại là thái độ khâm phục một hành động dũng cảm hay cảm động rưng
rưng trước số phận của những bà má Nam Bộ. Quan điểm trước các vấn đề mà cuộc
sống đặt ra, trước cái đúng, cái sai của nhân vật luôn được bộc lộ trong lời nhân vật.
Tính chất chính luận luôn thấm đẫm trong ngôn ngữ của tác phẩm, phát ngôn trực
tiếp cho quan điểm của tác giả: "Cái đang gọi là tốt chưa chắc đã đúng" [231,
tr.87], "lúc chiến tranh tự nhiên nảy ra ước ao da diết được sống một ngày hoà
bình, tất cả đoàn tụ vĩnh viễn, chấm dứt mọi khổ đau mất mát" bây giờ thay vào nỗi
ao ước, chỉ còn những câu hỏi lẫn lộn, những bứt dứt chua xót. Vì sao con người và
cuộc sống hôm nay vẫn phức tạp và khó khăn đến thế" [231, tr.147]. Tiểu thuyết
phóng sự của Nguy n Mạnh Tuấn đã tạo được rất nhiều câu nói "triết lí chính luận"
của nhân vật. Đoạn Bí thư thành uỷ kiến nghị về yêu cầu cấp bách phải đổi mới cơ
chế quản lí kinh tế từ Trung ương đến các địa phương, chỗ Ba Đức khẳng định
mình…Tuy nhiên, nhiều chỗ triết lí còn nặng nề, dài dòng, thiếu chân thực. Những
hạn chế trong ngôn ngữ của Nguy n Mạnh Tuấn còn tồn tại ở cả hai tiểu thuyết
142
phóng sự Đứng trước biển và C Lao Tràm. Có lẽ vì quá nóng vội trước các vấn đề
thời sự cấp bách, nóng bỏng đặt ra trong đời sống cho nên tác giả muốn bàn luận, lí
giải trực tiếp cùng bạn đọc. Bởi vậy, người đọc nhận thấy quá rõ ngôn ngữ tác phẩm
của Nguy n Mạnh Tuấn giản dị, d hiểu nhưng thiếu sự gia công trau chuốt. Tiểu
thuyết phóng sự mong muốn trực tiếp hướng sự tập trung chú ý của tác giả vào các
sự kiện có vấn đề. Mục tiêu của tác phẩm là di n tả chân thực, kịp thời vấn đề bạn
đọc đang quan tâm đã khiến Nguy n Mạnh Tuấn không kịp gia công ngôn từ: "Khi
viết tác phẩm tôi cố viết một mạch sao cho diễn tả được một cách chân thực và dễ
hiểu các vấn đề. Tôi ít băn khoăn trong việc chọn lọc từ ngữ văn chương… quả là
tôi còn chưa kịp khổ luyện, văn của tôi do đó những người ưa nhấm nháp chậm rãi
thường không thú" [155]. Lời phát biểu thể hiện sự chân thành của tác giả. Nhà văn
muốn tác phẩm của mình nhanh chóng góp tiếng nói thiết thực với cuộc sống nên
coi mục đích "có ích" lên trên hết. Nguy n Mạnh Tuấn chưa đặt ra yêu cầu cao và
khắt khe trong việc trau dồi nghệ thuật ngôn từ cho tác phẩm của mình nên ngôn
ngữ chưa thực sự thành công. Tính giản dị của ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự
Nguy n Mạnh Tuấn được biểu hiện ở cách dùng từ. Dù là viết về lĩnh vực công
nghiệp hay nông nghiệp, thành thị hay nông thôn, nhà văn đều không lạm dụng
ngôn từ nghề nghiệp hoặc ngôn ngữ địa phương. Ngôn ngữ nhà văn sử dụng trong
tác phẩm chủ yếu là ngôn ngữ phổ thông. Yếu tố ngôn ngữ địa phương Nguy n
Mạnh Tuấn chỉ sử dụng vừa phải trong lời ăn tiếng nói của các nhân vật, đủ làm nên
bản sắc riêng của nhân vật. Một số nhà văn viết về Nam Bộ, thường lạm dụng từ
ngữ địa phương nhưng Nguy n Mạnh Tuấn luôn ý thức về điều đó. Anh thường sử
dụng những từ ngữ địa phương hoặc nghề nghiệp đã quen, đã phổ biến trên một
vùng rộng lớn để người đọc d hiểu. Kết cấu câu văn ngắn gọn, ít phức tạp không
nhiều tầng bậc, thường là kiểu cấu trúc câu đơn giản. Nguy n Mạnh Tuấn có biệt tài
miêu tả những xung đột căng thẳng, những bức tranh hoạt động tập thể khẩn trương,
dồn dập (những cảnh bê bối lộn xộn của xí nghiệp Sao Mai hay cách giải toả cảng
cá, cảnh nhậu nh t, cảnh cướp tàu…trong Đứng trước biển. Cảnh bắt giam nông dân
nhậu nh t hành hung hiệu trưởng Ba Năng, cảnh khánh thành hệ thống loa truyền
143
thanh…trong Cù lao Tràm). Kiểu câu đơn ngắn gọn đặt cạnh nhau liên tiếp tạo được
không khí, nhịp điệu phù hợp. Ngôn ngữ tiểu thuyết của Nguy n Mạnh Tuấn ở thời
điểm tiểu thuyết mang tinh thần phóng sự là thứ ngôn ngữ rất giàu tính chính luận.
Giai đoạn sau, ngôn ngữ đối thoại trong tiểu thuyết của Nguy n Mạnh Tuấn giảm
hẳn nhường chỗ cho ngôn ngữ độc thoại nội tâm. Xuất hiện nhiều câu văn dài và
trau chuốt, giàu sức gợi. Tính chất thông tấn báo chí nhường chỗ cho ngôn ngữ đậm
chất trữ tình. Nhà văn đã có ý thức gia công nhiều hơn cho ngôn từ tiểu thuyết của
mình và bắt đầu manh nha tìm tòi một thể loại khác phù hợp với hoàn cảnh xã hội
và sở thích của độc giả.
Ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự của Ma Văn Kháng thể hiện một tinh thần chống
tiêu cực quyết liệt. Nhà văn hướng sự phản ánh của mình vào những mặt trái của xã
hội, không có những tuyên bố ồn ào về đổi mới, nhưng qua ngôn ngữ nhân vật, hình
tượng nghệ thuật sinh động giàu sức sống, tác giả đã đưa ra một quan niệm nghệ
thuật mới về con người. Từ ngôn ngữ nhân vật, Ma Văn Kháng có cái nhìn uyển
chuyển linh hoạt về con người. Thông qua ngôn ngữ của thế giới nhân vật trong tiểu
thuyết, nhà văn trăn trở, lo lắng và đau đớn trước sự băng hoại đạo đức, vi phạm
những chuẩn mực văn hoá dân tộc. Mặt khác ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Ma
Văn Kháng thể hiện niềm tin yêu chan chứa vào cuộc đời và những giá trị đạo đức
chân chính của con người. Ngôn ngữ nhân vật phụ nữ của Ma Văn Kháng mang một
nét riêng. Bằng ngôn ngữ đời thường, những phụ nữ, họ hiện lên với mạch sống tự
nhiên, những lo toan vất vả của cuộc sống thường nhật, với những ham muốn, khát
khao rất đời thường. Phụ nữ, họ là những nhân vật của dòng đời sinh hoá hồn nhiên,
trôi chảy, những hành động suy nghĩ của họ bao giờ cũng xuất phát từ những lo toan
vất vả của đời thường bởi vậy, ngôn ngữ của họ rất tự nhiên và giàu sức sống. Ngôn
ngữ của Loan trong Mưa m a hạ là một minh chứng, ở cô có ngôn ngữ xô bồ dung
tục của đời sống, có ngôn ngữ của con người ít học lại vừa có thứ ngôn ngữ nơi
đường phố: " Trọng vừa bước lên vỉa hè đã thấy Loan đứng ở trước mình, đang như
định đuổi theo xe và rít lên the thé: - Tiên sư bố chúng mày hai th ng khốn nạn!
