BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Nguyễn Thị Bích Hòa

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số

: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh - 2008

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH

LỜI CẢM ƠN

Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quí

thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn

thành luận văn tốt nghiệp.

Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc TS. Nguyễn

Hoài Thanh - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình

nghiên cứu và hoàn thành luận văn.

Xin chân thành cám ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, giúp đỡ

tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài.

Nguyễn Thị Bích Hòa

MỞ ÐẦU

1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu

Văn học Việt Nam 1930 – 1945 tuy diễn ra trong thời gian ngắn nhưng có vị trí quan trọng

trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Ở giai đoạn này, quá trình hiện đại hoá văn học

được đã diễn ra với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên các thể loại. Trong xu thế đó, phóng sự là một thể

tân văn cũng ra đời ngay từ những năm 30, khi văn học nước nhà đang tăng tốc lao vào quĩ đạo hiện

đại hoá. Là một thể loại trung gian giữa báo chí và văn học, có tính tư liệu nhằm điều tra sự thực về

một thực trạng xã hội nào đó nên chỉ trong thời gian ngắn, phóng sự đã đạt được nhiều thành tựu rực

rỡ, trở thành một thể loại “ăn khách”, tạo một lực hấp dẫn mạnh mẽ đối với độc giả.

Những vấn đề mà ống kính phóng sự hướng tới để phản ánh là những vùng hiện thực nóng

bỏng, nhức nhối của xã hội thực dân nửa phong kiến ở cả thành thị lẫn nông thôn, thậm chí cả mảng

hiện thực ở các nhà tù vốn bị thực dân bưng bít. Là xã hội cơ bản là nông nghiệp, nông thôn chiếm đại

đa số nên mảng phóng sự về nông thôn đã trở thành một đề tài thu hút nhiều cây bút tài năng và đã thu

được những bức tranh đầy ấn tượng. Vì lẽ đó, khi nghiên cứu di sản phóng sự của giai đoạn 1930 –

1945, cần đi sâu hơn nữa vào mảng phóng sự viết về nông thôn để tìm hiểu, đánh giá đầy đủ hơn, đúng

đắn hơn về những đóng góp của những cây phóng sự ở đề tài quan trọng này.

Với những lý do đó, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu, luận văn tiến

hành khảo sát một cách có hệ thống đề tài: “Đề tài nông thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam

1930 – 1945” nhằm mục đích tìm ra những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, thấy được

những giá trị đặc sắc, khả năng sáng tạo độc đáo cũng như những hạn chế của những phóng sự về

nông thôn giai đoạn 1930 –1945.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Phóng sự là một thể loại mới xuất hiện trong cuộc cách tân văn học, nhưng chỉ trong thời gian rất

ngắn, nó đã khẳng định được vị trí của mình. Trong vô số vấn đề nóng hổi của cuộc sống cần thể hiện,

đề tài về nông thôn đã thu hút mạnh mẽ những cây bút phóng sự đương thời, một loạt phóng sự có giá

trị xuất hiện tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu

của đề tài là những phóng sự viết về nông thôn Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

Số lượng phóng sự đã xuất bản và in trên báo chí là khá nhiều. Song do điều kiện bị lưỡi kéo kiểm

duyệt đương thời cắt bỏ hoặc do khả năng lưu giữ, thu thập đầy đủ các phóng sự về nông thôn Việt

Nam 1930-1945 là rất khó khăn. Vì thế, luận văn chỉ tiến hành khảo sát những phóng sự chính yếu, có

giá trị tiêu biểu, chọn lọc và trong khả năng còn sưu tầm được, những đoạn phóng sự được trích dẫn

trong các từ điển, tuyển tập…cho phép việc tìm tòi, nghiên cứu những đặc điểm của phóng sự nông

thôn Việt Nam 1930 -1945 như các phóng sự sau:

-Đồng quê, Phi Vân, NXB Bốn Phương 1951.

- Túp lều nát, Nguyễn Đổng Chi, NXB Văn học (in lần thứ 2), 1999.

- Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học, 2004.

- Một huyện ăn Tết, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (tập 1). NXB Văn học, Hà Nội, 2005.

- Việc làng và Tập án cái đình, Ngô Tất Tố, Việc làng-tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, 2002.

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Trên cơ sở xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, luận văn tiến hành khảo sát

trong giới hạn sau:

Thứ nhất, từ những kiến thức lí luận về phóng sự, khảo sát những bức tranh hiện thực về nông

thôn Việt Nam ở hai khía cạnh : xã hội và con người. Qua đó thấy được những hiện thực đen tối và cả

những bức tranh tươi đẹp của nông thôn Việt Nam.

Thứ hai, khảo sát những giá trị và những hạn chế của những phóng sự về nông thôn Việt Nam

1930-1945 để thấy được những tư tưởng nhân đạo, nhân văn và những cách nhìn phiến diện, sai lầm về

xã hội và con người nông thôn.

Thứ ba, khảo sát về phương diện nghệ thuật: nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư

liệu, nghệ thuật trần thuật, phong cách ngôn ngữ, giọng điệu để tìm thấy tài năng độc đáo của những

phóng sự bậc thầy.

Phạm vi nghiên cứu bao gồm hệ thống những vấn đề như trên nhằm đem lại một cái nhìn bao quát

về những giá trị độc đáo, nổi bật của mảng phóng sự về nông thôn Việt Nam 1930-1945.

3. Lịch sử vấn đề

Ngược dòng văn mạch của dân tộc, người đọc chứng kiến những văn tài trên thể văn phóng sự

như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân… những cây bút “tiền chiến” viết về

đề tài nông thôn này đã để lại những kiệt tác bất hủ cho nền văn học Việt Nam.

Thành tựu của phóng sự nói chung và đề tài nông thôn trong phóng sự nói riêng đã góp phần

quan trọng hình thành nên chân dung của văn học Việt Nam. Căn cứ vào mốc lịch sử lớn có ý nghĩa

đối với đời sống xã hội và văn học, chúng tôi chia lịch sử vấn đề phóng sự về nông thôn 1930 – 1945

thành 3 giai đoạn:

- Giai đoạn 1930 – 1945

- Giai đoạn 1945 – 1985

- Giai đoạn 1985 đến nay

3.1. Giai đoạn 1930 – 1945

Sau khi “dậy tiếng” với hàng loạt phóng sự về nông thôn, dư luận xôn xao trước sự bừng sáng

của những cây phóng sự tài hoa. Nhiều luồng ý kiến ngợi ca, tôn vinh hoặc phản bác, phủ định bắt đầu

xuất hiện.

Đối với những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, có vô số ý kiến khác nhau. Nhưng tiêu biểu là ý

kiến của Trương Tửu trên báo Tao đàn (số đặc biệt), tháng 12 – 1939, ông đánh giá Cơm thầy cơm cô

cùng với một số phóng sự khác của Vũ Trọng Phụng là “nền móng đầu tiên của nghệ thuật phóng sự

trong văn giới Việt Nam hiện đại (….) Trong các trang giấy đó, không có sự khinh bỉ, không có lòng

thương hại, không có ác ý mỉa mai. Ngòi bút ông thật khách quan và vô tư.” [78, tr.144]. Ý kiến

này dẫu còn mang nặng cảm tính nhưng bước đầu đã khẳng định vị trí hết sức quan trọng của phóng sự

Cơm thầy cơm cô đối với nghệ thuật phóng sự Việt Nam.

Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1938-1940) thì cho rằng Cơm thầy cơm cô là “một tập

phóng sự hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi ông tả những

cảnh nghèo khổ.” Ông đánh giá cao chương VII (Bi hài kịch) và cho rằng “đây là chương tuyệt hay.

Vui buồn, đủ cả, linh hoạt vô cùng và cũng thảm thiết vô cùng (…) chỉ mười một trang giấy mà biết

bao tình nhân loại, biết bao nỗi thương tâm”. [55, tr.14]. Đặc biệt, Vũ Ngọc Phan nhận ra vai trò của

“tố chất”, cái “giọng” phóng sự, con đường nghệ thuật của nhà văn Vũ Trọng Phụng.

Ngược lại với những ý kiến ngợi ca hết lời là thái độ xổ toẹt một cách thẳng thừng của Nhất Chi

Mai trong bài :Ý kiến một người đọc: dâm hay không dâm? Đăng trên báo Ích hữu số 66, ngày

25/5/1937, vị chủ tướng của Tự lực văn đoàn này tỏ vẻ “phẫn uất, khó chịu, tức tối” khi nhắc tới

những cảnh “con sen vạch quần để hở đùi non cho con chủ nhà trông thấy” và phản đối gay gắt là cần

phải “vạch ra những cái bẩn thỉu, nhơ nhớp, dơ dáy của văn ông ta”. Năm 1944, trong “Cuốn sổ văn

học”, Lê Thanh nhắc lại: “Khoảng những năm 1936, mấy tờ báo ở Hà Nội đua nhau trình bày những

thể văn khiêu tình, gợi dục (…) những lời tự tình của bọn Cơm thầy cơm cô, những cử chỉ trơ trẽn của

gái giang hồ…” [69, tr.162]. Nhất Linh tỏ ra lợi hại khi đưa ra ý kiến này giữa lúc phong hoá đang

suy đồi vì phong trào Âu hoá. Nhưng Nhất Linh lại chỉ tìm những dấu hiệu mà ông cho là “dâm uế” rồi

trích dẫn theo kiểu “vạch lá tìm sâu” rồi qui kết toàn bộ giá trị của tác phẩm. Cách nhìn này là phiến

diện một chiều, qui chụp cực đoan, không khoa học, và vì thế không có khả năng thuyết phục.

Cũng như Cơm thầy cơm cô, Việc làng và Tập án cái đình vừa ra đời cũng đã gây được tiếng

vang và được giới bình luận chú ý nhiều. Tiêu biểu là công trình nghiên cứu “Nhà văn hiện đại”

(1938-1940) của Vũ Ngọc Phan. Trong tác phẩm này Vũ Ngọc Phan giới thiệu Việc làng với thái độ

hết sức trân trọng và khẳng định. Ông gọi Ngô Tất Tố là “một tay kì cựu trong làng văn, làng báo Việt

Nam”. Ông đánh giá cao Việc làng: “lời văn trong Việc làng đều bình dị như thế cả. Tập phóng sự về

dân quê này thật là một tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng” [55, tr.202]

Không ồn ào, sôi động như Cơm thầy cơm cô, Việc làng và Tập án cái đình ở đất Bắc, nhưng ở

phương Nam, dư luận bắt đầu chú ý đến phóng sự Đồng quê của Phi Vân. Trong buổi lễ phát thưởng

văn chương thủ khoa Nghĩa năm 1943, GS Nguyễn Văn Khiết đã dành những lời có cánh ca ngợi

phóng sự Đồng quê của Phi Vân – tác phẩm được giải nhất cuộc thi văn chương của Hội Khuyến học

Cần Thơ. Ông đánh giá cao nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này: “một ngọn bút tỉ mỉ mà linh

hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu duyên, không rườm rà mà đầy đủ”. Liền sau đó là liên tiếp các

bài báo đăng tin, bình luận với thái độ trân trọng và khẳng định như tờ Ánh sáng văn chương, Nhật báo

Việt Thanh, Hương hoa đất nước, Nhật báo thời cuộc, Nhật báo Tiếng dội….

Ở giai đoạn này, giới nghiên cứu, bình luận chỉ mới chú ý đến tác phẩm phóng sự của những

kiện tướng chủ nghĩa hiện thực mà chưa chú ý nhiều đến một số phóng sự khác. Có nhiều bài viết khác

nhau, nhiều nhận xét khá tinh tế nhưng tất cả chỉ dừng lại ở những phóng sự viết về nông thôn một

cách đơn lẻ mà chưa có cái nhìn tổng thể ở cấp độ một đề tài của một giai đoạn văn học. Thời kì này

cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng mà chủ yếu dừng lại một số ý kiến đăng tải trên các

báo mà thôi.

3.2. Giai đoạn 1945 – 1985

Năm 1950, trong khi giảng về thể phóng sự cho các khoá đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng

chiến, Nguyễn Đình Lạp đề cao Vũ Trọng Phụng “là nhà phóng sự phong phú nhất, sâu sắc nhất” và

đánh giá Cơm thầy cơm cô cùng với một số phóng sự khác “đã làm cho độc giả say mê” [32, tr.302].

Cũng với cảm hứng ngợi ca, Nguyên Hồng cho rằng: “Với hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm

thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số Đỏ và Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả

dư luận văn học bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho

một nền văn học tiến bộ” [25, tr.175-176]. Phan Khôi khi đánh giá Cơm thầy cơm cô cùng các phóng

sự khác cũng cho rằng họ Vũ là nhà văn “thông cảm và tố khổ cho hạng người Việt Nam bị coi là cặn

bã” [23, tr.11].

Trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, các tác giả cuốn sách này tỏ ra khách quan

hơn khi đánh giá Vũ Trọng Phụng có sở trường về phóng sự, các nhân vật trong Cơm thầy cơm cô là

hạng người “vì đồng tiền mà trở thành lưu manh” [37, tr.342], và cũng phê phán việc họ Vũ “chú trọng

tả cảnh dâm đãng của con người”, không tán thành với những “biện bác” của chính nhà văn.

Không chỉ Cơm thầy cơm cô, Việc làng cũng tiếp tục lọt vào tầm ngắm của các nhà phê bình

trong giai đoạn này. Trên tạp chí Văn nghệ số 54 năm 1954, Nguyên Hồng thừa nhận những đóng góp

tích cực của Ngô Tất Tố trong việc phản ánh chân thật đời sống nông dân sau luỹ tre xanh: “Người

nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa ánh lên cái sức đấu tranh nhưng sự

thống khổ của họ đem phơi bày ra đã được một phần nào thật, thật trên cái đen tối của chế độ tàn bạo

và ruỗng nát lúc bấy giờ”. [21, tr.44]

Cũng trên Tạp chí Văn Nghệ, số 8 năm 1958, Bùi Huy Phồn cũng khẳng định đóng góp lớn nhất

của Việc làng là phản ánh chân thực đời sống người dân quê, những thống khổ về tinh thần, gánh nặng

của hủ tục mà trước đây khó có ai thấy được. Bùi Huy Phồn cũng rất khách quan khi phân tích một số

hạn chế của Việc làng là do lập trường giai cấp của Ngô Tất Tố còn mơ hồ. Nhưng tác giả này cũng

rộng lượng khi chỉ ra hạn chế này cũng không lấy gì làm lạ, bởi Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ nhà nho,

“Những tư tưởng Văn Thân, Đông Du lúc bấy giờ - tuy đã tan rã vì gặp nhiều thất bại - không tránh

khỏi dư rớt lại trong ông. Rồi tiếp đến tư tưởng cải lương là con đường tất nhiên của lớp người trí thức

đương thời khi họ chưa tìm được lối thoát”. [53, tr.205]

Năm 1961, trên tạp chí văn Nghiên cứu văn học số 3, Nguyễn Đức Đàn – Phan Cự Đệ cũng

nhận xét khá tinh tường: “Cái thành công của Ngô Tất Tố và cũng là biểu hiện cái nhìn đúng đắn của

ông chính là ở chỗ thông qua việc miêu tả các hủ tục, nhà văn đã vẽ lên được cuộc sống khổ cực của

nông dân và âm mưu của bọn cường hào địa chủ lợi dụng hủ tục để áp bức, bóc lột quần chúng”. Tác

giả cũng chỉ ra cái nhìn hạn chế, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa của tác phẩm trong hoàn cảnh chính trị và

văn học lúc bấy giờ. Về nghệ thuật, tác giả nhận xét: “ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc

chắn, lời văn bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc” [53, tr.227]

Năm 1973, biên khảo về phóng sự được mở rộng hơn trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam

1930-1945. Cơm thầy cơm cô cùng với một số phóng sự khác được đánh giá “đã đưa Vũ Trọng Phụng

lên hàng ông vua phóng sự đất Bắc”. Cũng trong tác phẩm này, Việc làng cũng được Nguyễn Đăng

Mạnh ghi nhận những đóng góp về nội dung và nghệ thuật. Ông cảm nhận “lòng cảm thương sâu sắc

đối với người nông dân” của Ngô Tất Tố. “Càng thông cảm với người nông dân bao nhiêu, Ngô Tất

Tố lại càng căm ghét bọn cường hào địa chủ bấy nhiêu”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng thừa nhận tài năng

nghệ thuật của Ngô Tất Tố qua Việc làng, tuy quanh quẩn chủ yếu viết về nạn xôi thịt, nhưng với lối kể

chuyện linh hoạt, người đọc không thấy đơn điệu. Ông đánh giá cao phóng sự này: “Việc làng là một

tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở nông thôn Việt Nam”.

Vẫn tiếp tục luồng ý kiến thời “tiền chiến” với lối phê bình trực cảm, ấn tượng và ngợi ca một

chiều, nhưng giai đoạn này đã có một bước tiến hơn giai đoạn trước: tiếp thu có phê phán trên quan

điểm mĩ học duy vật, xuất hiện một số ý kiến với tinh thần khách quan hơn, không thiên lệch một

chiều. Nhưng, cũng như giai đoạn trước, các ý kiến cũng chỉ tập trung ở các phóng sự của hai “kiện

tướng” Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố về nông thôn Bắc Bộ là chủ yếu. Phóng sự viết về nông thôn

Trung và Nam Bộ của Nguyễn Đổng Chi và Phi Vân vẫn chưa được đi sâu nghiên cứu.

3.3. Giai đoạn 1986 đến nay

Năm 1986, cuộc đổi mới văn học đã tạo một bước đột phá cho việc tiếp nhận di sản văn học quá

khứ. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố được nhìn nhận ở một góc độ mới, các phóng sự của

Nguyễn Trần Ai, Phi Vân nay đã được phát hiện để khám phá và bổ sung cho bức tranh nông thôn Việt

Nam 1930 – 1945 được hoàn chỉnh.

Sau một thời gian dài vắng bóng, Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai và Đồng quê của Phi Vân lại

được dư luận chú ý. Ngày 7-1-1996, GS Lê Phong viết bài “Thêm một cuốn sách góp vào di sản văn

học hiện thực Việt Nam: Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai” đăng trong lời Bạt của cuốn phóng sự này.

Như một phát hiện mới, tác giả bày tỏ thái độ ngạc nhiên, thán phục và lấy làm tiếc cho sự biết đến tác

phẩm này khá muộn màng: “84 trang Túp lều nát, ở thể loại phóng sự của Nguyễn Trần Ai, ngót 60

năm sau ngày sách ra đời, vẫn có thể đem lại đôi điều mới mẻ đối với tôi.(…) Sưu thuế và cường hào,

nạn phù thu và lạm bổ, những oan khốc và bất công…hiện diện khá dày đặc trong Túp lều nát khiến

cho không trang nào không gây nên sự thương tâm, phẫn nộ”[4, tr.129]. GS Phong Lê thừa nhận giá

trị hiện thực và sức tố cáo mạnh mẽ của thiên phóng sự này đồng thời đánh giá cao sự ra đời của nó

trong một bối cảnh đặc biệt này như là sự hưởng ứng cho những bức xúc của dân cày.

Năm 1950, phóng sự Đồng quê của Phi Vân được một nhà văn Trung Quốc dịch ra tiếng bạch

thoại tựa là Nguyên da năm 1950. Năm 2007, trên trang vannghesongcuulong.org.com, tác giả Trần

Hữu Dũng viết bài “Phi Vân – nhà văn đồng quê rặt ròng Nam bộ” đã nhận xét tác phẩm này “đầy

sức gợi tả sinh động, chắt lọc phương ngữ làm cho ngôn ngữ mang dáng dấp hiện đại hơn (…) miêu tả

bức tranh nông thôn sông nước nghèo nàn, lạc hậu, bức bối với những tập tục mê tín, dị đoan, cảnh

đời bị bóc lột bởi các hương chức lộng hành, đặt ra vấn nạn lớn phải gấp rút giải quyết cho nông thôn

miền Nam”

Cùng cảm hứng ngợi ca và khẳng định, tác giả Huỳnh Công Tín (ĐH Cần Thơ) cũng có bài

Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân trên trang vienvanhoc.org.vn cũng ghi nhận

những đóng góp về mặt ngôn ngữ, khả năng miêu tả hiện thực của Phi Vân trong phóng sự này.

Phóng sự Việc làng và Tập án cái đình tiếp tục được các nhà nghiên cứu giới thiệu trong công

trình “Văn học Việt Nam 1900 – 1945” NXB Giáo dục Hà Nội 1997. Trong công trình này, Phan Cự

Đệ khẳng định giá trị hiện thực và tính chiến đấu của hai phóng sự viết về nông thôn của Ngô Tất Tố:

“Trong hai phóng sự “Tập án cái đình” và “Việc làng”, Ngô Tất Tố tìm cách phơi trần những sự thật

xấu xa về các hủ tục ở nông thôn, xem đó là một cái gì vô lý “quái gở”, “mọi rợ” và đặt chính quyền

thực dân trước nhiệm vụ phải giải quyết” [9, tr.490]. Với bài viết này, Phan Cự Đệ chỉ ra những thành

công và hạn chế một cách khách quan về nội dung và nghệ thuật của hai phóng sự này.

Cơm thầy cơm cô lại được chuyển thể thành phim Ánh sáng kinh thành cùng với Kỹ nghệ lấy

Tây. Phóng sự này cũng tiếp tục chú ý, đáng kể là trong hội thảo kỉ niệm Vũ Trọng Phụng ngày 13-10-

1989 ở Hà Nội, Phó GS Nguyễn Hoành Khung khẳng định: “Chưa có phóng sự nào trước và sau Cách

mạng có thể vượt được Cơm thầy cơm cô và Kỹ nghệ lấy Tây. Đọc thấy sợ và sướng lắm, viết phóng sự

như thế thì thật tuyệt vời”.

Đáng kể đến nhất trong giai đoạn này là công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX do Phan cự Đệ

chủ biên xuất bản năm 2000. Ở công trình này, các phóng sự viết về nông thôn lần đầu tiên được nhìn

nhận ở cấp độ dưới phạm vi một đề tài. Nhóm tác giả của công trình này chia phóng sự 1930-1945

thành hai đề tài chính: phóng sự viết về đời sống sinh hoạt ở thành thị và phóng sự viết về đời sống

sinh hoạt ở nông thôn. Cuốn sách cũng chỉ ra một số tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài này như Làm

dân, Xôi thịt (Trọng Lang), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố), Cường hào (Nguyễn Đình Lạp),

Cơm thầy cơm cô và Một huyện ăn Tết (Vũ Trọng Phụng), Bùn lầy nước đọng (Hoàng Đạo), Túp lều

nát (Nguyễn Trần Ai), Đồng quê của Phi Vân…Tác phẩm đi vào phân tích một số phóng sự để thấy

những đóng góp về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm cũng ghi nhận những đóng góp tích cực của các

phóng sự trong việc phản ánh đúng sự thật đời sống của người nông dân sau luỹ tre xanh. Tuy nhiên,

những đánh giá này vẫn còn sơ lược, đi theo từng tác phẩm, mà vẫn chưa có những nhận định mang

tính khái quát.

Năm 2004, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, NXB Văn học do

Tuấn Anh-Bích Thu chủ biên cũng đã tóm tắt sơ lược các phóng sự về nông thôn. Tuy nhiên, do phạm

vi yêu cầu của một từ điển, do nhu cầu hệ thống hoá, nhu cầu kiểm duyệt lại các giá trị đang đặt ra vào

thời điểm vừa kết thúc thế kỷ XX, các ý kiến cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê tóm tắt và có đánh giá sơ

lược nội dung và nghệ thuật.

Do mai một của nhiều tờ báo, sự thất lạc của nhiều tác phẩm, do những cách nhìn nhận đánh giá

khác nhau, đặc biệt là đối với những tác phẩm viết về mặt trái của xã hội … nên việc công bố, tái bản

khá dè dặt. Vì thế, thành tựu của phóng sự chưa được bạn đọc biết đến đầy đủ. Nhiều luận văn Cao

học, luận án Tiến si thực chất cũng chỉ dừng lại ở những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nhất. Vẫn chưa có

cái nhìn tổng quát về diện mạo của phóng sự và giá trị nhiều mặt của nó. Phóng sự viết về nông thôn

cũng cùng chung số phận. Không ít những phóng sự hay bị bỏ sót, nhiều giá trị ưu tú của phóng sự viết

về nông thôn bị bỏ qua.

Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, ta nhận thấy:

Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu riêng, sâu về đề tài nông thôn của phóng sự Văn

học Việt Nam 1930-1945. Phần lớn là các sách sưu tầm, biên tập lại những tác phẩm phóng sự hoặc

những bài viết trên báo, tạp chí hay những công trình, bài viết nghiên cứu về từng tác giả.

Thứ hai, thành tựu của phóng sự 1930-1945 về đề tài nông thôn tính đến nay đã khá phong phú

và có những thành tựu xuất sắc. Nhưng việc in ấn các tác phẩm, các công trình nghiên cứu về các

phóng sự này trước thời kỳ đổi mới không tiến triển được nhiều đã làm hạn chế các công trình nghiên

cứu ở cấp độ một đề tài.

Thực tế đó cho thấy việc nghiên cứu về phóng sự viết về nông thôn 1930-1945 là một việc làm

hết sức cần thiết và có ý nghĩa.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

Do khảo sát ở phạm vi khá rộng của cả một giai đoạn, ở một đề tài theo hướng tìm ra những giá trị

độc đáo của phóng sự về nông thôn Việt Nam nên luận văn có những ý nghĩa khoa học và thực tiễn:

- Tìm hiểu những bức tranh độc đáo về xã hội và con người nông thôn để thấy tài năng trong nhận

thức và phản ánh hiện thực của những nhà phóng sự đương thời.

- Phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế về tư tưởng, cũng như những bất cập, sai lầm

trong cách nhìn nhận về xã hội và con người nông thôn. Từ đó thấy được sự tìm tòi cũng như những

thiếu sót về mặt tư tưởng của những nhà phóng sự.

- Trình bày một số đặc điểm cơ bản về phương diện nghệ thuật để có cái nhìn đầy đủ hơn về tài

năng làm phóng sự của một lớp nhà văn lớn.

- Phóng sự là một bộ phận hợp thành quan trọng của di sản văn chương, vì thế việc tìm hiểu nông

thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam 1930-1945 không chỉ có ý nghĩa đối với nền phóng sự đương

thời mà còn có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu di sản văn chương. Những phóng sự tiêu biểu về nông

thôn sẽ góp cái nhìn đầy đủ về nông thôn Việt Nam trong những tháng ngày đầy biến động của lịch sử

đồng thời góp phần soi sáng những mảng sáng tác khác của những cây bút tài năng.

- Sự bùng nổ trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây sau một thời gian dài gần như vắng

bóng đã gây xôn xao dư luận, và lập tức kéo công chúng quay trở lại với văn học. Thực tế này cũng đòi

hỏi sự tiếp sức kinh nghiệm của quá khứ. Luận văn sẽ gợi lại cách làm phóng sự của một lớp nhà văn

lớn để những nhà phóng sự hôm nay tìm tòi, học hỏi, gợi mở sự sáng tạo cho nghề làm phóng sự.

Chính trong thời điểm mà thể phóng sự đang sôi động trở lại, đang đóng vai trò xung kích trên lĩnh

vực báo chí và văn học, góp phần không nhỏ trong công cuộc cải tạo xây dựng xã hội mới, việc nghiên

cứu đề tài nông thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam 1930 –1945 càng có ý nghĩa khoa học và thực

tiễn.

5. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương:

Chương 1: Một số vấn đề về thể văn phóng sự. Chương này tìm hiểu sự xuất hiện và phát triển

của thể phóng sự, phân biệt sự khác nhau giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí đồng thời tìm

hiểu sơ lược mảng phóng sự viết về nông thôn. Từ đó có cái nhìn khái quát về thể phóng sự và mảng

phóng sự về nông thôn 1930 – 1945.

Chương 2: Nội dung hiện thực và cảm hứng, tư tưởng trong các phóng sự về nông thôn. Để có

cái nhìn toàn cảnh, chương này đi sâu tìm hiểu những nội dung hiện thực của nông thôn Việt Nam

1930 – 1945: phong cảnh, phong tục, xã hội, con người. Tìm hiểu những thành công và những hạn chế

về cảm hứng tư tưởng trong các phóng sự.

Chương 3: Nghệ thuật của các phóng sự về nông thôn. Chương này khẳng định những đóng góp

trên bình diện nghệ thuật viết phóng sự của các nhà văn như: nghệ thuật khám phá hiện thực và khai

thác tư liệu, nghệ thuật trần thuật và phong cách ngôn ngữ, giọng điệu.

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ

Sự phát triển mạnh mẽ của của báo chí Phương Tây thế kỷ XIX đã tạo một môi trường hết sức

thuận lợi cho việc nảy sinh nhiều thể văn - báo, trong đó có phóng sự. Là thể loại trẻ trung nhưng rất

đắc dụng, phóng sự đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ và bắt nhịp vào đời sống báo chí và văn học của

nhiều quốc gia.

Phóng sự được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù vậy, các quan điểm đó vẫn gặp nhau ở

điểm cơ bản chung nhất về chức năng thể loại. Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí,

phản ánh những vấn đề điển hình, có thật, có tính thời sự trong một quá trình phát sinh, phát triển,

bằng bút pháp văn học và những biện pháp nghiệp vụ của báo chí.

Không chỉ phản ánh sâu sắc những nội dung, tư tưởng, phóng sự còn tỏ ra khá công hiệu khi đưa ra

những kiến nghị và giải pháp để mở ra hướng giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội quan tâm.

1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể phóng sự

1.1.1. Bối cảnh xã hội

Xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XIX đầy những biến động về các mặt kinh tế, chính

trị, văn hoá. Đó là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp gay gắt báo hiệu sự tan rã của xã hội

phong kiến và sự lung lay của chế độ thực dân. Trong khi thực dân Pháp ra sức củng cố chế độ thuộc

địa thì phát xít Nhật lại nhòm ngó Đông Dương để âm mưu bá chủ cả Châu Á Thái Bình Dương. Nhiều

cuộc khởi nghĩa của nông dân và bãi công của công nhân liên tiếp nổ ra. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất

bại đã chấm dứt vai trò chính trị và đường lối cách mạng của giai cấp tư sản. Năm 1930, Đảng Cộng

sản Việt Nam thành lập, giai cấp vô sản lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị đảm nhiệm sứ mạng lịch

sử của mình là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Sự quật khởi của phong trào Xô Viết Nghệ

Tĩnh, khí thế sôi nổi của mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 -1939) đã làm rung động chế độ thuộc

địa.

Thực dân Pháp không chịu bó tay, ngoài việc thực hiện các chính sách đàn áp, chuyên chế,

chúng còn dùng những thủ đoạn mị dân, tuyên truyền phong trào Âu hoá, chủ trương “Pháp Việt đề

huề”, hội Ánh sáng, hội Hướng đạo…ra đời nhằm lừa bịp, đánh lạc hướng công luận. Nền kinh tế rơi

vào vòng quay của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các vùng đô thị ra đời kéo theo những lối sống đồi bại mà

thực dân Pháp dựng lên để làm truỵ lạc thanh niên…..Xã hội thực dân nửa phong kiến nước ta càng lao

nhanh trên con đường băng hoại, bộc lộ hết tính chất xấu xa, tàn bạo.

Những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá đầy kịch tính với những nét bi hài đang diễn ra kế tiếp

nhau, chồng chéo nhau, đan xen nhau hết sức sôi sục và nóng bỏng đã làm nảy sinh nhu cầu cấp bách

là phải cập nhật nhanh chóng lượng thông tin phong phú và sốt dẻo ấy. Mặt khác, người dân lại hoang

mang trước những điều thật giả lẫn lộn, họ cần lắm một điểm tựa để biết mọi sự thật,“quốc dân chỉ

muốn biết sự thật diễn ra quanh mình”.(Trương Tửu :Tam Lang – nhà văn tả chân, báo Loa, số 86,

ngày 10-10-1935) [56, tr.94]. Nhu cầu bức thiết muốn biết sự thật xã hội của công chúng đòi hỏi phải

có một lực lượng sáng tác năng động, nhanh nhạy nắm bắt các chuyển biến của thời cuộc và đưa ra

cách nhìn nhận đáng tin cậy. Thiếu Sơn cho rằng: “Dưới một chế độ mục nát, trong một thời đại suy

đồi, đầy những giả dối, đầy những mâu thuẫn (…) Cái tình trạng ẩn khuất đó phải có con mắt tò mò

chú ý tới, phải có cây viết linh hoạt tô vẽ ra” (Nhà phỏng sự trong xã hội Việt Nam, đăng ở tr.3, báo

Phóng sự, số Xuân 1939).

Trước nhu cầu bức thiết đó, các thể tài tiểu thuyết, thơ, kịch không đảm nhận nổi thì phóng sự

lại tỏ ra có hiệu quả đắc lực. Thể văn tư liệu này có khả năng đi sâu vào hiện thực để điều tra những vụ

bê bối, các tệ nạn xã hội một cách kịp thời và có hiệu quả. “Để tìm bộ mặt thật của xã hội Việt Nam lúc

bấy giờ, thị yếu đại chúng như thay đổi hoàn toàn, chỉ ưa tìm đọc những văn, những chuyện, những

loại tả chân và lãng quyên dần loại văn lãng mạn mà người ta cho là không thích hợp” [56, tr.67]. Như

vậy, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho hạt giống phóng sự sinh sôi.

1.1.2. Những tiền đề báo chí và văn học

Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, một loạt tác phẩm ký ra đời như “Chuyến đi thăm Bắc kỳ năm

Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký, “Hương Sơn hành trình ký” của Nguyễn Văn Vĩnh, “Hạn mạn du ký”

của Nguyễn Bá Trác…Những tác phẩm này cố gắng cách tân thể loại truyền thống để hình thành một

thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực với ký thác tâm sự. Bước đi mới mẻ này của văn học chưa có

gì nổi bật song đã có định hướng làm tiền đề cho phóng sự xuất hiện sau này.

Sự xuất hiện của phóng sự còn được lý giải từ một căn nguyên khác. Đó là sự phát triển với tốc

độ khác thường của một nền báo chí còn non trẻ đã tạo nên những “kỳ biến” trong đời sống tinh thần

lúc bấy giờ, và đã hình thành nên một môi trường rộng lớn, một nhịp cầu đưa phóng sự đến với bạn

đọc, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội. Có thể nói, bằng báo chí, phóng sự đã tìm được con đường

nhanh nhất để đến với công chúng, vừa tạo được môi trường dư luận rộng rãi và kịp thời mà không thể

loại nào có được.

Báo chí nước ta dần thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của thực dân, là thứ công cụ phục vụ cho

chính sách cai trị để trở thành những tờ báo đứng trên lập trường dân tộc chống lại ách nô dịch của

chúng như Tiếng dân, Thần chung…Những năm 30, đặc biệt từ 1937 trở đi, Việt Nam có đến 128-150

tờ nhật báo, 179 kỷ yếu và tạp chí, các ấn phẩm được in thành sách ở các nhà xuất bản mọc lên khắp cả

nước. Viết văn, viết báo trở thành một nghề kiếm sống, với lực lượng chính là những người Tây học và

những nhà nho ném “bút lông” và dùng “bút sắt”, Tam Lang phải “thay đổi cả ngòi bút lẫn bình mực”

để không muốn mình là người viết báo lỗi thời [56, tr.67-68]. Hiện tượng văn báo bất phân nảy sinh.

Cả một thế hệ vừa cầm bút viết báo, vừa viết văn. Các báo cạnh tranh nhau, không ngừng cải tiến cả

nội dung lẫn hình thức. Cái nhịp hối thúc của báo này, sự giục giã đặt hàng của báo kia khiến nhà văn,

nhà báo cứ viết, cứ săn lùng tin tức và đẻ ra hàng loạt thiên phóng sự nhiều kỳ trên các báo gây xôn

xao dư luận.

Bên cạnh sự sôi động của các phóng sự trên các báo trong nước là sự ảnh hưởng của một số

phóng sự nước ngoài. Thể văn rất trẻ này chỉ thực sự phát triển ở một số quốc gia Âu - Mỹ từ thế chiến

thứ 2 (1914 - 1918). Những thiên phóng sự nổi tiếng như Trên những nẻo đường Liên bang xô viết của

Gorki, Mười ngày rung chuyển thế giới (1917) của Giôn Rít…đã được nhiều trí thức Tây học tìm đọc.

Nhưng ảnh hưởng sâu sắc nhất tới độc giả và những người cầm bút nước ta là tập phóng sự nổi tiếng

dày 227 trang của bà Ăngđơrê Viôlix với Đông Dương cấp cứu (Indôchine S.O.S). Đây là kho tư liệu

quý báu, chân thực về Đông Dương những năm 1930-1932, vạch rõ chân tướng của bọn phát xít đồng

thời là những bài học quý báu về cách tiếp cận và thể hiện hiện thực. Ngoài ra, các phóng sự “Le

chemin de Buenos- Aires” (Đường đi Buenos-Aires) của Albert Londres, Stan conduit le bal (Quỷ

Xatăng cầm đầu cuộc khiêu vũ)...cũng gây chấn động dư luận và có ảnh hưởng lớn đối với người đọc.

Những phóng sự sinh động trên du nhập vào nước ta và ngay lập tức những cây phóng sự tiên

phong như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng…học hỏi và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, đưa

phóng sự trở thành một thể loại mới lạ, hấp dẫn đáp ứng nhu cầu bức xúc về thông tin sự thật của độc

giả. Tam Lang bắt chước Maryse Choisi khoác áo phu xe đi làm phóng sự, Vũ Trọng Phụng nhắc đến

thiên phóng sự “Carnet d une pemme de chambre” của Maryse Choisi trong “Cơm thầy cơm cô”, ông

cũng đánh giá cao Indôchine S.O.S của bà Ăngđơrê Viôlix…

Hơn bất cứ thể loại nào khác, chỉ có phóng sự mới có thể nhanh nhạy, sắc bén chiếm lĩnh những

vấn đề chính trị, xã hội nóng bỏng, bề bộn và hết sức sôi sục lúc bấy giờ. Không chỉ cung cấp những

tập ảnh, những số liệu, phóng sự còn dựng một bức tranh toàn cảnh về xã hội một cách xác thực. Đến

với phóng sự, người đọc không chỉ thấy những cái mà họ chưa từng thấy mà thông qua những sự thật

đã được kiểm chứng ấy, họ còn được bừng tỉnh, vỡ lẽ về một thực trạng bất công phi lý. Vì thế nó có

sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc đến lạ kỳ. Cùng với tiểu thuyết hiện thực, phóng sự nhanh chóng trở

thành thể loại ăn khách, tạo ra một lực hút hấp dẫn đối với hàng loạt cây bút. Tất nhiên, để có những

trang hiện thực giàu ý nghĩa nhân sinh ấy, đòi hỏi nhà phóng sự phải trải qua những chặng đường lao

động nghệ thuật đặc biệt và hết sức gian truân. Không hiếm trường hợp, lương tâm và trách nhiệm

nghề nghiệp của người cầm bút đã vấp phải sự kiểm duyệt gắt gao của nhà chức trách. Tuy nhiên, các

nhà phóng sự vẫn dũng cảm đưa lên mặt báo thực trạng nhếch nhác, bệnh hoạn của xã hội Việt Nam

dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.

Như vậy, bối cảnh xã hội đầy biến động, nhu cầu phản ánh sự thật của xã hội một cách trực tiếp,

sự trưởng thành của báo chí trong nước đã xâm nhập vào văn chương tạo nên sự “giao duyên” kì diệu

giữa văn học và báo chí, ảnh hưởng phóng sự nước ngoài, cộng với tài năng sáng tạo, tâm huyết của

người cầm bút là sự hội tụ đầy đủ những yếu tố nội sinh và ngoại nhập cho sự xuất hiện của thể phóng

sự.

1.1.3. Sơ lược quá trình phát triển của thể phóng sự

1.1.3.1. Giai đoạn 1930 – 1945

So với thế giới – chủ yếu là ở Âu Mỹ, phóng sự ở Việt Nam ra đời muộn. Dù cuối thế kỷ XIX,

Sài Gòn đã có báo, nhưng mãi đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, phóng sự mới xuất hiện. Trước

năm 1932, sự cách tân của thể ký truyền thống đã xác lập một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực

với ký thác tâm sự. Tuy thành tựu này chưa có gì thật sự nổi bật, song định hướng này là tiền đề cho

thể ký có những bước nhảy vọt ở giai đoạn tiếp theo. Sự phát triển của thể ký chủ yếu thể hiện dưới hại

dạng: phóng sự và tuỳ bút. Trong đó phóng sự chiếm vị trí nổi bật và trở thành thể loại chính.

Bước đột phá ngoạn mục hiếm có của phóng sự phải tính từ cái mốc năm 1932, với phóng sự

Tôi kéo xe của Tam Lang đăng liên tiếp 20 kì trên tờ Ngọ Báo viết về đời sống của những kiếp “người

ngựa”. Phóng sự từ nay mới chính thức “đăng đàn” như một thể loại độc lập. Vũ Đình Chí – bút hiệu

Tam Lang (1900 – 1986) thực sự là người có công mở đầu cho sự ra đời của thể phóng sự ở nước ta.

Ngoài Tôi kéo xe, ông liên tiếp cho ra đời lần lượt 8 thiên phóng sự ngắn như Trên dòng Tiêu Kim

Thuỷ, Đêm sông Hương, Lạc trong Sơn Đinh Quách, Người ngợm…Theo tập hợp chưa đầy đủ của các

tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn qua 3 tập sách Phóng sự Việt Nam 1932 –

1945 xuất bản năm 2000 thì chỉ riêng thời kỳ này đã có sự góp mặt của 63 tác giả và hơn 120 tác phẩm

phóng sự. Thể loại này xuất hiện không chỉ thu hút sự chú ý của độc giả bởi số lượng mà còn ở chất

lượng nghệ thuật. Khả năng nhạy cảm trước những vấn đề xã hội của nhà báo và năng khiếu của nhà

văn đã sản sinh ra các thiên phóng sự không chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt mà còn có giá trị nghệ

thuật lâu dài. Sự mở đầu khá ấn tượng của ba chàng họ Vũ: Vũ Đình Chí với Tôi kéo xe, Vũ Bằng với

Một đêm trắng với năm bông hoa tàn, Vũ Trọng Phụng với Cạm bẫy người chấn động dư luận đã kéo

theo một đội quân những nhà văn, nhà báo đến với thể phóng sự: Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Thạch

Lam, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Phi Vân….

Thoát thai từ một hiện thực chín muồi, phóng sự 1930 – 1945 tất nhiên là “người thư ký trung

thành của thời đại” phản ánh thực trạng nhiều mặt của xã hội đương thời. Đó là những mảng hiện thực

vốn bị thực dân bưng bít nơi các nhà lao, những tù nhân bị lưu đày nơi rừng thiêng nước độc, nhất là

hiện thực đời sống sinh hoạt ở nông thôn và ở đô thị.

Phóng sự về sinh hoạt đô thị chiếm số lượng khá lớn: Tôi kéo xe, Đêm sông Hương (Tam Lang);

Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Lục xì (Vũ Trọng Phụng); Dao cầu thuyền tán của Ngô Tất Tố; Hà

Nội lầm than, Làm tiền, Trong làng chạy (Trọng Lang); Thanh niên truỵ lạc, Từ ái tình đến hôn nhân,

Ngoại o (Nguyễn Đình Lạp), Tàn đèn dầu lạc (Nguyễn Tuân), Hà Nội ban đêm ( Thạch Lam)…Trong

đời sống xã hội có biết bao vấn nạn nổi cộm tại các đô thị. Nạn cờ bạc (Cạm bẫy người của Vũ Trọng

Phụng), nghề “đạo chích” (Trong làng chạy của Trọng Lang), thế giới nhơ nhớp của bọn mại dâm

(Đêm sông Hương của Tam Lang…), tệ tham nhũng trong Một huyện ăn Tết của Vũ Trọng

Phụng…đều được các nhà phóng sự phơi bày, lật tẩy.

