BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH ------------------------- Nguyễn Thị Bích Hòa
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số
: 60 22 34
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh - 2008
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến quí
thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn
thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc TS. Nguyễn
Hoài Thanh - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình
nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài.
Nguyễn Thị Bích Hòa
MỞ ÐẦU
1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
Văn học Việt Nam 1930 – 1945 tuy diễn ra trong thời gian ngắn nhưng có vị trí quan trọng
trong quá trình phát triển của lịch sử văn học dân tộc. Ở giai đoạn này, quá trình hiện đại hoá văn học
được đã diễn ra với nhiều cuộc cách tân sâu sắc trên các thể loại. Trong xu thế đó, phóng sự là một thể
tân văn cũng ra đời ngay từ những năm 30, khi văn học nước nhà đang tăng tốc lao vào quĩ đạo hiện
đại hoá. Là một thể loại trung gian giữa báo chí và văn học, có tính tư liệu nhằm điều tra sự thực về
một thực trạng xã hội nào đó nên chỉ trong thời gian ngắn, phóng sự đã đạt được nhiều thành tựu rực
rỡ, trở thành một thể loại “ăn khách”, tạo một lực hấp dẫn mạnh mẽ đối với độc giả.
Những vấn đề mà ống kính phóng sự hướng tới để phản ánh là những vùng hiện thực nóng
bỏng, nhức nhối của xã hội thực dân nửa phong kiến ở cả thành thị lẫn nông thôn, thậm chí cả mảng
hiện thực ở các nhà tù vốn bị thực dân bưng bít. Là xã hội cơ bản là nông nghiệp, nông thôn chiếm đại
đa số nên mảng phóng sự về nông thôn đã trở thành một đề tài thu hút nhiều cây bút tài năng và đã thu
được những bức tranh đầy ấn tượng. Vì lẽ đó, khi nghiên cứu di sản phóng sự của giai đoạn 1930 –
1945, cần đi sâu hơn nữa vào mảng phóng sự viết về nông thôn để tìm hiểu, đánh giá đầy đủ hơn, đúng
đắn hơn về những đóng góp của những cây phóng sự ở đề tài quan trọng này.
Với những lý do đó, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của các nhà nghiên cứu, luận văn tiến
hành khảo sát một cách có hệ thống đề tài: “Đề tài nông thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam
1930 – 1945” nhằm mục đích tìm ra những đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, thấy được
những giá trị đặc sắc, khả năng sáng tạo độc đáo cũng như những hạn chế của những phóng sự về
nông thôn giai đoạn 1930 –1945.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Phóng sự là một thể loại mới xuất hiện trong cuộc cách tân văn học, nhưng chỉ trong thời gian rất
ngắn, nó đã khẳng định được vị trí của mình. Trong vô số vấn đề nóng hổi của cuộc sống cần thể hiện,
đề tài về nông thôn đã thu hút mạnh mẽ những cây bút phóng sự đương thời, một loạt phóng sự có giá
trị xuất hiện tạo nên một bức tranh hoàn chỉnh về bộ mặt nông thôn Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu
của đề tài là những phóng sự viết về nông thôn Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
Số lượng phóng sự đã xuất bản và in trên báo chí là khá nhiều. Song do điều kiện bị lưỡi kéo kiểm
duyệt đương thời cắt bỏ hoặc do khả năng lưu giữ, thu thập đầy đủ các phóng sự về nông thôn Việt
Nam 1930-1945 là rất khó khăn. Vì thế, luận văn chỉ tiến hành khảo sát những phóng sự chính yếu, có
giá trị tiêu biểu, chọn lọc và trong khả năng còn sưu tầm được, những đoạn phóng sự được trích dẫn
trong các từ điển, tuyển tập…cho phép việc tìm tòi, nghiên cứu những đặc điểm của phóng sự nông
thôn Việt Nam 1930 -1945 như các phóng sự sau:
-Đồng quê, Phi Vân, NXB Bốn Phương 1951.
- Túp lều nát, Nguyễn Đổng Chi, NXB Văn học (in lần thứ 2), 1999.
- Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng, NXB Văn học, 2004.
- Một huyện ăn Tết, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (tập 1). NXB Văn học, Hà Nội, 2005.
- Việc làng và Tập án cái đình, Ngô Tất Tố, Việc làng-tác phẩm và dư luận, NXB Văn học, 2002.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở xác định đối tượng và mục đích nghiên cứu như trên, luận văn tiến hành khảo sát
trong giới hạn sau:
Thứ nhất, từ những kiến thức lí luận về phóng sự, khảo sát những bức tranh hiện thực về nông
thôn Việt Nam ở hai khía cạnh : xã hội và con người. Qua đó thấy được những hiện thực đen tối và cả
những bức tranh tươi đẹp của nông thôn Việt Nam.
Thứ hai, khảo sát những giá trị và những hạn chế của những phóng sự về nông thôn Việt Nam
1930-1945 để thấy được những tư tưởng nhân đạo, nhân văn và những cách nhìn phiến diện, sai lầm về
xã hội và con người nông thôn.
Thứ ba, khảo sát về phương diện nghệ thuật: nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư
liệu, nghệ thuật trần thuật, phong cách ngôn ngữ, giọng điệu để tìm thấy tài năng độc đáo của những
phóng sự bậc thầy.
Phạm vi nghiên cứu bao gồm hệ thống những vấn đề như trên nhằm đem lại một cái nhìn bao quát
về những giá trị độc đáo, nổi bật của mảng phóng sự về nông thôn Việt Nam 1930-1945.
3. Lịch sử vấn đề
Ngược dòng văn mạch của dân tộc, người đọc chứng kiến những văn tài trên thể văn phóng sự
như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân… những cây bút “tiền chiến” viết về
đề tài nông thôn này đã để lại những kiệt tác bất hủ cho nền văn học Việt Nam.
Thành tựu của phóng sự nói chung và đề tài nông thôn trong phóng sự nói riêng đã góp phần
quan trọng hình thành nên chân dung của văn học Việt Nam. Căn cứ vào mốc lịch sử lớn có ý nghĩa
đối với đời sống xã hội và văn học, chúng tôi chia lịch sử vấn đề phóng sự về nông thôn 1930 – 1945
thành 3 giai đoạn:
- Giai đoạn 1930 – 1945
- Giai đoạn 1945 – 1985
- Giai đoạn 1985 đến nay
3.1. Giai đoạn 1930 – 1945
Sau khi “dậy tiếng” với hàng loạt phóng sự về nông thôn, dư luận xôn xao trước sự bừng sáng
của những cây phóng sự tài hoa. Nhiều luồng ý kiến ngợi ca, tôn vinh hoặc phản bác, phủ định bắt đầu
xuất hiện.
Đối với những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng, có vô số ý kiến khác nhau. Nhưng tiêu biểu là ý
kiến của Trương Tửu trên báo Tao đàn (số đặc biệt), tháng 12 – 1939, ông đánh giá Cơm thầy cơm cô
cùng với một số phóng sự khác của Vũ Trọng Phụng là “nền móng đầu tiên của nghệ thuật phóng sự
trong văn giới Việt Nam hiện đại (….) Trong các trang giấy đó, không có sự khinh bỉ, không có lòng
thương hại, không có ác ý mỉa mai. Ngòi bút ông thật khách quan và vô tư.” [78, tr.144]. Ý kiến
này dẫu còn mang nặng cảm tính nhưng bước đầu đã khẳng định vị trí hết sức quan trọng của phóng sự
Cơm thầy cơm cô đối với nghệ thuật phóng sự Việt Nam.
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại (1938-1940) thì cho rằng Cơm thầy cơm cô là “một tập
phóng sự hay nhất của Vũ Trọng Phụng. Ngòi bút tả chân của ông thật là tuyệt xảo khi ông tả những
cảnh nghèo khổ.” Ông đánh giá cao chương VII (Bi hài kịch) và cho rằng “đây là chương tuyệt hay.
Vui buồn, đủ cả, linh hoạt vô cùng và cũng thảm thiết vô cùng (…) chỉ mười một trang giấy mà biết
bao tình nhân loại, biết bao nỗi thương tâm”. [55, tr.14]. Đặc biệt, Vũ Ngọc Phan nhận ra vai trò của
“tố chất”, cái “giọng” phóng sự, con đường nghệ thuật của nhà văn Vũ Trọng Phụng.
Ngược lại với những ý kiến ngợi ca hết lời là thái độ xổ toẹt một cách thẳng thừng của Nhất Chi
Mai trong bài :Ý kiến một người đọc: dâm hay không dâm? Đăng trên báo Ích hữu số 66, ngày
25/5/1937, vị chủ tướng của Tự lực văn đoàn này tỏ vẻ “phẫn uất, khó chịu, tức tối” khi nhắc tới
những cảnh “con sen vạch quần để hở đùi non cho con chủ nhà trông thấy” và phản đối gay gắt là cần
phải “vạch ra những cái bẩn thỉu, nhơ nhớp, dơ dáy của văn ông ta”. Năm 1944, trong “Cuốn sổ văn
học”, Lê Thanh nhắc lại: “Khoảng những năm 1936, mấy tờ báo ở Hà Nội đua nhau trình bày những
thể văn khiêu tình, gợi dục (…) những lời tự tình của bọn Cơm thầy cơm cô, những cử chỉ trơ trẽn của
gái giang hồ…” [69, tr.162]. Nhất Linh tỏ ra lợi hại khi đưa ra ý kiến này giữa lúc phong hoá đang
suy đồi vì phong trào Âu hoá. Nhưng Nhất Linh lại chỉ tìm những dấu hiệu mà ông cho là “dâm uế” rồi
trích dẫn theo kiểu “vạch lá tìm sâu” rồi qui kết toàn bộ giá trị của tác phẩm. Cách nhìn này là phiến
diện một chiều, qui chụp cực đoan, không khoa học, và vì thế không có khả năng thuyết phục.
Cũng như Cơm thầy cơm cô, Việc làng và Tập án cái đình vừa ra đời cũng đã gây được tiếng
vang và được giới bình luận chú ý nhiều. Tiêu biểu là công trình nghiên cứu “Nhà văn hiện đại”
(1938-1940) của Vũ Ngọc Phan. Trong tác phẩm này Vũ Ngọc Phan giới thiệu Việc làng với thái độ
hết sức trân trọng và khẳng định. Ông gọi Ngô Tất Tố là “một tay kì cựu trong làng văn, làng báo Việt
Nam”. Ông đánh giá cao Việc làng: “lời văn trong Việc làng đều bình dị như thế cả. Tập phóng sự về
dân quê này thật là một tập phóng sự rất đầy đủ về lệ làng” [55, tr.202]
Không ồn ào, sôi động như Cơm thầy cơm cô, Việc làng và Tập án cái đình ở đất Bắc, nhưng ở
phương Nam, dư luận bắt đầu chú ý đến phóng sự Đồng quê của Phi Vân. Trong buổi lễ phát thưởng
văn chương thủ khoa Nghĩa năm 1943, GS Nguyễn Văn Khiết đã dành những lời có cánh ca ngợi
phóng sự Đồng quê của Phi Vân – tác phẩm được giải nhất cuộc thi văn chương của Hội Khuyến học
Cần Thơ. Ông đánh giá cao nội dung và nghệ thuật của tác phẩm này: “một ngọn bút tỉ mỉ mà linh
hoạt, một giọng văn thành thật mà hữu duyên, không rườm rà mà đầy đủ”. Liền sau đó là liên tiếp các
bài báo đăng tin, bình luận với thái độ trân trọng và khẳng định như tờ Ánh sáng văn chương, Nhật báo
Việt Thanh, Hương hoa đất nước, Nhật báo thời cuộc, Nhật báo Tiếng dội….
Ở giai đoạn này, giới nghiên cứu, bình luận chỉ mới chú ý đến tác phẩm phóng sự của những
kiện tướng chủ nghĩa hiện thực mà chưa chú ý nhiều đến một số phóng sự khác. Có nhiều bài viết khác
nhau, nhiều nhận xét khá tinh tế nhưng tất cả chỉ dừng lại ở những phóng sự viết về nông thôn một
cách đơn lẻ mà chưa có cái nhìn tổng thể ở cấp độ một đề tài của một giai đoạn văn học. Thời kì này
cũng chưa có nhiều công trình nghiên cứu riêng mà chủ yếu dừng lại một số ý kiến đăng tải trên các
báo mà thôi.
3.2. Giai đoạn 1945 – 1985
Năm 1950, trong khi giảng về thể phóng sự cho các khoá đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng
chiến, Nguyễn Đình Lạp đề cao Vũ Trọng Phụng “là nhà phóng sự phong phú nhất, sâu sắc nhất” và
đánh giá Cơm thầy cơm cô cùng với một số phóng sự khác “đã làm cho độc giả say mê” [32, tr.302].
Cũng với cảm hứng ngợi ca, Nguyên Hồng cho rằng: “Với hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm
thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số Đỏ và Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả
dư luận văn học bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho
một nền văn học tiến bộ” [25, tr.175-176]. Phan Khôi khi đánh giá Cơm thầy cơm cô cùng các phóng
sự khác cũng cho rằng họ Vũ là nhà văn “thông cảm và tố khổ cho hạng người Việt Nam bị coi là cặn
bã” [23, tr.11].
Trong Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, các tác giả cuốn sách này tỏ ra khách quan
hơn khi đánh giá Vũ Trọng Phụng có sở trường về phóng sự, các nhân vật trong Cơm thầy cơm cô là
hạng người “vì đồng tiền mà trở thành lưu manh” [37, tr.342], và cũng phê phán việc họ Vũ “chú trọng
tả cảnh dâm đãng của con người”, không tán thành với những “biện bác” của chính nhà văn.
Không chỉ Cơm thầy cơm cô, Việc làng cũng tiếp tục lọt vào tầm ngắm của các nhà phê bình
trong giai đoạn này. Trên tạp chí Văn nghệ số 54 năm 1954, Nguyên Hồng thừa nhận những đóng góp
tích cực của Ngô Tất Tố trong việc phản ánh chân thật đời sống nông dân sau luỹ tre xanh: “Người
nông dân giãy lên trên những dòng chữ của Ngô Tất Tố, chưa ánh lên cái sức đấu tranh nhưng sự
thống khổ của họ đem phơi bày ra đã được một phần nào thật, thật trên cái đen tối của chế độ tàn bạo
và ruỗng nát lúc bấy giờ”. [21, tr.44]
Cũng trên Tạp chí Văn Nghệ, số 8 năm 1958, Bùi Huy Phồn cũng khẳng định đóng góp lớn nhất
của Việc làng là phản ánh chân thực đời sống người dân quê, những thống khổ về tinh thần, gánh nặng
của hủ tục mà trước đây khó có ai thấy được. Bùi Huy Phồn cũng rất khách quan khi phân tích một số
hạn chế của Việc làng là do lập trường giai cấp của Ngô Tất Tố còn mơ hồ. Nhưng tác giả này cũng
rộng lượng khi chỉ ra hạn chế này cũng không lấy gì làm lạ, bởi Ngô Tất Tố vốn xuất thân từ nhà nho,
“Những tư tưởng Văn Thân, Đông Du lúc bấy giờ - tuy đã tan rã vì gặp nhiều thất bại - không tránh
khỏi dư rớt lại trong ông. Rồi tiếp đến tư tưởng cải lương là con đường tất nhiên của lớp người trí thức
đương thời khi họ chưa tìm được lối thoát”. [53, tr.205]
Năm 1961, trên tạp chí văn Nghiên cứu văn học số 3, Nguyễn Đức Đàn – Phan Cự Đệ cũng
nhận xét khá tinh tường: “Cái thành công của Ngô Tất Tố và cũng là biểu hiện cái nhìn đúng đắn của
ông chính là ở chỗ thông qua việc miêu tả các hủ tục, nhà văn đã vẽ lên được cuộc sống khổ cực của
nông dân và âm mưu của bọn cường hào địa chủ lợi dụng hủ tục để áp bức, bóc lột quần chúng”. Tác
giả cũng chỉ ra cái nhìn hạn chế, đồng thời chỉ rõ ý nghĩa của tác phẩm trong hoàn cảnh chính trị và
văn học lúc bấy giờ. Về nghệ thuật, tác giả nhận xét: “ngòi bút của ông khi nào cũng vững vàng, chắc
chắn, lời văn bao giờ cũng bình dị, sáng sủa và cô đúc” [53, tr.227]
Năm 1973, biên khảo về phóng sự được mở rộng hơn trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam
1930-1945. Cơm thầy cơm cô cùng với một số phóng sự khác được đánh giá “đã đưa Vũ Trọng Phụng
lên hàng ông vua phóng sự đất Bắc”. Cũng trong tác phẩm này, Việc làng cũng được Nguyễn Đăng
Mạnh ghi nhận những đóng góp về nội dung và nghệ thuật. Ông cảm nhận “lòng cảm thương sâu sắc
đối với người nông dân” của Ngô Tất Tố. “Càng thông cảm với người nông dân bao nhiêu, Ngô Tất
Tố lại càng căm ghét bọn cường hào địa chủ bấy nhiêu”. Nguyễn Đăng Mạnh cũng thừa nhận tài năng
nghệ thuật của Ngô Tất Tố qua Việc làng, tuy quanh quẩn chủ yếu viết về nạn xôi thịt, nhưng với lối kể
chuyện linh hoạt, người đọc không thấy đơn điệu. Ông đánh giá cao phóng sự này: “Việc làng là một
tập án đanh thép về hủ tục và nạn cường hào ở nông thôn Việt Nam”.
Vẫn tiếp tục luồng ý kiến thời “tiền chiến” với lối phê bình trực cảm, ấn tượng và ngợi ca một
chiều, nhưng giai đoạn này đã có một bước tiến hơn giai đoạn trước: tiếp thu có phê phán trên quan
điểm mĩ học duy vật, xuất hiện một số ý kiến với tinh thần khách quan hơn, không thiên lệch một
chiều. Nhưng, cũng như giai đoạn trước, các ý kiến cũng chỉ tập trung ở các phóng sự của hai “kiện
tướng” Vũ Trọng Phụng và Ngô Tất Tố về nông thôn Bắc Bộ là chủ yếu. Phóng sự viết về nông thôn
Trung và Nam Bộ của Nguyễn Đổng Chi và Phi Vân vẫn chưa được đi sâu nghiên cứu.
3.3. Giai đoạn 1986 đến nay
Năm 1986, cuộc đổi mới văn học đã tạo một bước đột phá cho việc tiếp nhận di sản văn học quá
khứ. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố được nhìn nhận ở một góc độ mới, các phóng sự của
Nguyễn Trần Ai, Phi Vân nay đã được phát hiện để khám phá và bổ sung cho bức tranh nông thôn Việt
Nam 1930 – 1945 được hoàn chỉnh.
Sau một thời gian dài vắng bóng, Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai và Đồng quê của Phi Vân lại
được dư luận chú ý. Ngày 7-1-1996, GS Lê Phong viết bài “Thêm một cuốn sách góp vào di sản văn
học hiện thực Việt Nam: Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai” đăng trong lời Bạt của cuốn phóng sự này.
Như một phát hiện mới, tác giả bày tỏ thái độ ngạc nhiên, thán phục và lấy làm tiếc cho sự biết đến tác
phẩm này khá muộn màng: “84 trang Túp lều nát, ở thể loại phóng sự của Nguyễn Trần Ai, ngót 60
năm sau ngày sách ra đời, vẫn có thể đem lại đôi điều mới mẻ đối với tôi.(…) Sưu thuế và cường hào,
nạn phù thu và lạm bổ, những oan khốc và bất công…hiện diện khá dày đặc trong Túp lều nát khiến
cho không trang nào không gây nên sự thương tâm, phẫn nộ”[4, tr.129]. GS Phong Lê thừa nhận giá
trị hiện thực và sức tố cáo mạnh mẽ của thiên phóng sự này đồng thời đánh giá cao sự ra đời của nó
trong một bối cảnh đặc biệt này như là sự hưởng ứng cho những bức xúc của dân cày.
Năm 1950, phóng sự Đồng quê của Phi Vân được một nhà văn Trung Quốc dịch ra tiếng bạch
thoại tựa là Nguyên da năm 1950. Năm 2007, trên trang vannghesongcuulong.org.com, tác giả Trần
Hữu Dũng viết bài “Phi Vân – nhà văn đồng quê rặt ròng Nam bộ” đã nhận xét tác phẩm này “đầy
sức gợi tả sinh động, chắt lọc phương ngữ làm cho ngôn ngữ mang dáng dấp hiện đại hơn (…) miêu tả
bức tranh nông thôn sông nước nghèo nàn, lạc hậu, bức bối với những tập tục mê tín, dị đoan, cảnh
đời bị bóc lột bởi các hương chức lộng hành, đặt ra vấn nạn lớn phải gấp rút giải quyết cho nông thôn
miền Nam”
Cùng cảm hứng ngợi ca và khẳng định, tác giả Huỳnh Công Tín (ĐH Cần Thơ) cũng có bài
Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân trên trang vienvanhoc.org.vn cũng ghi nhận
những đóng góp về mặt ngôn ngữ, khả năng miêu tả hiện thực của Phi Vân trong phóng sự này.
Phóng sự Việc làng và Tập án cái đình tiếp tục được các nhà nghiên cứu giới thiệu trong công
trình “Văn học Việt Nam 1900 – 1945” NXB Giáo dục Hà Nội 1997. Trong công trình này, Phan Cự
Đệ khẳng định giá trị hiện thực và tính chiến đấu của hai phóng sự viết về nông thôn của Ngô Tất Tố:
“Trong hai phóng sự “Tập án cái đình” và “Việc làng”, Ngô Tất Tố tìm cách phơi trần những sự thật
xấu xa về các hủ tục ở nông thôn, xem đó là một cái gì vô lý “quái gở”, “mọi rợ” và đặt chính quyền
thực dân trước nhiệm vụ phải giải quyết” [9, tr.490]. Với bài viết này, Phan Cự Đệ chỉ ra những thành
công và hạn chế một cách khách quan về nội dung và nghệ thuật của hai phóng sự này.
Cơm thầy cơm cô lại được chuyển thể thành phim Ánh sáng kinh thành cùng với Kỹ nghệ lấy
Tây. Phóng sự này cũng tiếp tục chú ý, đáng kể là trong hội thảo kỉ niệm Vũ Trọng Phụng ngày 13-10-
1989 ở Hà Nội, Phó GS Nguyễn Hoành Khung khẳng định: “Chưa có phóng sự nào trước và sau Cách
mạng có thể vượt được Cơm thầy cơm cô và Kỹ nghệ lấy Tây. Đọc thấy sợ và sướng lắm, viết phóng sự
như thế thì thật tuyệt vời”.
Đáng kể đến nhất trong giai đoạn này là công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX do Phan cự Đệ
chủ biên xuất bản năm 2000. Ở công trình này, các phóng sự viết về nông thôn lần đầu tiên được nhìn
nhận ở cấp độ dưới phạm vi một đề tài. Nhóm tác giả của công trình này chia phóng sự 1930-1945
thành hai đề tài chính: phóng sự viết về đời sống sinh hoạt ở thành thị và phóng sự viết về đời sống
sinh hoạt ở nông thôn. Cuốn sách cũng chỉ ra một số tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài này như Làm
dân, Xôi thịt (Trọng Lang), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố), Cường hào (Nguyễn Đình Lạp),
Cơm thầy cơm cô và Một huyện ăn Tết (Vũ Trọng Phụng), Bùn lầy nước đọng (Hoàng Đạo), Túp lều
nát (Nguyễn Trần Ai), Đồng quê của Phi Vân…Tác phẩm đi vào phân tích một số phóng sự để thấy
những đóng góp về nội dung và nghệ thuật. Tác phẩm cũng ghi nhận những đóng góp tích cực của các
phóng sự trong việc phản ánh đúng sự thật đời sống của người nông dân sau luỹ tre xanh. Tuy nhiên,
những đánh giá này vẫn còn sơ lược, đi theo từng tác phẩm, mà vẫn chưa có những nhận định mang
tính khái quát.
Năm 2004, Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, NXB Văn học do
Tuấn Anh-Bích Thu chủ biên cũng đã tóm tắt sơ lược các phóng sự về nông thôn. Tuy nhiên, do phạm
vi yêu cầu của một từ điển, do nhu cầu hệ thống hoá, nhu cầu kiểm duyệt lại các giá trị đang đặt ra vào
thời điểm vừa kết thúc thế kỷ XX, các ý kiến cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê tóm tắt và có đánh giá sơ
lược nội dung và nghệ thuật.
Do mai một của nhiều tờ báo, sự thất lạc của nhiều tác phẩm, do những cách nhìn nhận đánh giá
khác nhau, đặc biệt là đối với những tác phẩm viết về mặt trái của xã hội … nên việc công bố, tái bản
khá dè dặt. Vì thế, thành tựu của phóng sự chưa được bạn đọc biết đến đầy đủ. Nhiều luận văn Cao
học, luận án Tiến si thực chất cũng chỉ dừng lại ở những tác giả, tác phẩm tiêu biểu nhất. Vẫn chưa có
cái nhìn tổng quát về diện mạo của phóng sự và giá trị nhiều mặt của nó. Phóng sự viết về nông thôn
cũng cùng chung số phận. Không ít những phóng sự hay bị bỏ sót, nhiều giá trị ưu tú của phóng sự viết
về nông thôn bị bỏ qua.
Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu vấn đề, ta nhận thấy:
Thứ nhất, chưa có một công trình nghiên cứu riêng, sâu về đề tài nông thôn của phóng sự Văn
học Việt Nam 1930-1945. Phần lớn là các sách sưu tầm, biên tập lại những tác phẩm phóng sự hoặc
những bài viết trên báo, tạp chí hay những công trình, bài viết nghiên cứu về từng tác giả.
Thứ hai, thành tựu của phóng sự 1930-1945 về đề tài nông thôn tính đến nay đã khá phong phú
và có những thành tựu xuất sắc. Nhưng việc in ấn các tác phẩm, các công trình nghiên cứu về các
phóng sự này trước thời kỳ đổi mới không tiến triển được nhiều đã làm hạn chế các công trình nghiên
cứu ở cấp độ một đề tài.
Thực tế đó cho thấy việc nghiên cứu về phóng sự viết về nông thôn 1930-1945 là một việc làm
hết sức cần thiết và có ý nghĩa.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Do khảo sát ở phạm vi khá rộng của cả một giai đoạn, ở một đề tài theo hướng tìm ra những giá trị
độc đáo của phóng sự về nông thôn Việt Nam nên luận văn có những ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
- Tìm hiểu những bức tranh độc đáo về xã hội và con người nông thôn để thấy tài năng trong nhận
thức và phản ánh hiện thực của những nhà phóng sự đương thời.
- Phân tích, đánh giá những thành công và hạn chế về tư tưởng, cũng như những bất cập, sai lầm
trong cách nhìn nhận về xã hội và con người nông thôn. Từ đó thấy được sự tìm tòi cũng như những
thiếu sót về mặt tư tưởng của những nhà phóng sự.
- Trình bày một số đặc điểm cơ bản về phương diện nghệ thuật để có cái nhìn đầy đủ hơn về tài
năng làm phóng sự của một lớp nhà văn lớn.
- Phóng sự là một bộ phận hợp thành quan trọng của di sản văn chương, vì thế việc tìm hiểu nông
thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam 1930-1945 không chỉ có ý nghĩa đối với nền phóng sự đương
thời mà còn có ý nghĩa đối với việc nghiên cứu di sản văn chương. Những phóng sự tiêu biểu về nông
thôn sẽ góp cái nhìn đầy đủ về nông thôn Việt Nam trong những tháng ngày đầy biến động của lịch sử
đồng thời góp phần soi sáng những mảng sáng tác khác của những cây bút tài năng.
- Sự bùng nổ trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây sau một thời gian dài gần như vắng
bóng đã gây xôn xao dư luận, và lập tức kéo công chúng quay trở lại với văn học. Thực tế này cũng đòi
hỏi sự tiếp sức kinh nghiệm của quá khứ. Luận văn sẽ gợi lại cách làm phóng sự của một lớp nhà văn
lớn để những nhà phóng sự hôm nay tìm tòi, học hỏi, gợi mở sự sáng tạo cho nghề làm phóng sự.
Chính trong thời điểm mà thể phóng sự đang sôi động trở lại, đang đóng vai trò xung kích trên lĩnh
vực báo chí và văn học, góp phần không nhỏ trong công cuộc cải tạo xây dựng xã hội mới, việc nghiên
cứu đề tài nông thôn trong phóng sự Văn học Việt Nam 1930 –1945 càng có ý nghĩa khoa học và thực
tiễn.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được tổ chức thành ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề về thể văn phóng sự. Chương này tìm hiểu sự xuất hiện và phát triển
của thể phóng sự, phân biệt sự khác nhau giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí đồng thời tìm
hiểu sơ lược mảng phóng sự viết về nông thôn. Từ đó có cái nhìn khái quát về thể phóng sự và mảng
phóng sự về nông thôn 1930 – 1945.
Chương 2: Nội dung hiện thực và cảm hứng, tư tưởng trong các phóng sự về nông thôn. Để có
cái nhìn toàn cảnh, chương này đi sâu tìm hiểu những nội dung hiện thực của nông thôn Việt Nam
1930 – 1945: phong cảnh, phong tục, xã hội, con người. Tìm hiểu những thành công và những hạn chế
về cảm hứng tư tưởng trong các phóng sự.
Chương 3: Nghệ thuật của các phóng sự về nông thôn. Chương này khẳng định những đóng góp
trên bình diện nghệ thuật viết phóng sự của các nhà văn như: nghệ thuật khám phá hiện thực và khai
thác tư liệu, nghệ thuật trần thuật và phong cách ngôn ngữ, giọng điệu.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ VĂN PHÓNG SỰ
Sự phát triển mạnh mẽ của của báo chí Phương Tây thế kỷ XIX đã tạo một môi trường hết sức
thuận lợi cho việc nảy sinh nhiều thể văn - báo, trong đó có phóng sự. Là thể loại trẻ trung nhưng rất
đắc dụng, phóng sự đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ và bắt nhịp vào đời sống báo chí và văn học của
nhiều quốc gia.
Phóng sự được nhìn dưới nhiều góc độ khác nhau. Mặc dù vậy, các quan điểm đó vẫn gặp nhau ở
điểm cơ bản chung nhất về chức năng thể loại. Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí,
phản ánh những vấn đề điển hình, có thật, có tính thời sự trong một quá trình phát sinh, phát triển,
bằng bút pháp văn học và những biện pháp nghiệp vụ của báo chí.
Không chỉ phản ánh sâu sắc những nội dung, tư tưởng, phóng sự còn tỏ ra khá công hiệu khi đưa ra
những kiến nghị và giải pháp để mở ra hướng giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội quan tâm.
1.1. Sự xuất hiện và phát triển của thể phóng sự
1.1.1. Bối cảnh xã hội
Xã hội Việt Nam những năm 30 của thế kỷ XIX đầy những biến động về các mặt kinh tế, chính
trị, văn hoá. Đó là thời kỳ đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp gay gắt báo hiệu sự tan rã của xã hội
phong kiến và sự lung lay của chế độ thực dân. Trong khi thực dân Pháp ra sức củng cố chế độ thuộc
địa thì phát xít Nhật lại nhòm ngó Đông Dương để âm mưu bá chủ cả Châu Á Thái Bình Dương. Nhiều
cuộc khởi nghĩa của nông dân và bãi công của công nhân liên tiếp nổ ra. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất
bại đã chấm dứt vai trò chính trị và đường lối cách mạng của giai cấp tư sản. Năm 1930, Đảng Cộng
sản Việt Nam thành lập, giai cấp vô sản lần đầu tiên bước lên vũ đài chính trị đảm nhiệm sứ mạng lịch
sử của mình là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Sự quật khởi của phong trào Xô Viết Nghệ
Tĩnh, khí thế sôi nổi của mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 -1939) đã làm rung động chế độ thuộc
địa.
Thực dân Pháp không chịu bó tay, ngoài việc thực hiện các chính sách đàn áp, chuyên chế,
chúng còn dùng những thủ đoạn mị dân, tuyên truyền phong trào Âu hoá, chủ trương “Pháp Việt đề
huề”, hội Ánh sáng, hội Hướng đạo…ra đời nhằm lừa bịp, đánh lạc hướng công luận. Nền kinh tế rơi
vào vòng quay của kinh tế tư bản chủ nghĩa. Các vùng đô thị ra đời kéo theo những lối sống đồi bại mà
thực dân Pháp dựng lên để làm truỵ lạc thanh niên…..Xã hội thực dân nửa phong kiến nước ta càng lao
nhanh trên con đường băng hoại, bộc lộ hết tính chất xấu xa, tàn bạo.
Những sự kiện chính trị, kinh tế, văn hoá đầy kịch tính với những nét bi hài đang diễn ra kế tiếp
nhau, chồng chéo nhau, đan xen nhau hết sức sôi sục và nóng bỏng đã làm nảy sinh nhu cầu cấp bách
là phải cập nhật nhanh chóng lượng thông tin phong phú và sốt dẻo ấy. Mặt khác, người dân lại hoang
mang trước những điều thật giả lẫn lộn, họ cần lắm một điểm tựa để biết mọi sự thật,“quốc dân chỉ
muốn biết sự thật diễn ra quanh mình”.(Trương Tửu :Tam Lang – nhà văn tả chân, báo Loa, số 86,
ngày 10-10-1935) [56, tr.94]. Nhu cầu bức thiết muốn biết sự thật xã hội của công chúng đòi hỏi phải
có một lực lượng sáng tác năng động, nhanh nhạy nắm bắt các chuyển biến của thời cuộc và đưa ra
cách nhìn nhận đáng tin cậy. Thiếu Sơn cho rằng: “Dưới một chế độ mục nát, trong một thời đại suy
đồi, đầy những giả dối, đầy những mâu thuẫn (…) Cái tình trạng ẩn khuất đó phải có con mắt tò mò
chú ý tới, phải có cây viết linh hoạt tô vẽ ra” (Nhà phỏng sự trong xã hội Việt Nam, đăng ở tr.3, báo
Phóng sự, số Xuân 1939).
Trước nhu cầu bức thiết đó, các thể tài tiểu thuyết, thơ, kịch không đảm nhận nổi thì phóng sự
lại tỏ ra có hiệu quả đắc lực. Thể văn tư liệu này có khả năng đi sâu vào hiện thực để điều tra những vụ
bê bối, các tệ nạn xã hội một cách kịp thời và có hiệu quả. “Để tìm bộ mặt thật của xã hội Việt Nam lúc
bấy giờ, thị yếu đại chúng như thay đổi hoàn toàn, chỉ ưa tìm đọc những văn, những chuyện, những
loại tả chân và lãng quyên dần loại văn lãng mạn mà người ta cho là không thích hợp” [56, tr.67]. Như
vậy, xã hội Việt Nam lúc bấy giờ là mảnh đất màu mỡ ươm mầm cho hạt giống phóng sự sinh sôi.
1.1.2. Những tiền đề báo chí và văn học
Cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX, một loạt tác phẩm ký ra đời như “Chuyến đi thăm Bắc kỳ năm
Ất Hợi” của Trương Vĩnh Ký, “Hương Sơn hành trình ký” của Nguyễn Văn Vĩnh, “Hạn mạn du ký”
của Nguyễn Bá Trác…Những tác phẩm này cố gắng cách tân thể loại truyền thống để hình thành một
thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực với ký thác tâm sự. Bước đi mới mẻ này của văn học chưa có
gì nổi bật song đã có định hướng làm tiền đề cho phóng sự xuất hiện sau này.
Sự xuất hiện của phóng sự còn được lý giải từ một căn nguyên khác. Đó là sự phát triển với tốc
độ khác thường của một nền báo chí còn non trẻ đã tạo nên những “kỳ biến” trong đời sống tinh thần
lúc bấy giờ, và đã hình thành nên một môi trường rộng lớn, một nhịp cầu đưa phóng sự đến với bạn
đọc, đáp ứng nhu cầu bức thiết của xã hội. Có thể nói, bằng báo chí, phóng sự đã tìm được con đường
nhanh nhất để đến với công chúng, vừa tạo được môi trường dư luận rộng rãi và kịp thời mà không thể
loại nào có được.
Báo chí nước ta dần thoát khỏi ảnh hưởng nặng nề của thực dân, là thứ công cụ phục vụ cho
chính sách cai trị để trở thành những tờ báo đứng trên lập trường dân tộc chống lại ách nô dịch của
chúng như Tiếng dân, Thần chung…Những năm 30, đặc biệt từ 1937 trở đi, Việt Nam có đến 128-150
tờ nhật báo, 179 kỷ yếu và tạp chí, các ấn phẩm được in thành sách ở các nhà xuất bản mọc lên khắp cả
nước. Viết văn, viết báo trở thành một nghề kiếm sống, với lực lượng chính là những người Tây học và
những nhà nho ném “bút lông” và dùng “bút sắt”, Tam Lang phải “thay đổi cả ngòi bút lẫn bình mực”
để không muốn mình là người viết báo lỗi thời [56, tr.67-68]. Hiện tượng văn báo bất phân nảy sinh.
Cả một thế hệ vừa cầm bút viết báo, vừa viết văn. Các báo cạnh tranh nhau, không ngừng cải tiến cả
nội dung lẫn hình thức. Cái nhịp hối thúc của báo này, sự giục giã đặt hàng của báo kia khiến nhà văn,
nhà báo cứ viết, cứ săn lùng tin tức và đẻ ra hàng loạt thiên phóng sự nhiều kỳ trên các báo gây xôn
xao dư luận.
Bên cạnh sự sôi động của các phóng sự trên các báo trong nước là sự ảnh hưởng của một số
phóng sự nước ngoài. Thể văn rất trẻ này chỉ thực sự phát triển ở một số quốc gia Âu - Mỹ từ thế chiến
thứ 2 (1914 - 1918). Những thiên phóng sự nổi tiếng như Trên những nẻo đường Liên bang xô viết của
Gorki, Mười ngày rung chuyển thế giới (1917) của Giôn Rít…đã được nhiều trí thức Tây học tìm đọc.
Nhưng ảnh hưởng sâu sắc nhất tới độc giả và những người cầm bút nước ta là tập phóng sự nổi tiếng
dày 227 trang của bà Ăngđơrê Viôlix với Đông Dương cấp cứu (Indôchine S.O.S). Đây là kho tư liệu
quý báu, chân thực về Đông Dương những năm 1930-1932, vạch rõ chân tướng của bọn phát xít đồng
thời là những bài học quý báu về cách tiếp cận và thể hiện hiện thực. Ngoài ra, các phóng sự “Le
chemin de Buenos- Aires” (Đường đi Buenos-Aires) của Albert Londres, Stan conduit le bal (Quỷ
Xatăng cầm đầu cuộc khiêu vũ)...cũng gây chấn động dư luận và có ảnh hưởng lớn đối với người đọc.
Những phóng sự sinh động trên du nhập vào nước ta và ngay lập tức những cây phóng sự tiên
phong như Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng…học hỏi và vận dụng sáng tạo vào thực tiễn, đưa
phóng sự trở thành một thể loại mới lạ, hấp dẫn đáp ứng nhu cầu bức xúc về thông tin sự thật của độc
giả. Tam Lang bắt chước Maryse Choisi khoác áo phu xe đi làm phóng sự, Vũ Trọng Phụng nhắc đến
thiên phóng sự “Carnet d une pemme de chambre” của Maryse Choisi trong “Cơm thầy cơm cô”, ông
cũng đánh giá cao Indôchine S.O.S của bà Ăngđơrê Viôlix…
Hơn bất cứ thể loại nào khác, chỉ có phóng sự mới có thể nhanh nhạy, sắc bén chiếm lĩnh những
vấn đề chính trị, xã hội nóng bỏng, bề bộn và hết sức sôi sục lúc bấy giờ. Không chỉ cung cấp những
tập ảnh, những số liệu, phóng sự còn dựng một bức tranh toàn cảnh về xã hội một cách xác thực. Đến
với phóng sự, người đọc không chỉ thấy những cái mà họ chưa từng thấy mà thông qua những sự thật
đã được kiểm chứng ấy, họ còn được bừng tỉnh, vỡ lẽ về một thực trạng bất công phi lý. Vì thế nó có
sức hấp dẫn lôi cuốn người đọc đến lạ kỳ. Cùng với tiểu thuyết hiện thực, phóng sự nhanh chóng trở
thành thể loại ăn khách, tạo ra một lực hút hấp dẫn đối với hàng loạt cây bút. Tất nhiên, để có những
trang hiện thực giàu ý nghĩa nhân sinh ấy, đòi hỏi nhà phóng sự phải trải qua những chặng đường lao
động nghệ thuật đặc biệt và hết sức gian truân. Không hiếm trường hợp, lương tâm và trách nhiệm
nghề nghiệp của người cầm bút đã vấp phải sự kiểm duyệt gắt gao của nhà chức trách. Tuy nhiên, các
nhà phóng sự vẫn dũng cảm đưa lên mặt báo thực trạng nhếch nhác, bệnh hoạn của xã hội Việt Nam
dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.
Như vậy, bối cảnh xã hội đầy biến động, nhu cầu phản ánh sự thật của xã hội một cách trực tiếp,
sự trưởng thành của báo chí trong nước đã xâm nhập vào văn chương tạo nên sự “giao duyên” kì diệu
giữa văn học và báo chí, ảnh hưởng phóng sự nước ngoài, cộng với tài năng sáng tạo, tâm huyết của
người cầm bút là sự hội tụ đầy đủ những yếu tố nội sinh và ngoại nhập cho sự xuất hiện của thể phóng
sự.
1.1.3. Sơ lược quá trình phát triển của thể phóng sự
1.1.3.1. Giai đoạn 1930 – 1945
So với thế giới – chủ yếu là ở Âu Mỹ, phóng sự ở Việt Nam ra đời muộn. Dù cuối thế kỷ XIX,
Sài Gòn đã có báo, nhưng mãi đến đầu những năm 30 của thế kỷ XX, phóng sự mới xuất hiện. Trước
năm 1932, sự cách tân của thể ký truyền thống đã xác lập một thể văn kết hợp mô tả, ghi chép sự thực
với ký thác tâm sự. Tuy thành tựu này chưa có gì thật sự nổi bật, song định hướng này là tiền đề cho
thể ký có những bước nhảy vọt ở giai đoạn tiếp theo. Sự phát triển của thể ký chủ yếu thể hiện dưới hại
dạng: phóng sự và tuỳ bút. Trong đó phóng sự chiếm vị trí nổi bật và trở thành thể loại chính.
Bước đột phá ngoạn mục hiếm có của phóng sự phải tính từ cái mốc năm 1932, với phóng sự
Tôi kéo xe của Tam Lang đăng liên tiếp 20 kì trên tờ Ngọ Báo viết về đời sống của những kiếp “người
ngựa”. Phóng sự từ nay mới chính thức “đăng đàn” như một thể loại độc lập. Vũ Đình Chí – bút hiệu
Tam Lang (1900 – 1986) thực sự là người có công mở đầu cho sự ra đời của thể phóng sự ở nước ta.
Ngoài Tôi kéo xe, ông liên tiếp cho ra đời lần lượt 8 thiên phóng sự ngắn như Trên dòng Tiêu Kim
Thuỷ, Đêm sông Hương, Lạc trong Sơn Đinh Quách, Người ngợm…Theo tập hợp chưa đầy đủ của các
tác giả Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn qua 3 tập sách Phóng sự Việt Nam 1932 –
1945 xuất bản năm 2000 thì chỉ riêng thời kỳ này đã có sự góp mặt của 63 tác giả và hơn 120 tác phẩm
phóng sự. Thể loại này xuất hiện không chỉ thu hút sự chú ý của độc giả bởi số lượng mà còn ở chất
lượng nghệ thuật. Khả năng nhạy cảm trước những vấn đề xã hội của nhà báo và năng khiếu của nhà
văn đã sản sinh ra các thiên phóng sự không chỉ đáp ứng nhu cầu trước mắt mà còn có giá trị nghệ
thuật lâu dài. Sự mở đầu khá ấn tượng của ba chàng họ Vũ: Vũ Đình Chí với Tôi kéo xe, Vũ Bằng với
Một đêm trắng với năm bông hoa tàn, Vũ Trọng Phụng với Cạm bẫy người chấn động dư luận đã kéo
theo một đội quân những nhà văn, nhà báo đến với thể phóng sự: Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Thạch
Lam, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Phi Vân….
Thoát thai từ một hiện thực chín muồi, phóng sự 1930 – 1945 tất nhiên là “người thư ký trung
thành của thời đại” phản ánh thực trạng nhiều mặt của xã hội đương thời. Đó là những mảng hiện thực
vốn bị thực dân bưng bít nơi các nhà lao, những tù nhân bị lưu đày nơi rừng thiêng nước độc, nhất là
hiện thực đời sống sinh hoạt ở nông thôn và ở đô thị.
Phóng sự về sinh hoạt đô thị chiếm số lượng khá lớn: Tôi kéo xe, Đêm sông Hương (Tam Lang);
Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Lục xì (Vũ Trọng Phụng); Dao cầu thuyền tán của Ngô Tất Tố; Hà
Nội lầm than, Làm tiền, Trong làng chạy (Trọng Lang); Thanh niên truỵ lạc, Từ ái tình đến hôn nhân,
Ngoại o (Nguyễn Đình Lạp), Tàn đèn dầu lạc (Nguyễn Tuân), Hà Nội ban đêm ( Thạch Lam)…Trong
đời sống xã hội có biết bao vấn nạn nổi cộm tại các đô thị. Nạn cờ bạc (Cạm bẫy người của Vũ Trọng
Phụng), nghề “đạo chích” (Trong làng chạy của Trọng Lang), thế giới nhơ nhớp của bọn mại dâm
(Đêm sông Hương của Tam Lang…), tệ tham nhũng trong Một huyện ăn Tết của Vũ Trọng
Phụng…đều được các nhà phóng sự phơi bày, lật tẩy.