144
Hai gã con trai ngồi trên chiếc xe máy quay đầu lại, gã ngồi sau giơ tay đặt lên môi
và ném cái hôn về phía sau, cười khặc khặc Trọng kêu, choáng váng:
- Loan! Đừng nói thế, Loan! - Tiên sư bố nhà nó chứ. Xuýt nữa đứt mất đôi
guốc của người ta" [195, tr.68]. Có lẽ như thế mà ngôn ngữ nhân vật phụ nữ của Ma
Văn Kháng hấp dẫn người đọc chăng? Ma Văn Kháng là nhà văn có sự hiểu biết sâu
sắc về lời ăn tiếng nói của nhiều hạng người, tác giả đã huy động cái vốn sống quý
giá đó vào việc khắc họa, tạo hình nhân vật. Những phát ngôn suy nghĩ của Trọng
mang tính triết luận, thể hiện ý đồ tư tưởng của tác giả: " Anh đang đặt chân tới cái
điểm tận c ng của mong muốn và bất ngờ. Xưa, anh nghĩ cá tính của anh đảm bảo
cho anh, nay anh hiểu cuộc sống cho anh sự tin cậy, vững vàng. Dẫu có thế nào và
chính vì tính đa tạp của nó mà cuộc đời sẽ là vĩnh viễn đẹp. Anh là một khía cạnh
của cái đẹp, anh nhận được sự thông đạt của cuộc sống, hơn nữa anh còn là phiên
bản của cuộc sống, chính cuộc sống dữ dội và những con người đã trải qua cuộc
sống ấy đã đem lại cho anh niềm vui sống khoẻ khoắn, mạnh mẽ…" [195, tr.360-
361]. Những nhân vật trí thức trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng có những phát
ngôn, suy nghĩ mang tính triết luận cho nên tác phẩm rất kén người đọc vì muốn
hiểu được độc giả phải suy ngẫm đôi khi còn day dứt trăn trở. Sức hấp dẫn hình
tượng nhân vật của Ma Văn Kháng chính là tính luận đề có ý nghĩa thời sự của nó.
Dồn đẩy người trí thức tới bi kịch và hoàn cảnh cơ cực là những kẻ cơ hội, là bọn
lưu manh giả danh trí thức, dối nát, vô học, nhưng lại nắm quyền hành trong tay.
Viết về nhân vật trí thức, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nghiêng về yếu tố luận đề.
Ngôn ngữ nhân vật trí thức của Ma Văn Kháng thường mải mê triết lý, suy tưởng về
những vấn đề lớn lao mà quên mất những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống thường
nhật. Ngôn ngữ của trí thức trong Mưa m a hạ có quá nhiều tư tưởng nên đôi lúc
còn thiếu tự nhiên và gượng ép.
Trong Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải ngôn ngữ đa thanh xuất hiện đã
mang đến cho độc giả những cung bậc ngôn ngữ đa dạng khác nhau. Ngôn ngữ đối
thoại di n ra mạnh mẽ, gay gắt bởi có những tranh luận căng thẳng. Không chỉ là lời
đối thoại tranh luận, biện hộ thông thường mà có sự đan cài giữa lời đối thoại với
145
độc thoại nội tâm. Lời độc thoại nội tâm có lúc hướng vào chính mình nhưng cũng
có khi hướng tới nhân vật thoại. Đó là đoạn đối thoại tranh luận quyết liệt về tư
tưởng giữa nhà thần học Tư Tốn và ông Hai Gáo. Trong cuộc đấu khẩu ấy, những ý
nghĩ của Tư Tốn bị bác bỏ liên tiếp khiến hắn hoang mang cực độ. Mọi niềm tin và
quyết tâm của Tư Tốn bị Hai Gáo dội vào những gáo nước lạnh làm hắn dập tắt hết
hy vọng và phải nhìn lại chính mình. Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải còn
có ngôn ngữ trần thuật thể hiện qua lời trữ tình ngoại đề. Nguy n Khải đã sử dụng
khá linh hoạt dạng thức ngôn ngữ này. Tôn giáo là một vấn đề Nguy n Khải quan
tâm tác giả đã giành nhiều trang văn để giãy bày những suy ngẫm của mình. Nhưng
khi nói về những cải cách trong Điều tra về một cái chết tác giả lại hoài nghi về cái
"chân tâm" trước những mưu m o và tính toán của con người: "... Lại thêm những
nhà cải cách thường thiện lương quá, họ tin r ng ngọn lửa đang đốt cháy trong họ
cũng có thể thiêu huỷ trong chớp mắt đám rác rưởi đã phủ kín cái chân tâm của
người đời. Cái chân tâm của từng người vẫn có, nhưng dễ gì lôi được nó ra chỉ
b ng có một mớ lý luận" [190, tr.445]. Ngôn ngữ trong Điều tra về một cái chết đầy
triết lý và lời miêu tả góp phần tạo nên giọng điệu riêng của Nguy n Khải. Tác giả
miêu tả về thiên nhiên, về con người đặc biệt là miêu tả di n biến tâm lý của nhân
vật với những thay đổi rất tinh tế:"….Tư Tốn không còn nghe được rõ ràng. Y như
sống trong một thế giới khác tràn ngập những màu sắc lộng lẫy (…). Tiếng nói ngọt
ngào, mềm mại vẫn chảy đến không ngớt, thấm mát vào cái cơ thể đã nóng bỏng vì
nhiều ưu tư phiền muộn" [190, tr.445-446]. Ngôn ngữ thông tấn đan xen ngôn ngữ
nghệ thuật trong Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải đã tôn thêm bức tranh đa
sắc màu của ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX.
Ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự trong Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n
Khắc Trường thường đưa chất liệu đời thường vào tác phẩm. Đó là khẩu ngữ, những
câu nói mỉa mai, nói ngược, ngôn ngữ địa phương, có khi cả câu chửu thề…làm cho
các nhân vật trở nên tự nhiên và đời thường hơn. Sở dĩ tác giả sử dụng ngôn ngữ
này vì đối tượng phản ánh trong tác phẩm chủ yếu là nông dân nên những câu thông
tục được đưa vào dân dã hoá những hình ảnh của người nông dân, quanh năm đầu
tắt mặt tối, chắt chiu từng đồng xu trong cuộc sống mưu sinh. Đời sống vật chất
146
nghèo nàn, kéo theo trình độ văn hoá thấp kém, và vốn người nông dân chỉ quen với
đồng ruộng, không được thoát ra khỏi luỹ tre làng nên lời ăn tiếng nói của họ rất thô
sơ, sinh động, cụ thể đã tạo nên sự hấp dẫn của tác phẩm. Ông Hàm vốn là thợ mộc,
hàng ngày chỉ quen với công việc đục đẽo nên khi nói năng vẫn không sao thoát
khỏi sự cục cằn ngay cả khi nói với vợ: " Khóc với chả lóc gì, đi nấu cho tôi nồi chè.