Bên cạnh đề tài thành thị, nông thôn là mảng đề tài thu hút các cây bút phóng sự. Tuy các tác

phẩm để lại không nhiều nhưng thực sự là những tác phẩm có giá trị. Đó là Làm dân, Xôi thịt (Trọng

Lang), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố), Cường hào (Nguyễn Đình Lạp), Một huyện ăn Tết

(Vũ Trọng Phụng), Bùn lầy nước đọng ( Hoàng Đạo), Túp lều nát (Nguyễn Trần Ai), Đồng quê của Phi

Vân…

Ở các phóng sự viết về nhà tù thực dân, Ngục Kontum (1938) là phóng sự có sức tố cáo lớn là

xúc động lòng người. Lê Văn Hiến – tác giả của thiên phóng sự này chính là người trong cuộc đã miêu

tả tường tận các thủ đoạn độc ác của thực dân Pháp với các tù chính trị và các cuộc đấu tranh lưu

huyết, tuyệt thực công khai của các chiến sỹ cách mạng. Mảng hiện thực bị thực dân che đậy này đã

dược các nhà phóng sự đưa ra ánh sáng. Đó là Tết của tù đàn bà, Tù trẻ con của Nguyên Hồng, Khám

lớn Sài gòn của Phan Văn Hùm, Đảo Côn Lôn của Nguyễn Đức Chính….

Đứng từ góc độ báo chí, phóng sự vừa mô tả những sự thật nhức nhối còn khuất lấp vừa khai

sáng, thức tỉnh nhận thức cho công chúng đồng thời đem đến cho bạn đọc một kênh giao tiếp tiện lợi.

Đứng từ góc độ văn học, phóng sự không chỉ nhằm mục đích mưu sinh mà nhà văn còn giải toả những

bức xúc cho độc giả đồng thời tích luỹ vốn sống để thai nghén cho bước sáng tạo nghệ thuật về sau.

Điều đáng nói là phóng sự 1930 – 1945 đã biết chưng cất cái hiện thực ngổn ngang bằng nhãn quan

văn học để có những tác phẩm gây ấn tượng, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt mà xã hội trông đợi và vì thế

phóng sự có được tầm vóc bề thế của một thời đại hoàng kim là điều hiển nhiên.

1.1.3.2. Phóng sự giai đoạn 1945 - 1975

Hiện thực cuộc sống của ba mươi năm chiến tranh (1945 – 1975) không tiềm chứa những sắc

thái cảm ứng thích ứng với thể phóng sự. Là một thể loại dân chủ, phóng sự có khả năng đặc biệt trong

việc phanh phui mổ xẻ những thực tại nhức nhối nay đã không còn cơ hội phát triển. Thể chế chính trị,

nhiệm vụ chính trị của lịch sử thời kỳ này được phản ánh, lý giải và cắt nghĩa với những quan niệm

cách thức khác nhau. Phóng sự không dễ thăng hoa nở rộ mà tạm thời lắng xuống hoặc hoá thân vào

trong thể loại khác. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long từng khẳng định: “Trong hai cuộc kháng chiến

thiếu vắng thể loại phóng sự vốn rất phát triển trong giai đoạn 1930 – 1945” [36, tr.183], nhà nghiên

cứu Lã Nguyên cũng cùng chung nhận định: “Phóng sự – thể loại từng phát triển mạnh mẽ trước cách

mạng, nay bỗng thiếu vắng trên văn đàn”[51, tr.208]. Tất nhiên, nói thiếu vắng ở đây không có nghĩa

là sự triệt tiêu, mất hút của thể loại này mà là sự thiếu vắng những tác gia tác phẩm có tầm vóc. Vào

thời khắc con người cần định hướng đúng cho tư tưởng và hành động này, phóng sự vẫn chứng tỏ được

vai trò xung kích, tiên phong của nó.

Phóng sự đã nhập cuộc vào hiện thực chiến tranh cách mạng bằng hai phóng sự dài Cảnh

Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp. Nguyễn Đình Lạp cũng từng viết trong tập

bài giảng Muốn làm phóng sự của ông rằng: “Chúng ta có bổn phận phải chép lại, ghi chép đầy đủ,

nóng hổi sự sống và chí quật cường. Thể phóng sự có thể giúp chúng ta là được nhiệm vụ ấy”. Để

phụng sự nhiệm vụ chính trị lớn lao, phóng sự đã có sắc diện riêng biệt, và đã có những đóng góp tích

cực vào việc ghi lại những sự kiện đáng nhớ về một thời vàng son của dân tộc. Phóng sự viết về chiến

tranh giải phóng dân tộc xuất hiện là một hình thức mới làm phong phú thêm cho thể phóng sự ở nước

ta. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã mô tả lại hoạt động của phóng sự thời kỳ này:

Trong những năm kháng chiến, nhiều thiên phóng sự từ mặt trận gửi về còn nóng hổi hơi lửa

thời sự. Phóng sự mặt trân theo sát diễn biến của chiến dịch qua từng bước thắng lợi, từng mũi

tiến quân, kịp thời thông báo những tin tức, câu chuyện và những tấm gương trong chiến đấu

[13, tr.73].

Đến đầu những năm 50, phóng sự có một bước rẽ khác. Khi số phận dân tộc đang “ngàn cân

treo sợi tóc”, phóng sự phải gọt bỏ cái tư chất phản tỉnh thực tại mạnh mẽ để hoá thân vào thể ký (bút

ký và ký sự) trong định hướng một chiều rất cần phải có của thời đại lúc bấy giờ. Sự sống của phóng

sự được hoá thân vào các tác phẩm ký của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam

Cao…rồi chìm dần, rồi vắng bóng, gây một sự hụt hẫng trong đời sống văn học. Đến năm 1962, cuộc

vận động thi viết bút ký, phóng sự trên tạp chí Văn Nghệ và báo Văn học đã hâm nóng lại bầu không

khí bàn bạc về phóng sự, nhưng cũng không đủ sức làm cho phóng sự hồi sinh.

1.1.3.3. Phóng sự từ 1980 đến nay

Phóng sự có dấu hiệu hồi sinh sau 40 năm chìm vào quên lãng kể từ phóng sự Cây cói ở Hải

Tân của Trần Huy Quang. Nhưng thực sự nhập cuộc một cách mạnh dạn, thẳng thắn là sau năm 1986.

Khi những tư tưởng đổi mới về văn hoá văn nghệ của Đảng đã “cởi trói” cho chiều hướng phát triển

của văn học nói chung thì phóng sự xuất hiện đúng lúc và kịp thời. Phương châm nhìn thẳng vào sự

thật, nói rõ sự thật mà cuộc đổi mới đề ra như mở ra cánh cửa để cơn gió phóng sự ùa vào một cách

mạnh mẽ. Với tinh thần can đảm vốn có của thể loại này, phóng sự đã có đất để dụng võ. Công cuộc

đổi mới không chỉ khôi phục lại địa vị xứng đáng của phóng sự trong báo chí và văn học mà còn tạo

nên một cuộc bức phá ngoạn mục lần thứ hai cho phóng sự. Đó là Vua lốp của Trần Huy Quang

(1987), Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc (1988), Mọi linh hồn đều được đưa tiễn (1991),

Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt (1996) của Xuân Ba; Phóng sự (Tuyển 1995) của Trần Huy

Quang; Hành trình tới chân ly của Trần Đình Bá (1995)...

Nét đặc sắc nổi bật của phóng sự giai đoạn này là sự mở rộng phạm vi đề tài trên cả tầm vĩ mô

và vi mô. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được Nam Hà, Đỗ Quảng khai thác. Đó là sự tái hiện lại hai

cuộc chiến bảo vệ biên cương Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đề tài kinh tế xã hội được Hữu Thọ, Đỗ

Quảng, Trần Huy Quang…phanh phui, mổ xẻ. Đó là cuộc đấu tranh chống lại thói bảo thủ trì trệ của

cơ chế quan liêu, bao cấp, chống thói buôn gian bán lận, làm ăn bất chính…Đề tài an ninh chính trị

cũng được khám phá qua những phóng sự về người tản cư ra nước ngoài, các lực lượng thù địch chống

phá cách mạng….Phóng sự thời kỳ này đã can đảm phơi bày những tiêu cực. Sự đa dạng về đề tài này

một lần nữa minh chứng cho cái nhìn phiến diện về thể phóng sự ở giai đoạn trước. Nhìn chung hai chủ

đề lớn được các cây bút phóng sự tập trung chú ý: biểu dương, ca ngợi những điển hình tiên tiến trong

mọi hoạt động của xã hội và phê phán những mặt trái tiêu cực của cuộc sống như tệ nạn trì trệ quan

liêu, tham nhũng, buôn lậu, đĩ điếm, sự hành hành trắng trợn của bọn xã hội đen…

Bối cảnh hiện thực mới cũng làm cho phóng sự có những cách tân về hình thức. Hiếm có

những phóng sự dài, thường là những phóng sự ngắn, đăng trọn trong một, hai kỳ báo, số lượng nhiều

nhưng thành tựu vẫn chưa đáng kể, chỉ mới phản ánh hiện tượng mà ít khi tìm ra bản chất quy luật của

cuộc sống để lý giải. Nếu phóng sự 1930 – 1945 có ranh giới giữa phóng sự văn học và phóng sự báo

chí là khá rõ ràng thì ở giai đoạn này là khá mờ nhạt. Có thể nói, thể loại phóng sự ngày càng phát huy

tác dụng tích cực, góp phần đáng kể vào việc lành mạnh hoá cuộc sống, xây dựng một xã hội dân chủ,

công bằng văn minh. Nhưng về phương diện nghệ thuật, vẫn chưa có nhiều nhà văn phóng sự có phong

cách nổi bật như giai đoạn 1932-1945.

Với chặng đường dài gần một thế kỷ hình thành và phát triển, phóng sự đã tạo nên những biến

thái bất ngờ. Sau sự xuất hiện một cách đột khởi đầy viên mãn, phóng sự như dòng chảy ngầm bền bỉ

và dai dẳng trôi qua hai cuộc chiến tranh có lúc tưởng như chìm hẳn và mất hút. Nhưng rồi phóng sự

lại phục sinh một cách mạnh mẽ, kỳ diệu trong thời kỳ lịch sử sang trang. Sự thăng hoa hoặc chìm lắng

đó đều mang những dấu ấn đặc thù của thể loại văn – báo quan trọng này.

1.2. Phóng sự bao chí và phóng sự văn học

Ngay từ khi mới ra đời, phóng sự 1930-1945 đã có sự phân biệt khá rõ phóng sự văn học và

phóng sự báo chí. Theo Bùi Huy Phồn:

Phóng sự tân văn là loại làm cho người đọc thấy người thật, việc thật ở một thời gian, không

gian nhật định với những tài liệu, số liệu cụ thể. Đọc nó quả có phần khô khan, vì nó chỉ nhằm

thuyết phục độc giả về mặt lý và nhẹ về mặt tình (…) Phóng sự văn học có những điểm khác

phóng sự tân văn, tất nhiên về căn bản vẫn giống nhau (…) Mặt khác, thể phóng sự văn học,

ngoài tính phản ánh người thật, việc thật còn thêm phần tả người, tả cảnh bằng hình tượng

nghệ thuật, và có xen kẽ những cảm nghĩ chủ quan của tác giả nên nó có sức thuyết phục về mặt

lý trí, cả về mặt tình cảm của con người” [57, tr.8].

Như vậy, Bùi Huy Phồn khẳng định phóng sự văn học và phóng sự báo chí cơ bản là giống

nhau, điểm mà tác giả chỉ ra sự khác biệt đó là phóng sự báo chí nặng về “lý”, nhẹ về “tình”, còn

phóng sự văn học thuyết phục người đọc cả về lý trí cả về tình cảm.

Cũng như Bùi Huy Phồn, Nguyễn Đình Lạp đã chia phóng sự thành hai loại: loại “có tính chất

báo, thông tin, tường thuật, báo cáo” và loại có “tính chất văn chương: điều tra, phỏng vấn, mẩu

chuyện phóng sự” [32, tr.310]. Rõ ràng, Nguyễn Đình Lạp bước đầu cũng có sự khu biệt khá rõ phóng

sự văn học và phóng sự báo chí.

Trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 21 ngày 26/5/1990, tại trang11, N. Đuytơne khi “Bàn về phóng

sự” cũng đã phân biệt khá rõ phóng sự văn học và phóng sự báo chí “Các nhà lý luận văn học xác

định một sự phân biệt rõ rệt giữa phóng sự báo chí – tường thuật các sự việc một cách trần trụi, không

“văn hoa” – với văn học phóng sự – cũng như phóng sự báo chí, vốn cũng dựa trên cơ sở các sự kiện

và nhân vật có thật nhưng khía cạnh văn học rất trau chuốt”. Mặc dầu chưa rõ nét, nhưng ý kiến này

bước đầu đã chú ý đến chất văn học – một điểm cơ bản để phân biệt phóng sự văn học và phóng sự báo

chí.

Như vậy, những ý kiến trên đều khẳng định sự giống nhau cơ bản giữa phóng sự văn học và

phóng sự báo chí là ở tính chân thật và tính thời sự của đối tượng phản ánh. Cái làm nên sự khác biệt

của hai thể phóng sự này là ở chức năng của thể loại: nếu phóng sự báo chí có chức năng phản ánh -

thông tin thì phóng sự văn học có chức năng phản ánh – thông tin – thẩm mỹ. Chính thông tin – thẩm

mỹ này tạo nên chất văn học cho phóng sự văn học.

1.2.1. Phóng sự báo chí

Do đảm nhận chức năng riêng biệt là phản ánh – thông tin nên phóng sự báo chí có những đặc

trưng riêng biệt về tính xác thực, tính thời sự và phương thức phản ánh.

Thứ nhất, tính xác thực và là một đòi hỏi có tính tuyệt đối của phóng sự báo chí. Nhà văn có thể

khép kín, không giao lưu xã hội vẫn có thể cho ra đời tác phẩm, kiểu như Đichkensơn (Mỹ) sau những

thất vọng về tình cảm đã tự khép mình trong ngôi nhà riêng và không giao tiếp với xã hội vẫn có vần

thơ hay. Báo chí thì khác, nhà báo không thể không lăn lộn vào xã hội mà vẫn có bài viết được. Báo

chí ở giữa cuộc đời, và cuộc sống có thể tràn vào báo chí với độ sâu rộng nhất, sinh động và thới sự

nhất. Chủ thể phản ánh là nhà báo phải trực tiếp chứng kiến những điều “mắt thấy, tai nghe”, những sự

kiện đang tồn tại, đang trôi chảy. Nội dung phản ánh phải chính xác nhất, chi tiết nhất, cụ thể nhất.

Không phải nhẫu nhiên mà người ta quen nhắc đến những tiêu chí xác định về không gian, thời gian,

nội dung sự việc của tác phẩm báo chí qua năm W: What? Who? Where? When? Why? Đây là những

tiêu chí nhằm đảm bảo tính xác thực của tác phẩm báo chí, tạo niềm tin tuyệt đối và có giá trị thuyết

phục độc giả cao.

Với phóng sự văn học, yếu tố xác thực không phải bao giờ cũng cần thiết. Phóng sự báo chí thì

khác, chính báo chí là tấm phiên bản trung thực nhất của đời sống, hay chính là đời sống trong dạng

được ghi chép, mô tả trực tiếp. Nhà báo không tái tạo cuộc sống như một số ngành nghệ thuật khác mà

giữ nguyên vẹn bức tranh cụ thể, chính xác đến từng chi tiết của đời sống xã hội. Báo chí có nhiệm vụ

chọn lọc, phân tích, đánh giá những hiện tượng của đời sống – những hiện tượng không bao giờ tồn tại

ở thế ổn định – bằng những nhận định đúng đắn, có giá trị. Vi phạm tính chính xác này, phóng viên có

khi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Thứ hai, tính thời sự là một trong những yêu cầu hàng đầu, là đòi hỏi vô cùng bức thiết mà

phóng sự báo chí phải đạt được. Những thông tin mà báo chí cập nhật trong mỗi thiên phóng sự phải

luôn nóng hổi, mới mẻ, đáp ứng yêu cầu đang hối thúc từng giờ, từng phút của dư luận. Phóng viên

phải tốc tả, khẩn trương, tức thời đưa lên mặt báo vấn đề dư luận đang quan tâm. Tránh tình trạng

“vuốt đuôi” khi sự việc đã xảy ra mới thông tin, bàn luận.

Thứ ba, phương thức phản ánh của phóng sự báo chí mang những đặc trưng riêng biệt. Điểm

giống nhau giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là đều thể hiện tính sinh động của ngòi bút

người kể chuyện, nghĩa là phải tìm tòi những hình thức diễn đạt sáng tạo, các bút pháp phải đa dạng,

kết cấu linh hoạt…để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Tuy nhiên, điểm làm nên sự khác biệt của phóng sự

báo chí với phóng sự văn học là phóng sự báo chí không chấp nhận mọi hình thức hư cấu. Không cần

đến những hình thức diễn đạt quanh co, gián tiếp, những ẩn dụ, phóng dụ, những thách đố về chữ

nghĩa, những trò chơi ngôn từ… Ngôn ngữ báo chí đòi hỏi tính chính xác cao, cô đúc, chọn lọc, mẫu

mực, đơn nghĩa. Cái Tôi tường thuật ở phóng sự báo chí phải là cái tôi nhân chứng khách quan. Nghĩa

là nhà báo phải có thái độ khách quan khi miêu tả hiện tượng và đánh giá bản chất. Tất nhiên, khách

quan chứ không phải là thờ ơ, lãnh đạm. Nghĩa là có cái tôi cảm xúc trước sự thật, nhưng đó không

phải là cảm xúc thẩm mỹ như ở phóng sự văn học. Cảm xúc nhưng phải tỉnh táo khi phản ánh, sắc sảo

khi lập luận.

1.2.2. Phóng sự văn học

Cũng như phóng sự báo chí, tính xác thực và thời sự cũng là nguyên tắc mà phóng sự văn học

cũng phải tôn trọng. Nhưng nếu như ở phóng sự báo chí, yêu cầu này đòi hỏi một cách tuyệt đối thì ở

phóng sự văn học, yêu cầu này không đặt ra một cách bức thiết. Bởi lẽ, phóng sự văn học không chịu

áp lực cấp bách của dư luận như phóng sự báo chí.

Là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, phóng sự văn học sáng tác những mảng khác nhau của đời

sống một cách khái quát thông qua nhân vật điển hình. Sự kiện, con người, tình huống mà phóng sự

văn học phản ánh không chỉ tiêu biểu mà còn chứa đựng yếu tố thẩm mỹ. Đây là đặc trưng khu biệt của

phóng sự văn học và phóng sự báo chí. Trong vô số cái bình thường, người viết phải biết phát hiện nét

điển hình. Phóng sự văn học không chỉ dừng lại ở việc tái hiện sự kiện mà còn phát hiện “vấn đề”,

thậm chí vấn đề mang tầm thời đại.

Cũng như phóng sự báo chí, phóng sự văn học cũng lựa chọn những phưng thức phản ánh thích

hợp để đạt hiệu quả. Phương thức làm nên sự độc đáo của phóng sự văn học là sự hư cấu. Hiện thực

không bao giờ đứng yên mà luôn vận động, biến đổi, nhà phóng sự văn học khó mà tường tận hết thảy

mọi việc. Vì thế, phải dựa vào năng lực phán đoán, tưởng tượng một cách khoa học, logic. Hay nói

đúng hơn là hư cấu. Tuy nhiên, hư cấu phải tăng ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật mà không ảnh

hưởng đến tính xác thực của hiện thực phản ánh “không được sử dụng một cách tuỳ tiện, ảnh hưởng

đến sự xác thực của nội dung, mà phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác

phẩm” [12, tr.221].

Như vậy, sự hư cấu trong phóng sự văn học diễn ra ở một “ngưỡng” cho phép:

Sự hư cấu trong phóng sự văn học chỉ diện ra ở phạm vi và mức độ nhất định. Thứ nhất,

phần nhiều chỉ ở mức độ hư cấu kĩ thuật: lựa chọn những hiện tượng có thực trong cuộc

sống, tổ chức. Sắp xếp, tô đậm, xoá mờ…để kết cấu tác phẩm một cách tối ưu, theo logic của

khách thể. Thứ hai, có thể dùng trí tưởng hợp logic để hư cấu nâng cấp những hiện tượng

ghi chép sự thật. Sự nâng cấp này không chỉ dừng ở việc hư cấu ở những thành phần không

xác định (như thế giới nội tâm của nhân vật…) mà trong một chừng mực nào đó, có thể sáng

tạo thêm những chi tiết, những dữ kiện mới, nhằm mục đích trình bày hiện thực cho đúng

bản chất của nó. Đấy là sự phản ánh và sáng tạo” [81, tr.47].

Cái tôi trong phóng sự văn học là cái tôi – nhân vật trần thuật. Cái tôi này thể hiện thái độ thẩm

mỹ trong việc thông tin sự thật. Từ sự dẫn dắt, thuyết phục, cái tôi này bộc lộ những tình cảm để bàn

luận, thuyết phục một cách chân thành tạo ra những văn bản thẩm mỹ đa nghĩa.

Về ngôn ngữ, phóng sự văn học không sử dụng ngôn ngữ tường minh, một tầng nghĩa như

phóng sự báo chí. Phóng sự văn học thuộc phạm trù ngôn ngữ văn chương nên nó có tính đa nghĩa:

không chỉ nói cái xảy ra mà còn gợi nhiều tầng nghĩa suy ra từ chính cái xảy ra đó. Nói như L.

Tônxtôi: “có thể gợi ra một tập hợp không sao kể xiết những ý tưởng, những tình cảm, những sự giải

thích”.

Phóng sự văn học có đặc điểm nổi bật là:

… không chỉ làm tròn chức năng thông tin mà còn đậm sắc thái trữ tình. Người đọc không

chỉ thấy sự kiện (thông qua vô số tình tiết, số liệu, thống kê…) mà còn thấy vấn đề; không

chỉ thấy những phiến đoạn khác nhau của đời sống mà còn đến được với thế giới nội tâm,

hiểu được hoàn cảnh và tính cách, thấm thía với số phận của một số nhân vật. Rất tự nhiên,

phóng sự trở thành cầu nối vững chắc cho hai vùng đất báo chí và văn chương. Nó làm cho

báo chí thêm sức hấp dẫn và làm cho văn chương thêm giàu có, gần với đời thường.[19,

tr.1422].

1.3. Mảng phóng sự viết về đề tài nông thôn

Trong khi các nhà phóng sự hướng ống kính về thành thị để phản ánh cuộc sống muôn mặt đầy

những bi hài của xã hội thì mảng hiện thực về nông thôn cũng có những lực hút mãnh liệt đối với các

cây bút phóng sự đương thời. Hiện thực nóng hổi đang còn khuất lấp sau những luỹ tre xanh đã hấp

dẫn các nhà phóng sự. Phóng sự về những miền quê đã có được những bức tranh đầy ấn tượng, mặc dù

số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng đó thực sự là những tác phẩm có giá trị.

Nông thôn Việt Nam 1930-1945 qua các phóng sự không còn là những miền quê yên ả thanh bình

nữa mà là một hiện thực đau lòng. Đó là một nông thôn của “nước ao tù, phân người và rác”, một

nông thôn với hàng trăm thứ hủ tục, lệ làng lạc hậu đã nhấn chìm người dân vào cảnh khốn cùng,

những áp bức bất công đè lưng cưỡi cổ những kiếp người vô tội. Dọc theo chiều dài của đất nước,

nông thôn Việt Nam 1930 -1945 lần lượt hiện lên một cách sinh động, rõ nét qua những thiên phóng

sự xuất sắc: nông thôn miền Bắc được tái hiện qua Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố, Làm

dân, Xôi thịt của Trọng Lang, Bùn lầy nước đọng của Hoàng Đạo, Cơm thầy cơm co của Vũ Trọng

Phụng…, nông thôn miền Trung nổi bật bởi Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi, tại vùng sông nước

Nam Bộ, những miền quê lại được hiện lên trên bức tranh Đồng quê của Phi Vân. Tất cả là những

mảng màu sinh động tập hợp lại tạo nên bức tranh toàn cảnh của nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đầy

những bề bộn, thối nát, đói rách và lạc hậu.

Trong số những cây phóng sự về nông thôn Việt Nam, Ngô Tất Tố nổi lên như một tác gia tiêu biểu

nhất. Trình làng với hai tập phóng sự Việc làng, Tập án cái đình, Ngô Tất Tố trở thành “nhà văn của

hạng dân quê nghèo và dốt” (Vũ Ngọc Phan). Ông đã phơi bày ra ánh sáng hàng trăm hủ tục, lệ làng

quái lạ đè nặng lên bao kiếp người từ đời này sang đời khác như một định mệnh. Những cảnh ngộ

thương tâm, nực cười ở chốn thôn quê cứ phơi bày ra trước mắt như những bằng chứng sống cho bản

cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn thực dân phong kiến. Một cổ hai tròng, người dân không thể

ngóc đầu lên được, họ cứ mãi mu muội trong kiếp nô lệ mà không đường thoát. Tiếp nối dòng cảm

hứng của Ngô Tất Tố, Trọng Lang cũng thêm một nét vẽ nữa về những khốn khổ của người dân trước

những hủ tục vô nhân đạo: “lùi lại một bước là Hà Nội với tất cả những tráng lệ và trưởng giả của một

đế đô. Nhưng chỉ tiến một bước thôi, lại là một làng có hơn trăm suất đinh, vẫn nhất định, sau luỹ tre,

khư khư ôm những hủ tục, những nhân vật mà lẽ sống, trước ngày 9 -3 là xôi thịt, và sau ngày 9, lẽ

sống vẫn lại là xôi thịt như thường”. Và tất nhiên, số phận của người dân “suốt đời nghèo xơ, nghèo

xác, ăn không đủ, mặc không đủ” là điều hiển nhiên. Ông vua phóng sự đất Bắc Vũ Trọng Phụng tỏ ra

xuất sắc khi cho ra đời Cơm thầy cơm cô – một phóng sự tiêu biểu hội tụ tài năng của một ngòi bút

huyền thoại. Phóng sự miêu tả cảnh những người dân quê mùa, khốn khó bỏ thôn quê nghèo lên thành

phố kiếm sống. Ở “miền đất hứa” này, họ phải chịu cảnh chết đói lần thứ hai, phải chứng kiến cảnh

“giá con người ngang hàng với giá loài vật”.

Không chỉ tập trung mô tả những hủ tục, các nhà phóng sự còn hướng ống kính về những tai hoạ

khác đổ ập vào đầu người dân. Đó là những thủ đoạn bẩn thỉu của đám cường hào trong Túp lều nát mà

Nguyễn Đổng Chi nói ngay trong lời tựa: “sau hơn năm tháng trời dụng công để nhìn, để nghe những

cảnh tượng mà tôi không thể tin được là có xảy ra – và xảy ra luôn – ở trên đất có đến hai chính phủ

trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc”, dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trần Ai, bức tranh quê vùng nông

thôn xứ Nghệ hiện ra vô cùng ảm đạm, trong đó người nông dân như một “loài động vất ngắn cổ”

phải chịu cảnh sưu cao, thuế nặng và những kiểu bóc lột trá hình khác. Tác giả Túp lều nát đã bóc trần

bộ mặt hiện thực của bọn hào lý với những thủ đoạn nham hiểm, táng tận lương tâm đã làm cho túp lều

che chở cho người nông dân ngày càng trở nên mục nát. Tác giả đã gióng lên một hồi chuông báo

động: “rằng có một túp lều sắp đổ!”

Xuôi về miền quê Nam Bộ, mảnh đất hiền hoà này cũng thấm đẫm nước mắt và đầy rẫy tiếng rên

oán hờn của người nông dân trước những áp bức bất công của đám chủ điền độc ác, dâm ô. Đau lòng

trước hiện thực ấy, năm 1943, Phi Vân cho ra đời tập phóng sự Đồng quê – một tác phẩm xuất sắc,

miêu tả chi tiết sinh động những cảnh sinh hoạt, tập tục ở vùng quê Nam Bộ. Tác phẩm được giải nhất

- giải thưởng Văn chương do Hội Khuyến học Cần Thơ tổ chức. Tiếp tục đề tài quen thuộc, Phi Vân

viết tiếp Tình quê, Dân quê, tiếp tục vạch mặt chỉ tên những viên chức làng xã độc ác, tham lam dốt nát

do thực dân Pháp lập nên. Bằng thái độ tích cực, tác giả đặt ra yêu cầu cấp thiết, đúng đắn, có giá trị

thức tỉnh mạnh mẽ: “Cần phải phá nát chế độ mà ta đang sống, cần phải dựng một cái gì mới mẻ hơn”

(Dân quê).

Ngoài ra, đời sống nông dân miền biển cũng được L.P phản ánh sinh động trong phóng sự Một cuộc

điều tra muối (Tin tức, số 22- 27, tháng 7, 1938). Cảnh thiên tai đói kém của nông dân Kinh Bắc và sự

ăn chặn đồ cứu tế của đám cường hào lại được Đ.K phản ánh khá sinh động trong Câu chuyện Bắc

Giang (Tin tức, số 10 – 18, tháng 6, 1938)...

Bức tranh hiện thực đầy u tối, xám xịt, đói rách và lạc hậu của nông thôn Việt Nam 1930 – 1945

đều lọt vào tầm ngắm của các nhà phóng sự. Muốn phá bỏ những gì là dã man, vô nhân đạo, muốn

hướng tới một xã hội công bằng, tươi sáng hơn, các nhà phóng sự đã thể hiện ý tưởng và niềm tin của

mình trong những thiên phóng sự. Điều đáng ghi nhận là, không chỉ phản ánh hiện thực mà phóng sự

nông thôn còn là những bản cáo trạng đanh thép tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời gióng

lên những hồi chuông cảnh tỉnh xã hội vô cùng sâu sắc.

Chương 2

NỘI DUNG HIỆN THỰC VÀ CẢM HỨNG TƯ TƯỞNG TRONG CÁC PHÓNG

SỰ VỀ NÔNG THÔN

2.1. Hiện thực nông thôn Việt Nam trong các phóng sự

2.1.1. Bức tranh phong cảnh và phong tục

2.1.1.1. Những cảnh vật nông thôn.

Đề tài nông thôn không hề mới lạ, tuy nhiên, để khắc hoạ được một bức tranh quê với đủ các

diện mạo, màu sắc của nó không phải là dễ. Phóng sự 1930 - 1945 đã làm được điều đó. Đọc những

phóng sự này, ta có thể nhận diện được bối cảnh nông thôn Việt Nam một cách toàn diện với những

đặc trưng vùng miền khó lẫn.

Cảnh vật nông thôn Bắc Bộ trong phóng sự Xôi thịt của Trọng Lang chỉ hiện lên thấp thoáng, mờ

nhạt nhưng cũng đủ để toát lên một bức tranh tiêu điều, xơ xác và tàn lụi.“Ở đây chỉ có nước, ao tù,

phân người và rác (…) vẫn phân, vẫn rác. Vẫn thế. Vẫn bẩn ghê người” (Xôi thịt).

Bên cạnh Xôi thịt của Trọng Lang là những thiên phóng sự của Ngô Tất Tố. Sức nặng của

những phóng sự này không phải là miêu tả những cảnh vật nông thôn, trong khi chuyển tải những “vỉa

quặng sự thật” vốn bị chìm lấp, ta cũng nhận ra đôi nét sơ lược về một nông thôn Bắc Bộ đang quằn

quại trong sự khắc nghiệt của tiết trời nơi đây. Có khi là hạn hán, là cái nắng gay gắt, chói chang của

mùa hè: “ánh nắng như thiêu đốt càng dữ, trên đường thỉnh thoảng lại thấy khét lửa cháy.”[53, tr.22].

Có khi là cơn báo thù tàn nhẫn của thời tiết: “Hôm nay ông thần Hạn đã báo thù trần gian một cách

tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất tuy không chảy mỡ

nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt” (53, tr109). Có khi lại là cơn giận dữ bất ngờ của trời đất đem giá

lạnh đến cho con người, những cảnh phong vũ bất tình: “Gió bấc”, “những luồng chớp”, “những tiếng

sét vỡ trời”[53, tr.96]. Có khi lại là cảnh điêu linh cùng khổ của người dân khi phải chống chọi với lũ

lụt...

Cảnh sắc nông thôn Bắc Bộ hiện lên với tiết trời khắc nghiệt, nắng như thiêu như đốt, lạnh thấu

xương, tang thương vì mưa gió bão lụt, dơ bẩn vì lạc hậu, đói nghèo. Nếu như các nhà văn lãng mạn

chủ nghĩa thường phản ánh sai lệch, hoặc thi vị hoá cuộc sống nông thôn với thế giới của những đêm

trăng, những ngày hội, những cô thôn nữ xinh đẹp, ngây thơ, những mối tình đậm đà, chất phác…thì

với các nhà văn hiện thực, cảnh vật ở nông thôn mới được phản ánh một cách chân thực như vốn có.

Đối lập với những cảnh vật đang bị quay cuồng trong giông bão, gió rét, hạn hán, lụt lội ở nông

thôn Bắc Bộ, những cảnh vật ngày ngày ngày đang rỉ máu nhầy nhụa do tội ác của thực dân ở nông

thôn Trung Bộ là bức tranh đồng quê tươi tắn đến lạ thường trong phóng sự của Phi Vân. Phi Vân đem

đem đến một hơi gió mát trong bức tranh vốn ngột ngạt những vấn đề xã hội quyết liệt.

Người đọc có thể nhận thấy một bối cảnh nông thôn miền Nam toàn diện trong ba tác phẩm quí giá

của ông: Đồng quê, Dân quê và Tình quê. Trong đó, Đồng que được nhiều người biết hơn cả không chỉ

vì phóng sự này đoạt giải nhất cuộc thi văn chương của Hội khuyến học Cần Thơ mà bởi lẽ nó để lại

một ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một vùng quê sông nước Nam Bộ với những đặc trưng khó lẫn.

Truyện mở ra trước mắt chúng ta những cảnh đẹp êm đềm sông nước với những hàng dừa nước âm u,

bên những con sông, kênh, rạch vùng Bạc Liêu, Cà Mau, văng vẳng giọng hò trầm bổng.

Chỗ hứng thú của thiên phóng sự là ta thấy mình len lỏi chốn đồng quê, đang mục kích những cuộc

tụ họp chơi bời, những cảnh cần lao rộn rịp. Thỉnh thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám

gặt, như phất lại mùi hương thanh đạm của lúa vàng.

Ta còn đi quanh co những con sông rạch ở vùng Bạc Liêu, Cà Mau, được nhìn thấy những cảnh sắc

êm đềm:

Làng Thới bình nép mình trong chòm dừa xanh rậm. Vài xóm nhà lá leo heo ở dọc theo bờ

kinh nhỏ yên tĩnh với tháng ngày. Cứ mỗi buổi sáng là đàn ông, đàn bà lẫn cả con nít vác cuốc

ra đồng, quanh năm làm bạn với mấy mẫu ruộng nhà, vài công rẫy khóm. Ở đầu kinh trông ra

dòng sông Trẹm, một cái chợ nho nhỏ nổi lên.(…) Dòng sông Trẹm lững lờ trôi ngang và ban

chiều, trong chòm dừa xanh ấy, mấy làn khói trắng bốc lên…Người đàn bà xong việc bếp núc,

ẵm con ra đợi chồng về, lâu lâu đuổi bay gà đang bươi trên giồng rau cải. [89, tr.64-65].

Cảnh vật thật trữ tình! bên bờ sông Trẹm, lững lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa

xanh tươi, một thiếu phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu lâu đuổi bầy gà đang bới trên những giồng rau

cải; giữa đêm trường vắng vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo rạch Bần, trông lên bờ sau hàng dừa nước

âm u, một vài ánh đèn le lói, nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm, bầu trời đầy sao,

cảnh đêm ảo huyền thơ mộng:

Đêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh in trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng

ngủ trong ánh sáng mờ mờ. Gío thoảng từng hồi, từng hồi, ngọn lúa cựa mình xào xạc. Tiếng

vạc sành vang lên trong im lặng, xa xa. Tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu, rối nhẹ

nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca.[89, tr.108]

Cảnh làm cho tâm hồn con người gắn bó với quê hương, thiết tha với non sông đất nước. Những

giây phút kỳ diệu, thả hồn mình đắm chìm trong thiên nhiên đất trời, để nghe thấy tiếng gió thoảng

từng hồi, tiếng vạc sành văng vẳng từ xa, rồi khoan khoái rung đùi mà buông lời ca tiếng hát như vậy

thật không có gì bằng!

Bên vàm, hàng dừa nước âm u, lâu lâu thấy le lói một ánh đèn, bên bờ kia thình thoảng nghe

tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay, chỉ có vành trăng hai mươi bốn, nhưng sao

đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh vật thêm ảo huyền, thơ mộng. Một làn gói nhẹ thoảng

qua, tâm thần tôi thêm sảng khoái. [89, tr.72-73]

Bên cạnh cảnh đẹp của thiên nhiên, ta còn thấy trên vùng đất nguyên sơ này có vô số động vật quí

hiếm mà thiên nhiên “hào phóng” ban tặng: trúc, rái, chồn, rùa, kì đà, ong mật, cá, tôm... Trên đường

vào kênh Hang Mai, “người ta có thể gặp những con trúc, rái, kỳ đà, chồn, ong mật và vô số cá”. [89,

tr.4] Người đọc còn thích thú khi thấy cảnh con nít ở Kiến vàng ngụp lặn trong thế giới phong phú các

đặc trưng sản vật của vùng sông nước Nam Bộ:

..rừng rậm chông gai, bắt rắn như bắt ếch, bắt chim như bắt gà, (…) có thể lôi đầu mấy con

rắn hổ ngựa từ trên cây xuống…đá như đá ba-lông (..) nắm chóp hết những con kỳ nhông rắn

mối ra “rôti”…nhậu rượu!(…) mò lên một mớ tôm cá (..) ra vàm sông Mang-giổ ban đêm soi

sấu, vớt những con sấu con…[89, tr.90-91].

Thiên nhiên là kho tàng vô giá đem đến cho con người Nam Bộ một nguồn sống tràn trề. Họ thoả

sức ngụp lặn trong một thế giới vừa thơ mộng, trữ tình vừa dạt dào sức sống.

Để đặc tả cảnh nông thôn Nam Bộ kênh rạch chằng chịt, Phi Vân đã dùng ba chi tiết tiêu biểu nhất

là “kinh”, “ngách”, và “trấp” để khái quát lên bức tranh của một vùng quê sông nước, nào “Kinh Hang

Mai”, nào “kinh Biện Nhị”, “chúng “quanh co như “cửu khúc xà!. Nó có không biết bao nhiêu ngách

và không biết bao nhiêu trấp cản đường.”[89, tr.4].

“Tàu chạy hôm nay nữa là hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, đầm Cùn, kinh xáng Thọ

Mai, nhưng xóm Kiến vàng vẫn còn xa lơ, xa lắc”. [89, tr.18]. Phi Vân miêu tả tỉ mỉ đoạn hành trình

đầy gian khổ ở một đám rước dâu phải đi qua biết bao kinh rạch như vậy để gián tiếp cho thấy một

mảnh đất đồng bằng trời nước bao la.

Ngân vang trên nền cảnh vật tươi xanh trữ tình của vùng quê Nam Bộ là những điệu hò, là những

câu hát ru làm cho bức tranh cảnh vật thêm trữ tình và lãng mạn. Đó là những bữa trưa hè oi ả, trời

nóng nung người, văng vẳng từ đâu vọng lại tiếng võng kẽo cà kẽo kẹt ru con:

Tháng ba cơm gói ra hòn

Muốn ăn trứng nhạn phải vào Hang Mai

Tiếng hò đấy cứ văng vẳng bên dòng sông Trẹm, trong một buổi hoàng hôn làm người đọc nao

lòng: “Thế rồi một buổi chiều. Làng Thới bình chìm đắm trong buổi hoàng hôn. Vòm sông Trẹm chỉ

còn văng vẳng tiếng hò của một vài khách thương hồ” [89, tr.71]. Rồi tiếng hò lại thỉnh thoảng vang

lên trong nhiều trang của tập phóng sự: “Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một điệu hò mê ly,

đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong lặng lẽ”… [89, tr.73]

Âm thanh êm ái, trữ tình của những điệu tiếng hò có thể xem là “đặc sản” của vùng đất Nam Bộ.

Người đọc có thể miên man trong những lời ca, điệu hát và cảm thấy tâm hồn như được thanh lọc, thư

thái hơn, thuần khiết hơn.

Nông thôn Nam Bộ hiện lên trong trang viết của Phi Vân tươi tắn đến lạ thường! không phản ánh

một cách sai lệch hay thi vị hoá cuộc sống nông thôn như các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa, cảnh vật

nông thôn hiện lên trong tập phóng sự Đồng quê của ông hết sức chân thật và sinh động . Là mảnh đất

được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng cho sự trù phú, màu mỡ, cảnh vật nơi đây cũng êm đềm, tinh khiết

đến tuyệt vời! Vẻ đẹp đó dường như làm dịu nhẹ hẳn cái không khí gay gắt, nặng nề mà hằng ngày con

người phải đối mặt.

Đúng như bài diễn văn của GS Nguyễn Văn Khiết, chủ tịch Uỷ ban Văn chương của Hội Khuyến

học Cần thơ đánh giá về Đồng quê của Phi Vân: “Quyển phóng sự như một tấn tuồng gay cấn đặt

trong cảnh trí tươi xanh..”!

2.1.1.2. Những sinh hoạt, phong tục truyền thống đậm bản sắc văn hoá.

Những sinh hoạt văn hoá, những phong tục truyền thống của nông thôn Việt Nam được Ngô Tất

Tố thể hiện khá sinh động trong Việc làng và Tập án cái đình. Mặc dù nhìn ở góc độ những hủ tục,

nhưng người đọc vẫn thấy gốc gác cái đình cùng bao câu chuyện, tập tục lạ lùng đến cười ra nước mắt

của đời sống dân quê quanh ngôi đình làng quen thuộc, nơi cố kết các phong tục tập quán và đời sống

văn hoá tâm linh dân gian. Kiến thức lịch sử văn hoá và sự am hiểu đến chân tơ kẽ tóc phong tục, đời

sống tinh thần và tâm linh người nông dân Việt Nam hiện lên lồ lộ trên từng trang viết. Sau mỗi trang

viết ấy, người ta nhận ra gốc gác, vốn sống, tính cánh của người cầm bút Ngô Tất Tố: con người của

làng xã và con người của nhà nho. Đúng như lời nhận xét của Vũ Ngọc Phan: “Ngô Tất Tố là nhà văn

của hạng dân quê nghèo và dốt”.

Không nhìn từ mặt trái của những phong tục tập quán như Ngô Tất Tố, Phi Vân lại đưa người

đọc trở về với cội nguồn bản sắc dân tộc qua những phong tục tập quán của người dân Nam Bộ. Có thể

nói, sẽ không thể có một bức tranh hoàn chỉnh về nông thôn Việt Nam trong phóng sự 1930-1945 nếu

không khẳng định những đóng góp tích cực của Phi Vân – “một Ngô Tất Tố phương Nam” – giúp

chúng ta cảm nhận những nét đặc sắc độc đáo của nông thôn Nam Bộ. Tập phóng sự Đồng que của ông

không chỉ là bức tranh cảnh vật tươi tắn của chốn đồng quê mà còn là bức tranh phong tục mang đậm

bản sắc văn hoá.

Vùng quê sông nước Nam Bộ tuy là ít lễ nghi, phong tục, nhưng với phóng sự Đồng quê, Phi Vân

đã giúp người đọc cảm thấy thích thú khi cảm nhận những nét đặc sắc, độc đáo về những phong tục,

những lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá của người dân Nam Bộ. Những phóng sự ngắn đều là một số

đặc tả chớp nhoáng về khung cảnh sinh hoạt, vui chơi, lễ tục … của vùng sông rạch ở cực Nam đất

nước. Đó là những lễ cưới và những buổi hội hát diễn ra trên vùng đất sông nước mênh mông. Đặc tả

nào cũng giàu tính kịch và gần như những truyện ngắn.