Bên cạnh đề tài thành thị, nông thôn là mảng đề tài thu hút các cây bút phóng sự. Tuy các tác
phẩm để lại không nhiều nhưng thực sự là những tác phẩm có giá trị. Đó là Làm dân, Xôi thịt (Trọng
Lang), Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố), Cường hào (Nguyễn Đình Lạp), Một huyện ăn Tết
(Vũ Trọng Phụng), Bùn lầy nước đọng ( Hoàng Đạo), Túp lều nát (Nguyễn Trần Ai), Đồng quê của Phi
Vân…
Ở các phóng sự viết về nhà tù thực dân, Ngục Kontum (1938) là phóng sự có sức tố cáo lớn là
xúc động lòng người. Lê Văn Hiến – tác giả của thiên phóng sự này chính là người trong cuộc đã miêu
tả tường tận các thủ đoạn độc ác của thực dân Pháp với các tù chính trị và các cuộc đấu tranh lưu
huyết, tuyệt thực công khai của các chiến sỹ cách mạng. Mảng hiện thực bị thực dân che đậy này đã
dược các nhà phóng sự đưa ra ánh sáng. Đó là Tết của tù đàn bà, Tù trẻ con của Nguyên Hồng, Khám
lớn Sài gòn của Phan Văn Hùm, Đảo Côn Lôn của Nguyễn Đức Chính….
Đứng từ góc độ báo chí, phóng sự vừa mô tả những sự thật nhức nhối còn khuất lấp vừa khai
sáng, thức tỉnh nhận thức cho công chúng đồng thời đem đến cho bạn đọc một kênh giao tiếp tiện lợi.
Đứng từ góc độ văn học, phóng sự không chỉ nhằm mục đích mưu sinh mà nhà văn còn giải toả những
bức xúc cho độc giả đồng thời tích luỹ vốn sống để thai nghén cho bước sáng tạo nghệ thuật về sau.
Điều đáng nói là phóng sự 1930 – 1945 đã biết chưng cất cái hiện thực ngổn ngang bằng nhãn quan
văn học để có những tác phẩm gây ấn tượng, đáp ứng yêu cầu nhiều mặt mà xã hội trông đợi và vì thế
phóng sự có được tầm vóc bề thế của một thời đại hoàng kim là điều hiển nhiên.
1.1.3.2. Phóng sự giai đoạn 1945 - 1975
Hiện thực cuộc sống của ba mươi năm chiến tranh (1945 – 1975) không tiềm chứa những sắc
thái cảm ứng thích ứng với thể phóng sự. Là một thể loại dân chủ, phóng sự có khả năng đặc biệt trong
việc phanh phui mổ xẻ những thực tại nhức nhối nay đã không còn cơ hội phát triển. Thể chế chính trị,
nhiệm vụ chính trị của lịch sử thời kỳ này được phản ánh, lý giải và cắt nghĩa với những quan niệm
cách thức khác nhau. Phóng sự không dễ thăng hoa nở rộ mà tạm thời lắng xuống hoặc hoá thân vào
trong thể loại khác. Nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Long từng khẳng định: “Trong hai cuộc kháng chiến
thiếu vắng thể loại phóng sự vốn rất phát triển trong giai đoạn 1930 – 1945” [36, tr.183], nhà nghiên
cứu Lã Nguyên cũng cùng chung nhận định: “Phóng sự – thể loại từng phát triển mạnh mẽ trước cách
mạng, nay bỗng thiếu vắng trên văn đàn”[51, tr.208]. Tất nhiên, nói thiếu vắng ở đây không có nghĩa
là sự triệt tiêu, mất hút của thể loại này mà là sự thiếu vắng những tác gia tác phẩm có tầm vóc. Vào
thời khắc con người cần định hướng đúng cho tư tưởng và hành động này, phóng sự vẫn chứng tỏ được
vai trò xung kích, tiên phong của nó.
Phóng sự đã nhập cuộc vào hiện thực chiến tranh cách mạng bằng hai phóng sự dài Cảnh
Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp. Nguyễn Đình Lạp cũng từng viết trong tập
bài giảng Muốn làm phóng sự của ông rằng: “Chúng ta có bổn phận phải chép lại, ghi chép đầy đủ,
nóng hổi sự sống và chí quật cường. Thể phóng sự có thể giúp chúng ta là được nhiệm vụ ấy”. Để
phụng sự nhiệm vụ chính trị lớn lao, phóng sự đã có sắc diện riêng biệt, và đã có những đóng góp tích
cực vào việc ghi lại những sự kiện đáng nhớ về một thời vàng son của dân tộc. Phóng sự viết về chiến
tranh giải phóng dân tộc xuất hiện là một hình thức mới làm phong phú thêm cho thể phóng sự ở nước
ta. Nhà nghiên cứu Hà Minh Đức đã mô tả lại hoạt động của phóng sự thời kỳ này:
Trong những năm kháng chiến, nhiều thiên phóng sự từ mặt trận gửi về còn nóng hổi hơi lửa
thời sự. Phóng sự mặt trân theo sát diễn biến của chiến dịch qua từng bước thắng lợi, từng mũi
tiến quân, kịp thời thông báo những tin tức, câu chuyện và những tấm gương trong chiến đấu
[13, tr.73].
Đến đầu những năm 50, phóng sự có một bước rẽ khác. Khi số phận dân tộc đang “ngàn cân
treo sợi tóc”, phóng sự phải gọt bỏ cái tư chất phản tỉnh thực tại mạnh mẽ để hoá thân vào thể ký (bút
ký và ký sự) trong định hướng một chiều rất cần phải có của thời đại lúc bấy giờ. Sự sống của phóng
sự được hoá thân vào các tác phẩm ký của Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Nam
Cao…rồi chìm dần, rồi vắng bóng, gây một sự hụt hẫng trong đời sống văn học. Đến năm 1962, cuộc
vận động thi viết bút ký, phóng sự trên tạp chí Văn Nghệ và báo Văn học đã hâm nóng lại bầu không
khí bàn bạc về phóng sự, nhưng cũng không đủ sức làm cho phóng sự hồi sinh.
1.1.3.3. Phóng sự từ 1980 đến nay
Phóng sự có dấu hiệu hồi sinh sau 40 năm chìm vào quên lãng kể từ phóng sự Cây cói ở Hải
Tân của Trần Huy Quang. Nhưng thực sự nhập cuộc một cách mạnh dạn, thẳng thắn là sau năm 1986.
Khi những tư tưởng đổi mới về văn hoá văn nghệ của Đảng đã “cởi trói” cho chiều hướng phát triển
của văn học nói chung thì phóng sự xuất hiện đúng lúc và kịp thời. Phương châm nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật mà cuộc đổi mới đề ra như mở ra cánh cửa để cơn gió phóng sự ùa vào một cách
mạnh mẽ. Với tinh thần can đảm vốn có của thể loại này, phóng sự đã có đất để dụng võ. Công cuộc
đổi mới không chỉ khôi phục lại địa vị xứng đáng của phóng sự trong báo chí và văn học mà còn tạo
nên một cuộc bức phá ngoạn mục lần thứ hai cho phóng sự. Đó là Vua lốp của Trần Huy Quang
(1987), Cái đêm hôm ấy đêm gì của Phùng Gia Lộc (1988), Mọi linh hồn đều được đưa tiễn (1991),
Vẫn phải tin vào những giọt nước mắt (1996) của Xuân Ba; Phóng sự (Tuyển 1995) của Trần Huy
Quang; Hành trình tới chân ly của Trần Đình Bá (1995)...
Nét đặc sắc nổi bật của phóng sự giai đoạn này là sự mở rộng phạm vi đề tài trên cả tầm vĩ mô
và vi mô. Đề tài chiến tranh vẫn tiếp tục được Nam Hà, Đỗ Quảng khai thác. Đó là sự tái hiện lại hai
cuộc chiến bảo vệ biên cương Tây Nam và biên giới phía Bắc. Đề tài kinh tế xã hội được Hữu Thọ, Đỗ
Quảng, Trần Huy Quang…phanh phui, mổ xẻ. Đó là cuộc đấu tranh chống lại thói bảo thủ trì trệ của
cơ chế quan liêu, bao cấp, chống thói buôn gian bán lận, làm ăn bất chính…Đề tài an ninh chính trị
cũng được khám phá qua những phóng sự về người tản cư ra nước ngoài, các lực lượng thù địch chống
phá cách mạng….Phóng sự thời kỳ này đã can đảm phơi bày những tiêu cực. Sự đa dạng về đề tài này
một lần nữa minh chứng cho cái nhìn phiến diện về thể phóng sự ở giai đoạn trước. Nhìn chung hai chủ
đề lớn được các cây bút phóng sự tập trung chú ý: biểu dương, ca ngợi những điển hình tiên tiến trong
mọi hoạt động của xã hội và phê phán những mặt trái tiêu cực của cuộc sống như tệ nạn trì trệ quan
liêu, tham nhũng, buôn lậu, đĩ điếm, sự hành hành trắng trợn của bọn xã hội đen…
Bối cảnh hiện thực mới cũng làm cho phóng sự có những cách tân về hình thức. Hiếm có
những phóng sự dài, thường là những phóng sự ngắn, đăng trọn trong một, hai kỳ báo, số lượng nhiều
nhưng thành tựu vẫn chưa đáng kể, chỉ mới phản ánh hiện tượng mà ít khi tìm ra bản chất quy luật của
cuộc sống để lý giải. Nếu phóng sự 1930 – 1945 có ranh giới giữa phóng sự văn học và phóng sự báo
chí là khá rõ ràng thì ở giai đoạn này là khá mờ nhạt. Có thể nói, thể loại phóng sự ngày càng phát huy
tác dụng tích cực, góp phần đáng kể vào việc lành mạnh hoá cuộc sống, xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng văn minh. Nhưng về phương diện nghệ thuật, vẫn chưa có nhiều nhà văn phóng sự có phong
cách nổi bật như giai đoạn 1932-1945.
Với chặng đường dài gần một thế kỷ hình thành và phát triển, phóng sự đã tạo nên những biến
thái bất ngờ. Sau sự xuất hiện một cách đột khởi đầy viên mãn, phóng sự như dòng chảy ngầm bền bỉ
và dai dẳng trôi qua hai cuộc chiến tranh có lúc tưởng như chìm hẳn và mất hút. Nhưng rồi phóng sự
lại phục sinh một cách mạnh mẽ, kỳ diệu trong thời kỳ lịch sử sang trang. Sự thăng hoa hoặc chìm lắng
đó đều mang những dấu ấn đặc thù của thể loại văn – báo quan trọng này.
1.2. Phóng sự bao chí và phóng sự văn học
Ngay từ khi mới ra đời, phóng sự 1930-1945 đã có sự phân biệt khá rõ phóng sự văn học và
phóng sự báo chí. Theo Bùi Huy Phồn:
Phóng sự tân văn là loại làm cho người đọc thấy người thật, việc thật ở một thời gian, không
gian nhật định với những tài liệu, số liệu cụ thể. Đọc nó quả có phần khô khan, vì nó chỉ nhằm
thuyết phục độc giả về mặt lý và nhẹ về mặt tình (…) Phóng sự văn học có những điểm khác
phóng sự tân văn, tất nhiên về căn bản vẫn giống nhau (…) Mặt khác, thể phóng sự văn học,
ngoài tính phản ánh người thật, việc thật còn thêm phần tả người, tả cảnh bằng hình tượng
nghệ thuật, và có xen kẽ những cảm nghĩ chủ quan của tác giả nên nó có sức thuyết phục về mặt
lý trí, cả về mặt tình cảm của con người” [57, tr.8].
Như vậy, Bùi Huy Phồn khẳng định phóng sự văn học và phóng sự báo chí cơ bản là giống
nhau, điểm mà tác giả chỉ ra sự khác biệt đó là phóng sự báo chí nặng về “lý”, nhẹ về “tình”, còn
phóng sự văn học thuyết phục người đọc cả về lý trí cả về tình cảm.
Cũng như Bùi Huy Phồn, Nguyễn Đình Lạp đã chia phóng sự thành hai loại: loại “có tính chất
báo, thông tin, tường thuật, báo cáo” và loại có “tính chất văn chương: điều tra, phỏng vấn, mẩu
chuyện phóng sự” [32, tr.310]. Rõ ràng, Nguyễn Đình Lạp bước đầu cũng có sự khu biệt khá rõ phóng
sự văn học và phóng sự báo chí.
Trên báo Văn Nghệ Hà Nội số 21 ngày 26/5/1990, tại trang11, N. Đuytơne khi “Bàn về phóng
sự” cũng đã phân biệt khá rõ phóng sự văn học và phóng sự báo chí “Các nhà lý luận văn học xác
định một sự phân biệt rõ rệt giữa phóng sự báo chí – tường thuật các sự việc một cách trần trụi, không
“văn hoa” – với văn học phóng sự – cũng như phóng sự báo chí, vốn cũng dựa trên cơ sở các sự kiện
và nhân vật có thật nhưng khía cạnh văn học rất trau chuốt”. Mặc dầu chưa rõ nét, nhưng ý kiến này
bước đầu đã chú ý đến chất văn học – một điểm cơ bản để phân biệt phóng sự văn học và phóng sự báo
chí.
Như vậy, những ý kiến trên đều khẳng định sự giống nhau cơ bản giữa phóng sự văn học và
phóng sự báo chí là ở tính chân thật và tính thời sự của đối tượng phản ánh. Cái làm nên sự khác biệt
của hai thể phóng sự này là ở chức năng của thể loại: nếu phóng sự báo chí có chức năng phản ánh -
thông tin thì phóng sự văn học có chức năng phản ánh – thông tin – thẩm mỹ. Chính thông tin – thẩm
mỹ này tạo nên chất văn học cho phóng sự văn học.
1.2.1. Phóng sự báo chí
Do đảm nhận chức năng riêng biệt là phản ánh – thông tin nên phóng sự báo chí có những đặc
trưng riêng biệt về tính xác thực, tính thời sự và phương thức phản ánh.
Thứ nhất, tính xác thực và là một đòi hỏi có tính tuyệt đối của phóng sự báo chí. Nhà văn có thể
khép kín, không giao lưu xã hội vẫn có thể cho ra đời tác phẩm, kiểu như Đichkensơn (Mỹ) sau những
thất vọng về tình cảm đã tự khép mình trong ngôi nhà riêng và không giao tiếp với xã hội vẫn có vần
thơ hay. Báo chí thì khác, nhà báo không thể không lăn lộn vào xã hội mà vẫn có bài viết được. Báo
chí ở giữa cuộc đời, và cuộc sống có thể tràn vào báo chí với độ sâu rộng nhất, sinh động và thới sự
nhất. Chủ thể phản ánh là nhà báo phải trực tiếp chứng kiến những điều “mắt thấy, tai nghe”, những sự
kiện đang tồn tại, đang trôi chảy. Nội dung phản ánh phải chính xác nhất, chi tiết nhất, cụ thể nhất.
Không phải nhẫu nhiên mà người ta quen nhắc đến những tiêu chí xác định về không gian, thời gian,
nội dung sự việc của tác phẩm báo chí qua năm W: What? Who? Where? When? Why? Đây là những
tiêu chí nhằm đảm bảo tính xác thực của tác phẩm báo chí, tạo niềm tin tuyệt đối và có giá trị thuyết
phục độc giả cao.
Với phóng sự văn học, yếu tố xác thực không phải bao giờ cũng cần thiết. Phóng sự báo chí thì
khác, chính báo chí là tấm phiên bản trung thực nhất của đời sống, hay chính là đời sống trong dạng
được ghi chép, mô tả trực tiếp. Nhà báo không tái tạo cuộc sống như một số ngành nghệ thuật khác mà
giữ nguyên vẹn bức tranh cụ thể, chính xác đến từng chi tiết của đời sống xã hội. Báo chí có nhiệm vụ
chọn lọc, phân tích, đánh giá những hiện tượng của đời sống – những hiện tượng không bao giờ tồn tại
ở thế ổn định – bằng những nhận định đúng đắn, có giá trị. Vi phạm tính chính xác này, phóng viên có
khi phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Thứ hai, tính thời sự là một trong những yêu cầu hàng đầu, là đòi hỏi vô cùng bức thiết mà
phóng sự báo chí phải đạt được. Những thông tin mà báo chí cập nhật trong mỗi thiên phóng sự phải
luôn nóng hổi, mới mẻ, đáp ứng yêu cầu đang hối thúc từng giờ, từng phút của dư luận. Phóng viên
phải tốc tả, khẩn trương, tức thời đưa lên mặt báo vấn đề dư luận đang quan tâm. Tránh tình trạng
“vuốt đuôi” khi sự việc đã xảy ra mới thông tin, bàn luận.
Thứ ba, phương thức phản ánh của phóng sự báo chí mang những đặc trưng riêng biệt. Điểm
giống nhau giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí là đều thể hiện tính sinh động của ngòi bút
người kể chuyện, nghĩa là phải tìm tòi những hình thức diễn đạt sáng tạo, các bút pháp phải đa dạng,
kết cấu linh hoạt…để hấp dẫn, lôi cuốn người đọc. Tuy nhiên, điểm làm nên sự khác biệt của phóng sự
báo chí với phóng sự văn học là phóng sự báo chí không chấp nhận mọi hình thức hư cấu. Không cần
đến những hình thức diễn đạt quanh co, gián tiếp, những ẩn dụ, phóng dụ, những thách đố về chữ
nghĩa, những trò chơi ngôn từ… Ngôn ngữ báo chí đòi hỏi tính chính xác cao, cô đúc, chọn lọc, mẫu
mực, đơn nghĩa. Cái Tôi tường thuật ở phóng sự báo chí phải là cái tôi nhân chứng khách quan. Nghĩa
là nhà báo phải có thái độ khách quan khi miêu tả hiện tượng và đánh giá bản chất. Tất nhiên, khách
quan chứ không phải là thờ ơ, lãnh đạm. Nghĩa là có cái tôi cảm xúc trước sự thật, nhưng đó không
phải là cảm xúc thẩm mỹ như ở phóng sự văn học. Cảm xúc nhưng phải tỉnh táo khi phản ánh, sắc sảo
khi lập luận.
1.2.2. Phóng sự văn học
Cũng như phóng sự báo chí, tính xác thực và thời sự cũng là nguyên tắc mà phóng sự văn học
cũng phải tôn trọng. Nhưng nếu như ở phóng sự báo chí, yêu cầu này đòi hỏi một cách tuyệt đối thì ở
phóng sự văn học, yêu cầu này không đặt ra một cách bức thiết. Bởi lẽ, phóng sự văn học không chịu
áp lực cấp bách của dư luận như phóng sự báo chí.
Là hoạt động sáng tạo nghệ thuật, phóng sự văn học sáng tác những mảng khác nhau của đời
sống một cách khái quát thông qua nhân vật điển hình. Sự kiện, con người, tình huống mà phóng sự
văn học phản ánh không chỉ tiêu biểu mà còn chứa đựng yếu tố thẩm mỹ. Đây là đặc trưng khu biệt của
phóng sự văn học và phóng sự báo chí. Trong vô số cái bình thường, người viết phải biết phát hiện nét
điển hình. Phóng sự văn học không chỉ dừng lại ở việc tái hiện sự kiện mà còn phát hiện “vấn đề”,
thậm chí vấn đề mang tầm thời đại.
Cũng như phóng sự báo chí, phóng sự văn học cũng lựa chọn những phưng thức phản ánh thích
hợp để đạt hiệu quả. Phương thức làm nên sự độc đáo của phóng sự văn học là sự hư cấu. Hiện thực
không bao giờ đứng yên mà luôn vận động, biến đổi, nhà phóng sự văn học khó mà tường tận hết thảy
mọi việc. Vì thế, phải dựa vào năng lực phán đoán, tưởng tượng một cách khoa học, logic. Hay nói
đúng hơn là hư cấu. Tuy nhiên, hư cấu phải tăng ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật mà không ảnh
hưởng đến tính xác thực của hiện thực phản ánh “không được sử dụng một cách tuỳ tiện, ảnh hưởng
đến sự xác thực của nội dung, mà phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác
phẩm” [12, tr.221].
Như vậy, sự hư cấu trong phóng sự văn học diễn ra ở một “ngưỡng” cho phép:
Sự hư cấu trong phóng sự văn học chỉ diện ra ở phạm vi và mức độ nhất định. Thứ nhất,
phần nhiều chỉ ở mức độ hư cấu kĩ thuật: lựa chọn những hiện tượng có thực trong cuộc
sống, tổ chức. Sắp xếp, tô đậm, xoá mờ…để kết cấu tác phẩm một cách tối ưu, theo logic của
khách thể. Thứ hai, có thể dùng trí tưởng hợp logic để hư cấu nâng cấp những hiện tượng
ghi chép sự thật. Sự nâng cấp này không chỉ dừng ở việc hư cấu ở những thành phần không
xác định (như thế giới nội tâm của nhân vật…) mà trong một chừng mực nào đó, có thể sáng
tạo thêm những chi tiết, những dữ kiện mới, nhằm mục đích trình bày hiện thực cho đúng
bản chất của nó. Đấy là sự phản ánh và sáng tạo” [81, tr.47].
Cái tôi trong phóng sự văn học là cái tôi – nhân vật trần thuật. Cái tôi này thể hiện thái độ thẩm
mỹ trong việc thông tin sự thật. Từ sự dẫn dắt, thuyết phục, cái tôi này bộc lộ những tình cảm để bàn
luận, thuyết phục một cách chân thành tạo ra những văn bản thẩm mỹ đa nghĩa.
Về ngôn ngữ, phóng sự văn học không sử dụng ngôn ngữ tường minh, một tầng nghĩa như
phóng sự báo chí. Phóng sự văn học thuộc phạm trù ngôn ngữ văn chương nên nó có tính đa nghĩa:
không chỉ nói cái xảy ra mà còn gợi nhiều tầng nghĩa suy ra từ chính cái xảy ra đó. Nói như L.
Tônxtôi: “có thể gợi ra một tập hợp không sao kể xiết những ý tưởng, những tình cảm, những sự giải
thích”.
Phóng sự văn học có đặc điểm nổi bật là:
… không chỉ làm tròn chức năng thông tin mà còn đậm sắc thái trữ tình. Người đọc không
chỉ thấy sự kiện (thông qua vô số tình tiết, số liệu, thống kê…) mà còn thấy vấn đề; không
chỉ thấy những phiến đoạn khác nhau của đời sống mà còn đến được với thế giới nội tâm,
hiểu được hoàn cảnh và tính cách, thấm thía với số phận của một số nhân vật. Rất tự nhiên,
phóng sự trở thành cầu nối vững chắc cho hai vùng đất báo chí và văn chương. Nó làm cho
báo chí thêm sức hấp dẫn và làm cho văn chương thêm giàu có, gần với đời thường.[19,
tr.1422].
1.3. Mảng phóng sự viết về đề tài nông thôn
Trong khi các nhà phóng sự hướng ống kính về thành thị để phản ánh cuộc sống muôn mặt đầy
những bi hài của xã hội thì mảng hiện thực về nông thôn cũng có những lực hút mãnh liệt đối với các
cây bút phóng sự đương thời. Hiện thực nóng hổi đang còn khuất lấp sau những luỹ tre xanh đã hấp
dẫn các nhà phóng sự. Phóng sự về những miền quê đã có được những bức tranh đầy ấn tượng, mặc dù
số lượng tác phẩm không nhiều, nhưng đó thực sự là những tác phẩm có giá trị.
Nông thôn Việt Nam 1930-1945 qua các phóng sự không còn là những miền quê yên ả thanh bình
nữa mà là một hiện thực đau lòng. Đó là một nông thôn của “nước ao tù, phân người và rác”, một
nông thôn với hàng trăm thứ hủ tục, lệ làng lạc hậu đã nhấn chìm người dân vào cảnh khốn cùng,
những áp bức bất công đè lưng cưỡi cổ những kiếp người vô tội. Dọc theo chiều dài của đất nước,
nông thôn Việt Nam 1930 -1945 lần lượt hiện lên một cách sinh động, rõ nét qua những thiên phóng
sự xuất sắc: nông thôn miền Bắc được tái hiện qua Việc làng, Tập án cái đình của Ngô Tất Tố, Làm
dân, Xôi thịt của Trọng Lang, Bùn lầy nước đọng của Hoàng Đạo, Cơm thầy cơm co của Vũ Trọng
Phụng…, nông thôn miền Trung nổi bật bởi Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi, tại vùng sông nước
Nam Bộ, những miền quê lại được hiện lên trên bức tranh Đồng quê của Phi Vân. Tất cả là những
mảng màu sinh động tập hợp lại tạo nên bức tranh toàn cảnh của nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đầy
những bề bộn, thối nát, đói rách và lạc hậu.
Trong số những cây phóng sự về nông thôn Việt Nam, Ngô Tất Tố nổi lên như một tác gia tiêu biểu
nhất. Trình làng với hai tập phóng sự Việc làng, Tập án cái đình, Ngô Tất Tố trở thành “nhà văn của
hạng dân quê nghèo và dốt” (Vũ Ngọc Phan). Ông đã phơi bày ra ánh sáng hàng trăm hủ tục, lệ làng
quái lạ đè nặng lên bao kiếp người từ đời này sang đời khác như một định mệnh. Những cảnh ngộ
thương tâm, nực cười ở chốn thôn quê cứ phơi bày ra trước mắt như những bằng chứng sống cho bản
cáo trạng đanh thép về tội ác của bọn thực dân phong kiến. Một cổ hai tròng, người dân không thể
ngóc đầu lên được, họ cứ mãi mu muội trong kiếp nô lệ mà không đường thoát. Tiếp nối dòng cảm
hứng của Ngô Tất Tố, Trọng Lang cũng thêm một nét vẽ nữa về những khốn khổ của người dân trước
những hủ tục vô nhân đạo: “lùi lại một bước là Hà Nội với tất cả những tráng lệ và trưởng giả của một
đế đô. Nhưng chỉ tiến một bước thôi, lại là một làng có hơn trăm suất đinh, vẫn nhất định, sau luỹ tre,
khư khư ôm những hủ tục, những nhân vật mà lẽ sống, trước ngày 9 -3 là xôi thịt, và sau ngày 9, lẽ
sống vẫn lại là xôi thịt như thường”. Và tất nhiên, số phận của người dân “suốt đời nghèo xơ, nghèo
xác, ăn không đủ, mặc không đủ” là điều hiển nhiên. Ông vua phóng sự đất Bắc Vũ Trọng Phụng tỏ ra
xuất sắc khi cho ra đời Cơm thầy cơm cô – một phóng sự tiêu biểu hội tụ tài năng của một ngòi bút
huyền thoại. Phóng sự miêu tả cảnh những người dân quê mùa, khốn khó bỏ thôn quê nghèo lên thành
phố kiếm sống. Ở “miền đất hứa” này, họ phải chịu cảnh chết đói lần thứ hai, phải chứng kiến cảnh
“giá con người ngang hàng với giá loài vật”.
Không chỉ tập trung mô tả những hủ tục, các nhà phóng sự còn hướng ống kính về những tai hoạ
khác đổ ập vào đầu người dân. Đó là những thủ đoạn bẩn thỉu của đám cường hào trong Túp lều nát mà
Nguyễn Đổng Chi nói ngay trong lời tựa: “sau hơn năm tháng trời dụng công để nhìn, để nghe những
cảnh tượng mà tôi không thể tin được là có xảy ra – và xảy ra luôn – ở trên đất có đến hai chính phủ
trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc”, dưới ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Trần Ai, bức tranh quê vùng nông
thôn xứ Nghệ hiện ra vô cùng ảm đạm, trong đó người nông dân như một “loài động vất ngắn cổ”
phải chịu cảnh sưu cao, thuế nặng và những kiểu bóc lột trá hình khác. Tác giả Túp lều nát đã bóc trần
bộ mặt hiện thực của bọn hào lý với những thủ đoạn nham hiểm, táng tận lương tâm đã làm cho túp lều
che chở cho người nông dân ngày càng trở nên mục nát. Tác giả đã gióng lên một hồi chuông báo
động: “rằng có một túp lều sắp đổ!”
Xuôi về miền quê Nam Bộ, mảnh đất hiền hoà này cũng thấm đẫm nước mắt và đầy rẫy tiếng rên
oán hờn của người nông dân trước những áp bức bất công của đám chủ điền độc ác, dâm ô. Đau lòng
trước hiện thực ấy, năm 1943, Phi Vân cho ra đời tập phóng sự Đồng quê – một tác phẩm xuất sắc,
miêu tả chi tiết sinh động những cảnh sinh hoạt, tập tục ở vùng quê Nam Bộ. Tác phẩm được giải nhất
- giải thưởng Văn chương do Hội Khuyến học Cần Thơ tổ chức. Tiếp tục đề tài quen thuộc, Phi Vân
viết tiếp Tình quê, Dân quê, tiếp tục vạch mặt chỉ tên những viên chức làng xã độc ác, tham lam dốt nát
do thực dân Pháp lập nên. Bằng thái độ tích cực, tác giả đặt ra yêu cầu cấp thiết, đúng đắn, có giá trị
thức tỉnh mạnh mẽ: “Cần phải phá nát chế độ mà ta đang sống, cần phải dựng một cái gì mới mẻ hơn”
(Dân quê).
Ngoài ra, đời sống nông dân miền biển cũng được L.P phản ánh sinh động trong phóng sự Một cuộc
điều tra muối (Tin tức, số 22- 27, tháng 7, 1938). Cảnh thiên tai đói kém của nông dân Kinh Bắc và sự
ăn chặn đồ cứu tế của đám cường hào lại được Đ.K phản ánh khá sinh động trong Câu chuyện Bắc
Giang (Tin tức, số 10 – 18, tháng 6, 1938)...
Bức tranh hiện thực đầy u tối, xám xịt, đói rách và lạc hậu của nông thôn Việt Nam 1930 – 1945
đều lọt vào tầm ngắm của các nhà phóng sự. Muốn phá bỏ những gì là dã man, vô nhân đạo, muốn
hướng tới một xã hội công bằng, tươi sáng hơn, các nhà phóng sự đã thể hiện ý tưởng và niềm tin của
mình trong những thiên phóng sự. Điều đáng ghi nhận là, không chỉ phản ánh hiện thực mà phóng sự
nông thôn còn là những bản cáo trạng đanh thép tội ác của bọn thực dân phong kiến đồng thời gióng
lên những hồi chuông cảnh tỉnh xã hội vô cùng sâu sắc.
Chương 2
NỘI DUNG HIỆN THỰC VÀ CẢM HỨNG TƯ TƯỞNG TRONG CÁC PHÓNG
SỰ VỀ NÔNG THÔN
2.1. Hiện thực nông thôn Việt Nam trong các phóng sự
2.1.1. Bức tranh phong cảnh và phong tục
2.1.1.1. Những cảnh vật nông thôn.
Đề tài nông thôn không hề mới lạ, tuy nhiên, để khắc hoạ được một bức tranh quê với đủ các
diện mạo, màu sắc của nó không phải là dễ. Phóng sự 1930 - 1945 đã làm được điều đó. Đọc những
phóng sự này, ta có thể nhận diện được bối cảnh nông thôn Việt Nam một cách toàn diện với những
đặc trưng vùng miền khó lẫn.
Cảnh vật nông thôn Bắc Bộ trong phóng sự Xôi thịt của Trọng Lang chỉ hiện lên thấp thoáng, mờ
nhạt nhưng cũng đủ để toát lên một bức tranh tiêu điều, xơ xác và tàn lụi.“Ở đây chỉ có nước, ao tù,
phân người và rác (…) vẫn phân, vẫn rác. Vẫn thế. Vẫn bẩn ghê người” (Xôi thịt).
Bên cạnh Xôi thịt của Trọng Lang là những thiên phóng sự của Ngô Tất Tố. Sức nặng của
những phóng sự này không phải là miêu tả những cảnh vật nông thôn, trong khi chuyển tải những “vỉa
quặng sự thật” vốn bị chìm lấp, ta cũng nhận ra đôi nét sơ lược về một nông thôn Bắc Bộ đang quằn
quại trong sự khắc nghiệt của tiết trời nơi đây. Có khi là hạn hán, là cái nắng gay gắt, chói chang của
mùa hè: “ánh nắng như thiêu đốt càng dữ, trên đường thỉnh thoảng lại thấy khét lửa cháy.”[53, tr.22].
Có khi là cơn báo thù tàn nhẫn của thời tiết: “Hôm nay ông thần Hạn đã báo thù trần gian một cách
tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất tuy không chảy mỡ
nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt” (53, tr109). Có khi lại là cơn giận dữ bất ngờ của trời đất đem giá
lạnh đến cho con người, những cảnh phong vũ bất tình: “Gió bấc”, “những luồng chớp”, “những tiếng
sét vỡ trời”[53, tr.96]. Có khi lại là cảnh điêu linh cùng khổ của người dân khi phải chống chọi với lũ
lụt...
Cảnh sắc nông thôn Bắc Bộ hiện lên với tiết trời khắc nghiệt, nắng như thiêu như đốt, lạnh thấu
xương, tang thương vì mưa gió bão lụt, dơ bẩn vì lạc hậu, đói nghèo. Nếu như các nhà văn lãng mạn
chủ nghĩa thường phản ánh sai lệch, hoặc thi vị hoá cuộc sống nông thôn với thế giới của những đêm
trăng, những ngày hội, những cô thôn nữ xinh đẹp, ngây thơ, những mối tình đậm đà, chất phác…thì
với các nhà văn hiện thực, cảnh vật ở nông thôn mới được phản ánh một cách chân thực như vốn có.
Đối lập với những cảnh vật đang bị quay cuồng trong giông bão, gió rét, hạn hán, lụt lội ở nông
thôn Bắc Bộ, những cảnh vật ngày ngày ngày đang rỉ máu nhầy nhụa do tội ác của thực dân ở nông
thôn Trung Bộ là bức tranh đồng quê tươi tắn đến lạ thường trong phóng sự của Phi Vân. Phi Vân đem
đem đến một hơi gió mát trong bức tranh vốn ngột ngạt những vấn đề xã hội quyết liệt.
Người đọc có thể nhận thấy một bối cảnh nông thôn miền Nam toàn diện trong ba tác phẩm quí giá
của ông: Đồng quê, Dân quê và Tình quê. Trong đó, Đồng que được nhiều người biết hơn cả không chỉ
vì phóng sự này đoạt giải nhất cuộc thi văn chương của Hội khuyến học Cần Thơ mà bởi lẽ nó để lại
một ấn tượng sâu sắc về hình ảnh một vùng quê sông nước Nam Bộ với những đặc trưng khó lẫn.
Truyện mở ra trước mắt chúng ta những cảnh đẹp êm đềm sông nước với những hàng dừa nước âm u,
bên những con sông, kênh, rạch vùng Bạc Liêu, Cà Mau, văng vẳng giọng hò trầm bổng.
Chỗ hứng thú của thiên phóng sự là ta thấy mình len lỏi chốn đồng quê, đang mục kích những cuộc
tụ họp chơi bời, những cảnh cần lao rộn rịp. Thỉnh thoảng như đưa lại giọng hò trầm bổng trong đám
gặt, như phất lại mùi hương thanh đạm của lúa vàng.
Ta còn đi quanh co những con sông rạch ở vùng Bạc Liêu, Cà Mau, được nhìn thấy những cảnh sắc
êm đềm:
Làng Thới bình nép mình trong chòm dừa xanh rậm. Vài xóm nhà lá leo heo ở dọc theo bờ
kinh nhỏ yên tĩnh với tháng ngày. Cứ mỗi buổi sáng là đàn ông, đàn bà lẫn cả con nít vác cuốc
ra đồng, quanh năm làm bạn với mấy mẫu ruộng nhà, vài công rẫy khóm. Ở đầu kinh trông ra
dòng sông Trẹm, một cái chợ nho nhỏ nổi lên.(…) Dòng sông Trẹm lững lờ trôi ngang và ban
chiều, trong chòm dừa xanh ấy, mấy làn khói trắng bốc lên…Người đàn bà xong việc bếp núc,
ẵm con ra đợi chồng về, lâu lâu đuổi bay gà đang bươi trên giồng rau cải. [89, tr.64-65].
Cảnh vật thật trữ tình! bên bờ sông Trẹm, lững lờ mấy làn khói trắng bốc lên và dưới hàng dừa
xanh tươi, một thiếu phụ ẵm con đứng đợi chồng về, lâu lâu đuổi bầy gà đang bới trên những giồng rau
cải; giữa đêm trường vắng vẻ, chiếc thuyền xuôi mái theo rạch Bần, trông lên bờ sau hàng dừa nước
âm u, một vài ánh đèn le lói, nghe từ xa đưa lại tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm, bầu trời đầy sao,
cảnh đêm ảo huyền thơ mộng:
Đêm ấy không trăng. Muôn ngàn con mắt long lanh in trên nền trời đen thẫm. Cánh đồng lặng
ngủ trong ánh sáng mờ mờ. Gío thoảng từng hồi, từng hồi, ngọn lúa cựa mình xào xạc. Tiếng
vạc sành vang lên trong im lặng, xa xa. Tôi cảm thấy bồi hồi tưởng nhớ đâu đâu, rối nhẹ
nhàng, rồi khoan khoái, tôi rung đùi ca.[89, tr.108]
Cảnh làm cho tâm hồn con người gắn bó với quê hương, thiết tha với non sông đất nước. Những
giây phút kỳ diệu, thả hồn mình đắm chìm trong thiên nhiên đất trời, để nghe thấy tiếng gió thoảng
từng hồi, tiếng vạc sành văng vẳng từ xa, rồi khoan khoái rung đùi mà buông lời ca tiếng hát như vậy
thật không có gì bằng!
Bên vàm, hàng dừa nước âm u, lâu lâu thấy le lói một ánh đèn, bên bờ kia thình thoảng nghe
tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay, chỉ có vành trăng hai mươi bốn, nhưng sao
đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh vật thêm ảo huyền, thơ mộng. Một làn gói nhẹ thoảng
qua, tâm thần tôi thêm sảng khoái. [89, tr.72-73]
Bên cạnh cảnh đẹp của thiên nhiên, ta còn thấy trên vùng đất nguyên sơ này có vô số động vật quí
hiếm mà thiên nhiên “hào phóng” ban tặng: trúc, rái, chồn, rùa, kì đà, ong mật, cá, tôm... Trên đường
vào kênh Hang Mai, “người ta có thể gặp những con trúc, rái, kỳ đà, chồn, ong mật và vô số cá”. [89,
tr.4] Người đọc còn thích thú khi thấy cảnh con nít ở Kiến vàng ngụp lặn trong thế giới phong phú các
đặc trưng sản vật của vùng sông nước Nam Bộ:
..rừng rậm chông gai, bắt rắn như bắt ếch, bắt chim như bắt gà, (…) có thể lôi đầu mấy con
rắn hổ ngựa từ trên cây xuống…đá như đá ba-lông (..) nắm chóp hết những con kỳ nhông rắn
mối ra “rôti”…nhậu rượu!(…) mò lên một mớ tôm cá (..) ra vàm sông Mang-giổ ban đêm soi
sấu, vớt những con sấu con…[89, tr.90-91].
Thiên nhiên là kho tàng vô giá đem đến cho con người Nam Bộ một nguồn sống tràn trề. Họ thoả
sức ngụp lặn trong một thế giới vừa thơ mộng, trữ tình vừa dạt dào sức sống.
Để đặc tả cảnh nông thôn Nam Bộ kênh rạch chằng chịt, Phi Vân đã dùng ba chi tiết tiêu biểu nhất
là “kinh”, “ngách”, và “trấp” để khái quát lên bức tranh của một vùng quê sông nước, nào “Kinh Hang
Mai”, nào “kinh Biện Nhị”, “chúng “quanh co như “cửu khúc xà!. Nó có không biết bao nhiêu ngách
và không biết bao nhiêu trấp cản đường.”[89, tr.4].
“Tàu chạy hôm nay nữa là hai hôm rồi: sông Ông Đốc, kinh xáng Bà Kẹo, đầm Cùn, kinh xáng Thọ
Mai, nhưng xóm Kiến vàng vẫn còn xa lơ, xa lắc”. [89, tr.18]. Phi Vân miêu tả tỉ mỉ đoạn hành trình
đầy gian khổ ở một đám rước dâu phải đi qua biết bao kinh rạch như vậy để gián tiếp cho thấy một
mảnh đất đồng bằng trời nước bao la.
Ngân vang trên nền cảnh vật tươi xanh trữ tình của vùng quê Nam Bộ là những điệu hò, là những
câu hát ru làm cho bức tranh cảnh vật thêm trữ tình và lãng mạn. Đó là những bữa trưa hè oi ả, trời
nóng nung người, văng vẳng từ đâu vọng lại tiếng võng kẽo cà kẽo kẹt ru con:
Tháng ba cơm gói ra hòn
Muốn ăn trứng nhạn phải vào Hang Mai
Tiếng hò đấy cứ văng vẳng bên dòng sông Trẹm, trong một buổi hoàng hôn làm người đọc nao
lòng: “Thế rồi một buổi chiều. Làng Thới bình chìm đắm trong buổi hoàng hôn. Vòm sông Trẹm chỉ
còn văng vẳng tiếng hò của một vài khách thương hồ” [89, tr.71]. Rồi tiếng hò lại thỉnh thoảng vang
lên trong nhiều trang của tập phóng sự: “Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một điệu hò mê ly,
đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong lặng lẽ”… [89, tr.73]
Âm thanh êm ái, trữ tình của những điệu tiếng hò có thể xem là “đặc sản” của vùng đất Nam Bộ.
Người đọc có thể miên man trong những lời ca, điệu hát và cảm thấy tâm hồn như được thanh lọc, thư
thái hơn, thuần khiết hơn.
Nông thôn Nam Bộ hiện lên trong trang viết của Phi Vân tươi tắn đến lạ thường! không phản ánh
một cách sai lệch hay thi vị hoá cuộc sống nông thôn như các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa, cảnh vật
nông thôn hiện lên trong tập phóng sự Đồng quê của ông hết sức chân thật và sinh động . Là mảnh đất
được thiên nhiên ưu đãi, ban tặng cho sự trù phú, màu mỡ, cảnh vật nơi đây cũng êm đềm, tinh khiết
đến tuyệt vời! Vẻ đẹp đó dường như làm dịu nhẹ hẳn cái không khí gay gắt, nặng nề mà hằng ngày con
người phải đối mặt.
Đúng như bài diễn văn của GS Nguyễn Văn Khiết, chủ tịch Uỷ ban Văn chương của Hội Khuyến
học Cần thơ đánh giá về Đồng quê của Phi Vân: “Quyển phóng sự như một tấn tuồng gay cấn đặt
trong cảnh trí tươi xanh..”!
2.1.1.2. Những sinh hoạt, phong tục truyền thống đậm bản sắc văn hoá.
Những sinh hoạt văn hoá, những phong tục truyền thống của nông thôn Việt Nam được Ngô Tất
Tố thể hiện khá sinh động trong Việc làng và Tập án cái đình. Mặc dù nhìn ở góc độ những hủ tục,
nhưng người đọc vẫn thấy gốc gác cái đình cùng bao câu chuyện, tập tục lạ lùng đến cười ra nước mắt
của đời sống dân quê quanh ngôi đình làng quen thuộc, nơi cố kết các phong tục tập quán và đời sống
văn hoá tâm linh dân gian. Kiến thức lịch sử văn hoá và sự am hiểu đến chân tơ kẽ tóc phong tục, đời
sống tinh thần và tâm linh người nông dân Việt Nam hiện lên lồ lộ trên từng trang viết. Sau mỗi trang
viết ấy, người ta nhận ra gốc gác, vốn sống, tính cánh của người cầm bút Ngô Tất Tố: con người của
làng xã và con người của nhà nho. Đúng như lời nhận xét của Vũ Ngọc Phan: “Ngô Tất Tố là nhà văn
của hạng dân quê nghèo và dốt”.
Không nhìn từ mặt trái của những phong tục tập quán như Ngô Tất Tố, Phi Vân lại đưa người
đọc trở về với cội nguồn bản sắc dân tộc qua những phong tục tập quán của người dân Nam Bộ. Có thể
nói, sẽ không thể có một bức tranh hoàn chỉnh về nông thôn Việt Nam trong phóng sự 1930-1945 nếu
không khẳng định những đóng góp tích cực của Phi Vân – “một Ngô Tất Tố phương Nam” – giúp
chúng ta cảm nhận những nét đặc sắc độc đáo của nông thôn Nam Bộ. Tập phóng sự Đồng que của ông
không chỉ là bức tranh cảnh vật tươi tắn của chốn đồng quê mà còn là bức tranh phong tục mang đậm
bản sắc văn hoá.
Vùng quê sông nước Nam Bộ tuy là ít lễ nghi, phong tục, nhưng với phóng sự Đồng quê, Phi Vân
đã giúp người đọc cảm thấy thích thú khi cảm nhận những nét đặc sắc, độc đáo về những phong tục,
những lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá của người dân Nam Bộ. Những phóng sự ngắn đều là một số
đặc tả chớp nhoáng về khung cảnh sinh hoạt, vui chơi, lễ tục … của vùng sông rạch ở cực Nam đất
nước. Đó là những lễ cưới và những buổi hội hát diễn ra trên vùng đất sông nước mênh mông. Đặc tả
nào cũng giàu tính kịch và gần như những truyện ngắn.