Còn con Đào rửa tay chân đi rồi gọi chú Thủ sang đây có việc. Phải gang họng
chúng nó chứ dám láo à!" hoặc: " Bà định phản lại họ hàng phải không? Tôi chưa
hỏi hết tội đâu! Liệu mà ăn nói chứ không thì không có đường về" [226, tr.262]. Khi
có vấn đề khuất tất với người đàn bà giúp việc bị các con phát hiện, mặc dù trong tư
thế ủ rũ nhưng ngôn ngữ của ông vẫn thể hiện quyền thế, gia trưởng: '' Chúng mày
làm gì mà ầm lên thế. Tao xuống hỏi về chuyện đồng nhập hôm trước chứ có gì!
Xem có phải u mày về thật không! có phải u mày muốn thế không! thôi ngủ đi" [226,
tr.303]. Nguy n Khắc Trường đã dùng rất nhiều khẩu ngữ trong Mảnh đất lắm
người nhiều ma như: " Lấy mỡ rán mỡ", "yểm b a ", "Nát như tương", "Thâm căn
cố đế", "Mưu ma chước quỷ" [226]. Ngôn ngữ trong Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguy n Khắc Trường là lời ăn tiếng nói rất đơn giản, chân thật, không cầu kỳ,
kiểu cách, phù hợp với tâm hồn và những nét tính cách của người nông dân. Khi nói
về những mối thù của con người trong Mảnh đất lắm người nhiều ma khẩu ngữ
cũng được dùng một cách tối đa: "Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết", "Đấy chú
xem, cái thân tôi trăm dâu đổ đầu t m. Từ cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa dám hại ai,
chưa ăn bớt của ai một xu một xèng, thế mà giờ ra đường bị người ta chửi là điêu
toa, về đến nhà thì hết chồng đến anh em giày vò xui khiến! Tôi có liên quan gì đến
cái việc th h n tranh chấp của họ này họ kia, mà làm tình làm tội tôi đến thế" [226,
tr.257]. Ngay cả khi bị dồn vào làm cái việc trái với lương tâm của bà Son, cả lúc
tức tưởi với công việc khẩu ngữ vẫn được sử dụng. Bên cạnh đó, chúng ta còn gặp
nhiều câu chửi tục, chửi thề. Điều này rất lạ trong ngôn ngữ văn chương xưa nay.
Chưa bao giờ ngôn ngữ này lại xuất hiện nhiều như vậy trong văn học chúng ta.
Nhưng có lẽ thứ ngôn ngữ ấy không làm cho tác phẩm trở nên thô lậu, thiếu tế nhị
mà ngược lại nó còn làm cho con người trong văn chương được sống thật hơn.
Trong Mảnh đất lắm người nhiều ma ngôn ngữ của nhân vật Thủ rất nhũn nhặn
nhưng đôi khi cũng phải cuống lên bởi những mưu ma, chước quỷ:'' Thủ nôn nao
147
hết cả gan ruột. Anh không còn nghĩ được việc gì khác ngoài việc duy nhất là phải
tìm mọi cách để giành phần thắng, chứ không được nhận phần thua! Thua là sẽ kéo
theo sự sụp đổ dây chuyền, chỉ còn tay trắng [226, tr.271]. Ngôn ngữ nghệ thuật của
tác phẩm không chỉ mang nghĩa đối thoại trực tiếp mà nó mang tính hàm ẩn và có vị
trí đặc biệt trong việc khắc họa nhân vật, xây dựng cốt chuyện hay bộc lộ chủ đề của
tác phẩm. Ngôn ngữ là những nhân tố đã chắp cánh giúp nhà văn nhân lên rất nhiều
lần hiệu lực của những sản phẩm mà họ sáng tạo, bởi vậy Đào Thản trong Tạp chí
Văn học, số 2/1994 đã nhận xét: "tính khái quát, trừu tượng và tính đa nghĩa, là
những nhân tố chắp cánh giúp nhà văn nhân lên rất nhiều lần hiệu lực của những
sản phẩm mà họ sáng tạo. Ngoài những tác phẩm kể trên một số tiểu thuyết mang
tinh thần phóng sự như: Giấy trắng của Triệu Xuân, Những ngày thường đã cháy
lên của Xuân Cang cũng có nhiều đóng góp về mặt ngôn ngữ càng bổ sung thêm
cho ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thêm phần sinh động.
Ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự 1975 - 2000, đã thật sự có nhiều đổi thay trong
khoảng hơn hai thập kỷ vừa qua. Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên của văn học, nhà văn
là nghệ sĩ của ngôn từ. Cùng với sự vận động tích cực của tư duy văn học, ngôn ngữ
tiểu thuyết phóng sự ngày nay, linh hoạt, sinh động và giàu chất đời thường. Hy
vọng thời gian sẽ giúp ngôn ngữ tiểu thuyết phóng sự đạt đến độ kết lắng mới.
Tóm lại: Từ sau 1975, trong những điều kiện mới của đời sống xã hội, văn hoá tư
tưởng cùng với công cuộc đổi mới nền văn học, tiểu thuyết phóng sự phát triển trở
lại mạnh mẽ. Tiểu thuyết phóng sự giai đoạn này, đã làm phong phú diện mạo
thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX và có nhiều thành tựu. Các tác phẩm đã thể
hiện được tinh thần nhập cuộc của nhà văn tham gia trực tiếp vào các vấn đề thời sự
nóng bỏng gay gắt của đời sống xã hội. Nhiều tác phẩm đã có tên tuổi trong dòng
chảy liên tục của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX như: Những khoảng
cách còn lại, Đứng trước biển, C lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ
của Ma Văn Kháng, Những ngày thường đã cháy lên của Xuân Cang, Điều tra về
một cái chết của Nguy n Khải, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường...
148
KẾT LUẬN
1. Nghiên cứu về tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX từ góc độ bối cảnh ra
đời, sự hình thành và phát triển thông qua các chặng đường vận động để chỉ ra thể
tài này đã đạt được nhiều thành tựu về nội dung và nghệ thuật. Tiểu thuyết phóng sự
là cuộc kết hôn tự nguyện giữa tiểu thuyết và phóng sự nên đã tổng hợp được sức
mạnh của phóng sự với tính thời sự nóng bỏng, nhận thức lại vấn đề, phản biện xã
hội và khả năng hư cấu, sáng tạo những hình tượng nghệ thuật của tiểu thuyết.
2. Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX, nảy sinh và phát triển trên cơ sở các
điều kiện thuận lợi của tiền đề lịch sử, xã hội, văn hóa, văn học và hai thể tài phóng
sự, tiểu thuyết. Trên cơ sở điểm lại một số cách nhìn nhận về tiểu thuyết phóng sự
và lịch sử nghiên cứu đã có về tiểu thuyết phóng sự Việt Nam, chúng tôi đề xuất
cách hiểu và đưa ra một khái niệm về tiểu thuyết phóng sự như sau: Tiểu thuyết
phóng sự là một thể tài của tiểu thuyết, về đề tài có tính cập nhật những vấn đề xã
hội nóng bỏng, mang tinh thần phản biện, sử dụng các phương thức, khảo cứu điều
tra, ghi chép, để xây dựng một thế giới nghệ thuật vừa mang tính hư cấu vừa giàu
giá trị phản ánh hiện thực. Khái niệm này, chưa được đề cập trong các cuốn từ điển.
