BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Nguyễn Thị Tú Như

THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Tú Như

THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY (QUA MỘT SỐ TÁC GIẢ TIÊU BIỂU)

Chuyên ngành: Lí luận văn học Mã số: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. NGUYỄN HOÀI THANH

Thành phố Hồ Chí Minh - 2013

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên: Nguyễn Thị Tú Như

Sau hai năm học tập tại trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh,

được sự đồng ý của Phòng sau Đại học cùng với sự tận tâm hướng dẫn của

thầy TS. Nguyễn Hoài Thanh tôi đã tiến hành khảo sát, nghiên cứu và hoàn

thành đề tài: “Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (Qua một số tác

giả tiêu biểu)”. Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của đề tài chưa từng

được công bố ở công trình khoa học nào khác.

Học viên thực hiện

Nguyễn Thị Tú Như

2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ............................................................................ 1

MỤC LỤC ........................................................................................ 2

MỞ ĐẦU ........................................................................................... 4 1. Lí do chọn đề tài .......................................................................................... 4

2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 5

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................. 8

4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 9

5. Những đóng góp của luận văn ................................................................. 10

Chương 1: DIỆN MẠO CHUNG CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY .................................................. 11 1.1. Một số quan niệm về thể loại phóng sự trước đây và hiện nay ......... 11

1.1.1. Quan niệm chung về thể loại phóng sự ................................................... 11

1.1.2. Quan niệm về thể loại phóng sự trước 1975 ở Việt Nam ........................ 15

1.1.3. Quan niệm về thể loại phóng sự từ sau 1975 ở Việt Nam ...................... 17

1.2. Hoàn cảnh xã hội, văn học và báo chí từ 1975 đến nay ...................... 21

1.2.1. Hoàn cảnh xã hội sau 1975 ...................................................................... 21

1.2.2. Sự phát triển chung của văn học sau 1975 ............................................. 23

1.2.3. Sự phát triển chung của báo chí sau 1975 ............................................. 26

1.3. Quá trình vận động, phát triển của phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay ................................................................................................................... 29

1.3.1. Phóng sự giai đoạn 1975 đến 1986 .......................................................... 29

1.3.2. Phóng sự giai đoạn 1986 đến 1995 .......................................................... 32

1.3.3. Phóng sự giai đoạn 1995 đến nay ............................................................ 35

Chương 2: ĐẤT NƯỚC, XÃ HỘI, CON NGƯỜI TRONG PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ........................... 43 2.1. Một cái nhìn thẳng thắn về hiện thực đất nước .................................. 44

2.1.1. Những sai lầm trong sản xuất nông nghiệp ............................................ 44

2.1.2. Những bất công trong quản lý đời sống .................................................. 48

2.1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn nguồn tài nguyên của đất nước ..................... 57

3

2.2. Một cái nhìn sâu sắc về đời sống xã hội ............................................... 62

2.2.1. Những bức tranh đen tối về tệ nạn xã hội ............................................... 63

2.2.2. Những mảng hiện thực phức tạp trong đời sống .................................... 67

2.2.3. Những gam màu tươi sáng của đời sống ................................................. 71

2.3. Một cái nhìn đậm chất nhân văn về hiện thực con người .................. 72

2.3.1. Số phận người lính sau chiến tranh ........................................................ 72

2.3.2. Những con người bất hạnh ...................................................................... 77

2.3.3. Những con người giàu đức hy sinh, vượt lên hoàn cảnh ....................... 83

Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY ........................... 87 3.1. Cái tôi thẩm định hiện thực với giọng điệu phong phú ..................... 87

3.1.1. Cái tôi thẩm định hiện thực ...................................................................... 88

3.1.2. Cái tôi với giọng điệu phong phú ............................................................. 92

3.2. Tăng cường tính thông tin thời sự, giảm thiểu về dung lượng .......... 96

3.2.1. Sự tăng cường tính thông tin sự kiện ...................................................... 97

3.2.2. Sự giảm thiểu về dung lượng, số trang .................................................. 102

3.3. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn học và báo chí ................................... 106

3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất văn học .................................................................. 106

3.3.2. Ngôn ngữ mang tính thông tấn báo chí ................................................. 110

KẾT LUẬN .................................................................................. 115

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 117

4

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài Phóng sự là một trong những thể loại giữ vai trò tiên phong không kém gì

tiểu thuyết và truyện ngắn trong việc chiếm lĩnh, phản ánh hiện thực.Với lợi

thế tái hiện thực tại ở thế trực tiếp, thể phóng sự giúp độc giả nắm bắt hiện

thực một cách đầy đủ, chính xác nhất.

Từ sau 1975 đến nay phóng sự vẫn là thể loại đi đầu trong việc tái hiện

hiện thực với góc nhìn trực diện. Nó không ngần ngại đi đến tận cùng ngõ

hẻm chật hẹp nhất của hiện thực cũng như quá trình tồn tại, phát triển không

tách rời với từng bước đi của xã hội, với sự chuyển mình của nền văn học

Việt Nam. Hiện thực đất nước chuyển từ tâm thế thời chiến sang thời bình,

đến hội nhập, phát triển đã khẳng định được vị trí của mình cùng bạn bè khắp

năm châu trong tất cả mọi lĩnh vực. Bên cạnh những thành công nhất định đã

đạt được trên con đường hiện đại hóa đất nước thì xã hội chúng ta đã và đang

phát sinh không ít những vấn đề bất cập từ sau 1975 đến nay. Thực trạng ấy

rất cần đến những cây bút xông xáo, không ngại gian lao, hiểm nguy tiếp cận,

phản ánh để làm nên những tác phẩm phóng sự đặc sắc đủ sức cảnh tỉnh một

hiện tại. Với đặc trưng vốn có của thể loại, phóng sự trở thành một lăng kính

khách quan nhất trong việc phản ánh hiện thực. Nếu như phóng sự báo chí là

thể tài đắc dụng, và nó tồn tại như dĩ nhiên cần có để đáp ứng nhu cầu nắm

bắt thông tin xã hội hàng ngày của nhân loại thì phóng sự văn học cũng là thể

loại đáp ứng được nhu cầu thông tin nóng hổi, trực tiếp nhất nhưng ẩn đằng

sau hàm lượng thông tin ấy nó còn chứa đựng cả giá trị nghệ thuật tạo tác nên

tác phẩm văn chương. Nhằm hướng đến khẳng định giá trị cũng như những

đóng góp nhất định của phóng sự từ sau 1975 đến nay nên người viết đã chọn

5

đề tài: “Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay (Qua một số tác giả tiêu

biểu)”.

2. Lịch sử vấn đề Trong quá trình vận động, phát triển thể loại phóng sự luôn nhận được sự

quan tâm đông đảo của độc giả đến những nhà nghiên cứu. Riêng giai đoạn

phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay được các nhà nghiên cứu như: Phan Cự

Đệ, Nguyên Ngọc, La Khắc Hòa,… nhìn nhận, xem xét, đánh giá ở nhiều góc

độ khác nhau về những đóng góp tích cực của thể loại này trên văn đàn văn

học và báo chí nói riêng, cho đất nước và xã hội từ năm 1975 đến nay nói

chung.

Tác giả Phan Cự Đệ khi đề cập đến mảng phóng sự sau 1975 trong công

trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX có nhận định rằng: “Sau 1975 và nhất là

những năm bước vào thời kỳ Đổi mới, thể ký tiếp tục thể hiện vai trò của

mình trong việc tiếp cận hiện thực cuộc sống đầy bức xúc của thời hậu chiến

một cách nhanh nhạy và sắc bén. Đáp ứng nhu cầu nhận thức lại thực tại,

chống tiêu cực, nhình thẳng vào sự thật với cảm hứng phê phán, từ sau đổi

mới, hàng loạt bài ký, phóng sự ra đời, thu hút sự chú ý của công chúng: Cái

đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Lời khai của bị can (Trần Huy

Quang),…” [7, tr.411]. Qua ý kiến trên, Phan Cự Đệ nhằm nhấn mạnh đến

bước phát triển nổi trội về số lượng cùng với chức năng ưu trội của thể loại

phóng sự đã chinh phục, đáp ứng được trọn vẹn “nhu cầu của công chúng”.

Cùng đứng trên khía cạnh công nhận sự trưởng thành của thể loại này

thông qua sự góp mặt của nhiều tác giả với hàng loạt tác phẩm xuất hiện đem

lại hiệu ứng tích cực cho xã hội nhưng Nguyên Ngọc qua bài viết Văn xuôi

Việt Nam hiện nay - logic quanh con người của các thể loại, những vấn đề

đang đặt ra và triển vọng triển vọng được in trong công trình Văn học Việt

Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy còn nhấn mạnh thêm

6

nét đặc sắc riêng và tác dụng của phóng sự đối với đời sống văn học trong

thời kỳ này cụ thể như sau: “Trên báo Văn nghệ bấy giờ xuất hiện một loạt

những phóng sự viết về những thực trạng khác nhau trong xã hội, đặc biệt là ở

nông thôn… Nay văn học lại tìm đến thể loại phóng sự bị bỏ quên từ lâu…

Phóng sự cho phép họ nhanh chóng tiếp cận hiện thực mới, không bị sự cản

trở của “hàng rào” văn chương, và cũng chính từ đó mò tìm ra, trui rèn nên, tự

tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật mới của mình. Một loạt phóng sự đăng trên báo

Văn nghệ gây tiếng vang lớn: Lời khai của bị can, Người biết làm giàu,… của

Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Tiếng kêu cứu của một

vùng văn hóa của Võ Văn Trực, Đêm trắng của Hoàng Hữu Các, Cái đêm

hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc,… làm xôn xao dư luận và lập tức kéo

công chúng quay trở lại với văn học. Chính thể loại phóng sự được khôi phục

một cách hiệu quả đó làm cho văn học, chỉ trong một thời gian ngắn, đầy ứ

hiện thực xã hội mới mà trước đó nó rất nghèo nàn…” [12, tr.171-172]. Theo

tác giả thì thể loại phóng sự đã “tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật của mình” và

giúp văn học đa dạng hóa bức tranh “hiện thực xã hội”. Cũng trên lập trường

cỗ vũ cho thể loại văn báo này, Nguyên Ngọc tiếp tục phát hiện mặt đóng góp

tích cực của phóng sự: “Quả thật không thể không nói đến tác dụng tích cực

của báo chí, đặc biệt của thể loại phóng sự, được khôi phục một cách đúng lúc

vào thời điểm đó đã thật sự góp phần không nhỏ tạo nên chuyển động xã hội

quan trọng nhất của đất nước kể từ sau 1975”. Không chỉ đóng góp, bổ sung

giúp bức tranh văn học thêm đầy đặn, phong phú hơn mà thể loại phóng sự

còn tạo nên chuyển động ở tầm cao hơn là “tạo nên chuyển động xã hội quan

trọng nhất của đất nước kể từ sau 1975”.

Riêng với La Khắc Hòa khi có khoảng thời gian lùi lại và xem xét thì trong

bài viết Nhìn lại bước đi - lắng nghe những tiếng đổi mới ông cho rằng: “Thể

phóng sự sau nhiều năm vắng bóng, nay lại lên tiếng làm xôn xao dư luận.

7

Những Tiếng đất của Hoàng Hữu Các, Người đàn bà quỳ của Xuân Ba, Cái

đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia lộc, Lời khai của bị can của Trần Huy

Quang,... chắc chắn sẽ sống mãi trong ký ức người đọc” [12, tr.58] và “đây là

những thiên phóng sự đầy ắp sự thật đời sống, làm chấn động dư luận” [12,

tr.64], với cách nhìn nhận này tác giả có sự so sánh với giai đoạn trước là “

thể phóng sự sau nhiều năm vắng bóng” để hướng đến khẳng định những tác

phẩm phóng sự nổi trội của giai đoạn này là “những thiên phóng sự đầy ắp sự

thật đời sống, làm chấn động dư luận”.

Với Trần Thị Trâm trong bài bàn về Báo chí và cuộc hành trình đổi mới

văn học cuối thế kỷ XIX lại lưu tâm đến tác động của phóng sự đối với những

chuyển biến quan trọng của văn học khi có nhận xét rằng: “Công cuộc đổi

mới văn học do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động cuối thế kỷ XX, có lẽ

cũng được bắt đầu từ hàng trăm tác phẩm kí in trên báo chí và tiêu biểu là

những phóng sự đăng trên báo Văn nghệ như: Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng

Gia Lộc, báo Văn nghệ, 1986), Người đàn bà quỳ (Xuân Ba, báo Văn nghệ,

1988), Vua Lốp (Trần Huy Quang, báo Văn nghệ, 1986), Lời khai của bị can

(Trần Huy Quang, báo Văn nghệ, 1987)” [12, tr.149], từ việc khảo sát vai trò

của thể loại tác giả nhằm nhấn mạnh đến mối liên hệ giữa văn học và “tác

phẩm kí in trên báo” trong quá trình phát triển.

Dương Xuân Sơn lại xem xét sự phát triển của thể loại phóng sự từ góc độ

quan sát “mầm mống nảy sinh” được đề cập trong giáo trình Các thể loại báo

chí chính luận nghệ thuật như sau: “Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI (1986),

chủ trương mở cửa và chính sách đổi mới, dân chủ hóa đời sống chính trị, coi

báo chí như một sản phẩm văn hóa đặc biệt, xóa bỏ bao cấp đối với các hoạt

động của báo chí đã tạo điều kiện nảy mầm cho những cây phóng sự mới như

Huỳnh Dũng Nhân, Vĩnh Quyền (báo Lao động), Xuân Ba, Mạnh Việt (báo

Tiền phong), Minh Tuấn (báo Đại đoàn kết),… cùng với 11.000 nhà báo Việt

8

Nam, họ đã mang đến cho công chúng những thiên phóng sự lớn, thực sự có

giá trị, đáp ứng được nhu cầu thông tin ngày càng lớn của công chúng” [25,

tr.35]. Qua đó, ta thấy nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển vượt bậc số lượng

tác phẩm phóng sự qua một lực lượng cầm bút hùng hậu đã làm hài lòng công

chúng là bắt nguồn từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) với nhiều chủ trương

đổi mới, tiến bộ song song với việc xem báo chí là một trong những công cụ

quan trọng để hoàn thành sứ mệnh đổi mới của đất nước trong lúc bấy giờ.

Từ năm 1975 đến nay, trải qua chặng đường hơn 30 năm, với sự góp mặt

đông đảo của người sáng tác lẫn giới nghiên cứu luận bàn, đánh giá về thể

loại đã chứng tỏ được sức sống bền bỉ và tác động tích cực của phóng sự đối

với xã hội. Trên cơ sở tiếp nhận những ý kiến trên, đề tài tập trung đi sâu khai

thác vấn đề nội dung và một số đặc điểm nghệ thuật chủ yếu của thể loại

phóng sự Việt Nam giai đoạn từ 1975 đến nay.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Với đề tài “Đặc điểm phóng sự Việt Nam từ sau 1975 đến nay (qua một số

tác giả tiêu biểu)” người viết sẽ tập trung khảo sát trực tiếp trên những tác

phẩm phóng sự của những nhà văn, nhà báo tiêu biểu đã được xuất bản từ

1975 đến nay.

Trong quá trình khảo sát, đề tài được nghiên cứu trên cơ sở chọn lọc những

phóng sự tiêu biểu trong 11 tập phóng sự lần lượt của những tác giả sau:

Tiếng kêu của con chim gõ kiến (Trúc Chi – Công Thắng, NXB Hội Văn học

Nghệ thuật Phú Khánh, 1989), Phóng sự tuyển Trần Huy Quang (NXB Văn

học, 11/1995), Sự đời (Vũ Hữu Sự, NXB Lao Động, 8/1996), Bút ký – Phóng

sự được giải năm 1996 – 1997 (Tuần báo Văn nghệ, NXB Hội Nhà văn,

1997) Chuyện đời thường mà không thường (Vũ Hữu Sự, NXB Công an

Nhân dân, 1998), Ăn tết trong rừng chó sói (Huỳnh Dũng Nhân, NXB Lao

động, 4/1995), Kính thưa osin (Huỳnh Dũng Nhân, NXB Thông tấn, 2012),

9

Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt (Xuân Ba, NXB Văn học, 1995), Thời

chưa xa người chưa cũ (Xuân Ba, NXB Văn học, 2004), Mỗi ngày một vạn

bước (Nhiều tác giả, NXB Thanh niên, 2006), 30 phóng sự tuyển chọn trong

công trình Phóng sự báo chí hiện đại (Đức Dũng, NXB Thông Tấn, Hà Nội,

2004) cùng với hai bài phóng sự đặc sắc Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia

Lộc), Người đàn bà quỳ (Xuân Ba). Song song với khảo sát trên văn bản tác

phẩm, đề tài luận văn còn được tiến hành các thao tác nghiên cứu trên nguồn

các giáo trình, phê bình, chuyên khảo,… Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài

với số lượng tác phẩm được lựa chọn và tìm hiểu những tài liệu có liên quan

như trên là nguồn dẫn chứng, tư liệu quan trọng góp phần cho việc đánh giá,

bình luận, phân tích vấn đề thêm sâu sắc, chặt chẽ.

Thông qua đề tài này, người nghiên cứu sẽ hướng đến phác họa diện mạo

thể loại phóng sự từ 1975 đến nay (qua một số tác giả tiêu biểu), từ đó đó tìm

hiểu về tình hình đất nước, xã hội, con người cùng một số đặc điểm nghệ

thuật được thể hiện trong phóng sự từ sau 1975 đến nay.

4. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp phân tích - tổng hợp sẽ được sử dụng rộng rãi trong luận văn.

Đi từ việc khảo sát tác phẩm, phân tích những yếu tố, chi tiết nổi bật trong

việc thể hiện nội dung cũng như nghệ thuật (sự việc, sự kiện, tâm lí nhân vật,

lí giải hành động của nhân vật,…) đến rút ra những nhận xét có tính chất tổng

hợp, khái quát, làm nổi rõ đặc điểm phóng sự sau 1975 đến nay.

Phương pháp so sánh: So sánh với phóng sự trong giai đoạn kháng chiến

chống Pháp, chống Mỹ giúp chúng ta có cái nhìn khách quan, giúp người viết

hướng đến khẳng định vị trí, vai trò của phóng sự Việt Nam từ sau 1975 đến

nay.

10

5. Những đóng góp của luận văn Qua đề tài người viết nhằm cung cấp cho chúng ta cái nhìn tổng quát về

đặc điểm của phóng sự Việt Nam từ sau 1975 đến nay. Thể loại phóng sự Việt

Nam từ 1975 đến nay đã có những đóng góp quan trọng đối với văn học và

báo chí trên cả phương diện nội dung lẫn nghệ thuật. Luận văn được tiến hành

khảo sát, triển khai một cách có hệ thống, cụ thể các vấn đề thuộc về bình

diện nội dung và hình thức góp phần làm sáng tỏ thêm bước chuyển mình của

“Thể loại phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay”.

Nhìn nhận lại một giai đoạn mà phóng sự Việt Nam đã và đang phát triển

đến ngày nay thực chất là phép quy chiếu “sức sống, nội lực tiềm tàng của thể

loại” đang nảy sinh trên mảnh đất hiện thực vốn bộn bề, nhiều màu sắc. Trên

khía cạnh tổng hợp vấn đề mà phóng sự phản ánh về đất nước, xã hội, con

người sẽ là cơ sở giúp ta nhận diện vấn đề của hôm qua và hôm nay bằng lăng

kính khách quan nhất, vươn xa hơn đến chân trời Chân – Thiện – Mĩ.

11

Chương 1: DIỆN MẠO CHUNG CỦA THỂ LOẠI PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY

Thể loại phóng sự, trong quá trình sinh thành, phát triển đã thu hút không

ít sự quan tâm của những nhà nghiên cứu, phê bình. Nhìn chung, các ý kiến

bàn luận xoay quanh các vấn đề thuộc về nguồn gốc xuất hiện, đặc điểm của

thể loại này so với thể loại khác cũng như chức năng của thể phóng sự với

cuộc sống, con người. Để có cơ sở khảo sát những đặc điểm nội dung và hình

thức ở hai chương sau ta cần tìm hiểu qua diện mạo chung của thể loại phóng

sự từ 1975 đến nay.

1.1. Một số quan niệm về thể loại phóng sự trước đây và hiện nay Ta đã biết phóng sự là thể loại đặc biệt thuộc loại hình Ký. Ký là tên gọi

chung cho nhóm thể tài nằm ở phần giao nhau giữa văn học và ngoài văn học,

chủ yếu là văn xuôi tự sự và văn xuôi trữ tình (bao gồm các thể loại: bút kí,

tùy bút, du ký,... trong đó có phóng sự). Trong đó, phóng sự là thể loại tiêu

biểu nhất của ký tự sự đã có nhiều thành tựu ở Việt Nam cũng như thế giới.

Ta cần điểm qua một số quan niệm chung về thể loại phóng sự trên thế giới

cũng như ở Việt Nam từ trước đến nay.

1.1.1. Quan niệm chung về thể loại phóng sự

Ngay từ buổi đầu xuất hiện thể phóng sự đã gây sự chú ý mạnh mẽ với

công chúng tiếp nhận. Đã có nhiều quan niệm chung về thể loại phóng sự trên

các khía cạnh về nguồn gốc sinh thành, đặc điểm cũng như vai trò, vị trí của

nó trong tương quan với hoàn cảnh xã hội, với thể loại khác nói chung.

Trên thế giới đối với thể loại phóng sự đã có rất nhiều nghiên cứu và nhận

định ngay từ khi nó bắt đầu sinh thành. Trong Từ điển nghiên cứu của văn

học Đức (Chủ biên: GS - TS Clause Trager, NXB Bibliographisches Institut,

12

Leipzig, 1986) cho rằng phóng sự là một: “Thể loại văn học, phát triển lên từ

loại tường thuật tai nghe mắt thấy của báo chí trong mối quan hệ qua lại của

sự miêu tả khách quan và những phát biểu chủ quan. Bắt nguồn từ báo chí và

đáp ứng những đòi hỏi của nó (ngắn gọn, cụ thể, tính chất tường thuật và cung

cấp tư liệu thông tin) phóng sự đã phát triển thành thể loại riêng, bằng một

phương pháp hết sức hấp dẫn đã hòa quyện được sự tường thuật với sự nâng

cao bằng hư cấu các sự kiện. Từ đây trở đi phóng sự chứng tỏ khả năng của

nó đặc biệt ở những nơi mà những sự biến đổi xã hội cần phải được nhanh

chóng suy xét và thúc đẩy” [31, tr.38-39]. Với những đặc tính: ngắn gọn,

nhằm cung cấp tư liệu thông tin, nâng cao bằng hư cấu các sự kiện với khả

năng đặc biệt là xuất hiện ở những nơi mà những sự biến đổi xã hội cần được

nhanh chóng suy xét và thúc đẩy đã khẳng định tính tiên phong trong thế nắm

bắt hiện thực của thể loại và nguồn gốc của nó là được “phát triển lên từ loại

tường thuật tai nghe mắt thấy của báo chí”.

Theo Encyclopedia Universalis trong Bách khoa toàn cầu, xuất bản ở Pari

1991, thì thể phóng sự: “Ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam Bắc (1861-1865)

phóng sự đã nhanh chóng phát triển trong các báo Anglo – Saxome và trên

mục Thời luận” [31, tr.39]. Sau khi thể phóng sự đã có mặt trên báo chí Mỹ,

thì: “Báo chí Pháp còn lâu vẫn dè dặt, ngập ngừng, các kí giả, chủ yếu là các

nhà biên niên và những nhà bình luận đời sống chính trị quốc gia, nhận thức

không đúng cái sản phẩm mới này” [31, tr.39-40].

Trong các ngôn ngữ ở châu Âu, như tiếng Pháp, tiếng Nga, thuật ngữ

Phóng sự đều bắt nguồn từ tiếng Anh là Report. Theo Từ điển từ nguyên

(Dictionnaire Etymologique) của Anbert Dauzat, do Larouss xuất bản năm

1947, ở trang 625 và 725 có hai từ: re (lặp lại), port (mang vác, mang sự

kiện), có thể xem từ report của tiếng Anh có nguồn gốc từ hai từ Latinh cổ

này ghép lại [31, tr.41].

13

Ở Pháp, từ điển Le Petit Laroussl, năm 1996, trang 878 giải thích từ

Reportage theo 3 nghĩa: “ Là một bài báo viết theo sự điều tra của phóng sự

viên. Là bài điều tra được công bố trên đài, báo ảnh, truyền hình. Là chức

năng, nhiệm vụ của một phóng sự viên thuộc một tờ báo”. TrongTừ điển Petit

Robert, năm 1973 trang 1525 cho rằng: “ Phóng sự là một bài báo hay một

loạt bài báo trong đó phóng viên phản ánh một cách sinh động những gì mà

anh ta đã nhìn và nghe thấy...” [31, tr41-42].

Có rất nhiều quan niệm, cách nhìn nhận về nguồn gốc thuật ngữ và đặc

điểm phản ánh cũng như vị trí và vai trò của thể loại này với nhiều cách lý

giải khác nhau. Theo GS.TS. Caren Xtorơcan (khoa Báo chí, Trường Đại học

Sác lơ, Tiệp Khắc trước đây) cho rằng phóng sự thực sự xuất hiện đầu tiên là

ở nước Pháp: “Một nhà báo Pháp có nhiều tham vọng đã được cảnh sát trưởng

Pari cho phép đi thăm các nhà tù của Pháp. Việc miêu tả dựa trên sự kể lại của

một nhân chứng mắt thấy tai nghe đã gây ấn tượng mạnh trong người đọc” [5,

tr.9].

Nhà nghiên cứu người Pháp Noen Duytore có ý kiến rằng: “những người

đi tiên phong” trong việc viết phóng sự có thể là Giaclandon và Apton Xincle

ở Mỹ với những tác phẩm như Dân dưới vực thẳm hoặc Rừng [5, tr.10]. Ở

Mỹ, nhà văn nhà báo Mark Twain quan niệm rằng: “Phóng sự chỉ là sự ghi

chép lại một cách giản đơn, máy móc một hiện tượng nào đó”. Cuốn từ điển

Oepxtơ cũng chỉ coi phóng sự là một sự ghi chép, mô tả, tường thuật lại một

hiện tượng,…[31, tr.43]. Ở Liên Xô, nhiều ý kiến cũng cho rằng phóng sự là

một thể loại riêng của báo chí. Ta lưu ý đến khái niệm “phóng sự hiện đại”

của giáo sư Caren Xtorocan ở Tiệp Khắc khi ông cho rằng: “Trong phóng sự

hiện đại, không phải là một sự ghi chép giản đơn, mà còn là sự trả lời một loạt

câu hỏi phức tạp liên quan đến cuộc sống chúng ta” [31, tr.43]. Theo ông, thể

phóng sự bắt đầu khẳng định vị trí của nó trên báo chí từ sau chiến tranh thế

14

giới thứ nhất, vì lý do: “việc người đọc sau chiến tranh chán ngấy sự hư cấu

và khát khao muốn biết những điều chân thực đã gợi ý cho các nhà văn cũng

như những người xuất bản báo” [31, tr.44].

Từ những ý kiến trên ta thấy Phóng sự đã phát triển nhanh nhạy, khẳng

định năng lực phản ánh hiện thực ở tất cả các nước phương Tây từ cuối thế kỷ

XIX. Từ thực tiễn sáng tác, nghiên cứu, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã có

quan niệm khác nhau về thể loại này.

Không khác với tình hình của thế giới, trong đời sống báo chí, văn học

Việt Nam, phóng sự là thể loại tân văn, sản phẩm của công cuộc hiện đại hoá

văn học, là thể loại có sự đóng góp quan trọng trong tiến trình phát triển của

văn học hiện đại ở thập niên thứ ba của thế kỷ XX đã thu hút nhiều sự quan

tâm của người tiếp nhận dẫn đến có rất nhiều quan niệm khác nhau. Nó là sản

phẩm của quá trình giao lưu, ảnh hưởng, tiếp xúc với văn hoá, văn học

phương Tây. Tác giả bài xã luận Phỏng sự là gì? đăng trên trang 2 của báo

Phỏng sự, số 3, năm 1938 ở Sài Gòn cũng cho rằng: “Lần đầu hết, trên tờ báo

New - York herald xuất bản ở Nữu Ước vào năm 1871, người ta thấy một bài

của Stanley thuật chuyện mình đi tìm ông Livingstone ở hồ Tanganuyiki. Bài

kĩ thuật ấy, Stanley viết bằng một lối văn mới lạ, chưa từng thấy bao giờ và

nó có mãnh lực lôi cuốn người xem làm cho thiên hạ phải ngạc nhiên và hoan

nghênh nhiệt liệt. Đó là thể văn phóng sự do nhà báo Stanley – là người đầu

tiên đã sáng tạo ra cái danh từ “phỏng viên” cũng bắt đầu từ đó. Trước sự

thành công của Stanley, các báo ở Nữu Ước và trong thế giới mới lục tục bắt

chước theo. Và trong lịch sử của văn học thế giới từ ấy, người ta đã ghi tên

nhà phỏng viên Stanley bằng nét chữ vàng.Về phỏng sự, Stanley là thủy tổ”

[31, tr.39].

Trong cuốn Việt Nam tự điển của Hội Khai Trí Tiến đức, xuất bản năm 1931,

cho rằng “phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo”. [31, tr.45]. Năm 1932, trong

15

cuốn Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh có hai chữ: “phóng (bắt chước, hỏi,

phỏng theo) và sự (việc)” [31, tr.45]. Từ điển Hán - Việt của Nguyễn Lân giải

thích phóng sự: “Thể văn trên báo chí kể lại những sự việc tai nghe mắt thấy”

[22, tr.14].

Xem xét trong tổng thể quá trình hình thành và phát triển của thể loại

phóng sự so với các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn,…thì phóng sự

ra đời muộn hơn. Cụ thể là vào cuối thế kỷ XIX ở các nước phương Tây và du

nhập vào Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Xuất hiện trong giai đoạn đầu

với vị trí là “thể loại tân văn”, nó có sức hút đặc biệt đối với độc giả trong và

ngoài nước. Bởi phóng sự đã tỏ rõ được ưu thế của nó khi phản ánh hiện thực

trực tiếp, đáp ứng được nhu cầu nắm bắt thông tin nhanh nhanh nhạy của

người tiếp nhận.

1.1.2. Quan niệm về thể loại phóng sự trước 1975 ở Việt Nam

Nhắc đến phóng sự trước 1975 ta không thể không nhắc đến giai đoạn

phóng sự đã phát triển vượt bậc vào thập niên 30, 40 của thế kỷ XX. Giai

đoạn này, cùng với tiểu thuyết, Thơ mới, phóng sự là một thể văn phát triển

mạnh mẽ (Vũ Trọng Phụng, Thiếu Sơn, Lãng Tử, Y Lang,…). Và cũng trong

chừng ấy năm cho đến nay đã có hàng loạt những công trình, ý kiến nghiên

cứu bàn về thể loại này theo nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau.

Theo Hoàng Minh Phương trong Phương pháp thực hiện phóng sự báo

chí thì ở nước ta, do báo chí ra đời muộn hơn các nước phương Tây, phóng sự

được ghi nhận từ những thập niên đầu của thế kỷ XX. Vào khoảng năm 1932,

Tam Lang cho ra đời Tôi kéo xe và ông đã được coi là người mở đầu cho lối

văn phóng sự ở Việt Nam. Tiếp theo sau là những phóng sự Trước vành móng

ngựa (1938) của Hoàng Đạo, Hà Nội lầm than (Trọng Lang), Thanh niên trụy

16

lạc (Nguyễn Đình Lạp), Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng),… đều là những

tác phẩm có tiếng vang trong đời sống văn học.

Vào những năm 50, trong tập bài giảng Muốn làm phóng sự, tác giả

Nguyễn Đình Lạp cho rằng: “Phóng sự là nghiên cứu tìm hiểu một sự kiện gì

rồi ghi chép lại cho thật đúng”. Đến năm 1962, trên báo Văn nghệ tác giả Bùi

Huy Phồn cho rằng phóng sự là: “một thể văn xung kích”, “thuyết phục trực

tiếp người đọc bằng những số liệu, người thật có thể kiểm tra thấy được…

nhất là tính chiến đấu và kịp thời” [31, tr.45].

Tiếp đó, trên Tạp chí văn học (từ số tháng 5/1966 đến số tháng 6/1967) đã

mở đợt Trao đổi về thể ký và vấn đề viết về người thật, việc thật. Các nhà văn

đã lần lượt trình bày quan niệm của mình về thể phóng sự cũng như nhà

nghiên cứu Vũ Đức Phúc đã kết luận vấn đề rằng: “Phóng sự là kết quả của

một nghiên cứu tại chỗ một vấn đề thời sự rất lớn đang làm cho cả xã hội, có

khi cả thế giới chú ý, đặt ra nhiều dấu hỏi mà vấn đế ấy lại xảy ra ở một nơi ít

người có điều kiện đến nghiên cứu tường tận, một nơi đương thời rất khó đến.

Chính do đặc điểm này của phóng sự mà một phóng sự có giá trị phải sốt dẻo,

xác thực, toàn diện” [31, tr.46]. Trong bài viết có tính chất tổng kết, nhà

nghiên cứu Nam Mộc kết luận rằng: “Có tác phẩm thiên về ghi sự kiện xã hội,

hành động con người xoay quanh một vấn đề nhất định của xã hội, của thời

đại. Tác phẩm này còn có thể chứa cả những tài liệu báo cáo, số lượng thống

kê, bắc cầu giữa văn học và báo chí. Ta gọi đó là phóng sự” [31, tr.47].

Đến những năm 60, Chế Lan Viên có những nhận xét thiên về hình thức

cũng như kết cấu của thể loại đã cho rằng: “Ở phóng sự thì ta chỉ cần người

mà không cần nhân vật, và cần vấn đề, cần sự việc mà cốt truyện lại không

cần. Tóm lại, chuyện có thực hay không, có nhân vật hay không có nhân vật,

có cốt truyện hay không chỉ là những sự việc nối nhau bởi một vấn đề, là ba

điểm lớn để phân biệt tiểu thuyết và phóng sự” [31, tr.47].

17

Những ý kiến, quan niệm trên của những nhà nghiên cứu do gắn liền với

tuổi đời còn non trẻ của thể loại phóng sự nên họ có thiên hướng khai thác

đặc điểm chung nhất của thể loại về mặt nội dung cũng như hình thức phản

ánh. Đó là thể loại phản ánh những vấn đề, sự kiện của cuộc sống ở góc nhìn

trực diện mang tính chiến đấu kịp thời nhưng không cần sự khắc họa nhân

vật, kể cả cốt truyện. Điều cốt yếu nhất của thể loại phóng sự là “cần người”,

“cần vấn đề”, “cần sự việc” đồng thời tác phẩm phóng sự phải biết “đặt ra

những câu hỏi” trước cuộc đời.

1.1.3. Quan niệm về thể loại phóng sự từ sau 1975 ở Việt Nam

Trong cuộc hành trình sinh thành và phát triển của thể loại, phóng sự đã

trải qua những bước thăng trầm nhất định tương ứng với những hoàn cảnh xã

hội khác nhau. Sau khi phát triển rầm rộ vào giai đoạn 1930 - 1945 thì phóng

sự tạm lắng lại trong khoảng thời gian dài cho đến đại thắng mùa xuân 1975

nó được khôi phục vị thế và trưởng thành hơn. Sự hồi sinh của thể loại phóng

sự trên văn đàn giai đoạn từ 1975 đến nay cũng đồng nghĩa với sức cuốn hút

trở lại của nó đối với giới nghiên cứu tham gia nhận xét, đánh giá trên nhiều

bình diện khác nhau.

Bước sang những năm 70 trong cuốn Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản

Khoa học xã hội, 1977) định nghĩa rằng: “Phóng sự là thể văn chú trọng diễn

tả sự thật mà mình trông thấy và giải đáp các vấn đề do sự thật ấy nêu ra” [31,

tr.48]. Tiếp theo trong Từ điển học sinh (Nhà xuất bản Giáo dục, 1977) trình

bày khái niệm có phần sâu sắc hơn khi cho rằng: “Phóng sự là thể văn phản

ánh, phân tích kịp thời những sự việc tai nghe mắt thấy có tính chất điều tra”

[31, tr.48].