Do điều kiện địa hình sông nước, dĩ nhiên, việc đi lại không thể là xe cộ mà phải là ghe xuồng, và
tất nhiên mọi hoạt động phải “thuận theo con nước”: nước lớn, nước ròng. Bởi đó mà đám cưới ở mảnh
đất sông nước này nghe chừng cũng trái khoáy, nhà trai nhà gái, cô dâu chú rể đều ở trên ghe, đám
cưới càng nhiều ghe càng long trọng. Muốn ăn trứng nhạn và Trao thân con khỉ mốc là hai đám cưới
bằng thuyền, diễn ra trong hai hoàn cảnh khác nhau: một đám cưới đêm phải vượt qua Hang Mai, với
đoạn đường trên ba chục cây số, rủng rình khăn lượt quần là ngồi nghe tiếng đàn vọng cổ. Một đám
khác thì phải chạy tàu suốt mấy ngày đêm trên sông nước. Rước dâu phải đúng giờ “lành” thì cô dâu
chú rể mới hạnh phúc vẹn toàn: “Đàng trai lại rước dâu vào lúc mười giờ tối. Lễ xong, chúng tôi
xuống ghe luôn. Đằng trai đi hai ghe, đằng gái theo hai ghe, một ghe ông bà già cả, một ghe thanh
niên. Ai trông thấy cũng thì thào khen ngợi, không hổ danh ông Xã chút nào”. [89, tr.6].
Người dân quê tuy ít học, vì không có điều kiện, nhưng họ biết quí trọng chữ nghĩa, tài nghệ. Bởi
những người có học, có nghề bao giờ cũng được họ nể trọng, thỉnh mời trong những dịp lễ hội. Đám
cưới cũng vậy, họ cũng chuẩn bị rất chu đáo, mời những người có học, có tài để đám cưới thêm phần
long trọng: “Thằng Sáu mầy có tài ăn nói, thằng Năm mầy có ngón đàn hay, vậy bay vui lòng theo tao
qua bên “đằng trai” cho “rôm”và để bên ấy biết rằng làng mình cũng có lắm nhân tài.”[89, tr.4-5].
Ở một đám dâu khác, Phi Vân miêu tả khá tỉ mỉ: Chú rể xúng xính “khăn đóng, áo dài”, có cả ông
chủ hôn, “Đi họ còn có cả ba cô gái: áo tím, áo xanh, “bọt đê” dài thườn thượt. Họ tỉ mỉ từng chút,
luôn luôn khẽ nhặt sống áo và lai quần hàng thẳng bóng để đôi giày cườm khỏi vướng mà làm lấm hư
đi…” [89, tr.18 -19].
Người ta hấp tấp sửa soạn. Hương Ba gò gẫm khăn đóng cho ông Cai Sót; chàng rể cài
khuy cho ông Chánh Khá. Bà sui trai và hai người đàn bà đi họ, mấy ngày giam hãm trong
chiếc buồng con đằng sau lái tàu để xới trầu và xỉa thuốc, bây giờ cũng thấy hăng hái xếp
đặt lại cái hộp trầu. Ba cô thiếu nữ nheo mắt lo đánh vội một lớp phấn và còn rán vẽ được
hình trái tim trên đôi môi đỏ óng. Người ta phủi lại nếp áo, người ta chùi sơ lớp bụi đóng
trên mũi giày.(…) Ông Hương Ba đã hờm sẵn khay trầu rượu, xây qua dặn chàng rể:
- Lúc làm lễ, hễ tao đặt khay trầu rượu ở bàn nào thì vợ chồng mầy sẽ lạy ở bàn đó… mà
nhớ luôn luôn đứng bên tay trái nghe, “nam tả nữ hưũ (..) Cả đoàn lần lượt lên bờ và sắp
hàng có thứ tự đi vô sân, đứng đợi. Trong nhà khách, ba bốn ông lão đang nói chuyện vang
quanh chiếc bàn tròn trải thảm đỏ! Mấy cây nến sáp rọi sáng cả gian nhà. Một bọn trai
tráng mặc áo dài đen chạy lăng xăng, pha trà, bưng chén. Họ đằng trai vẫn đứng ngoài chờ.
[89, tr.20-21-22].
Trong lúc chờ đến đúng giờ mới rước dâu, nhà trai đặt khay trầu rượu lên bản giữa, xin dán đôi liễn
giao hiếu lên cột, ông tộc trưởng lẩm nhẩm đọc những câu liễn mà không ai hiểu được, ông chủ hôn
Hương Ba phải cắt nghĩa tững chữ, đến lễ trình đồ nữ trang: chiếc vòng, dây chuyền và đôi bông nở,
tiếp sau đó là lễ lên đèn làm lễ cưới, rồi lễ trao thân gửi mình, cuối cùng đám bưng mâm hộ tống cô
dâu xuống thuyền, giựt chuông mở máy. Vào xin cưới chưa đúng giờ sẽ bị nhà gái hạch sách, đồ dẫn
cưới không được thiếu món này món nọ… Phi Vân đã miêu tả hết sức tỉ mỉ từng chi tiết giúp người
đọc hình dung khá rõ phong tục đám cưới của dân quê nơi đây.
Lễ cưới là phong tục có tính truyền thống từ lâu đời đối với người dân Việt, mỗi địa phương, vùng
miền có mỗi phong tục khác nhau. Nam Bộ là vùng đất mới khai phá, dân tứ phương dễ xem như anh
em “tứ hải giai huynh đệ”, tuy không nặng phong tục tập quán, nhưng những lễ nghi phong tục thể
hiện sự thiêng liêng của buổi hôn lễ đã được người dân vùng đất mới này lưu giữ, cải biến cho phù hợp
với môi trường và hoàn cảnh mới. Phi Vân đã khéo làm sống dậy những tục cưới độc đáo, mang đậm
bản sắc dân tộc của người dân vùng sông nước Nam Bộ này.
Bên cạnh phong tục tập quán của những lễ cưới là những buổi diễn tuồng. Đó là câu chuyện một
buổi diễn tuồng Phụng Nghi Đình ở làng quê trong Đổng Trác biết sập giàn. Ở đây sinh hoạt tinh thần
cũng nghèo như đời sống vật chất của họ. Họ luôn khao khát có được niềm vui, cuộc sống tinh thần, từ
những buổi cúng đình có ghe hát đến giúp vui. Họ náo nức, chờ đợi :
Đình đang buổi Kỳ yên. Người ta dọn sẵn sàng tất cả, chỉ chờ ghe hát đến là lên giàn. (…)
Người ta thấp thỏm chờ đến buổi chiều. Trẻ con rộn rực đòi áo quần, xin xu ăn bánh; các
anh trai tráng nôn nao bỏ giấc nghỉ trưa, ở luôn ngoài ruộng đợi chiều về sớm một chút, các
cô gái, mặt trời chưa chênh bóng là đã lo làm cá nấu cơm. Khi tiếng trống “thùng thùng”
nổi lên trên xóm đình, thì dọc theo bờ ruộng đã thấy lũ lượt kẻ năm người ba kéo nhau đi
xem hát.[89, tr.41-43]
Diễn tuồng còn được miêu tả trong Chợ hay quê, đây là cảnh sinh hoạt tuồng hát ở một nơi nửa
quê, nửa tỉnh. Người ta mượn miếu Bà Chúa Xứ bên kia con sông Lộ làm nơi diễn tuồng cho cả vùng
Cà Mau đến thưởng thức. Cả tháng không nghỉ đêm nào. Các gánh hát tụ tập ngày càng nhiều xung
quanh miếu Bà Chúa Xứ. Bọn trai gái và những viên quan ký lục, quan Pháp, thầy thuốc…được dịp
đến đó để chơi bời, xem các ả đào hát. Những buổi xem diễn tuồng ở rạp trở thành thói quen không thể
thiếu:
Rồi tối đến, người ta đem cắc bạc bỏ vào cái thùng của cô Tám, con ông Hội Trưởng và vô
để xem một đệ nhất anh hùng của thời Tam Quốc!
Đêm sau, rồi đêm sau…
Thói quen, thằng Tám Méo cũng quen. Cả xóm đều quen…Cả Cà Mau quen luôn! Hát bóng
nói ở các tỉnh lớn dễ đã được hoan nghinh hơn! [89, tr.83-84].
Một đặc trưng mang đậm nét văn hoá nữa mà Phi Vân miêu tả rất sinh động trong phóng sự Đồng
quê là những điệu hò, câu hát thỉnh thoảng được cất lên trong cuộc sống hằng ngày của người dân quê
Nam Bộ. Tiếng hò thường được cất lên trên ghe xuồng chèo trong đêm khuya thanh vắng, giữa đồng
không mông quạnh. Tiếng hò có lẽ đáp ứng được nhu cầu chia sẻ tâm sự của con người ở miệt đồng
quê sông nước. Người chèo ghe hò có khi để xua tan cơn buồn ngủ, có khi tiếng hò vang xa trong đêm
thanh vắng để tìm được lời đồng vọng. Người ở trong mui ghe thì sinh hoạt văn nghệ bằng tiếng đờn
hay những câu ca vọng cổ. Muốn ăn trứng nhạn (Đồng quê) miêu tả sinh hoạt này khá rõ nét:
Vào một đêm không trăng. Sao đầy trời. Bóng đêm bao phủ như bức màn mờ. Gặp mùa gió
bấc, ngồi trong mui chẹt ghe hơi sương xuống cũng đủ lạnh lùng. Thỉnh thoảng ngọn gió
đông hiu hắt lùa vào khoang gần tắt phụt ngọn đèn dầu. Bên ngoài các anh chèo vừa nhịp
mái ăn rập vừa “hò khoan” vang dậy. Bên trong, ngồi đối diện với mấy cô áo màu xanh đỏ,
thằng Năm cảm hứng lên dây Tố Lan đàn một bài vọng cổ rặc “mùi”[89, tr.6-7].
Cũng có khi người ta dùng tiếng hò như một thứ mẫn dụ tình cảm. Tiếng hò trong đêm vắng là
cuộc đối đáp bằng tiếng hò giữa một đôi nam nữ trên hai con thuyền giữa sông nước mêng mông.
“Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một điệu hò mê ly, đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong
lặng lẽ” [89, tr.73]. Hai tiếng hò điệu nghệ gặp nhau, họ trổ hết tài nghệ ra để đẩy đưa, đưa đẩy. Hò
dài đối dài, hò ngắn phải đối ngắn, có lúc anh chèo mê mẩn, say sưa, cảm động trước lời ca đầy hữu ý,
nhưng cũng có lúc gay cấn làm anh chèo phải cứng họng. Cứ thế, những lời ca thông minh, tế nhị trong
ca từ, thướt tha, uyển chuyển trong từng điệu nhạc đã cuốn lấy nhau, vọng mãi trong đêm khuya thanh
vắng.
Cứ tưởng rằng, những bức tranh phong tục, những sinh hoạt văn hoá mang đậm bản sắc không thể
có chỗ trong thể phóng sự – một mảnh đất chỉ dung nạp những vấn đề gai góc, nóng bỏng. Vậy mà Phi
Vân – một Ngô Tất Tố phương Nam - đã thổi được linh hồn của vùng quê Nam Bộ vào với thể loại
vốn khô cứng này. Phi Vân đã làm được một điều hết sức quan trọng là đã khắc hoạ rõ nét phần còn
thiếu trong bức tranh quê Việt Nam, làm cho nó đầy đủ hơn, toàn diện hơn.
2.1.2. Bức tranh hiện thực xã hội nhức nhối
Những mảng hiện thực được thể hiện trong phóng sự viết về đề tài nông thôn Việt Nam 1930 –
1945 chủ yếu là những tệ nạn xã hội nhức nhối, những hủ tục lạc hậu đang bao trùm lên làng xóm thôn
quê. Những cây bút phóng sự sắc nhọn như Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng
Chi, Phi Vân … đã đào xới thêm những vấn đề mới, để nhận thức thêm những phương diện mới, lật
tung cái mặt trái đầy ung nhọt ở một cơ thể đang băng hoại của chế độ thực dân nửa phong kiến thời
Pháp thuộc.
2.1.2.1. Những tệ nạn xã hội
Cũng như các nhà văn đương thời, những cây bút phóng sự viết về nông thôn cũng hướng ngòi
bút của mình vào việc khám phá những tệ nạn xã hội nhức nhối, những vấn đề xã hội thương tâm.
Bằng nhãn quan sắc sảo và ngòi bút hiện thực năng động, táo bạo, các họ đã lật tung những vấn đề xã
hội thuộc hàng quốc nạn lúc đó là tệ nạn tham nhũng, nạn sưu cao thuế nặng, chế độ hào cường, nạn
phù thu ăn chặn, và cả nạn tôi đòi con ở… Từng mảng đời sống xã hội cứ hiện dần lên trong trang viết
của các nhà phóng sự hợp thành bức tranh rộng lớn, phong phú và rất đậm nét.
Trước hết là nạn sưu cao thuế nặng khiến người nông dân phải sống trong cảnh lay lắt, éo le
được nhà văn, nhà nghiên cứu văn học và sử học Việt Nam Nguyễn Đổng Chi dưới bút danh Nguyễn
Trần Ai Mộng Thương thư trai Hà Tĩnh thể hiện khá sinh động cụ thể trong tập phóng sự Túp lều nát
(1937). Tập phóng sự gồm bài tựa và 13 chương. Dưới ngòi bút phóng sự sắc sảo của Nguyễn Trần Ai,
bức tranh quê vùng nông thôn Nghệ Tĩnh hiện ra vô cùng ảm đạm, trong đó người nông dân như một
“loài động vật ngắn cổ”. Chỉ nguyên nạn sưu cao thuế nặng cũng đủ đẩy người nông dân vào bước
đường cùng.
Mùa gặt của Hương Lý không phải như người nông dân gặt lúa ở ngoài đồng mà là “gặt sưu
thuế giữa dân gian”:
…họ chỉ ngồi yên một nơi, thỉnh thoảng phe phẩy chiếc quạt giấy, rít vài hơi thuốc lào, hoặc
nốc vài chén rượu (…) mấy người chung nhau một quản bút, một cái cùm nhỏ, con roi mây, cái
thước tay và một chiếc kẹp tay (…) tự dưng có người giắt bạc giấy, xu, hào…mà đưa đến tận
nhà[4, tr.25].
Nguyễn Trần Ai đã dựng lại một cách trung thực, sâu sắc cảnh những người nông dân đi nộp thuế:
trong giấy hội bổ của ông Nhiêu chỉ có 1 đồng 50 hào mỗi mẫu, nhưng ông Lý nói thách 5 mẫu 3 sào
lên đến 10 đồng 07 hào, rồi những tiếng cò kè mặc cả bớt một thêm hai giữa thầy Lý với ông Nhiêu; kế
tiếp là cảnh thằng đĩ Ba, thằng xã Trung không đủ tiền nộp thuế liền bị mấy tên phu tuần xiết cày, bừa,
lưới, vó, và cả cái vại nhỏ; đằng kia lại là cảnh một anh dân quê có thẻ bần (thẻ sưu của hạng người
nghèo phải nộp 1 đồng 8 hào một năm) nhưng chỉ có 8 giác bèn đem thân đến chịu tội. Khủng khiếp
nhất là cảnh chúng khảo của: Hương kiểm lấy chiếc kẹp ngũ trảm kẹp giữa các ngón tay người nông
dân tội nghiệp rồi nắm kẹp lại. Tiếng la thét giãy giụa choi chói như cắt cổ, tiếng rên xiết, tiếng rú
thảm thương… người đọc rởn gai ốc. Các ông hương chức thì ngồi ung dung bốn bên dỗ dành cho đến
lúc lòi thuế. Đúng là một quân cướp ngày!
Một người dân nữa không cha mẹ, vợ con, nhà thì trên không tranh dưới không phên nhưng bị
liệt vào hạng tráng nên không có tiền nộp, hắn phải trốn ra chợ Đình làm thuê để…kiếm ít tiền về nộp
thuế. Lục túi hắn có 3 hào, ông Lý đút vào tráp rồi bắt hắn làm việc không công cho Lý S hai tháng.
Thì ra sự thu thuế cho nhà nước ở làng đây, than ôi! Không còn là cái nghĩa thu thuế nữa. Nó
là một sự mua bán. Thách lên cao để cho kẻ khác trả xuống thật rẻ mạt rồi cứ nhích lên từng
nấc dần dần. Nó lại là một việc tra khảo cho lòi của ra nếu như không tìm được đồ đạc xiết lấy
đem về. Con roi mây, cái cùm, cái kẹp đều là những vật ép người cho lòi tiền thuế.[4, tr.30].
Tinh vi hơn là nhưng thứ thuế trá hình nấp sau những hủ tục, những luật lệ vô lý trong Việc làng
của Ngô Tất Tố. Giai cấp thống trị đã duy trì ở làng quê nhiều kiểu bóc lột: có hình thức trắng trợn
(sưu thuế, địa tô, cho vay nặng lãi, khoanh vùng cắm đất làm đồn điền…), có kiểu bóc lột nấp sau các
hủ tục, hương ước của từng vùng, lại có hình thức làm tiền nấp sau các bức màn Tôn giáo và mê tín dị
đoan. Những thứ thuế trá hình đó bọn phong kiến địa phương đánh vào đầu những kẻ thấp cổ bé họng
ở nông thôn. Không tuân theo, không chịu khuất phục trước uy thế của chúng tức là không tuân theo lệ
làng, lập tức bị làng ngả vạ. Chúng cứ việc “mua lợn, mua gạo đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn bao
nhiêu, người có lỗi phải chịu”. (Một tiệc ăn vạ)
Các cây bút phóng sự đã khám phá bóc trần những tệ nạn xã hội trầm kha, nguy kịch và tiềm
ẩn những bức xúc của người dân. Sẽ không còn là nghĩa vụ nộp thuế để xây dựng đất nước với ý nghĩa
thiêng liêng của nó nũa, nạn sưu cao thuế nặng với những biến thái tinh vi đã trở thành nổi ám ảnh ghì
nặng cuộc sống người nông dân đến mức không thể vùng vẫy được.
Bên cạnh sưu cao thuế nặng là nạn phù thu ăn chặn. Phù thu tức là thu trội lên và phân bổ thuế
khoá một cách nhũng lạm, quá mức. Túp lều nát không chỉ miêu tả cảnh những người nông dân phải
chịu nạn sưu cao thuế nặng mà họ còn phải chịu bao nhiêu kiểu bóc lột trá hình khác: nạn phù thu lạm
bổ vào mùa thu thuế (Loài động vật ngắn cổ), lệ làng khi nhà có giỗ chạp, ma chay; nạn ăn chặn khi có
tiền phát chẩn (Mạnh lệ quân nước Nam); đến tiền chồng gửi về cho vợ cũng bị cướp trắng…Thậm chí
một người dân nghèo có đứa con gái bị hãm hiếp, được xử bồi thường có năm đồng cũng phải đãi bọn
tuần đã có công bắt, cơm nước cho bọn hương chức trong làng, lý trưởng ăn chặn nên chỉ còn hơn 1
đồng, trong khi đứa con gái ấy bị mang bệnh nặng, cần tiền để chữa chạy. Câu chuyện càng trở nên bi
thảm hơn khi dưới mắt những người nông dân nghèo khổ, họ cứ yên trí rằng gia đình người bị nạn ấy
có những 5 đồng để tiêu Tết!
Nhưng có lẽ ấn tượng sâu nhất trong lòng người đọc là cảnh ăn chẩn trong Mạnh lệ quân nước
Nam (Túp lều nát). Làng ông Lý đang phát chẩn cho dân bị bão lụt. Ông Lý lãnh 220 đồng cho phần
đất cai trị của mình với số dân trong phủ là 250 người, ông giữ kín chỉ phát cho mỗi nhà một người. Để
nuốt trôi phần còn lại vào bụng mình, ông Lý phải làm “trò ảo thuật”: kêu bọn ăn mày, ăn xin ở làng
bên đi nhận thay, có thằng đi lãnh chẩn đến ba lần, ông khai làng có đến 70 đàn bà goá. Nực cười hơn
là bà Lý cũng vào cuộc, bà đóng ba lần là kẻ ăn xin rách rưới, hôi thối khác nhau, thậm chí giả trai để
đi lãnh chẩn!
Để phù thu được nhiều, bọn quan lại cường hào biến hoá rất nhiều cách mà chỉ có trời mới thấy!
: “Họ xướng lên rằng: “Điền bất cập hạ”, như một làng có 200 mẫu trong sổ bộ mà họ nói ruông thực
chỉ có 150 hay 160 mẫu chằng hạn. Thế là 150 hay 160 mẫu cõng thuế cho 200 mẫu”(điền bất cập hạ
tức là diện tích thực của ruộng ít hơn diện tích trong sổ trước bạ) [4, tr.44]; “họ nhận tiền rồi chưa kịp
viết biên lai họ liền trở mặt tắp lự, bảo là chưa nạp.(…) Đi nạp thuế mà ta thấy họ bổ “nhất tam tòng
nhị” hoặc nhất luận một số bao nhiêu đó, thế là họ phù thu rồi đó”. (nhất tam tòng nhị tức là loại một
và loại ba chia ra cứ bình quân mà nộp) [4, tr.45] và còn nhiều trò “lắt tắt, lỉ tỉ”, khó dò khó kiện
khác…
Túp lều nát đã khám phá ra một điều khá mới mẻ: những thủ đoạn phù thu, ăn chặn trắng trợn
bẩn thỉu, tinh vi không chỉ tồn tại ở viên quan này hay lý trưởng kia mà của cả bộ máy chính trị thối
nát thời thuộc địa. Lũ quan lại như “bầy gà ăn quẩn cối xay” – một bầy gà thảm hại, một cối xay cũ nát
để rồi chúng lại đem cung phụng cho những ông chủ thực dân.
Bên cạnh nạn phù thu ăn chặn, một vấn đề nổi cộm cũng không kém phần nhức nhối của xã hội
thuộc địa là tệ tham nhũng tràn lan. Tham nhũng trở thành một “công lệ” của giới quan nha.
Lần theo bước chân của bọn cai lệ trong Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng đưa ta đến câu chuyện
của viên lục sự già bên khay bàn thuốc phiện diễn ra trước ngày giáp tết để từ đó lật lên toàn bộ bản
chất tham nhũng của bộ máy thống trị thực dân phong kiến. Từ trên “sa bàn chỉ đạo” của viên lục sự
già - con người “biết đục khoét thành thánh”- những mệnh lệnh đục khoét được ban ra, dưới sự chỉ
huy của cai cơ, lũ lính lệ trống dong cờ mở tiến vào trận quét dưới sự bảo hộ của ngọn gói quyền uy là
bộ “luật bất thành văn”. Cả làng quê nhốn nháo, nhặng xị vì cơn lũ tham nhũng. Lũ hương lý, kì hào và
những chức sắc sở tại sợ xanh mặt như cá nằm trên thớt. Người đọc chứng kiến liên tiếp những thủ
đoạn “cướp ngày” tinh vi, trắng trợn của chúng. Lý trưởng mất tiêu bữa rượu, phó lý bị hạch chầu
thuốc phiện, rồi còn phải lo lót tay đút chân sao cho mọi chuyện êm thấm. Những thủ đoạn xoay tiền
của lũ cai lệ diễn ra thuần thục thành kỹ xảo. Người nhận hối lộ và kẻ hối lộ đã quá hiểu nhau, bởi lẽ
họ đều sống dựa vào nhau và cùng được bao bọc bởi cái “luật bất thành văn” ấy:
Thì ra cách tổ chức xã hội kim thời, thật vậy, kể đã là chu đáo đến tột bậc. Xã hội thì như một bộ
máy tinh tế, mà cá nhân là những cái bánh xe, nếu một cái quay thì bao nhiêu cái khác cũng phải
quay theo, nếu một cái hỏng thì toàn bộ cũng phải ngừng lại…Chẳng một ai lại có thể đứng ra
ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé...(Một huyện ăn Tết).
Nhìn sâu vào cơ quan đầu não của một chế độ, ta thấy không chỉ các nhà đương chức, đại diện cho
công lý mà còn lũ ăn theo như nho Kh., thầy thông, thầy kí chúng cũng tranh thủ tìm cơ hội ngày tết để
tống tiền. Những thủ đoạn bậc thầy được biểu diễn trong khi cật vấn Chánh Cờ, khi ngon ngọt nhã
nhặn với cụ Bá. Những thao tác của nho Kh. thật uyển chuyển, thuần thục để hướng tới cái đích: hạch
tiền. Toàn bộ guồng máy nhà nước từ dưới lên trên đều mang căn bệnh tham nhũng kinh niên, có tính
cố hữu. Lũ “cướp ngày” được xã hội bảo lãnh ấy thống nhất trong cơ chế vận hành và cả trong phương
thức phân phối. Ăn chia rõ ràng:
Họ phải trích ra một nửa để đem lên tỉnh nộp ông quản cơ. Thường ra, số tiền ấy đã thành lệ, như
một điều trong sổ dự toán. Ông quản cơ tỉnh sẽ nhân danh cả cái giới lính cơ dùng cái số tiền kia
để mua lễ vật để biếu các quan trên, cụ Bố, cụ Thượng, ông Đồn. Sự thăng chức nhanh hay chậm
của các cá nhân hoặc cả đoàn thể ảnh hưởng ở cái lễ to hay nhỏ [63, tr.551].
Rõ ràng, tham nhũng trở thành quốc nạn, là vấn đề thời sự không chỉ một thời, một quốc gia mà của
mọi thời, mọi quốc gia như chính tác giả viết: “Nó có thể vẫn cứ là câu chuyện tết năm nay, lại có thể
là câu chuyện tết sang năm nữa”. [63, tr.544].
Quyền lực và đồng tiền đã có sức mạnh vạn năng, làm băng hoại đạo đức xã hội, tác oai tác quái
làm biến đổi lương tâm con người. Cũng từ nỗi bức xúc ấy, Nguyễn Trần Ai trong Mồ hôi và mồ hôi
[3, tr.41] vạch trần cái hành trình “lên chức” và “nuôi chức” của những Lý trưởng:
Chỉ một cái việc đi lo lót làm chức tổng lý đã tốn nhiều tiền rồi. Thế tất sau khi nhậm chức họ phải
quay lại đập vào lưng dân để bù vào chỗ đã thiếu hụt (…) mỗi năm đến vụ sưu thuế, người lý
trưởng đương chức phải có 10 đồng đãi các cố lão hào mục và 20 đồng đãi các ông cựu Lý trưởng
(…) Ngoài số tiền ruột thuế biên trong bài, còn nào là tiền chè là Chánh, Phó tổng, phái quan,
phòng thu, tiền lãnh bài, tiền trình bổ, tiền kiểm soát, tiền kim găm, giây buộc, tiền đăng nạp…Cái
gì cái gì ở trên người ta cũng động chạm đến tiền, mà dưới lại càng cần phải có tiền để cho trôi
chảy công việc. Số tiền ấy lấy vào đâu, chẳng phải rút trong mồ hôi dân quê ra thì còn ở đâu
nữa?[4, tr.47].
Hiện thực về tệ nạn tham nhũng không chỉ tràn lan ở chốn thành thị mà đã len lỏi vào chốn thôn
quê, như lũ sâu mọt, chúng ngày ngày đục khoét cuộc sống khốn cùng của những người dân nghèo
khó. Từ trong máu thịt, chế độ thực dân đế quốc đã bật tung gốc rễ, lộ rõ toàn bộ bản chất xấu xa của
nó, đúng như Nguyễn Đổng Chi dự báo : “Có một túp lều sắp đổ”!
Khốc liệt không kém tệ tham nhũng là nạn hào cường. Cổ nhân có nói: “Hào cường chi tệ khốc ư
nhất Tần” (tệ hào cường còn khốc hại hơn chế độ của nhà Tần) quả không sai! Trong Việc làng, Ngô
Tất Tố đã vạch mặt chỉ tên bọn cường hào, lý dịch với những thủ đoạn hết sức tàn ác và đê tiện. Sau
luỹ tre xanh, chúng là một thứ vua con, tha hồ tác oai tác quái, đặt ra rất nhiều luật lệ, phép tắc dã man
và vô lý để bóc lột nông dân đến tận xương tuỷ. Biết bao thảm kịch xảy ra: có người phải dỡ nhà bán
lấy củi để lo một cỗ oản tuần sóc, có người sau khi lo chức Lý cựu cho chồng phải bỏ làng đi ở vú, có
người quá uất ức vì bị làng “ngã vạ” đã thắt cổ tự tử….
Cùng với Việc làng, phóng sự Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai là bộ sưu tập những bức tranh về
nạn hào cường. Cảnh quan lại hào cường tác oai tác quái hiếp đáp dân ngu với những “ngón nghề độc
chiêu”, những trò nhũng lạm tinh vi mà bẩn thỉu đã làm người đọc sửng sốt. Chúng sẵn sàng sửa tờ trát
để hưởng lợi: “nếu trát có điều gì ích lợi cho dân thì nó dấu biệt để cho sự ích lợi ấy qua tay nó
hưởng, có ích vừa vừa thì nó sửa lại cho dân rối trí. (…) Rồi còn như trát về bắt khai môn bài thì nó
vác đi đòi tiền bọn có nghề nghiệp chưa chán lại còn đem đến doạ dẫm ăn tiền cả của các mụ hàng
nước nũa” [4, tr.50]. Ngoài ra còn vô số thủ đoạn bóc lột, vắt kiệt của cải của dân như cảnh bán thuế
non; viết “nhượng lưu” trong khế bán để vô can, trốn tội; rồi cảnh “chức sắc bất đắc cải chánh”: mới
35, 36 tuổi mà thông đồng với Lý trưởng khai tăng 25 năm thành ông già 60 tuổi để được “xuất nhiêu”,
được miễn sưu. Chúng ngầm mưu với nhau tẩm tờ giao ước của làng, phá lề luật để có cơ hội tung
hoành bóc lột...
Người đọc khá lý thú với phóng sự nhỏ Tổng lý, một bức hàng rào giữa dân và chính phủ trong
Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi. Từ lời kể của thầy Lý trẻ, tác giả đứng ở một góc nhìn khác để nói
về nạn hào cường: góc nhìn từ bên trong gan ruột của chúng để tự chúng bộc lộ nguyên hình bản chất.
Chuyện kể về thầy Lý T có bằng Primaire. Với chút Tây học, thấu hiểu được nổi khổ của dân, anh
nghe lời dân làng ra ứng cử chức lý trưởng với hy vọng làm theo lẽ phải bảo vệ quyền lợi cho dân.
Nhưng ngay tức thì, anh nhận lời đe doạ của Phó tổng; “Làm Lý trưởng đi để sửa soạn cho tao trị”.
Anh hăng hái không thâu lễ vật, sửa sang đường sá, kiếm tiền quyên góp may áo cho bọn trẻ…Nhưng
tâm huyết ấy luôn bị hăm he. Làng có đến 25 ông hào, quan có, lý hương có, Cửu bát có. Bọn chúng
hùa lại, ra sức tìm cái để kiện anh. Cuối cùng T nhận ra rằng: “Chỉ có hai con đường: một là đóng bè
với họ để vét bọn dân; hai là từ chức đi rồi chạy ra ngoài thị thành, kiếm một chức việc gì mà làm, làm
culi cũng được, rồi mặc kệ việc nhà cho vợ con, họ muớn bóc lột, hiếp đáp thế nào tuỳ ý.” [4, tr.60].
Như vậy, có chút hiểu biết muốn phụng sự cho dân cũng không được. Phải hùa theo số đông, để cùng
nhau đục khoét, nếu không ngay tức khắc người đó sẽ bị triệt tiêu. Xã hội đó không có chỗ cho những
vị quan vì dân, không cho vị quan trong sạch liêm khiết nào tồn tại.
Với ngòi bút phóng sự sắc sảo, khôn ngoan, Nguyễn Đổng Chi đã tinh tường phanh phui những thủ
đoạn bẩn thỉu mà bọn hào cường tác oai tác quái lên đầu dân đen. Chúng bao che nhau, nuôi dưỡng
nhau: “Quan trên ăn lên đầu Chánh Phó tổng, Chánh Phó tổng ăn lên đầu Lý trưởng, Lý trưởng đâm
bổ ra ăn dân. Dùi đánh vào đục, thì đục tất phải đánh vào khăng thôi. Cho nên hễ ai có mắc phải
chuyện gì thì kẻ trên thường che chở cho kẻ dưới.”[4, tr.51]. Đúng là chẳng một ai có thể đứng ra
ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé. Chúng nhắm mắt làm ngơ trước những thủ đoạn xấu xa, những hành
vi trắng trợn của nhau. Điều này dễ hiểu bởi tham nhũng không còn, thì cái công lệ đút lót từ dưới lên
trên lấy gì mà tồn tại! Người phải gánh chịu không ai khác chính là những người dân vốn nghèo xơ
nghèo xác. Đó cũng chính là bi kịch của một dân tộc đang phải sống trong vòng nô lệ.
Một tệ nạn xã hội nữa cũng không kém phần nhức nối là tệ mê tín dị đoan ở chốn thôn quê. Căn
nguyên sâu xa của căn bệnh này là sự kém hiểu biết và lạc hậu của người dân. Phóng sự Đồng quê của
Phi Vân cho thấy những mê tín dị đoan của người lao động nơi vùng sông nước mêng mông của cực
nam Tổ quốc. Châu Xương cử thanh long đao và Ông tướng thầy Ba là chuyện những kẻ kiếm ăn bằng
nghề thầy cúng. Châu Xương cử Thanh Long đao kể về một buổi chữa bệnh của một ông thầy cúng ở
lạch Cóc. Lợi dụng sự thiếu hiểu biết, mê tín dị đoan của người nông dân, mỗi lần chữa bệnh như vậy,
thầy cúng bắt chủ nhà phải giết vài con gà và một con lợn để ông thầy cầu đức Quan Công hiện về trừ
tà. Biết tỏng ngón nghề của ông thầy, anh Năm Quấy chờ lúc ông quát đến tên Châu Xương thì nhảy ra
múa lẹ làng như Châu Xương thật, thầy ngớ ra nhưng cũng đành phải mất cho anh nửa con heo. Kiếm
ăn được một mẻ Châu Xương, nó bắt đầu trổ nghề. Ông tướng “thầy Ba” miêu tả những ngón nghề
kiếm sống của thằng Năm. “Ban đầu trị bệnh con nít, mắc con “sát”, con “trùng” gì đấy, lần lần nó
bắt qua chữa bệnh người lớn. Ai đau gì nó cũng trị được”[89, tr.49]. Biết đó là nghề bất lương, nhưng
“lỡ nghèo sinh kế biết sao bây giờ”.
Miêu tả nạn mê tín dị đoan ở chốn thôn quê, Ngô Tất Tố tỏ ra vô cùng sắc sảo khi thấu hiểu được
chính sách ngu dân của bọn thực dân và văn hoá tâm linh của người Việt. Tất cả những hủ tục nặng nề,
phiền phức ở chốn đình trung, theo Ngô Tất Tố, đã biến cái làng Việt Nam cổ xưa thành một triều đình
phong kiến thu nhỏ, mà ở đây, lợi dụng sự mê tín của dân chúng, bọn thực dân phong kiến đã giở mọi
trò lừa bịp nhằm thực hiện chính sách ngu dân, bóc lột của chúng:
Bày ra một cái triều đình giả dối, lấy ông thần gỗ tôn lên ngối báu, lấy tổng lý làm công
khanh, lấy thịt xôi làm bổng lộc, để họ ham mê áo mũ xêng xang, trống giong cờ mở. Những
vị thần gỗ ấy, ngoài những đấng anh quân lương tướng mà ngày nay họ dùng làm ngáo ộp
để trừ tà, trị bệnh, bói thẻ cầu mộng, lợi dụng cái trò mê tín của lũ dân khờ dại, lại còn lẫn
cả thần ăn trộm, thần ăn mày, thần chết trôi, thần gắp phân, thần loạn dâm…. cái sự nghiệp
khốn nạn như thế thì những kẻ sùng bái tất nhiên là những kẻ ngu tham ngoan ngạnh, thằng
khôn ăn vào đấy, thằng dại khổ vì đấy. (Cứ để cho nó chết).
Nén nhang sau khi chết là một dẫn chứng khá sinh động về việc bọn quan lại lợi dụng lòng mê
tín của người nông dân. Thấy bà Tư Tỵ goá chồng có chút vốn, bọn hào lý xúm đến đục khoét. Thằng
con thừa tự thông đồng với hào lý, bàn với bà nên xin đặt hậu ở làng, nghĩa là cúng cho làng một số
ruộng, và một số tiền thì sau khi chết, làng sẽ cúng giỗ, cúng Tết mãi mãi. Bà thuận tình ngay. Sau khi
làm đơn xong, bọn lý dịch mới giở ngón xoay tiền. Ông Điển đòi năm chục, chánh hội, lý trưởng mỗi
người ba chục, các ông kỳ dịch, tộc biểu, mỗi người đòi hai chục. Bà Tư Tỵ toan xin thôi nhưng chúng
doạ nếu dối làng thì khi chết làng sẽ không khiêng. Thế là bà lại phải gán ruộng cho chúng, cả gia tài
của người đàn bà goá chồng một mình làm ra bị bọn chúng cướp dần hết. Đốn mạt đến tận cùng!
Những hủ tục lạc hậu đã kìm hãm dân ta trong vòng ngu tối, lạc hậu. Đó cũng chính là thứ thuế trá
hình, là kiểu làm tiền được nguỵ trang kín đáo sau bức màn Tôn giáo và mê tín dị đoan.
Bên cạnh nạn mê tín dị đoan là những kiếp tôi đòi con ở, tiêu biểu nhất cho tệ nạn này là phóng
sự Cơm thầy cơm cô. Với phóng sự này, Vũ Trọng Phụng miêu tả hàng loạt sinh mạng của người nông
dân không chịu nổi cái lò sát sinh thô sơ của làng quê tù hãm đã phải rời bỏ làng quê xơ xác, tiêu điều
vì những tai trời ách đất, đi tha phương cầu thực, đến chốn Hà thành, với hy vọng đây là miền đất hứa,
là nơi để họ thay đổi cuộc đời. Và từ đây, người nhà quê bắt đầu gia nhập vào cái xã hội thị dân. Với
thiên phóng sự xuất sắc này, Vũ Trọng Phụng –người được Lãng Nhân tôn vinh “ông vua phóng sự đất
Bắc” – đã làm sống dậy một thảm cảnh của một đạo quân đói rách, trôi dạt khắp chốn hang cùng ngõ
hẻm của vùng nông thôn xa xôi, dồn ứ lại giữa chốn thị thành.
Ống kính phóng sự của Vũ Trọng Phụng tiến hành quay cận cảnh, làm sống lại những nạn tôi
đòi con ở: Những em nhỏ ngây thơ vật vờ như những cô hồn, đói khát, nhơ nhớp. Chúng ăn chực nằm
chờ ở nhà ga, quán trọ, chờ được bán sức lao động để được làm “nô lệ” hiện đại, nhưng giá trị của
chúng bị bọn người dẫn mối xếp ngang với giá súc vật. Họ mong sao mình được “như một con chó”,
muốn đem sức trâu bò của mình ra “làm nhiều công việc nặng nhọc” mà vẫn “không có việc làm” nên
“tất là họ phải sinh ra liều mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến thần Dục tình. Đàn ông sẽ đi
đến Hình phạt” [62, tr.146]. Làm con ơ, họ “chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho vừa phải, đừng bắt
mình làm quá sức, đừng đánh mình, chửi mình” [62, tr.111]. Nhưng cái cửa may mắn ấy hiếm lắm.
Hầu hết những con sen thằng nhỏ trong giới cơm thầy cơm cô đều phải trải qua những cảnh trớ trêu,
đen tối, đắng cay, tủi nhục. Chúng đều bị “ăn đói làm no”, “người này sai chưa xong việc này người
khác lại sai việc khác”…
Con Đũi, thằng bé ho lao, con ở bị điện giật … là những bức chân dung đầm đìa nước mắt.
Nhưng có lẽ ám ảnh nhất trong tâm trí người đọc là hình ảnh con Đũi, đi ở năm 12 tuổi, suốt ngày quần
quật làm thân trâu ngựa, mỗi ngày chịu độ ba trăm lần mụ chủ chửi rủa xa xả vào mặt “tiên sư cha”,
một năm sau mụ cho vào “xiếc”. Tiếng nói thoảng thốt, đau thương của em vò xé tâm can người đọc
“Cha tiên nhân năm đời mười đời nhà nó! Chính nó đã làm cho tôi mất tân! Anh ơi tôi lúc đó mới 13
tuổi đầu mà nó nhét giẻ vào mồm tôi, giữ hai chân tôi thẳng oẳn cứ việc hiếp lấy hiếp để”.[62, tr.127-
128]. Sau khi bị cưỡng đoạt, con sen Đũi được 2 đồng bạc, ba ngày sau chính thức gia nhập làng mại
dâm! Bức tranh hiện thực man rợ ấy đã cho thấy sự con đường lưu lạc của những kiếp đời thơ dại từ
thôn quê trôi dạt lên thị thành gắn liền với sự tha hoá nhân cách. Đúng là:
Gánh cực mà đổ lên non
Còng lưng mà chạy cực còn chạy theo.
Từ những kiếp tôi đòi con ở, nhà văn họ Vũ này mở toang thêm nhiều cánh cửa để khám phá ra
một sự thật không kém phần đen tối khác về loài người. Chính cái xã hội vô lối, nhố nhăng, kệch kỡm,
suy bại gia phong đó đã đẩy những người nông dân vốn không quen với cuộc sống đô thị vào con
đường tha hoá và ngày càng khốn khó hơn.
2.1.2.2. Những hủ tục lạc hậu
Bên cạnh những tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, quái gở đang là vòng vây thứ hai ngày
càng xiết chặt cổ những người nông dân nghèo khó. Tiêu biểu nhất trong các phóng sự viết về những
hủ tục lạc hậu ở nông thôn Việt Nam là Việc làng của Ngô Tất Tố. Đây là bộ sưu tập khá sinh động, cụ
thể về những hủ tục ngày ngày đang bao trùm, đè nặng lên cuộc sống của người dân quê. Mười bảy
chương là mười bảy câu chuyện thương tâm vì hủ tục và phía sau đó là những cảnh đời ngột ngạt, bế
tắc của người dân quê.
Mở đầu tập phóng sự là những lời trăng trối có sức ám ảnh cao của cụ Thượng làng Lão Việt.
Cả đời vì gánh lệ làng mà không ngóc đầu lên nổi:
Từ thuở mười bảy tuổi đầu đến giờ, tôi không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày đau
ốm. Thôi thì cày sâu cuốc bẫm, buôn ngược bán xuôi, không quản ngại một việc gì cả (…)
Những việc tôi làm, bất kỳ việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ,
chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ,
cả nhà có một thằng con, đành phải để nó dốt nát. Ông bảo là vì cớ gì!”. Rồi cụ cắt nghĩa:
“Ấy là bởi gánh việc làng”.[53, tr.12].
Ngay sau lời trăn trối xót xa ấy là những hủ tục “quái gở” “mọi rợ” lần lượt hiện lên trong từng
trang viết của Ngô Tất Tố.
Đó là câu chuyện của bác Cả Mão lo Một Đám vào ngôi cho con phải tốn đến hơn “trăm rưỡi bạc”,
trong khi người ta chỉ tốn vài đồng bạc. Vì bác là dân ngụ cư, nên theo “lệ làng” bác không có ngôi ở
đình. Muốn không bị khinh bỉ, bạc đãi, nhục nhã khi không có ngôi ở đình, bác soạn sửa lễ vào ngôi
cho con:
Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư ba đời mới được “thành tổ”. Nghĩa là được ngang
hàng với mọi người khác (…) ở làng mà không có ngôi thật là một sự nhục nhã. Những lúc
tứ quí kì phúc, người ta thì phần ăn phần ngồi, mình thì chẳng có miếng gì. Những lúc hội
hè, đình đám, người ta rước cờ, rước quạt, mình chỉ đóng vai khiêng chiêng. Như thế cũng
đã khổ rồi. Hơn nữa lỡ có cha già mẹ héo, làng giáp có chôn cho đâu!. [53, tr.18].
Lợi dụng tâm lý chết không được chôn là tiếng xấu để đời, bọn cường hào bắt họ đóng thật nhiều
mới cho vào làng:
Cụ chưởng lễ ba chục, ông Chánh hội hai chục, ông lý trưởng mười lăm đồng, ông phó lý và
ông phó hội mỗi người mười hai đồng, thư ký, trưởng bạ, mỗi người mười đồng, hương
trưởng, lý cựu, tộc biểu, trương tuần mỗi người năm đồng. Những số tiền ấy đã hết ngoài
năm đồng rồi. Lại còn ăn uống từ chiều hôm qua tới giờ (..) Một bữa ăn này, ít ra anh tôi
cũng tiêu hết năm, sáu chục đồng. [53, tr.19-20].
Ăn uống xong lại còn các món giải trí như thuốc phiện, tổ tôm, chủ nhà đều phải cung ứng. Có khi
mối thù hằn giữa những người chính cư và ngụ cư mà đến nỗi xảy ra án mạng: “Chỉ kính “ông cụ” của
nhà”, ai kính “ông cụ” ngụ cư”(53, tr26). Mối thù ấy bắt đầu từ sự tranh dành nhau địa vị trong làng.
Như vậy chính tâm lý “Sống nhờ làng, chết nhờ làng” của những người nông dân đã bị bọn thống trị
lợi dụng để chè chén, kiếm chác.