Do điều kiện địa hình sông nước, dĩ nhiên, việc đi lại không thể là xe cộ mà phải là ghe xuồng, và

tất nhiên mọi hoạt động phải “thuận theo con nước”: nước lớn, nước ròng. Bởi đó mà đám cưới ở mảnh

đất sông nước này nghe chừng cũng trái khoáy, nhà trai nhà gái, cô dâu chú rể đều ở trên ghe, đám

cưới càng nhiều ghe càng long trọng. Muốn ăn trứng nhạn và Trao thân con khỉ mốc là hai đám cưới

bằng thuyền, diễn ra trong hai hoàn cảnh khác nhau: một đám cưới đêm phải vượt qua Hang Mai, với

đoạn đường trên ba chục cây số, rủng rình khăn lượt quần là ngồi nghe tiếng đàn vọng cổ. Một đám

khác thì phải chạy tàu suốt mấy ngày đêm trên sông nước. Rước dâu phải đúng giờ “lành” thì cô dâu

chú rể mới hạnh phúc vẹn toàn: “Đàng trai lại rước dâu vào lúc mười giờ tối. Lễ xong, chúng tôi

xuống ghe luôn. Đằng trai đi hai ghe, đằng gái theo hai ghe, một ghe ông bà già cả, một ghe thanh

niên. Ai trông thấy cũng thì thào khen ngợi, không hổ danh ông Xã chút nào”. [89, tr.6].

Người dân quê tuy ít học, vì không có điều kiện, nhưng họ biết quí trọng chữ nghĩa, tài nghệ. Bởi

những người có học, có nghề bao giờ cũng được họ nể trọng, thỉnh mời trong những dịp lễ hội. Đám

cưới cũng vậy, họ cũng chuẩn bị rất chu đáo, mời những người có học, có tài để đám cưới thêm phần

long trọng: “Thằng Sáu mầy có tài ăn nói, thằng Năm mầy có ngón đàn hay, vậy bay vui lòng theo tao

qua bên “đằng trai” cho “rôm”và để bên ấy biết rằng làng mình cũng có lắm nhân tài.”[89, tr.4-5].

Ở một đám dâu khác, Phi Vân miêu tả khá tỉ mỉ: Chú rể xúng xính “khăn đóng, áo dài”, có cả ông

chủ hôn, “Đi họ còn có cả ba cô gái: áo tím, áo xanh, “bọt đê” dài thườn thượt. Họ tỉ mỉ từng chút,

luôn luôn khẽ nhặt sống áo và lai quần hàng thẳng bóng để đôi giày cườm khỏi vướng mà làm lấm hư

đi…” [89, tr.18 -19].

Người ta hấp tấp sửa soạn. Hương Ba gò gẫm khăn đóng cho ông Cai Sót; chàng rể cài

khuy cho ông Chánh Khá. Bà sui trai và hai người đàn bà đi họ, mấy ngày giam hãm trong

chiếc buồng con đằng sau lái tàu để xới trầu và xỉa thuốc, bây giờ cũng thấy hăng hái xếp

đặt lại cái hộp trầu. Ba cô thiếu nữ nheo mắt lo đánh vội một lớp phấn và còn rán vẽ được

hình trái tim trên đôi môi đỏ óng. Người ta phủi lại nếp áo, người ta chùi sơ lớp bụi đóng

trên mũi giày.(…) Ông Hương Ba đã hờm sẵn khay trầu rượu, xây qua dặn chàng rể:

- Lúc làm lễ, hễ tao đặt khay trầu rượu ở bàn nào thì vợ chồng mầy sẽ lạy ở bàn đó… mà

nhớ luôn luôn đứng bên tay trái nghe, “nam tả nữ hưũ (..) Cả đoàn lần lượt lên bờ và sắp

hàng có thứ tự đi vô sân, đứng đợi. Trong nhà khách, ba bốn ông lão đang nói chuyện vang

quanh chiếc bàn tròn trải thảm đỏ! Mấy cây nến sáp rọi sáng cả gian nhà. Một bọn trai

tráng mặc áo dài đen chạy lăng xăng, pha trà, bưng chén. Họ đằng trai vẫn đứng ngoài chờ.

[89, tr.20-21-22].

Trong lúc chờ đến đúng giờ mới rước dâu, nhà trai đặt khay trầu rượu lên bản giữa, xin dán đôi liễn

giao hiếu lên cột, ông tộc trưởng lẩm nhẩm đọc những câu liễn mà không ai hiểu được, ông chủ hôn

Hương Ba phải cắt nghĩa tững chữ, đến lễ trình đồ nữ trang: chiếc vòng, dây chuyền và đôi bông nở,

tiếp sau đó là lễ lên đèn làm lễ cưới, rồi lễ trao thân gửi mình, cuối cùng đám bưng mâm hộ tống cô

dâu xuống thuyền, giựt chuông mở máy. Vào xin cưới chưa đúng giờ sẽ bị nhà gái hạch sách, đồ dẫn

cưới không được thiếu món này món nọ… Phi Vân đã miêu tả hết sức tỉ mỉ từng chi tiết giúp người

đọc hình dung khá rõ phong tục đám cưới của dân quê nơi đây.

Lễ cưới là phong tục có tính truyền thống từ lâu đời đối với người dân Việt, mỗi địa phương, vùng

miền có mỗi phong tục khác nhau. Nam Bộ là vùng đất mới khai phá, dân tứ phương dễ xem như anh

em “tứ hải giai huynh đệ”, tuy không nặng phong tục tập quán, nhưng những lễ nghi phong tục thể

hiện sự thiêng liêng của buổi hôn lễ đã được người dân vùng đất mới này lưu giữ, cải biến cho phù hợp

với môi trường và hoàn cảnh mới. Phi Vân đã khéo làm sống dậy những tục cưới độc đáo, mang đậm

bản sắc dân tộc của người dân vùng sông nước Nam Bộ này.

Bên cạnh phong tục tập quán của những lễ cưới là những buổi diễn tuồng. Đó là câu chuyện một

buổi diễn tuồng Phụng Nghi Đình ở làng quê trong Đổng Trác biết sập giàn. Ở đây sinh hoạt tinh thần

cũng nghèo như đời sống vật chất của họ. Họ luôn khao khát có được niềm vui, cuộc sống tinh thần, từ

những buổi cúng đình có ghe hát đến giúp vui. Họ náo nức, chờ đợi :

Đình đang buổi Kỳ yên. Người ta dọn sẵn sàng tất cả, chỉ chờ ghe hát đến là lên giàn. (…)

Người ta thấp thỏm chờ đến buổi chiều. Trẻ con rộn rực đòi áo quần, xin xu ăn bánh; các

anh trai tráng nôn nao bỏ giấc nghỉ trưa, ở luôn ngoài ruộng đợi chiều về sớm một chút, các

cô gái, mặt trời chưa chênh bóng là đã lo làm cá nấu cơm. Khi tiếng trống “thùng thùng”

nổi lên trên xóm đình, thì dọc theo bờ ruộng đã thấy lũ lượt kẻ năm người ba kéo nhau đi

xem hát.[89, tr.41-43]

Diễn tuồng còn được miêu tả trong Chợ hay quê, đây là cảnh sinh hoạt tuồng hát ở một nơi nửa

quê, nửa tỉnh. Người ta mượn miếu Bà Chúa Xứ bên kia con sông Lộ làm nơi diễn tuồng cho cả vùng

Cà Mau đến thưởng thức. Cả tháng không nghỉ đêm nào. Các gánh hát tụ tập ngày càng nhiều xung

quanh miếu Bà Chúa Xứ. Bọn trai gái và những viên quan ký lục, quan Pháp, thầy thuốc…được dịp

đến đó để chơi bời, xem các ả đào hát. Những buổi xem diễn tuồng ở rạp trở thành thói quen không thể

thiếu:

Rồi tối đến, người ta đem cắc bạc bỏ vào cái thùng của cô Tám, con ông Hội Trưởng và vô

để xem một đệ nhất anh hùng của thời Tam Quốc!

Đêm sau, rồi đêm sau…

Thói quen, thằng Tám Méo cũng quen. Cả xóm đều quen…Cả Cà Mau quen luôn! Hát bóng

nói ở các tỉnh lớn dễ đã được hoan nghinh hơn! [89, tr.83-84].

Một đặc trưng mang đậm nét văn hoá nữa mà Phi Vân miêu tả rất sinh động trong phóng sự Đồng

quê là những điệu hò, câu hát thỉnh thoảng được cất lên trong cuộc sống hằng ngày của người dân quê

Nam Bộ. Tiếng hò thường được cất lên trên ghe xuồng chèo trong đêm khuya thanh vắng, giữa đồng

không mông quạnh. Tiếng hò có lẽ đáp ứng được nhu cầu chia sẻ tâm sự của con người ở miệt đồng

quê sông nước. Người chèo ghe hò có khi để xua tan cơn buồn ngủ, có khi tiếng hò vang xa trong đêm

thanh vắng để tìm được lời đồng vọng. Người ở trong mui ghe thì sinh hoạt văn nghệ bằng tiếng đờn

hay những câu ca vọng cổ. Muốn ăn trứng nhạn (Đồng quê) miêu tả sinh hoạt này khá rõ nét:

Vào một đêm không trăng. Sao đầy trời. Bóng đêm bao phủ như bức màn mờ. Gặp mùa gió

bấc, ngồi trong mui chẹt ghe hơi sương xuống cũng đủ lạnh lùng. Thỉnh thoảng ngọn gió

đông hiu hắt lùa vào khoang gần tắt phụt ngọn đèn dầu. Bên ngoài các anh chèo vừa nhịp

mái ăn rập vừa “hò khoan” vang dậy. Bên trong, ngồi đối diện với mấy cô áo màu xanh đỏ,

thằng Năm cảm hứng lên dây Tố Lan đàn một bài vọng cổ rặc “mùi”[89, tr.6-7].

Cũng có khi người ta dùng tiếng hò như một thứ mẫn dụ tình cảm. Tiếng hò trong đêm vắng là

cuộc đối đáp bằng tiếng hò giữa một đôi nam nữ trên hai con thuyền giữa sông nước mêng mông.

“Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một điệu hò mê ly, đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong

lặng lẽ” [89, tr.73]. Hai tiếng hò điệu nghệ gặp nhau, họ trổ hết tài nghệ ra để đẩy đưa, đưa đẩy. Hò

dài đối dài, hò ngắn phải đối ngắn, có lúc anh chèo mê mẩn, say sưa, cảm động trước lời ca đầy hữu ý,

nhưng cũng có lúc gay cấn làm anh chèo phải cứng họng. Cứ thế, những lời ca thông minh, tế nhị trong

ca từ, thướt tha, uyển chuyển trong từng điệu nhạc đã cuốn lấy nhau, vọng mãi trong đêm khuya thanh

vắng.

Cứ tưởng rằng, những bức tranh phong tục, những sinh hoạt văn hoá mang đậm bản sắc không thể

có chỗ trong thể phóng sự – một mảnh đất chỉ dung nạp những vấn đề gai góc, nóng bỏng. Vậy mà Phi

Vân – một Ngô Tất Tố phương Nam - đã thổi được linh hồn của vùng quê Nam Bộ vào với thể loại

vốn khô cứng này. Phi Vân đã làm được một điều hết sức quan trọng là đã khắc hoạ rõ nét phần còn

thiếu trong bức tranh quê Việt Nam, làm cho nó đầy đủ hơn, toàn diện hơn.

2.1.2. Bức tranh hiện thực xã hội nhức nhối

Những mảng hiện thực được thể hiện trong phóng sự viết về đề tài nông thôn Việt Nam 1930 –

1945 chủ yếu là những tệ nạn xã hội nhức nhối, những hủ tục lạc hậu đang bao trùm lên làng xóm thôn

quê. Những cây bút phóng sự sắc nhọn như Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng

Chi, Phi Vân … đã đào xới thêm những vấn đề mới, để nhận thức thêm những phương diện mới, lật

tung cái mặt trái đầy ung nhọt ở một cơ thể đang băng hoại của chế độ thực dân nửa phong kiến thời

Pháp thuộc.

2.1.2.1. Những tệ nạn xã hội

Cũng như các nhà văn đương thời, những cây bút phóng sự viết về nông thôn cũng hướng ngòi

bút của mình vào việc khám phá những tệ nạn xã hội nhức nhối, những vấn đề xã hội thương tâm.

Bằng nhãn quan sắc sảo và ngòi bút hiện thực năng động, táo bạo, các họ đã lật tung những vấn đề xã

hội thuộc hàng quốc nạn lúc đó là tệ nạn tham nhũng, nạn sưu cao thuế nặng, chế độ hào cường, nạn

phù thu ăn chặn, và cả nạn tôi đòi con ở… Từng mảng đời sống xã hội cứ hiện dần lên trong trang viết

của các nhà phóng sự hợp thành bức tranh rộng lớn, phong phú và rất đậm nét.

Trước hết là nạn sưu cao thuế nặng khiến người nông dân phải sống trong cảnh lay lắt, éo le

được nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và sử học Việt Nam Nguyễn Đổng Chi dưới bút danh Nguyễn

Trần Ai Mộng Thương thư trai Hà Tĩnh thể hiện khá sinh động cụ thể trong tập phóng sự Túp lều nát

(1937). Tập phóng sự gồm bài tựa và 13 chương. Dưới ngòi bút phóng sự sắc sảo của Nguyễn Trần Ai,

bức tranh quê vùng nông thôn Nghệ Tĩnh hiện ra vô cùng ảm đạm, trong đó người nông dân như một

“loài động vật ngắn cổ”. Chỉ nguyên nạn sưu cao thuế nặng cũng đủ đẩy người nông dân vào bước

đường cùng.

Mùa gặt của Hương Lý không phải như người nông dân gặt lúa ở ngoài đồng mà là “gặt sưu

thuế giữa dân gian”:

…họ chỉ ngồi yên một nơi, thỉnh thoảng phe phẩy chiếc quạt giấy, rít vài hơi thuốc lào, hoặc

nốc vài chén rượu (…) mấy người chung nhau một quản bút, một cái cùm nhỏ, con roi mây, cái

thước tay và một chiếc kẹp tay (…) tự dưng có người giắt bạc giấy, xu, hào…mà đưa đến tận

nhà[4, tr.25].

Nguyễn Trần Ai đã dựng lại một cách trung thực, sâu sắc cảnh những người nông dân đi nộp thuế:

trong giấy hội bổ của ông Nhiêu chỉ có 1 đồng 50 hào mỗi mẫu, nhưng ông Lý nói thách 5 mẫu 3 sào

lên đến 10 đồng 07 hào, rồi những tiếng cò kè mặc cả bớt một thêm hai giữa thầy Lý với ông Nhiêu; kế

tiếp là cảnh thằng đĩ Ba, thằng xã Trung không đủ tiền nộp thuế liền bị mấy tên phu tuần xiết cày, bừa,

lưới, vó, và cả cái vại nhỏ; đằng kia lại là cảnh một anh dân quê có thẻ bần (thẻ sưu của hạng người

nghèo phải nộp 1 đồng 8 hào một năm) nhưng chỉ có 8 giác bèn đem thân đến chịu tội. Khủng khiếp

nhất là cảnh chúng khảo của: Hương kiểm lấy chiếc kẹp ngũ trảm kẹp giữa các ngón tay người nông

dân tội nghiệp rồi nắm kẹp lại. Tiếng la thét giãy giụa choi chói như cắt cổ, tiếng rên xiết, tiếng rú

thảm thương… người đọc rởn gai ốc. Các ông hương chức thì ngồi ung dung bốn bên dỗ dành cho đến

lúc lòi thuế. Đúng là một quân cướp ngày!

Một người dân nữa không cha mẹ, vợ con, nhà thì trên không tranh dưới không phên nhưng bị

liệt vào hạng tráng nên không có tiền nộp, hắn phải trốn ra chợ Đình làm thuê để…kiếm ít tiền về nộp

thuế. Lục túi hắn có 3 hào, ông Lý đút vào tráp rồi bắt hắn làm việc không công cho Lý S hai tháng.

Thì ra sự thu thuế cho nhà nước ở làng đây, than ôi! Không còn là cái nghĩa thu thuế nữa. Nó

là một sự mua bán. Thách lên cao để cho kẻ khác trả xuống thật rẻ mạt rồi cứ nhích lên từng

nấc dần dần. Nó lại là một việc tra khảo cho lòi của ra nếu như không tìm được đồ đạc xiết lấy

đem về. Con roi mây, cái cùm, cái kẹp đều là những vật ép người cho lòi tiền thuế.[4, tr.30].

Tinh vi hơn là nhưng thứ thuế trá hình nấp sau những hủ tục, những luật lệ vô lý trong Việc làng

của Ngô Tất Tố. Giai cấp thống trị đã duy trì ở làng quê nhiều kiểu bóc lột: có hình thức trắng trợn

(sưu thuế, địa tô, cho vay nặng lãi, khoanh vùng cắm đất làm đồn điền…), có kiểu bóc lột nấp sau các

hủ tục, hương ước của từng vùng, lại có hình thức làm tiền nấp sau các bức màn Tôn giáo và mê tín dị

đoan. Những thứ thuế trá hình đó bọn phong kiến địa phương đánh vào đầu những kẻ thấp cổ bé họng

ở nông thôn. Không tuân theo, không chịu khuất phục trước uy thế của chúng tức là không tuân theo lệ

làng, lập tức bị làng ngả vạ. Chúng cứ việc “mua lợn, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao

nhiêu, người có lỗi phải chịu”. (Một tiệc ăn vạ)

Các cây bút phóng sự đã khám phá bóc trần những tệ nạn xã hội trầm kha, nguy kịch và tiềm

ẩn những bức xúc của người dân. Sẽ không còn là nghĩa vụ nộp thuế để xây dựng đất nước với ý nghĩa

thiêng liêng của nó nũa, nạn sưu cao thuế nặng với những biến thái tinh vi đã trở thành nổi ám ảnh ghì

nặng cuộc sống người nông dân đến mức không thể vùng vẫy được.

Bên cạnh sưu cao thuế nặng là nạn phù thu ăn chặn. Phù thu tức là thu trội lên và phân bổ thuế

khoá một cách nhũng lạm, quá mức. Túp lều nát không chỉ miêu tả cảnh những người nông dân phải

chịu nạn sưu cao thuế nặng mà họ còn phải chịu bao nhiêu kiểu bóc lột trá hình khác: nạn phù thu lạm

bổ vào mùa thu thuế (Loài động vật ngắn cổ), lệ làng khi nhà có giỗ chạp, ma chay; nạn ăn chặn khi có

tiền phát chẩn (Mạnh lệ quân nước Nam); đến tiền chồng gửi về cho vợ cũng bị cướp trắng…Thậm chí

một người dân nghèo có đứa con gái bị hãm hiếp, được xử bồi thường có năm đồng cũng phải đãi bọn

tuần đã có công bắt, cơm nước cho bọn hương chức trong làng, lý trưởng ăn chặn nên chỉ còn hơn 1

đồng, trong khi đứa con gái ấy bị mang bệnh nặng, cần tiền để chữa chạy. Câu chuyện càng trở nên bi

thảm hơn khi dưới mắt những người nông dân nghèo khổ, họ cứ yên trí rằng gia đình người bị nạn ấy

có những 5 đồng để tiêu Tết!

Nhưng có lẽ ấn tượng sâu nhất trong lòng người đọc là cảnh ăn chẩn trong Mạnh lệ quân nước

Nam (Túp lều nát). Làng ông Lý đang phát chẩn cho dân bị bão lụt. Ông Lý lãnh 220 đồng cho phần

đất cai trị của mình với số dân trong phủ là 250 người, ông giữ kín chỉ phát cho mỗi nhà một người. Để

nuốt trôi phần còn lại vào bụng mình, ông Lý phải làm “trò ảo thuật”: kêu bọn ăn mày, ăn xin ở làng

bên đi nhận thay, có thằng đi lãnh chẩn đến ba lần, ông khai làng có đến 70 đàn bà goá. Nực cười hơn

là bà Lý cũng vào cuộc, bà đóng ba lần là kẻ ăn xin rách rưới, hôi thối khác nhau, thậm chí giả trai để

đi lãnh chẩn!

Để phù thu được nhiều, bọn quan lại cường hào biến hoá rất nhiều cách mà chỉ có trời mới thấy!

: “Họ xướng lên rằng: “Điền bất cập hạ”, như một làng có 200 mẫu trong sổ bộ mà họ nói ruông thực

chỉ có 150 hay 160 mẫu chằng hạn. Thế là 150 hay 160 mẫu cõng thuế cho 200 mẫu”(điền bất cập hạ

tức là diện tích thực của ruộng ít hơn diện tích trong sổ trước bạ) [4, tr.44]; “họ nhận tiền rồi chưa kịp

viết biên lai họ liền trở mặt tắp lự, bảo là chưa nạp.(…) Đi nạp thuế mà ta thấy họ bổ “nhất tam tòng

nhị” hoặc nhất luận một số bao nhiêu đó, thế là họ phù thu rồi đó”. (nhất tam tòng nhị tức là loại một

và loại ba chia ra cứ bình quân mà nộp) [4, tr.45] và còn nhiều trò “lắt tắt, lỉ tỉ”, khó dò khó kiện

khác…

Túp lều nát đã khám phá ra một điều khá mới mẻ: những thủ đoạn phù thu, ăn chặn trắng trợn

bẩn thỉu, tinh vi không chỉ tồn tại ở viên quan này hay lý trưởng kia mà của cả bộ máy chính trị thối

nát thời thuộc địa. Lũ quan lại như “bầy gà ăn quẩn cối xay” – một bầy gà thảm hại, một cối xay cũ nát

để rồi chúng lại đem cung phụng cho những ông chủ thực dân.

Bên cạnh nạn phù thu ăn chặn, một vấn đề nổi cộm cũng không kém phần nhức nhối của xã hội

thuộc địa là tệ tham nhũng tràn lan. Tham nhũng trở thành một “công lệ” của giới quan nha.

Lần theo bước chân của bọn cai lệ trong Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng đưa ta đến câu chuyện

của viên lục sự già bên khay bàn thuốc phiện diễn ra trước ngày giáp tết để từ đó lật lên toàn bộ bản

chất tham nhũng của bộ máy thống trị thực dân phong kiến. Từ trên “sa bàn chỉ đạo” của viên lục sự

già - con người “biết đục khoét thành thánh”- những mệnh lệnh đục khoét được ban ra, dưới sự chỉ

huy của cai cơ, lũ lính lệ trống dong cờ mở tiến vào trận quét dưới sự bảo hộ của ngọn gói quyền uy là

bộ “luật bất thành văn”. Cả làng quê nhốn nháo, nhặng xị vì cơn lũ tham nhũng. Lũ hương lý, kì hào và

những chức sắc sở tại sợ xanh mặt như cá nằm trên thớt. Người đọc chứng kiến liên tiếp những thủ

đoạn “cướp ngày” tinh vi, trắng trợn của chúng. Lý trưởng mất tiêu bữa rượu, phó lý bị hạch chầu

thuốc phiện, rồi còn phải lo lót tay đút chân sao cho mọi chuyện êm thấm. Những thủ đoạn xoay tiền

của lũ cai lệ diễn ra thuần thục thành kỹ xảo. Người nhận hối lộ và kẻ hối lộ đã quá hiểu nhau, bởi lẽ

họ đều sống dựa vào nhau và cùng được bao bọc bởi cái “luật bất thành văn” ấy:

Thì ra cách tổ chức xã hội kim thời, thật vậy, kể đã là chu đáo đến tột bậc. Xã hội thì như một bộ

máy tinh tế, mà cá nhân là những cái bánh xe, nếu một cái quay thì bao nhiêu cái khác cũng phải

quay theo, nếu một cái hỏng thì toàn bộ cũng phải ngừng lại…Chẳng một ai lại có thể đứng ra

ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé...(Một huyện ăn Tết).

Nhìn sâu vào cơ quan đầu não của một chế độ, ta thấy không chỉ các nhà đương chức, đại diện cho

công lý mà còn lũ ăn theo như nho Kh., thầy thông, thầy kí chúng cũng tranh thủ tìm cơ hội ngày tết để

tống tiền. Những thủ đoạn bậc thầy được biểu diễn trong khi cật vấn Chánh Cờ, khi ngon ngọt nhã

nhặn với cụ Bá. Những thao tác của nho Kh. thật uyển chuyển, thuần thục để hướng tới cái đích: hạch

tiền. Toàn bộ guồng máy nhà nước từ dưới lên trên đều mang căn bệnh tham nhũng kinh niên, có tính

cố hữu. Lũ “cướp ngày” được xã hội bảo lãnh ấy thống nhất trong cơ chế vận hành và cả trong phương

thức phân phối. Ăn chia rõ ràng:

Họ phải trích ra một nửa để đem lên tỉnh nộp ông quản cơ. Thường ra, số tiền ấy đã thành lệ, như

một điều trong sổ dự toán. Ông quản cơ tỉnh sẽ nhân danh cả cái giới lính cơ dùng cái số tiền kia

để mua lễ vật để biếu các quan trên, cụ Bố, cụ Thượng, ông Đồn. Sự thăng chức nhanh hay chậm

của các cá nhân hoặc cả đoàn thể ảnh hưởng ở cái lễ to hay nhỏ [63, tr.551].

Rõ ràng, tham nhũng trở thành quốc nạn, là vấn đề thời sự không chỉ một thời, một quốc gia mà của

mọi thời, mọi quốc gia như chính tác giả viết: “Nó có thể vẫn cứ là câu chuyện tết năm nay, lại có thể

là câu chuyện tết sang năm nữa”. [63, tr.544].

Quyền lực và đồng tiền đã có sức mạnh vạn năng, làm băng hoại đạo đức xã hội, tác oai tác quái

làm biến đổi lương tâm con người. Cũng từ nỗi bức xúc ấy, Nguyễn Trần Ai trong Mồ hôi và mồ hôi

[3, tr.41] vạch trần cái hành trình “lên chức” và “nuôi chức” của những Lý trưởng:

Chỉ một cái việc đi lo lót làm chức tổng lý đã tốn nhiều tiền rồi. Thế tất sau khi nhậm chức họ phải

quay lại đập vào lưng dân để bù vào chỗ đã thiếu hụt (…) mỗi năm đến vụ sưu thuế, người lý

trưởng đương chức phải có 10 đồng đãi các cố lão hào mục và 20 đồng đãi các ông cựu Lý trưởng

(…) Ngoài số tiền ruột thuế biên trong bài, còn nào là tiền chè là Chánh, Phó tổng, phái quan,

phòng thu, tiền lãnh bài, tiền trình bổ, tiền kiểm soát, tiền kim găm, giây buộc, tiền đăng nạp…Cái

gì cái gì ở trên người ta cũng động chạm đến tiền, mà dưới lại càng cần phải có tiền để cho trôi

chảy công việc. Số tiền ấy lấy vào đâu, chẳng phải rút trong mồ hôi dân quê ra thì còn ở đâu

nữa?[4, tr.47].

Hiện thực về tệ nạn tham nhũng không chỉ tràn lan ở chốn thành thị mà đã len lỏi vào chốn thôn

quê, như lũ sâu mọt, chúng ngày ngày đục khoét cuộc sống khốn cùng của những người dân nghèo

khó. Từ trong máu thịt, chế độ thực dân đế quốc đã bật tung gốc rễ, lộ rõ toàn bộ bản chất xấu xa của

nó, đúng như Nguyễn Đổng Chi dự báo : “Có một túp lều sắp đổ”!

Khốc liệt không kém tệ tham nhũng là nạn hào cường. Cổ nhân có nói: “Hào cường chi tệ khốc ư

nhất Tần” (tệ hào cường còn khốc hại hơn chế độ của nhà Tần) quả không sai! Trong Việc làng, Ngô

Tất Tố đã vạch mặt chỉ tên bọn cường hào, lý dịch với những thủ đoạn hết sức tàn ác và đê tiện. Sau

luỹ tre xanh, chúng là một thứ vua con, tha hồ tác oai tác quái, đặt ra rất nhiều luật lệ, phép tắc dã man

và vô lý để bóc lột nông dân đến tận xương tuỷ. Biết bao thảm kịch xảy ra: có người phải dỡ nhà bán

lấy củi để lo một cỗ oản tuần sóc, có người sau khi lo chức Lý cựu cho chồng phải bỏ làng đi ở vú, có

người quá uất ức vì bị làng “ngã vạ” đã thắt cổ tự tử….

Cùng với Việc làng, phóng sự Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai là bộ sưu tập những bức tranh về

nạn hào cường. Cảnh quan lại hào cường tác oai tác quái hiếp đáp dân ngu với những “ngón nghề độc

chiêu”, những trò nhũng lạm tinh vi mà bẩn thỉu đã làm người đọc sửng sốt. Chúng sẵn sàng sửa tờ trát

để hưởng lợi: “nếu trát có điều gì ích lợi cho dân thì nó dấu biệt để cho sự ích lợi ấy qua tay nó

hưởng, có ích vừa vừa thì nó sửa lại cho dân rối trí. (…) Rồi còn như trát về bắt khai môn bài thì nó

vác đi đòi tiền bọn có nghề nghiệp chưa chán lại còn đem đến doạ dẫm ăn tiền cả của các mụ hàng

nước nũa” [4, tr.50]. Ngoài ra còn vô số thủ đoạn bóc lột, vắt kiệt của cải của dân như cảnh bán thuế

non; viết “nhượng lưu” trong khế bán để vô can, trốn tội; rồi cảnh “chức sắc bất đắc cải chánh”: mới

35, 36 tuổi mà thông đồng với Lý trưởng khai tăng 25 năm thành ông già 60 tuổi để được “xuất nhiêu”,

được miễn sưu. Chúng ngầm mưu với nhau tẩm tờ giao ước của làng, phá lề luật để có cơ hội tung

hoành bóc lột...

Người đọc khá lý thú với phóng sự nhỏ Tổng lý, một bức hàng rào giữa dân và chính phủ trong

Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi. Từ lời kể của thầy Lý trẻ, tác giả đứng ở một góc nhìn khác để nói

về nạn hào cường: góc nhìn từ bên trong gan ruột của chúng để tự chúng bộc lộ nguyên hình bản chất.

Chuyện kể về thầy Lý T có bằng Primaire. Với chút Tây học, thấu hiểu được nổi khổ của dân, anh

nghe lời dân làng ra ứng cử chức lý trưởng với hy vọng làm theo lẽ phải bảo vệ quyền lợi cho dân.

Nhưng ngay tức thì, anh nhận lời đe doạ của Phó tổng; “Làm Lý trưởng đi để sửa soạn cho tao trị”.

Anh hăng hái không thâu lễ vật, sửa sang đường sá, kiếm tiền quyên góp may áo cho bọn trẻ…Nhưng

tâm huyết ấy luôn bị hăm he. Làng có đến 25 ông hào, quan có, lý hương có, Cửu bát có. Bọn chúng

hùa lại, ra sức tìm cái để kiện anh. Cuối cùng T nhận ra rằng: “Chỉ có hai con đường: một là đóng bè

với họ để vét bọn dân; hai là từ chức đi rồi chạy ra ngoài thị thành, kiếm một chức việc gì mà làm, làm

culi cũng được, rồi mặc kệ việc nhà cho vợ con, họ muớn bóc lột, hiếp đáp thế nào tuỳ ý.” [4, tr.60].

Như vậy, có chút hiểu biết muốn phụng sự cho dân cũng không được. Phải hùa theo số đông, để cùng

nhau đục khoét, nếu không ngay tức khắc người đó sẽ bị triệt tiêu. Xã hội đó không có chỗ cho những

vị quan vì dân, không cho vị quan trong sạch liêm khiết nào tồn tại.

Với ngòi bút phóng sự sắc sảo, khôn ngoan, Nguyễn Đổng Chi đã tinh tường phanh phui những thủ

đoạn bẩn thỉu mà bọn hào cường tác oai tác quái lên đầu dân đen. Chúng bao che nhau, nuôi dưỡng

nhau: “Quan trên ăn lên đầu Chánh Phó tổng, Chánh Phó tổng ăn lên đầu Lý trưởng, Lý trưởng đâm

bổ ra ăn dân. Dùi đánh vào đục, thì đục tất phải đánh vào khăng thôi. Cho nên hễ ai có mắc phải

chuyện gì thì kẻ trên thường che chở cho kẻ dưới.”[4, tr.51]. Đúng là chẳng một ai có thể đứng ra

ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé. Chúng nhắm mắt làm ngơ trước những thủ đoạn xấu xa, những hành

vi trắng trợn của nhau. Điều này dễ hiểu bởi tham nhũng không còn, thì cái công lệ đút lót từ dưới lên

trên lấy gì mà tồn tại! Người phải gánh chịu không ai khác chính là những người dân vốn nghèo xơ

nghèo xác. Đó cũng chính là bi kịch của một dân tộc đang phải sống trong vòng nô lệ.

Một tệ nạn xã hội nữa cũng không kém phần nhức nối là tệ mê tín dị đoan ở chốn thôn quê. Căn

nguyên sâu xa của căn bệnh này là sự kém hiểu biết và lạc hậu của người dân. Phóng sự Đồng quê của

Phi Vân cho thấy những mê tín dị đoan của người lao động nơi vùng sông nước mêng mông của cực

nam Tổ quốc. Châu Xương cử thanh long đao và Ông tướng thầy Ba là chuyện những kẻ kiếm ăn bằng

nghề thầy cúng. Châu Xương cử Thanh Long đao kể về một buổi chữa bệnh của một ông thầy cúng ở

lạch Cóc. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, mê tín dị đoan của người nông dân, mỗi lần chữa bệnh như vậy,

thầy cúng bắt chủ nhà phải giết vài con gà và một con lợn để ông thầy cầu đức Quan Công hiện về trừ

tà. Biết tỏng ngón nghề của ông thầy, anh Năm Quấy chờ lúc ông quát đến tên Châu Xương thì nhảy ra

múa lẹ làng như Châu Xương thật, thầy ngớ ra nhưng cũng đành phải mất cho anh nửa con heo. Kiếm

ăn được một mẻ Châu Xương, nó bắt đầu trổ nghề. Ông tướng “thầy Ba” miêu tả những ngón nghề

kiếm sống của thằng Năm. “Ban đầu trị bệnh con nít, mắc con “sát”, con “trùng” gì đấy, lần lần nó

bắt qua chữa bệnh người lớn. Ai đau gì nó cũng trị được”[89, tr.49]. Biết đó là nghề bất lương, nhưng

“lỡ nghèo sinh kế biết sao bây giờ”.

Miêu tả nạn mê tín dị đoan ở chốn thôn quê, Ngô Tất Tố tỏ ra vô cùng sắc sảo khi thấu hiểu được

chính sách ngu dân của bọn thực dân và văn hoá tâm linh của người Việt. Tất cả những hủ tục nặng nề,

phiền phức ở chốn đình trung, theo Ngô Tất Tố, đã biến cái làng Việt Nam cổ xưa thành một triều đình

phong kiến thu nhỏ, mà ở đây, lợi dụng sự mê tín của dân chúng, bọn thực dân phong kiến đã giở mọi

trò lừa bịp nhằm thực hiện chính sách ngu dân, bóc lột của chúng:

Bày ra một cái triều đình giả dối, lấy ông thần gỗ tôn lên ngối báu, lấy tổng lý làm công

khanh, lấy thịt xôi làm bổng lộc, để họ ham mê áo mũ xêng xang, trống giong cờ mở. Những

vị thần gỗ ấy, ngoài những đấng anh quân lương tướng mà ngày nay họ dùng làm ngáo ộp

để trừ tà, trị bệnh, bói thẻ cầu mộng, lợi dụng cái trò mê tín của lũ dân khờ dại, lại còn lẫn

cả thần ăn trộm, thần ăn mày, thần chết trôi, thần gắp phân, thần loạn dâm…. cái sự nghiệp

khốn nạn như thế thì những kẻ sùng bái tất nhiên là những kẻ ngu tham ngoan ngạnh, thằng

khôn ăn vào đấy, thằng dại khổ vì đấy. (Cứ để cho nó chết).

Nén nhang sau khi chết là một dẫn chứng khá sinh động về việc bọn quan lại lợi dụng lòng mê

tín của người nông dân. Thấy bà Tư Tỵ goá chồng có chút vốn, bọn hào lý xúm đến đục khoét. Thằng

con thừa tự thông đồng với hào lý, bàn với bà nên xin đặt hậu ở làng, nghĩa là cúng cho làng một số

ruộng, và một số tiền thì sau khi chết, làng sẽ cúng giỗ, cúng Tết mãi mãi. Bà thuận tình ngay. Sau khi

làm đơn xong, bọn lý dịch mới giở ngón xoay tiền. Ông Điển đòi năm chục, chánh hội, lý trưởng mỗi

người ba chục, các ông kỳ dịch, tộc biểu, mỗi người đòi hai chục. Bà Tư Tỵ toan xin thôi nhưng chúng

doạ nếu dối làng thì khi chết làng sẽ không khiêng. Thế là bà lại phải gán ruộng cho chúng, cả gia tài

của người đàn bà goá chồng một mình làm ra bị bọn chúng cướp dần hết. Đốn mạt đến tận cùng!

Những hủ tục lạc hậu đã kìm hãm dân ta trong vòng ngu tối, lạc hậu. Đó cũng chính là thứ thuế trá

hình, là kiểu làm tiền được nguỵ trang kín đáo sau bức màn Tôn giáo và mê tín dị đoan.

Bên cạnh nạn mê tín dị đoan là những kiếp tôi đòi con ở, tiêu biểu nhất cho tệ nạn này là phóng

sự Cơm thầy cơm cô. Với phóng sự này, Vũ Trọng Phụng miêu tả hàng loạt sinh mạng của người nông

dân không chịu nổi cái lò sát sinh thô sơ của làng quê tù hãm đã phải rời bỏ làng quê xơ xác, tiêu điều

vì những tai trời ách đất, đi tha phương cầu thực, đến chốn Hà thành, với hy vọng đây là miền đất hứa,

là nơi để họ thay đổi cuộc đời. Và từ đây, người nhà quê bắt đầu gia nhập vào cái xã hội thị dân. Với

thiên phóng sự xuất sắc này, Vũ Trọng Phụng –người được Lãng Nhân tôn vinh “ông vua phóng sự đất

Bắc” – đã làm sống dậy một thảm cảnh của một đạo quân đói rách, trôi dạt khắp chốn hang cùng ngõ

hẻm của vùng nông thôn xa xôi, dồn ứ lại giữa chốn thị thành.

Ống kính phóng sự của Vũ Trọng Phụng tiến hành quay cận cảnh, làm sống lại những nạn tôi

đòi con ở: Những em nhỏ ngây thơ vật vờ như những cô hồn, đói khát, nhơ nhớp. Chúng ăn chực nằm

chờ ở nhà ga, quán trọ, chờ được bán sức lao động để được làm “nô lệ” hiện đại, nhưng giá trị của

chúng bị bọn người dẫn mối xếp ngang với giá súc vật. Họ mong sao mình được “như một con chó”,

muốn đem sức trâu bò của mình ra “làm nhiều công việc nặng nhọc” mà vẫn “không có việc làm” nên

“tất là họ phải sinh ra liều mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến thần Dục tình. Đàn ông sẽ đi

đến Hình phạt” [62, tr.146]. Làm con ơ, họ “chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt

mình làm quá sức, đừng đánh mình, chửi mình” [62, tr.111]. Nhưng cái cửa may mắn ấy hiếm lắm.

Hầu hết những con sen thằng nhỏ trong giới cơm thầy cơm cô đều phải trải qua những cảnh trớ trêu,

đen tối, đắng cay, tủi nhục. Chúng đều bị “ăn đói làm no”, “người này sai chưa xong việc này người

khác lại sai việc khác”…

Con Đũi, thằng bé ho lao, con ở bị điện giật … là những bức chân dung đầm đìa nước mắt.

Nhưng có lẽ ám ảnh nhất trong tâm trí người đọc là hình ảnh con Đũi, đi ở năm 12 tuổi, suốt ngày quần

quật làm thân trâu ngựa, mỗi ngày chịu độ ba trăm lần mụ chủ chửi rủa xa xả vào mặt “tiên sư cha”,

một năm sau mụ cho vào “xiếc”. Tiếng nói thoảng thốt, đau thương của em vò xé tâm can người đọc

“Cha tiên nhân năm đời mười đời nhà nó! Chính nó đã làm cho tôi mất tân! Anh ơi tôi lúc đó mới 13

tuổi đầu mà nó nhét giẻ vào mồm tôi, giữ hai chân tôi thẳng oẳn cứ việc hiếp lấy hiếp để”.[62, tr.127-

128]. Sau khi bị cưỡng đoạt, con sen Đũi được 2 đồng bạc, ba ngày sau chính thức gia nhập làng mại

dâm! Bức tranh hiện thực man rợ ấy đã cho thấy sự con đường lưu lạc của những kiếp đời thơ dại từ

thôn quê trôi dạt lên thị thành gắn liền với sự tha hoá nhân cách. Đúng là:

Gánh cực mà đổ lên non

Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo.

Từ những kiếp tôi đòi con ở, nhà văn họ Vũ này mở toang thêm nhiều cánh cửa để khám phá ra

một sự thật không kém phần đen tối khác về loài người. Chính cái xã hội vô lối, nhố nhăng, kệch kỡm,

suy bại gia phong đó đã đẩy những người nông dân vốn không quen với cuộc sống đô thị vào con

đường tha hoá và ngày càng khốn khó hơn.

2.1.2.2. Những hủ tục lạc hậu

Bên cạnh những tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, quái gở đang là vòng vây thứ hai ngày

càng xiết chặt cổ những người nông dân nghèo khó. Tiêu biểu nhất trong các phóng sự viết về những

hủ tục lạc hậu ở nông thôn Việt Nam là Việc làng của Ngô Tất Tố. Đây là bộ sưu tập khá sinh động, cụ

thể về những hủ tục ngày ngày đang bao trùm, đè nặng lên cuộc sống của người dân quê. Mười bảy

chương là mười bảy câu chuyện thương tâm vì hủ tục và phía sau đó là những cảnh đời ngột ngạt, bế

tắc của người dân quê.

Mở đầu tập phóng sự là những lời trăng trối có sức ám ảnh cao của cụ Thượng làng Lão Việt.

Cả đời vì gánh lệ làng mà không ngóc đầu lên nổi:

Từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày đau

ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả (…)

Những việc tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ,

chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ,

cả nhà có một thằng con, đành phải để nó dốt nát. Ông bảo là vì cớ gì!”. Rồi cụ cắt nghĩa:

“Ấy là bởi gánh việc làng”.[53, tr.12].

Ngay sau lời trăn trối xót xa ấy là những hủ tục “quái gở” “mọi rợ” lần lượt hiện lên trong từng

trang viết của Ngô Tất Tố.

Đó là câu chuyện của bác Cả Mão lo Một Đám vào ngôi cho con phải tốn đến hơn “trăm rưỡi bạc”,

trong khi người ta chỉ tốn vài đồng bạc. Vì bác là dân ngụ cư, nên theo “lệ làng” bác không có ngôi ở

đình. Muốn không bị khinh bỉ, bạc đãi, nhục nhã khi không có ngôi ở đình, bác soạn sửa lễ vào ngôi

cho con:

Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư ba đời mới được “thành tổ”. Nghĩa là được ngang

hàng với mọi người khác (…) ở làng mà không có ngôi thật là một sự nhục nhã. Những lúc

tứ quí kì phúc, người ta thì phần ăn phần ngồi, mình thì chẳng có miếng gì. Những lúc hội

hè, đình đám, người ta rước cờ, rước quạt, mình chỉ đóng vai khiêng chiêng. Như thế cũng

đã khổ rồi. Hơn nữa lỡ có cha già mẹ héo, làng giáp có chôn cho đâu!. [53, tr.18].

Lợi dụng tâm lý chết không được chôn là tiếng xấu để đời, bọn cường hào bắt họ đóng thật nhiều

mới cho vào làng:

Cụ chưởng lễ ba chục, ông Chánh hội hai chục, ông lý trưởng mười lăm đồng, ông phó lý và

ông phó hội mỗi người mười hai đồng, thư ký, trưởng bạ, mỗi người mười đồng, hương

trưởng, lý cựu, tộc biểu, trương tuần mỗi người năm đồng. Những số tiền ấy đã hết ngoài

năm đồng rồi. Lại còn ăn uống từ chiều hôm qua tới giờ (..) Một bữa ăn này, ít ra anh tôi

cũng tiêu hết năm, sáu chục đồng. [53, tr.19-20].

Ăn uống xong lại còn các món giải trí như thuốc phiện, tổ tôm, chủ nhà đều phải cung ứng. Có khi

mối thù hằn giữa những người chính cư và ngụ cư mà đến nỗi xảy ra án mạng: “Chỉ kính “ông cụ” của

nhà”, ai kính “ông cụ” ngụ cư”(53, tr26). Mối thù ấy bắt đầu từ sự tranh dành nhau địa vị trong làng.

Như vậy chính tâm lý “Sống nhờ làng, chết nhờ làng” của những người nông dân đã bị bọn thống trị

lợi dụng để chè chén, kiếm chác.