Quyển Từ điển thuật ngữ văn học xuất bản vào năm 1992 do GS Lê Bá

Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (Nxb Giáo dục) đã có những

18

phân tích, đánh giá rất chi tiết về phóng sự như sau: “Việc sử dụng một số

phương tiện biểu đạt của văn học như các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình

ảnh, hướng vào thế giới bên trong (ở một mức độ nhất định) của nhân vật,...

khiến cho phóng sự vốn từ báo chí, có thể trở thành văn học, một số tác phẩm

thuộc loại này thường được chấp nhận như là những tác phẩm văn học có giá

trị” [31, tr.48].

Xuất phát từ cơ sở hiện thực, năm 1962, GS Hà Minh Đức trong giáo trình

Thể loại văn học nhận định rằng: “Điều chủ yếu trong một thiên phóng sự ...

là sự việc và hiện thực khách quan” (Nhà xuất bản Giáo dục, trang 160) [31,

tr.49]. Đến năm 1992 ông tiếp tục khẳng định: “Về cơ bản, phóng sự cũng có

đặc tính của thiên kí sự: chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực

của đối tượng miêu tả. Nhưng phóng sự lại đòi hỏi tính thời sự trực tiếp.

Phóng sự được viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó mà xã hội đang

quan tâm. Người viết trình bày một cách khách quan diễn biến của câu

chuyện, sự việc, đồng thời cũng nhằm chứng minh cho một kết luận của

mình, hoặc từ đó đề xuất ra những vấn đề xã hội nhất định (...). Người viết

phóng sự giỏi trước hết phải là người có trách nhiệm với ngòi bút, với chân lí

cuộc sống, phải biết xông xáo, đi sâu vào thực tế đời sống, có năng lực phát

hiện và khái quát hóa” [31, tr.49]. Khảo sát trên phương diện nội dung GS

Phương Lựu trong giáo trình Lí luận văn học tái bản lần thứ 5 năm 2006 cho

rằng “phóng sự nổi bật bằng những sự thật xác thực, dồi đào và nóng hổi” và

“nội dung chủ yếu của phóng sự lại thiên về vấn đề mà người viết muốn đề

xuất và giải quyết” [13, tr.435].

Gần đây, công trình Lí luận văn học do Trần Đình Sử chủ biên xuất bản

năm 2012 cũng khẳng định lại về mặt hình thức rằng: “Phóng sự là thể loại ký

nằm giữa văn học và báo chí. Phóng sự khác thông tấn ở chỗ nó không chỉ

đưa tin mà còn có nhiệm vụ dựng lại hiện trường cho mọi người quan sát,

19

phán xét. Do đó, nó nghiêng hẳn về phía tự sự, miêu tả, tái hiện sự thật,

nhưng nội dung tự sự thường không dựa vào một cốt truyện hoàn chỉnh” [26,

tr.377].

Nhìn nhận từ bình diện của thể kí báo chí, nhà nghiên cứu lí luận báo chí

Đức Dũng trong Các thể ký báo chí đã định nghĩa: “Phóng sự là một thể loại

đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bày, diễn tả những sự kiện,

con người, tình huống điển hình trong một quá trình phát sinh phát triển dưới

dạng một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát vừa chi tiết sống động với vai trò

quan trọng của nhân vật trần thuật và bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất

văn học” [16, tr.39].

Tác giả Hoàng Minh Phương khi dựa trên một số tài liệu báo chí học

Pháp, Australia và Hoa Kỳ trong công trình Phương pháp thực hiện Phóng sự

báo chí có trích dẫn như sau: “Phóng sự là một bài viết có chủ đích dựa trên

những biến cố, sự kiện nổi bật đã xảy ra có liên quan đến một hay những bối

cảnh hoặc con người trong các tình huống phức tạp và hệ quả của những biến

cố, sự kiện ấy gây ra cho xã hội” [22, tr.15]. Theo tác giả công trình thì với

định nghĩa như trên là khá cụ thể và đáng tham khảo bởi trước hết nó cho ta

thấy nét khác biệt không chỉ giữa Phóng sự và Tường thuật mà còn giữa

Phóng sự với các thể văn báo khác, nó giúp ta thấy được quá trình làm việc

công phu, thận trọng và gian khổ của người viết Phóng sự.

Huỳnh Dũng Nhân xuất phát từ điểm nhìn của báo chí khi đất nước bắt đầu

đổi mới vào năm 1986 trong giáo trình Để viết phóng sự thành công quan

niệm rằng: “Phóng sự là một thể tài báo chí, phản ánh những vấn đề có tính

thời sự có ý nghĩa chính trị xã hội được bạn đọc quan tâm. Phóng sự có thể

viết bằng các bút pháp mang tính văn học. Trong phóng sự có nhân vật và có

cái tôi trần thuật. Phóng sự giúp bạn đọc hiểu sâu hơn, rõ hơn sự việc và chia

sẻ được với tác giả những vấn đề được đặt ra trong tác phẩm” [16, tr.39]. Ông

20

cho rằng hiện nay phóng sự đứng hẳn về phía báo chí vì đề tài nó đề cập đến

là những vấn đề nóng hổi, thời sự, nó phản ánh các hoạt động xã hội, nó phải

nhanh và trung thực, được quy định bởi các tính đặc trưng của báo chí.

Đúng như Lê Phú khải trong bài viết Thử bàn về “cái Tôi” trong phóng sự

cho rằng: nếu hỏi 100 nhà báo về định nghĩa phóng sự thì người ta lại nhận

được 100 câu trả lời khác nhau! Đó là vì sự phong phú đa dạng của thể loại

này. Riêng ông thì quan niệm rằng: “Người viết phóng sự là vị sứ giả được

bạn đọc cử đến tận nơi xảy ra sự kiện quan trọng để gửi về cho họ những

thông tin vô giá...” [10, tr.89].

Cùng có những nhận định trong công trình Để viết phóng sự thành công

của tác giả Huỳnh Dũng Nhân thì nhà báo Nguyễn Quang Vinh và Ngọc Trân

đã có nhận xét xác đáng về thể loại phóng sự. Trong khi Nguyễn Quang Vinh

tập trung vào điểm nhấn của thể loại là: “Viết phóng sự phải tìm ra cái mới lạ.

Cái mới cái lạ trong bài viết phải đổi bằng mồ hôi công sức. Phải máu đi” và

“để ra được một phóng sự bản thân người viết phải đầy chất năng lượng

phóng sự: năng lượng cảm xúc, hồn vía, chữ nghĩa và vốn sống”[16, tr.191-

192] thì Ngọc Trân cũng cho rằng: “Đây là thể loại được sử dụng khi thông

tin có tính chất trình diễn, sống động, muôn màu muôn vẻ” [16, tr.193].

Nếu như giai đoạn trước 1975 quan niệm về thể phóng sự được các nhà

nghiên cứu chú ý đến đặc điểm nội dung phản ánh thì sau 1975 chúng lại

được người tiếp nhận khai thác một cách sâu sắc, triệt để hơn về đặc trưng thể

loại, khi mà nó đã có bước tiến dài hơn trong quá trình phát triển. Phóng sự

giai đoạn này đã có sự thay đổi, cách tân kịp thời cả về nội dung lẫn hình thức

để đưa phóng sự trở về đúng với đặc trưng thể loại vốn có của nó. Phóng sự

vẫn là một thể loại thuộc loại hình ký, nó có nhiệm vụ ghi chép kịp thời

những sự kiện, những vụ việc vừa xảy ra nhằm làm sáng tỏ trước công luận

hiện thực cuộc sống xã hội đương thời. Phóng sự bao giờ cũng phải mang ý

21

nghĩa thời sự, có mục đích cung cấp cho dư luận những tri thức phong phú,

đầy đủ, chính xác về vấn đề mà mọi người quan tâm. Phóng sự còn thể hiện

quan điểm và xúc cảm của tác giả về hiện thực. Những thiên phóng sự có giá

trị là những tác phẩm mang đậm chất văn chương, mang giá trị thẩm mỹ cao.

1.2. Hoàn cảnh xã hội, văn học và báo chí từ 1975 đến nay Quá trình tồn tại, vận động của văn học cũng như báo chí đều chịu sự chi

phối của hoàn cảnh xã hội. Những đổi thay, cách tân trong nội dung và hình

thức của chúng đều bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Như một lẽ tất yếu khi

đề cập đến đời sống của văn học và báo chí từ 1975 đến nay thì chúng ta phải

tìm về hoàn cảnh xã hội của giai đoạn này.

1.2.1. Hoàn cảnh xã hội sau 1975

Đại thắng mùa xuân 1975 là một trong những chiến thắng oanh liệt nhất,

lẫy lừng nhất của dân tộc Việt Nam. Chúng ta đã đánh bại đế quốc Mỹ - một

đế quốc có thế lực kinh tế, quân sự hùng mạnh bậc nhất thế giới. Một kỷ

nguyên phát triển rực rỡ của cách mạng Việt Nam được mở ra: kỷ nguyên cả

nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy sống trong không khí

hòa bình với niềm vui chiến thắng nhưng công cuộc xây dựng xã hội chủ

nghĩa phía trước vẫn là nhiệm vụ hết sức khó khăn do kinh tế xã hội đang

hoạt động theo quán tính bao cấp thời chiến, do phải tiến hành trong điều kiện

đất nước vừa trải qua những năm tháng chiến tranh liên miên, đầy gian lao,

vất vả.

Đứng trên góc nhìn đã qua với những khó khăn và thành công nhất định

trong quá trình xây dựng đất nước thì lịch sử trong thời kỳ đất nước thống

nhất có thể chia làm hai giai đoạn: trước và sau khi có nghị quyết Đại hội

Đảng lần thứ VI (1986). Trước năm 1986 là giai đoạn nhân dân nô nức vui

mừng vì đất nước sạch bóng quân thù, hy vọng tiến nhanh, tiến thẳng lên chủ

22

nghĩa xã hội với ấm no, hạnh phúc. Tất cả khẩu hiệu bao trùm thời đó là: “tất

cả vì Chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”. Nhưng đây cũng là giai

đoạn đất nước gặp rất nhiều khó khăn do cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp

không còn thích hợp. Cách thức quản lý kinh tế theo kiểu bao cấp, là một

cách quản lý làm thay và nuôi bao trong đầu tư xây dựng, sản xuất, phân phối

lưu thông, tiêu dùng xã hội và tiêu dùng cá nhân. Cách làm ăn không chú ý

đến hiệu quả cuối cùng đã bộc lộ nhiều bất cập và bám rễ sâu trong sản xuất

và đời sống đẩy đất nước vào tình trạng vô cùng khốn đốn. Đời sống nhân dân

ngày càng khó khăn, tình hình xã hội căng thẳng. Do vậy, việc chấn chỉnh lại

cơ chế quản lý cho phù hợp với quy luật vận động là một vấn đề hết sức cấp

bách. Về mặt xã hội, chiến tranh đã làm xáo trộn và gây tổn thất lớn cho lực

lượng lao động, để lại hậu quả nặng nề và kéo dài.

Nhiệm vụ khôi phục và phát triển một nền kinh tế trong giai đoạn này là

rất cần thiết nhưng cũng đầy khó khăn khi đất nước đang gánh trên vai những

vùng bị chiến tranh tàn phá, bị hủy diệt bởi chất độc hóa học rất nặng nề.

Chiến tranh và quá trình cưỡng bức đô thị hóa của Mỹ đã gây xáo trộn trong

phân bố lực lượng lao động. Nông thôn nông nghiệp thiếu lao động. Các vùng

đô thị, mật độ dân số quá đông không tương xứng với sự phát triển về kinh tế.

Những di hại do chế độ thực dân của Mỹ để lại cũng rất nặng nề như ma túy,

mại dâm, lưu manh, bụi đời,... số người thất nghiệp, mù chữ chiếm tỉ lệ lớn

trong dân cư. Tóm lại, tình hình đất nước sau đại thắng mùa xuân năm 1975

có nhiều thuận lợi đồng thời cũng tồn tại rất nhiều khó khăn, phức tạp.

Giai đoạn thứ hai, từ năm 1986 trở đi, khi có Nghị quyết Đại hội VI, đây là

cột mốc quan trọng đánh dấu cho sự nghiệp đổi mới của đất nước ta: thời kỳ

đất nước đổi mới toàn diện, đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đổi

mới dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đứng trước những sai lầm trong cơ

chế quản lý kinh tế bao cấp, xã hội ngày càng khó khăn nên đòi hỏi Đảng ta

23

phải tích cực đổi mới tư duy một cách mạnh mẽ, phải nhìn thẳng vào sự thật,

đánh giá đúng sự thật, từ đó xác định mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng trong

tương lai để đưa đất nước vượt lên khó khăn, chuyển mình đi lên phía trước.

Như ta đã biết chính sự tồn tại quyết định ý thức vì vậy nên mỗi thời đại

lịch sử sẽ có nền văn nghệ tương ứng hay chính là “xã hội thế nào thì văn

nghệ thế ấy”. Đổi mới là yêu cầu tất yếu của đất nước ta sau 1975 khi cái cũ

không phù hợp, lạc hậu, lỗi thời, đổi mới để ổn định và phát triển hướng đến

một xã hội dân chủ là sự nghiệp mà Đảng và dân ta quan tâm. Những tác

phẩm được sinh thành với sứ mệnh là “tiếng nói của thời đại” sẽ là bằng

chứng sinh động thiết thực của lịch sử dân tộc. Trên cơ sở xã hội đó thì phóng

sự, một thể loại nằm giữa văn học và báo chí, cũng có sự thay đổi về chất lẫn

lượng để phản ánh và phục vụ kịp thời cho xã hội ấy.

1.2.2. Sự phát triển chung của văn học sau 1975

Từ 1975 đến nay nền văn học Việt Nam trải qua hai giai đoạn: từ 1975

đến 1985 là giai đoạn mà cảm hứng văn học sử thi thời chiến vẫn còn âm

vang và đang có xu hướng chuyển dần sang văn học thời hậu chiến với nhiều

vấn đề đang được ra trong cuộc sống thường nhật, từ 1986 trở đi là văn học

vận động trong thời kỳ đổi mới và được chia làm hai bước đi nhỏ như sau: từ

1986 đến đầu thập kỉ 90 là chặng đường văn học đổi mới sôi nổi, mạnh mẽ

gắn liền với chặng đầu của công cuộc đổi mới đất nước được đánh dấu bằng

Đại hội Đảng lần thứ VI, từ giữa những năm 90 đến nay, khi mà xã hội đã đi

vào ổn định và phát triển thì văn học trở lại những quy luật bình thường và

nghiêng về chú trọng cách tân trong nghệ thuật.

Giai đoạn đầu từ 1975 đến 1986 là giai đoạn mang tính chất bắc cầu từ nền

văn học cách mạng trong chiến tranh sang nền văn học thời kì sau chiến tranh.

Tính chất chuyển tiếp được thể hiện trên mọi phương diện của đời sống văn

24

học từ cảm hứng, đề tài đến các phương thức nghệ thuật và quy luật vận động

của văn học. Ở nửa cuối thập kỉ 70, những năm sau chiến tranh, nền văn học

vẫn tiếp tục mạch phát triển theo quán tính của nó với những cảm hứng chủ

đạo trong thời kỳ chiến tranh chống Mỹ cứu nước, đó là đề tài về chiến tranh

gắn liền với cảm hứng sử thi vẫn là nội dung mà nhà văn quan tâm khai thác.

Vào đầu những năm 80, với những cơ chế bao cấp thời chiến không còn phù

hợp trong hoàn cảnh thời bình và bộc lộ những hạn chế đã đẩy nền kinh tế xã

hội nước nhà rơi vào khó khăn và khủng hoảng trầm trọng. Trong hoàn cảnh

xã hội như thế đã tác động trực tiếp đến nền văn học. Sáng tác văn học chững

lại vì người viết lâm vào tình trạng bối rối không tìm thấy phương hướng sáng

tác. Vì độc giả cần cái nhìn, hướng đi mới hơn của giới sáng tác bởi cuộc

sống ngổn ngang có biết bao điều. Vật chất luôn quyết định sự tồn tại của ý

thức và trong trường hợp này thì ý thức nghệ thuật của nhà văn lẫn công

chúng chuyển biến chưa kịp thời với thực tiễn xã hội mới. Một xã hội yêu

cầu họ phải có quan niệm và cách tiếp cận hiện thực khác hơn thời kỳ trước.

Chính vậy, nhà văn Nguyên Ngọc đã gọi thời kỳ này là “khoảng chân không

trong văn học”, một khoảng không mà cả người sáng tác lẫn tiếp nhận đều

chưa tìm được cho mình hướng đi mới của văn học nghệ thuật sao cho phù

hợp với thực tại xã hội. Cuộc sống vốn là mảnh đất màu mỡ cho văn chương,

trong tình thế chững lại ấy thì sự trăn trở càng lớn thôi thúc cả một thế hệ cầm

bút phải đổi mới trong cách viết, cách nhìn nhận vấn đề của họ. Nguyễn Minh

Châu đã tiên phong trong chặng đường này với những truyện ngắn hướng vào

các vấn đề thế sự - đạo đức trong cuộc sống thường nhật, bên cạnh đó còn có

Nguyễn Khải trong những tác phẩm Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người,...

và Ma Văn kháng với Mùa lá rụng trong vườn… Trên sân khấu kịch nói có

Lưu Quang Vũ, Xuân Trình,....

25

Với buổi đầu bối rối, chững lại đầy trăn trở đến gặt hái được những thành

công nhất định thì văn học cũng đã tìm được cho mình những hướng tiếp cận

mới trong hiện thực đa dạng, nhiều chiều, nổi bật là cái nhìn gắn với hiện thực

trong cuộc sống đời thường với những vấn đề đạo đức - thế sự đang rất cần

văn học nhận thức, khám phá sau khi con người đã trải qua một thời khói lửa

đau thương. Sự ra đời của hàng loạt những tác phẩm ấy sẽ làm mất dần

khoảng không giữa văn học và đời sống, là tiền đề tích cực chuẩn bị cho bước

tiến tiếp theo của văn học, giai đoạn từ 1986 về sau.

Giai đoạn thứ hai là từ năm 1986 trở đi, cùng với những tiền đề xã hội

như Đại hội Đảng VI (1986) của Đảng đã xác định đường lối đổi mới toàn

diện, mở ra cho đất nước thời kỳ mới thoát khỏi khó khăn, phát triển trong

bền vững với Nghị quyết 05 của Bộ chính trị cùng cuộc gặp của Tổng Bí thư

Nguyễn Văn Linh với đại diện giới văn nghệ sĩ vào cuối năm 1987 đã mở ra

thời kì đổi mới thật sự trong văn học Việt Nam với tinh thần đổi mới tư duy

và nhìn thẳng vào sự thật. Chính vì thế những năm nửa cuối 80 và đầu 90 đã

phát triển mạnh khuynh hướng nhận thức lại hiện thực với cảm hứng phê

phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản. Những tác giả, tác phẩm in dấu trong

giai đoạn này là: Thời xa vắng (Lê Lựu), Tướng về hưu (Nguyễn Huy Thiệp),

Bến không chồng (Dương Hướng),....với những mảng khuất lấp của bức tranh

hiện thực trước đây chưa được soi rọi trực diện giờ được các nhà văn nhìn

nhận, soi sáng từ nhiều phía mà họ mong muốn đánh thức toàn xã hội. Cũng

như trước, giai đoạn này vẫn là sự nối tiếp hướng tiếp cận đời sống trên bình

diện thế sự - đời tư trong giai đoạn trước.

Nhiệt tình đổi mới xã hội, khát vọng dân chủ và tinh thần nhìn thẳng vào

sự thật đã là những động lực tinh thần cho văn học của thời kỳ đổi mới phát

triển mạnh mẽ và sôi nổi. Sự vận động, biến đổi trong cuộc sống là nguồn gốc

26

sâu xa dẫn đến yêu cầu đổi mới ý thức nghệ thuật đối với người cầm bút lẫn

tiếp nhận.

Tình hình văn học giữa những năm 90 đến nay có xu hướng chững lại.

Bởi nghệ thuật mà văn học là một bộ phận luôn vận động và phát triển trong

sự ràng buộc tự nhiên với đời sống xã hội. Những giá trị nghệ thuật chân

chính đều là những sáng tác bắt rễ sâu xa trong mảnh đất thực tế của thời đại

mình. Chính vậy trong xu thế đi tới sự ổn định của xã hội từ giữa những năm

90 này đã tác động đến văn học, về cơ bản cũng đã trở lại với những quy luật

mang tính bình thường.

1.2.3. Sự phát triển chung của báo chí sau 1975

Lịch sử báo chí truyền thông Việt Nam tính từ năm 1865 khi tờ Gia Định

báo ra đời đến nay đã được 147 năm. So với lịch sử báo chí thế giới thì nền

báo chí nước ta có tuổi đời trẻ hơn. Trong sự vận động và phát triển ấy có

nhiều khuynh hướng báo chí khác nhau: báo chí của thực dân đế quốc xâm

lược, báo chí của những người Việt Nam yêu nước, báo chí cách mạng và nổi

bật lên là dòng báo chí cách mạng. Đã có hơn 80 năm phải triển kể từ ngày

báo Thanh niên ra đời (21/6/1925) tại Quảng Châu - Trung Quốc do Chủ tịch

Hồ Chí Minh sáng lập, báo chí cách mạng Việt Nam là một bộ phận không

thể tách rời của đời sống cách mạng và dân tộc. Trên hai mươi 20 năm đất

nước đổi mới và đổi mới báo chí (từ năm 1986 tới nay), báo chí truyền thông

Việt Nam có bước phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng được chia thành nhiều

loại. Theo như các nhà luận báo chí, chúng được chia ra ba loại sau: Thông

tấn báo chí (bản tin, phỏng vấn, tường thuật, điều tra), Chính luận báo chí (xã

luận, bình luận, chuyên luận) và các thể Ký báo chí (phóng sự, ghi nhanh, ký

chân dung, ký chính luận, nhật ký phóng viên, sổ tay phóng viên, thư phóng

viên). Trong các thể ký báo chí thì phóng sự là một trong những thể loại có

27

khả năng đặc biệt thích hợp với mô tả sự phát triển hiện thực, có khả năng gây

ấn tượng với công chúng.

Ngày nay, phóng sự vẫn đang ổn định với những ưu thế của mình. Các bài

phóng sự trên báo thường có vị trí quan trọng luôn thu hút lượng lớn độc giả.

Các nhà báo thành công với phóng sự luôn được đánh giá là những cây bút

sắc sảo và nhạy bén. Phóng sự đã thực sự góp phần làm sống dậy một không

khí dân chủ trong văn học và báo chí Việt Nam. Diện mạo của nền văn học và

báo chí đổi mới của chúng ta trọn vẹn hơn với sự góp mặt đầy ấn tượng của

hàng trăm tác phẩm phóng sự đề cập mọi khía cạnh của đời sống.

Hiện nay phóng sự đang là những mục không thể thiếu được đối với công

chúng báo chí trên các kỳ xuất bản. Và bất kỳ tờ báo nào cũng dành một diện

tích mặt báo thích hợp để đăng tải các bài phóng sự của báo mình, và đã có rất

nhiều tờ báo tạo được chỗ đứng trong lòng độc giả nhờ có chuyên mục phóng

sự như chuyên mục phóng sự của báo Lao động, các bài phóng sự của báo

Tuổi trẻ, trang phóng sự của báo Thanh niên, báo Tiền phong,... và hàng loạt

tên tuổi nhà báo đã được công chúng biết đến thông qua thể loại phóng sự. Từ

thế hệ của nhà báo Xuân Ba, Mạnh Việt (báo Tiền phong), nhà báo Huỳnh

Dũng Nhân, Vĩnh Quyền (báo Lao động), đến những nhà báo trẻ hiện nay

luôn lăn xả vào hiện thực cuộc sống để tìm kiếm và phản ánh mọi mặt vấn đề

của đời sống xã hội.

Ở nước ta hiện nay, Lao động là tờ báo hàng đầu trong việc khai thác

những thế mạnh của phóng sự báo chí hiện đại. Phóng sự trên tờ báo này có

ưu điểm nổi bật là phong phú về đề tài, năng động trong tiếp cận hiện thực và

có hình thức thể hiện rất linh hoạt. Về phương diện thể loại, đây là tờ báo mà

hầu hết những bài được ghi là “phóng sự” đều đã đáp ứng đầy đủ các tiêu chí

của phóng sự hiện đại. Trên tinh thần coi phóng sự là thể loại lớn, là “khẩu

đại bác” trong báo chí, trong nhiều năm qua, Ban biên tập báo Lao động đã nỗ

28

lực duy trì thể loại này đều đặn trên tất cả các số báo, đồng thời tự đặt ra tiêu

chí riêng để duy trì và phát triển phóng sự. Theo quan niệm này, tác phẩm

phóng sự được ví như một bức tranh “có cảnh, có người, có những điều ta

chưa biết tới, có những số phận sau những góc khuất của cuộc sống, để mà

hiểu biết, căm giận, cảm thông và yêu thương cuộc sống, yêu thương con

người hơn. Bức tranh đó có thể rực rỡ sắc màu, rộn rã tiếng đời, tùy thuộc vào

bút pháp, văn phong của người viết phóng sự”. Với cách nhìn nhận về thể loại

phóng sự như vậy, trong những năm qua báo Lao động là một trong những tờ

báo hàng đầu ở nước ta gặt hái được nhiều thành công trong lĩnh vực phóng

sự. Nhiều tác phẩm in ra trên báo này đã được coi như những tác phẩm tiêu

biểu cho thể loại phóng sự trên báo in, báo điện tử. Phóng sự báo Lao động đã

phản ánh trung thành những nổ lực của cá nhân, của cộng đồng và chính

quyền các cấp trong việc giải quyết những khó khăn trong cuộc sống theo một

định hướng tích cực, hợp lý, hợp tình, hợp pháp. Bên cạnh những cây bút đàn

anh như: Chinh Đức, Vĩnh Quyền, Huỳnh Dũng Nhân,… đã đạt nhiều thành

công, trong những năm gần đây đã xuất hiện những cây bút trẻ có cá tính như

Lê Quang Vinh, Bảo Trân, Trần Đăng, Xuân Quang, Quảng Hà, Lê Thanh

Nguyên,…

Đứng trước nhu cầu thông tin đa dạng, đáp ứng được những thôn tin cấp

thiết, nóng hổi của đời sống thì hiện nay Lao động vẫn là một trong những tờ

báo ở nước ta có nguồn phóng sự dồi dào để đăng hàng ngày. Những tác

phẩm này thường có dung lượng dao động trong khoảng từ 1500 chữ đến

1800 chữ. Thể loại này đã trở thành thế mạnh, có vai trò quan trọng trong việc

tạo ra bản sắc riêng của báo Lao động. Tiếp đến, Sài Gòn giải phóng là một

trong số không nhiều tờ báo ở nước ta thường xuyên đăng tải các phóng sự.

Trải qua quá trình vận động, phát triển báo chí luôn gắn liền và đáp ứng

kịp thời với những đổi thay của xã hội. Báo chí đã là vũ khí tinh thần, là

29

nguồn động lực quan trọng, lãnh trách nhiệm đi tiên phong trong công cuộc

đổi mới đất nước, xã hội, con người.

1.3. Quá trình vận động, phát triển của phóng sự Việt Nam từ 1975 đến nay

1.3.1. Phóng sự giai đoạn 1975 đến 1986

Năm 1975 đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam hiện

đại: hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc, đất nước thu về một mối, mở

ra một kỉ nguyên mới độc lập, thống nhất, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội

giàu mạnh, dân chủ. Không còn chiến tranh, bom đạn, song không phải vì thế

mà cuộc sống không còn những lo âu, nỗi buồn. Trái lại cuộc sống trong thời

bình lại còn lắm gai góc, phức tạp hơn thời chiến. Những “di họa chiến tranh”

để lại quá nặng nề, những tệ nạn xã hội bức xúc, những khó khăn về kinh tế,

những thách thức mới về an ninh, chính trị, những rối ren trong quan hệ quốc

tế, cơ chế quan liêu bao cấp ngày càng phơi bày những bất cập… Từ thời

chiến bước sang thời bình, hiện thực cuộc sống mở ra biết bao điều mới mẻ

phức tạp, văn học cần có thời gian suy ngẫm định vị tư thế và cách thức thể

hiện mới hoàn toàn khác với trước đây. Trong khi đối với các thể loại văn

xuôi nghệ thuật cần phải có khoảng thời gian nhất định để vượt qua khoảng

hẫng kiếm tìm tinh thần sáng tạo mới thì các thể kí, đặc biệt là phóng sự, đã

nhập cuộc ngay vào hiện thực sau chiến tranh một cách vững vàng, tự tin. Có

thể nói phóng sự vẫn là thể loại xung kích, song hành cùng lịch sử qua mỗi

bước đi của nó.

Bối cảnh lịch sử xã hội ăm ắp những mâu thuẫn cùng với biết bao biến cố

phức tạp nảy sinh ở cả trong quan hệ đối nội và đối ngoại thời tiền đổi mới đã

tạo tiền đề cần thiết cho sự hiện diện của một giai đoạn phóng sự mới mang

những sắc thái riêng rất khác các giai đoạn phóng sự trước đó. Nét đặc sắc nổi

bật của phóng sự giai đoạn này là ở chỗ: bước đầu phóng sự đã nới rộng đáng

30

kể phạm vi đề tài phản ánh. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được khai thác.

Những sự kiện tiêu biểu của hai cuộc chiến bảo vệ biên cương Tây Nam và

biên giới phía Bắc được tái hiện khá hào hùng trong các phóng sự của Nam

Hà, Đỗ Quảng tạo nên sự tiếp nối, liền mạch với phóng sự thời 1945-1975.

Song nổi bật nhất và phong phú nhất là phóng sự viết về đề tài kinh tế - xã hội

qua những cây bút phóng sự như Hữu Thọ, Đỗ Quảng, Trần Huy Quang…

Muôn mặt hoạt động kinh tế thời bao cấp đã được ghi lại khá sinh động với

tất cả các mặt tốt, xấu của nó. Đó là cuộc đấu tranh chống lại những bảo thủ,

trì trệ của cơ chế quan liêu bao cấp, chống lại tệ nạn tham nhũng, tệ nạn ma

túy, mại dâm… Thêm vào đó, những vấn đề trong cuộc sống đời thường lúc

này cũng có dịp đi vào các trang phóng sự sau những năm dài tạm lắng trong

chiến tranh.

Không chỉ mở rộng về đề tài, phóng sự thời kì này còn bước đầu tiếp nối

được cảm hứng phê phán hiện thực của phóng sự những năm 1930-1945,

hướng tới phơi bày những hiện trạng tiêu cực xã hội. Đó là đặc điểm thể hiện

khả năng áp sát hiện thực cuộc sống bằng tinh thần can đảm vốn có của thể

loại này. Bên cạnh đó, bối cảnh hiện thực mới cũng đem đến cho phóng sự

những cách tân hình thức khác với các giai đoạn trước. Phóng sự thời chiến

tranh vừa ưu tiên tính cập nhật và giá trị tuyên truyền, cổ vũ, động viên theo

lối ghi nhanh, vừa chú trọng tái hiện qui mô sự kiện trong trạng thái ngổn

ngang vốn có của nó theo lối kí sự, đồng thời lại đòi hỏi sự ngắn gọn, hàm súc

để tiện in trong một kì báo. Giờ đây trong điều kiện của thời bình đã cho phép

phóng sự được đầu tư kĩ càng hơn. Tốc độ dòng trần thuật, không gian sự

kiện, kể được đan xen với tả, chân dung nhân vật cơ bản được khắc họa thêm

phần sắc nét. Đặc biệt, trong các phóng sự thường in đậm dấu ấn chủ quan

của tác giả qua những bình luận, phân tích vấn đề trong tác phẩm. Vì vậy

dung lượng tác phẩm thường khá lớn, đòi hỏi phải in trên báo thành nhiều kì.

31

Nhiều phóng sự của Đỗ Quảng, Trần Huy Quang… được đăng gối liên tiếp

trên nhiều số báo (ví dụ phóng sự Âm mưu của kẻ thù và số phận những người

trốn bỏ Tổ quốc của Đỗ Quảng, Lời khai của bị can của Trần Huy Quang…).

Năng lực tổng hợp phẩm chất các thể loại kí khác của phóng sự giai đoạn này

bước đầu cũng đã được ý thức ở một số cây bút tiêu biểu. Nhờ điểm nhìn trần

thuật được điều chỉnh, co giãn linh hoạt, không ít phóng sự đã khai thác cái

nhìn hoài niệm theo kiểu hồi kí hoặc mở ra các nhánh rẽ bằng những tiểu

đoạn miêu tả đầy ấn tượng về thiên nhiên, đồ vật, con người… như trong văn

chương thẩm mĩ. Tính chất chính luận cũng bắt đầu được chú trọng sử dụng

nhằm tạo nên tầm khái quát cho tác phẩm. Nổi bật hơn cả vẫn là phẩm chất

truyện kí trong các phóng sự dài kì. Mặt khác ý thức truy tìm sự thật của

phóng sự thời kì này (nhất là từ những năm 80 trở đi) không thể không hàm

chứa cái nhìn dân chủ của tiểu thuyết. Sự ra đời của các tiểu thuyết - phóng sự

như: Những khoảng cách còn lại (1980), Đứng trước biển (1983), Cù lao

tràm (1985) của Nguyễn Mạnh Tuấn ít nhiều có sự tiếp sức của không khí

phóng sự giai đoạn tiền đổi mới này.

Nhìn chung phóng sự giai đoạn 1975-1985 có được bước tiến đáng kể, tạo

được một diện mạo mới khác trước. Phóng sự thời kì này đang từng bước tiếp

cận với hiện thực mới trong cái nhìn sâu hơn, đa dạng và linh hoạt hơn ở cả

mặt phải cũng như phía khuất lấp của cuộc sống. Tính dân chủ và sự can đảm

bước đầu của phóng sự thời kì này đã góp phần tạo đà tích cực cho sự nở rộ

khá trọn vẹn của phóng sự Việt Nam thời kì đổi mới kể từ 1986 trở về sau.

Có thể nói trong vòng hơn nửa thế kỉ sinh thành và phát triển, phóng sự

Việt Nam đã thực sự tạo nên những biến thái bất ngờ. Sau sự khởi đầu trọn

vẹn với những tác phẩm đặc sắc của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố,… Phóng

sự đi qua hai cuộc chiến tranh như một dòng chảy ngầm bền bỉ và dai dẳng.

Có những lúc tưởng chừng thể loại này bị mờ chìm và mất hút trong dàn hợp

32

ca của các thể loại có ưu thế cổ vũ tinh thần đấu tranh cách mạng của quân và

dân ta. Song những dấu hiệu phục sinh mạnh mẽ vào thời kì tiền đổi mới cho

thấy phóng sự như một thể loại có khả năng tồn tại theo những lối riêng, thích

ứng với mọi hoàn cảnh lịch sử xã hội. Cả sự thăng hoa lẫn chìm lắng đều

mang những dấu ấn đặc thù của thể loại văn học - báo chí quan trọng này.

1.3.2. Phóng sự giai đoạn 1986 đến 1995

Nếu như ở giai đoạn trước, đất nước vừa thống nhất, hiện tại hòa bình

ngổn ngang bao vấn dề của cuộc sống, số phận người lính sau chiến tranh nói

riêng và con người nói chung là những vấn đề mà toàn xã hội phải quan tâm.

Sau mười năm, cột mốc đổi mới đất nước được đánh dấu thông qua Đại hội

Đảng lần thứ VI mở ra đã hướng nhà văn nhà báo sang tiếp cận hiện thực

trong cách nhìn nhận, đánh giá công bằng, thẳng thắn và khách quan.

Nửa sau những năm 80, trong tình hình những cuộc tranh luận về văn học

ở Việt nam diễn ra sôi nổi vì lúc ấy mọi người được phát biểu chính kiến,

được sống trong bầu không khí dân chủ, lành mạnh. Trải nghiệm trong thực tế

sôi động của sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước, các nhà văn nhà báo đã

cho ra đời những bài phóng sự đúng nghĩa. Chính trong bầu không khí ấy đã

tạo nên sự khởi sắc trong văn học. Thoạt đầu là sự xuất hiện của rất nhiều bút

ký. Thể phóng sự sau nhiều năm vắng bóng, nay lại lên tiếng làm xôn xao dư

luận. Đây là giai đoạn phóng sự lại có sự phát triển vượt bậc cả về số lượng

và chất lượng. Trong sự bùng nổ các thể ký văn học và ký báo chí từ nửa cuối

thập kỷ 80 của thế kỷ XX đến nay, phóng sự chính là “cái ngòi nổ”. Trên báo

chí giai đoạn này có hai phóng sự mang dấu ấn: phóng sự Lời khai của bị can

(Trần Huy Quang), Cái đêm hôm ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc). Hai bài phóng

sự này đã dám nói những tiêu cực.