Lo một lệ làng tốn kém như vậy, người nông dân còn phải đối mặt với nhiều lệ khác cũng không
kém phần nhiêu khê. Trong Góc chiếu giữa đình, Ngô Tất Tố vẽ lên một cảnh ngộ thương tâm của một
người chỉ vì hám chút chức vị mà phải sa sút nghèo đói. Hai vợ chồng ông Luỹ “thật thà, chăm chỉ” đi
ở vú, cày thuê dành được ít vốn liền bị bọn lý dịch tìm cách đục khoét. Chúng dụ dỗ gạ gẫm để bán cho
ông ta chức lý cựu với giá một trăm bạc. Vì muốn có chút danh cho nở mày nở mặt, bà vợ cứ khuyên
chồng cố tìm cách lo cho được. Họ bán cả trâu, ruộng, rồi phải còn khao làng một bữa mới được làng
thừa nhận. Bà cựu tính làm qua loa nhưng ông cựu không chịu: “Bây giờ ông đã là bậc kỳ cựu trong
làng không thể xử cách nhom nhem được”[53, tr.40]. Một số tiền lớn lại không cánh mà bay cũng vì
cái lệ làng. Chỉ để khao “một góc chiếu giữa đình”, năm hôm sau “bà cựu” xách nón lên Hà Nội ở vú
để lấy tiền trả nợ. Như vậy, bọn thống trị nhồi nhét tâm lý hám danh, rồi lợi dụng sự mê muội chút
danh vọng hão huyền của người nông dân để moi tiền và chè chén.
Cũng như ông Luỹ, ông Phúc cũng vì cái lệ làng mà mất cả cơ nghiệp. Cỗ oản tuần sóc là câu
chuyện vì nghi lễ tục lệ ma chay phiền phức tốn kém cho cái chết của vợ mà ông Phúc lâm nợ, nợ
không nhiều nhưng “ở thôn quê, cái giống nợ lãi nó đẻ giữ lắm”. Ông đi gánh thuê đến nỗi hai vai
chai sạn, dày lên thành hai cục bướu mà chỉ đủ mua ngô, khoai cho con và bớt mấy xu trả lãi hàng
tháng cho chủ nợ. Chưa hết, ông lại mới lên chức ông trùm, mỗi năm phải có hai lần tuần sóc để cúng
thần. Thế là ông Phúc phải tính toán:
Nhà không sẵn, vay không ai tin, tôi đành dỡ hai gian nhà làm củi để bán lấy tiền mua gạo.
Đáng lẽ tôi định để vài bữa nữa mới dỡ nhưng vì thấy trời mưa dầm, chắc là củi đắt nên mới
dỡ từ hôm nay. Thôi thì túng kiết làm quanh, hãy cho qua cái lúc này. Bao giờ trời cho mở
mặt, bấy giờ lại làm nhà khác.[53, tr.76].
Tới hôm làm cổ tuần sóc, người ta kéo đến ngôi nhà trống trải còn lại để chè chén, người ta
khen ông Phúc hết lòng lo việc thờ phụng, tán dương oản của ông ấy tốt và chuối của ông ấy
mẫm….tối hôm ấy, ông Phúc lại phải đi mua chịu thêm mấy chai rượu nữa cho họ uống. Đấy là mới cỗ
tuần sóc thứ nhất, còn cổ tuần sóc thứ hai không biết ông Phúc còn bị bọn lý dịch bóp nặn thế nào nữa.
Dầu bị vắt kiệt tài sản, ông Phúc vẫn còn tự do. Còn anh xe trong “Món nợ chung thân” thì
không còn chút hy vọng. Tất cả cũng vì lệ làng!Lệ làng là “luật bất thành văn”.
Lệ làng qui định rằng “Một người nằm xuống, dù giàu, dù nghèo, nhà chủ cũng phải giết một
con lợn đãi “phe một bũa dấm ghém, phe mới khiêng cho. Không được thế thì phải nhờ họ mạc khiêng
giúp”[53, tr.107]. Sợ vong hồn vợ tủi nên dù không có tiền, anh phu xe cũng cố vay ba chục đồng để lo
bữa rượu mời hàng giáp. Món nợ ấy anh trả cả đời cũng không thể hết, vì “tiền công của con ở đấy,
mỗi tháng được một đồng rưỡi, trừ vào tiền lãi là vừa”.[53, tr.107]. Đúng như lời ông L trong truyện
đã kết luận: “Một bữa lệ làng có thể gây cho người ta một món nợ lãi chung thân không trả hết” [53,
tr.108].
Anh phu xe coi như bị tù chung thân, dù sao vẫn còn được sống. Còn trong Một tiệc ăn vạ, ông
Sửu lại phải chịu cái chết oan ức, tức tưởi cũng chỉ vì những hủ tục vô nhân đạo: “tục ăn vạ”.
Chỉ vì không cho một ông Trùm trong làng vay ít thóc, bởi bà Sửu thừa biết “có vay mà không
có trả”, nên tên trùm đem lòng thù oán và vu cho lão Sửu chửi làng. Lão Sửu bị làng ăn vạ: “người nào
có lỗi với “làng” thì “làng” cứ việc mua lợn, mua rượu, mua gạo, đem ra điếm làng mà ăn. Phí tổn
bao nhiêu, người có lỗi đó phải chịu”[53, tr.81]. Tiệc ăn vạ diễn ra. Lão Sửu tốn hơn trăm bạc. Buổi
sáng ăn uống linh đình, buổi chiều lão Sửu uất ức thắt cổ chết. Đó là cái chết của người nông dân bị
dồn đến đường cùng chỉ vì tục lệ vô lý, và vì tâm lý “lúc sống không ai ngồi với, lúc chết làng không
khiêng cho, là người cực nhục, sống cũng như chết” [53, tr.82].
Có thể nói, Việc làng là một ổ hủ tục phi lý, cổ hủ trói chặt cuộc sống của những người nông
dân vô tội. Nó đày đoạ người nông dân về tinh thần lẫn thể xác. Nó dẫn họ dần đi đến cái chết.
Không chỉ cung cấp những tục lệ cổ hủ trong Việc làng, với Tập án cái đình, Ngô Tất Tố còn
tiếp tục đề cập đến những nghi lễ vô nghĩa, kỳ quái làm cho người nông dân phải nháo nhác, bỏ công
bỏ việc chạy theo nó như thiêu thân. Không đi sâu miêu tả những cảnh thương tâm riêng biệt của từng
cá nhân, từng gia đình như trong Việc làng, với mười bài phóng sự trong Tập án cái đình Ngô Tất Tố
quay ống kính của mình vào những nghi lễ tập thể. Nhân vật đám đông xuất hiện nhốn nháo, nhặng xị
như một bức tranh hí hoạ buồn cười với những lễ nghi cũng nực cười không kém: cuộc “đuổi đánh
thành hoàng”, “những cuộc thi giết lợn”, những cuộc “xuyên tường tạc bích” để kỷ niệm sự nghiệp của
Thành Hoàng, rồi “đuổi giặc cho thần”...
Nực cười nhất là phóng sự Lợn anh lợn em, không biết từ bao giờ, nước Đại Nam lại có lễ tế ỷ,
họ xem con lợn thờ là đấng thiêng liêng và tôn quí.
Theo lệ, hàng năm trong làng phải có hai người đương cai, mỗi người phải nộp một con ỷ để
cúng thần. (..) Hễ ai vô phúc mà bỏ, ấy là mang tiếng thiếu đóng, thiếu góp với làng, sống
cũng như chết. Bởi thế những kẻ nghèo nàn đến lượt đương cai mà không có người gúp đỡ,
có khi phải bán nhà , bán đất, bán con cái để nuôi lợn cho làng. Chẳng thà mất con cái mà
có lợn còn hơn thiếu lợn của làng mà còn nhà đất con cái. [53, tr.139-140]
Kèm theo những nghi lễ đó là bao nhiêu khê tốn kém cho những cuộc chè chén, thiết đãi làng:
“nhiều người làm ăn gom góp từ trẻ đến già, chỉ chứa một bữa là hết” [53, tr.17]
Vậy tại sao những hủ tục quái gở mọi rợ ấy cứ ngang nhiên tồn tại?
Trước hết, vốn là một nước có nền văn hoá lâu đời, nước ta có những phong tục gắn với nghi lễ,
tục lệ để thể hiện tình cảm gia đình, trân trọng biết ơn tổ tiên, nguồn cội, sự gắn bó với xóm làng…Và
cũng từ đây, bọn hương lý, cường hào “đục nước béo cò” đã lợi dụng tâm lý đó bày ra đủ thứ lệ làng
để bóc lột của cải, trấn áp tư tưởng người nông dân.
Một điều cay đắng nữa là ngọn gió độc thổi từ bên ngoài này đã gặp phải một rào cản tâm lý
xuất hiện từ bên trong suy nghĩ của người nông dân. Rào cản trớ trêu đó là không phải ai cũng nhận ra
đây là một kiểu bóc lột trá hình, một kiểu lừa bịp. Thậm chí người nông dân còn tôn sùng những hủ
tục, xem đó là những gì tốt đẹp, vinh hạnh. Vì thế, những người dân quê hiền lành thật thà cứ cung
kính, ngây thơ thực hiện những hủ tục ấy một cách chân thành mà không hề biết họ đang bị giai cấp
thống trị lợi dụng, là nạn nhân trực tiếp của mọi hủ tục.
Bởi thế, sự ra đời của các phóng sự này là đã gióng một hồi chuông cảnh tỉnh hết sức cần thiết
làm thức tỉnh những lương tri lành mạnh đang bị chìm lấp trong những luận điệu giả nhân giả nghĩa
của kẻ thù. Giúp họ thức tỉnh và nhận ra chân tướng của sự thật để cùng hướng vọng đến một xã hội
công bằng hơn, văn minh hơn.
2.1.3. Hiện thực con người
Không chỉ phanh phui những tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, phóng sự giai đoạn 1930 –
1945 còn tiếp cận những bức tranh xám màu đầy thương tâm nhức nhối của những người nông dân ở
nông thôn Việt Nam.
2.1.3.1. Những con người bị tha hoá
Trong vòng vây của những tệ nạn xã hội, những hủ tục lạc hậu, các nhà phóng sự đương thời đã
khám phá những trang đời, tuy đa số là vô tội, đáng thương nhưng cũng không ít người đang trên
đường tha hoá, băng hoại. Cái bản chất người vốn có: “Nhân chi sơ, tính bổn thiện” bị ném vào cái xã
hội bóc lột thối nát ấy, khó mà giữ được vẹn nguyên. Những người nông dân bỗng trở nên xa lạ với
bản thân và lạc loài với cộng đồng, nhân loại. Trượt dài trên con đường tội lỗi, nhân cách họ trở nên dị
hình, dị dạng, lương tâm họ bị băng hoại đến xót xa.
Nếu như ở chốn thị thành, người ta sa vào chốn cờ gian bạc bịp, buôn phấn bán hoa…thì những kẻ
khốn khó nghèo hèn chốn thôn quê cũng sa ngã, băng hoại nhân cách theo nhiều kiểu khác nhau. Cơm
thầy cơm cô – một trong những phóng sự đặc sắc nhất của Vũ Trọng Phụng, là khối tư liệu quí giá về
đời sống của nông dân lên thành thị kiếm sống. Vũ Trọng Phụng dõi theo cuộc “hành hương” của
những người nông dân đói rách phải từ giã quê hương để trốn đủ thứ tai hoạ: nạn bão lụt, hạn hán, nạn
sưu cao thuế nặng, nạn quan lại cường hào, nạn đình đám xôi thịt…Trong vòng xoay điên đảo của
chốn thị thành, không ít người nông dân nhanh chóng đoạn tuyệt với gốc gác hiền lành chất phác để
biến chất thành những kẻ tinh quái, ranh ma, hiểm độc.
Người đọc bàng hoàng trước những mẫu hạng về giới cơm thầy cơm cô: “Có những thằng nhỏ bỏ
thuốc độc định giết cả nhà chủ nhà”; “Có những anh bếp nhổ đờm vào nồi cá kho”; “Có những quân
đốt nhà của chủ hoặc dắt cướp vào nha”; “Có những thằng nhỏ hiếp con gái ông Phán…” [62, tr.165-
166] đó là sự thoái hoá biến chất đến kinh sợ; còn có màn kịch cười ra nước mắt của thằng nhỏ lưu
manh đem cứt chó bôi lên phản ngủ làm cho hai bố con chủ nhà nghi kỵ chửi rủa nhau…
Điển hình hơn cả là nhân vật sen Đũi. Với những hành vi vô cùng hiểm độc nhằm mục đích khiêu
dâm, sen Đũi muốn làm hư hỏng cậu con trai 12 tuổi con chủ nhà. Sau phi vụ này thành công, đến lượt
nó bị hiếp, rồi nó thoạt nhiên trở thành “một đứa hư hỏng, giả dối, rất nguy hiểm cho đời” [62, tr.44].
Ở nó mất dần “những dấu vết cũ của một cô con gái nhà quê, ngoan ngoãn hay làm, có những cái mơ
màng bình dị (…) suốt đời không dám nghĩ đến cái bả vật chất, những vẻ phồn hoa của đời, nhẫn nhục
mà sống với một người chồng cục mịch, chỉ biết có việc chịu khó làm ăn”[2, tr.139-140]. Ước mơ ấy
bình dị nhưng quá đỗi thân thương, bởi ta thấy Đũi gần với loài người biết bao. Vậy mà, sen Đũi lại
thành “đứa rất nguy hiểm cho đời”[62, tr.140], “một cô gái quê hiền lành mà trở nên một thiện nghệ
trong việc khiêu dâm và mãi dâm” [62, tr.129]. Thậm chí, không muốn mãn kiếp là con ở, Đũi còn
muốn leo lên tầng lớp trưởng giả của xã hội, từ bỏ vị trí cô Đầu để thành, bà Phán, bà Kí. Sen Đũi đã
biến chất, ngày càng sa sâu vào vũng bùn lầy nhơ nhuốc. Mỗi nấc thang bước lên xã hội thượng lưu ấy
chính là mỗi bước sen Đũi lại thụt lùi về nhân phẩm lúc nào không biết.
Cái xã hội tàn bạo đầy rẫy những “virut gây bệnh” đó như ngọn gió độc thổi từ bên ngoài, gặp phải
những linh hồn đã mất hết sức đề kháng, họ ngã gục từ khi nào mà không hay. “Trần trụi giữa bầy sói”,
họ không thể hiền lành, trong trắng. Để tồn tại, họ phải thay hình đổi dạng. Cái xã hội tàn bạo ấy đã ra
sức giết chết “thiên lương” tốt đẹp của họ khiến họ trở nên manh độc, thủ đoạn, chai lì và vô cảm.
Sau một thời gian ngắn lăn lộn ở chốn thị thành, giới cơm thầy cơm cô biến chất nhanh chóng.
Người đọc hoảng hốt trước tốc độ băng hoại đến chóng mặt này: “mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ
mà ở được vài tháng thì ăn cắp như ranh, ăn bớt như quỉ” [62, tr.165]. Họ đánh mất tất cả, từ thể xác
đến tâm hồn. Bằng việc khám phá những mảng hiện thực đen tối và sự tha hoá của những người nông
dân lên chốn thị thành kiếm sống, “ông vua phóng sự đất Bắc” đã bóc trần cái sự thật “hãi hùng, kinh
ngạc về loài người”
Phải chăng đây là hiện tượng những người nông dân bị đè nén thái quá đã chống trả lại để tồn tại
bằng nhiều con đường khác nhau. Ngòi bút hiện thực của Vũ Trọng Phụng tỏ ra hết sức tỉnh táo khi
ông vạch ra rằng, những người nông dân khốn khổ phải dành lấy sự tồn tại bằng việc bán cả nhân
phẩm, băng hoại nhân tính, trượt dài trên con đường tội lỗi. Hiện tượng mỉa mai, đau xót ấy rất phổ
biến và có tính qui luật vẫn diễn ra hằng ngày trong cái xã hội nông thôn đầy những bất công và tội ác
thời đó.
2.1.3.2. Những nạn nhân của những hủ tục lạc hậu
Nếu như Ngô Tất Tố có thể được coi là “nhà văn của nông dân” thì trước hết vì ông có Việc
làng. Qua Việc làng, bức tranh xám màu về nông thôn Việt Nam cứ hiện dần một cách rõ nét, làm nên
gam màu chủ đạo xám ngoét trong bức tranh ấy chính là những hủ tục lạc hậu. Và nạn nhân trực tiếp
của những hủ tục ấy không ai khác chính là những người nông dân tối tăm, nghèo khổ.
Viết về nông thôn, Trần Tiêu, Tô Hoài, Bùi Hiển…đều có thể coi là những cây bút tiểu thuyết
phong tục tập quán sắc sảo. Tuy nhiên các hướng tiếp cận hiện thực của các nhà văn này còn hạn chế
về tầm khái quát xã hội. Ngô Tất Tố không thuộc hướng viết đó, Việc làng và Tập án cái đình là một
hiện tượng đột xuất. Khơi nguồn cảm hứng từ nền văn hoá lâu đời của Việt Nam – Văn hoá đình làng,
nhưng Ngô Tất Tố nhìn nông thôn ở góc độ khác: góc độ của những hủ tục. Bằng vốn hiểu biết về văn
hoá phong tục người Việt phong phú, bằng cái nhìn sắc bén đối với sự việc, hiện tượng, ông đã thể
hiện gánh nặng tinh thần của người dân quê trước lệ làng đồng thời vạch ra bản chất những hủ tục chốn
đình trung: tất cả chỉ là những trò lừa bịp! Còn người dân quê lại ngây thơ cung kính thực hiện những
tục lệ đó một cách chân thành. Đó là cảnh chuẩn bị đám ma cụ Thượng, cảnh một đám vào ngôi của
thằng con bác Cả Mão, lễ thượng điền, hạ điền, lễ đuổi đánh thành hoàng, cuộc thi giết lợn…
Không biết từ đâu ra, và tự bao giờ, dân làng Việt Nam lại có những hủ tục kì quái như: tục ăn
vạ, tục vào ngôi, đánh đuổi thành hoàng, thi giết lợn…Sự vô lý đến tàn nhẫn của những hủ tục lạc hậu
đã nhấn chìm bao người nông dân vào cảnh khốn cùng. Biết bao thảm kịch xảy ra: hủ tục đã biến một
bà “lý cựu” từ địa vị bà chủ của một gia đình khá giả nhờ tằn tiện chắt bóp trở thành “một bà vú già” đi
làm thuê để lấy tiền trả nợ chức lý cựu đó; hủ tục đã cướp đi nốt cả mái nhà tranh xiêu vẹo của những
gia đình nghèo hèn khốn khó. Vì phải lo “một cỗ oản tuần sóc”, người chủ gia đình đã phải dỡ nhà bán
lấy củi giữa lúc trời mưa to khiến bọn trẻ co ro cúm rúm không còn chỗ trú thân. Hủ tục đã biến đứa
con thành kẻ bất hiếu khi bà mẹ già đau ốm không được một lời hỏi han chăm sóc bởi con trai bà còn
bận lo lắng chăm chút “đôi gà thờ” cho lễ lên lão của mình...
Nghiêm trọng hơn, trong Một tiệc ăn vạ, hủ tục còn cướp đi cả mạng sống của người nông dân.
Trong phóng sự này, tác giả miêu tả tình cảnh của lão Sửu – một nông dân hiền lành, thật thà, nhờ
chăm chỉ làm lụng mà có bát ăn bát để. Một ông Trùm trong làng có ý vay lão Sửu ít thóc. Bà Sửu từ
chối vì thừa biết cho vay tức là “có vay mà không có trả”. Tên trùm đem lòng thù oán và vu cho lão
Sửu chửi làng. Lão Sửu bị làng ăn vạ. Tiệc ăn vạ diễn ra ngốn của Lão Sửu hơn trăm bạc. Buổi sáng ăn
uống linh đình, buổi chiều lão Sửu uất ức thắt cổ chết.
Người nông dân quanh năm đầu tắt mặt tối, lo làm lụng và dành dụm để có một chút tiền cho
hậu sự của mình khi đã về già. Song tai hoạ của những gánh “việc làng” luôn rình rập họ bởi có khi
“chỉ sửa một ván xôi mới mà mất cơ nghiệp”. Cuộc đời của lão Khuông Việt (Lớp người bị bỏ sót) “từ
thuở mười bảy tuổi đầu, không chơi không ngày nào, trừ ra những ngày đau ốm…thậm chí lao
lực…chỉ vì một gánh tệ tục đè ép, đến nỗi không ngóc đầu lên được. Bây giờ sắp chết, gánh tệ tục ấy
vẫn còn đè ép chưa tha”, tiếng kêu cứu cuối cùng trong giờ hấp hối “Tôi là người chết oan!” là một
minh chứng hùng hồn cho sự áp bức của chính quyền thực dân phong kiến bằng cách tròng vào cổ họ
gánh nặng của những lệ làng, hủ tục.
Đó đây còn biết bao những cảnh đời điêu đứng vì hủ tục. Phương pháp bảo cử mầu nhiệm là
phóng sự nhỏ trong Túp lều nát kể rất rõ sự trói buộc của hủ tục. “Lệ làng ban ra là phải tuân theo.
Không thôi làng truất ngôi, truất phần (….) Ai không có tiền, một là phải đi bán ruộng, vay nợ mà làm,
một là bỏ làng đi nhập tịch xứ khác.” [4, tr.67]. Bao nhiêu người tan cửa nát nhà vì đình đám:
Chạy tiền đã khốn rồi. Trong cuộc vui mà có rượu chè cờ bạc lại khốn thêm một bậc. Rồi
còn phần phò lấy về không lẽ ăn một mình. Lại phải biếu xén lôi thôi một nước nữa. Cho nên
sau những ngày đình đám, mặt anh dân anh nào anh nấy méo như cái bị. Bọn hào lý cốt sinh
chuyện để cho dân đóng góp mà đánh chén. [4, tr.68].
Khá nhẹ nhàng và có tính hài hước, Trao thân con khỉ mốc trong tập phóng sự Đồng quê của
Phi Vân là câu chuyện về những hủ tục phiền phức của một đám cưới. “Làm cha mẹ, ai cũng muốn cho
con nó được nên vợ nên chồng, đằng này họ mảng bo bo mấy cái hủ tục bắt bẻ từng chút, đòi hỏi từ cái
lễ mọn, đã thèm rồi mới chịu gả con gái” [89, tr.17]. Chưa hết, đến đám rước dâu, phải đi mấy ngày
mới tới nhà gái, lại còn phải chịu không ít thủ tục rầy rà, nhà gái còn vặn vẹo đủ điều. Sợ rước dâu trễ
phải chịu ngược thêm mấy con nước nữa, nhà trai bực mình chịu không nổi “bắt” cô dâu xuống xuồng
giựt chuông mở máy, để lại sau lưng tiếng khóc rống lên như đám ma, tiếng vỗ bàn ầm ĩ của ông Tộc
trưởng, tiếng kì kèo đòi hỏi sừng sộ: “Còn lễ…trao thân gửi mình sao không làm hử?”. Nhà trai hí
hửng thoát trận, trả lời cộc lốc: “Trao thân… con khỉ mốc!”. Những hủ tục rầy rà, phiền phức đã làm
cho đám cưới thêm nhốn nháo, nhặng xị và hài hước.
2.1.3.3. Những cảnh đời đói nghèo cùng quẫn
Phóng sự viết về nông thôn trong Văn học Việt Nam 1930 – 1945 như chất đầy các sự kiện
ngồn ngộn trắc ẩn sau luỹ tre làng. Thông qua các tác phẩm của mình, các nhà phóng sự đã nói lên diện
mạo của đời sống thôn Việt Nam với nỗi thống khổ của những cảnh đời đói nghèo, cùng quẫn, thấu
hiểu những số phận đầy thương cảm của người nông dân “một cổ hai tròng”.
Trong Việc làng của Ngô Tất Tố, có biết bao nhiêu cảnh đời trái ngang cùng quẫn, mỗi cảnh đời
là mỗi vẻ khốn đốn khác nhau: người thì phải dỡ cả nhà bán lấy củi để lo một cỗ oản tuần sóc, kẻ thì
phải bỏ làng ra đi vì không đủ tiền mua cỗ cho một đứa bé mới lên năm tuổi, có người phải đi ở kéo xe
làm cái kiếp ngựa người để “trừ một món nợ chung thân” vì lo đám tang cho vợ, có kẻ lại bị làng “ngả
vạ” uất ức quá phải thắt cổ tự tử… Quả đúng như lời đánh giá của Bùi Huy Phồn về Việc làng : “Phải
nói thực với nhau rằng khi đọc xong Việc làng, chúng ta – những người sáng tác văn nghệ – lại càng
thấy sự hiểu biết của chúng ta về đời sống mọi mặt của người nông dân nước ta quả còn sơ sài, phiến
diện quá, do đó mà sự thông cảm của chúng ta với những vui buồn, sướng, khổ của họ cũng hời hợt
quá…”[53 , tr.205-206]
Cũng như vậy, trong Túp lều nát, ta cũng gặp những cảnh đời đói nghèo, cùng quẫn: có người
phải bán cả giường chiếu, có người phải đánh liều bỏ nhà đi tha phương cầu thực; có người bị xiết cả
cày, bừa, lưới vó…Nguyễn Trần Ai cũng “cố lần mò tìm kiếm trong cái màu xanh xanh bí mật kia một
ít cảnh tượng đáng than khóc và cứ thế vẽ phác ra, sao nguyên nó lại cho xác thực để cung cho độc
giả, may chi gợi được vài giọt nước mắt đồng tình” [4, tr.21].
Tiêu biểu nhất là trong Loài động vật ngắn cổ, Nguyễn Đổng Chi kể về tình cảnh chắt Ch. gặp
phải năm mất mùa đói kém, chắt Ch. vay ông cửu T ở làng TĐ. ba đồng bạc, cả vốn lẫn lãi thành bốn
đồng rưỡi, đến hạn không trả được phải gán đứa con ở đợ, không ngờ nó ngã gãy tay, ông Cửu đuổi về
và còn đòi thêm số nợ. Vậy là tiền mất tật mang!
Oái ăm không kém là câu chuyện đau lòng của bác đĩ Do có con gái đi ở bị hiếp dâm, thằng kia
là con nhà khá giả. Vốn không ưa sinh sự với ai nhưng muốn ăn gan cái quân hiếp con mình, bác Do
nghe theo mưu kế của chàng lái buôn và dân làng, đi lên huyện để kiện. Được 5 đồng, nhưng ra khỏi
cửa huyện, số tiền đó cứ mòn dần: công bọn tuần bắt thằng hiếp dâm 2 đồng, đãi cơm nước cho các
ông đương chức làng sở tại đi khai báo hết 1 đồng, 1 đồng tiền thuốc cho con gái bị bệnh nặng sau lần
đó. Còn 1 đồng tính về may cho vợ và thằng con cái áo thì về đến làng ông Lý đòi trả tiền công 3 giác
vì có công đi khai báo. (Số tiền trời cho)
Dẫu sao thì mất tiền nhưng còn được sống, còn trong Những người thay mặt cho công chúng,
nỗi cùng cực không chỉ dừng lại là sự đánh đổi gia tài, của cải mà thậm chí họ còn đánh đổi cả tính
mạng của mình. Đó là thảm cảnh chua xót của vợ chồng anh Mai. Cấy mười mẫu ruộng, được tiếng là
có của ăn của để, “Bọn chức sắc trong làng liền sinh chuyện để kiếm chác. Khi vài ba hào, khi năm bảy
xu, chúng cứ thác cớ ra để lần nhẵn hầu bao của anh, làm cho anh không còn thở được với chúng.(…)
Nhìn con đói bủng beo da mặt, Mai thấy xót bèn bảo vợ ra ruộng bới tạm khoai non về ăn.”[4, tr.101].
Đã vậy, chúng tìm mọi cách gây sự để moi tiền của, hết xiết chăn, yếm, cái tráp rồi đến đánh đập túi
bụi, rồi đưa anh vào tròng trấn lột, bị nhốt, tay chân sưng lằn, vật vã vì đói, Mai đờ đẫn… Biết mình
mắc mưu, Mai ức quá thắt cổ tự tử nơi điếm làng.
Bên cạnh những cảnh đời khốn khổ của người nông dân Trung Bộ là những cuộc sống không
kém bi thương của người nông dân Nam Bộ. Đó là cảnh đời dở khóc dở cười của Tư Rỗ trong tập
phóng sự Đồng quê. Tư Rỗ tiêu biểu cho số phận của những chàng nông dân nghèo bị bọn Bá hộ lợi
dụng. Phi Vân tái hiện thực trạng này khá rõ trong Cành tre cũ, cặp giò xưa. Tư Rỗ bị Bá hộ nhử đến ở
rể làm việc không công rồi gả con gái cho, nhưng gần đến ngày cưới Bá hộ thình lình đuổi anh đi. Té
ra, biết sắp hết hạn, ông kêu thằng Út ở xóm trong vào ở rể, tiếp tục màn lợi dụng khác. Uất ức quá,
anh tìm cách trói ông lại kề dao vào cổ hăm doạ rồi dắt con gái ông đi trốn. Nhưng sự việc không
thành, Tư Rỗ bị đưa ra làng trừng trị. Và tất nhiên sẽ không thoát khỏi những tai hoạ giáng xuống.
Mỗi thiên phóng sự là một thảm kịch lớn của nông thôn Việt Nam dưới ách thực dân phong kiến.
Mỗi người một vẻ, một vùng, một cách sống khác nhau nhưng đều là những cảnh đời dở khóc dở cười,
những mảnh đời cơ cực đến thảm thương. Và đằng sau đó là sự trơ tráo đến bẩn thỉu của những người
“cầm trịch” ở làng quê – những kẻ tự coi là phụ mẫu chi dân.
Không như Khao của Đỗ Phồn và Làm dân của Trọng Lang, thành công của các phóng sự viết
về nông thôn của Ngô Tất Tố, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân là không chỉ dừng lại ở việc miêu tả mà còn
phân tích cắt nghĩa vì sao người nông dân phải chịu bao cảnh khổ như vậy. Họ đã có câu trả lời của
riêng mình: sở dĩ nạn xôi thịt, rượi chè, hủ tục …vẫn tồn tại bởi cường hào ác bá vẫn muốn duy trì để
mưu lợi cá nhân.
2.2. Cảm hứng, tư tưởng trong các tác phẩm phóng sự
Những ống kính sắc sảo của các nhà phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 được
vận hành bởi một nhiệt thành, tâm huyết cao độ đã cho thấy cái nhìn, tư tưởng, tình cảm của các nhà
phóng sự đương thời. Chủ đề xã hội, chủ đề con người đã có sự kết hợp chặt chẽ với nhau. Qua con
người, ta thấy xã hội và ngược lại thực trạng xã hội cho thấy những vấn đề nhân sinh còn tồn tại trong
nó.
Ngô Tất Tố, Trọng Lang, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi, Phi Vân… đều biết bám vào đáy
sâu nhất của xã hội để khám phá, phản ánh và sáng tạo. Họ đã khám phá ra hai vấn nạn cơ bản của
nông thôn thời thuộc Pháp là những hủ tục và tệ nạn xã hội. Từ những tầng phức tạp còn bị khuất lấp
này, họ nhận xét, đánh giá và thể hiện sự tìm tòi tư tưởng. Lập trường tư tưởng tiến bộ, cảm quan nhạy
bén, hiểu biết hiện thực sâu sắc, tất cả là điều kiện để các nhà phóng sự đã phát hiện được những vấn
đề mới để phân tích lý giải đúng đắn, đánh giá khoa học theo chiều hướng nhân đạo, từ đó có thể đưa
ra giải pháp nhằm cải tạo xã hội và xây dựng nhân cách con người
2.2.1.Thẳng thắn vạch trần, tố cáo và phê phán
Nhìn thẳng, nói mạnh và chính xác, những phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đều
là những cái tát trực diện dành cho giai cấp thống trị đang cố tình bưng bít, che dấu những sự thật tội
ác ở nông thôn. Xuất phát từ nỗi đau và sự bất bình trước hiện thực xã hội, Ngô Tất Tố, Trọng Lang,
Vũ Trọng Phụng, Phi Vân, Nguyễn Đổng Chi …đều tỏ ra hết sức thông minh khi lựa chọn thể phóng
sự để phản ánh. Sự tôn trọng hiện thực của thể loại này có giá trị thuyết phục cao. Hiện thực cuộc sống
nông thôn được họ phanh phui, lộn trái.
Trước hết, các nhà phóng sự tập trung tố cáo những hủ tục đồi bại. Hủ tục như một gánh nặng đè
lên đời sống của người nông dân và các nhà phóng sự đang đặt vấn đề gấp rút cải tạo bộ mặt của cái
làng phong kiến Việt Nam. Tiêu biểu nhất là phóng sự Việc làng và Tập án cái đình của Ngô Tất Tố.
Những sinh hoạt đình làng, những phong tục tập quán, thuần phong mĩ tục lâu nay được phủ lớp sơn
hào nhoáng kia thực sự là những luật lệ, nghi lễ cổ hủ, lạc hậu, được duy trì như một phương tiện, công
cụ thống trị của giai cấp thống trị. Không dừng lại những hiện tượng tiêu cực trên bề mặt như Làm dân
của Trọng Lang, mà thông qua việc miêu tả nạn xôi thịt ở chốn đình trung, Ngô Tất Tố đã tố cáo gay
gắt bọn cường hào lý dịch lợi dụng hủ tục để bóc lột nông dân. Đó là cái lý do chủ yếu cắt nghĩa tại sao
những hủ tục vẫn tồn tại đời này qua đời khác “như một vị thần thiêng”.
Kết luận khách quan tiến bộ toát ra từ tác phẩm của Ngô Tất Tố là phải gấp rút giải phóng người
nông dân ra khỏi chế độ thực dân phong kiến cũng như ý thức hệ phong kiến. Đọc các phóng sự viết
về nông thôn giai đoạn này, người đọc thấy một xã hội ngột ngạt, đời sống con người khốn khổ, tính
mạng thật rẻ rúng. Và vì thế dấy lên trong lòng người đọc một thái độ căm phẫn mãnh liệt, một cảm
giác muốn quẫy đạp, tung phá những sợi dây hủ tục đang riết chặt cuộc sống của người nông dân.
Bên cạnh tố cáo những hủ tục đồi bại, các phóng sự còn lên tiếng tố cáo những thủ đoạn bóc
lột của bọn quan lại hào cường với những thủ đoạn bóc lột như phù thu ăn chặn, sưu cao thuế nặng,
tham nhũng cường quyền. Nếu như Việc làng đã thu hút người đọc bằng khả năng lý giải vấn đề một
cách sâu sắc, bằng óc quan sát và nghệ thuật miêu tả tinh tế cũa một nhà văn sống lâu đời với nông
thôn để từ đó lên án chính sách ngu dân, tố cáo chủ nghĩa phục cổ lạc hậu và những thủ đoạn bóc lột
của bọn cường hào lý dịch, thì Túp lều nát lại là một đòn đánh mạnh, trực diện phanh phui bản chất
xấu xa của bọn cường hào. Nhà văn xuất sắc của chủ nghĩa hiện thực Nguyễn Trần Ai có vẻ róng riết
hơn, cụ thể hơn Ngô Tất Tố khi chỉ ra nỗi nhục của người dân bản xứ qua gương mặt và hành vi của
những kẻ đại diện.
Ngay từ bài Tựa của Túp lều nát, tác giả Nguyễn Trần Ai đã đưa ra những con số có sức tố cáo
mạnh mẽ các nhũng tệ của tổng lý, hào cường trong thời gian một năm “dối quan, lừa dân, ăn dân,
hiếp dân và bức dân đến chết”. Từ những con số biết nói ấy, tác giả ví cái làng Việt Nam và rộng hơn
là cả xã hội Việt Nam đương thời như một túp lều đang bị những con mọt đục khoét đã đến ngày mục
nát, cần phải nhanh chóng có sự đổi thay. Tác giả cảnh báo rằng: “có một túp lều sắp đổ!”. Bằng ngòi
bút phóng sự sắc sảo, Nguyễn Trần Ai đã dựng lại chân dung đa diện và bộ mặt thật của đám quan lại
trong từng thôn xã với tất cả mọi mánh khoé ranh ma, quỉ quyệt, từ những thủ đoạn bóp nặn tinh vi
như phù thu, lạm bổ, tăng khống diện tích canh tác, và đánh đồng các loại ruộng để thu thuế, bán thuế
non, tính gian sổ sách, bức xiết đồ đạc, cướp vợ, vu oan giá hoạ… thực chất là những kiểu cướp giật
bằng mọi cách, đến việc cho vợ đóng giả đủ hạng người ăn mày, đội tên những người dân trong sổ
đinh của làng để đi lĩnh chẩn, những câu chuyện tranh chức Lý trưởng, làm phiếu bầu có đánh dấu sẵn,
đến những việc hèn hạ như những kẻ đại diện cho xã hội An Nam này tranh vồ nhau những đồ phế thải
của một viên quan người Pháp sắp đi nhận chức nơi khác….“Chúng biến luật pháp thành những “võ sĩ
què hết cả tay chân” và công lý thành “một cố lão mù tịt””. Toàn bộ Túp lều nát là bức tranh tổng thể
của nông thôn Trung Bộ mà mỗi tác phẩm là một lát cắt tiêu biểu. Nguyễn Trần Ai rất thẳng thắn và
tinh tường khi vạch ra cho độc giả thấy, đằng sau đám sâu mọt và cả cái chế độ mục nát ấy là hình
bóng của các ông Tây thực dân. Mặc dầu quốn phóng sự chỉ dừng lại yêu cầu cải cách đối với hiện
thực xã hội đương thời nhằm thức tỉnh những người có lương tri, báo động về sự vô hiệu lực của hệ
thống pháp luật của một thể chế có đến hai nhà nước cai trị, nhưng hiện thực khách quan gay gắt được
phản ánh trong các thiên phóng sự đó cũng đòi hỏi nhanh chóng phải có một sự thay đổi lớn.
Giá trị tố cáo sâu sắc của các phóng sự giai đoạn này còn thể hiện ở việc thẳng thắn vạch trần và
phê phán những hiện tượng tiêu cực trong tư tưởng và tâm lý của những người nông dân như mê
tín dị đoan, tâm lý hiếu danh…
Với vốn hiểu biết văn hoá sâu sắc uyên thâm, các cây bút phóng sự hiểu tận chân tơ kẽ tóc tâm lý
mê tín, dễ bị tác động của nông dân. Mặc dầu tỏ ra cảm thông cho những người nông dân cùng đường
không biết làm gì để kiếm sống, nhưng Phi Vân tỏ ra rất nghiêm khắc khi phê phán nạn mê tín dị đoan
trong Châu Xương cử Thanh Long đao và Ông tướng thầy Ba. Tác giả cũng cảnh báo về một tương lai
không xa, những kẻ lợi dụng sự mê tín của dân sẽ lộ rõ chân tướng. Ngô Tất Tố thì phê phán khá mạnh
nạn mê tín dị đoan trong Nén nhang sau khi chết. Ông chỉ ra những hậu quả thảm thương của nạn mê
tín nhằm cảnh tỉnh những người nông dân hãy tỉnh ngộ mà bước ra cái vòng luẩn quẩn: dốt nát, nghèo
đói va mu muội. Tác giả vạch ra âm mưu của kẻ thù là đánh mạnh vào nền văn hoá, đặc biệt là chúng
chỉa thẳng mũi súng vào tầng lớp nông dân - những người vốn ít hiểu biết, dễ bị tác động, rồi mượn tay
các thế lực phong kiến cố tình duy trì các hủ tục để dân tin, sùng bái, rồi chìm dần vào lạc hậu, mê tín
hư danh, kèn cựa nhau…từ đó, chúng dễ bề bòn rút.
Bên cạnh nạn mê tín dị đoan là tâm lý hiếu danh, tư tưởng xôi thịt ở chốn đình trung. Nếu Tắt đèn
tập trung ca ngợi bản chất tốt đẹp của người nông dân thì với Việc làng, Ngô Tất Tố lại chế giễu và phê
phán kịch liệt những tấm lý tiêu cực đó. Ông tỏ ra là ngòi bút hiện thực tỉnh táo khi vạch ra và tố cáo
chính sách ngu dân của giai cấp phong kiến, chủ trương duy trì những hư danh ngôi thứ ở chốn nông
thôn. Nó làm cho một số người lao vào tranh cướp nhau một chỗ ngồi ở chốn đình trung lấy đó làm lẽ
sống cao nhất và tất cả đều quên mất một sự thật đau đớn: mình vẫn là thân nô lệ! Nô lệ này cưỡi lên
đầu nô lệ khác mà sống. Kết quả của việc chạy theo hư danh, ngôi thứ là sự lục đục, chia rẽ ở nông
thôn, trở thành lực lượng mù quáng, dễ dàng bị bọn thống trị thâm độc lợi dụng. Bọn lý dịch hùa nhau
ăn hiếp cánh áo ngắn nhưng lại chia ra năm bè bảy cánh kình địch nhau, có khi đâm chém nhau vì một
“chức tiên chỉ” (Cái án ông cụ). Đến cả những “môn đồ của Khổng tử” trong hội tư văn, phần lớn là
bậc khoa hoạn “mặc áo thụng lam, đội mũ nhiễu hoa bạc” mà cũng đánh nhau chí tử vì một chiếc lăm
lợn, gây nên một tấn bi hài kịch ở khu văn chỉ. “Cái gì thế nhỉ? Cớ sao người ta lại bận lễ phục để đi
đánh nhau? Hay là ở đây là cửa Khổng sân Trình cho nên dù là đánh nhau, cũng phải giữ lễ!” (Một
chiếc lăm lợn). Trong một xã hội người bóc lột người, ý thức hệ của giai cấp thống trị là ý thức hệ
thống trị. Các bậc đàn anh trong làng hiếu danh, ham chức tước bổng lộc như thế thì lẽ tất nhiên một số
nông dân sẽ có cái tâm lý “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, “một miếng thịt làng bằng một
sàng mua”. Điều đó là một qui luật không tránh khỏi. Ngô Tất Tố mỉa mai sâu cay những người bán cả
gia tài, cho vợ đi ở vú để lấy tiền mua một chức lý cựu! (Góc chiếu giữa đình). Mỉa mai những kẻ vì
hiếu danh mà nâng niu một con gà thờ với tất cả lễ nghi thành kính, lấy làm mãn nguyện vì đã chăm
sóc tôn kính khi “người” bị “thương thực” hơn là lo lắng cho bà mẹ mình bị ốm nặng (Con gà thờ).
Sức tố cáo của các phóng sự giai đoạn này được bật ra từng câu chữ, từng chi tiết của chuyện. Mỗi
người nông dân như đều đang rên xiết vì những thủ đoạn thống trị đê tiện và thâm độc đến mức không
thể chịu đựng được nữa. Toàn cảnh xã hội nông thôn Việt Nam lúc bấy giờ là hàng loạt những thảm
kịch, những chân dung bất hạnh. Tất cả chính là lời lay tỉnh sâu sắc, mạnh mẽ hãy đừng là nô lệ của hủ
tục, đừng rơi vào âm mưu của kẻ thù. Mỗi phóng sự là mỗi lời tố cáo thẳng thắn, gay gắt. Thậm chí
còn manh nha lời kêu gọi đứng lên chống lại áp bức cường quyền, kêu gọi phản kháng lại sự bóc lột
tàn nhẫn, thâm độc. Những thông điệp đó vốn rất cần trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Trong lúc này, thực dân Pháp đang cố kìm hãm dân ta trong ngu dốt lạc hậu, lo phục hồi những tục
lệ cổ hủ mà quyên nhiệm vụ cứu nước, và không ít văn nghệ si đã sa vào âm mưu thâm độc ấy. Đặt
những thiên phóng sự trong bối cảnh ra đời của nó, mới thấy sâu sắc và thấm thía hơn lúc nào hết lòng
dũng cảm, tình yêu đất nước, trách nhiệm và bản lĩnh nghề nghiệp của những nhà văn - những cây bút
phóng sự.
2.2.2. Niềm thương cảm sâu sắc
Hành trình đi tìm tòi và khám phá sự thật, săn lùng cái ác, cái xấu để phơi bày, tố cáo của các nhà
phóng sự chính là dấu hiệu của chủ nghĩa nhân đạo. Tư tưởng nhân đạo của các nhà phóng sự không
chỉ thể hiện ở nhiệt tình phê phán, tố cáo cái ác mà còn ở việc thể hiện lòng trắc ẩn, nỗi cảm thông
bênh vực những người nông dân. Đó là những người bị tha hoá, biến chất một cách thảm hại, những
nạn nhân của những hủ tục lạc hậu, những số phận đói nghèo cùng quẫn…
Trước hết, người đọc dễ nhận ra nỗi cảm thông, thương xót cho những nạn nhân của xã hội
trong từng trang phóng sự. Các nhà phóng sự bức xúc, thẳng thắn vạch ra một sự thật bi đát về những
kiếp người. Với niềm đồng cảm sâu sắc, Ngô Tất Tố đã thấy được tất cả những nỗi nhọc nhằn, phiền
phức của những người nông dân sau luỹ tre làng. Mồ hôi nước mắt của họ không chỉ đổ xuống đồng
ruộng mà còn đổ cả ở chốn đình trung, nơi góc điếm sân đình. Phóng sự của ông chứa đựng những nỗi
buồn của một ngòi bút đầy chất nhân văn cao cả. Ngô Tất Tố phê phán cái tâm lý chạy theo hư danh
ngôi thứ nhưng không bao giờ xem đó là bản chất của nông dân. Nhà văn hiện thực rất sâu sắc khi thấy
rõ đó là những ảnh hưởng xấu tiêm nhiễm từ giai cấp thống trị. Ông xót xa cho những thảm kịch của
những người cung kính một cách ngây thơ trước hủ tục.
Chua xót trước hiện thực, nhà phóng sự Nguyễn Trần Ai đau đớn vẽ nên cuộc sống mênh mông
nỗi khổ nhục, oan ức trong suốt 13 chương khiến người đọc xót xa. Với chương Những người thay mặt
cho công chúng, tác giả đã có dịp để bày tỏ cảm xúc, tâm trạng của mình.