Từ tính khoa học của khái niệm tiểu thuyết phóng sự chúng tôi có cơ sở để triển
khai các luận điểm trong luận án.
3. Khi nghiên cứu về tiểu thuyết phóng sự từ đầu thế kỷ XX đến 1945 chúng tôi làm
rõ sự ra đời và phát triển của thể tài này trên cơ sở: các tiền đề lịch sử, xã hội, văn
hóa, văn học những năm đầu của thế kỉ XX, xã hội Việt Nam có sự biến động dữ
dội về mọi mặt tạo điều kiện cho tiểu thuyết phóng sự ra đời, phát triển và giành
được nhiều thành tựu. Về giá trị nội dung đó là: sự lên tiếng kịp thời về các vấn đề
nóng hổi của xã hội nông thôn Việt Nam dưới chế độ thực dân, phong kiến. Phản
biện đanh thép các vấn đề bức xúc của đô thị Việt Nam dưới chế độ thực dân, phong
kiến. Phê phán sắc sảo chế độ khoa cử lỗi thời. Có nhiều đặc sắc về giá trị nghệ
thuật: nghệ thuật kết cấu: sự dung hợp độc đáo giữa tiểu thuyết và phóng sự, xây
dựng được những nhân vật điển hình: chị Dậu, Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ gắn với
những vấn đề xã hội bức xúc. Tiểu thuyết phóng sự giai đoạn này đã ghi được dấu
149
ấn sâu sắc bằng những thành tựu nổi bật như: Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê của Vũ Trọng
Phụng, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố, Bút nghiên
của Chu Thiên, Ngoại ô, Ngõ hẻm của Nguy n Đình Lạp.
4. Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công mở ra một kỷ nguyên độc lập cho
đất nước Việt Nam. Văn học giai đoạn này, đã tập trung vào việc khẳng định, ngợi
ca cuộc kháng chiến và công cuộc xây dựng xã hội mới của dân tộc dưới sự lãnh
đạo của Đảng. Tuy nhiên, một số tiểu thuyết có yếu tố phóng sự vẫn xuất hiện góp
phần vào việc phát hiện vấn đề, nêu vấn đề của đời sống xã hội, kịp thời trong cuộc
chiến đấu và xây dựng xã hội mới như: Xung đột, Chủ tịch huyện, Đường trong
mây, Chiến sĩ, Ra đảo của Nguy n Khải, Đi bước nữa của Nguy n Thế Phương,
Vào đời của Hà Minh Tuân, Cái sân gạch của Đào Vũ. Những tiểu thuyết phóng sự
này đã nhạy bén trong vấn đề nông thôn, cập nhật tinh thần chiến đấu của quân và
dân ta, phát hiện mặt trái ở thành thị.
5. Từ sau 1975 cùng với xu hướng đổi mới của đất nước và nền văn hoá, tiểu thuyết
phóng sự phát triển trở lại mạnh mẽ. Những tác phẩm: Những khoảng cách còn lại,
Đứng trước biển, C lao Tràm của Nguy n Mạnh Tuấn, Mưa m a hạ của Ma Văn
Kháng, Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải, Những ngày thường đã cháy lên
của Xuân Cang, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguy n Khắc Trường…Đã cuốn
hút độc giả vì tính thời sự nóng hổi, cảm hứng phản biện xã hội gay gắt. Những tác
phẩm kể trên, đã tập trung nhận thức lại hiện thực nông thôn thể hiện tinh thần nhập
cuộc tham gia trực tiếp vào các vấn đề thời sự nóng bỏng gay gắt của đời sống xã
hội, chống tiêu cực và đề xuất các giải pháp xã hội. Các tác phẩm đã có sự chuyển
đổi về chất liệu hiện thực, về hướng tiếp cận đời sống trong ý thức nghệ thuật của
nhà văn trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, không né tránh sự thật. Đồng thời mở
ra một thời kỳ mới cho nền văn học dân tộc. Những tiểu thuyết phóng sự ấy, đã để
lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả, gây được hiệu ứng xã hội rộng rãi ở thời
điểm tác phẩm ra đời.
6. Thế kỷ XX đã đi qua, thời gian đã đủ điều kiện để đánh giá về sự vận động và
phát triển của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX. Từ tác phẩm đầu tiên xuất
150
hiện trên văn đàn, đánh dấu thời điểm ra đời của tiểu thuyết phóng sự Việt Nam
Giông tố (1936) của Vũ Trọng Phụng đến tác phẩm cuối cùng Mảnh đất lắm người
nhiều ma (1990) của Nguy n Khắc Trường, đã khẳng định sự vận động liên tục của
tiểu thuyết phóng sự như một thể tài độc lập trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX với
những tên tuổi còn sống mãi trong tâm trí bạn đọc. Đầu thế kỷ XXI, tiếp tục xuất
hiện một số tiểu thuyết có chất phóng sự như: Cõi người rung chuông tận thế (2002)
của Hồ Anh Thái, Thiên thần xám hối (2004) của Tạ Duy Anh, Đàn trời (2006) của
Cao Duy Sơn, Ma Làng (2007) của Trịnh Thanh Phong, Lửa đắng (2008) của
Nguy n Bắc Sơn, Hồ sơ một tử t (2002), Nháp (2008), Phiên bản (2009), của
Nguy n Đình Tú, Đánh đu c ng số phận (2012) của Phạm Quang Đẩu. Điều đó cho
thấy sức sống mạnh mẽ và sự đáp ứng nhu cầu bạn đọc của thể tài tiểu thuyết phóng
sự trong nền văn học Việt Nam hiện nay.
Tiểu thuyết phóng sự Việt Nam thế kỷ XX đã có diện mạo đầy đủ và đặc sắc của
một thể tài trưởng thành. Trải qua một lộ trình hình thành, vận động và phát triển đã
mang lại những kết tinh nghệ thuật góp vào gia tài tiểu thuyết Việt Nam một thành
tựu đáng kể. Chúng tôi hy vọng rằng, trong thời gian tới với vị trí quan trọng của thể
tài sẽ có nhiều nhà văn quan tâm đến tiểu thuyết phóng sự và cho ra đời những tác
phẩm có giá trị đóng góp vào dòng chảy của văn xuôi Việt Nam thế kỷ XXI, sẵn
sàng hội nhập cùng văn học khu vực và thế giới.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. Nguy n Thị Thanh Xuân (2014), Cuộc tiếp xúc Đông Tây và sự xuất hiện tiểu
thuyết phóng sự Việt Nam, Văn hoá nghệ thuật, Số 356, tháng 2, tr.74-75-76.
2. Nguy n Thị Thanh Xuân (2014), Đôi nét về bức tranh nông thôn Việt Nam trong
tiểu thuyết phóng sự Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt, tháng
6, tr.163-164.
3. Nguy n Thị Thanh Xuân (2014), Đôi nét về bức tranh đô thị Việt Nam trong tiểu
thuyết phóng sự Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt, tháng
7, tr.138-139.
4. Nguy n Thị Thanh Xuân (2014), Bức tranh đô thị Việt Nam trong tiểu thuyết
phóng sự Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Tập san Thông tin khoa học Trường Cao đẳng
sư phạm Thái Bình, Số tháng 6, tr.82-83-84.