33

Ta thấy trên cơ sở cột mốc quan trọng là thời kỳ đổi mới. Phóng sự giai

đoạn này hình thành trọn vẹn tính chất phóng sự với những tính chất sau:

tuyên truyền cho đổi mới và nêu lên những bất công, những mặt trái, góp ý về

đường lối, chủ trương, phê phán những cái xấu, tiêu cực của xã hội trong bối

cảnh giao thời giữa cái cũ và cái mới, cái cũ chưa mất hẳn và ngày càng bộc

lộ những hạn chế, bất cập, cái mới thì đang trong quá trình hình thành, hình

thành những con người mới, tư duy mới. Những tác phẩm Người đàn bà quỳ

của Trần Khắc, Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc,… với những vấn

đề được nêu lên khiến những người có trách nhiệm và những cấp có thẩm

quyền phải suy nghĩ, cân nhắc, lên tiếng, đưa ra giải pháp xử lý. Sẽ còn sống

mãi trong ký ức người đọc và vĩnh viễn đi vào lịch sử dân tộc.

Với tinh thần trách nhiệm cao, dũng cảm của người viết, phóng sự giai

đoạn này đã có lối viết thẳng thắn hơn, mạnh dạn hơn. Các phóng sự đã

không ngần ngại vạch mặt chỉ tên những kẻ xấu, việc xấu, chỉ ra những vấn

đề cấp thiết của đời sống bất chấp những an nguy của bản thân. Có thể thấy

rằng, trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng do Đảng ta khởi

xướng, lãnh đạo thì phóng sự là một trong những thể loại xung kích luôn

đứng ở hàng đầu trong cuộc đấu tranh với cái xấu, cái ác. Phóng sự mạnh dạn

kiến nghị, đề xuất cách giải quyết những vấn đề của cuộc sống.

Đây là giai đoạn cực thịnh về phóng sự, nhiều cả về đội ngũ viết lẫn số

lượng phóng sự với sự góp mặt của các tác giả tiêu biểu như: Phùng Gia Lộc,

Trần Huy Quang, Xuân Ba, Vũ Hữu Sự, Huỳnh Dũng Nhân… Theo như nhận

xét của các nhà nghiên cứu đã cho rằng thì nội dung của phóng sự giai đoạn

này mang đặc điểm của phóng sự báo chí: Chống tiêu cực, đa dạng, phóng sự

có kiến nghị, đề xuất, có cái tôi tác giả và là thể loại hoàn chỉnh. Đây được

xem như là sự thích ứng và trưởng thành của thể loại trước thực tế và yêu cầu

34

của xã hội. Một bước tiến thể hiện sự năng động của thể loại, một thể loại

nắm bắt cuộc sống trong thế nhanh nhạy.

Phóng sự giai đoạn này là phóng sự xã hội, trong đó mảng điều tra đã

đóng góp tích sực, phanh phui nhiều vụ án, minh oan cho nhiều số phận, diễn

tả được muôn mặt của đời sống. Là những vấn đề thời sự nóng bỏng, phản

ánh được sự đổi mới. Được viết bằng giọng thông tấn. Chẳng hạn trong tập

phóng sự Tiếng kêu cứu của con chim gõ kiến của Trúc Chi và Nguyễn Công

Thắng đã thu hút sự chú ý đặc biệt của độc giả nhiều thế hệ, cho đến hôm nay

ta vẫn giật mình, cứ ngỡ như là sự không thật về những hoàn cảnh, số phận,

con người phải sống trong hiện thực đầy bất công. Đó là vụ án Đoàn Thị

Thuận, vụ giải tỏa nhà dân đường Ngô Quyền ở thị xã Tuy Hòa,… Với trách

nhiệm, lương tâm, bằng cả trái tim của người cầm bút thì họ “không thể nào

im lặng mãi trước đòi hỏi chính đáng của con người”. Tập phóng sự của hai

tác giả Trúc Chi - Công Thắng là tập phóng sự viết về một địa phương nhưng

có ý nghĩa với nhiều địa phương khác bấy giờ, và vẫn là tập phóng sự có giá

trị hiện thực, nhân đạo cho đến hôm nay.

Trong tình hình hiện nay gắn liền với đặc điểm phóng sự nghiêng dần về

tính chất báo chí thì dung lượng của nó cũng có xu hướng ngắn lại, trung bình

là 1800 – 2000 chữ. Tuy vậy những hiệu ứng xã hội không hề giảm sút mà

đem lại hiệu ứng rất cao, mỗi phóng sự thật sự là một tác phẩm, nêu được

những vấn đề tích cực và tiêu cực mà xã hội cần phải nhìn nhận và tìm cách

giải quyết nó, không chỉ nêu vấn đề mà còn góp phần giải quyết vấn đề. Có

tính chiến đấu đối với những phóng sự phản ánh, phơi bày cái xấu, tiêu cực,

những con người biến chất. Thuyết phục người đọc bằng sự chính xác, linh

hoạt, ngắn gọn, những tác phẩm phóng sự đã ghi lại dấu ấn đậm nét trong

lòng người đọc. Tính từ khoảng thời gian xuất hiện ở Việt Nam từ đầu thập

niên 30 của thế kỷ XX đến nay, với một chặng đường khoảng hơn 80 năm có

35

mặt ở Việt Nam nhưng phóng sự đã có những bước tiến dài, ngày càng định

hình rõ về mặt thể loại. Phóng sự càng đi sâu vào những vấn đề thời sự có

tính cập nhật nóng bỏng, chứa đựng nhiều thông tin cô đọng, nổi bật tuy có

ngắn gọn nhưng đã đáp ứng được nhu cầu nhận thức thông tin nhanh của

người tiếp nhận trong thời đại ngày nay.

Tính chiến đấu cao đó được thể hiện thông qua ngôn ngữ, giọng điệu được

trình bày theo lối trực diện, thẳng thắn nhưng không kém phần sâu sắc, thâm

trầm đã tạo hiệu ứng mạnh. Phóng sự thật sự đã tạo được cho chính mình một

diện mạo mới, trong đó xã hội hiện lên ở những đường nét và nhiều góc độ

khác nhau, cũng như phóng sự đã hướng đến nhiều vấn đề tiêu cực và tệ nạn

xã hội – những vấn đề nhức nhối mà công chúng quan tâm. Giai đoạn này đã

để lại trong chúng ta nhiều phóng sự đặc sắc được tạo nên từ ngôn ngữ văn

học với đặc trưng thẩm mỹ cao kết hợp với ngôn ngữ mang tính trực diện

không né tránh sự việc và con người, nhiều khi mạnh bạo, căng thẳng, quyết

liệt của báo chí. Đó là thứ ngôn ngữ có sức cảnh tỉnh, lay chuyển, tạo hiệu

ứng mạnh đối với người tiếp nhận nói riêng và về phía xã hội nói chung.

Trong quá trình khảo sát cụ thể ở những tác phẩm phóng sự trong những

chương sau ta sẽ thấy rõ hơn về ngôn ngữ, giọng điệu của phóng sự thời kỳ

đổi mới rất riêng, rất sinh động và nhiều sắc thái. Yêu cầu và tính chất của đời

sống xã hội hiện đại đã tác động đến phóng sự sau 1986 và buộc nó phải có

hướng đi mới với sự cách tân phù hợp. Và trên hết là tính tính chiến đấu của

phóng sự của phóng sự giai đoạn này đã trở thành sức mạnh vô hình trong

việc thúc đẩy con người, cuộc sống phát triển theo hướng mới, tích cực hơn.

1.3.3. Phóng sự giai đoạn 1995 đến nay

Cuộc sống từ thời chiến chuyển sang thời bình đến đổi mới đất nước là cả

một chặng đường không ngắn. Từ đổi mới để đi đến ổn định kể từ sau năm

36

1995, đất nước ta đã và đang phát triển. Nhưng song song với những thời cơ

và thuận lợi cũng không ít những khó khăn luôn nảy sinh hàng giờ hàng ngày

buộc ta phải nhìn nhận, xem xét, phản ánh và đưa ra phương hướng khắc

phục, giải quyết. Những người đi tiên phong làm nhiệm vụ đầy trách nhiệm

và tâm huyết trong việc này không ai khác hơn là những nhà văn nhà báo. Họ

đã đi khắp nẻo quê hương đất nước, tận cùng thôn xóm để tìm hiểu, ghi nhận,

phản ánh, cảm thông, chia sẻ, góp nhặt từng “hình ảnh nhỏ nhất” trong khuôn

hình chung rộng lớn của đất nước. Mỗi góc ảnh là một hiện trạng, một sự

kiện, một vấn đề về đất nước, xã hội và con người.

Từ đặc trưng thể loại như ta đã biết thì phóng sự là một thể tài lớn được tất

cả các báo quan tâm. Đặc biệt, trên báo Tuổi trẻ, mảng phóng sự được đầu tư

rất lớn. Theo sinh viên Phương Thanh, tác giả khóa luận nghiên cứu về Phóng

sự trên báo Tuổi Trẻ đã có thống kê cụ thể trong giáo trình Để viết phóng sự

thành công của Huỳnh Dũng Nhân cho thấy phóng sự trên báo Tuổi trẻ “liên

tục phát triển” như sau: “Năm 1995: 67 phóng sự, 1996: 59 phóng sự, 1997:

56 phóng sự, 1998: 83 phóng sự, 1999: 108 phóng sự/144 số báo (Cùng thời

gian này chỉ có báo Lao động có nhiều phóng sự hơn. Năm 1995 báo Lao

động có 82 phóng sự. Năm 1999: Báo Lao động có 144 phóng sự). Đến năm

2000, báo Tuổi trẻ ra từ 4 rồi 5 rồi 6 kỳ một tuần, phóng sự cũng tăng lên

đáng kể, năm 2001: 148 phóng sự, 2002: 212 phóng sự, 2003: 200 phóng sự,

2004: 142 phóng sự, 2005: 160 phóng sự. Như vậy trong vòng 6 năm gần đây

trên báo Tuổi trẻ có 944 phóng sự, trung bình một năm có 157 phóng sự.

Trong 11 năm qua, báo Tuổi trẻ cũng đã liên tiếp tổ chức các kỳ thi viết

phóng sự. Đã thu hút được 1.318 tác phẩm phóng sự dự thi của gần 300 tác

giả. Cùng thời gian này, báo Lao động vẫn tiếp tục dẫn đầu về số lượng phóng

sự. Có thể nói vài ba năm trở lại đây, từ khi ra 7 số trong một tuần, báo Lao

37

động chưa một ngày nào vắng bóng các thể loại phóng sự, ghi chép, bút

ký,…” [16, tr7-8-9].

Với quá trình nghiên cứu dẫn ra những số liệu như trên của Phương Thanh

cung cấp cho ta cái nhìn rằng phóng sự bước qua giai đoạn từng gây xôn xao

dư luận trong phản ánh người thật, việc thật (1986-1995) cho đến hôm nay

vẫn không ngừng cuốn hút độc giả quan tâm đến nó, không chỉ vậy mà nhu

cầu của họ càng ngày càng cao. Hiện nay một số tờ báo: Lao động, Sài Gòn

giải phóng, Thanh niên, Tuổi trẻ, An ninh thế giới, Tin tức,.. luôn duy trì đều

đặn các mục phóng sự nhằm thu hút độc giả. Hàng năm Hội Nhà báo Việt

Nam và nhiều cơ quan báo chí, Hội Nhà báo các địa phương đã phát động

nhiều cuộc thi viết phóng sự và đã đạt được nhiều kết quả khả quan. Hiện nay

phóng sự vẫn được coi là thể loại hàng đầu trên báo chí Việt Nam. Trong

cuộc thi phóng sự năm 2002-2003 của báo Lao động có 3 tác phẩm phóng sự

đề cập những con người của đời thường đạt giải. Đó là các phóng sự: Mệ

barie (Giải nhất - Nguyễn Quang Vinh), Chuyện ông Tư “khùng” phố Hội

(Giải nhì - Hoàng Văn Minh) và Chàng trai Mông nuôi cá tiến vua (Giải nhì -

Tản Viên). Đây là mảng phóng sự đề cập đến những con người trong cuộc

sống thường nhật. Nhân vật là những con người rất bình thường, có cuộc sống

cũng rất bình thường, nhưng hành động ứng xử đối với cuộc sống hàng ngày

họ lại tỏa sáng đến lạ thường.

Cuộc sống vốn luôn vận động, vạn vật không đứng yên. Xã hội cũng

không nằm ngoài quy luật ấy, mỗi một thời kỳ luôn chứa đựng những thuận

lợi và khó khăn riêng. Trong thời hội nhập và phát triển, chúng ta đã và đang

phải đối diện với muôn vàn những vấn đề không kém phần phức tạp trong

cuộc sống thường nhật. Thời kỳ này đã mở ra nhiều hướng tìm tòi trong tiếp

nhận và thể hiện, thật sự đáp ứng được nhu cầu tiếp nhận của người đọc hiện

đại. Chính vậy, đề tài được mở rộng, khám phá trên mọi khía cạnh của cuộc

38

sống. Nhiều vấn đề một thời người ta e dè ít khi nói đến, nay được phóng sự

không ngần ngại tiếp cận, ghi nhận và nghiền ngẫm, để rồi đưa ra những lời

giải đáp đôi khi trần trụi đến lạnh lùng.

Cũng như ở những giai đoạn trước, phóng sự giai đoạn này ít chất văn học

và đậm chất thời sự, thông tin. Chất truyện nhạt dần, chủ yếu đọng lại ở “văn”

của người viết. Sự đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong phóng sự đã

góp phần đưa phóng sự trở về gần với báo chí hơn. Mặc dầu vậy, phóng sự

cũng không ngần ngại đi sâu khai thác trọn vẹn số phận nhân vật khi cần đề

cập đến những vấn đề lớn nhưng rất hiếm. Phóng sự thời kỳ đổi mới đa số

không có cốt truyện mà chỉ có sự liên kết giữa sự kiện, số liệu, con người với

cảm quan của tác giả. Trong đó, sự kiện là chất liệu chính bao gồm nhiều vấn

đề nhỏ hàm chứa bên trong. Tài năng của những cây bút phóng sự thể hiện ở

khả năng nối kết các sự kiện sao cho nó có sức sống sinh động nhất. Đặc điểm

đã đưa phóng sự thời kỳ này trở về đúng với đặc trưng thể loại.

Thời đại của khoa học kỹ thuật đã thúc đẩy sự phát triển của con người thì

cách thể hiện và trình bày các phóng sự được thay đổi để đáp ứng yêu cầu

thông tin nhanh nhạy của người đọc bởi phóng sự thời còn phải dành đất cho

nhiều thể loại khác nên phạm vi có hạn. Dung lượng phóng sự được thu hẹp

để đảm bảo diện tích dành cho các thể loại khác trên trang báo. Phóng sự có

xu hướng chú ý đến chất lượng thông tin trong tác phẩm, những thông điệp

mà tác giả muốn gửi đến cho người đọc. Đáp ứng yêu cầu thông tin nhanh

nhạy của người đọc hiện đại, kích thước phóng sự thời kỳ đổi mới vận động

theo hướng giảm dần, nếu phóng sự 1932-1945 phổ biến trên 10.000 từ, thì

kích thước phóng sự thời kỳ này chỉ dao động từ 1.000 đến 5.000 từ, chủ yếu

là dưới 5.000 từ.

Phóng sự giai đoạn này đã mạnh dạn mở ra những bí mật của sự thật về

các vấn đề nằm ẩn sâu trong xã hội, đã góp mặt đầy ấn tượng với hàng trăm

39

tác phẩm phóng sự đề cập đến mọi khía cạnh của đời sống. Khác với sự bùng

nổ các tác phẩm phóng sự đầu thế kỷ XX, những tác phẩm phóng sự càng về

sau này chủ yếu là các tác phẩm phóng sự báo chí nhưng đã được thể hiện khá

sinh động nhuần nhuyễn nhờ sử dụng thành thạo những yếu tố cho phép của

bút pháp văn học. Điều này có nguyên nhân trước hết chính từ những đặc

điểm, năng lực phản ánh hiện thực của thể loại này. Là sản phẩm sáng tạo

mang tính lịch sử cụ thể, thể loại văn học nào cũng chịu sự tác động và chi

phối trực tiếp từ diễn tiến của hoàn cảnh xã hội. Cùng với phong cách cá

nhân, hoàn cảnh xã hội chính là tác nhân trực tiếp góp phần tạo cho các thể

loại những hình hài và sắc màu mới mẻ. Vốn gắn bó với thời cuộc trong từng

thời khắc lịch sử, qua mỗi bước vận động, phát triển, phóng sự lại có những

cách tân, thay đổi để không ngừng làm mới thể loại. Có thể thấy rõ mỗi giai

đoạn phóng sự là một mảng màu riêng biệt bên cạnh một số thuộc tính ổn

định tương đối của thể loại. Có lẽ hơn hẳn bất kỳ thể loại nào khác, phóng sự

đã tỏ rõ tính chất biến thiên của một thể loại trước sự chi phối trực tiếp của

hoàn cảnh xã hội khác nhau.

Việc xác định chính xác các điều kiện hoàn cảnh xã hội trực tiếp hoặc gián

tiếp chi phối phẩm chất văn học và báo chí trong tác phẩm phóng sự sẽ góp

phần hoá giải một nghịch lý hiện hữu ngay trong hành trang phóng sự của

một cây bút rằng: có những lúc họ cần viết những trang phóng sự giàu chất

văn học và cũng lắm khi lại cần phải tác nghiệp những phóng sự theo lối

thông tấn báo chí. Xét về tính chất, mục đích thông tin, yếu tố thời điểm của

sự kiện (mới xảy ra hoặc đã có độ lùi về thời gian) cũng chi phối trực tiếp

việc xử lý mối tương quan giữa các phẩm chất văn học và báo chí trong tác

phẩm phóng sự. Cùng trên nền tảng của một sự kiện, ở mỗi thời điểm tiếp cận

sự kiện khác nhau, người viết phóng sự thường có những điều kiện kiến tạo

điểm nhìn và mục đích ký thác những thông điệp tư tưởng khác nhau. Nhưng

40

khi thảm hoạ đã đi qua, không còn bị câu thúc bởi những thông tin bề nổi bức

xúc, cập nhật thì tác phẩm đã khơi sâu vào những tầng vỉa ý nghĩa thông tin

mới, nhân văn, hướng thiện hơn. Những trăn trở nội tâm, những hồi ức cá

nhân, những chi tiết đau lòng liên quan đến người còn, kẻ mất… đã bào xát

vào cõi tâm can của các nhân vật, cứa sâu vào ý thức người đọc những nỗi

đau nhân thế khôn nguôi, khơi dậy niềm cộng cảm của đồng loại…

Chính hoàn cảnh xã hội thời kỳ đổi mới đến nay đã mở ra những tiền đề

thuận lợi cho sự thăng hoa nở rộ của phóng sự. Tinh thần dân chủ khởi phát từ

các hình thái ý thức xã hội khác nhau đã châm ngòi cho phóng sự khai chiến

với những bảo thủ, trì trệ yếu kém, giải toả những bức xúc trong đời sống xã

hội. Sau những phóng sự mở đường táo bạo của Phùng Gia Lộc, Trần Huy

Quang, Trần Khắc… là các tập phóng sự không kém phần “gai góc” của

Xuân Ba, Vũ Hữu Sự, Huỳnh Dũng Nhân và nhiều tuyển tập phóng sự của

các báo khác lần lượt ra đời. Đặc biệt cây bút phóng sự trẻ Đỗ Doãn Hoàng,

chỉ trong vòng hơn 1 thập kỷ trở lại đây, anh đã có tới 13 tập phóng sự. Cuộc

bùng nổ lần thứ hai này đã đem lại cho lịch sử phóng sự Việt Nam một quy

mô chưa từng có cả về số lượng và chất lượng. Ngòi bút phóng sự của các nhà

văn nhà báo đã truy tìm đến tận cùng mọi góc cạnh của cuộc sống. Hòa mình

trong từng bước đi lên và đổi mới của đất nước phóng sự đã hoàn thành được

trách nhiệm của mình với Đảng và đất nước. Bên cạnh những hình thức

phóng sự vốn có trong truyền thống, các cây bút phóng sự hôm nay đã tìm

đến những kiểu dạng phóng sự mới mẻ, độc đáo. Rất nhiều phóng sự đặc sắc

của thời kỳ này đều thuộc về những trang viết giàu tính năng tổng hợp phẩm

chất các loại ký khác. Phẩm chất văn học được khai thác linh hoạt qua các

phóng sự giàu màu sắc ký sự của Xuân Ba, Huỳnh Dũng Nhân, Đỗ Doãn

Hoàng,… phóng sự giàu chất suy tưởng theo lối bút ký của Hoàng Minh

Tường, Thái Hồng Thịnh, Đỗ Doãn Hoàng…, phóng sự đan xen hồi ký của

41

Trần Huy Quang, Xuân Ba, Huỳnh Dũng Nhân… Đặc biệt do yêu cầu khuyến

dương cái đẹp, cái tốt trong công cuộc đổi mới, loại phóng sự thiên về tạo

dựng chân dung nhân vật cũng đã xuất hiện thường xuyên qua các phóng sự

của Trần Huy Quang, Khắc Dũng, Nguyễn Quốc… Những hình thức phóng

sự mới này có khả năng mở rộng biên độ sáng tạo hết sức linh hoạt ở cả nghệ

thuật tạo dựng điểm nhìn trần thuật và các thủ pháp phức điệu hoá văn phong

thông tấn… Đặc biệt, đã có những phóng sự vươn tới những chiều kích sáng

tạo mới lạ chưa từng có qua việc tạo dựng những chi tiết, tình tiết, không gian

thời gian sự kiện hư ảo, huyền hoặc - điều mà phóng sự với tư cách là một thể

loại báo chí thường hết sức hạn chế khai thác. Chẳng hạn như phóng sự Đừng

bắt bà Chúa Kho tham nhũng (Vũ Hữu Sự), Truyện về những hồn ma liệt sĩ

Trường Sơn (Xuân Ba)… Riêng Vũ Hữu Sự còn có biệt tài lạ hoá phóng sự

đương đại bằng những thủ pháp “bí mật tình tiết” theo lối kịch hoá đặc biệt

cuốn hút người đọc (Xích lô liệt truyện, Nỗi buồn thăm quê, Cờ người). Như

vậy để thấy rằng phóng sự Việt Nam hôm nay đã khai thác tối đa ưu thế của

các thủ pháp văn học tạo hiệu quả tác động thẩm mỹ đặc sắc cho tác phẩm.

Tất nhiên những phóng sự như thế thường thuộc về những cây bút phóng sự

có tài nghệ và phong cách độc đáo.

Thành tựu phóng sự Việt Nam được kết tinh bởi những phong cách sáng

tạo độc đáo, tài hoa từ Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Lạp…

đến Xuân Ba, Vũ Hữu Sự, Huỳnh Dũng Nhân… Giá trị của mỗi phong cách

là sự kết hợp từ chữ tâm và chữ tài. Phong cách của họ đã chi phối đối với

mọi yếu tố cấu thành tổ chức tác phẩm một cách nhất quán nhất quán và mang

tính hệ thống giúp ta cảm nhận được khả năng xử lý theo cách riêng về mối

tương quan giữa các phẩm chất văn học và báo chí trong ý thức sáng tạo đối

với mỗi tác phẩm của các cây bút phóng sự.

42

Tiếp nối giai đoạn mở đầu cuả kỳ đổi mới (1986 - 1995), giai đoạn từ

1995 đến nay trong hoàn cảnh đất nước hòa bình, ổn định và phát triển nhưng

thực tại vẫn luôn tồn tại lắm những vấn đề, lắm những câu hỏi về cuộc đời và

con người nên phóng sự vẫn không ngừng phát triển trên mảnh đất hiện thực

màu mỡ ấy. Minh chứng là sự xuất hiện những cây bút phóng sự có lối viết

vừa thiên về hình thái văn chương nhưng cũng đậm chất phản ánh, thông tin

như Xuân Ba, Vũ Hữu Sự, Hoàng Minh Tường, Đỗ Doãn Hoàng, Nguyễn

Quang Vinh, Huỳnh Dũng Nhân, Xuân Quang… Đó là những cây bút đem

đến sự phá cách thể loại đáng kể cho phóng sự Việt Nam đương đại. Từ sở

trường khám phá đề tài, hình thức tổ chức sự kiện, tạo dựng nhân vật, giọng

điệu, văn phong… của các cây bút này đều chịu sự chi phối trực tiếp từ đặc

điểm phong cách cá nhân hết sức đa dạng của mỗi cây bút. Nhờ nội lực phong

cách đa dạng được tắm mình trong hoàn cảnh xã hội cụ thể mới nên phóng sự

văn học Việt Nam đương đại đã thực sự tạo nên một dấu ấn đậm nét cả về số

lượng và chất lượng.

43

Chương 2: ĐẤT NƯỚC, XÃ HỘI, CON NGƯỜI TRONG PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY

Như ta đã biết khái niệm Thể loại “dùng nói đến dạng thức của tác phẩm

văn học được hình thành và tồn tại trong một giai đoạn lịch sử, thể hiện ở

cách tổ chức tác phẩm và bị quy định bởi phương thức chiếm lĩnh đời sống và

thể hiện những quan niệm thẩm mỹ khác nhau đối với hiện thực cũng như khả

năng khác nhau trong việc tái hiện đời sống” [31, tr.5]. Cũng chính có khả

năng khác nhau trong việc tái hiện đời sống hiện thưc muôn màu muôn vẻ mà

đã hình thành nhiều thể loại khác nhau trong văn học để chúng chiếm lĩnh và

phản ánh cuộc sống tùy theo đặc trưng của từng thể loại. Có những thể loại

chiếm lĩnh cuộc sống ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu với dung lượng đồ sộ (tiểu

thuyết, sử thi,…) nhưng cũng có những thể loại nắm bắt cuộc sống từ một lát

cắt, một góc nhìn với dư vị sâu xa (truyện ngắn) và cũng có thể loại luôn tiên

phong mỗi khi đất nước, xã hội, con người cần một sự thật trong từng hơi thở

của thời đại để kịp thời cảnh tỉnh cái xấu, cái ác, kịp thời biểu dương người

tốt việc tốt như thể phóng sự. Phóng sự đã từng bùng nổ vào những năm thập

niên 30 của thế kỷ XX để đáp ứng nhu cầu của xã hội đang rất cần phanh phui

những tệ nạn, những cảnh đời, những con người trong hoàn cảnh đất nước

giao thời Âu Á lẫn lộn thì sau 1975, lại một lần nữa sức sống của thể loại

phóng sự lại bừng dậy, góp phần không nhỏ cho công cuộc đổi mới và phát

triển đất nước cũng như trong bước phát triển của nền văn nghệ và báo chí

nước nhà.

44

2.1. Một cái nhìn thẳng thắn về hiện thực đất nước Đất nước ta sau đại thắng mùa xuân 1975 bên cạnh niềm vui chiến thắng

vẫn tồn tại nhiều khó khăn cần được nhìn nhận thẳng thắn để khắc phục, điều

chỉnh kịp thời đưa đất nước tiến lên phía trước bắt kịp nhịp sống thời đại. Đó

là những sai lầm trong sản xuất nông nghiệp, những bất công trong quản lý

đời sống cùng với nguồn tài nguyên cần được bảo tồn gìn giữ.

2.1.1. Những sai lầm trong sản xuất nông nghiệp

Đất nước ta với nền kinh tế mà trong đó phát triển nông nghiệp luôn là

vấn đề trọng điểm, trọng tâm. Trải qua bao thế kỷ cuộc sống của dân ta vẫn

luôn gắn chặt với đồng ruộng, đó là nguồn sống của họ. Nếu như trong hoàn

cảnh chiến tranh, đất nước cần huy động sức người, sức của, sức mạnh tập thể

từ nhân dân để chống giặc thì việc tập thể hóa sản xuất, hình thành mô hình

“hợp tác xã” là hoàn toàn hợp lý nhằm thắt chặt tình đoàn kết giữa quân với

dân. Một mô hình mà con người sống và sản xuất hướng đến lợi ích, thu

hoạch chung rồi chia đều cho tất cả chứ không vì lợi ích của riêng ai. Đó là

yêu cầu tất yếu của thời chiến và có còn phù hợp chăng khi hoàn cảnh đất

nước đã chuyển mình sang thời đại mới, thời đại mà người dân được tắm

mình trong không khí hòa bình, độc lập. Chính thế, sau 1975 thì “hợp tác xã

vẫn là vấn đề tranh luận gay gắt”, việc tồn tại của nó “vẫn câu hỏi nổi cộm”

trong dư luận, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của đất nước. Bằng cái

nhìn sâu sắc khi nắm bắt thực trạng này mà các cây bút phóng sự như Xuân

Ba, Trần Huy Quang đã cho ra đời những tác phẩm đặc sắc, phản ánh kịp thời

“người thật, việc thật”.

Cuộc sống của nhân dân rất khốn đốn khi kinh tế đất nước vẫn còn vận

hành theo cơ chế quản lý bao cấp thời chiến mà trong đó sản xuất nông

nghiệp chiếm tỷ trọng không nhỏ. Vì thế vấn đề đổi mới trong quản lý sản

45

xuất nông nghiệp là vô cùng cấp thiết. Qua phóng sự Người xưa của ta nay,

tác giả Xuân Ba đã gợi lại sinh động tình hình thời cuộc lúc bấy giờ. Tác

phẩm ghi lại những trăn trở, tìm tòi cũng như cả quá trình đầy khó khăn, trở

ngại của việc thực hiện khoán hộ từ lý thuyết đến thực hành của Bí thư tỉnh

ủy Kim Ngọc. Có đủ độ lùi thời gian chiêm nghiệm về đất nước, con người,

tác giả không thể ngăn ngòi bút cất nên những dòng tâm sự mở đầu: “Có lẽ

đành ngậm ngùi thốt lại câu hỡi người xưa của ta nay khi ngồi lại với những

người thân của ông Kim Ngọc. Tưởng như đã diệu vợi, đã lăng lắc về một

thời chưa xa với những người chưa cũ, hóa ra mới ngót bốn chục năm” [2,

tr.7]. Từ sáng kiến đến trở thành “Nghị quyết của Tỉnh ủy Vĩnh Phúc tháng 9

năm 1966” đó “ là sự đột phá chính xác vào mắc xích chủ yếu nhất của quy

trình tổ chức sản xuất tập thể, là vấn đề quản lý lao động, một đổi mới quan

trọng trong tư duy kinh tế” [2, tr.6], thế mà “bị đình lại mãi cho đến năm

1981, có chỉ thị khoán 100 và 22 năm sau (5-8-1988) mới được thể hiện cô

đọng súc tích sinh động trong Nghị quyết 10 của Bộ chính trị về đổi mới quản

lý kinh tế nông nghiệp với cốt lõi: xã hộ viên được xem là một đơn vị kinh tế

tự chủ trong hợp tác xã nông nghiệp đem lại sự hồi sinh cho nông thôn Việt

Nam” [2, tr.6]. Vì những sáng kiến mà ông Kim Ngọc phải “chịu sự phê bình

kiểm điểm của cấp trên vì chính sách khoán hộ: làm phá nát hợp tác xã của

Bác Hồ đưa nông dân lên thành tư bản” [2, tr.13]. Nhưng ông không nản chí,

“sau khi cá nhân cùng tập thể tỉnh ủy chịu sự phê bình của cấp trên, chấp hành

nghiêm chỉnh lệnh trên. Ông đành cho đình phương thức khoán hộ lại” [2,

tr.15]. Những người nông dân suốt cuộc đời sống vì mảnh đất quê hương

mình thì họ rất biết ơn ông,“họ chỉ biết ông kéo được bà con nông dân những

xã viên của họ gần hơn mảnh đất sinh ra củ khoai hạt lúa, rồi qua những vụ

khoán như thế, đời sống người nông dân no lành hơn, khấm khá hơn, hợp tác

xã đóng góp cho Nhà nước, làm nghĩa vụ với nhà nước hơn...” [2, tr.16], ông

46

không khoán trắng nhưng ít nhiều vẫn phải khoán từng việc cụ thể thì họ vui

vẻ làm liền theo ý ông, đó là khoán “khoán chui”, bước đầu của đổi mới kinh

tế nông nghiệp. Cho đến năm 1978, từ sự gợi ý của ông, tổng kết tình hình

thực tế, tỉnh ủy lại ra Nghị quyết 15 với nội dung khoán toàn bộ cây màu vụ

mùa đông. Năm 1979, tỉnh lại xin Trung ương cho khoán thử cây lúa, nghĩa là

trở lại với khoán hộ... đến Nghị quyết khoán 10 của Bộ chính trị tháng 8 năm

1988” [2, tr.17].

Nhiều hệ lụy bất cập trong quản lý sản xuất nông nghiệp theo cơ chế bao

cấp thời ấy, điển hình là tình trạng phân công lao động bất hợp lý dẫn đến

Ông đội trưởng phải bán xới tài sản trong loạt phóng sự Người biết làm giàu

của Trần Huy Quang. Một phóng sự giàu chiêm nghiệm, lý giải sâu sắc. Đó là

câu chuyện tại làng Kim Xá của huyện Vĩnh Lạc khi người kể chuyện có

chuyến thăm một người bạn và nghe tin anh sắp đi vùng kinh tế mới, trước

khi đi thì người bạn ấy đã từng “làm chủ nhiệm hợp tác xã, rồi làm đội trưởng

một đội sản xuất lớn, vài năm nay anh nghỉ, làm xã viên” [24, tr.6]. Quá trình

sa sút ấy có nguyên nhân của nó: “Thời trước khoán, ăn theo công điểm thì

Tẹo khá giả nhưng đến khoán, anh Tẹo không có năng lực làm đội trưởng

nữa, kinh tế sa sút. Đến khoán hộ anh càng lẩn quẩn, nợ đầm đìa” [24, tr.11].

Đấy là hậu quả tất yếu của một cơ chế quản lý, phân công lao động không

hợp lý: “Một người nông dân suốt đời làm ruộng tự lo cho gia đình mình

không xong, đến nỗi phải trốn nợ, thế mà trong thời kỳ hợp tác hóa nông

nghiệp, anh ta đã từng nắm vận mệnh kinh tế của một đội sản xuất” [24,

tr.11]. Đến phóng sự Đấu thầu ruộng - một thể nghiệm, Trần Huy Quang

không ngừng trăn trở trước “chuyện ăn, chuyện đói và chuyện vay nợ, độc lập

đã trên bốn mươi năm, chiến tranh đã lùi xa mười ba năm...vì sao đất nước ta

lại nghèo?” [24, tr.33]. Tác giả ngẫm lại từ nguồn gốc sâu xa khi mà: “Cải

cách ruộng đất ta chia đều ruộng đất cho nông dân, xác lập quyền sở hữu tư

47

nhân cho những người đang ao ước có ruộng...ngày đó chúng ta tuyên chiến

với nghèo khổ, tấn công vào nghèo nàn lạc hậu, chúng ta chia bình quân

ruộng đất cho mọi người để xóa bỏ người giàu người nghèo. Để không có sự

phân hóa, chúng ta đã tập thể hóa tư liệu sản xuất” [24, tr.34]. Nhưng trên

thực tế khi: “… không có sự phân hóa giàu, nghèo trong cơ chế quản lý cứng

như thép. Người xã viên chỉ biết thực hiện những thao tác cơ học mà không

cần biết có kết quả gì không” và “ban quản trị hợp tác xã thực chất là những

chủ nô, có quyền sinh, quyền sát đối với bày nô lệ xã viên của mình” [24,

tr.34], kết quả là “mười lăm năm sau, chúng ta thấy kết quả không được như ý

muốn, năng suất lao động thấp, người nghèo rất nhiều. Thì ra khi người nông

dân bị tước mất niềm vui tư hữu thì đồng thời mất luôn hứng thú lao động”

[24, tr.35] bởi khi là “ruộng của mình” thì người nông dân mới có động lực để

sản xuất. Cho nên đến lúc “vượt ra khỏi hạn chế của việc làm ăn tập thể người

nông dân dùng đến khoán. Dù biết không phải sở hữu của mình, nhưng trên

mảnh đất được chia, người nông dân cũng lấy lại được hứng thú. Năng suất

có lên” [24, tr.35] nhưng “chỉ vài năm sau, tiêu cực của việc quản lý lại bộc

lộ. Ban quản trị lại dùng công điểm chi phối thu nhập. Điểm chi vô tội vạ, vì

công điểm loại đó mà số thóc người nông dân được hưởng chỉ chiếm khoảng

ba mươi phần trăm số thóc mà họ làm ra. Lại đói và nghèo. Vẫn bị phân hóa,

một số ít giàu lên, nhưng đại đa số là nghèo đói, kiệt quệ, cảnh con người kéo

cày thay trâu sau bốn mươi năm, lại xuất hiện” [24, tr.35]. Đó là cả một quá

trình từ “làm ăn tập thể, hứng thú lao động không kéo dài được bao lâu và rồi

người nông dân vẫn đói. Khoán đến nhóm đã bộc lộ nhược điểm. Khoán hộ ở

Vĩnh Lạc đang làm. Nhưng cũng chưa phải là phương pháp ưu việt” [24,

tr.36]. Không thể thờ ơ trước tình cảnh ảm đạm như vậy, Trần Huy Quang

cho rằng nên chăng áp dụng “phương pháp đấu thầu, thầu ruộng”, là một hình

thức quản lý thông qua tính chất tư hữu để thúc đẩy sản xuất.