Người nhà quê nọ mới thuật qua loa vài câu chuyện đủ làm cho tôi rùng mình. Thật là một
trang thảm sử. Mỗi một lời nói là một dòng nước mắt, khiến cho bay giờ cầm bút chép lại
câu chuyện này, lòng tôi vẫn còn hồi hộp và bàn tay không điều khiển nổi ngòi bút, vẫn còn
run run như cầy sấy. Thì ra ở đây, ở chính dưới ách bọn tổng lý, luật pháp là một nhà võ sĩ
què hết cả tay chân, mà công lý là một cố lão mù tịt. [4, tr.100]
Hoặc trong Loài động vật ngắn cổ, Nguyễn Trần Ai cũng phải thốt lên lời cảm thương khi nghe
chắt Ch. kể lại tội phù thu lạm bổ của bọn quan lại:
Những lời nói tủi nhục của bác nhà quê gieo vào óc tôi một cảm tưởng nặng nề. Tôi thấy
dân quê như những khối căm hờn oan ức mà lì mặt. Tự nhiên tôi thấy nóng bừng cả người.
Sau cái màn xanh của làng xóm bao bọc bởi những luỹ tre đen đặc rậm rì thì ra không phải
là một cuộc sống êm ả mà đang chất chứa biết bao nhiêu nỗi hàm oan, những cơn giận
đáng thương xót và đáng ngạc nhiên. [4, tr.22-23]
Với niềm thương cảm như Ngô Tất Tố và Nguyễn Trần Ai, Vũ Trọng Phụng nhìn những người
nông dân hiền lành, thật thà cứ trượt dài trên con đường nhơ nhuốc, ông cũng nặng lòng xót xa : “Điều
cần thiết của tôi là muốn cho cái Đũi trở lại với tính tình trong sạch của cô gái quê ngây thơ” [62,
tr.136]. Vũ Trọng Phụng truy tìm nguyên nhân khiến cho đoàn người rời bỏ thôn quê tìm đến chốn đế
đô: “Họ đến là vì tại những thôn quê họ không làm gì cho đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã cất
tiếng gọi họ… rất bỡ ngỡ, bị bỏ lạc giữa một phố…Rồi người nhà quê thấy nhọc. Nhưng vì lẽ gì mà
người nhà quê dừng bước? Muốn nằm nghỉ cũng không được, vì người nhà quê phải trả tiền cả sự
nghỉ ngơi nữa.” [62, tr.145]. Được một lời mời hỏi nhân đức: “Có muốn kiếm công ăn việc làm
không?”, như chết đuối vớ phải cọc: “Người nhà quê sung sướng lắm, vì đó là lần đầu người nhà quê
thấy một người tỉnh thèm nói với mình.”[62, tr.145] Khát khao được giao cảm với xã hội thượng lưu
thật tội nghiệp và đáng thương. Hiện thực xót xa đã đánh mạnh vào tâm trí nhà văn họ Vũ, bật thành
nỗi thương cảm, thành lời than hết sức cảm động: “những câu chuyện ấy thật là lạ lùng, thật là không
ai dám tưởng là có thật được, thật là nhơ bẩn, thật là chướng tai” [62, tr.162]
Mặc dù có đôi chỗ ông tỏ ra khinh miệt, nhưng bao trùm lên tất cả tình thương của ông đối với lớp
người sa chân lỡ bước và thái độ dứt khoát đứng về phía những nạn nhân: “còn xa tôi mới làm thầy
kiện cãi không công cho hạng người giàu có mà bắt đứa đi ở mua một hào chỉ thịt quay phải mua làm
hai bận. Còn xa tôi mới làm án cho một con sen bị đánh gần bỏ mạng…”[62, tr.136].
Nói như Nguyễn Đăng Mạnh trong Lời giới thiệu Kỹ nghệ lấy Tây, “Điều quan trọng nhất đối với
một cây bút hiện thực chủ nghĩa không phải là đi thực tế dài hay ngắn, được “tham quan” nhiều hay
ít. Điều quyết định là tấm lòng có nhập cuộc hay không, tâm huyết có để vào những điều mình tìm hiểu
và thuật kể hay không”. Tấm lòng nhập cuộc, tâm huyết của các nhà phóng sự đã trải dài trên từng
trang viết. Cái gốc tài năng của các nhà phóng sự viết về nông thôn như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Phi Vân, Nguyễn Đổng Chi, Tam Lang, Trọng Lang…xét đến cùng là ở tấm lòng đau đớn và đầy căm
phẫn của những con người ý thức được những bất công và nỗi nhục bị giày xéo. Những tấm lòng trắc
ẩn ấy chính là thứ đá nam châm có sức hút cực nhạy để bắt lấy rất nhanh những cảnh đời mà khó ai
nhìn thấy, tấm lòng ấy cũng chính là những sợi dây đàn, chỉ cần chạm khẽ là có thể rung lên muôn điệu
cảm thông, chia sẻ. Đó là cảm hứng chủ đạo xuyên suốt toàn bộ các thiên phóng sự viết về người nông
dân trước cách mạng. Đó cũng chính là biểu hiện của lòng nhân đạo sâu sắc mà các nhà văn đã thể hiện
trong những “đứa con tinh thần” của mình.
Bên cạnh niềm cảm thông, thương xót là sự khơi gợi sức mạnh phản kháng để gióng lên hồi
chuông cảnh báo. Cũng xuất phát từ nỗi cảm thương sâu sắc, các nhà phóng sự đã trùm lên khung
truyện một không khí oi bức, ngột ngạt, các nhân vật bị dồn đến bức bối, tới mức phải nổ ra phản
kháng: Đó là tiếng rên oán hờn của cụ Thượng Lão Việt trong Việc làng: “Nhiều lúc tôi muốn hắt cái
gánh nặng ấy đi”. Đó là tiếng chửi cay nghiệt của người nông dân bị ăn chặn có sức mạnh thấm thía
đến xương tuỷ trong Túp lều nát:
Mả cha vạn họ nhà bay ! Cha con bay đi chém đầu cắt cổ choa (chúng tao) biết mấy năm
trời rồi. Trời ôi! Trời ở mô? Không phân thây cha con thằng Lý Tr ra trăm nghìn mảnh để
cho bay chừa cái thói phù thu lạm bổ đi. Sưu, sưu, thuế, thuế, vua thu có một phần thì bay
ăn hết của choa đến mười phần. Trời ôi ! Trời ở mô? [4, tr.17]
Tiếng chửi đanh thép, lời rên rỉ chứa chất phẫn nộ mang âm điệu bi thống đã ám ảnh, làm người
đọc sững sờ, day dứt. Đằng sau tiếng chửi ấy, lời than thở ấy, ta còn thấy sự vật vã của một lớp người
đang quằn quại đau đớn vì tuyệt vọng. Cách mở đầu đầy ấn tượng đó của hai tập phóng sự Túp lều nát
và Việc làng đã hé mở tình trạng bi đát của một số phận, một giai cấp. Phải có tấm lòng nhân đạo, cảm
thông thì mới có sự thấu hiểu sâu sắc đến như vậy.
Túp lều nát hấp dẫn người đọc ở chỗ, tác phẩm cho ta thấy tinh thần phản kháng mạnh mẽ của
người nông dân. Không như người nông dân trong tác phẩm của Ngô Tất Tố chỉ biết câm lặng trong sự
bóc lột tàn nhẫn, Nguyễn Trần Ai lại miêu tả họ như một lực lượng sẵn sàng đứng dậy đấu tranh chống
lại sự bất công và lừa gạt. “Con giun xéo lắm cũng quằn”, Tinh thần phản kháng ta cũng từng gặp
trong Đồng quê, khi chàng rể trói “bố vợ” kề dao hăm doạ là kết quả của sự lừa gạt, tức nước vỡ bờ,
nhưng dẫu sao cũng chỉ ở mức độ cảm tính, nhất thời. Quyết liệt nhất phải kể đến là thiên phóng sự
cuối cùng “Một thiên kết luận đẫm máu” trong Túp lều nát. Hình ảnh người nông dân phẫn uất, tuyệt
vọng, thấm thía tội ác của kẻ thù đã giết chết Viên chánh tổng rồi tự kết liễu đời mình là kết quả của sự
dồn nén, một kết cục tất yếu diễn ra, kiểu như Chí Phèo giết Bá Kiến vậy. Đó là sự vùng lên của con
người làm chủ giết chết con người nô lệ. Đó là cái chết ý thức được sự công bằng, về ước mong thay
đổi xã hội đã trở nên cấp bách. Tư tưởng nhân đạo và bút lực phi thường của Nguyễn Trần Ai đã có dịp
thể hiện ở những đoạn văn miêu tả tấn bi kịch tinh thần của người nông dân.
Phải có một nỗi “đau đớn lòng” sâu sắc từ “những điều trống thấy” thì các nhà phóng sự mới viết
nên được những bản cáo trạng đanh thép và đẫm nước mắt đến thế. Phi Vân, Nguyễn Đổng Chi, Vũ
Trọng Phụng, Trọng Lang, Ngô Tất Tố….đều am tường sâu sắc về cuộc sống phức tạp, cơ cực sau luỹ
tre, đều thương cảm đối với người nông dân bị giày vò, lũng đoạn. Không có lòng xót thương, không
có trái tim nhân hậu đồng cảm, họ không thể viết lên những cảnh tượng đau lòng như vậy. Khi đặt nỗi
cảm thông, lòng trắc ẩn, sự bênh vực của các nhà phóng sự dành cho những người nông dân, ta thấy tư
tưởng nhân đạo của các nhà phóng sự mang đậm tinh thần nhân đạo truyền thống, đó là lên án tội ác,
cường quyền, phanh phui bản chất bóc lột, bênh vực những kẻ khốn cùng, nghèo khổ.
Với nhãn quan hiện thực nhạy bén, những phóng sự viết về nông thôn đã phơi bày bản chất xấu xa
của một chế độ vừa thấm nhuần chủ nghĩa nhân đạo cao cả. Những thiên phóng sự ấy còn khẳng định
tư cách của những nhà văn dũng cảm đứng về phía những người nghèo khổ. Vì thế, nó có giá trị hiện
thực và giá trị nhân đạo vô cùng sâu sắc, góp phần quan trọng vào sự bùng nổ và phát triển của thể loại
chủ lực này trong văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930-1945.
2.2.3. Ca ngợi vẻ đẹp làng quê với những phong tục truyền thống
Bên cạnh cảm hứng chủ đạo là phê phán hiện thực, phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 -
1945 còn được viết lên bởi cảm hứng ngợi ca. Tiêu biểu nhất là tập phóng sự Đồng quê của Phi Vân.
Với cảm hứng ngợi ca, Phi Vân say sưa chọn những gam màu tươi sáng để vẽ nên bức tranh sông
nước Nam Bộ tươi đẹp và tràn trề nhựa sống. Thiên nhiên cảnh vật hiện lên qua lăng kính của nhà
phóng sự là một bức tranh êm đềm, trù phú: sông nước mênh mông, kênh rạch chằng chịt, nhiều động
vật quí hiếm… Phải có tấm lòng thiết tha gắn bó với quê hương, có lòng tin yêu cuộc sống Phi Vân
mới cảm nhận được những nét đẹp đáng quí như vậy.
Không chỉ ngợi ca cảnh đẹp của thiên nhiên đất trời, Phi Vân còn ngợi ca cuộc sống tinh thần
phóng phú của người nông dân Nam Bộ. Những phong tục tập quán đậm bản sắc dân tộc đã thể hiện
đời sống tinh thần giàu có của người dân nơi đây như những lễ cưới hỏi với những lễ nghi phức tạp,
cầu kì; những đêm hội hát; những đêm trăng chèo đò trên sông văng vẳng những câu hò dìu dặt…
Một điều lý thú là con người Nam Bộ hiện lên trong phóng sự Đồng quê với vẻ đẹp chân chất, phác
thực, hồn hậu như bao người nông dân trong cả nước, song người đọc không cảm thấy cảm giác nặng
nề, mệt mỏi của họ, dầu rằng cuộc sống vẫn còn quá nhiều đau thương. Họ vẫn lạc quan, tin yêu cuộc
sống. Nếu những người nông dân trong Việc làng cứ cung kính, ngây thơ trước hủ tục thì nông dân
Nam Bộ trong Đồng quê rạch ròi, dứt khoát, khi cần họ có thể vùng lên anh dũng đấu tranh chống áp
bức bóc lột, chống những bất công còn tồn tại. Tuân theo tục lệ là biểu hiện của thái độ thành kính với
tổ tiên, và quí trọng hiện tại nhưng trong Trao thân con khỉ mốc, thấy những tục lệ cưới hỏi quá cầu kì,
rườm rà chỉ để bắt bí nhau của nhà gái mà không có sự cảm thông, ngay tức khắc nhà trai có sự phản
kháng. Hoặc trong Cành tre cũ cặp giò xưa, nhận ra mình bị lừa dối, bóc lột, thằng Tư Rỗ vùng lên
trói ông Bá, đè lên ván, xách dao hăm doạ rồi dẫn vợ bỏ trốn…
Bức tranh cảnh vật, bức tranh phong tục đậm sắc màu văn hoá đều được Phi Vân tô điểm mang hồn
cốt của người dân Nam Bộ. Tất cả đều được ngợi ca say sưa với một tấm lòng yêu thương cuộc sống.
Khi hầu hết những phóng sự giai đoạn này hoặc là thi vị hoá cuộc sống. hoặc là nhìn hiện thực với
những gam màu đen tối thì Phi Vân vẫn phát hiện ở hiện thực những giá trị cuộc sống với tinh thần lạc
quan và niềm tin vững chãi. Phải chăng hiện thực đen tối quá làm Phi Vân bỗng có nhu cầu tha thiết
tìm đến những vẻ đẹp trong trẻo tinh khôi để cân bằng cuộc sống, để có điểm tựa, có niềm tin mà yêu
hơn, trân trọng hơn những giá trị cuộc sống mà đất trời ban tặng? hay sông nước quê hương đẹp quá,
đáng yêu quá đối với một tâm hồn tha thiết với quê hương làm Phi Vân không sao cưỡng lại ?
Được sống, được đắm mình trong thế giới cảnh vật êm đềm, tươi xanh của vùng đất Nam Bộ. Phi
Vân đã biết chắt lọc từng chữ để vẽ nên một bức tranh cảnh vật giàu sức ám ảnh, biết thanh lọc để
chưng cất nên những giá trị quí hiếm trong hiện thực còn quá nhiều đau thương.
Cùng với Sơn Nam, Hồ Biểu Chánh, và sau đó là cả một thế hệ như Mai Văn Tạo, Trần Kim Trắc,
Nguyễn Quang Sáng, Trang Thế Hy….những trang văn của Phi Vân đã góp một vẻ độc đáo riêng vào
dòng chảy văn học Nam Bộ, và cùng với các dòng chảy khác hoà vào dòng trường giang văn học làm
cho nó ngày càng bề thế, phong phú đa dạng hơn.
2.2.4. Những hạn chế trong cái nhìn hiện thực
Phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đã đặt ra một vấn đề bức bách là làm sao để
chấm dứt những cảnh sống ngột thở vì hủ tục, áp bức, cường quyền? Các nhà phóng sự hăm hở, nóng
lòng đi tìm những giải pháp triệt để cởi trói cho người nông dân. Trăn trở, tâm huyết nhiều, nhưng
trong khi đưa ra các biện pháp giải quyết, các nhà phóng sự đã bộc lộ một số hạn chế trong cái nhìn
hiện thực:
2.2.4.1. Những quan điểm chính trị còn chông chênh, mơ hồ, mang tính cải lương tư sản.
Khi đưa ra những biện pháp để thay đổi thực trạng, Ngô Tất Tố cũng mang tư tưởng giống tầng lớp
tư sản và tiểu tư sản ở nước ta và thế giới lúc bấy giờ khi cho rằng chỉ cần người trí thức gieo rắc ánh
sáng, truyền bá văn hoá về nông thôn là cải tạo được nông thôn. Đó là điều kiện duy nhất và có ý nghĩa
quyết định. Vũ Đình Hoè kêu gọi trên báo Thanh nghị tháng 9 – 1941: “Anh em thanh niên: Nay đến
lúc ta về làm việc làng!”. Tác giả muốn, nhân những chính sách cải lương của Pháp, thanh niên trí thức
hãy về nông thân làm nhiệm vụ khai hoá cho nông dân.
Cùng tư tưởng đó, trong truyện Lớp người bị bỏ sót, mở đầu tập phóng sự Việc làng, cụ Thượng
Lão Việt nói: “Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa nó vẫn có thể thay đổi, nếu phái trí thức
để ý đến sự khai hoá cho dân quê. Nhưng vì chúng tôi là một lớp người bị bỏ sót trong luỹ tre xanh,
con mắt của phái trí thức ít khi ngó tới.” [53, tr.13]. Trong lời tựa của Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai
cũng cho rằng: “Sở dĩ các ngài không nhìn thấy những chỗ hư nát có lẽ là tại vì các ngài đứng xa
quá!” [4, tr.12] Cụ Tố cũng cho rằng: “Một nước giống như một cái xe bò, lớp dân quê là người đẩy
xe. Nếu kẻ nay xe còn bị những người tệ tục buộc chặt hai chân, thì kẻ làm bò tài giỏi bậc nào cũng
không thể kéo được cái xe bò lên dốc…Vì vậy… tôi chỉ mong các ông đưa mắt đến chỗ bẩn thỉu, tối
tăm …trong luỹ tre xanh.” [53, tr.14].
Quan điểm đó sai lầm, phiến diện ở chỗ chưa nhìn thấy cội nguồn gốc rễ sâu xa của mọi thống khổ
là sự áp bức của địa chủ phong kiến, cường hào ác bá. Chỉ có làm cuộc cách mạng lật đổ giai cấp thống
trị này thì mới có thể chấm dứt tình trạng lạc hậu ở nông thôn.
Mặt khác, tầng lớp nông dân chiếm 90% dân số lúc bấy giờ, không thể xem là “lớp người bị bỏ
sót” được. Thậm chí đây là tầng lớp có vai trò cực kì quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng. Điều
mà ông chưa nhận thức được là cách mạng là sự nghiệp của toàn thể quần chúng nông dân chứ không
phải là của tầng lớp trí thức làm để ban ơn cho họ.
Ngô Tất Tố tỏ ra lúng túng, sai lệch khi giải quyết vấn đề mình đưa ra. Thực ra đó là ý nghĩ không
tưởng, cải lương, chỉ nhìn hiện tượng mà chưa thấy bản chất. Cũng như nhiều nhà văn khác, ông bộc lộ
một số hạn chế nhất định về thế giới quan nên quan điểm nghệ thuật đâu đó còn chông chênh, mơ hồ
cải lương tư sản, chưa thấy được sức mạnh hùng hậu của phong trào quần chúng song đó là hạn chế
khó tránh khỏi trong thời điểm đó. Vì thế biện pháp mà tác giả đưa ra chưa thật triệt để. Tuy nhiên, đó
là hạn chế khó tránh khỏi trong thời điểm trong hoàn cảnh ấy. Trong khi bọn bồi bút của phong kiến và
đế quốc đua nhau “thêu hoa dệt gấm” nhằm che đậy bộ mặt thực của nông thôn, một số nhà văn cũng
sa vào bẫy đó, cũng đua nhau ngợi ca những lớp người và cuộc sống lãng mạn suy tàn, thì Ngô Tất Tố
tỏ ra thành công khi biểu hiện cái nhìn đúng đắn về hiện thực, thông qua việc miêu tả hiện thực, phản
ánh cuộc sống khổ cực của nông dân và vạch ra âm mưu của giai cấp thống trị lợi dụng hủ tục để áp
bức bóc lột. Đứng từ góc độ tư tưởng chính trị, ta mới thấy cây bút phóng sự “ông đầu xứ Tố” tỉnh táo
và sáng suốt vô cùng. Ông đã nhìn thấy bản chất của xã hội đương thời, dù chỉ là một vài khía cạnh
chưa đầy đủ.
Một quan điểm sai lầm nữa là các nhà phóng sự luôn trăn trở, khao khát tìm kiếm nguyên nhân
của những cùng cực, oan khổ và họ đều cho rằng nguyên nhân của những cùng cực oan khổ mà người
nông dân phải gánh chịu là do đói khổ và mù dốt. Việc làng không chỉ là việc làng mà có khi lại còn là
việc nước bởi nó phanh phui một hiện trạng lớn, đau lòng của một dân tộc trong vòng áp bức, nô lệ.
Căn nguyên sâu xa chính là những người nông dân vì mù tối ngu dốt, vì không có chữ mà bị lừa gạt
vào vòng mu muội. Cũng như Ngô Tất Tố, “Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai quả chưa tách riêng sự
mù dốt và đói khổ; cả hai theo tác giả cả trong sự hợp lực của nó đã đưa người nông dân vào những
bước đường cùng, và cả cái chết…” (Phong Lê). Nguyễn Trần Ai nhìn vào hiện thực thấy chua xót
cho những người không có “trự”, rồi cứ phải ngơ ngác trong cái vòng luẩn quẩn: vì đói khổ mà mù dốt,
và vì mù dốt mà đói khổ. Trọng Lang cũng đã từng thương cảm cho người nông dân quê mình: “Làng
tôi giống như phần nhiều làng ở Bắc Kỳ về cái nghèo xơ, nghèo xác, trên cái ngu khổ ngu sở. Vì cái
nghèo cho nên…xôi thịt là cái đích rỗng, được họ coi trịnh trọng đến chừng nào.Vì ngu nên gà què ăn
quẩn cối xay, trộm cắp, bắt nạt xằng lẫn nhau”.(Làng).
Rõ ràng, đây là một nhận thức đúng mà chưa đủ, hay nói cách khác, nó chưa đi đến tận cùng cội
rễ, quan điểm đó còn bất cập, sai lầm. Cội rễ của nó là phải khơi sâu vào sự thống trị, sự áp bức, bóc
lột của phong kiến – thực dân. Tuy nhiên, đứng trên quan điểm lịch sử mà xét, việc hé mở vấn đề đói
khổ và dốt là tiền đề của bất công cũng là một nhận thức có giá trị trong sự phát triển của ý thức xã hội
và tư tưởng văn học một thời.
2.2.4.2. Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa
Một điểm hạn chế nữa trong các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn 1930 – 1945 là trong khi mô
tả và giải thích hiện tượng xã hội và số phận con người, một số phóng sự có cái nhìn mang tính tự
nhiên chủ nghĩa.
Đó là cái nhìn miệt thị, khinh khi đối với kẻ khốn cùng, tha hoá, tội lỗi của Trọng Lang, Ngô Tất
Tố, Vũ Trọng Phụng… khi miêu tả người nông dân với những nét “nhà quê” đần độn, xấu xí, mất vệ
sinh. Nguyễn Trần Ai thì cho những người nông dân chân lấm tay bùn là ‘loài động vật ngắn cổ”, Ngô
Tất Tố thì miêu tả người nông dân: “Người đâu mà lạ làm vậy! Cổ tay lớn bằng bắp chuối, ngón tay
như chiếc dùi đục; những lúc ảnh vấn vành khố một-nhai, bao nhiêu bắp thịt chần chẫn trong lớp da
đồng tụ đều lộ ra hết, thì trông chẳng khác gì cái tượng lực sĩ ở Đền Đô” [53, tr.33], tả đôi chân của
anh Hai Thuyết: “nó phàn phạt như chiếc bàn cuốc và lớn bằng rưỡi bàn chân người thường.”; tác giả
tả cảnh anh Hai Thuyết gần năm mươi tuổi mới học xỏ chân vào giày: “Nhìn ảnh, tôi thấy giống hệt
những bà nạ dòng tiếc cái xuân xanh sắp hết, cố học đi giày cao gót để thi với bọn tân thời”[53, tr.37]
Có vẻ gay gắt hơn, Vũ Trọng Phụng cũng tỏ ra khinh miệt: “Người nhà quê cứ bỏ làng mà đi! Một
ngày kia rồi sẽ được nằm trong một xó sân ngửi mùi cứt gà và cứt người, nhịn đói nằm co mà nhìn
trời” [62, tr.146]. Thỉnh thoảng ông nói về sự ngu dại, đần độn “vô nghĩa lý” của đám con sen, thằng
nhỏ trong bọn “Cơm thầy cơm cô”:
Một anh chàng đầu trọc lóc, mặt xanh nhớt mà thân thể béo tốt hẳn hoi, áng chừng vừa ở
nhà thong hoặc nhà hoả lò ra, đương ngồi lia lưỡi trên một mảnh giấy còn có cả cái đen sì
sì….Một anh chàng khác cái cổ cao ngỏng dán đến ba bốn lá thuốc cao, đương ngồi ngửa
cổ xem thiên văn trên trời. Một thằng bé thứ ba nữa, thì cứ gãi sồn sột, nằm xuống rồi lại
ngồi lên để ho, khạc và nhổ tung toé đờm rãi ra xung quanh. Rồi mụ già ăn mặc sạch sẽ,
gọn gàng, nét mặt bần thần trông vô nghĩa lý, cứ ngồi cầm cái quạt nan phẩy cho người
này vài cái, người khác vài cái, hình như hơn chục người này đều là con cái của mụ vậy…
[62, tr.143]
Một biểu hiện hạn chế có tính tự nhiên chủ nghĩa nữa là việc giải thích lý do tha hoá của con người
bằng quan điểm sinh lý thô bạo. Trong Cơm thầy cơm cô, ông cho rằng căn nguyên dẫn người đàn bà
trở thành kỹ nữ là do bản năng tính dục, do hám nhục dục một cách thú vật. Căn tính dâm đãng, bản
năng nhục dục kích thích là nguyên nhân cơ bản làm cho họ sa ngã. Sen Đũi cũng không nằm ngoài số
đó. Giống như thị Lành trong Lục xì, sen Đũi vốn là “một gái quê hiền lành” nhưng là “một đứa con
gái mà tạo hoá sinh ra để cho làm đĩ. Chưa làm đĩ, nó đã thạo nghề lảng lơ”. Sau khi bị hiếp, nó hiểu
biết “sự đời”, nó “trở nên một ả thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm”. Ông cho rằng “sự ngứa
ngáy xác thịt” của loài người mới là căn nguyên cơ bản của sự tha hoá nhưng chưa giải thích cụ thể,
chưa thuyết phục. Đó là quan điểm sinh lý thô bạo, là cái nhìn mang tính tự nhiên chủ nghĩa chưa nhìn
thấy những nguyên nhân sâu xa của xã hội dẫn con người vào sự tha hoá.
2.2.4.3. Những bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh thần của con người
Như rất nhiều nhà văn hiện thực phê phán đương thời, các nhà viết phóng sự tuy chỉ ra cho
người nông dân con đường đấu tranh để tự giải phóng nhưng chưa mở ra cho xã hội một viễn cảnh
tương lai tươi sáng, kết cục của các phóng sự vẫn còn quẩn quanh, bế tắc, không lối thoát.
Trong Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng bộc lộ những bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh
thần của con người. Ông bộc lộ một nỗi buồn, buồn về thế sự, về cuộc đời. Phóng sự là kết quả của
một cuộc điều tra khá chân thực, kể lại những thủ đoạn đục khoét ở một huyện nha vào dịp Tết. Từ cụ
Đề, cụ Lục, thầy Nho….đến lính cơ, lính lệ, tất cả đều xoay xở bày đặt đủ mọi trò tồi tệ tàn ác để làm
tiền. Cả xã hội chẳng ai đứng ngoài cái công lệ cá lớn nuốt cá bé và phận sự nộp đút lót. Họ Vũ nhìn tệ
tham nhũng, đút lót là một căn bệnh thâm căn cố đế, vô phương cứu chữa, diễn ra mọi lúc mọi nơi,
“bất cứ chỗ nào” và “bất chấp thời gian”.
Ngòi bút từng tung hoành khuấy đảo đời sống văn học này đôi khi lại có thái độ hoài nghi khinh
bạc, bi quan, bế tắc cả phẩm chất tinh thần của con người: “Cô gái quê đã phải làm con sen thì cô gái
quê sẽ cứ làm cô đào. Cô gái quê đã bị một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh nó là
một cái thang để cho cô gái quê trèo lên cao” [62, tr.136]. Hoang mang trước sự thật nhơ bẩn, chướng
tai gai mắt đến lạ lùng, khó tin của thực trạng loài người, Vũ Trọng Phụng thốt lên rằng:
Ấy thế rồi tôi đâm ra khinh hết cả loài người, vì tôi tin rằng không một ai trong bọn chúng ta
lại trông rõ được thực trạng cuộc đời. Thật vậy, bao nhiêu sách vở của loài người cốt để dạy
cho nhau biết mà thôi, vậy mà vẫn công toi cả. Nhưng điều người ta dạy bảo nhau bằng
sách? Đó là những điều mơ hồ, những điều lầm lẫn, những sự văn chương. Văn chương là
một sự, sự đời là một sự khác. [62, tr.162]
Từ sự bi quan đó, không riêng gì Vũ Trọng Phụng, các nhà phóng sự đương thời tỏ ra bế tắc. Dù có
chỉ ra nguyên nhân, có đề ra một số biện pháp cải tạo xã hội nhưng nhìn chung kết thúc tác phẩm vẫn
là tương lai mờ mịt, vẫn chưa hé mở một niềm tin, hy vọng cho độc giả. Vẫn là kết cục kiểu như chị
Dậu, Chí Phèo… mà thôi. Mở đầu phóng sự Việc làng là lời than vãn, bế tắc của cụ Thượng lão
Việt:“Nhiều lúc tôi muốn hắt cái gánh nặng ấy đi, nhưng sức một mình không thể làm nổi, đành phải è
cổ mà chịu” [53, tr.13], phóng sự khép lại vẫn là bế tắc, than vãn: “Một bữa “lệ làng” có thể gây cho
người ta một món nợ lãi chung thân không trả hết”[53, tr.108]
Trong Đồng quê cũng thế, ở chương Cành tre cũ cặp giò xưa, thằng Tư Rỗ năn nỉ lạy lục không
được, uất ức vì lừa gạt liền chống trả bằng cách trói ông Bá kề dao hăm doạ. Người đọc náo nức chờ
xem sau khi Tư Rỗ bị giải ra quận, kết cục sẽ như thế nào thì chưng hửng, Phi Vân bỏ lửng: “Tôi
không chờ biết đến kết cục thế nào…”. Sở dĩ tác giả không đi nốt phần còn lại bởi lẽ không nói thêm
người đọc cũng biết, vẫn là những đòn tra tấn dã man, vẫn là những bất công liên tiếp đè lên rồi ụp
xuống số phận của Tư Rỗ mà thôi!
Kết thúc Túp lều nát cũng vẫn là cái chết tự vẫn sau khi báo thù của anh Khương theo kiểu của Chí
Phèo, anh vùng lên:
…vật ngửa thầy Chánh ra đằng sau rồi cứ từng nhát dao chặt vào cổ thầy Chánh ọ oẹ, máu
phun ra phì phì như lợn chọc tiết. (…) Mày làm tổng lý bóc lột hiếp đáp dân ngu đã mấy
năm nay. Bây giờ tao chém mày để trừ hại cho dân (….) Tao giết thằng con rồi, bây giờ tao
phải uống máu thằng cha nó nữa. Tiếng anh Khương dội lên, tay chém lia lịa (…) Không
phải bắt. Tao giết người, tao đền mạng lấy. Dứt lời, anh Khương đâm cổ chết. [4, tr.116-
117].
Sự vùng lên của anh Khương làm người đọc sững sờ, day dứt. Nếu như Chí Phèo chết trên ngưỡng
cửa trở về cuộc sống, thì anh Khương lại chết quằn quại trong niềm uất hận với khát khao lớn lao là
được công bằng, thoát khỏi sự áp bức, bất công. Lời nói của anh đanh thép, chứa chất phẫn nộ, âm điệu
bi thống đầy ám ảnh, nó đặt ra một cách bức thiết về yêu cầu cải cách xã hội, bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho người nông dân.
Các nhà phóng sự Phi Vân, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi… đã chứng tỏ một
cảm quan hiện thực nhạy bén, khoẻ khoắn, hiếm có khi miêu tả sự quật khởi của người nông dân. Các
nhà phóng sự này đã cảm thấy tính khốc liệt của mối xung đột giai cấp ở nông thôn không thể xoa dịu,
càng nén xuống càng dễ nổ bung. Đã đến lúc giai cấp thống trị không thể thẳng tay bóp nặn người
nông dân được nữa, những người nông dân dù hầu như tê liệt về ý thức, trở thành công cụ trong tay
bọn thống trị như anh Khương trong Túp lều nát, hay Tư Rỗ trong Đồng quê ….vẫn có thể ra những
đòn quật lại bất ngờ. Mặc dù hé thấy sức mạnh ghê gớm của lòng căm thù giai cấp đang âm ỉ trong
lòng người nông dân bị áp bức, cảm thấy cái thế không yên ổn của bọn thống trị nhưng các nhà phóng
sự vẫn chưa nhìn thấy sức mạnh của khối quần chúng bị áp bức đoàn kết vùng lên đấu tranh. Sự đấu
tranh cũng chỉ mới xuất hiện vài cá nhân lẻ tẻ chưa đủ tạo nên sức mạnh của một khối đoàn kết.
Tóm lại. qua việc khảo sát về đặc điểm hiện thực và cảm hứng tư tưởng trong các phóng sự viết về
nông thôn Việt Nam 1930 – 1945, có một số vấn đề nổi bật như sau:
Bên cạnh những bức tranh cảnh vật tươi đẹp, thơ mộng với những phong tục truyền thống đậm bản
sắc văn hoá ở nông thôn, các phóng sự đã phản ánh những vấn đề hết sức cơ bản của xã hội là những tệ
nạn trầm kha và những hủ tục lạc hậu, đen tối. Những biểu hiện bệnh hoạn đó đã gieo rắc lên cuộc
sống của người nông dân, gây ra bao cảnh đời éo le, thương tâm, bao cảnh đồi phong bại tục, tha hoá
cùng quẫn…
Bản thân bức tranh giàu trữ lượng hiện thực nói trên đã có sức tố cáo mạnh mẽ. Nó không chỉ cảnh
tỉnh xã hội mà còn cảnh tỉnh lương tri con người, đánh thức những thiên lương đang bị huỷ hoại,
những nhân cách đang bị vùi dập. Không dừng lại ở việc miêu tả hiện thực một cách khách quan, lạnh
lùng mà tiến thêm một bước, các nhà phóng sự đã chỉ ra nguyên nhân và bản chất của hiện tượng đó
đồng thời thể hiện thái độ chủ quan của mình. Trong khi viết về cái ác, cái xấu, những mặt đen tối của
xã hội, các cây bút phóng sự đều đứng trên lập trường phê phán và viết bằng thái độ phê phán. Sau cái
vẻ lạnh lùng khách quan, cái chân thực đến tàn nhẫn của các thiên phóng sự là sự tủi hổ, cảm thông,
xót xa và nỗi phẫn uất trước nỗi thống khổ của người nông dân, những mục rỗng ghê ghớm của xã hội.
Mặc dầu các nhà phóng sự có ý thức trách nhiệm trước dân tộc, mong muốn hướng đến một xã hội
tốt đẹp, nhưng do hạn chế về thế giới quan, chưa thoát khỏi tư tưởng cải lương tư sản, nên trong tác
phẩm của họ đôi chỗ vẫn còn đan xen yếu tố tự nhiên chủ nghĩa, có cái nhìn bi quan về thời cuộc và
phẩm chất tinh thần của con người, chưa mở ra một viễn cảnh tương lai tươi đẹp. Tuy nhiên, giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo của những thiên phóng sự vẫn là cơ bản, thể hiện năng lực nhận thức và
sự tìm tòi tư tưởng của các nhà phóng sự.
Chương 3
NGHỆ THUẬT CỦA CÁC PHÓNG SỰ VỀ NÔNG THÔN
Ngoài những đóng góp tích cực về nội dung tư tưởng, điều làm cho phóng sự viết về nông thôn
Việt Nam 1930 – 1945 có sức hấp dẫn và sức sống lâu bền là ở nghệ thuật viết phóng sự. Chính nghệ
thuật này đã biến những tác phẩm báo chí có nghĩa “cấu tạo thời thế” thành những tác phẩm văn học
“bất diệt – đời đời”(chữ dùng của Thạch Lam).
Thành tựu đặc sắc về nghệ thuật của phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này được thể hiện ở
nhiều phương diện. Nhưng có thể nói, ba điểm nổi bật nhất cần phải đề cập đó là: nghệ thuật khám phá
hiện thực và khai thác tư liệu, nghệ thuật trần thuật và phong cách ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là những
yếu tố làm nên chất “văn”, chất “báo” hay nói cách khác tạo nên chất thời sự tư liệu hoà quyện chất
văn học đậm đà, đồng thời cũng là những chất liệu giúp phóng sự có những đóng góp quan trọng vào
quá trình hiện đại hoá văn học dân tộc giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX.
3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu
Là thể văn mang tính thời sự, luôn “áp sát” hiện thực, phóng sự có khả năng phản ứng nhanh
nhạy với những vấn đề mới nảy sinh. Một phóng sự có giá trị trước hết là phải khám phá, phát hiện để
nêu ra được những vấn đề có ý nghĩa đối với đời sống và bộc lộ quan điểm rạch ròi, đúng đắn của tác
giả. Phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 – 1945 đã làm được điều đó khi đã cung cấp cả một
kho tư liệu dồi dào, những tri thức chính xác về những sự kiện về đời sống xã hội và con người. Không
chỉ thế, các nhà phóng sự còn tỏ ra rất tinh tế khi lựa chọn thực tại, năng động trong tiếp cận hiện thực
đồng thời cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác. Vì thế các thiên phóng sự này đã có được lực
hút hấp dẫn đối với người đọc không chỉ ở một thời.
3.1.1. Tinh tế trong tuyển chọn thực tại
Hiện thực cuộc sống vốn muôn hình muôn vẻ đòi hỏi người nghệ sỹ phải có sự sàng lọc, tinh
tuyển những vấn đề có ý nghĩa điển hình. Nói như văn hào Pháp Flaubert: “Nghệ thuật không phải là
thực tại…cần phải tuyển chọn những nhân tố mà thực tại đưa ra”. Đó là điều hết sức cần thiết để
người nghệ sỹ có thể làm chủ được vấn đề trong quá trình phản ánh. Bởi vì, nếu “thiếu sự cân nhắc
thận trọng, sự phân lọc, khu biệt, người nghệ sỹ không thể làm chủ được vấn đề mà anh ta định trình
trình bày”. (Hêgel)
Riêng đối với phóng sự, yêu cầu về việc tuyển chọn vấn đề để phản ánh có phần khó khăn hơn,
làm sao vừa đảm bảo tính thời sự vừa có tính xác thực. Nhà phóng sự không thể “quan sát nhiều người
cùng loại để sáng tác một điển hình” theo kiểu của L.Tônstôi mà họ phải nhanh chóng đãi cát tìm vàng
trong một thời gian rất ngắn. Phải “biết phát hiện những nét chủ yếu nét điển hình trong vô số hiện
tượng” (B. Pôlêvôi). Trong lúc đó, những sự việc con người vừa mang tính tiêu biểu vừa chứa đựng
yếu tố thẩm mỹ vốn nằm lẫn lộn trong vô vàn những cái bình thường của cuộc sống. Vì thế việc tuyển
chọn đối với thể phóng sự là hết sức khó khăn.
Để có được những tác phẩm phóng sự xuất sắc viết về đề tài nông thôn, các nhà phóng sự tài ba
đã tỏ ra vô cùng tinh tế trong quá trình tuyển chọn thực tại, nắm bắt được “cái thần” hiện thực một
cách nhanh chóng, chuẩn xác đảm bảo tính khách quan, không được phép hư cấu. Với nhãn quan sắc
sảo và cảm quan hiện thực tinh tế, các ống kính phóng sự biết tinh tuyển và “chộp lấy” những vấn đề
nóng bỏng mà xã hội đang quan tâm. Biết sàng lọc những khía cạnh quan trọng, những hiện tượng tiêu
biểu của vấn đề cần đề cập trong vô số những mảng hiện thực ngồn ngộn những vấn đề còn bề bộn,
phức tạp.
Chẳng hạn, xung quanh chuyện tham nhũng ở một huyện, tác giả có thể viết nên một “bộ sưu
tập về tệ tham nhũng”, nhưng Vũ Trọng Phụng tỏ ra tinh tế khi đặc tả trong tình huống nó buộc phải
“xuất đầu lộ diện”. Đó là dịp huyện nha những ngày giáp Tết. Toàn bộ bản chất của sự việc sẽ lộ rõ
chân tướng trong các khoảnh khắc quan trọng này. Tác giả rất xuất sắc khi lựa chọn tình huống “rất
đẹp” này để tung một cú đá rất hiểm vào bộ mặt của bọn quan lại, thực dân. Lật ra chân dung và bộ
mặt nham nhở của của giới quan quyền với những thủ đoạn bẩn thỉu.
Ngô Tất Tố lại đặc biệt xuất sắc khi tuyển chọn từ thực tại bộn bề của cuộc sống nông thôn
những ổ hủ tục cổ hủ, lạc hậu. Từ đó lật tẩy chính sách thâm độc của đế quốc Pháp và giai cấp phong
kiến đã áp bức bóc lột, duy trì hủ tục để kìm hãm nhân dân trong cuộc sống đen tối. Việc làng không
chỉ phản ánh nạn sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ, tham nhũng cường quyền mà còn đặc biệt chú ý
đến đời sống văn hoá tư tưởng, văn hoá tâm linh của người nông dân. Có thể nói, sau luỹ tre xanh là
một thế giới riêng biệt, trong đó người nông dân phải oằn lưng chịu những gánh “việc làng”. Điều oái
ăm là gánh “việc làng” ấy “vẫn được coi như vị thần thiêng, không ai đả động đến nó” [53, tr.13].
Đúng là “phép vua thua lệ làng”! Ngô Tất Tố biết sàng lọc trong vô số cái phức tạp của cuộc sống
thôn quê để dũng cảm nói lên cái mà “không ai đả động đến nó”, cái “được coi như vị thần thiêng” để
gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho những người còn mu muội, cứ ngây thơ cung kính trước “việc
làng”. Tác giả đã chạm đến chiều sâu của đời sống văn hoá tâm linh của người nông dân để lay tỉnh.
Điều đó thể hiện sự tinh tế của Ngô Tất Tố trong tuyển chọn thực tại.
Những tưởng rằng bức tranh làng quê đã được khai thác triệt để qua những kiện tướng của chủ
nghĩa hiện thực như Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang!…Những tưởng chẳng có gì mới để
nói thêm về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng! Thế nhưng, thiên phóng sự Túp lều nát của
Nguyễn Trần Ai với 13 chương ngắn gọn xuất hiện vẫn đem lại đôi điều mới mẻ cho người đọc. Chính
nhà phóng sự ấy đã đóng vai người quan sát, ghi chép và tuyển chọn từ thực tại để kể lại những câu
chuyện có thật. Vậy là không chỉ nông dân Bắc bộ, số phận của những người nông dân trên những dải
đất hẹp của miền Trung khô khát nắng hạn gió Lào, triền miên lũ lụt đã đi vào trang văn để trở thành
minh chứng cho những thảm cảnh và tội ác của chế độ phong kiến – thuộc địa. Nguyễn Trần Ai vẽ nên
một bức tranh xám ngoét về nạn sưu cao thuế nặng, cường hào ác bá, tham nhũng cường quyền, phù
thu lạm bổ… Mỗi tội ác đều được tuyển chọn trong một bối cảnh đặc biệt, tự nó hiện lên sức tố cáo mà
không có lí do nào bào chữa. Nạn sưu cao thuế nặng, quan lại hào cường, nạn phù thu lạm bổ… sẽ lộ
rõ chân tướng trong mùa thu thuế. Đó cũng là Mùa gặt của hương lý. Khi tiếng trống thúc như cháy
nhà suốt đêm ngày, cũng là lúc diễn ra những cảnh lùng sục, bắt sưu nặn thuế, rồi doạ nạt, cùm kẹp, rồi
van khóc, nài xin. Tuyển chọn đúng thời điểm đó, tác giả mới có thể vẽ nên toàn bộ “thần thái” của sự
việc mà không cần tô vẽ hay hư cấu. Người thật, việc thật cứ thế hiện ra vừa tiêu biểu, vừa đảm bảo
tính thẩm mỹ đúng như yêu cầu của thể phóng sự.
Bên cạnh sự kiện, phóng sự viết về nông thôn còn lấy tư liệu về con người để phản ánh hiện
thực. Đối với tư liệu về con người, hầu hết các nhà phóng sự chủ yếu tuyển chọn hết sức tinh tế, họ
không phải là đám đông mà là những con người bằng xương bằng thịt, được lấy làm nhân chứng đại
diện cho một tầng lớp người cụ thể. Họ được thuyển chọn từ những hình ảnh tập thể của nhiều giới
người. Sen Đũi đại diện cho giới cơm thầy cơm cô trong phóng sự cùng tên; cụ Thượng, cụ Bố, ông
Đồn đại diện cho giới quan nha, nho Kh. tiêu biểu cho giới đoàn thể các thầy nho trong Một huyện ăn
Tết; Cụ Thượng Lão Việt, anh xe, bà Cựu…trong Việc làng đại diện cho tầng lớp cùng đinh, dưới đáy
xã hội... Từ tập thể những tầng lớp người trong xã hội, nhà phóng sự tiếp tục tuyển chọn và đưa ra
những nhân vật có tính điển hình cho từng giới. Trong Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng nói: “Tôi có
thể đưa ra cho các ngài đủ các mẫu hàng về giới cơm thầy cơm cô”[62, tr.165]. Cách tuyển chọn này
tinh tế vì mỗi tệ nạn chỉ liên quan tới một nhóm người, giới người nào đó mà thôi.