Lo một lệ làng tốn kém như vậy, người nông dân còn phải đối mặt với nhiều lệ khác cũng không

kém phần nhiêu khê. Trong Góc chiếu giữa đình, Ngô Tất Tố vẽ lên một cảnh ngộ thương tâm của một

người chỉ vì hám chút chức vị mà phải sa sút nghèo đói. Hai vợ chồng ông Luỹ “thật thà, chăm chỉ” đi

ở vú, cày thuê dành được ít vốn liền bị bọn lý dịch tìm cách đục khoét. Chúng dụ dỗ gạ gẫm để bán cho

ông ta chức lý cựu với giá một trăm bạc. Vì muốn có chút danh cho nở mày nở mặt, bà vợ cứ khuyên

chồng cố tìm cách lo cho được. Họ bán cả trâu, ruộng, rồi phải còn khao làng một bữa mới được làng

thừa nhận. Bà cựu tính làm qua loa nhưng ông cựu không chịu: “Bây giờ ông đã là bậc kỳ cựu trong

làng không thể xử cách nhom nhem được”[53, tr.40]. Một số tiền lớn lại không cánh mà bay cũng vì

cái lệ làng. Chỉ để khao “một góc chiếu giữa đình”, năm hôm sau “bà cựu” xách nón lên Hà Nội ở vú

để lấy tiền trả nợ. Như vậy, bọn thống trị nhồi nhét tâm lý hám danh, rồi lợi dụng sự mê muội chút

danh vọng hão huyền của người nông dân để moi tiền và chè chén.

Cũng như ông Luỹ, ông Phúc cũng vì cái lệ làng mà mất cả cơ nghiệp. Cỗ oản tuần sóc là câu

chuyện vì nghi lễ tục lệ ma chay phiền phức tốn kém cho cái chết của vợ mà ông Phúc lâm nợ, nợ

không nhiều nhưng “ở thôn quê, cái giống nợ lãi nó đẻ giữ lắm”. Ông đi gánh thuê đến nỗi hai vai

chai sạn, dày lên thành hai cục bướu mà chỉ đủ mua ngô, khoai cho con và bớt mấy xu trả lãi hàng

tháng cho chủ nợ. Chưa hết, ông lại mới lên chức ông trùm, mỗi năm phải có hai lần tuần sóc để cúng

thần. Thế là ông Phúc phải tính toán:

Nhà không sẵn, vay không ai tin, tôi đành dỡ hai gian nhà làm củi để bán lấy tiền mua gạo.

Đáng lẽ tôi định để vài bữa nữa mới dỡ nhưng vì thấy trời mưa dầm, chắc là củi đắt nên mới

dỡ từ hôm nay. Thôi thì túng kiết làm quanh, hãy cho qua cái lúc này. Bao giờ trời cho mở

mặt, bấy giờ lại làm nhà khác.[53, tr.76].

Tới hôm làm cổ tuần sóc, người ta kéo đến ngôi nhà trống trải còn lại để chè chén, người ta

khen ông Phúc hết lòng lo việc thờ phụng, tán dương oản của ông ấy tốt và chuối của ông ấy

mẫm….tối hôm ấy, ông Phúc lại phải đi mua chịu thêm mấy chai rượu nữa cho họ uống. Đấy là mới cỗ

tuần sóc thứ nhất, còn cổ tuần sóc thứ hai không biết ông Phúc còn bị bọn lý dịch bóp nặn thế nào nữa.

Dầu bị vắt kiệt tài sản, ông Phúc vẫn còn tự do. Còn anh xe trong “Món nợ chung thân” thì

không còn chút hy vọng. Tất cả cũng vì lệ làng!Lệ làng là “luật bất thành văn”.

Lệ làng qui định rằng “Một người nằm xuống, dù giàu, dù nghèo, nhà chủ cũng phải giết một

con lợn đãi “phe một bũa dấm ghém, phe mới khiêng cho. Không được thế thì phải nhờ họ mạc khiêng

giúp”[53, tr.107]. Sợ vong hồn vợ tủi nên dù không có tiền, anh phu xe cũng cố vay ba chục đồng để lo

bữa rượu mời hàng giáp. Món nợ ấy anh trả cả đời cũng không thể hết, vì “tiền công của con ở đấy,

mỗi tháng được một đồng rưỡi, trừ vào tiền lãi là vừa”.[53, tr.107]. Đúng như lời ông L trong truyện

đã kết luận: “Một bữa lệ làng có thể gây cho người ta một món nợ lãi chung thân không trả hết” [53,

tr.108].

Anh phu xe coi như bị tù chung thân, dù sao vẫn còn được sống. Còn trong Một tiệc ăn vạ, ông

Sửu lại phải chịu cái chết oan ức, tức tưởi cũng chỉ vì những hủ tục vô nhân đạo: “tục ăn vạ”.

Chỉ vì không cho một ông Trùm trong làng vay ít thóc, bởi bà Sửu thừa biết “có vay mà không

có trả”, nên tên trùm đem lòng thù oán và vu cho lão Sửu chửi làng. Lão Sửu bị làng ăn vạ: “người nào

có lỗi với “làng” thì “làng” cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo, đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn

bao nhiêu, người có lỗi đó phải chịu”[53, tr.81]. Tiệc ăn vạ diễn ra. Lão Sửu tốn hơn trăm bạc. Buổi

sáng ăn uống linh đình, buổi chiều lão Sửu uất ức thắt cổ chết. Đó là cái chết của người nông dân bị

dồn đến đường cùng chỉ vì tục lệ vô lý, và vì tâm lý “lúc sống không ai ngồi với, lúc chết làng không

khiêng cho, là người cực nhục, sống cũng như chết” [53, tr.82].

Có thể nói, Việc làng là một ổ hủ tục phi lý, cổ hủ trói chặt cuộc sống của những người nông

dân vô tội. Nó đày đoạ người nông dân về tinh thần lẫn thể xác. Nó dẫn họ dần đi đến cái chết.

Không chỉ cung cấp những tục lệ cổ hủ trong Việc làng, với Tập án cái đình, Ngô Tất Tố còn

tiếp tục đề cập đến những nghi lễ vô nghĩa, kỳ quái làm cho người nông dân phải nháo nhác, bỏ công

bỏ việc chạy theo nó như thiêu thân. Không đi sâu miêu tả những cảnh thương tâm riêng biệt của từng

cá nhân, từng gia đình như trong Việc làng, với mười bài phóng sự trong Tập án cái đình Ngô Tất Tố

quay ống kính của mình vào những nghi lễ tập thể. Nhân vật đám đông xuất hiện nhốn nháo, nhặng xị

như một bức tranh hí hoạ buồn cười với những lễ nghi cũng nực cười không kém: cuộc “đuổi đánh

thành hoàng”, “những cuộc thi giết lợn”, những cuộc “xuyên tường tạc bích” để kỷ niệm sự nghiệp của

Thành Hoàng, rồi “đuổi giặc cho thần”...

Nực cười nhất là phóng sự Lợn anh lợn em, không biết từ bao giờ, nước Đại Nam lại có lễ tế ỷ,

họ xem con lợn thờ là đấng thiêng liêng và tôn quí.

Theo lệ, hàng năm trong làng phải có hai người đương cai, mỗi người phải nộp một con ỷ để

cúng thần. (..) Hễ ai vô phúc mà bỏ, ấy là mang tiếng thiếu đóng, thiếu góp với làng, sống

cũng như chết. Bởi thế những kẻ nghèo nàn đến lượt đương cai mà không có người gúp đỡ,

có khi phải bán nhà , bán đất, bán con cái để nuôi lợn cho làng. Chẳng thà mất con cái mà

có lợn còn hơn thiếu lợn của làng mà còn nhà đất con cái. [53, tr.139-140]

Kèm theo những nghi lễ đó là bao nhiêu khê tốn kém cho những cuộc chè chén, thiết đãi làng:

“nhiều người làm ăn gom góp từ trẻ đến già, chỉ chứa một bữa là hết” [53, tr.17]

Vậy tại sao những hủ tục quái gở mọi rợ ấy cứ ngang nhiên tồn tại?

Trước hết, vốn là một nước có nền văn hoá lâu đời, nước ta có những phong tục gắn với nghi lễ,

tục lệ để thể hiện tình cảm gia đình, trân trọng biết ơn tổ tiên, nguồn cội, sự gắn bó với xóm làng…Và

cũng từ đây, bọn hương lý, cường hào “đục nước béo cò” đã lợi dụng tâm lý đó bày ra đủ thứ lệ làng

để bóc lột của cải, trấn áp tư tưởng người nông dân.

Một điều cay đắng nữa là ngọn gió độc thổi từ bên ngoài này đã gặp phải một rào cản tâm lý

xuất hiện từ bên trong suy nghĩ của người nông dân. Rào cản trớ trêu đó là không phải ai cũng nhận ra

đây là một kiểu bóc lột trá hình, một kiểu lừa bịp. Thậm chí người nông dân còn tôn sùng những hủ

tục, xem đó là những gì tốt đẹp, vinh hạnh. Vì thế, những người dân quê hiền lành thật thà cứ cung

kính, ngây thơ thực hiện những hủ tục ấy một cách chân thành mà không hề biết họ đang bị giai cấp

thống trị lợi dụng, là nạn nhân trực tiếp của mọi hủ tục.

Bởi thế, sự ra đời của các phóng sự này là đã gióng một hồi chuông cảnh tỉnh hết sức cần thiết

làm thức tỉnh những lương tri lành mạnh đang bị chìm lấp trong những luận điệu giả nhân giả nghĩa

của kẻ thù. Giúp họ thức tỉnh và nhận ra chân tướng của sự thật để cùng hướng vọng đến một xã hội

công bằng hơn, văn minh hơn.

2.1.3. Hiện thực con người

Không chỉ phanh phui những tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, phóng sự giai đoạn 1930 –

1945 còn tiếp cận những bức tranh xám màu đầy thương tâm nhức nhối của những người nông dân ở

nông thôn Việt Nam.

2.1.3.1. Những con người bị tha hoá

Trong vòng vây của những tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, các nhà phóng sự đương thời đã

khám phá những trang đời, tuy đa số là vô tội, đáng thương nhưng cũng không ít người đang trên

đường tha hoá, băng hoại. Cái bản chất người vốn có: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” bị ném vào cái xã

hội bóc lột thối nát ấy, khó mà giữ được vẹn nguyên. Những người nông dân bỗng trở nên xa lạ với

bản thân và lạc loài với cộng đồng, nhân loại. Trượt dài trên con đường tội lỗi, nhân cách họ trở nên dị

hình, dị dạng, lương tâm họ bị băng hoại đến xót xa.

Nếu như ở chốn thị thành, người ta sa vào chốn cờ gian bạc bịp, buôn phấn bán hoa…thì những kẻ

khốn khó nghèo hèn chốn thôn quê cũng sa ngã, băng hoại nhân cách theo nhiều kiểu khác nhau. Cơm

thầy cơm cô – một trong những phóng sự đặc sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, là khối tư liệu quí giá về

đời sống của nông dân lên thành thị kiếm sống. Vũ Trọng Phụng dõi theo cuộc “hành hương” của

những người nông dân đói rách phải từ giã quê hương để trốn đủ thứ tai hoạ: nạn bão lụt, hạn hán, nạn

sưu cao thuế nặng, nạn quan lại cường hào, nạn đình đám xôi thịt…Trong vòng xoay điên đảo của

chốn thị thành, không ít người nông dân nhanh chóng đoạn tuyệt với gốc gác hiền lành chất phác để

biến chất thành những kẻ tinh quái, ranh ma, hiểm độc.

Người đọc bàng hoàng trước những mẫu hạng về giới cơm thầy cơm cô: “Có những thằng nhỏ bỏ

thuốc độc định giết cả nhà chủ nhà”; “Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho”; “Có những quân

đốt nhà của chủ hoặc dắt cướp vào nha”; “Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông Phán…” [62, tr.165-

166] đó là sự thoái hoá biến chất đến kinh sợ; còn có màn kịch cười ra nước mắt của thằng nhỏ lưu

manh đem cứt chó bôi lên phản ngủ làm cho hai bố con chủ nhà nghi kỵ chửi rủa nhau…

Điển hình hơn cả là nhân vật sen Đũi. Với những hành vi vô cùng hiểm độc nhằm mục đích khiêu

dâm, sen Đũi muốn làm hư hỏng cậu con trai 12 tuổi con chủ nhà. Sau phi vụ này thành công, đến lượt

nó bị hiếp, rồi nó thoạt nhiên trở thành “một đứa hư hỏng, giả dối, rất nguy hiểm cho đời” [62, tr.44].

Ở nó mất dần “những dấu vết cũ của một cô con gái nhà quê, ngoan ngoãn hay làm, có những cái mơ

màng bình dị (…) suốt đời không dám nghĩ đến cái bả vật chất, những vẻ phồn hoa của đời, nhẫn nhục

mà sống với một người chồng cục mịch, chỉ biết có việc chịu khó làm ăn”[2, tr.139-140]. Ước mơ ấy

bình dị nhưng quá đỗi thân thương, bởi ta thấy Đũi gần với loài người biết bao. Vậy mà, sen Đũi lại

thành “đứa rất nguy hiểm cho đời”[62, tr.140], “một cô gái quê hiền lành mà trở nên một thiện nghệ

trong việc khiêu dâm và mãi dâm” [62, tr.129]. Thậm chí, không muốn mãn kiếp là con ở, Đũi còn

muốn leo lên tầng lớp trưởng giả của xã hội, từ bỏ vị trí cô Đầu để thành, bà Phán, bà Kí. Sen Đũi đã

biến chất, ngày càng sa sâu vào vũng bùn lầy nhơ nhuốc. Mỗi nấc thang bước lên xã hội thượng lưu ấy

chính là mỗi bước sen Đũi lại thụt lùi về nhân phẩm lúc nào không biết.

Cái xã hội tàn bạo đầy rẫy những “virut gây bệnh” đó như ngọn gió độc thổi từ bên ngoài, gặp phải

những linh hồn đã mất hết sức đề kháng, họ ngã gục từ khi nào mà không hay. “Trần trụi giữa bầy sói”,

họ không thể hiền lành, trong trắng. Để tồn tại, họ phải thay hình đổi dạng. Cái xã hội tàn bạo ấy đã ra

sức giết chết “thiên lương” tốt đẹp của họ khiến họ trở nên manh độc, thủ đoạn, chai lì và vô cảm.

Sau một thời gian ngắn lăn lộn ở chốn thị thành, giới cơm thầy cơm cô biến chất nhanh chóng.

Người đọc hoảng hốt trước tốc độ băng hoại đến chóng mặt này: “mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ

mà ở được vài tháng thì ăn cắp như ranh, ăn bớt như quỉ” [62, tr.165]. Họ đánh mất tất cả, từ thể xác

đến tâm hồn. Bằng việc khám phá những mảng hiện thực đen tối và sự tha hoá của những người nông

dân lên chốn thị thành kiếm sống, “ông vua phóng sự đất Bắc” đã bóc trần cái sự thật “hãi hùng, kinh

ngạc về loài người”

Phải chăng đây là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại

bằng nhiều con đường khác nhau. Ngòi bút hiện thực của Vũ Trọng Phụng tỏ ra hết sức tỉnh táo khi

ông vạch ra rằng, những người nông dân khốn khổ phải dành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân

phẩm, băng hoại nhân tính, trượt dài trên con đường tội lỗi. Hiện tượng mỉa mai, đau xót ấy rất phổ

biến và có tính qui luật vẫn diễn ra hằng ngày trong cái xã hội nông thôn đầy những bất công và tội ác

thời đó.

2.1.3.2. Những nạn nhân của những hủ tục lạc hậu

Nếu như Ngô Tất Tố có thể được coi là “nhà văn của nông dân” thì trước hết vì ông có Việc

làng. Qua Việc làng, bức tranh xám màu về nông thôn Việt Nam cứ hiện dần một cách rõ nét, làm nên

gam màu chủ đạo xám ngoét trong bức tranh ấy chính là những hủ tục lạc hậu. Và nạn nhân trực tiếp

của những hủ tục ấy không ai khác chính là những người nông dân tối tăm, nghèo khổ.

Viết về nông thôn, Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển…đều có thể coi là những cây bút tiểu thuyết

phong tục tập quán sắc sảo. Tuy nhiên các hướng tiếp cận hiện thực của các nhà văn này còn hạn chế

về tầm khái quát xã hội. Ngô Tất Tố không thuộc hướng viết đó, Việc làng và Tập án cái đình là một

hiện tượng đột xuất. Khơi nguồn cảm hứng từ nền văn hoá lâu đời của Việt Nam – Văn hoá đình làng,

nhưng Ngô Tất Tố nhìn nông thôn ở góc độ khác: góc độ của những hủ tục. Bằng vốn hiểu biết về văn

hoá phong tục người Việt phong phú, bằng cái nhìn sắc bén đối với sự việc, hiện tượng, ông đã thể

hiện gánh nặng tinh thần của người dân quê trước lệ làng đồng thời vạch ra bản chất những hủ tục chốn

đình trung: tất cả chỉ là những trò lừa bịp! Còn người dân quê lại ngây thơ cung kính thực hiện những

tục lệ đó một cách chân thành. Đó là cảnh chuẩn bị đám ma cụ Thượng, cảnh một đám vào ngôi của

thằng con bác Cả Mão, lễ thượng điền, hạ điền, lễ đuổi đánh thành hoàng, cuộc thi giết lợn…

Không biết từ đâu ra, và tự bao giờ, dân làng Việt Nam lại có những hủ tục kì quái như: tục ăn

vạ, tục vào ngôi, đánh đuổi thành hoàng, thi giết lợn…Sự vô lý đến tàn nhẫn của những hủ tục lạc hậu

đã nhấn chìm bao người nông dân vào cảnh khốn cùng. Biết bao thảm kịch xảy ra: hủ tục đã biến một

bà “lý cựu” từ địa vị bà chủ của một gia đình khá giả nhờ tằn tiện chắt bóp trở thành “một bà vú già” đi

làm thuê để lấy tiền trả nợ chức lý cựu đó; hủ tục đã cướp đi nốt cả mái nhà tranh xiêu vẹo của những

gia đình nghèo hèn khốn khó. Vì phải lo “một cỗ oản tuần sóc”, người chủ gia đình đã phải dỡ nhà bán

lấy củi giữa lúc trời mưa to khiến bọn trẻ co ro cúm rúm không còn chỗ trú thân. Hủ tục đã biến đứa

con thành kẻ bất hiếu khi bà mẹ già đau ốm không được một lời hỏi han chăm sóc bởi con trai bà còn

bận lo lắng chăm chút “đôi gà thờ” cho lễ lên lão của mình...

Nghiêm trọng hơn, trong Một tiệc ăn vạ, hủ tục còn cướp đi cả mạng sống của người nông dân.

Trong phóng sự này, tác giả miêu tả tình cảnh của lão Sửu – một nông dân hiền lành, thật thà, nhờ

chăm chỉ làm lụng mà có bát ăn bát để. Một ông Trùm trong làng có ý vay lão Sửu ít thóc. Bà Sửu từ

chối vì thừa biết cho vay tức là “có vay mà không có trả”. Tên trùm đem lòng thù oán và vu cho lão

Sửu chửi làng. Lão Sửu bị làng ăn vạ. Tiệc ăn vạ diễn ra ngốn của Lão Sửu hơn trăm bạc. Buổi sáng ăn

uống linh đình, buổi chiều lão Sửu uất ức thắt cổ chết.

Người nông dân quanh năm đầu tắt mặt tối, lo làm lụng và dành dụm để có một chút tiền cho

hậu sự của mình khi đã về già. Song tai hoạ của những gánh “việc làng” luôn rình rập họ bởi có khi

“chỉ sửa một ván xôi mới mà mất cơ nghiệp”. Cuộc đời của lão Khuông Việt (Lớp người bị bỏ sót) “từ

thuở mười bảy tuổi đầu, không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm…thậm chí lao

lực…chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến nỗi không ngóc đầu lên được. Bây giờ sắp chết, gánh tệ tục ấy

vẫn còn đè ép chưa tha”, tiếng kêu cứu cuối cùng trong giờ hấp hối “Tôi là người chết oan!” là một

minh chứng hùng hồn cho sự áp bức của chính quyền thực dân phong kiến bằng cách tròng vào cổ họ

gánh nặng của những lệ làng, hủ tục.

Đó đây còn biết bao những cảnh đời điêu đứng vì hủ tục. Phương pháp bảo cử mầu nhiệm là

phóng sự nhỏ trong Túp lều nát kể rất rõ sự trói buộc của hủ tục. “Lệ làng ban ra là phải tuân theo.

Không thôi làng truất ngôi, truất phần (….) Ai không có tiền, một là phải đi bán ruộng, vay nợ mà làm,

một là bỏ làng đi nhập tịch xứ khác.” [4, tr.67]. Bao nhiêu người tan cửa nát nhà vì đình đám:

Chạy tiền đã khốn rồi. Trong cuộc vui mà có rượu chè cờ bạc lại khốn thêm một bậc. Rồi

còn phần phò lấy về không lẽ ăn một mình. Lại phải biếu xén lôi thôi một nước nữa. Cho nên

sau những ngày đình đám, mặt anh dân anh nào anh nấy méo như cái bị. Bọn hào lý cốt sinh

chuyện để cho dân đóng góp mà đánh chén. [4, tr.68].

Khá nhẹ nhàng và có tính hài hước, Trao thân con khỉ mốc trong tập phóng sự Đồng quê của

Phi Vân là câu chuyện về những hủ tục phiền phức của một đám cưới. “Làm cha mẹ, ai cũng muốn cho

con nó được nên vợ nên chồng, đằng này họ mảng bo bo mấy cái hủ tục bắt bẻ từng chút, đòi hỏi từ cái

lễ mọn, đã thèm rồi mới chịu gả con gái” [89, tr.17]. Chưa hết, đến đám rước dâu, phải đi mấy ngày

mới tới nhà gái, lại còn phải chịu không ít thủ tục rầy rà, nhà gái còn vặn vẹo đủ điều. Sợ rước dâu trễ

phải chịu ngược thêm mấy con nước nữa, nhà trai bực mình chịu không nổi “bắt” cô dâu xuống xuồng

giựt chuông mở máy, để lại sau lưng tiếng khóc rống lên như đám ma, tiếng vỗ bàn ầm ĩ của ông Tộc

trưởng, tiếng kì kèo đòi hỏi sừng sộ: “Còn lễ…trao thân gửi mình sao không làm hử?”. Nhà trai hí

hửng thoát trận, trả lời cộc lốc: “Trao thân… con khỉ mốc!”. Những hủ tục rầy rà, phiền phức đã làm

cho đám cưới thêm nhốn nháo, nhặng xị và hài hước.

2.1.3.3. Những cảnh đời đói nghèo cùng quẫn

Phóng sự viết về nông thôn trong Văn học Việt Nam 1930 – 1945 như chất đầy các sự kiện

ngồn ngộn trắc ẩn sau luỹ tre làng. Thông qua các tác phẩm của mình, các nhà phóng sự đã nói lên diện

mạo của đời sống thôn Việt Nam với nỗi thống khổ của những cảnh đời đói nghèo, cùng quẫn, thấu

hiểu những số phận đầy thương cảm của người nông dân “một cổ hai tròng”.

Trong Việc làng của Ngô Tất Tố, có biết bao nhiêu cảnh đời trái ngang cùng quẫn, mỗi cảnh đời

là mỗi vẻ khốn đốn khác nhau: người thì phải dỡ cả nhà bán lấy củi để lo một cỗ oản tuần sóc, kẻ thì

phải bỏ làng ra đi vì không đủ tiền mua cỗ cho một đứa bé mới lên năm tuổi, có người phải đi ở kéo xe

làm cái kiếp ngựa người để “trừ một món nợ chung thân” vì lo đám tang cho vợ, có kẻ lại bị làng “ngả

vạ” uất ức quá phải thắt cổ tự tử… Quả đúng như lời đánh giá của Bùi Huy Phồn về Việc làng : “Phải

nói thực với nhau rằng khi đọc xong Việc làng, chúng ta – những người sáng tác văn nghệ – lại càng

thấy sự hiểu biết của chúng ta về đời sống mọi mặt của người nông dân nước ta quả còn sơ sài, phiến

diện quá, do đó mà sự thông cảm của chúng ta với những vui buồn, sướng, khổ của họ cũng hời hợt

quá…”[53 , tr.205-206]

Cũng như vậy, trong Túp lều nát, ta cũng gặp những cảnh đời đói nghèo, cùng quẫn: có người

phải bán cả giường chiếu, có người phải đánh liều bỏ nhà đi tha phương cầu thực; có người bị xiết cả

cày, bừa, lưới vó…Nguyễn Trần Ai cũng “cố lần mò tìm kiếm trong cái màu xanh xanh bí mật kia một

ít cảnh tượng đáng than khóc và cứ thế vẽ phác ra, sao nguyên nó lại cho xác thực để cung cho độc

giả, may chi gợi được vài giọt nước mắt đồng tình” [4, tr.21].

Tiêu biểu nhất là trong Loài động vật ngắn cổ, Nguyễn Đổng Chi kể về tình cảnh chắt Ch. gặp

phải năm mất mùa đói kém, chắt Ch. vay ông cửu T ở làng TĐ. ba đồng bạc, cả vốn lẫn lãi thành bốn

đồng rưỡi, đến hạn không trả được phải gán đứa con ở đợ, không ngờ nó ngã gãy tay, ông Cửu đuổi về

và còn đòi thêm số nợ. Vậy là tiền mất tật mang!

Oái ăm không kém là câu chuyện đau lòng của bác đĩ Do có con gái đi ở bị hiếp dâm, thằng kia

là con nhà khá giả. Vốn không ưa sinh sự với ai nhưng muốn ăn gan cái quân hiếp con mình, bác Do

nghe theo mưu kế của chàng lái buôn và dân làng, đi lên huyện để kiện. Được 5 đồng, nhưng ra khỏi

cửa huyện, số tiền đó cứ mòn dần: công bọn tuần bắt thằng hiếp dâm 2 đồng, đãi cơm nước cho các

ông đương chức làng sở tại đi khai báo hết 1 đồng, 1 đồng tiền thuốc cho con gái bị bệnh nặng sau lần

đó. Còn 1 đồng tính về may cho vợ và thằng con cái áo thì về đến làng ông Lý đòi trả tiền công 3 giác

vì có công đi khai báo. (Số tiền trời cho)

Dẫu sao thì mất tiền nhưng còn được sống, còn trong Những người thay mặt cho công chúng,

nỗi cùng cực không chỉ dừng lại là sự đánh đổi gia tài, của cải mà thậm chí họ còn đánh đổi cả tính

mạng của mình. Đó là thảm cảnh chua xót của vợ chồng anh Mai. Cấy mười mẫu ruộng, được tiếng là

có của ăn của để, “Bọn chức sắc trong làng liền sinh chuyện để kiếm chác. Khi vài ba hào, khi năm bảy

xu, chúng cứ thác cớ ra để lần nhẵn hầu bao của anh, làm cho anh không còn thở được với chúng.(…)

Nhìn con đói bủng beo da mặt, Mai thấy xót bèn bảo vợ ra ruộng bới tạm khoai non về ăn.”[4, tr.101].

Đã vậy, chúng tìm mọi cách gây sự để moi tiền của, hết xiết chăn, yếm, cái tráp rồi đến đánh đập túi

bụi, rồi đưa anh vào tròng trấn lột, bị nhốt, tay chân sưng lằn, vật vã vì đói, Mai đờ đẫn… Biết mình

mắc mưu, Mai ức quá thắt cổ tự tử nơi điếm làng.

Bên cạnh những cảnh đời khốn khổ của người nông dân Trung Bộ là những cuộc sống không

kém bi thương của người nông dân Nam Bộ. Đó là cảnh đời dở khóc dở cười của Tư Rỗ trong tập

phóng sự Đồng quê. Tư Rỗ tiêu biểu cho số phận của những chàng nông dân nghèo bị bọn Bá hộ lợi

dụng. Phi Vân tái hiện thực trạng này khá rõ trong Cành tre cũ, cặp giò xưa. Tư Rỗ bị Bá hộ nhử đến ở

rể làm việc không công rồi gả con gái cho, nhưng gần đến ngày cưới Bá hộ thình lình đuổi anh đi. Té

ra, biết sắp hết hạn, ông kêu thằng Út ở xóm trong vào ở rể, tiếp tục màn lợi dụng khác. Uất ức quá,

anh tìm cách trói ông lại kề dao vào cổ hăm doạ rồi dắt con gái ông đi trốn. Nhưng sự việc không

thành, Tư Rỗ bị đưa ra làng trừng trị. Và tất nhiên sẽ không thoát khỏi những tai hoạ giáng xuống.

Mỗi thiên phóng sự là một thảm kịch lớn của nông thôn Việt Nam dưới ách thực dân phong kiến.

Mỗi người một vẻ, một vùng, một cách sống khác nhau nhưng đều là những cảnh đời dở khóc dở cười,

những mảnh đời cơ cực đến thảm thương. Và đằng sau đó là sự trơ tráo đến bẩn thỉu của những người

“cầm trịch” ở làng quê – những kẻ tự coi là phụ mẫu chi dân.

Không như Khao của Đỗ Phồn và Làm dân của Trọng Lang, thành công của các phóng sự viết

về nông thôn của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân là không chỉ dừng lại ở việc miêu tả mà còn

phân tích cắt nghĩa vì sao người nông dân phải chịu bao cảnh khổ như vậy. Họ đã có câu trả lời của

riêng mình: sở dĩ nạn xôi thịt, rượi chè, hủ tục …vẫn tồn tại bởi cường hào ác bá vẫn muốn duy trì để

mưu lợi cá nhân.

2.2. Cảm hứng, tư tưởng trong các tác phẩm phóng sự

Những ống kính sắc sảo của các nhà phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 được

vận hành bởi một nhiệt thành, tâm huyết cao độ đã cho thấy cái nhìn, tư tưởng, tình cảm của các nhà

phóng sự đương thời. Chủ đề xã hội, chủ đề con người đã có sự kết hợp chặt chẽ với nhau. Qua con

người, ta thấy xã hội và ngược lại thực trạng xã hội cho thấy những vấn đề nhân sinh còn tồn tại trong

nó.

Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân… đều biết bám vào đáy

sâu nhất của xã hội để khám phá, phản ánh và sáng tạo. Họ đã khám phá ra hai vấn nạn cơ bản của

nông thôn thời thuộc Pháp là những hủ tục và tệ nạn xã hội. Từ những tầng phức tạp còn bị khuất lấp

này, họ nhận xét, đánh giá và thể hiện sự tìm tòi tư tưởng. Lập trường tư tưởng tiến bộ, cảm quan nhạy

bén, hiểu biết hiện thực sâu sắc, tất cả là điều kiện để các nhà phóng sự đã phát hiện được những vấn

đề mới để phân tích lý giải đúng đắn, đánh giá khoa học theo chiều hướng nhân đạo, từ đó có thể đưa

ra giải pháp nhằm cải tạo xã hội và xây dựng nhân cách con người

2.2.1.Thẳng thắn vạch trần, tố cáo và phê phán

Nhìn thẳng, nói mạnh và chính xác, những phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đều

là những cái tát trực diện dành cho giai cấp thống trị đang cố tình bưng bít, che dấu những sự thật tội

ác ở nông thôn. Xuất phát từ nỗi đau và sự bất bình trước hiện thực xã hội, Ngô Tất Tố, Trọng Lang,

Vũ Trọng Phụng, Phi Vân, Nguyễn Đổng Chi …đều tỏ ra hết sức thông minh khi lựa chọn thể phóng

sự để phản ánh. Sự tôn trọng hiện thực của thể loại này có giá trị thuyết phục cao. Hiện thực cuộc sống

nông thôn được họ phanh phui, lộn trái.

Trước hết, các nhà phóng sự tập trung tố cáo những hủ tục đồi bại. Hủ tục như một gánh nặng đè

lên đời sống của người nông dân và các nhà phóng sự đang đặt vấn đề gấp rút cải tạo bộ mặt của cái

làng phong kiến Việt Nam. Tiêu biểu nhất là phóng sự Việc làng và Tập án cái đình của Ngô Tất Tố.

Những sinh hoạt đình làng, những phong tục tập quán, thuần phong mĩ tục lâu nay được phủ lớp sơn

hào nhoáng kia thực sự là những luật lệ, nghi lễ cổ hủ, lạc hậu, được duy trì như một phương tiện, công

cụ thống trị của giai cấp thống trị. Không dừng lại những hiện tượng tiêu cực trên bề mặt như Làm dân

của Trọng Lang, mà thông qua việc miêu tả nạn xôi thịt ở chốn đình trung, Ngô Tất Tố đã tố cáo gay

gắt bọn cường hào lý dịch lợi dụng hủ tục để bóc lột nông dân. Đó là cái lý do chủ yếu cắt nghĩa tại sao

những hủ tục vẫn tồn tại đời này qua đời khác “như một vị thần thiêng”.

Kết luận khách quan tiến bộ toát ra từ tác phẩm của Ngô Tất Tố là phải gấp rút giải phóng người

nông dân ra khỏi chế độ thực dân phong kiến cũng như ý thức hệ phong kiến. Đọc các phóng sự viết

về nông thôn giai đoạn này, người đọc thấy một xã hội ngột ngạt, đời sống con người khốn khổ, tính

mạng thật rẻ rúng. Và vì thế dấy lên trong lòng người đọc một thái độ căm phẫn mãnh liệt, một cảm

giác muốn quẫy đạp, tung phá những sợi dây hủ tục đang riết chặt cuộc sống của người nông dân.

Bên cạnh tố cáo những hủ tục đồi bại, các phóng sự còn lên tiếng tố cáo những thủ đoạn bóc

lột của bọn quan lại hào cường với những thủ đoạn bóc lột như phù thu ăn chặn, sưu cao thuế nặng,

tham nhũng cường quyền. Nếu như Việc làng đã thu hút người đọc bằng khả năng lý giải vấn đề một

cách sâu sắc, bằng óc quan sát và nghệ thuật miêu tả tinh tế cũa một nhà văn sống lâu đời với nông

thôn để từ đó lên án chính sách ngu dân, tố cáo chủ nghĩa phục cổ lạc hậu và những thủ đoạn bóc lột

của bọn cường hào lý dịch, thì Túp lều nát lại là một đòn đánh mạnh, trực diện phanh phui bản chất

xấu xa của bọn cường hào. Nhà văn xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Trần Ai có vẻ róng riết

hơn, cụ thể hơn Ngô Tất Tố khi chỉ ra nỗi nhục của người dân bản xứ qua gương mặt và hành vi của

những kẻ đại diện.

Ngay từ bài Tựa của Túp lều nát, tác giả Nguyễn Trần Ai đã đưa ra những con số có sức tố cáo

mạnh mẽ các nhũng tệ của tổng lý, hào cường trong thời gian một năm “dối quan, lừa dân, ăn dân,

hiếp dân và bức dân đến chết”. Từ những con số biết nói ấy, tác giả ví cái làng Việt Nam và rộng hơn

là cả xã hội Việt Nam đương thời như một túp lều đang bị những con mọt đục khoét đã đến ngày mục

nát, cần phải nhanh chóng có sự đổi thay. Tác giả cảnh báo rằng: “có một túp lều sắp đổ!”. Bằng ngòi

bút phóng sự sắc sảo, Nguyễn Trần Ai đã dựng lại chân dung đa diện và bộ mặt thật của đám quan lại

trong từng thôn xã với tất cả mọi mánh khoé ranh ma, quỉ quyệt, từ những thủ đoạn bóp nặn tinh vi

như phù thu, lạm bổ, tăng khống diện tích canh tác, và đánh đồng các loại ruộng để thu thuế, bán thuế

non, tính gian sổ sách, bức xiết đồ đạc, cướp vợ, vu oan giá hoạ… thực chất là những kiểu cướp giật

bằng mọi cách, đến việc cho vợ đóng giả đủ hạng người ăn mày, đội tên những người dân trong sổ

đinh của làng để đi lĩnh chẩn, những câu chuyện tranh chức Lý trưởng, làm phiếu bầu có đánh dấu sẵn,

đến những việc hèn hạ như những kẻ đại diện cho xã hội An Nam này tranh vồ nhau những đồ phế thải

của một viên quan người Pháp sắp đi nhận chức nơi khác….“Chúng biến luật pháp thành những “võ sĩ

què hết cả tay chân” và công lý thành “một cố lão mù tịt””. Toàn bộ Túp lều nát là bức tranh tổng thể

của nông thôn Trung Bộ mà mỗi tác phẩm là một lát cắt tiêu biểu. Nguyễn Trần Ai rất thẳng thắn và

tinh tường khi vạch ra cho độc giả thấy, đằng sau đám sâu mọt và cả cái chế độ mục nát ấy là hình

bóng của các ông Tây thực dân. Mặc dầu quốn phóng sự chỉ dừng lại yêu cầu cải cách đối với hiện

thực xã hội đương thời nhằm thức tỉnh những người có lương tri, báo động về sự vô hiệu lực của hệ

thống pháp luật của một thể chế có đến hai nhà nước cai trị, nhưng hiện thực khách quan gay gắt được

phản ánh trong các thiên phóng sự đó cũng đòi hỏi nhanh chóng phải có một sự thay đổi lớn.

Giá trị tố cáo sâu sắc của các phóng sự giai đoạn này còn thể hiện ở việc thẳng thắn vạch trần và

phê phán những hiện tượng tiêu cực trong tư tưởng và tâm lý của những người nông dân như mê

tín dị đoan, tâm lý hiếu danh…

Với vốn hiểu biết văn hoá sâu sắc uyên thâm, các cây bút phóng sự hiểu tận chân tơ kẽ tóc tâm lý

mê tín, dễ bị tác động của nông dân. Mặc dầu tỏ ra cảm thông cho những người nông dân cùng đường

không biết làm gì để kiếm sống, nhưng Phi Vân tỏ ra rất nghiêm khắc khi phê phán nạn mê tín dị đoan

trong Châu Xương cử Thanh Long đao và Ông tướng thầy Ba. Tác giả cũng cảnh báo về một tương lai

không xa, những kẻ lợi dụng sự mê tín của dân sẽ lộ rõ chân tướng. Ngô Tất Tố thì phê phán khá mạnh

nạn mê tín dị đoan trong Nén nhang sau khi chết. Ông chỉ ra những hậu quả thảm thương của nạn mê

tín nhằm cảnh tỉnh những người nông dân hãy tỉnh ngộ mà bước ra cái vòng luẩn quẩn: dốt nát, nghèo

đói va mu muội. Tác giả vạch ra âm mưu của kẻ thù là đánh mạnh vào nền văn hoá, đặc biệt là chúng

chỉa thẳng mũi súng vào tầng lớp nông dân - những người vốn ít hiểu biết, dễ bị tác động, rồi mượn tay

các thế lực phong kiến cố tình duy trì các hủ tục để dân tin, sùng bái, rồi chìm dần vào lạc hậu, mê tín

hư danh, kèn cựa nhau…từ đó, chúng dễ bề bòn rút.

Bên cạnh nạn mê tín dị đoan là tâm lý hiếu danh, tư tưởng xôi thịt ở chốn đình trung. Nếu Tắt đèn

tập trung ca ngợi bản chất tốt đẹp của người nông dân thì với Việc làng, Ngô Tất Tố lại chế giễu và phê

phán kịch liệt những tấm lý tiêu cực đó. Ông tỏ ra là ngòi bút hiện thực tỉnh táo khi vạch ra và tố cáo

chính sách ngu dân của giai cấp phong kiến, chủ trương duy trì những hư danh ngôi thứ ở chốn nông

thôn. Nó làm cho một số người lao vào tranh cướp nhau một chỗ ngồi ở chốn đình trung lấy đó làm lẽ

sống cao nhất và tất cả đều quên mất một sự thật đau đớn: mình vẫn là thân nô lệ! Nô lệ này cưỡi lên

đầu nô lệ khác mà sống. Kết quả của việc chạy theo hư danh, ngôi thứ là sự lục đục, chia rẽ ở nông

thôn, trở thành lực lượng mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng. Bọn lý dịch hùa nhau

ăn hiếp cánh áo ngắn nhưng lại chia ra năm bè bảy cánh kình địch nhau, có khi đâm chém nhau vì một

“chức tiên chỉ” (Cái án ông cụ). Đến cả những “môn đồ của Khổng tử” trong hội tư văn, phần lớn là

bậc khoa hoạn “mặc áo thụng lam, đội mũ nhiễu hoa bạc” mà cũng đánh nhau chí tử vì một chiếc lăm

lợn, gây nên một tấn bi hài kịch ở khu văn chỉ. “Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi

đánh nhau? Hay là ở đây là cửa Khổng sân Trình cho nên dù là đánh nhau, cũng phải giữ lễ!” (Một

chiếc lăm lợn). Trong một xã hội người bóc lột người, ý thức hệ của giai cấp thống trị là ý thức hệ

thống trị. Các bậc đàn anh trong làng hiếu danh, ham chức tước bổng lộc như thế thì lẽ tất nhiên một số

nông dân sẽ có cái tâm lý “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, “một miếng thịt làng bằng một

sàng mua”. Điều đó là một qui luật không tránh khỏi. Ngô Tất Tố mỉa mai sâu cay những người bán cả

gia tài, cho vợ đi ở vú để lấy tiền mua một chức lý cựu! (Góc chiếu giữa đình). Mỉa mai những kẻ vì

hiếu danh mà nâng niu một con gà thờ với tất cả lễ nghi thành kính, lấy làm mãn nguyện vì đã chăm

sóc tôn kính khi “người” bị “thương thực” hơn là lo lắng cho bà mẹ mình bị ốm nặng (Con gà thờ).

Sức tố cáo của các phóng sự giai đoạn này được bật ra từng câu chữ, từng chi tiết của chuyện. Mỗi

người nông dân như đều đang rên xiết vì những thủ đoạn thống trị đê tiện và thâm độc đến mức không

thể chịu đựng được nữa. Toàn cảnh xã hội nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ là hàng loạt những thảm

kịch, những chân dung bất hạnh. Tất cả chính là lời lay tỉnh sâu sắc, mạnh mẽ hãy đừng là nô lệ của hủ

tục, đừng rơi vào âm mưu của kẻ thù. Mỗi phóng sự là mỗi lời tố cáo thẳng thắn, gay gắt. Thậm chí

còn manh nha lời kêu gọi đứng lên chống lại áp bức cường quyền, kêu gọi phản kháng lại sự bóc lột

tàn nhẫn, thâm độc. Những thông điệp đó vốn rất cần trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.

Trong lúc này, thực dân Pháp đang cố kìm hãm dân ta trong ngu dốt lạc hậu, lo phục hồi những tục

lệ cổ hủ mà quyên nhiệm vụ cứu nước, và không ít văn nghệ si đã sa vào âm mưu thâm độc ấy. Đặt

những thiên phóng sự trong bối cảnh ra đời của nó, mới thấy sâu sắc và thấm thía hơn lúc nào hết lòng

dũng cảm, tình yêu đất nước, trách nhiệm và bản lĩnh nghề nghiệp của những nhà văn - những cây bút

phóng sự.

2.2.2. Niềm thương cảm sâu sắc

Hành trình đi tìm tòi và khám phá sự thật, săn lùng cái ác, cái xấu để phơi bày, tố cáo của các nhà

phóng sự chính là dấu hiệu của chủ nghĩa nhân đạo. Tư tưởng nhân đạo của các nhà phóng sự không

chỉ thể hiện ở nhiệt tình phê phán, tố cáo cái ác mà còn ở việc thể hiện lòng trắc ẩn, nỗi cảm thông

bênh vực những người nông dân. Đó là những người bị tha hoá, biến chất một cách thảm hại, những

nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, những số phận đói nghèo cùng quẫn…

Trước hết, người đọc dễ nhận ra nỗi cảm thông, thương xót cho những nạn nhân của xã hội

trong từng trang phóng sự. Các nhà phóng sự bức xúc, thẳng thắn vạch ra một sự thật bi đát về những

kiếp người. Với niềm đồng cảm sâu sắc, Ngô Tất Tố đã thấy được tất cả những nỗi nhọc nhằn, phiền

phức của những người nông dân sau luỹ tre làng. Mồ hôi nước mắt của họ không chỉ đổ xuống đồng

ruộng mà còn đổ cả ở chốn đình trung, nơi góc điếm sân đình. Phóng sự của ông chứa đựng những nỗi

buồn của một ngòi bút đầy chất nhân văn cao cả. Ngô Tất Tố phê phán cái tâm lý chạy theo hư danh

ngôi thứ nhưng không bao giờ xem đó là bản chất của nông dân. Nhà văn hiện thực rất sâu sắc khi thấy

rõ đó là những ảnh hưởng xấu tiêm nhiễm từ giai cấp thống trị. Ông xót xa cho những thảm kịch của

những người cung kính một cách ngây thơ trước hủ tục.