48

Qua những phóng sự trên ta thấy đất nước sau chiến tranh vẫn còn gặp

nhiều khó khăn. Con người vẫn phải không ngừng chiến đấu với những cái cũ

lạc hậu, không còn phù hợp với hoàn cảnh để vươn lên, khẳng định mình

trong thời đại mới. Nhưng trước hết con người cần phải nhận thức được đâu

là sai lầm, đâu là tiến bộ, đâu l à tụt hậu để hoàn thành “công cuộc đổi mới”

thành công, triệt để nhất. Nhận thức đúng, nhận thức sâu sắc phải gắn liền với

việc khám phá ra sự thật. Những tác phẩm phóng sự Người xưa của ta nay,

Ông đội trưởng phải bán xới tài sản,… đã hoàn thành sứ mệnh “khơi đúng,

khơi sâu hiện thực” nhằm đánh thức thực tại đang vướng phải những sai lầm

trong quản lý sản xuất nông nghiệp.

2.1.2. Những bất công trong quản lý đời sống

Không chỉ trong sản xuất nông nghiệp mà trong đời sống vẫn tồn tại rất

nhiều những bất công.Từ sau Đại hội Đảng lần thứ VI với chủ trương nói

thẳng, nói thật đã tạo cơ sở hiện thực quan trọng cho phóng sự phát huy

những ưu thế vốn có của thể loại. Trong bối cảnh mới ấy cho phép những

người cầm bút nhìn nhận những sự thật của đời sống một cách trực diện,

mạnh dạn và thẳng thắn hơn về những số phận, những sự việc, những vấn đề

mà thời kỳ trước ít có điều kiện nói tới. Chính thế, có những sự thật tiêu biểu,

điển hình đến mức hầu như tác giả không cần phải tô vẽ gì thêm nữa. Đó là

những hoàn cảnh, những số phận điển hình trong loạt phóng sự Cái đêm hôm

ấy đêm gì (Phùng Gia Lộc), Lời khai của bị can (Trần Huy Quang), Người

đàn bà quỳ (Trần Khắc), Tiếng kêu cứu của con chim gõ kiến (Trúc Chi –

Công Thắng),…

Báo Văn nghệ, một trong những tờ báo đi tiên phong trong lĩnh vực đấu

tranh chống tiêu cực vào những năm cuối của thập niên 80, đã liên tiếp đăng

nhiều phóng sự, ký, truyện ngắn (Cái đêm hôm ấy đêm gì, Người đàn bà quỳ,

49

Lời khai của bị can,…). Những phóng sự này có tác dụng to lớn của báo chí

trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng, chống tiêu cực, xây dựng một

xã hội mới công bằng, dân chủ, văn minh. Những người viết phóng sự trong

không khí cuộc chống tiêu cực bấy giờ rất căng thẳng. Thời kỳ ấy, bên cạnh

mối quan hệ huyết thống còn mối quan hệ ràng buộc khác mà người ta luôn

đặt lợi ích cá nhân của mình lên trên hết.

Tác phẩm Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc ra đời ở ngay tòa

soạn báo Văn nghệ. Phóng sự tái hiện lại cuộc đời cơ cực của người nông dân

xã viên và đã được dư luận cả nước đón nhận xôn xao. Lần đầu tiên một sự

thật đen tối, thối nát, chà đạp quyền sống và nhân phẩm con người được phơi

bày trực diện, phanh phui trước bàn dân thiên hạ. Đây là cuộc đấu tranh tư

tưởng, đấu tranh đổi mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, dám nhìn dám nói lên sự

thật mà những năm trước 1987 báo chí ít khi đề cập đến. Thể loại phóng sự

trong giai đoạn này đã được khôi phục đúng lúc góp phần không nhỏ tạo nên

chuyển động xã hội quan trọng của đất nước khi bước vào công cuộc đổi mới.

Chính sức vang và quan trọng hơn cả là giá trị sâu sắc mà phóng sự Cái

đêm hôm ấy đêm gì góp mặt trên văn đàn văn học và báo chí lúc bấy giờ nên

nó đã được xem như một tác phẩm văn học và in trong Tuyển tập 101 truyện

ngắn hay Việt Nam, thế kỷ XX (3 tập, 2.000 trang, Nxb Hội Nhà văn, 1999).

Tác phẩm mô tả lại một đêm kinh hoàng thu vét thóc của bà con nông dân tại

xã Xuân Tín – Thọ Xuân – Thanh Hóa vào đêm 26/11/1983. Mùa màng thất

bát, hợp tác xã trì trệ, làng quê đói nghèo xơ xác nhưng “dịch” thu vét thóc

vẫn mở ra, trống thúc loa gọi suốt ngày đêm. Người đứng đầu tỉnh Thanh Hóa

khi đó được khen chỉ đạo sản xuất giỏi, nộp ra Trung ương 10 vạn tấn lương

thực. Nhờ thành tích xuất sắc này ông ta từ Ủy viên dự khuyết lên Ủy viên

chính thức Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Nhưng cái tội lớn của ông ta là

để xảy ra nạn đói thì không thể giấu được đối với người dân Xuân Tín –

50

Thanh Hóa, cụ thể hơn trong đó là gia đình người viết. Xảy ra thực trạng trên

là do khâu quản lý đời sống lẫn nông nghiệp dẫn đến dân trí không được nâng

cao, nông thôn không được dân chủ hóa cùng với những tiêu cực của những

quan chức cấp trên.

Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc cũng chính là câu chuyện

thương tâm của “mẹ mình, vợ con mình, hàng xóm mình”. Gia đình phải nộp

sản trong lúc “đàn con đói xanh đói trong” [3, tr.178] và người mẹ già “phát

phù phát nề, vàng lá úa” [3, tr.178]. Một sự thật trần trụi đến nao lòng mà ta

cứ ngỡ như nó chỉ tồn tại duy nhất một lần trong những tác phẩm của ông vua

phóng sự đất Bắc. Thời khắc, nguyên cớ thúc đẩy ngòi bút của tác giả không

thể nào khác hơn là vào “đêm nay” đồng nghĩa với “đêm đồng khởi” thu sản,

tổng vét cả xã mà “họ sẽ đổi chéo, công an và dân quân đội này về đội kia, vét

bằng hết. Vì đội 12 này là nặng gánh nhất, nên họ sẽ điều về đây những tay

cứng cựa” [3, tr.173]. Một sự thật tàn nhẫn của những con người không còn

tình người, họ chỉ biết họ: “… gần mười hai giờ khuya,... Bỗng tiếng kẻng gõ

giục giã liên hồi. Kẻng khắp xã: từ đội 1 đến đội 15, như một sự bùng nổ dây

chuyền. Tiếng loa phóng thanh mỡ hết cỡ đọc bản tin, kế hoạch huy động

lương thực của tỉnh và chỉ thị của Tỉnh ủy về công tác lương thực… Hoàng

Văn Nhân, đội trưởng đội 12, đọc trên loa danh sách những nhà thiếu thóc

chưa giao nộp cho hợp tác xã…Đèn đóm soi rừng rực ở các ngã đường… Có

tiếng ông chủ tịch xã gọi các cán bộ về đội 12 hội ý… Ông trưởng công an xã

Nguyễn Đình Định gào rát cổ trên loa, giọng giật giội gọi lực lượng dân quân,

công an tăng cường về chi diện cho đội 12, tạo đà cho đội hoàn thành chỉ tiêu

huy động… Tôi rùng mình nghĩ đội tôi là đội trọng điểm, nên cán bộ xã, hợp

tác xã, vón cục cả về đây. Họ sẽ cho ra chục tấn thóc còn tồn sổ… Gần một

giờ sáng, công an, dân quân đã ập đến các nhà nợ thóc. Tiếng chó sủa vang,

tiếng lợn kêu èng ẹc như bị chọc tiết ở các nhà gần quanh,... Cứ bắt lấy cái xe

51

đạp! Phích, xô, bắt ráo… Cả bốn người cùng soi đèn khắp nhà, trong ngoài,

dưới bếp, ngoài chái. Hai người tuôn soi cả trong vườn rau” [3, tr.176]. Họ

không chút xót thương trước cảnh túng đói của người dân mà cứng nhắc, máu

lạnh và bất chấp để thực thi lệnh nộp sản, lời cuả anh đầu tốp: “Đêm nay là

đêm nay” [3, tr.180]. Thản nhiên trước cảnh đói kém, chúng mừng rỡ trên nỗi

đau của người lao động. Chúng nhẫn tâm chà đạp lên quyền sống của người

khác thì cũng đồng nghĩa với việc chà đạp lên chính nhân phẩm làm người

của bản thân, điều đó càng bộc lộ rõ qua tiếng reo vui khi lục tìm thấy lúa

“A! Lúa! A! Lúa! Anh em ơi” [3, tr.181]. Tất cả những hành động, thái độ

của những kẻ thu sản gợi lên trong ta không khí ngột ngạt một thời trong Tắt

đèn (Ngô Tất Tố). Chuyện của hôm nay, của thời đất nước ấm êm khiến ta

giật mình nhớ đến chuyện của hôm qua. Phóng sự, “người thư ký trung thành

của những vấn đề, những sự kiện” không thể im lặng trước những bất công

như vậy.

Cùng một thực trạng đau lòng, trong phóng sự Lời khai của bị can, Trần

Huy Quang đã dựng lại chân thực không khí ngột ngạt ở ngay thủ đô Hà Nội

trong chiến dịch Z30. Thời mà người ta tịch thu tất cả những ngôi nhà mới

xây, lý do là tiền đâu ra, hóa đơn mua nguyên vật liệu? Cho rằng là những

đồng tiền bất chính, vật ăn cắp. Những người mang tài trí ra vật lộn để kiếm

sống như ông Nguyễn Văn Chẩn, được phong là vua lốp, giàu nhanh chóng

bằng chính tài năng, thì từ đó ông bị ra tòa tịch thu tài sản cho đến hàng chục

năm sau ông còn kiện, vẫn không đòi được. Thời đó người ta không cho con

người được quyền sống giàu có, phải nghèo giản dị như mọi người mới trong

sạch không bóc lột. Vì sự ăn nên làm ra sau bao ngày trăn trở sáng chế từ “bút

máy kiểu Trường Sơn không mác” đến “sản xuất nhựa vá săm” và cuối cùng

là “lốp Quyết Thắng” mà cuộc đời ông trải qua bao lần lận đận, khốn cùng

với ba lần tù tội. Lần thứ nhất: “Tòa án Hà Nội xử 30 tháng tù vì tội tàng trữ,

52

đầu cơ, sản xuất trái phép,…” [3, tr.303], lần thứ hai: “Đến đầu năm 1974,

Công an Ba Đình lại đến khám nhà bắt người. Hàng họ, nhà cửa tan tác” [3,

tr.305]…, lần thứ ba: “…giữa năm tám – ba, tai họa ập xuống. Lại khám nhà.

Lại niêm phong”. Nhân vật Tôi đau đáu nhìn lại bước đường đã qua: “Gần ba

năm tù mà vô tội!” do phải sống trong “một thời chúng ta rất căm ghét những

người giàu, dù họ giàu bằng sức lao động thực sự. Làm ăn phát đạt, nhưng chỉ

phát đạt đến một giới hạn nào đó thôi, quá là sinh sự. Giàu thì phải có giới

hạn, một giới hạn nghiêm ngặt, nhưng nghèo khổ thì không có giới hạn, được

phép xuống tận cùng” [3, tr.306]. Trần Huy Quang mạnh dạn đề cập đến số

phận của ông Chẩn, một số phận oan khuất không lối thoát do cơ chế quản lý

hoạt động kinh tế cứng nhắc, không mở đường cho sự sáng tạo cá nhân, đẩy

người lao động chân chính vào tù. Những ngòi bút làm nhiệm vụ “chuyên chở

những vấn đề thuộc mặt trái của xã” như Trần Huy Quang đã vạch trần đúng

lúc và kịp thời những bất công trong cuộc sống của con người. Bằng cả sự

nhiệt tâm của một nhà phóng sự kết hợp với nhìn nhận có tính chất đúc kết

những sai lầm của một thời trong Chuyện vui một cách nghiêm túc, Trần Huy

Quang đã để cho nhân vật trong tác phẩm có dịp bộc lộ chính kiến của mình

trong vấn đề quản lý của cấp trên với cấp dưới: “Cấp trên không ai chỉ tay

năm ngón, mà chỉ tay một ngón, các bạn cứ nghiệm mà xem, một ngón thôi.

Và một ngón là đường thẳng. Thẳng tuột từ trên xuống dưới, tất cả đều phải

chạy trên đường ray. Anh sau chờ anh trước, chậm cùng chậm, nhanh cùng

nhanh, thua lỗ cùng thua lỗ, nghèo cùng nghèo, nhắm mắt mà đi, anh nào linh

hoạt, tháo vát làm khác là trật bánh” [3, tr.44].

Vẫn là những con người sống trong vòng bất công của xã hội nhưng

Người đàn bà quỳ của Trần Khắc là sự diễn tả lại cuộc đấu tranh khiếu kiện

gay gắt, quyết liệt dai dẳng qua nhiều ngày, nhiều cấp của người nông dân với

ba tên cường hào mới ở một xã thuộc huyện Khoái Châu – Hưng Yên vào

53

7/12/1987. Tình cảnh đau khổ đến mức người dân phải quỳ xuống mà dâng lá

đơn kêu cứu lên cấp trên. Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam đã phát lại

nhiều lần Người đàn bà quỳ và khi đó không ít nơi, không ít người dân bắt

chước, quỳ lạy đệ đơn đòi giải tỏa những oan khuất. Nguyên nhân chính từ

tinh thần thiếu trách nhiệm, sự bao che của cơ quan cấp tỉnh, huyện. Do đó

mà bọn xấu cấp xã mới được thể lộng hành đục khoét, áp bức nông dân. Cụ

thể ở làng Tiền Đống. Tất cả những đổi mới lớn lao ở chốn làng quê hẻo lánh

này đều gắn với tên tuổi ông Chẩu - bí thư đảng ủy, ông Thực - chủ tịch ủy

ban, ông Bần - trưởng công an. Đây là ba tên cường hào. Như lời bà Khang

thì: “Cả làng này thù chúng nó” [3, tr.186]. Ba nạn nhân tiêu biểu là: Bà

Khang, chị Ký, bác Sâm. Chúng lừa đảo bà Khang cho rằng đất của bà là

“công điền thổ quốc gia” phải “quy hoạch” để xây dựng nông thôn mới rồi

thừa cơ lấn chiếm đất ở của bà, xây dựng lên đó cái nhà hai tầng. Đau lòng

hơn là trường hợp của chồng chị Ký, anh Lại Hồng Thi có ý định tố cáo Chẩu

về tội bắt thủ quỹ đưa tiền tiêu nhưng không chịu ký giấy tạm ứng nên đã bị

sát hại. Còn bác Sâm thì có thân nhân bị tù oan… Thế nên bà Khang quyết đi

kiện và chứng kiến những kẻ có chức quyền ấy: “Ngồi tán chuyện dông dài

nhưng có việc thì đùn đẩy cho nhau, đơn chạy vòng quanh. Không ít người

lên mặt hoạnh họe và kêu đủ mọi khó khăn để chúng tôi phải biết ơn họ, vi

thiềng họ” [3, tr.197]. Nhưng đây là thực trạng: “Không riêng một làng, một

nhà máy, mà cả nước phải đồng tiến, đấu tranh, đổi mới, bắt tay vào những

việc cần làm ngay nhiều như núi” [3, tr.205].

Những nỗi oan khiên trong cuộc sống không dừng lại ở một nơi, một số

phận mà nó là số nhiều đang hiện diện trên đất nước giai đoạn sau 1986.

Tiếng kêu cứu của con chim gõ kiến của Trúc Chi - Công Thắng phản ánh vụ

án Đoàn Thị Thuận, vụ giải tỏa nhà dân đường Ngô Quyền ở thị xã Tuy

Hòa… Bọn cơ hội bè phái đang đầu cơ sự nghiệp chính trị trên nỗi khổ đau và

54

tang tóc của nhân dân. Nhân dân mới chính là nạn nhân của tệ nạn này không

phân biệt phe nào, phía nào, xã nào, huyện nào, tỉnh nào, miền nào. Như thực

tế phơi bày trong tập phóng sự thì hơn 10 năm nay, một số tỉnh miền Bắc và

suốt một dãy miền Trung ven biển, nạn bè phái, óc địa phương hoành hành dữ

dội như một nạn dịch, làm băng hoại, đầu độc bầu không khí chính trị xã hội,

gây biết bao thiệt hại về kinh tế và thảm trạng cho nhân dân. Hơn lúc nào hết,

bấy giờ báo chí không phải chỉ truyền đạt một chiều những gì từ trên xuống

mà còn phải đưa tâm nguyện của người dân lên trên để bớt dần những nỗi oan

khiên.

Những bất công của nạn lạm dụng chức quyền vừa nêu trên là bè nổi của

đất nước, lẫn vào sâu bên trong thì vẫn còn những hủ tục, những khó khăn

kinh tế ở những vùng quê heo hút. Đây vốn là những vấn đề thuộc sở trường

của các cây bút như Vũ Hữu Sự, Huỳnh Dũng Nhân và chúng được khai thác

ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau. Vấn đề tổ chức cưới xin đã được Vũ

Hữu Sự phản ánh sinh động, am hiểu trong Thầu cỗ: “Cưới xin vẫn là một

trong bốn việc lớn nhất của một đời người (lấy vợ, sinh con, làm nhà, dựng vợ

gả chồng cho con cái)” [28, tr.11], bởi thế người ta đã không ngại chi trả vào

việc “cưới xin” cho những “người thầu cỗ” để làm rạng rỡ gia đình. Thừa cơ

ấy mà những người thầu cỗ đã thu lại siêu lợi nhuận thông qua những thao tác

nghiệp vụ tinh vi của họ. Cũng như họ tộc là vấn đề mà ta không thể không

nhắc đến trong quá trình sinh thành của vùng đồng bằng Bắc Bộ, đó vừa là

truyền thống tốt đẹp nhưng đồng thời cũng bộc lộ những lạc hậu, không phù

hợp cần được nhìn nhận, đánh giá để lưu truyền một cách tốt đẹp nhất. Trong

Lưu thủy, Vũ Hữu Sự đã ghi lại vấn đề một cách tỉ mỉ, sâu sắc từ nguyên cơ,

gốc nguồn của nó. Tác giả lí giải “lưu thủy nghĩa là nước chảy” cũng như

“con người không chết. Ngay cả sau khi đã trả lại thân xác mình cho đất thì

họ vẫn tiếp tục hiện diện với đời thông qua con cháu, như một dòng nước

55

chảy mãi, chảy không cùng trong một thời gian không cùng” [28, tr.37], trong

quan hệ dòng họ đó thì việc nối dõi tông đường là một việc hệ trọng cả đời

người, “tàn dư ấy còn khá nặng ở nông thôn và hiện tại đang khởi sắc trở lại”

[28, tr.37]. Tác giả khẳng định: “Vấn đề dòng họ vẫn là vấn đề lớn nhất ở

nông thôn Việt Nam”, khi “mô hình hợp tác xã, bỗng chốc chỉ còn là hình

thức. Hợp tác thế có nghĩa là sự trợ giúp của tập thể không còn. Cộng thêm sự

tàn lụi của mạng lưới bảo hiểm bao cấp của nhà nước: y tế, trường học” dẫn

đến “cuộc sống bị xáo trộn dữ dội. Cơ chế thị trường xoáy vào nông thôn như

một cơn lốc, giật người dân ra khỏi nếp sống bình lặng với mối quan hệ bình

lặng cũ, nặng về tình nghĩa kiểu “tắt lửa tối đèn có nhau” làm những giá trị

tinh thần mà chúng ta dầy công xây đắp bị lung lay, chao đảo. Những tiêu cực

xã hội kéo dài làm lòng tin rạn nứt”. Ngay lúc ấy thì: “Quan hệ họ hàng trở

thành cái phao” giúp cho “nền văn minh thôn dã Việt Nam” được bảo tồn

nhưng “cũng chính từ đấy là điểm xuất phát của tệ nạn bè phái, cục bộ…

chính quyền của một dòng họ” [28, tr.38]. Chúng ta cần có cái nhìn sâu sắc về

vấn đề này nhằm lưu giữ, phát huy những mặt tích cực trong quan hệ họ tộc

và đồng thời lược bỏ những mặt tiêu cực không phù hợp với thời đại mới. Bên

cạnh những vấn đề có ảnh hưởng đối với xã hội trên diện rộng thì trong cuộc

sống có những chuyện rất đỗi bình thường nhưng ấn tượng về chúng khiến ta

không khỏi suy nghĩ. Với tác phẩm Hàng mã – nghề hái ra tiền,Vũ Hữu Sự

tiếp tục soi rọi ống kính phóng sự lên những trang đời của cuộc sống. Từ ngày

“tân cơ chế” thì tang ma, hội hè, đình đám, cầu cúng đền,… đều dùng tiền âm

phủ. Một thực trạng đang cần lên tiếng báo động khi mà: “Cái văn minh ở

thành thị được nông thôn tiếp nhận rất chậm. Nhưng cái mê tín ở nông thôn

thì được thành thị đón nhận rất nhanh, và nhanh chóng biến tướng, cải biên

đi” [28, tr.94]. Nơi mà con người sẵn sàng vung tiền cho những mê tín thuộc

thế giới tâm linh bởi “trần làm sao thì âm làm vậy”, chính những mê tín đó đã

56

tạo điều kiện cho những người kinh doanh vàng mã có cơ hội phát triển nghề

nghiệp. Tuy không trực tiếp phê phán nhưng ta vẫn cảm nhận được mạch

ngầm ý nghĩ tác giả gửi gắm trong tác phẩm, ta có cần phải hoang phí quá

nhiều như vậy không cho thói quen mê tín không, những đồng tiền ấy sẽ rất

cần với những kẻ cơ nhỡ không may đang sống vất vưởng trên cõi trần.

Đau lòng hơn là hình ảnh Tôi đi bán “tôi” mà Huỳnh Dũng Nhân viết về

chợ người ở chợ Giảng Võ (Hà Nội) xuất hiện mấp mé thế kỷ XXI. Cảnh

tượng đau lòng trong cuộc sống. Những con người được xếp vào hàng thấp

của xã hội bởi vì nghèo, đói mà họ phải tự mình đi bán mình một cách đáng

thương qua sự ngã giá của người mua. Người viết phóng sự không dừng chân

cố định tại một khung cảnh nào đó mà họ phải dịch chuyển liên tục để cho ra

đời những tác phẩm phóng sự thấm đẫm nhân tình thế thái. Chỉ một Ghi chép

ngắn ở Cao Bằng nhưng Vũ Hữu Sự như đau đáu một miền nghĩ, “cuộc

chiến tranh biên giới Trung Việt đã qua 17 năm rồi nhưng hậu quả của nó vẫn

còn đè quá nặng lên đất Cao Bằng ở cả hai phương diện kinh tế và xã hội…

Cơ sở vật chất hạ tầng bị quét không còn gì… Có thể nói khói lửa đã lặng rồi

nhưng 17 năm qua biên giới vẫn chưa bình yên, cả về cuộc sống và tâm lý…”

[27, tr.194]. Vấn đề tạo điều kiện phát triển kinh tế, xã hội ở Cao Bằng nói

riêng và ở những vùng sâu xa, nơi rừng xanh sâu thẳm nói chung luôn là vấn

đề được đặt lên hàng đầu, cần được quan tâm một cách xác đáng. Phóng sự

luôn tỏ rõ được ưu thế của nó trong việc “phát hiện, cất tiếng yêu cầu” thay

cho những vùng đất, con người nơi ấy. Đâu đó vẫn còn Chìm nổi những kiếp

người và với Vũ Hữu Sự: “Hàng hóa làm nảy sinh ra một phong cách sống,

một con mắt thẩm mỹ, một thước đo giá trị. Nhiều giá trị truyền thống văn

hóa truyền thống đã chết, đang chết hay đang bị tra tấn tàn khốc… nền văn

hóa của các dân tộc ít người - đã định hình - là một tấm thổ cẩm rực rỡ, đang

bị rách tứ tung…” [27, tr.279]. Vấn đề bảo tồn những nét đặc sắc của văn hóa

57

dân tộc thiểu số cũng là vấn đề không nhỏ. Trong cuộc sống, mọi vấn đề luôn

có tính hai mặt của nó, song song với phát triển thì con người cũng đứng

trước nguy cơ lãng quên dần những giá trị văn hóa tốt đẹp trong đời sống

cộng đồng, trong quan hệ ứng xử giữa người với người.

Được nhìn trực diện sự thật thì biết bao vấn đề của đất nước cần phải

được quan tâm, chấn chỉnh kịp thời. Phóng sự đã xông xáo, tỏ rõ được ưu thế

của mình trong hoàn cảnh đất nước đang lâm vào tình thế cấp bách như vậy.

Ta không thể không khẳng định rằng phóng sự đã phát huy được sức mạnh

của đặc trưng thể loại của nó khi mà đất nước đang cần.

2.1.3. Sự cần thiết phải bảo tồn nguồn tài nguyên của đất nước

Tài nguyên luôn là mối quan tâm hàng đầu của quốc gia. Đó là nguồn

sống, là sản vật đem lại giá trị vô cùng to lớn cho con người. Nhưng không

phải ai cũng có ý thức giữ gìn, bảo tồn, sử dụng cần kiệm giúp nguồn tài

nguyên ấy sinh sôi nảy nở. Hơn lúc nào hết trong công cuộc hiện đại hóa đất

nước, hội nhập với thế giới thì phóng sự cần nêu gương người tốt việc tốt, cần

cảnh tỉnh những thảm trạng, những nguy cơ gây thiệt hại vô cùng to lớn đến

tài sản quốc gia, môi trường sống của con người. Đất nước qua mùa bão

giông bom đạn, mất một thời gian xây dựng, chỉnh đốn lại đường lối chính

sách, giờ với chặng đường phía trước thì nguồn tài nguyên cần được bảo tồn,

gìn giữ đang rất cần những ngòi bút xông pha phản ánh, giáo dục nâng cao ý

thức của con người. Trong hành trình soi sáng ấy của những cây bút phóng sự

vừa có những tấm gương, những con người thầm lặng góp sức cho đất nước

nhưng đồng thời cũng có những kẻ vô ý thức với lợi nhuận trước mắt gây

chảy máu biết bao nguồn tài nguyên quốc gia.

Đó là hình ảnh những người lính ngày đêm canh giữ mảnh đất quê hương

nơi đầu sóng ngọn gió, nơi mà thiên nhiên vô cùng khắc nghiệt đối với con

58

người.Trong Trường Sa đất Việt, Đỗ Bạch Mai đã ghi lại trọn vẹn hình ảnh

đẹp của người chiến sỹ Trường Sa: “Tất cả những gì có ở nơi đây là kết quả

của bao nhiêu năm tháng phấn đấu, hy sinh, vượt qua muôn ngàn khó khăn,

gian khổ”. Trong gian lao, hiểm nguy thì vẻ đẹp kiên cường của họ càng tỏa

sáng: “Ở đây, sóng gió đại dương làm cho mọi chất liệu, kể cả sắt thép, cũng

không bền vững. Nhưng có một chất liệu đặc biệt cứ ngời ngợi sáng lên vẻ

đẹp của mình - ấy là tâm hồn người chiến sĩ” [29, tr.153]. Huỳnh Dũng Nhân

cũng tái hiện đầy chiêm nghiệm sâu sắc, cảm động về hình ảnh những đứa

con kiên cường của Tổ quốc trong Ngoài ấy là Trường Sa: “Đến bây giờ

người lính Trường Sa vẫn còn hy sinh thế nhưng những người lính đảo vẫn rất

hồn nhiên, yêu đời. Sự hy sinh chịu đựng gian khổ vốn là thuộc tính của

người lính nói chung và lính đảo nói riêng” [17, tr.94].

Nếu như biển đảo luôn là mối quan tâm hàng đầu thuộc của mỗi quốc gia

thì rừng cũng luôn là vấn đề mà con người cần phải lưu tâm cấp thiết trong

thời đại ngày nay bởi có những con người không có ý thức bảo vệ mà trái lại

còn tàn phá rừng, săn bắt sản vật quý hiếm gây thiệt hại nặng nề cho quốc gia

nói riêng và cho môi trường nói chung. Trong phóng sự Rừng Tuyên, Văn

Chinh nêu rõ thực trạng của một thời làm ảnh hưởng trầm trọng đến nguồn tài

nguyên rừng. Tại lâm trường Tuyên Bình, chúng tôi – những người canh giữ

rừng - đã “chịu đựng nhiều cơ cực” và “cũng như người dân tộc, con cháu

chúng tôi thất học, chín mươi tuổi còn cởi truồng chân đất, mặt mũi nhọ nhem

lẫn với đất cát sỏi đá. Ấy là còn may, còn được sống làm người” [29, tr.102].

Bây giờ “Thời chúng tôi làm thợ rừng, cán bộ kiểm lâm đã không còn quyền

lực đầy đủ như thời trước nữa, nhưng chúng tôi cũng chưa bao giờ dám chặt

một cây gỗ đường kính dưới 40 phân. Theo quy định, mỗi khu rừng chỉ chặt

hạ một phần ba trữ lượng gỗ, nứa và chưa hề có việc khai thác trắng ba ha liền

khoảnh vì bất cứ một lý do tối quan trọng nào” [29, tr.102] nhưng khi chúng

59

tôi quay lại: “…thì dân và kế hoạch III của các cơ quan đã chặt sạch sẽ, trọc

lốc. Có thể nói rừng bị phá, một nửa do chính sách làm lương thực bằng mọi

giá; nửa còn lại chia đôi, một do chủ trương khai thác trắng để trồng rừng

nguyên liệu giấy với phương châm thay vốn bằng ý chí và một nữa, do trên

thực tế lâm luật không được tôn trọng” [29, tr.102]. Thế là: “Tuyên Quang

được quy hoạch trồng rừng đảm bảo một nửa nguyên liệu cho nhà máy giấy

Bãi Bằng” [29, tr.104]. Bỗng: “Đùng một cái, quan hệ giữa Liên hiệp nguyên

liệu giấy và Nhà máy trước nay vẫn một thuyền một bến bỗng chốc có trục

trặc. Nhà máy lấy cớ bung ra theo cơ chế thị trường, ai bán nguyên liệu “tôi”

cũng mua: cai Phú Thọ, Tuyên Quang, Yên Bái đến cai Hà Nội, Hải Phòng,...

kìn kìn đổ nguyên liệu về nhà máy, lập nên một cái chợ giời khổng lồ nhất,

độc đáo nhất thế gian” [29, tr.105] để lại hậu quả nghiêm trọng: “Tỉnh Tuyên

Quang đã đóng cửa rừng vào năm 1992” [29, tr.106] và “đóng cửa để chấn

chỉnh” [29, tr.107]. Từ đó: “Hàng loạt vụ án phá rừng được xét xử nghiêm

khắc, hàng chục cơ quan ban ngành bó buộc phải giải thể các trung tâm dịch

vụ được lập ra chỉ để buôn nguyên liệu giấy và bị cảnh cáo phải chấm dứt”

[29, tr.107]. Rừng lại được hồi sinh: “Cùng với lệnh đóng cửa rừng là nghị

quyết trồng lại rừng theo cơ chế mới: Giao đất trống cho hộ dân và hộ công

nhân, trồng bằng vốn 327” [29, tr.107]. Còn đó những cánh rừng Thấp thỏm

từ đầu nguồn mà Tạ Kim Hùng vẫn đau đáu, trăn trở: “Từ trụ sở lâm trường

II Hoành Bồ, đến thăm hai làng lâm nghiệp Khe Hố và Đá Bạc” [29, tr.167],

nơi có những người đang ngày đêm giữ rừng mà cuộc sống của họ ở đây

khiến tác giả phải “suy nghĩ triền miên”.Trong không gian “hai làng lâm

nghiệp heo hút”và “họ ở đó để trồng, chăm sóc mấy ngàn hecta rừng đầu

nguồn, giữ cho các hồ chứa lớn, đủ nước cung cấp cho cả thành phố Hạ Long

và thị xã than Cẩm Phả” [29, tr.167]. Bởi họ ý thức được vai trò, tác dụng của

nguồn tài nguyên xanh này “rừng giữ nước cho các hồ chứa, cho đường giao

60

thông không bị lũ xói mòn, làm cân bằng sinh thái, tạo cảnh quan đẹp, hấp

dẫn khách du lịch” [29, tr.167] nhưng so với công sức họ đã cống hiến không

ngại gian lao thì “người làm rừng, sản phẩm làm ra bị chiếm đoạt, đồng lương

đã thấp, nơi ở lại xa lắc xa lơ, nhìn vào tương lai con em như nhìn vào rừng

xanh sâu thẳm” [29, tr.177] thêm vào đó “cơ chế rừng của ta lại có nhiều điều

không hợp lý. Người trồng rừng thật, suốt đời gắn bó với rừng, thường nghèo

khổ. Kẻ trồng rừng giả, biết lợi dụng kẽ hở trong cơ chế lại giàu lên nhanh

chóng” [29, tr.177].