5. Nguy n Thị Thanh Xuân (2014), Sự xuất hiện tiểu thuyết phóng sự phóng sự
trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ xx - những tiền đề cơ bản, Tạp chí khoa học
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2, Số tháng 10.
6. Nguy n Thị Thanh Xuân (2014), Đề xuất giải pháp xã hội trong tiểu thuyết phóng
sự Điều tra về một cái chết của Nguy n Khải, Tập san Thông tin khoa học Trường
Cao đẳng sư phạm Thái Bình, Số tháng 11, tr.80-81.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại - nhận thức và thẩm định,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Bakhtin.M.(1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết (Phạm Vĩnh Cư dịch và
giới thiệu), Trường viết văn Nguy n Du, Hà Nội.
3. Bakhtin.M.(1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki (Trần Đình Sử, Lại
Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Vũ Bằng (1993), Về một truyện dài nổi tiếng nhất của Ngô Tất Tố: truyện
"Tắt đèn", in trong Ngô Tất Tố với chúng ta, (Mai Hương biên soạn), Nxb
Hội nhà văn, Hà Nội.
5. G.Buđaren (1993), Một nhà dân tộc học được đào tạo b ng thực tiễn quần
chúng, in trong Ngô Tất Tố với chúng ta, (Mai Hương biên soạn), Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
6. Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (1989), "Văn học trong sự nghiệp đổi
mới", (Báo cáo tại Đại hội IV của Hội), Báo Nhân dân.
7. Lê Huy Bắc (1996), "Đồng hiện trong văn xuôi", Tạp chí Văn học, (6) tr.45-
50.
8. Lê Huy Bắc (1998), "Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại", Tạp chí
Văn học, (9) tr.63-73.
9. Lê Huy Bắc (2012) Văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
10. Nguy n Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt Nam
sau 1975 (khảo sát trên nét lớn), Luận án Phó tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
11. Nguy n Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995, những đổi mới cơ
bản, Nxb Giáo dục, Đà Nẵng.
12. Nguy n Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
153
13. Nguy n Thị Bình (2008), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời
điểm đổi mới đến nay, Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
14. Nguy n Thị Bình (2004), "Một vài nhận xét về quan niệm hiện thực trong
văn xuôi nước ta sau 1975", Tạp chí Văn học (4).
15. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1987),
Nghị Quyết 05 về Văn hoá Văn nghệ.
16. Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (1993),
Văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam về văn hoá văn nghệ (từ Đại hội VI
đến Đại hội VII), Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Nguy n Minh Châu (1982), "Vô cùng thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng",
Văn nghệ Quân đội.
18. Hoài Thanh - Hoài Chân (2005), Thi nhân Việt Nam, Tái bản, Nxb Văn học.
19. Nguy n Huệ Chi (1962), "Thử đánh giá Xung đột (Phần II)", Tạp chí Văn
nghệ, (57).
20. Hiện Chy (1969), "Đọc lại Giông tố của Vũ Trọng Phụng", Tạp chí Văn học
(Sài Gòn), (94).
21. Trường Chinh (1984), "Đề cương cách mạng văn hoá Việt Nam", Tạp chí
Văn học, (1), tr.1.
22. Trương Chính (1957), Vũ Trọng Phụng - Ngòi bút sắc sảo theo lối hiện thực
phê bình, in trong Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm, Tái bản lần thứ
nhất, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.139-146.
23. Trương Chính (1994), Lời giới thiệu " Tuyển tập Ngô Tất Tố", Nxb Văn học,
Hà Nội.
24. Trương Chính (1939), Giông tố, in trong sách Dưới mắt tôi, Nxb Thuỵ Kí,
Hà Nội.
25. Trần Cương (1995), "Văn xuôi viết về nông thôn nửa sau những năm 1980",
Tạp chí Văn học, (4).
154
26. Nguy n Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học - lý luận và ứng dụng, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr. 88.
27. Dương Trọng Dật (1985), "Cù lao Tràm - Niềm tin mãnh liệt vào nông thôn
mới xã hội chủ nghĩa", Sài Gòn giải phóng.
28. Hồng Diệu (1991), "Mảnh đất lắm người nhiều ma", Văn nghệ Quân đội,
( 8).
29. Trương Đăng Dung - Nguy n Cương (1990), Các vấn đề của khoa học văn
học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
30. Đinh Trí Dũng (2005), Nhân vật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Nxb Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
31. Đinh Trí Dũng (1996), "Sự thể hiện con người "tha hoá" trong các tiểu thuyết
hiện thực" của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí Văn học, (5), tr. 29.
32. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
33. Nguy n Đức Đàn (1961), "Ngô Tất Tố, một cây bút chiến đấu xuất sắc trong
văn học Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu Văn học, (3).
34. Nguy n Đức Đàn - Phan Cự Đệ (1999), Bước đường phát triển tư tưởng và
nghệ thuật của Ngô Tất Tố, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
35. Nguy n Đức Đàn (1968), Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
36. Đảng Cộng sản Việt Nam (1989), "Chỉ thị Đổi mới và nâng cao chất lượng
phê bình văn học nghệ thuật", Tạp chí Văn học, (4), tr.3.
37. Đảng Cộng sản Việt Nam (1976), Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng lần thứ
IV, Tháng 12, Nxb Sự thật, Hà Nội.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
39. Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 (1963), Tạp chí Văn học, (9), tr.1.
40. Phan Cự Đệ (1983), Lời giới thiệu "Tuyển tập Nguyên Hồng", tập1, Nxb Văn
học, Hà Nội.
155
41. Phan Cự Đệ (1997), Văn học đổi mới và giao lưu văn học, Nxb Chính trị
Quốc gia, H.
42. Phan Cự Đệ (2000), Ngô Tất Tố sống mãi trong lòng cách mạng, Tuyển tập
3, Nxb Văn học, H.
43. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Tái bản, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
44. Nguy n Đức Đàn - Phan Cư Đệ (1999), Bước đường phát triển và nghệ thuật
của Ngô Tất Tố, Nxb Hội Nhà văn, H.
45. Hà Minh Đức (chủ biên) (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
46. Hà Minh Đức (2001), "Nguyên Hồng, nhà văn của những khát vọng sống",
Tạp chí Văn học, ( 9).
47. Hà Minh Đức (2004), Sưu tầm và giới thiệu Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
48. Phan Hồng Giang (1972), "Một vài nhận xét về phong cách Nguy n Khải
qua tập Chủ tịch huyện", Tạp chí Tác phẩm mới (22).
49. Nguy n Văn Hạnh (1992), Về nghệ thuật tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng,
Hội nghị khoa học nhân kỷ niệm ngày sinh Vũ Trọng Phụng, Hội nghiên cứu
và giảng dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh.
50. Hoàng Ngọc Hiến (1990), "Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong "Số đỏ",
Tạp chí Văn học, (2).
51. Hoàng Ngọc Hiến (1992), Năm bài giảng về thể loại, Trường viết văn
Nguy n Du, Hà Nội.
52. Bùi Hiển (2001), Nhớ một đồng nghiệp in trong Nguyên Hồng - về tác gia và
tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
53. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
54. Tô Hoài (1988), Nguyên Hồng, in trong Những gương mặt, Nxb Tác phẩm
mới.