Chua xót trước hiện thực, nhà phóng sự Nguyễn Trần Ai đau đớn vẽ nên cuộc sống mênh mông

nỗi khổ nhục, oan ức trong suốt 13 chương khiến người đọc xót xa. Với chương Những người thay mặt

cho công chúng, tác giả đã có dịp để bày tỏ cảm xúc, tâm trạng của mình.

Người nhà quê nọ mới thuật qua loa vài câu chuyện đủ làm cho tôi rùng mình. Thật là một

trang thảm sử. Mỗi một lời nói là một dòng nước mắt, khiến cho bay giờ cầm bút chép lại

câu chuyện này, lòng tôi vẫn còn hồi hộp và bàn tay không điều khiển nổi ngòi bút, vẫn còn

run run như cầy sấy. Thì ra ở đây, ở chính dưới ách bọn tổng lý, luật pháp là một nhà võ sĩ

què hết cả tay chân, mà công lý là một cố lão mù tịt. [4, tr.100]

Hoặc trong Loài động vật ngắn cổ, Nguyễn Trần Ai cũng phải thốt lên lời cảm thương khi nghe

chắt Ch. kể lại tội phù thu lạm bổ của bọn quan lại:

Những lời nói tủi nhục của bác nhà quê gieo vào óc tôi một cảm tưởng nặng nề. Tôi thấy

dân quê như những khối căm hờn oan ức mà lì mặt. Tự nhiên tôi thấy nóng bừng cả người.

Sau cái màn xanh của làng xóm bao bọc bởi những luỹ tre đen đặc rậm rì thì ra không phải

là một cuộc sống êm ả mà đang chất chứa biết bao nhiêu nỗi hàm oan, những cơn giận

đáng thương xót và đáng ngạc nhiên. [4, tr.22-23]

Với niềm thương cảm như Ngô Tất Tố và Nguyễn Trần Ai, Vũ Trọng Phụng nhìn những người

nông dân hiền lành, thật thà cứ trượt dài trên con đường nhơ nhuốc, ông cũng nặng lòng xót xa : “Điều

cần thiết của tôi là muốn cho cái Đũi trở lại với tính tình trong sạch của cô gái quê ngây thơ” [62,

tr.136]. Vũ Trọng Phụng truy tìm nguyên nhân khiến cho đoàn người rời bỏ thôn quê tìm đến chốn đế

đô: “Họ đến là vì tại những thôn quê họ không làm gì cho đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã cất

tiếng gọi họ… rất bỡ ngỡ, bị bỏ lạc giữa một phố…Rồi người nhà quê thấy nhọc. Nhưng vì lẽ gì mà

người nhà quê dừng bước? Muốn nằm nghỉ cũng không được, vì người nhà quê phải trả tiền cả sự

nghỉ ngơi nữa.” [62, tr.145]. Được một lời mời hỏi nhân đức: “Có muốn kiếm công ăn việc làm

không?”, như chết đuối vớ phải cọc: “Người nhà quê sung sướng lắm, vì đó là lần đầu người nhà quê

thấy một người tỉnh thèm nói với mình.”[62, tr.145] Khát khao được giao cảm với xã hội thượng lưu

thật tội nghiệp và đáng thương. Hiện thực xót xa đã đánh mạnh vào tâm trí nhà văn họ Vũ, bật thành

nỗi thương cảm, thành lời than hết sức cảm động: “những câu chuyện ấy thật là lạ lùng, thật là không

ai dám tưởng là có thật được, thật là nhơ bẩn, thật là chướng tai” [62, tr.162]

Mặc dù có đôi chỗ ông tỏ ra khinh miệt, nhưng bao trùm lên tất cả tình thương của ông đối với lớp

người sa chân lỡ bước và thái độ dứt khoát đứng về phía những nạn nhân: “còn xa tôi mới làm thầy

kiện cãi không công cho hạng người giàu có mà bắt đứa đi ở mua một hào chỉ thịt quay phải mua làm

hai bận. Còn xa tôi mới làm án cho một con sen bị đánh gần bỏ mạng…”[62, tr.136].

Nói như Nguyễn Đăng Mạnh trong Lời giới thiệu Kỹ nghệ lấy Tây, “Điều quan trọng nhất đối với

một cây bút hiện thực chủ nghĩa không phải là đi thực tế dài hay ngắn, được “tham quan” nhiều hay

ít. Điều quyết định là tấm lòng có nhập cuộc hay không, tâm huyết có để vào những điều mình tìm hiểu

và thuật kể hay không”. Tấm lòng nhập cuộc, tâm huyết của các nhà phóng sự đã trải dài trên từng

trang viết. Cái gốc tài năng của các nhà phóng sự viết về nông thôn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,

Phi Vân, Nguyễn Đổng Chi, Tam Lang, Trọng Lang…xét đến cùng là ở tấm lòng đau đớn và đầy căm

phẫn của những con người ý thức được những bất công và nỗi nhục bị giày xéo. Những tấm lòng trắc

ẩn ấy chính là thứ đá nam châm có sức hút cực nhạy để bắt lấy rất nhanh những cảnh đời mà khó ai

nhìn thấy, tấm lòng ấy cũng chính là những sợi dây đàn, chỉ cần chạm khẽ là có thể rung lên muôn điệu

cảm thông, chia sẻ. Đó là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ các thiên phóng sự viết về người nông

dân trước cách mạng. Đó cũng chính là biểu hiện của lòng nhân đạo sâu sắc mà các nhà văn đã thể hiện

trong những “đứa con tinh thần” của mình.

Bên cạnh niềm cảm thông, thương xót là sự khơi gợi sức mạnh phản kháng để gióng lên hồi

chuông cảnh báo. Cũng xuất phát từ nỗi cảm thương sâu sắc, các nhà phóng sự đã trùm lên khung

truyện một không khí oi bức, ngột ngạt, các nhân vật bị dồn đến bức bối, tới mức phải nổ ra phản

kháng: Đó là tiếng rên oán hờn của cụ Thượng Lão Việt trong Việc làng: “Nhiều lúc tôi muốn hắt cái

gánh nặng ấy đi”. Đó là tiếng chửi cay nghiệt của người nông dân bị ăn chặn có sức mạnh thấm thía

đến xương tuỷ trong Túp lều nát:

Mả cha vạn họ nhà bay ! Cha con bay đi chém đầu cắt cổ choa (chúng tao) biết mấy năm

trời rồi. Trời ôi! Trời ở mô? Không phân thây cha con thằng Lý Tr ra trăm nghìn mảnh để

cho bay chừa cái thói phù thu lạm bổ đi. Sưu, sưu, thuế, thuế, vua thu có một phần thì bay

ăn hết của choa đến mười phần. Trời ôi ! Trời ở mô? [4, tr.17]

Tiếng chửi đanh thép, lời rên rỉ chứa chất phẫn nộ mang âm điệu bi thống đã ám ảnh, làm người

đọc sững sờ, day dứt. Đằng sau tiếng chửi ấy, lời than thở ấy, ta còn thấy sự vật vã của một lớp người

đang quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng. Cách mở đầu đầy ấn tượng đó của hai tập phóng sự Túp lều nát

và Việc làng đã hé mở tình trạng bi đát của một số phận, một giai cấp. Phải có tấm lòng nhân đạo, cảm

thông thì mới có sự thấu hiểu sâu sắc đến như vậy.

Túp lều nát hấp dẫn người đọc ở chỗ, tác phẩm cho ta thấy tinh thần phản kháng mạnh mẽ của

người nông dân. Không như người nông dân trong tác phẩm của Ngô Tất Tố chỉ biết câm lặng trong sự

bóc lột tàn nhẫn, Nguyễn Trần Ai lại miêu tả họ như một lực lượng sẵn sàng đứng dậy đấu tranh chống

lại sự bất công và lừa gạt. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, Tinh thần phản kháng ta cũng từng gặp

trong Đồng quê, khi chàng rể trói “bố vợ” kề dao hăm doạ là kết quả của sự lừa gạt, tức nước vỡ bờ,

nhưng dẫu sao cũng chỉ ở mức độ cảm tính, nhất thời. Quyết liệt nhất phải kể đến là thiên phóng sự

cuối cùng “Một thiên kết luận đẫm máu” trong Túp lều nát. Hình ảnh người nông dân phẫn uất, tuyệt

vọng, thấm thía tội ác của kẻ thù đã giết chết Viên chánh tổng rồi tự kết liễu đời mình là kết quả của sự

dồn nén, một kết cục tất yếu diễn ra, kiểu như Chí Phèo giết Bá Kiến vậy. Đó là sự vùng lên của con

người làm chủ giết chết con người nô lệ. Đó là cái chết ý thức được sự công bằng, về ước mong thay

đổi xã hội đã trở nên cấp bách. Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường của Nguyễn Trần Ai đã có dịp

thể hiện ở những đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của người nông dân.

Phải có một nỗi “đau đớn lòng” sâu sắc từ “những điều trống thấy” thì các nhà phóng sự mới viết

nên được những bản cáo trạng đanh thép và đẫm nước mắt đến thế. Phi Vân, Nguyễn Đổng Chi, Vũ

Trọng Phụng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố….đều am tường sâu sắc về cuộc sống phức tạp, cơ cực sau luỹ

tre, đều thương cảm đối với người nông dân bị giày vò, lũng đoạn. Không có lòng xót thương, không

có trái tim nhân hậu đồng cảm, họ không thể viết lên những cảnh tượng đau lòng như vậy. Khi đặt nỗi

cảm thông, lòng trắc ẩn, sự bênh vực của các nhà phóng sự dành cho những người nông dân, ta thấy tư

tưởng nhân đạo của các nhà phóng sự mang đậm tinh thần nhân đạo truyền thống, đó là lên án tội ác,

cường quyền, phanh phui bản chất bóc lột, bênh vực những kẻ khốn cùng, nghèo khổ.

Với nhãn quan hiện thực nhạy bén, những phóng sự viết về nông thôn đã phơi bày bản chất xấu xa

của một chế độ vừa thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Những thiên phóng sự ấy còn khẳng định

tư cách của những nhà văn dũng cảm đứng về phía những người nghèo khổ. Vì thế, nó có giá trị hiện

thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc, góp phần quan trọng vào sự bùng nổ và phát triển của thể loại

chủ lực này trong văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945.

2.2.3. Ca ngợi vẻ đẹp làng quê với những phong tục truyền thống

Bên cạnh cảm hứng chủ đạo là phê phán hiện thực, phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 -

1945 còn được viết lên bởi cảm hứng ngợi ca. Tiêu biểu nhất là tập phóng sự Đồng quê của Phi Vân.

Với cảm hứng ngợi ca, Phi Vân say sưa chọn những gam màu tươi sáng để vẽ nên bức tranh sông

nước Nam Bộ tươi đẹp và tràn trề nhựa sống. Thiên nhiên cảnh vật hiện lên qua lăng kính của nhà

phóng sự là một bức tranh êm đềm, trù phú: sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, nhiều động

vật quí hiếm… Phải có tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, có lòng tin yêu cuộc sống Phi Vân

mới cảm nhận được những nét đẹp đáng quí như vậy.

Không chỉ ngợi ca cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời, Phi Vân còn ngợi ca cuộc sống tinh thần

phóng phú của người nông dân Nam Bộ. Những phong tục tập quán đậm bản sắc dân tộc đã thể hiện

đời sống tinh thần giàu có của người dân nơi đây như những lễ cưới hỏi với những lễ nghi phức tạp,

cầu kì; những đêm hội hát; những đêm trăng chèo đò trên sông văng vẳng những câu hò dìu dặt…

Một điều lý thú là con người Nam Bộ hiện lên trong phóng sự Đồng quê với vẻ đẹp chân chất, phác

thực, hồn hậu như bao người nông dân trong cả nước, song người đọc không cảm thấy cảm giác nặng

nề, mệt mỏi của họ, dầu rằng cuộc sống vẫn còn quá nhiều đau thương. Họ vẫn lạc quan, tin yêu cuộc

sống. Nếu những người nông dân trong Việc làng cứ cung kính, ngây thơ trước hủ tục thì nông dân

Nam Bộ trong Đồng quê rạch ròi, dứt khoát, khi cần họ có thể vùng lên anh dũng đấu tranh chống áp

bức bóc lột, chống những bất công còn tồn tại. Tuân theo tục lệ là biểu hiện của thái độ thành kính với

tổ tiên, và quí trọng hiện tại nhưng trong Trao thân con khỉ mốc, thấy những tục lệ cưới hỏi quá cầu kì,

rườm rà chỉ để bắt bí nhau của nhà gái mà không có sự cảm thông, ngay tức khắc nhà trai có sự phản

kháng. Hoặc trong Cành tre cũ cặp giò xưa, nhận ra mình bị lừa dối, bóc lột, thằng Tư Rỗ vùng lên

trói ông Bá, đè lên ván, xách dao hăm doạ rồi dẫn vợ bỏ trốn…

Bức tranh cảnh vật, bức tranh phong tục đậm sắc màu văn hoá đều được Phi Vân tô điểm mang hồn

cốt của người dân Nam Bộ. Tất cả đều được ngợi ca say sưa với một tấm lòng yêu thương cuộc sống.

Khi hầu hết những phóng sự giai đoạn này hoặc là thi vị hoá cuộc sống. hoặc là nhìn hiện thực với

những gam màu đen tối thì Phi Vân vẫn phát hiện ở hiện thực những giá trị cuộc sống với tinh thần lạc

quan và niềm tin vững chãi. Phải chăng hiện thực đen tối quá làm Phi Vân bỗng có nhu cầu tha thiết

tìm đến những vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi để cân bằng cuộc sống, để có điểm tựa, có niềm tin mà yêu

hơn, trân trọng hơn những giá trị cuộc sống mà đất trời ban tặng? hay sông nước quê hương đẹp quá,

đáng yêu quá đối với một tâm hồn tha thiết với quê hương làm Phi Vân không sao cưỡng lại ?

Được sống, được đắm mình trong thế giới cảnh vật êm đềm, tươi xanh của vùng đất Nam Bộ. Phi

Vân đã biết chắt lọc từng chữ để vẽ nên một bức tranh cảnh vật giàu sức ám ảnh, biết thanh lọc để

chưng cất nên những giá trị quí hiếm trong hiện thực còn quá nhiều đau thương.

Cùng với Sơn Nam, Hồ Biểu Chánh, và sau đó là cả một thế hệ như Mai Văn Tạo, Trần Kim Trắc,

Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy….những trang văn của Phi Vân đã góp một vẻ độc đáo riêng vào

dòng chảy văn học Nam Bộ, và cùng với các dòng chảy khác hoà vào dòng trường giang văn học làm

cho nó ngày càng bề thế, phong phú đa dạng hơn.

2.2.4. Những hạn chế trong cái nhìn hiện thực

Phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đã đặt ra một vấn đề bức bách là làm sao để

chấm dứt những cảnh sống ngột thở vì hủ tục, áp bức, cường quyền? Các nhà phóng sự hăm hở, nóng

lòng đi tìm những giải pháp triệt để cởi trói cho người nông dân. Trăn trở, tâm huyết nhiều, nhưng

trong khi đưa ra các biện pháp giải quyết, các nhà phóng sự đã bộc lộ một số hạn chế trong cái nhìn

hiện thực:

2.2.4.1. Những quan điểm chính trị còn chông chênh, mơ hồ, mang tính cải lương tư sản.

Khi đưa ra những biện pháp để thay đổi thực trạng, Ngô Tất Tố cũng mang tư tưởng giống tầng lớp

tư sản và tiểu tư sản ở nước ta và thế giới lúc bấy giờ khi cho rằng chỉ cần người trí thức gieo rắc ánh

sáng, truyền bá văn hoá về nông thôn là cải tạo được nông thôn. Đó là điều kiện duy nhất và có ý nghĩa

quyết định. Vũ Đình Hoè kêu gọi trên báo Thanh nghị tháng 9 – 1941: “Anh em thanh niên: Nay đến

lúc ta về làm việc làng!”. Tác giả muốn, nhân những chính sách cải lương của Pháp, thanh niên trí thức

hãy về nông thân làm nhiệm vụ khai hoá cho nông dân.

Cùng tư tưởng đó, trong truyện Lớp người bị bỏ sót, mở đầu tập phóng sự Việc làng, cụ Thượng

Lão Việt nói: “Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa nó vẫn có thể thay đổi, nếu phái trí thức

để ý đến sự khai hoá cho dân quê. Nhưng vì chúng tôi là một lớp người bị bỏ sót trong luỹ tre xanh,

con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới.” [53, tr.13]. Trong lời tựa của Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai

cũng cho rằng: “Sở dĩ các ngài không nhìn thấy những chỗ hư nát có lẽ là tại vì các ngài đứng xa

quá!” [4, tr.12] Cụ Tố cũng cho rằng: “Một nước giống như một cái xe bò, lớp dân quê là người đẩy

xe. Nếu kẻ nay xe còn bị những người tệ tục buộc chặt hai chân, thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng

không thể kéo được cái xe bò lên dốc…Vì vậy… tôi chỉ mong các ông đưa mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối

tăm …trong luỹ tre xanh.” [53, tr.14].

Quan điểm đó sai lầm, phiến diện ở chỗ chưa nhìn thấy cội nguồn gốc rễ sâu xa của mọi thống khổ

là sự áp bức của địa chủ phong kiến, cường hào ác bá. Chỉ có làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp thống

trị này thì mới có thể chấm dứt tình trạng lạc hậu ở nông thôn.

Mặt khác, tầng lớp nông dân chiếm 90% dân số lúc bấy giờ, không thể xem là “lớp người bị bỏ

sót” được. Thậm chí đây là tầng lớp có vai trò cực kì quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Điều

mà ông chưa nhận thức được là cách mạng là sự nghiệp của toàn thể quần chúng nông dân chứ không

phải là của tầng lớp trí thức làm để ban ơn cho họ.

Ngô Tất Tố tỏ ra lúng túng, sai lệch khi giải quyết vấn đề mình đưa ra. Thực ra đó là ý nghĩ không

tưởng, cải lương, chỉ nhìn hiện tượng mà chưa thấy bản chất. Cũng như nhiều nhà văn khác, ông bộc lộ

một số hạn chế nhất định về thế giới quan nên quan điểm nghệ thuật đâu đó còn chông chênh, mơ hồ

cải lương tư sản, chưa thấy được sức mạnh hùng hậu của phong trào quần chúng song đó là hạn chế

khó tránh khỏi trong thời điểm đó. Vì thế biện pháp mà tác giả đưa ra chưa thật triệt để. Tuy nhiên, đó

là hạn chế khó tránh khỏi trong thời điểm trong hoàn cảnh ấy. Trong khi bọn bồi bút của phong kiến và

đế quốc đua nhau “thêu hoa dệt gấm” nhằm che đậy bộ mặt thực của nông thôn, một số nhà văn cũng

sa vào bẫy đó, cũng đua nhau ngợi ca những lớp người và cuộc sống lãng mạn suy tàn, thì Ngô Tất Tố

tỏ ra thành công khi biểu hiện cái nhìn đúng đắn về hiện thực, thông qua việc miêu tả hiện thực, phản

ánh cuộc sống khổ cực của nông dân và vạch ra âm mưu của giai cấp thống trị lợi dụng hủ tục để áp

bức bóc lột. Đứng từ góc độ tư tưởng chính trị, ta mới thấy cây bút phóng sự “ông đầu xứ Tố” tỉnh táo

và sáng suốt vô cùng. Ông đã nhìn thấy bản chất của xã hội đương thời, dù chỉ là một vài khía cạnh

chưa đầy đủ.

Một quan điểm sai lầm nữa là các nhà phóng sự luôn trăn trở, khao khát tìm kiếm nguyên nhân

của những cùng cực, oan khổ và họ đều cho rằng nguyên nhân của những cùng cực oan khổ mà người

nông dân phải gánh chịu là do đói khổ và mù dốt. Việc làng không chỉ là việc làng mà có khi lại còn là

việc nước bởi nó phanh phui một hiện trạng lớn, đau lòng của một dân tộc trong vòng áp bức, nô lệ.

Căn nguyên sâu xa chính là những người nông dân vì mù tối ngu dốt, vì không có chữ mà bị lừa gạt

vào vòng mu muội. Cũng như Ngô Tất Tố, “Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai quả chưa tách riêng sự

mù dốt và đói khổ; cả hai theo tác giả cả trong sự hợp lực của nó đã đưa người nông dân vào những

bước đường cùng, và cả cái chết…” (Phong Lê). Nguyễn Trần Ai nhìn vào hiện thực thấy chua xót

cho những người không có “trự”, rồi cứ phải ngơ ngác trong cái vòng luẩn quẩn: vì đói khổ mà mù dốt,

và vì mù dốt mà đói khổ. Trọng Lang cũng đã từng thương cảm cho người nông dân quê mình: “Làng

tôi giống như phần nhiều làng ở Bắc Kỳ về cái nghèo xơ, nghèo xác, trên cái ngu khổ ngu sở. Vì cái

nghèo cho nên…xôi thịt là cái đích rỗng, được họ coi trịnh trọng đến chừng nào.Vì ngu nên gà què ăn

quẩn cối xay, trộm cắp, bắt nạt xằng lẫn nhau”.(Làng).

Rõ ràng, đây là một nhận thức đúng mà chưa đủ, hay nói cách khác, nó chưa đi đến tận cùng cội

rễ, quan điểm đó còn bất cập, sai lầm. Cội rễ của nó là phải khơi sâu vào sự thống trị, sự áp bức, bóc

lột của phong kiến – thực dân. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm lịch sử mà xét, việc hé mở vấn đề đói

khổ và dốt là tiền đề của bất công cũng là một nhận thức có giá trị trong sự phát triển của ý thức xã hội

và tư tưởng văn học một thời.

2.2.4.2. Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa

Một điểm hạn chế nữa trong các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn 1930 – 1945 là trong khi mô

tả và giải thích hiện tượng xã hội và số phận con người, một số phóng sự có cái nhìn mang tính tự

nhiên chủ nghĩa.

Đó là cái nhìn miệt thị, khinh khi đối với kẻ khốn cùng, tha hoá, tội lỗi của Trọng Lang, Ngô Tất

Tố, Vũ Trọng Phụng… khi miêu tả người nông dân với những nét “nhà quê” đần độn, xấu xí, mất vệ

sinh. Nguyễn Trần Ai thì cho những người nông dân chân lấm tay bùn là ‘loài động vật ngắn cổ”, Ngô

Tất Tố thì miêu tả người nông dân: “Người đâu mà lạ làm vậy! Cổ tay lớn bằng bắp chuối, ngón tay

như chiếc dùi đục; những lúc ảnh vấn vành khố một-nhai, bao nhiêu bắp thịt chần chẫn trong lớp da

đồng tụ đều lộ ra hết, thì trông chẳng khác gì cái tượng lực sĩ ở Đền Đô” [53, tr.33], tả đôi chân của

anh Hai Thuyết: “nó phàn phạt như chiếc bàn cuốc và lớn bằng rưỡi bàn chân người thường.”; tác giả

tả cảnh anh Hai Thuyết gần năm mươi tuổi mới học xỏ chân vào giày: “Nhìn ảnh, tôi thấy giống hệt

những bà nạ dòng tiếc cái xuân xanh sắp hết, cố học đi giày cao gót để thi với bọn tân thời”[53, tr.37]

Có vẻ gay gắt hơn, Vũ Trọng Phụng cũng tỏ ra khinh miệt: “Người nhà quê cứ bỏ làng mà đi! Một

ngày kia rồi sẽ được nằm trong một xó sân ngửi mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà nhìn

trời” [62, tr.146]. Thỉnh thoảng ông nói về sự ngu dại, đần độn “vô nghĩa lý” của đám con sen, thằng

nhỏ trong bọn “Cơm thầy cơm cô”:

Một anh chàng đầu trọc lóc, mặt xanh nhớt mà thân thể béo tốt hẳn hoi, áng chừng vừa ở

nhà thong hoặc nhà hoả lò ra, đương ngồi lia lưỡi trên một mảnh giấy còn có cả cái đen sì

sì….Một anh chàng khác cái cổ cao ngỏng dán đến ba bốn lá thuốc cao, đương ngồi ngửa

cổ xem thiên văn trên trời. Một thằng bé thứ ba nữa, thì cứ gãi sồn sột, nằm xuống rồi lại

ngồi lên để ho, khạc và nhổ tung toé đờm rãi ra xung quanh. Rồi mụ già ăn mặc sạch sẽ,

gọn gàng, nét mặt bần thần trông vô nghĩa lý, cứ ngồi cầm cái quạt nan phẩy cho người

này vài cái, người khác vài cái, hình như hơn chục người này đều là con cái của mụ vậy…

[62, tr.143]

Một biểu hiện hạn chế có tính tự nhiên chủ nghĩa nữa là việc giải thích lý do tha hoá của con người

bằng quan điểm sinh lý thô bạo. Trong Cơm thầy cơm cô, ông cho rằng căn nguyên dẫn người đàn bà

trở thành kỹ nữ là do bản năng tính dục, do hám nhục dục một cách thú vật. Căn tính dâm đãng, bản

năng nhục dục kích thích là nguyên nhân cơ bản làm cho họ sa ngã. Sen Đũi cũng không nằm ngoài số

đó. Giống như thị Lành trong Lục xì, sen Đũi vốn là “một gái quê hiền lành” nhưng là “một đứa con

gái mà tạo hoá sinh ra để cho làm đĩ. Chưa làm đĩ, nó đã thạo nghề lảng lơ”. Sau khi bị hiếp, nó hiểu

biết “sự đời”, nó “trở nên một ả thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm”. Ông cho rằng “sự ngứa

ngáy xác thịt” của loài người mới là căn nguyên cơ bản của sự tha hoá nhưng chưa giải thích cụ thể,

chưa thuyết phục. Đó là quan điểm sinh lý thô bạo, là cái nhìn mang tính tự nhiên chủ nghĩa chưa nhìn

thấy những nguyên nhân sâu xa của xã hội dẫn con người vào sự tha hoá.

2.2.4.3. Những bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh thần của con người

Như rất nhiều nhà văn hiện thực phê phán đương thời, các nhà viết phóng sự tuy chỉ ra cho

người nông dân con đường đấu tranh để tự giải phóng nhưng chưa mở ra cho xã hội một viễn cảnh

tương lai tươi sáng, kết cục của các phóng sự vẫn còn quẩn quanh, bế tắc, không lối thoát.

Trong Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng bộc lộ những bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh

thần của con người. Ông bộc lộ một nỗi buồn, buồn về thế sự, về cuộc đời. Phóng sự là kết quả của

một cuộc điều tra khá chân thực, kể lại những thủ đoạn đục khoét ở một huyện nha vào dịp Tết. Từ cụ

Đề, cụ Lục, thầy Nho….đến lính cơ, lính lệ, tất cả đều xoay xở bày đặt đủ mọi trò tồi tệ tàn ác để làm

tiền. Cả xã hội chẳng ai đứng ngoài cái công lệ cá lớn nuốt cá bé và phận sự nộp đút lót. Họ Vũ nhìn tệ

tham nhũng, đút lót là một căn bệnh thâm căn cố đế, vô phương cứu chữa, diễn ra mọi lúc mọi nơi,

“bất cứ chỗ nào” và “bất chấp thời gian”.

Ngòi bút từng tung hoành khuấy đảo đời sống văn học này đôi khi lại có thái độ hoài nghi khinh

bạc, bi quan, bế tắc cả phẩm chất tinh thần của con người: “Cô gái quê đã phải làm con sen thì cô gái

quê sẽ cứ làm cô đào. Cô gái quê đã bị một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh nó là

một cái thang để cho cô gái quê trèo lên cao” [62, tr.136]. Hoang mang trước sự thật nhơ bẩn, chướng

tai gai mắt đến lạ lùng, khó tin của thực trạng loài người, Vũ Trọng Phụng thốt lên rằng:

Ấy thế rồi tôi đâm ra khinh hết cả loài người, vì tôi tin rằng không một ai trong bọn chúng ta

lại trông rõ được thực trạng cuộc đời. Thật vậy, bao nhiêu sách vở của loài người cốt để dạy

cho nhau biết mà thôi, vậy mà vẫn công toi cả. Nhưng điều người ta dạy bảo nhau bằng

sách? Đó là những điều mơ hồ, những điều lầm lẫn, những sự văn chương. Văn chương là

một sự, sự đời là một sự khác. [62, tr.162]

Từ sự bi quan đó, không riêng gì Vũ Trọng Phụng, các nhà phóng sự đương thời tỏ ra bế tắc. Dù có

chỉ ra nguyên nhân, có đề ra một số biện pháp cải tạo xã hội nhưng nhìn chung kết thúc tác phẩm vẫn

là tương lai mờ mịt, vẫn chưa hé mở một niềm tin, hy vọng cho độc giả. Vẫn là kết cục kiểu như chị

Dậu, Chí Phèo… mà thôi. Mở đầu phóng sự Việc làng là lời than vãn, bế tắc của cụ Thượng lão

Việt:“Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức một mình không thể làm nổi, đành phải è

cổ mà chịu” [53, tr.13], phóng sự khép lại vẫn là bế tắc, than vãn: “Một bữa “lệ làng” có thể gây cho

người ta một món nợ lãi chung thân không trả hết”[53, tr.108]

Trong Đồng quê cũng thế, ở chương Cành tre cũ cặp giò xưa, thằng Tư Rỗ năn nỉ lạy lục không

được, uất ức vì lừa gạt liền chống trả bằng cách trói ông Bá kề dao hăm doạ. Người đọc náo nức chờ

xem sau khi Tư Rỗ bị giải ra quận, kết cục sẽ như thế nào thì chưng hửng, Phi Vân bỏ lửng: “Tôi

không chờ biết đến kết cục thế nào…”. Sở dĩ tác giả không đi nốt phần còn lại bởi lẽ không nói thêm

người đọc cũng biết, vẫn là những đòn tra tấn dã man, vẫn là những bất công liên tiếp đè lên rồi ụp

xuống số phận của Tư Rỗ mà thôi!

Kết thúc Túp lều nát cũng vẫn là cái chết tự vẫn sau khi báo thù của anh Khương theo kiểu của Chí

Phèo, anh vùng lên:

…vật ngửa thầy Chánh ra đằng sau rồi cứ từng nhát dao chặt vào cổ thầy Chánh ọ oẹ, máu

phun ra phì phì như lợn chọc tiết. (…) Mày làm tổng lý bóc lột hiếp đáp dân ngu đã mấy

năm nay. Bây giờ tao chém mày để trừ hại cho dân (….) Tao giết thằng con rồi, bây giờ tao

phải uống máu thằng cha nó nữa. Tiếng anh Khương dội lên, tay chém lia lịa (…) Không

phải bắt. Tao giết người, tao đền mạng lấy. Dứt lời, anh Khương đâm cổ chết. [4, tr.116-

117].

Sự vùng lên của anh Khương làm người đọc sững sờ, day dứt. Nếu như Chí Phèo chết trên ngưỡng

cửa trở về cuộc sống, thì anh Khương lại chết quằn quại trong niềm uất hận với khát khao lớn lao là

được công bằng, thoát khỏi sự áp bức, bất công. Lời nói của anh đanh thép, chứa chất phẫn nộ, âm điệu

bi thống đầy ám ảnh, nó đặt ra một cách bức thiết về yêu cầu cải cách xã hội, bảo vệ quyền lợi chính

đáng cho người nông dân.

Các nhà phóng sự Phi Vân, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi… đã chứng tỏ một

cảm quan hiện thực nhạy bén, khoẻ khoắn, hiếm có khi miêu tả sự quật khởi của người nông dân. Các

nhà phóng sự này đã cảm thấy tính khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn không thể xoa dịu,

càng nén xuống càng dễ nổ bung. Đã đến lúc giai cấp thống trị không thể thẳng tay bóp nặn người

nông dân được nữa, những người nông dân dù hầu như tê liệt về ý thức, trở thành công cụ trong tay

bọn thống trị như anh Khương trong Túp lều nát, hay Tư Rỗ trong Đồng quê ….vẫn có thể ra những

đòn quật lại bất ngờ. Mặc dù hé thấy sức mạnh ghê gớm của lòng căm thù giai cấp đang âm ỉ trong

lòng người nông dân bị áp bức, cảm thấy cái thế không yên ổn của bọn thống trị nhưng các nhà phóng

sự vẫn chưa nhìn thấy sức mạnh của khối quần chúng bị áp bức đoàn kết vùng lên đấu tranh. Sự đấu

tranh cũng chỉ mới xuất hiện vài cá nhân lẻ tẻ chưa đủ tạo nên sức mạnh của một khối đoàn kết.

Tóm lại. qua việc khảo sát về đặc điểm hiện thực và cảm hứng tư tưởng trong các phóng sự viết về

nông thôn Việt Nam 1930 – 1945, có một số vấn đề nổi bật như sau:

Bên cạnh những bức tranh cảnh vật tươi đẹp, thơ mộng với những phong tục truyền thống đậm bản

sắc văn hoá ở nông thôn, các phóng sự đã phản ánh những vấn đề hết sức cơ bản của xã hội là những tệ

nạn trầm kha và những hủ tục lạc hậu, đen tối. Những biểu hiện bệnh hoạn đó đã gieo rắc lên cuộc

sống của người nông dân, gây ra bao cảnh đời éo le, thương tâm, bao cảnh đồi phong bại tục, tha hoá

cùng quẫn…

Bản thân bức tranh giàu trữ lượng hiện thực nói trên đã có sức tố cáo mạnh mẽ. Nó không chỉ cảnh

tỉnh xã hội mà còn cảnh tỉnh lương tri con người, đánh thức những thiên lương đang bị huỷ hoại,

những nhân cách đang bị vùi dập. Không dừng lại ở việc miêu tả hiện thực một cách khách quan, lạnh

lùng mà tiến thêm một bước, các nhà phóng sự đã chỉ ra nguyên nhân và bản chất của hiện tượng đó

đồng thời thể hiện thái độ chủ quan của mình. Trong khi viết về cái ác, cái xấu, những mặt đen tối của

xã hội, các cây bút phóng sự đều đứng trên lập trường phê phán và viết bằng thái độ phê phán. Sau cái

vẻ lạnh lùng khách quan, cái chân thực đến tàn nhẫn của các thiên phóng sự là sự tủi hổ, cảm thông,

xót xa và nỗi phẫn uất trước nỗi thống khổ của người nông dân, những mục rỗng ghê ghớm của xã hội.

Mặc dầu các nhà phóng sự có ý thức trách nhiệm trước dân tộc, mong muốn hướng đến một xã hội

tốt đẹp, nhưng do hạn chế về thế giới quan, chưa thoát khỏi tư tưởng cải lương tư sản, nên trong tác

phẩm của họ đôi chỗ vẫn còn đan xen yếu tố tự nhiên chủ nghĩa, có cái nhìn bi quan về thời cuộc và

phẩm chất tinh thần của con người, chưa mở ra một viễn cảnh tương lai tươi đẹp. Tuy nhiên, giá trị

hiện thực và giá trị nhân đạo của những thiên phóng sự vẫn là cơ bản, thể hiện năng lực nhận thức và

sự tìm tòi tư tưởng của các nhà phóng sự.

Chương 3

NGHỆ THUẬT CỦA CÁC PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN

Ngoài những đóng góp tích cực về nội dung tư tưởng, điều làm cho phóng sự viết về nông thôn

Việt Nam 1930 – 1945 có sức hấp dẫn và sức sống lâu bền là ở nghệ thuật viết phóng sự. Chính nghệ

thuật này đã biến những tác phẩm báo chí có nghĩa “cấu tạo thời thế” thành những tác phẩm văn học

“bất diệt – đời đời”(chữ dùng của Thạch Lam).

Thành tựu đặc sắc về nghệ thuật của phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này được thể hiện ở

nhiều phương diện. Nhưng có thể nói, ba điểm nổi bật nhất cần phải đề cập đó là: nghệ thuật khám phá

hiện thực và khai thác tư liệu, nghệ thuật trần thuật và phong cách ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là những

yếu tố làm nên chất “văn”, chất “báo” hay nói cách khác tạo nên chất thời sự tư liệu hoà quyện chất

văn học đậm đà, đồng thời cũng là những chất liệu giúp phóng sự có những đóng góp quan trọng vào

quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.

3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu

Là thể văn mang tính thời sự, luôn “áp sát” hiện thực, phóng sự có khả năng phản ứng nhanh

nhạy với những vấn đề mới nảy sinh. Một phóng sự có giá trị trước hết là phải khám phá, phát hiện để

nêu ra được những vấn đề có ý nghĩa đối với đời sống và bộc lộ quan điểm rạch ròi, đúng đắn của tác

giả. Phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đã làm được điều đó khi đã cung cấp cả một

kho tư liệu dồi dào, những tri thức chính xác về những sự kiện về đời sống xã hội và con người. Không

chỉ thế, các nhà phóng sự còn tỏ ra rất tinh tế khi lựa chọn thực tại, năng động trong tiếp cận hiện thực

đồng thời cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác. Vì thế các thiên phóng sự này đã có được lực

hút hấp dẫn đối với người đọc không chỉ ở một thời.

3.1.1. Tinh tế trong tuyển chọn thực tại

Hiện thực cuộc sống vốn muôn hình muôn vẻ đòi hỏi người nghệ sỹ phải có sự sàng lọc, tinh

tuyển những vấn đề có ý nghĩa điển hình. Nói như văn hào Pháp Flaubert: “Nghệ thuật không phải là

thực tại…cần phải tuyển chọn những nhân tố mà thực tại đưa ra”. Đó là điều hết sức cần thiết để

người nghệ sỹ có thể làm chủ được vấn đề trong quá trình phản ánh. Bởi vì, nếu “thiếu sự cân nhắc

thận trọng, sự phân lọc, khu biệt, người nghệ sỹ không thể làm chủ được vấn đề mà anh ta định trình

trình bày”. (Hêgel)

Riêng đối với phóng sự, yêu cầu về việc tuyển chọn vấn đề để phản ánh có phần khó khăn hơn,

làm sao vừa đảm bảo tính thời sự vừa có tính xác thực. Nhà phóng sự không thể “quan sát nhiều người

cùng loại để sáng tác một điển hình” theo kiểu của L.Tônstôi mà họ phải nhanh chóng đãi cát tìm vàng

trong một thời gian rất ngắn. Phải “biết phát hiện những nét chủ yếu nét điển hình trong vô số hiện

tượng” (B. Pôlêvôi). Trong lúc đó, những sự việc con người vừa mang tính tiêu biểu vừa chứa đựng

yếu tố thẩm mỹ vốn nằm lẫn lộn trong vô vàn những cái bình thường của cuộc sống. Vì thế việc tuyển

chọn đối với thể phóng sự là hết sức khó khăn.

Để có được những tác phẩm phóng sự xuất sắc viết về đề tài nông thôn, các nhà phóng sự tài ba

đã tỏ ra vô cùng tinh tế trong quá trình tuyển chọn thực tại, nắm bắt được “cái thần” hiện thực một

cách nhanh chóng, chuẩn xác đảm bảo tính khách quan, không được phép hư cấu. Với nhãn quan sắc

sảo và cảm quan hiện thực tinh tế, các ống kính phóng sự biết tinh tuyển và “chộp lấy” những vấn đề

nóng bỏng mà xã hội đang quan tâm. Biết sàng lọc những khía cạnh quan trọng, những hiện tượng tiêu

biểu của vấn đề cần đề cập trong vô số những mảng hiện thực ngồn ngộn những vấn đề còn bề bộn,

phức tạp.

Chẳng hạn, xung quanh chuyện tham nhũng ở một huyện, tác giả có thể viết nên một “bộ sưu

tập về tệ tham nhũng”, nhưng Vũ Trọng Phụng tỏ ra tinh tế khi đặc tả trong tình huống nó buộc phải

“xuất đầu lộ diện”. Đó là dịp huyện nha những ngày giáp Tết. Toàn bộ bản chất của sự việc sẽ lộ rõ

chân tướng trong các khoảnh khắc quan trọng này. Tác giả rất xuất sắc khi lựa chọn tình huống “rất

đẹp” này để tung một cú đá rất hiểm vào bộ mặt của bọn quan lại, thực dân. Lật ra chân dung và bộ

mặt nham nhở của của giới quan quyền với những thủ đoạn bẩn thỉu.

Ngô Tất Tố lại đặc biệt xuất sắc khi tuyển chọn từ thực tại bộn bề của cuộc sống nông thôn

những ổ hủ tục cổ hủ, lạc hậu. Từ đó lật tẩy chính sách thâm độc của đế quốc Pháp và giai cấp phong

kiến đã áp bức bóc lột, duy trì hủ tục để kìm hãm nhân dân trong cuộc sống đen tối. Việc làng không

chỉ phản ánh nạn sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ, tham nhũng cường quyền mà còn đặc biệt chú ý

đến đời sống văn hoá tư tưởng, văn hoá tâm linh của người nông dân. Có thể nói, sau luỹ tre xanh là

một thế giới riêng biệt, trong đó người nông dân phải oằn lưng chịu những gánh “việc làng”. Điều oái

ăm là gánh “việc làng” ấy “vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai đả động đến nó” [53, tr.13].

Đúng là “phép vua thua lệ làng”! Ngô Tất Tố biết sàng lọc trong vô số cái phức tạp của cuộc sống

thôn quê để dũng cảm nói lên cái mà “không ai đả động đến nó”, cái “được coi như vị thần thiêng” để

gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho những người còn mu muội, cứ ngây thơ cung kính trước “việc

làng”. Tác giả đã chạm đến chiều sâu của đời sống văn hoá tâm linh của người nông dân để lay tỉnh.

Điều đó thể hiện sự tinh tế của Ngô Tất Tố trong tuyển chọn thực tại.

Những tưởng rằng bức tranh làng quê đã được khai thác triệt để qua những kiện tướng của chủ

nghĩa hiện thực như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang!…Những tưởng chẳng có gì mới để

nói thêm về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng! Thế nhưng, thiên phóng sự Túp lều nát của

Nguyễn Trần Ai với 13 chương ngắn gọn xuất hiện vẫn đem lại đôi điều mới mẻ cho người đọc. Chính

nhà phóng sự ấy đã đóng vai người quan sát, ghi chép và tuyển chọn từ thực tại để kể lại những câu

chuyện có thật. Vậy là không chỉ nông dân Bắc bộ, số phận của những người nông dân trên những dải

đất hẹp của miền Trung khô khát nắng hạn gió Lào, triền miên lũ lụt đã đi vào trang văn để trở thành

minh chứng cho những thảm cảnh và tội ác của chế độ phong kiến – thuộc địa. Nguyễn Trần Ai vẽ nên

một bức tranh xám ngoét về nạn sưu cao thuế nặng, cường hào ác bá, tham nhũng cường quyền, phù

thu lạm bổ… Mỗi tội ác đều được tuyển chọn trong một bối cảnh đặc biệt, tự nó hiện lên sức tố cáo mà

không có lí do nào bào chữa. Nạn sưu cao thuế nặng, quan lại hào cường, nạn phù thu lạm bổ… sẽ lộ

rõ chân tướng trong mùa thu thuế. Đó cũng là Mùa gặt của hương lý. Khi tiếng trống thúc như cháy

nhà suốt đêm ngày, cũng là lúc diễn ra những cảnh lùng sục, bắt sưu nặn thuế, rồi doạ nạt, cùm kẹp, rồi

van khóc, nài xin. Tuyển chọn đúng thời điểm đó, tác giả mới có thể vẽ nên toàn bộ “thần thái” của sự

việc mà không cần tô vẽ hay hư cấu. Người thật, việc thật cứ thế hiện ra vừa tiêu biểu, vừa đảm bảo

tính thẩm mỹ đúng như yêu cầu của thể phóng sự.