Muôn vàn kiểu mà con người làm ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên xanh,

đến lá phổi chung của đất nước, bọn lâm tặc là bọn hoành hành ngày đêm làm

chảy máu biết bao tài sản rừng mà các cấp các ngành cần phải cấp bách có

phương án vào cuộc. Có Đi xem lâm tặc với Trần Cường ta mới thấy Võ Nhai

đang là điểm nóng nhất về tình hình “lâm tặc” ở Thái Nguyên, “bắt hôm trước

hôm sau lại sai phạm”, (năm 2001, ngành kiểm lâm Thái Nguyên đã xử lý hành chính 2.044 vụ/ 2059 vụ vi phạm lâm luật…thu giữ 1000m3 (có 407 m3

gỗ quý hiếm); 286 kg động vật hoang dã” [5, tr.236]. Tuy nhiên, “đây mới chỉ

là số liệu về những vụ bị bắt giữ được, còn thực tế, trong số hàng nghìn lâm

tặc là những phó thường dân ở Thái Nguyên trực tiếp tham gia chở rừng về

xuôi đang hành quân đêm ngày theo những lối mòn dân sinh qua hai bên cánh

gà các trạm kiểm lâm chắc chắn là một con số gấp đôi, ba lần sổ sách” [5,

tr.236]. Nhưng ta vẫn tin vào “bản lĩnh và sự hy sinh của các anh kiểm lâm”

[5, tr.241], các anh sẽ là những người dốc lòng tận tụy, gan dạ ngày đêm canh

giữ cho rừng có được giấc ngủ yên mà sinh sôi nảy nở làm chỗ dựa vững chắc

cho con người chống lại những thiên tai. Không chỉ địa bàn Võ Nhai mà khu

Rừng Quân Chu kêu cứu của Thế Hiệp cũng đang là vấn nạn. Địa bàn của nó

trải dài từ Phúc Thuận (Phố Yên) đến Quân Chu, Bình Dân, Kỳ Phú (Đại Từ)

ở đoạn giữa con đường ô tô liên tỉnh cách Hà Nội chưa đầy 80 km, đường

61

chim bay thì ngắn hơn. Đây là rừng nguyên sinh thuộc khu rừng cấm Quốc

gia Tam Đảo…thế mà việc khai thác gỗ lậu, buôn bán gỗ lậu tại vùng này vẫn

diễn ra tấp nập vô cùng (gỗ, thú, lò gù hương). Các cây bút phóng sự đã ngắm

chính xác các “bức ảnh của khu rừng” ở nhiều nơi trên đất nước như là lời

kêu gọi khẩn thiết mọi người hãy nâng cao ý thức gìn giữ rừng, chung tay bảo

vệ rừng, loại bỏ những hành vi sai trái đang làm cho nguồn rừng vơi cạn dần

một cách trầm trọng. Đi Săn lâm tặc cùng Phạm Việt Thắng nơi khu rừng

Thanh Thủy (Thanh Chương – Nghệ An), ta mới thấy được sự thật của lâm

tặc lợi dụng địa bàn giáp ranh để phá rừng. “Từ nhiều năm nay, lâm tặc trắng

trợn đốn hạ, ngang nhiên vận chuyển như thế… đốn cây xong chúng còn

“tăm” thêm những cây khác có giá trị, rồi khắc tên làm dấu để khẳng định

“quyền sở hữu” (bãi tập kết gỗ)” [32, tr.170]. Rồi cánh Rừng vàng quằn quại

của Phạm Việt Thắng thuộc thị trấn Hòa Bình (huyện Tương Dương), môi

trường nào cũng bị ô nhiễm vì bọn “thổ phỉ” này. Từ trị an đến môi trường,

rồi thuần phong mỹ tục, đến nạn phá hoại tài nguyên,… Đau lắm Nỗi đau

người giữ rừng, Ngô Chí Tùng là hình ảnh anh Quàng Văn Khụt bị lâm tặc

giết khi đang trên đường tuần tra bảo vệ rừng (Lai Châu), anh đã hy sinh thân

mình để đổi lấy sự sống cho cây rừng mãi mãi xanh tươi.

Có lẽ ta cũng không quên được khung cảnh trong Hành trình tới địa ngục

mà tác giả Vũ Hữu Sự đã miêu tả cho ta thấy sự tường tận kinh hoàng về vấn

nạn khai thác vàng phi pháp. Na Rì - con đường hiểm nguy, nơi đây sự bóc

lột tàn nhẫn của bọn “bưởng” (một danh từ đặc biệt chỉ một lớp người ăn trên

ngồi trốc có quyền sinh quyền sát trong cái vương quốc vàng Na Rì đào vàng

đối với nhân công) đã đẩy đến những cái chết đau lòng cho những con người

vì đói khổ phải lăn lộn kiếm sống để rồi bị trôn luôn xuống hầm. Thương tâm

thay cảnh tượng con người đánh đổi mạng sống của mình vì miếng cơm manh

áo. Qua hiện trạng trên, phóng sự phơi bày sự tàn nhẫn, xem thường mạng

62

sống của con người đối với bọn chủ mưu làm ăn phi pháp, ngày đêm bốc lột

cùng kiệt sức của người làm công.

Rừng là nơi cư trú của những loài thú quý hiếm, nếu rừng đang đứng

trước nguy cơ bị tàn phá nghiêm trọng thì thú rừng cũng đang bị đe dọa từng

ngày từng giờ. Làm sao để không có Những con đường chết của thú rừng ở

Trường Sơn (Trung Thống), nơi đây vì lợi ích cá nhân mà con người đã sử

dụng các loại bẫy từ bẫy thắt đến mìn để thu hoạch về cho mình những con

thú rừng nhiều giá trị bất chấp hậu quả là những loài thú quý hiếm đang ngày

càng hiếm hơn nữa và sắp có nguy cơ tuyệt chủng. Đến đàn voi đang lồng

lộn, tức giận trước con người bởi họ đã cướp đi môi trường sống của chúng,

đẩy chúng vào đường cùng nên đàn voi trong Voi ơi ta bảo voi này của Huỳnh

Dũng Nhân đã có sự thay đổi bản tính, hung hăng dữ tợn, tàn sát con người.

Nguyên nhân cũng là do của tác động của con người.

Phóng sự đã chứng tỏ được tính xông xáo trong việc tiếp cận hiện thực. Nó

lục tung mọi ngóc ngách của đất nước, phơi bày nhanh chóng những thực

trạng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn tài nguyên quốc gia. Qua

những thống kê từ việc thật người thật, người cầm bút cũng như độc giả mong

sao một ngày không xa chúng ta sẽ khắc phục được những vấn nạn trên.

2.2. Một cái nhìn sâu sắc về đời sống xã hội Xã hội luôn tồn tại với nhiều gam màu khác nhau, có mảng sáng, có mảng

tối. Những vấn đề tồn tại bên trong lòng xã hội là mảnh đất hiện thực thu hút

các cây bút phóng sự tiếp cận, khai thác, ghi lại ở nhiều lát cắt khác nhau. Có

những lát cắt phản ánh, lên án những tệ nạn xã hội, những mảng hiện thực

phức tạp nhưng cũng có những lát cắt với mảng màu tươi sáng trong xã hội.

63

2.2.1. Những bức tranh đen tối về tệ nạn xã hội

Trong cuộc đấu tranh chống tiêu cực, chống tham nhũng do Đảng ta lãnh

đạo, phóng sự là một trong những thể loại xung kích luôn đứng ở hàng đầu

trong cuộc đấu tranh với cái xấu, cái ác. Phóng sự giai đoạn này đã không

ngần ngại vạch mặt chỉ tên những kẻ xấu, việc xấu, chỉ ra những vấn đề cấp

thiết của đời sống. Trong thời kỳ đổi mới, hàng loạt các báo Trung ương và

địa phương liên tiếp cho ra đời những tác phẩm phóng sự đi sâu vào những

vấn đề của đời sống trong tất cả các lĩnh vực kinh tế lẫn xã hội kể cả những

vấn đề mà trước đây người ta vẫn thường né tránh như các tệ nạn xã hội (cờ

bạc, ma túy, mại dâm,…).

Việt Hòa đã thống kê lại số liệu đau lòng trong Ma túy - quằn quại những

nẻo về, đây là “một thực trạng đau lòng qua thống kê thì trong tổng số các đối

tượng nghiện ma túy hiện nay có tới 80% nằm ở tuổi 15 - 30. Phần lớn nghiện

do ham vui hoặc từ sự thách đố của bạn bè. Cái tuổi đẹp nhất của đời người

kia lẽ ra dùng phấn đấu, cống hiến hiệu quả cho riêng, chung thì họ lại phung

phí và trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Cuộc đời họ trượt dần

xuống dốc để rồi tới những kết cục bi thảm” [29, tr.87]. Những con người sa

ngã khát khao quay trở về nhưng nẻo về của họ không hề đơn giản. Đến

Những nẻo đường thuốc phiện của Vũ Hữu Sự ta càng giật mình hơn bởi

những số liệu rõ ràng mà tác giả đã thu thập được: “Cầm tập số liệu của tòa án

nhân dân thị xã Hòa Bình trong tay, tác giả kinh hoàng khi: trong hơn 1000

vụ ly hôn mà tòa đã xử hơn 2 năm qua, hơn 50% là do phụ nữ đứng nguyên

đơn, vì các đức ông chồng nghiện ngập” [28, tr.125]. Thảm trạng này ở Hòa

Bình thì: “Huyện nào cũng có… thực tế chắc chắn phải hơn 80% con nghiện

ở lứa tuổi 15 đến 25” [28, tr.128] và “nạn nghiện hút đã trở thành tai họa đang

gõ cửa từng nhà trong thị xã bé nhỏ này” [28, tr.128]. Vũ Hữu Sự đánh giá,

tổng kết lại những hậu quả của tệ nạn này: “Thuốc phiện bao giờ cũng là sự

64

khởi đầu cho các loại tội phạm hình sự khác. Trộm cắp, cướp của, giết người,

trấn lột, lừa đảo,… hàng trăm tên với đủ các loại tội danh” [28, tr.129].

Nguyên nhân của nghiện hút là do: “Đều ít học, vô nghề nghiệp” [28, tr.129].

Nẻo đường “thuốc phiện là điểm khởi đầu và nhà tù là điểm kết thúc cái vòng

quay tuyệt vọng cho những ai dại dột” [28, tr.129]. Nhưng phóng sự không

phải chỉ hoàn thành sứ mệnh của nó một cách khô khan, cứng nhắc là thống

kê số liệu, phơi bày hiện trạng nhằm thông tin vấn đề đến với độc giả mà

đằng sau ngòi bút dấn thân vì nghề nghiệp ấy còn có cả tấm lòng, một sự cảm

thông, một sự nhìn nhận có trước có sau “nghiện ngập cũng như các tệ nạn

khác, cũng có nguyên nhân xã hội của nó”. Ma túy không ngoại trừ ai, từ

miền ngược đến miền xuôi, từ những đứa trẻ vừa mới lọt lòng đến cụ già

luống tuổi, từ những người thiếu hiểu biết đến cả sinh viên, học sinh, công an,

viên chức,… tất cả đều có thể rơi vào vòng xoáy nghiệt ngã của ma tuý. Đồng

nghĩa với tội ác, ma túy không chỉ là nỗi đau của gia đình, mà còn là gánh

nặng của xã hội.

Không như kiểu tham nhũng trong Một huyện ăn tết (Vũ Trọng Phụng),

tham nhũng thời mở cửa có khác, thông thoáng, tinh vi, xảo trá và… lạnh

lùng hơn, tất cả cuốn lấy nhau trên một hệ thống dây chuyền khá qui mô và

chuẩn xác. Tấn công tệ nạn tham nhũng, ngòi bút phóng sự thật cứng rắn khi

chĩa mũi nhọn vào sự tha hóa, biến chất của một số quan chức, vào những vụ

việc có liên quan dây chuyền đến nhiều mối quan hệ, nhiều cơ quan nhà nước.

Chúng được thể hiện sắc nét trong phóng sự Thời mới, tội mới của Xuân Ba,

qua lời tâm tình của trung tá Tiêm, là phó trại: “Tội phạm bây giờ khác trước

nhiều lắm…tội phạm không chỉ là bọn đầu trộm đuôi cướp, còn có cả những

đối tượng khác ngoài đời kể cả những cán bộ, cơ quan chức năng có tiếng

nhất, sành sỏi nhất cũng phải ngán họ” [1, tr.77]. Điển hình như Henry Long

Tài - người Hoa quốc tịch Mỹ vi phạm pháp luật Việt Nam bởi chuyển ngân

65

trái phép, là loại tội phạm biết kêu oan khéo léo có vẻ như có học “nói vanh

vách luật nước này nước nọ thế này thế kia” [1, tr.79], phạm tội phá hoại lũng

đoạn nền kinh tế Việt Nam mà được che đậy bằng cái vẻ ngoài như thế thật là

đáng sợ. Người thứ hai là Nguyễn Văn Mười Hai cũng là dạng thuộc luật

vanh vách nhưng “anh tự ghép tội lừa đảo của anh mà Bộ luật hình sự qui

định vào Luật phá sản Nhà nước” [1, tr.81] để lừa bịp người nghe, tìm đường

thoát tội, lách tội. Thực chất đây chỉ là thủ đoạn, một bộ mặt giả tạo. Người

cuối cùng là Phan Anh Tuấn, là một tội phạm kinh tế cũng không khác gì hai

tên tội phạm trên khi có dịp đối diện với ai đó vẫn không ngớt lời kêu oan, đỗ

lỗi cho hoàn cảnh. Tất cả có nét đặc thù chung là “anh nào vào đây cũng kêu

oan, cũng ngụy trang tội lỗi của mình bằng mặt bằng chưa bằng phẳng của

Luật pháp và quản lý kinh tế, khơi gợi và lung lạc bằng cách đưa người nghe

vào những trận đồ bát quái của những luật những lệ, làm mủi lòng người khác

với những thủ pháp bên ngoài là lý song bên trong là tình” [1, tr.85].

Phóng sự vẫn đang tiếp tục phát huy sức mạnh và năng lực phản ánh hiện

thực qua những đề tài đa dạng được phát hiện từ bản thân cuộc sống phong

phú, phức tạp: từ những điểm, mảng tối màu trong bức tranh kinh tế - xã hội,

đến những sai phạm, bê bối của một số kẻ xấu thoái hóa, biến chất trong bộ

máy nhà nước đến những cảnh đời đau lòng của những trẻ lang thang; tình

trạng ma túy, mại dâm, lang thang bụi đời; những dịch vụ đen, những gương

mặt đen... Một Ốc đảo đen ở Buôn Ma Thuột, hiện thân của tệ nạn thời mở

cửa được Vũ Hữu Sự ghi lại và thẩm định, khái quát về “gái bán dâm là thứ

ký sinh trùng…bất cứ gái mại dâm nào cũng phải thồ trên lưng mình ba thứ:

chủ chứa, cò mồi và du côn” [27, tr.343]. Thế giới nơi đây vô cùng tăm tối:

“Ốc Đảo Đen nhộn nhịp từ năm sáu giờ chiều tới mười một, mười hai giờ

đêm thì im ắng hẳn, để rồi hôm sau, cũng giờ ấy, bất chấp dư luận, bất chập

mọi thứ đạo lý, tiếp tục cái vòng quay đẫm mùi nhục dục của nó” [27, tr.349].

66

Không khác gì hơn là hình thức kinh doanh trên Vốn tự có mà ông cho rằng:

“Kinh tế phát triển cùng với sự phát triển của nhu cầu ăn chơi lại cũng là một

đặc tính nữa của nước ta thời mở cửa” [28, tr.136]. Thật tai hại vô cùng bởi:

“Một khi đã được sử dụng có mục đích thì nhan sắc không chỉ trở thành tiền

bạc mà nó còn thành một sức mạnh, một thế lực, một quyền uy. Một thứ

quyền uy khiến pháp luật bó tay, công lý bị văn đỗ…Tuy nhiên với những

nàng Bao Tự thời hiện đại thì mục đích nhắm tới là các ngài đứng đầu các

ngành hay những ngài giám đốc nắm trong tay những đống bạc to xù của Nhà

nước” [28, tr.137] và con số bất ngờ rằng: “100% các vụ án kinh tế đều lồng

trong đó một vụ án tình” [28, tr.138]. Mục đích kinh doanh cuối cùng của họ

không gì khác ngoài việc “kiếm chác”, sống bám gây tổn hại hại cho hạnh

phúc gia đình, cho xã hội lẫn kinh tế đất nước. Ông tiếp tục khai phá, đào sâu

một loại biến hình của tệ nạn mại dâm để trốn tránh luật pháp là hình thức Vợ

hờ kể “từ ngày có chỉ thị 87/CP” các “chợ bán hoa ở Hà Nội vắng hẳn” là

“… vắng…”, “nhưng mọi hoạt động mại dâm chỉ kín đáo hơn, bí mật hơn và

chuyển sang hình thức khác “ vợ hờ” – thế giới vợ hờ cũng y hệt như thế giới

của gái điếm: tuổi càng cao giá càng thấp… còn “chồng” đều là loại kiếm ra

tiền” [27, tr.364].

Khi xu thế đấu tranh chống tiêu cực đã phần nào lắng lại sau thời gian đầu

ồ ạt và tự điều chỉnh các tác giả phóng sự đã bắt đầu đi sâu vào những vấn đề

địa chỉ trọng điểm. Cụ thể trong Góc tối ở thành phố cảng, Huỳnh Dũng

Nhân đã trực tiếp chỉ danh tại “Khu du lịch Vạn Dương ở khu 3 Đồ Sơn, khu

Thung Lũng Xanh gái điếm ngày càng đổ xô đến và an ninh trật tự không

đẩm bảo được nữa (gái điếm, bọn đầu gấu)” [17, tr.20], “Hải Phòng vẫn còn

những anh Năm Sài Gòn, những cô Tám Bính, một số không ít thanh niên Hải

Phòng ảnh hưởng ít nhiều cung cách ăn chơi xả láng của nhiều lớp trẻ đô thị,

muốn lao vào hưởng thụ, sống gấp, ăn chơi, làm giàu một cách phi pháp,…

67

sống buông thả, thô lỗ,…cướp bằng vũ khí là nỗi kinh hoàng ở Hải Phòng…

công an đã mở hai đợt tấn công, bắt giữ 3233 vụ với 3607 tên tội phạm hình

sự các loại, trong đó có 85 tên giết người, 559 tên cướp, 111 tên mua bán và

tàng trữ vũ khí quân dụng, 13 tên mua bán phụ nữ, ….” [17, tr.21]. Trực tiếp

chỉ danh để báo động tình trạng xuống cấp của thành phố cảng. Điều đáng lo

ngại thật sự là thế hệ trẻ, những con người đang trượt dốc trong cơn lốc ăn

chơi, hưởng thụ. Một lớp người của tương lai đáng lẽ ra phải góp sức cho đất

nước, xã hội ngày càng giàu đẹp hơn thì lại hủy hoại cuộc đời bằng lối sống

không lành mạnh. Ông đã đi khắp cùng đất nước để cho ra đời phóng sự Bia

ôm trên từng cây số, qua sự quan sát tác giả thấy rằng đó đã là “một nghề hẳn

hoi” đang phát triển dần “từ việc kinh doanh của một số cá nhân, nó đã phình

to, lan rộng, để thành một trào lưu, một thực trạng đáng lo ngại… hầu như đi

đâu cũng thấy quán bia ôm” [15, tr.246].

Các đề tài về tệ nạn xã hội như ma túy, cờ bạc, mại dâm, tham nhũng vốn là

đề tài quen thuộc của phóng sự trước 1945. Đến giai đoạn này vẫn là những

vấn đề thời sự, là những mảng tối màu trong cuộc sống mà phóng sự đang tìm

cách loại trừ, lên án nó. Tuy nhiên, theo thời gian với những thay đổi trong

cuộc sống, xã hội thì những tệ nạn ấy cũng có những biến đổi tinh vi, quy mô

hơn. Mại dâm đã trở thành một phương thức kinh doanh siêu lợi nhuận là con

đường dẫn đến sự tha hóa nhân cách, là nguyên nhân của mọi sứt mẻ, rạn nứt

trong quan hệ gia đình. Tệ nạn tham nhũng là một vấn đề mà xã hội luôn quan

tâm nhưng nó không bao giờ là vấn đề cũ.

2.2.2. Những mảng hiện thực phức tạp trong đời sống

Hiện thực phức tạp trong đời sống tồn tại bên trong những vấn đề mới đã

và đang nảy sinh trong thời đại mới của đất nước. Yêu cầu khái thác cái mới

lạ cũng là tất yếu đối với những người cầm bút, ở đây là những nhà phóng sự.

68

Các cây bút phóng sự tài ba đã không bỏ lỡ một dịp, một cơ hội nào để tìm,

khám phá những đề tài mới nhằm phản ánh “hiện thực phức tạp trong đời

sống”. Đó là những phóng sự viết về những đề tài như nghề bán sức lao động,

con nuôi kể cả những thứ “nghề” bất hợp pháp như nghề tống tiền, nghề đòi

nợ thuê,...

Hiện nay chúng ta không né tránh những cái mới lạ. Điều quan trọng là

quan niệm, thái độ, sự đánh giá và thẩm định của tác giả trước những hiện

tượng đó như thế nào. Chính điều đó quyết định giá trị tác phẩm. Đây là ta đề

cập đến thế giới quan và đặc biệt là tài năng phát hiện vấn đề của tác giả.

Chúng ta đã biết đặc điểm nổi bật nhất của phóng sự là nó có khả năng phản

ánh hiện thực dưới dạng một bức tranh nóng bỏng hơi thở của đời sống. Bức

tranh ấy vừa có sức khái quát, vừa chi tiết sống động với những con người và

sự việc xác thực. Những con số, sự kiện, tình huống, con người ấy được coi là

nguyên liệu để xây dựng tác phẩm. Một phóng sự hay còn phải có được

những luận cứ tiêu biểu, gây ấn tượng mạnh mẽ và phải cung cấp được những

chi tiết sống động mà bản thân người viết đã quan sát, thu thập được để công

chúng có thể hình dung về vấn đề, sự kiện, con người, hoàn cảnh, tình

huống,... một cách sống động như thể chính họ đang được trực tiếp chứng

kiến.

Trong loạt phóng sự của Vũ Hữu Sự ta nhận thấy rất rõ những vấn đề mới

của xã hội. Trong Chợ giời số phận Vũ Hữu Sự phản ánh thế giới hoạt động

không mấy minh bạch của các nhà ngoại cảm, các thầy tử vi, các chư tiên

phật, các pháp sư thầy phù thủy, các đồng cô bống cậu, các thầy xóc thẻ bói

bài và ông đã bắt gặp đội quân “làm dịch vụ cho các thánh ấy” [27, tr.73].

Độc đáo, sâu cay trong phóng sự Đừng bắt bà chúa kho phải tham nhũng Vũ

Hữu Sự là hình ảnh nhốn nháo, chen lấn của con người khi đổ xô đến Bà

Chúa mà lạy lục, mà đút lót, kẻ thì xin, người thì vay…cho những lợi ích bất

69

chính của họ. Đây là hiện trạng vẫn đang diễn ra hầu như khắp mọi nơi trên

đất nước mỗi khi dịp lễ lộc đến. Cảnh ấy đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến vẻ

mỹ quan lẫn trang nghiêm nơi đền đài của đất nước.

Trên báo đài ngày nay vẫn không vắng những tin tức những con người

nhẫn tâm hành hạ những đứa trẻ mà họ gọi là con nuôi. Tiếp cận hiện thực ấy,

Vũ Hữu Sự có dịp ghi nhận và phản ánh một cách sâu sắc trong phóng sự Con

nuôi. Đó là một hình thức thu lợi cá nhân ở mọi khía cạnh trên thân phận

người con nuôi. Nào là biến chúng thành đầy tớ: “Thằng con nuôi ngoài công

việc chính “gánh vác đỡ đi” cái căn số cao nặng cho bậc quý tử của anh, còn

được cử chuyên trách một vạt đất khá rộng, tới non một sào vốn là đất công”

[27, tr.99]. Nào là trá hình bán dâm: “Tất cả những gái bán dâm từ nơi khác

đến, nếu muốn được hành nghề, muốn được an toàn, đều phải nhận làm con

nuôi hay em nuôi một kẻ nào đó” [27, tr.108]. Trong cái nhìn thực dụng của:

“Các nhà làm ăn ngoài phố quen gẩy bàn tính, nhìn ra ngay cái lợi của việc

nuôi “con nuôi”. Thứ nhất là được ơn, được nghĩa. Thứ hai là được tha hồ sai

bảo, đánh chửi vô tội vạ. Thứ ba là không tốn tiền công” [27, tr.101].

Cuộc sống muôn màu muôn vẻ thì con người cũng sống với những bộ mặt

khác nhau, đi trái lại với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Không nhỏ một tầng

lớp trong thế giới ăn mày qua Kỹ nghệ ăn mày của Vũ Hữu Sự là thế giới của

“những kẻ hoàn toàn có khả năng lao động nhưng lại chọn việc ăn xin như

một cái nghề” [27.tr.129]. Họ đã phải đóng kịch thật giỏi, phải tập luyện hàng

loạt động tác kịch rất công phu. Đây là dạng lừa đảo dùng đủ mọi mánh khóe

để gợi đến tối đa lòng thương của thiên hạ, lợi dụng lòng từ tâm của con

người. Khi mà vòng xoáy của cuộc sống cuốn con người theo những lo toan,

bề bộn chất ngất có những Chuyện đời thường mà không thường được Vũ

Hữu Sự ghi nhận chân xác mà hình như ai trong chúng ta cũng như tìm thấy

mình trong câu chuyện này: “Sáng người ta đã nhào ra khỏi nhà, tỏa đi các

70

nơi, nháo nhào, quay cuồng, vật lộn… Sẩm tối mới quay về, bơ phờ, dốc

trong những đồng tiền chủ yếu là tiền lẻ. Những đồng tiền nóng hổi hơi

người, nhàu nát, đồng nào cũng thâm xỉn lại bởi đã bị láng rất nhiều lớp mồ

hôi tay, bòn mót được trong ngày. Để rồi lại bị căng lên bởi những cuộc va

chạm ấy… Trí thức va chạm kiểu trí thức, bình dân va chạm kiểu bình dân.

Những chuyện vặt ấy muôn hình muôn vẻ nhưng đều giống nhau ở một điểm:

từ những cái rất vặt rồi cứ xé dần, cứ lũy thừa dần thành những chuyện tày

đình. Cao trào nhất là khi những cẳng tay, cẳng chân vào cuộc” [27, tr.152].

Quá nhiều những vấn đề trong xã hội mà dường như phóng sự đã luôn

hoàn thành sứ mệnh của nó một cách trọn vẹn nhất khi nó không chừa một

góc khuất nào trong xã hội, kể cả thế giới của Nặc nô thời mở cửa (Vũ Hữu

Sự). Vay mượn là chuyện bình thường trong đời sống xã hội, là sự thể hiện

tương trợ nhau giữa người với người trong lúc khó khăn. Nhưng đi kèm với

sự phát triển thì lòng người cũng nguội lạnh dần đi, những giá trị trong họ

cũng dần băng hoại mà phóng sự cần lên tiếng để loại trừ, tiêu diệt. Việc dùng

nặc nô để đòi nợi là chuyện chẳng tốt đẹp gì, “bởi lẽ bọn nặc nô, thời nào

cũng vậy, đều là bọn bất nhân. Nhiều khi chỉ vì mấy đồng bạc mà bọn chúng

đánh đập, lăng nhục người ta không thương tiếc” [28, tr.114].

Gần đây là phóng sự Kính thưa osin của Huỳnh Dũng Nhân đề cập tới giới

osin muôn màu muôn vẻ có cả mặt tốt lẫn mặt xấu không kém phần sinh động

trong bức tranh hiện thực xã hội những năm đầu thế kỷ XXI này. Theo lăng

kính của ông thì “nghề này là cần thiết, thậm chí quá cần thiết” nên chăng có

dịch vụ, một nơi đào tạo hẳn hoi để đáp ứng cho nhu cầu cần của xã hội.

Bước vào những năm đầu thiên niên kỷ mới, cùng với sự phát triển mạnh mẽ

của nền báo chí Việt Nam, phóng sự lại một lần nữa bùng nổ trở thành thể

loại quan trọng phản ánh mọi mặt đời sống. Sự phát triển của phóng sự gắn

liền với yêu cầu của từng giai đoạn.

71

2.2.3. Những gam màu tươi sáng của đời sống

Những bức tranh, hiện trạng tươi sáng của một cuộc sống đang vận động

phát triển theo hướng ngày càng tích cực, trong sáng và khỏe khoắn hơn, một

cuộc sống cởi mở và dân chủ hơn. Bên cạnh những phóng sự đi sâu khai thác

mặt trái của nền kinh tế thị trường nhằm rung tiếng chuông cảnh tỉnh cho mọi

người cũng đã có nhiều phóng sự đề cập đến những vận động tích cực đến

những vận động tích cực của nền kinh tế, xã hội trên đất nước ta. Cho đến

những câu chuyện cảm động về tình người, về cuộc đời, chân dung những

người lao động chân chính.

Bên cạnh những phóng sự chống tiêu cực, chống tham nhũng đã xuất hiện

nhiều, đến những cảnh đời, những vấn đề gần gũi với cuộc sống đời thường

và không ít phóng sự có lối viết điềm tĩnh, sắc sảo hơn khi nói về những khía

cạnh tích cực khác nhau trong cuộc sống. Càng về sau, xu hướng này càng

phát triển mạnh mẽ, thể hiện sự tâm đắc, tin tưởng của những người cầm bút

vào ngày mai tươi sáng. Từ hình ảnh Lão nông tài ngang… tiến sĩ (Nguyễn

Thế Thịnh) là câu chuyện về ông thương binh Ngô Văn Lý, một nông dân

xóm Cồn Chay, đã hoàn thành một quy trình khép kín và nhân đại trà một loại

cây lấy gỗ đưa lại giá trị kinh tế cao trên vùng gò đồi Bố Trạch (Quảng Bình)

trong khi các nhà khoa học đang loay hoay trong phòng thí nghiệm và thực

hiện các đề tài nghiên cứu. Người nông dân ấy không giữ riêng cho mình phát

minh đó mà “gương mẫu chuyển giao quy trình gieo ươm cây huỷnh, kết quả

của nhiều đêm mất ngủ, nhiều tháng thực nghiệm, cho xí nghiệp của Nhà

nước tự nhiên như việc nhà mình” [18, tr.11]. Đến Tỉ phú bò sữa (Nguyễn

Trọng Hùng) là phóng sự viết về chàng thanh niên dũng cảm mang tên Trần

Văn Lý, sinh năm 1960, chủ trang trại ở Tân Tạo, xã Đội Cấn, Yên Sơn

(Tuyên Quang). Hồi là cán bộ trung cấp kỹ thuật thì còn việc làm, đến khi tốt

nghiệp đại học, trở thành kỹ sư kinh tế thì bị “176” đẩy ra. Giữa lúc ấy tiếng

72

gọi từ nơi khó khăn như Tuyên Quang cũng chất chứa nhiều hy vọng với

chàng trai 34 tuổi, quê Vĩnh Phúc này. Từ đấy, tức vào năm 1994, anh đối

mặt với chính mình, bỏ lại đằng sau một gia đình, sống hòa đồng với bà con

các dân tộc, với đồng nghiệp, để trở thành người sở hữu 2 ha cây ăn quả, 32,4

ha chè, 172 con bò sữa với tổng giá trị 7,5 tỉ đồng. Heo hút, xa xôi hơn là Tỉ

phú “vàng trắng” người Ê Đê của Đặng Bá Tiến là câu chuyện về ông Ma

Ben – một người Ê Đê ở xã Chư Bao, huyện Krong Buk, Đăk lawk đã “phất”

lên nhờ cao su bằng chính sự cần mẫn của bản thân.

Cuộc sống luôn tôn tại những vấn đề, hiện tượng đối nghịch, ngược chiều

nhau tạo nên tính đa chiều kích để ta gọi nó là xã hội. Phóng sự không chỉ

nắm vấn đề ở một mặt mà nó luôn công bằng với hiện thực, loại trừ cái xấu và

luôn cổ vũ cho những gam màu tươi sáng của xã hội.

2.3. Một cái nhìn đậm chất nhân văn về hiện thực con người Trong bức tranh hiện thực phong phú, toàn diện không thể không vắng

bóng sự có mặt của con người. Con người luôn là nhân vật trung tâm của mọi

thời đại, tạo nên sự sống, tạo nên chuyển động của xã hội, đất nước. Con

người với tất cả đời sống tự nhiên và xã hội của nó, thân phận và cuộc đời của

chính nó là đối tượng, đặc trưng cơ bản nhất mà phóng sự phản ánh.

2.3.1. Số phận người lính sau chiến tranh

Phóng sự là thể loại giao nhau giữa báo chí và văn học. Tùy theo từng giai

đoạn của hoàn cảnh xã hội mà thể loại này có vị trí nhất định trong phản ánh

hiện thực cuộc sống. Chính từ sự đặc biệt của thể loại phóng sự là sự giao

thoa giữa văn học và báo chí mà ta sẽ xem xét chúng trong cái nhìn nắm bắt

cuộc sống của thể loại chứ không có sự phân biệt giữa phóng sự báo chí và

phóng sự văn học. Ở đây ta chỉ đề cập đến đặc điểm về nội dung của phóng sự

nói chung trong giai đoạn từ 1975 về sau. Nhắc đến nội dung phóng sự thì

73

không thể tách rời cuộc sống và cụ thể hơn ở đây là hiện trạng đất nước sau

chiến tranh gắn với số phận của người lính. Đất nước sẽ như thế nào khi hòa

bình trở lại, có thuận buồm xuôi gió trên con đường phát triển không hay

trong không khí phấn khởi ấy vẫn còn ngổn ngang trăm mối hậu quả của

chiến tranh,… tất cả sẽ là “chất liệu nóng hổi” cho thể loại phóng sự khai phá

và thể hiện.

Ngỡ như sẽ trọn niềm vui chiến thắng, bắt tay ngay vào xây dựng cuộc

sống, kinh tế mới nhưng với hiện thực đất nước vẫn chưa nguôi nỗi đau hậu

chiến. Nỗi đau của những con người sống sau chiến tranh là nỗi đau về thể

xác lẫn tinh thần và cả hậu quả nặng nề từ ảnh hưởng của chất độc da cam mà

con cháu họ phải gánh chịu sẽ là vấn đề thu hút các cây bút phóng sự. Tuy

nhiên, khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi, khác với trước đây ống kính phóng sự

luôn ở vị trí cận cảnh, để ghi lại những thước phim sinh động, hoành tráng về

cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Thời kỳ này khi hiện thực đất nước sang

trang thì nó được nhìn nhận, xem xét ở góc độ, khía cạnh khác. Tác phẩm

không còn là những bản anh hùng ca mà là những đau thương mất mát của

ngày hôm qua đang hiện diện qua số phận người lính. Họ đã hy sinh thầm

lặng và trở về với nỗi đau quá lớn. Thành công và ấn tượng là những trang

viết giàu cảm xúc của Minh Chuyên, Huỳnh Dũng Nhân, Lã Hoan, Xuân

Quang, Trần Đăng, Nguyễn Trọng Hùng. Số phận người lính với những “vết

thương của ngày cũ” đang hành hạ thân xác là đề tài mà những ngòi bút

phóng sự không thể bỏ qua. Trong chiến tranh họ đã anh dũng chiến đấu, giờ

cả phần đời còn lại họ sống trong cô đơn, lặng lẽ gặm nhấm nỗi đau mất

chồng, mất con,… Vượt lên nỗi đau, họ vẫn là con người giàu đức hy sinh,

giàu sức sống, giàu ý chí vươn lên mọi gian khổ, khó khăn của hoàn cảnh.

Chiến tranh hiện lên qua số phận người lính là nỗi đau tận cùng khi họ bị tước

đi những đứa con, phải sống trong khắc khoải đợi chờ được làm cha, làm mẹ.

74

Mỗi cuộc đời là một nỗi đau, nỗi đau chung của đất nước. Số phận người lính

sau chiến tranh vẫn là vấn đề lớn của đất nước, là nỗi đau chung của đất nước.

Với phóng sự Bên hồ sen của Thanh Giang ta thấy tường tận sự hy sinh cùng

nỗi đau mà anh Nguyện phải gánh chịu sau những năm tháng chiến đấu

“không ít những người như Lê Chí Nguyện (Bến Tre), ở bên trong vết thương

đã lành còn những mảng gang ám thuốc TNT, nó chẳng chịu chìm vào quên

lãng” [29, tr.69], anh đã “gởi lại một con mắt nơi chiến địa (Bàu Cỏ)” [29,

tr.70]. Năm 1992 tác giả đến thăm anh nhưng sự thật trước mắt Thanh Giang

lại là sự thật buồn, ảm đạm: “Con người Nguyện trông sao quá hom hem, cằn

cõi, lại rơi giữa khung cảnh nhà rách vách nát mới càng nao lòng!” [29, tr.72].