156
55. Phạm Mạnh Hùng (2001), Thi pháp hoàn cảnh trong tác phẩm của Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng và Nam Cao, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
56. Trần Bảo Hưng (1993), "Cách nhìn và tầm nhìn của nhà văn", Văn nghệ
Quân đội (11).
57. Phú Hương (1937), "Tắt đèn của Ngô Tất Tố", Báo Đông Phương, (10).
58. Tố Hữu (1983), Xây dựng một nền văn nghệ xứng đáng với nhân dân ta, với
thời đại, Nxb Văn học, Hà Nội.
59. Trần Đình Hượu - Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao
thời, Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
60. Lan Khai (1941), Vũ Trọng Phụng, mớ tài liệu cho văn sử Việt Nam, Nxb
Minh Phương, Hà Nội.
61. Lê Phú Khải (1985), "Đọc Cù lao Tràm", Sài Gòn giải phóng.
62. Nguy n Khải (1983), Văn xuôi một chặng đường, Báo cáo đọc tại Đại hội
Hội Nhà văn lần thứ ba.
63. Nguy n Khải (1964), "Mấy vấn đề thâm nhập thực tế của người viết văn,
Tham luận trong Hội nghị Ban chấp hành Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật
Việt Nam", Báo Văn nghệ (62).
64. Nguy n Hoành Khung (1988), Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939), in trong Lịch
sử Văn học Việt Nam (1930 - 1945), tập I, Nxb Đại học và giáo dục chuyên
nghiệp, Hà Nội.
65. Korat.N (1997), Phương Đông và phương Tây, (Trịnh Bá Đĩnh dịch), Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
66. M.Kundera (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Đà
Nẵng.
67. Khrapchencô M.B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của
văn học, (Lê Sơn - Nguy n Minh dịch), Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
68. Lê Đình Kỵ (2000), Phê bình, nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
69. Tôn Phương Lan (1983),"Đứng trước biển", Tạp chí Văn nghệ Quân đội
(11).
157
70. Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam 1900 - 1945,
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
71. Mã Giang Lân (2005), Những cuộc tranh luận văn học nửa đầu thế kỷ XX,
Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
72. Kim Lân (1982), "Nguyên Hồng, một nhà văn", Tạp chí Văn học.
73. Phan Trọng Luận (2002), Xã hội văn học nhà trường, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
74. Phan Trọng Luận (2002), Văn học Giáo dục thế kỷ XXI, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
75. Phong Lê (1994), "Ngô Tất Tố, một chân dung lớn - một sự nghiệp lớn", Tạp
chí Văn học (1).
76. Phong Lê (1990), Văn học và hiện thực, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
77. Nguy n Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
78. Nguy n Đăng Mạnh - Nguy n Văn Long (2007), Lịch sử văn học Việt Nam
Tập III, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
79. Nguy n Văn Long (2009), Phân tích tác phẩm văn học hiện đại Việt Nam từ
góc nhìn thể loại, Nxb Giáo dục Việt Nam.
80. Nguy n Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên
cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
81. Nguy n Văn Long (chủ biên) (2012), Phê bình văn học Việt Nam 1975-2005,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
82. Lưu Trọng Lư, (1939), "Điếu văn đọc bên mộ Vũ Trọng Phụng", Tao đàn, Số
đặc biệt.
83. Phương Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà (1986), Lí luận văn học, tập 1,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
84. Đinh Lựu (2002), Nghệ thuật tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Luận án Tiến sĩ
Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hồ Chí Minh.
158
85. Phương Lựu (2012), Lý thuyết văn học hậu hiện đại, Nxb Đại học Sư phạm,
Hà Nội.
86. Hoàng Như Mai (1985), "Về Cù lao Tràm", Sài Gòn giải phóng.
87. Nguy n Đăng Mạnh (1987), Lời giới thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Nxb
Văn học, Hà Nội.
88. Nguy n Đăng Mạnh (1990), "Đọc lại Giông tố của Vũ Trọng Phụng", Tạp
chí Văn học (2), tr.31.
89. Nguy n Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà
văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
90. Nguy n Đăng Mạnh (1981), hải luận, Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
91. Nguy n Đăng Mạnh (1965), "Chủ nghĩa tự nhiên trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng", Tạp chí Văn học, (3).
92. Nguy n Đăng Mạnh (1971), "Mâu thuẫn cơ bản trong thế giới quan và trong
sáng tác của Vũ Trọng Phụng", Tạp chí Văn học , (3).
93. Nguy n Đăng Mạnh (1978), Ngô Tất Tố, in trong Lịch sử văn học Việt Nam,
tập 5, phần I, Nxb Giáo dục.
94. Nguy n Đăng Mạnh (1997), Nguyên Hồng con người và sự nghiệp, Nxb Hải
Phòng.
95. Nguy n Đăng Mạnh (1972), "Nguy n Khải với Đường trong mây và Ra
đảo", Tạp chí Tác phẩm mới (17).
96. Trần Văn Minh (1963), "Nhân đọc Ngô Tất Tố góp ý kiến phân tích quyển
Lều chõng", Tạp chí Văn học (4).
97. Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần
thứ III (1963), Tạp chí Văn học (1), tr.8.
98. Vũ Tú Nam (1959), "Đọc Xung đột của Nguyễn hải", Báo Văn học (46).
99. Nguyên Ngọc (1991), "Văn xuôi sau 1975 - Thử thăm dò đôi nét về quy luật
phát triển", Tạp chí Văn học (4), tr.9.
100. Nguyên Ngọc (1982), Điếu văn đọc tại lễ an táng Nguyên Hồng.
159
101. Vương Trí Nhàn (1992), Một cuộc đời sáng tạo trong đau khổ, in trong
Nguyên Hồng, cát bụi và ánh sáng, Nxb Hội Nhà văn.
102. Nhiều tác giả (1992), Vũ Trọng Phụng, hôm qua và hôm nay (Trần Hữu Tá
biên soạn), Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
103. Nhiều Tác giả (1991), "Thảo luận về Mảnh đất lắm người nhiều ma", Báo
Văn nghệ (11).
104. Nhiều Tác giả (1990), "Hội thảo về tình hình văn xuôi hiện nay", Báo Văn
nghệ (lược thuật) (14).
105. Nhiều Tác giả (1999), Năm mươi năm Văn học Việt Nam sau cách mạng
tháng Tám, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
106. Nhiều Tác giả (1995), "Hội thảo"Việt Nam nửa thế kỷ văn học", Báo Văn
nghệ (39, 40).
107. Nhiều tác giả (2006), Giáo trình Triết học Mác - Lê Nin, Bộ giáo dục và Đào
tạo, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
108. Phạm Thế Ngũ (1961), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên Quyển III,
Quốc học tùng thư, Sài Gòn.
109. Vũ Ngọc Phan (2001), in trong Nguyên Hồng về tác gia và tác phẩm, Nxb
Giáo dục Hà Nội.
110. Vũ Ngọc Phan (1943), Nhà văn hiện đại (quyển thượng), Tái bản năm 1989,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội .
111. Thế Phong (1974), Điển hình hoài vọng dĩ vãng: Ngô Tất Tố, in trong Ngô
Tất Tố về tác gia và tác phẩm, Mai Hương - Tôn Phương Lan tuyển chọn và
giới thiệu, Tái bản lần thứ nhất năm 2001, có sửa chữa, Nxb Giáo dục, Hà
Nội
112. Lê Bá Hán Trần Đình Sử - Nguy n Khắc Phi (đồng chủ biên) (2004), Từ điển
thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
113. Vũ Đức Phúc (1971), Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử
văn học Việt Nam hiện đại (1930-1954), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
160
114. Hồ Phương (1961), "Đọc Xung đột (Phần II) của Nguy n Khải", Tạp chí Văn
nghệ Quân đội.