Sự tinh tế trong tuyển chọn thực tại còn thấy trong phóng sự của Phi Vân. Sẽ không có bức
tranh hoàn chỉnh về nông thôn Việt Nam nếu không khẳng định những đóng góp tích cực của Phi Vân.
Đồng quê là tác phẩm đột xuất nhất của ông. Với ngòi bút không chỉ lấy việc vạch trần hiện thực làm
chính đề, Phi Vân đã đem đến cho độc giả cảm giác thật nhẹ nhàng. Chỗ mạnh của ngòi bút Phi Vân là
đi sâu khai thác các khía cạnh phong tục tập quán trong sinh hoạt của người nông dân miền Nam. Với
cách tuyển chọn tinh tế này, tác phẩm đã vẽ nên những nét đặc sắc và độc đáo của nông thôn và con
người Nam Bộ. Bút pháp hóm hỉnh, rất ít lời của Phi Vân đã làm cho thiên truyện thêm màu sắc hài
hước, và bớt đi cái cảm giác nặng nhọc của một ngòi bút chỉ lấy việc vạch trần hiện thực làm chính đề,
đó cũng là đặc sắc nghệ thuật của toàn tập phóng sự.
Nghệ thuật lựa chọn những vấn đề, những tình huống tiêu biểu của hiện thực với những con
người tiêu biểu đã được thể hiện rất sinh động trong từng thiên phóng sự. Trong cái vô vàn phức tạp
của cuộc sống đương thời, mỗi sự kiện được nhà phóng sự lựa chọn cùng tài năng sáng tạo, khai thác
của họ đã góp phần quan trọng làm nên giá trị của các thiên phóng sự. Những sự kiện, biến cố xã hội,
con người được các nhà phóng sự tuyển chọn đều là những vấn đề mới mẻ, mang tính thời sự nóng hổi,
phổ biến. Nó đều chứa đựng kịch tính hay nói cách khác là chứa đựng những uẩn khúc, những mâu
thuẫn nội tại gay gắt có ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là bước đầu của quá
trình khám phá hiện thực. Vấn đề tiếp sau đó là cả một nghệ thuật tiếp cận khám phá bản chất của hiện
tượng vốn rất phức tạp của cuộc sống.
3.1.2. Năng động trong tiếp cận hiện thực
Sau khi tuyển chọn được các vấn đề, các nhân vật tiêu biểu từ thực tại bộn bề của cuộc sống, các
nhà phóng sự bắt tay vào tiếp cận hiện thực một cách linh hoạt và năng động. Có thể nói, tài nghệ của
người viết phóng sự thể hiện trước hết ở cách tiếp cận sự thật. Từ nhiều góc độ khác nhau, các nhà
phóng sự viết về nông thôn Việt Nam 1930 - 1945 đã đã có những cách tiếp cận riêng rất thông minh
và sáng tạo, nhờ vậy họ đã phát hiện ra những mặt khác nhau của hiện thực và tìm ra cội nguồn của
bản chất của mọi vấn đề.
Sức thuyết phục của các phóng sự viết về nông thôn ở giai đoạn này trước hết là ở khả năng
phản ánh chân thực đến từng chi tiết sự kiện, đối tượng được miêu tả, đem đến cho độc giả cảm giác
được sống “y như thật”. Làm được điều đó, các nhà phóng sự không chỉ xuất hiện với tư cách là người
quan sát, ghi chép và kể chuyện mà họ còn là người chứng kiến và trực tiếp tham gia vào các sự kiện.
Nếu Tam Lang Vũ Đình Chí bắt chước Mariese Choisy đổi lấy bộ áo con đòi vào ở thổ, mượn bộ quần
áo nâu của một bạn áo ngắn, khoác vào mình rồi dấn thân nếm trải kiếp ngựa người để viết nên thiên
phóng sự Tôi kéo xe thì “ông vua phóng sự đất Bắc” sắm vai một thằng “cơm thầy cơm cô một trăm
phần trăm” theo chân những chị sen, thằng nhỏ nhập vào gan ruột xã hội thị dân Hà Nội để viết Cơm
thầy cơm cô. Người đọc không thể ngờ được Vũ Trọng Phụng nhập vai thằng ở “nuôi tóc cho rõ dài
tới sau đỉnh đầu”, áo “mầu hoa đào cụt tay”, “quần lĩnh đen”. Thậm chí “đã bờm xơm với ba bốn con
nhãi”, “đã bắt nhân tình với một vú em”. Còn viết Một huyện ăn Tết, ông vua phóng sự đất Bắc cũng
phải tìm đến một viên lục sự già bên khay đèn thuốc phiện, đầu mối của mọi đường dây biếu xén hối lộ
quan lại để phanh phui một sự thật đau lòng. Viết nên tập phóng sự Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai lại
dụng công hơn năm tháng trời khoác áo một nhà mô phạm, đội lốt một thầy giáo dạy tư lọt vào nhà lý
S thôn M. V. để thu thập những thông tin về nông thôn trung bộ, bị lý S tình nghi ông là người ở tỉnh
khác đến đây giả danh dạy học trò để tụ họp người bàn chuyện C. S., trần tình đủ cách không được,
ông phải chui đầu vào nhà giam. Trong chốn lao tù chật hẹp, tác giả lại tiếp tục tiến hành công việc
điều tra phóng sự, cố găm thật kỹ vào óc những câu chuyện mà các bạn tù kể. Để có bộ sưu tập Việc
làng và Tập án cái đình, Ngô Tất Tố cũng đã phải dày công đột nhập lân la khắp các xó xỉnh nhà quê
từ hiên đình tới góc bếp. Trọng Lang viết về những thân phận dưới đáy xã hội cũng khoác một bộ áo
lao động thất nghiệp…
Sau khi “áp sát” được hiện thực, những vấn đề “mắt thấy tai nghe” được các nhà phóng sự “xử
lý” một cách sáng tạo. Tuỳ theo từng vấn đề mà đặc tả, khi thì cận cảnh, chi tiết, khi thì tiếp cận bằng
bức tranh toàn cảnh, bao quát vấn đề. Hiện thực phản ánh được lật tới lật lui với nhiều góc độ và
khoảng cách tiếp cận khác nhau đã giúp các nhà phóng sự phát hiện sự phong phú, đa dạng của hiện
thực. Từ đó, bản chất vấn đề được soi sáng một cách thấu đáo và sâu sắc.
Chẳng hạn, trong Việc làng, Ngô Tất Tố xoay ống kính đặc tả cận cảnh để soi rọi từng ổ hủ tục
nấp sau luỹ tre xanh. Ông đột nhập thẳng vào từng gia đình để thấy cái chết uất hận vì hủ tục của cụ
Thượng lão Việt, chứng kiến Một đám vào ngôi của gia đình bác Cả Mão… Bước tới ngôi đình làng để
thấu hiểu nỗi vất vả đi tìm Góc chiếu giữa đình để thoát khỏi tâm trạng bất mãn của hạng “bạch đinh”
mà gia đình ông Cựu phải chịu bấy lâu; tác giả còn xông thẳng vào từng mái bếp để nhìn thấy tận cùng
đằng sau Nghệ thuật băm thịt gà ấy là cái nhục vì miếng ăn...Từ cách tiếp cận này, từng mảng hiện
thực hiện lên một cách sinh động và cụ thể.
Nếu như Việc làng được nhìn cận cảnh từng sự việc thì trong Tập án cái đình, ống kính phóng
sự lại được mở rộng tầm ngắm từ xa để thâu tóm những nghi lễ nhốn nháo, nhặng xị của những đám
đông nhân vật. Với cách tiếp cận này, người đọc thấy được nỗi nhục của những kiếp nô lệ từ những
cảnh nhố nhăng, nực cười, cười ra nước mắt.
Khác với cách tiếp cận hiện thực của Ngô Tất Tố, Một huyện ăn Tết nổi trội lên khi Vũ Trọng
Phụng khai thác vấn đề dưới góc độ phân tích bản chất của bộ máy chính quyền thực dân, khai thác tệ
tham nhũng bằng cách khám phá cơ cấu những tổ chức tội phạm. Đó là một tổ chức hoạt động công
khai giữa thanh thiên bạch nhật với một qui trình khá bài bản: Công lệnh được ban ra từ quan huyện,
lính cơ lính lệ toả xuống thôn xã “tuần tra”, lùng sục, gây gổ để lý dịch phải cống nộp công quĩ. Số tiền
vơ vét được chia theo một tỉ lệ đã định cho toàn bộ máy từ cụ Thượng, cụ Bố, ông Đồn, lính cơ, lính
lệ… để bọn chúng ăn Tết! Với cách tiếp cận như vậy, tác giả khám phá ra cách tổ chức xã hội với một
cơ cấu tổ chức chỉn chu, hoàn hảo. Bản chất tham nhũng, cướp bóc của bộ máy chính quyền đã bị
phanh phui triệt để. Sức tố cáo tự bật ra mạnh mẽ từ cách tổ chức xã hội này: “Xã hội thì như bộ máy
tinh tế, mà cá nhân là những bánh xe, nếu một cái quay thì bao nhiêu cái khác cũng phải quay theo
(…) chẳng một ai lại có thể đứng ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé, vì cái phận sự nộp của đút, hoạt
động từ dưới lên trên…” (Một huyện ăn Tết). Cách tiếp cận kiểu như thế này thật thông minh, sắc sảo,
quả xứng danh là “ông vua phóng sự Bắc ky”!
Ráo riết và quyết liệt hơn, Nguyễn Đổng Chi phơi bày nạn sưu cao thuế nặng, phù thu lạm bổ
bằng cách xông thẳng vào trận địa của những buổi thu thuế, phanh phui những biên lai chứng từ,
những tờ biên nhận để người đọc thấy sự nhập nhèm trong cách ghi biên lai để bọn chúng moi tiền của
dân. “trong khi họ thò tay ra để nhũng lạm phù thu, họ đã nghĩ sẵn trăm mưu nghìn kế khôn khéo lắm.
Có nhập nhèm dùng biên lai tạm thì mới ăn lậm của bác được đến những 3 đồng, ..”.[4, tr.20]. Tác giả
phải thốt lên rằng: “Đã “sĩ tính tục biên” (đợi tính toán biên chép thêm) mà lại “sự thanh” (việc đã
xong) thì thật là xỏ xiên hết nước” [4, tr.19]. Lợi dụng người nông dân không biết “trự”, bọn chúng
lươn lẹo đủ bề, “làm xiếc” với biên lai để mặc sức phù thu lạm bổ, còn người dân nghèo khổ kia cứ
phải hứng chịu mà không thể làm gì hết. Cách tiếp cận này mở ra một cách nhìn mới về nạn phù thu
lạm bổ, nạn sưu cao thuế nặng mà các nhà văn hiện thực đã từng khai thác. Với cảm quan nhạy bén và
cách tiếp cận năng động này, Nguyễn Trần Ai khám phá được bao điều bí ẩn còn nấp sau luỹ tre xanh
ấy. Tất cả ngón nghề bóc lột đã hiện lên sinh động đồng nghĩa với sự xấu xa của nhân cách và đạo đức
của giai cấp thống trị.
Tất nhiên, tiếp cận hiện thực không phải là tất cả của nghệ thuật viết phóng sự. Nhưng cách tiếp
cận có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thậm chí có tính quyết định đối với hiệu quả điều tra nông hay sâu,
mới mẻ hay nhàm chán. Với những cách tiếp cận sự thật hết sức linh hoạt và năng động như vậy,
những vấn đề nhức nhối sau luỹ tre xanh được các nhà phóng sự phản ánh nổi bật và sâu sắc hơn. Từ
nhiều góc độ khác nhau, khi cận cảnh để đặc tả, khi mở rộng để thâu tóm, các ống kính phóng sự đã soi
sáng và phát hiện được nhiều mặt khác nhau của hiện thực. Từ đó bản chất của mọi vấn đề tự nó đã có
khả năng bộc lộ một cách đầy đủ.
3.1.3. Sáng tạo trong khai thác tư liệu
Bên cạnh sự năng động trong tiếp cận hiện thực, các nhà phóng sự viết về đề tài nông thôn còn
thể hiện sự sáng tạo trong khai thác tư liệu. Có khi, họ thể hiện sự khôn ngoan trong thao tác nghề
nghiệp, tinh vi trong nghệ thuật điều tra để có những tư liệu “sống”, nhưng cũng có khi dùng trí tưởng
tượng sáng tạo để tái hiện tư liệu, thậm chí sử dụng cả những tư liệu mang tính mơ hồ, ước lệ…
3.1.3.1. Nắm bắt thông tin nhanh nhạy
Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Trọng Lang, Phi Vân… đều là những nhà văn –
nhà báo cho nên rất nhạy khi phát hiện những mối thông tin và rất khéo khi khơi gợi, khai thác những
thông tin đáng tin cậy.
Người nắm bắt thông tin nhanh nhạy tiêu biểu nhất có thể kể đến là Nguyễn Trần Ai. Đang đi
lấy tin cho bài báo nọ, vô tình gặp chắt Ch, câu chuyện thương tâm của chắt Ch làm nhà phóng sự
Nguyễn Trần Ai ngay lập tức xoay đổi công việc. Từ chỗ viết tin cho tờ báo nọ, ông nghĩ ra một kế,
“tìm ở trọ nhà một ông Lý, đội lốt một thầy giáo dạy tư...lần mò tìm kiếm trong cái màn xanh xanh bí
mật kia một ít cảnh tượng đáng than khóc”[4, tr.22]. Và thế là ông chọn nhà lý S trong bối cảnh mùa
gặt sưu thuế. Thời điểm, địa điểm tiêu biểu này là đầu mối quan trọng để những thói phù thu lạm bổ,
sưu cao thuế nặng, tham nhũng cường quyền bộc lộ rõ chân tướng nhất. Và từ đó, 13 chương phóng sự
với những sự thật ở làng quê xứ Nghệ được phanh phui cùng với ngồn ngộn những tư liệu đáng tin cậy.
Cũng khám phá tệ tham nhũng, Vũ Trọng Phụng rất khôn ngoan khi chẳng thèm đi đâu xa mà
chỉ nằm bên khay đèn của viên lục sự già, vì hắn là đầu mối của mọi thông tin lại chẳng thèm che dấu
hành vi xấu xa của mình. Được tạo hứng bởi “nàng tiên nâu” hắn xổ ra tất cả những mánh khoé của
giới quan trường. Vũ Trọng Phụng ngay tức khắc “bám” vào đầu mối này để phanh phui các sự kiện.
Không chỉ nắm bắt thông tin nhanh nhạy, các nhà phóng sự còn thể hiện nghệ thuật khơi gợi để
khai thác nguồn thông tin dồi dào, đáng tin cậy. Chẳng hạn trong Loài động vật ngắn cổ (Túp lều nát),
có lúc tác giả dỗ dành dịu ngọt chắt Ch. khi ông ta khóc lóc nóng giận với bộ mặt hung thần; có lúc hỏi
han gia đình vườn ruộng để hiểu thêm tờ biên lai nhập nhèm ra sao, có lúc lại chỉ cho chắt Ch kế sách
lần lữa không chịu nộp thuế để lên quan nộp cho phân minh, từ đó lần tìm ra manh mối của những thủ
đoạn bỉ ổi mà bọn quan lại sắp đặt khá kỹ… Mỗi câu hỏi khéo léo của tác giả đều có mục đích khơi
gợi, nắm bắt thông tin.
Cũng khéo léo như thế, trong Cơm thầy cơm cô, Vũ Trọng Phụng lấy làm lạ khi một đứa đi ở
mất việc lại không muốn có việc làm, nên đã “khôn ngoan” thiết kế một cuộc “ve nhau” ở một vỉa hè,
gần đống rác, “Và cặp uyên ương chúng tôi không biết kiểu cách vì trong khi nói chuyện, chúng tôi
quyên khuấy đi mất không biết cả hai đã cứ để ống quần vén lên đến đùi! Bởi thế nên lời thú tội của
cái Đũi, tôi có thể tin được là thành thực.” [62, tr.126]. Với nghệ thuật khơi gợi khéo léo, tác giả đã
“rút” được rất nhiều thông tin quan trọng và đáng tin cậy về thế giới của những hạng “cơm thầy cơm
cô”. Hoà nhập vào dòng người này, tác giả say sưa đóng vai nhân tình của cái Đũi, thậm chí có lúc
cũng phải chim chuột rất tình nhằm khai thác những ẩn ức bên trong của nhân vật trong một hoàn cảnh
hết sức tự nhiên, vì thế đã đem lại nguồn thông tin dồi dào, sống động về những người nông thôn ra
thành thị:
Rồi tôi cảm thấy rằng muốn làm một nhà xã hội học, một nhà tâm lý học, một nhà triết học
thì trước hết hãy đăng vào nghề cơm thầy cơm cô! Người phu xe biết hết mọi sự độc ác của
loài người hơn là một nhà học giả. Người bồi săm biết hết mọi sự dâm đãng của loài người
hơn là một nhà giải phẫu học. Và một kẻ đi ở thì cũng biết rõ những tình hình của loài người
hơn là một văn sĩ tả chân. [62, tr.162].
Sự nhanh nhạy tiếp cận, khéo léo khi gợi mở thông tin, hoà vào đối tượng để tâm tình, giãi bày
những ẩn ức một cánh tự nhiên đã giúp các nhà phóng sự thu được một lượng nguồn thông tin dồi dào,
xác thực về đời sống nông thôn Việt Nam. Từ đó, để lại cho đời những tác phẩm không chỉ có giá trị
về nội dung mà còn về nghệ thuật khai thác tư liệu và xử lý tư liệu.
3.1.3.2.Dùng trí tưởng tượng để phân tích và xâu chuỗi tư liệu
Nắm bắt thông tin tài tình, xử lý thông tin khéo léo, các nhà phóng sự còn dùng trí tưởng tượng
để tái hiện và xâu chuỗi tư liệu. Đó là những lúc không thể dùng mắt thường để quan sát tìm ra bản
chất của sự việc, mà cần năng lực nhận thức cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân phong phú để phân tích
lý giải. Nói như Puskin: “sự tưởng tượng chân chính đòi hỏi một sự hiểu biết thiên tài” [Tạp chí văn
học số 4, tr.49].
Tất nhiên sự tưởng tượng phải phù hợp với logic cuộc sống. Vừa phải khoa học vừa phải có tính
thẩm mỹ. Từ sự kiện trước mắt, nhà phóng sự tưởng tượng để gợi mở sự kiện, gợi cái đã xảy ra hoặc sẽ
xảy ra… rồi xâu chuỗi một cách hợp lý. Chẳng hạn, để cảnh báo về một chế độ mục rỗng, Nguyễn
Đổng Chi tưởng tượng như một “túp lều sắp đổ”, một sự tưởng tượng đầy ngụ ý :
Các ngài thử lại gần mà xem. Này đây: những đường xà, cột trụ nhìn ngoài trông vẫn bóng
loáng, đẹp đẽ đấy, nhưng ta thử ấn tay vào một tí có phải nó rúm ró như cạp bánh đa
không? Chính là có vô vàn con mọt đã đục khoét thành rãnh, thành hang, xuyên tạc trong đó
như một hầm mỏ. Rồi đến sát chỗ vách kia, các ngài sẽ trông thấy từng đường đất kéo dài
lên đến tận nóc như những đường đê. Các ngài hãy dùng một cành cây bới nó ra xem. Thưa,
đấy là hàng trăm nghàn con mối. Đã hết đâu. Kìa, trên nóc lều, một vài con chuột thấy bóng
người đang chạy trốn nháo nhác kia đấy. Những con mèo ở đây toàn là giống mèo nằm bếp
nhác nhớn, mà có lẽ lại sợ chuột nữa (….) Túp lều ấy các ngài ôi! Chính là chỗ dân quê chui
rúc làm ăn, chính là cái làng của nước mà các ngài đang quản trị.Vậy mà túp lều ấy nát. Cả
bọn dân trú ngụ ở trong, bọn dân thường năm vẫn nộp thuế cho các ngài sòng phẳng, đang
muốn xin một sự thi ân.[4, tr.12-13].
Cũng sử dụng trí tưởng tượng tài tình để phân tích và xâu chuỗi tư liệu, “ông vua phóng sự Bắc
kì” đã dùng tưởng tượng để gợi về cảnh con sen Đũi khiêu dâm cậu bé con chủ nhà: “hình như tôi thấy
hiện rõ rệt trước mắt tôi cái cảnh tượng thảm hại một cậu bé 12 tuổi mà đã hứng tình trước hai cái đùi
trắng nõn của một con sen vờ nằm ngủ say”, rồi sau đó tưởng tượng về tương lai và phân tích: “cậu
học trò kia mai sau tất rồi hư thân, mà nếu có hư, chính là chỉ vì cha mẹ cậu ta đã ở ác với một con
sen tinh ma quỉ quái”[62, tr.135]. Xâu chuỗi các sự kiện lại, tác giả phân tích lí giải rồi lên tiếng tố cáo
xã hội nhố nhăng chốn Hà thành đã làm băng hoại nhân phẩm con người.
Nhiều chân dung nhân vật ít nhiều chứa đựng yếu tố tưởng tượng. Sự miêu tả nhân vật pha chút
tưởng tượng làm cho nhân vật sinh động và gần với cuộc sống hơn. Nói như I. Gôncha rốp: “lối chụp
trực tiếp từ cuộc sống sẽ dẫn tới một bản sao nhợt nhạt, thảm hại. Chỉ bằng con đường của tưởng
tượng sáng tạo nó mới đến gần với cuộc sống.” [3, tr.304]. Bằng sự nhào nặn những tư liệu về người
thật việc thật dựa trên vốn sống phong phú của chính mình, các nhà phóng sự đã biến “sự thật của hiện
thực thành sự thật của nghệ thuật” [81, tr.127] làm cho những tư liệu trở nên có hồn hơn, lung linh
hơn.
3.1 .3.3. Dùng những tư liệu mơ hồ, ước lệ
Trong những phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này, các cây bút phóng sự còn sử dụng
những tư liệu mơ hồ, ước lệ. Nếu Đồng quê kể về những câu chuyện ở một làng, một thôn nào đó có
tên của từng địa danh con người cụ thể theo kiểu nói có sách mách có chứng thì trong Túp lều nát và
Việc làng, Nguyễn Trần Ai và Ngô Tất Tố không hề nói rõ đến một tên làng nào, vào thời gian cụ thể
nào mà tên làng thường viết tắt, thời gian thì ước lệ. Kiểu như “Tôi lọt vào nhà lý S, thôn M.V giữa lúc
ông ta “búi” lên với mùa gặt sưu thuế” (Nguyễn Trần Ai), hay “cái làng Lão Việt nhà tôi có thể đại
biểu cho tất cả hương thôn già cỗi của nước Việt Nam”(Ngô Tất Tố)…Nói về nạn tham nhũng ở một
huyện vào dịp Tết trong phóng sự Một huyện ăn Tết, Vũ Trọng Phụng cũng “chẳng nên nói rõ ra đây
là cái tên của huyện ấy” vì “bất cứ chỗ nào, sự đời cũng đến vậy cả”. Thời gian cũng mơ hồ, không cụ
thể, câu chuyện huyện ăn Tết được miêu tả vào “tháng Chạp năm ngoái”, nhưng “nó có thể cứ vẫn là
câu chuyện của Tết năm nay, lại có thể sẽ là câu chuyện của Tết sang năm nữa”.
Cũng như vậy, khi miêu tả một quán cơm trong Cơm thầy cơm cô, nhà văn họ Vũ này cũng
“không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào” nhưng lại miêu tả đúng cái mùi vị thâm căn cố đế của
hàng vạn hàng cơm mạt hạng “mùi cá mè…mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi dưa khú”. Nói như TS
Nguyễn Hoài Thanh, những cái mơ hồ kiểu như trên “không phải thiếu khả năng nắm bắt được đối
tượng miêu tả, càng không phải là sự phóng bút ngẫu hứng, mà là sự mơ hồ, tự giác, chủ động, nhằm
nhận thức vấn đề một cách khái quát, nhằm đi sâu để nắm bắt cái bản chất bên trong của nó”. [81,
tr.128]
Cách lựa chọn một số tư liệu mơ hồ, ước lệ là những “thao tác kỹ thuật” để các nhà phóng sự
khắc hoạ vấn đề trên diện rộng một cách sâu sắc hơn, toàn diện hơn.
3.1.4. Cung cấp thông tin kịp thời, chính xác
Sự ra đời của các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này xuất phát từ tiếng kêu cứu của hiện
thực. Những làng quê Việt Nam sau luỹ tre xanh hiền hoà ấy đang ngày đêm phải oằn mình vì hủ tục,
sưu cao thuế nặng, tham nhũng cường quyền, mê tín dị đoan… Ống kính của các nhà phóng sự đã “lia”
tới đúng “sào huyệt” của hiện thực đen tối ấy để “chụp” và phóng to ra thành những bức tranh giàu sức
tố cáo, cảnh tỉnh. Sự xuất hiện đúng lúc và kịp thời của các thiên phóng sự giàu trữ lượng hiện thực
này có ý nghĩa vô cùng to lớn. Thể hiện tính thời sự và tính xác thực như chính đòi hỏi của thể phóng
sự.
Các phóng sự viết về nông thôn xuất hiện đã kịp thời phản ánh những bức xúc của người dân,
và tố cáo tội ác của kẻ thù. Chẳng hạn, ngay từ phần mở đầu của Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai công bố
một loạt các vụ việc tham ô, chiếm đoạt của công, tranh dành xôi thịt của các tỉnh trong năm 1933-
1934 lấy từ tờ báo Tiếng dân, số 701 đến 800: “Thanh Hoá 8 vụ, Nghệ An 21 vụ, Hà Tĩnh 24 vụ,(…)
Thừa Thiên 18 vụ, Quảng Nam 28 vụ, Quãng Ngãi 46 vụ, (…) tổng cộng 178 vụ” [4, tr.10]. Sau khi
“túm” được một “mớ” tư liệu sống ấy ở một tờ báo và còn nhiều tờ khác nữa chưa thống kê, sửng sốt
kinh hoàng trước những con số biết nói, tác giả “nhập cuộc” vào hiện thực xã hội nông thôn và cho ra
đời thiên phóng sự Túp lều nát. Giá trị của Túp lều nát không chỉ là thu thập được một lượng lớn “tư
liệu tĩnh” mà còn có sự xâm nhập thực tế để có “tư liệu động”. Sự ra đời của phóng sự này đã đáp ứng
kịp thời nhu cầu muốn biết những sự thật đang diễn ra xung quanh của người dân, những quan điểm
rạch ròi và quyết liệt của tác giả giúp những người nông dân còn mơ hồ có điểm tựa để nhìn nhận sự
thật một cách sáng rõ hơn đồng thời có định hướng rõ hơn trong tư tưởng, quan điểm và hành động.
Như vậy, phóng sự Túp lều nát được thai nghén và ra đời đáp ứng nhu cầu bức xúc của thực tại.
Theo GS Phong Lê: “sự ra đời của Túp lều nát đúng vào thời điểm mà phong trào Mặt trận Bình dân,
thời của báo chí bí mật chuyển sang công khai, thời sôi động của những nguyện vọng cải cách và dân
quyền, thời chính quyền thực dân buộc phải nới lỏng kiểm duyệt…”.[4, tr.127] Cũng như Tắt đèn,
Bước đường cùng, Vỡ đê…Túp lều nát xuất hiện trong thời điểm này như là sự hưởng ứng, minh hoạ
cho các vấn đề bức xúc của nông dân. Sự xuất hiện kịp thời với những thông tin chính xác từ những
câu chuyện thật một trăm phần trăm ấy, Túp lều nát trở thành minh chứng cho những thảm cảnh và là
bản cáo trạng đanh thép tội ác chế độ phong kiến thuộc địa.
Bên cạnh Túp lều nát, Việc làng cũng là một phóng sự ra đời trong một hoàn cảnh chính trị và
văn học đang cần lắm một tiếng nói tố cáo nghiêm khắc những âm mưu đen tối của thực dân. Lúc này,
uy tín của Pháp đang bị giảm sút vì bị Đức đánh bại ở Đông Dương và phải nhượng bộ phát xít Nhật.
Trong lúc đó mặt trận Việt Minh thành lập 1941 đang ngày càng phát triển thế lực. Pháp bèn thực hiện
chình sách ngu dân bằng cách phục hồi những tục lệ cổ hủ để dân ta quên nhiệm cụ cao quí là làm
Cách mạng. Nhiều nhà văn viết về các tục lệ ở nông thôn như các ngày hội đầu xuân, tục chọi gà, vật
trâu, đánh cờ … nhưng chỉ miêu tả phong vị nên thơ của các tục lệ mà chưa thấy mặt trái sâu kín bên
trong. Việc làng thì khác, ngay từ khi đăng báo Hà Nội tân văn 1940, nó trở thành một ngòi bút hiểm,
sắc, đâm toạc bức màn đen đang vây kín bầu trời lộ ra bộ mặt xấu xa thối nát của nông thôn Bắc Bộ.
Giá trị tiến bộ của nhãn quan nhà văn và ý nghĩa phê phán của tác phẩm chính là chỗ đó.
Trong bài Dưới ánh sáng cứu quốc, xét qua văn hoá Việt Nam trong sáu năm chiến tranh 1939
– 1945, Nguyễn Đình Thi viết về thời kỳ 1940 – 1941 trên báo Tiền phong số 1:
Văn hoá phong kiến được dịp tái sinh. Nó hét đắc thắng và lên tiếng mỉa mai những sự “lầm
đường lạc lối” trong những năm xã hội ta nối gót tư bản Pháp. Nó hô hào trở lại với những
giá trị cũ, với tôn ti, trật tự, với luân lí Khổng Mạnh, với Hương thôn, quan trường, với gia
đình. Những giá trị “muôn đời” ấy ngay đến Pêtanh đã chẳng phải công nhận đó sao.
Phong trào bảo thủ thụt lùi đã chiếm ưu thế một cách rõ rệt. Nó đẻ ra “Trai nước Nam làm
gì?” của Hoàng Đạo Thuý, “Thanh đạm” của Nguyễn Công Hoan, “Bút nghiên” của Chu
Thiên, “Một nền giáo dục mới” của Thái Phỉ, tạp chí Tri tân của nhóm Nguyễn Văn Tố,
Nguyễn Tường Phượng.
Ngòi bút vững vàng mà chắc chắn này kịp thời cung cấp những thông tin chính xác về hậu quả
ghê gớm của gánh “việc làng” và những biểu hiện tâm lý, tư tưởng, tình cảm của con người nông thôn.
Họ chịu đựng nhẫn nhục những trận đánh tinh thần và vật chất nhưng lại tự thuyết phục chính mình đòi
hỏi như thế, “đút đầu vào miệng hổ với hy vọng mình sẽ thành hổ”. Với kiến thức uyên bác về sử học
và xã hội học, Ngô Tất Tố vạch rõ thâm ý tâm lý hiếu danh tư tưởng xôi thịt ở chốn đình trung là “cốt
thu hẹp tư tưởng của dân quê (…) khiến cho nhiều kẻ thấy cái vinh dự ấy mà suốt đời chỉ mơ mộng vào
cái ngôi ăn chốn ngồi ở đình trung mà không nghĩ đến việc gì khác (…) làm cho dân quê chỉ biết có
làng mà không biết có nước”[9, tr.410 – 412]. Việc làng xuất hiện trong không khí phục cổ diễn ra sôi
nổi và đang thành một cuộc vận động lớn cả trong chính trị và văn học. Với việc đưa ra những tư liệu
chính xác, sống động và sâu sắc, thiên phóng sự này đã lay tỉnh kịp thời tư tưởng tình cảm của nông
dân, đồng thời đánh một đòn chí mạng vào phong trào phục cổ, vạch rõ thực chất bỉ ổi của những
phong trào mà người ta đang hò hét cổ vũ.
3.2. Nghệ thuật trần thuật
Có tư liệu là đáng quí, nhưng phải làm sao để “kho báu” ấy không phải là những tư liệu chết.
Mỗi thông tin thu được phải là một hình ảnh sống động, mỗi con số phải biết nói, phải có hồn. Được
vậy, phóng sự mới trở thành văn chương. Và để phóng sự trở thành văn chương, không thể không có
sự tham gia của nghệ thuật trần thuật. Cùng với nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu,
nghệ thuật trần thuật là một phương diện cơ bản chứng tỏ những sáng tạo và hiệu quả nghệ thuật của
phóng sự. Từng yếu tố, từng cấp độ trần thuật cũng như toàn bộ những quan hệ của chúng trong chỉnh
thể tác phẩm được các nhà phóng sự chú ý để sáng tạo những cách kể, những kết cấu, những điểm
nhìn… gây ấn tượng mạnh mẽ, giàu sức khiêu gợi, tác động. Chính vì vậy, cũng như những thể loại
văn học khác, nghệ thuật trần thuật cần được chú ý khi tiếp nhận, phân tích, cảm thụ phóng sự.
Với phóng sự, những yêu cầu về tính thời sự, những đòi hỏi về tính xác thực như là sự thách đố,
càng kích thích các nhà phóng sự tìm tòi sáng tạo các hình thức biện pháp trần thuật để chứng tỏ tài
năng và nghệ thuật phóng sự của mình. Đề tài nông thôn trong phóng sự văn học 1930 – 1945 đã được
các nhà phóng sự khai thác bằng nghệ thuật trần thuật độc đáo như cách kể hấp dẫn, lôi cuốn, xây dựng
những điểm nhìn gây ấn tượng, những kết cấu đa dạng hợp lý…
3.2.1. Nghệ thuật kết cấu
Có thể nói, kết cấu tác phẩm nói chung và kết cấu một tác phẩm phóng sự nói riêng là toàn bộ tổ
chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự đặt ra cho
mình. Kết cấu phóng sự không bao giờ tách rời nội dung cuộc sống và tư tưởng trong tác phẩm. Là một
phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, kết cấu của một phóng sự cũng được chú ý nhằm nâng cao
sức biểu hiện của đề tài và chủ đề, tăng cường sức tác động nghệ thuật và tư tưởng tác phẩm.
Cũng như các nhà phóng sự đương thời, phóng sự viết về đề tài nông thôn giai đoạn 1930 –
1945 cũng chọn lối kết cấu chung quanh một chủ đề. Nghĩa là các phóng sự nhỏ đều nhằm hướng tới
một chủ đề chung của toàn tập phóng sự. Chẳng hạn 16 chương Việc làng và 11 chương Tập án cái
đình xoay quanh chủ đề về những hủ tục ở nông thôn, 13 chương của Túp lều nát đều hướng tới những
thủ đoạn bóc lột của quan lại, 10 chương của phóng sự Cơm thầy cơm cô đều hướng tới chủ đề sự tha
hoá của những nông dân lên thành phố, 12 chương của phóng sự Đồng quê là những câu chuyện về
phong tục, hủ tục, những sinh hoạt, cảnh vật và những xung đột của chủ điền tá điền ở nông thôn Nam
Bộ, tham nhũng là chủ đề chính của Một huyện ăn Tết …
Viết về những hủ tục ở nông thôn Việt Nam trước Cách mạng, mười sáu chương sách Việc làng
là mười sáu câu chuyện về cuộc đời của người nông dân dưới sức ép của hủ tục. Chúng có sự gắn kết
với nhau về một chủ đề chung. Mở đầu là câu chuyện “Lớp người bị bỏ sót” có tính chất khái quát sức
ép và hậu quả của hủ tục ở thôn quê. Tác hại này được “kiểm chứng” qua cuộc đời của cụ Thượng Lão
Việt. Cái chết và những lời trăn trối của cụ có sức gợi mở đến nhiều số phận khác ở nông thôn Việt
Nam. Và mười lăm câu chuyện tiếp theo là những dẫn chứng sinh động minh hoạ cho những số phận,
và những hậu quả đó. Kết thúc tập phóng sự là chuyện “Món nợ chung thân” với ý nghĩa sâu sắc.
Rằng, hủ tục là “món nợ chung thân” trói buộc cả cuộc đời người nông dân. Cái án cay nghiệt đó mà
họ phải nhận là tất yếu bởi họ có thể hy sinh tất cả vật chất chứ không thể chiến thắng được tâm lý của
chính mình. Mà dẫu có thoát được tâm lý xôi thịt, đình làng đó cũng không thể thoát khỏi tay những
cường hào ác bá đang cố tình duy trì những hủ tục vì mục đích cá nhân. Nghĩa là họ phải sống chung
với hủ tục, thậm chí chết vẫn chưa yên thân. Đúng là “món nợ chung thân”!
Cũng có kết cấu xoay quanh một chủ đề, mười một mẫu chuyện trong phóng sự “Tập án cái
đình” là những câu chuyện nghi lễ rườm rà, những đám đông nhốn nháo. Nhưng tất cả đều nhằm
hướng tới chủ đề phê phán những lễ nghi cổ hủ, vô bổ đang tồn tại mạnh mẽ ở nông thôn. Không bi
thương như ở Việc làng nhưng đằng sau yếu tố bi hài, nhố nhăng, kệch cỡm cũng là nỗi đau vì thiếu
hiểu biết và mê tín dị đoan. Chuyện nào cũng cúng bái, thần thánh tập hợp lại tạo thành một thế giới
thần thánh hài hước, nhảm nhí. Mà toàn là những kẻ trở thành thần thánh, thành hoàng chỉ vì “chết
được giờ linh”. Thật đáng phê phán, giễu cợt! Mỗi chương là mỗi vụ việc độc lập về nội dung và nhân
vật, có cốt truyện na ná giống nhau theo quan hệ nhân quả, nhưng toàn bộ toàn bộ phóng sự có sự liên
kết về một chủ đề chung.
Mười ba chương của Túp lều nát đều ráo riết hướng tới việc tố cáo những thủ đoạn bóc lột của
quan lại và cuộc sống ngột ngạt vì bị chèn ép của người nông dân xứ Nghệ. Mở đầu là bài tựa với
những con số đáng chú ý được tác giả lấy từ tờ Tiếng dân để cảnh báo có một túp lều sắp đổ. Từ tiếng
kêu cứu của hiện thực, tác giả xâm nhập vào xã hội và viết nên những chương tiếp theo minh hoạ cho
sự thực đó. Kết thúc phóng sự, Nguyễn Trần Ai cho đăng bức thư của người bạn gửi cho tác giả kèm
một đơn tố cáo và khẩn nguyện của dân làng Đông thượng gửi cho nhà báo Ernest Babut ở Hà nội nhờ
can thiệp. Tác giả mượn lời người bạn để nói rõ ý đồ của mình “Tư tưởng của bạn trong tập Túp lều
nát chả phải là muốn trưng ra một ít cái ví dụ mong các bậc trên lưu ý lập lại việc làng, hay là một túp
lều theo cách nói của bạn”. Tất cả các chương đều hướng tới vạch mặt chân tướng của kẻ thù và mong
muốn lập lại một trật tự mới cho xã hội.
Ngoài yêu cầu thống nhất chủ đề, một số phóng sự còn tạo ra độ kết dính các sự kiện, các tư
liệu, các mảng đời chung quanh một cốt truyện và một hệ thống nhân vật thống nhất. Các nhân vật
trong phóng sự được miêu tả xuyên suốt tác phẩm, cùng phối hợp tồn tại và vận động trong không gian
nghệ thuật chung của một chỉnh thể, tác động lẫn nhau trên mọi hoạt động, tâm lý và tư tưởng. Cốt
truyện chặt chẽ, co dãn linh hoạt, hệ thống nhân vật phần lớn đi suốt tác phẩm. Cơm thầy cơm cô và
Một huyện ăn Tết là dẫn chứng tiêu biểu cho kiểu kết cấu này.
Nếu Việc làng có 16 chương là 16 chương độc lập, 16 câu chuyện và nhân vật khác nhau thì
Cơm thầy cơm cô có sự kết dính các tư liệu, các sự kiện, các mảng đời xoay quanh một cốt truyện với
một hệ thống nhân vật thống nhất. Không xây dựng tác phẩm theo lối phi cốt truyện, Cơm thầy cơm co
có thể xem là phóng sự trong phóng sự. Không chỉ cùng hướng tới một chủ đề chung mà các chương
cũng có sự liên kết khá chặt chẽ với nhau và cùng chịu sự chi phối của một cốt truyện thống nhất.
Chẳng hạn, tác giả dành mấy chương kể về cuộc đời trước khi đi ở, từ thuở ấu thơ, đến khi gia biến và
trở thành con Sen. Sự trượt dài nhân cách của sen Đũi hiện lên khá hoàn chỉnh ở chương 6 với tham
vọng và quyết tâm được lên bà phán, bà kí. Muốn trở thành một ả đào sau khi đã trả thù đời cay độc là
những toan tính rất “nguy hiểm cho đời” của sen Đũi. Các chương có sự liên kết chặt chẽ với nhau, nếu
bỏ chương này sẽ ảnh hưởng đến chương khác. Kiểu kết cấu này đem lại hiệu quả rất lớn, các vấn đề
nêu ra có sự thống nhất trong một chỉnh thể vì có điều kiện bộc lộ rõ ràng sâu sắc nội dung tư tưởng
chủ đề. Đây là một trong những điểm độc đáo thể hiện tài năng về nghệ thuật phóng sự của nhà văn họ
Vũ.
Hơn nhiều phóng sự đương thời, mọi diễn biến của phóng sự Một huyện ăn Tết cũng được tổ
chức theo một kết cấu thống nhất và chặt chẽ. Toàn bộ phóng sự là những câu chuyện chỉ có một nội
dung. Các sự kiện, tư liệu có sự kết dính lẫn nhau để cùng làm nổi bật việc lật tẩy những hành vi ăn
tiền và làm tiền trắng trợn. Hệ thống nhân vật là bọn chức dịch thống nhất từ lính lệ, cai cơ ở cơ sở lên
huyện, tỉnh, đến tận cấp trung ương chóp bu của giới cầm quyền. Bọn chúng có kẻ xuất trận, có kẻ
không xuất trận nhưng đều cùng nhau hợp tác chặt chẽ nhằm vào cái đích chung là tham nhũng.
Ngoài việc liên quan đến chủ đề , mỗi câu chuyện trong những phóng sự này đều cần sự có mặt
của nhau, chi phối nhau, qui định nhau, nhu cầu bức xúc của sự kiện này buộc phải tiếp nối, dẫn tới sự
kiện kia. Nếu bỏ một hoặc một vài chương là ảnh hưởng đến nội dung của toàn phóng sự. Đây là điểm
khác biệt độc đáo của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Nói như TS Trần Đăng Thao: “Các phóng sự của Vũ
Trọng Phụng đã chỉ ra một kinh nghiệm qúi báu trong việc thao tác và tổ chức tác phẩm, xét từ bình
diện cấu trúc.Một phóng sự tốt phải có cấu trúc từ bên trong. Nội dung dù sâu sắc, đề tài dù hấp hẫn,
nhưng chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi nó đạt tới một kết cấu hợp lý, tối ưu”. [82, tr.111]
Đi sâu vào từng câu chuyện trong mỗi phóng sự, ta thấy mỗi câu chuyện cũng có kết cấu giản
dị, chặt chẽ và hiện đại. Các cây bút phóng sự đã sử dụng phóng sự như một thể loại văn học chứ
không phải là một thể loại báo chí. Điều này thể hiện rõ nhất trong xây dựng kết cấu. Nguyễn Đăng
Mạnh từng cho rằng: “Nghệ thuật phóng sự của Ngô Tất Tố trong Việc làng có khuynh hướng đi dần
tới lối viết truyện ngắn” [21, tr.368]. Quả đúng như vậy, không chỉ phóng sự của Ngô Tất Tố, phóng sự
viết về nông thôn giai đoạn này có những đặc điểm của truyện ngắn như ít nhân vật, ít sự kiện phức
tạp chồng chéo, nhân vật ít khi trở thành một thế giới hoàn chỉnh, một tính cách trọn vẹn, kết cấu
không nhiều tầng tuyến mà được xây dựng theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng… Mỗi câu chuyện là
một lát cắt tiêu biểu về cuộc sống của người nông dân. Câu chuyện nào cũng có nhân vật, có cốt truyện
rõ rệt. Kết cấu đơn giản, không nhiều tầng tuyến nhưng sắp xếp các sự kiện hợp lý, làm nổi bật được
vấn đề. Mỗi truyện xây dựng một mâu thuẫn thể hiện bi kịch tinh thần của người nông dân thôn quê.
Việc làng, Tập án cái đình, Túp lều nát, Đồng quê, Một huyện ăn Tết, Cơm thầy cơm cô…hầu hết đều
kết thúc trong bi kịch, khi mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm khiến người đọc cảm thấy bức bối trước tình
trạng người nông dân bị dồn tới đường cùng. Có truyện mâu thuẫn nảy sinh, phát triển và kết thúc theo
trật tự thời gian như Một tiệc ăn vạ, Cỗ oản tuần sóc … (Việc làng). Nhưng một số truyện kết cấu này
có sự đảo ngược đã tạo được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Chẳng hạn, Việc làng có 5 trong 11
truyện có trật tự đảo ngược thời gian.