Trở về từ cuộc chiến, về thành phố rồi chiến tranh biên giới nổ ra, Nguyện

vẫn không xao lãng nghĩa vụ và trách nhiệm: “Đặc biệt thu hút tâm não anh

nhất là động viên nghĩa vụ quân sự, kịp thời bổ sung quân đưa lên mặt trận”

[29, tr.76], anh luôn tâm nguyện sống giữ vững trọn vẹn nhân cách “thà

nghèo nhưng đừng để hèn. Phải tự tin vào ý chí mình, vào hai bàn tay mình và

làm thật tốt từng công việc của chính mình.” [29, tr.77]. Anh đã làm được tất

cả chính bằng ý chí của mình: “Không những tự nuôi mình để nhẹ gánh cho

nhà nước, anh chị còn nuôi cả bốn đứa con khỏe, dạy con ngoan, lại còn tạo

dựng một cơ ngơi được trả giá hàng trăm cây vàng, làm chỗ dựa tương lai cho

các con. Quả là chỉ có sức mạnh của ý chí. Ý chí mạnh lắm, Lê Chí Nguyện

mới có thể từ tay trắng, từ thương tật gượng mất lên mà làm nên như thế” [29,

tr.82]. Đó là con người sống qua nỗi đau của chiến tranh, giữ vững nhân cách

sống, tự vươn lên bằng chính sức lực của mình vẫn chưa giây phút nào quên

cống hiến cho cách mạng. Nếu như đồng chí Nguyện là tấm gương vượt lên

trên nỗi đau, bệnh tật thì anh Bâu trong Nước mắt làng của Minh Chuyên lại

hiện lên với nỗi đau dữ dội khi nhìn những đứa con rứt ruột sinh ra phải ra đi,

lụi dần sự sống bởi di hại khôn lường của chất độc hóa học: “Rời quân ngũ

75

sau mười năm là lính đánh bộ ở đường Chín Khe Sanh, Nguyễn Văn Bâu

tưởng không bao giờ còn phải đụng đầu với chết chóc, với bom đạn. Nào ngờ

chiến tranh vẫn đeo đẳng theo anh về tận một làng quê rất xa mặt trận. Đó là

làng Hưng Hải, xã Nam Phú, huyện Tiền Hải, Thái Bình để tiếp tục lừa đuổi,

tàn phá gia đình anh” [29, tr.115]. Tác giả không khỏi đau xót khi chứng kiến

cảnh ấy: “Chiến tranh như con rắn độc phục trong cơ thể anh Bâu. Nó không

chỉ phun nọc độc vào trái tim bảy đứa con anh, mà còn gặm nhấm tàn phá

thân thể của anh nữa” [29, tr.119]. Hậu quả của chiến tranh để lại vô cùng đau

đớn cho những con người một thời xông pha vào trận tuyến không quản ngại

hy sinh thân mình.

Người lính sau chiến tranh, mỗi người mỗi cảnh, có đau thương tận cùng

bởi những vết thương của bom đạn, có những mất mát không cách gì bù đắp

được, có nỗi buồn của sự cô đơn. Sự cô đơn của người lính khi trở về hòa

nhập với thực tại. Họ cô đơn chính bởi do sự đơn độc hay cô đơn trong chính

sự ồn ào, tấp nập của thế giới lành lạnh tình người. Trong Vết xe lăn trên cát

Long Hải, Huỳnh Dũng Nhân đã tái hiện sắc nét hoàn cảnh sống của họ tại

một khu điều dưỡng thương binh nặng lớn nhất nước ở Bà Rịa – Vũng Tàu:

“Khu điều dưỡng có 64 thương binh trong đó có 17 người quê ở miền Bắc, có

10 thương binh nữ, 4 thương bình từ thời chống Pháp, 20 từ thời chống Mỹ,

còn lại là thương binh từ Campuchia trở về. Trong số các thương binh, có 31

người bị liệt tủy sống, năm người liệt não, ba người mù cả hai mắt, bảy người

cụt cả hai chân” [17, tr.145]. Qua lời kể của một thương binh mù cả hai mắt là

anh Cao Bằng Nhân thì: “Chiến tranh là vậy đó. Bây giờ không ai vào thăm.

Mù lòa như tôi lại phải lặn lội ra đó vì nhớ quê quá chịu không nổi. Đi tàu đi

xe người ta cứ xô té lên té xuống. Bây giờ khác trước lắm, họ không chịu

nhường nhịn đâu. Cũng có một số trường hợp không được ai đoái hoài đến

nữa, vì họ bị xem là một gánh nặng, đưa về nhà chỉ thêm nhọc công” [17,

76

tr.150]. Sống chiến đấu cho cộng đồng nhưng khi quay về họ cảm thấy lạc

lõng trong thế giới con người nhưng họ vẫn không đánh mất dũng khí, phẩm

chất người lính: “Người thương binh nào cũng rất nhạy cảm với điều đó và họ

lẳng lặng thu xếp cho mình. Trong tình cảnh nào họ cũng chiến đấu như một

người lính” [29, tr.151]. Nỗi đau của những vết thương thân thể chắc hẳn

không đau bằng nỗi đau của một cuộc sống mặc cảm đối diện với sự vô tâm

của người đời. Nhưng sức chịu đựng và khả năng của con người là vô hạn,

trong nỗi đau họ vẫn trỗi dậy một sức sống tiềm tàng làm nên những điều có ý

nghĩa. Họ đã Vượt lên số phận như trường hợp Lê Văn Lớp của Xuân Quang,

anh đã cố vượt lên nỗi đau, nỗi đau xé lòng, từng “tham gia chiến đấu ở chiến

trường Quân khu 5 từ tháng 3.1972 đến tháng 1.1976, phục viên trở về địa

phương. Vợ chồng anh sinh 10 lần, các cháu sinh ra đều bị dị dạng và chết.

Do đau buồn và bệnh cũ tái phát, anh bị mù hai mắt, vợ anh bị tâm thần” [18,

tr.92]. Nỗi khát khao được làm cha mẹ, được sinh ra những đứa con khẻo

mạnh bình thường của vợ chồng anh tất cả mãi mãi chỉ là ước mơ. Còn nỗi

đau nào hơn nỗi đau của anh, nỗi đau tận cùng.

Chiến tranh không chỉ để lại hậu quả cho những người trực tiếp chiến đấu

mà nó còn để lại nỗi đau tang thương cho người ở lại. Trong phóng sự Vợ của

hai liệt sỹ, Trần Đăng đã ghi nhận lại số phận bất hạnh của người phụ nữ

trước sự ra đi vĩnh viễn của người thân. Ta không lấy gì làm lạ khi bắt gặp

hình ảnh đầu tiên về chị qua cái nhìn của tác giả: “Người phụ nữ ấy, chịu

đựng trong khắc khổ, thu mình trong lặng lẽ, chai sạn và lãnh cảm” [18,

tr.233] bởi chị đã “đội trên đầu hai lần tang tóc, gánh trên vai hai cuộc chiến

tranh” [18, tr.233]. Người chồng thứ nhất hy sinh vào một chiều mùa đông

của năm 1969 và người chồng thứ hai hy sinh trong chiến tranh biên giới Tây

Nam.

77

Chiến tranh qua đi nhưng hậu quả nó để lại thật vô cùng to lớn. Những

con người ngày nào chiến đấu hiên ngang nơi chiến trường, giờ họ tiếp tục

sống quãng đời còn lại và tiếp tục chiến đấu bằng cả nghị lực phi thường với

những vết thương trên thân thể lẫn tinh thần. Trong hành trang xuôi ngược

khắp nẻo của các nhà phóng sự sẽ không thể thiếu hình ảnh của họ, những

tấm gương anh hùng!

2.3.2. Những con người bất hạnh

Không chỉ chú ý tới những vấn đề lớn của cộng đồng, phóng sự còn đi sâu

vào những cuộc đời cụ thể, những số phận cụ thể của nhiều con người bình

thường trong đời sống gặp phải hoàn cảnh éo le hay có những việc làm tiêu

biểu nào đó mà xã hội đang quan tâm. Hòa bình cũng là lúc con người có thời

gian để suy ngẫm và nhìn ngắm lại mình. Va chạm với nhiều mâu thuẫn nảy

sinh sau chiến tranh, con người xuất hiện với tất cả các mối quan hệ phức tạp

vốn có. Cuộc sống đời thường với sự “ngổn ngang, bề bộn, bóng tối và ánh

sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ” (Nguyễn

Khải) là mảnh đất màu mỡ, phì nhiêu để phóng sự khai phá. Ngòi bút phóng

sự đi vào mọi ngóc ngách của cộc sống, song mục đích cuối cùng mà phóng

sự hướng đến là số phận con người. Hơn bao giờ hết, số phận con người trong

thời đại mới được đặt ra như một yêu cầu bức bách và được soi rọi từ nhiều

phía. Con người với sự đa dạng tầng lớp, có kẻ giàu người nghèo,… không ai

giống ai, mỗi người một cảnh ngộ. Để lại dấu ấn đậm nét, khắc khoải trong

lòng độc giả là những số phận oan khuất, với những cuộc hành trình dằng dặc

trên con đường đi tìm công lý (Cái đêm hôm ấy đêm gì - Phùng Gia Lộc, Lời

khai của bị can - Trần Huy Quang, Người đàn bà quỳ - Trần Khắc, Tiếng kêu

cứu của chim gõ kiến – Trúc Chi, Công Thắng); là khát vọng hòa nhập cộng

đồng, là nỗi mong mỏi được thông cảm, sẻ chia của những con người đang

78

vật lộn với AIDS và trực khuẩn Hansen (Câu chuyện về hai nạn nhân AIDS,

Hành trình đến xứ sở Hansen – Huỳnh Dũng Nhân). Đằng kia là những cuộc

đời eo sèo, lam lũ; là số phận những đứa trẻ lang thang cơ nhỡ (Cát bụi đèo

Ngang, Những kẻ lưng trần biên giới – Vũ Hữu Sự, Lụ man tang hay số phận

những cô gái có con ngoài giá thú – Huỳnh Dũng Nhân, Phận gái đời sông –

Nguyễn Quang Vinh).

Với cảnh hòa bình của đất nước ta không nghĩ nạn đói từ mấy mươi năm

về trước lại trở về với con người, một sự thật ta không thể ngờ nếu không có

phóng sự của Phùng Gia Lộc, một ghi chép thật từ chính gia đình của tác giả.

Trong cái rét thấu xương, khung cảnh gia đình cứ tiêu điều, đói lạnh qua lời

bộc bạch vô tư không kém sâu buồn của đứa trẻ: “Chỉ nấu cơm cho bà với em

thôi! Mẹ, anh Học với con ăn cháo rau má rồi. Bữa nay mẹ luộc rõ nhiều rau

cải” [3, tr.171]. Câu nói ấy làm cho tác giả “thấy cay sè trong mắt” [3, tr.171],

gợi lên nỗi xót xa tận đáy lòng. Bản lĩnh, trách nhiệm của người đàn ông đối

với gia đình trỗi dậy trong lòng nhân vật trần thuật: “Thế thì nấu thêm vào.

Hết thì tao đi bới đất, nhặt cỏ, van ông vái bà. Làm con người mà miếng cơm

chín vào bụng vẫn không đủ thì sống thế nào’’ [3, tr.171]. Nhưng dường ấy

cũng chỉ như xoáy sâu hơn “một nỗi đau thắt lòng”. Chuỗi những lời đối đáp

cứ buông ra càng tô đậm cho kiếp người nghèo khổ sống trong xã hội đang có

nhiều ung nhọt ấy: “Rau cải ế nhăn! Đói, chả mấy người mua” [3, tr.172].

Động từ “đói” càng nhấn mạnh cấp tiến nỗi thúc bách của một sự thật không

gì khác hơn, không thể nghĩ gì gì khác hơn ngoài nạn đói.

Không chỉ đói khổ, người dân còn sống trong với những oan khuất. Tiêu

biểu là cảnh trạng của người dân làng Đồng Tiến lúc bấy giờ đang bị bọn

“cường hào mới” ức hiếp, lừa đảo phải mất đất, mất chồng, rơi vào vòng tù

tội. Đến nỗi oan ức của “vua lốp”, là người “sản xuất ra hàng hóa, bỏ sức lao

động ra mà làm” [3, tr.216] với mục đích “làm ra của cải cho mọi người tiêu

79

dùng một cách chính đáng” [3, tr.217] vậy mà bị làm khó dễ phải trải qua

“những đận gian lao, tù tội gấp trăm ngàn lần như thế” [3, tr.216]. Ta không

khỏi chạnh lòng, bất bình trước vụ của Đoàn Thị Thuận (thị xã Tuy Hòa) do

“vợ của trưởng ban công an xã ăn cắp thuốc của trạm y tế giao cho Thuận,

Thuận bị công an bắt ép nhận là ăn cắp thuốc” [3, tr.7], bị oan chị “kiên quyết

không nhận nên bị tra tấn, đánh đập dã man liệt nửa thân mình” [3, tr.7] phải

gánh trên mình biết bao thương tích dẫn đến tàn phế. Hình ảnh của chị đại

diện cho nạn nhân của một tội ác, hiểm họa ghê ghớm. Tội phạm chính là ba

tên: Trương Trọng Lực (trưởng công an xã), Trịnh Văn Bắc, Trần Minh

Phong (công an xã). Chúng đã ngang nhiên chà đạp nhân phẩm con người,

“ngang nhiên bằng hành vi cực kỳ độc ác, đánh một phụ nữ đi đến hơn ba

năm liệt gần hết cơ thể” [4, tr.34]. Tiếp theo là vụ “giải tỏa 72 ngôi nhà ở

đường Ngô Quyền” của dân khi có tờ thông báo ủy ban vào ngày 20.4.88 với

nguyên nhân là họ “chiếm dụng lòng lề đường trái phép” [4, tr.33]. Cảnh cửa

nhà tan tác, đời sống người dân bất ổn từ đấy, trước mặt tác giả: “Trước mặt

chúng tôi, một dãy nhà phía tây chợ Tuy Hòa, ngổn ngang những vật liệu xây

dựng hư nát bị đập phá, tháo giỡ,… Người khiêng, kẻ dọn, nét mặt đầy âu lo,

buồn bã”. Sao khỏi đau, buồn khi “bà con không thể giải thích những điều

gán ghép tội lấn chiếm này, mặc dầu cuộc đời và ngôi nhà họ hiểu hơn ai hết.

Hồi đó vẫn con đường này, cái tên lịch sử này nằm cạnh chợ Tuy Hòa này. Từ

năm 1965, 1970 của những mùa hè đỏ lửa bà con các nơi dồn về dựng nhà,

cất quán làm ăn sinh sống” [4, tr.52]. Đứng trong lòng thị xã Tuy Hòa ngày

ấy tác giả day dứt không yên: “Một con người, một ngôi nhà mà sao cùng

một nỗi đau, một số phận” [4, tr.58]. Hàng loạt những hiện trạng vừa đề cập

trên trong tập phóng sự Tiếng kêu của con chim gõ kiến như gõ vào trái tim

công lý, yêu cầu một sự công bằng, dân chủ. Tất cả những mặt trái của cuộc

sống với những vấn đề nóng bỏng như nạn “cường hào mới”, một thời thu vét

80

sản mà chẳng cần biết dân đói khổ ra sao, những người như chị Thuận, vua

Lốp là những vấn đề mang tính thời sự mà phóng sự phải phản ánh kịp thời.

Sự ra đời của những tác phẩm trên đã giúp họ vơi đi phần nào nỗi đau, đánh

thức cán cân công lý.

Mảng phóng sự về những chuyện đời thường, những cảnh đời bất hạnh

nhằm kêu gọi tình thương và trách nhiệm của con người đang dần chiếm tỷ lệ

lớn. Con người luôn là trung tâm, là đối tượng mà cả văn học và báo chí

hướng đến. Phóng sự luôn tìm đến những góc khuất tối của cuộc sống để soi

sáng từng số phận người, đánh thức trong ta tình thương nhân loại. Có những

sự thật ấy đôi khi đã vượt qua cả sự tưởng tượng, vượt qua sức chịu đựng của

con người khiến ta không khỏi nao lòng, rung cảm. Vũ Hữu Sự rất thành công

với mảng đề tài viết về cuộc sống cơ khổ của những con người của đời

thường. Ai đã từng một lần nhìn theo bước chân của những đứa trẻ thơ trong

Cát bụi đèo Ngang như tác giả để chụp cận cảnh hình ảnh của chúng, những

“đứa trẻ cằn cỗi, rách rưới, lăn lóc giữa nắng, gió và cát bụi đèo Ngang, như

trái sim xanh kia” [28, tr.62] thì chắc mãi không quên được chúng. Một lớp

người lớn hơn về tuổi đời cũng chẳng may mắn gì hơn, càng nhọc nhằn không

kém trên bước đường sinh nhai trong phóng sự Những kẻ lưng trần biên giới:

“Những người lưng vốn mỏng manh, tự mình mua hàng, rồi tự mình làm cửu

vạn cho mình, lấy công nhập vào lãi… những người chỉ có vốn liếng, tấm

lưng, đôi vai” [28, tr.27].

Dưới cái nhìn thông cảm, sẻ chia mà Huỳnh Dũng Nhân đã ghi lại một

thực trạng qua Lụ man tang hay số phận những cô gái có con ngoài giá thú :

“Ở vùng cao Tây Bắc nói chung và ở tỉnh Sơn La nói riêng, việc nhiều phụ nữ

có con ngoài giá thú đang là một vấn đề xã hội đáng quan tâm” [17, tr.170],

với trái tim nhân ái tác giả hiểu rõ rằng: “Ước muốn của người phụ nữ thật là

đơn giản, sinh con, làm ăn sinh sống, nhưng nó lại vĩ đại biết bao, vì đó là

81

điều cao cả thiêng liêng nhất của thiên chức làm mẹ” [17, tr.174] nên “chị em

không có điều kiện lập gia đình đã phải thể hiện lòng khát khao được quyền

làm mẹ bằng cách có con ngoài giá thú” [17, tr.175]. Tác giả nhìn nhận “đây

là vấn đề xã hội đã, đang và sẽ còn diễn ra ngày càng lớn ở các tỉnh vùng cao

và xa xôi hẻo lánh” [17, tr.175].

Trong phóng sự Phận gái, đời sông, Nguyễn Quang Vinh ghi lại cuộc đời cơ

khổ của những con người không may: “Xóm ngụ cư của cha con chị Nguyệt

nằm mấp mé trên một gò đất sát bờ sông Lam, chỉ cách cầu Bến Thủy chừng

một cây số, thuộc địa bàn xã Xuân An, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh” [18,

tr.103]. Sống trong kiếp người bấp bênh, lạc loài, nghèo khó như vậy nhưng

cha con chị lại không thiếu tình thương nhân loại và “họ đang làm một cái

nghề bất đắc dĩ nhưng thực sự đáng trọng, đó là vớt hàng mấy trăm xác chết

trên sông Lam mang về cho thân nhân họ khâm liệm, chôn cất” [18, tr.104],

họ không “tính toán tiền công làm chi” mà “chỉ lấy công việc làm phúc đức

thôi” [18, tr.105]. Nhưng những con người từ tâm ấy gần như bị bỏ quên bên

dòng đời: “Từ ngày sinh ra đến hết thì con gái, chị Nguyệt ở trên đò” cũng

bởi “vì không có tiền, không lên bờ nổi” [18, tr.106] nên chị đã lặng lẽ “một

mình vừa chống vừa chèo – không ai tát nước đỡ nghèo một khi” [18, tr.100].

Một Hành trình đến xứ sở Hansen từ khu Quy Hòa (Quy Nhơn) cho đến các

làng Dakkia, Dakria, Dakpolan (Đaklak, Kontum), nơi của những con người

sống trong bất hạnh với căn bệnh phong mà tác giả cho rằng “chưa thấy ở đâu

tập trung những gương mặt và thân thể tàn tạ, khổ sở đến thế” [18, tr156].

Căn bệnh hiểm nghèo không ngừng phát triển, hành hạ họ: “Vi khuẩn tấn

công vào hốc mũi làm trơ hốc mũi, ăn mòn quanh mắt làm kéo cơ mắt, xâm

nhập vào làm lở loét làn da…” [17, tr.157]. Vào thời điểm bấy giờ: “Bệnh

phong đã chữa được. Bệnh phong cũng không dễ lây lan. Nhưng bi kịch của

người bệnh là thái độ đối xử của người đời” [17, tr.158], đau lòng hơn khi

82

“nỗi đau buồn dai dẳng, gặm nhấm, vây hãm bệnh nhân trong mặc cảm” [17,

tr.158]. Huỳnh Dũng Nhân bằng cái nhìn giàu lòng yêu thương con người đã

ghi lại dấu ấn trong ta những hình ảnh đáng thương vô cùng, khi nhìn thấy

đoàn cứu trợ: “Họ nép vào nhau, nhìn chúng tôi bằng đôi mắt ngơ ngác, mừng

tủi. Nhiều người rách rưới. Nhiều người không đi được” [17, tr.160] và “như

mọi nơi, họ nhận được quần áo, tiền cứu trợ. Đến lượt ai người ấy nhận. Im

lặng” [17, tr.161]. Với cảm nhận của tác giả thì: “Hình như chính những con

người khốn khổ này lại có những biểu hiện lịch sự hơn cả dân thành thị. Họ

rất trật tự. Ai nhận quà rồi thì lui ra sau khi cúi đầu cảm ơn, không xin xỏ,

không xếp hàng lần thứ hai để gian lận, không so bì ít nhiều, tốt xấu” [17,

tr.165]. Tác giả khám phá rằng: “Chính nơi đây tình người trở nên bao la

nhất”. Cũng trong Câu chuyện về hai nạn nhân AIDS, ông đã làm lay động

người đọc trong cái nhìn cảm thông về câu chuyện của hai người nhiễm HIV

đã phát triển thành AIDS đang nằm chờ chết mà không thấy ai chìa tay ra với

họ. Theo lời họ thì từ ngày nằm trên đường Đồng Khởi “người ta đuổi như

đuổi tà” [17, tr.233]. Hai con người đại diện cho những con người mắc căn

bệnh thế kỷ ấy sống với thân thể “gầy không thể gầy hơn được nữa” [17,

tr.233]. Giai đoạn cuối đời của họ là những suy ngẫm, khuyên răn cho giới trẻ

“mong bọn trẻ đang vui tươi trẻ trung như thế đi qua đây nhìn thấy thân thể bị

tàn phá của tôi, chúng sẽ biết sợ mà đừng lao vào con đường này nữa”.

Phóng sự không đơn thuần là trình bày sự việc và con người mà nó còn chứa

đựng cả thái độ, quan điểm của tác giả. Không lên án hay phê phán mà trái lại

Huỳnh Dũng Nhân có cái nhìn đầy nhân ái, thông cảm khi tiếp cận với hai số

phận không may đó:“Chuyện về ông cũng như bao nhiêu nạn nhân khác của

HIV/AIDS. Họ lao vào con đường hút chích bằng một hoàn cảnh riêng tư, đặc

biệt, tuyệt vọng nào đó” [17, tr.235].

83

Đổi mới kinh tế đang tác động tới nhiều mặt trong đời sống, nhân cách

con người đang chuyển động, có mặt tốt nhưng có mặt phải dè chừng. Dè

chừng căn bệnh vô cảm, không nhường nhịn của con người mới trong thời đại

mới như trong phóng sự Vết xe lăn trên cát Long Hải, Huỳnh Dũng Nhân đã

để cho nhân vật kể lại rằng: “Đi tàu xe người ta cứ xô té lên té xuống. Bây giờ

khác trước lắm, họ không chịu nhường nhịn đâu” [17, tr.150]. Tất cả những gì

có liên quan đến con người đều là đối tượng mà nhà văn nhà báo không thể

bỏ qua. Những bi cảnh, những số phận thương tâm cứ trở đi trở lại trong

phóng sự. Sở trường của phóng sự là soi sáng những góc khuất tối tăm để gặp

gỡ những mảnh đời bất hạnh để mà cảm thông, sẻ chia, đánh thức lòng nhân

ái của con người. Đời là câu chuyện không có đoạn kết, có biết bao cảnh tình

đang rất cần phóng sự tìm đến để họ được sống trong sự cảm thông, thấu hiểu,

sẻ chia hơn trong cộng đồng nhân loại.

2.3.3. Những con người giàu đức hy sinh, vượt lên hoàn cảnh

Bên cạnh những phóng sự đề cập đến số phận bất hạnh của con người thì

vẫn có không ít những phóng sự thiên về ca ngợi, khẳng định phẩm chất tốt

đẹp của một lớp người trong xã hội. Đó là những câu chuyện cảm động về

tình người, về cuộc đời, là chân dung của những người lao động chân chính

góp phần không nhỏ tô sáng cho bức tranh hiện thực cuộc sống con người

trong thời đại mới qua loạt phóng sự của Nguyễn Quang Vinh, Phạm Việt

Thắng, Hoàng Văn Minh, Nguyễn Quang Vinh,…

Hình ảnh những người âm thầm, lặng lẽ góp nhặt công sức của mình cho

xã hội, cho con người thông qua những công việc không tên, công việc không

ai biết đến. Đó là tấm lòng cao cả của hai vợ chồng ông Ngùy hiện lên trong

mỗi trang phóng sự Mỗi ngày một vạn bước của Nguyễn Quang Vinh. Họ đã

ngày đêm chăm sóc cho khu di tích Hoành Sơn bằng một sự cần mẫn rất vô tư

84

của tuổi già, của một trái tim đáng quý: “Làm cái chi mà trong bụng mình

thấy vui là làm, rứa thôi” [18, tr.33]. Đều đặn mỗi ngày, ông: “Cứ thức dậy

lúc ba giờ sáng, một tay rựa, một tay cầm hương, vai khoác can nước rời nhà,

leo tuốt lên đỉnh đèo, chặt cây, mở đường,…đến tối mịt mới về… thế mà ông

Ngùy đã làm lộ ra trước mắt thiên hạ cả một quan cảnh di tích hùng vĩ” [18,

tr.33]. Đến khi ông chết thì mệ thay ông, không kể nắng mưa hàng ngày lên:

“phát tỉa lau lách, cây dại, lau rửa li chén, bàn thờ, quét dọn sạch sẽ toàn bộ

khu vực di tích, thắp hương” [18, tr.34] và “cứ mỗi ngày từ nhà lên đến

Hoành Sơn Quan rồi quay về, mệ đã đi cả một vạn bước chân” [18, tr.34]. Đó

là “một vạn bước chân cao cả” [18, tr.36], không có sự toan tính mà chỉ với

mục đích “bảo vệ, giữ gìn khu di tích” [18, tr.36].

Ở trên ta vừa bắt gặp hình ảnh đẹp của vợ chồng ông Ngùy thì đến đây,

Phạm Việt Thắng khắc họa cho ta một hình ảnh cảm động như của“bà Dung”

trong Bà còng đi chợ ống tiêm, là người sống một thân một mình lay lắt trong

một túp lêu xiêu vẹo ở chợ Cấm, xã Nghi Yên (Nghi Lộc – Nghệ An), thế mà

hơn chục năm bà “vẫn miệt mài đi nhặt ống kim tiêm do con nghiện vứt lại để

hủy, tránh cho người khác hiểm họa bị phơi nhiễm HIV” [32, tr.59]. Hay tấm

gương của những người đã tình nguyện Nhường cơm nuôi chữ bằng cả tấm

lòng đáng cảm phục, họ đã lên đường và ở lại nơi Môn Sơn – xã tít tắp của

huyện miền núi Con Cuông (Nghệ An). Đây là xã đầu tiên mà các thầy cô

giáo đã tự nguyện nhường cơm để gieo con chữ cho học sinh người dân tộc

Đan Lai. Và cảm động thay là hình ảnh của Bố sự về bản, một người đặc biệt,

xin được rời thành phố để lên với bà con vùng biên. Là một tấm gương với

tinh thần sống vì mọi người, hy sinh lợi ích cá nhân để sống và cống hiến cho

cộng đồng, cho những con người có số phận bất hạnh hơn.

Nhắc đến những câu chuyện về người tốt việc tốt ta không thể quên

Chuyện ông tư khùng phố Hội của Hoàng Văn Minh là câu chuyện về một

85

ông Trần Tư – trưởng thôn Phước Trạch, thị xã Hội An, tỉnh Quảng Nam đã

đem chiếc tàu đánh cá là tài sản duy nhất của gia đình mình đi thế chấp ngân

hàng, vay 100 triệu đồng về cho bà con trong thôn mỗi người vay một triệu

đồng để làm nhà vệ sinh. Đến Chàng trai Mông nuôi cá tiến vua của Tản

Viên kể về chàng trai Giàng A Sềnh (ở thượng du sông Gâm, tỉnh Tuyên

Quang). Nghề của Sềnh là đi săn và thả đàn bò bán hoang dã trong thung lũng

để nuôi mình và vợ con. Những lúc nhàn rỗi, Sềnh thường ra sông dùng chiếc

sàng vớt cá con về thả ao nhà mình nuôi. Gọi là ao nhưng nước vẫn chảy,

cũng đầy những đá hộc và những hang hốc. Chàng trai người Mông ấy không

hề biết rằng những con cá sinh sôi lúc nhúc trong ba cái ao nhà mình lại chính

là giống cá Anh vũ từng được coi là sơn hào hải vị, dùng để cung tiến cho các

bậc vua chúa ngày xưa và ở nước ta chưa ai nuôi được thứ cá rất quý hiếm

này. Và đẹp vô cùng hình ảnh Mệ Barie được Nguyễn Quang Vinh ghi lại đầy

cảm động: “mệ Chít” – một cụ già bán hàng nước 71 tuổi trong suốt 17 năm

trời làm cái barie chắn đường tàu để giúp mọi người đi qua tránh khỏi tai nạn.

Lần nào cũng thế, cứ tàu sắp đến là mệ lại cầm nón ra đường gào lên báo cho

mọi người đi qua đường ngang đề phòng.

Con người luôn là trung tâm trong mọi hoạt động của cuộc sống. Phấn đấu

vì một xã hội tốt đẹp hơn luôn là mục đích của những nhà văn nhà báo. Họ đi

để viết, viết để phơi bày, cảnh tỉnh thực tại, kêu gọi lương tri con người bằng

cả niềm say mê đi và viết, như chiêm nghiệm của Huỳnh Dũng Nhân trong

quãng đời cầm bút của mình: “Thời gian một chiều đi mãi rồi hết, không có gì

ngoài cả cuộc đời”. Nêu gương tốt để đối lập, đấu tranh với những lệch lạc.

Cốt làm sao giữ gìn được phẩm giá con người Việt Nam trong nền kinh tế thị

trường có mối quan hệ rộng rãi với bạn bè năm châu phát triển theo định

hướng xã hội chủ nghĩa. Đời vẫn còn có những con người sống đẹp, sống

quên khó khăn, gian khổ, hết lòng giúp người, giúp đời. Hình ảnh họ tỏa sáng

86

bởi vẻ đẹp của tấm lòng giàu yêu thương, vẻ đẹp của một nhân cách chuẩn

mực.

87

Chương 3: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA PHÓNG SỰ VIỆT NAM TỪ 1975 ĐẾN NAY

Mọi sự vật, hiện tượng trong cuộc sống đều tồn tại với tư cách là chỉnh thể

thống nhất bao gồm hai mặt nội dung và hình thức. Trong phóng sự sự thống

nhất giữa nội dung và hình thức là thể hiện có sự sáng tạo đem lại chiều sâu ý

nghĩa cho tác phẩm. Khẳng định như Hegel thì: “Nội dung chẳng phải cái gì

khác, mà chính là sự chuyển hóa của hình thức vào nội dung, và hình thức

chẳng có khác gì hơn là sự chuyển hóa của nội dung vào hình thức”. Phóng sự

từ sau 1975 đến nay với xu hướng đa dạng hóa đề tài do bắt nguồn từ hiện

thực cuộc sống muôn màu muôn vẻ và thị hiếu tiếp nhận của công chúng. Gắn

liền với nhu cầu thời đại thể loại phóng sự đã có những thay đổi từ nội dung

đến hình thức. Nhìn lại một chặng đường hơn 30 năm tiếp nối và phát triển,

thể loại phóng sự đã có những thành công nhất định trong hình thức thể hiện.

Đặc biệt là có sự tham gia của cái tôi thẩm định hiện thực gắn với giọng điệu

đa dạng, thông tin sự kiện được tăng cường tối đa, sự giảm thiểu về dung

lượng, ngôn ngữ văn học kết hợp với ngôn ngữ thông tấn báo chí.

3.1. Cái tôi thẩm định hiện thực với giọng điệu phong phú Phóng sự luôn cần sự dấn thân, trải nghiệm của người cầm bút nên trong

tác phẩm cần phải có cái nhìn, nhận định, đánh giá của người viết. Việc hiện

diện cái tôi thẩm định hiện thực trong các phóng sự là điều tất yếu. Gắn liền

với cái tôi thẩm định hiện thực là giọng điệu riêng trong mỗi phóng sự. Đây là

đặc điểm nghệ thuật làm nên nét đặc sắc của phóng sự giai đoạn này.

88

3.1.1. Cái tôi thẩm định hiện thực

Đại hội Đảng lần VI – 1986 mở ra tạo điều kiện cho cái tôi cá nhân phát

triển, được quyền lên tiếng nói thẳng, nói thật, nhìn thẳng vào những sự thật

bị che lấp bấy lâu. Cái tôi ấy có dịp bừng dậy trong phóng sự mạnh mẽ khi

hàng loạt các phóng sự đã ra đời “châm ngòi làm nổ tung hiện thực nhức

nhối”.

Tùy vào góc nhìn nắm bắt hiện thực mà cái tôi trong phóng sự có thể là

người chứng kiến, người trong cuộc hoặc người kể lại nhằm làm sứ giả khâu

nối dữ liệu, thông tin truyền đến người đọc, qua đó phát huy tối đa hiệu ứng

xã hội của phóng sự đối với thời cuộc. Vị trí của cái tôi có thể là trực tiếp có

mặt tại địa điểm xảy ra sự việc, tác giả có thể xưng tôi, có thể lấy chính mình

ra làm nhân vật như trường hợp của Phùng Gia Lộc trong phóng sự Cái đêm

hôm ấy đêm gì là “việc thật ở nhà tôi đêm 26 tháng 11 năm 1983” [3, tr.183],

hoặc trong thời gian gần với sự kiện, trong điều kiện cho phép về không gian,

bối cảnh thời gian, sau khi sự việc xảy ra một thời gian mà vấn đề vẫn còn

đang thời sự như Huỳnh Dũng Nhân viết tác phẩm Trước một dòng sông với

thời gian: “Gần một tuần sau khi có cầu Cần Thơ sập” [17, tr.408].

Cái tôi trong phóng sự phải là cái tôi chính kiến, cái tôi có sự bộc lộ thái

độ, bày tỏ quan điểm cũng như cách đánh giá, bình xét trước những vấn đề,

sự kiện trong cuộc sống con người. Cũng trong phóng sự Trước một dòng

sông, Huỳnh Dũng Nhân dưới cái nhìn nhân bản sâu sắc, ông nghe lòng nặng

trĩu khi có dịp đến thăm viếng những nạn nhân trong vụ sập cầu Cần Thơ:

“Những người thợ cầu này đa số cũng từ một dòng sông đồng lúa ấy lớn lên.

Cuộc đời thợ cầu của họ thật ngắn ngủi bởi cái chết khủng khiếp do đá đè, đất

vùi, sắt đâm,…” [17, tr.413] và “dòng sông có thể sẽ trôi dưới cây cầu hờ

hững, nhưng những người đi qua cây cầu này thì không thể nào quên” [17,

89

tr.414]. Đó là cái tôi giàu lý lẽ và cảm xúc dù trên góc nhìn có thể là trực tiếp

hoặc gián tiếp thông qua nhân vật trong truyện. Mỗi góc nhìn như vậy luôn ẩn

chứa những “nỗi niềm đầy trăn trở, suy tư, chiêm nghiệm của người cầm bút

ở những mức độ khác nhau” đem đến cho phóng sự giá trị, ý nghĩa sâu sắc

đọng lại trong lòng người, đi xuyên thời đại chứ không đơn thuần như một

bản tin. Đó là nỗi trăn trở, suy tư trong phóng sự Hàng mã – nghề hái ra tiền

của Vũ Hữu Sự về hiện tượng mê tín vàng mã: “Mình ngẫm ra rằng cái văn

minh ở thành thị được nông thôn tiếp nhận rất chậm. Nhưng cái mê tín ở nông

thôn thì được thành thị đón nhận rất nhanh, và nhanh chóng biến tướng, cải

biên đi. Khi cái mê tín ở nông thôn được tiếp nhận bằng con mắt và lối sống

thị dân, thì nó ghê lắm” [28, tr.94]. Là sự đánh giá về hiện trạng uống rượu

bia của con người mà Huỳnh Dũng Nhân đề cập trong Dân nhậu, theo ông

thì: “Nhậu nhẹt là bi kịch của bản thân mỗi bợm, mỗi gia đình cũng góp phần

hủy hoại lối sống và sức khỏe của con người Việt Nam, tác động xấu đến mọi

sinh hoạt trong xã hội” [17, tr.224].