115. Vũ Trọng Phụng (2001), Tắt đèn của Ngô Tất Tố in trong Ngô Tất Tố về tác
gia và tác phẩm, Tái bản lần thứ nhất, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.198-202.
116. Nguy n Văn Phượng (2002), Ngôn từ nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng trong
phóng sự và tiểu thuyết, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
117. Lê Nhật Quang (1983), "Chúng tôi đọc Đứng trước biển", Văn nghệ ( 27).
118. Kiều Thanh Quế (2001), Phê bình Lều chõng, in trong Ngô Tất Tố về tác gia
và tác phẩm, Tái bản lần thứ nhất, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.321-327.
119. Tzvetantodorov (2004), Thi pháp văn xuôi, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
120. Từ Sơn (1983), "Những vấn đề nóng bỏng và những con người trong Đứng
trước biển", Báo Văn nghệ (27).
121. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và
Đào tạo.
122. Trần Đình Sử - Phương Lựu - Nguy n Xuân Nam (1987), Lí luận văn học,
tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
123. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử,
Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
124. Trần Đăng Suyền (2002), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo,
Nxb Văn học, Hà Nội.
125. Trần Đăng Suyền (chủ biên) (2008), Giáo trình Văn học Việt Nam hiện đại
tập 1 (từ đầu thế kỷ đến 1945), Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
126. Trần Đăng Suyền (2010), Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
127. Trần Đăng Suyền (1983), " Một cách nhìn cuộc sống hôm nay”, Văn nghệ
(1).
128. Trần Đăng Suyền (chủ biên) (2004), Giáo trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX,
tập 2, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
161
129. Trần Hữu Tá (sưu tầm, biên soạn), (1992), Nhà văn Vũ Trọng Phụng với
chúng ta, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
130. Trần Hữu Tá (1992), Bút lực Vũ Trọng Phụng, Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
131. Nguy n Quang Sáng (1998), "Bút lực của nhà văn Vũ Trọng Phụng", iến
thức ngày nay, (6).
132. Nguy n Ngọc Thiện - Hà Công Tài (2001), Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác
phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
133. Đỗ Ngọc Thạch (1984), "Đứng trước biển - đứng trước những vấn đề đặt ra
của cuộc sống", Tạp chí Văn học (3).
134. Hoài Thanh (1962), "Đi bước nữa, một câu chuyện sinh động và cảm động,
một đòn cần thiết đánh vào những tàn dư của tư tưởng cũ trong nông thôn
chúng ta". Nghiên cứu Văn học (10), tr.1.
135. Nguy n Hoài Thanh (1999), "Tìm hiểu chất phóng sự trong tiểu thuyết của
Vũ Trọng Phụng", Tập san khoa học xã hội và nhân văn, trường Đại học
KHXH&NV T p. Hồ Chí Minh.
136. Song Thành (1970), "Đọc Đường trong mây", Báo Văn nghệ, (351).
137. Nguy n Thành (2002), Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, Luận án Tiến sĩ Ngữ
văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
138. Nguy n Văn Thành (1983), "Chúng tôi đọc Đứng trước biển", Văn nghệ
(27).
139. Nguy n Thành (1997), "Ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong sáng tác
của Vũ Trọng Phụng", Tạp chí Văn học, ( 4).
140. Trần Đăng Thao (1996), Đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối với lịch sử văn
học Việt Nam hiện đại trong lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết, Luận án PTS
Khoa học Ngữ văn, Đại học Sư phạm, Hà Nội.
141. Trần Đăng Thao (2008), Đặc sắc văn chương Vũ trọng Phụng, Nxb Thanh
niên, Hà Nội.
142. Ngô Thảo (1974), "Người chiến sĩ trong Chiến sĩ", Tạp chí Tác phẩm mới
( 33).
162
143. Xuân Thiều (1983), "Đứng trước biển với đôi mắt tỉnh táo", Văn nghệ Quân
đội (11).
144. Bích Thu (1995), "Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ
thống mô típ chủ đề", Tạp chí Văn học (4).
145. Bích Thu (2006), Từ điển tác phẩm Văn xuôi Việt Nam tập 2, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
146. Ngô Tất Tố (1998), Lều chõng trong Tuyển tập Ngô Tất Tố, Tái bản, Nxb
Văn học .
147. Ngô Tất Tố (1939), "Gia thế ông Vũ Trọng Phụng", Tao đàn, Số đặc biệt.
148. Lê Dục Tú (2010), Từ điển văn xuôi Việt Nam tập 3, Nxb Giáo dục Việt
Nam, tr.827.
149. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và Văn học, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
150. Hà Xuân Trường (1985), "Phê bình Văn học phải tham gia vào quá trình sáng
tạo văn học", Báo Nhân dân ( 11375).
151. Nguy n Tuân (1956), "Đọc lại truyện Giông tố", Báo Nhân dân, (966).
152. Nguy n Tuân (1939), "Một đêm họp đưa ma Phụng", Tao đàn, Số đặc biệt.
153. Nguy n Tuân (1982), "Anh bạn Nguyên Hồng của tôi", Tạp chí Văn học, (3).
154. Nguy n Mạnh Tuấn (1983), "Nghĩ về mình và bạn bè", Văn nghệ (27).
155. Nguy n Mạnh Tuấn (1985), Nói chuyện tại câu lạc bộ văn hoá Quận Đống
Đa Hà Nội.
156. Lâm Tùng (1985), "Cù lao Tràm - Một hiện tượng mới trong văn học", Báo
Nhân dân (11305).
157. Trương Tửu (1939), "Địa vị Vũ Trọng Phụng trong văn học Việt Nam cận
đại", Tao đàn, Số đặc biệt.
158. Trần Minh Tước (2001), Một nhà văn của dân quê - Ngô Tất Tố trong Tắt
đèn, in trong Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm, Tái bản lần thứ nhất, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, tr.195-197.
159. Nguy n Thái Vận (1982), "Đọc Mưa m a hạ của Ma Văn Kháng", Báo Lao
động (37).
163
160. Hoài Việt (1963), Ngô Tất Tố nhà văn hóa lỗi lạc, trích Ngô Tất Tố nhà văn
hoá lớn, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
161. Zinoman, Peter (2003), "Số đỏ" của Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa hiện đại
Việt Nam, in trong Bản sắc hiện đại trong các tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng, Nxb Văn học, Hà Nội.
TÁC PHẨM KHẢO SÁT VÀ THAM KHẢO
162. Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Đà Nẵng.
163. Vũ Bão (1989), Sắp cưới (in lần thứ hai), Hội Văn học nghệ thuật,Thái Bình.
164. Ngô Ngọc Bội (1990), Ác mộng, Nxb Lao động, Hà Nội.
165. Xuân Cang (1987), Những ngày thường đã cháy lên, Nxb Tác phẩm mới, Hội
Nhà văn, Việt Nam.