Bên cạnh sự kiện, phóng sự viết về nông thôn còn lấy tư liệu về con người để phản ánh hiện

thực. Đối với tư liệu về con người, hầu hết các nhà phóng sự chủ yếu tuyển chọn hết sức tinh tế, họ

không phải là đám đông mà là những con người bằng xương bằng thịt, được lấy làm nhân chứng đại

diện cho một tầng lớp người cụ thể. Họ được thuyển chọn từ những hình ảnh tập thể của nhiều giới

người. Sen Đũi đại diện cho giới cơm thầy cơm cô trong phóng sự cùng tên; cụ Thượng, cụ Bố, ông

Đồn đại diện cho giới quan nha, nho Kh. tiêu biểu cho giới đoàn thể các thầy nho trong Một huyện ăn

Tết; Cụ Thượng Lão Việt, anh xe, bà Cựu…trong Việc làng đại diện cho tầng lớp cùng đinh, dưới đáy

xã hội... Từ tập thể những tầng lớp người trong xã hội, nhà phóng sự tiếp tục tuyển chọn và đưa ra

những nhân vật có tính điển hình cho từng giới. Trong Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng nói: “Tôi có

thể đưa ra cho các ngài đủ các mẫu hàng về giới cơm thầy cơm cô”[62, tr.165]. Cách tuyển chọn này

tinh tế vì mỗi tệ nạn chỉ liên quan tới một nhóm người, giới người nào đó mà thôi.

Sự tinh tế trong tuyển chọn thực tại còn thấy trong phóng sự của Phi Vân. Sẽ không có bức

tranh hoàn chỉnh về nông thôn Việt Nam nếu không khẳng định những đóng góp tích cực của Phi Vân.

Đồng quê là tác phẩm đột xuất nhất của ông. Với ngòi bút không chỉ lấy việc vạch trần hiện thực làm

chính đề, Phi Vân đã đem đến cho độc giả cảm giác thật nhẹ nhàng. Chỗ mạnh của ngòi bút Phi Vân là

đi sâu khai thác các khía cạnh phong tục tập quán trong sinh hoạt của người nông dân miền Nam. Với

cách tuyển chọn tinh tế này, tác phẩm đã vẽ nên những nét đặc sắc và độc đáo của nông thôn và con

người Nam Bộ. Bút pháp hóm hỉnh, rất ít lời của Phi Vân đã làm cho thiên truyện thêm màu sắc hài

hước, và bớt đi cái cảm giác nặng nhọc của một ngòi bút chỉ lấy việc vạch trần hiện thực làm chính đề,

đó cũng là đặc sắc nghệ thuật của toàn tập phóng sự.

Nghệ thuật lựa chọn những vấn đề, những tình huống tiêu biểu của hiện thực với những con

người tiêu biểu đã được thể hiện rất sinh động trong từng thiên phóng sự. Trong cái vô vàn phức tạp

của cuộc sống đương thời, mỗi sự kiện được nhà phóng sự lựa chọn cùng tài năng sáng tạo, khai thác

của họ đã góp phần quan trọng làm nên giá trị của các thiên phóng sự. Những sự kiện, biến cố xã hội,

con người được các nhà phóng sự tuyển chọn đều là những vấn đề mới mẻ, mang tính thời sự nóng hổi,

phổ biến. Nó đều chứa đựng kịch tính hay nói cách khác là chứa đựng những uẩn khúc, những mâu

thuẫn nội tại gay gắt có ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là bước đầu của quá

trình khám phá hiện thực. Vấn đề tiếp sau đó là cả một nghệ thuật tiếp cận khám phá bản chất của hiện

tượng vốn rất phức tạp của cuộc sống.

3.1.2. Năng động trong tiếp cận hiện thực

Sau khi tuyển chọn được các vấn đề, các nhân vật tiêu biểu từ thực tại bộn bề của cuộc sống, các

nhà phóng sự bắt tay vào tiếp cận hiện thực một cách linh hoạt và năng động. Có thể nói, tài nghệ của

người viết phóng sự thể hiện trước hết ở cách tiếp cận sự thật. Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà

phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 - 1945 đã đã có những cách tiếp cận riêng rất thông minh

và sáng tạo, nhờ vậy họ đã phát hiện ra những mặt khác nhau của hiện thực và tìm ra cội nguồn của

bản chất của mọi vấn đề.

Sức thuyết phục của các phóng sự viết về nông thôn ở giai đoạn này trước hết là ở khả năng

phản ánh chân thực đến từng chi tiết sự kiện, đối tượng được miêu tả, đem đến cho độc giả cảm giác

được sống “y như thật”. Làm được điều đó, các nhà phóng sự không chỉ xuất hiện với tư cách là người

quan sát, ghi chép và kể chuyện mà họ còn là người chứng kiến và trực tiếp tham gia vào các sự kiện.

Nếu Tam Lang Vũ Đình Chí bắt chước Mariese Choisy đổi lấy bộ áo con đòi vào ở thổ, mượn bộ quần

áo nâu của một bạn áo ngắn, khoác vào mình rồi dấn thân nếm trải kiếp ngựa người để viết nên thiên

phóng sự Tôi kéo xe thì “ông vua phóng sự đất Bắc” sắm vai một thằng “cơm thầy cơm cô một trăm

phần trăm” theo chân những chị sen, thằng nhỏ nhập vào gan ruột xã hội thị dân Hà Nội để viết Cơm

thầy cơm cô. Người đọc không thể ngờ được Vũ Trọng Phụng nhập vai thằng ở “nuôi tóc cho rõ dài

tới sau đỉnh đầu”, áo “mầu hoa đào cụt tay”, “quần lĩnh đen”. Thậm chí “đã bờm xơm với ba bốn con

nhãi”, “đã bắt nhân tình với một vú em”. Còn viết Một huyện ăn Tết, ông vua phóng sự đất Bắc cũng

phải tìm đến một viên lục sự già bên khay đèn thuốc phiện, đầu mối của mọi đường dây biếu xén hối lộ

quan lại để phanh phui một sự thật đau lòng. Viết nên tập phóng sự Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai lại

dụng công hơn năm tháng trời khoác áo một nhà mô phạm, đội lốt một thầy giáo dạy tư lọt vào nhà lý

S thôn M. V. để thu thập những thông tin về nông thôn trung bộ, bị lý S tình nghi ông là người ở tỉnh

khác đến đây giả danh dạy học trò để tụ họp người bàn chuyện C. S., trần tình đủ cách không được,

ông phải chui đầu vào nhà giam. Trong chốn lao tù chật hẹp, tác giả lại tiếp tục tiến hành công việc

điều tra phóng sự, cố găm thật kỹ vào óc những câu chuyện mà các bạn tù kể. Để có bộ sưu tập Việc

làng và Tập án cái đình, Ngô Tất Tố cũng đã phải dày công đột nhập lân la khắp các xó xỉnh nhà quê

từ hiên đình tới góc bếp. Trọng Lang viết về những thân phận dưới đáy xã hội cũng khoác một bộ áo

lao động thất nghiệp…

Sau khi “áp sát” được hiện thực, những vấn đề “mắt thấy tai nghe” được các nhà phóng sự “xử

lý” một cách sáng tạo. Tuỳ theo từng vấn đề mà đặc tả, khi thì cận cảnh, chi tiết, khi thì tiếp cận bằng

bức tranh toàn cảnh, bao quát vấn đề. Hiện thực phản ánh được lật tới lật lui với nhiều góc độ và

khoảng cách tiếp cận khác nhau đã giúp các nhà phóng sự phát hiện sự phong phú, đa dạng của hiện

thực. Từ đó, bản chất vấn đề được soi sáng một cách thấu đáo và sâu sắc.

Chẳng hạn, trong Việc làng, Ngô Tất Tố xoay ống kính đặc tả cận cảnh để soi rọi từng ổ hủ tục

nấp sau luỹ tre xanh. Ông đột nhập thẳng vào từng gia đình để thấy cái chết uất hận vì hủ tục của cụ

Thượng lão Việt, chứng kiến Một đám vào ngôi của gia đình bác Cả Mão… Bước tới ngôi đình làng để

thấu hiểu nỗi vất vả đi tìm Góc chiếu giữa đình để thoát khỏi tâm trạng bất mãn của hạng “bạch đinh”

mà gia đình ông Cựu phải chịu bấy lâu; tác giả còn xông thẳng vào từng mái bếp để nhìn thấy tận cùng

đằng sau Nghệ thuật băm thịt gà ấy là cái nhục vì miếng ăn...Từ cách tiếp cận này, từng mảng hiện

thực hiện lên một cách sinh động và cụ thể.

Nếu như Việc làng được nhìn cận cảnh từng sự việc thì trong Tập án cái đình, ống kính phóng

sự lại được mở rộng tầm ngắm từ xa để thâu tóm những nghi lễ nhốn nháo, nhặng xị của những đám

đông nhân vật. Với cách tiếp cận này, người đọc thấy được nỗi nhục của những kiếp nô lệ từ những

cảnh nhố nhăng, nực cười, cười ra nước mắt.

Khác với cách tiếp cận hiện thực của Ngô Tất Tố, Một huyện ăn Tết nổi trội lên khi Vũ Trọng

Phụng khai thác vấn đề dưới góc độ phân tích bản chất của bộ máy chính quyền thực dân, khai thác tệ

tham nhũng bằng cách khám phá cơ cấu những tổ chức tội phạm. Đó là một tổ chức hoạt động công

khai giữa thanh thiên bạch nhật với một qui trình khá bài bản: Công lệnh được ban ra từ quan huyện,

lính cơ lính lệ toả xuống thôn xã “tuần tra”, lùng sục, gây gổ để lý dịch phải cống nộp công quĩ. Số tiền

vơ vét được chia theo một tỉ lệ đã định cho toàn bộ máy từ cụ Thượng, cụ Bố, ông Đồn, lính cơ, lính

lệ… để bọn chúng ăn Tết! Với cách tiếp cận như vậy, tác giả khám phá ra cách tổ chức xã hội với một

cơ cấu tổ chức chỉn chu, hoàn hảo. Bản chất tham nhũng, cướp bóc của bộ máy chính quyền đã bị

phanh phui triệt để. Sức tố cáo tự bật ra mạnh mẽ từ cách tổ chức xã hội này: “Xã hội thì như bộ máy

tinh tế, mà cá nhân là những bánh xe, nếu một cái quay thì bao nhiêu cái khác cũng phải quay theo

(…) chẳng một ai lại có thể đứng ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé, vì cái phận sự nộp của đút, hoạt

động từ dưới lên trên…” (Một huyện ăn Tết). Cách tiếp cận kiểu như thế này thật thông minh, sắc sảo,

quả xứng danh là “ông vua phóng sự Bắc ky”!

Ráo riết và quyết liệt hơn, Nguyễn Đổng Chi phơi bày nạn sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ

bằng cách xông thẳng vào trận địa của những buổi thu thuế, phanh phui những biên lai chứng từ,

những tờ biên nhận để người đọc thấy sự nhập nhèm trong cách ghi biên lai để bọn chúng moi tiền của

dân. “trong khi họ thò tay ra để nhũng lạm phù thu, họ đã nghĩ sẵn trăm mưu nghìn kế khôn khéo lắm.

Có nhập nhèm dùng biên lai tạm thì mới ăn lậm của bác được đến những 3 đồng, ..”.[4, tr.20]. Tác giả

phải thốt lên rằng: “Đã “sĩ tính tục biên” (đợi tính toán biên chép thêm) mà lại “sự thanh” (việc đã

xong) thì thật là xỏ xiên hết nước” [4, tr.19]. Lợi dụng người nông dân không biết “trự”, bọn chúng

lươn lẹo đủ bề, “làm xiếc” với biên lai để mặc sức phù thu lạm bổ, còn người dân nghèo khổ kia cứ

phải hứng chịu mà không thể làm gì hết. Cách tiếp cận này mở ra một cách nhìn mới về nạn phù thu

lạm bổ, nạn sưu cao thuế nặng mà các nhà văn hiện thực đã từng khai thác. Với cảm quan nhạy bén và

cách tiếp cận năng động này, Nguyễn Trần Ai khám phá được bao điều bí ẩn còn nấp sau luỹ tre xanh

ấy. Tất cả ngón nghề bóc lột đã hiện lên sinh động đồng nghĩa với sự xấu xa của nhân cách và đạo đức

của giai cấp thống trị.

Tất nhiên, tiếp cận hiện thực không phải là tất cả của nghệ thuật viết phóng sự. Nhưng cách tiếp

cận có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thậm chí có tính quyết định đối với hiệu quả điều tra nông hay sâu,

mới mẻ hay nhàm chán. Với những cách tiếp cận sự thật hết sức linh hoạt và năng động như vậy,

những vấn đề nhức nhối sau luỹ tre xanh được các nhà phóng sự phản ánh nổi bật và sâu sắc hơn. Từ

nhiều góc độ khác nhau, khi cận cảnh để đặc tả, khi mở rộng để thâu tóm, các ống kính phóng sự đã soi

sáng và phát hiện được nhiều mặt khác nhau của hiện thực. Từ đó bản chất của mọi vấn đề tự nó đã có

khả năng bộc lộ một cách đầy đủ.

3.1.3. Sáng tạo trong khai thác tư liệu

Bên cạnh sự năng động trong tiếp cận hiện thực, các nhà phóng sự viết về đề tài nông thôn còn

thể hiện sự sáng tạo trong khai thác tư liệu. Có khi, họ thể hiện sự khôn ngoan trong thao tác nghề

nghiệp, tinh vi trong nghệ thuật điều tra để có những tư liệu “sống”, nhưng cũng có khi dùng trí tưởng

tượng sáng tạo để tái hiện tư liệu, thậm chí sử dụng cả những tư liệu mang tính mơ hồ, ước lệ…

3.1.3.1. Nắm bắt thông tin nhanh nhạy

Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Trọng Lang, Phi Vân… đều là những nhà văn –

nhà báo cho nên rất nhạy khi phát hiện những mối thông tin và rất khéo khi khơi gợi, khai thác những

thông tin đáng tin cậy.

Người nắm bắt thông tin nhanh nhạy tiêu biểu nhất có thể kể đến là Nguyễn Trần Ai. Đang đi

lấy tin cho bài báo nọ, vô tình gặp chắt Ch, câu chuyện thương tâm của chắt Ch làm nhà phóng sự

Nguyễn Trần Ai ngay lập tức xoay đổi công việc. Từ chỗ viết tin cho tờ báo nọ, ông nghĩ ra một kế,

“tìm ở trọ nhà một ông Lý, đội lốt một thầy giáo dạy tư...lần mò tìm kiếm trong cái màn xanh xanh bí

mật kia một ít cảnh tượng đáng than khóc”[4, tr.22]. Và thế là ông chọn nhà lý S trong bối cảnh mùa

gặt sưu thuế. Thời điểm, địa điểm tiêu biểu này là đầu mối quan trọng để những thói phù thu lạm bổ,

sưu cao thuế nặng, tham nhũng cường quyền bộc lộ rõ chân tướng nhất. Và từ đó, 13 chương phóng sự

với những sự thật ở làng quê xứ Nghệ được phanh phui cùng với ngồn ngộn những tư liệu đáng tin cậy.

Cũng khám phá tệ tham nhũng, Vũ Trọng Phụng rất khôn ngoan khi chẳng thèm đi đâu xa mà

chỉ nằm bên khay đèn của viên lục sự già, vì hắn là đầu mối của mọi thông tin lại chẳng thèm che dấu

hành vi xấu xa của mình. Được tạo hứng bởi “nàng tiên nâu” hắn xổ ra tất cả những mánh khoé của

giới quan trường. Vũ Trọng Phụng ngay tức khắc “bám” vào đầu mối này để phanh phui các sự kiện.

Không chỉ nắm bắt thông tin nhanh nhạy, các nhà phóng sự còn thể hiện nghệ thuật khơi gợi để

khai thác nguồn thông tin dồi dào, đáng tin cậy. Chẳng hạn trong Loài động vật ngắn cổ (Túp lều nát),

có lúc tác giả dỗ dành dịu ngọt chắt Ch. khi ông ta khóc lóc nóng giận với bộ mặt hung thần; có lúc hỏi

han gia đình vườn ruộng để hiểu thêm tờ biên lai nhập nhèm ra sao, có lúc lại chỉ cho chắt Ch kế sách

lần lữa không chịu nộp thuế để lên quan nộp cho phân minh, từ đó lần tìm ra manh mối của những thủ

đoạn bỉ ổi mà bọn quan lại sắp đặt khá kỹ… Mỗi câu hỏi khéo léo của tác giả đều có mục đích khơi

gợi, nắm bắt thông tin.

Cũng khéo léo như thế, trong Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng lấy làm lạ khi một đứa đi ở

mất việc lại không muốn có việc làm, nên đã “khôn ngoan” thiết kế một cuộc “ve nhau” ở một vỉa hè,

gần đống rác, “Và cặp uyên ương chúng tôi không biết kiểu cách vì trong khi nói chuyện, chúng tôi

quyên khuấy đi mất không biết cả hai đã cứ để ống quần vén lên đến đùi! Bởi thế nên lời thú tội của

cái Đũi, tôi có thể tin được là thành thực.” [62, tr.126]. Với nghệ thuật khơi gợi khéo léo, tác giả đã

“rút” được rất nhiều thông tin quan trọng và đáng tin cậy về thế giới của những hạng “cơm thầy cơm

cô”. Hoà nhập vào dòng người này, tác giả say sưa đóng vai nhân tình của cái Đũi, thậm chí có lúc

cũng phải chim chuột rất tình nhằm khai thác những ẩn ức bên trong của nhân vật trong một hoàn cảnh

hết sức tự nhiên, vì thế đã đem lại nguồn thông tin dồi dào, sống động về những người nông thôn ra

thành thị:

Rồi tôi cảm thấy rằng muốn làm một nhà xã hội học, một nhà tâm lý học, một nhà triết học

thì trước hết hãy đăng vào nghề cơm thầy cơm cô! Người phu xe biết hết mọi sự độc ác của

loài người hơn là một nhà học giả. Người bồi săm biết hết mọi sự dâm đãng của loài người

hơn là một nhà giải phẫu học. Và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tình hình của loài người

hơn là một văn sĩ tả chân. [62, tr.162].

Sự nhanh nhạy tiếp cận, khéo léo khi gợi mở thông tin, hoà vào đối tượng để tâm tình, giãi bày

những ẩn ức một cánh tự nhiên đã giúp các nhà phóng sự thu được một lượng nguồn thông tin dồi dào,

xác thực về đời sống nông thôn Việt Nam. Từ đó, để lại cho đời những tác phẩm không chỉ có giá trị

về nội dung mà còn về nghệ thuật khai thác tư liệu và xử lý tư liệu.

3.1.3.2.Dùng trí tưởng tượng để phân tích và xâu chuỗi tư liệu

Nắm bắt thông tin tài tình, xử lý thông tin khéo léo, các nhà phóng sự còn dùng trí tưởng tượng

để tái hiện và xâu chuỗi tư liệu. Đó là những lúc không thể dùng mắt thường để quan sát tìm ra bản

chất của sự việc, mà cần năng lực nhận thức cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân phong phú để phân tích

lý giải. Nói như Puskin: “sự tưởng tượng chân chính đòi hỏi một sự hiểu biết thiên tài” [Tạp chí văn

học số 4, tr.49].

Tất nhiên sự tưởng tượng phải phù hợp với logic cuộc sống. Vừa phải khoa học vừa phải có tính

thẩm mỹ. Từ sự kiện trước mắt, nhà phóng sự tưởng tượng để gợi mở sự kiện, gợi cái đã xảy ra hoặc sẽ

xảy ra… rồi xâu chuỗi một cách hợp lý. Chẳng hạn, để cảnh báo về một chế độ mục rỗng, Nguyễn

Đổng Chi tưởng tượng như một “túp lều sắp đổ”, một sự tưởng tượng đầy ngụ ý :

Các ngài thử lại gần mà xem. Này đây: những đường xà, cột trụ nhìn ngoài trông vẫn bóng

loáng, đẹp đẽ đấy, nhưng ta thử ấn tay vào một tí có phải nó rúm ró như cạp bánh đa

không? Chính là có vô vàn con mọt đã đục khoét thành rãnh, thành hang, xuyên tạc trong đó

như một hầm mỏ. Rồi đến sát chỗ vách kia, các ngài sẽ trông thấy từng đường đất kéo dài

lên đến tận nóc như những đường đê. Các ngài hãy dùng một cành cây bới nó ra xem. Thưa,

đấy là hàng trăm nghàn con mối. Đã hết đâu. Kìa, trên nóc lều, một vài con chuột thấy bóng

người đang chạy trốn nháo nhác kia đấy. Những con mèo ở đây toàn là giống mèo nằm bếp

nhác nhớn, mà có lẽ lại sợ chuột nữa (….) Túp lều ấy các ngài ôi! Chính là chỗ dân quê chui

rúc làm ăn, chính là cái làng của nước mà các ngài đang quản trị.Vậy mà túp lều ấy nát. Cả

bọn dân trú ngụ ở trong, bọn dân thường năm vẫn nộp thuế cho các ngài sòng phẳng, đang

muốn xin một sự thi ân.[4, tr.12-13].

Cũng sử dụng trí tưởng tượng tài tình để phân tích và xâu chuỗi tư liệu, “ông vua phóng sự Bắc

kì” đã dùng tưởng tượng để gợi về cảnh con sen Đũi khiêu dâm cậu bé con chủ nhà: “hình như tôi thấy

hiện rõ rệt trước mắt tôi cái cảnh tượng thảm hại một cậu bé 12 tuổi mà đã hứng tình trước hai cái đùi

trắng nõn của một con sen vờ nằm ngủ say”, rồi sau đó tưởng tượng về tương lai và phân tích: “cậu

học trò kia mai sau tất rồi hư thân, mà nếu có hư, chính là chỉ vì cha mẹ cậu ta đã ở ác với một con

sen tinh ma quỉ quái”[62, tr.135]. Xâu chuỗi các sự kiện lại, tác giả phân tích lí giải rồi lên tiếng tố cáo

xã hội nhố nhăng chốn Hà thành đã làm băng hoại nhân phẩm con người.

Nhiều chân dung nhân vật ít nhiều chứa đựng yếu tố tưởng tượng. Sự miêu tả nhân vật pha chút

tưởng tượng làm cho nhân vật sinh động và gần với cuộc sống hơn. Nói như I. Gôncha rốp: “lối chụp

trực tiếp từ cuộc sống sẽ dẫn tới một bản sao nhợt nhạt, thảm hại. Chỉ bằng con đường của tưởng

tượng sáng tạo nó mới đến gần với cuộc sống.” [3, tr.304]. Bằng sự nhào nặn những tư liệu về người

thật việc thật dựa trên vốn sống phong phú của chính mình, các nhà phóng sự đã biến “sự thật của hiện

thực thành sự thật của nghệ thuật” [81, tr.127] làm cho những tư liệu trở nên có hồn hơn, lung linh

hơn.

3.1 .3.3. Dùng những tư liệu mơ hồ, ước lệ

Trong những phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này, các cây bút phóng sự còn sử dụng

những tư liệu mơ hồ, ước lệ. Nếu Đồng quê kể về những câu chuyện ở một làng, một thôn nào đó có

tên của từng địa danh con người cụ thể theo kiểu nói có sách mách có chứng thì trong Túp lều nát và

Việc làng, Nguyễn Trần Ai và Ngô Tất Tố không hề nói rõ đến một tên làng nào, vào thời gian cụ thể

nào mà tên làng thường viết tắt, thời gian thì ước lệ. Kiểu như “Tôi lọt vào nhà lý S, thôn M.V giữa lúc

ông ta “búi” lên với mùa gặt sưu thuế” (Nguyễn Trần Ai), hay “cái làng Lão Việt nhà tôi có thể đại

biểu cho tất cả hương thôn già cỗi của nước Việt Nam”(Ngô Tất Tố)…Nói về nạn tham nhũng ở một

huyện vào dịp Tết trong phóng sự Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng cũng “chẳng nên nói rõ ra đây

là cái tên của huyện ấy” vì “bất cứ chỗ nào, sự đời cũng đến vậy cả”. Thời gian cũng mơ hồ, không cụ

thể, câu chuyện huyện ăn Tết được miêu tả vào “tháng Chạp năm ngoái”, nhưng “nó có thể cứ vẫn là

câu chuyện của Tết năm nay, lại có thể sẽ là câu chuyện của Tết sang năm nữa”.

Cũng như vậy, khi miêu tả một quán cơm trong Cơm thầy cơm cô, nhà văn họ Vũ này cũng

“không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào” nhưng lại miêu tả đúng cái mùi vị thâm căn cố đế của

hàng vạn hàng cơm mạt hạng “mùi cá mè…mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi dưa khú”. Nói như TS

Nguyễn Hoài Thanh, những cái mơ hồ kiểu như trên “không phải thiếu khả năng nắm bắt được đối

tượng miêu tả, càng không phải là sự phóng bút ngẫu hứng, mà là sự mơ hồ, tự giác, chủ động, nhằm

nhận thức vấn đề một cách khái quát, nhằm đi sâu để nắm bắt cái bản chất bên trong của nó”. [81,

tr.128]

Cách lựa chọn một số tư liệu mơ hồ, ước lệ là những “thao tác kỹ thuật” để các nhà phóng sự

khắc hoạ vấn đề trên diện rộng một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn.

3.1.4. Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác

Sự ra đời của các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này xuất phát từ tiếng kêu cứu của hiện

thực. Những làng quê Việt Nam sau luỹ tre xanh hiền hoà ấy đang ngày đêm phải oằn mình vì hủ tục,

sưu cao thuế nặng, tham nhũng cường quyền, mê tín dị đoan… Ống kính của các nhà phóng sự đã “lia”

tới đúng “sào huyệt” của hiện thực đen tối ấy để “chụp” và phóng to ra thành những bức tranh giàu sức

tố cáo, cảnh tỉnh. Sự xuất hiện đúng lúc và kịp thời của các thiên phóng sự giàu trữ lượng hiện thực

này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thể hiện tính thời sự và tính xác thực như chính đòi hỏi của thể phóng

sự.

Các phóng sự viết về nông thôn xuất hiện đã kịp thời phản ánh những bức xúc của người dân,

và tố cáo tội ác của kẻ thù. Chẳng hạn, ngay từ phần mở đầu của Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai công bố

một loạt các vụ việc tham ô, chiếm đoạt của công, tranh dành xôi thịt của các tỉnh trong năm 1933-

1934 lấy từ tờ báo Tiếng dân, số 701 đến 800: “Thanh Hoá 8 vụ, Nghệ An 21 vụ, Hà Tĩnh 24 vụ,(…)

Thừa Thiên 18 vụ, Quảng Nam 28 vụ, Quãng Ngãi 46 vụ, (…) tổng cộng 178 vụ” [4, tr.10]. Sau khi

“túm” được một “mớ” tư liệu sống ấy ở một tờ báo và còn nhiều tờ khác nữa chưa thống kê, sửng sốt

kinh hoàng trước những con số biết nói, tác giả “nhập cuộc” vào hiện thực xã hội nông thôn và cho ra

đời thiên phóng sự Túp lều nát. Giá trị của Túp lều nát không chỉ là thu thập được một lượng lớn “tư

liệu tĩnh” mà còn có sự xâm nhập thực tế để có “tư liệu động”. Sự ra đời của phóng sự này đã đáp ứng

kịp thời nhu cầu muốn biết những sự thật đang diễn ra xung quanh của người dân, những quan điểm

rạch ròi và quyết liệt của tác giả giúp những người nông dân còn mơ hồ có điểm tựa để nhìn nhận sự

thật một cách sáng rõ hơn đồng thời có định hướng rõ hơn trong tư tưởng, quan điểm và hành động.

Như vậy, phóng sự Túp lều nát được thai nghén và ra đời đáp ứng nhu cầu bức xúc của thực tại.

Theo GS Phong Lê: “sự ra đời của Túp lều nát đúng vào thời điểm mà phong trào Mặt trận Bình dân,

thời của báo chí bí mật chuyển sang công khai, thời sôi động của những nguyện vọng cải cách và dân

quyền, thời chính quyền thực dân buộc phải nới lỏng kiểm duyệt…”.[4, tr.127] Cũng như Tắt đèn,

Bước đường cùng, Vỡ đê…Túp lều nát xuất hiện trong thời điểm này như là sự hưởng ứng, minh hoạ

cho các vấn đề bức xúc của nông dân. Sự xuất hiện kịp thời với những thông tin chính xác từ những

câu chuyện thật một trăm phần trăm ấy, Túp lều nát trở thành minh chứng cho những thảm cảnh và là

bản cáo trạng đanh thép tội ác chế độ phong kiến thuộc địa.

Bên cạnh Túp lều nát, Việc làng cũng là một phóng sự ra đời trong một hoàn cảnh chính trị và

văn học đang cần lắm một tiếng nói tố cáo nghiêm khắc những âm mưu đen tối của thực dân. Lúc này,

uy tín của Pháp đang bị giảm sút vì bị Đức đánh bại ở Đông Dương và phải nhượng bộ phát xít Nhật.

Trong lúc đó mặt trận Việt Minh thành lập 1941 đang ngày càng phát triển thế lực. Pháp bèn thực hiện

chình sách ngu dân bằng cách phục hồi những tục lệ cổ hủ để dân ta quên nhiệm cụ cao quí là làm

Cách mạng. Nhiều nhà văn viết về các tục lệ ở nông thôn như các ngày hội đầu xuân, tục chọi gà, vật

trâu, đánh cờ … nhưng chỉ miêu tả phong vị nên thơ của các tục lệ mà chưa thấy mặt trái sâu kín bên

trong. Việc làng thì khác, ngay từ khi đăng báo Hà Nội tân văn 1940, nó trở thành một ngòi bút hiểm,

sắc, đâm toạc bức màn đen đang vây kín bầu trời lộ ra bộ mặt xấu xa thối nát của nông thôn Bắc Bộ.

Giá trị tiến bộ của nhãn quan nhà văn và ý nghĩa phê phán của tác phẩm chính là chỗ đó.

Trong bài Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn hoá Việt Nam trong sáu năm chiến tranh 1939

– 1945, Nguyễn Đình Thi viết về thời kỳ 1940 – 1941 trên báo Tiền phong số 1:

Văn hoá phong kiến được dịp tái sinh. Nó hét đắc thắng và lên tiếng mỉa mai những sự “lầm

đường lạc lối” trong những năm xã hội ta nối gót tư bản Pháp. Nó hô hào trở lại với những

giá trị cũ, với tôn ti, trật tự, với luân lí Khổng Mạnh, với Hương thôn, quan trường, với gia

đình. Những giá trị “muôn đời” ấy ngay đến Pêtanh đã chẳng phải công nhận đó sao.

Phong trào bảo thủ thụt lùi đã chiếm ưu thế một cách rõ rệt. Nó đẻ ra “Trai nước Nam làm

gì?” của Hoàng Đạo Thuý, “Thanh đạm” của Nguyễn Công Hoan, “Bút nghiên” của Chu

Thiên, “Một nền giáo dục mới” của Thái Phỉ, tạp chí Tri tân của nhóm Nguyễn Văn Tố,

Nguyễn Tường Phượng.

Ngòi bút vững vàng mà chắc chắn này kịp thời cung cấp những thông tin chính xác về hậu quả

ghê gớm của gánh “việc làng” và những biểu hiện tâm lý, tư tưởng, tình cảm của con người nông thôn.

Họ chịu đựng nhẫn nhục những trận đánh tinh thần và vật chất nhưng lại tự thuyết phục chính mình đòi

hỏi như thế, “đút đầu vào miệng hổ với hy vọng mình sẽ thành hổ”. Với kiến thức uyên bác về sử học

và xã hội học, Ngô Tất Tố vạch rõ thâm ý tâm lý hiếu danh tư tưởng xôi thịt ở chốn đình trung là “cốt

thu hẹp tư tưởng của dân quê (…) khiến cho nhiều kẻ thấy cái vinh dự ấy mà suốt đời chỉ mơ mộng vào

cái ngôi ăn chốn ngồi ở đình trung mà không nghĩ đến việc gì khác (…) làm cho dân quê chỉ biết có

làng mà không biết có nước”[9, tr.410 – 412]. Việc làng xuất hiện trong không khí phục cổ diễn ra sôi

nổi và đang thành một cuộc vận động lớn cả trong chính trị và văn học. Với việc đưa ra những tư liệu

chính xác, sống động và sâu sắc, thiên phóng sự này đã lay tỉnh kịp thời tư tưởng tình cảm của nông

dân, đồng thời đánh một đòn chí mạng vào phong trào phục cổ, vạch rõ thực chất bỉ ổi của những

phong trào mà người ta đang hò hét cổ vũ.

3.2. Nghệ thuật trần thuật

Có tư liệu là đáng quí, nhưng phải làm sao để “kho báu” ấy không phải là những tư liệu chết.

Mỗi thông tin thu được phải là một hình ảnh sống động, mỗi con số phải biết nói, phải có hồn. Được

vậy, phóng sự mới trở thành văn chương. Và để phóng sự trở thành văn chương, không thể không có

sự tham gia của nghệ thuật trần thuật. Cùng với nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu,

nghệ thuật trần thuật là một phương diện cơ bản chứng tỏ những sáng tạo và hiệu quả nghệ thuật của

phóng sự. Từng yếu tố, từng cấp độ trần thuật cũng như toàn bộ những quan hệ của chúng trong chỉnh

thể tác phẩm được các nhà phóng sự chú ý để sáng tạo những cách kể, những kết cấu, những điểm

nhìn… gây ấn tượng mạnh mẽ, giàu sức khiêu gợi, tác động. Chính vì vậy, cũng như những thể loại

văn học khác, nghệ thuật trần thuật cần được chú ý khi tiếp nhận, phân tích, cảm thụ phóng sự.

Với phóng sự, những yêu cầu về tính thời sự, những đòi hỏi về tính xác thực như là sự thách đố,

càng kích thích các nhà phóng sự tìm tòi sáng tạo các hình thức biện pháp trần thuật để chứng tỏ tài

năng và nghệ thuật phóng sự của mình. Đề tài nông thôn trong phóng sự văn học 1930 – 1945 đã được

các nhà phóng sự khai thác bằng nghệ thuật trần thuật độc đáo như cách kể hấp dẫn, lôi cuốn, xây dựng

những điểm nhìn gây ấn tượng, những kết cấu đa dạng hợp lý…

3.2.1. Nghệ thuật kết cấu

Có thể nói, kết cấu tác phẩm nói chung và kết cấu một tác phẩm phóng sự nói riêng là toàn bộ tổ

chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho

mình. Kết cấu phóng sự không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm. Là một

phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, kết cấu của một phóng sự cũng được chú ý nhằm nâng cao

sức biểu hiện của đề tài và chủ đề, tăng cường sức tác động nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm.

Cũng như các nhà phóng sự đương thời, phóng sự viết về đề tài nông thôn giai đoạn 1930 –

1945 cũng chọn lối kết cấu chung quanh một chủ đề. Nghĩa là các phóng sự nhỏ đều nhằm hướng tới

một chủ đề chung của toàn tập phóng sự. Chẳng hạn 16 chương Việc làng và 11 chương Tập án cái

đình xoay quanh chủ đề về những hủ tục ở nông thôn, 13 chương của Túp lều nát đều hướng tới những

thủ đoạn bóc lột của quan lại, 10 chương của phóng sự Cơm thầy cơm cô đều hướng tới chủ đề sự tha

hoá của những nông dân lên thành phố, 12 chương của phóng sự Đồng quê là những câu chuyện về

phong tục, hủ tục, những sinh hoạt, cảnh vật và những xung đột của chủ điền tá điền ở nông thôn Nam

Bộ, tham nhũng là chủ đề chính của Một huyện ăn Tết …

Viết về những hủ tục ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, mười sáu chương sách Việc làng

là mười sáu câu chuyện về cuộc đời của người nông dân dưới sức ép của hủ tục. Chúng có sự gắn kết

với nhau về một chủ đề chung. Mở đầu là câu chuyện “Lớp người bị bỏ sót” có tính chất khái quát sức

ép và hậu quả của hủ tục ở thôn quê. Tác hại này được “kiểm chứng” qua cuộc đời của cụ Thượng Lão

Việt. Cái chết và những lời trăn trối của cụ có sức gợi mở đến nhiều số phận khác ở nông thôn Việt

Nam. Và mười lăm câu chuyện tiếp theo là những dẫn chứng sinh động minh hoạ cho những số phận,

và những hậu quả đó. Kết thúc tập phóng sự là chuyện “Món nợ chung thân” với ý nghĩa sâu sắc.

Rằng, hủ tục là “món nợ chung thân” trói buộc cả cuộc đời người nông dân. Cái án cay nghiệt đó mà

họ phải nhận là tất yếu bởi họ có thể hy sinh tất cả vật chất chứ không thể chiến thắng được tâm lý của

chính mình. Mà dẫu có thoát được tâm lý xôi thịt, đình làng đó cũng không thể thoát khỏi tay những

cường hào ác bá đang cố tình duy trì những hủ tục vì mục đích cá nhân. Nghĩa là họ phải sống chung

với hủ tục, thậm chí chết vẫn chưa yên thân. Đúng là “món nợ chung thân”!

Cũng có kết cấu xoay quanh một chủ đề, mười một mẫu chuyện trong phóng sự “Tập án cái

đình” là những câu chuyện nghi lễ rườm rà, những đám đông nhốn nháo. Nhưng tất cả đều nhằm

hướng tới chủ đề phê phán những lễ nghi cổ hủ, vô bổ đang tồn tại mạnh mẽ ở nông thôn. Không bi

thương như ở Việc làng nhưng đằng sau yếu tố bi hài, nhố nhăng, kệch cỡm cũng là nỗi đau vì thiếu

hiểu biết và mê tín dị đoan. Chuyện nào cũng cúng bái, thần thánh tập hợp lại tạo thành một thế giới

thần thánh hài hước, nhảm nhí. Mà toàn là những kẻ trở thành thần thánh, thành hoàng chỉ vì “chết

được giờ linh”. Thật đáng phê phán, giễu cợt! Mỗi chương là mỗi vụ việc độc lập về nội dung và nhân

vật, có cốt truyện na ná giống nhau theo quan hệ nhân quả, nhưng toàn bộ toàn bộ phóng sự có sự liên

kết về một chủ đề chung.

Mười ba chương của Túp lều nát đều ráo riết hướng tới việc tố cáo những thủ đoạn bóc lột của

quan lại và cuộc sống ngột ngạt vì bị chèn ép của người nông dân xứ Nghệ. Mở đầu là bài tựa với

những con số đáng chú ý được tác giả lấy từ tờ Tiếng dân để cảnh báo có một túp lều sắp đổ. Từ tiếng

kêu cứu của hiện thực, tác giả xâm nhập vào xã hội và viết nên những chương tiếp theo minh hoạ cho

sự thực đó. Kết thúc phóng sự, Nguyễn Trần Ai cho đăng bức thư của người bạn gửi cho tác giả kèm

một đơn tố cáo và khẩn nguyện của dân làng Đông thượng gửi cho nhà báo Ernest Babut ở Hà nội nhờ

can thiệp. Tác giả mượn lời người bạn để nói rõ ý đồ của mình “Tư tưởng của bạn trong tập Túp lều

nát chả phải là muốn trưng ra một ít cái ví dụ mong các bậc trên lưu ý lập lại việc làng, hay là một túp

lều theo cách nói của bạn”. Tất cả các chương đều hướng tới vạch mặt chân tướng của kẻ thù và mong

muốn lập lại một trật tự mới cho xã hội.

Ngoài yêu cầu thống nhất chủ đề, một số phóng sự còn tạo ra độ kết dính các sự kiện, các tư

liệu, các mảng đời chung quanh một cốt truyện và một hệ thống nhân vật thống nhất. Các nhân vật

trong phóng sự được miêu tả xuyên suốt tác phẩm, cùng phối hợp tồn tại và vận động trong không gian

nghệ thuật chung của một chỉnh thể, tác động lẫn nhau trên mọi hoạt động, tâm lý và tư tưởng. Cốt

truyện chặt chẽ, co dãn linh hoạt, hệ thống nhân vật phần lớn đi suốt tác phẩm. Cơm thầy cơm cô và

Một huyện ăn Tết là dẫn chứng tiêu biểu cho kiểu kết cấu này.

Nếu Việc làng có 16 chương là 16 chương độc lập, 16 câu chuyện và nhân vật khác nhau thì

Cơm thầy cơm cô có sự kết dính các tư liệu, các sự kiện, các mảng đời xoay quanh một cốt truyện với

một hệ thống nhân vật thống nhất. Không xây dựng tác phẩm theo lối phi cốt truyện, Cơm thầy cơm co

có thể xem là phóng sự trong phóng sự. Không chỉ cùng hướng tới một chủ đề chung mà các chương

cũng có sự liên kết khá chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự chi phối của một cốt truyện thống nhất.

Chẳng hạn, tác giả dành mấy chương kể về cuộc đời trước khi đi ở, từ thuở ấu thơ, đến khi gia biến và

trở thành con Sen. Sự trượt dài nhân cách của sen Đũi hiện lên khá hoàn chỉnh ở chương 6 với tham

vọng và quyết tâm được lên bà phán, bà kí. Muốn trở thành một ả đào sau khi đã trả thù đời cay độc là

những toan tính rất “nguy hiểm cho đời” của sen Đũi. Các chương có sự liên kết chặt chẽ với nhau, nếu

bỏ chương này sẽ ảnh hưởng đến chương khác. Kiểu kết cấu này đem lại hiệu quả rất lớn, các vấn đề

nêu ra có sự thống nhất trong một chỉnh thể vì có điều kiện bộc lộ rõ ràng sâu sắc nội dung tư tưởng

chủ đề. Đây là một trong những điểm độc đáo thể hiện tài năng về nghệ thuật phóng sự của nhà văn họ

Vũ.

Hơn nhiều phóng sự đương thời, mọi diễn biến của phóng sự Một huyện ăn Tết cũng được tổ

chức theo một kết cấu thống nhất và chặt chẽ. Toàn bộ phóng sự là những câu chuyện chỉ có một nội

dung. Các sự kiện, tư liệu có sự kết dính lẫn nhau để cùng làm nổi bật việc lật tẩy những hành vi ăn

tiền và làm tiền trắng trợn. Hệ thống nhân vật là bọn chức dịch thống nhất từ lính lệ, cai cơ ở cơ sở lên

huyện, tỉnh, đến tận cấp trung ương chóp bu của giới cầm quyền. Bọn chúng có kẻ xuất trận, có kẻ

không xuất trận nhưng đều cùng nhau hợp tác chặt chẽ nhằm vào cái đích chung là tham nhũng.

Ngoài việc liên quan đến chủ đề , mỗi câu chuyện trong những phóng sự này đều cần sự có mặt

của nhau, chi phối nhau, qui định nhau, nhu cầu bức xúc của sự kiện này buộc phải tiếp nối, dẫn tới sự

kiện kia. Nếu bỏ một hoặc một vài chương là ảnh hưởng đến nội dung của toàn phóng sự. Đây là điểm

khác biệt độc đáo của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Nói như TS Trần Đăng Thao: “Các phóng sự của Vũ

Trọng Phụng đã chỉ ra một kinh nghiệm qúi báu trong việc thao tác và tổ chức tác phẩm, xét từ bình

diện cấu trúc.Một phóng sự tốt phải có cấu trúc từ bên trong. Nội dung dù sâu sắc, đề tài dù hấp hẫn,

nhưng chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi nó đạt tới một kết cấu hợp lý, tối ưu”. [82, tr.111]

Đi sâu vào từng câu chuyện trong mỗi phóng sự, ta thấy mỗi câu chuyện cũng có kết cấu giản

dị, chặt chẽ và hiện đại. Các cây bút phóng sự đã sử dụng phóng sự như một thể loại văn học chứ

không phải là một thể loại báo chí. Điều này thể hiện rõ nhất trong xây dựng kết cấu. Nguyễn Đăng

Mạnh từng cho rằng: “Nghệ thuật phóng sự của Ngô Tất Tố trong Việc làng có khuynh hướng đi dần

tới lối viết truyện ngắn” [21, tr.368]. Quả đúng như vậy, không chỉ phóng sự của Ngô Tất Tố, phóng sự

viết về nông thôn giai đoạn này có những đặc điểm của truyện ngắn như ít nhân vật, ít sự kiện phức

tạp chồng chéo, nhân vật ít khi trở thành một thế giới hoàn chỉnh, một tính cách trọn vẹn, kết cấu

không nhiều tầng tuyến mà được xây dựng theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng… Mỗi câu chuyện là

một lát cắt tiêu biểu về cuộc sống của người nông dân. Câu chuyện nào cũng có nhân vật, có cốt truyện

rõ rệt. Kết cấu đơn giản, không nhiều tầng tuyến nhưng sắp xếp các sự kiện hợp lý, làm nổi bật được

vấn đề. Mỗi truyện xây dựng một mâu thuẫn thể hiện bi kịch tinh thần của người nông dân thôn quê.