Nằm trên trục vận động của xã hội, đất nước, con người theo thời gian thì

sự phát triển của cái tôi trong phóng sự giai đoạn từ sau 1975 đến nay cũng là

một quá trình, một bước đi có sự khác biệt so với giai đoạn 1930 - 1945. Nếu

như trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng ta thấy nhân vật tôi dấn thân vào

lòng sự kiện đã mang đến cho người đọc cảm giác nhập cuộc và điểm nhìn từ

bên trong rất đắc dụng. Nhân vật tôi này vừa là môi giới giữa hiện tượng được

mô tả vừa đảm nhận nhiều vai diễn đa dạng và đa năng thì cái tôi trong phóng

sự thời đại cũng là cái tôi của sự dấn thân nhưng đằng sau đó luôn có cái nhìn

trầm tĩnh, sâu sắc, có sự thấu hiểu, cảm thông như Huỳnh Dũng Nhân trong

Câu chuyện về hai nạn nhân AIDS: “Chuyện về ông cũng như bao nhiêu nạn

nhân khác của HIV/AIDS. Họ lao vào con đường hút chích bằng một hoàn

cảnh riêng tư, đặc biệt, tuyệt vọng nào đó” [17, tr.17] hay với Góc tối thành

90

phố Cảng tác giả nhập cuộc và nhìn nhận vấn đề bằng cả tấm lòng nhân ái:

“Ở đây, có thể hiểu thêm được mặt trái của đất cảng, biết và cảm thông hơn

với những người bị coi là dưới đáy xã hội” [17, tr.110].

Điểm nhấn giúp ta khu biệt giữa các tác phẩm phóng sự chính là “cái tôi

thẩm định hiện thực mang tính chủ quan”. Vũ Hữu Sự bằng vốn hiểu biết sâu

rộng trong nhiều lĩnh vực đời sống với lối quan sát tinh tế, thấu đáo nhân tình

thế thái, ông kết luận trong phóng sự Tết nhà quê rằng: “Gói quà với người

thành phố, chẳng biết tự bao giờ đang có nguy cơ bị tước bỏ hoàn toàn ý

nghĩa tình cảm, giơ ra nhớp nhúa một thứ giá trị vật chất, lấy đồng tiền làm

quy chiếu một cách sòng phẳng, lạnh lùng” [27, tr.265]. Cái tôi trong tác

phẩm của ông luôn hướng đến khái quát thực trạng, chiếm lĩnh hiện thực ở

thế trực tiếp nhất để từ đó đưa ra những nhận định về hiện thực, những lý giải

nguyên nhân lẫn kết quả cho những “căn bệnh trầm kha” của xã hội qua tác

phẩm Những nẻo đường thuốc phiện: “Thuốc phiện bao giờ cũng là sự khởi

đầu cho các loại tội phạm hình sự khác. Trộm cắp, cướp của, giết người, trấn

lột, lừa đảo” [28, tr.129], “thuốc phiện là điểm khởi đầu và nhà tù là điểm kết

thúc cái vòng quay tuyệt vọng cho những ai dại dột” [28, tr.129] và “nghiện

ngập, cũng như các tệ nạn khác, cũng có nguyên nhân xã hội của nó” [28,

tr.134]. Đồng thời cái tôi trong phóng sự còn là sự định hướng, đề xuất những

giải pháp hay gửi gắm những ước mơ, nguyện vọng vì một ngày mai tốt đẹp

hơn. Huỳnh Dũng Nhân với cái nhìn cảm thông chân thành, không ồn ào góc

cạnh, cứ trầm tĩnh, nhẹ nhàng, sâu lắng đánh thức hiện thực xã hội, đánh thức

nhìn nhận của mọi người, gợi mở hướng đi mới đối với số phận của những cô

gái trong Lụ man tang - những cô gái có con ngoài giá thú: “Nên chăng,

Đảng và Nhà nước có thêm những chế độ, chính sách cụ thể (về luật hôn nhân

và gia đình) đối với những trường hợp không ít và không phải là ngoại lệ này.

Và cũng cần ưu tiên chuyển vùng đối với những người đã phục vụ lâu năm ở

91

vùng cao để tạo điều kiện cho họ có thể thay đổi hoàn cảnh. Về mặt phân

công lao động nên chăng tính đến cả yếu tố “có tre có trúc” ngay từ khi quy

hoạch một vùng kinh tế mới nào đó” [17, tr 43]. Vũ Hữu Sự trong cái nhìn

sâu sắc, thấu đáo đã không lên án những người va vào nghiện ngập, theo ông

trong Những nẻo đường thuốc phiện thì: “Điều căn bản là phải tiêu diệt cái

căn nguyên làm nảy sinh nạn nghiện hút. Tức là đẩy được nền kinh tế lên,

phải lành mạnh hóa xã hội và phải nâng cao được dân trí” [28, tr.134].

Ta nhận thấy cái tạo nên tính độc đáo, ngoài chính bản thân hiện tượng, là

sự phát hiện vấn đề với cách xử lý riêng. Đây là một trong những yếu tố góp

phần tạo nên sức sống của tác phẩm lẫn phong cách tác giả trong lòng độc

giả. Cái tôi trong phóng sự thực chất là cách nhìn, ngắm, cách cảm nhận rất

riêng của mỗi tác giả nhờ vào khả năng phát hiện, độ nhạy cảm, bề dày kiến

thức, kinh nghiệm, nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ, chính xác, trữ tình mang

dấu ấn đặc thù cá nhân, không lẫn lộn với những tác giả khác. Nhân vật tôi

phải có trách nhiệm nhân chứng, phải tham gia, phải vào cuộc, phải thể hiện

chính kiến. Cái tôi lập nên một kênh thông tin trong phóng sự và thông tin đó

cần được chia sẻ, được kiểm chứng, được chiêm nghiệm.

Cái tôi tác giả trong phóng sự là sự pha trộn trong việc tạo ra những giá trị

của tác phẩm. Cái tôi nhân chứng, cái tôi trần thuật, cái tôi thẩm định, cái tôi

cảm xúc. Đất nước ta đi vào công cuộc đổi mới, phát triển trên mọi lĩnh vực

kinh tế, văn hóa, tư tưởng thì phóng sự đòi hỏi phải có những thay đổi để

thích ứng với thời đại, “tính chất phóng sự đã trưởng thành trọn vẹn đi đúng

quỹ đạo đặc trưng của thể loại”. Cái tôi tác giả sẽ rất vô vị nếu chỉ dừng ở

mức người trần thuật và chứng kiến đơn thuần như một người đi đường nên

phóng sự có giá trị phải mang đậm dấu ấn của tác giả có chính kiến, nêu lên

những kiến nghị, đề xuất những giải pháp. Đó là một cách khẳng định lao

động nghiêm túc, đồng thời cũng là sự khẳng định trực tiếp trách nhiệm của

92

cá nhân trong thời buổi xã hội yêu cầu ngày càng cao về trách nhiệm xã hội

của nhà báo.

3.1.2. Cái tôi với giọng điệu phong phú

Cái tôi luôn gắn liền với giọng điệu, lí lẽ. Xuất phát từ đối tượng mà tác

phẩm đề cập, giọng điệu phóng sự trong giai đoạn này rất riêng, sinh động và

nhiều sắc thái tùy thuộc vào “góc bấm máy cuộc sống” của những nhà phóng

sự. Có khi nghiêm túc, lý lẽ, hài hước, châm biếm và có khi lại tràn đầy cảm

xúc. Đồng thời nó là yếu tố đặc trưng cho cái tôi trần thuật của tác giả trong

tác phẩm, giúp ta nhận ra tác giả mà không cần diện kiến. Giọng điệu là thái

độ, tình cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của nhà văn với hiện tượng được

miêu tả thể hiện trong lời văn quy định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc

điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần, thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca

hay châm biếm.

Qua giọng điệu ta có thể nhận thấy tất cả chiều sâu tư tưởng thái độ, vị

thế, phong cách, tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo

của người nghệ sỹ. Viết về hiện tượng nhố nhăng trong xã hội như trong

phóng sự Khi “đốc chó” lên ngôi, Vũ Hữu sự bằng giọng châm biếm đã bày

tỏ thái độ phê phán quyết liệt: “Anh giàu chơi chó, anh nghèo nhờ nuôi chó

mà khá lên. Với những anh này, bố mẹ ốm có khi còn chểnh mảng thuốc men,

chứ “chàng” hay “nàng” chó mà hu hi là cả nhà xanh mắt, là cuống quýt, là

héo người đi ngay – Con chó bây giờ là đầu cơ nghiệp, chó đẻ ra vàng, ra ti

vi, tủ lạnh, ra đủ thứ,…” [27, tr.99]. Giọng điệu của nhân vật tôi luôn chứa

đầy “sự nhức nhối của trí tuệ”. Nó hiện diện như một bản sao của chủ thể

sáng tạo vừa thương đời, thương người như Vũ Hữu Sự qua Những gánh

hàng rong khi viết về kiếp người bán hàng rong: “Không thể bút nào, giấy

nào mà kể hết bao nhiêu là số phận. Chỉ biết rằng đấy là những con người

93

nghèo khổ. Mỗi miếng ăn của họ đều đẫm mồ hôi. Nhưng là miếng ăn tuyệt

vời lương thiện” [27, tr.169], nhưng cũng vừa ghét đời, ghét cái cơ chế thị

trường phát triển đã làm cho tâm hồn con người, vẻ đẹp truyền thống trong

một cái Tết nhà quê hoen ố, dần bị lãng quên, Vũ Hữu Sự đã phải rất đau lòng

khi chứng kiến cảnh: “Tết đến vợ chồng nó tính toán như con buôn: Nó phải

dò la xem những thằng khác biếu cấp trên những gì. Rồi dự tính thu tiền

mừng cấp dưới bao nhiêu, mình phải “chi lên trên” bao nhiêu” [27, tr.271].

Nhân vật tôi thông qua giọng điệu giàu lý lẽ, lập luận tỉnh táo của lý trí nhằm

truyền đạt cái nhìn thẩm định hiện thực của người cầm bút. Giọng điệu ấy vừa

xuất phát từ điểm nhìn chủ quan, vừa khách quan thông qua tần số đối thoại

theo nhiều chiều, nhiều hướng có thể đem lại “cảm xúc đối nghịch” trong

giọng điệu trần thuật. Trong phóng sự Lụ man tang hay số phận những cô gái

có con ngoài giá thú, Huỳnh Dũng Nhân gặp gỡ và đối thoại với người trong

cuộc, những người khao khát được làm mẹ: “Anh cứ nghĩ mà xem, phụ nữ

không sinh nở như cây không đơm bông kết trái. Chúng tôi là phụ nữ, thèm

được cái quyền làm mẹ… Mà ở vùng cao “ba xu một mớ đàn bà” – đàn ông

đàn iếc chả thèm dòm ngó đến chúng tôi nữa. “Tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn

củ đi làm, ngẩng lên thấy núi, cúi xuống thấy đèo”… ai lấy mình cho khổ.

Nghĩ mà cực anh ạ, bữa cơm một mình ngồi một mâm, ngồi bên nào cũng

lệch” [17, tr.173]. Với giọng trần thuật nhẹ nhàng, mộc mạc của tác giả thông

qua lời đối thoại của nhân vật đem lại cho ta cảm xúc bùi ngùi, đầy thương

cảm cho khát vọng nhân bản, thiêng liêng của người phụ nữ nhưng đồng thời

ta cũng có cảm giác lo lắng cho những hậu quả về sau của hiện trạng “lụ man

tang” này. Đó là nỗi cực nhọc của người phụ nữ phải vừa làm mẹ vừa làm cha

và sự trưởng thành của những đứa trẻ không cha ấy có được trọn vẹn đến nơi

đến chông hay không. Ta lại bắt gặp giọng điệu trần thuật qua lối đối thoại

nhiều chiều, đa tuần suất của Vũ Hữu Sự trong Hàng mã – nghề hái ra tiền,

94

theo như lời anh Sính, nhân vật chính trong truyện thì hàng mã có rất nhiều

loại: “Đây là tiền dành cho dân quê, dân nghèo đói, với loại người nghèo tiền

dương gian này, thì tiền âm phủ phải rẻ, in ấn thế nào cũng được” và “trừ tất

cả mọi chi phí, một triệu mình được từ ngàn rưỡi đến hai ngàn. Kể ra chẳng

đáng bao nhiêu, nhưng mà sống được là ở loại tiền này”. Thuận theo tâm lí

của con người: “Càng nghèo đói càng cầu cúng khỏe” thế nên “vì sao bây giờ

tiền âm phủ bây giờ lại tràn ngập các sạp hàng từ nông thôn đến thành thị.

Mỗi năm ước tính có hàng ngàn tấn giấy đốt ra tro” [28, tr.86]. Giọng trần

thuật rành mạch nhưng ẩn đằng sau là thái độ không đồng tình cho những mê

tín quá đà khiến con người vung tiền hoang phí.

Nhân vật tôi trong phóng sự luôn nhập cuộc, vượt lên sự kiện để bình giá,

thẩm định, có chính kiến để tạo cho mình giọng điệu riêng, bản sắc riêng cho

những đứa con tinh thần của họ. Trong phóng sự hiện đại, giọng điệu bộc lộ

qua sắc thái biểu cảm như: từ ngữ, cách tổ chức câu chữ, giọng văn và có mối

liên hệ trực tiếp với bản sắc và vai trò của nhân vật trần thuật. Giọng điệu là

sự mở rộng của cảm hứng, tiết tấu, của cảm xúc và sự phân tích xác đáng

thấm đậm tính nhân đạo, lòng vị tha là không có giới hạn. Mỗi một phóng sự

phải có một giọng điệu riêng để phù hợp với “vùng hiện thực” mà tác giả đề

cập. Có thể là giọng điệu dân dã mộc mạc trong những trang viết miêu tả, lý

giải, cắt nghĩa hiện thực, cuộc sống sinh hoạt. Giọng điệu này phổ biến ở các

đoạn miêu tả, kể lại hay bình luận, đánh giá giúp tác giả trần thuật một cách

dễ dàng với lời văn gần như văn nói khi viết về cuộc sống vất vả của người

dân. Ta dễ dàng tìm thấy giọng điệu này trong các phóng sự của Huỳnh Dũng

Nhân như Cao Bằng mùa hạt dẻ, tác giả cứ trải lòng mình mộc mạc, chân

tình: “Mảnh đất truyền thống cách mạng Cao Bằng đang vật lộn, xoay xở để

tự nuôi mình. Thị xã Cao Bằng là một trong những nơi nghèo nhất mà tôi đặt

chân đến” khi rời Cao Bằng, tác giả không khỏi nghĩ suy: “Cao Bằng với một

95

bịch hạt dẻ trong túi hành lý. Quá ít để làm quà. Nhưng quá nhiều để ước mơ.

Ngày xưa cô bé Lọ Lem chỉ cần có ba hạt dẻ là đủ để mơ ước cho cả cuộc

đời” [15, tr.65], với sự trải nghiệm trong Hai giờ dưới lòng đất là: “Tôi đã

thấy tận mắt vài trường hợp có đôi ủng rách, đôi tay trần ứa máu trong than

đá, vắt xôi đậu cứng quèo gọi là bồi dưỡng giữa ca, thùng nước vẫn đục bụi

than, một chiếc nút áo đứt tung phải buộc tạm bằng dây mìn… Tôi đã tạm

hiểu thế nào là cuộc sống của những người ăn trên than, đi trên than, ngủ trên

than, lam lũ suốt ngày mà hai bàn tay họ không có một tài sản gì giá trị” [17,

tr.70]. Giọng trần thuật dung dị nhưng rơi vào lòng độc giả bao nỗi cơ cực,

vất vả của những người lao động. Cũng có khi giọng điệu đôn hậu, ấm áp,

chân tình. Đây là giọng điệu ẩn mình bên trong câu chữ. Giọng điệu này thể

hiện rõ một tình cảm thiết tha, một tấm lòng đôn hậu, sự thông cảm sâu sắc

với những số phận éo le, bất hạnh của nhà văn. Đó là những trang văn viết về

cuộc sống hẩm hiu, duyên phận éo le,… Tôi đi bán tôi của Huỳnh Dũng

Nhân: “Dường như tất cả những chàng trai lực điền ấy đều cam chịu số phận

làm thuê. Khát vọng sống của họ tồn tại được từ hình ảnh vợ con đang chờ

đợi chén cơm họ mang về. Họ có thể nhẫn nhục bỏ qua mọi bất công đối với

mình để có “hai ngàn đồng mua được bốn bò gạo ăn cả ngày” [17, tr.112].

Không thể vắng giọng điệu khắc khoải xót thương cùng với cái nhìn cảm

thông, đồng cảm, chia sẻ với những mảnh đời bất hạnh như Nỗi đau không

của riêng ai, Huỳnh Dũng Nhân đã ghi lại giây phút đau lòng của những

người chứng kiến người thân bị tai nạn: “Người mẹ trẻ ấy hôm nay đã trở

thành góa bụa. Đứa bé ấy mồ côi đúng hôm cháu ra đời. Sự thật mới tàn nhẫn

làm sao” [15, tr.104]. Nguyễn Quang Vinh bằng cái nhìn đầy lòng nhân ái qua

Phận gái, đời sông: “Sông Lam vẫn rứa, vẫn xanh rứa, vẫn yên ả rứa và cả

cây cầu Bến Thủy kia nữa, lực lưỡng vắt qua dòng sông. Nhưng có hai thân

phận, hai phận đời với bao nỗi gian truân đã nhiều năm qua khỏa tay xuống

96

dòng sông này vớt những xác chết nổi trôi không toan tính, không vụ lợi, chỉ

mong làm thêm một điều tốt trong cuộc đời” [18, tr.108]. Với những cây bút

chuyên mảng khám phá cuộc sống đời thường thì giọng điệu trữ tình sâu lắng

được tạo ra bởi những triết lý đậm chất thế sự, nhân tình thế thái luôn xuất

hiện dày đặc. Quan sát tinh tế khi có cuộc Hành trình đến xứ sở Hansen,

Huỳnh Dũng Nhân nhận ra rằng : “Tôi rưng rưng khám phá ra rằng chính nơi

đây tình người trở nên bao la nhất” [17, tr.167]. Khi ghi lại cảnh Vượt lên số

phận, Xuân Quang thấy cuộc đời đẹp hơn: “Chứng kiến hạnh phúc bình dị mà

sâu sắc của họ, tôi chợt nhận ra rằng, nếu biết hy sinh cho nhau con người vẫn

có thể hạnh phúc ngay cả lúc tuyệt vọng nhất” [18, tr.96].

Giọng điệu phong phú ẩn đằng sau tâm hồn giàu cảm xúc của cái tôi trong

phóng sự là một trong những biểu hiện của tính văn học trong phóng sự thông

qua cách hành văn. Giọng điệu là cách thể hiện đa dạng, sinh động thái độ của

tác giả trước sự thật mà qua đó tác giả có thể đề xuất, trình bày những ý kiến

chủ quan mà vẫn không tạo cảm giác cho sự áp đặt. Mỗi giọng điệu bộc lộ

những cung bậc cảm xúc khác nhau của tác giả.

3.2. Tăng cường tính thông tin thời sự, giảm thiểu về dung lượng Đất nước, xã hội luôn trong thế vận động với những bước thăng trầm khác

nhau trong mỗi giai đoạn. Chiến tranh kết thúc, đi qua giai đoạn đầu với nhiều

khó khăn khi phải đối diện với hậu quả chiến tranh, đất nước ngay sau đó đã

kịp chấn chỉnh, phát triển, vươn lên. Trong nhịp sống hiện đại, con người có

nhu cầu nắm bắt thông tin nhanh và chính xác nhất. Vì thế phóng sự từ sau

1975 đến nay đã tăng cường tính thông tin thời sự và dung lượng tác phẩm có

sự giảm thiểu rõ rệt.

97

3.2.1. Sự tăng cường tính thông tin sự kiện

Tăng cường chất lượng thông tin là xu hướng chung nhằm đáp ứng kịp

thời nhu cầu của thời đại. Tăng cường chất lượng thông tin được hiểu là yêu

cầu phải được tiến hành từ nội dung đến hình thức. Xuất phát từ cuộc sống đa

dạng, con người cần nắm bắt thông tin nhiều chiều trong khoảng thời gian có

hạn mà phóng sự phải làm sao chứa đựng, chuyển tải được những vấn đề của

cuộc sống một cách tối ưu nhất. Phóng sự đi sâu khai phá mọi đề tài trong

cuộc sống từ tệ nạn xã hội, những vấn đề mới trong xã hội đến những gương

người tốt, việc tốt,...

Nếu như phóng sự 1932 - 1945, có sự xâm nhập của nghệ thuật tiểu thuyết,

yếu tố truyện đậm đặc trong từng tác phẩm. Theo tiến trình phát triển của

phóng sự, yếu tố truyện trong phóng sự có sự thay đổi kịp thời cung cấp những

tri thức, những thông tin cần thiết nhằm thoả mãn nhu cầu nhận thức của người

đọc hiện đại. Chất truyện trong phóng sự thời kỳ đổi mới chủ yếu được thể hiện

qua ngôn ngữ giàu hình ảnh, nghệ thuật hư cấu và cái tôi nhân chứng, khách

quan giàu cảm xúc. Vì vậy cốt truyện và con người xuất hiện với tư cách là

nhân vật hoàn chỉnh hầu như vắng hẳn trong giai đoạn từ 1975 về sau này.

Phóng sự thời kỳ đổi mới đa số không có cốt truyện, được xây dựng theo kiểu

kết cấu liên tưởng có sự liên kết giữa sự kiện, số liệu, con người và cảm quan

của tác giả. Mỗi vấn đề gồm nhiều sự kiện độc lập, vậy nên sự kiện là chất

liệu chính (Một em bé bị voi quật chết không được vào lớp một, đàn voi

Xuyên Mộc thay đổi bản tính,…). Tài năng của chủ thể trần thuật thể hiện ở

khả năng nối kết các sự kiện và làm cho các sự kiện sống dậy và sự kiện ấy

được tinh giản hóa, cô đúc hóa, chỉ giữ lại cái cốt lõi và thể hiện ở dạng điển

hình nhất. Trong phóng sự Voi ơi ta bảo voi này, với chi tiết đắt giá được tác

giả nhắc lại đầy xúc động rằng khi đàn voi bị sa lầy được con người cứu thì:

“Chúng bỏ đi, không vội vã, thậm chí còn gục gặc đầu như tỏ lòng biết ơn. Và

98

chúng cũng không đi ngay khi chưa kéo xác con voi bị chết lên” [17, tr.198] thì

ta tin rằng voi không chủ ý sát hại con người trên đường kiếm ăn của chúng.

Để giải thích cho bản tính thay đổi của voi khi nó tàn sát con người thì Huỳnh

Dũng Nhân chỉ rõ nguyên nhân chủ yếu nhất là: “Vì con người phá rừng, triệt

phá nơi ăn ở của chúng” và thêm nữa “nạn bắn voi lấy ngà đã tiêu diệt rất nhiều

voi đực. Một đàn voi không có voi đực là đứng trước nguy cơ bị hủy diệt. Mất

cân bằng sinh lý khiến đàn voi đổi tính, trái nết, trở nên dữ tợn” [17, tr.201].

Không miêu tả chi tiết hình dáng, tính cách nhưng với phác họa tạo hình cùng

cách sử dụng từ ngữ giàu giá trị Vũ Hữu Sự đã cho ta hình dung được số phận

của những cửu vạn trong Những kẻ lưng trần biên giới, những con người còm

nhom, khắc khổ phải vật sức vì miếng ăn “ở đất biên giới này, miếng sống đã

hút hết sinh lực của những người muốn sống” [28, tr.32].

Con người luôn là nguồn cảm hứng mà không ngòi bút phóng sự nào

không hướng đến. Đặc biệt phóng sự trong thời hiện đại có sự giao thoa với

thể loại ký chân dung. Nhiều chân dung con người xuất hiện trong phóng sự

rõ nét. Tuy nhiên, nếu cuộc đời con người trong phóng sự 1932-1945 được

phản ảnh trọn vẹn từ nguồn cội cho đến các diễn biến tính cách, các mối quan

hệ, phóng sự giai đoạn này, con người “chỉ được phác hoạ ở những nét đặc

trưng mang đậm dấu ấn của bút pháp đặc tả”. Bị chi phối bởi yêu cầu thông

tin thời sự, phóng sự không có điều kiện xây dựng nhân vật hoàn chỉnh như

nhân vật của truyện ngắn và tiểu thuyết. Nhân vật xuất hiện bằng vài nét bút

phác họa, ghi lại những biến cố, những dấu ấn quan trọng trong cuộc đời nhân

vật. Còn những diễn biến tính cách và đời sống nội tâm được ống kính phóng

sự lướt qua. Nghĩa là phóng sự không có điều kiện đi sâu vào thế giới nội tâm,

khắc hoạ tính cách nhân vật. Con người trong phóng sự là con người của hành

động. Hành động phác họa tính cách nhân vật, đó là hình ảnh của Bà còng đi

chợ ống tiêm (Phạm Việt Thắng), của hai vợ chồng ông Ngùy trong Mỗi ngày

99

một vạn bước (Nguyễn Quang Vinh),… Họ đều là con người của hành động,

ở họ không có sự chuyển biến của nội tâm mà chỉ có việc làm khiến cho họ

tỏa sáng và sống mãi trong lòng người đọc. Trong phóng sự có chi tiết mang

tính điển hình và tính biểu cảm thể hiện được phẩm chất nhân vật, vẽ ra cuộc

sống, vẽ ra sự kiện ở bề sâu nhất. Chẳng hạn trong tác phẩm Trường Sa đất

Việt của Đỗ Bạch Mai chỉ với chi tiết kể về “một chiến sĩ đã tình nguyện ở lại

trực thay đồng đội” khi có văn công biểu diễn vì đồng chí nghĩ rằng: “Tháng

sáu tới em đã ra quân, còn anh lâu mới được về đất liền, em nhường anh đi

xem văn công” [29, tr.156]. Thế ta mới hiểu được tại sao những người lính có

thể sống và chiến đấu rất hiên ngang dù trong hoàn cảnh nào. Ở họ lúc nào

cũng đong đầy tình đồng đội. Việc tái hiện những chi tiết sự việc một cách

sinh động chính là một trong những thế mạnh của phóng sự. Khi nói đến việc

tăng cường chất lượng thông tin, cần phải coi đó là sự phát triển toàn diện. Sự

đổi mới nghệ thuật xây dựng nhân vật trong phóng sự góp phần hạn chế chất

truyện, đưa phóng sự trở về với đúng đặc trưng thể loại. Tuy nhiên, để chứng

minh cho một vấn đề nào đó cũng có một vài trường hợp, phóng sự đi sâu

khai thác trọn vẹn số phận nhân vật, nhưng rất ít.

Văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Thế giới chủ quan

là khuynh hướng, là thái độ thẩm định của tác giả đối với hiện thực. Ở phóng

sự, tính khuynh hướng bộc lộ trực tiếp qua ngôn ngữ trữ tình và chính luận

của cái tôi trần thuật. Huỳnh Dũng Nhân đã mở đầu cho phóng sự Con đường

bia bọt bằng ngôn ngữ đẫm chất trữ tình: “Người ta có nhiều thứ để yêu. Yêu

trăng, yêu biển, yêu sông, yêu núi. Còn tôi, tôi đã có thời yêu say mê con

đường. Đó là con đường Thi Sách của tôi… Con đường rất dễ thương. Nó

ngắn thôi, cảm giác như đầu đường cuối phố đều là hàng xóm. Nó yên tĩnh

đến nỗi khi lá rơi có thể nghe: tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng” [17,

tr.77]. Hay như hình ảnh đẹp Người phụ nữ Mông đến Mỹ được Trương Hữu

100

Thêm miêu tả với ngôn ngữ đầy chất thơ: “Bỏ dở bát rượu ngô màu vàng

thơm phức, vừa được hâm nóng khéo léo bởi bàn tay chai sạn của người phụ

nữ Mông Hoa – một người phụ nữ hết mực hiếu nghĩa, thủy chung, đảm đang,

thông minh và giàu nghị lực – tôi bồi hồi mở cửa rồi như những người mộng

mị, lững thững bước ra sân. Xa xa, những làn sương sớm đang tràn xuống

thung lũng Tà Lèng khoác lên mỗi mái nhà một tấm khoăn voan trắng mờ,

mềm mại. Từ trong mênh mang gió núi, tôi nghe văng vẳng đâu đây một điệu

khèn Mông. Ừ nhỉ, 14 năm trước vào một mùa xuân y hệt mùa xuân này, có

chàng trai Mông Trắng ở bản Tà Leng đã chinh phục được cô gái Mông Hoa

ở bản Pú Nhi, cũng chính bằng những tiếng khèn tha thiết như vậy…” [18,

tr.60]. Đa số ở các phóng sự, nhu cầu chính luận và trữ tình của chủ thể trần

thuật cần thiết đến mức phá vỡ khả năng tổ chức cốt truyện của chất liệu hiện

thực. Nỗi buồn thăm quê, Vũ Hữu Sự kết luận cho những thói quen lạc hậu

vẫn đang tồn tại ở thôn quê: “Nhịn ăn chứ không nhịn nhục! Tâm lý người

làng tôi là thế, hàng trăm năm nay vẫn thế. Chỉ có điều cái nhục ở đây không

phải là nhục với thiên hạ mà là cái nhục quẩn quanh trong làng xóm; Nhục vì

đám cưới con mình không bằng đám cưới con hàng xóm… Cứ thế mà nhịn

ăn, cứ thế mà nhịn mặc” [28, tr.67] và “nhà nhà chỉ lo tích thóc. Có vài tấn

thóc trong nhà mình đã gọi là giàu. Mọi thứ đều quy ra thóc. Đám cưới: Vài

tấn thóc, đám ma: dăm tấn thóc, mỗi đứa con đi học một năm: vài tạ

thóc,…Thóc! Thóc! Thóc! Tư duy của người làng tôi là tư duy thóc” [28,

tr.68] theo tác giả đó là “cái tư duy cùn mòn, khư khư bám lấy hạt thóc làm

căn bản đã làm cho họ rụt lại” [28, tr.68]. Trong cảm nhận của Thanh Giang

qua Bên hồ sen là: “Phải là, hằng quằn quại chịu đựng nỗi đau thân xác,

nhưng đến chết là cùng. Song nỗi đau tinh thần, bao hàm trách nhiệm tinh

thần, không có giới hạn tận cùng. Nó làm tê tái tâm hồn suốt cả đời người,

101

đến chết vẫn không nguôi! Đặc biệt nó còn di chứng, truyền nhiễm nhiều đời

sau!” [29, tr.85].

Sự tăng cường thông tin sự kiện phải được xem là sự tăng cường theo

chiều sâu vấn đề tức là chất lượng thông tin. Thông tin sự kiện trong phóng sự

phải là vấn đề có tính thời sự nóng bỏng, có sức hấp dẫn dư luận (vợ hờ, con

nuôi, nạn khai thác rừng, vàng trái phép, những đàn voi đang đứng trước nguy

cơ tiệt chủng,…). Chất lượng thông tin sự kiện ấy không đơn thuần là cung

cấp, trình bày một vấn đề, một tình huống trong cuộc sống mà nó còn có tác

dụng tạo nên hiệu ứng xã hội, thông qua nó nhằm thúc đẩy nhận thức con

người, xây dựng và cải tạo cuộc sống theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Theo như

nhận xét của Huỳnh Dũng Nhân trong Kính thưa osin: “Đây có thể là một

nghề rất nghiêm chỉnh, nên có trường lớp đào tạo đàng hoàng. Nhìn từ góc độ

việc làm thì nghề này có thể giải quyết rất nhiều nguồn lao động cho các vùng

quê đang bị đô thị hóa và khan hiếm việc làm. Nếu như được đào tạo đàng

hoàng và làm tốt, thì nghề giúp việc nhà đâu có phải là hèn kém” [17, tr.357].

Hay Phận gái, đời sông, tác giả Nguyễn Quang Vinh gửi gắm: “Tôi thầm

mong những ai đó trên cuộc đời này cảm thông và chia sẻ với cha con chị

Nguyệt, đỡ tay đỡ chân cho họ gây dựng lại một nếp nhà cho các cháu nhỏ ấm

êm một chỗ trú chân” [29, tr.109]. Lên hang luyện văn, Hoàng Quảng Uyên,

thay lời kết bằng việc trích dẫn lời nhắc nhở của Tổng Bí thư Nông Đức

Mạnh: “Cần chăm lo khuyến khích các tài năng trẻ ngay từ trong nhà trường,

giúp đỡ những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn trong đời sống, để mọi thanh

niên có ý chí và năng khiếu ở mọi vùng của đất nước, thuộc mọi dân tộc đều

có thể thành đạt tới học vấn bậc cao…” [29, tr.47]. Việc nói thẳng nói thật

mà Đảng ta chủ trương kể từ Đại hội lần thứ VI đã tạo bệ phóng cho phóng sự

phát huy được đặc trưng thể loại. Các cây bút phóng sự đã không ngần ngại

dấn thân tìm đến mọi ngõ ngách của hiện thực mà khai phá những vấn đề, sự

102

kiện mà trước kia họ không có điều kiện đề cập tới. Đó là số phận bất hạnh

người lính, những bất công trong đời sống, xã hội, những con người bất hạnh,

cơ khổ.

Với sở trường đáp ứng nhanh nhạy thông tin thì thể phóng sự phải nắm

bắt cuộc sống một cách tinh nhạy nhất. Đặc biệt là phải phát hiện, khai thác

được những vấn đề mới của xã hội. Những vấn đề mà thậm chí nó chỉ mới

mang hình hài là một sự nhen nhóm, một mầm ươm. Chẳng hạn vấn đề nảy

sinh từ việc uống rượu trong Dân nhậu, Bia ôm trên từng cây số mà Huỳnh

Dũng Nhân đã có cảnh báo rằng: “Trong thời gian rằng đây, báo chí thường

nêu ra sự nguy hiểm của AIDS, ma túy, mại dâm… nhưng tôi thấy có vẻ như

nạn nhậu nhẹt vẫn gây ra nhiều tác hại hơn cả, ít ra là trong lúc này. Đã có

nhiều chỉ thị hạn chế và cấm say rượu, nhưng cái nạn uống trộm và bét nhè,

say công khai vẫn là chuyện thường ngày ở bất cứ nơi nào trên đất nước vừa

tạm thời đủ ăn này. Đó thật sự có thể coi là quốc nạn chưa?” [17, tr.225].

Không chỉ khai thác những thông tin sự kiện mang tính mới lạ là phóng sự

đã thành công mà phóng sự ấy còn phải tái hiện nó sinh động, chuyển tải

được thông điệp của tác giả. Đúng như Đức Dũng trong Phóng sự báo chí

hiện đại đã cho rằng: “Để có thể viết được những tác phẩm phóng sự báo chí

đáp ứng được những nhu cầu đa dạng của công chúng hôm nay, các tác giả

cần phải có sự nhạy bén nghề nghiệp để có thể khám phá, phát hiện những

vấn đề của đời sống” [5, tr.71].

3.2.2. Sự giảm thiểu về dung lượng, số trang

Nguyên nhân của việc thu hẹp kích thước dung lượng phóng sự là do sự

bùng nổ thông tin, là do “tốc độ phát triển nhanh chóng hàng ngày hàng giờ

của cuộc sống hiện đại, còn có nguyên nhân khác xuất phát từ nhu cầu của

công chúng” mà tác giả phóng sự phải tính toán dung lượng phù hợp sao cho

103

công chúng tiếp nhận được lượng thông tin nhiều nhất trong một thời gian tiết

kiệm nhất. Đây là sự thay đổi phù hợp với yêu cầu của thời đại.

Xu hướng thu hẹp của dung lượng phóng sự là quá trình thay đổi dần để

thích ứng với hiện thực mà cuộc sống yêu cầu. Đó là hiện thực bề bộn nhiều

vấn đề mà yêu cầu phóng sự phải nắm bắt, bao quát toàn bộ vấn đề, sự kiện.