166. Nguy n Minh Châu (1967 ), Cửa sông, Nxb Văn học, Hà Nội.
167. Nguy n Minh Châu (1977), Miền cháy, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
168. Nguy n Minh Châu (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.
169. Phạm Quang Đẩu (2012), Đánh đu c ng số phận, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
170. Xuân Đức (1980, 1985) Cửa gió tập1, 2, Nguồn Xuan duc.vn
171. Xuân Đức (1983) Người không mang họ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
172. Julouis Fucik (1972), Viết dưới giá treo cổ, Nxb Văn học, Hà Nội.
173. Trần Thanh Hà (1988), i cam sao mà đắng, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
174. Phạm Đình Hổ (1989), Vũ trung tuỳ bút, Tái bản, Nxb Trẻ Tp. Hồ Chí Minh.
175. Nguy n Công Hoan (2006), Tuyển tập truyện ngắn, Tái bản, Nxb Văn học,
Hà Nội.
176. Nguyên Hồng (1970), Vũ Trọng Phụng và những tác phẩm của anh (Giới
thiệu Giông tố), Nxb Văn nghệ, Hà Nội.
177. Nguyên Hồng (1938), Bỉ vỏ, Nxb Đời nay.
178. Nguy n Trí Huân (2002), Năm 1975 họ đã sống như thế, Tái bản, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
179. Mai Hương (chủ biên) (2010), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam tập 3,
Nxb Giáo dục, Việt Nam.
164
180. Dương Hướng (1997), Tác phẩm tuyển chọn, Nxb Văn học, Hà Nội.
181. Lan Khai (1938), Lầm than, Nxb Tân dân, Hà Nội.
182. Nguy n Khải (1970), Đường trong mây, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
183. Nguy n Khải (1970), Ra đảo, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
184. Nguy n Khải (1973), Chiến sĩ, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội
185. Nguy n Khải (1979), Cha và con và…, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
186. Nguy n Khải (1972), Chủ tịch huyện, Nxb Văn học, Hà Nội.
187. Nguy n Khải (1985), Thời gian của người, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nộị.
188. Nguy n Khải (1959), Xung đột tập 1, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
189. Nguy n Khải (1961), Xung đột tập 2, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
190. Nguy n Khải (1987), Điều tra về một cái chết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
191. Nguy n Khải (1984), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
192. Nguy n Khải (2003), Tuyển tập Nguyễn hải, Nxb Văn học, Hà Nội.
193. Nguy n Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết Nguyễn hải, Nxb Hội Nhà văn,
Hà Nội.
194. Ma Văn Kháng (2002), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
195. Ma Văn Kháng (2010), Mưa m a hạ, Tái bản, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
196. Ma Văn Kháng (1985), M a lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
197. Vũ Quỳnh và Kiều Phú (2005), Lĩnh nam chích quái, Tái bản, Nxb Văn học,
Hà Nội.
198. Trương Vĩnh Ký (2005), Chuyến đi Bắc kỳ năm Ất hợi, Tái bản, Nxb Văn
học, Hà Nội.
199. Tam Lang (2000), Tôi kéo xe, Tái bản, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
200. Nguy n Đình Lạp (1990), Ngõ hẻm, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
201. Nguy n Đình Lạp (1987), Ngoại ô, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
202. Phùng Gia Lộc (1988), Cái đêm hôm ấy… đêm gì (ký), Báo Văn nghệ.
203. Lê Lựu (2003), Thời xa vắng, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
165
204. Marcel Proust (2006), Đi tìm thời gian đã mất (Bên phía nhà Sawnn), (dịch
giả: Đặng Thị Hạnh, Lê Hồng Sâm, Dương Tường, Đặng Anh Đào), Nxb
Văn học, Hà Nội.
205. Nguy n Trọng Oánh (1979), Đất trắng, Nxb Quân đội, Hà Nội.
206. Trịnh Thanh Phong (2008), Ma Làng, Nxb Văn học, Hà Nội.
207. Vũ Quỳnh và Kiều Phú (2005), Lĩnh Nam chích quái, Tái bản, Nxb Văn học,
Hà Nội.
208. Vũ Trọng Phụng (2005), Giông tố, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
209. Vũ Trọng Phụng (2006), Vỡ đê, Tái bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
210. Vũ Trọng Phụng (2006), Số đỏ, Tái bản, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
211. Vũ Trọng (2004), Toàn tập Vũ Trọng Phụng, (Nguy n Đăng Mạnh sưu tầm,
giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.
212. Vũ Trọng Phụng (2000), Tuyển tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng, (Tôn Thảo
Miên tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Văn học, Hà Nội.
213. Nguy n Thế Phương (1960), Đi bước nữa, Nxb Văn học, Hà Nội.
214. John Reed (1997), Mười ngày rung chuyển thế giới, Nxb Văn học, Hà Nội.
215. Cao Duy Sơn (2006), Đàn trời, Nxb Văn học, Hà Nội.
216. Nguy n Bắc Sơn (2009), Lửa đắng, tran nhuong.com.
217. Hồ Anh Thái (2002), Cõi người rung chuông tận thế, Nxb Đà Nẵng.
218. Nguy n Đình Thi (1966), Vào lửa, Nxb Văn học, Hà Nội.
219. Nguy n Đình Thi (1967), Mặt trận trên cao, Nxb Văn học, Hà Nội.
220. Chu Thiên (1942), Bút nghiên, Nxb Nguy n Du, Hà Nội.
221. Trần Tiêu (1940), Con trâu, Nxb Đời nay.
222. Trần Tiêu (1941), Chồng con, Tái bản năm 2005, Nxb Văn học, Hà Nội.
223. Ngô Tất Tố (2010), Tắt đèn, Nxb Văn học, Hà Nội.
224. Ngô Tất Tố (1941), Lều chõng, Nxb Mai Lĩnh, Hà Nội.
225. Ngô Tất Tố (2000), Ngô Tất Tố toàn tập, Nxb Văn học, Hà Nội.
226. Nguy n Khắc Trường (1991), Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
166
227. Nguy n Hiểu Trường (1984), Chân dung một quản đốc, Bản in lần 2, Nxb
Tác phẩm mới, Hà Nội.
228. Nguy n Đình Tú (2002), Hồ sơ một tử t , Nxb Văn học, Hà Nội.
229. Nguy n Đình Tú (2009), Phiên bản, Nxb Văn học, Hà Nội.
230. Hà Minh Tuân (1963), Vào đời, Tái bản năm 2004, Nxb Văn học, Hà Nội.
231. Nguy n Mạnh Tuấn (1984), Cù lao Tràm, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh.
232. Nguy n Mạnh Tuấn (1980), Những khoảng cách còn lại, Nxb Văn nghệ Tp.
Hồ Chí Minh.
233. Nguy n Mạnh Tuấn (1982), Đứng trước biển, Nxb Văn nghệ, Tp. Hồ Chí Minh.
234. Hoàng Minh Tường (1996), Thuỷ hoả đạo tặc, Nxb Văn học, Hà Nội.
235. Chu Văn (1978), Bão biển, Nxb Văn học, Hà Nội.
236. Chu Văn (1975), Đất mặn 2 tập, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
237. Chu Văn (1986), Giáp mặt, (truyện vừa), Nxb Văn học, Hà Nội.
238. Andres Vollis (1995), Đông Dương cấp cứu 2 tập, Học viện chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh.
239. Đào Vũ (1972), Cái sân gạch và Vụ lúa chiêm, Nxb Văn Học, Hà Nội.
240. Triệu Xuân (1985), Giấy trắng, Nxb Văn học, Hà Nội.
241. Trần Tế Xương (1984), Thơ Trần Tế Xương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.