Việc làng, Tập án cái đình, Túp lều nát, Đồng quê, Một huyện ăn Tết, Cơm thầy cơm cô…hầu hết đều

kết thúc trong bi kịch, khi mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khiến người đọc cảm thấy bức bối trước tình

trạng người nông dân bị dồn tới đường cùng. Có truyện mâu thuẫn nảy sinh, phát triển và kết thúc theo

trật tự thời gian như Một tiệc ăn vạ, Cỗ oản tuần sóc … (Việc làng). Nhưng một số truyện kết cấu này

có sự đảo ngược đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Chẳng hạn, Việc làng có 5 trong 11

truyện có trật tự đảo ngược thời gian.

Một tiệc ăn vạ (Việc làng) được mở đầu với cảnh dân làng tấp nập chuẩn bị cho một bữa tiệc

linh đình, rồi những lời xì xèo bàn tán mà tác giả chưa rõ sự tình, trong lúc người đọc tò mò xem sự

việc như thế nào thì nhân vật kể lại toàn bộ bi kịch của gia đình, rồi người ta bình luận về bi kịch của

lão Sửu: “Làng là bọn đó chứ ai đâu” rồi “Tội nghiệp lão ấy hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ

vì nhà đã lép vế, lại có bát ăn”. Hoặc trong Loài động vật ngắn cổ (Túp lều nát), mở đầu là lời chửi rủa

bức bối của một người nông dân sau đó mượn lời nhân vật, tác giả kể lại những thói phù thu lạm bổ

cực kỳ phi lý của bọn cường hào ác bá… Đây là kiểu kết cấu của văn học hiện đại, kết cấu này đã gây

sự chú ý và làm cho độc giả thích thú.

Với kết cấu chặt chẽ xoay quanh một chủ đề và sự kết dính các sự kiện, tư liệu, các mảng đời

chung quanh một cốt truyện, một hệ thống nhân vật thống nhất, các phóng sự viết về đề tài nông thôn

đã thể hiện những “thao tác kỹ thuật” hợp lý để tạo ra một kết cấu giản dị mà chặt chẽ, hiện đại và có

tính nghệ thuật. Nhờ vậy, các nhà phóng sự đã khắc hoạ vấn đề trên diện rộng một cách sâu sắc, sinh

động và lôi quốn.

3.2.2. Nghệ thuật thuật kể

Giá trị của các tác phẩm phóng sự không chỉ nằm ở câu chuyện được kể mà còn nằm ở cách kể

câu chuyện ấy như thế nào. Ngoài những kết cấu có nghệ thuật, các phóng sự viết về nông thôn đặc

biệt lôi cuốn người đọc bởi lối thuật kể tự nhiên, hấp dẫn của các nhà phóng sự. Có được sự hấp dẫn,

lôi cuốn đó là nhờ sự kết hợp của nhiều yếu tố: cách mở đầu ấn tượng; cái Tôi trần thuật biến hoá đa

năng; cách dẫn dắt câu chuyện linh hoạt, uyển chuyển; không chỉ tác giả mà nhiều nhân vật cùng tham

gia thuật kể…

3.2.2.1. Những nhan đề và những cách mở đầu ấn tượng

Cũng như phóng sự báo chí, nhan đề (Tit) của phóng sự văn học cũng có vai trò hết sức quan

trọng. Nhìn lại hàng loạt những thiên phóng sự viết về nông thôn, ta thấy các tác giả rất chú ý “đầu tư

ngôn ngữ” cho các tiêu đề, làm sao cho phải thật ấn tượng, từ ngữ phải gây tò mò và kích động trực

tiếp vào trí não độc giả. Những nhan đề hấp dẫn, gây “sốc” và bao quát được nội dung phóng sự sẽ thu

hút sự chú ý của người đọc. Ngược lại, vấn đề thực sự nóng bỏng nhưng nhan đề không hay người đọc

cũng dễ bỏ qua. Người đọc từng bị lôi cuốn bởi sức hút của các nhan đề có ý nghĩa khái quát, dồn nén

thông tin, nó là những “mồi nhử” có giá trị khiêu gợi người đọc. Kiểu như: Loài động vật ngắn cổ, Một

thiên kết luận đẫm máu, Hai bức thư hay là gan ruột dân quê… (Túp lều nát – Nguyễn Trần Ai); Lớp

người bị bỏ sót, Nghệ thuật băm thịt gà, Cái án chung thân… (Việc làng – Ngô Tất Tố), Trao thân con

khỉ mốc, Cành tre cũ, cặp giò xưa, Các trò ơi, thầy phen này thọ tử, Đạo phù thần, Hận nghìn đời…

(Đồng quê – Phi Vân); Đền con, Từ miếng thịt đến công lý, Tội ác, “Ăn” trên thây ma, Giá của những

bằng cấp… (Làm dân - Trọng Lang)... Những nhan đề vừa có tính cụ thể vừa hấp dẫn, lôi cuốn kiểu

như vậy đã kích thích sự tò mò của người đọc.

Những cách mở đầu gây ấn tượng của các phóng sự cũng là những nam châm có sức “hút”

người đọc. Đề tài nông thôn được khai thác với nhiều tài năng và phong cách đa dạng, vì thế ứng với

mỗi phong cách đa dạng đó là những cách mở đầu khác nhau.

Ngô Tất Tố ưa lối kể chuyện dân gian truyền thống theo kiểu “ngày xửa ngày xưa” nên thường

bắt đần bằng điểm nhìn thời gian: “Hôm ấy, một ngày về cuối mùa đông…” (Lớp người bị bỏ sót),

“Bây giờ đã quá trưa…” (Cái án ông cụ). “Hôm nay vừa đầy tám ngày..” (Hạt gạo xôi mới)... Cách

mở đầu này có vẻ như công thức, máy móc, giản đơn. Có đến 12 trong 16 chương được mở đầu theo

kiểu này, nhưng với tài nghệ dẫn dắt khéo léo, Ngô Tất Tố lại nhẹ nhàng đưa người đọc cuốn hút vào

những câu chuyện kể đầy thú vị mà không hề có cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Nhưng đến Tập án cái

đình, cụ Tố lại chọn những cách mở đầu không kém phần li kỳ hấp dẫn. Ai làm nên tội được mở đầu

bằng một lời phán xét quyết liệt: “Không thể tha hắn, nếu chúng ta nói đến chuyện cái đình.”. Với

cách mở dầu táo bạo này, Ngô Tất Tố đã gây sự chú ý cho người đọc ngay từ trang đầu tiên.

Khác với Ngô Tất Tố, Nhà văn họ Vũ lại không chịu bó buộc vào trật tự thời gian. Mở đầu

phóng sự Cơm thầy cơm cô là màn hoá trang vui nhộn của anh bồi giả danh – nhân vật Tôi, rồi sau đó

anh ta thâm nhập vào một quán cơm vô danh, và từ đó các chương mục cứ gọi nhau, thúc nhau xuất

hiện lần lượt theo một logic chặt chẽ mà tự nhiên. Nguyễn Đổng Chi lại khá ấn tượng khi mở đầu

phóng sự Túp lều nát là tiếng chửi gớm ghiếc đầy uất hận : “Mả cha vạn họ nhà bay…”(Loài động vật

ngắn cổ). Ngược lại với phong cách mạnh mẽ của Nguyễn Đổng Chi là Phi Vân, nhà văn đồng quê rặt

ròng Nam Bộ sinh ra từ mảnh đất Bạc Liêu này lại mở đầu thiên phóng sự của mình rất tự nhiên bằng

lời mời nhẹ nhàng mà quyến rũ: “Bạn hãy cùng tôi du lịch một vòng xuống các miệt “hóc bò tó”, “chó

ăn đá, gà ăn sỏi” để tìm những cái lạ lùng..” (Các trò ơi, thầy phen này thọ tử - Đồng quê)

Những cách mở đầu khi thì rất tự nhiên, nhưng có khi lại rất ấn tượng đó như có một “ma lực”

cuốn hút người đọc nhập ngay vào câu chuyện, rồi sau đó được tác giả dẫn dắt đi theo những tình

huống hết sức bất ngờ mà thú vị. Sự linh hoạt, sáng tạo trong cách đặt Tít và cách mở đầu phóng sự

làm cho các phóng sự luôn mới mẻ và giàu sức cuốn hút. Nó thể hiện phần nào bản lĩnh, dũng khí và

trí tuệ sắc bén của các nhà phóng sự.

3.2.2.2. Cai Tôi trần thuật biến hoá, đa năng

Không chỉ bị hút bởi các tiêu đề và các cách mở đầu khá ấn tượng, người đọc còn bị lôi cuốn

bởi sự biến hoá đa năng của cái Tôi trần thuật. Trong phóng sư, cái Tôi trần thuật đóng vai trò hết sức

quan trọng, vừa là nhân chứng khách quan, vừa là người thẩm định khách quan đồng thời cũng là

người kết nối các dữ liệu, tình tiết, chi tiết thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Không chỉ dẫn truyện, nhân

vật Tôi còn phải định hướng nhận thức cho bạn đọc, vì thế nhà phóng sự phải cẩn trọng khi nhập cuộc

và chịu trách nhiệm về bài viết của mình trước dư luận. Cũng như các phóng sự giai đoạn 1930 – 1945,

phóng sự viết về đề tài nông thôn giai đoạn này thể hiện một cái Tôi trần thuật có tính chất lưỡng thể,

đa năng biến hoa. Ở phóng sự này, cái Tôi nhân chứng – người trần thuật tham dự vào câu chuyện,

dẫn người đọc đi suốt thiên phóng sự, nhưng ở phóng sự khác, cái Tôi nhân vật – người kể chuyện

được nhân vật hoá đã trực tiếp xông xáo, hội nhập vào thế giới nhân vật của tác phẩm.

Trong thiên phóng sự Việc làng. Ngô Tất Tố luôn đóng vai trò nhân chứng (cái Tôi nhân chứng)

lần lượt dẫn dắt người đọc đến gặp từng nhân vật (nhân chứng) để chứng kiến sự kiện. Qua những sự

kiện, những hành động của nhân chứng để thể hiện mục đích khám phá hiện thực của mình. Từ đó

người đọc hiểu rõ bản chất của những hủ tục chốn thôn quê một cách sâu sắc và đáng tin cậy. Cái Tôi

trần thuật đa năng biến hoá được thể hiện sinh động nhất là ở phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Có khi là

người trần thuật nguỵ trang sắm vai một tay anh chị trong giới Cơm thầy cơm cô, có khi lại là người

trần thuật được uỷ nhiệm thành kẻ “phiếm du” xem một huyện ăn Tết như thế nào… Sự nhập cuộc này

không phải là chuyện dễ dàng, chu đáo như Tam Lang còn bị Vũ Ngọc Phan bắt lỗi là con người to béo

nặng nề đó “cầm càng xe sao được”. Và chính Tam Lang cũng có lúc xấu hổ thấy mình “như một

thằng trần truồng đi ra ngoài phố”. Còn nhân vật Tôi trong phóng sự của nhà văn họ Vũ này thì rất tự

nhiên trong ăn mặc, thành thạo trong đi đứng, suồng sã thân mật trong nói cười, thậm chí chim chuột y

như thật!

Thực ra, tất cả đều là cái Tôi nhân chứng – người trần thuật tham dự vào câu chuyện dẫn dắt

người đọc đi suốt toàn thiên phóng sự. Điều thú vị là do sự xông xáo, nhiệt tình tham dự một cách sâu

sắc, toàn diện vào diễn biến của truyện kể nên cái Tôi nhân chứng đó “nhập” vào tác phẩm trở thành

cái Tôi nhân vật. Người kể chuyện được nhân vật hoá này gia nhập vào thế giới nhân vật một cách

xông xáo, tham gia tổ chức tác phẩm. Sự nhập vai tài tình của nhân vật Tôi đã đem lại cho phóng sự

của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Phi Vân, Nguyễn Trần Ai… một lối kể chuyện hấp dẫn. Tác giả

bỗng nhiên trở thành người trong cuộc, tiếp cận, tìm tòi, khám phá sự kiện một cách trực tiếp, nhìn

nhận vấn đề một cách rất thấu đáo và soi rọi thấu bản chất vấn đề.

3.2.2.3. Cách dẫn dắt câu chuyện linh hoạt, uyển chuyển

Bên cạnh sự biến hoá đa năng, tài tình của cái Tôi trần thuật là nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện

linh hoạt, uyển chuyển với nhiều phong cách và giọng điệu khác nhau. Đây là phong cách kể của

truyện ngắn, tiểu thuyết được các nhà phóng sự vận dụng sáng tạo trong tác phẩm phóng sự của mình.

Chính nghệ thuật kể chuyện linh hoạt này đã lý giải vì sao mỗi phóng sự chỉ xoay quanh miêu tả một

vấn đề và kéo dài hơn chục mẫu chuyện và hàng chục trang sách mà người đọc không cảm thấy đơn

điệu, nhàm chán. Các tác giả đã sáng tạo ra kiểu nhân vật người kể chuyện: nhân vật Tôi. Nhân vật này

là người dẫn dắt các tình tiết và tổ chức các tình huống một cách linh hoạt với cách ăn nói hóm hỉnh và

những lời bình luận sắc sảo đã làm tăng thêm rất nhiều hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm.

Nhân vật Tôi thường dẫn dắt câu chuyện theo kiểu vừa đi đường vừa gợi chuyện để các nhân

vật khác cùng kể với mình. Chẳng hạn trong Mồ hôi và Mồ hôi (Túp lều nát), Nguyễn Trần Ai khéo để

cho Phó tổng và tri B say sưa kể về những thói phù thu lạm bổ đầy tinh vi của bọn lý trưởng. Họ hăng

say kể với tâm trạng tỏ vẻ thông hiểu tất cả mọi sự đời. Có những lúc sợ câu chuyện “chết yểu” giữa

chừng, tác giả phải nuôi dưỡng câu chuyện bằng cách khéo léo hỏi một số câu mang tính chất khơi gợi

rất thông minh. Đây chính là những “mánh khoé” hết sức cần thiết khi khai thác tư liệu đồng thời cũng

là cách làm cho câu chuyện trở nên sinh động, lôi cuốn. Hay trong Dĩ dật đãi lao (Túp lều nát), tác giả

luôn nghĩ ra những kế rất diệu để cho chú H tự “cung khai” nỗi oan ức của mình đồng thời dẫn dắt câu

chuyện thêm sinh động, lôi cuốn. Kiểu như: “Tội vạ như thế mà chú không kêu oan à?”, “Có lẽ ông Lý

và hương chức có giấy kêu oan mà quan trên không xét chăng?”...

Sự “khôn ngoan” khi dẫn dắt tình tiết còn thể hiện trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Phóng

sự của ông đầy ắp tư liệu và sự kiện. Cái hay là ông biết tạo ra độ kết dính các tư liệu và sự kiện đã

được chọn lọc tới mức điển hình đó để tạo nên những ấn tượng thẩm mỹ mạnh mẽ và hấp dẫn đối với

người đọc. Người đọc bị hút vào tác phẩm, từ đó nảy sinh nhu cầu muốn khám phá và thưởng thức

nghệ thuật. Chẳng hạn, để dẫn dắt các tình tiết và tổ chức các tình huống trong Cơm thầy cơm cô một

cách linh hoạt, Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo nhân vật Tôi khá độc đáo. Nhân vật Tôi đó vừa không

phải là Vũ Trọng Phụng, vừa là chính Vũ Trọng Phụng, bởi nhân vật này có cách ví von rất ác, bất

ngờ, ăn nói hóm hỉnh có duyên, những lời bình thông minh sắc sảo. Ông có lối kể chuyện hoạt bát, tự

nhiên, có khi như cùng trò chuyện, cùng tranh cãi với cả người đọc một cách thoải mái và vui vẻ.

Cũng như vậy với Một huyện ăn Tết, tác giả không cần dụng công tiến hành theo lối thực địa mà

chỉ cần bám sát viên lục sự già bên khay bàn thuốc phiện, từ cửa miệng của con người biết “đục khoét

thành thánh” ấy, chỉ cần vài câu dẫn dắt, gợi hỏi khéo léo, được tung hứng bởi “nàng tiên nâu”, tác giả

có thể thu thập một mớ tư liệu sinh động, đáng quí và câu chuyện tham nhũng cứ thế được lộn trái ra

trần trụi, phơi bày giữa thanh thiên bạch nhật không đường chối cãi.

Sự dẫn dắt khéo léo tài tình của nhà phóng sự đã kéo độc giả say sưa theo những câu chuyện mà

mình chứng kiến. Do có sự định hướng tư tưởng và sự sáng tạo nghệ thuật nên những câu chuyện

không rời rạc, tản mạn, tẻ nhạt mà ngược lại chúng có sự liên kết theo định hướng chung của chủ đề.

Những cuộc phỏng vấn đàm đạo của người trần thuật với các nhân vật diễn ra với những câu hỏi

dẫn dắt khéo léo và và những câu trả lời tiếp nối khiến ngôn ngữ nhân vật cuộn xoắn, kết chuỗi tạo

sinh khí và sức lôi cuốn độc giả. Và sau những cuộc hội thoại ấy, câu trả lời vẫn chưa hoàn tất mà còn

mở ngỏ cho người kể chuyện, nhân vật và người đọc cùng nghiền ngẫm, chiêm nghiệm về lẽ đời, về

thời cuộc, về con người hôm qua và hôm nay.

3.2.2.4. Nhiều nhân vật cùng tham gia thuật kể

Đối với thể phóng sự, chủ yếu tác giả kể lại những gì mình chứng kiến một cách khách quan.

Nhưng để cho câu chuyện thêm phần tự nhiên, sinh động, có khi các nhân vật được tác giả khéo

léo“uỷ quyền”giao cho nhiệm vụ kể về nhân vật khác. Chẳng hạn, trong phóng sự Cơm thầy cơm cô

của Vũ Trọng Phụng, tác giả để cho các nhân vật cướp lời nhau kể về những xấu xa của gia chủ của

mình. Và thế là tác giả “rút lui vào hậu trường” để cho các nhân vật thoả sức “biểu diễn”, những câu

chuyện lạ lùng, thật nhơ bẩn, thật chướng tai lại hiện lên một cách tự nhiên, khiến người đọc không

chút nghi ngờ về tính chân thật của nó.

Điều thú vị là không chỉ kể về nhân vật khác, có khi nhân vật tự lại tự kể về mình. “Cuốn tiểu

thuyết của con sen Đũi” trong Cơm thầy cơm cô chủ yếu là do nó tự bạch. Từ thuở ở quê gia đình gặp

hoạn nạn đến cảnh đi ở với bao nỗi khổ nhục, rồi chuyện nó bị hiếp, chuyện nó khiêu dâm hai đứa con

chủ nhà để trả thù và ước mơ trở thành bà phán, bà kí đều là những lời nó tự kể… Cuộc đời của cụ

Thượng Lão Việt trong Lớp người bị bỏ sót (Việc làng) cũng là lời tự bạch trong cơn hấp hối. Từ thuở

17 đã cày sâu cuốc bẫm, buôn bán ngược xuôi đến chuyện thằng con phải để nó dốt nát, rồi những món

nợ vì hủ tục kéo dài từ đời ông sang đời con…Tất cả đều hiện lên qua lời bộc bạch xót xa của chính cụ

Thượng Lão Việt, còn tác giả chỉ đóng vài trò như độc giả chứng kiến những câu chuyện của cụ với

tâm trạng vừa ngậm ngùi thương xót vừa ngạc nhiên sửng sốt. Câu chuyện của cụ cứ hiện ra tự nhiên

mà không hề có một câu khơi gợi nào. Nhờ vậy, tính xác thực của thông tin được đảm bảo, vai trò chủ

quan của nhà phóng sự không “lấn sân” sang quá trình thuật kể của chính nhân vật.

Trong khi tác giả thuật kể hoặc các nhân vật tham gia thuật kể, ta thấy xuất hiện các cuộc đối

thoại ngắn. Những cuộc phỏng vấn đàm đạo của người trần thuật với các nhân vật diễn ra với những

câu hỏi dẫn dắt khéo léo và những câu trả lời tiếp nối khiến ngôn ngữ nhân vật cuộn xoắn, kết chuỗi

tạo sinh khí và sức lôi cuốn độc giả. Và sau những cuộc hội thoại ấy, câu trả lời vẫn chưa hoàn tất mà

còn mở ngỏ cho người kể chuyện, nhân vật và người đọc cùng nghiền ngẫm, chiêm nghiệm về lẽ đời,

về thời cuộc, về con người hôm qua và hôm nay.

Với cách dẫn dắt khéo léo này, nhân vật Tôi từ bỏ vị trí người kể chuyện truyền đạt những

thông tin đã biết trước trở thành người cùng với độc giả của mình kiếm tìm sự thật. Nhân vật Tôi và

các nhân vật tự kể đều có quyền bình đẳng ngang hàng nhau. Nhờ sự dẫn dắt khéo léo mà nhân vật Tôi

đưa câu chuyện đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Lối kể chuyện này không làm cho người đọc thụ

động ngồi nghe mà cuốn hút vào câu chuyện, cùng tác giả khám phá những điều mới mẻ. Cách để cho

nhân vật tự kể chuyện về mình và kể chuyện về nhân vật khác cũng khiến cho không gian và thời gian

của câu chuyện như rộng ra, bao quát hơn, cụ thể hơn. Hiện thực cuộc sống nhờ vậy đã bước vào trang

văn một cách tự nhiên và sinh động. Với cách kể này, những phóng sự viết về nông thôn giai đoạn

1930 – 1945 có giá trị thẩm mỹ vượt ra ngoài bản chất của một phóng sự báo chí.

3.2.3. Điểm nhìn trần thuật

Phóng sự viết về nông thôn không chỉ lôi cuốn người đọc bằng nghệ thuật kể chuyện mà còn

hấp dẫn nhờ cách tổ chức các điểm nhìn nghệ thuật. Theo Gerad Genelte, điểm nhìn trần thuật là vị trí

nhà văn khi kể lại câu chuyện, qua đó biểu lộ cái nhìn và quan điểm sống, quan niệm nghệ thuật của

nhà văn. Như vậy, chính điểm nhìn trần thuật của nhà văn trong tác phẩm là một phương tiện thể hiện

đắc lực tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của tác giả. Sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật của nhà văn quyết

định phần lớn giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Trong các phóng sự viết về nông thôn 1930 – 1945, xuất hiện đa dạng các điểm nhìn và có sự di

chuyển linh hoạt các điểm nhìn trần thuật. Đây là đặc điểm nổi bật làm cho đề tài nông thôn trong các

phóng sự này được phám phá với nhiều góc cạnh, sâu sắc và toàn diện hơn.

3.2.3.1. Sự đa dạng các điểm nhìn

Đề tài nông thôn trong các phóng sự 1930 – 1945 được khai thác với nhiều điểm nhìn đa dạng

khác nhau. Để đảm bảo tính khách quan, một số phóng sự sử dụng điểm nhìn trần thuật khách quan để

phản ánh hiện thực. Nghĩa là tác giả không tham gia trực tiếp, đứng ngoài nhân vật, giả vờ không dính

đến các chi tiết trong tác phẩm, luôn giữ khoảng cách nhất định với nhân vật, luôn khách quan, lạnh

lùng, và người đọc luôn tin sự kiện đó là có thật, không thêm thắt.

Ở các phóng sự này, người trần thuật không phát biểu xét đoán của mình bằng cách gán nó cho

nhân vật, mượn cái vỏ lời nói của nhân vật để tự nhân vật lên tiếng xét đoán bằng quan niệm của riêng

nó. Chính cấu trúc điểm nhìn này đã khám phá được những khía cạnh mới mẻ của sự kiện, hiện tượng.

Nhà phóng sự Nguyễn Trần Ai đã sử dụng hệ thống cấu trúc điểm nhìn này khá đắc dụng trong Túp lều

nát. Câu chuyện phù thu lạm bổ trong Mồ hôi và mồ hôi được tác giả khéo lồng qua điểm nhìn khách

quan của các nhân vật Cụ Phó, Tri B. Rồi chuyện bán thuế non, sửa tờ trát, nhũng lạm sưu thuế lại một

lần nữa được phơi bày qua điểm nhìn khách quan của các nhân vật này trong Chế độ hào cường... Nhờ

vậy, biết bao điều khuất lấp đằng sau những vụ thu thuế của dân đã bị các nhân vật phanh phui, lộn

trái…

Bên cạnh điểm nhìn trần thuật khách quan, các nhà phóng sự còn sử dụng điểm nhìn trần thuật

chủ quan. Đó là việc tác giả trở thành một nhân vật trong chuyện, xưng Tôi để thuật kể lại câu chuyện.

Không chỉ thế, nhân vật Tôi còn đóng vai trò là người chứng kiến toàn bộ diễn biến tâm trạng tình cảm

lập trường của nhân vật khác, qua đó tác giả cũng bộc lộ quan điểm của mình sâu sắc hơn. Nhân vật

Tôi trong phóng sự viết về nông thôn đảm nhiệm nhiều vai diễn rất đa dạng: Khi thì trong vai một nhà

sư phạm, một nhà báo (Túp lều nát), khi thì đóng giả một tay anh chị trong giới cơm thầy cơm cô đột

nhập từ cổng sau của chốn Hà thành (Cơm thầy cơm cô), có khi là một nhân vật rình bắt “cướp” trong

Cành tre cũ cặp giò xưa (Đồng quê)...Ở bất cứ vai diễn nào, nhân vật Tôi cũng nhập vai khéo léo, tài

tình, hoá thân hoàn toàn vào quần thể nhân vật. Sự nhập vai tài tình này của nhân vật Tôi đã tạo ra một

điểm nhìn từ bên trong rất đắc dụng cho sự tiếp cận, tìm tòi và phám phá. Chỉ có thể là “đồng bọn” của

giới quan lại mới thấu rõ được âm mưu nham hiểm, thủ đoạn bẩn thỉu của chốn quan lại hà hiếp dân

đen. Và cũng chỉ có thể là kẻ “đồng hội đồng thuyền” của những kẻ đi ở mới nhìn thấu gan ruột nỗi

thê thảm của người dân quê lên thành phố kiếm sống….

Nhân vật Tôi không chỉ là người chứng kiến mà còn tham dự trực tiếp vào biến cố của câu

chuyện nên luôn tạo ra cái nhìn ở thì hiện tại. Người đọc hứng thú khi không phải ngồi nghe những gì

đã xảy ra mà cùng tác giả khám phá những điều mới lạ đang xảy ra. Cảm giác được chứng kiến những

gì mới lạ đang diễn ra như vậy đã đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của phóng sự là luôn cung cấp

những thông tin thời sự, nóng hổi. Có khi nhà phóng sự truyền những cảm xúc của mình cho độc giả.

Chẳng hạn, trong Cành tre cũ cặp giò xưa (Đồng quê), nhân vật Tôi khiến người đọc nín thở vì nghe

tiếng kêu cướp, nhân vật Tôi tay cầm ngọn roi tre núp bắt kẻ cướp: “Bóng người vừa nhô tới là Tôi rán

sức bình sanh cầm ngọn roi “quất” ngang vào ống quyển: Rốp !” (…) Nhưng, thiên địa quỉ thần ơi !

người Tôi đang ôm cứng lại là … một cô gái !”[89, tr.32-33]

Có thể nói, như một ống kính “lia rọi” khắp mọi vấn đề của hiện thực, việc xây dựng đa dạng

các điểm nhìn như vậy đã làm cho các tình tiết, sự việc hiện lên trong các phóng sự trở nên sinh động,

đáng tin. Các phóng sự không chỉ có vấn đề mà có hồn cốt của biến cố, không chỉ có luận cứ luận

chứng về những phiến đoạn nóng rẫy của thực trạng mà còn khắc hoạ tới những ngóc ngách của thế

giới nội tâm nhân vật khiến người đọc thấu được sâu hơn từng lớp ý nghĩa của hiện thực cần phản ánh.

3.2.3.2. Sự di chuyển và biến hoá các điểm nhìn

Di chuyển điểm nhìn trần thuật là việc chuyển điểm nhìn: từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật

này sang nhân vật khác, từ bên ngoài vào bên trong … Tác dụng của sự di chuyển điểm nhìn trần thuật

là làm cho vấn đề được soi rọi dưới những góc độ khác nhau, tạo nên những sắc thái mới, những giọng

điệu mới, khiến ý nghĩa của tác phẩm phong phú mới mẻ và có chiều sâu hơn.

Có thể xem phóng sự Cơm thầy cơm cô là dẫn chứng tiêu biểu nhất cho sự di chuyển và kết nối

các điểm nhìn trần thuật. Truyện mở đầu với điểm nhìn chủ quan, khi tác giả xưng Tôi, nguỵ trang

thành nhân vật của giới cơm thầy cơm cô để kể lại câu chuyện được chứng kiến vào một đêm ở hàng

cơm: “Tôi không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào làm gì….” (62, tr107). Đến chương V, điểm

nhìn chủ quan của nhân vật Tôi được chuyển sang điểm nhìn khách quan khi tác giả để cho sen Đũi

thuật lại chính cuộc đời của mình. Từ chỗ là người chứng kiến, người tham gia các sự kiện, tác giả tách

ra khỏi nhân vật, giữ khoảng cách với nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ bằng giọng điệu của chính mình:

“U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy tôi hiện giờ thì kéo xe….” [62, tr.126] Sự chuyển giao điểm

nhìn một cách hết sức tự nhiên này đã làm cho “cuốn tiểu thuyết về cuộc đời của Sen Đũi” chân thật và

khách quan hơn. Người trần thuật lúc đó không hề biết trước sự việc, hiện tượng mà mình miêu tả. Rồi

từ điểm nhìn khách quan, câu chuyện lại quay về điểm nhìn chủ quan: “Tôi nhìn kỹ cái Đũi thì mới biết

là trông nó cũng đẹp, cũng có mẻ con người. Trước sự thuật lại một việc bất bình đã xa lắc xa lơ, tôi

cũng thấy nóng cả mặt mày lên như đương trông thấy sự bất bình ấy vậy” [62, tr.128]. Đó là lúc tác

giả trở về điểm nhìn chủ quan để bộc lộ thái độ của mình trước hiện tượng được miêu tả. Đến cuối

phóng sự, tác giả quay lại là chính mình: “Thưa các ngài, bây giờ Tôi lại là Tôi” rồi thẳng thắn đưa ra

những lời phán xét về nhân vật của mình, thậm chí tranh luận với ngay cả độc giả: “Nhưng bây giờ tôi

có thể nói với hết thảy (các ngài nhớ cho là hết thảy) các độc giả yêu quí của tôi rằng xin các ngài cứ

điều tra ngay các ngài”. [62, tr.167].

Sự đan xen, di chuyển các điểm nhìn một cách tự nhiên được Vũ Trọng Phụng biến hoá hết sức

linh hoạt, tài tình. Có khi tác giả hướng điểm nhìn khách quan vào từng cá nhân, tập trung xoáy vào

cuộc đời của sen Đũi, nhưng có khi điểm nhìn khách quan lại hướng vào tập thể các nhân vật, như

đoạn các đầy tớ nói xấu chủ nhà, tác giả tách hẳn ra để tổ chức cho các nhân vật thay nhau tự đối thoại,

tự kể với nhau một cách tự nhiên. Sự chuyễn đổi linh hoạt các điểm nhìn này thể hiện sự đan cài, giao

thoa giữa các ý thức khác nhau trong thế giới nhân vật.

Sự gia tăng các điểm nhìn trần thuật không chỉ mở rộng trường nhìn mà còn phong phú thêm

các giọng điệu trần thuật. Trong phóng sự này, sự di chuyển các điểm nhìn: từ tác giả sang nhân vật, từ

nhân vật này sang nhân vật khác, từ bên ngoài vào bên trong để mở rộng khả năng bao quát, đánh giá

của trần thuật và để tái hiện các quá trình diễn biến tâm hồn của nhân vật. Đây cũng chính là những

thành công nghệ thuật của phóng sự Cơm thầy cơm cô. Sự linh hoạt trong việc tổ chức điểm nhìn đã

làm cho cấu trúc bố cục câu chuyện biến hoá sinh động và hấp dẫn.

3.3. Phong cách ngôn ngữ, giọng điệu

Sức chinh phục của phóng sự viết về nông thôn 1930 – 1945 một phần đáng kể là do nghệ thuật

kể chuyện. Trong đó, phong cách ngôn ngữ, giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng làm nên

sức hấp dẫn trong các phóng sự của giai đoạn này. Vì thế, chúng tôi mở ra một hướng tiếp cận nữa về

phong cách ngôn ngữ, giọng điệu nhằm tìm ra những nét độc đáo trong phong cách diễn dạt và giọng

điệu trần thuật của các nhà phóng sự ở một thể văn xuôi mới mẻ này.

3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ

Theo M. Gorki: “Ngôn ngữ là yếu tố trước tiên của văn học”, là nghệ thuật của ngôn từ. Cũng

giống như các tác phẩm văn học khác, giá trị về nội dung và nghệ thuật của những thiên phóng sự viết

về nông thôn 1930 – 1945 có được là do sự gợi ra từ các lớp ngôn ngữ của tác phẩm. Ngôn ngữ không

chỉ là những kí hiệu nghệ thuật, là phương tiện biểu đạt của văn học mà còn thể hiện tài năng và phong

cách của nhà văn. Ngôn ngữ cũng là một nét nghệ thuật đặc sắc tạo nên sức hấp dẫn của những thiên

phóng sự.

Điểm nổi bật làm nên giá trị về mặt ngôn ngữ của các phóng sự này là có sự kết hợp ngôn ngữ

truyền thống và ngôn ngữ hiện đại, ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn chương.

1.3.1.1 Sử dụng ngôn từ giàu chất khẩu ngữ

Có thể nói, những trang phóng sự viết về nông thôn tươi rói một thứ ngôn ngữ đời sống. Sự đậm

đặc của tính chất khẩu ngữ thể hiện ở tần số xuất hiện các khẩu ngữ, các dạng khẩu ngữ, lượng thành

ngữ tục ngữ, các từ địa phương. Khẩu ngữ xuất hiện đậm đặc trong phóng sự của Ngô Tất Tố, Vũ

Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Phi Vân… đã làm cho những phóng sự viết về nông thôn luôn ngân

vang những thanh âm của cuộc sống, luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người đọc.

Trong mỗi trang phóng sự, ta thấy khẩu ngữ xuất hiện với tần số cao. Ở bất cứ trang phóng sự

nào, người đọc cũng bị lôi cuốn bởi những khẩu ngữ thân quen của cuộc sống hằng ngày. Các tác giả

phóng sự cũng rất chú ý sử dụng các lớp khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật. Chỉ trong

một đoạn văn ngắn nhưng khẩu ngữ hằng ngày xuất hiện với tần số cao làm cho lời văn mang phong

cách khẩu ngữ đậm nét.

Chẳng hạn, trong lời kể lể của một người nông dân than vãn về hủ tục, có hàng loạt các khẩu ngữ

được Ngô Tất Tố sử dụng: “Một bữa ăn này ít ra anh tôi cũng tiêu đến năm, sáu chục đồng. Vì kiêng

tiếng làm thịt lợn, sợ rằng làng nước cho là hung mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực, mua thịt lại

quá giết lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn vừa thịt lợn tất cả mười một đồng bạc, đáng lẽ cũng đủ

chàn chát nhưng cụ chưởng lễ thích ăn thịt cầy, nên ông lý trưởng bắt giết thêm con cầy” [53, tr.20].

Là một nhà Nho nhưng ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không thủ cựu mà hoà hợp với hiện tại, là một nhà

văn của làng quê, khẩu ngữ của ông mang hơi thở, sự sống của sinh hoạt nông thôn nhưng không tự

nhiên, thô thiển mà gợi cảm, sắc sảo, chắt lọc.

Lời văn trong phóng sự của “ông vua phóng sự Bắc kì” cũng đậm đặc khẩu ngữ. Ở câu nói mộc

mạc của cô bé quê ra thành thị kiếm sống, những lời ăn tiếng nói hằng ngày cứ “tuôn” ra một cách tự

nhiên : “Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho

vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh chửi mình như cái nhà tôi vừa bỏ đi thì khốn nạn, nó

năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình. Người này sai chưa xong việc này, người khác lại

ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ”… [62, tr.111].

Các lớp khẩu ngữ trong các phóng sự cũng hết sức phong phú. Có khẩu ngữ của những tên seo, tên

phu tuần chuyên đi “chấn lột” của cải từ những người không đủ tiền nộp thuế:

Dạ cái cày và cái bừa của thằng đĩ Ba. Nó cứ chối lên đây đẩy rằng nhà nó nghèo không chịu

được bài tráng. Đồng rưỡi nó nộp bữa trước là hết rồi. Chúng tôi tìm tòi xiết được chừng nấy. Mà

lấy được của nó cũng dư khốn. Vợ nó với nó chạy ra tríu mãi. Chúng tôi ẩu tả chúng mới chịu thả

cho mà mang đi đấy. Còn cái vại của thằng xã Trung, nhà thằng ni đang còn một cái khăn nhiễu

mà tức quá, chưa lột được. [4, tr.28]

Có khẩu ngữ của người nông dân Nam Bộ chân chất thật thà: “Nguy lắm rồi mầy năm ơi! Nghe

đằng nhà ông Bá bị cướp, tao tốc mùng vác cây roi tre ra tiếp cứu, không dè ba chớp ba nhoáng, đập

nhằm con gái ổng gần chết, tao lật đật cõng về đây!” [89, tr.33]

Bên cạnh ngôn ngữ thường ngày, khẩu ngữ nghề nghiệp được các nhà phóng sự sử dụng khá nhuần

nhuyễn. Trong Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai sử dụng khá nhiều ngôn ngữ của nghề thu thuế như : ba

tăng (thẻ môn bài), tiền xã thương (tiền công ích), phù thu lạm bổ (thu trội lên phần thuế), bài tráng

(thẻ sưu), thẻ bần (thẻ sưu hạng bần), yếu lược (chứng chỉ tốt nghiệp), phụ canh (ruộng của người khác

cày thêm)…Vũ Trọng Phụng dùng nhiều những từ ngữ của bọn cơm thầy cơm cô như ăn chực nằm

chờ, con ong cái kiến, ăn đói nằm no, nếm cơm thiên hạ, khổ tuyệt trần đời, cơm thừa canh cặn, năm

cha năm mẹ, chết rã họng, trầm luân khổ ải. Phi Vân thì lại dùng những từ ngữ của một gánh hát: hát

bộ, bầu, lên giàng, rạp, gióng trống xây chầu, chọn tuồng, đào kép, đá giáp, chiêng y, cầm chầu...

Các lớp khẩu ngữ này tạo nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm, làm cho phóng sự gần hơn

với đời sống. Việc sử dụng khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật và từng nghề nghiệp

chứng tỏ sự am hiểu tinh tường của tác giả với từng loại nhân vật đồng thời góp phần đắc lực vào việc

cá thể hoá nhân vật. Khẩu ngữ không chỉ đóng vai trò là nguồn nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái,

khí sắc và đặc tính mỹ học của văn xuôi nói chung, của phóng sự nói riêng.

Một điểm nổi bật về ngôn ngữ nữa là các nhà phóng sự đã sử dụng đậm đặc các từ địa phương

vào “đứa con tinh thần” của mình. Điều này phần nào thể hiện ý thức trân trọng ngôn ngữ của vùng đất

quê hương. Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai sẽ mất đi biết bao nhiêu sức quyến rũ nếu không có những

âm thanh đời sống của nông thôn xứ Nghệ. Hàng loạt những từ của mảnh đất miền Trung chỉ cần đọc

lên là cảm thấy nghộ nghĩnh, sống động nhưng tất cả đều được Nguyễn Trần Ai cho điềm nhiên “bước

thẳng” vào trang văn mà không một chút gia công, tỉa tót: bay (mày), choa (tao), mô (đâu), mi (mày),

rứa (thế), tui (tôi), cho (thấy), ngã mô (đường nào), ra răng (như thế nào), chi (gì), in như (giống như),

méng (miếng), ve (bày), nhè (đè), tá hoả (hoảng hốt), lưa (còn), méng (miếng), huề (hoà), trự (chữ),

mầm thinh (im lặng), tríu (níu), ni (này), rứa (thế), truất (bỏ), lần đân (chần chừ), túa vào (ùa vào), rặt

(ngặt nỗi), quở (trách), có trở (có tang), đâm bổ ra (xông ra), nhớp (bẩn), tắp lự (tráo trở), tương

(đánh), xán (tiến lại), hăm (doạ), rác tai (không thích nghe), chun (dồn), biểu (bảo), bị (bao), chước

(bớt), truất (bỏ), tợ tợ (tựa như), thiêm (thăm), trẹt bè le (thấp), tầm bậy (không hay), nờ (này), ém

(im), in hệt (giống như), lặt (nhặt), chưn (chân), tiệm tặn (tiết kiệm) …

Những âm thanh “ngồ ngộ” này trong đời sống của nông thôn xứ Nghệ đã xuất hiện “nguyên đai

nguyên kiện” qua cách nói năng của nhân vật và chính người kể. Nó lấp lánh sức sống của một ngôn

ngữ từ những cuộc đời vật lộn với những khắc nghiệt gió mưa, với thiên tai, lũ lụt.

Trong khi Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi trình làng với sự xuất hiện đậm đặc các từ ngữ địa

phương mang đậm bản sắc Trung Bộ làm người đọc thích thú thì Đồng quê của Phi Vân lại chinh phục

người đọc bởi những từ địa phương xuất hiện trong cách ăn nói thành thực mà hữu duyên của người

nông dân vùng sông nước Nam Bộ. Những từ dùng đặc Nam Bộ được ông chọn lựa không hề tỏ ra quê

mùa, trái lại, có vị trí thật đắt, làm nổi bật phong tục, nếp sống cảnh vật thiên nhiên, đặc biệt là tính

cách con người địa phương ông miêu tả: miệt trên, quyên biệt, ôm đại, ngất lịm, học rành, nằm lòng,

một dọc con dài, nằm thở dốc, khó gần sức hơi, máu trên đâù bụt ra, vặn họng, không dè, con mẻ, mớ

mốc gì mậy (cái gì mày), bảnh (đẹp), bắt trớn, lèng èng, dòm lom lom (nhìn chăm chú)…

Không thể không nhắc đến sự trân trọng ngôn ngữ của vùng đất Nam Bộ thể hiện qua cây bút của

Phi Vân. Với sự có mặt của những từ địa phương, Đồng quê thực sự trở thành đặc sản của ngôn ngữ

Nam Bộ. Nếu Hồ Biểu Chánh còn để cho cái thô nhám của khẩu ngữ làm mất vẻ đẹp của hình ảnh,

hình tượng được miêu tả thì Phi Vân đã có những sáng tạo vượt xa lối viết của Hồ Biểu Chánh khi biết

phát triển, nâng cao khẩu ngữ cho nó tiến gần đến chuẩn mực của văn viết. Khẩu ngữ trong phóng sự

của Phi Vân không trau chuốt cầu kì mà vẫn mộc mạc, chất phác, không tỉa tót công phu nhưng vẫn

tươi tắn đầy sức gợi tả là nhờ cách sử dụng hợp lý theo từng hoàn cảnh và từng loại nhân vật.

Chính M. Gorki gọi “khẩu ngữ là máu của văn xuôi nghệ thuật”. Như vậy, khẩu ngữ không chỉ

đóng vai trò là nguồn nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái, khí sắc và đặc tính mỹ học của văn xuôi

nói chung và của phóng sự nói riêng. Những lời văn tươi rói lớp khẩu ngữ tự nhiên, mang hơi thở nóng

hổi của sự sống không chỉ làm cho phóng sự gần với người đọc đương thời mà còn rất gần gũi với độc

giả hôm nay.