Một tiệc ăn vạ (Việc làng) được mở đầu với cảnh dân làng tấp nập chuẩn bị cho một bữa tiệc
linh đình, rồi những lời xì xèo bàn tán mà tác giả chưa rõ sự tình, trong lúc người đọc tò mò xem sự
việc như thế nào thì nhân vật kể lại toàn bộ bi kịch của gia đình, rồi người ta bình luận về bi kịch của
lão Sửu: “Làng là bọn đó chứ ai đâu” rồi “Tội nghiệp lão ấy hiền lành, thật thà nhất làng tôi đấy! Chỉ
vì nhà đã lép vế, lại có bát ăn”. Hoặc trong Loài động vật ngắn cổ (Túp lều nát), mở đầu là lời chửi rủa
bức bối của một người nông dân sau đó mượn lời nhân vật, tác giả kể lại những thói phù thu lạm bổ
cực kỳ phi lý của bọn cường hào ác bá… Đây là kiểu kết cấu của văn học hiện đại, kết cấu này đã gây
sự chú ý và làm cho độc giả thích thú.
Với kết cấu chặt chẽ xoay quanh một chủ đề và sự kết dính các sự kiện, tư liệu, các mảng đời
chung quanh một cốt truyện, một hệ thống nhân vật thống nhất, các phóng sự viết về đề tài nông thôn
đã thể hiện những “thao tác kỹ thuật” hợp lý để tạo ra một kết cấu giản dị mà chặt chẽ, hiện đại và có
tính nghệ thuật. Nhờ vậy, các nhà phóng sự đã khắc hoạ vấn đề trên diện rộng một cách sâu sắc, sinh
động và lôi quốn.
3.2.2. Nghệ thuật thuật kể
Giá trị của các tác phẩm phóng sự không chỉ nằm ở câu chuyện được kể mà còn nằm ở cách kể
câu chuyện ấy như thế nào. Ngoài những kết cấu có nghệ thuật, các phóng sự viết về nông thôn đặc
biệt lôi cuốn người đọc bởi lối thuật kể tự nhiên, hấp dẫn của các nhà phóng sự. Có được sự hấp dẫn,
lôi cuốn đó là nhờ sự kết hợp của nhiều yếu tố: cách mở đầu ấn tượng; cái Tôi trần thuật biến hoá đa
năng; cách dẫn dắt câu chuyện linh hoạt, uyển chuyển; không chỉ tác giả mà nhiều nhân vật cùng tham
gia thuật kể…
3.2.2.1. Những nhan đề và những cách mở đầu ấn tượng
Cũng như phóng sự báo chí, nhan đề (Tit) của phóng sự văn học cũng có vai trò hết sức quan
trọng. Nhìn lại hàng loạt những thiên phóng sự viết về nông thôn, ta thấy các tác giả rất chú ý “đầu tư
ngôn ngữ” cho các tiêu đề, làm sao cho phải thật ấn tượng, từ ngữ phải gây tò mò và kích động trực
tiếp vào trí não độc giả. Những nhan đề hấp dẫn, gây “sốc” và bao quát được nội dung phóng sự sẽ thu
hút sự chú ý của người đọc. Ngược lại, vấn đề thực sự nóng bỏng nhưng nhan đề không hay người đọc
cũng dễ bỏ qua. Người đọc từng bị lôi cuốn bởi sức hút của các nhan đề có ý nghĩa khái quát, dồn nén
thông tin, nó là những “mồi nhử” có giá trị khiêu gợi người đọc. Kiểu như: Loài động vật ngắn cổ, Một
thiên kết luận đẫm máu, Hai bức thư hay là gan ruột dân quê… (Túp lều nát – Nguyễn Trần Ai); Lớp
người bị bỏ sót, Nghệ thuật băm thịt gà, Cái án chung thân… (Việc làng – Ngô Tất Tố), Trao thân con
khỉ mốc, Cành tre cũ, cặp giò xưa, Các trò ơi, thầy phen này thọ tử, Đạo phù thần, Hận nghìn đời…
(Đồng quê – Phi Vân); Đền con, Từ miếng thịt đến công lý, Tội ác, “Ăn” trên thây ma, Giá của những
bằng cấp… (Làm dân - Trọng Lang)... Những nhan đề vừa có tính cụ thể vừa hấp dẫn, lôi cuốn kiểu
như vậy đã kích thích sự tò mò của người đọc.
Những cách mở đầu gây ấn tượng của các phóng sự cũng là những nam châm có sức “hút”
người đọc. Đề tài nông thôn được khai thác với nhiều tài năng và phong cách đa dạng, vì thế ứng với
mỗi phong cách đa dạng đó là những cách mở đầu khác nhau.
Ngô Tất Tố ưa lối kể chuyện dân gian truyền thống theo kiểu “ngày xửa ngày xưa” nên thường
bắt đần bằng điểm nhìn thời gian: “Hôm ấy, một ngày về cuối mùa đông…” (Lớp người bị bỏ sót),
“Bây giờ đã quá trưa…” (Cái án ông cụ). “Hôm nay vừa đầy tám ngày..” (Hạt gạo xôi mới)... Cách
mở đầu này có vẻ như công thức, máy móc, giản đơn. Có đến 12 trong 16 chương được mở đầu theo
kiểu này, nhưng với tài nghệ dẫn dắt khéo léo, Ngô Tất Tố lại nhẹ nhàng đưa người đọc cuốn hút vào
những câu chuyện kể đầy thú vị mà không hề có cảm giác đơn điệu, nhàm chán. Nhưng đến Tập án cái
đình, cụ Tố lại chọn những cách mở đầu không kém phần li kỳ hấp dẫn. Ai làm nên tội được mở đầu
bằng một lời phán xét quyết liệt: “Không thể tha hắn, nếu chúng ta nói đến chuyện cái đình.”. Với
cách mở dầu táo bạo này, Ngô Tất Tố đã gây sự chú ý cho người đọc ngay từ trang đầu tiên.
Khác với Ngô Tất Tố, Nhà văn họ Vũ lại không chịu bó buộc vào trật tự thời gian. Mở đầu
phóng sự Cơm thầy cơm cô là màn hoá trang vui nhộn của anh bồi giả danh – nhân vật Tôi, rồi sau đó
anh ta thâm nhập vào một quán cơm vô danh, và từ đó các chương mục cứ gọi nhau, thúc nhau xuất
hiện lần lượt theo một logic chặt chẽ mà tự nhiên. Nguyễn Đổng Chi lại khá ấn tượng khi mở đầu
phóng sự Túp lều nát là tiếng chửi gớm ghiếc đầy uất hận : “Mả cha vạn họ nhà bay…”(Loài động vật
ngắn cổ). Ngược lại với phong cách mạnh mẽ của Nguyễn Đổng Chi là Phi Vân, nhà văn đồng quê rặt
ròng Nam Bộ sinh ra từ mảnh đất Bạc Liêu này lại mở đầu thiên phóng sự của mình rất tự nhiên bằng
lời mời nhẹ nhàng mà quyến rũ: “Bạn hãy cùng tôi du lịch một vòng xuống các miệt “hóc bò tó”, “chó
ăn đá, gà ăn sỏi” để tìm những cái lạ lùng..” (Các trò ơi, thầy phen này thọ tử - Đồng quê)
Những cách mở đầu khi thì rất tự nhiên, nhưng có khi lại rất ấn tượng đó như có một “ma lực”
cuốn hút người đọc nhập ngay vào câu chuyện, rồi sau đó được tác giả dẫn dắt đi theo những tình
huống hết sức bất ngờ mà thú vị. Sự linh hoạt, sáng tạo trong cách đặt Tít và cách mở đầu phóng sự
làm cho các phóng sự luôn mới mẻ và giàu sức cuốn hút. Nó thể hiện phần nào bản lĩnh, dũng khí và
trí tuệ sắc bén của các nhà phóng sự.
3.2.2.2. Cai Tôi trần thuật biến hoá, đa năng
Không chỉ bị hút bởi các tiêu đề và các cách mở đầu khá ấn tượng, người đọc còn bị lôi cuốn
bởi sự biến hoá đa năng của cái Tôi trần thuật. Trong phóng sư, cái Tôi trần thuật đóng vai trò hết sức
quan trọng, vừa là nhân chứng khách quan, vừa là người thẩm định khách quan đồng thời cũng là
người kết nối các dữ liệu, tình tiết, chi tiết thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Không chỉ dẫn truyện, nhân
vật Tôi còn phải định hướng nhận thức cho bạn đọc, vì thế nhà phóng sự phải cẩn trọng khi nhập cuộc
và chịu trách nhiệm về bài viết của mình trước dư luận. Cũng như các phóng sự giai đoạn 1930 – 1945,
phóng sự viết về đề tài nông thôn giai đoạn này thể hiện một cái Tôi trần thuật có tính chất lưỡng thể,
đa năng biến hoa. Ở phóng sự này, cái Tôi nhân chứng – người trần thuật tham dự vào câu chuyện,
dẫn người đọc đi suốt thiên phóng sự, nhưng ở phóng sự khác, cái Tôi nhân vật – người kể chuyện
được nhân vật hoá đã trực tiếp xông xáo, hội nhập vào thế giới nhân vật của tác phẩm.
Trong thiên phóng sự Việc làng. Ngô Tất Tố luôn đóng vai trò nhân chứng (cái Tôi nhân chứng)
lần lượt dẫn dắt người đọc đến gặp từng nhân vật (nhân chứng) để chứng kiến sự kiện. Qua những sự
kiện, những hành động của nhân chứng để thể hiện mục đích khám phá hiện thực của mình. Từ đó
người đọc hiểu rõ bản chất của những hủ tục chốn thôn quê một cách sâu sắc và đáng tin cậy. Cái Tôi
trần thuật đa năng biến hoá được thể hiện sinh động nhất là ở phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Có khi là
người trần thuật nguỵ trang sắm vai một tay anh chị trong giới Cơm thầy cơm cô, có khi lại là người
trần thuật được uỷ nhiệm thành kẻ “phiếm du” xem một huyện ăn Tết như thế nào… Sự nhập cuộc này
không phải là chuyện dễ dàng, chu đáo như Tam Lang còn bị Vũ Ngọc Phan bắt lỗi là con người to béo
nặng nề đó “cầm càng xe sao được”. Và chính Tam Lang cũng có lúc xấu hổ thấy mình “như một
thằng trần truồng đi ra ngoài phố”. Còn nhân vật Tôi trong phóng sự của nhà văn họ Vũ này thì rất tự
nhiên trong ăn mặc, thành thạo trong đi đứng, suồng sã thân mật trong nói cười, thậm chí chim chuột y
như thật!
Thực ra, tất cả đều là cái Tôi nhân chứng – người trần thuật tham dự vào câu chuyện dẫn dắt
người đọc đi suốt toàn thiên phóng sự. Điều thú vị là do sự xông xáo, nhiệt tình tham dự một cách sâu
sắc, toàn diện vào diễn biến của truyện kể nên cái Tôi nhân chứng đó “nhập” vào tác phẩm trở thành
cái Tôi nhân vật. Người kể chuyện được nhân vật hoá này gia nhập vào thế giới nhân vật một cách
xông xáo, tham gia tổ chức tác phẩm. Sự nhập vai tài tình của nhân vật Tôi đã đem lại cho phóng sự
của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Phi Vân, Nguyễn Trần Ai… một lối kể chuyện hấp dẫn. Tác giả
bỗng nhiên trở thành người trong cuộc, tiếp cận, tìm tòi, khám phá sự kiện một cách trực tiếp, nhìn
nhận vấn đề một cách rất thấu đáo và soi rọi thấu bản chất vấn đề.
3.2.2.3. Cách dẫn dắt câu chuyện linh hoạt, uyển chuyển
Bên cạnh sự biến hoá đa năng, tài tình của cái Tôi trần thuật là nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện
linh hoạt, uyển chuyển với nhiều phong cách và giọng điệu khác nhau. Đây là phong cách kể của
truyện ngắn, tiểu thuyết được các nhà phóng sự vận dụng sáng tạo trong tác phẩm phóng sự của mình.
Chính nghệ thuật kể chuyện linh hoạt này đã lý giải vì sao mỗi phóng sự chỉ xoay quanh miêu tả một
vấn đề và kéo dài hơn chục mẫu chuyện và hàng chục trang sách mà người đọc không cảm thấy đơn
điệu, nhàm chán. Các tác giả đã sáng tạo ra kiểu nhân vật người kể chuyện: nhân vật Tôi. Nhân vật này
là người dẫn dắt các tình tiết và tổ chức các tình huống một cách linh hoạt với cách ăn nói hóm hỉnh và
những lời bình luận sắc sảo đã làm tăng thêm rất nhiều hiệu quả nghệ thuật của tác phẩm.
Nhân vật Tôi thường dẫn dắt câu chuyện theo kiểu vừa đi đường vừa gợi chuyện để các nhân
vật khác cùng kể với mình. Chẳng hạn trong Mồ hôi và Mồ hôi (Túp lều nát), Nguyễn Trần Ai khéo để
cho Phó tổng và tri B say sưa kể về những thói phù thu lạm bổ đầy tinh vi của bọn lý trưởng. Họ hăng
say kể với tâm trạng tỏ vẻ thông hiểu tất cả mọi sự đời. Có những lúc sợ câu chuyện “chết yểu” giữa
chừng, tác giả phải nuôi dưỡng câu chuyện bằng cách khéo léo hỏi một số câu mang tính chất khơi gợi
rất thông minh. Đây chính là những “mánh khoé” hết sức cần thiết khi khai thác tư liệu đồng thời cũng
là cách làm cho câu chuyện trở nên sinh động, lôi cuốn. Hay trong Dĩ dật đãi lao (Túp lều nát), tác giả
luôn nghĩ ra những kế rất diệu để cho chú H tự “cung khai” nỗi oan ức của mình đồng thời dẫn dắt câu
chuyện thêm sinh động, lôi cuốn. Kiểu như: “Tội vạ như thế mà chú không kêu oan à?”, “Có lẽ ông Lý
và hương chức có giấy kêu oan mà quan trên không xét chăng?”...
Sự “khôn ngoan” khi dẫn dắt tình tiết còn thể hiện trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Phóng
sự của ông đầy ắp tư liệu và sự kiện. Cái hay là ông biết tạo ra độ kết dính các tư liệu và sự kiện đã
được chọn lọc tới mức điển hình đó để tạo nên những ấn tượng thẩm mỹ mạnh mẽ và hấp dẫn đối với
người đọc. Người đọc bị hút vào tác phẩm, từ đó nảy sinh nhu cầu muốn khám phá và thưởng thức
nghệ thuật. Chẳng hạn, để dẫn dắt các tình tiết và tổ chức các tình huống trong Cơm thầy cơm cô một
cách linh hoạt, Vũ Trọng Phụng đã sáng tạo nhân vật Tôi khá độc đáo. Nhân vật Tôi đó vừa không
phải là Vũ Trọng Phụng, vừa là chính Vũ Trọng Phụng, bởi nhân vật này có cách ví von rất ác, bất
ngờ, ăn nói hóm hỉnh có duyên, những lời bình thông minh sắc sảo. Ông có lối kể chuyện hoạt bát, tự
nhiên, có khi như cùng trò chuyện, cùng tranh cãi với cả người đọc một cách thoải mái và vui vẻ.
Cũng như vậy với Một huyện ăn Tết, tác giả không cần dụng công tiến hành theo lối thực địa mà
chỉ cần bám sát viên lục sự già bên khay bàn thuốc phiện, từ cửa miệng của con người biết “đục khoét
thành thánh” ấy, chỉ cần vài câu dẫn dắt, gợi hỏi khéo léo, được tung hứng bởi “nàng tiên nâu”, tác giả
có thể thu thập một mớ tư liệu sinh động, đáng quí và câu chuyện tham nhũng cứ thế được lộn trái ra
trần trụi, phơi bày giữa thanh thiên bạch nhật không đường chối cãi.
Sự dẫn dắt khéo léo tài tình của nhà phóng sự đã kéo độc giả say sưa theo những câu chuyện mà
mình chứng kiến. Do có sự định hướng tư tưởng và sự sáng tạo nghệ thuật nên những câu chuyện
không rời rạc, tản mạn, tẻ nhạt mà ngược lại chúng có sự liên kết theo định hướng chung của chủ đề.
Những cuộc phỏng vấn đàm đạo của người trần thuật với các nhân vật diễn ra với những câu hỏi
dẫn dắt khéo léo và và những câu trả lời tiếp nối khiến ngôn ngữ nhân vật cuộn xoắn, kết chuỗi tạo
sinh khí và sức lôi cuốn độc giả. Và sau những cuộc hội thoại ấy, câu trả lời vẫn chưa hoàn tất mà còn
mở ngỏ cho người kể chuyện, nhân vật và người đọc cùng nghiền ngẫm, chiêm nghiệm về lẽ đời, về
thời cuộc, về con người hôm qua và hôm nay.
3.2.2.4. Nhiều nhân vật cùng tham gia thuật kể
Đối với thể phóng sự, chủ yếu tác giả kể lại những gì mình chứng kiến một cách khách quan.
Nhưng để cho câu chuyện thêm phần tự nhiên, sinh động, có khi các nhân vật được tác giả khéo
léo“uỷ quyền”giao cho nhiệm vụ kể về nhân vật khác. Chẳng hạn, trong phóng sự Cơm thầy cơm cô
của Vũ Trọng Phụng, tác giả để cho các nhân vật cướp lời nhau kể về những xấu xa của gia chủ của
mình. Và thế là tác giả “rút lui vào hậu trường” để cho các nhân vật thoả sức “biểu diễn”, những câu
chuyện lạ lùng, thật nhơ bẩn, thật chướng tai lại hiện lên một cách tự nhiên, khiến người đọc không
chút nghi ngờ về tính chân thật của nó.
Điều thú vị là không chỉ kể về nhân vật khác, có khi nhân vật tự lại tự kể về mình. “Cuốn tiểu
thuyết của con sen Đũi” trong Cơm thầy cơm cô chủ yếu là do nó tự bạch. Từ thuở ở quê gia đình gặp
hoạn nạn đến cảnh đi ở với bao nỗi khổ nhục, rồi chuyện nó bị hiếp, chuyện nó khiêu dâm hai đứa con
chủ nhà để trả thù và ước mơ trở thành bà phán, bà kí đều là những lời nó tự kể… Cuộc đời của cụ
Thượng Lão Việt trong Lớp người bị bỏ sót (Việc làng) cũng là lời tự bạch trong cơn hấp hối. Từ thuở
17 đã cày sâu cuốc bẫm, buôn bán ngược xuôi đến chuyện thằng con phải để nó dốt nát, rồi những món
nợ vì hủ tục kéo dài từ đời ông sang đời con…Tất cả đều hiện lên qua lời bộc bạch xót xa của chính cụ
Thượng Lão Việt, còn tác giả chỉ đóng vài trò như độc giả chứng kiến những câu chuyện của cụ với
tâm trạng vừa ngậm ngùi thương xót vừa ngạc nhiên sửng sốt. Câu chuyện của cụ cứ hiện ra tự nhiên
mà không hề có một câu khơi gợi nào. Nhờ vậy, tính xác thực của thông tin được đảm bảo, vai trò chủ
quan của nhà phóng sự không “lấn sân” sang quá trình thuật kể của chính nhân vật.
Trong khi tác giả thuật kể hoặc các nhân vật tham gia thuật kể, ta thấy xuất hiện các cuộc đối
thoại ngắn. Những cuộc phỏng vấn đàm đạo của người trần thuật với các nhân vật diễn ra với những
câu hỏi dẫn dắt khéo léo và những câu trả lời tiếp nối khiến ngôn ngữ nhân vật cuộn xoắn, kết chuỗi
tạo sinh khí và sức lôi cuốn độc giả. Và sau những cuộc hội thoại ấy, câu trả lời vẫn chưa hoàn tất mà
còn mở ngỏ cho người kể chuyện, nhân vật và người đọc cùng nghiền ngẫm, chiêm nghiệm về lẽ đời,
về thời cuộc, về con người hôm qua và hôm nay.
Với cách dẫn dắt khéo léo này, nhân vật Tôi từ bỏ vị trí người kể chuyện truyền đạt những
thông tin đã biết trước trở thành người cùng với độc giả của mình kiếm tìm sự thật. Nhân vật Tôi và
các nhân vật tự kể đều có quyền bình đẳng ngang hàng nhau. Nhờ sự dẫn dắt khéo léo mà nhân vật Tôi
đưa câu chuyện đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Lối kể chuyện này không làm cho người đọc thụ
động ngồi nghe mà cuốn hút vào câu chuyện, cùng tác giả khám phá những điều mới mẻ. Cách để cho
nhân vật tự kể chuyện về mình và kể chuyện về nhân vật khác cũng khiến cho không gian và thời gian
của câu chuyện như rộng ra, bao quát hơn, cụ thể hơn. Hiện thực cuộc sống nhờ vậy đã bước vào trang
văn một cách tự nhiên và sinh động. Với cách kể này, những phóng sự viết về nông thôn giai đoạn
1930 – 1945 có giá trị thẩm mỹ vượt ra ngoài bản chất của một phóng sự báo chí.
3.2.3. Điểm nhìn trần thuật
Phóng sự viết về nông thôn không chỉ lôi cuốn người đọc bằng nghệ thuật kể chuyện mà còn
hấp dẫn nhờ cách tổ chức các điểm nhìn nghệ thuật. Theo Gerad Genelte, điểm nhìn trần thuật là vị trí
nhà văn khi kể lại câu chuyện, qua đó biểu lộ cái nhìn và quan điểm sống, quan niệm nghệ thuật của
nhà văn. Như vậy, chính điểm nhìn trần thuật của nhà văn trong tác phẩm là một phương tiện thể hiện
đắc lực tư tưởng, quan niệm nghệ thuật của tác giả. Sự lựa chọn điểm nhìn trần thuật của nhà văn quyết
định phần lớn giá trị nghệ thuật của tác phẩm.
Trong các phóng sự viết về nông thôn 1930 – 1945, xuất hiện đa dạng các điểm nhìn và có sự di
chuyển linh hoạt các điểm nhìn trần thuật. Đây là đặc điểm nổi bật làm cho đề tài nông thôn trong các
phóng sự này được phám phá với nhiều góc cạnh, sâu sắc và toàn diện hơn.
3.2.3.1. Sự đa dạng các điểm nhìn
Đề tài nông thôn trong các phóng sự 1930 – 1945 được khai thác với nhiều điểm nhìn đa dạng
khác nhau. Để đảm bảo tính khách quan, một số phóng sự sử dụng điểm nhìn trần thuật khách quan để
phản ánh hiện thực. Nghĩa là tác giả không tham gia trực tiếp, đứng ngoài nhân vật, giả vờ không dính
đến các chi tiết trong tác phẩm, luôn giữ khoảng cách nhất định với nhân vật, luôn khách quan, lạnh
lùng, và người đọc luôn tin sự kiện đó là có thật, không thêm thắt.
Ở các phóng sự này, người trần thuật không phát biểu xét đoán của mình bằng cách gán nó cho
nhân vật, mượn cái vỏ lời nói của nhân vật để tự nhân vật lên tiếng xét đoán bằng quan niệm của riêng
nó. Chính cấu trúc điểm nhìn này đã khám phá được những khía cạnh mới mẻ của sự kiện, hiện tượng.
Nhà phóng sự Nguyễn Trần Ai đã sử dụng hệ thống cấu trúc điểm nhìn này khá đắc dụng trong Túp lều
nát. Câu chuyện phù thu lạm bổ trong Mồ hôi và mồ hôi được tác giả khéo lồng qua điểm nhìn khách
quan của các nhân vật Cụ Phó, Tri B. Rồi chuyện bán thuế non, sửa tờ trát, nhũng lạm sưu thuế lại một
lần nữa được phơi bày qua điểm nhìn khách quan của các nhân vật này trong Chế độ hào cường... Nhờ
vậy, biết bao điều khuất lấp đằng sau những vụ thu thuế của dân đã bị các nhân vật phanh phui, lộn
trái…
Bên cạnh điểm nhìn trần thuật khách quan, các nhà phóng sự còn sử dụng điểm nhìn trần thuật
chủ quan. Đó là việc tác giả trở thành một nhân vật trong chuyện, xưng Tôi để thuật kể lại câu chuyện.
Không chỉ thế, nhân vật Tôi còn đóng vai trò là người chứng kiến toàn bộ diễn biến tâm trạng tình cảm
lập trường của nhân vật khác, qua đó tác giả cũng bộc lộ quan điểm của mình sâu sắc hơn. Nhân vật
Tôi trong phóng sự viết về nông thôn đảm nhiệm nhiều vai diễn rất đa dạng: Khi thì trong vai một nhà
sư phạm, một nhà báo (Túp lều nát), khi thì đóng giả một tay anh chị trong giới cơm thầy cơm cô đột
nhập từ cổng sau của chốn Hà thành (Cơm thầy cơm cô), có khi là một nhân vật rình bắt “cướp” trong
Cành tre cũ cặp giò xưa (Đồng quê)...Ở bất cứ vai diễn nào, nhân vật Tôi cũng nhập vai khéo léo, tài
tình, hoá thân hoàn toàn vào quần thể nhân vật. Sự nhập vai tài tình này của nhân vật Tôi đã tạo ra một
điểm nhìn từ bên trong rất đắc dụng cho sự tiếp cận, tìm tòi và phám phá. Chỉ có thể là “đồng bọn” của
giới quan lại mới thấu rõ được âm mưu nham hiểm, thủ đoạn bẩn thỉu của chốn quan lại hà hiếp dân
đen. Và cũng chỉ có thể là kẻ “đồng hội đồng thuyền” của những kẻ đi ở mới nhìn thấu gan ruột nỗi
thê thảm của người dân quê lên thành phố kiếm sống….
Nhân vật Tôi không chỉ là người chứng kiến mà còn tham dự trực tiếp vào biến cố của câu
chuyện nên luôn tạo ra cái nhìn ở thì hiện tại. Người đọc hứng thú khi không phải ngồi nghe những gì
đã xảy ra mà cùng tác giả khám phá những điều mới lạ đang xảy ra. Cảm giác được chứng kiến những
gì mới lạ đang diễn ra như vậy đã đáp ứng được những yêu cầu, đòi hỏi của phóng sự là luôn cung cấp
những thông tin thời sự, nóng hổi. Có khi nhà phóng sự truyền những cảm xúc của mình cho độc giả.
Chẳng hạn, trong Cành tre cũ cặp giò xưa (Đồng quê), nhân vật Tôi khiến người đọc nín thở vì nghe
tiếng kêu cướp, nhân vật Tôi tay cầm ngọn roi tre núp bắt kẻ cướp: “Bóng người vừa nhô tới là Tôi rán
sức bình sanh cầm ngọn roi “quất” ngang vào ống quyển: Rốp !” (…) Nhưng, thiên địa quỉ thần ơi !
người Tôi đang ôm cứng lại là … một cô gái !”[89, tr.32-33]
Có thể nói, như một ống kính “lia rọi” khắp mọi vấn đề của hiện thực, việc xây dựng đa dạng
các điểm nhìn như vậy đã làm cho các tình tiết, sự việc hiện lên trong các phóng sự trở nên sinh động,
đáng tin. Các phóng sự không chỉ có vấn đề mà có hồn cốt của biến cố, không chỉ có luận cứ luận
chứng về những phiến đoạn nóng rẫy của thực trạng mà còn khắc hoạ tới những ngóc ngách của thế
giới nội tâm nhân vật khiến người đọc thấu được sâu hơn từng lớp ý nghĩa của hiện thực cần phản ánh.
3.2.3.2. Sự di chuyển và biến hoá các điểm nhìn
Di chuyển điểm nhìn trần thuật là việc chuyển điểm nhìn: từ tác giả sang nhân vật, từ nhân vật
này sang nhân vật khác, từ bên ngoài vào bên trong … Tác dụng của sự di chuyển điểm nhìn trần thuật
là làm cho vấn đề được soi rọi dưới những góc độ khác nhau, tạo nên những sắc thái mới, những giọng
điệu mới, khiến ý nghĩa của tác phẩm phong phú mới mẻ và có chiều sâu hơn.
Có thể xem phóng sự Cơm thầy cơm cô là dẫn chứng tiêu biểu nhất cho sự di chuyển và kết nối
các điểm nhìn trần thuật. Truyện mở đầu với điểm nhìn chủ quan, khi tác giả xưng Tôi, nguỵ trang
thành nhân vật của giới cơm thầy cơm cô để kể lại câu chuyện được chứng kiến vào một đêm ở hàng
cơm: “Tôi không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào làm gì….” (62, tr107). Đến chương V, điểm
nhìn chủ quan của nhân vật Tôi được chuyển sang điểm nhìn khách quan khi tác giả để cho sen Đũi
thuật lại chính cuộc đời của mình. Từ chỗ là người chứng kiến, người tham gia các sự kiện, tác giả tách
ra khỏi nhân vật, giữ khoảng cách với nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ bằng giọng điệu của chính mình:
“U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy tôi hiện giờ thì kéo xe….” [62, tr.126] Sự chuyển giao điểm
nhìn một cách hết sức tự nhiên này đã làm cho “cuốn tiểu thuyết về cuộc đời của Sen Đũi” chân thật và
khách quan hơn. Người trần thuật lúc đó không hề biết trước sự việc, hiện tượng mà mình miêu tả. Rồi
từ điểm nhìn khách quan, câu chuyện lại quay về điểm nhìn chủ quan: “Tôi nhìn kỹ cái Đũi thì mới biết
là trông nó cũng đẹp, cũng có mẻ con người. Trước sự thuật lại một việc bất bình đã xa lắc xa lơ, tôi
cũng thấy nóng cả mặt mày lên như đương trông thấy sự bất bình ấy vậy” [62, tr.128]. Đó là lúc tác
giả trở về điểm nhìn chủ quan để bộc lộ thái độ của mình trước hiện tượng được miêu tả. Đến cuối
phóng sự, tác giả quay lại là chính mình: “Thưa các ngài, bây giờ Tôi lại là Tôi” rồi thẳng thắn đưa ra
những lời phán xét về nhân vật của mình, thậm chí tranh luận với ngay cả độc giả: “Nhưng bây giờ tôi
có thể nói với hết thảy (các ngài nhớ cho là hết thảy) các độc giả yêu quí của tôi rằng xin các ngài cứ
điều tra ngay các ngài”. [62, tr.167].
Sự đan xen, di chuyển các điểm nhìn một cách tự nhiên được Vũ Trọng Phụng biến hoá hết sức
linh hoạt, tài tình. Có khi tác giả hướng điểm nhìn khách quan vào từng cá nhân, tập trung xoáy vào
cuộc đời của sen Đũi, nhưng có khi điểm nhìn khách quan lại hướng vào tập thể các nhân vật, như
đoạn các đầy tớ nói xấu chủ nhà, tác giả tách hẳn ra để tổ chức cho các nhân vật thay nhau tự đối thoại,
tự kể với nhau một cách tự nhiên. Sự chuyễn đổi linh hoạt các điểm nhìn này thể hiện sự đan cài, giao
thoa giữa các ý thức khác nhau trong thế giới nhân vật.
Sự gia tăng các điểm nhìn trần thuật không chỉ mở rộng trường nhìn mà còn phong phú thêm
các giọng điệu trần thuật. Trong phóng sự này, sự di chuyển các điểm nhìn: từ tác giả sang nhân vật, từ
nhân vật này sang nhân vật khác, từ bên ngoài vào bên trong để mở rộng khả năng bao quát, đánh giá
của trần thuật và để tái hiện các quá trình diễn biến tâm hồn của nhân vật. Đây cũng chính là những
thành công nghệ thuật của phóng sự Cơm thầy cơm cô. Sự linh hoạt trong việc tổ chức điểm nhìn đã
làm cho cấu trúc bố cục câu chuyện biến hoá sinh động và hấp dẫn.
3.3. Phong cách ngôn ngữ, giọng điệu
Sức chinh phục của phóng sự viết về nông thôn 1930 – 1945 một phần đáng kể là do nghệ thuật
kể chuyện. Trong đó, phong cách ngôn ngữ, giọng điệu là một trong những yếu tố quan trọng làm nên
sức hấp dẫn trong các phóng sự của giai đoạn này. Vì thế, chúng tôi mở ra một hướng tiếp cận nữa về
phong cách ngôn ngữ, giọng điệu nhằm tìm ra những nét độc đáo trong phong cách diễn dạt và giọng
điệu trần thuật của các nhà phóng sự ở một thể văn xuôi mới mẻ này.
3.3.1. Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ
Theo M. Gorki: “Ngôn ngữ là yếu tố trước tiên của văn học”, là nghệ thuật của ngôn từ. Cũng
giống như các tác phẩm văn học khác, giá trị về nội dung và nghệ thuật của những thiên phóng sự viết
về nông thôn 1930 – 1945 có được là do sự gợi ra từ các lớp ngôn ngữ của tác phẩm. Ngôn ngữ không
chỉ là những kí hiệu nghệ thuật, là phương tiện biểu đạt của văn học mà còn thể hiện tài năng và phong
cách của nhà văn. Ngôn ngữ cũng là một nét nghệ thuật đặc sắc tạo nên sức hấp dẫn của những thiên
phóng sự.
Điểm nổi bật làm nên giá trị về mặt ngôn ngữ của các phóng sự này là có sự kết hợp ngôn ngữ
truyền thống và ngôn ngữ hiện đại, ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn chương.
1.3.1.1 Sử dụng ngôn từ giàu chất khẩu ngữ
Có thể nói, những trang phóng sự viết về nông thôn tươi rói một thứ ngôn ngữ đời sống. Sự đậm
đặc của tính chất khẩu ngữ thể hiện ở tần số xuất hiện các khẩu ngữ, các dạng khẩu ngữ, lượng thành
ngữ tục ngữ, các từ địa phương. Khẩu ngữ xuất hiện đậm đặc trong phóng sự của Ngô Tất Tố, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Phi Vân… đã làm cho những phóng sự viết về nông thôn luôn ngân
vang những thanh âm của cuộc sống, luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người đọc.
Trong mỗi trang phóng sự, ta thấy khẩu ngữ xuất hiện với tần số cao. Ở bất cứ trang phóng sự
nào, người đọc cũng bị lôi cuốn bởi những khẩu ngữ thân quen của cuộc sống hằng ngày. Các tác giả
phóng sự cũng rất chú ý sử dụng các lớp khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật. Chỉ trong
một đoạn văn ngắn nhưng khẩu ngữ hằng ngày xuất hiện với tần số cao làm cho lời văn mang phong
cách khẩu ngữ đậm nét.
Chẳng hạn, trong lời kể lể của một người nông dân than vãn về hủ tục, có hàng loạt các khẩu ngữ
được Ngô Tất Tố sử dụng: “Một bữa ăn này ít ra anh tôi cũng tiêu đến năm, sáu chục đồng. Vì kiêng
tiếng làm thịt lợn, sợ rằng làng nước cho là hung mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực, mua thịt lại
quá giết lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn vừa thịt lợn tất cả mười một đồng bạc, đáng lẽ cũng đủ
chàn chát nhưng cụ chưởng lễ thích ăn thịt cầy, nên ông lý trưởng bắt giết thêm con cầy” [53, tr.20].
Là một nhà Nho nhưng ngôn ngữ của Ngô Tất Tố không thủ cựu mà hoà hợp với hiện tại, là một nhà
văn của làng quê, khẩu ngữ của ông mang hơi thở, sự sống của sinh hoạt nông thôn nhưng không tự
nhiên, thô thiển mà gợi cảm, sắc sảo, chắt lọc.
Lời văn trong phóng sự của “ông vua phóng sự Bắc kì” cũng đậm đặc khẩu ngữ. Ở câu nói mộc
mạc của cô bé quê ra thành thị kiếm sống, những lời ăn tiếng nói hằng ngày cứ “tuôn” ra một cách tự
nhiên : “Khốn nạn, nào tôi có tài giỏi gì mà dám nếm cơm ai! Tôi chỉ cầu vào một cửa đãi mình cho
vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh chửi mình như cái nhà tôi vừa bỏ đi thì khốn nạn, nó
năm cha ba mẹ quá, ai cũng đánh chửi được mình. Người này sai chưa xong việc này, người khác lại
ới. Thành ra mình là cái thân ba vạ”… [62, tr.111].
Các lớp khẩu ngữ trong các phóng sự cũng hết sức phong phú. Có khẩu ngữ của những tên seo, tên
phu tuần chuyên đi “chấn lột” của cải từ những người không đủ tiền nộp thuế:
Dạ cái cày và cái bừa của thằng đĩ Ba. Nó cứ chối lên đây đẩy rằng nhà nó nghèo không chịu
được bài tráng. Đồng rưỡi nó nộp bữa trước là hết rồi. Chúng tôi tìm tòi xiết được chừng nấy. Mà
lấy được của nó cũng dư khốn. Vợ nó với nó chạy ra tríu mãi. Chúng tôi ẩu tả chúng mới chịu thả
cho mà mang đi đấy. Còn cái vại của thằng xã Trung, nhà thằng ni đang còn một cái khăn nhiễu
mà tức quá, chưa lột được. [4, tr.28]
Có khẩu ngữ của người nông dân Nam Bộ chân chất thật thà: “Nguy lắm rồi mầy năm ơi! Nghe
đằng nhà ông Bá bị cướp, tao tốc mùng vác cây roi tre ra tiếp cứu, không dè ba chớp ba nhoáng, đập
nhằm con gái ổng gần chết, tao lật đật cõng về đây!” [89, tr.33]
Bên cạnh ngôn ngữ thường ngày, khẩu ngữ nghề nghiệp được các nhà phóng sự sử dụng khá nhuần
nhuyễn. Trong Túp lều nát, Nguyễn Trần Ai sử dụng khá nhiều ngôn ngữ của nghề thu thuế như : ba
tăng (thẻ môn bài), tiền xã thương (tiền công ích), phù thu lạm bổ (thu trội lên phần thuế), bài tráng
(thẻ sưu), thẻ bần (thẻ sưu hạng bần), yếu lược (chứng chỉ tốt nghiệp), phụ canh (ruộng của người khác
cày thêm)…Vũ Trọng Phụng dùng nhiều những từ ngữ của bọn cơm thầy cơm cô như ăn chực nằm
chờ, con ong cái kiến, ăn đói nằm no, nếm cơm thiên hạ, khổ tuyệt trần đời, cơm thừa canh cặn, năm
cha năm mẹ, chết rã họng, trầm luân khổ ải. Phi Vân thì lại dùng những từ ngữ của một gánh hát: hát
bộ, bầu, lên giàng, rạp, gióng trống xây chầu, chọn tuồng, đào kép, đá giáp, chiêng y, cầm chầu...
Các lớp khẩu ngữ này tạo nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm, làm cho phóng sự gần hơn
với đời sống. Việc sử dụng khẩu ngữ tự nhiên phù hợp với từng loại nhân vật và từng nghề nghiệp
chứng tỏ sự am hiểu tinh tường của tác giả với từng loại nhân vật đồng thời góp phần đắc lực vào việc
cá thể hoá nhân vật. Khẩu ngữ không chỉ đóng vai trò là nguồn nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái,
khí sắc và đặc tính mỹ học của văn xuôi nói chung, của phóng sự nói riêng.
Một điểm nổi bật về ngôn ngữ nữa là các nhà phóng sự đã sử dụng đậm đặc các từ địa phương
vào “đứa con tinh thần” của mình. Điều này phần nào thể hiện ý thức trân trọng ngôn ngữ của vùng đất
quê hương. Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai sẽ mất đi biết bao nhiêu sức quyến rũ nếu không có những
âm thanh đời sống của nông thôn xứ Nghệ. Hàng loạt những từ của mảnh đất miền Trung chỉ cần đọc
lên là cảm thấy nghộ nghĩnh, sống động nhưng tất cả đều được Nguyễn Trần Ai cho điềm nhiên “bước
thẳng” vào trang văn mà không một chút gia công, tỉa tót: bay (mày), choa (tao), mô (đâu), mi (mày),
rứa (thế), tui (tôi), cho (thấy), ngã mô (đường nào), ra răng (như thế nào), chi (gì), in như (giống như),
méng (miếng), ve (bày), nhè (đè), tá hoả (hoảng hốt), lưa (còn), méng (miếng), huề (hoà), trự (chữ),
mầm thinh (im lặng), tríu (níu), ni (này), rứa (thế), truất (bỏ), lần đân (chần chừ), túa vào (ùa vào), rặt
(ngặt nỗi), quở (trách), có trở (có tang), đâm bổ ra (xông ra), nhớp (bẩn), tắp lự (tráo trở), tương
(đánh), xán (tiến lại), hăm (doạ), rác tai (không thích nghe), chun (dồn), biểu (bảo), bị (bao), chước
(bớt), truất (bỏ), tợ tợ (tựa như), thiêm (thăm), trẹt bè le (thấp), tầm bậy (không hay), nờ (này), ém
(im), in hệt (giống như), lặt (nhặt), chưn (chân), tiệm tặn (tiết kiệm) …
Những âm thanh “ngồ ngộ” này trong đời sống của nông thôn xứ Nghệ đã xuất hiện “nguyên đai
nguyên kiện” qua cách nói năng của nhân vật và chính người kể. Nó lấp lánh sức sống của một ngôn
ngữ từ những cuộc đời vật lộn với những khắc nghiệt gió mưa, với thiên tai, lũ lụt.
Trong khi Túp lều nát của Nguyễn Đổng Chi trình làng với sự xuất hiện đậm đặc các từ ngữ địa
phương mang đậm bản sắc Trung Bộ làm người đọc thích thú thì Đồng quê của Phi Vân lại chinh phục
người đọc bởi những từ địa phương xuất hiện trong cách ăn nói thành thực mà hữu duyên của người
nông dân vùng sông nước Nam Bộ. Những từ dùng đặc Nam Bộ được ông chọn lựa không hề tỏ ra quê
mùa, trái lại, có vị trí thật đắt, làm nổi bật phong tục, nếp sống cảnh vật thiên nhiên, đặc biệt là tính
cách con người địa phương ông miêu tả: miệt trên, quyên biệt, ôm đại, ngất lịm, học rành, nằm lòng,
một dọc con dài, nằm thở dốc, khó gần sức hơi, máu trên đâù bụt ra, vặn họng, không dè, con mẻ, mớ
mốc gì mậy (cái gì mày), bảnh (đẹp), bắt trớn, lèng èng, dòm lom lom (nhìn chăm chú)…
Không thể không nhắc đến sự trân trọng ngôn ngữ của vùng đất Nam Bộ thể hiện qua cây bút của
Phi Vân. Với sự có mặt của những từ địa phương, Đồng quê thực sự trở thành đặc sản của ngôn ngữ
Nam Bộ. Nếu Hồ Biểu Chánh còn để cho cái thô nhám của khẩu ngữ làm mất vẻ đẹp của hình ảnh,
hình tượng được miêu tả thì Phi Vân đã có những sáng tạo vượt xa lối viết của Hồ Biểu Chánh khi biết
phát triển, nâng cao khẩu ngữ cho nó tiến gần đến chuẩn mực của văn viết. Khẩu ngữ trong phóng sự
của Phi Vân không trau chuốt cầu kì mà vẫn mộc mạc, chất phác, không tỉa tót công phu nhưng vẫn
tươi tắn đầy sức gợi tả là nhờ cách sử dụng hợp lý theo từng hoàn cảnh và từng loại nhân vật.
Chính M. Gorki gọi “khẩu ngữ là máu của văn xuôi nghệ thuật”. Như vậy, khẩu ngữ không chỉ
đóng vai trò là nguồn nuôi dưỡng mà còn làm nên thần thái, khí sắc và đặc tính mỹ học của văn xuôi
nói chung và của phóng sự nói riêng. Những lời văn tươi rói lớp khẩu ngữ tự nhiên, mang hơi thở nóng
hổi của sự sống không chỉ làm cho phóng sự gần với người đọc đương thời mà còn rất gần gũi với độc
giả hôm nay.
3.3.1.2. Sử dụng thành ngữ, tục ngữ linh hoạt, sáng tạo
Được hiện lên với những phong cách hết sức đa dạng và đầy tài năng, các phóng sự viết về nông
thôn không chỉ thể hiện bằng những lời văn giàu chất khẩu ngữ, phong phú từ địa phương mà còn đậm
đặc các thành ngữ, tục ngữ. Các nhà phóng sự đã sử dụng linh hoạt vốn ngôn ngữ dân gian này. Họ
không chỉ sử dụng nguyên vẹn các thành ngữ một cách hợp lý, linh hoạt để tạo những giá trị biểu cảm
cao mà còn tỏ ra sáng tạo khi chỉ dùng một vế hoặc sử dụng ý của thành ngữ để vẽ nên bức tranh hiện
thực với tất cả sự sinh động như cuộc đời vốn có.
Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng sử dụng thành ngữ: Ăn đói làm no. cơm thừa canh cặn, con ong cái
kiến, thay hình đổi dạng, bán trời không văn tự, thiên phương bách kế, biết rõ mười mươi…(Cơm thầy
cơm cô), Ngô Tất Tố thì dùng thành ngữ gắn với sinh hoạt làng quê như : cày sâu cuốc bẫm, buôn
ngược bán xuôi, nghèo xác nghèo xơ, bất đắc kỳ tử, vắt cổ chày ra nước…(Việc làng), Nguyễn Đổng
Chi trong Túp lều nát cũng dùng khá hiệu quả một lượng thành ngữ lớn như: ăn to nói nậy, tâm địa
bẩn thỉu, tơ bờ tất bật, bán cốt lột xương, vu oan giá hoạ, giây mơ rễ má… Phi Vân dùng những thành
ngữ mang màu sắc Nam Bộ khá nhuần nhuyễn như: đầu đuôi gốc ngọn, không ăn mà chịu, kỳ công bất
hủ, nhơn tình thế thái, chó ăn đá gà ăn sỏi, ruột thắt gan bào…(Đồng quê). Sự có mặt của các thành
ngữ, tục ngữ này trong lời văn phóng sự một phần làm câu văn dễ hiểu, dễ cảm nhận, một phần còn
tăng sắc thái biểu cảm, khiến cho ý nghĩa câu chuyện sâu sắc hơn.