Cho dù có sự thay đổi như trên về dung lượng nhưng phóng sự vẫn đảm bảo

được đặc trưng phản ánh cũng như giá trị của thể loại. Mặt khác, để đáp ứng

yêu cầu thông tin ngắn gọn, nhanh nhạy của người đọc, kích thước phóng sự

bó lại, phóng sự chỉ chọn, phản ảnh những sự kiện, con người điển hình nhất,

có ý nghĩa khái quát nhất nên không có điều kiện xây dựng thành một cốt

truyện hoàn chỉnh. Sự co ngắn về mặt dung lượng của thể loại này là cả một

quá trình chứ không phải là một hiện tượng đột xuất đơn lẻ. Nếu như trước

đây, trong những phóng sự của Tam Lang, Nguyễn Đình Lạp, Vũ Trọng

Phụng,… có dung lượng trên 50 trang thì hiện nay, phóng sự có khuynh

hướng ngắn lại, thường không dài quá tới vài chục trang. Ta sẽ nhận thấy điều

này rõ hơn qua thống kê sau:

Giai đoạn 1930-1945

Tác phẩm Tác giả Tác phẩm Từ sau 1975 Tác giả

Số trang

Tôi kéo xe Tam Lang 67 Hà Nội mùa Số trang 26

Hoàng Đạo 82 23

61 9

Trước vành móng ngựa Từ ái tình đến hôn nhân Nguyễn Đình Lạp Huỳnh Dũng Nhân Huỳnh Dũng Nhân Huỳnh Dũng Nhân

Xuân Ba 22

97 Xuân Ba 7

Vũ Hữu Sự 5

Cạm bẫy người Kỹ nghệ lấy Tây Cơm thầy cơm cô Vũ Trọng Phụng Vũ Trọng Phụng Vũ Trọng Phụng nóng nhất Voi ơi ta bảo voi này Ăn tết trong rừng chó sói 189 Người xưa của ta nay Thời mới tội mới 77 Cát bụi đèo Ngang

104

Ngô Tất Tố 98 Vốn tự có Vũ Hữu Sự 5

Việc làng

Phóng sự giai đoạn này thuyết phục người đọc bằng sự chính xác, linh

hoạt, ngắn gọn, không bay bổng như trước đây. Đó là sự năng động của thể

loại để thích ứng với cuộc sống đa dang nhiều chiều. Ưu thế trình bày diễn tả

sự thật có bề dày và chiều sâu nhất. Từ những đặc điểm của đời sống hiện đại

với toàn bộ sự phong phú, đa dạng và bề bộn. Song song với yêu cầu phải thu

hẹp kích thước dung lượng thì phóng sự vẫn phải đảm bảo đặc trưng thể loại

là tăng cường chất lượng thông tin trong một tác phẩm. Chất lượng thông tin

được biểu hiện nhiều trên cả mặt nội dung lẫn hình thức tác phẩm. Yêu cầy

này bắt nguồn từ chính cuộc sống vốn đa dạng, nhiều chiều, phức tạp buộc

phóng sự phải rọi soi, khai phá từ nhiều phía sao cho ra đời một tác phẩm

phóng sự cô đọng, súc tích, giàu hàm lượng thông tin nhất. Chất lượng thông

tin ở đây không đơn thuần là trình bày, phô diễn thông tin ở khía cạnh “chỉ để

biết” mà nó phải là vấn đề, sự kiện, tình huống có sức hút dư luận ở “góc

chụp độc đáo và mới lạ” và quan trọng hơn hết là “những lớp tầng ý nghĩa

nhiều giá trị đối với con người”. Với đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà

nước ta trên tinh thần “nhìn vào sự thật” để “nói thẳng, nói thật” đã tạo cơ sở

cần thiết, động lực mạnh mẽ để phóng sự “sống dậy và phát huy sở trường

đúng với đặc trưng thể loại” trong quá trình phát triển, hòa nhập, hiện đại hóa

của đất nước. Trong bối cảnh mới đó đã cho phép những người cầm bút nhìn

nhận về những sự thật của đời sống. Đời sống với bức tranh muôn màu muôn

vẻ, có mảng sáng mảng tối, có mảng tiêu biểu, điển hình mà những người

cầm bút bằng cả lương tâm và trách nhiệm thì không thể không “lật tung” nó

lên. “Văn học là nhân học”, vốn là thể loại giao nhau giữa văn học và báo chí

thì phóng sự không đi ngoài giá trị bất hủ ấy khi hoàn thành một chỉnh thể tác

phẩm. Hiện thực cuộc sống với những số phận con người trong hoàn cảnh éo

105

le, bất hạnh hay những con người lầm đường lạc lối đang “quằn quại tìm nẻo

về”,…. Không thể bị bỏ quên trong những trang đời đầy ắp tình người, trách

nhiệm và lương tri của những người dấn thân cho sức sống ngòi bút của họ.

Hiện thực ở thời nào, giai đoạn nào cũng đều có bộ mặt riêng của nó với

nhiều vấn đề khác nhau luôn hàng ngày hàng giờ không ngừng nảy sinh trong

cuộc sống. Những vấn đề mới lạ trong giai đoạn mới của xã hội từ sau 1975

đến nay đang được các cây bút phóng sự lưu tâm phản ánh (vấn đề kinh

doanh bằng “vốn tự có”, về nghề “tôi đi bán tôi”, câu chó trộm, đào mỏ, đòi

nợ thuê, con nuôi ...) buộc phóng sự phải tái hiện lại với dung lượng ngắn

nhất. Vượt lên sự tái hiện, mô tả bình thường của mỗi trang phóng sự là thái

độ, quan điểm, cách nhìn nhận, đánh giá, những đề xuất, tâm nguyện của tác

giả gửi gắm đằng sau mỗi câu chữ, mỗi số phận, mỗi cảnh đời mong một xã

hội tốt đẹp hơn.

Thông qua kinh nghiệm, hiểu biết xã hội, tài năng của tác giả quyết định

đến độ dày, sức nặng thông tin. Đó phải là khả năng phản ánh hiện thực ở góc

độ cập nhật vấn đề nóng, sự kiện nóng. Nó được tái hiện có tính khái quát vừa

có chi tiết sống động với những con người và sự việc xác thực. Những con số,

sự kiện, tình huống, con người ấy được coi là nguyên liệu để xây dựng tác

phẩm. Phải có được những luận cứ tiêu biểu, gây ấn tượng mạnh mẽ và phải

cung cấp được những chi tiết sống động. Để công chúng có thể hình dung về

vấn đề, sự kiện, con người … Phóng sự mang lối viết thẳng thắn hơn, mạnh

dạn hơn. Phóng sự mạnh dạn kiến nghị, đề xuất cách giải quyết những vấn đề

và có những đóng góp rất lớn để hoàn chỉnh đường lối, chủ trương cuộc sống.

Phóng sự diễn tả được muôn mặt của đời sống. Là những vấn đề thời sự nóng

bỏng, phản ánh được sự đổi mới.

Một phóng sự chất lượng, thông tin cao là hình thức tương xứng với nội

dung thông tin. Hiện nay nhu cầu nắm bắt thông tin của bạn đọc ngày càng

106

cao, thời gian bạn đọc tiếp cận thông tin ngày càng eo hẹp, diện tích đất đai

bài vở trên các báo không còn nhiều như trước, nhiều tờ báo đã khoanh vùng

lãnh thổ cho phóng sự. Ngắn hơn, nhiều thông tin hơn, gắn với thời sự hơn, ít

cái tôi hơn. Đảm bảo thông tin thời sự xác thực, vẫn có thể có được những

phẩm chất văn học. Dù đã có sự thay đổi đáng kể về mặt dung lượng nhưng

phóng sự báo chí vẫn giữ nguyên được những phẩm giá loại hình của thể loại

này trong quá trình phản ánh cuộc sống hiện đại.

3.3. Sự kết hợp giữa ngôn ngữ văn học và báo chí Phóng sự vừa là thể loại thuộc lĩnh vực báo chí cũng vừa là thể loại thuộc

lĩnh vực văn chương, tùy thuộc vào chức năng của nó mà ta xếp chúng vào

báo chí hay văn chương. Nhưng qua thực tiễn sáng tác và tiếp nhận ta nhận

thấy những phóng sự trụ vững với thời gian, đọng lại trong lòng người đọc

bởi nó chuyển tải được cả ba chức năng: phản ánh, thông tin và thẩm mỹ.

Điều đó cũng đồng nghĩa với cách thể hiện độc đáo của phóng sự, đó là sự kết

hợp uyển chuyển, nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ giàu chất văn học và ngôn

ngữ thông tấn báo chí trong các tác phẩm phóng sự. Đây là một đặc điểm nổi

trội khẳng định ưu thế của phóng sự mà ta không thể không nhắc đến.

3.3.1. Ngôn ngữ giàu chất văn học

Việc sử dụng ngôn ngữ thấm đậm chất văn học trong phóng sự - vốn là thể

tài báo chí – sẽ giúp tác giả diễn đạt trọn vẹn cảm xúc nội tâm, nâng cao chất

lượng phóng sự. Ngôn ngữ giàu chất văn học tức là ngôn ngữ đó phải là ngôn

ngữ có tính biểu cảm, mang tính thẩm mỹ. Những đặc điểm đó được thể hiện

thông qua cách hành văn của tác giả, ngôn ngữ của tác giả, nhân vật. Điều

quan trọng là từ những sự việc tai nghe mắt thấy được tác giả thể hiện trong

tác phẩm phải làm sao truyền đến độc giả những nghĩ suy, cảm xúc, những

trăn trở vui buồn.

107

Ngôn ngữ giàu chất văn học được sử dụng trong phóng sự giai đoạn này

thể hiện qua cách dùng câu chữ ngắn gọn, từ ngữ chính xác, gợi cảm cùng sự

sắp xếp các chi tiết, dữ kiện một cách hợp lý khi tường thuật, miêu tả. Đó là

cách tạo nên những chi tiết đắt giá trong tác phẩm. Cũng như Huỳnh Dũng

Nhân trải qua Hai giờ dưới lòng đất đã tường thuật lại bao nỗi cơ khổ của

công nhân khai thác mổ với những chi tiết sinh động: “Tôi đã thấy tận mắt vài

trường hợp có đôi ủng rách, đôi tay trần ứa máu trong than đá, vắt xôi đậu

cứng quèo gọi là bồi dưỡng giữa ca, thùng nước vẩn đục bụi than, một chiếc

áo bị đứt tung phải buộc tạm bằng dây mìn” [17, tr.13]. Không xây dựng hình

tượng hoàn chỉnh của những người thợ mỏ có cuộc sống đầy vất vả mà thông

qua sự quan sát tinh tế, tác giả đã ghi lại những chi tiết tuy nhỏ nhưng chứa

đựng sức nặng thông tin. Chỉ bấy nhiêu cũng đủ cho ta hình dung rõ ràng, đầy

thương cảm cho những con người nơi mỏ than Mông Dương (Quảng Ninh).

Hay như Vũ Hữu Sự đã ghi lại cảnh cực nhọc của cửu vạn trong Những kẻ

lưng trần biên giới một cách sắc nét: “Thế là cái dòng lũ lượt hàng hóa không

biết là mấy ngàn mấy vạn tấn của cả hai luồng hàng xuôi ngược trên ngót

nghét dăm cây số trồi trụt những dốc đèo này đều trôi trên những đôi vai,

những tấm lưng nhầy nhụa một thứ cao ngào bằng bụi và mồ hôi của đội quân

cửu vạn” [28, tr.24].

Ngôn ngữ giàu chất văn học sử dụng trong phóng sự phải được sử dụng

sao cho linh hoạt, sinh động, giàu hình ảnh và tạo nên dấu ấn tác giả sâu đậm

trong lòng người tiếp nhận. Như Vũ Hữu Sự đã so sánh sức nặng của cơm áo

gạo tiền đã ghì chặt đôi lưng của những cuộc đời cửu vạn trong Những kẻ

lưng trần biên giới: “Miếng sống đè lên vai họ nặng nề như ngọn ngũ hành

sơn của Đức phật Như Lai đè ép năm trăm năm lên mình Tôn Ngộ Không”

[28, tr.28]. Và Nguyễn Quang Vinh qua phóng sự Mỗi ngày một vạn bước

thông qua lời nhân vật tác giả đã phác họa trọn vẹn lòng từ tâm của đôi vợ

108

chồng già ngày đêm giữ gìn vẻ đẹp cho khu Hoành Sơn Quan: “Làm cái chi

mà trong bụng mình thấy vui là làm rứa thôi” [29, tr.33], thế là họ: “Đi là đi.

Bước là bước. Một vạn hay mấy vạn đã đi là tới thôi, tính toán làm chi”

[29,tr.34].

Để tăng cường những phẩm giá văn học trong tác phẩm phóng sự, tác giả

hoàn toàn có thể sử dụng một ngôn ngữ thấm đậm chất văn học với những

biện pháp tu từ, ẩn dụ, so sánh như: vết lăn, vượt cạn, thành phố Cảng, xứ sở

Hansen,... Đó là ngôn ngữ giàu hình ảnh và cảm xúc nhằm hạn chế tính khô

khan, lập luận mang tính chất thông tin của phóng sự khi tác giả cần bày tỏ

quan điểm, thái độ trước thời cuộc. Khi có dịp ra thăm lính đảo Trường Sa,

trước khi miêu tả lại cuộc sống khắc nghiệt mà những người lính nơi đây phải

đối diện, Huỳnh Dũng Nhân với trái tim giàu rung đã vẽ lại bức tranh kỳ vĩ

của biển cả đại dương: “Biển là một tác phẩm thiên nhiên tuyệt vĩ. Không có

màu xanh nào của các họa sĩ có thể nói đúng cái màu xanh của biển, muôn

màu mà không pha tạp, có lúc chỉ thấy biếc, thấy thuyền, thấy thẫm, có lúc

trong vắt đến thấy sờ sợ, đến hoang mang trước tạo hóa” [17, tr.87]. Đôi khi

ông dùng thứ ngôn ngữ có tính tạo hình: “Con đầu đàn đi cuối. Thường thì

bốn con sói chia nhau bao vây một con bò theo chiến thuật “mãnh hổ nan địch

quần hồ”. Nếu phải rượt đuổi một con bò khỏe mạnh trên đường dài, một con

sói sẽ làm nhiệm vụ tiếp tế nước. Nó nhúng mình xuống suối rồi chạy theo

bầy. Mấy con sói mệt và khác sẽ liếm vào lông ướt của nó cho đỡ khát, rồi

truy kích tiếp mấy con bò tận số” [17, tr.133].

Chức năng chính của phóng sự xét chung ở hai bình diện văn học và báo

chí thì nó giữ nhiệm vụ phản ánh – thông tin – thẩm mỹ. Thông qua ngôn từ,

ngữ điệu mang hình ảnh sinh động, giàu cảm xúc, tác giả mới có thể truyền

đạt đến bạn đọc suy nghĩ, cảm xúc, nhận định của mình để họ chia sẻ với

những trăn trở, day dứt, những vui buồn, những trách nhiệm, những câu hỏi

109

chưa có câu trả lời cùng tác giả. Nó tác động một cách tích cực, hiệu quả nhất

đến lý trí và trái tim độc giả. Khơi dậy trong họ lương tri, tình thương nhân

loại, niềm đồng cảm sâu xa giữa người với người vươn tới xã hội nhân ái,

trong sáng, giàu đẹp hơn. Cũng như nỗi niềm của Vũ Hữu Sự khi chứng kiến

thực trạng nghiện ngập ở Hòa Bình, nơi “cửa ngõ Tây Bắc”, sẽ là nỗi băn

khoăn, trăn trở chung của mọi người: “Bình thường lử khử, co ro dúm dó như

cò bợ phải giời mưa, những lúc cơn nghiện nổi lên thì hơn cả kẻ cướp” [28,

tr.126], hay trong Voi ơi ta bảo voi này, Huỳnh Dũng Nhân không khỏi băn

khoăn: “có lẽ tôi cũng sẽ như anh thanh niên nọ, im lặng, đăm chiêu nhìn vào

cánh rừng Bình Châu xơ xác với những thân cây đổ ngang và cháy xém.

Xuyên Mộc còn đâu những cánh rừng già cây lớn mấy người ôm mà 17 năm

trước tôi chứng kiến? Để bây giờ? Một chiến dịch bảo vệ môi trường lớn và

quy mô đến mức con người phải tự nhìn lại mình. Rừng cấm quốc gia mà tiêu

điều trơ trụi như thế là tại vì đâu?” [17, tr.217].

Chất văn chương là công cụ đắc lực nhằm giúp bạn đọc hiểu rõ hơn vấn đề

được nêu ra, từ đó truyền đến bạn đọc suy nghĩ, cảm xúc, nhận định của tác

giả, hấp dẫn độc giả hơn. Đây là thế mạnh của phóng sự, nó được đón nhận

nồng nhiệt, lưu giữ và in lại trong lòng người đọc rất lưu, mang giá trị bền

vững. Phóng sự - mở rộng và đi sâu vào ngóc ngách nhân văn mặt trái mặt

phải của vấn đề trong cuộc sống muôn mặt đời thường. Nhiều nhà báo viết

được phóng sự nhưng muốn thành người viết phóng sự hay cần thiết phải có

chất văn chương. Cũng như trong phóng sự cần thiết có những trích dẫn các

tục ngữ, thành ngữ, sao cho phù hợp nhằm nâng cao chất lượng, giá trị của

phóng sự bởi sự đúc kết cô đọng một cách tinh tế. Các thành ngữ, tục ngữ

giúp dân dã hóa lời văn, mặt khác chứng tỏ người kể chuyện rất am hiểu sự

kiện, con người bởi thành ngữ, tục ngữ không thể dùng tùy tiện mà phải hợp

người, hợp cảnh. Chẳng hạn, thành ngữ được sử dụng với mật độ dày đặc để

110

đưa đẩy, rào đón, hoặc diễn đạt cho sinh động. Trong các phóng sự của

Huỳnh Dũng Nhân, Vũ Hữu Sự, Xuân Ba đều xuất hiện thành ngữ, tục ngữ

như: “tháng ba bà già đi biển”, “tối ăn khoai đi ngủ, sáng ăn củ đi làm, ngẩng

lên thấy núi, cúi xuống thấy đèo”, “chôn nhau cắt rốn”, “đồng tiền khó là

đồng tiền khôn”, “đoạn trường ai có qua cầu mới hay”, “con gà tức nhau tiếng

gáy”, “thay da đổi thịt”, “hậu sơn tiền thủy”, “việc người thì làm ngay, việc

mình thì làm ngơ”,... Huỳnh Dũng Nhân đã thành công trong việc khéo léo

tạo ra những chệch chuẩn mộc mạc, gần với văn học: “Trăm năm bia đá thì

mòn, ngàn năm bia rượu vẫn còn trơ trơ”, “nhậu thì nhậu mà thương thì

thương”, “có anh ba Nhân, vốn thiệt nông dân, ăn nhậu ỳ xèo mà cũng làm

phóng viên”... Điều này đã tạo nên nét hấp dẫn trong phóng sự của Huỳnh

Dũng Nhân. Tác giả sáng tạo từ cái cũ nhưng vẫn thổi vào được một sự mới

lạ, hấp dẫn, khiến người đọc phải bật cười nhưng rồi cũng phải nghĩ suy thật

nhiều.

Phóng sự thời đại nghiêng về báo chí hơn văn học, vì phóng sự là một thể

tài báo chí, thuộc phạm trù báo chí. Và văn học không của riêng ai, văn học

thực hiện được việc diễn tả nội tâm cảm xúc của tác giả. Dùng bút pháp văn

học cho thể loại phóng sự với một liều lượng nhất định hợp lý thì nó nâng

chất lượng phóng sự.

3.3.2. Ngôn ngữ mang tính thông tấn báo chí

Trong phóng sự, người viết có thể sử dụng ngôn ngữ ở nhiều góc độ khác

nhau để biểu đạt nội dung. Vốn là thể loại phản ánh “người thật việc thật”

cùng với yêu cầu của thời đại thì tất yếu ngôn ngữ của phóng sự giai đoạn này

là “ngôn ngữ mang tính thông tấn báo chí”. Đó là ngôn ngữ sự kiện, ngôn ngữ

định lượng. Lối ngôn ngữ đó có tác dụng chiến đấu trực diện khi cần lên án

mặt trái tồn tại trong xã hội.

111

Ngôn ngữ sự kiện là ngôn ngữ bám sát sự kiện có thật và nguyên dạng để

phản ánh. Phóng sự với đặc trưng thể loại là phản ánh người thật việc thật

mang tính thời sự nên tác giả phải phản ánh cái có thật một cách nguyên dạng.

Điều đó dẫn đến không gian và thời gian diễn ra sự kiện phải là: “Không gian,

thời gian vật lý, địa lý hoàn toàn có thể định lượng chính xác” [14, tr.29].

Trong phóng sự Tôi đi bán tôi của Huỳnh Dũng Nhân, ngôn ngữ tác giả được

thể hiện ở ngôi thứ nhất trong không gian cụ thể: “Tôi dừng xe cách chợ

người Giảng Võ (Hà Nội) một quãng, suy tính mãi xem làm thế nào hòa nhập

với họ trong vai cửu vạn. Nhiều bài báo đã viết về chợ người này nhưng tôi

vẫn muốn viết thêm nữa” [17, tr.105]. Thêm nữa, cấu trúc ngôn ngữ trong

phóng sự là dạng cấu trúc được tạo bởi những đối thoại liên tiếp giữa tác giả

và nhân vật, giữa tác giả và người đọc. Đứng trước nạn khai phá vàng trái

phép qua phóng sự Rừng vàng quằn quại, Phạm Việt Thắng góp ý giải pháp

thiết thực với độc giả tiếp nhận: “Hiện giải pháp trước mắt là giao cho từng

ban quản lý, cử người tuần tra canh gác. Còn lãnh đạo huyện đã đồng ý với

sáng kiến của anh Lương Thanh Hải – Chủ tịch UBND huyện là xây dựng ở

những điểm này thành những bãi tập dân quân tự vệ, xây dựng thành thao

trường bắn đạn thật để uy hiếp bọn thổ phỉ” cũng như “về lâu dài, rất mong

muốn các cấp, các ngành chức năng sớm đánh giá trữ lượng, hàm lượng vàng

để kêu gọi các nhà đầu tư vào thăm dò, khai thác” [32, tr.203]. Về ngôn ngữ

nhân vật thì được tác giả sử dụng trong trường hợp cần nhấn mạnh hay khẳng

định một cách khách quan hiện thực được ghi lại trong tác phẩm. Ngôn ngữ

nhân vật thường được xuất hiện xen kẽ với cái tôi trần thuật và vật thường

được sử dụng ở hai dạng chính. Dạng thứ nhất, nhân vật trực tiếp phát ngôn

với tư cách là người trần thuật hoặc phát ngôn khi cùng đối thoại với tác giả.

Cụ thể là lời trần tình của một cửu vạn trong Tôi đi bán tôi (Huỳnh Dũng

Nhân) cho ta thấy cuộc đời họ khốn khổ đến mức nào: “Ngày nào cũng làm

112

lụng bốc vác đau nhức hết cả lưng, cả ngực, cả bắp chân, bắp tay. Giá như ở

quê sống tạm bợ được thì dù ăn cháo cũng còn sướng hơn ở đây. Ra đây phải

chấp nhận hết tất cả, kể cả bọn trẻ con nó bắt nạt cũng chịu. Có việc làm là

tốt rồi” [17, tr.113]. Dạng thứ hai, ngôn ngữ nhân vật xuất giện gián tiếp

thông qua lời tác giả. Ở dạng này, nhà báo phải giữ nguyên lời nhân vật. Dạng

này ta bắt gặp trong các phóng sự Hành trình đến xứ sở Hansen (Huỳnh Dũng

Nhân), hay như trong Chuyện về những hồn ma ở Trường Sơn là lời hỏi đáp

của Thủ tướng Võ Văn Kiệt với các anh chị em trông coi nghĩa trang được

Xuân Ba ghi lại: “Các cháu ở đây có buồn không?”, Thê trả lời: “Buồn và sợ

nữa nhưng lâu cũng quen được bác ạ. Chỉ tội các cháu ở đây có đứa 8 tuổi rồi

vẫn chưa được đi học vì vùng này không có trường”, đến lượt Bằng: “Chứ

mỗi tháng cháu thu nhập bao nhiêu?”, Bằng cảm động đáp lại: “Thưa bác,

cháu thuộc thâm niên cao ở đây cộng tất tật các khoản được 75 ngàn một

tháng” [1, tr.39]… Dù xuất hiện ở hình thức nào thì ngôn ngữ nhân vật cùng

nhằm lằm sáng rõ chủ đề tác phẩm. Đặc điểm bật nổi của ngôn ngữ trong

phóng sự giai đoạn này là linh hoạt, thẳng thắn, quyết liệt. Qua đó nhằm trực

diện phê phán lên án cái xấu, cái ác. Vũ Hữu Sự không ngại ngần dùng ngôn

ngữ sâu cay, thẳng thắn để phê phán tệ nạn mại dâm trong Ốc đảo đen:

“Những cô gái ở đây được nhận từ đủ mười phương phật, chín phương trời

Nha Trang lên, Sài Gòn lên, Lâm Đồng lên; Tây Ninh; Sóc Trăng;… đủ cả,

chỉ nghe giọng nói là đủ biết. Đủ các lứa tuổi: Mười bảy, mười tám, hai mươi,

ba mươi, ba lăm ba bảy,… Khách cần loại nào chủ nhà đều có ngay. Xong

câu có ngay ấy một phút sau con quay lưng xuống đất đã ưỡn ẹo ra. Giá cả

cũng muôn hình muôn vẻ…” [27, tr.347]. Khi đề cập đến “bia ôm”, một hiện

tượng tuy mới phát sinh nhưng Huỳnh Dũng Nhân bằng sự quan sát tinh

tường ông thấy: “Bia ôm từ tư nhân đã lan tỏa và bám víu vào các khách sạn,

nhà hàng của các đơn vị quốc doanh… Bia ôm đã có một thế lực riêng của nó.

113

Người ta chiêu đãi nhau bằng bia ôm, gài bẫy nhau cũng bằng bia ôm. Người

ta làm giàu bằng bia ôm và sa đọa bởi bia ôm. Khoảng cách từ bia ôm đến

mại dâm trước là một bước, nay chỉ còn nửa bước. Bia ôm là triệu chứng của

căn bệnh tha hóa, của một bộ phận đã rệu rã đạo lý, của việc buông lõng quản

lý xã hội” [15, tr.250].

Ngôn ngữ sự kiện cần phải là ngôn ngữ bám sát sự kiện hiện hữu để phản

ánh. Đó là ngôn ngữ đề cập tới các vấn đề “đang xảy ra”, “đang được xã hội

quan tâm” của ngày hôm nay. Nó thường được thể hiện ở ngay nhan đề phóng

sự. Thường các tác giả không dùng những từ ngữ đưa đẩy, mơ hồ, xa lạ và

cũng hiếm khi sử dụng những từ ngữ biểu cảm, bộc lộ cảm xúc trực tiếp của

người viết. Nó biểu hiện trực tiếp điều tác giả muốn nói, chỉ rõ nội dung và

địa điểm xảy ra câu chuyện. Chính điều này đã góp phần khách quan hóa tối

đa điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ đó là ngôn ngữ mang tính thông tin, cập

nhật. Ta thấy rất rõ trong các phóng sự: Voi ơi ta bảo voi này, Cao Bằng mùa

hạt dẻ, “Lụ man tang” hay số phận những cô gái có con ngoài giá thú, Một

em bé không được vào lớp một (Huỳnh Dũng Nhân), Mệ Barie (Nguyễn

Quang Vinh), Tỉ phú bò sữa (Nguyễn Trọng Hùng),…

Ngôn ngữ sự kiện chỉ được khẳng định ở lượng sự kiện. Tính chất, bản

chất, khuynh hướng của sự kiện đều qua lượng sự kiện mà có. Sức thuyết

phục, độ tin cậy của sự kiện, vấn đề cũng thông qua ngôn ngữ định lượng mà

có được. Nổi rõ là việc đưa ra các số liệu, trích dẫn địa điểm rõ ràng, cụ thể.

Đó là một trong những đặc trưng của phóng sự. Chẳng hạn trong phóng sự Vũ

Hữu Sự, Huỳnh Dũng Nhân,Việt Hòa,... Trong đoạn đầu của phóng sự Ma

túy: quằn quại những nẻo về!, Việt Hòa đã có thống kê cụ thể: “Một thực

trạng đau lòng qua thống kê thì trong tổng số các đối tượng nghiện ma túy

hiện nay có tới 80% nằm ở tuổi 15 – 30” [29, tr.87]. Cũng cùng một đề tài,

với Những nẻo đường thuốc phiện, Vũ Hữu Sự cập nhật số liệu cho ta thấy

114

hậu quả không lường của tệ nạn này: “Chỉ hai năm 1992 -1993 tại Hòa Bình

đã xảy ra 1000 vụ án cả kinh tế lẫn hình sự. Công an đã triệt phá 42 ổ nhóm,

bắt 704 tên, 100% đều nghiện hút” [28, tr.129]. Để hiểu rõ hơn sự thiếu thốn,

khó khăn của lính đảo Huỳnh Dũng Nhân cung cấp cho ta số liệu như sau:

“Một chiến sĩ trên đảo chỉ xài được 6 lít nước ngọt mỗi ngày, diện tích là

6.6m2 một người, tiêu chuẩn ăn là 6.600 đồng một ngày” [17, tr.90]

Trưởng thành hơn về mặt thể loại, phóng sự dù ở giai đoạn nào vẫn không

tách rời chức năng thông tin – phản ánh – thẩm mỹ. Nó phải phản ánh hiện

thực trực tiếp, chính xác nhất và phải “tranh thủ được trái tim người đọc” nên

ngôn ngữ trong phóng sự phải vừa là ngôn ngữ văn học vừa là ngôn ngữ

thông tấn báo chí.

115

KẾT LUẬN

Phóng sự là thể loại đặc biệt, chiếm nhiều ưu thế trong phản ánh hiện thực.

Nó vừa có khả năng thông tin những vấn đề mang tính thời sự vừa có khả

năng chứa đựng lí lẽ, cách đánh giá, nhìn nhận vấn đề. Thêm nữa, nó còn có

chức năng thẩm mỹ. Qua mỗi phóng sự luôn chứa đựng thông điệp của tác giả

gửi đến độc giả đứng từ nhiều góc độ khác nhau. Đó có thể là thái độ lên án,

phê phán trực diện đối với cái xấu nhưng cũng có thể là lòng cảm thương cho

số phận bất hạnh của những kiếp người,… Tựu chung lại thể loại phóng sự

luôn tỏ rõ sức sống tiềm tàng của nó qua quá trình sinh thành phát triển kể từ

đầu những năm 30 của thế kỷ XX cho đến nay ở nước ta.

Hiện thực đất nước, xã hội và con người vẫn luôn vận động và biến đổi thì

thể phóng sự cũng không ngừng chuyển mình để bắt kịp với nhu cầu thời đại.

Bắt rễ từ hiện thực cuộc sống thể phóng sự đã hồi sinh đúng vào thời điểm

sau 1975. Các tác giả thời ấy đã kịp thời ghi nhận, phản ánh kịp thời tình hình

khó khăn của đất nước, và cho đến nay các cây bút phóng sự vẫn tỏ rõ được

tài năng của họ trên những mảnh đất khác nhau của hiện thực cuộc sống.

Phóng sự đã phát huy trọn vẹn chức năng trong bước đi của nó từ sau 1975

đến nay khi có những khai phá rộng, sâu trên mảnh đất hiện thực bằng những

hình thức phù hợp, tương ứng. Cụ thể là sự mở rộng đề tài, phạm vi phản ánh

từ những khó khăn, bất công trong cuộc sống đến những số phận cơ khổ lẫn

những tấm gương người tốt việc tốt trong xã hội. Với sự góp mặt đông đảo

của các tác giả: Phùng Gia Lộc, Xuân Ba, Vũ Hữu Sự, Phạm Việt Thắng,

Huỳnh Dũng Nhân,… các tác phẩm phóng sự giai đoạn này đã đem lại cho ta

cái nhìn thẳng thắn về hiện thực đất nước, cái nhìn sâu sắc về đời sống xã hội

và cũng là cái nhìn đậm chất nhân văn về hiện thực con người. Tất cả nội

116

dung phong phú đó được thể hiện cô đọng thông qua sự kết hợp giữa ngôn

ngữ thông tấn báo chí với ngôn ngữ mang tính văn chương và được phản ánh

trong cái nhìn mang tính thẩm định của người trần thuật với giọng điệu phong

phú tùy. Những cách tân kịp thời của thể loại phóng sự góp phần tạo nên diện

mạo mới cho nền văn học lẫn báo chí Việt Nam ngày nay.

Vốn bắt nguồn từ hiện thực nằm trong thế vận động nên thể loại phóng cần

được xem xét, nhìn nhận, đánh giá trong mối tương quan thể loại với hoàn

cảnh xã hội. Chính thế, thể phóng sự luôn cần những cây bút bản lĩnh, không

ngại dấn thân chụp lại những bức ảnh sắc nét, góc cạnh của cuộc sống. Và về

phía người làm công tác nghiên cứu rất cần phải nắm vững đặc trưng thể loại

để có những kết luận, nhận xét, bình giá xác đáng nhất.

117

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Xuân Ba (1995), Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt, Tập phóng sự,

Nxb Văn học, Hà Nội.

2. Xuân Ba (2004), Thời chưa xa người chưa cũ, Tập phóng sự, Nxb Văn học,

Hà Nội.

3. Lê Văn Ba (2007), Phía sau nghề báo, nhà báo, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

4. Trúc Chi – Nguyễn Công Thắng (1989), Tiếng kêu của con chim gõ kiến,

Tập phóng sự, Nxb Hội Văn học Nghệ thuật Phú Khánh.

5. Đức Dũng (Sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu) (2004), Phóng sự báo chí hiện

đại, Sách tham khảo nghiệp vụ, Nxb Thông tấn, Hà Nội.

6. Lê Tiến Dũng (2005), Giáo trình lí luận văn học (phần tác phẩm văn học),

Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

7. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo

dục.

8. Hà Minh Đức (2003), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục.

9. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Đồng chủ biên) (2007), Từ

điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục.

10. Lê Phú Khải (2000), Nhà báo anh là ai?, Nxb Thanh niên.

11. Tam Lang, Hoàng Đạo, Nguyễn Đình Lạp (2010), Tôi kéo xe, Phóng sự

Việt Nam 1932 – 1945, Nxb Văn học.

12. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (Đồng chủ biên) (2009), Văn học

Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục.

13. Phương Lựu (Chủ biên) (2006), Lí luận văn học, Nhà xuất bản Giáo dục.

14. Nguyễn Tri Niên (2006), Ngôn ngữ báo chí, Tiểu luận, Nxb Thanh niên.

15. Huỳnh Dũng Nhân (1995), Ăn tết trong rừng chó sói, Tập phóng sự, Nxb

Lao động.

118

16. Huỳnh Dũng Nhân (2012), Để viết phóng sự thành công, Nxb Thông tấn.

17. Huỳnh Dũng Nhân (2012), Kính thưa osin, Tuyển tập phóng sự, Nxb

Thông tấn.

18. Nhiều tác giả, Nguyễn Tri Thức (Tuyển chọn) (2006), Mỗi ngày một vạn

bước, Tuyển tập phóng sự, ghi chép nhân vật, Nxb Thanh niên.

19. Vũ Trọng Phụng (2010), Cạm bẫy người, Nxb Văn học.

20. Vũ Trọng Phụng (2010), Cơm thầy cơm cô, Nxb Văn học.

21. Vũ Trọng Phụng (2010), Kỹ nghệ lấy Tây, Nxb Văn học.

22. Hoàng Minh Phương (2000), Phương pháp thực hiện phóng sự báo chí,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

23. Huỳnh Như Phương (2010), Lý luận văn học (nhập môn), Nxb Đại học

Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh.

24. Trần Huy Quang (1995), Phóng sự, Tuyển, Nxb Văn học.

25. Dương Xuân Sơn (2004), Các thể báo chí chính luận nghệ thuật, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội.

26. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2012), Lí luận văn học (tập 2,tác phẩm và thể

loại), Nxb Đại học Sư phạm.

27. Vũ Hữu Sự (1998), Chuyện đời thường mà không thường, Tập phóng sự,

Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

28. Vũ Hữu Sự (1996), Sự đời, Tập phóng sự, Nxb Lao động.

29. Tuần báo Văn nghệ (1997), Bút ký phóng sự được giải (năm1996 – 1997),

Nxb Hội Nhà văn.

30. Nguyễn Hoài Thanh (2010), Khảo luận về phóng sự văn học của Vũ

Trọng Phụng, Nxb Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

31. Nguyễn Hoài Thanh (2010), Thể ký Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945 nhìn

từ lý luận thể loại, Chuyên khảo, Nxb Đại học Sư phạm Tp. HCM.

32. Phạm Việt Thắng (2011), Đếm bước chân mình, Phóng sự, ghi chép, Nxb

119

Thanh niên.

33. Hữu Thọ (2010), Bình luận báo chí thời đổi mới, Nxb Trẻ.

34. Lê Ngọc Trà (2005), Lí luận và văn học, Nxb Trẻ.