3.3.1.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ linh hoạt, sáng tạo

Được hiện lên với những phong cách hết sức đa dạng và đầy tài năng, các phóng sự viết về nông

thôn không chỉ thể hiện bằng những lời văn giàu chất khẩu ngữ, phong phú từ địa phương mà còn đậm

đặc các thành ngữ, tục ngữ. Các nhà phóng sự đã sử dụng linh hoạt vốn ngôn ngữ dân gian này. Họ

không chỉ sử dụng nguyên vẹn các thành ngữ một cách hợp lý, linh hoạt để tạo những giá trị biểu cảm

cao mà còn tỏ ra sáng tạo khi chỉ dùng một vế hoặc sử dụng ý của thành ngữ để vẽ nên bức tranh hiện

thực với tất cả sự sinh động như cuộc đời vốn có.

Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng sử dụng thành ngữ: Ăn đói làm no. cơm thừa canh cặn, con ong cái

kiến, thay hình đổi dạng, bán trời không văn tự, thiên phương bách kế, biết rõ mười mươi…(Cơm thầy

cơm cô), Ngô Tất Tố thì dùng thành ngữ gắn với sinh hoạt làng quê như : cày sâu cuốc bẫm, buôn

ngược bán xuôi, nghèo xác nghèo xơ, bất đắc kỳ tử, vắt cổ chày ra nước…(Việc làng), Nguyễn Đổng

Chi trong Túp lều nát cũng dùng khá hiệu quả một lượng thành ngữ lớn như: ăn to nói nậy, tâm địa

bẩn thỉu, tơ bờ tất bật, bán cốt lột xương, vu oan giá hoạ, giây mơ rễ má… Phi Vân dùng những thành

ngữ mang màu sắc Nam Bộ khá nhuần nhuyễn như: đầu đuôi gốc ngọn, không ăn mà chịu, kỳ công bất

hủ, nhơn tình thế thái, chó ăn đá gà ăn sỏi, ruột thắt gan bào…(Đồng quê). Sự có mặt của các thành

ngữ, tục ngữ này trong lời văn phóng sự một phần làm câu văn dễ hiểu, dễ cảm nhận, một phần còn

tăng sắc thái biểu cảm, khiến cho ý nghĩa câu chuyện sâu sắc hơn.

Làm một thống kê nhỏ về số lượng các thành ngữ, tục ngữ có trong một số phóng sự viết về nông

thôn, ta thấy: Cơm thầy cơm cô (64 trang), số lượng thành ngữ, tục ngữ là 44-1, Một huyện ăn Tết (20

trang) là 25-6, Việc làng (98 trang) là 19-1, Túp lều nát (132 trang) là 20-1, Đồng quê

(198 trang) là 37-1.

(Con số thống kê của Cơm thầy cơm cô, Một huyện ăn Tết và Việc làng trích trong Luận án Tiến si

văn học của của TS Nguyễn Hoài Thanh.)

Qua những con số thống kê trên, một vấn đề đặt ra là vì sao các nhà phóng sự lại khai thác triệt để

nguồn thành ngữ tục ngữ nông thôn như vậy ?

Trước hết, do thành ngữ và tục ngữ có tính hình tượng và khái quát cao, việc sử dụng thành ngữ,

tục ngữ không chỉ làm tăng sắc thái biểu cảm của câu văn mà còn lột tả hết bản chất của đối tượng

miêu tả, làm cho người đọc hiểu hết tận ngọn nguồn của vấn đề. Thành ngữ tục ngữ phù hợp với sự

diễn tả một cách sống động đối tượng vừa có khả năng làm rõ những vấn đề bị che lấp. Mặt khác, chất

khẩu ngữ có trong thành ngữ, tục ngữ làm cho lời văn đời hơn, chất hiện thực của phóng sự cao hơn,

phong phú hơn. Vì thế các nhà phóng sự ưa dùng và dùng thành thạo những thành ngữ, tục ngữ như là

những phương tiện quí báu của ngôn ngữ dân tộc để tạo ra những lời văn, một lối phô diễn cực mạnh.

Đây là sự lựa chọn khôn ngoan làm cho ngôn ngữ phóng sự “áp sát” đời sống hơn các thể loại khác

như tiểu thuyết, truyện ngắn.

Có thể nói, những trang phóng sự viết về nông thôn tươi rói một thứ ngôn ngữ đời sống. Khẩu ngữ

hằng ngày, thành ngữ, tục ngữ, từ địa phương … xuất hiện đậm đặc trong phóng sự của Ngô Tất Tố,

Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Phi Vân… đã làm cho những phóng sự viết về nông thôn luôn ngân

vang những thanh âm của cuộc sống, luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người đọc. Thói quen ưa

sử dụng và sử dụng thành thạo, sáng tạo những phương tiện ngôn ngữ tiếng Việt của những “tay ngôn

luận xuất sắc” đã góp phần không nhỏ vào việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.

3.3.1.3. Kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học

Là những nhà văn chiếm lĩnh và sử dụng ngôn từ như một nghệ thuật, các phóng sự viết về

nông thôn đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ báo chí thể

hiện tính chính luận, đảm nhiệm chức năng thông tin còn ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ nghệ thuật. Sự

kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu thông tin với ngôn ngữ văn học giàu hình

ảnh, đậm sắc thái trữ tình chính là biểu hiện của tính hiện đại của ngôn ngữ văn học, bởi lẽ sự kết hợp

độc đáo này chưa từng xuất hiện trong văn học xưa nay.

Phóng sự Đồng quê của Phi Vân thực sự lôi cuốn người đọc nhờ sự kết hợp kì diệu những ngôn

ngữ gợi cảm, giàu chất tạo hình của văn học với ngôn ngữ báo chí. Khung cảnh làng quê Nam Bộ qua

ngôn ngữ miêu tả của Phi Vân vừa thanh bình, vừa lãng mạn và thi vị biết bao:

Bên vàm, hàng dừa nước âm u lâu lâu thấy le lói một ánh đèn; bên bờ kia thình thoảng nghe

tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay chỉ có vành trăng hai mưoi bốn, nhưng sao

đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh vật thêm ảo huyền, thơ mộng. Một làn gió nhẹ

thoảng qua, tâm thần tôi thêm khoái sảng. Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một

điệu hò mê ly, đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong lặng lẽ … [89, tr.72-73].

Những đoạn văn giàu chất văn này xuất hiện bên cạnh những thông tin có tính thời sự, nóng hổi đã

làm dịu đi cảm giác căng thẳng, gai góc mà hiện thực cuộc sống đem lại, nó thanh lọc tâm hồn làm cho

con người có những giây phút diệu kỳ và đáng yêu, đáng sống.

Không chỉ ở Đồng quê, Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai cũng là kết quả của sự kết hợp hoàn hảo,

diệu kì của ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Giữa không khí nặng nề của những “Tiếng dân

kêu” mà ngôn từ của báo chí đem lại, tác giả cũng dệt lên những áng văn với những ngôn từ văn học

mượt mà, giàu cảm xúc: “trong lúc đi dạo bờ sông ngắm cảnh thì một tiếng hát ru em của một đứa trẻ

từ trong nhà này văng vẳng đưa ra làm cho tôi để ý. Tiếng hát khô khan không cảm xúc mà bài hát là

bài hát dặm Nghệ Tĩnh cứ kéo dài một điệu đều đều năm tiếng một, nó mới buồn làm sao.” [4, tr.72]

Cùng với Phi Vân, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi… Ngô Tất Tố nổi bật với những đóng góp

nhất định về ngôn ngữ. Bên cạnh ngôn ngữ sự kiện vốn có của một bài báo, phóng sự của Ngô Tất Tố

còn thành công nhờ sử dụng những ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc của văn học. Thử đọc một

đoạn văn ông miêu tả cảnh một ngày hạn hán trong Tập án cái đình:

Mới vắng mùa xuân bốn ngày, trời đất đã thấy khác hẳn. Hai tiếng “lò cừ” của Cung oán

ngâm khúc có lẽ chỉ vào vũ trụ hôm nay. Hôm nay ông thần hạn bạt đã báo thù trần gian

một cách tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất

tuy không chảy mỡ, nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt. Bãi cỏ vệ đường vệ đường lúc này đã

thành ra vật cần dùng cho khách bộ hành. Nhờ nó, gót chân những người không dép không

giày cũng bớt rát bỏng.” [3, tr.109-110]

Với những từ ngữ miêu tả sinh động, hình ảnh phong phú, người đọc có cảm giác như đang đứng

trước một khung cảnh khắc nghiệt của tiết trời vào những ngày hè nóng như nung chứ không phải đang

đọc một thiên phóng sự.

Ngoài lớp ngôn ngữ truyền thống, lớp ngôn ngữ mang tính hiện đại của văn học còn thể hiện ở

những từ ngữ hiện đại, cú pháp hiện đại. Các nhà phóng sự sử dụng một cách năng động lớp từ vựng

mới mẻ này nhằm tăng hiệu lực cho việc miêu tả, thuật kể hay bày tỏ tư tưởng tình cảm, sự đánh giá về

hiện thực. Có khi các nhà phóng sự còn Việt hoá một số từ nước ngoài như: mốt Phi-lu-dốp, gác-

măng-re (Cơm thầy cm cô)… Đây là biểu hiện của tính hiện đại trong lời văn phóng sự.

Câu văn hiện đại cũng bắt đầu xuất hiện. Đó là những câu có sự gọt giũa theo kiểu của câu văn hiện

đại, kết cấu nhiều thành phần nhưng chặt chẽ, sáng rõ, chứa đựng nhiều hàm lượng thông tin, nhưng

không vần vè như câu khẩu ngữ, không gò bó như câu biền ngẫu. Chẳng hạn:

- Chính ra, nó rất nhiều chuyện thương tâm...Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng

khô cỏ héo đến đây để chết đói lần thứ hai, sau khi bỏ cửa bỏ nhà; nó đã làm cho giá con

người phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hoả lò và

bọn trẻ cái đi làm nghề mãi dâm!” [62, tr.115]

- Nếu đứng giữa, ta nhìn được khắp xung quanh, đó là một câu phương ngôn Âu Tây. Tôi xin

nói ngay rằng không phải Tôi đã đứng giữa huyện đường mà biết được một huyện ăn Tết

[63, tr.545].

Bên cạnh những câu nhiều thành phần, xuất hiện nhiều câu mở rộng thành phần chêm xen, câu đảo

trật tự cú pháp… Nguyễn Đổng Chi đã nhiều lần cho xuất hiện “thực đơn” mới trong cấu trúc câu đem

lại những “món ăn khoái khẩu” cho người đọc:

- Với tập phóng sự này tôi đã dụng công hơn năm tháng trời để nhìn, để nghe những cảnh

tượng mà tôi không thể tin được là có xảy ra – và xảy ra luôn – ở trên dải đất có đến hai

Chính phủ trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc.[4, tr.11].

Thành phần chêm xen xuất hiện trong câu có tác dụng làm sáng rõ hoặc nhấn mạnh hơn vấn đề cần

tập trung diễn đạt.

Phi Vân vượt xa lối viết của Hồ Biểu Chánh khi đoạn tuyệt với những câu văn biền ngẫu, sóng đôi

để đến với những câu văn hiện đại hơn: “- Tắm, chúng muốn trấn nước thầy? Thầy là một con rái, hiên

ngang hoạt động dưới nước nước như trên bờ!...” [89, tr.92]. Việc đảo cú pháp, trật từ từ làm cho câu

văn mới lạ, hấp hẫn hơn.

Hình thức hiện đại của các câu văn hàm chứa một tư duy mới mẻ, hiện đại. Chính cách nghĩ, nếp

cảm hiện đại đã chi phối cách chọn từ, lập ý, cách diễn đạt trong lời văn.

Được viết lên bởi những tên tuổi lớn trong văn xuôi thời kì hiện đại, giá trị bền vững của các phóng

sự viết về nông thôn có phần đóng góp xứng đáng của nghệ thuật thể hiện, nghệ thuật ngôn từ. Những

áng văn mượt mà, những ngôn từ mới lạ, giàu hình ảnh xuất hiện bên cạnh những vấn đề có tính thời

sự, gai góc đã làm “mềm” đi mạch văn, làm cho người đọc say sưa, hứng thú. Chính điều này đã tạo

nên chất văn cho các tác phẩm phóng sự. Với cách sử dụng ngôn ngữ có sự kết hợp nhuần nhị giữa

ngôn ngữ báo chí giàu thông tin và ngôn ngữ văn chương giàu hình ảnh như vậy, nghệ thuật miêu tả

trong các thiên phóng sự đã đạt đến mức hoàn hảo xứng đáng là những mẫu mực của văn học một thời.

3.3.2. Giọng điệu trần thuật

Giọng điệu cần thiết cho việc sắp xếp liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho tác phẩm có

cùng một âm hưởng, một khuynh hướng nào đó. Giọng điệu của một tác phẩm thể hiện thái độ, tình

cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của người kể chuyện với các hiện tượng sự kiện được miêu tả. Mỗi

tác phẩm, mỗi tác giả, mỗi nhân vật trong các phóng sự về nông thôn 1930 – 1945 có một giọng điệu

riêng tạo nên một bản hợp xướng đa giọng điệu. Đây là điểm nổi bật nhất trong giọng điệu trần thuật

của các phóng sự giai đoạn này.

3.3. 2.1 Giọng mỉa mai, châm biếm

Khi phải chứng kiến những cảnh tượng chướng tai gai mắt đến mức “không thể chịu nổi”, giọng

mỉa mai châm biếm mới bật lên trên từng trang phóng sự. Giọng điệu gai góc này đã “tung ra” những

ngón đòn bí hiểm để lột mặt nạ những tiêu cực, những quái gở còn tồn tại.

Chẳng hạn, trong chương Những người thay mặt công chúng (Túp lều nát), Nguyễn Trần Ai kể về

một tấn tuồng bi thảm, về nỗi nhục của các tổng lý khi đến tiễn biệt một quan đồn Pháp đổi đi nơi

khác. Những cái bắt tay, nụ cười, bó hoa, những cái nghiêng mình chào đón, những bộ trang phục

chỉnh tề, tinh tươm, tiếng xilôxila của thông ngôn dịch …“nếu chỉ có thế thì cuộc tiễn đưa nó đẹp đẽ,

nhã nhặn biết bao nhiêu”, giọng văn bắt đầu nhen nhóm điệu mỉa mai khó chịu. Khung cảnh lịch lãm

nhường chỗ cho sự nhố nhăng vô văn hoá khi vị quan binh bất thình lình ném ra những vật huỷ bỏ như

cái lược, hộp thuốc nhỏ, và cả chiếc quần cộc đen. “Thế là cả chục người đại diện của dân đều bỏ ghế

ngồi, xúm lại bên ngoài cửa sổ, cánh tay giơ lên trời nhâu nhâu lên như, than ôi! Thế bất đắc dĩ, như

một bầy…chó”[4, tr.95]. Họ giằng xé nhau, mừng rú lên khi nhặt được của quí rồi bỏ túi liền trước

mấy chục con mắt thèm thuồng. “người ta chen lấn nhau, người ta toá mồ hôi, người ta toạc áo. Cảnh

tượng diễn ra in hệt như cảnh tượng một bọn trẻ con liếm le liếm chảo trong ngày hội Cát-tó”. Họ

giằng cướp nhau, quan đồn phải ra can thiệp thì vật đang giằng co bị đứt làm hai mảnh, giở ra thì là

một chiếc tất thủng! Cảm nhận sâu sắc nỗi nhục của người bản xứ, Nguyễn Trần Ai châm biếm cảnh

tượng nhố nhăng đó bằng giọng điệu mỉa mai róng riết. Giọng văn miên man khắc khoải đau đáu về

những tâm hồn Việt, những nhân cách Việt. Không chỉ thế, sự châm biếm này còn làm người đọc vụt

lên một niềm tự ái dân tộc, về lòng tự trọng đang bị đánh mất.

Giọng điệu mỉa mai sâu cay không chỉ có trong phóng sự của Nguyễn Trần Ai mà còn xuất hiện

khá nhiều trong phóng sự của Ngô Tất Tố. Giọng điệu này bật ra mạnh mẽ từ những hủ tục lạc hậu,

những lễ nghi kì dị, phản nhân văn mà bọn thống trị bày ra để bóc lột nhân dân. Rõ nhất là khi đọc

chương “Ông thần hoàng bị cách rồi” (Tập án cái đình), giọng điệu mỉa mai châm biếm bật ra từ

những ngôn từ kể về thành hoàng: “ngài là người Về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường khoét

ngạch thế nhưng ngài cũng bị bắt và bị xử tử” [53, tr.148]. Tác giả mỉa mai bằng tiếng cười hài hước,

cười các ngài mà dân làng tôn kính, sùng bái chẳng qua chỉ vì ngài chết được vào giờ linh. Giọng văn

giễu nhại, ngôn từ gai góc ấy có sức công phá mạnh mẽ đối với những hoạt động vô bổ của làng:

“mười bốn tháng tám chính là cái ngày ngài phải hy sinh tính mệnh cho nghề nghiệp, vì thế hằng năm

cứ đến ngày ấy dân làng phải diễn một cuộc xuyên tường tạc bích để kỷ niệm sự nghiệp của ngài” [53,

tr.149].

Ngược dòng thời gian, trở về với bối cảnh những năm tháng 1930-1945, khi đọc những phóng sự

này, người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng vì sau luỹ tre xanh toàn những chuyện buồn, những cái

tiêu cực đang xâu xé cuộc sống người nông dân. Làm sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước thực tại?

Nguyễn Trần Ai, Phi Vân, Ngô Tất Tố… đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật, thức

dậy những lương tri hướng vọng về những sự tốt lành. Giọng văn mỉa mai sâu cay xuất hiện trong các

phóng sự phần nào thể hiện dũng khí mạnh mẽ của các nhà phóng sự, thể hiện khí chất của những nghệ

sĩ anh hùng.

3.3.2.2. Giọng sắc sảo, đanh thép

Từ những hiện thực đau lòng, tủi hổ, các nhà phóng sự riết róng đi tìm căn nguyên của mọi vấn đề

và dễ dàng hiểu được sự thống trị của thực dân, cái nghèo và thiếu hiểu biết chính là nguyên cớ dẫn

đến những cảnh tượng xót xa. Miên man khắc khoải đau đáu hướng về một xã hội tốt lành, họ cất lên

trong từng trang phóng sự một giọng văn sắc sảo đanh thép, giọng điệu đó thường xô đẩy, va xiết trong

mỗi lần tranh luận, hùng biện. Tất cả đều phải “chạm nọc” vấn đề, kích động, chất vấn từ đó toát lên

khuynh hướng tư tưởng của vấn đề.

Người đọc không thể quyên được những đoạn văn đầy sức ám ảnh trong Túp lều nát: “Thì ra ở

đây, ở chính dưới ách bọn tổng lý, luật pháp là một nhà võ sĩ què hết cả tay chân, mà công lý là một cố

lão mù tịt.”[4, tr.100]. Hay ở một chương khác, cũng một giọng văn đanh thép, đay đả, rỉa rói. Nguyễn

Trần Ai đã mượn lời của một người bạn để nói rõ ý đồ của mình là muốn lập lại việc làng, một túp lều

khác:

Cái làng ở xã hội Việt Nam ta chỉ là một túp lều nát mà người ta không chịu làm lại một túp lều

khác, chỉ hà tiện giọi vài cái tranh, chắp vài đoạn mèn, buộc ít sợi lạt, cố duy trì nó lại mà chui đụt.

Như vậy mà bảo còn chui đụt làm sao được? Phi làm lại một túp lều khác thì hòng còn chỗ trú

chân…[4, tr.123]

Sắc sảo và thời sự, tính chính luận chặt chẽ kết hợp sự hài hước châm biếm thâm thuý là “cốt cách

thâm hậu” của phóng sự Ngô Tất Tố. Được đánh giá là “một tay ngôn luận sắc sảo trong đám nhà

Nho”, Ngô Tất Tố không chỉ không chỉ truyền đạt những thông tin chính xác mà còn dũng cảm, trung

thực và thẳng thắn kiên quyết chống lại những bất công ngang trái. Giọng điệu sắc sảo đanh thép bật ra

trong từng câu chữ khi ông “chỉ mặt gọi tên” hậu quả của những việc làng: “Những việc tôi làm, bất kỳ

việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời

nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con, đành phải để nó dốt nát.

Ông bảo là vì cớ gì? Ấy là lỗi gánh việc làng.” [53, tr.12]. Với khí tiết của một nhà Nho yêu nước và

tiến bộ, với trí tuệ sắc sảo và nhiệt tình chiến đấu của một ngòi bút châm biếm, ông thẳng thắn chỉ rõ

rằng: “Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa nó vẫn có thể thay đổi..”[53, tr.13]. Giọng điệu

khảng khái này thể hiện thái độ dũng cảm, thẳng thắn của ngòi bút luôn đấu tranh chống lại xã hội thực

dân phong kiến chà đạp lên cuộc sống của con người. Thuộc thế hệ những nhà Nho cuối mùa như

Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Quế Lâm. Mai Đăng Đệ…nhưng có thể nói Ngô Tất Tố đã vượt xa các

nhà Nho cùng thời. Ông không chỉ cho ra đời những câu văn điền viên vui thú hay “cải lương hương

chính” mà còn hít thở cái không khí tranh đấu tiến bộ của K. Marx. Kiến thức học được nơi cửa Khổng

sân Trình cùng với những tư tưởng tiến bộ của thời đại mới đã chỉ đường cho ông hoà mình vào cuộc

sống của nhân dân và thực sự trở thành người bạn đường tin cậy của nông dân nghèo Việt Nam trước

Cách mạng.

Nói về những hiện thực đen tối, các nhà phóng sự không tò mò một cách vô thức, không nói cho

thoả thuê, cho bõ tức bỏ ghét, không nhìn soi mói mà nói với nỗi lo lắng, với trách nhiệm công dân,

với khát vọng loại trừ nó ra khỏi cuộc sống. Họ đem lại cho người đọc sự phẫn nộ của cả tình cảm và

lý trí. Và tất nhiên có niềm tin và hy vọng. Tất cả bản lĩnh và trí tuệ sắc bén ấy đều được thể hiện bằng

một giọng điệu sắc sảo, đanh thép trong từng trang phóng sự.

3.3.2.3.Giọng cảm thông, thương xót

Không chỉ khách quan lạnh lùng, các phóng sự về nông thôn vẫn luôn thức dậy một niềm cảm

thông sâu sắc đối với những cảnh đời tội nghiệp của người nông dân sau luỹ tre làng.

Trong Cơm thầy cơm co, nhìn lũ lượt những đoàn người từ quê nghèo lên thành phố kiếm sống

bằng một con mắt ái ngại, cảm thông, nhà văn họ Vũ không khỏi xót xa:

Họ đến là vì tại những thôn quê họ không làm gì cho đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã

cất tiếng gọi họ, cám dỗ họ. Khi ra đi, chắc họ cũng không ngờ đến nông nỗi này. Họ chắc

mẩm trong bụng họ là sẽ có việc làm vẻ vang…Có lẽ họ đã phơi nắng, phơi mưa xin từng

đồng trinh, từng bát cơm, cùng đường rồi mới đến được Hà Nội.[62, tr.144].

Giọng văn của Vũ Trọng Phụng tràn đầy trắc ẩn và cảm thương đối với những người dân quê dại

dột. Nỗi thương cảm ấy trào dâng trong những lời văn hết sức cảm động.

Cùng với Cơm thầy cơm cô, thiên phóng sự Túp lều nát cũng bàng bạc một giọng văn cảm thông,

thương xót. Đọc phóng sự này, người đọc luôn bị ám ảnh bởi những nghịch lý trớ trêu mà người nông

dân phải gánh chịu. Nhà nghiên cứu Phong Lê nhận xét : “Mục đích viết của tác giả – như trong lời

dâng tặng, và như được trình bày trong suốt 48 trang là đưa ra các tài liệu, các minh chứng cho luật

pháp soi xét; là lời khẩn nguyện luật pháp có mặt; nhưng chính tác giả đâu có tin vào pháp luật, cả 13

chương kể, chương nào cũng đau đớn, cũng oan ức, cũng thương tâm.”[4, tr.131]. Vì thế nên chương

Những người thay mặt cho công chúng là dịp để tác giả bộc lộ nỗi lòng bằng một giọng điệu xót xa:

…mới thuật qua loa vài câu chuyện đủ làm cho tôi rùng mình. Thật là một trang thảm sử.

Mỗi một lời nói là một dòng nước mắt, khiến cho bây giờ cầm bút chép lại câu chuyện này,

lòng tôi vẫn còn hồi hộp và bàn tay không điều khiển nổi ngòi bút, vẫn còn run run như cầy

sấy. [4, tr.100].

Thương xót, cảm thông còn là giọng văn thường gặp trong những “áng văn hoàn toàn phụng sự dân

quê” của Ngô Tất Tố. Đằng sau vẻ như dửng dưng, lạnh lùng là một giọng văn thấm đẫm nỗi cảm

thông sâu sắc của Ngô Tất Tố khi thấy người nông dân đang oằn lưng làm nô lệ cho những hủ tục kì

quái. Miêu tả niềm hạnh phúc của bác Cả Mão, một gia đình thuộc dân ngụ cư nay đã có ngôi ở đình:

“cháu đã có ngôi ở đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc làng của nó”. Niềm vui thật giản

dị, hiền hậu biết bao, nhưng nó phải đánh đổi thật lớn: “tất cả tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non

non một trăm còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả”. Là nạn nhân của hủ tục, những

người nông dân ấy bị lừa đảo mất cả cơ nghiệp mà vẫn đang vui sướng hả hê làm người đọc chua xót.

Giọng văn bộc lộ nỗi xót thương thật sâu sắc cái tâm lý hiếu danh, chính sự thiếu hiểu biết này khiến

họ bị khinh khi, bị lợi dụng mà không thấy nhục.

Chúng ta đã quá quen với những hình ảnh người nông dân nghèo bị bóc lột trong các tiểu thuyết

như Chị Dậu (Tắt đèn-Ngô Tất Tố), anh Pha (Bước đường cùng-Nguyễn Công Hoan), nay lại chứng

kiến hình ảnh những nông dân bị tha hoá méo mó nhân cách trong các phóng sự. Tất cả đều khiến ta

xúc động, phẫn uất. Mang được cảm xúc đó đến với độc giả, các nhà phóng sự phải thực sự thấu hiểu,

thực sự đồng cảm. Bằng một giọng văn tràn đầy cảm thông thương xót, các phóng sự này đã truyền

đến độc giả một niềm xót xa, một nỗi đau âm ỉ, nhức nhối cứ ngấm dần và ngấm sâu.

Có thể nói, thành công lớn trong nghệ thuật viết phóng sự không thể không kể đến những giọng văn

đa dạng của các tác phẩm. Tính đa giọng điệu này đã góp phần tạo nên bản hợp ca muôn điệu cho các

phóng sự về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Nó đã thể hiện phần nào tư tưởng, tình cảm của

các tác giả về cuộc sống muôn màu ở nông thôn, đồng thời góp phần hoàn thiện bức tranh đời sống

người nông dân trong văn học Việt Nam nói chung, giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng. Đó chính là thành

công lớn nhất, là đóng góp có giá trị của các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này.

KẾT LUẬN

Việc tiếp thu di sản phóng sự thời kì 1930 – 1945 không thể không nhắc tới mảng phóng sự về

đề tài nông thôn. Với đề tài này, các phóng sự đã để lại một kho tư liệu quí giá về hiện thực xã hội

nông thôn và những kinh nghiệm có giá trị về nghệ thuật làm phóng sự ở nước ta. Mặt khác, sự bùng

nổ trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây rất cần sự tiếp sức kinh nghiệm của quá khứ. Vì

thế, tìm hiểu những giá trị và hạn chế của mảng phóng sự này có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn

sáng tác hiện nay của thể phóng sự. Đồng thời có cái nhìn đầy đủ hơn về nông thôn Việt Nam và văn

học dân tộc giai đoạn 1930 – 1945.

Gần một thế kỷ qua, lịch sử nghiên cứu những phóng sự viết về nông thôn diễn ra khá sôi nổi.

Trong đó, những ý kiến phủ định sạch trơn hay ngợi ca một chiều đã nhường chỗ cho những đánh giá

khách quan, khoa học, từ đó chỉ ra những đóng góp và hạn chế trong nhận thức của các nhà phóng sự.

Những chân dung phóng sự viết về nông thôn được nhìn nhận một cách đầy đặn, hài hoà đã đủ để mở

rộng biên độ của một giai đoạn và khảo sát ở cấp độ một đề tài.

Đầu thế kỷ XX, nhu cầu cấp bách của xã hội, những tiền đề văn hoá, sự trưởng thành của văn

học, ảnh hưởng phóng sự nước ngoài… là những yếu tố đã hội tụ đủ để thể phóng sự chính thức hình

thành. Chỉ với 15 năm, nhiều phóng sự xuất sắc với những tên tuổi đầy tài năng đột ngột phát sinh và

chói sáng trên văn đàn dân tộc góp phần hiện đại hoá diện mạo văn xuôi hiện đại. Gần một thế kỷ đi

qua, phóng sự phát triển với nhiều biến thái nổi chìm, nhưng trong thời kỳ lịch sử sang trang, cuộc đổi

mới văn học đã làm phóng sự hồi sinh và thăng hoa một cách mạnh mẽ, kỳ diệu. Phóng sự ngày càng

phát huy vai trò xung kích trên mặt trận báo chí và văn học, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây

dựng đất nước.

Là thể “tân văn” của văn xuôi thời kì hiện đại, lý luận về phóng sự từng bước được hình thành

một cách rạch ròi và cụ thể hơn: từ chỗ được xem là thể đứng giữa văn học và báo chí, phóng sự được

nhìn nhận là thể kí trong báo chí và văn học. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học dù khác nhau về

mức độ xác thực, tính thời sự, về cái Tôi trần thuật, về ngôn ngữ… nhưng đều có điểm chung là lấy

người thật việc thật để phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng.

Những hiện thực nóng hổi còn khuất lấp sau luỹ tre xanh yên ả đã lọt vào tầm ngắm của các nhà

phóng sự. Ống kính của họ soi rọi và nhanh chóng chụp lấy những tiêu cực đang xâu xé cuộc sống của

người dân. Tuy số lượng tác phẩm khiêm tốn, nhưng phóng sự viết về nông thôn đã có những tác phẩm

giá trị với những tên tuổi bậc thầy. Những thiên phóng sự này cứ lặng lẽ, âm thầm thức dậy những

lương tri lành mạnh, cảnh tỉnh xã hội, hướng tới một xã hội công bằng, văn minh với một niềm tin và

hy vọng.

Nội dung hiện thực trong các phóng sự về nông thôn biểu hiện ở bức tranh phong cảnh và

phong tục. Hai phong cảnh với những mảng màu đối lập: nông thôn Bắc Bộ khắc nghiệt, dơ bẩn, lạc

hậu, đói nghèo và nông thôn Nam Bộ tươi tắn, nên thơ. Những phong tục truyền thống mang đậm bản

sắc văn hoá như sinh hoạt lễ hội, những phong tục tập quán độc đáo… được các thể hiện sinh động

trong các phóng sự.

Bên cạnh đó, bức tranh hiện thực xã hội và con người hiện lên với những tệ nạn xã hội nhức

nhối và những hủ tục lạc hậu. Những cảnh đời đói nghèo cùng quẫn, nạn nhân của hủ tục lạc hậu,

những con người tha hoá, tệ tham nhũng… là hệ quả tất yếu của cuộc sống ngột ngạt, đói khát, lạc hậu

và tủi nhục của những công dân mất quyền tự do dân chủ. Tất cả hiện thực đó đều được phanh phui,

lộn trái với quan điểm nhìn thẳng, nói thật của các nhà phóng sự.

Cảm hứng tư tưởng của các phóng sự là luôn thẳng thắn vạch trần và tố cáo, nhưng điều đáng

nói là không phải nói cho bõ tức hay thoả mãn sự xoi mói một cách thoả thuê mà vạch trần cái tiêu cực

với trách nhiệm công dân, với khát vọng về một xã hội tốt đẹp và với lòng tự trọng dân tộc sâu sắc.

Các phóng sự đã tô đậm lòng cảm thương sâu sắc về những số phận bất hạnh để người đọc cùng sẻ

chia đồng thời gieo mầm cho những tấm lòng nhân ái cảm thông, biết đau những nỗi đau với đồng loại.

Cảm hứng ngợi ca thấm đẫm trong từng trang văn phóng sự cũng là một biểu hiện về lòng tự

hào dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước. Nếu như người đọc bức bối, mệt mỏi khi phải chứng kiến

ca phẫu thuật những ung nhọt của xã hội thì sẽ cảm thấy vô cùng thích thú và tự hào khi ngắm nhìn vẻ

đẹp làng quê với những phong tục truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá. Tuy nhiên, những phóng

sự này vẫn còn bộc lộ những hạn chế như sự bi quan bế tắc về thời cuộc và phẩm chất con người, nhận

thức chính trị còn mơ hồ lệch lạc, số ít còn mô tả nhân vật pha màu sắc tự nhiên chủ nghĩa.

Về nghệ thuật, các nhà phóng sự tỏ ra hết sức tinh tế khi tuyển chọn những vấn đề nóng hổi từ

vô vàn “những điều trông thấy”, năng động trong cách tiếp cận hiện thực để có nhiều góc nhìn khác

nhau, từ đó tìm được cội nguồn bản chất của những hiện tượng phức tạp của cuộc sống, con người và

xã hội. Họ còn rất sáng tạo trong khai thác tư liệu, tinh vi trong nghệ thuật điều tra để có những tư liệu

“sống”. Từ đó cung cấp thông tin đến với người đọc kịp thời, chính xác và có tính thuyết phục cao.

Nghệ thuật trần thuật được các nhà phóng sự đặc biệt chú ý. Các phóng sự có kết cấu hết sức đa

dạng: xoay quanh một chủ đề, theo nhân vật hay cốt truyện… Người đọc còn bị thuyết phục bởi những

lối thuật kể hết sức linh hoạt, thông minh và uyển chuyển. Cách xây dựng các điểm nhìn trần thuật đa

dạng và đầy biến hoá đã khắc hoạ tới những ngóc ngách sâu thẳm của thế giới nội tâm con người đồng

thời giúp người đọc thấu sâu hơn những lớp ý nghĩa của hiện thực cuộc sống.

Với những lời văn mang đậm chất khẩu ngữ, phóng sự trở nên gần với hơn đời sống con người.

Đặc biệt, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ báo chí với ngôn ngữ văn chương đã làm cho phóng

sự hoà quyện nhuần nhuyễn chất tư liệu thời sự với chất văn học đậm đà. Cùng với ngôn ngữ, giọng

điệu trong các phóng sự cũng hết sức đa dạng: lúc thì mỉa mai châm biếm, lúc thì sắc sảo đanh thép,

khi lại giàu sự cảm thông chia sẻ….Tất cả tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật hết sức độc đáo và ấn tượng cho

các thiên phóng sự.

Với mong muốn đem lại một cái nhìn khái quát cho phóng sự về đề tài nông thôn giai đoạn

1930 – 1945, luận văn này đã tiến hành khảo sát trên cả bình diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật viết

phóng sư. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu này có thể chỉ là sự thử nghiệm. Giá trị nhiều mặt của

những phóng sự này có ý nghĩa không chỉ đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà còn đối với

một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá hết toàn diện di sản phóng sự

này, cần một lối tiếp cận kết hợp giữa văn học và các ngành khác như ngôn ngữ học, báo chí, sử học,

tâm lí học, xã hội học, dân tộc học...

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tuấn Anh – Bích Thu (chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam

từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, NXB Văn học, Hà Nội.

2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Tiểu luận phê bình, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

3. M Arnaudop(1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học, Hà Nội.

4. Nguyễn Đổng Chi (1997), Túp lều nát, NXB Văn học, Hà Nội.

5. Đức Dũng(1996), Các thể ký báo chí, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.

6. Trần Hữu Dũng, Phi Vân – nhà văn đồng quê rặt ròng Nam Bộ. http://vannghesongcuulong.org.

7. Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ (1999), Bước đường phát triển tư tưởng nghệ thuật của Ngô Tất

Tố, NXB Hội nhà văn , Hà Nội.

8. Nguyễn Đức Đàn – Phan Cự Đệ (1962), Ngô Tất Tố, NXB Văn hoá, Hà nội.

9. Phan Cự Đệ – Trần Đình Hượu – Nguyễn Trác – Nguyễn Hoành Khung – Lê Chí Dũng – Hà Văn

Đức (1998), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Phan Cự Đệ (chủ biên), Trần Đình sử, Đinh Văn Đức, Mã Giang Lân, Phan Trọng Thưởng, Bùi

Việt Thắng, Hà văn Đức, Bích Thu, Lê Dục Tú (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

11. N. Đuytơre (1990), Hà Minh Đức, Báo Văn nghệ (Hà Nội) số 21, tháng 5.

12. Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học (tái bản) NXB Giáo dục Hà Nội.

13. Hà Minh Đức (1990), Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, NXB Quân

đội nhân dân, Hà Nội.

14. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo, Văn học, học văn, Trường

viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.

15. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Năm bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

16. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - học văn, Trường CĐSP TP HCM – Trường viết văn Nguyễn

Du, TPHCM.

17. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Tăng cường tính chính xác trong nghiên cứu văn học, Các vấn đề của

khoa học văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

18. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội – NXB Mũi Cà Mau.

19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học, NXB Thế giới, Hà Nội.

20. Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn) (2001), Ngô Tất Tố – một tài năng lớn đa dạng, NXB Văn

hoá Thông tin, Hà Nội.

21. Mai Hương – Tôn Hương Lan (2001), Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.

22. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 20, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội.

23. Phan Khôi (1956) “Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng”, Vũ Trọng Phụng với

chúng ta, Minh Đức xuất bản, Hà Nội.

24. M. B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB

Đại học quốc gia, Hà Nội.

25. Nguyễn Hoành Khung- Lại Nguyên Ân (1994), Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm, NXB

Hội nhà văn, Hà Nội.

26. Tam Lang - Trọng Lang - Hoàng Đạo (1995), Phóng sự chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

27. Tam Lang (1974), Tôi kéo xe, NXB Đất mới, Sài gòn.

28. Trọng Lang (2002), Làm dân, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

29. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 1 và 3, NXB Văn học – Hội nghiên cứu và

giảng dạy văn học, TP HCM.

30. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932 – 1945, NXB Khai Trí, Sài Gòn.

31. Nguyễn Đình Lạp (1990), Ngõ hẻm, NXB Văn học, Hà Nội.

32. Nguyễn Đình Lạp (1997), Ngoại ô, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.

33. Nguyễn Đình Lạp (1995), Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

34. Mã Giang Lân (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24B, NXB Khoa học xã hội, Hà

Nội.

35. Tùng Lâm, Ngô Tất Tố - Một tay ngôn luận xuất sắc. HTTP://www.nghebao.com.

36. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam thời đại mới. NXB Giáo dục, Hà Nội..

37. Vũ Đình Liên – Đỗ Đức Hiểu – Lê Trí Viễn – Huỳnh Lý – Trương Chính – Lê Thước (1957),

Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, NXB Xây dựng, Hà Nội.

38. Trịnh Bích Liên (2007), Những biến thiên của Phóng sự Việt Nam từ 1930 đến trước thời kỳ Đổi

mới. Tạp chí NCVH số 4, Hà Nội.

39. Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam – Thành Thế Thái Bình (1998), Lý luận văn học, tập 3, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

40. Phương Lựu – Trần Đình Sử – Lê Ngọc Trà(1987), Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà

Nội.

41. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

42. C.Mac – F Ănghen – V.I. Lênin (1958), Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội.

43. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

44. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Chân dung và phong cách. NXB Văn học, Hà Nội.

45. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Trường Đại học sư phạm Hà

Nội.

46. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30B, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

47. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Tinh tuyển văn học Việt Nam”, tập 7, quyển 1, Trung tâm KHXH

và NV Quốc gia.

48. Nguyễn Đăng Mạnh (1989), Vũ Trọng Phụng, “ông vua phóng sự” – Lời giới thiệu phóng sự Kỹ

nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội.

49. Tô Thảo Miên (2005), Vũ Trọng Phụng – “người thư ký của thời đại”, Tạp chí nghiên cứu Văn

học số 2 (396) tháng 2, Hà Nội.

50. Vũ Thị Thanh Minh (2006), Một số đặc điểm của phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, Tạp

chí nghiên cứu văn học số 9, Hà Nội.

51. Lã Nguyên (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8. NXB Đại học quốc gia, Hà

Nội.

52. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn

học, số 4, Hà Nội.

53. Phạm Thị Ngọc –Nguyễn Anh Vũ (tuyển chọn) (2002), Ngô Tất Tố - Việc làng – tác phẩm và dư

luận, NXB Văn học, Hà Nội.

54. Nhiều tác giả (1992), Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam xuất bản, Hà

Nội.

55. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, tập 1 và 2, NXB Văn học, Hà Nội.

56. Thế Phong (1996), Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang, NXB Văn hoá

thông tin, TP HCM.

57. Bùi Huy Phồn (1962), Phóng sự – một thể văn xung kích, Văn nghệ Hà Nội số 63, tháng 8, Hà

Nội.

58. Bùi Huy Phồn (1958), Đọc lại việc làng, Tạp chí Văn Nghệ số 8, Hà Nội.

59. Vũ Đức Phúc (1966), Bàn về các thể ký trong văn học từ cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp chí

văn học số 8, Hà Nội.

60. Vũ Đức Phúc (1976), Đặc điểm tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945, Tạp chí

văn học số 5, Hà Nội.

61. Vũ Trọng Phụng (1937), Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phương, Hà Nội.

62. Vũ Trọng Phụng (1989), Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội.

63. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, (Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá

tuyển chọn, giới thiệu), NXB Văn học, Hà Nội.

64. Cao Xuân Phượng, Phóng sự Việt thời đổi mới, www.google.com .vn

65. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXB Giáo dục, Hà Nội.

66. Thiều Quang (1957), Một chút tài liệu về Vũ Trọng Phụng, Tập phê bình, số đặc biệt về Vũ Trọng

Phụng, Hà Nội.

67. Trần Huy Quang (1985), Phóng sự (tuyển), NXB Văn học, Hà Nội.

68. Dương Xuân Sơn, Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật. NXB ĐHQG Hà Nội.

69. Mộng Bình Sơn – Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình (Khảo cứu văn học Việt Nam 1932

– 1945), NXB Văn học, Hà Nội.

70. Trần Đình Sử (1990), Bàn thêm về tiếp nhận văn học, Báo Văn nghệ, số 7, Hà Nội.

71. Trần Đình Sử – Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

72. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

73. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo viên,

Hà Nội.

74. Trần Đình Sử (1987), Truyện, ký về các sự kiện sắp xảy ra, Tạp chí văn học, số 2, Hà Nội.

75. Trần Đình Sử (chủ biên) (, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB ĐHSP Hà Nội.

76. Trần Hữu Tá (1993), Phóng sự – Một thể văn xung kích của báo chí, Báo Lao động và xã hội, số

8, ngày 25.12, Hà Nội.

77. Trần Hữu Tá (1992), Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay, NXB TP.HCM.

78. Trần Hữu Tá (1999), Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, NXB TP HCM.

79. Trần Hữu Tá (1999), Vũ Trọng Phụng “ông vua phóng sự Việt Nam” Báo Tuổi trẻ chủ nhật, tháng

10.

80. Trần Hữu Tá (sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn) (2001), Vũ Trọng Phụng – những tác phẩm tiêu

biểu. NXB Giáo dục, Hà Nội.

81. Nguyễn Hoài Thanh (1999), Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng,

Luận án tiến si Văn học, Trường Đại học KHXH&NV, TP HCM.

82. Trần Đăng Thao (2004), Đặc sắc văn chương Vũ Trọng phụng, NXB Thanh Niên, Hà Nội.

83. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn (2000), Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, tập

1, 2, 3 NXB Văn học, Hà Nội.

84. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, NXB Trẻ, TP HCM.

85. Lê Ngọc Trà (1991), Vấn đề con người trong văn học hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn học trong

sự nghiệp đổi mới (Hà Minh Đức chủ biên), NXB Sự thật, Hà Nội.

86. Huỳnh Công Tín (ĐH Cần Thơ) , Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân.

www.Viện văn học. Org.vn.

87. Cù Đình Tú (1993) Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

88. Hoàng Xuân Tuyển, “Việc làng” – “Việc nước”, http://www. Phong diep.net.

89. Phi Vân (1951), Đồng quê, NXB Bốn phương, .

90. Viện thông tin khoa học xã hội (1996), Tệ nạn xã hội – căn nguyên, biểu hiện, phương thức khắc

phục, Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.