Làm một thống kê nhỏ về số lượng các thành ngữ, tục ngữ có trong một số phóng sự viết về nông
thôn, ta thấy: Cơm thầy cơm cô (64 trang), số lượng thành ngữ, tục ngữ là 44-1, Một huyện ăn Tết (20
trang) là 25-6, Việc làng (98 trang) là 19-1, Túp lều nát (132 trang) là 20-1, Đồng quê
(198 trang) là 37-1.
(Con số thống kê của Cơm thầy cơm cô, Một huyện ăn Tết và Việc làng trích trong Luận án Tiến si
văn học của của TS Nguyễn Hoài Thanh.)
Qua những con số thống kê trên, một vấn đề đặt ra là vì sao các nhà phóng sự lại khai thác triệt để
nguồn thành ngữ tục ngữ nông thôn như vậy ?
Trước hết, do thành ngữ và tục ngữ có tính hình tượng và khái quát cao, việc sử dụng thành ngữ,
tục ngữ không chỉ làm tăng sắc thái biểu cảm của câu văn mà còn lột tả hết bản chất của đối tượng
miêu tả, làm cho người đọc hiểu hết tận ngọn nguồn của vấn đề. Thành ngữ tục ngữ phù hợp với sự
diễn tả một cách sống động đối tượng vừa có khả năng làm rõ những vấn đề bị che lấp. Mặt khác, chất
khẩu ngữ có trong thành ngữ, tục ngữ làm cho lời văn đời hơn, chất hiện thực của phóng sự cao hơn,
phong phú hơn. Vì thế các nhà phóng sự ưa dùng và dùng thành thạo những thành ngữ, tục ngữ như là
những phương tiện quí báu của ngôn ngữ dân tộc để tạo ra những lời văn, một lối phô diễn cực mạnh.
Đây là sự lựa chọn khôn ngoan làm cho ngôn ngữ phóng sự “áp sát” đời sống hơn các thể loại khác
như tiểu thuyết, truyện ngắn.
Có thể nói, những trang phóng sự viết về nông thôn tươi rói một thứ ngôn ngữ đời sống. Khẩu ngữ
hằng ngày, thành ngữ, tục ngữ, từ địa phương … xuất hiện đậm đặc trong phóng sự của Ngô Tất Tố,
Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Trần Ai, Phi Vân… đã làm cho những phóng sự viết về nông thôn luôn ngân
vang những thanh âm của cuộc sống, luôn có sức lôi cuốn mạnh mẽ đối với người đọc. Thói quen ưa
sử dụng và sử dụng thành thạo, sáng tạo những phương tiện ngôn ngữ tiếng Việt của những “tay ngôn
luận xuất sắc” đã góp phần không nhỏ vào việc “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”.
3.3.1.3. Kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học
Là những nhà văn chiếm lĩnh và sử dụng ngôn từ như một nghệ thuật, các phóng sự viết về
nông thôn đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa ngôn ngữ báo chí và ngôn ngữ văn học. Ngôn ngữ báo chí thể
hiện tính chính luận, đảm nhiệm chức năng thông tin còn ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ nghệ thuật. Sự
kết hợp nhuần nhị giữa ngôn ngữ báo chí ngắn gọn, giàu thông tin với ngôn ngữ văn học giàu hình
ảnh, đậm sắc thái trữ tình chính là biểu hiện của tính hiện đại của ngôn ngữ văn học, bởi lẽ sự kết hợp
độc đáo này chưa từng xuất hiện trong văn học xưa nay.
Phóng sự Đồng quê của Phi Vân thực sự lôi cuốn người đọc nhờ sự kết hợp kì diệu những ngôn
ngữ gợi cảm, giàu chất tạo hình của văn học với ngôn ngữ báo chí. Khung cảnh làng quê Nam Bộ qua
ngôn ngữ miêu tả của Phi Vân vừa thanh bình, vừa lãng mạn và thi vị biết bao:
Bên vàm, hàng dừa nước âm u lâu lâu thấy le lói một ánh đèn; bên bờ kia thình thoảng nghe
tiếng chày giã gạo, tiếng chó sủa đêm. Đêm nay chỉ có vành trăng hai mưoi bốn, nhưng sao
đầy trời góp ánh sáng lại làm cho cảnh vật thêm ảo huyền, thơ mộng. Một làn gió nhẹ
thoảng qua, tâm thần tôi thêm khoái sảng. Vẳng xa, những giọng phù trầm êm ả của một
điệu hò mê ly, đặc biệt chốn đồng quê, rõ lần trong lặng lẽ … [89, tr.72-73].
Những đoạn văn giàu chất văn này xuất hiện bên cạnh những thông tin có tính thời sự, nóng hổi đã
làm dịu đi cảm giác căng thẳng, gai góc mà hiện thực cuộc sống đem lại, nó thanh lọc tâm hồn làm cho
con người có những giây phút diệu kỳ và đáng yêu, đáng sống.
Không chỉ ở Đồng quê, Túp lều nát của Nguyễn Trần Ai cũng là kết quả của sự kết hợp hoàn hảo,
diệu kì của ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ báo chí. Giữa không khí nặng nề của những “Tiếng dân
kêu” mà ngôn từ của báo chí đem lại, tác giả cũng dệt lên những áng văn với những ngôn từ văn học
mượt mà, giàu cảm xúc: “trong lúc đi dạo bờ sông ngắm cảnh thì một tiếng hát ru em của một đứa trẻ
từ trong nhà này văng vẳng đưa ra làm cho tôi để ý. Tiếng hát khô khan không cảm xúc mà bài hát là
bài hát dặm Nghệ Tĩnh cứ kéo dài một điệu đều đều năm tiếng một, nó mới buồn làm sao.” [4, tr.72]
Cùng với Phi Vân, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng Chi… Ngô Tất Tố nổi bật với những đóng góp
nhất định về ngôn ngữ. Bên cạnh ngôn ngữ sự kiện vốn có của một bài báo, phóng sự của Ngô Tất Tố
còn thành công nhờ sử dụng những ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu cảm xúc của văn học. Thử đọc một
đoạn văn ông miêu tả cảnh một ngày hạn hán trong Tập án cái đình:
Mới vắng mùa xuân bốn ngày, trời đất đã thấy khác hẳn. Hai tiếng “lò cừ” của Cung oán
ngâm khúc có lẽ chỉ vào vũ trụ hôm nay. Hôm nay ông thần hạn bạt đã báo thù trần gian
một cách tàn nhẫn. Mới già nửa ngày thiêu đốt, lá cây đều héo rũ như ngọn cờ tang, mặt đất
tuy không chảy mỡ, nhưng hơi khét bốc lên ngào ngạt. Bãi cỏ vệ đường vệ đường lúc này đã
thành ra vật cần dùng cho khách bộ hành. Nhờ nó, gót chân những người không dép không
giày cũng bớt rát bỏng.” [3, tr.109-110]
Với những từ ngữ miêu tả sinh động, hình ảnh phong phú, người đọc có cảm giác như đang đứng
trước một khung cảnh khắc nghiệt của tiết trời vào những ngày hè nóng như nung chứ không phải đang
đọc một thiên phóng sự.
Ngoài lớp ngôn ngữ truyền thống, lớp ngôn ngữ mang tính hiện đại của văn học còn thể hiện ở
những từ ngữ hiện đại, cú pháp hiện đại. Các nhà phóng sự sử dụng một cách năng động lớp từ vựng
mới mẻ này nhằm tăng hiệu lực cho việc miêu tả, thuật kể hay bày tỏ tư tưởng tình cảm, sự đánh giá về
hiện thực. Có khi các nhà phóng sự còn Việt hoá một số từ nước ngoài như: mốt Phi-lu-dốp, gác-
măng-re (Cơm thầy cm cô)… Đây là biểu hiện của tính hiện đại trong lời văn phóng sự.
Câu văn hiện đại cũng bắt đầu xuất hiện. Đó là những câu có sự gọt giũa theo kiểu của câu văn hiện
đại, kết cấu nhiều thành phần nhưng chặt chẽ, sáng rõ, chứa đựng nhiều hàm lượng thông tin, nhưng
không vần vè như câu khẩu ngữ, không gò bó như câu biền ngẫu. Chẳng hạn:
- Chính ra, nó rất nhiều chuyện thương tâm...Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những nơi đồng
khô cỏ héo đến đây để chết đói lần thứ hai, sau khi bỏ cửa bỏ nhà; nó đã làm cho giá con
người phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hoả lò và
bọn trẻ cái đi làm nghề mãi dâm!” [62, tr.115]
- Nếu đứng giữa, ta nhìn được khắp xung quanh, đó là một câu phương ngôn Âu Tây. Tôi xin
nói ngay rằng không phải Tôi đã đứng giữa huyện đường mà biết được một huyện ăn Tết
[63, tr.545].
Bên cạnh những câu nhiều thành phần, xuất hiện nhiều câu mở rộng thành phần chêm xen, câu đảo
trật tự cú pháp… Nguyễn Đổng Chi đã nhiều lần cho xuất hiện “thực đơn” mới trong cấu trúc câu đem
lại những “món ăn khoái khẩu” cho người đọc:
- Với tập phóng sự này tôi đã dụng công hơn năm tháng trời để nhìn, để nghe những cảnh
tượng mà tôi không thể tin được là có xảy ra – và xảy ra luôn – ở trên dải đất có đến hai
Chính phủ trị vì núp dưới bóng cờ ba sắc.[4, tr.11].
Thành phần chêm xen xuất hiện trong câu có tác dụng làm sáng rõ hoặc nhấn mạnh hơn vấn đề cần
tập trung diễn đạt.
Phi Vân vượt xa lối viết của Hồ Biểu Chánh khi đoạn tuyệt với những câu văn biền ngẫu, sóng đôi
để đến với những câu văn hiện đại hơn: “- Tắm, chúng muốn trấn nước thầy? Thầy là một con rái, hiên
ngang hoạt động dưới nước nước như trên bờ!...” [89, tr.92]. Việc đảo cú pháp, trật từ từ làm cho câu
văn mới lạ, hấp hẫn hơn.
Hình thức hiện đại của các câu văn hàm chứa một tư duy mới mẻ, hiện đại. Chính cách nghĩ, nếp
cảm hiện đại đã chi phối cách chọn từ, lập ý, cách diễn đạt trong lời văn.
Được viết lên bởi những tên tuổi lớn trong văn xuôi thời kì hiện đại, giá trị bền vững của các phóng
sự viết về nông thôn có phần đóng góp xứng đáng của nghệ thuật thể hiện, nghệ thuật ngôn từ. Những
áng văn mượt mà, những ngôn từ mới lạ, giàu hình ảnh xuất hiện bên cạnh những vấn đề có tính thời
sự, gai góc đã làm “mềm” đi mạch văn, làm cho người đọc say sưa, hứng thú. Chính điều này đã tạo
nên chất văn cho các tác phẩm phóng sự. Với cách sử dụng ngôn ngữ có sự kết hợp nhuần nhị giữa
ngôn ngữ báo chí giàu thông tin và ngôn ngữ văn chương giàu hình ảnh như vậy, nghệ thuật miêu tả
trong các thiên phóng sự đã đạt đến mức hoàn hảo xứng đáng là những mẫu mực của văn học một thời.
3.3.2. Giọng điệu trần thuật
Giọng điệu cần thiết cho việc sắp xếp liên kết các yếu tố hình thức khác nhau, làm cho tác phẩm có
cùng một âm hưởng, một khuynh hướng nào đó. Giọng điệu của một tác phẩm thể hiện thái độ, tình
cảm, lập trường tư tưởng, đạo đức của người kể chuyện với các hiện tượng sự kiện được miêu tả. Mỗi
tác phẩm, mỗi tác giả, mỗi nhân vật trong các phóng sự về nông thôn 1930 – 1945 có một giọng điệu
riêng tạo nên một bản hợp xướng đa giọng điệu. Đây là điểm nổi bật nhất trong giọng điệu trần thuật
của các phóng sự giai đoạn này.
3.3. 2.1 Giọng mỉa mai, châm biếm
Khi phải chứng kiến những cảnh tượng chướng tai gai mắt đến mức “không thể chịu nổi”, giọng
mỉa mai châm biếm mới bật lên trên từng trang phóng sự. Giọng điệu gai góc này đã “tung ra” những
ngón đòn bí hiểm để lột mặt nạ những tiêu cực, những quái gở còn tồn tại.
Chẳng hạn, trong chương Những người thay mặt công chúng (Túp lều nát), Nguyễn Trần Ai kể về
một tấn tuồng bi thảm, về nỗi nhục của các tổng lý khi đến tiễn biệt một quan đồn Pháp đổi đi nơi
khác. Những cái bắt tay, nụ cười, bó hoa, những cái nghiêng mình chào đón, những bộ trang phục
chỉnh tề, tinh tươm, tiếng xilôxila của thông ngôn dịch …“nếu chỉ có thế thì cuộc tiễn đưa nó đẹp đẽ,
nhã nhặn biết bao nhiêu”, giọng văn bắt đầu nhen nhóm điệu mỉa mai khó chịu. Khung cảnh lịch lãm
nhường chỗ cho sự nhố nhăng vô văn hoá khi vị quan binh bất thình lình ném ra những vật huỷ bỏ như
cái lược, hộp thuốc nhỏ, và cả chiếc quần cộc đen. “Thế là cả chục người đại diện của dân đều bỏ ghế
ngồi, xúm lại bên ngoài cửa sổ, cánh tay giơ lên trời nhâu nhâu lên như, than ôi! Thế bất đắc dĩ, như
một bầy…chó”[4, tr.95]. Họ giằng xé nhau, mừng rú lên khi nhặt được của quí rồi bỏ túi liền trước
mấy chục con mắt thèm thuồng. “người ta chen lấn nhau, người ta toá mồ hôi, người ta toạc áo. Cảnh
tượng diễn ra in hệt như cảnh tượng một bọn trẻ con liếm le liếm chảo trong ngày hội Cát-tó”. Họ
giằng cướp nhau, quan đồn phải ra can thiệp thì vật đang giằng co bị đứt làm hai mảnh, giở ra thì là
một chiếc tất thủng! Cảm nhận sâu sắc nỗi nhục của người bản xứ, Nguyễn Trần Ai châm biếm cảnh
tượng nhố nhăng đó bằng giọng điệu mỉa mai róng riết. Giọng văn miên man khắc khoải đau đáu về
những tâm hồn Việt, những nhân cách Việt. Không chỉ thế, sự châm biếm này còn làm người đọc vụt
lên một niềm tự ái dân tộc, về lòng tự trọng đang bị đánh mất.
Giọng điệu mỉa mai sâu cay không chỉ có trong phóng sự của Nguyễn Trần Ai mà còn xuất hiện
khá nhiều trong phóng sự của Ngô Tất Tố. Giọng điệu này bật ra mạnh mẽ từ những hủ tục lạc hậu,
những lễ nghi kì dị, phản nhân văn mà bọn thống trị bày ra để bóc lột nhân dân. Rõ nhất là khi đọc
chương “Ông thần hoàng bị cách rồi” (Tập án cái đình), giọng điệu mỉa mai châm biếm bật ra từ
những ngôn từ kể về thành hoàng: “ngài là người Về đời Lê, lúc sống rất giỏi về khoa đào tường khoét
ngạch thế nhưng ngài cũng bị bắt và bị xử tử” [53, tr.148]. Tác giả mỉa mai bằng tiếng cười hài hước,
cười các ngài mà dân làng tôn kính, sùng bái chẳng qua chỉ vì ngài chết được vào giờ linh. Giọng văn
giễu nhại, ngôn từ gai góc ấy có sức công phá mạnh mẽ đối với những hoạt động vô bổ của làng:
“mười bốn tháng tám chính là cái ngày ngài phải hy sinh tính mệnh cho nghề nghiệp, vì thế hằng năm
cứ đến ngày ấy dân làng phải diễn một cuộc xuyên tường tạc bích để kỷ niệm sự nghiệp của ngài” [53,
tr.149].
Ngược dòng thời gian, trở về với bối cảnh những năm tháng 1930-1945, khi đọc những phóng sự
này, người đọc không khỏi băn khoăn lo lắng vì sau luỹ tre xanh toàn những chuyện buồn, những cái
tiêu cực đang xâu xé cuộc sống người nông dân. Làm sao có thể ngoảnh mặt làm ngơ trước thực tại?
Nguyễn Trần Ai, Phi Vân, Ngô Tất Tố… đã dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, nói thẳng sự thật, thức
dậy những lương tri hướng vọng về những sự tốt lành. Giọng văn mỉa mai sâu cay xuất hiện trong các
phóng sự phần nào thể hiện dũng khí mạnh mẽ của các nhà phóng sự, thể hiện khí chất của những nghệ
sĩ anh hùng.
3.3.2.2. Giọng sắc sảo, đanh thép
Từ những hiện thực đau lòng, tủi hổ, các nhà phóng sự riết róng đi tìm căn nguyên của mọi vấn đề
và dễ dàng hiểu được sự thống trị của thực dân, cái nghèo và thiếu hiểu biết chính là nguyên cớ dẫn
đến những cảnh tượng xót xa. Miên man khắc khoải đau đáu hướng về một xã hội tốt lành, họ cất lên
trong từng trang phóng sự một giọng văn sắc sảo đanh thép, giọng điệu đó thường xô đẩy, va xiết trong
mỗi lần tranh luận, hùng biện. Tất cả đều phải “chạm nọc” vấn đề, kích động, chất vấn từ đó toát lên
khuynh hướng tư tưởng của vấn đề.
Người đọc không thể quyên được những đoạn văn đầy sức ám ảnh trong Túp lều nát: “Thì ra ở
đây, ở chính dưới ách bọn tổng lý, luật pháp là một nhà võ sĩ què hết cả tay chân, mà công lý là một cố
lão mù tịt.”[4, tr.100]. Hay ở một chương khác, cũng một giọng văn đanh thép, đay đả, rỉa rói. Nguyễn
Trần Ai đã mượn lời của một người bạn để nói rõ ý đồ của mình là muốn lập lại việc làng, một túp lều
khác:
Cái làng ở xã hội Việt Nam ta chỉ là một túp lều nát mà người ta không chịu làm lại một túp lều
khác, chỉ hà tiện giọi vài cái tranh, chắp vài đoạn mèn, buộc ít sợi lạt, cố duy trì nó lại mà chui đụt.
Như vậy mà bảo còn chui đụt làm sao được? Phi làm lại một túp lều khác thì hòng còn chỗ trú
chân…[4, tr.123]
Sắc sảo và thời sự, tính chính luận chặt chẽ kết hợp sự hài hước châm biếm thâm thuý là “cốt cách
thâm hậu” của phóng sự Ngô Tất Tố. Được đánh giá là “một tay ngôn luận sắc sảo trong đám nhà
Nho”, Ngô Tất Tố không chỉ không chỉ truyền đạt những thông tin chính xác mà còn dũng cảm, trung
thực và thẳng thắn kiên quyết chống lại những bất công ngang trái. Giọng điệu sắc sảo đanh thép bật ra
trong từng câu chữ khi ông “chỉ mặt gọi tên” hậu quả của những việc làng: “Những việc tôi làm, bất kỳ
việc nào, tuy không phát đạt, nhưng không thất bại bao giờ, chẳng lãi nhiều thì lãi ít. Vậy mà suốt đời
nghèo xác nghèo xơ, ăn không đủ, mặc không đủ, cả nhà có một thằng con, đành phải để nó dốt nát.
Ông bảo là vì cớ gì? Ấy là lỗi gánh việc làng.” [53, tr.12]. Với khí tiết của một nhà Nho yêu nước và
tiến bộ, với trí tuệ sắc sảo và nhiệt tình chiến đấu của một ngòi bút châm biếm, ông thẳng thắn chỉ rõ
rằng: “Hủ tục không phải là thứ thiên kinh, địa nghĩa nó vẫn có thể thay đổi..”[53, tr.13]. Giọng điệu
khảng khái này thể hiện thái độ dũng cảm, thẳng thắn của ngòi bút luôn đấu tranh chống lại xã hội thực
dân phong kiến chà đạp lên cuộc sống của con người. Thuộc thế hệ những nhà Nho cuối mùa như
Nguyễn Trọng Thuật, Phạm Quế Lâm. Mai Đăng Đệ…nhưng có thể nói Ngô Tất Tố đã vượt xa các
nhà Nho cùng thời. Ông không chỉ cho ra đời những câu văn điền viên vui thú hay “cải lương hương
chính” mà còn hít thở cái không khí tranh đấu tiến bộ của K. Marx. Kiến thức học được nơi cửa Khổng
sân Trình cùng với những tư tưởng tiến bộ của thời đại mới đã chỉ đường cho ông hoà mình vào cuộc
sống của nhân dân và thực sự trở thành người bạn đường tin cậy của nông dân nghèo Việt Nam trước
Cách mạng.
Nói về những hiện thực đen tối, các nhà phóng sự không tò mò một cách vô thức, không nói cho
thoả thuê, cho bõ tức bỏ ghét, không nhìn soi mói mà nói với nỗi lo lắng, với trách nhiệm công dân,
với khát vọng loại trừ nó ra khỏi cuộc sống. Họ đem lại cho người đọc sự phẫn nộ của cả tình cảm và
lý trí. Và tất nhiên có niềm tin và hy vọng. Tất cả bản lĩnh và trí tuệ sắc bén ấy đều được thể hiện bằng
một giọng điệu sắc sảo, đanh thép trong từng trang phóng sự.
3.3.2.3.Giọng cảm thông, thương xót
Không chỉ khách quan lạnh lùng, các phóng sự về nông thôn vẫn luôn thức dậy một niềm cảm
thông sâu sắc đối với những cảnh đời tội nghiệp của người nông dân sau luỹ tre làng.
Trong Cơm thầy cơm co, nhìn lũ lượt những đoàn người từ quê nghèo lên thành phố kiếm sống
bằng một con mắt ái ngại, cảm thông, nhà văn họ Vũ không khỏi xót xa:
Họ đến là vì tại những thôn quê họ không làm gì cho đủ mỗi ngày hai bữa. Kinh thành đã
cất tiếng gọi họ, cám dỗ họ. Khi ra đi, chắc họ cũng không ngờ đến nông nỗi này. Họ chắc
mẩm trong bụng họ là sẽ có việc làm vẻ vang…Có lẽ họ đã phơi nắng, phơi mưa xin từng
đồng trinh, từng bát cơm, cùng đường rồi mới đến được Hà Nội.[62, tr.144].
Giọng văn của Vũ Trọng Phụng tràn đầy trắc ẩn và cảm thương đối với những người dân quê dại
dột. Nỗi thương cảm ấy trào dâng trong những lời văn hết sức cảm động.
Cùng với Cơm thầy cơm cô, thiên phóng sự Túp lều nát cũng bàng bạc một giọng văn cảm thông,
thương xót. Đọc phóng sự này, người đọc luôn bị ám ảnh bởi những nghịch lý trớ trêu mà người nông
dân phải gánh chịu. Nhà nghiên cứu Phong Lê nhận xét : “Mục đích viết của tác giả – như trong lời
dâng tặng, và như được trình bày trong suốt 48 trang là đưa ra các tài liệu, các minh chứng cho luật
pháp soi xét; là lời khẩn nguyện luật pháp có mặt; nhưng chính tác giả đâu có tin vào pháp luật, cả 13
chương kể, chương nào cũng đau đớn, cũng oan ức, cũng thương tâm.”[4, tr.131]. Vì thế nên chương
Những người thay mặt cho công chúng là dịp để tác giả bộc lộ nỗi lòng bằng một giọng điệu xót xa:
…mới thuật qua loa vài câu chuyện đủ làm cho tôi rùng mình. Thật là một trang thảm sử.
Mỗi một lời nói là một dòng nước mắt, khiến cho bây giờ cầm bút chép lại câu chuyện này,
lòng tôi vẫn còn hồi hộp và bàn tay không điều khiển nổi ngòi bút, vẫn còn run run như cầy
sấy. [4, tr.100].
Thương xót, cảm thông còn là giọng văn thường gặp trong những “áng văn hoàn toàn phụng sự dân
quê” của Ngô Tất Tố. Đằng sau vẻ như dửng dưng, lạnh lùng là một giọng văn thấm đẫm nỗi cảm
thông sâu sắc của Ngô Tất Tố khi thấy người nông dân đang oằn lưng làm nô lệ cho những hủ tục kì
quái. Miêu tả niềm hạnh phúc của bác Cả Mão, một gia đình thuộc dân ngụ cư nay đã có ngôi ở đình:
“cháu đã có ngôi ở đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc làng của nó”. Niềm vui thật giản
dị, hiền hậu biết bao, nhưng nó phải đánh đổi thật lớn: “tất cả tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non
non một trăm còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả”. Là nạn nhân của hủ tục, những
người nông dân ấy bị lừa đảo mất cả cơ nghiệp mà vẫn đang vui sướng hả hê làm người đọc chua xót.
Giọng văn bộc lộ nỗi xót thương thật sâu sắc cái tâm lý hiếu danh, chính sự thiếu hiểu biết này khiến
họ bị khinh khi, bị lợi dụng mà không thấy nhục.
Chúng ta đã quá quen với những hình ảnh người nông dân nghèo bị bóc lột trong các tiểu thuyết
như Chị Dậu (Tắt đèn-Ngô Tất Tố), anh Pha (Bước đường cùng-Nguyễn Công Hoan), nay lại chứng
kiến hình ảnh những nông dân bị tha hoá méo mó nhân cách trong các phóng sự. Tất cả đều khiến ta
xúc động, phẫn uất. Mang được cảm xúc đó đến với độc giả, các nhà phóng sự phải thực sự thấu hiểu,
thực sự đồng cảm. Bằng một giọng văn tràn đầy cảm thông thương xót, các phóng sự này đã truyền
đến độc giả một niềm xót xa, một nỗi đau âm ỉ, nhức nhối cứ ngấm dần và ngấm sâu.
Có thể nói, thành công lớn trong nghệ thuật viết phóng sự không thể không kể đến những giọng văn
đa dạng của các tác phẩm. Tính đa giọng điệu này đã góp phần tạo nên bản hợp ca muôn điệu cho các
phóng sự về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng. Nó đã thể hiện phần nào tư tưởng, tình cảm của
các tác giả về cuộc sống muôn màu ở nông thôn, đồng thời góp phần hoàn thiện bức tranh đời sống
người nông dân trong văn học Việt Nam nói chung, giai đoạn 1930 – 1945 nói riêng. Đó chính là thành
công lớn nhất, là đóng góp có giá trị của các phóng sự viết về nông thôn giai đoạn này.
KẾT LUẬN
Việc tiếp thu di sản phóng sự thời kì 1930 – 1945 không thể không nhắc tới mảng phóng sự về
đề tài nông thôn. Với đề tài này, các phóng sự đã để lại một kho tư liệu quí giá về hiện thực xã hội
nông thôn và những kinh nghiệm có giá trị về nghệ thuật làm phóng sự ở nước ta. Mặt khác, sự bùng
nổ trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây rất cần sự tiếp sức kinh nghiệm của quá khứ. Vì
thế, tìm hiểu những giá trị và hạn chế của mảng phóng sự này có ý nghĩa quan trọng đối với thực tiễn
sáng tác hiện nay của thể phóng sự. Đồng thời có cái nhìn đầy đủ hơn về nông thôn Việt Nam và văn
học dân tộc giai đoạn 1930 – 1945.
Gần một thế kỷ qua, lịch sử nghiên cứu những phóng sự viết về nông thôn diễn ra khá sôi nổi.
Trong đó, những ý kiến phủ định sạch trơn hay ngợi ca một chiều đã nhường chỗ cho những đánh giá
khách quan, khoa học, từ đó chỉ ra những đóng góp và hạn chế trong nhận thức của các nhà phóng sự.
Những chân dung phóng sự viết về nông thôn được nhìn nhận một cách đầy đặn, hài hoà đã đủ để mở
rộng biên độ của một giai đoạn và khảo sát ở cấp độ một đề tài.
Đầu thế kỷ XX, nhu cầu cấp bách của xã hội, những tiền đề văn hoá, sự trưởng thành của văn
học, ảnh hưởng phóng sự nước ngoài… là những yếu tố đã hội tụ đủ để thể phóng sự chính thức hình
thành. Chỉ với 15 năm, nhiều phóng sự xuất sắc với những tên tuổi đầy tài năng đột ngột phát sinh và
chói sáng trên văn đàn dân tộc góp phần hiện đại hoá diện mạo văn xuôi hiện đại. Gần một thế kỷ đi
qua, phóng sự phát triển với nhiều biến thái nổi chìm, nhưng trong thời kỳ lịch sử sang trang, cuộc đổi
mới văn học đã làm phóng sự hồi sinh và thăng hoa một cách mạnh mẽ, kỳ diệu. Phóng sự ngày càng
phát huy vai trò xung kích trên mặt trận báo chí và văn học, góp phần không nhỏ vào công cuộc xây
dựng đất nước.
Là thể “tân văn” của văn xuôi thời kì hiện đại, lý luận về phóng sự từng bước được hình thành
một cách rạch ròi và cụ thể hơn: từ chỗ được xem là thể đứng giữa văn học và báo chí, phóng sự được
nhìn nhận là thể kí trong báo chí và văn học. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học dù khác nhau về
mức độ xác thực, tính thời sự, về cái Tôi trần thuật, về ngôn ngữ… nhưng đều có điểm chung là lấy
người thật việc thật để phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng.
Những hiện thực nóng hổi còn khuất lấp sau luỹ tre xanh yên ả đã lọt vào tầm ngắm của các nhà
phóng sự. Ống kính của họ soi rọi và nhanh chóng chụp lấy những tiêu cực đang xâu xé cuộc sống của
người dân. Tuy số lượng tác phẩm khiêm tốn, nhưng phóng sự viết về nông thôn đã có những tác phẩm
giá trị với những tên tuổi bậc thầy. Những thiên phóng sự này cứ lặng lẽ, âm thầm thức dậy những
lương tri lành mạnh, cảnh tỉnh xã hội, hướng tới một xã hội công bằng, văn minh với một niềm tin và
hy vọng.
Nội dung hiện thực trong các phóng sự về nông thôn biểu hiện ở bức tranh phong cảnh và
phong tục. Hai phong cảnh với những mảng màu đối lập: nông thôn Bắc Bộ khắc nghiệt, dơ bẩn, lạc
hậu, đói nghèo và nông thôn Nam Bộ tươi tắn, nên thơ. Những phong tục truyền thống mang đậm bản
sắc văn hoá như sinh hoạt lễ hội, những phong tục tập quán độc đáo… được các thể hiện sinh động
trong các phóng sự.
Bên cạnh đó, bức tranh hiện thực xã hội và con người hiện lên với những tệ nạn xã hội nhức
nhối và những hủ tục lạc hậu. Những cảnh đời đói nghèo cùng quẫn, nạn nhân của hủ tục lạc hậu,
những con người tha hoá, tệ tham nhũng… là hệ quả tất yếu của cuộc sống ngột ngạt, đói khát, lạc hậu
và tủi nhục của những công dân mất quyền tự do dân chủ. Tất cả hiện thực đó đều được phanh phui,
lộn trái với quan điểm nhìn thẳng, nói thật của các nhà phóng sự.
Cảm hứng tư tưởng của các phóng sự là luôn thẳng thắn vạch trần và tố cáo, nhưng điều đáng
nói là không phải nói cho bõ tức hay thoả mãn sự xoi mói một cách thoả thuê mà vạch trần cái tiêu cực
với trách nhiệm công dân, với khát vọng về một xã hội tốt đẹp và với lòng tự trọng dân tộc sâu sắc.
Các phóng sự đã tô đậm lòng cảm thương sâu sắc về những số phận bất hạnh để người đọc cùng sẻ
chia đồng thời gieo mầm cho những tấm lòng nhân ái cảm thông, biết đau những nỗi đau với đồng loại.
Cảm hứng ngợi ca thấm đẫm trong từng trang văn phóng sự cũng là một biểu hiện về lòng tự
hào dân tộc, lòng yêu quê hương đất nước. Nếu như người đọc bức bối, mệt mỏi khi phải chứng kiến
ca phẫu thuật những ung nhọt của xã hội thì sẽ cảm thấy vô cùng thích thú và tự hào khi ngắm nhìn vẻ
đẹp làng quê với những phong tục truyền thống mang đậm bản sắc văn hoá. Tuy nhiên, những phóng
sự này vẫn còn bộc lộ những hạn chế như sự bi quan bế tắc về thời cuộc và phẩm chất con người, nhận
thức chính trị còn mơ hồ lệch lạc, số ít còn mô tả nhân vật pha màu sắc tự nhiên chủ nghĩa.
Về nghệ thuật, các nhà phóng sự tỏ ra hết sức tinh tế khi tuyển chọn những vấn đề nóng hổi từ
vô vàn “những điều trông thấy”, năng động trong cách tiếp cận hiện thực để có nhiều góc nhìn khác
nhau, từ đó tìm được cội nguồn bản chất của những hiện tượng phức tạp của cuộc sống, con người và
xã hội. Họ còn rất sáng tạo trong khai thác tư liệu, tinh vi trong nghệ thuật điều tra để có những tư liệu
“sống”. Từ đó cung cấp thông tin đến với người đọc kịp thời, chính xác và có tính thuyết phục cao.
Nghệ thuật trần thuật được các nhà phóng sự đặc biệt chú ý. Các phóng sự có kết cấu hết sức đa
dạng: xoay quanh một chủ đề, theo nhân vật hay cốt truyện… Người đọc còn bị thuyết phục bởi những
lối thuật kể hết sức linh hoạt, thông minh và uyển chuyển. Cách xây dựng các điểm nhìn trần thuật đa
dạng và đầy biến hoá đã khắc hoạ tới những ngóc ngách sâu thẳm của thế giới nội tâm con người đồng
thời giúp người đọc thấu sâu hơn những lớp ý nghĩa của hiện thực cuộc sống.
Với những lời văn mang đậm chất khẩu ngữ, phóng sự trở nên gần với hơn đời sống con người.
Đặc biệt, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ báo chí với ngôn ngữ văn chương đã làm cho phóng
sự hoà quyện nhuần nhuyễn chất tư liệu thời sự với chất văn học đậm đà. Cùng với ngôn ngữ, giọng
điệu trong các phóng sự cũng hết sức đa dạng: lúc thì mỉa mai châm biếm, lúc thì sắc sảo đanh thép,
khi lại giàu sự cảm thông chia sẻ….Tất cả tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật hết sức độc đáo và ấn tượng cho
các thiên phóng sự.
Với mong muốn đem lại một cái nhìn khái quát cho phóng sự về đề tài nông thôn giai đoạn
1930 – 1945, luận văn này đã tiến hành khảo sát trên cả bình diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật viết
phóng sư. Tuy nhiên, những kết quả bước đầu này có thể chỉ là sự thử nghiệm. Giá trị nhiều mặt của
những phóng sự này có ý nghĩa không chỉ đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà còn đối với
một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá hết toàn diện di sản phóng sự
này, cần một lối tiếp cận kết hợp giữa văn học và các ngành khác như ngôn ngữ học, báo chí, sử học,
tâm lí học, xã hội học, dân tộc học...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuấn Anh – Bích Thu (chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam
từ cuối thế kỷ XIX đến 1945, NXB Văn học, Hà Nội.
2. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, Tiểu luận phê bình, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
3. M Arnaudop(1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học, Hà Nội.
4. Nguyễn Đổng Chi (1997), Túp lều nát, NXB Văn học, Hà Nội.
5. Đức Dũng(1996), Các thể ký báo chí, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
6. Trần Hữu Dũng, Phi Vân – nhà văn đồng quê rặt ròng Nam Bộ. http://vannghesongcuulong.org.
7. Nguyễn Đức Đàn, Phan Cự Đệ (1999), Bước đường phát triển tư tưởng nghệ thuật của Ngô Tất
Tố, NXB Hội nhà văn , Hà Nội.
8. Nguyễn Đức Đàn – Phan Cự Đệ (1962), Ngô Tất Tố, NXB Văn hoá, Hà nội.
9. Phan Cự Đệ – Trần Đình Hượu – Nguyễn Trác – Nguyễn Hoành Khung – Lê Chí Dũng – Hà Văn
Đức (1998), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Giáo dục, Hà Nội.
10. Phan Cự Đệ (chủ biên), Trần Đình sử, Đinh Văn Đức, Mã Giang Lân, Phan Trọng Thưởng, Bùi
Việt Thắng, Hà văn Đức, Bích Thu, Lê Dục Tú (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
11. N. Đuytơre (1990), Hà Minh Đức, Báo Văn nghệ (Hà Nội) số 21, tháng 5.
12. Hà Minh Đức (chủ biên) (1995), Lý luận văn học (tái bản) NXB Giáo dục Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (1990), Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, NXB Quân
đội nhân dân, Hà Nội.
14. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa nhân đạo, Văn học, học văn, Trường
viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
15. Hoàng Ngọc Hiến (1997), Năm bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
16. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Văn học - học văn, Trường CĐSP TP HCM – Trường viết văn Nguyễn
Du, TPHCM.
17. Hoàng Ngọc Hiến (1990), Tăng cường tính chính xác trong nghiên cứu văn học, Các vấn đề của
khoa học văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
18. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội – NXB Mũi Cà Mau.
19. Đỗ Đức Hiểu (chủ biên) (2004), Từ điển văn học, NXB Thế giới, Hà Nội.
20. Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn) (2001), Ngô Tất Tố – một tài năng lớn đa dạng, NXB Văn
hoá Thông tin, Hà Nội.
21. Mai Hương – Tôn Hương Lan (2001), Ngô Tất Tố về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, Hà Nội.
22. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 20, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
23. Phan Khôi (1956) “Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng”, Vũ Trọng Phụng với
chúng ta, Minh Đức xuất bản, Hà Nội.
24. M. B. Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB
Đại học quốc gia, Hà Nội.
25. Nguyễn Hoành Khung- Lại Nguyên Ân (1994), Vũ Trọng Phụng con người và tác phẩm, NXB
Hội nhà văn, Hà Nội.
26. Tam Lang - Trọng Lang - Hoàng Đạo (1995), Phóng sự chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
27. Tam Lang (1974), Tôi kéo xe, NXB Đất mới, Sài gòn.
28. Trọng Lang (2002), Làm dân, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
29. Thanh Lãng (1995), 13 năm tranh luận văn học, tập 1 và 3, NXB Văn học – Hội nghiên cứu và
giảng dạy văn học, TP HCM.
30. Thanh Lãng (1972), Phê bình văn học thế hệ 1932 – 1945, NXB Khai Trí, Sài Gòn.
31. Nguyễn Đình Lạp (1990), Ngõ hẻm, NXB Văn học, Hà Nội.
32. Nguyễn Đình Lạp (1997), Ngoại ô, NXB Văn hoá thông tin, Hà Nội.
33. Nguyễn Đình Lạp (1995), Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
34. Mã Giang Lân (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 24B, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
35. Tùng Lâm, Ngô Tất Tố - Một tay ngôn luận xuất sắc. HTTP://www.nghebao.com.
36. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam thời đại mới. NXB Giáo dục, Hà Nội..
37. Vũ Đình Liên – Đỗ Đức Hiểu – Lê Trí Viễn – Huỳnh Lý – Trương Chính – Lê Thước (1957),
Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập 3, NXB Xây dựng, Hà Nội.
38. Trịnh Bích Liên (2007), Những biến thiên của Phóng sự Việt Nam từ 1930 đến trước thời kỳ Đổi
mới. Tạp chí NCVH số 4, Hà Nội.
39. Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam – Thành Thế Thái Bình (1998), Lý luận văn học, tập 3, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
40. Phương Lựu – Trần Đình Sử – Lê Ngọc Trà(1987), Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà
Nội.
41. Phương Lựu (1997), Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
42. C.Mac – F Ănghen – V.I. Lênin (1958), Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội.
43. Nguyễn Đăng Mạnh (1997), Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
44. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Chân dung và phong cách. NXB Văn học, Hà Nội.
45. Nguyễn Đăng Mạnh (1993), Dẫn luận nghiên cứu tác giả văn học, Trường Đại học sư phạm Hà
Nội.
46. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên) (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30B, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Tinh tuyển văn học Việt Nam”, tập 7, quyển 1, Trung tâm KHXH
và NV Quốc gia.
48. Nguyễn Đăng Mạnh (1989), Vũ Trọng Phụng, “ông vua phóng sự” – Lời giới thiệu phóng sự Kỹ
nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội.
49. Tô Thảo Miên (2005), Vũ Trọng Phụng – “người thư ký của thời đại”, Tạp chí nghiên cứu Văn
học số 2 (396) tháng 2, Hà Nội.
50. Vũ Thị Thanh Minh (2006), Một số đặc điểm của phóng sự Việt Nam giai đoạn 1932 – 1945, Tạp
chí nghiên cứu văn học số 9, Hà Nội.
51. Lã Nguyên (1996), 50 năm Văn học Việt Nam sau Cách mạng tháng 8. NXB Đại học quốc gia, Hà
Nội.
52. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn
học, số 4, Hà Nội.
53. Phạm Thị Ngọc –Nguyễn Anh Vũ (tuyển chọn) (2002), Ngô Tất Tố - Việc làng – tác phẩm và dư
luận, NXB Văn học, Hà Nội.
54. Nhiều tác giả (1992), Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam xuất bản, Hà
Nội.
55. Vũ Ngọc Phan (2005), Nhà văn hiện đại, tập 1 và 2, NXB Văn học, Hà Nội.
56. Thế Phong (1996), Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang, NXB Văn hoá
thông tin, TP HCM.
57. Bùi Huy Phồn (1962), Phóng sự – một thể văn xung kích, Văn nghệ Hà Nội số 63, tháng 8, Hà
Nội.
58. Bùi Huy Phồn (1958), Đọc lại việc làng, Tạp chí Văn Nghệ số 8, Hà Nội.
59. Vũ Đức Phúc (1966), Bàn về các thể ký trong văn học từ cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp chí
văn học số 8, Hà Nội.
60. Vũ Đức Phúc (1976), Đặc điểm tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930 – 1945, Tạp chí
văn học số 5, Hà Nội.
61. Vũ Trọng Phụng (1937), Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phương, Hà Nội.
62. Vũ Trọng Phụng (1989), Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội.
63. Vũ Trọng Phụng (2005), Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, (Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá
tuyển chọn, giới thiệu), NXB Văn học, Hà Nội.
64. Cao Xuân Phượng, Phóng sự Việt thời đổi mới, www.google.com .vn
65. G.N.Pospelov (chủ biên) (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXB Giáo dục, Hà Nội.
66. Thiều Quang (1957), Một chút tài liệu về Vũ Trọng Phụng, Tập phê bình, số đặc biệt về Vũ Trọng
Phụng, Hà Nội.
67. Trần Huy Quang (1985), Phóng sự (tuyển), NXB Văn học, Hà Nội.
68. Dương Xuân Sơn, Các thể loại báo chí chính luận nghệ thuật. NXB ĐHQG Hà Nội.
69. Mộng Bình Sơn – Đào Đức Chương (1996), Nhà văn phê bình (Khảo cứu văn học Việt Nam 1932
– 1945), NXB Văn học, Hà Nội.
70. Trần Đình Sử (1990), Bàn thêm về tiếp nhận văn học, Báo Văn nghệ, số 7, Hà Nội.
71. Trần Đình Sử – Phương Lựu – Nguyễn Xuân Nam (1987), Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
72. Trần Đình Sử (1996), Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
73. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo viên,
Hà Nội.
74. Trần Đình Sử (1987), Truyện, ký về các sự kiện sắp xảy ra, Tạp chí văn học, số 2, Hà Nội.
75. Trần Đình Sử (chủ biên) (, Tự sự học – Một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB ĐHSP Hà Nội.
76. Trần Hữu Tá (1993), Phóng sự – Một thể văn xung kích của báo chí, Báo Lao động và xã hội, số
8, ngày 25.12, Hà Nội.
77. Trần Hữu Tá (1992), Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay, NXB TP.HCM.
78. Trần Hữu Tá (1999), Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, NXB TP HCM.
79. Trần Hữu Tá (1999), Vũ Trọng Phụng “ông vua phóng sự Việt Nam” Báo Tuổi trẻ chủ nhật, tháng
10.
80. Trần Hữu Tá (sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn) (2001), Vũ Trọng Phụng – những tác phẩm tiêu
biểu. NXB Giáo dục, Hà Nội.
81. Nguyễn Hoài Thanh (1999), Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sự của Vũ Trọng Phụng,
Luận án tiến si Văn học, Trường Đại học KHXH&NV, TP HCM.
82. Trần Đăng Thao (2004), Đặc sắc văn chương Vũ Trọng phụng, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
83. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Nguyễn Hữu Sơn (2000), Phóng sự Việt Nam 1932 – 1945, tập
1, 2, 3 NXB Văn học, Hà Nội.
84. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, NXB Trẻ, TP HCM.
85. Lê Ngọc Trà (1991), Vấn đề con người trong văn học hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn học trong
sự nghiệp đổi mới (Hà Minh Đức chủ biên), NXB Sự thật, Hà Nội.
86. Huỳnh Công Tín (ĐH Cần Thơ) , Đồng quê, dân quê, tình quê trong sáng tác của Phi Vân.
www.Viện văn học. Org.vn.
87. Cù Đình Tú (1993) Phong cách học và đặc điểm tu từ Tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
88. Hoàng Xuân Tuyển, “Việc làng” – “Việc nước”, http://www. Phong diep.net.
89. Phi Vân (1951), Đồng quê, NXB Bốn phương, .
90. Viện thông tin khoa học xã hội (1996), Tệ nạn xã hội – căn nguyên, biểu hiện, phương thức khắc
phục, Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội.