BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀI THANH
KHẢO SÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
THỂ LOẠI PHÓNG SỰ CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1999
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN HOÀI THANH
KHẢO SÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM
THỂ LOẠI PHÓNG SỰ CỦA
VŨ TRỌNG PHỤNG
Chuyên ngành: Lý thuyết và lịch sử văn học
Mã số: 5. 04. 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
- GS. Hoàng Nhƣ Mai
- PGS – TS Trần Hữu Tá
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1999
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu
trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.
Tác giả luận án
NGUYỄN HOÀI THANH
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1
1. Sự cấp thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu ..................................................... 1
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 3
3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 6
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................... 23
5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................... 24
6. Bố cục của luận án ............................................................................................... 24
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ PHÓNG SỰ............................................. 25
1.1. Một số quan niệm về thể phóng sự ................................................................... 25
1.1.1. Một ít tƣ liệu về thể phóng sự ở nƣớc ngoài .............................................. 25
1.1.2 Một số quan niệm ở Việt Nam về thể phóng sự ......................................... 31
1.2. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học ............................................................. 37
1.2.1 Phóng sự - một thể kí trong báo chí và văn học .......................................... 39
1.2.2 Phóng sự báo chí và Phóng sự văn học ....................................................... 42
1.2.3. Phóng sự mang yếu tố tiểu thuyết .............................................................. 49
1.3. Mấy nét cơ bản về lịch sử thể phóng sự ở Việt Nam ........................................ 51
1.3.1. Sự xuất hiện thể phóng sự .......................................................................... 51
1.3.2. Sơ lƣợc về quá trình phát triển ................................................................... 56
CHƢƠNG 2: PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG: HIỆN THỰC VÀ TƢ TƢỞNG .. 69
2.1. Những mảng hiện thực đen tối .......................................................................... 70
2.1.1. Những tệ nạn xã hội trầm kha .................................................................... 70
2.1.2 Những cảnh tƣợng thƣơng tâm, nhức nhối ................................................. 74
2.2. Sự tha hóa của những “giới” ngƣời .................................................................. 77
2.2.1. Những kẻ lụi tàn vì cờ bạc bịp ................................................................... 78
2.2.2. Những kẻ khốn cùng tha hóa ..................................................................... 80
2.2.3. Sự băng hoại của giới chủ nhà ................................................................... 82
2.3. Giá trị và hạn chế của nội dung phóng sự ......................................................... 83
2.3.1. Giá trị lịch sử - thời sự ............................................................................... 84
2.3.2. Tƣ tƣởng nhân đạo ..................................................................................... 93
2.3.3. Những bất cập, sai lầm và yếu tố tự nhiên chủ nghĩa .............................. 104
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............................ 117
3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực, khai thác tƣ liệu .......................................... 117
3.1.1. Sự tinh tế trong "tuyển chọn" thực tại ...................................................... 118
3.1.2. Sự năng động trong tiếp cận hiện thực .................................................... 120
3.1.3. Sự sáng tạo trong khai thác tƣ liệu ........................................................... 124
3.2. Những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết ........................................................ 129
3.2.1. Mỗi "vấn đề" đều thành "câu chuyện" ..................................................... 130
3.2.2. Một quần thể nhân vật sống động ............................................................ 134
3.2.3 Một lối thuật kể hấp dẫn ........................................................................... 144
3.3. Nghệ thuật trào phúng ..................................................................................... 151
3.3.1. Nhân vật hài hƣớc, biếm họa ................................................................... 152
3.3.2. Tổ chức tình huống hài hƣớc, trào phúng ................................................ 157
3.3.3. Một lối văn giễu nhại ............................................................................... 161
CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM LỜI VĂN PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG ............... 168
4.1. Chất khẩu ngữ trong lời văn phóng sự ............................................................ 169
4.1.1. Những yếu tố khẩu ngữ ............................................................................ 169
4.1.1.1. Các lớp khẩu ngữ .............................................................................. 170
4.1.1.2. Lƣợng thành ngữ, tục ngữ mang màu sắc khẩu ngữ ......................... 172
4.1.1.3. Biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ .......................................... 174
4.1.2. Vai trò của các yếu tố khẩu ngữ ............................................................... 179
4.1.2.1. Sử dụng khẩu ngữ để mô tả, đánh giá hiện thực ............................... 179
4.1.2.2. Dùng khẩu ngữ để miêu tả quần thể nhân vật ................................... 180
4.2. Giọng điệu trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng ..................................... 181
4.2.1. Giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện ............................................... 181
4.2.2. Giọng điệu của cái Tôi - tác giả ............................................................... 184
4.2.3. Giọng điệu chính của quần thể nhân vật .................................................. 185
4.3. Tính hiện đại và những chế của lời văn phóng sƣ Vũ Trọng Phụng .............. 186
4.3.1. Những từ vựng mới mẻ ............................................................................ 187
4.3.2. Câu văn hiện đại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng ................................. 188
4.3.3. Những hạn chế trong lời văn phóng sự .................................................... 193
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 195
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 201
PHỤ LỤC .................................................................................................................. 218
MỞ ĐẦU
1. Sự cấp thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu
Tuy đƣợc tôn vinh ở cả lĩnh vực tiểu thuyết lẫn phóng sự, nhƣng cho đến nay, sau hơn
nửa thế kỉ, việc nghiên cứu di sản văn chƣơng của Vũ Trọng Phụng vẫn có một sự thiên lệch:
bút mực đã dành sự ƣu ái cho "nhà tiểu thuyết trác tuyệt" nhiều hơn so vói "ông vua phóng
sự". Theo thƣ mục nghiên cứu trong Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay [178, 265 - 281]
tính đến thời điểm 1992, trong tổng số 141 bài và sách nghiên cứu sự nghiệp văn chƣơng của
họ Vũ, chỉ có 3 bài bàn riêng về phóng sự. Cũng theo Thƣ mục này, trong 29 báo cáo khoa
học tại hai cuộc Hội thảo lớn kỉ niệm Vũ Trọng Phụng (tháng 12 năm 1987 ở Thành phố Hồ
Chí Minh và tháng 10 năm 1989 ở Hà Nội) cũng chỉ có 2 bài bàn riêng về phóng sự của ông.
Ngay trong 25 báo cáo khoa học tại cuộc Hội thảo thứ 3 (ngày 15 tháng 3 năm 1992), kỉ niệm
80 năm ngày sinh của Vũ Trọng Phụng tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã không có một báo cáo
nào bàn riêng về phóng sự. Từ đó cho đến nay (1999) đã có thêm một số bài báo khoa học và
1 luận văn Thạc sĩ về đề tài phóng sự của họ Vũ. Đồng thời cũng có 1 luận án Phó tiến sĩ đề
cập đến cả lĩnh vực tiểu thuyết và phóng sự của ông. Tuy nhiên, do các tác giả chỉ mới giới
hạn trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về một số vấn đề theo mục tiêu nhất định nên chưa đem
lại một cái nhìn toàn diện và còn để lại những khoảng trống cần bù lấp.
Nói nhƣ vậy không có nghĩa phóng sự Vũ Trọng Phụng ít đƣợc bàn tới. Bên cạnh
những báo cáo, bài báo và công trình chuyên về phóng sự, còn có nhiều ý kiến đề cập đến
mảng sáng tác này của họ Vũ, nhân khảo
1
cứu một vấn đề nào đó về văn nghiệp và cuộc đời của ông. Nhƣng ngay trong số những ý
kiến này cũng lại bộc lộ thêm một sự thiên lệch khác. Đó là, đa phần bàn về phương diện nội
dung đạo đức, chính trị, giá trị hiện thực của từng thiên phóng sự hơn là bàn về phương diện
nghệ thuật. Vì thế, bức chân dung "ông vua phóng sự" còn thiếu một sự đầy đặn, hài hòa.
Thời kì mới trong việc tiếp cận di sản văn học của Vũ Trọng Phụng đòi hỏi phải mở
rộng tầm nhìn, hƣớng nhìn sang mảng phóng sự, để tìm hiểu, đánh giá đúng những đóng góp
của ông ở địa hạt sáng tác quan trọng này.
Trên cơ sở tiếp thu thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, luận án này xin
mở một cuộc khảo sát toàn diện, theo một hệ thống, nhằm mục đích tìm ra những đặc điểm
nổi bật cả về phương diện nội dung lẫn nghệ thuật, để thấy giá trị đặc sắc, sự độc đáo, sáng
tạo và những hạn chế, lệch lạc của những tác phẩm thuộc thể phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Sự khảo cứu những đặc điểm của phóng sự Vũ Trọng Phụng, không những có ý nghĩa
đối với việc nghiên cứu di sản văn chƣơng của họ Vũ mà còn có ý nghĩa đối với việc nghiên
cứu lí luận và thực tiễn của thể phóng sự.
Phóng sự là một thể tân văn ra đời trong những năm sôi động nhất, khi văn học nƣớc
nhà tăng tốc lao vào quỹ đạo hiện đại. Thể văn nay là kết quả của "cuộc tình" đằm thắm giữa
văn học và báo chí lúc đó. Chỉ trong một thời gian ngắn, phóng sự đã đạt đƣợc một thành tựu
rực rỡ. Nếu theo quan điểm của M. Bakhtin về vai trò to lớn của thể loại trong quá trình phát
triển văn học, thì có thể coi thể phóng sự là một trong "những nhân vật chính của tấn kịch
lịch sử văn học" đương thời. Vì vậy, nó đã thu hút đƣợc sự quan tâm, kiến giải của cả lí luận
văn học và lí luận báo chí. Việc tìm hiểu đặc điểm phóng sự của một cây bút tiêu biểu thuộc
bậc "ông vua", có thể góp phần vào việc đánh giá đôi với cả nền phóng sự đƣơng thời, một
2
hiện tƣợng văn học độc đáo, mang đậm dấu ấn sáng tạo của một lớp nhà văn lớn.
Phóng sự là một bộ phận hợp thành quan trọng của di sản văn học Vũ Trọng Phụng.
Chất phóng sự lại là thành tố "máu thịt" của phong cách văn học họ Vũ. Việc xác định đặc
điểm phóng sự sẽ góp phần soi sáng những mảng sáng tác khác của ông. Điều này có một ý
nghĩa đối với công tác giảng dạy và học tập văn chƣơng Vũ Trọng Phụng. Trƣớc tình hình
"bùng nổ" trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây, cũng đòi hỏi sự tiếp sức của
kinh nghiệm quá khứ. Luận văn này cũng có một tham vọng nhỏ là gợi lại cách làm phóng sự
của một cây bút "sắc sảo và khôn ngoan", có thể để người viết phóng sự hôm nay học hỏi, rút
ra nhũng điều bổ ích cho nghề nghiệp của mình. Trƣớc xu hƣớng xóa nhòa ranh giới thể loại
để tạo ra một dạng thức biểu hiện mới nhằm đạt đƣợc hiệu quả thông tin - thẩm mĩ tối ƣu của
văn xuôi hiện nay, việc nghiên cứu đặc điểm phóng sự của họ Vũ còn có giá trị gợi mở đối
với sự tìm tòi, sáng tạo. Mặt khác, những vấn đề và những tệ nạn xã hội mà họ Vũ phản ánh,
nay vẫn còn đang là vấn nạn, quốc nạn không dễ giải quyết một sớm, một chiều. Chính trong
lúc này, rất cần có một nền phóng sự sôi động, đóng vai trò xung kích trên lĩnh vực báo chí
và văn học, góp phần vào công cuộc cải tạo, xây dựng xã hội mới. Vì thế, sự nghiên cứu di
sản phóng sự của Vũ Trọng Phụng càng có ý nghĩa thực tiễn không nhỏ.
2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Suốt gần mƣời năm cầm bút, Vũ Trọng Phụng luôn gắn bó với thể phóng sự. Từ năm
1933 đến 1939, cùng với việc cho ra đời hàng loạt những tác phẩm có giá trị thuộc những thể
loại khác, ông đã viết cả thảy 8 thiên phóng sự dài, theo trình tự thời gian nhƣ sau:
3
- Cạm bẫy người (Nhật Tân, tháng 8 - 1933), -Đời cạo giấy (Tân thiếu niên, 1934),
- Kĩ nghệ lấy Tây (Nhật Tân, tháng 12 - 1934),
- Dân biểu và dân biểu (Công Dân, tháng 9 - 1935),
- Cơm thầy cơm cô (Hà Nội báo, tháng 5 - 1936),
- Vẽ nhọ bôi hề (Phụ nữ thời đàm, tháng 9 - 1936),
- Lục xì (Tương Lai, tháng 01 - 1937),
- Một huyện ăn Tết (Tiểu thuyết thứ bẩy, tháng 2 - 1939).
Trong 8 tác phẩm nói trên, phóng sự Dân biểu và dân biểu đăng trên tờ Công Dân,
hiện chƣa tìm đƣợc văn bản. Theo các Giáo sƣ Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung và Trần
Hữu Tá (Trong Tổng tập Văn học Việt Nam, Tập 29A), đây là tác phẩm "Công kích cái Viện
dân biểu bù nhìn, mà các ngài nghị viên xuất thân chỉ là những lão cai xe, những bọn cho vay
nặng lãi, những tên địa chủ vô học mà lại hiếu danh" [37, 36 - 38]. Một thiên phóng sự đã đề
cập trực tiếp đến một vấn đề chính trị của xã hội đƣơng thời, nhƣng rất tiếc là bị thất lạc. Còn
phóng sự Vẽ nhọ bôi hề đăng dở dang, vì tờ Phụ nữ thời đàm bị đình bản. Theo họa sĩ Mạnh
Quỳnh, ngƣời đuợc Vũ Trọng Phụng mời minh họa cho thiên phóng sự này, thì: "Nhà văn
chọn hậu trƣờng sân khấu làm đề tài, là nhằm nói lên cuộc đời của những ngƣời bán hơi, bán
tài, bán sức mà không đủ sống. Không những thế, trong mƣời ngƣời, có tới năm sáu ngƣời sa
vào con đƣơng nghiện hút" [178, 124]. Riêng phóng sự Đời cạo giấy, cũng chƣa tìm đƣợc
văn bản; nhƣng theo bài xã luận "Phóng sự là gì" ở trang 3 của báo Phóng sự số 3 năm 1938
(xuất bản ở Sài Gòn) thì: "Thiên phỏng sự Đời cạo giấy vừa ra trên số báo Tân thiếu niên của
ông Lê Tràng Kiều thì đã đem ngay cái chết lại cho báo ấy. Chứng tôi kể lại chuyện này vì
muốn cho bạn đọc thấy
4
rõ cái giá trị của phỏng sự, vì trong Đời cạo giấy, Vũ Trọng Phụng đã nói đến đời cách mạng
của Đoàn Trần Nghiệp tục danh là Ký Con".
Qua các lời thuật kể nhƣ vậy, có thể yên tâm về nội dung đƣợc đề cập ở ba thiên
phóng sự nói trên, là những vấn đề có ý nghĩa chính trị, xã hội tích cực.
Vì vậy, đối tƣợng nghiên cứu của Luận án này là năm thiên phóng sự còn lại: Cạm
bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì và Một huyện ăn Tết. Đây là những
phóng sự chính yếu, không bị lƣỡi kéo kiểm duyệt đƣơng thơi cắt bỏ. Số lƣợng phóng sự hiện
còn, cho phép việc khảo cứu, tìm tòi đặc điểm của thành tựu phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài "Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sư của Vũ Trọng Phụng", luận án
xin định rõ mục đích của mình là khảo sát những đặc điểm của năm tác phẩm thuộc thể loại
phóng sự của Vũ Trọng Phụng nhƣ đã trình bày ở trên. Phóng sự là một thể loại mới xuất
hiện trong cuộc cách tân văn học. Nhƣ nhiều nhà văn cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã tìm đến
thể phóng sự và đã góp cho thể tài này những tác phẩm xuất sắc mang đậm phong cách riêng,
chứ không phải ông đã sáng tạo ra một "thể loại" phóng sự riêng biệt của mình. Trên cơ sở
xác định đối tƣợng và mục đích nghiên cứu nhƣ vậy, luận án xin tự đặt cho mình những giới
hạn nhƣ sau:
Một là, thông qua việc tìm hiểu những quan niệm về thể phóng sự, chúng tôi đề cập
đến thể phóng sự báo chí và phóng sự văn học, tìm ra những điểm giống nhau và sự khác biệt
giữa chúng. Tuy lí luận không phải là mục đích chính của việc nghiên cứu, nhƣng chúng tôi
thấy cần phải minh định hai khái niệm này, để làm cơ sở cho việc khảo sát đặc điểm phóng
sự của Vũ Trọng Phụng.
5
Hai là, chỉ khảo sát nội dung phóng sự của họ Vũ ở hai phƣơng diện: hiện thực và tư
tưởng. Từ đó, luận án rút ra giá trị lịch sử - thời sự; giá trị nhân đạo và những bất cập, sai
lầm, yếu tố tự nhiên chủ nghĩa.
Ba là, khảo sát về phương diện nghê thuật của các tác phẩm phóng sự, nhƣ nghệ thuật
khai thác, sử dụng tƣ liệu, tính tiểu thuyết và nghệ thuật trào phúng.
Bốn là, khảo sát đặc điểm của lời văn trong các thiên phóng sự của họ Vũ, để nhằm
tìm ra cái riêng, cái độc đáo về lối phô diễn của "ông vua phóng sự".
Phạm vi nghiên cứu bao gồm một hệ thống vấn đề nhƣ trên, ngõ hầu đem lại một cái
nhìn bao quát cả về năng lực nhận thức hiện thực, sự tìm tòi về mặt tƣ tƣởng; sự sáng tạo về
nghệ thuật và những đóng góp riêng về ngôn ngữ, để từ đó có thể rút ra đƣợc những đặc điểm
nổi bật của thành tựu phóng sự Vũ Trọng Phụng.
3. Lịch sử vấn đề
Trong thế hệ những cây bút "tiền chiến", chƣa một văn tài nào lại có một số phận vinh
quang và cay đắng nhƣ "ông vua phóng sự" Vũ Trọng Phụng. Không đƣợc sống đến tuổi
"tam thập", thời gian cầm bút chƣa đƣợc quá mƣời năm, để lại một di sản văn chƣơng đồ sộ
vói những kiệt tác bất hủ... Vậy mà, ngay từ lúc sinh thời và suốt gần nửa thế kỉ, sau khi phải
vĩnh biệt cuộc đời, họ Vũ và văn nghiệp của ông đã phải trải qua nhiều con vật vã, nổi chìm
trên dòng sông dƣ luận; có giai đoạn còn bị loại bỏ ra khỏi văn mạch của dân tộc. Nhƣng
những năm gần đây, dƣới ánh sáng của thời kì đổi mới, sự nghiệp văn chƣơng của họ Vũ đã
dần từng bƣớc đƣợc đánh giá lại một cách khách quan hơn.
Phóng sự là một thành tựu, là một bộ phận hợp thành quan trọng
6
trong trƣớc tác của ông, nên lịch sử vấn đề phóng sự không tách rồi vấn đề Vũ Trọng Phụng
trong tiến trình nghiên cứu, phê bình văn học. Nhƣng mảng sáng tác này lại có một "sinh
mệnh" riêng, sự kiện riêng, nên lịch sử vấn đề cũng có những đặc điểm riêng biệt. Suốt thời
gian qua, bầu không khí chính trị, xã hội luôn đóng vai trò quan trọng chi phối việc khảo cứu
văn chƣơng của họ Vũ, sự chi phối này càng mạnh mẽ hơn đối với sự xem xét, đánh giá
phóng sự Vũ Trọng Phụng, vì hơn bất cứ thể loại nào, phóng sự của ông luôn nhạy cảm,
"đụng chạm" trực tiếp đến những vấn đề chính trị, xã hội; đến chuyện "ngƣời thật, việc thật"
của đời sống.
Căn cứ vào những mốc lịch sử lớn, có ý nghĩa đối với xã hội và đời sống văn học,
chúng tôi chia lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng thanh ba giai đoạn nhƣ sau:
- Giai đoạn từ 1933 đến 1944,
- Giai đoạn từ 1945 đến 1985,
- Giai đoạn từ 1986 đến nay.
Để thấy rõ hiện trạng của việc nghiên cứu, phê bình phóng sự Vũ Trọng Phụng, chúng
tôi xin điểm lại những sự kiện chính theo dồng thời gian, đồng thời cũng tìm hiểu những lối
tiếp cận, phê bình khác nhau đối với mảng sáng tác này.
3.1 Giai đoạn từ 1933 - 1944
Từ năm 1933 đến năm 1944 đã có nhiều ý kiến sôi nổi luận bàn về phóng sự của Vũ
Trọng Phụng. Đây là câu chuyện giữa những ngƣời đƣơng thời: có luồng ý kiến tôn vinh,
ngợi ca; có luồng ý kiến phê phán, trong đó, gay gắt nhất là những ý kiến lên án, phủ định
nhằm "hạ bệ"; ý kiến tự bảo vệ của đƣơng sự và những ý kiến khảo cứu cẩn trọng, khách
quan...
Nhƣ nhiều nhà văn cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã mở đầu sự nghiệp
7
bằng đôi ba truyện ngắn. Tuy có gây đƣợc sự chú ý ít nhiều của bạn đọc, nhƣng họ Vũ chỉ
thực sự "dậy" tiếng khi ông "trình làng" thiên phóng sự đầu tay đăng trên tờ Nhật Tân, tháng
8 năm 1933. Cạm bẫy người nhƣ là một sự bột phát, báo hiệu sự xuất hiện của một tài năng
lớn về phóng sự. Lê Tràng Kiều, trên tờ Văn học tạp chí đã cho biết: "Cạm bẫy người vừa ra
đời đã đƣợc ngay báo chí và các nhà phê bình cực lực hoan nghênh. Nó đã làm cho tài Vũ
Trọng Phụng không còn ai ngờ đƣợc nữa" [183, 54 - 55]. Và đúng là chỉ mấy năm sau đó, họ
Vũ đã liên tiếp cho in cả một xêri phóng sự dài "Những cuốn... Kĩ nghệ lấy Tây... Lục xì...
Cơm thầy cơm cô... đƣợc khắp ba kì hoan nghênh nhiệt liệt" (Nguyễn Triệu Luật) [183, 23].
Lan Khai trong Vũ Trọng Phụng (Mớ tài liệu cho văn - sử Việt Nam) kể rằng: "... trên các tờ
Ngọ Báo, Nhật Tân và nhiều báo khác, ngƣời ta bắt đầu đọc các bài truyện ngắn, phóng sự,
truyện dài do anh viết, cái tên Vũ Trọng Phụng ra đời lừng lẫy trong chớp mắt". [208, 38].
Dƣ luận đƣơng thời tiếp tục xôn xao trƣớc sự bừng sáng của cây bút phóng sự tài hoa.
Báo Tràng An tôn vinh Vũ Trọng Phụng lên hàng "ông vua phóng sự đất Bắc". Phùng Tất
Đắc viết lời Tựa cuốn Kĩ nghệ lấy Tây với lời ngợi ca nồng nhiệt: "ngòi bút phóng sự của ông
Vũ Trọng Phụng đã nói tới một độ rất cao trong nghệ thuật (...). Cuốn sách này (...) vào hàng
những công trình ảnh hƣởng xa rộng hơn, những công trình có thể vạch phƣơng hƣớng cho
văn nghệ, những công trình giúp đƣợc tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi này" [157, 9].
Trên tơ Tin Văn, Nguyễn Thanh hƣởng ứng, tán thành vói Phùng Tất Đắc và đƣa thêm những
nhận xét mới mẻ: "Ông Vũ Trọng Phụng tác giả Kĩ nghệ lấy Tây, một thiên phóng sự mà chỉ
riêng cái đầu đề, cũng đủ làm cho ta phải ngạc nhiên (...). Bằng một thể văn tả thực, mới mẻ,
chua chát (...) đã lột hẳn tinh thần của đối tƣợng" [104, 265 - 270]. Năm 1938, trên tuần báo
Phóng sự, chuyên về phóng sự xuất bản tại Sài Gòn, Lãng Tử, một đồng nghiệp ở Nam Kỳ,
đã nhiệt thành
8
ngợi ca thiên phóng sự Kĩ nghệ lấy Tây và cảm phục tài năng của "ông vua phóng sự đất
Bắc": "ông đã vƣợt khỏi cái tầm thƣờng của số đông và tự tạo riêng cho mình một mảnh đất
bất khả xâm phạm. Rồi ông đứng trên ấy, trên cái mảnh đất mênh mông ấy để ghi chép từng
hồi, từng cảnh của một tấn bi kịch vĩ đại (...). Ở xứ ta, nền văn học đƣơng thơi còn nghèo
nàn, lối văn phóng sự chƣa đƣợc hoàn toàn phát triển. Tuy nhiên, với Kĩ nghệ lấy Tây của
ông Vũ Trọng Phụng, chúng ta có quyền hi vọng ở một tƣởng lai lạc quan" (Nhơn đọc "Kĩ
nghệ lấy Tây" của Vũ Trọng Phụng nói đến giá trị của phóng sự trong lúc Đông - Tây mói
gặp nhau - báo Phóng sự số 7, SG, 1938).
Nguyễn Triệu Luật cho rằng họ Vũ đã làm đƣợc điều kì diệu "một bƣớc, bƣớc lên bực
văn hào lỗi lạc". Đặc biệt, sau cái chết thƣờng tâm của Vũ Trọng Phụng, Tao Đàn, số đặc
biệt, tháng 12 năm 1939, với sự góp mặt của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Lƣu Trọng Lƣ, Lê
Tràng Kiều... là một bản hòa tấu nỗi bi ai, ngợi ca văn tài, đức sáng của "ông vua phóng sự".
Tam Lang, nhà phóng sự tiên phong, đã chân thanh cảm phục Vũ Trọng Phụng về tài năng
phóng sự: "Đọc những thiên phóng sự ấy, tôi nhận thấy về mặt phóng sự - một lối văn do tôi
khỏi xƣớng - đã bỏ xa tôi lắm"! [178, 42]. Trƣờng Tửu ngợi ca bốn quyển Cạm bẫy người;
Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Kĩ nghệ lấy Tây "là những kiệt tác... nền móng đầu tiên của nghệ
thuật phóng sự trong văn giới Việt Nam hiện đại" [178, 138]...
Luồng ý kiến ngợi ca, khẳng định, tôn vinh Vũ Trọng Phụng lức này nổi lên nhƣ một
"gam" chủ đạo. Tuy phong phú về ý tƣởng, nhƣng tất cả đều xuất phát từ cái nhìn thân ái đối
vói họ Vũ và phần nhiều có chung một lối phê bình dựa trên những ấn tượng chủ quan. Bằng
trực cảm và cái nhìn sắc sảo, những nhà văn chuyên sáng tác nói trên, đã đƣa ra những nhận
xét tinh tế và có khi đã đột nhập đƣợc vào cái "thần" của tác phẩm. Nhƣng do chủ yếu dựa
vào sự trải nghiệm, chƣa thật sự đƣợc dẫn dắt bởi
9
một tƣ duy lí luận, nên không ít những ý kiến chỉ mới dùng ở những phán đoán nghệ thuật,
tuy rất đúng nhƣng chƣa thật trúng những giá trị nhiều mặt của phóng sự Vũ Trọng Phụng.
Ngay cả với những cây bút làm phê bình nhƣ Phùng Tất Đắc, Nguyễn Thanh..., mặc dù đã
"đột phá" vào tác phẩm cụ thể (nhƣ Kĩ nghệ lấy Tây); nhƣng do chƣa có một "công cụ" phê
bình mới, nên cũng chỉ rút ra đƣợc những nhận định khái quát mang tính trực cảm, chủ quan
chứ chƣa có sự phân tích, lí giải sâu sắc, vì thế, chƣa tạo đƣợc sức thuyết phục cao.
Bên cạnh sự liên tài ngợi ca, tôn vinh Vũ Trọng Phụng thì một số nhà văn lại chê
trách, đả kích, lên án, phủ nhận, nhằm "lật đổ ngai vàng" của "ông vua phóng sự". Tiêu biểu
hơn cả là ý kiến gay gắt, thù địch của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai (tức Nhất Linh). Trên tờ Tin
văn (tháng 5.1936), Thái Phỉ lên án loại văn sĩ "Viện cái chủ nghĩa tả chân" để tả "cảnh dâm
uế một cách táo bạo". Ông khuyên "các nhà kĩ nghệ viết văn dâm uế" nên "hãm bớt cái đà"
không thì "công chứng lại nổi lòng công phẫn". Rõ ràng sự nhại lại từ "kĩ nghệ" ở đây là ám
chỉ phóng sự Vũ Trọng Phụng. Ngay 21 tháng 3 năm 1937, dƣới bút danh Nhất Chi Mai,
Nhất Linh viết bài Ý kiến một người đọc "dâm hay không dâm", đả kích đích danh "Nhà văn
Vũ Trọng Phụng tác giả thiên phóng sự Lục xì ở báo Tương Lai". [105, 494]. Nhất Linh nhắc
đến cảnh "con sen vạch quần để hở đùi non", "những chuyện hiếp dâm, làm đĩ, ăn cắp, bạc
bịp"... mà họ Vũ mô tả trong phóng sự. Và vị "chủ tƣớng" của Tự lực văn đoàn đã tỏ thái độ
"phẫn uất, khó chịu, tức tối" trƣớc nhà văn "có bộ óc đen và một nguồn văn càng đen" đã "bôi
đen" cuộc đời!
Họ Vũ đã tiến hành một cuộc "phản pháo" mạnh mẽ bằng hai bài bút chiến: Thư ngỏ
cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tin Văn về bài "Văn chương
10
dâm uế" (trên Hà Nội Báo, 29 tháng 3, 1936) và bài Để đáp báo Ngày Nay: dâm hay không
dâm (đăng trên tờ Tương Lai; ngày 25 tháng 3 năm 1937). Vũ Trọng Phụng coi đây là dịp để
"bày tỏ cái chủ trƣơng" văn học lâu nay của mình: "Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích
cái xa hoa, dâm đãng của bọn ngƣời có của nhiều tiền..." [4, 130]. Thái độ công khai, không
thèm che đậy và lập trƣờng hiện thực triệt để, vị nhân sinh đã tạo cho họ Vũ cái thế "thƣợng
phong" trong cuộc tranh luận này.
Cũng đứng trên quan điểm đó, năm 1937, Vũ Trọng Phụng viết thƣ ngỏ cho độc giả
về thiên phóng sự Lục xì, giải thích vì sao mình đƣa nguyên văn bài Phong tình ca khúc vào
tác phẩm này. Họ Vũ cho rằng, ngoài tƣ cách một nhà văn, ông còn là một nhà báo nên "Phải
nói rõ sự thật cho mọi ngƣời biết" [4, 133] để ngƣời đọc phải ghê tởm cái nhà Lục xì, để các
cô gái tự răn mình, chứ không hề có dụng ý khiêu dâm...
Cuộc bút chiến giữa Nhất Linh, Thái Phỉ với Vũ Trọng Phụng đã phản ánh "đặc tính
của văn học thế hệ 1933 - 1945 là sự động đạt bằng những cuộc tranh luận sôi nổi giữa các
phe nhóm" [103, 643]. Giữa lúc phong hóa đang suy đồi vì phong trào Âu hóa, việc đƣa vấn
đề chống "văn chƣơng dâm uế" quả là một vũ khí lợi hại của Nhất Linh và Thái Phỉ. Cái sai
của Thái Phỉ, Nhất Linh ở đây là họ chỉ đi tìm những dấu hiệu mà họ cho là "dâm uế", "bẩn
thỉu, nhơ nhớp, dơ dáy" trích dẫn theo kiểu "vạch lá tìm sâu", để quy kết đạo đức, tƣ tƣởng,
suy ra "hành tung" của tác giả và phủ nhận toàn bộ giá trị của tác phẩm. Tuy nhiên, cũng phải
thấy lời viết táo bạo, "bạo đến sỗ sàng" của cây bút phóng sự Vũ Trọng Phụng cũng đã gây ra
ấn tƣợng về "cái dâm" không phải ở ít ngƣời. Sang đến năm 1944, Lê Thanh, tác giả Cuốn sổ
văn học vẫn còn nhắc lại "khoảng năm 1936 mấy tờ báo ở Hà Nội, đua nhau trình bày những
thể văn khêu tình, gợi
11
dục (...) những lời tự tình của bọn com thầy cơm cô, những cử chỉ trơ trẽn của gái giang hồ..."
[169, 162].
Ngay chính Vũ Trọng Phụng cũng chƣa thật thấu tình, đạt lí khi triết lí về cái dâm. Đã
có một số nhà văn đƣơng thời, nhƣ Thế Lữ, Khái Hƣng, Lan Khai, Trƣơng Chính, Tam
Lang... chê trách sự lộ liễu của họ Vũ khi viết về cái dâm; nhƣng họ đã không vì thế mà phủ
nhận các tác phẩm của "ông vua phóng sự".
Biên độ khảo cứu phóng sự Vũ Trọng Phụng đã đƣợc mở rộng thêm với lời phê bình
của Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại (1942). Vƣơn lên trên lời phê bình cổ điển, ngoài
việc dùng trực cảm, Vũ Ngọc Phan đã đặt phóng sự Vũ Trọng Phụng nhƣ một đối tƣợng
khách quan để khảo cứu và đã rút ra đƣợc những kết luận khoa học về cả phƣơng diện nội
dung và nghệ thuật. Vũ Ngọc Phan rất tinh tế khi cho rằng ngòi bút "tả chân triệt để" của họ
Vũ, thƣờng đạt độ "tuyệt xảo" khi tả "những cảnh nghèo khổ" nhƣ ở chƣơng VII (Bi hài kịch)
trong Cơm thầy cơm cô. Đặc biệt, Vũ Ngọc Phan còn nhận ra vai trò của "tố chất", cái
"giọng" phóng sự đối với phong cách, con đƣờng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Vũ Ngọc
Phan còn phát hiện ra vai trò của nhân vật tôi (cái tôi kể chuyện) đối với nghệ thuật kể
chuyện trong phóng sự của họ Vũ và cho rằng Lục xì "là một thiên nghị luận về nghề mại
dâm (...) hơn là một thiên phóng sự" [141, 522] ...
Trong giai đoạn 1933 - 1944, còn có những ý kiến khác, thể hiện cách nhìn, cách tiếp
cận đối với văn nghiệp Vũ Trọng Phụng, trong đó bao hàm cả phóng sự của ông, nhƣ kiểu
tiếp cận phân tâm học, phong cách học... Nhƣng do những ý kiến này không trực tiếp đề cập
đến phóng sự, nên chúng ta xin dành làm cứ liệu trong phần khảo cứu nội dung và nghệ thuật
của phóng sự Vũ Trọng Phụng ở những chƣơng sau.
3.2. Giai đoạn 1945 – 1985b
12
Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc năm 1949, nhà thơ Tố Hữu đã trân
trọng khi nói về công lao của họ Vũ: "... cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái
thực xấu xa thối nát của xã hội" [89, 157]. Năm 1950, trong bài giảng về thể phóng sự cho
các khóa đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến, nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã đề cao sự đóng
góp của "ba chàng họ Vũ" đối với thể phóng sự, trong đó "Vũ Trọng Phụng là nhà phóng sự
phong phú nhất, sâu sắc nhất. Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã
làm cho độc giả say mê" [108, 302]. Năm 1953, nhà văn Ngọc Giao viết bài chiêu niệm Vũ
Trọng Phụng. Ông cho biết, khi làm phóng sự, họ Vũ thƣơng khai thác những tài liệu gián
tiếp: "Viết Kĩ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng chỉ nghe một lão hảo hán ngõ Sầm Công vui kể
cạnh khay đèn" [54, 12]; khi viết Cơm thầy cơm cô, họ Vũ cũng "chỉ lƣợm lặt đƣợc chút tài
liệu qua câu chuyện cợt đùa của mấy dân nghiện hút" [54, 12]. Nhƣng sau này, trong bài "Đôi
điều tôi biết về Vũ Trọng Phụng" (Tạp chí văn học, số 5, năm 1989), Ngọc Giao lại kể rằng,
để viết đƣợc một thiên phóng sự, Vũ Trọng Phụng đã phải đi thực tế vất vả, không quản cả
nguy hiểm tính mạng... Sự "tiền hậu bất nhất" này của một nhà văn đƣơng thời, lại là ngƣời
tự nhận có quan hệ gần gũi, thân thiết với họ Vũ, đã "gây nhiễu" cho việc tìm hiểu cách làm
phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Sau ngay hòa bình đƣợc lập lại (1954), ở miền Bắc, vào năm 1956 -1957 vấn đề Vũ
Trọng Phụng bỗng lại trở nên sôi nổi trên văn đàn. Nhƣ cùng một lúc, nhiều nhà văn, nhà
nghiên cứu, phê bình đã viết những bài tƣởng nhớ, bàn về con ngƣời, sự nghiệp văn chƣơng,
trong đó có đề cập đến thành tựu phóng sự của ông.
Với niềm "sung sƣớng và vinh dự" có đƣợc cái tên nhƣ Vũ Trọng Phụng, Nguyên
Hồng đã coi phóng sự Cạm bẫy người, là tác phẩm đánh
13
dấu sự mở đầu của khuynh, hƣớng văn học hiện thực, cho "thể văn chiến đấu linh hoạt". Theo
ông "Với hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số đỏ và
Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả dƣ luận văn học bấy giơ, giơ cao thêm
ngọn cơ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho một nền văn học tiến bộ" [89,
175 - 176].
Những bài viết trong tập san Vũ Trọng Phụng với chúng ta (do Minh Đức xuất bản)
cũng theo chiều hƣớng khẳng định, đánh giá cao tiểu thuyết, phóng sự... của họ Vũ. Phan
Khôi cho rằng họ Vũ là nhà văn "thông cảm với và tố khổ cho hạng ngƣời Việt Nam bị coi là
cặn bã" nên "những phóng sự Cơm thầy cơm cô, Kĩ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người (...) từ
trƣớc đến sau, đều hƣớng chiều về một đƣờng lối ấy cả" [88, 11].
Trong Lược thảo lịch sử văn học Viêt Nam, tập III, Vũ Trọng Phụng đƣợc dành mục
riêng nhƣ nhiều nhà văn đƣơng thời. Các tác giả Lược thảo... đã cho rằng họ Vũ có sở trƣờng
về phóng sự và tiểu thuyết. Các nhân vật trong Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy
cơm cô, Lục xì là hạng ngƣời "vì đồng tiền mà trở thành lƣu manh" [112 , 342]. Đồng thời
cũng phê phán việc họ Vũ "chú trọng tả cảnh dâm đãng của con ngƣời" trong một số phóng
sự và không tán thành với sự "biện bác" của họ Vũ về việc tả cái dâm...
Cũng thời gian này, Văn Tâm, một sinh viên trẻ, đã cho ra đời chuyên luận Vũ Trọng
Phụng - nhà văn hiện thực. Tác giả cho rằng, với "tình cảm nhân đạo sâu xa" trong phóng sự,
Vũ Trọng Phụng đã "làm cho độc giả xót thƣơng những hạng ngƣời bị xã hội coi là rác rƣởi,
cặn bã" [186, 159]. Văn Tâm đánh giá cao cách thức khai thác tài liệu để viết Lục xì của họ
Vũ. Theo Văn Tâm, do "trình độ nhận thức chính trị còn non yếu, Vũ Trọng Phụng đã không
phân biệt nổi ranh giới giữa hai khối tiến bộ và phản
14
động" [186, 172], nên đã có những so sánh không đứng giữa Trùm Ấm B với Stalin, phố
Hàng Cá với Moscou...
Cũng trong không khí ấy, Thiều Quang cho ra đời tập san phê bình Vũ Trọng Phụng -
Đời sống và con người. Thiều Quang đánh giá: "Viết Cạm bẫy người (...) Vũ Trọng Phụng đã
làm một cuộc cách mạng về nghề văn", đánh dấu "một bƣớc ngoặt tiến vào chủ nghĩa tả thực
xã hội" [165, 10].
Nhìn lại, sự khảo cứu phóng sự Vũ Trọng Phụng trong năm 1956 -1957 đã có một
bƣớc tiến hơn giai đoạn trƣớc: tiếp thu có phê phán, dựa trên quan điểm mĩ học duy vật.
Nhƣng do còn ảnh hƣởng của lời phê bình ấn tƣợng, trực cảm cùng vời cảm hứng ngợi ca và
lòng ngƣỡng mộ họ Vũ, nên không ít ý kiến đã rơi vào tình trạng thiên lệch, một chiều và có
khi cũng còn khá cực đoan.
Khi cuộc đấu tranh chống Nhân văn - Giai phẩm bƣớc vào hồi quyết liệt thì vấn đề
Vũ Trọng Phụng bị đẩy vào giữa con lốc xoáy. Đúng là những ngƣời cầm đầu nhóm Nhân
văn - Giai phẩm đã đề cao Vũ Trọng Phụng nhằm thực hiện mƣu đồ chính trị, nhƣng thay vì
phải đấu tranh, vạch trần việc lợi dụng tên tuổi họ Vũ, thì một số cây bút phê bình lại hƣớng
mũi nhọn vào ông và câu chuyện văn chƣơng đã bị đẩy sang lĩnh vực tƣ tƣởng, chính trị.
Trong thời gian này đã xuất hiện một bài viết của Hoàng Văn Hoan (dƣới hình thức
"Thƣ luân lƣu") nhan đề Một vài ý kiến về vấn đề tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học
Việt Nam. Ông Hoàng đã cho rằng Vũ Trọng Phụng nhƣ "là một con trâu chọi hăng máu, bất
trừ ai, húc vào tất cả các hạng ngƣời, từ con đĩ, thằng lƣu manh cho đến ngƣời nhân dân thật
thà hiền lành, cho đến ngƣời cách mạng" [89, 241]. Theo ông thì: "Đối với
15
Đảng cộng sản, Vũ Trọng Phụng viết: "Có thể nói rằng những cuộc rối loạn xảy ra trên khắp
mặt địa cầu phần nhiều do các bàn tay bí mật của Mạc Tƣ Khoa gây nên, thì những cuộc
xiểng liểng của bọn thơ "Chủ nghĩa đổ bác", ở khắp Bắc Kỳ cũng đều do cái bàn tay bí mật
của ông Ấm B (ý muốn nói Bolchévich) dính vào vậy" [89, 231]. Và việc họ Vũ so sánh
Trùm Ấm B với Stalin, "kinh đô bạc bịp" với Moscou trong Cạm bẫy người là "chửi cộng sản
ra mặt" [89, 242]. ông còn cho rằng những triết lí về cái dâm của họ Vũ trong Lục xì và một
vài tác phẩm khác là "cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục" [89, 236].
Những năm sáu mƣơi, vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng không phải đƣợc "tạm gác
lại", nhƣ Việt Trung nhận xét (Nghiên cứu văn học, số 5.1960), mà đã đƣợc xem xét ở một
bình diện mới: chủ nghĩa tự nhiên. Vì cho rằng họ Vũ có "duyên nợ nặng nề" với chủ nghĩa
tự nhiên nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh kết luận "Lục xì căn bản là một tác phẩm tự
nhiên chủ nghĩa" [125, 117]. Cũng chung cái nhìn kiểu nhƣ vậy, nhà nghiên cứu Vũ Đức
Phúc đã đƣa ra một nhận định tổng quát: "Phần lớn phóng sự của Vũ Trọng Phụng xƣa kia
chỉ là những tiểu thuyết tự nhiên chủ nghĩa không thành tiểu thuyết, đƣợc "hƣ cấu" bằng cách
lƣợm lặt những mẩu chuyện bên cạnh bàn đèn thuốc phiện, nhƣng lại trá hình là phóng sự"
[150, 40].
Nhƣng kể từ thập niên bảy mƣơi đã có dấu hiệu đổi khác trong cách nhìn nhận vấn đề
Vũ Trọng Phụng, trong đó có phóng sự của ông. Mở đầu là ý kiến của nhà văn lão thành
Nguyễn Công Hoan ngƣời cùng thời với họ Vũ. Ông cho biết, vì những năm ba mƣơi, vì Hà
Nội báo chiều "thị hiếu độc giả" để cạnh tranh, và là ngƣời "ở báo ấy" nên họ Vũ đã viết
"mấy thiên phóng sự khá khêu gợi". Rồi "đến cái phóng sự phải nghiên cứu tài liệu
16
(...) cũng đặt cho cái tên là Lục xì" [178, 110]. Năm 1973, tác giả giáo trình Lịch sử văn học
Việt Nam 1930 - 1945 tập V (phần I), tuy không dành cho Vũ Trọng Phụng một chƣơng
riêng, nhƣng đã giới thiệu tóm tắt 4 thiên phóng sự (Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Lục xì,
Cơm thầy cơm cô) và kết luận "những tác phẩm trên đã đƣa Vũ Trọng Phụng lên hàng "ông
vua phóng sự đất Bắc" [120, 53]. Năm 1984, Vũ Trọng Phụng xuất hiện trên Từ điển văn học.
Phó giáo sƣ Nguyễn Hoành Khung đã giới thiệu khá kĩ về cuộc đời, văn nghiệp, khẳng định ý
nghĩa của hai phóng sự Cạm bẫy người và Kĩ nghệ lấy Tây đối với con đƣờng sáng tác của họ
Vũ. Những sự kiện nói trên đã có một ý nghĩa nhƣ là một sự khởi đầu cho việc phục hồi Vũ
Trọng Phụng diễn ra ở mấy năm về sau.
Cũng trong giai đoạn này, phóng sự Vũ Trọng Phụng cũng đã đƣợc bàn luận, ca ngợi
ở vùng tạm chiếm miền Nam, trong một số công trình văn học sử, lí luận văn chƣơng và
chuyên san kỉ niệm ông. Nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ đã giới thiệu tóm tắt các phóng sự
Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, và rút ra kết luận: "Đọc những
thiên phóng sự trên (...) ta thấy tất cả những gì gọi là hài hƣớc, bi đát, rùng rợn trong những
vết thƣơng xã hội lúc bấy giờ. Ta cũng thấy công phu điều tra, khiếu quan sát lịch duyệt của
tác giả (...) cây bút tả chân già dặn linh hoạt nhƣ chụp đƣợc sự thật (...). Ông moi móc những
vết thƣơng xã hội ấy nhƣ một ngƣời từng biết rõ, từng nằm trong đó, ghê tởm về những cái
đó và nói ra với một giọng mỉa mai chua chát, đôi khi đƣợm vẻ căm hờn" [133, 513 - 514].
Trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhận xét: "Vũ Trọng Phụng, trong Cạm
bẫy người (1933) cho chúng ta thấy cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã từng ca ngợi chỉ là một xã
hội giả dối, tội lỗi, xấu xa" [103, 722]. Ngoài việc ca ngợi sức mạnh tố cáo, lột mặt trái
17
xã hội của cây bút phóng sự họ Vũ, tác giả Bảng lược đồ... còn cho rằng, vì họ Vũ, cũng nhƣ
các nhà văn tả chân đƣơng thời, chủ trƣơng "vẽ những cảnh quen thuộc hàng ngày diễu hanh
dƣới con mắt mọi ngƣời", "hay dùng hình thức phóng sự, điều tra để viết truyện", nên mới
thấy "còn gì sống động và cũng sƣợng sùng cho bằng những thiên điều tra của Vũ Trọng
Phụng trong Cơm thầy cơm cô hay Lục xì! Truyện nhƣ trốn tránh kết cấu. Chỉ còn la một sự
diễn hành" [103, 744].
Bên cạnh những phát hiện mới của hai nhà giáo khoa Phạm Thế Ngũ và Thanh Lãng,
còn có một số bạn văn thời "tiền chiến" và một số văn nghệ sĩ đã đề cập đến phóng sự của họ
Vũ. Chẳng hạn, năm 1971, nhân trả lời phỏng vấn, Tam Lang vẫn chân thành ngợi ca: "Vũ
Trọng Phụng viết sau tôi mà sắc bén hơn tôi". [142, 22]. Còn Dƣong Nghiễm Mậu thì rất đề
cao tài năng của họ Vũ, khi so sánh phóng sự của ông với các phóng sự của những tác giả
khác: "những phóng sự đó, nhiều khi phảng phất cái không khí phóng sự Vũ Trọng Phụng,
những nhân vật gần nhƣ củng bị "nhái" lại, ở đó có cả cái giọng Vũ Trọng Phụng, nhƣng
không vì thế mà có đƣợc những Vũ Trọng Phụng mới" [208, 65]. Các ý kiến kiểu nhƣ vậy,
chủ yếu dựa trên sự ấn tƣợng, trục cảm và ngợi ca một chiều. Đây nhƣ là sự tiếp nối của
luồng ý kiến thời "tiền chiến" ngợi ca, khẳng định phóng sự Vũ Trọng Phụng.
3.3. Giai đoạn 1986 - 1998
Năm 1986, công cuộc đổi mới đã tạo ra một bƣớc tiên mới đối với việc tiếp nhận di
sản văn học quá khứ. Vấn đề Vũ Trọng Phụng và phóng sự của ông đƣợc nhìn nhận lại trên
quan điểm lịch sử - cụ thể và có tính khoa học, khách quan. Trƣớc hết, phải kể đến sự xuất
hiện trở lại của các tác phẩm phóng sự của họ Vũ, sau một thời gian dài vắng bóng. Năm
1987,
18
Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô... đƣợc trích đăng lại trong tập II của
Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Nhà xuất bản văn học). Sang năm 1989, Nhà xuất bản Hà Nội tái
bản toàn văn Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô. Năm 1993, Cạm bẫy người đƣợc Nhà xuất
bản văn học in lại trọn vẹn. Đặc biệt, vừa qua, thiên phóng sự đƣợc xem thuộc loại "cấm kị"
nhất là Lục xì, cũng đƣợc Nhà xuất bản văn học cho tái ra mắt ngƣời đọc (1998). Không
những thế, hai phóng sự Kĩ nghệ lấy Tây va Cơm thầy cơm cô còn đƣợc chuyển thể, đƣa lên
màn ảnh với cuốn phim mang tựa đề Ánh sáng kinh thành...
Cùng với sự hiện diện này, phóng sự của họ Vũ cũng đã thu hút đƣợc sự chú ý của
một số nhà nghiên cứu, phê bình và đã trở thanh đề tài của một số luận án cao học và nghiên
cứu sinh. Trƣớc hết, phải kể đến sự đặt lại vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng của Giáo sƣ
Nguyễn Đăng Mạnh. Theo ông: "Vũ Trọng Phụng thành công hơn cả ở thể tài phóng sự với
Cạm bẫy người (1933) và Kỹ nghệ lấy Tây (1934). Hai tác phẩm này đã phát huy ở ông một
sở trƣờng quan sát sắc sảo, khả năng kí họa mau lẹ, linh hoạt và lối hành văn biến hóa hấp
dẫn..." [128, 25]. Về đặc điểm phóng sự của họ Vũ, Giáo sƣ cho rằng do "luôn luôn có nhu
cầu bộc lộ trực tiếp chủ quan của mình, vì thế cứ phải xem vào những sự kiện có thực nhiều
hình ảnh, tình tiết tƣởng tƣợng..., khiến phóng sự của ông bao giơ cũng gần với bút pháp tiểu
thuyết" [128, 25]. Giáo sƣ coi Lục xì là tác phẩm tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu cho sáng tác
của họ Vũ, còn ở các tác phẩm khác, nếu có chủ nghĩa tự nhiên thì chỉ là "yếu tố xen kẽ".
Một năm sau, Giáo sƣ đã dựng chân dung Vũ Trọng Phụng "ông vua phóng sự" (Bài giới
thiệu cuốn Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô do Nhà xuất bản Hà Nội tái bản, 1989). Ông
đánh giá "trong đời sống văn học hợp pháp thời kì 1930 - 1945, có lẽ không có tập phóng sự
nào có đƣợc giá trị hiện thực sâu sắc" nhƣ thiên
19
phóng sự Cơm thầy cơm cô và với tác phẩm này, họ Vũ "đã tỏ ra là một ngòi bút có khả năng
phân tích và lí giải nhiều hiện tƣợng xã hội một cách sắc sảo" [129, 6 - 7]. Là ngƣời trực tiếp
tuyển chọn và giới thiệu phần phóng sự trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Phó giáo sƣ Trần
Hữu Tá đã nhấn mạnh những nội dung và giá trị đặc sắc của hai thiên phóng sự Cạm bẫy
người và Cơm thầy cơm cô. Theo ông:"Đằng sau những nhân vật Cạm bẫy người (...) ngƣời
đọc phần nào thấy đƣợc hình ảnh của xã hội thành thị trụy lạc hóa hồi những năm 30 và tình
trạng bần cùng, bế tắc, lƣu manh hóa của loại tiểu tƣ sản lớp dƣới và dân nghèo thanh thị lúc
bấy giơ" [207, 8]. Ông còn đề cập đến tiêu đề tiểu thuyết phóng sự của tác phẩm Cạm bẫy
người và cho rằng "khuynh hƣớng tiểu thuyết hóa ở một mức độ vào đấy (...) là một đặc điểm
của ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng" [207, 8].
Năm 1988, Vũ Trọng Phụng đƣợc dành một vị trí xứng đáng trong bộ giáo trình quy
mô bậc Đại học, mở đầu cho việc đƣa văn chƣơng họ Vũ trở lại với chƣơng trình văn học
Việt Nam trong nhà trƣờng. Trong giáo trình này, Phó giáo sƣ Nguyễn Hoành Khung đã đề
cập đến giá trị nội dung của các thiên phóng sự Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây... và đánh
giá Cơm thầy cơm cô là một tác phẩm xuất sắc. Theo ông, trong Kĩ nghệ lấy Tây những yếu
tố tự nhiên chủ nghĩa đã thể hiện ở quan điểm sinh lí và lối viết sống sƣợng; nhƣng điều nổi
lên trong toàn bộ phóng sự của Vũ Trọng Phụng là "lối viết chính luận nghệ thuật đanh sắc
(...) đƣợc phát huy ở thể loại báo chí nghệ thuật này" [93, 212]. Đặc biệt, trong phần Kết luận,
ngƣời viết đã khẳng định vị trí và công lao to lớn của họ Vũ đối với thể phóng sự: "ông là
một trong số những ngƣời mở đầu và là ngƣời có công lớn nhất trong việc đƣa thể loại phóng
sự đến thanh thục" [93, 249 - 250]. Trong lời phát biểu tại cuộc Hội thảo kỉ niệm Vũ Trọng
Phụng,
20
ngày 13 tháng 10 năm 1989 ở Hà Nội, Phó giáo sƣ Nguyễn Hoành Khung còn nhiệt thành
khẳng định: "Chƣa có phóng sự nào kể cả trƣớc và sau cách mạng có thể vƣợt đƣợc Cơm thầy
cơm cô và Kĩ nghệ lấy Tây. Đọc thấy sợ và sƣớng lắm, viết phóng sự nhƣ thế thì thật là tuyệt
vời" (Băng ghi âm).
Năm 1995, trong lời bạt cuốn Phóng sự chọn lọc, nhà nghiên cứu, phê bình văn học
Vƣơng Trí Nhàn cũng đã cho rằng, đứng về mặt thuần túy thể loại thì phóng sự của họ Vũ
"đã là một cái gì rất chín, rất thành thục, không chê vào đâu đƣợc" [101, 450].
Trong khoảng mƣời năm qua, khi văn chƣơng Vũ Trọng Phụng trở lại với nhà trƣờng
thì dƣờng nhƣ có một sự "bùng nổ" những khóa luận, luận văn, luận án lây đề tài về tiểu
thuyết và phóng sự của ông. Nhƣng, nhƣ chúng tôi đã trình bày ở phần mở đầu, đề tài riêng
về phóng sự còn rất ít. Ở bậc sau đại học, có hai công trình tiêu biểu nhƣ sau:
Luận văn Thạc sĩ "Những nét đặc sắc của ngồi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng" của
Nguyễn Huy Quảng, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên, tháng 8 năm 1996.
Luận án Phó tiến sĩ "Đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối với lịch sử văn học Việt Nam
hiện đại trong lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết phóng sự" của Trần Đăng Thao, Đại học sƣ
phạm Ha Nội I, tháng 10/1996.
Ở hai công trình nói trên, các tác giả đã đề cập đến một số vấn đề thuộc cả lĩnh vục:
nội dung và nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Nguyễn Huy Quảng tìm thấy sự đặc
sắc của ngòi bút phóng sự này ở phƣơng diện tiếp cận va thể hiện. Trần Đăng Thao đề cập
đến sự phản ánh, phơi bày cuộc sống đau thƣơng trong xã hội, phƣơng thức tự sự, xu hƣớng
tiểu thuyết hóa, nghệ thuật tiếp cận hiện thực trong các thiên phóng sự của họ Vũ. Đó là
những đóng góp đáng quý.
21
Tuy nhiên, do giới hạn trong khuôn khổ của luận văn cao học và do cùng một lúc phải
thực hiện cả hai nhiệm vụ, tìm ra sự đóng góp của họ Vũ ở cả lĩnh vực phóng sự và tiểu
thuyết phóng sự, nên các tác giả chƣa có dịp bao quát thêm nhiều tƣ liệu, những vấn đề đƣợc
nêu ra ít đƣợc lí giải và biên độ khảo sát chƣa mở rộng để hƣớng sang các phƣơng diện khác
của đối tƣợng nghiên cứu.
Thực ra, những điều "chƣa" này không phải là khiếm khuyết của hai công trình nói
trên; mà đó nhƣ là những mục tiêu nghiên cứu nhằm từng bƣớc chiếm lĩnh toàn diện di sản
phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Đây là công việc đòi hỏi sự "chạy tiếp sức" của những công
trình nghiên cứu mới.
Trên bƣớc đƣờng nghiên cứu những ảnh hƣởng của phân tâm học Freud trong sáng
tác của Vũ Trọng Phụng, tác giả Nguyễn Thành đã đƣa ra một cách nhìn mới để lí giải những
yêu tố tự nhiên chủ nghĩa trong thiên phóng sự Lục xì. Theo ông: "Trong phóng sự này không
có một chỗ nào có tính chất khiêu dâm, cũng không có vân đề tự nhiên chủ nghĩa" [191, 58].
Nhận định này có một sự khác biệt đối với nhiều nhà phê bình, nghiên cứu.
Trên đây là những nét cơ bản về lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng. Nhƣ một
vấn đề thời sự kéo dài, suốt hơn nửa thế kỉ vừa qua, lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng
đã diễn ra khá sôi động và có những lúc căng thẳng, phức tạp. Bản thân phóng sự của ông có
những chỗ phức tạp. Từ năm 1933 đến 1985, tuy vẫn đƣợc một số nhà nghiên cứu, nhƣ Vũ
Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Đăng Mạnh... nghiên cứu dƣới góc độ học thuật; nhƣng
có một số ngƣời đã chỉ xem xét phóng sự của họ Vũ ở bình diện đạo đức, chính trị và coi đó
là thứ "văn chƣơng dâm uế", đồi trụy, phản động. Một thời gian khá dài, phóng sự của Vũ
Trọng Phụng đã
22
không đƣợc khảo cứu một cách toàn diện.
Từ năm 1987, cùng với sự xuất hiện trở lại những phóng sự của Vũ Trọng Phụng,
những hƣớng tiếp cận mới trong nghiên cứu đã đƣợc mở ra. Những kết quả đạt đƣợc trong
thập niên vừa qua đã đánh dấu bƣớc khởi đầu đối với việc "phát hiện lại" ông vua phóng sự.
Lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng đã mở sang một trang mới... Với công sức của
nhiều ngƣời, chắc rằng bức chân dung "ông vua phóng sự" sẽ đƣợc dựng lên một cách đầy
đặn, trung thực hơn.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận án này lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm nền
tảng lí luận. Căn cứ vào đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, Luận án xác định cơ sở
lí luận và các phƣơng pháp nghiên cứu chính nhƣ sau:
- Từ cơ sở lí luận văn học và báo chí về thể kí, xác định một số đặc điểm của thể
Phóng sự báo chí và Phóng sự văn học.
- Vận dụng phƣơng pháp lịch sử để khảo sát quá trình phát sinh, phát triển của thể
phóng sự và lịch sử đánh giá, phê bình phóng sự Vũ Trọng Phụng, tìm hiểu giá trị hiện thực
và tƣ tƣởng, những sai lầm, bất cập của ông.
- Vận dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống và phƣơng pháp so sánh để nghiên cứu cấu
trúc nội tại của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Đặt phóng sự trong thanh tựu sáng tác của ông và
trong diện mạo chung của thể phóng sự đƣơng thời, nhằm tìm ra những điều riêng biệt của
"ông vua phóng sự".
- Vận dụng phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học để nghiên cứu, khảo sát đặc điểm về
nghệ thuật và đặc điểm lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng.
23
Đó là những phƣơng pháp chủ yếu và hƣớng vận dụng chính. Còn trong quá trình
khảo sát sẽ vận dụng đan xen, phối hợp các phƣơng pháp. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một
số phƣơng pháp bổ trợ nhƣ phân loại, thống kê... để giải quyết một số vấn đề cụ thể khi khảo
sát.
5. Đóng góp mới của luận án
Do mở rộng biên độ khảo sát theo hƣớng tìm ra những đặc điểm của phóng sự Vũ
Trọng Phụng nên luận án tham vọng đem lại những đóng góp mới nhƣ sau:
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận văn học và lí luận báo chí về thể phóng sự, tiến hành
minh định quan niệm: phóng sự văn học, phóng sự báo chí và phóng sự mang yếu tố tiểu
thuyết.
Tìm hiểu giá trị mới mẻ của bức tranh hiện thực trong phóng sự của họ Vũ, để thấy rõ
năng lực nhận thức, sự tìm tòi về tư tưởng và những sai lầm, bất cập của "ông vua phóng sự".
Trình bày một số đặc điểm chính về phƣơng diện nghệ thuật, để thấy sự "khôn
ngoan", độc đáo trong cách làm phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Khảo sát bình diện ngôn ngữ để tìm đặc điểm nổi bật của lời văn phóng sự Vũ Trọng
Phụng.
6. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án này gồm có 4 chƣơng:
Chương 1: Một số vấn đề về thể phóng sự.
Chương 2: Phóng sự Vũ Trọng Phụng: hiện thực và tƣ tƣởng.
Chương 3: Đặc điểm về phƣơng diện nghệ thuật.
Chương 4: Đặc điểm lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng.
24
CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ PHÓNG SỰ
1.1. Một số quan niệm về thể phóng sự
1.1.1. Một ít tư liệu về thể phóng sự ở nước ngoài
1.1.1.1 Sự ra đời của thể phóng sự
Vào thế kỉ thứ XIX, ở phƣơng Tây, báo chí trở thành một cái "dàn" thông tin đại
chúng và là cơ hội cho những ngƣời cầm bút công bố rộng rãi tác phẩm của mình.
Sự phát triển của báo chí đã tạo ra một đội ngủ nhà báo, nhà văn đông đảo. Nghề làm
báo hỗ trợ cho nhà văn không chỉ bởi nó buộc nhà văn viết ngay lập tức và thiết lập giao tiếp
thƣờng xuyên với từ ngữ sinh động, mà chủ yếu bởi nó buộc nhà văn phải thƣờng xuyên liên
hệ với thực tế. Nhiều nhà văn, nhà báo lớn của phƣơng Tây đã từng rèn cây bút của mình
trong "trƣờng văn, trận bút" sôi động của báo chí. Ở đó, họ rèn luyện sự mẫn cảm, óc tinh
nhạy, năng lực sáng tạo, bồi đắp ý tƣởng chính trị, tƣ tƣởng nhân văn... Đó chính là môi
trƣờng nảy sinh nhiều thể văn - báo, trong đó có thể phóng sự.
Từ điển nghiên cứu văn học của Đức (Chủ biên: GS-TS. Claus Träger, NXB
Bibliographisches Institut, Leipzig, 1986) cho rằng phóng sự là một "Thể loại văn học, phát
triển lên từ loại tƣờng thuật tai nghe mắt thấy của báo chí trong mối quan hệ qua lại của sự
miêu tả khách quan và những phát biểu chủ quan (...). Bắt nguồn từ báo chí và đáp ứng
những đòi hỏi của nó (ngắn gọn, cụ thể, tính chất tƣờng thuật và cung cấp tƣ liệu, thông
25
tin) phóng sự đã phát triển thành thể loại riêng (...). Người Mỹ tên là W.Iruing đã thể hiện
những ấn tƣợng của ông về nƣớc Mỹ và nuớc Anh trong cuốn Sketch Book (1819) của mình,
hay Ch. Dickens miêu tả cuộc sống ở Luân Đôn khi ông tập hợp các Sketches by Boz (1835);
trong văn học Đức, G. Weerth, trên cơ sở những kinh nghiệm của mình, đã viết Ký sự Anh
quốc (1843) và Những ký sự khôi hài về đời sống thương mại Đức (1845), khi ông làm chủ
bút Nhật báo sông Ranh mới. Trong những kí sự này cũng nhƣ trong các phóng sự về nƣớc
Anh của Th. Fontaul (1882) - mà từ đó ra đời các cuốn nhƣ Một mùa hè ở Luân Đôn (1854),
Từ Anh quốc, Những bài nghiên cứu về thư từ về sân khấu nghệ thuật và báo chí Luân Đôn
(1860) và Phía bên kia Tweed (1860) - bằng một phƣơng thức hết sức hấp dẫn đã hòa quyện
đƣợc sự tƣờng thuật với sự nâng cao bằng hƣ cấu các sự kiện. Từ đây trở đi phóng sự chứng
tỏ khả năng của nó đặc biệt ở những nơi mà những sự biến đổi xã hội cần phải đƣợc nhanh
chóng suy xét và thúc đẩy" (trang 434 - 435).
Theo Encyclopédia Universalis (Bách khoa toàn cầu) xuất bản ở Pari năm 1991, thì
thể phóng sự "Ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam Bắc (1861 - 1865) phóng sự đã nhanh
chóng phát triển trong các báo Anglo-Saxonne và trên mục Thời luận" lúc đó [215, 326]. Còn
tác giả bài xã luận Phỏng sự là gì đăng trên trang 2 của báo Phóng sự, số 3, năm 1938 ở Sài
Gòn cũng cho rằng "Lần đầu hết, trên tờ báo New - York Herald xuất bản Ở Nữu Ước vào
năm 1871, người ta thấy một bài của Stanley thuật chuyện mình đi tìm ông Livingstone ở hồ
Tanganuyika. Bài kĩ thuật ấy, Stanley viết bằng một lối văn mới lạ, chưa từng thấy bao giờ và
nó có cái mãnh lực lôi cuốn người xem làm cho thiên hạ phải ngạc nhiên và hoan nghênh
nhiệt liệt. Đó là thể văn phỏng sự do nhà báo Stanley là người đầu tiên đã sáng tạo ra và cái
danh từ "phỏng viên" cũng bắt đầu có từ đó. Trước sự thành công của Stanley, các báo ở
Nữu Ước và trong thế giới mới lục tục bắt chước theo. Và trong lịch sử của văn học thế giới
từ ấy, người ta đã ghi
26
tên nhà phỏng viên Stanley bằng nét chữ vàng. Về phỏng sự, Stanley là thủy tổ".
Cũng theo Bách khoa toàn cầu (Encyclopedia Uniuersalis) nói trên của Pháp, sau khi
thể phóng sự đã có mặt trên báo chí Mỹ, thì: "báo chí Pháp còn lâu vẫn dè dặt, ngập ngừng,
các kí giả, chủ yếu là các nhà biên niên và những nhà bình luận đời sống chính trị quốc gia,
nhận thức không đúng cái sản phẩm mới này". Và bài xã luận Phỏng sự là gì của báo Phóng
sự, số 3, tr.2 năm 1938 ở Sài Gòn cũng cho biết: "Văn phỏng sự nhập cảng vào nƣớc Pháp rất
muộn. Mãi đến cuối thế kỉ 19, mới có ngƣời bắt chƣớc Stanley về thể văn ấy. Rồi đến bây giờ
thì nó đã chiếm một địa vị quan trọng trong văn chƣơng Pháp. Phỏng sự đã thịnh hành cho
đến đỗi phỏng sự tiểu thuyết đã thay thế cho phong tục tiểu thuyết. Nhiều nhà danh sĩ Pháp đã
nhờ lối văn ấy mà khét tiếng nhƣ Albert Londres (đã chết trong vụ đắm tàu Philippar lúc đi
phỏng sự ở Tàu về), Roland Dorgeles, Pierre Mac Orlan, Louis Roubaud, Andrée Viollis... và
gần đây Roger Marlin du Gard". Lúc ấy, theo Léon Daudet: "Cái ghế nhà báo quý giá hơn
ngai vàng".
Sự trùng hợp trong những tài liệu khác nhau nói trên có thể cung cấp cho ta một vài
thông tin về quá trình phát sinh của thể phóng sự.
Giáo trình Tác phẩm kí báo chí, tập Một, (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Nhà xuất bản Giáo dục, H.1995, trang 45) thì cho rằng "Trong lịch sử, ngƣời Anh là ngƣời
đầu tiên sử dụng phóng sự trên báo chí". Tác giả Các thể kí báo chí cũng có ý kiến tƣơng tự
và còn cho biết là: "Sau đó ít lâu, trên các báo chí ở nƣớc Pháp, phóng sự cũng xuất hiện với
tƣ cách là bài viết về quá trình điều tra của phóng viên đối với những con ngƣời, những sự
việc chứa nhiều điều bí ẩn..." [28, 61].
Có thể còn có những nguồn tƣ liệu khác cho thấy rõ hơn sự phát sinh của thể phóng
sự. Đến đầu thế kỉ XX, đặc biệt là kể từ sau chiến tranh thế
27
giới thứ Nhất, thể phóng sự rất thịnh hành và ngày càng phát triển, khẳng định chỗ đứng
vững chắc của mình. Có thể kể hàng loạt những tác giả lớn và những tác phẩm phóng sự danh
tiếng nhƣ John Reed vói Mười ngày rung chuyển thế giới (viết về những ngày sôi động của
cuộc Cách mạng tháng Mƣời vĩ đại - 1917), Hem Barbusse vói Khói lửa, Jack London, Upton
Beall Sinclair vói những tác phẩm Dân dưới vực thẳm, Rừng rậm, Julius Fucik vói Viết dưới
giá treo cổ, Mácxim Gorki với Trên những nẻo đường Liên bang Xô viết, Edgar Snow với
Ngôi sao đỏ ở Trung Quốc, E. Keat với Nước Trung Hoa bí mật, Andrée Viollis với Đông
Dương cấp cứu, Burchett với Ngày thứ 30 Ở Hirôsima, Lục Trụ Quốc với Thượng Cam Lĩnh,
Ngụy Nguy với Ai là người đáng yêu nhất, v.v...
Có thể kể thêm những tên tuổi khác nữa nhƣ Jean Cocteau, André Malraux (Pháp);
ILia Êrenbua, Boris Pôlêvôi, Congstantin Simonov, Vlađimia Linđin (ở Nga); Hạ Diễn, Xu
Chi, Liu Binyam (ở Trung Quốc), Vũ Trọng Phụng (ở Việt Nam), v.v... Đây là những tên tuổi
sẽ gắn mãi với lịch sử phát triển của thể phóng sự.
1.1.1.2 Những quan niệm về thể phóng sự
Trong các ngôn ngữ ở châu Âu, nhƣ tiếng Pháp, tiếng Nga, thuật ngữ phóng sự đều
bắt nguồn từ một từ tiếng Anh là Report. Theo Từ điển từ nguyên (Dictionnaire
Etymologique) của Anbert Dauzat, do Larouss xuất bản năm 1947, ở trang 625 và 725 có hai
từ: re (lặp lại), port (mang vác, mang sự kiện). Vì vậy, có thể xem từ report của tiếng Anh có
nguồn gốc từ hai từ Latinh cổ này ghép lại.
Là một thể loại mới rất đắc dụng nên phóng sự đã "phát tán" và nhanh chóng "bắt rễ"
vào đời sống báo chí, văn học nhiều quốc gia. Từ thực tế sáng tác, ở mỗi nƣớc đã có những
quan niệm khác nhau về thể loại này. Chẳng hạn, ở Pháp, từ điển Le Petit Larouss, năm 1996,
trang 878 giải
28
thích từ Reportage theo 3 nghĩa: "là một bài báo viết theo sự điều tra của phóng sự viên; là
bài điều tra đƣợc công bố trên đài, báo ảnh, truyền hình; là chức năng, nhiệm vụ của một
phóng sự viên thuộc một tờ báo". Từ điển Petit Robert, năm 1973, trang 1525 cho rằng:
"Phóng sự là một bài báo hay một loạt bài báo, trong đó phóng viên phản ánh một cách sinh
động những gì mà anh ta đã nhìn và nghe thấy...". Còn trong Bách khoa toàn cầu thì cho
rằng: "Phóng sự là tƣờng thuật những điều trông thấy (từ động từ tiếng Anh to report va tiếng
Pháp là rapporter). Phóng sự là bài báo đƣợc đặc trƣng bởi sự quan trọng của miêu tả: bầu
không khí bao phủ sự việc, những chi tiết hình tƣợng, những chi tiết về con ngƣời, hay những
chi tiết độc đáo, những mầu sắc... tất cả cho phép ngƣời đọc thấu hiểu biến cố, hoàn cảnh bao
quanh nó, mối quan hệ giữa các nhân vật chủ chốt. Chúng tôi xin nhắc rằng, tất cả mọi thông
tin đều phải xác định, ít nhất, bằng sự trả lơi 5 câu hỏi: ai, cái gì? ở đâu? khi nào? như thế
nào? tại sao? cho phép đồng thời miêu tả và giải thích" (tài liệu đã dẫn).
Cũng ở Pháp, một số nhà văn lại có quan niệm khác về thể phóng sự. Chẳng hạn,
trong bài Tựa cuốn Cherie năm 1884, nhà văn Edmond de Goncourt "cảnh báo" các nhà văn
đƣơng thời: "Chúng tôi nhắc lại, ngày mà ở mỗi ngƣời có học thức không còn nữa sự cố gắng
để viết, và sự cố gắng để viết theo quan điểm của riêng mình, thì ngƣời ta có thể biết chắc
chắn rằng ở Pháp, phóng sự sẽ kế nhiệm văn chương". Nhƣng sang thế kỉ XX, qua thực tiễn
văn học, Andrée Gide dƣờng nhƣ đã "phản bác" lại ý kiến ấy, khi khẳng định: "phóng sự còn
lâu mới loại bỏ đƣợc văn chƣơng, cũng nhƣ nhiếp ảnh còn lâu mới loại bỏ đƣợc giá trị vốn có
của hội họa" (Journal 10 Avil 1943). Còn nhà văn Jean - Paul Sartre thì đƣa ra lời tiên đoán:
"Thực vậy, hình nhƣ đối với chúng ta, phóng sự tham dự vào các thể loại văn chƣơng và nó
có thể trở thành một trong những thể loại quan
29
trọng nhất của loại thể văn chƣơng" (Situations, 1947, trang 30).
Ở Mỹ, tuy đã có những thiên phóng sự hay của Jack London, Upton Sinclair... nhƣng
nhà văn, nhà báo Mark Twain lại quan niệm rằng phóng sự chỉ la sự ghi chép lại một cách
giản đơn, máy móc một hiện tƣợng nào đó. Còn cuốn từ điển Óepxtơ cũng chỉ coi phóng sự
là một sự ghi chép, mô tả, tƣờng thuật lại một hiện tƣợng, chẳng hạn một cuộc họp Quốc
hội...
Ở Liên Xô trƣớc đây, nhiều ý kiến cũng chỉ xem phóng sự là một thể loại (жанр) của
báo chí. Từ điển Bách khoa Xô Viết, năm 1985, trang 1117 cũng định nghĩa: PEПOPTAЖ
(mƣợn tiếng Pháp là reportage, từ này lại mƣợn từ tiếng Anh report) có nghĩa là сообщать,
tức là loan tin, báo tin, đƣợc dùng làm thuật ngữ chỉ thể loại phóng sự báo chí, phát thanh,
truyền hình của ngƣời tham dự vào sự kiện, đó là phóng viên. Trong cuốn Từ điển tiếng Nga
của X.I. Ơgiêgov, xuất bản năm 1981, trang 603, từ Репортаж cũng chỉ bao hàm 2 nghĩa:
thông báo tin tức, sự kiện trên báo chí, phát thanh, truyền hình, là sự tƣờng thuật công việc.
Nhà phong cách học Nga G.Ia. Solganic trong cuốn Phong cách phóng sự (Стил
Репортажa) do trƣờng đại học Tổng họp Lômônôxốp xuất bản năm 1970, cũng coi phóng
sự là một thể loại thuộc phong cách báo chí. Theo ông, "Phóng sự là tai và mắt của độc giả.
Tác giả của phóng sự chỉ có thể là ngƣời chính bản thân quan sát sự kiện hoặc đôi khi cũng
tham dự vào sự kiện" (trang 4).
Giáo sƣ Caren Xtorocan ở Tiệp Khắc trƣớc đây đã đƣa ra khái niệm "phóng sự hiện
đại". Theo ông thì "Trong phóng sự hiện đại, không phải là một sự ghi chép giản đơn, mà còn
là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến cuộc sống chúng ta" [28, 213].
Tác giả mục Reportage của Từ điển nghiên cứu văn học (của Đức
30
Tài liệu đã dẫn), ngoài việc cho biết sự ra đời của thể phóng sự còn quan niệm rằng: "Những
tiêu chí quan trọng nhất của nó là thể hiện một cách chân thực và thuyết phục ngƣời đọc - tức
là vƣợt lên trên sự thông báo thuần túy các sự kiện, hoàn cảnh và những tiến trình có ý nghĩa
xã hội trong mối quan hệ và trong sự phát triển của chúng, cũng nhƣ miêu tả một cách có thể
nếm trải đƣợc và có hiệu quả thẩm mĩ và tình cảm về con ngƣời. Những khả năng tác động
của phóng sự xuất phát từ các khả năng cung cấp tƣ liệu về các sự kiện của thể loại cũng nhƣ
từ cái năng lực đánh giá và thể hiện nghệ thuật của tác giả (...), nhờ vào khả năng chủ quan
của tác giả trong việc thể hiện có tính chất phê phán - đánh giá cũng nhƣ gây hiệu quả thẩm
mĩ và tình cảm, phóng sự đã vƣợt lên sự trình bày các tin tức chỉ có tính cách thông báo, rời
rạc, thiếu nghệ thuật" (trang 434).
1.1.2 Một số quan niệm ở Việt Nam về thể phóng sự
1.1.2.1 Giai đoạn 1930 - 1945
Đối với đời sống báo chí và văn học Việt Nam, phóng sự là một loại tân văn, sản
phẩm của công cuộc hiện đại hóa văn học trong những thập niên đầu thế kỉ này.
Trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) chƣa thấy xuất hiện từ
Phóng sự. Lần đầu tiên từ Phóng sự xuất hiện ở nƣớc ta, có lẽ, là ở cuốn Việt Nam tự điển
của Hội khai trí tiến đức, xuất bản năm 1931. Ở trang 441 của cuốn từ điển này có ghi:
"Phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo". Sang năm 1932, tuy không có mục từ Phóng sự,
nhƣng trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh lại có hai chữ: phóng (bắt chước, hỏi, phỏng
theo) và sự (việc). Nếu ghép hai từ này lại thì từ Phóng sự có nghĩa là phỏng theo sự việc (đã
xảy ra), Ở giai đoạn 1930 - 1945, cùng với tiểu thuyết, thơ mới, phóng sự là một thể văn phát
triển mạnh mẽ. Ngƣời ta
31
tranh luận kịch liệt về Thơ mới, nhiều ngƣời "lập ngôn" về tiểu thuyết, nhƣng với thể phóng
sự thì tình hình có khác. Mặc dù có nhiều nhà văn, nhà báo viết phóng sự, thậm chí một số
ngƣơi còn "tự tác" ra những thuật ngữ lai ghép nhƣ tiểu thuyết - phóng sự, phóng sự - tiểu
thuyết... nhƣng không thấy có sự bàn luận sôi nổi về thể tài này. Có tình hình nhƣ vậy, có lẽ
là do lúc đó, tiểu thuyết hiện đại và Thơ mới là những thể chủ đạo, thu hút mọi sự quan tâm,
lí giải của mọi ngƣời. Theo tài liệu gần đây mới đƣợc công bố thì có lẽ, Vũ Trọng Phụng là
ngƣời đầu tiên ban đến thể phóng sự. Trong bức thƣ gửi vợ chồng ngƣời bạn là bà Đồng Thị
Bích Khuê và ông Nguyễn Văn Đạm đề ngày 31 tháng 12 năm 1935, họ Vũ đã cho rằng:
"Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể văn gần nhau. Phóng sự là một thiên truyện kể với cơ sở
là những điều mà nhà báo đã từng mắt thấy, tai nghe, trừ phi là một thiên "phóng sự trong
buồng", nhà báo nghe ngƣời ta kể lại cái mà mình chƣa biết bằng tai, bằng mắt" [89, 125 -
126].
Ở tờ Phóng sự, báo chuyên về phóng sự xuất bản ở Sài Gòn từ tháng 11 năm 1938,
trong một loạt bài xã luận nhƣ: "Chào độc giả" (Số khai trƣơng, tháng 11 năm 1938), "Phỏng
sự là gì?" (số 3 năm 1938), "Làm phóng sự khó hay dễ?" (số 9 Jeudi 12 Janvier 1939), "Kiếp
sống của phỏng sự viên" (số 1 - 1938), v.v... không thấy định nghĩa thế nào là phóng sự. Tuy
vậy, nếu lọc một số ý, có thể thấy lộ ra một số quan niệm nhƣ sau:
- "Phỏng sự! thấy tên các bạn đã rõ nghĩa (...) các báo hằng ngay thì. gặp tin gì cũng
đăng, nên thƣờng khi phải nói một cách sơ lƣợc. Còn báo nầy thì trái lại, chỉ lƣu tâm về
những việc quan hệ, nên luôn luôn sẽ đủ thời giờ mà khảo sát rất châu đáo. Nếu cuộc đời nhƣ
ngƣời ta đã nói, là "tấn tuồng trăm cảnh" thì báo này nhƣ tập Album để ghi lại những cảnh
(...) "cụp lạc" hơn hết. Đối với công lí, báo này có thể làm một ngọn đuốc
32
soi tỏ bao nhiêu nỗi oan tình. Đối với chánh phủ, báo nầy có thể làm một tấm gƣơng để phản
chiếu những bề trái của xã hội" (Chào độc giả, trang 3).
- "Không phải đi nhặt tin xe cán chó, không phải mƣợn ngƣời ta biên cho mình những
lời của ngƣời ta đã nói, không phải chỉ nhờ mấy ông trạng sƣ mới biết tòa đã lên án tội nhơn
(...). Muốn làm phỏng sự phải có đƣợc nhiều cái hay hơn nữa" (Làm phóng sự dễ hay khó,
trang 2).
Đặc biệt, lúc kết thúc bài Nhơn đọc "Hà Nội lầm than" của Trọng Lang nói đến lòng
bác ái trong phóng sự (số tháng 3/1938, trang 2), Lãng Tử đã cho rằng: "Lúc nói văn chương,
chúng tôi muốn nói phỏng sự". Đây là quan niệm rất mói về thể phóng sự trong thời điểm
những năm 30 ở nƣớc ta.
Năm 1942, nhà nghiên cứu, phê bình Vũ Ngọc Phan đã có những quan niệm cụ thể
hơn về thể phóng sự. ông cho rằng "Lối văn này thật hoàn toàn mới ở nƣớc ta, và cũng nhƣ ở
các nƣớc, nó là con đầu lòng của nghề viết báo (...). Phóng sự là thăm dò lấy việc mà ghi lấy
(...) phóng sự là kí sự mà có lời phẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt thấy tai nghe, có
tính cách thời sự và có chỉ trích (...) không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà
đƣơng chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự" [141, 504 - 505]. Từ
quan niệm nhƣ vậy, ông đã xếp và đánh giá các nhà phóng sự đƣơng thời.
1.1.2.2 Giai đoạn từ 1945 đến nay
Cho đến những năm 50, ở Việt Nam, chƣa có ai bàn về thể phóng sự một cách kĩ càng
nhƣ nhà văn Nguyễn Đình Lạp. Có thể xem tập bài giảng mang tên Muốn làm phóng sự của
ông ở các khóa đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến, năm 1950, do Giáo sƣ Đặng Thai Mai
(lúc đó là Chủ tịch ủy ban kháng chiến Liên khu IV) mở tại Thanh Hóa, là một giáo trình đầu
tiên về thể phóng sự. Trong tập bài giảng này, Nguyễn Đình Lạp đã trình
33
bày cả một hệ thống vấn đề khá cơ bản về thể loại cũng nhƣ phƣơng pháp, cách thức làm
phóng sự. Theo ông phóng sự là "một bộ môn của nghề làm báo", và ông giải thích từ phóng
sự nhƣ sau: "Phóng sự hay là phỏng sự. Phóng sự tức là phóng tác (imiter), con phỏng tức là
hỏi, tìm hiểu nghiên cứu. Còn sự tức là sự kiện (Fait). Nhƣ thế thì phải gọi là Phỏng sự mới
đúng hơn, mới hay hơn. Nhƣng vì thói quen hay dùng là phóng sự rồi. Cho nên chúng ta cũng
cứ gọi là phóng sự. Vậy thì phóng sự là nghiên cứu tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại
cho thật đúng" [108, 305].
Năm 1962, trên Văn nghệ, nhà văn Bùi Huy Phồn đã trình bày quan niệm của mình về
thể phóng sự. Theo ông, phóng sự là "một thể văn xung kích", "thuyết phục trực tiếp ngƣời
đọc bằng những số liệu, ngƣời thật có thể kiểm tra thấy đƣợc... Nhất là tính chiến đấu và tính
kịp thời" [145, 6].
Tạp chí văn học (từ số tháng 5 năm 1966 đến số tháng 6 năm 1967) đã mở đạt Trao
dổi về thể kí và vấn đề viết về người thật, việc thật. Trong cuộc trao đổi này, một số nhà văn,
nhà nghiên cứu phê bình đã trình bày những quan niệm của mình về thể phóng sự. Theo Vũ
Đức Phúc thì "cũng đƣợc gọi là kí, nhƣng phóng sự có nhiều đặc điểm không giống các loại
kí khác (...) phóng sự lớn là kết quả của một sự nghiên cứu tại chỗ một vấn đề thời sự rất lớn
đang làm cho cả xã hội, có khi cả thế giới chú ý, đặt ra nhiều dấu hỏi, mà vấn đề ấy lại xảy ra
ở một nơi ít người có điều kiện đến nghiên cứu tường tận, một nơi đương thời rất khó đến.
Chính do đặc điểm cơ bản này của phóng sự mà một phóng sự có giá trị phải sốt dẻo, xác
thực, toàn diện" [150, 39].
Trong bài viết có tính chất tổng kết đạt trao đổi ý kiến về thể kí và vấn đề viết về
ngƣời thật, việc thật nay, trên cơ sở những ý kiến của những ngƣời tham gia thảo luận, nhà
nghiên cứu Nam Mộc đã đi tới quan niệm: "Có tác phẩm (nhƣ loại ý kiến thứ nhất đã quan
niệm) thiên về việc ghi
34
sự kiện xã hội, hành động con ngƣời xoay quạnh một vấn đề nhất định của xã hội, của thời
đại. Tác phẩm này cồn có thể chứa cả những tài liệu báo cáo, số liệu thống kê, bắc cầu giũa
văn học và báo chí. Ta có thể gọi đó là phóng sự (thuật ngữ phóng sự này gần gụi với các
thuật ngữ tường thuật, điều tra của ta, văn học báo cáo của Trung Quốc, văn học tư liệu -
nghệ thuật của Liên Xô)" [130, 29].
Cũng trong những năm 60, Chàng Văn (Chế Lan Viên) đã trình bày quan niệm về thể
phóng sự, nhân khi trả lời bạn đọc về kinh nghiệm sáng tác. Theo ông "Ở phóng sự thì ta chỉ
cần ngƣời mà không cần nhân vật (hiểu theo đúng nghĩa tiểu thuyết của nó) và cần vấn đề,
cần sự việc mà cốt truyện lại không cần. Tóm lại, chuyện có thực hay không, có nhân vật hay
không có nhân vật, có cốt truyện hay chỉ là những sự việc nối vào nhau bởi một vấn đề, là ba
điểm lớn để phân biệt tiểu thuyết và phóng sự" [209, 109 - 110].
Cũng bàn về phóng sự trong mối quan hệ của nó với tiểu thuyết, nhà giáo khoa Phạm
Thế Ngũ cho răng "Ở hình thức giản dị nhất, thì đó chỉ là một tƣờng thuật, nhằm cái mục
đích chung nhất của tờ báo là thông tin, giúp độc giả trông nghe những điều xa xôi ẩn dấu mà
có thật. Phóng sự khi đó khác với tiểu thuyết bởi vì tiểu thuyết cần sắp xếp cho thành một câu
truyện, sự góp sức của chủ quan tác giả, của trang sức văn chƣơng, cho thành một sáng tác có
mầu văn nghệ, còn phóng sự chỉ là hình ảnh chụp lại sự thật một cách vô tƣ, những hình ảnh
vụn vặt là khách quan" [133, 512].
Từ những năm 70 đến nay, đã có thêm nhiều ý kiến góp phần minh định thể loại
phóng sự. Cuốn Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1977) cho rằng: "Phóng sự
là thể văn chú trọng diễn tả sự thật mà mình trông thấy và giải đáp các vấn đề do sự thật ấy
nêu ra". Từ điển học
35
sinh (NXB Giáo dục, năm 1977), lại cho rằng "Phóng sự là thể văn phản ánh, phân tích kịp
thời những sự việc tai nghe, mắt thấy có tính chất điều tra". Trong Từ điển văn học (NXB
khoa học xã hội, năm 1984), Phó giáo sƣ Nguyễn Xuân Nam quan niệm phóng sự "Là một
thể thuộc loại kí, nhằm ghi chép cụ thể tình hình một vấn đề, một sự việc nào đó có ý nghĩa
thời sự. Phóng sự sẽ có thêm giá trị văn học khi nó đi sâu khắc họa thế giới nội tâm, miêu tả
tính cách nhân vật, với lời văn giàu hình ảnh và cảm xúc". Còn cuốn Từ điển thuật ngữ văn
học, do các Giáo sƣ Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi làm chủ biên (NXB Giáo
dục, 1992), đã nhƣ "dấn" thêm một bƣớc nữa, khi cho rằng "Việc sử dụng một số phƣơng tiện
biểu đạt của văn học nhƣ các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, hƣớng vào thế giới bên
trong (ở một mức độ nhất định) của nhân vật, v.v... khiến cho phóng sự vốn từ báo chí, có thể
trở thành văn học, một số tác phẩm thuộc loại này thƣờng đƣợc chấp nhận nhƣ là những tác
phẩm văn học có giá trị" (trang 172).
Từ đặc điểm cơ bản của kí là trần thuật ngƣời thật, việc thật và vai trò của chủ thể trần
thuật, Giáo sƣ Phƣơng Lựu quan niệm phóng sự là một "loại kí phi cốt truyện theo lối kết cấu
liên tƣởng (...) nổi bật bằng những sự thật xác thục, dồi dào và nóng hổi. Ở phƣơng Tây đề ra
công thức 6W cho phóng sự". Giáo sƣ cho rằng công thức nay "là những tiêu chuẩn đề ra cho
phƣơng diện luận cứ trong một thiên phóng sự. Nội dung chủ yếu của phóng sự lại thiên về
vấn đề mà ngƣời viết muốn đề xuất và giải quyết. Phóng sự, do đó, mặc dù chất liệu chủ yếu
vẫn la ngƣời thật, việc thật, nhƣng có màu sắc chính luận" [171, 299].
Trên cơ sở xếp phóng sự vào loại thể kí văn học, năm 1962, Giáo sƣ Hà Minh Đức
quan niệm: "điều chủ yếu trong một thiên phóng sự... là sự việc và hiện thực khách quan"
(Thể loại văn học, NXB Giáo dục, tr. 160).
36
Đến năm 1992, Giáo sự cho rằng: "Về cơ bản, phóng sự cũng có đặc tính của một thiên kí sự:
chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực của đối tƣợng miêu tả. Nhƣng phóng sự
lại đpfi hỏi tính thời sự trực tiếp. Phóng sự đƣợc viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó
mà xã hội đang quan tâm. Ngƣời viết trình bày một cách khách quan diễn biến của câu
chuyện, sự việc, đồng thời cũng nhằm chứng minh cho một kết luận của mình, hoặc từ đó đề
xuất ra những vấn đề xã hội nhất định (...). Ngƣời viết phóng sự giỏi trƣớc hết phải là ngƣời
có trách nhiệm với ngồi bút, với chân lí của cuộc sống, phải biết xông xáo, đi sâu vào thực tế
đời sống, có năng lực phát hiện và khái quát hóa" [51, 229 - 230].
Theo Phó giáo sƣ Trần Hữu Tá, phóng sự là "một thể văn xung kích của báo chí. Khi
nói đến phóng sự, ngƣời ta thƣờng nghĩ ngay đó là một thể thuộc loại kí, chủ yếu phục vụ cho
báo chí (...). Có điều đáng lƣu ý, nếu phóng sự chỉ thuần túy mang tính tân văn báo chí, tuổi
thọ của nó thƣờng rất ngắn. Những thiên phóng sự lớn, vƣợt qua đƣợc sự sàng lọc khắc
nghiệt của thời gian, thƣờng nhờ vào yếu tố quan trọng: chất văn học đậm đà" [176, 6].
Xuất phát từ bình diện của thể kí báo chí, nhà nghiên cứu lí luận báo chí Đức Dũng đã
định nghĩa: "Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bày,
diễn tả những sự kiện, con ngƣời, tình huống điển hình, trong một quá trình phát sinh, phát
triển dƣới dạng một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát, vừa chi tiết sống động với vai trò
quan trọng của nhân vật trần thuật va bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất văn học" [28,
83].
1.2. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học
Trên đây, chúng tôi đã chọn lọc, trình bày một số tƣ liệu về thể phóng
37
sự ở nƣớc ngoài và điểm lại một số quan niệm về thể phóng sự ở Việt Nam. Sự phong phú về
số lƣợng và sự đa dạng về quan niệm đã cho thấy thể phóng sự thu hút đƣợc sự quan tâm, chú
ý của cả giới sáng tác và lí luận. Điều này cho thấy vị trí, vai trò không nhỏ của thể loại này,
trong đời sống văn học và báo chí. Sự khác biệt trong những ý kiến nói trên về thể loại phóng
sự, không phải là do tình trạng "thầy bói xem voi" mà do tính năng động và quá trình vận
động, phát triển của thể loại nay ở những giai đoạn khác nhau, ở những quốc gia khác nhau
trên thế giới. Ở Việt Nam, ngòai những ý kiến trực tiếp bàn về khái niệm phóng sự, có nhiều
ngƣời tiến hành nhận diện thể loại này thông qua sự đối chứng, so sánh với các thể loại khác,
nhƣ tiểu thuyết, văn đặc tả, văn học báo cáo, văn tƣ liệu - nghệ thuật, bút kí, v.v... Điều này
cho thấy tính tích cực của tƣ duy lí luận nhằm đi sâu vào đặc trƣng của thể tân văn này.
Qua toàn bộ những quan niệm nói trên, chứng tôi thấy nổi lên những điểm khái quát
nhƣ sau: Thể phóng sự trƣớc hết là thể thuộc hệ thống loại thể báo chí. Thể loại này ngày
càng đƣợc mở rộng, tăng cƣờng thêm chức năng trong quá trình phát triển. Đầu tiên, chỉ là sự
ghi chép giản đơn, "phỏng" theo "cố sự", tƣờng thuật lại những điều tai nghe mắt thấy, nhằm
mục đích thông tin thời sự. Kế theo đó, phóng sự lại "trang bị" thêm cho mình ống kính điều
tra, khám phá những điều khuất tất, lắt léo, hoặc ẩn sâu sau những bức mềm bí mật, đƣa nó ra
ánh sáng, nhằm thỏa mãn nhu cầu khát khao sự thật của công chúng. Với đặc tính năng động,
xông xáo và tốc tả, thể phóng sự hết sức nhanh nhạy trong việc phát hiện và tức thời đƣa ra
những thông tin sốt dẻo, với những chứng cớ, số liệu xác thực khoa học có sức thuyết phục
cao. Phóng sự không chỉ giới hạn ở việc mô tả, phản ánh hiện thực mà còn thẩm định, đánh
giá hiện thực, trả lời những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Bằng việc sử dụng những phƣơng
tiện
38
của văn học nhƣ các biện pháp tu từ, ngôn ngữ sống động, miêu tả tâm lí nhân vật... phóng sự
có khả năng trở thành tác phẩm văn học.
1.2.1 Phóng sự - một thể kí trong báo chí và văn học
1.2.1.1 "Cuộc kéo co giữa báo chí và văn học"
Quan niệm về thể phóng sự nhƣ trên là rất đúng vói "tinh thần thể loại". Phóng sự là
một thể nằm ở vùng giáp ranh của báo chí và văn học. Thực ra, trong "bản đồ" loại hình, loại
thể, phóng sự không phải là trƣờng hợp duy nhất nằm ở vùng giáp ranh. Giống nhƣ "hoàn
cảnh" của thể phóng sự, có thể thấy: tục ngữ, câu đố cũng nằm ở đƣờng ranh giữa lời nói
thƣờng và ca dao về lao động sản xuất; văn bia nằm ở đƣờng ranh giữa Sử và Văn... Khi đã
"rơi" vào vị trí đó thì mọi thể loại đều chịu chung một "số phận" là sự không dứt khoát,
không rõ ràng; khi thì đƣợc coi la cái này; khi thì đƣợc xem là cái khác.
Những quan niệm "hai mang" về thể phóng sự là sự phản ánh tình trạng "khó xử" đó.
Nhưng thời gian gần đây, do sự năng động của thể văn này và sự phát triển của lí luận báo
chí và lí luận văn học nên quan niệm về thể loại này trở nên tương đối rõ rệt.
Giữa văn học và báo chí có một mối quan hệ gần gũi thông qua loại thể kí. Kí văn học
có nhiều mối liên hệ với báo chí, đồng thời kí báo chí cũng có nhiều mối liên hệ với văn học.
Và "đầu mối" của sự liên hệ này là thể phóng sự. Do tính năng động, mềm mại nên thể kí đã
trở thành đối tƣợng "bị" văn học và báo chí thu hút vào quỹ đạo của mình, trong quá trình hội
nhập, tƣơng tác, để cùng phát triển. Chính vì vậy ILia Côchencô mới cho rằng kí là "thể loại
nằm trong cuộc kéo co giữa văn học và báo chi" [51, 214].
Lí luận báo chí coi phóng sự là "thể tài gần văn học hơn cả" [138, 224]. Ngƣợc lại, lí
luận văn học lại cho răng phóng sự là "tiểu loại kí "báo chí"
39
hơn cả" [74, 8]. Nhƣng thể phóng sự ở hai ý kiến trên là hai thể thuộc hai hệ thống thể loại
riêng: kí báo chí và kí văn học. Vì vậy, phóng sự không phải là một thể loại chung nằm ở vị
trí nhƣ kiểu "đầu binh cuối cán" trong bảng "tổng sắp" của "đội quân" thể loại báo chí và văn
học; được bên này "tôn" là thể loại "vừa" trong loại báo "viết", góp phần nâng vị trí của
ngƣời phóng viên ra khỏi "bậc thang thấp nhất của xã hội" và bị bên kia coi là thể loại "đàn
em" dễ viết, chỉ đáng "viết bằng tay trái", nhƣ quan niệm lâu nay của một số ngƣời.
Kết quả của cuộc "kéo co" thể kí mà Ilia Côchencô nói ở trên thật là đặc biệt: cả hai
"đối thủ" đều giành thắng lợi! Cả báo chí lẫn văn học đều có thể phóng sự riêng của mình.
Trong lí luận báo chí hiện nay, thể phóng sự lại bị "lâm" vào cuộc "kéo co" nội bộ. Giáo trình
Tác phẩm báo chí xếp phóng sự vào loại tác phẩm thông tấn gồm cùng với thể loại nhƣ tin,
tường thuật, phỏng vấn, điều tra... [188, 42]. Còn chuyên luận Các thể kí báo chí và một vài
bài báo khác lại xếp phóng sự vào thể loại kí báo chí, đứng trƣớc các thể Ghi nhanh, Kí chân
dung, Kí chính luận, Nhật kí phóng viên... Tuy có sự "mâu thuẫn nội bộ" nhƣ vậy, nhƣng lí
luận báo chí luôn coi phóng sự là thể chủ công, đóng vai trò "hạt nhân" của hệ thống thể
loại. Đối với lí luận văn học, các thể kí văn học "Bao gồm nhiều thể khác nhau như kí sự,
phóng sự, tùy bút, bút kí... [51, 210]. Trong đó, phóng sự đƣợc xem là "loại kí phi cốt truyện
theo lối kết cấu liên tƣởng" [171, 299]. Giáo sƣ Hà Minh Đức xem thể kí phóng sự là một
"thể kí trong báo chí và văn học" [51, 216].
1.21.2. Sự sinh động của thực tiễn sáng tác
Trong lịch sử báo chí và văn học nƣớc ta, thể phóng sự đã có một "bề dày" trên nửa
thế kỉ với một thành tựu rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh những thiên phóng sự ngắn
đƣợc viết theo yêu cầu cập nhật thông
40
tin mang những cái tên nhƣ Phóng sự, Phóng sự điều tra, Điều tra phóng sự, Phóng sự tài
liệu, v.v... còn có những dạng phóng sự "dài hơi", đƣợc đăng tải nhiều kì trên báo, sau đó
đƣợc in thành các tập sách dày hàng trăm trang với những cái tên nhƣ Phóng sự, Phóng sự
tiểu thuyết, Tiểu thuyết phóng sự, Tiểu thuyết phiêu lưu phóng sự, v.v... Trong đó, có những
thiên phóng sự đƣợc đánh giá là những tác phẩm văn học đích thực. Mảng phóng sự văn học
này đã góp phần tạo nên diện mạo "tân kì" của văn xuôi hiện đại. Nhiều nhà văn hiện đại của
nƣớc ta bắt đầu sự nghiệp bằng phóng sự. Có những nhà phóng sự chuyên nghiệp; có những
ngƣời đã chuyển sang viết tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút... nhƣng vẫn đồng thời viết phóng
sự, có "duyên" với phóng sự suốt đời. Điều này cho thấy sức hấp dẫn, sự "co kéo" của thể
phóng sự ở ngay trong một số "đơn vị" chủ thể sáng tạo.
Như vậy, thể phóng sự báo chí và phóng sự văn học đã thực sự tồn tại trong đời sống
báo chí, văn học và đã được thừa nhận về mặt lí luận. Sự hiện diện của thể văn này ở cả hệ
thống thể loại kí báo chí và văn học là quy luật tiến bộ của cả báo chí và văn học, vì lịch sử
của cả hai loại hình này là lịch sử hình thành, phát triển, tƣơng tác giữa các thể loại.
Tuy nhiên, trong thực tiễn sáng tác, có những thiên phóng sự, tính chất báo chí va tính
chất văn học đan xen với nhau một cách sinh động. Vì vậy, việc nhận diện thể loại phải dựa
vào chính từng tác phẩm cụ thể.
Cuộc trao đổi về thể kí và việc viết về ngƣời thật, việc thật trên Tạp chí văn học năm
1966 - 1967 và những ý kiến tiếp theo sau, tuy mới chỉ dừng ở vấn đề phân biệt tính chất văn
học va tính chất báo chí trong các
41
tác phẩm kí văn học; nhƣng đã nhƣ đặt ra trƣớc lí luận báo chí và lí luận văn học một vấn đề
có tính mấu chốt của loại kí là phân biệt giữa kí báo chí và kí văn học. Đó chính là cơ sở để
xác lập hệ thống thể loại cho loại thể kí một cách khoa học. Cho đến nay, những vấn đề trên
đã đƣợc từng bƣớc giải quyết, tạo tiền đề cho việc đi sâu minh định các thể loại, trong đó có
thể phóng sự.
1.2.2 Phóng sự báo chí và Phóng sự văn học
Theo Nôen Đuytore, ở Trung Quốc, "các nhà lí luận văn học xác định một sự phân
biệt rõ rệt giữa phóng sự báo chí - tƣờng thuật các sự việc một cách trần trụi, không "văn
hóa" - với văn học phóng sự - cũng nhƣ phóng sự báo chí, vốn cũng dựa trên cơ sở các sự
kiện và nhân vật có thật, nhƣng khía cạnh văn học rất chau chuốt" [43, 1], Ở Việt Nam,
Nguyễn Đình Lạp chia phóng sự thành hai loại: loại "Có tính chất báo, thông tin, tƣờng thuật,
báo cáo" và loại có "tính chất văn chƣơng: điều tra, phỏng vấn, mẩu chuyện phóng sự" [108,
310]. Năm 1962, nhà văn Bùi Huy Phồn cũng chia phóng sự thành hai loại phóng sự văn học
và phóng sự tân văn. Theo ông: "Phóng sự tân văn là loại làm cho ngƣời đọc thấy những
ngƣời thật, việc thật ở một thời gian không gian nhất định vói những tài liệu, số liệu cụ thể.
Đọc nó quả có phần khô khan, vì nó chỉ nhằm thuyết phục độc giả về mặt lí và nhẹ về mặt
tình" [145 , 8]. Khái niệm phóng sự tân văn mà nhà văn dùng ở đây là phóng sự báo chí.
Cũng theo Bùi Huy Phồn: "Phóng sự văn học có những điểm khác phóng sự tân văn, tất
nhiên về căn bản vẫn giống nhau. Nếu tiểu thuyết làm cho ngƣời viết thấy thoải mái vì nó là
thể tổng họp của các thể văn, thì tôi nghĩ rằng, phóng sự văn học cũng không đến nỗi gò bó vì
nó là thể tổng hợp của các thể văn: bút
42
kí, hồi kí, tƣơng thuật, điều tra, phỏng vấn... để cho nhà văn có chỗ tung hoành ngồi bút (...).
Mặt khác, thể phóng sự văn học, ngoài tính chất phản ánh ngƣời thật, việc thật còn có thêm
phần tả ngƣời, tả cảnh bằng hình tƣợng nghệ thuật, và có xen kẽ những cảm nghĩ chủ quan
của tác giả, nên nó có sức thuyết phục cả về mặt lí trí, cả về mặt tình cảm của con ngƣời"
[145, 8].
Cả hai ý kiến trực tiếp bàn về phóng sự báo chí và phóng sự văn học nói trên đều
thống nhất khẳng định sự giống nhau về căn bản giữa hai thể phóng sự. Đó là phải lấy người
thật việc thật làm đối tượng phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng miêu tả.
Đây là điểm có tính nguyên tắc, có ý nghĩa quan trọng nhất, quyết đinh sự tồn tại của thể
phóng sự. Cái lam nên sự khác biệt giữa hai thể phóng sự này là do mỗi thể đảm trách một
chức năng khác nhau: trong khi chức năng của phóng sự báo chí là phản ánh - thông tin thì
chức năng của phóng sự văn học là phản ánh - thông tin - thẩm mĩ. Chúc năng thông tin -
thẩm mĩ được thực hiện đồng thời và ở cùng một chủ thể la phóng sự văn học.
1.2.2.1 Phóng sự báo chí
Cùng phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp, nhƣng phóng sự báo chí phải ở cái thế
trực tiếp nhất. Chủ thể của sự phản ánh là nhà báo trực tiếp mắt thấy, tai nghe. Hiện thực phải
đƣợc phản ánh nguyên vẹn, xác thực tối đa và nóng hổi; hiện thực ở đây phải "bất di, bất
dịch"; đúng nhƣ hiện trạng và phải đáp ứng đƣợc nguyên tắc 6Wh: cái gì đã xảy ra (What),
xảy ra ở đâu (Where), xảy ra bao giờ (When), xảy ra thế nào (Which), xảy ra với ai (Who), tại
sao xảy ra (Why). Nếu vi phạm nguyên tắc này thì hậu quả rất tai hại. Chuyện B. Pôlêvôi sơ
xuất viết bác công nhân già Cusơmin hói đầu mà lại hay chải tóc, làm bác bị cánh thợ trẻ chế
diễu, là một ví dụ
43
"kinh điển". Câu chuyện một anh phóng viên (ngồi ở nhà, tƣởng tƣợng rồi viết về cuộc đua
ngựa ở Hải Phòng, khi bài đăng báo thì mới biết cuộc đua ngựa đã không diễn ra vì hôm đó
mƣa lớn và tòa báo bị đóng cửa ba ngày) mà Nguyễn Đình Lạp kể, cũng là một ví dụ tiêu
biểu. Hay gần đây, do viết sai sự thật nên bài phóng sự Cẩm Nhượng - khi con thuyền rẽ sóng
của P.T.C (đăng trên báo Lao dộng chủ nhật, số 66 năm 1993) đã gây ra không ít rắc rối cho
địa phƣơng và bị phản ứng của dƣ luận. Và một khi sự sai lạc ở mức nghiêm trọng, nhà
phóng sự có thể bị kiện tụng trước tòa. Còn với phóng sự văn học thì không có vấn đề phạm
luật mà nhà phóng sự chỉ chịu trách nhiệm trƣớc tòa án lương tâm.
Phóng sự báo chí là kết quả của quá trình tìm tòi những hình thức: mới, để báo chí
vƣợt ra khỏi cái khung của lối văn thông tấn khô khan. Tuy đòi hỏi phải có sự sáng tạo, nhƣ
phải linh hoạt trong kết cấu, sinh động về bút pháp, để thông tin xác thực, kịp thời và hấp
dẫn... nhưng không cho phép sử dụng biện pháp hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Đây là
một đặc điểm quan trọng khu biệt với phóng sự văn học. Ngôn ngữ trong phóng sự báo chí
tuy có giàu hình ảnh và có khả năng biểu cảm, nhƣng nhìn chung là phải thiên về thông tin,
thông báo, hướng tới sự mô tả sự cụ thể, chính xác về con người, sự việc, sự kiện; đặc biệt là
không được dùng những biện pháp khoa trương, phóng đại, ngoa dụ... khi diễn tả.
Để chinh phục niềm tin, thuyết phục lí trí độc giả, phóng sự báo chí luôn xác lập một
cách rõ ràng đường kênh giao tiếp: ngƣời phát tin là tác giả - nhà báo, cái tôi trần thuật ở đây
là cái tôi nhân chứng, khách quan. Tính khách quan ở đây không phải là sự thờ ơ, lãnh đạm
mà nói nhƣ Bêlinski, là: "biểu thị ở sự phù hợp giữa việc mô tả và đối tượng mô tả, được hiểu
một cách đúng đắn ở sự thống nhất cái bên trong và bên ngoài, giữa hiện tượng và bản chất
của nó" [140, 84]. Vì vậy, cái tôi ở đây là cái
44
tôi cảm xúc trƣớc sự thật, phản ánh, đúng sự thật, giàu lí lẽ, tỉnh táo và không thẩm định sự
thật bằng những cảm xúc thẩm mĩ. Chính vì những lẽ như trên nên trước hết, phóng sự báo
chí vẫn thiên về hướng tạo ra những văn bản đơn nghĩa.
Một yêu cầu quan trọng nữa đối với phóng sự báo chí là phải đáp ứng thông tin kịp
thời; có những trường hợp phải thông tin cập nhật. Bài phóng sự báo chí đƣợc viết thƣờng
bắt đầu từ yêu cầu xã hội, có thể đó là do tòa soạn báo giao việc, có thể do sự thôi thúc của
dƣ luận, sau đó mới gắn với những yêu cầu cá nhân. Thời gian ngắn, phải làm gấp, nên nhà
phóng sự phải tốc tả, khẩn trƣơng "phóng" theo cái "sự", thâu tóm nó, tức thời đƣa ngay lên
mặt báo. Ví dụ, giữa lức dƣ luận đang hƣ hƣ, thực thực về chuyện "đổ bể" của Xƣởng nƣớc
hoa Thanh Hƣơng, thì thiên phóng sự Xưởng tư doanh Thanh Hương tồn tại đến bao giờ của
Mai Anh và Việt Trung (giải nhất, giải báo chí Thành phố Hồ Chí Minh năm 1990) đã ra mắt
kịp thời, vạch rõ chân tƣớng lừa đảo và sự sụp đổ tất yếu của nó. Vì đáp ứng đƣợc nhu cầu
bức bách về thông tin nên đƣợc công luận hoan nghênh. Nếu phóng sự này chậm trễ, đăng
báo, khi vụ án Thanh Hƣơng bắt đầu bị đƣa ra xét xử thì chắc chắn đó chỉ là một sự "vuốt
đuôi" sự kiện thời sự, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu đối với công chúng.
1.2.2.2 Phóng sự văn học
Tuy cũng phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng tính xác thực và tính thời sự của đối
tƣợng đƣợc phản ánh, nhƣng ở phóng sự văn học không đòi hỏi một sự xác thực tuyệt đối và
cũng không chịu áp lực cấp bách của yêu cầu thời sự như trong phóng sự báo chí. Trong
phóng sự văn học, không chỉ có sự kiện mà còn có cả vấn đề; không chỉ có những phiến đoạn
mà còn có những mảng khác nhau của đời sống đƣợc tái tạo dƣới hình thức một bức tranh,
vừa cụ thể, sinh động, vừa có tính khái quát nhất định; không
45
chỉ có con ngƣời mà còn có cả nhân vật, trong đó có nhân vật mang dáng dấp một điển hình.
Để tái tạo một hiện thực nhƣ vậy, phóng sự văn học không thể không tuân thủ một phần
những quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Sự sáng tạo nay bắt đầu từ việc lựa chọn những sự
kiện, con người, tình huống mang tính tiêu biểu và chứa dựng yếu tố thẩm mĩ. Đây là điểm
khác biệt giữa phóng sự văn học với phóng sự báo chí. Đối tƣợng mang tính tiêu biểu và chứa
đựng yếu tố thẩm mĩ vốn nằm lẫn lộn với muôn vàn cái bình thƣờng của cuộc sống bề bộn.
Muốn lựa chọn đƣợc nó, theo kinh nghiệm của B.Pôlêvôi, ngƣời viết phải:"... đi sâu nghiên
cứu từng li, từng tí, cần cù khắc khổ phấn đấu không mệt mỏi, chỉ khi nào biết bồi dƣỡng cho
mình, biết phát hiện những nét chủ yếu, điển hình trong vô số hiện tƣợng, và những điều có
thể đạt đƣợc tinh thần và thực chất của thời đại" (Tạp chí văn học, số 2. 1967, tr.32).
Sự sáng tạo nghệ thuật còn đƣợc thể hiện ở phương thức phản ánh đối tượng được lựa
chọn. Bản thân đối tƣợng mang tính tiêu biểu, điển hình vốn là một hiện tƣợng khách quan,
tồn tại với tƣ cách một chỉnh thể, một "thế giới" riêng, luôn vận động, biến chuyển. Cho dù
nhà phóng sự đƣợc "mục sở thị" và đƣợc hỗ trợ bởi những phƣơng tiện nghe, nhìn hiện đại
(nhƣ máy ghi âm, ghi hình...), thậm chí là "ngƣời trong cuộc" đi chăng nữa, cũng khó lòng
"cho tƣờng" tất cả mọi sự. Để khắc phục tình trạng bất cập này, nhà phóng sự phải dựa vào
năng lực phán đoán, tưởng tượng để bù đắp vào những khoảng trống, trên cơ sở suy luận
khoa học, hợp lôgích. Sự tƣởng tƣợng sáng tạo tất yếu dẫn đến hƣ cấu. Đây là một điểm khác
biệt quan trọng nữa giữa phóng sự văn học với phóng sự báo chí. Là một thể thuộc loại kí
văn học, sự hƣ cấu trong phóng sự văn học cũng phải tuân theo mục đích, tính chất hƣ cấu
của loại thể kí. Đó là "Không đƣợc sử dụng một cách tùy tiện, ảnh hƣởng đến sự xác thực của
nội dung, mà phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm" [51, 221].
46
Trên cơ sở mục đích, tính chất nhƣ vậy, sự hƣ cấu trong phóng sự văn học chỉ diễn ra
ở phạm vi và mức độ nhất định. Thứ nhất, phần nhiều diễn ra ở mức độ hư cấu kĩ thuật: lựa
chọn những hiện tƣợng có thực trong đời sống, tổ chức, sắp xếp, tô đậm, xóa mờ... để kết câu
tác phẩm một cách tối ƣu, theo lôgích của khách thể. Thứ hai, có thể dùng trí tƣởng tƣợng
hợp lôgích để hƣ cấu "nâng cấp" những hình tƣợng ghi chép sự thật. Sự "nâng cấp" này
không chỉ dừng ở việc hƣ cấu ở những thành phần không thật xác định (nhƣ "thế giới" nội
tâm của nhân vật...), mà trong một chừng mực nào đó, có thể sáng tạo thêm những chi tiết,
những dữ kiện mới, nhằm mục đích trình bày hiện thực cho đúng bản chất của nó. Đây là sự
phản ánh và sáng tạo. Nhƣng sự sáng tạo này có "ngƣỡng": Không được tạo ra một "thế giới
thứ hai"; sự tƣởng tƣợng cũng chỉ đƣợc "bay bổng" nhƣ kiểu cánh diều, luôn bị sợi dây giữ
chặt với mặt đất. Trong phóng sự cũng có thể có những hình tƣợng mang tính điển hình.
Nhƣng nguyên tắc xây dựng điển hình không phải theo kiểu "miệng ở Chiết Giang, mặt ở
Bắc Kinh, áo quần ở Sơn Tây" [194, 240]; cũng không phải làm nhƣ con ong hút nhụy trăm
hoa để luyện thanh mật, mà chỉ đƣợc phép nhƣ con tằm ăn một thứ dâu để nhả tơ mà thôi.
Phóng sự văn học là một thể thuộc loại kí văn học. Vì vậy, chủ thể đã một phần đƣợc
cá biệt, chủ quan hóa. Chủ quan ở đây, nói nhƣ Bêlinski, không phải là "thứ chủ quan mà với
tất cả sự hạn chế hay phiến diện, làm sai lệch thực tại khách quan của các đối tƣợng (...), mà
là tính chủ quan sâu sắc, rộng lớn, nhân đạo, tính chủ quan, tìm thấy trong con ngƣời nghệ sĩ
một con ngƣời với trái tim nồng nhiệt, tâm hồn trìu mến, nhân cách độc lập, tính chủ quan
không cho phép anh ta với thói thờ ơ, lạnh nhạt, trở thành ngƣời xa lạ đối với thế giới mà anh
ta mô tả" [140, 85]. Vì vậy, cái tôi ở đây không đon thuần la nhà báo - công dân mà là cái tôi
- nhân vật
47
trần thuật. Điểm nổi bật của cái tôi này là thái độ thẩm mĩ trong việc thông tin sự thật. Trong
nhiều tình huống, những tình cảm - xúc cảm của cái tôi - nhân vật trần thuật đã hình tƣợng
hóa những hình ảnh ngƣời thật, việc thật và chính yếu tố tình cảm đã góp phần tạo ra cho cái
tôi một giọng điệu trần thuật riêng biệt rất phong phú về sắc thái biểu cảm. Trong phóng sự
văn học, cái tôi - nhân vật trần thuật nhƣ dẫn dắt độc giả theo "ống kính" của mình, dùng
những tƣ liệu chân thực, sống động thuyết phục độc giả va đồng thời tác động đến tình cảm
của họ bằng những lời bình luận, triết lí chân thành, đầy tâm huyết. Do đó, cái Tôi nay đã
vƣợt khỏi "từ trƣờng duy lí" trở thành cái Tôi thẩm mĩ. Xu hƣớng chung của phóng sự văn
học là tạo ra văn bản đa nghĩa: không chỉ nói về đối tƣợng mà nó phản ánh mà con nói về cái
bao hàm cả đối tƣợng phản ánh.
Về phƣơng diện ngôn ngữ, giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí có một sự
khác biệt rõ rệt: ngôn ngữ của phóng sự văn học thuộc phạm trù ngôn ngữ văn chương còn
ngôn ngữ báo chí không thuộc phạm trù của ngôn ngữ văn chương. Sự khác nhau cơ bản giữa
hai loại ngôn ngữ này là ở tính mục đích, ở chỗ nói về cái gì, ở tầng nghĩa. Ngôn ngữ phóng
sự báo chí nhằm thông tin nội dung sự việc, chỉ nói về chính cái đã xảy ra, để ngƣời đọc
nhận biết duy nhất về cái đã xảy ra. Vì vậy, ngôn ngữ phải luôn tường minh và chỉ có một
tầng nghĩa. Tầng nghĩa này gồm hai bộ phận: nghĩa ý tưởng và nghĩa tình cảm kèm theo
nghĩa ý tưởng về chính cái xảy ra. Đọc xong một phóng sự báo chí, độc giả có thể có những ý
tƣởng khác ngoài cái đã xảy ra, nhƣng đây chỉ là những ý tƣởng theo kiểu liên hệ thực tế, chứ
không phải tầng nghĩa thứ hai.
Trong khi đó, ngôn ngữ của phóng sự văn học không chỉ nói về chính cái xảy ra, mà
còn gọi ra những hàm ẩn được suy ra từ chính cái xảy ra. Cơ sở của nó là năng lực của nhà
nghệ sĩ có thể song song lĩnh hội hiện
48
thực trên một số bình diện cùng một lúc. Vì vậy, ngôn ngữ phóng sự văn học có thể bao hàm
hai tầng ngữ nghĩa: nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Đây là dạng ngôn ngữ nghệ thuật "ý
tại ngôn ngoại". Trong đó, nghĩa hàm ẩn đƣợc rút ra từ khả năng câu có thể sản sinh ra nghĩa
bổ sung nhờ kết cấu khác nhau của nó.
1.2.3. Phóng sự mang yếu tố tiểu thuyết
Trên cấp độ thể loại, giữa phóng sự và tiểu thuyết có một mối quan hệ gần gũi. Không
phải là ngẫu nhiên, khi rất nhiều ý kiến đặt tiểu thuyết cạnh phóng sự để so sánh, nhằm tìm ra
đặc điểm của từng thể loại, "ông vua phóng sự" Vũ Trọng Phụng xem "Tiểu thuyết và phóng
sự là hai thể văn gần nhau". Nôen Đuytore cho rằng văn học phóng sự là thể "nằm giữa tiểu
thuyết và phóng sự báo chí" [43, 15]. Một số nhà văn, nhà phê bình đã nói đến hai thể loại
kép: Phóng sự tiểu thuyết và Tiểu thuyết phóng sự. Trong lời giới thiệu cuốn Bỉ vỏ của mình,
Nguyên Hồng gọi đó là cuốn Phóng sự tiểu thuyết. Nguyễn Đình Lạp cũng dùng thuật ngữ
này đặt cho cuốn Ngoại ô và theo ông, Phóng sự tiểu thuyết là: "dùng những tài liệu chân
xác, dồi dào, đầy đủ về một vấn đề gì rồi dùng sức tƣởng tƣợng tạo ra nhân vật sống hẳn hoi,
có mạch lạc, liên hệ chặt chẽ với nhau" (Bài giảng Muốn làm phóng sự) [108, 322]. Tuy
nhiên, Vũ Ngọc Phan lại cho rằng Ngoại ô là cuốn tiểu thuyết, vì "có rất nhiều tƣởng tƣợng".
Và theo ông Phóng sự tiểu thuyết phải là "một loại tiểu thuyết mà tác giả muốn thuật lại
những việc có thực, những việc có thể làm đầu đề cho những thiên phóng sự và chỉ có rất ít
tƣởng tƣợng" (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, NXB KHXH, HN, 1989, tập II, tr. 1008 -
1009). Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan chia tiểu thuyết thành 10 loại trong đó có Tiểu
thuyết phóng sự, nhƣng không giải thích khái niệm này. Trƣớc đó, khi in cuốn Cạm bẫy
người lần đầu, Vũ Trọng Phụng cũng đề là Tiểu thuyết phóng sự...
49
Theo chúng tôi, khi ghi những tên thể loại vào tác phẩm nhƣ vậy, các tác giả nói trên,
với tƣ cách là chủ thể sáng tạo, đã dự báo cho độc giả cái vùng đời sống được quan tâm,
cách tiếp cận đối với nó, hƣớng họ vận dụng kinh nghiệm vốn có vào việc tiếp nhận tác
phẩm. Điều mà họ muốn lƣu tâm đối với ngƣời đọc ở đây là: hiện thực trong tác phẩm là
những cái có thật, do "tai nghe mắt thấy", thậm chí, đây còn là chuyện của "người trong
cuộc" kể lại chứ không phải "bịa ra"...
Nhƣng qua những hiện tƣợng nói trên, có thể thấy rằng giữa phóng sự và tiểu thuyết
có mối quan hệ gần gũi, trong đó có những phóng sự văn học mang tính của tiểu thuyết, đặc
biệt là tiểu thuyết hiện thực được viết theo bút pháp "tả chân". Với tính chất là thể văn lấy
ngƣời thật, việc thật làm đối tƣợng phản ánh, phóng sự đã "học hỏi" đƣợc ở tiểu thuyết nhiều
điều: sự năng động, công phu; phƣơng thức chọn lọc, tổng hợp tƣ liệu; khả năng tiếp cận,
thâu thái hiện thực bằng những điểm nhìn linh hoạt; nghệ thuật hình tƣợng hóa những con
ngƣời, sự kiện thành những thực thể thẩm mĩ có hình thức giống nhƣ bản thân đời sống; khả
năng phân tích xã hội trong đánh giá, thẩm định; ngôn ngữ đa thanh, giọng điệu mang bản sắc
riêng... Do việc sử dụng có chọn lọc những phƣơng tiện của bút pháp tiểu thuyết nên những
phóng sự văn học nay thƣờng có một dung lƣợng tƣơng đối lớn, kết cấu khá chặt chẽ, nhân
vật sống động, nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, hấp dẫn... "giống như:" ở tiểu thuyết; nhưng
vẫn không mất đi "cái gốc" người thật, việc thật. Sự tuân thủ một phần quy luật sáng tạo nghệ
thuật đã mang đến hiệu quả: có những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng, hình ảnh... trong tác phẩm
có tính khái quát. Vì thế, có những trƣờng họp, phóng sự mang tính tiểu thuyết, không chỉ nói
về chính đối tượng mà nó phản ánh, mà còn nói về những cái rộng hơn, bao hàm cả cái nó
nói, cái mà - theo cách nói của L.Tolstôi - có thể "gọi ra một tập hợp
50
không sao kể xiết nhũng ý tƣởng, những tình cảm, những sự giải thích". Đây chính là tính đa
nghĩa của văn bản.
Tuy nhiên, trƣớc những yêu cầu có tính khách quan cần có những văn bản thông tin -
thẩm mĩ, bằng tài năng và cá tính sáng tạo, nhiều nhà văn hiện đại của Việt Nam đã góp cho
thể phóng sự những tác phẩm mang "tính" của các thể loại văn học khác nữa. Đây cũng là
một biểu hiện sinh động của quá trình phát triển của thể phóng sự ở nƣớc ta.
1.3. Mấy nét cơ bản về lịch sử thể phóng sự ở Việt Nam
1.3.1. Sự xuất hiện thể phóng sự
1.3.1.1 Bối cảnh lịch sử
Sự hình thành và phát triển của thể phóng sự ở nƣớc ta là một quá trình lịch sử. Trƣớc
hết là do nhu cầu của xã hội và những điều kiện, khả năng của hoạt động văn hóa, báo chí và
văn học.
Đến những năm ba mƣơi của thế kỉ này, xã hội thực dân nửa phong kiến ở nƣớc ta
càng lao nhanh trên con đƣờng băng hoại, bộc lộ hết tính chất xấu xa, tàn bạo. Do chịu thêm
ảnh hƣởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên tình hình càng đen tối. Sự
phân hóa và áp bức giai cấp càng thêm nặng nề; mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân xâm
lƣợc càng thêm gay gắt. Những biến động về mặt chính trị, kinh tế đã làm đời sống văn học,
tƣ tƣởng biến chuyển sâu sắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại đã chấm dứt vai trò chính trị
và đƣờng lối cách mạng của giai cấp tƣ sản. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam đƣợc thành
lập, giai cấp vô sản bƣớc lên vũ đài chính trị, đảm nhiệm sứ mạng lịch sử của mình là giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Sự quật khởi của phong trao Xô viết Nghệ Tĩnh, khí thế
sôi nổi của phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dƣơng (1936 - 1939) đã lam rung động chế độ
thuộc địa.
51
Tuy nhiên, thực dân Pháp chẳng chịu bó tay. Ngoài việc chuyên chê, đàn áp, bƣng bít,
lòe bịp, chúng còn dùng chính sách mị dân, tuyên truyền chủ trƣơng "Pháp Việt đề huề",
dùng khuynh hƣớng cải lƣơng, nhƣ phong trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung, hội Ánh sáng, hội
Hƣớng đạo, nhằm lừa bịp, đánh lạc hƣớng công luận...
Trƣớc những biến chuyển của thời cuộc, trƣớc những điều thật giả lẫn lộn, hơn lúc
nào hết, lúc này "quốc dân chỉ muốn biết sự thật diễn ra xung quanh mình" (Trƣơng Tửu:
Tam Lang - Nhà văn tả chân, báo Loa, số 86, ngày 10 tháng 10 năm 1935) [142, 94]. Còn
Tam Lang thì kể lại rằng: "Để tìm bộ mặt thật của xã hội Việt Nam lúc bấy giơ, thị hiếu đại
chúng hầu nhƣ thay đổi hoàn toàn, chỉ ƣa tìm đọc những văn, những chuyện thuộc loại tả
chân và lãng quên dần loại văn lãng mạn mà ngƣời ta cho là không thích hợp" [142, 67].
Cũng giống nhƣ ý kiến của Tam Lang, trong bài Nhà phỏng sự trong xã hội Việt Nam (đăng ở
trang 3, báo Phóng sự ở Sài gòn, số Xuân 1939), nhà văn Thiếu Sơn cho rằng: "dƣới một chế
độ mục nát, trong một thời đại suy đồi, đầy những giả dối, đầy những mâu thuẫn (...). Cái tình
trạng ẩn khuất đó phải có con mắt tò mò chú ý tới, phải có cây viết linh hoạt tô vẽ ra".
1.3.1.2 Những tiền đề báo chí và văn học
Thực ra, trƣớc những năm ba mƣơi đã có những tác phẩm "tả chân" nhƣ thơ trào
phúng của Tú Xƣơng, Nguyễn Khuyên, Học Lạc... và sau đó là tiểu thuyết, truyện ngắn,
kịch... của Phạm Duy Tốn, Vũ Đình Long, Trọng Khiêm, Hồ Biểu chánh, Nam Xƣơng...
Nhƣng đa phần trong các tác phẩm nói trên còn gắn hiện thực với khuynh hƣớng đạo lí, kết
thúc câu chuyện có hậu, ngôn ngữ còn mang màu sắc ƣớc lệ, khuôn sáo... Trong khi đó, vì
"chỉ muôn biết sự thật diễn ra xung quanh mình" nên công chúng những năm ba mƣơi rất cần
một "lối viết thiết thực hơn và giản dị hơn,
52
cần đi sát với đời sống, nhất là đời sống bình dân, quan sát tƣờng tận và ghi lại những điều tai
nghe mắt thấy" [112, 322]. Đây chính là lối viết của phóng sự. Cuối thế kỉ trƣớc, đầu thế kỉ
này, đã có một số tác phẩm văn xuôi quốc ngữ ghi lại những điều tai nghe mắt thấy qua
những cuộc du hành của Trƣơng Vĩnh Ký, Trƣơng Minh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm
Quỳnh, Nguyễn Bá Trác... Tuy nhiên, đó chƣa phải là phóng sự, vì thể văn này chỉ ra đời khi
nƣớc ta đã có một nền báo chí trƣởng thành. Điều này cũng góp phần giải thích, vì sao thể kí
viết về ngƣời thực, việc thực đã có từ lâu, nhƣng chƣa thể hình thanh nên thể phóng sự. Từ
chỗ đầu tiên chỉ là những tờ Công báo, một thứ công cụ phục vụ cho chính sách cai trị, nhƣ
kiểu tờ Gia Định báo (1865); phụ họa với luận điệu tuyên truyền "Pháp Việt đề huề"; cổ vũ
cho nền quân chủ lập hiến, như tờ Đông Dương tạp chí (1913) hay Nam Phong tạp chí
(1917)... báo chí nƣớc ta dần trƣởng thành thoát ra khỏi ảnh hƣởng nặng nề của thực dân, một
số tờ báo đã đứng trên lập trƣờng dân tộc chống lại ách nô dịch của chúng. Chẳng hạn, Minh
Viên Huỳnh Thúc Kháng coi báo Tiếng dân (1927) là "sự vui buồn (...) sự trông mong từ
trong trái tim hai mƣời triệu đồng bào" (Tiếng dân số 2, ngay 13 tháng 8 năm 1927), nên ông
đã "thét Tiếng dân giữa kinh thành Huế" (Trƣờng Chinh); hay tờ Thần chung (1929) của Tản
Đà, Ngô Tất Tố đã đƣợc dƣ luận cổ vũ vì những bài sắc nhọn đả kích kẻ thù của dân tộc...
Đến những năm ba mƣơi, báo chí đã trở thành một "dàn" thông tin rộng khắp, đƣợc hỗ trợ
của cả một hệ thống cơ sở in ấn, phát hành. Theo thống kê của ngƣời Pháp, nếu từ 1865 đến
1923 mới có 71 tờ báo thì đến năm 1934 đã có đến 227 tờ. Chỉ riêng ở Sài Gòn, Chợ Lớn,
những năm sáu mƣơi của thế kỉ trƣớc chỉ có một số nhà in của Nhà nƣớc thuộc địa và Nhà
chung, thì cho đến năm 1930 đã có đến gần 100, trong đó nhiều cái là của chủ ngƣời Việt và
Hoa kiều. Do báo chí phát triển, làm báo đã trở thành một
53
nghề ma lực lƣợng chính gồm những ngƣời "Tây học" và những nhà nho thức thời đã ném
"bút lông" và dùng "bút sắt". Và ở giai đoạn giao thời cũ - mới lúc nay, đã nảy sinh hiện
tƣợng đặc biệt: văn báo bất phân. Cả một thế hệ ngƣời cầm bút vừa làm báo, vừa viết văn,
nhiều tòa báo kiêm cả vai trò xuất bản. Sự xâm nhập lẫn nhau giữa văn học và báo chí ẩn
chứa ngay trong một chủ thể sáng tạo. Các báo chí không ngừng cải tiến từ nội dung đến hình
thức để tranh thủ độc giả. Tam Lang kể lại rằng vì "không muốn mình còn là một ngƣời viết
báo lỗi thời, tôi đã thay đổi cả ngòi bút lẫn bình mực (...) tôi đã chuyển luôn cách viết, dứt
khoát bỏ hẳn lối văn lãng mạn, ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trong mục Những cái
mắt thấy cũng vẫn trên tờ Ngọ báo bằng lối văn tả chân" [142, 67 - 68]. Và ông bắt chƣớc
Maryse Choisi khoác áo phu xe đi làm phóng sự. Vũ Trọng Phụng cũng đọc nhiều phóng sự
của nƣớc ngoài. Ở phóng sự Cơm thầy cơm cô, họ Vũ nhắc đến thiên phóng sự Carnet d'une
femme de chambre 1934 của Maryse Choisi. Trong thƣ gửi vợ chồng Nguyễn Văn Đạm, ông
đã nói đến các thiên phóng sự của Albert Londres "Le chemin de Buenos- Aires" (Đƣờng đi
Buenos - Aires), "La Traite des Blanches" (Việc buôn bán phụ nữ da trắng); nhắc đến phóng
sự "À l'ombre de la Croix gammée" (Dưới bóng chữ thập ngoặc) của Xavier de Hautecloque
[89, 127 - 128]. Đặc biệt, ông đánh giá cao thiên phóng sự "Indochine S.O.S" của A.Viollis
coi "phong trào xin mở rộng cửa ngục tha hết thảy chính trị phạm Việt Nam do cuốn sách ấy
gây ra (...) đã kích thích rất mạnh đến quần chúng ở xã-hội ta" (Những việc đáng ghi chép
của năm Bính Tý, báo Tương lai, ngày 18 tháng 2, 1937, trang 3). Khi nói về "Ảnh hƣởng văn
học Pháp tới văn học Việt Nam trong giai đoạn 1932 -1945" (Tạp chí văn học, Số 4 năm
1993), Phó giáo sƣ Phan Ngọc đã cho biết, thời đó, cuốn phóng sự Satan conduit le bai (Quỷ
Xa tăng cầm đầu cuộc khiêu vũ) là tác phẩm "chấn động dƣ
54
luận (...) ai cũng đọc và rất có ảnh hƣởng". Những sự kiện trên cho thấy, cũng nhƣ tiểu thuyết
hiện đại, phóng sự cũng là thể văn đã du nhập vào nƣớc ta bằng những tác phẩm sống động.
Một số cây bút phóng sự tiên phong nhƣ Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng đã học hỏi và
vận dụng vào thực tiễn sáng tác, đƣa phóng sự trở thanh một thể loại mới trong báo chí và
văn học dân tộc. Bằng tài năng sáng tạo của mình, họ đã đem đến cho đại chúng một "mặt
hàng" mới lạ, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu bức xúc về thông tin sự thật. Trƣớc những vấn đề
chính trị, xã hội nóng bỏng, bề bộn và hết sức sôi sục lúc đó, không có thể loại nào có thể
nhanh nhạy, sắc bén chiếm lĩnh hiện thực bằng thể phóng sự. Nó không chỉ cung cấp cho độc
giả những tập ảnh, những số liệu... mà có thể dựng lên một bức tranh sống động, với những
nhân vật hệt nhƣ nguyên mẫu và những sự kiện xác thực; đƣa lại một cái nhìn, không chỉ từ
bên ngoài mà còn mô tả từ bên trong, làm sáng rõ bản chất của hiện tƣợng nên có sức hấp
dẫn, lôi cuốn đối với ngƣời đọc. Cùng với tiểu thuyết hiện thực, phóng sự đã trở thành thể
loại "ăn khách" lúc đó, tạo ra một "lực hấp dẫn" mạnh mẽ đối với hàng loạt cây bút. Chẳng
hạn nhƣ trƣờng hợp của Vũ Trọng Phụng, theo nhƣ Vũ Bằng thì, sở dĩ "Vũ Trọng Phụng
chuyên chú về phóng sự và tiểu thuyết, vì độc giả hồi ấy chỉ ƣa "sơi" hai món đó mà các nhà
báo và nhà xuất bản cũng chỉ "đặt" anh hai món đó" (Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng)
[10, 38]. Ngƣời ta thƣờng nói, dƣờng nhƣ, họ Vũ sinh ra để viết tiểu thuyết và phóng sự.
Nhƣng theo chúng tôi, chính nhu cầu của xã hội về thể phóng sự đã là một "tác nhân" quan
trọng góp phần tạo nên tài năng phóng sự của ông. Đối với một ngƣời sống bằng ngòi bút,
luôn khốn đốn, thiếu thốn đồng tiền, quỹ thời gian lại rất là eo hẹp... thì dù có sở trƣờng đến
mấy, chắc rằng, ông không thể cứ cúi "cái lƣng khòng xuống trang giấy, một tay giữ lấy cổ,
cố ngăn lại một cơn ho", một tay kia viết phóng sự chỉ để thỏa
55
mãn hứng thú riêng của mình, nếu không có "đơn đặt hàng" cấp thiết của xã hội!
Hoàn cảnh xã hội có vấn đề, bao nhiêu sự kiện, sự việc mới nảy sinh, liên tục biến
động; nhu cầu của xã hội về một loại văn bản phản ánh sự thật một cách trực tiếp "áp sát
vào hiện thực"; sự trưởng thành của báo chí trong sự xâm nhập với văn chương; ảnh hưởng
của phóng sự nước ngoài; tài năng sáng tạo và tâm huyết của một lớp người cầm bút... đã
hội đủ những điều kiện cho việc hình thành nên thể phóng sự trong những năm ba mươi của
thế kỉ.
1.3.2. Sơ lược về quá trình phát triển
1.3.2.1 Giai đoạn 1932 - 1945
Vũ Đình Chí - bút hiệu Tam Lang (1900 - 1986) - là ngƣời có công mở đầu thể phóng
sự ở Việt Nam. Ông kể lại rằng, khi làm công việc nhặt tin cho tờ Ngọ báo, ông đã "biến mục
Tin tức thành các mục Mắt thấy tai nghe" [142, 65]. Đi sâu vào đời sống của những "ngƣời
ngựa", năm 1932, Tam Lang viết thiên phóng sự Tôi kéo xe, đăng liên tiếp 20 kì trên tờ Ngọ
báo. Năm 1935, ông tự bỏ tiền in thành sách. Cũng trong những năm này, ông còn viết 8
thiên phóng sự ngắn, đăng trên mục Những cái... mắt thấy, nhƣ Trên dòng Tiêu Kim Thủy,
Đêm sông Hương, Lạc trong Sơn Đỉnh Quách, Người ngợm... Tuy nhiên, phóng sự Tôi kéo xe
vẫn là tác phẩm có ý nghĩa mở đầu và là tác phẩm nổi bật "gây ngạc nhiên không ít cho độc
giả và đồng nghiệp" (Thƣợng Sỹ - Thân thế và sự nghiệp Tam Lang) [102, 6]. Vũ Bằng cũng
viết nhiều phóng sự, nhƣ Một đêm trắng với năm bông hoa tàn, v.v... nhƣng hầu hết đăng dở
dang thì báo chết. Năm 1933, Vũ Trọng Phụng làm chấn động dƣ luận với tác phẩm Cạm bẫy
người và sau đó là cả một xêri phóng sự đặc sắc.
56
Sự mở đầu thành công của "Ba chàng họ Vũ" nói trên đã như chiếc đầu tàu kéo theo
cả một đội ngủ những nhà văn, nhà báo đến vói thể phóng sự. Ở giai đoạn 1932 - 1945, một
số nhà văn khỏi đầu sự nghiệp bằng phóng sự, nhiều ngƣời đã từng viết phóng sự va có đời
văn "thủy chung" với thể loại này cho đến lúc phải buông cây bút. Nếu thống kê, sẽ có một
danh sách với những tên tuổi: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Trọng
Lang, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Lê Văn Hiến, Phi Vân,
v.v...
Điểm độc đáo của thể phóng sự ở Việt Nam là ngay từ đầu đã có phóng sự văn học.
Sau đó, cả phóng sự văn học và phóng sự báo chí cùng phát triển một cách phong phú, đặc
biệt trong những năm sôi nổi của Mặt trận dân chủ (1936 - 1939). Vùng hiện thực mà thể
phóng sự lúc này chiếm lĩnh và phản ánh là những vấn đề nóng bỏng, nhức nhối của xã hội
thực dân nửa phong kiến ở cả thành thị lẫn nông thôn và còn đƣa ra trƣớc công luận một
mảng hiện thực vốn bị thực dân bƣng bít: cuộc sống của các nhà tù, đặc biệt là chính trị ở các
nhà lao hoặc bị lƣu đày ở những nơi rừng thiêng, nƣớc độc.
Trong "khu rừng" phóng sự thời "tiền chiến", số lƣợng nhiều hơn cả là những tác
phẩm viết về hiện thực nơi thị thành. Cuộc sống lam lũ, vất vả, khốn cùng và tha hóa của lớp
ngƣời "dƣới đáy" nhƣ phu xe, con sen, thằng nhỏ... đƣợc tái hiện sinh động và sâu sắc trong
Tôi kéo xe của Tam Lang (Ngọ báo, 1932); Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng (Hà Nội
báo, 1936); Trong làng bồi bếp của Thổ Công (báo Phóng sự, số 8 năm 1939)... Lối sống
buông thả, sa đọa ở nơi thị thành thuộc địa đã hiện lên một cách rõ nét trong Thanh niên trụy
lạc, Từ ái tình... đến hôn nhân, Chợ phiên đi về đâu (Ích hữu, 1937) của Nguyễn Đình Lạp.
Sự thối nát, bẩn thỉu, nhố nhăng của đám "nghị gật" bù nhìn đƣợc phơi bày trong Dân biểu và
57
dân biểu của Vũ Trọng Phụng (Công dân, năm 1935), trong loạt phóng sự Lớp tuồng đầu, lớp
tuồng thứ hai, thứ ba v.v... của Viện dân biểu (Tin tức, năm 1938). Số phận bi đát của đời
nghệ sĩ, những ngƣời bị coi là hạng "xƣớng ca vô loại" đã đƣợc tái hiện trong Vẽ nhọ bôi hề
(Phụ nữ thời đàm, 1936) của Vũ Trọng Phụng...
Một trong những vấn đề nổi cộm của thành thị là những tệ nạn, vấn nạn xã hội. Trong
phóng sự Cạm bẫy người (Nhật tân, 1933) của Vũ Trọng Phụng, Theo chân bọn cờ bạc (báo
Phóng sự, 1938) của Đông Giang... "nghề" cơ gian, bạc bịp đã bị đƣa ra ánh sáng. Trọng
Lang lật tẩy "nghề" đạo chích bằng phóng sự Trong làng chạy (Ngày nay, 1935) "Thế giới"
ma mị của "nàng tiên nâu" hiện hình trong Ngọn đèn dầu lạc (Mai Lĩnh, 1939) và Ngọn đèn
dầu lạc (Mai Lĩnh, 1941) - hai thiên phóng sự của Nguyễn Tuân, Đàn bà nghiện hút của
Trọng Lang, v.v... Thực trạng đen tối, nhơ nhớp của nạn mại dâm đƣợc phơi bày qua nhiều
thiên phóng sự: Đêm sông Hương của Tam Lang, Hà Nội lầm than (Ngày nay, 1937) của
Trọng Lang, Hà Nội ban đêm (Ngày nay, 1936) của Tràng Khanh - Việt Sinh, Lục xì (Tương
lai, 1937) của Vũ Trọng Phụng, Điều tra tại Sở phong tục (báo Phóng sự, 1938) của Y
Lang... Tệ tham nhũng đƣợc Vũ Trọng Phụng mô tả một cách sinh động trong Một huyện ăn
Tết (Tiểu thuyết thứ bẩy, 1939). Trước vành móng ngựa (Đời nay, 1938 của Hoàng Đạo là
một tập phóng sự gồm rất nhiều phóng sự rất ngắn về cuộc sống "muôn mặt" đầy những bi
hài của cái xã hội đƣơng thời.
Hƣớng "ống kính" về những miền quê, nhiều nhà phóng sự đã thu đƣợc những bức
tranh đầy ấn tƣợng sâu sắc. Trong số những cây bút phóng sự viết về nông thôn, Ngô Tất Tố
là một tác giả tiêu biểu. Hai tập phóng sự Việc làng (Hà Nội tân văn, 1940) và Tập án cái
đình đã phơi bày những hủ tục "quái gở, mọi rợ" ở chốn đình làng và những cảnh ngộ thƣơng
tâm,
58
nực cƣời ở chốn làng quê. Phóng sự Làm dân của Trọng Lang cũng tập trung mô tả nỗi khốn
đốn của những ngƣời dân trƣớc những hủ tục lạc hậu và vô nhân đạo. Những cây bút phóng
sự không chỉ tập trung mô tả cảnh "bùn lầy nƣớc đọng" mà còn kịp thời phản ánh những tai
ƣơng, chƣớng họa áp xuống đầu dân đen. Phóng sự Câu chuyện Bắc Giang (Tin tức, số 10 -
18, tháng 6, 1938) của Đ.K đã diễn tả cảnh lụt lội cơ hàn của nông dân xứ Kinh Bắc và sự ăn
chặn bẩn thỉu của đám cƣờng hào, quan lại đối với đồ cứu tế. Một cuộc điều tra muối (Tin
tức, số 20; 22 - 27 tháng 7 năm 1938) của L. P là một bức tranh sinh động về đời sống của
ngƣời nông dân miền biển... Phi Vân viết nhiều thiên phóng sự về làng quê Nam Bộ: Tình
quê, Dân quê, Cô gái quê, Đồng quê... Trong đó, Đồng quê là một tác phẩm nổi bật. Ở Đồng
quê của Phi Vân có những bức tranh tƣơi tắn, hồn nhiên của cảnh vật và con ngƣời vùng đất
phƣơng Nam, nhƣng cũng không át đƣợc tiếng rên xiết, oán hờn của những ngƣời nông dân
Nam Bộ nơi thôn ấp, kênh rạch trƣớc nỗi bất công, áp bức của đám chủ điền độc ác, xảo trá,
dâm ô... Qua ngòi bút phóng sự của những nhà văn, nhà báo kể trên, nông thôn thời thuộc
Pháp hoàn toàn khác hẳn với "Một làng An Nam" tƣơi đẹp, thanh bình dƣới chính sách "khai
hóa" của chính quyền bảo hộ, nhƣ sự mô tả của Bùi Đình Tá (cuốn sách xuất bản năm 1937),
mà hiện lên nhƣ một bức tranh xám xịt, xơ xác, tiêu điều, đói nghèo và lạc hậu. Đó thực sự là
một "Túp lều nát" mà nhà văn Nguyễn Đổng Chi đã khái quát trong một thiên phóng sự cùng
tên (Trảo Nha, Hà Tĩnh, năm 1937).
Một mảng hiện thực vốn bị khuất tất bởi sự che đậy của chính quyền thuộc địa là cảnh
lao tù cũng đƣợc các nhà phóng sự đƣa ra ánh sáng. Nguyên Hồng viết Tết của tù đàn bà, Tù
trẻ con (khoảng năm 1937, 1938). Phan Văn Hùm viết Khám lớn Sài Gòn, Nguyễn Đức
Chính viết Đảo Côn Lôn. Trên báo Phóng sự năm 1939 đăng phóng sự nhiều kì Côn Lôn kí
sự
59
của nhà văn - tƣớng cƣớp Sơn Vƣơng. Quần đạo ngục tù (Poulo Condore) hiện lên khá sinh
động từ điểm nhìn của một ngƣời tù thƣờng phạm. Đến số tháng 11 năm 1939, tuần báo này
lại đăng "Phóng sự chưa từng có: các chị Thân, Ninh, Tạo, Nguyền đi thăm chồng - Một cuộc
hội ngộ cảm động cuối năm ở khám lớn Sài Gòn" của nhà văn Thúc Tề nói về cuộc sống của
những ngƣời tù chính trị. Nhƣng khủng khiếp nhất là sự đọa đày, khủng bố, sát hại một cách
cục kì dã man của thực dân Pháp đối với những ngƣời tù cộng sản mà Lê Văn Hiến tái hiện
trong thiên phóng sự điều tra Ngục Kontum (1938). Tác phẩm không chỉ là tiếng thét hờn
căm đối với quân thù mà còn là bài ca về tinh thần quật cƣơng, bất khuất, là trang sử anh
hùng thấm đẫm một màu máu những chiến sĩ cách mạng. Đƣợc viết bằng tiếng Pháp, thiên
phóng sự này đã trực tiếp tác động mạnh mẽ trên trƣờng quốc tế, khi đƣợc dịch, đăng tải trên
tờ Le Travail (Lao động) đã làm chấn động dƣ luận trong nƣớc. Đây cũng là một dạng thông
điệp Đông Dương cấp cứu đƣợc viết từ ngòi bút phóng sự của những ngƣời cộng sản. Những
ngƣời cộng sản không chỉ dùng thể phóng sự viết về đề tài ngục tù, mà trên các tờ báo nhƣ
Tin Tức, Lao dộng, Nhành lúa, Việt Nam độc lập, nhiều nhà báo đồng thời cũng là các lãnh tụ
cách mạng nhƣ Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... đã viết nhiều bài phóng
sự vừa có giá trị thông tin cao, vừa có tính chất tuyên truyền, vận động, chỉ đạo cách mạng.
Thể phóng sự ở giai đoạn 1932 - 1945 còn đi vào một số lĩnh vực khác nữa của cuộc
sống. Ở phóng sự pha chất bút kí Hà Nội băm sáu phố phường (1943), Thạch Lam đã bàn về
tên các phố xá, biển hàng, đặc biệt là những món ăn thanh lịch, đậm đà của đất Thăng Long
"nghìn năm văn vật"... Đúng là, sau khi có thể phóng sự, nhiều nhà báo, nhà văn thuộc những
khuynh hƣớng khác nhau đã nhanh chóng nắm lấy thể loại mới mẻ, đầy năng động và hiệu
quả nay để tiếp cận, chiếm lĩnh, phản ánh hiện thực,
60
tạo nên một thành tựu rất phong phú và đặc sắc. Đặc biệt, năm 1938, ở Sài Gòn xuất hiện tờ
tuần báo chuyên về phóng sự. Tờ Phóng sự ra số đầu tiên ngày 10 Novembre, 1938. (Chủ
nhiệm báo là Công Minh). Tuần báo này đăng cả phóng sự báo chí và phóng sự văn học, với
sự tham gia của Thiếu Sơn, Lãng Tử, Thức Tề, Lê Pha, v.v... Nhƣng sang đến năm 1940,
đăng cả truyện ngắn, truyện dịch và thơ. Bài vở cứ nhạt và nghèo dần, phải hợp nhất với tờ
Trào phúng. Đến số ngày 16 Mars, 1940 thì chấm dứt.
1.3.2.2 Giai đoạn 1945 - 1979
Trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với hai thiên phóng sự dài
Cảnh Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp và bài giảng Muốn làm phóng
sự của ông, ở nhiều khóa bồi dƣỡng cho lực lƣợng văn nghệ kháng chiến do Chủ tịch Ủy ban
Kháng chiến Liên khu IV Đặng Thai Mai tổ chức, thể phóng sự đã như nhập cuộc vào hiện
thực chiến tranh và cách mạng. Nguyễn Đình Lạp cho rằng: "dân tộc ta vùng đứng dậy kháng
chiến, kiến thiết. Bao nhiêu sự nghiệp lớn lao của 25 triệu con ngƣời đang từng giờ, từng phút
phô diễn bằng xƣơng máu trên khắp nẻo đƣờng của xứ sở. Chúng ta không thể để cho chúng
trôi qua đi. Chúng ta có bổn phận phải chép lại, ghi chép đầy đủ, nóng hổi sự sống và chí quật
cƣơng. Thể phóng sự có thể giúp chúng ta làm đƣợc nhiệm vụ ấy (...). Dƣới thời Pháp thuộc,
phóng sự còn là một lợi khí sắc bén thì trong lúc này chúng ta cần đặt phóng sự vào vai trò
xứng đáng của nó" (Bài giảng Muốn làm phóng sự - Tlđd, tr. 304). Nhƣng đến năm 1949 và
đầu thập niên năm mƣơi, vai trò xung kích của thể phóng sự nhƣ đƣợc chuyển giao sang cho
thể bút kí và kí sự, bằng sự ra đời của một loạt tác phẩm kí kháng chiến, với những tên tuổi
nhƣ Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Huy Tƣởng, Bùi Hiển và lớp nhà văn trẻ
nhƣ Trần Đăng, Hồ Phƣơng... Và cũng từ đấy, thể phóng sự chìm dần vào sự quên lãng kéo
dài
61
suốt gần 40 năm, bỗng tự nhiên như thành trường hợp ngoài "biên chế" hệ thống thể loại văn
học cách mạng. Sự vắng bóng thể phóng sự trên văn đàn, phần nào gây nên sự hẫng hụt trong
đời sống văn học. Điều nghịch lí ở đây là, trong khi ở văn học từ sau 1945, chất liệu thẩm mĩ
của sáng tác phát triển theo hướng tăng cường tính sự kiện, tính chính luận - hai yếu tố nay
vốn sung mãn trong bản thể của phóng sự - thì chính thể loại này, thay vì đƣợc "trọng dụng"
lại bị hơ hững, lãng quên!
Tuy nhiên, vào năm 1962, tạp chí Văn nghệ và báo Văn học đã có sự khuyến khích
thể văn nay bằng việc vận động thi viết bút kí, phóng sự. Nhân dịp nay, một số nhà văn đã lên
tiếng. Bùi Huy Phồn, tuy không viết phóng sự, những là ngƣời "ƣa" dùng tƣ liệu, sự kiện khi
làm văn, đã bức xúc, ngậm ngùi: "Chẳng những các nhà phê bình lí luận văn học, các cơ quan
xuất bản thƣờng ít quan tâm đến thể văn này, thậm chí cả nhiều nhà văn đối với nó cũng tỏ ra
thái độ hững hờ, nếu không muốn nói là rẻ rúng" [145, 5]. Theo ông: "chúng ta cần có một
quan niệm đúng đắn về tính chất đặc thù, khả năng và tác dụng của thể văn phóng sự"; đừng
để "thứ vũ khí vô cùng nhạy bén bị han rỉ ra không dùng"; nên trả lại "chỗ đứng xứng đáng
trong văn học" cho thể phóng sự... Bốn năm sau đó, trong cuộc trao đổi về thể kí và vấn đề
viết về ngƣời thật, việc thật (năm 1966 - 1967), nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc đã phân tích
đặc trƣng, chức năng riêng của thể văn này, so với những thể loại kí khác. Ông cho rằng,
trong thanh tựu của mảng kí có "Một số tác phẩm có tính chất phóng sự dài (mặc dầu tác giả
đề là kí sự)... là Kí sự Cao - Lạng (1950) của Nguyễn Huy Tƣởng, Hiên ngang Cu Ba (1962)
của Thép Mới, Họ sống và chiến đấu (1966) của Nguyễn Khải" [150, 39].
Những đề nghị thiết tha và sự gọi nhớ về "tinh thần thể loại" của các nhà văn, nhà
nghiên cứu nói trên cũng bị thời gian quên lãng. Sự khuyến
62
khích, vận động viết bút kí, phóng sự của tạp chí Văn nghệ và báo Văn học ở những năm đầu
thập niên sáu mƣơi ấy cũng không giúp cho thể phóng sự hồi sinh. Vì thiếu mất một thành
viên "gạo cội" mạnh, sắc, tốc tả là thể phóng sự, nên mảng kí văn học đã ít nhiều chịu những
thiệt thòi. Chẳng hạn, trên thế giới có nhiều thiên phóng sự nổi tiếng về đề tài chiến tranh và
cách mạng của John Reed, Hemingway, Malamarte, Salsbuny, Graham Green, Burchétt,
Êrenbua, Pôlêvôi, Ngụy Nguy... (riêng Burchett đã lặn lội đến tận chiến trƣờng miền Nam
Việt Nam để làm phóng sự). Vậy mà, các nhà viết kí của ta đã bỏ lỡ dịp, không làm đƣợc
thiên phóng sự lớn về hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đánh thắng "hai đế quốc to", với
những chiến thắng Điện Biên "chấn động địa cầu", đại thắng mùa Xuân 1975 của chiến dịch
Hồ Chí Minh lừng lẫy... Thể phóng sự đã không "có mặt" để chớp lấy cái cảnh tƣợng đầy
khói lửa, ác liệt và hào hùng, dựng lên những bức tranh hoành tráng về chiến thắng vinh
quang, thật đáng tiếc thay!
Cũng xin trình bày thêm là ở giai đoạn 1946 - 1954 tại vùng Pháp tạm chiếm và giai
đoạn 1954 - 1975 ở vùng tạm chiếm của Mỹ ngụy, thể phóng sự vẫn tồn tại, nhƣng không có
đƣợc thành tựu đáng kể nào. Hai chàng họ Vũ (Tam Lang và Vũ Bằng), tuy vẫn còn cầm bút
nhƣng không viết phóng sự. Theo Phó giáo sƣ Trần Hữu Tá, thì vào khoảng 1955 - 1956, có
một số thiên phóng sự, nhƣ Trong ngõ hẻm, Dưới gầm cầu, Đây Cái Sắn... viết về tình cảnh
của những ngƣời dân di cƣ vào Nam. Năm 1965 - 1966 đã có một số thiên phóng sự viết về
cuộc sống nhộn nhạo, xô bồ, băng hoại nơi đô thị Sài Gòn, nhƣ Mãnh lực đô la của Vũ Duy,
Sài Gòn rác rưởi của Nguyễn Đình Thiên, Tư Chơi ngày tàn, v.v... Trong văn học đô thị
miền Nam, những năm tiếp sau đó, xuất hiện một số tiểu thuyết - phóng sự (nhƣ Tiểu thuyết
phiêu lƣu phóng sự Người anh hùng chín núi của Lê Văn Trƣơng (1972)).
63
Sự lãng quên đối với thể phóng sự trong suốt gần 40 năm không phải là do quá trình hoán cải
hay loại trừ thể loại này khi xây dựng hệ thống thể loại của nền văn học Cách mạng mà chủ
yếu là vì những nhận thức phiến diện về chức năng xã hội của thể loại. Ngay đến mấy năm
gần đây, khi nói về thể phóng sự, nhà văn Nguyên Ngọc đã cho rằng: "Phóng sự là một thể
loại có khả năng đặc biệt mạnh va sắc trong chức năng đào bới, phanh phui, mổ xẻ tức thời
những sự thật xã hội phức tạp, ngổn ngang, đen tối" [131, 11]. Liền sau đó, ông giải thích:
"trong gần 40 năm, phóng sự lặn hẳn đi, mất hút. Có lẽ không khó giải thích lắm: trong một
dòng văn học chủ yếu anh hùng ca, không có đất đứng và nảy nở cho phóng sự" [131, 11].
Phóng sự đâu phải chỉ có khả năng đặc biệt trong chức năng "đào bới, phanh phui, mổ xẻ tức
thời những sự thật xã hội phức tạp, ngổn ngang, đen tối"! Cả một nền phóng sự rất đặc sắc về
chiến tranh và cách mạng (nhƣ đã nói ở trên), hàng loạt những phóng sự nổi tiếng khám phá
những vùng đất lạ (thiên phóng sự đầu tiên trên thế giới của Staley viết về hồ Tanganuyika,
phóng sự của Upton Sinclair về rừng hoang dã Amadone, phóng sự Halibocton về dãy
Anpơ...), đã minh chứng cho khả năng mạnh và sắc của thể phóng sự trong việc khám phá
nhiều mặt khác nhau của hiện thực. Vì vậy, thể phóng sự hoàn toàn có thể có mặt, thậm chí
còn đóng vai trò xung kích xuất sắc trong "dòng văn học chủ yếu anh hùng ca", ngợi ca cái
đẹp, cái cao cả, cái hùng... Sự nhận thức phiến diện về chức năng của thể phóng sự không
phải chỉ là một sai lầm của một thời đã qua mà còn có thể là một vấn đề của thực tế sáng tác
hiện nay.
1.3.2.3 Từ 1980 đến nay
Sau gần 40 năm dài tắt lặng, những năm tám mươi, thể phóng sự đã xuất hiện trở lại.
Tác phẩm "lại mặt" đầu tiên là phóng sự Cây cói ở Hải Tân (tháng 8/1980) viết về chuyện
đồng cói Tiền Hải (Thái Bình) của Trần
64
Huy Quang. Nhƣng phải đến sau năm 1986, khi những tƣ tƣởng đổi mới về văn hóa văn nghệ
của Đảng đã có ý nghĩa quyết định đối vói diện mạo và chiều hƣớng phát triển của báo chí và
văn học thì thể phóng sự nhƣ "bùng nổ" mạnh mẽ. Đây cũng là lúc xuất hiện nền kinh tế thị
trƣờng với những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Trƣớc một hiện thực phong phú nhƣng có
phần ngổn ngang, bề bộn, phức tạp, thể phóng sự đã xuất hiện đúng lúc, với một thái độ nhập
cuộc, một cái nhìn mạnh dạn, thẳng thắn. Vai trò xung kích của thể văn sắc sảo nay đƣợc
phát huy trở lại. Có thể nói, phóng sự là thể văn đã đi đầu thực hiện phƣơng châm nhìn thẳng
vào sự thật, nói rõ sự thật mà công cuộc đổi mới đề ra. Các tác phẩm phóng sự thi nhau nở
rộ, trong đó, những tác phẩm đầu tiên gây đƣợc ấn tƣợng mạnh mẽ phải kể đến Vua lốp
(tháng 3 năm 1987) của Trần Huy Quang và Cái đêm hôm ấy... đêm gì! (8 - 1988) của Phùng
Gia Lộc. Trên các báo, tạp chí, chuyên san... phóng sự xuất hiện ngay càng nhiều; các nhà
báo, nhà văn viết phóng sự ngày một đông đảo. Ở thập niên chín muồi này, hàng loạt tập
phóng sự đã ra mắt bạn đọc nhƣ: Mọi linh hồn đều được đưa tiễn (1991), Vẫn phải tin vào
những giọt nước mắt (1996) đều của Xuân Ba, Phóng sự (tuyển - 1995) của Trần Huy Quang,
Ăn tết trong rừng chó sói (1995) của "con sói phóng sự" Huỳnh Dũng Nhân, Hành trình tới
chân lí (1995) của Trần Đình Bá, Tiếng kêu cứu của con chim gõ kiến (1995) của Trúc Chi -
Nguyễn Công Thắng, Huyền thoại giữa đời thường (1995) của Phạm Thục, Dòng sông êm
vẫn chảy giữa đời (1996) của Hoàng Chức Nguyên, SBC trên từng cây số (1996) của Nguyễn
Ngọc Thạo, Hồ sơ về một thế giới khác (1996) của Lê Huy Phú, Sự đời (1996) của Vũ Hữu
Sự, Kí sự pháp đình (1996) của Thủy Cúc, v.v... Một số phóng sự đã đạt đƣợc giải Nhất, Nhì
trong các cuộc thi viết bút kí, phóng sự, tiêu biểu nhƣ Mấy suy nghĩ về trạm bơm và cụm thủy
nông Cầu Giẽ (1980) của Hữu Thọ, Xưởng
65
nước hoa Thanh Hương tồn tại đến bao giờ của Mai Anh - Ngọc Trung, v.v...
Nhìn vào diện mạo thể phóng sự của thời kì đổi mới này, có thể thấy đề tài "thế sự",
"chống tiêu cực" chiếm một tỉ lệ nhiều hơn cả. Vì vậy, nhƣ chúng tôi đã nói tới ở trên, có thể
sự phiến diện trong quan niệm về thể phóng sự chưa phải đã hết. Không khéo, thứ "vũ khí"
sắc bén đƣợc tái dùng này sẽ chỉ lại đƣợc đem "chuyên trị" vào việc "đào bới, phanh phui, mổ
xẻ" nhƣ thời "tiền chiến" mà thôi! Hơn lúc nào hết, cái "ống kính" của thể loại phóng sự đang
vận hành hôm nay, muốn phát huy hết "công năng", nó đang rất cần đến sự "đạo diễn" của
phê bình, lí luận. Một điều dễ nhận thấy là hiện nay, không có những thiên phóng sự dài.
Trong bối cảnh "bùng nổ thông tin", với sự phát triển rộng khắp của các phƣơng tiện truyền
thanh, truyền hình, báo ảnh, internet... hiện nay, có lẽ "trí khôn thể loại" đã tự làm cuộc "tự
điều chỉnh" đó. Vả lại, sự dài, ngắn đâu có là thƣớc đo giá trị của tác phẩm và cũng không
làm ảnh hƣởng đến khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại. Và một điểm quan trọng nữa là,
tuy số lƣợng phóng sự ngày càng nhiều nhƣng thành tựu đạt được chưa có bao nhiêu. Nhiều
thiên phóng sự mới chỉ khai thác được bề nổi của sự kiện thời sự chứ chưa khám phá được bề
sâu của "tảng băng" chìm - những vấn đề bản chất, quy luật của cuộc sống đầy phong phú và
cũng không kém phần phức tạp hiện nay. Khác với phóng sự thời trước 1945, đường ranh
giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí trong giai đoạn hiện nay khá là mờ nhạt. Ngay
trong một vài tác phẩm đƣợc xem là tiêu biểu hơn cả, nhƣ Cái đêm hôm ấy... đêm gì? (của
Phùng Gia Lộc), Lời khai của bị can (của Trần Huy Quang), Người đàn bà quỳ (của Trần
Khắc)... vẫn chƣa có đƣợc cái chất văn học đậm đà.
Sự trở lại của thể phóng sự đã góp phần làm không khí văn học thêm
66
sôi động. Công cuộc đổi mới chỉ có thể khôi phục lại chứ không ai có thể trả lại được "địa vị
xứng đáng" của thể phóng sự trong báo chí và văn học. Chỉ bằng sự phát triển và thành tựu
phong phú của chính mình, thể phóng sự mói làm đƣợc điều đó. Thành tựu còn rất khiêm tốn
của thể phóng sự trong hơn mƣời năm qua cho thấy, mặc dù con đƣờng đã đƣợc rộng mở, lại
tận hƣởng đƣợc những phƣơng tiện hiện đại, nhƣng đâu phải dễ dầu mà thể loại này tạo nên
một cuộc bứt phá, để xác lập đƣợc vai trò của mình trong đời sống văn học hôm nay. Nhƣng
may thay, thành tựu phong phú của một thời còn đó. Đây không phải là những tia hồi quang
mà là cả một kho kinh nghiệm quý giá, kết tinh trong những thiên phóng sự thuộc hàng mẫu
mực của những cây bút bậc thầy. Trong đó, "ông vua phóng sự đất Bắc" Vũ Trọng Phụng là
một đại biểu xuất sắc nhất.
*
* *
Trên đây là một số vấn đề xung quanh thể loại phóng sự, qua những nội dung đã trình
bày, chúng tôi xin có một số kết luận nhƣ sau:
Theo những tài liệu mới và đối chứng cùng tài liệu ở các thời kì khác nhau, chúng tôi
thấy các ý kiến cho rằng, thể phóng sự ra đời đầu tiên ở Mỹ là có cơ sở hơn cả, vì đã đƣa ra
đƣợc dẫn chứng cụ thể. Từ cái nôi sinh thành đó, thể phóng sự nhanh chóng "phát tán" ra
nhiều quốc gia và ở mỗi nƣớc, từ thực tế sáng tác của mình, đã có nhiều quan niệm giống và
khác nhau về thể loại này.
Đầu tiên, thể phóng sự chỉ là sự ghi chép giản đơn "phỏng" theo "cố sự", tƣờng thuật
lại những điều tai nghe, mắt thấy, nhằm mục đích thông tin thời sự. Kế theo đó, phóng sự
tăng thêm chức năng điều tra, thẩm định, đánh giá hiện thực, góp phần trả lời những câu hỏi
mà cuộc sống đặt ra. Bằng việc sử dụng những phƣơng tiện của văn chƣơng, phóng sự có khả
năng trở thành tác phẩm văn học
67
Vì vậy, từ chỗ chỉ là một thể thuộc loại kí báo chí, là nơi gặp gỡ giữa báo chí và văn
học, cho đến nay, thể phóng sự đƣợc xem là "một thể kí trong báo chí và văn học" (Hà Minh
Đức). Giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học, tuy có cái gốc chung là tính người thật,
việc thật và tính chất thời sự, nhƣng lại là hai thể loại thuộc hai hệ thống loại thể riêng là kí
báo chí và kí văn học, với những đặc điểm riêng biệt. Điều này phản ánh sự tiến bộ của văn
học và báo chí.
Ở Việt Nam, thể phóng sự đã xuất hiện từ năm 1932, với thiên phóng sự mở đầu là
Tôi kéo xe của Tam Lang và đã đạt thành tựu to lớn với sự góp mặt của nhiều tên tuổi trong
làng văn - báo thời "tiền chiến". Sau một thời gian dài chìm trong quên lãng, đến cuối thập kỉ
tám mƣơi, thể phóng sự đã xuất hiện trở lại, góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mói báo
chí và văn học. Thể phóng sự đang trên đà phát triển, phát huy vai trò xung kích của mình
vào nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay.
68
CHƢƠNG 2: PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG: HIỆN THỰC VÀ TƢ
TƢỞNG
Những thiên phóng sự và tiểu thuyết kiệt tác đã đƣa Vũ Trọng Phụng lên hàng "chiếu
nhất", tài năng bậc thầy ở cả lĩnh vực tiểu thuyết và phóng sự. Khối lƣợng hết sức đồ sộ của
di sản văn chƣơng Vũ Trọng Phụng cho thấy cái bút lực "ghê gớm" của ông.
Khả năng chiếm lĩnh hiện thực của ngòi bút Vũ Trọng Phụng thật là phi thƣờng. Từng
mảng đời sống xã hội đƣơng thời cứ dần hiện lên trong từng tác phẩm của ông, hợp thành
một bức tranh rộng lớn, phong phú và rất đậm nét. Có thể xem họ Vũ là "ngƣời thƣ ký" mẫn
cảm của thời đại, vì chỉ mảng hiện thực đƣợc ông ghi chép bằng "ống kính" phóng sự cũng đã
là một khối tƣ liệu quý giá đối vói những nhà viết sử và những nhà khoa học xã hội muốn
khảo cứu về cái xã hội thời Pháp thuộc. Nội dung của những thiên phóng sự không chỉ bao
hàm toàn bộ hiện thực được phản ánh, mà còn chứa đựng những tư tưởng, tình cảm của tác
giả. Những vấn đề xã hội đƣợc tái hiện, mô tả một cách trung thực, sâu sắc là kết quả của sự
tôn trọng sự thật đời sống, óc tỉnh táo, khoa học trong quá trình nhận thức. Sự đánh giá, thẩm
định hiện thực đó, tuy có liên quan đến sự nhận thức, nhƣng lại phụ thuộc nhiều vào tƣ tƣởng
- tình cảm của nhà phóng sự. Vì vậy, để khảo sát giá trị nội dung của thành tựu phóng sự Vũ
Trọng Phụng, chúng tôi đi vào cả hai phƣơng diện nói trên, để một mặt, thấy sức bao quát và
khả năng cảm nhận, hiểu biết của Vũ Trọng Phụng về
69
hiện thực cuộc sống mà ông trình bày; mặt khác, thấy đƣợc sự thật của cách nhìn, của thái độ
cũng nhƣ cách đánh giá của họ Vũ đối với những sự thật đƣợc phản ánh, tức là tính chân thực
lịch sử của tƣ tƣởng - tình cảm của ông. Đối vói một hiện tƣợng đƣợc coi là "phức tạp" nhƣ
Vũ Trọng Phụng, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, để có thể tránh đƣợc những sai lầm
trong nhận định và đánh giá, nhằm tìm đƣợc những đóng góp và những hạn chế của "ông vua
phóng sự" trong chính những tác phẩm thuộc bộ phận sáng tác quan trọng này.
Những mảng hiện thực đƣợc thể hiện trong 5 thiên phóng sự còn lại, chủ yếu thuộc về
vùng hiện thực nơi thị thành của xã hội thuộc địa. Cũng nhƣ nhiều nhà văn đƣơng thời, ông
hƣớng ngòi bút phóng sự của mình vào việc khám phá những tệ nạn xã hội nhức nhối; những
vấn đề xã hội thƣơng tâm, éo le. Cây bút phóng sự sắc nhọn của họ Vũ đã "xói" thêm những
vấn đề mới, "đào" thêm những vỉa, tầng hiện thực ngay ở những lĩnh vực vốn đã đƣợc nhiều
ngƣời "thâm canh", để nhận thức thêm những phƣơng diện mới, những lớp hiện thực mới về
đời sống xã hội và con ngƣời.
2.1. Những mảng hiện thực đen tối
Bằng nhãn quan sắc sảo và ngồi bút hiện thực năng động, táo bạo, Vũ Trọng Phụng
đã lật tung những vấn đề xã hội thuộc hàng quốc nạn lúc đó là tệ tham nhũng, nạn cờ bạc bịp,
mại dâm và những vấn đề xã hội đầy thƣơng tâm nhƣ chuyện con đòi, con ở; chuyện lấy
chồng Tây của ngƣời phụ nữ vong quốc, phơi bày cái mặt trái đầy những ung nhọt và những
vết thƣơng lở lói trên cái cơ thể đang băng hoại của chế độ thực dân nửa phong kiến thời
Pháp thuộc.
2.1.1. Những tệ nạn xã hội trầm kha
2.1.1.1 Nạn cờ bạc bịp, một thứ "Cạm bẫy người"
70
Ngay từ thiên phóng sự đầu tay, họ Vũ đã tiến hành một cuộc thâm nhập táo bạo vào
một mảng hiện thực nơi thị thành: nạn cờ gian, bạc bịp... Trong Cạm bẫy người [154] là cả
một "thế giới ngầm", với cả một bề lũ lƣu manh, chuyên nghề cờ bạc bịp. Bề lũ lƣu manh này
đƣợc tập hợp thành hẳn một "làng" bạc bịp, với nhiều phe nhóm. Lực lƣợng của chúng, với
nhiều phe nhóm. Đứng đầu là gã Trùm Ấm B và Thƣợng Ký. Dƣới trƣớng của hai gã này là
cả một "bộ máy nhân sự" gồm những "giáo sƣ quỷ thuật", "chuyên gia bạc bịp" cùng một lũ
"tạ" đầu trâu mặt ngựa đƣợc "chuyên môn hóa" ở từng khâu trong "cỗ máy" bạc bịp: kẻ thì
chuyên ban mƣu tính kế, đóng vai con "chim mồi", trực tiếp làm "tài ban" (nhƣ tên Vân, Ký
Vũ); kẻ thì chuyên giữ "két" của làng bịp (nhƣ Cả Ủn); kẻ chuyên chế tạo "khí giới" (dụng cụ
gian khi hanh nghề)... Chúng phối hợp với nhau một cách hoàn hảo, trong cái "quy trình công
nghệ", nhằm "thịt" những "con mồi" khi sa vào "cạm bẫy". Cái làng bịp đầy bí hiểm nay có
cả một "chiến lƣợc" làm ăn và rất nhiều thủ đoạn nham hiểm.
Đối với mỗi loại bài cơ bạc, chúng có những ngón lừa đủ loại, từ thấp đến cao, từ
"non" đến "già", từ đơn giản đến tinh vi, phức tạp. Và tùy từng đối tƣợng mà tung ra những
ngón đòn thích hợp để cuối cùng có thể "nhét đất thó vào mũi" con bạc, móc sạch hầu bao
của họ. "Sự thiên biến vạn hóa" của những ngón nhà nghề này đã đạt đến mức "quỷ thuật":
nào là đòn trinh thám, hụt nọc, đồn bát lò xo, đòn Vân Nam (ngoại quốc). Chúng còn sử dụng
cả "khoa học thái Tây", chẳng hạn nhƣ đổ chì vào một con xúc xắc khiến nó biến thành một
thứ lật đật, không ngã, gieo mƣời lƣợt trúng cả mƣời... Những mánh khóe, thủ đoạn của làng
bịp thật là "thiên hình vạn trạng". Đến cả những con bạc lõi đời "khôn sặc máu mồm" vẫn cứ
"sa hố" mà vẫn không biết nên "hỏi Chúa Jesus hỏi Phật Thích Ca hay hỏi ma quỷ" [154,
178] xem mình bị bịp ra sao!
71
Trong cái xã hội tối tăm, đảo điên lúc ấy, có biết bao hiểm họa đối với con ngƣời,
trong đó, nạn cờ gian bạc bịp cũng là một thứ cạm bẫy nguy hiểm, gây ra bao cảnh tan cửa
nát nhà, bao ngƣời thân tàn ma dại, táng tận lƣơng tâm. Đây cũng là một trong những nguyên
nhân làm cho đạo đức, nhân tâm của cả cộng đồng càng thêm suy thoái.
2.1.1.2. Nạn mại dâm, cái "ung nhọt" khó trị
Thị thành thời thuộc địa là nơi mà tệ mại dâm hoành hành dữ dội. Cây bút phóng sự
Vũ Trọng Phụng đã tập trung khám phá tệ nạn này từ chính trong ngôi nhà Lục xì
(Dispensaire) "một nơi cấm, mà nếu không phải là nhà thổ, không là mật thám, không là thầy
thuốc thì ta không bao giờ đƣợc bƣớc chân vào" [155, 83]. Và từ cái "Viện bảo tàng những
điều ô uế" này, bao điều bí ẩn về một tệ nạn đƣợc nhà phóng sự đƣa ra ánh sáng.
Tuy đƣợc gọi là nhà Phúc đƣơng, nhƣng trƣớc những năm ba mƣơi; đây là "một nơi
ngục tù ghê gớm trong đó có bao nhiêu sự hành hạ, bao nhiêu sự lạm quyền, bao nhiêu sự đàn
áp của ngƣời nhà nƣớc" [155, 109 - 110]. Trong các "ngục thất" đó "có một ngƣời đã 60 tuổi,
không thể bán dâm đƣợc nữa" [155, 113]; có "một đứa gái độ 13,14 tuổi bị cáo là mãi dâm
lậu thuế" [155, 123]. Còn gƣơng mặt đám đông kỹ nữ ở đây là "những con ma lem mặt bủng
da chì mà da thịt nồng nặc những mùi nƣớc hoa rẻ tiền và khó ngửi, có những cái vú nát
nhẽo, những cái đùi hoặc ghẻ ruồi, hoặc hắc lào, hoặc điểm lấm tấm những vòng đen, di tích
của trùng giang mai" [155, 114].
Cai quản hai trăm những con ngƣời nhƣ vậy mà chỉ có một ban "Đội con gái" gồm
năm hay sáu ngƣời do một viên thanh tra ngƣời Pháp tên là Mass chỉ huy. Đội này có phận sự
"phải đi kiểm soát, lùng bắt 16 nhà thổ chung, 15 nhà điếm riêng, 377 cái phòng ngủ trong
các nhà săm! trong một đêm!" [155, 108], để bài trừ "bọn gái đi ngang về tắt". Họ còn có
nhiệm
72
vụ phát hoặc xé giấy cho gái thanh lâu, giữ sổ sách, giấy má của ngạch Cảnh sát xướng kĩ
(Services des Moeurs)...
Do quan hệ với nhiều khách làng chơi, phải chịu đựng cả những thú tính cực kỳ quái
gở, nhƣ lối kê giao (Sodunue) của lính Tây, nên "Có khi một gái thanh lâu có thể mắc một lúc
ba thứ bệnh của ba thứ vi trùng hoa liễu: gono, spiro, ducrey, ở âm hộ, hậu môn và ở mồm"
[155, 151].
Trong nhà Lục xì có một lớp học "mới lạ, kỳ quái nhất Đông Dƣơng, nếu (...) không
muốn nói: kỳ quái nhất thế giới" [155, 162], vì "mục tiêu đào tạo" là dạy bệnh nhân "trở
thanh gái đĩ tốt" [155, 153]! Trong cái lớp học kỳ lạ này "cô giáo lại kém vế nữ học sinh".
Đám học trò "tinh quái", "ăn gian nói dối nhƣ quỷ" lại hay "tủi thân" hay "phẫn chí" đã có lần
"xúm nhau đánh lại bà đầm dạy học khâu". Trƣớc một đối tƣợng giáo dục nhƣ vậy, "chính
sách trừng trị" của cô giáo đứng lớp cũng lại hết sức kỳ dị: "học trò túm đánh lẫn nhau, mỗi
khi thầy giáo thấy cần phải trừng phạt"! [155, 166].
Gái Lục xì không chỉ toàn loại mạt hạng, bệnh tật, bẩn thỉu mà còn có hạng đĩ
"thƣợng lƣu". Những ngƣời nay "có giấy ở riêng, có xe nhà, có xe hơi nhỏ (...) và đi nhuộm
tóc ở phố Paul Bert mỗi lần mất 16 đồng bạc" [155, 166 - 167]. Đó là những ả gái bao "nhân
tình của những quý quan"...
Những sự thật nhơ nhuốc và không kém phần quái đản diễn ra trong bốn bức tƣờng
của nhà Lục xì đã cho thấy tình cảnh bi thƣơng, ê chề của những kiếp gái "bán hoa" và đó
cũng chính là sự đen tối tận cùng của nghề kỹ nữ.
2.1.1.3 Nạn tham nhũng, một "công lệ" của giới quan nha
Bên cạnh nạn cờ gian bạc bịp và tệ mại dâm, một vấn đề nổi cộm, cũng không kém
phần nhức nhối của xã hội thuộc địa là nạn tham nhũng
73
tràn lan. Ống kính phóng sự Vũ Trọng Phụng hƣớng về một nơi huyện nhỏ, nhƣ bao huyện lỵ
khác trong cái cơ cấu hành chính của xã hội đƣơng thời, vào thời điểm là "tháng củ mật", khi
năm hết Tết đến.
Những ngay tết vui vẻ đang đến gần. Nhƣng trái lại, "Cả một huyện đều nhăn nhó gãi
đầu gãi tai, và dễ thƣờng chỉ có quan là giữ đƣợc cái vẻ đƣơng bệ và thƣ nhàn bình nhật"
[160, 92]. Bọn lính cơ thì "sôi lên sùng sục" chạy đến viên lục sự già, nhờ ông này "thƣơng
cho chúng cháu nhờ" - giúp xin quan huyện xuống lệnh cho họ đƣợc "đi tuần hơn trăm xã".
Đúng là cứ đến tháng chạp hàng năm cái "cỗ máy tinh tế" của xã hội kim thời là
những huyện nhà lại lặp lại cái vòng quẩn quanh thƣơng lệ khá nhịp nhàng và thuần thục.
Lúc này "chẳng một ai có thể đứng ra ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé, vì cái phận sự nộp của
đút, hoạt động từ dƣới lên trên" [160, 99]. Đám lính cơ, lính lệ "thì đi ăn cƣớp có giấy phép"
[160, 100]; đám thầy nho thì trổ những thủ đoạn tống tiền. Công sứ Tây, quan tỉnh, quan
huyện, thầy Thừa, thầy Lục... thì cấp giấy cho lính đi làm tiền hoặc "nhắm mắt làm ngơ"
trƣớc những thủ đoạn xấu xa, hành vi trắng trọn của thuộc cấp. Điều này thật dễ hiểu, vì nếu
sự ăn cƣớp nhƣ thế không còn, thì cái "công lệ" đút lót từ dƣới lên trên lấy gì mà tồn tại!
Ngƣời nhẵn túi, không ai khác, chính là những dân đen vốn đã khốn cùng, xác xơ, nghèo đói.
2.1.2 Những cảnh tượng thương tâm, nhức nhối
Không chỉ phanh phui những tệ nạn, cây bứt phóng sự Vũ Trọng Phụng còn tiếp cận
những cảnh tƣợng xã hội nhức nhối, thƣơng tâm.
2.1.2.1 Một "kĩ nghệ" quái gở
Ngạc nhiên vì lời khai hết sức "táo tợn", "ngộ nghĩnh" với thái độ "xƣng xƣng" trƣớc
tòa của một me Tây và hành vi "ngẩn ngƣời" rồi "mỉm cƣời tha thứ" của hai viên quan tòa,
nhà phóng sự tiến hành ngay một cuộc
74
điều tra để tìm ra sự thật.
Trƣớc hết, nha phóng sự tìm đến chỗ các me lê dƣơng, làng me bên cạnh trại lính lê
dƣơng Thị Cầu, Bắc Ninh để mở đầu cho một chuyến điều tra thực địa. Qua tình cảnh sống,
những lời "tự thuật" trung thực chẳng cần một chút che đậy của các me già, me trẻ, những cô
Tây lai và cả của những gã lính lê dƣơng, nhà phóng sự đã phát hiện ra bao điều "bí mật"
không kém phần bi hài xung quanh cái chuyện lấy Tây của những ngƣời phụ nữ vong quốc.
Nhà phóng sự cung cấp độc giả những thông tin, từ chính miệng của những ngƣời
trong cuộc về cái "lý do" lấy nhau của họ. Bà Kiểm Lâm buồn bã tâm sự: "chúng tôi lấy họ vì
tiền chứ không bao giờ vì tình" [157, 33]. Còn những gã chồng lê dƣơng thì cũng chẳng cần
úp mở: "tôi gọi ai tôi cũng coi nhƣ thuê gái một hạn dài vậy. Không còn bao giờ tƣởng nhầm
đến cái nghĩa cả: vợ chồng" (Đimitốp) [157, 25 - 26].
Thế là đã rõ. Thực chất của chuyện vợ chồng ở đây là "ngƣời đàn bà chỉ nghĩ đến tiền,
đàn ông chỉ nghĩ đến nhục dục" [157 , 57].
Nhƣng đối với ngƣời phụ nữ, làm điếm đã là một nỗi nhục. Phải làm me Tây thì nỗi
nhục này càng gấp bội phần vì vừa phải làm điếm vừa là đầy tớ cho Tây, nhất là Tây lê
dƣơng, một thứ lính viễn chinh, thành phần cặn bã của xã hội tƣ sản. Chúng đánh thuê là vì
tiền, hầu hết là những kẻ nát rƣợu và lấy vợ bản xứ để làm đồ mua vui, thỏa mãn thú tính. Là
những tên lính thực dân xâm lƣợc, bàn tay nhơ bẩn của chứng đã nhiều lần vấy máu "Bọn
giặc cộng sản là tôi bắn không tiếc tay" [157, 60] và tất nhiên cũng chẳng từ mọi tội ác khác
nhƣ đốt nhà, cƣớp của, hãm hiếp... Phải bám lấy những tên lính tƣợng trƣng cho tội ác xâm
lƣợc đó, những phụ nữ đi làm me còn phải chuốc lấy sự ác cảm của đồng bào mình. Đây
chính là những kẻ "bị quê hƣơng ruồng bỏ, giống nòi khinh". Còn những
75
gã lê dƣơng hung hãn, liều lĩnh, thô bỉ và dâm đãng kia thì lại có thể sẵn sàng chà đạp họ bất
cứ lúc nào...
Phải làm một thứ điếm mạt hạng, những ngƣời phụ nữ đó đã bị đẩy vào bƣớc đƣờng
cùng của sự tủi nhục, tối tăm. Sự chà đạp lên phẩm giá và sự tha hóa họ càng làm tăng thêm
những điều nhức nhối về số phận con ngƣời trong cái xã hội thuộc địa.
2.1.2.2 Những kiếp tôi đòi khốn khổ
Cùng với việc khám phá ra cái kỹ nghệ lấy Tây kỳ quái và số phận hẩm hiu của những
ngƣời phụ nữ làm me, ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng còn hƣớng đến thân phận của
những kiếp còn đòi, con ở, một hạng ngƣời "dƣới đáy" của cái xã hội thị thành thời thuộc địa.
Những con ngƣời thuộc "giới" cơm thầy cơm cô vốn không phải là những kẻ có gốc gác nơi
phố xá. Họ là những ngƣời nông dân phải rời bỏ cái làng quê xơ xác, tiêu điều vì những tai
trời ách đất, đi tha phƣơng cầu thực, đến đƣợc Hà thành, vì những tƣởng nơi đó là vùng đất
hứa.
Và từ đấy, ngƣời nhà quê nọ bắt đầu cuộc hội nhập vào cái xã hội thị dân, nhƣng giá
trị của họ bị bọn ngƣời dẫn mối xếp ngang với lòai súc vật. Họ cầu sao cho mình chỉ đƣợc
"nhƣ một con chó, nhiều khi kém một con chó", muốn đem sức trâu bò của mình ra "làm
nhiều công việc nặng nhọc" mà "vẫn không có việc làm" nên "tất là họ phải sinh ra liều
mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến thần Bạch Mi. Đàn ông sẽ đi đến Hình phạt"
[155, 50].
Hầu hết những ngƣời may mắn đƣợc làm con sen thằng nhỏ trong giới cơm thầy com
cô đã phải trải qua những cảnh đồi đen tối, trớ trêu, đắng cay, tủi cực. Làm con ở, họ "chỉ cầu
vào một cửa (...) đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh mình, chửi
mình" [155,
76
15]. Nhƣng cái cửa lành nhƣ vậy rất hiếm. Trong khi đó, phổ biến là cảnh con sen, thằng nhỏ
đƣợc chủ cho "ăn đói làm no", cảnh "ngƣời này sai chƣa xong việc này, ngƣời khác lại sai
việc khác". Vì vậy, thân con ở hóa thành "cái thân ba vạ".
Giới chủ nhà không chỉ bóc lột một cách tàn nhẫn sức lao động, mà còn chà đạp thô
bạo phẩm giá, thân thể của họ. Tình cảnh những kẻ tôi đòi thật quá đỗi thảm thƣơng. Nhƣng
cũng từ những con ngƣời sống trong xó bếp, sân sau của ngôi nhà giới chủ, nhà phóng sự đã
khám phá ra một sự thật không kém phần đen tối khác. Đó là sự nhẫn tâm, độc ác, keo kiệt,
bủn xỉn của giới chủ nhà. Nhƣng đó chƣa phải là điều tồi tệ nhất của giới chủ nhà. Điều lớn
hơn cả là sự suy bại gia phong, đạo đức, nhân cách của cái "tế bao" gia đình giới chủ, mà nha
phóng sự đã khám phá đƣợc qua những lời thuật kể của đám ngƣời đầy tớ.
2.2. Sự tha hóa của những “giới” ngƣời
Trong "vòng vây" của những tệ nạn xã hội hoặc phải sống trong cảnh lắt lay, nghèo
khổ và éo le, ở cái "nhân loại" mà Vũ Trọng Phụng đã khám phá, tuy có nhiều ngƣời vô tội,
đáng thƣơng, nhƣng, hiện diện trong đó có không ít những kẻ thuộc nhiều "giới" ngƣời khác
nhau, những tầng lóp xã hội khác nhau, trên đƣờng tha hóa, băng hoại: từ bọn trùm cờ bạc và
lũ tay chân của làng bạc bịp; giới chủ nhà và đám thằng nhỏ, con sen đến cánh "chị em mình"
trong cái nghề lấy Tây hoặc buôn hoa, bán phấn...
"Nhân chi sơ, tính bản thiện". Nhƣng ở thời thuộc địa, do phải sống trong hoàn cảnh
xã hội bóc lột, thối nát, nên con ngƣời không thể sống nhƣ mình mong muốn, họ bị tƣớc đoạt
mất cái bản chất ngƣời vốn có của mình. Con ngƣời trở nên xa lạ vói chính mình và trở thành
xa lạ đối với cộng đồng, nhân loại. Trong phóng sự của họ Vũ có cả một "quần thể" những
77
giới ngƣời lâm vào tình trạng tha hóa nhƣ vậy. Trong vòng của những tội lỗi, nhân cách của
họ trở nên dị dạng, dị hình, lƣơng tâm của họ dần bị băng hoại.
2.2.1. Những kẻ lụi tàn vì cờ bạc bịp
Nạn cờ bạc bịp đã gây ra bao hậu quả, nhƣng cái lớn nhất chính là sức tàn phá dữ dội
của nó đối với nhân cách con ngƣời. Đã bƣớc vào vòng cờ bạc thì những kẻ giăng bẫy và
những nạn nhân sa bẫy, cuối cùng, đều có chung một số phận là bị thần đỏ đen biến họ thành
những con bạc mất hết tính ngƣời.
"Nhân sự" của làng bạc bịp là một "tập thể" những bộ mặt bất lƣơng, tàn độc từ thầy
đến tớ. Chúng chẳng khác gì một lũ quỷ tham lam, lừa lọc, đểu cáng, đê tiện, "ăn thịt ngƣời
ngọt xót nhƣ đƣờng". Tên trùm Ấm B thú nhận hắn vốn là "Kẻ rong chơi bài bạc từ lúc thiếu
thời" rồi "đã phải xa gia đình vì đã phá tan cơ nghiệp". Hắn muốn lấy "việc ác trả nghĩa cho
việc ác" và trắng trợn khẳng định là mình "đã làm, đang làm và sau nay nữa vẫn cứ làm cái
nghề bất lƣơng này". Là một tên trùm, ngày đêm hắn vắt óc tìm ra những mƣu ma, chƣớc
quỷ, gài thêm những cạm bẫy thâm độc nhằm "làm thịt" cho đƣợc nhiều "con mồi". Đối với
đồng bọn, hắn cũng nói đến cái "nghĩa khí ăn ở với nhau nhƣ bọn Lƣơng Sơn Bạc, "có thủy
có chung"; nhƣng lại sẵn sàng "chỉ vì một con mòng, cũng đủ đâm lòi ruột nhau" thì đó chẳng
qua đó "chỉ là cái nhân nghĩa của quân đạo tặc mà thôi!"
Dƣới trƣớng gã "giáo sƣ quỷ thuật" này là đám "chuyên gia bạc bịp" và những lũ "tạ"
đầu trâu mặt ngựa, sống bâu bám quanh cái guồng máy bạc bịp bất nhân. Một trong những
thuộc hạ "sáng giá" của Trùm Ấm B là gã "chuyên gia" Tham Ngọc (tức Xuân), vốn xuất
thân đi ở cho nhà một ông Phán, Xuân thông minh, đƣợc xem nhƣ một con bạc bẩm sinh.
78
Trƣờng cờ trận bạc đã "đào luyện" hắn thành một tay bịp có cỡ, một tên lƣu manh, sẵn sàng
lừa thầy, trắng trợn phản bạn, lòng dạ rất ti tiện, thấp hèn. Đƣờng vào nghề bịp của hắn có nét
giống Trùm Ấm B, nhƣng hắn không thù đời mà chỉ muốn "cắt" đƣợc cho nhiều cái hầu bao
của thiên hạ để thỏa thú ăn chơi, trác táng...
Là một ngƣời lao động, hiền lành, bác thợ bạc Ba Mỹ Ký vốn có một “bàn tay vàng"
khéo léo, "làm ăn phát tài". Đầu tiên, bác thợ này chỉ đánh bạc để giải trí, nhƣng từ đó sinh ra
lƣời biếng và bị chủ đuổi việc. Rồi bác ta xin vào làm môn đồ cho Trùm Ấm B và dùng chính
những cây búa, dũa... vốn là công cụ lao động và cả tay nghề, tâm trí của mình vào việc chế
ra những "khí giới" các loại - những đồ nghề "đểu" phục vụ cho cái "kỹ nghệ bạc bịp" của
bọn bất nhân. Bác ta đã "sinh nghề tử nghiệp" một cách thảm thƣơng với một đám ma lạnh
lẽo và bài văn tế đầy chất khôi hài của "đồng nghiệp"; "chết rồi mà "linh hồn còn phải chịu
tủi nhục".
Khác với Ba Mỹ Ký, Vân là một sinh viên, vừa tốt nghiệp Trƣờng cao đẳng thƣơng
mại. Con một ông Phán giàu có, lại sắp cƣới vợ đẹp, nhƣng do muốn có nhiều tiền để cung
phụng cho gái điếm, hắn đã chủ động "rƣớc" bịp về và làm hƣớng đạo để "thịt" bố, lấy tiền
chia nhau. Từ đó, Vân chính thức thành dân làng bịp.
Tuy nhiên, lại còn có rất nhiều ngƣời lao vào con đƣờng cơ bạc đâu phải vì kiếm kế
sinh nhai, ông công chức "lƣơng tháng đến hai trăm đồng", hễ có tiền là đi đánh bạc cho đến
nhẵn túi, mặc cho vợ chì chiết, nói nhƣ "xẻo từng miếng thịt" mà ông vẫn bình tĩnh. Tệ hơn
nữa, ông còn sẵn sàng "lột áo ngƣời sống bán áo ngƣời chết" theo đúng nghĩa đen của thành
ngữ này và "chung thân làm con bò vắt sữa cho tụi ông Ấm B...". Còn những kẻ nhƣ cả Sính
(chủ ả đào), Đại Thiềng (chủ hiệu giày), Mỹ Bối (chủ hiệu
79
vàng bạc)... thì nào có phải nghèo hèn mà vẫn lao vào những canh bạc đỏ đen! Và cả ông
Nguyễn Đình Mầu "một tay cự phách trong nghề buôn gỗ" giàu nứt đố đổ vách, đánh bạc
thua cả năm, bảy trăm, một nghìn đồng; ông phú hộ nửa tỉnh nửa quê "bán ngót chục mẫu
ruộng" vì bài bạc, đem bốn chục bạc đi cân sâm cho đứa con trai đang ốm thập tử nhất sinh
"nƣớng" vào canh bạc bịp, ra về tay không; rồi vô số những viên tổng lý bị cách chức vì đem
hết tiền thuế đi đánh bạc, những viên chức đánh bạc thụt két bị tù, v.v... Tất cả những ngƣời
kể trên đều tự nguyên làm đồ đệ trung thành của thần đổ bác, bất chấp luân thƣờng đạo lý ở
đời. Họ thực sự là những kẻ trên đƣờng băng hoại.
2.2.2. Những kẻ khốn cùng tha hóa
Bên cạnh những con ngƣời tha hóa vì sa vào vòng cờ gian, bạc bịp, còn có những kẻ
nghèo hèn, khốn cùng, vì những lí do khác nhau, cũng đã bị sa ngã, băng hoại.
Phải làm kẻ tôi đòi cho giới chủ nhà (mà phần nhiều rất keo kiệt, ác độc), trong cái xã
hội thị thành đầy giả dối, không ít những con sen thằng nhỏ đã nhanh chóng "dứt bỏ" cái gốc
gác dân quê thật thà, hiền lƣơng, chất phát, thay vào đó là sự tinh quái, ranh ma, hiểm độc.
Ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng đã ghi nhận đƣợc những trƣờng hợp tiêu biểu: có thằng
nhỏ ác độc "bỏ thuốc độc định giết cả nhà chủ", có những đứa ở lƣu manh dám "đốt nhà của
chủ hoặc dắt cƣớp vào nhà"; có những thằng nhỏ đê tiện, dâm ô "hiếp con gái ông Phán..."
[155, 71]. Sự biến chất và trở thành những kẻ bất lƣơng nhƣ vậy có thể xuất phát từ nỗi căm
uất đối với sự ác độc của chủ nhà, nhƣng những hành động hèn hạ nhƣ trên đều là những tội
lỗi bất nhân. Có những khi, hành vi trả thù lên đến mức vô cùng hiểm độc, nhƣ trƣờng hợp
của con sen Đũi. Cái con sen tinh ma quỷ quái này đã tiến
80
hành một "kế hoạch hành động "mà" mục tiêu" của nó là khiêu dâm, làm hƣ hỏng hai thiếu
niên con chủ. Và đến lƣợt mình, sau cái lần bị hiếp và nhất là sau phi vụ khiêu dâm thành
công đối với hai đứa con chủ, thì chính con Đũi đã trở thành "một đứa hƣ hỏng, giả dối, rất
nguy hiểm cho đời" [155, 44]. Không thể tìm thấy ở nó "những dấu vết cũ của một cô gái nhà
quê, ngoan ngoãn hay làm, có những ƣớc mơ bình dị (...) nhẫn nhục sống với một ngƣời
chồng cục mịch, chỉ có việc chịu khó làm ăn" [155, 43 - 44]. Đũi không chỉ muốn làm cô đầu
mà còn muốn leo lên các địa vị cao hơn: làm ba Phán, bà Kí trong cái xã hội trƣởng giả. Có
những thằng nhỏ lập mƣu (đem cứt chó bôi lên phản ngủ) làm cho hai bố con chủ nhà chửi
bới lẫn nhau. Sự biến chất nhanh chóng của giới cơm thầy cơm cô đƣợc nhà phóng sự "khái
quát" trong một nhận xét: "mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở đƣợc vài tháng thì ăn cắp
nhƣ ranh, ăn bớt nhƣ quỷ" [155, 71].
Trong những ngƣời phụ nữ cùng đƣờng phải lấy những tên lê dƣơng thô bỉ, cũng có
những kẻ vì tiền mà trở nên trơ trẽn, lố bịch. Họ đánh mất tất cả, từ thể xác đến tâm hồn, khi
hành cái "nghề" lấy Tây quái gở. Không chỉ giận dữ khi nhà phóng sự cho rằng họ "lấy Tây
vì tình" mà những ngƣời phụ nữ nay còn chẳng ngần ngại phơi bày cho mọi ngƣời biết những
mánh khóe, thủ đoạn trong cái "kĩ nghệ" lấy Tây vì tiền của mình: nào giả ghen, để đƣợc
"chồng" yêu; viết những lá thƣ tình giả dối, nhằm "gãi vào tình cảm", để móc hầu bao những
gã "chồng" Tây, kể cả những kẻ đã về "mẫu quốc". Không ít những ngƣời phụ nữ, sau những
năm "lăn lộn" trong cái "kĩ nghệ" làm me đầy bi hài đã trở thành những "con quái vật", những
thứ "đàn bà ma bùn" nhƣ lời lẽ của chính họ "tổng kết" cái cuộc đời "bỏ đi" của mình.
81
2.2.3. Sự băng hoại của giới chủ nhà
Hầu hết chủ nhà là ông thông, ông phán, ông tham, ông cai, ông kí... Kèm theo các
"quý ông" là các bà chủ và những cô, cậu chủ. Đây là lớp ngƣời trƣởng giả có cuộc sống
phong lƣu và nhìn bên ngoài họ là loại ngƣời cao sang, phẩm giá - một hình ảnh đối lập với
hạng ngƣời thấp hèn là đám con đời, con ở của họ.
Nhƣng qua những ngƣời ăn, kẻ ở, nhà phóng sự đã khám phá đƣợc bao sự thật phũ
phàng ẩn chứa trong từng tế bào gia đình của cái tầng lớp đƣợc xem là cao sang đó. Ở một
gia đình ông tùy phái nọ, nhà có sáu ngƣời, "cùng chung máu mủ (...) mà mỗi ngƣời đều vào
bếp thổi một niêu cơm" và mỗi ngƣời có thức ăn của riêng mình. Khi ngƣời cha trót "ăn
nhầm" của mình mấy miếng chả rƣơi, ông tùy phán đã không ngần ngại "hạ cấp" ông thân
của mình xuống hàng thằng này, con nọ: "... thằng thuê gác ngoài, thằng thuê gác trong, mà
vợ ngƣời ta để phần cơm ngƣời ta, mà lại nhầm! Nhầm kể cũng lạ!". Một gia chủ khác thì lại
nuôi chó tử tế hơn nuôi bố đẻ. Chó thì ăn toàn xúp thịt bò, còn ngƣời bố thì mặc áo nâu, còm
cọm làm vƣờn suốt ngày nhƣ một đứa ở. Khi ông bố cầm xe điếu đánh con chó (vì trúng kế
đứa ở) thì gã chủ nhà này chửi luôn cả "tiên sƣ" ông cụ, v.v...
Đó là hiện trạng của mối quan hệ cha con. Còn mối quan hệ giữa vợ chồng gia chủ
cũng có không ít những "xen" thảm hại. Ở những cặp vợ chồng trẻ thì có chuyện "ông ăn chả,
bà ăn nem". Vợ chồng già thì đối xử với nhau một cách thô bỉ. Họ đều giống nhau ở cách đối
xử tàn nhẫn với con ở. Một con sen đã "tổng kết quy luật": "càng những quân giàu có thì lại
càng keo bẩn, chó đểu, không ra loài ngƣời" [155, 34].
Lại còn chuyện, các thành viên của gia đình giới chủ có lúc "đồng
82
sàng" với đám đầy tớ "thấp hèn". Có anh đầy tớ đẹp trai "thỉnh thoảng lại đƣợc một chuyến
bà chủ yêu, hoặc con gái ba chủ yêu" [155, 67]. Có thằng nhỏ "đƣợc kỳ lƣng cho các tiểu
thƣ", "có những thằng xe đƣợc ngủ giƣờng Hồng Công với bà chủ" [155, 71]. Có "những con
sen đƣợc ông chủ quý hơn vợ" và có những cậu chủ mới 12 tuổi mà "trong cặp sách đi nhà
trƣờng, lúc nào cũng đầy những cảnh dâm dục" [155, 35], đã bị con sen đẩy xuống vực dâm
bôn... Những cảnh tƣợng vô luân, đồi bại nhƣ thế đã minh chứng cho sự suy bại về đạo đức
và lối sống của tầng lớp đƣợc xem là nhân vật trung tâm của xã hội đô thị đƣơng thời.
Bằng việc khám phá những mảng hiện thực đen tối và sự tha hóa của nhiều giới ngƣời
trong cái xã hội thị thành, Vũ Trọng Phụng đã bóc trần cái sự thật "hãi hùng, kinh ngạc về
loài ngƣời" lúc đƣơng thời. Ống kính sắc sảo đƣợc "vận hành" bởi một nhiệt tâm còn cho
thấy cái nhìn và tƣ tƣởng, tình cảm của "ông vua phóng sự".
2.3. Giá trị và hạn chế của nội dung phóng sự
Là một nhà hiện thực luôn chủ trƣơng "tả chân" triệt để, Vũ Trọng Phụng đã nhƣ
"buông mình xuống đáy sâu nhất" của hiện thực xã hội đƣơng thời, để khám phá, phản ánh và
sáng tạo. Ông đã đề cập đến những vấn đề cơ bản thuộc những tệ nạn và vấn nạn xã hội trong
cái chế độ thời thuộc Pháp. Trong phóng sự của họ Vũ, chủ đề xã hội kết hợp chặt chẽ với
chủ đề con người; qua con ngƣời thấy bộ mặt xã hội và qua hiện trạng xã hội cho thấy những
vấn đề nhân sinh trong đó. Đây chính là khả năng nắm bắt hiện thực và những hình thức biểu
hiện của nó.
Muốn nhận thức đƣợc bản chất của hiện thực phải "xâm nhập vào tồn tại", đi sâu
khám phá những bí mật của cuộc sống ở những vỉa, tầng
83
phức tạp, khuất lấp, để từ đó có những nhận xét, đánh giá và thể hiện sự tìm tòi tƣ tƣởng, cảm
quan hiện thực nhạy bén và sự hiểu biết hiện thực một cách sâu sắc sẽ giúp nhà phóng sự phát
hiện đƣợc những vấn đề mới. Cảm quan và sự hiểu biết này dựa trên một lập trƣờng tƣ tƣởng
tiến bộ sẽ giúp cho nhà phóng sự phân tích, lý giải hiện thực một cách đúng đắn và có thái độ
thẩm định, đánh giá một cách khoa học theo chiều hƣớng nhân đạo, và trong một chừng mực
nào đó, có thể đƣa ra những giải pháp nhằm nhân đạo hóa hoàn cảnh và xây dựng nhân cách
con ngƣời.
Bằng việc khám phá ra những vấn đề xã hội nóng bỏng, những vấn đề có tính vĩnh
hằng thể hiện khát vọng sâu xa của con ngƣời, những thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng
vừa có giá trị lịch sử - thời sự, vừa có giá trị nhân đạo quý giá, mặc dù trong đó còn có những
điều bất cập và những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa.
2.3.1. Giá trị lịch sử - thời sự
2.3.1.1. Sự dộc đáo của bức tranh hiện thực
Phạm vi hiện thực mà cây bút phóng sự họ Vũ hƣớng tới là thị thành nơi cuộc sống
diễn ra hết sức sôi động, xã hội phân hóa một cách sâu sắc, nhiều tệ nạn và những vấn đề xã
hội phát sinh... Đây là giai đoạn băng hoại đến tột cùng, báo hiệu sự cáo chung của chế độ
thực dân Pháp ở Việt Nam, mà chính Pierre Pasquier, trong báo cáo trƣớc Đại hội kinh tế lý
tài Đông Dƣơng ngày 25 tháng 11 năm 1931 đã phải hoảng hốt báo động: "sự rối loạn trầm
trọng đến mức phải tự hỏi rằng xã hội tƣ bản của chúng ta, phải chăng đang độ hoàn toàn tan
rã" [57, 23].
Do cùng phản ánh một phạm vi hiện thực nhƣ vậy nên đề tài của văn học hiện thực
phê phán ở giai đoạn 1932 - 1945 thƣờng lặp đi, lặp lại một số vấn đề quen thuộc. Nhƣng với
nhãn quan hiện thực nhạy bén, khi cùng
84
với những cây bút phóng sự đƣơng thời viết về những tệ nạn và những vấn đề xã hội, Vũ
Trọng Phụng đã khám phá, bóc trần thêm những tệ nạn xã hội trầm kha, nguy kịch và những
vấn đề xã hội tiềm ẩn, bức xúc. Chính vì vậy, bức tranh hiện thực trong phóng sự của họ Vũ
có nhữg điểm mới độc đáo, mang đậm cá tính sáng tạo của riêng của ông. Điểm nổi bật của
những bức tranh này là tính chân thực, sâu sắc nên nó vừa có sức tố cáo mạnh mẽ, vừa mang
đậm tính nhân sinh, nhân đạo.
Nạn cơ bạc đã có từ lâu. Cảnh "chồng đánh bạc, vợ đánh bài" đã xuất hiện trong ca
dao truyền thống; cảnh bài bạc cũng đƣợc đã mô tả trong một số tác phẩm của Trọng Khiêm,
Đặng Trần Phất, Nam Cao, v.v... Nhƣng có thể nói chưa có một tác phẩm nào viết một cách
tập trung, sinh động và sâu sắc về tệ cờ bạc đỏ đen, đặc biệt là những thủ đoạn cờ gian bạc
bịp xảo quyệt, tinh vi, muôn hình vạn trạng nhƣ phóng sự Cạm bẫy người của Vũ Trọng
Phụng. Điều này thể hiện ở sự khám phá ra cái nạn cờ gian bạc bịp, với bao thủ đoạn xảo
quyệt, tinh vi. Đây là một thứ tội ác có tổ chức, quy mô hoạt động rộng khắp. Ấy thế mà "Sở
liêm phóng tuy làm việc một cách giỏii không ai địch nổi, là có thể khám phá nổi cả những
hội kín, thế mà bọn tạ kia hành động công nhiên cũng không thấy mật thám nào biết đến, cái
đó mới thật đáng chép trong cuốn sách "những sự chẳng ngơ"" [154, 232]. Hậu quả của tệ
nạn nay thật to lớn ở chỗ không chỉ làm cho những kẻ say máu đỏ đen thƣờng khánh kiệt gia
sản mà tất cả họ còn đều trở thành những kẻ lạnh lùng, điêu trá, lƣu manh, tàn nhẫn. Nhƣ
vậy, tệ cơ bạc bịp thực sự là thứ cạm bẫy nguy hiểm đối với nhân cách, đạo đức của con
ngƣời. Sự khám phá có ý nghĩa sâu sắc nay của Vũ Trọng Phụng càng cho thấy âm mƣu của
thực dân Pháp thâm độc biết chừng nào, trong việc chúng dung túng cho nạn cờ bạc hoành
hành tàn
85
phá lƣơng tâm, đạo đức của con ngƣời trong chế độ thuộc địa.
Trong nhiều tác phẩm văn học của ta, hình ảnh con ở, con đời thƣờng xuất hiện một
cách lẻ loi. Họ nhƣ những cái bóng, sống một cuộc đời tủi nhục, cay đắng trong những gia
đình giàu có, keo kiệt, độc ác... Còn trong Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng là cả hình
ảnh "tập thể" của giới tôi đòi. Chuyện đi ở của họ đƣợc nhìn nhận như một vấn đề xã hội với
bao điều xót xa, nhức nhối mang đậm tính bi hài. Đã có những tác giả viết nhiều trang cảm
động về cảnh bán vợ đợ con hay những cô gái bán mình vì hiếu nghĩa. Nhƣng chƣa có tác
phẩm nào viết về cái chợ bán ngƣời nhƣ trong Cơm thầy cơm cô của nhà văn họ Vũ. Đây là
một cái chợ mua bán ngƣời thực thụ. Hàng hóa "tƣơi sống" ở đây là những kẻ bần cùng.
Những lái buôn là các mụ mối chuyên nghiệp, hết sức gian giảo "Suốt đời không bao giơ biết
nói thật" [155, 26], mềm nắn rắn buông. Xen chị vú em nọ "vạch yếm để hở cái ngực trắng
nõn vắt sữa vào lồng một bên bàn gay" [155, 23] cho khách hàng xem, thật là vƣợt xa hơn cả
hành vi "vén tóc bắt tay" của mụ mối khi mua Thúy Kiều. cảnh thử sữa nay tƣơng tự nhƣ
cảnh nắn bắp thịt, xem miệng, xem răng trong những cái chợ mua bán nô lệ thời kỳ man rợ...
Nhƣ vậy, trong xã hội đồng tiền thời thuộc địa, con người thực sự trở thành một thứ hàng
hóa được đem mua bán một cách lạnh lùng, công khai.
Trong chế độ thuộc địa, tệ tham nhũng tràn lan nhƣ một nạn dịch. Đến những thập
niên đầu thê kỷ này, khi xã hội thực dân sắp đến lúc cáo chung thì tệ tham nhũng càng hoành
hành dữ dội. Nhiều nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn này đã tái hiện một cách sinh động
hình ảnh xấu xa của giới quan tham lại nhũng. Bằng nghệ thuật trào phúng sắc sảo, trong
Dòng nước ngược, Tú Mỡ đã tố cáo lũ quan lớn, quan bé, quan mới, quan cũ... bòn rút, đục
khoét dân lành. Chúng "ăn bẩn" đến mức ngƣời ta có thể ngửi thấy hơi đồng nơi đáy bụng"
từng tên. Trong nhiều tác phẩm
86
của mình, đặc biệt là những truyện ngắn nhƣ Cái nạn ô tô, Đàn bà là giống yếu..., Nguyễn
Công Hoan đã tố cáo những thủ đoạn bẩn thỉu, đả kích sâu cay bọn quan lại sâu mọt. Đó là
một lũ không những bóp hầu, bóp cổ ngƣời dân mà còn thẳng tay bóp nặn đám thuộc hạ của
mình một cách trắng trợn. Vũ Trọng Phụng tuy không viết nhiều về tệ tham nhũng, nhƣng
thiên phóng sự Một huyện ăn tết của ông đã góp phần khám phá ra một điều mới mẻ: những
thủ đoạn tham nhũng bẩn thỉu, trắng trợn hay tinh vi không chỉ có ở viên quan nay hay gã lại
kia, mà là của cả cái bộ máy hành chính thối nát thời thuộc địa. Lũ quan nha bản địa nhƣ một
bầy "gà qùe" ăn quẩn một cách thảm hại quanh cái "cối xay" nghèo cũ nát của đồng loại và
đem cung phụng cho những ông chủ thực dân. Đó cũng chính là tấn bi kịch thuộc địa của một
dân tộc đang phải sống trong vòng nô lệ. Chứa bên trong tấn bi kịch thuộc địa nặng nề này
còn có những kiếp ngƣời đau khổ nhƣ những ngƣời phụ nữ cùng đƣờng phải làm me Tây.
Vói sự tinh nhạy của một nhãn quan hiện thực sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã không để hiện
tƣợng me trôi nổi trên dòng sông dƣ luận với bao lời dị nghị, hoặc chỉ thấp thoáng ẩn hiện
nhƣ những hình ảnh vụn vặt trong bức tranh xã hội thuộc địa đen tối của văn học đƣơng thời.
Và ông đã là người đầu tiên đưa vấn đề me Tây lên ống kính phóng sự. Kỹ nghệ lấy Tây là
một mảng hiện thực độc đáo về xã hội thuộc địa. Trong đó, chuyện lấy Tây, làm me cũng
nhức nhối nhƣ bất cứ vấn đề xã hội nào. Ở đây, không phải riêng chuyện của một mợ nào đó
"đi Tây", chuyện của một cô Tây Hoẻn, hay xa hơn nữa là chuyện của người đàn bà vợ tên
quan Tây đồn Bà Rịa thời của Thầy Lazaro Phiền, mà là một câu chuyện dài đầy bi hài của
cả một làng me, với cả một lịch sử thăng trầm và sự phũ phàng, chua cay, bẽ bàng của biết
bao cuộc đòi lỡ dở, tàn tạ...
Sẽ không sao tả đƣợc đầy đủ và sâu sắc tình cảnh của ngƣời phụ nữ
87
dƣới chế độ thuộc địa, nếu bỏ qua những số phận cay đắng của những phụ nữ cùng đƣờng
phải sống kiếp me Tây, một loại gái mãi dâm mạt hạng cho những kẻ ngoại bang xâm lƣợc.
Tệ mãi dâm lúc đó tràn lan nhƣ một nạn dịch. Hiện thực đen tối này đƣợc phản ánh
trong nhiều tiểu thuyết và phóng sự đƣơng thời: Một cô Tuyết có học nhƣng thích sống
phóng đãng, giang hồ nên dấn thân vào "đời mƣa gió" (Đời mưa gió - Nhất Linh - Khái
Hƣng). Một cô thôn nữ hiền lành tên là Tám Bính bị phụ tình, bị cha mẹ hắt hủi đã bỏ làng ra
tỉnh rồi bị lừa, bị cƣỡng hiếp và bị biến thành lƣu manh, gái điếm (Bỉ vỏ - Nguyên Hồng). Và
vô số những phụ nữ nghèo của "Hà Nội lầm than" (Hà Nội lầm than - Trọng Lang) vào
những lúc "Hà Nội ban đêm" (Hà Nội ban đêm - Tràng Khanh - Việt Sinh) đi ăn sƣơng, đón
khách...
Khi thực hiện một thiên phóng sự điều tra về thực trạng này, chớp lấy dịp may, Vũ
Trọng Phụng đã "nhanh tay" mở toang luôn cái cánh cửa nặng nề vốn im ỉm khóa chặt trƣớc
công luận bấy lâu của ngôi nhà Lục xì u ám, đầy những điều bí mật. Và những điều ô uế, nhơ
nhớp đen tối đến tận cùng của nghề kỹ nữ đã đƣợc nhà văn họ Vũ phơi bày trƣớc ánh sáng.
Trong thiên phóng sự này, ông còn "điểm bình khắp một lƣợt những cô thợ của cái kỹ nghệ
mãi dâm ở Hà thanh", từ gái đĩ "nhà nƣớc" (có giấy hành nghề), gái đĩ lậu, cô đầu, gái nhảy,
me Tây, đầm lai và cả gái đĩ đầm Tây "chính hiệu"... Đó là một bức tranh toàn cảnh về một tệ
nạn. Bằng việc lấy số liệu chính từ miệng viên Đốc lý Hà Nội Virgitti nói về số lƣợng gái
mại dâm ở Hà Thành (5 nghìn trên 18 vạn dân), bằng việc so sánh số liệu này với nạn mại
dâm ở chính thủ đô của nƣớc Pháp, nhà phóng sự họ Vũ đã tố cáo trƣớc công luận cái "thành
tích văn minh, khai hóa" của thực dân Pháp. Ông nói: "xã hội này có vết thƣơng, tôi phô nó
ra để các ngài biết mà chạy chữa. Lục xì là nạn mại dâm, là nạn hoa liễu, nó đƣơng đục
88
khoét 9/10 cái xã hội" [115, 135]. Không chỉ dừng lại ở việc phơi bày thực trạng, tác giả Lục
xì còn hăng hái truy tìm nguyên nhân, tìm hiểu cách thức, biện pháp đối phó vói tệ nạn mại
dâm của nhà chức trách thực dân. Rồi với bản lĩnh và "thiên chức" của nhà phóng sự, Vũ
Trọng Phụng đã chế diễu, phê phán cái đám "cảnh sát phƣờng chèo", "chính sách tùy thời"
của chính quyền thuộc địa, đồng thời bày tỏ quan điểm của mình trƣớc những giải pháp nhằm
giải quyết tệ nạn nhức nhối và trầm kha này.
Trong các nhà văn đƣơng thời, rất hiếm ngƣời có sức bao quát hiện thực trên bình
diện rộng lớn và sâu sắc nhƣ Vũ Trọng Phụng. Chỉ xét riêng thành tựu về thể phóng sự, ta
thấy sức tìm tòi, phát hiện của ông lớn lao biết chừng nào. Ông đúng là ngƣời "biết đào sâu,
biết tìm tòi, khơi những nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo những cái gì chƣa có". Ngay cả đối
với đề tài nạn mãi dâm, tuy đã có nhiều cây bút chú mục và khai thác thành công trên nhiều
bình diện, nhung Vũ Trọng Phụng vẫn tìm ra một góc nhìn riêng, có tầm bao quát và cũng rất
sâu sắc. Cũng chính vì vậy mà bức tranh về xã hội và con ngƣời trong phóng sự của ông đã
có ý nghĩa lịch sử thời sự, ý nghĩa nhân sinh, nhân đạo sâu sắc.
Những vấn đề xã hội và con ngƣời nổi cộm lên trong năm thiên phóng sự của Vũ
Trọng Phụng đã làm cho ngƣơi đọc không khỏi giật mình, kinh ngạc trƣớc một thực trạng bi
đát, phũ phàng đến mức khó mà tƣởng tƣợng nổi. Bằng ngòi bút thần tình và điêu luyện, ông
đã xé toạc tấm áo mỹ miều, phơi bầy những mụn nhọt hôi hám trên cái thân hình thối tha, đầy
những vết thƣơng và những căn bệnh hiểm nghèo đã ăn sâu vào tận "lục phủ ngũ tạng" của xã
hội thuộc địa.
2.3.1.2. Giá trị lịch sử
Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã ra đời trên cái "phông" lịch sử xã hội đen tối, thối
tha đầy rẫy cảnh bần cùng, tha hóa cùng biết bao tệ nạn.
89
Còn đến lƣợt mình, bằng nguồn tƣ liệu phong phú, ngồn ngộn chất sống, những phóng sự của
ông có giá trị nhƣ những cuộn phim tƣ liệu với nhiều đoạn quay chậm, quay gần, với nhiều
góc độ khác nhau, làm từng mảng lịch sử hiện lên sống động, rõ nét. Đó là "cái xã hội một
nghìn lần khốn nạn" [155, 247], nạn khủng hoảng kinh tế và chính sách bóc lột tàn bạo đã
đẩy con ngƣời vào cảnh lao đao. Công chức thất nghiệp phải sa vào con đƣờng lƣu manh, dân
quê phải dời bỏ những làng quê xơ xác tiêu điều dồn về thành thị làm nghề ở đợ... Biết bao tệ
nạn và những vấn đề xã hội nhức nhối nảy sinh. Kia là cả một thế giới bạc bịp với những tên
trùm, bọn "quân sƣ" và cả một lũ "tạ" đầu trâu mặt ngựa đang ráo riết săn những con "mòng",
trong mấy trăm cái sòng bạc đã đƣợc chính sử thống kê. Đây là hình ảnh nhớp nhơ đủ hạng
của làng kỹ nữ, với những khuôn mặt xanh xao và những thân hình lở loét vì vi trùng lậu,
trong sáu nghìn gái mãi dâm ở Hà thành mà chính sử đã ghi nhận. Rồi những ba Đội Chớp,
Chánh Tý, Duy Kiềng, La Oa... làm "dầy dặn" hơn cho cái trang lịch sử me đầy tính bi hài
với những cô Tƣ Hồng, bà Bé Tí... những mụ me Tây nổi tiếng xấu một thời, nhƣ họ Vũ từng
nói: "Những đàn bà mà chúng ta thừa biết cái danh tiếng vang lừng, song tôi không thuật vào
đây, vì rằng ở đời này vẫn sẵn có ngƣời thừa độc ác để lôi mình ra tòa án" [155, 63 - 64].
Những trang phóng sự đầy chất liệu sống đó của Vũ Trọng Phụng mang ý nghĩa như
một bản cáo trạng, làm phong phú thêm cho cái bản án chế độ thực dân Pháp, vì nó cung cấp
những sự kiện và những "chứng nhân" đầy sức thuyết phục: Cờ bạc, đĩ điếm, tham nhũng,
phụ nữ cùng đƣờng phải làm me Tây, v.v... Đó cũng là một thứ bia ai điếu cái chế độ thực
dân nửa phong kiến thời thuộc Pháp.
"Trong các nhà văn hiện thực phê phán, Vũ Trọng Phụng là ngƣời thành công nhất
trong việc vạch trần những sự thối tha của xã hội tƣ sản"
90
[37, 37] Những vấn đề mà Vũ Trọng Phụng đặt ra trong phóng sự của ông có ý nghĩa xã hội
sâu sắc. Mỗi thiên phóng sự của ông là một bức tranh riêng, có giá trị bổ sung cho bức tranh
toàn cảnh về xã hội thuộc địa trong văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945.
2.3.1.3 Ý nghĩa thời sự
Cái quy luật "khách quan" lạnh lùng mà Vũ Trọng Phụng đã phát hiện và trình bày
trong các phóng sự của ông, không chỉ là câu chuyện của đương thời mà còn có giá trị thời
sự cho đến hôm nay. Trong bối cảnh đất nƣớc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng và
chiến lƣợc mở cửa, ngoài những yếu tố tích cực mà nó mang lại thì những tệ nạn và những
vấn đề xã hội lại có cơ phục hồi và phát triển với tính chất, quy mô ngày càng tăng. Tình hình
này liên tục đƣợc phản ánh trên báo chí. Chẳng hạn, báo Nhân Dân, ngay 28 tháng 10.1995,
báo Sài Gòn giải phóng ngày 6 tháng 11.1995 đều đăng tin công an triệt phá đƣợc những
sòng bạc lớn. Báo Thanh Niên ngày 2 tháng 4.1996 viết về "hậu duệ" của Casinô Năm Can sa
lƣới. Còn báo Pháp luật đăng chuyện "Những công ty cơ bạc" bị phát hiện. Và ngày 29 tháng
3 năm 1996 đã đăng một phóng sự dự thi: Cờ bạc, số đề - cuộc chiến chưa có hồi kết thúc,
v.v... Đặc biệt, trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 1 năm 1996 có đăng bài của Trần Thanh:
Hà Nội chống tệ nạn xã hội. Trong đó có đoạn: "Nạn cơ bạc, số đề hoành hành ở mức báo
động. Số đề ở thành phố lan đi rất nhanh, tàn phá nông thôn các huyện ngoại thành. Bọn chủ
chứa gái tổ chức quy mô, tinh vi có trang bị máy bộ đàm, điện thoại, vũ khí để đối phó với
lực lƣợng công an... Qua công tác điều tra cơ bản, Hà Nội có 167 chủ chứa mại dâm; 296 chủ
chứa tội nghiện hút, tiêm chích; 117 chủ chứa cờ bạc, 158 đối tƣợng dắt gái mại dâm..."
(trang 7). Trên báo Hà Nội mói ngày 23 tháng 1 năm 1994 có đăng phóng sự Những đứa trẻ
đi ở của Tạ Việt Anh. Tác giả cho biết, ở Hà Nội có hàng
91
ngàn các em ở các tỉnh lân cận về làm nghề đi ở. Nhƣng "Ai mà biết chắc rằng trong hàng
ngàn đứa bé đi ở ở Hà Nội có bao nhiêu em đƣợc đối đãi tử tế. Và ai có thể nói chắc rằng các
em bị lợi dụng quá mức, làm việc không hợp với lứa tuổi, thậm chí là công việc phạm pháp
hay bị lợi dụng tình dục..." (trang 3).
Tuy nhiên, đó là chuyện của mấy năm về trƣớc ở Hà Nội. Cho đến nay tình hình đã
phức tạp hơn rất nhiều; bao nhiêu chỉ thị, kế hoạch bài trừ, phòng chống tệ nạn xã hội đều ít
có hiệu quả. Nạn tham nhũng đã đƣợc coi nhƣ một thứ quốc nạn "tệ nạn của mọi tệ nạn". Rồi
chuyện lấy Tây, Tàu, Hàn Quốc vì tiền... đang nhƣ một bệnh dịch gây ảnh hƣởng xấu đến đạo
đức, lối sống của thế hệ trẻ. Theo báo Sài Gòn giải phóng ngày 8 tháng 6 năm 1999, trong
cuộc tọa đàm Phụ nữ với vấn đề lấy chồng người nước ngoài, do Hội phụ nữ Việt Nam tổ
chức, ngƣời ta đã thống kê đƣợc con số là 9.713 phụ nữ lấy chồng ngoại quốc. Trong những
năm vừa qua, ngƣời ta nhắc nhiều đến Vũ Trọng Phụng và viết những phóng sự "nhại" theo
những cái tít của ông: Kỹ nghệ lấy chồng Tây, Kỹ nghệ lấy chồng Đài Loan, v.v... Và họ Vũ
nhƣ đang đồng hành cùng chúng ta hôm nay chống các tệ nạn xã hội. Công cuộc chống các tệ
nạn và giải quyết những vấn đề xã hội hôm nay khác thời Vũ Trọng Phụng về căn bản, vì
chúng ta có thể chủ động xóa bỏ. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, nhiều thành
phần, tệ nạn không phải là một thứ định mệnh, có thể tránh đƣợc nó, thông qua vai trò quản
lý của nhà nƣớc và tính tích cực của cả cộng đồng. Trong những lúc này, lòng nhiệt thành
chống những tệ nạn "phàm ngƣời nào quan tâm đến xã hội, lo sợ cho giống nồi cũng đều phải
biết" [155, 81] của nhà phóng sự Vũ Trọng Phụng càng đáng đƣợc trân trọng. Có lẽ ông là
ngƣời Việt Nam đầu tiên kêu gọi phải giáo dục giới tính cho học trò. Đây là sự nhìn xa trong
vấn đề giáo dục trẻ vị thanh niên của "ông vua phóng
92
sự". Chính vì vậy, giá trị lịch sử - thời sự của phóng sự Vũ Trọng Phụng càng có tính nhân
đạo sâu sắc.
2.3.2. Tư tưởng nhân đạo
Khi bàn về yếu tố tƣ tƣởng, tình cảm trong văn chƣơng, L. Tolstôi cho rằng: Cái mà
nghệ sĩ miêu tả, nhƣ thần thánh, bọn ăn cƣớp, các sa hoàng, đám chó săn, thì chúng ta chỉ tìm
và thấy có tâm hồn của chính nhà nghệ sĩ mà thôi.
Xuyên suốt năm thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng là sự nhức nhối trƣớc một hiện
thực đen tối về xã hội và con ngƣời. Đó là nỗi nhức nhối đậm màu sắc nhân đạo chủ nghĩa.
Tƣ tƣởng nhân đạo ở đây không chỉ thể hiện qua nhiệt tình phê phán phủ nhận cái thực tại
thối nát làm hƣ hỏng con ngƣời, lòng trắc ẩn và thái độ cảm thông bênh vực những nạn nhân
của cái xã hội vô nhân đạo ấy, mà còn ở việc thẳng thắn vạch ra một sự thật hết sức bi đát về
con ngƣời. Đó là sự tha hóa, biến chất một cách thảm hại của họ.
2.3.2.1. Một niềm trắc ẩn
Phóng sự của Vũ là một cuộc hành trình nhằm tìm tòi và khám phá sự thật. Những
cuộc tìm tòi, phát hiện có pha màu sắc ly kỳ, nhƣng đó đích thực là những cuộc săn lùng cái
ác, cái xấu đã gây nên những tệ nạn, hoặc những nguyên nhân gây ra một thực trạng, một tình
cảnh bi đát. Đó chính là những dấu hiện chắc chắn của chủ nghĩa nhân đạo. Chẳng hạn, nhƣ
ở trƣờng hợp ông viết Cạm bẫy người. Bạn thân của Vũ Trọng Phụng kể rằng, để có tƣ liệu
viết phóng sự này, Vũ đã "dám liều mình "đâm đầu" vào các sòng bạc của Cả Vê, Hai Mơ,
Ba Sính la ba tên cầm đầu các sòng bạc bấy giờ ở Hà Nội (...). Và ông đã "lật tẩy" tất cả
những mánh khóe cạm bẫy, lột túi "thịt" ngƣời của bọn chủ sòng ác ôn, trên mặt giấy" [55,
68].
93
Cũng theo lời ngƣời bạn này kể thì "lũ ác ôn" làng bịp đã gửi thƣ cảnh cáo, dọa "lấy
cái đầu" của ông (cũng nhƣ lũ hào lý làng Đại Hoàng dọa giết Nam Cao sau khi ông viết Chí
Phèo). Cho dù đó chỉ là một giai thoại, nhƣng cuộc "truy lùng" đầy mạo hiểm này đã có kết
quả. Cạm bẫy người không khác gì một "trái bom" cực mạnh giáng trúng đầu não hết sứ bí
hiểm của cái làng bịp ma quái. Đồng thời, tác phẩm nhƣ chứa cái thông điệp "Hỡi loại ngƣời,
hãy cảnh giác!" vốn rất cần trong bối cảnh nạn cờ bạc đỏ đen đang hoành hành và tác oai tác
quái dữ dội lức bấy giờ.
Tệ mãi dâm cũng bị nhà phóng sự truy tìm ở tận cái nhà Lục xì đầy nhơ nhớp.
Nguyên nhân của tệ nạn này cũng đƣợc đƣa ra mổ xẻ, truy cứu. Tệ nạn này có bởi sự "tiếp
xúc với những dân tộc khác, hoặc vì thƣơng mại, hoặc bị xâm chiếm (...) càng dễ bị nạn hoa
liễu" [155, 96]. Tệ nạn này còn tồn tại là do nhà nƣớc bảo hộ cứ "bình chân nhƣ vại chỉ chữa
chạy qua loa", do "sự lãnh đạm cổ truyền của ngƣời An Nam với vấn đề hoa liễu" [155, 97]...
Rồi nguyên nhân gì làm đám ngƣời "nhà quê" kia phải bỏ quê hƣơng bản quán, phiêu bạt lên
Hà thành kiếm một cửa làm con đòi, con ở. Vì sao những cô gái quê hiền lành và xinh xắn
nhƣ Ái, Tích... lại phải làm me, và những cô gái "tài có, sắc có, chữ nghĩa cũng có" [157, 19]
mà phải lấy Tây để cuối cùng trở thành loại "đàn ba ma bùn". Nhìn thấy những đứa trẻ con
lai, vô thừa nhận "đứa nào trông cũng hay hay, tinh khôn nhanh nhẹn lạ (...) trông nhƣ trẻ
quảng cáo của hiệu sữa Con chim", nhà phóng sự bỗng nặng lòng với những lo lắng suy tƣ
"Tôi buồn rầu vì chợt nghĩ đến bố mẹ chúng. Bọn trẻ ấy sau này sẽ có tƣơng lai ra sao?" [157,
56]... Cứ vậy, mỗi phóng sự có biết bao nhiêu câu hỏi kiểu nhƣ thế và tất cả phóng sự của họ
Vũ là một câu hỏi lớn bao trùm về cuộc đời về xã hội và số phận con ngƣời. Tuy không phải
câu hỏi nào cũng đƣợc ông lý giải một cách đủ đầy, nhƣng rõ ràng phải có một nỗi "đau đớn
lòng" đến mức
94
nào đó thì mới có thể đặt ra được những câu hỏi trước "những điều trông thấy" ấy.
Nhân vật chính trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là ngƣời thuộc tầng lớp "hạ lƣu"
sống dƣới đáy xã hội thực dân phong kiến. Có đôi chỗ, ông tỏ ra khinh miệt họ. Nhƣng bao
trùm lên tất cả là tình thƣơng của tác giả đối với lớp ngƣời nghèo khổ sa chân lỡ bƣớc. Đó là
đám ngƣời "nhà quê", "những kẻ mà ngƣời ngợm với áo quần đã đủ tiêu biểu cho bao nhiêu
nỗi thống khổ của loài ngƣời, từ khi cuộc đời là cuộc đời" [155, 47]. Rồi chuyện đau lòng của
anh đầu trọc, thằng bé ho lao "Vỡ đê, trôi cả nhà, cửa trâu, bò. Vợ nó ra đi ở vú em rồi không
về. Ra tìm mãi không thấy phải đi kéo xe" [155, 59 - 60]. Đặc biệt là cảnh thảm thƣơng của
con sen động kinh, bị mật thám xích, bị "cô ả tân thời" (bà chủ cũ) tát vào gáy, đã gây cho tác
giả "đầy những bất bình", "không bao giơ quên đƣợc" cảnh tƣợng đó. Chỉ mƣời trang của
chƣơng "Bi hài kịch" nay đã chứa "biết bao nỗi thƣơng tâm, bao tình nhân loại" [155, 552].
Những ngƣời đàn ba cùng đƣờng phải lấy Tây, phải làm gái điếm cũng đưọc nhà
phóng sự dành cho những tình cảm xót thương như vậy. Ông cảm thông trƣớc nỗi thẹn thùng
của gái Lục xì trong mỗi lần khám bệnh, đồng cảm với nỗi day dứt, nhức nhối của họ "đến
nhƣ họ là khổ lắm, nhục lắm rồi, mà ngƣời trên lại cho ngƣời nhà báo vào kiếm chuyện rêu
rao họ là đĩ, nói họ xấu, nhìn họ nhƣ nhìn những loài hổ, báo, trăn, rắn trên Bách thú thì thật
khó chịu lắm" [155, 161]. Khi những cái tên của những cô gái Việt đáng thƣơng ấy, đƣợc một
ngƣời Pháp lơ lớ đọc lên, trong phiên điểm danh khám bệnh ở nhà Lục xì, nhƣ Trane Ti Lock
(Trần Thi Lộc), Nguyen Ti Yane (Nguyễn Thị Yến), Nguyên Ti Suau (Nguyễn Thị Sửu)... thì
nỗi thương cảm của nhà phóng sự bỗng như trào dâng, bật thành lời than hết sức cảm động
"những cái tên ấy nghe nhƣ vô tội, những cái
95
tên xƣa kia đã bao phen thốt ra một cách âu yếm ở miệng một ngƣời mẹ hiền, một cách lo sợ
ở miệng một ngƣời bố "gà sống nuôi con", hay là một cách ảo não đến đứt gan đứt ruột ở
miệng một cậu nhân tình" [155, 147].
Không chỉ cảm thông, thƣơng xót mà trong nhiều trƣờng hợp, nhà phóng sự đã đứng
ra "tố khổ", kêu oan, thanh minh, bênh vực những con người khốn khổ ấy. Trƣớc câu hỏi làm
điếm do nghèo đói hay hƣ hỏng, ông dứt khoát đồng cảm với lời giải đáp rằng "họ phần nhiều
là gái nhà quê, thất nghiệp. Hƣ hỏng thì có lẽ cũng có, nhƣng "hƣ hỏng" theo nghĩa Tây
phƣơng thì, không!" [155, 135]. Theo ông, họ là cả "một cái nhân loại hỗn độn, bất trị vừa
đáng ghê tởm, vừa đáng thƣơng xót" [155, 131]. Và có trƣờng hợp, ông hết sức tán thành với
lời tố cáo chế độ bất nhân: "Khi có một con bé khốn nạn, phải bán thân nuôi miệng thì tức
khắc Nhà nƣớc vồ lấy nó rồi bắt nó đóng một thứ thuế mà có ngƣời kêu ca là vô nhân đạo.
Sau khi đã sắp chết đói thì lại đến cái nhục nhã" [155, 124]. Nhiều cô gái phải làm me, lấy
Tây cũng do tình cảnh tƣơng tự. Đứng trƣớc sự tàn ác, bất nhân của giới chủ nhà với con ở,
ông dứt khoát đứng về phía những nạn nhân, mặc dù chính họ cũng phạm lầm lỗi "còn xa tôi
mới làm thầy kiện cãi không công cho hạng ngƣời giàu có ma bắt đứa ở đi mua một hào chỉ
thịt quay cho chủ nhà, khi chủ không dặn kỹ nó, và, do thế, báo thù chủ nhà, bằng cách rẩy
đứa con chủ nhà vào cái vực dâm bôn" [157, 40].
Khi đặt nỗi cảm thông, lòng trắc ẩn, sự bênh vực của Vũ Trọng Phụng dành cho lớp
ngƣời hạ lƣu, cùng khổ bên cạnh thái độ của ông đối với bọn quan nha tham nhũng trắng
trợn, bẩn thỉu, lũ lƣu manh bạc bịp, giới chủ nhà độc ác tham lam, ta thấy tƣ tƣởng nhân đạo
trong các phóng sự của ông mang đậm tính nhân đạo truyền thống; lên án những kẻ cƣờng
quyền, áp bức; phanh phui bản chất tham lam, thối tha của chúng, bênh vực những kẻ khốn
cùng.
96
2.3.2.2 Một lời cảnh báo
Nhƣng trong bức tranh toàn cảnh của những thiên phóng sự, tầm nhìn của ông còn
rộng và bao quát hơn. Ông không chỉ đứng về phía những ngƣời nghèo đói "kêu ca cho
những sự thống khổ (...) bị áp chế, bị cƣỡng bức" [89, 130], nỗi bất hạnh về mặt vật chất;
quan tâm đến số phận tinh thần của con ngƣời cả về mặt tâm hồn, ý thức, ý niệm, xác tín, mà
còn quan tâm đến con ngƣời ở một trong những phần sâu sắc nhất và cũng hiện thực nhất của
nó. Đó là cái xấu, cái thấp hèn, cái thô bỉ, ác độc... mà ông gọi dó là "thói xấu của người
đời". Khi phơi bày cái sự thật phũ phàng và đen tối này sẽ làm "ta phải hãi hùng kinh ngạc
về loài người" [155, 68].
Thực ra, ở một vai chỗ, trong bức tranh đen tối về con ngƣời cũng có nhấp nháy đôi
ba điểm sáng yếu ớt. Tên Trùm Ấm B... tuy là kẻ đại gian manh, hiểm độc nhƣng cũng có
tình thƣơng với Ba Mỹ Ký, một gã tay chân trung thanh, xấu số. Gã chuyên gia bạc bịp Ký
Vũ là ngƣời có hiếu với mẹ. Bọn chúng ăn ở vói nhau theo cái nghĩa khí Lƣơng Sơn Bạc
(Cạm bẫy người). Còn trong cái xã hội nhớp nhúa của làng me Tây vẫn hiện lên khuôn mặt
dễ thƣơng, một con ngƣời biết tự trọng, có hiếu với mẹ nhƣ cô đầm lai Suzanne. Hoặc trong
đám "đàn bà ma bùn" lấy Tây chỉ vì tiền, sống không biết có ngày mai ấy, vẫn có một bà
Kiểm Lâm âm thầm tủi nhục, xót xa, "tự biết phận mình" là đáng khinh, "là hạng bỏ đi"...
Con hầu hết những ngƣời trong cái "nhân loại" ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, nhƣ chúng tôi
đã có dịp trình bày ở phần trên, là một đám ngƣời lem luốc, xấu xí đủ đƣờng. Đó là những kẻ
sống bất chấp luân thƣờng đạo lý, sẵn sàng chà đạp lên tình nghĩa cha con, vợ chồng, sống
ích kỷ, đố kỵ, lừa lọc, ăn gian nói dối, tham lam, lừa thầy, phản bạn, trâng tráo, dâm ô, trụy
lạc, đểu giả, lƣu manh, độc ác... Trong mỗi con ngƣời này đều có một phần ác quỷ, theo nhƣ
triết lý của họ Vũ "ngƣời ta ai không là một thứ quái vật".
97
Nhƣng ở hầu hết mọi trƣờng hợp, phần quỷ dữ luôn chiến thắng.
Đúng là một "nhân loại" hƣ hỏng, xấu xa. Nhƣng cái xấu của "ngƣời đời" trong phóng
sự Vũ Trọng Phụng không chỉ có nhƣ vậy. Điều "hãi hùng về loài ngƣời" mà Vũ Trọng
Phụng khám phá đƣợc ở đây là sự bi đát và đen tối tận cùng ở sự tha hóa của con người.
Trong cái xã hội thuộc địa đầy bất công, tàn bạo, có biết bao con ngƣời bị tha hóa, bị
xô đẩy và vòng tội lỗi hoặc xuống vực thẳm của sự sa đọa. Hoàn cảnh đã đè bẹp, ngốn nuốt
cả nhân tính và biến nhân hình của anh cố nông hiền lành, biến anh thành con quỷ dữ của
lang Vũ Đại (Chí Phèo - Nam Cao). Hoàn cảnh cũng xô đẩy những thôn nữ hiền lành nhƣ
Tám Bính (Bỉ vỏ - Nguyên Hồng), Tiền (Chuyện người hàng xóm - Nam Cao) hay những cô
gái quê trong Tối ba mươi - (Thạch Lam)... vào con đƣờng trụy lạc, sa đọa.
Mặc dầu cái xã hội độc ác đóng dấu lên mặt anh ta những vết sẹo ngang dọc, khƣớc từ
quyền đƣợc làm ngƣời, nhƣng cái "nhất điểm linh đài" trong con ngƣời, khi bừng sáng đã
thôi thức Chí Phèo ngật ngƣỡng, nắm chắc cán dao đi tìm kẻ thù đòi trả cho mình quyền đƣợc
làm ngƣời lƣơng thiện. Những cô gái điếm nói trên cũng có một khát vọng tƣơng tự. Trong
nỗi xót xa cho thân phận chìm nổi của mình, Tám Bính da diết nhớ con, khao khát đƣợc làm
mẹ; Tiền mong thoát khỏi nơi bùn nhơ và trong cái Tối ba mươi mịt mù, mấy cô kỹ nữ ngồi
khóc nhớ quê hƣơng, thƣơng tiếc những ngay còn sống thanh sạch... Họ là loại cây, bị đầy ải
trong bóng đêm, nhƣng vẫn muốn vƣơn ra ánh sáng.
Xa hơn nữa có thể thấy một Thúy Kiều cũng bị sa vào bể trầm luân của cuộc đời kỹ
nữ. Nàng phải chịu bao đớn đau, tủi cực, ê chề. Trong những năm trời đằng đẵng, Thúy Kiều
đã bao phen vùng vẫy, những mong thoát ra khỏi cảnh đời nhục nhã...
98
Nhƣng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng rất khó tìm thấy cái mô típ tha hóa theo kiểu
"truyền thống" như trên. Cái "nhân loại" xấu xa, trong phóng sự của họ Vũ, mỗi kể tha hóa
do hoàn cảnh và tình huống riêng, nhung tất cả như đều có chung một "lộ trình", một "công
thức.". Đó là "Khi một người đã sa ngã, hoặc tự mình, hoặc do người khác xô đẩy cũng vậy,
đã sa ngã một lần rồi cứ sa ngã mãi" [157, 65].
Một lũ dân làng bịp, từ những tên trùm đến bọn tay chân cứ mãi lao sâu vào con
đƣờng tội lỗi; mặc dù biết mình đang làm cái việc "bất lƣơng". Đám quan quân ở một huyện
nhà chuyên nghề đục khoét và ăn cƣớp một cách chẳng thèm che đậy. Và cái con sen vốn là
cô gái quê hiền lành lại lao vào "lộ trình": "đã là con sen thì cô gái quê sẽ cứ làm cô đào. Cô
gái quê đã bị một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh sẽ là một cái thang để
cô gái quê treo lên cao" [157 , 40] để rồi lún sâu vào vực thẳm trụy lạc... Tất cả đều cứ nhƣ
những con thiêu thân cứ lao mãi vào đƣờng băng hoại. Khác với những nhân vật của Nguyên
Hồng, Nam Cao... cái "nhân loại" của họ Vũ không có ý thức chống lại sự tha hóa, cũng
không phải là những kẻ "đã liều nhắm mắt đƣa chân"... mà cả cuộc đời "đã sa ngã một lần rồi
cứ sa ngã mãi" không hề mảy may hối tiếc và muốn hoàn lƣơng cả.
Sự tha hóa nhƣ vậy có ý nghĩa nhƣ một sự hủy diệt hoàn toàn nhân cách, trong đó có
yếu tố tự hủy diệt. Đây chính là điều "hãi hùng" nhất của con ngƣời "từ khi nó là con ngƣời",
nhƣ cách nói của Vũ Trọng Phụng.
2.3.2.3 Một thái độ thẳng thắn với cái xấu của con người
Trong cuộc hành trình khám phá bản thể con ngƣời, họ Vũ đã phát hiện ra một vùng
đau mới. Tuy các nhà văn hiện thực đƣơng thời cùng khám phá bi kịch của cuộc sống, có
chung "nỗi đau về con ngƣời", nhƣng chƣa ai phát hiện ra cái "vùng đau" dữ dội nhƣ vậy.
Thạch Lam đã từng
99
quan niệm, con ngƣời "là ngƣời với những sự cao quý và hèn hạ của ngƣời". Cái hèn hạ,
nhếch nhác, xấu xí... của con ngƣời cũng đƣợc phơi bày rất nhiều trong nhũng tác phẩm của
Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, v.v... Nhưng sự tha hóa của con người không ở đâu "hãi
hùng" như các nhân vật trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Tính chân thực, cụ thể của việc miêu tả con ngƣời, không phải thể hiện ở chỗ nhà văn
điều tiết những phẩm chất tốt và xấu của mỗi nhân vật, mà bởi sự thâm nhập vào chiều sâu
thế giới nội tâm của nhân cách. Họ Vũ đã tiếp cận bản thể con ngƣời ở những tầng bản chất
vốn rất phong phú, phức tạp của nó. Đầu tiên là cái bản chất hàng một. Đó là con ngƣời với
tƣ cách là thành viên của một giới hoặc một giai cấp nhất định. Trong phóng sự của ông, có
rất nhiều "mẫu hàng" của giới cơm thầy cơm cô, giới gái mại dâm, giới quan lại, giới cờ bạc
bịp, giới các ông bà chủ, v.v... Ông còn đi sâu khám phá, nói nhƣ giáo sƣ Trần Đức Thảo, thì
đó là "con ngƣời theo nghĩa chung của loài ngƣời, con người nói chung. Đây là bản chất
hàng hai ở bề sâu mỗi con ngƣời, cái chất ngƣời bị tha hóa bởi những quan hệ giai cấp bóc
lột" [189, 34]. Và ông còn đào sâu đến cả bản chất sinh vật học của con ngƣời. Vì vậy, trong
phóng sự của ông không chỉ có "ngƣời đời" mà còn có cả "loài ngƣời", có hẳn cả một "nhân
loại".
Tuy nhiên, "nhân loại" ở đây không phải là một khối chung chung, trừu tƣợng mà là
những con ngƣời cụ thể đƣợc họ Vũ nhìn nhận từ phƣơng diện cá nhân của nó, trong đó mỗi
con ngƣời là một chủ thể ý thức. Và ông đã phát hiện ra rằng chính những dục vọng đen tối
đã là nguyên nhân chủ yếu gây nên sự phá hủy nhân cách của mỗi con người. Dục vọng tội
lỗi là mẫu số chung cho tất cả những kẻ tha hóa, trong đó đồng tiền là hệ quy chiếu của
những dục vọng tội lỗi, thấp hèn. Những nhân vật dị hình trong vòng tội lỗi và những con
ngƣời tha hóa trong phóng sự của họ Vũ
100
đều là nhũng con ngƣời chứa đầy dục vọng.
Vũ Trọng Phụng đã từng cho rằng: "Phải giả dối cực điểm hoặc là vô học thức thì mới
tƣởng nhân loại không có sự nhơ bẩn ô uế nào" [4, 216]. Bằng ngòi bút phóng sự, họ Vũ đã
tiến hành một cuộc hành trình nhằm khám phá ra "sự nhơ bẩn ô uế đó" và ông đã khám phá
ra điều "bí mật" kinh hoàng: cùng với cái thực tại đen tối hủy diệt "đơn vị" con người, thì
chính con người, với những dục vọng thấp hèn cũng đang tự hủy hoại cái "nhân tố người"
của mình.
Có lẽ, ở Vũ Trọng Phụng, không có gì thuộc về con ngƣời lại xa lạ đối với ông. Ngòi
bút phóng sự của họ Vũ không hề tàn nhẫn khi viết về sự thật mà là đã dám viết về một sự
thật tàn nhẫn. Vùng đau, cái "khu ung thƣ" trong nhân cách con ngƣời đã thật sự nguy kịch
và ông đã tiến hành một "cuộc giải phẫu" phanh phui sự thật. Lỗ Tấn cũng từng chủ trƣơng:
"Mỗi lần chọn đề tài, tôi thƣờng chọn những ngƣời bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục
đích lôi hết bệnh tật của họ ra để mọi ngƣơi tìm cách chạy chữa" [194, 240]. Và ông còn làm
một cuộc giải phẫu, mổ xẻ "quốc dân tính" nhằm phục vụ tôn chỉ cao quý là "lập nhân". Vũ
Trọng Phụng không chỉ chọn riêng ngƣời bất hạnh mà ông đã công bằng, thẳng thắn, dũng
cảm nhìn thẳng vào sự thật đen tối nhất của con ngƣời và phơi bày ra trƣớc ánh sáng. Gorki,
tác giả của câu nói nổi tiếng "Văn học là nhân học", năm 1909 đã kỳ vọng "Cần phải chờ đợi
để trong một tương lai không xa, một người dũng cảm, trung thực nào đó viết một cuốn sách
đáng buồn "Sự phá hủy nhân cách" và trong cuốn sách ấy chỉ rõ cho chúng ta quá trình cằn
cỗi tinh thần liên tục của con người, sự co hẹp không tránh khỏi của cái "tôi". Một cuốn sách
như vậy chính là lịch sử của văn học thế giới, trước hết là nghệ thuật hiện thục" [140, 141].
Theo chúng tôi, ngƣời "nêu cao lá cờ tả chân triệt để" [133 - 517], với cây bút "có gân, có
sức" nhƣ Vũ
101
Trọng Phụng đã là một trong những ngƣời "dũng cảm, trung thực" viết "cuốn sách đáng
buồn" đó. Cái thực tại đen tối thời nô lệ, dƣới ách thực dân vốn thù địch với con ngƣời, luôn
muốn đè bẹp nhân tính của họ. Nhƣng chính con ngƣời cũng tự thủ tiêu, "phá hủy nhân cách"
của mình bằng những điều xấu xa, tội lỗi... Ở nhiều trang phóng sự của mình, Vũ Trọng
Phụng đã thẳng thắn phanh phui cái sự thật "hãi hùng" đó. Vì thế mà tƣ tƣởng nhân đạo của
ông không phải là dạng mật ngọt, gối êm; không phải là những lời thuyết lí, mà như một liều
thuốc đắng, một làn roi quất mạnh, nhằm thức tỉnh nhân tâm. "Lòng nhân" của ông bộc lộ ở
nhiệt tình phê phán, lên án cái xấu của "ngƣời đời", nhằm thổi bùng lên ý chí loại trừ những
cái "nhơ bẩn, ô uế" nơi họ. Ẩn dƣới cái nhìn cay nghiệt, chửi đời, giận đời, cƣời đời, là nỗi
đau đời, thƣơng ngƣời. Bao trùm lên tất cả là tấm lòng "giận mà thƣơng" và cũng là niềm ƣớc
vọng về một cuộc đời với những con ngƣời sống "có nghĩa lý". Đây la điều khác về cơ bản
giữa văn chƣơng Vũ Trọng Phụng với văn chƣơng suy đồi, vì thứ văn chƣơng này chuyên'
phơi bày những xấu xa, hèn kém, bỉ ổi của con ngƣời với một thái độ dửng dƣng, buông xuôi,
bất lực...
Cái "sự thật ở đời" mà Vũ Trọng Phụng đã phơi bày trong các phóng sự của ông là cả
một bức tranh xám xịt. Đó là cái xã hội nghìn lần "khốn khổ, khốn nạn" với bao tệ nạn và
cạm bẫy bủa vây con ngƣời. Thảm trạng về con ngƣời tha hóa càng trở nên nặng nề khi con
ngƣời để những điều "nhơ bẩn, ô uế" của chính mình hủy diệt cái "tính bản thiện", cái tố chất
người vốn có. Vũ Trọng Phụng đã lớn tiếng lên án, phủ nhận cái thực tại đen tối, đồng thời
cũng thẳng tay bóc trần cái phần đen tối nhất của con ngƣời. Vũ Trọng Phụng đã thƣơng yêu
con ngƣời theo "cách" của riêng ông. Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, giữa hiện thực và nhân
đạo có một sự thống nhất. Vả lại, không một nhà văn lớn nào lại không phải là một nhà
102
phải là một nhà nhân đạo chủ nghĩa theo ý nghĩa rộng rãi của khái niệm này. Vũ Trọng Phụng
là một trƣờng hợp nhƣ vậy.
Từ số phận, tình cảnh, đƣờng đời và quá trình tha hóa của các nhân vật, Vũ Trọng
Phụng đã soi chiếu lại lịch sử. Các tác phẩm của ông, trong đó có phóng sự là "vở đại bi kịch
nhân loại, nhân tình" [141, 516]. Trong tấn "đậi bi kích" nay, thông qua những bức tranh giàu
năng lương sư thật về xã hội và cả một "nhân loại" trên đƣờng tha hóa họ Vũ đã đặt ra những
vấn đề về cuộc sông và con ngƣời của một thời nô lệ, thể hiện đƣợc tƣ tƣởng nhân đạo mang
sắc thái của riêng mình.
Vũ Trọng Phụng đã làm được điều đó vì ông là "nhà văn có khuynh hướng xã hội" mà
tư tưởng xã hội vốn "kết lại từ trong mạch máu". Ông còn "là một phóng viên của cuộc đời",
là một cây bút phóng sự "dấn thân", với một cái đầu tỉnh táo và có một trái tim nóng bỏng. Ở
phóng sự nào, ông cũng hăng hái nhập cuộc, với một tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình cải
cách xã hội. Vì thế, có thể thấy, ở họ Vũ có một khát khao nghiên cứu và tinh thần phân tích
xã hội nhƣ là một sở nguyện không thể kiềm chế nổi. Đối với con ngƣời, ông luôn có một thái
độ công bằng, không đóng vai một phán quan để phán xét, không hề cao ngạo tự kỉ trung tâm
và không bao giờ hí hửng, hể hả bôi nhọ, lăng nhục con ngƣời.
Là một ngƣời mẫn cảm, họ Vũ cũng là ngƣời dồi dào cảm hứng trƣớc sự thật, đặc biệt
với khu vực nghịch chiều của cuộc sống đương thời. Ông lại có hứng thứ và sở trƣờng trong
việc khắc họa những chân dung thô kệch, hài hƣớc, đặc biệt là những chân dung của những
kẻ dị dạng, tha hóa. Chính cái "vùng thẩm mỹ" riêng và cái "chất dính" riêng đó đã giúp ông
khám phá và tái tạo một cách sinh động nhiều hiện tƣợng nằm ở mặt trái của cuộc đời, trong
cái xã hội mà họ Vũ vốn nuôi một "niềm căm uất không nguôi". Và cái không khí sôi nổi của
thời kỳ Mặt trận bình dân chắc
103
chắn đã tiếp thêm sức lực cho ngòi bút phóng sự của ông, cũng nhƣ cái tinh thần duy lý của
triết học Pháp ít nhiều có ảnh hưởng tích cực đến năng lực tư duy; óc phân tích, tổng hợp,
lập luận, lý giải của ông trƣớc những tệ nạn xã hội và sự suy thoái nhân cách của con ngƣời.
Những bao trùm lên vẫn là những tình cảm thẳng thắn, chất phác xuất phát từ cái tâm
bộc trực, trong sáng của "ông vua phóng sự". Trái tim họ Vũ đã luôn vui, buồn, hy vọng, thất
vọng theo sự diễn biễn của thời cuộc. Chẳng hạn, khi thấy những điều hứa hẹn rùm beng của
chính phủ Bình dân Pháp chỉ là những điều đầu môi chóp lƣỡi, họ Vũ phải ngậm ngùi: "bao
nhiêu điều cải cách của chính phủ chẳng hạn, mà té ra cũng lại là chẳng thay đổi gì cả" [160,
91]. ông luôn có quan điểm độc lập và nhất quán trong cái nhìn về những tệ nạn và số phận
của con ngƣời. Bên cạnh lòng nhân hậu, vị tha, ông đã thẳng thắn lên án, tố cáo cái xã hội phi
nhân và cả những kẻ tha hóa, tội lỗi. Đó chính là hiện thực của tƣ tƣởng, tình cảm của "ông
vua phóng sự".
2.3.3. Những bất cập, sai lầm và yếu tố tự nhiên chủ nghĩa
Tuy là một cây bút nhạy bén, sắc sảo đã phản ánh đƣợc nhiều vấn đề có ý nghĩa sâu
xa của cuộc sống xã hội thuộc địa, nhƣng cũng nhƣ nhiều nhà văn hiện thực đƣơng thời, Vũ
Trọng Phụng cũng không tránh khỏi những bất cập, sai lầm về nhận thức, tư tưởng và chịu
ảnh hưởng ít nhiều của cách nhìn tự nhiên chủ nghĩa.
2.3.3.1 Những điều bất cập, sai lầm
Cũng nhƣ nhiều ngƣời cầm bút đƣơng thời, ngoài việc viết văn, họ Vũ con làm báo.
Nhƣng có thể nói, ít thấy những ngƣời gắn bó với thời cuộc nhƣ ông. Tuy trong Lục xì, ông
có "tiên đoán": đến một "ngay kia" (lúc có thể ban hành cái chủ trƣơng thủ tiêu nạn mại
dâm), thì "Đến ngày ấy
104
trong xã hội Việt Nam, sẽ có nhiều sự thay đổi, nhiều cuộc "cách mệnh", nhiều vụ "loạn lạc""
[155, 245], nhưng ông lại là người có những nhận thức mơ hồ về chính trị. Biểu hiện rõ nhất
là sự ngộ nhận công lao chữa bệnh cho gái mại dâm của một vài viên chức thực dân và đã tỏ
ra mặc cảm tự ti dân tộc trước họ. Có thể những cử chỉ tiếp đón lịch sự, ân cần (tiếp
"Monsieur Phung" ngay cả khi đã hết giờ làm việc, cung cấp tài liệu...) của bác sĩ Joyeux
giám đốc nhà Lục xì và cái bộ "y phục xuềnh xoàng... cử chỉ, ngôn ngữ tỏ ra cái tính nết
chăm việc... giản dị bình dân cả trăm phần trăm" [155, 112] của viên đốc lý, đứng đầu Thủ đô
Bắc kỳ Virgitti, đã làm cho họ Vũ cảm động, không nhận ra cái "huyền thoại" do thực dân
dựng lên để che giấu, "biện chính" cho hành động của chúng. Cũng đứng vào năm này, trong
bài báo Những việc đáng ghi chép của năm Bính Tý, sau khi điểm vài sự kiện có tính "cải
cách" của chính quyền thực dân, họ Vũ cho rằng: ngần ấy thi đã đủ cho người bi quan nhất
đời cũng đã dám hy vọng ở tương lai, vì xem ra cái chính sách thực dân "bằng dùi cui" đã có
phần nhượng bộ rồi đó" (Báo Tương lai ngày 18 tháng 2, năm 1937, tr.3) Thực chất của cái
"huyền thoại" về "lòng tốt" của thực dân, đƣợc giáo sƣ Nguyễn Văn Trung giải thích: "Ngƣời
thực dân chỉ nghĩ lợi cho mình. Dĩ nhiên đôi khi họ cũng nghĩ đến quyền lợi của ngƣời thuộc
địa nhƣng không phải cho ngƣời thuộc địa... Chẳng hạn, ngƣời Pháp phải mở trƣờng dạy học,
hay lập các nhà thƣơng trừ các bệnh (...) ngƣời bản xứ có đƣợc học và có sức khỏe mới làm
việc phục vụ cho họ đƣợc, do đó năng suất, lợi tức đƣợc tăng hơn... vả lại, nếu không trừ
bệnh thời khí, để lan tràn thì chính Tây cũng chết luôn" [200, 53]. Vũ Trọng Phụng cũng đã
"khách quan", khi cho rằng mại dâm là "sự hại cần phải có", vì nếu không có nó thì "chín
trăm binh lính (ở Hà Nội - tác giả luận án chú thích) sẽ bất bình, nếu những ngƣời ấy họ
không có vợ, không theo nổi lý thuyết nhịn nhục,
105
tiết chế dâm dục của Freud" [155, 106]. Và cũng chính ông đã ghi nhận cảnh: "Có khi, giữa
đêm khuya, hàng lũ binh lính trắng và đen, rƣợu say bét nhe, vào các nhà thanh lâu phá tán
đồ đạc, đánh đập con gái, bóp cổ những cả không thuận bán dâm!" [155, 168]. Nhƣ vậy đã
rõ! Lập ra nhà Phúc đƣờng (Dispensaire), tiếng là làm phúc cho ngƣời Việt Nam, nhưng mục
tiêu trước hết là nhằm bảo toàn lực lượng cho cái đội quân lê dương ô hợp nửa người, nửa
thú tại Hà thành khỏi bị vi trùng hoa liễu, để chúng có thể sẵn sàng nhận lệnh đi bắn giết.
Thực dân luôn che giấu mục đích của mình. Còn nhà văn xã hội Vũ Trọng Phụng thì lại quá
chân thành, chỉ nghĩ đó là họ "thƣơng ngƣời bản xứ"! Là ngƣời rất lo lắng cho giống nòi, cho
dân tộc trƣóc nạn vi trùng hoa liễu, họ Vũ bỗng "bị" hàm ơn đối với thực dân. Vì thế, khi
đƣợc vào thăm nhà Lục xì, thái độ của ông rất khép nép, mặc cảm đến tội nghiệp trƣớc đám
nhân viên công vụ: "Ông thanh tra không có đây cho tôi cầu một việc, tôi phải nhìn trộm các
thầy đội mà cũng không dám gạn hỏi điều gì" [155, 120]. Và lòng tự ti dân tộc đã làm ông tỏ
ra đồng tình, chia sẻ với những lời lẽ thóa mạ hỗn xƣợc đối với ngƣời Việt Nam của Joyeux,
khi hắn cho là: "chỉ có một số ít trí thức là đã hoàn toàn Âu hóa, còn thì có những bộ lạc còn
man- di- mọi- rợ nhƣ ngƣời cổ xƣa" [155, 243].
Khi tiến hành khám phá những tệ nạn, Vũ Trọng Phụng có tiến hành truy tầm nguồn
gốc, nguyên nhân của nó và có trƣờng hợp, ông đã đƣa ra phƣơng hƣớng giải quyết. Điều này
cho thấy tính tích cực xã hội rất cao của cây bút phóng sự Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, có
những nguyên nhân tệ nạn mà ông nêu ra, chỉ là những nguyên nhân trực tiếp chứ không
phải là những nguyên nhân sâu xa, cội nguồn của những tệ nạn. Và những giải pháp mà ông
đƣa ra cũng chỉ nhằm giải quyết vấn đề trong cái khuôn khổ của xã hội đương thời nên đều
không thể thực hiện được. Chẳng hạn, ông
106
rất đúng khi mô tả cái cơ cấu tham nhũng từ trên xuống dƣới của cái bộ máy hành chính
đƣơng thời, nhƣng chƣa thấy chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột là nguyên nhân sâu xa của tệ
tham nhũng, mà căn nguyên cụ thể của nó là bản tính tư lợi cộng với quyền lực công cộng.
Ông rất tinh tế khi phân tích những dục vọng thấp hèn, chỉ muốn thâu tóm tiền bạc, tài sản
của ngƣời khác của cái nghề cờ gian bạc bịp, nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc, chính chế độ bóc lột
mói có thể sản sinh và dung dưỡng những dục vọng thấp hèn đó. Đối với việc giải quyết tệ
mại dâm, ông đã tích cực đƣa ra giải pháp, nhƣ thành lập một ngạch đội con gái quy mô, có
nhiều quyền hành rộng rãi; sáp nhập nhà Lục xì vào nhà thƣơng Bảo hộ; đặt khu riêng cho
nghề mại dâm... Và cuối cùng ông lại tán thƣởng dự án Sellier thủ tiêu hoàn toàn tệ mại dâm.
Cho dù ông có tâm huyết đến mấy thì những giải pháp này đều không thể thực hiện đƣợc.
Bản chất của tƣ bản là chạy theo lợi nhuận, mà lợi nhuận từ việc kinh doanh món hang "tƣơi
sống" này là quá hời. Lợi nhuận mà cao, nhà tƣ bản còn sẵn sàng "nhảy vào lửa". Vậy thì cái
chế độ luôn "vận động" theo quy luật của đồng tiền, lấy đồng tiền làm cứu cánh, lam sao lại
có thể dứt bỏ đƣợc món siêu lợi nhuận này đƣợc!
Phóng sự của Vũ Trọng Phụng còn bộc lộ những bi quan về thời cuộc và bi quan về
phẩm chất tinh thần của con người, ông đã "quá tam ba bận" đƣa ra cái triết lí về sự đố kị của
con ngƣời "trò đời nó thế (...) không gì ghét nhau bằng bọn ngƣời cùng nghề nghiệp" (Cạm
bẫy người, Sđđ, tr. 220 - 221). Hoặc triết lí "khái quát" hơn "Ở đời này, bất cứ vào hạng nào,
cái công lệ thiên nhiên bất di bất dịch nó là thế này: không ai muốn cho ai "khá" hơn cả!"
[155, 216]. Họ Vũ cho rằng đây là một trong những điều "hãi hùng, kinh ngạc về loài ngƣời"
mà mình đã "khám phá" đƣợc! Ở Lục xì, ông hăng hái bàn về giải pháp, về tƣơng lai của
công cuộc chống nạn mại dâm, nhƣng lại bi quan cho rằng: "Nạn ấy có tính chất số kiếp (...)
đè
107
ép số mệnh chúng ta bằng một mối sầu chua chát lạ thƣờng [155, 104]. Đến Một huyện ăn Tết
thì chỉ còn là nỗi buồn, buồn về thế sự, cuộc đời...
Tuy là ngƣời luôn dõi theo từng bƣớc của biến động lịch sử, nhưng họ Vũ chưa có
một khoa học nhận thức về thời cuộc. Dƣờng nhƣ sự nhạy bén của ông thƣờng chỉ dính bắt
với phía đen tối của cuộc đời. Sự mặc cảm tự ti dân tộc, ca ngợi lòng tốt của trí thức thực dân,
bi quan về con ngƣời... là do có những lúc ông thiếu niềm tin vào con ngƣời, vào sức mạnh
đấu tranh của quần chúng lao động. Do không hiểu thời cuộc và chỉ nắm bắt đƣợc những
nguồn thông tin từ phía nhà nƣớc thực dân, nên họ Vũ đã viết: "Có thể nói rằng những cuộc
rối loạn xảy ra trên khắp mặt địa cầu phần nhiều do bàn tay bí mật của Mạc Tƣ Khoa gây
nên, thì những cuộc xiểng liểng của bọn thơ "chủ nghĩa đổ bác" ở khắp Bắc Kỳ ta cũng đều
do các bàn tay bí mật của ông Ấm B... dính vào vậy. Hơn hẳn Staline về mọi phƣơng diện,
Ấm B... đã đặt cho tòa nhà mình ở phố Hàng Cá là "Kinh đô bạc bịp" trong khi Staline chƣa
đƣợc lúc gọi: Moscou, capitale du monde" [154,101 - 102]. Đây là một lầm lẫn đáng tiếc về
mặt nhận thức chính trị của Vũ Trọng Phụng.
2.3.3.2 Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa
Một điểm hạn chế nữa trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng là cái nhìn mang tính tự
nhiên chủ nghĩa, khi mô tả và giải thích hiện tƣợng xã hội và số phận con ngƣời.
Yếu tố tự nhiên chủ nghĩa đƣợc thể hiện rõ nhất khi họ Vũ đề cập đến cái dâm và nạn
mại dâm. Trong phóng sự của mình, ông đã đƣa ra nhiều nhân vật có căn tính dâm đãng, nhƣ
đã bị một ông thần định mệnh quái ác buộc họ phải lâm vào con đƣờng sa đọa.
Con Sen Đũi vốn là "một gái quê hiền lành", nhƣng lại là "một đứa
108
con gái mà tạo hóa sinh ra để cho lam đĩ. Chƣa làm đĩ, nó đã thạo nghề lẳng lơ" [155, 33 -
39]. Sau khi bị thằng oẳn "hiếp lấy hiếp để", do đã đƣợc hiểu biết "sự đời", nó "trở nên một ả
thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm". Theo tác giả, cuộc hiếp dâm trên đã dạy cho
con Đũi "một bài học về thực nghiệp" rất hữu ích và rất chóng có "kết quả", vì "cái sức ám thị
của nó". Và "sau này nếu cái Đũi sẽ lên bà, dễ thƣờng rồi bố mẹ nó phải đi cảm ơn cái thằng
oẳn đã hiếp nó" [155, 32 - 33 - 37]. Còn "Thị Lành có lẽ vì vốn hƣ hỏng và lƣời biếng mà
bƣớc vào nghề mãi dâm. Thị tập sự vào lúc sớm lắm: 15 tuổi". Đầu tiên vì vốn "tò mò, thị rất
muốn biết cái ấy nó ra làm sao" và lại đƣợc những ba hào bạc nên thị đi theo bác lính tập...
Từ đó "lúc bán bƣởi, đã không gạt bàn tay của những khách hàng bóp vú mình", thị còn
"không lắc đầu" khi họ thầm thì vào tai rủ đi. Rồi thị bị đội con gái bắt quả tang khi bán dâm
ở nhà săm, bị điệu về nhà Lục xì, khi trong ngƣời đã có cả vi trùng giang mai lẫn vi trùng lậu.
Ở nhà Lục xì, thị bị lũ điếm có giấy đánh rất dã man, buộc phải "cầm giấy" làm điếm chuyên
nghiệp [155, 206 - 207 - 208 - 209].
Đó là căn nguyên của việc trở thành kỹ nữ của hai cô thôn nữ. Mỗi ngƣời đến với
chốn thanh lâu trong hoàn cảnh khác nhau, nhƣng đều có chung một nguyên nhân. Đó là cái
căn tính dâm đãng, hay bản năng nhục dục đã kích thích các cô này từ độ tuổi trăng tròn, nhƣ
kiểu cô Huyền trong Làm đĩ. Những cô gái này "bị" Vũ Trọng Phụng xếp vào loại có tên
trong "sổ đoạn trường" như một tiền định. Để kiểm tra lại sự "khám phá" này của mình, ông
con tiến hành một cuộc "trắc nghiệm" đối với Thị Lành để tìm hiểu thêm "những cảm tƣởng
của ngƣời đàn bà khi mới bắt đầu làm đệ tử chính thức của thần Bạch Mi". Và ông lại "phát
hiện" ra thêm một điều làm ông thất vọng: "Họ có đâu mà mình biết?", "đã từ lâu, họ chẳng là
đàn bà nữa rồi. Đã từ lâu, tuy chƣa có giấy họ cũng đã sẵn có cái linh
109
hồn gái thanh lâu" [155, 214]. Rồi còn "những cô gái lƣơng thiện", nhƣng do "quá dại dột" và
"ngứa nghề" nên mắc bẫy bọn bồi săm, bị chúng xô đẩy vào vòng trụy lạc [155, 225]...
Trong cái xã hội "chó đểu", "loạn dâm" thì những chuyện cƣỡng dâm, thông dâm,
ngoại tình, mọc sừng, loạn luân... là phổ biến. Và nạn mãi dâm thì lan tràn nhƣ một bệnh dịch
khủng khiếp. Vũ Trọng Phụng đã khám phá một cách toàn diện bộ mặt của tệ nạn này.
Nhƣng trƣớc sự hung hãn và bất khả chiến bại của "con quái vật" mại dâm (chữ dùng của Vũ
Trọng Phụng) và sự bất lực của nhà chức trách, ông ỏ ra bi quan và bế tắc trong giải thích.
Đối với ông, những nguyên nhân xã hội (nhƣ phong trào Âu hóa, giải phóng phụ nữ) không
đủ sức giải thích tệ nạn xã hội này. Và ông cho rằng "sự ngứa ngáy xác thịt của loài ngƣời"
mới là nguyên nhân căn bản. Đồng tình với quan điểm của nhà chức trách, Vũ Trọng Phụng
cho rằng, sở dĩ có nạn mại dâm, vì "không kể những kẻ bán trôn nuôi miệng vì không muốn
chết đói, thì đa số lại chỉ làm đĩ vì cái thích làm đĩ mà thôi". Để chứng minh cho quan điểm
mãi dâm là "sự hại cần phải có", ông viết: "... ta lại thấy tính chất khác nữa của nạn mãi dâm
cũng kỳ lạ vô cùng. Đã đành đó là một nạn bất hủ, không tránh đƣợc, nhƣng đó cũng là một
sự không có không đƣợc". Tuy nó là một vết thƣơng rất đáng ghê tởm của nhân loại, song le
không có nó thì nhân loại sẽ không đứng vững vì mất thế quân bình" và "loài ngƣời không
sống đƣợc, nếu không có nạn mãi dâm". Rồi ông kết luận một cách chua chát "Nạn mãi dâm
cũng thuộc vào những vấn đề bất hủ của tất cả các giống ngƣời, mà ai cũng phải chịu tìm
cách để mà chịu đựng nó vậy"! [155, 78-94-104-105-198].
Là một ngƣời rất rạch ròi trong quan niệm về cái dâm "cao thƣợng" (dâm trong hôn
nhân) và cái dâm "thấp hèn" (dâm ô, hoang dâm, loạn dâm...), trong thƣ trả lời Thái Phỉ, Vũ
Trọng Phụng đã từng viết: "Cái dâm
110
của cặp vợ chồng chẳng hạn thì là sự thƣờng nhƣ sự ăn uống, không có gì là uế tạp nhơ bẩn
mà còn là điều thanh cao, cao thƣợng nữa (...). Song còn những thứ dâm đãng gọi là uế, thí
dụ hiếp dâm, gian dâm, loạn dâm, nghĩa là những thứ dâm của hạng nam nữ mà không là vợ
chồng" [89, 120]. Nhƣng khi bàn về hiện tƣợng mãi dâm, gái đĩ, ông nhƣ bỗng "quên", và đã
đánh đồng hai cái dâm đó làm một. Trong Kỹ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng viết: "Ngẫm
cho cùng, làm vợ một đêm hay làm vợ suốt cả một đời thì ngƣời đàn bà cũng chỉ là đĩ cả mà
thôi" [157, 74]. Còn trong Lục xì, ông cũng "triết lý" tƣơng tự "bọn làm đĩ vì nghèo đói mà
phải để yên cho bọn đĩ có kim cƣơng, làm đĩ hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, suốt đời!",
hay "cô nào, bà nào trong đám phụ nữ dám tự phụ làm mình không... mãi dâm?"! [155, 138].
Cứ nhƣ vậy, họ Vũ "triết lý" về cái dâm và về nạn mãi dâm. Tất cả chỉ xoay quanh cái
bản năng tính dục của con ngƣời, nhất là của ngƣời đàn bà. Đƣơng thời, những ngƣời nhƣ
Thái Phỉ, Nhất Chi Mai... coi tiểu thuyết, phóng sự của Vũ là văn chƣơng "dâm uế". Còn Lan
Khai thì giải thích "cái dâm" này bằng việc đi tìm nó trong "tâm tính" của tác giả. Theo Lan
Khai thì "Vũ Trọng Phụng đã mang theo ra đời cái bệnh ho lao, tức là anh đã thuộc vào cái
hạng đa dục vì bệnh" [89, 68]. Lan Khai viết tiếp: "Thế là, nhƣ trên đã nói, cái khuynh hƣớng
của con ngƣời đa dục vì bệnh ấy đã bị ngăn cấm bởi luân lý, bởi thể chất, bởi sự thiếu đồng
tiền. Ở Phụng, đã có tất cả một sự đè nén nguy hiểm. Và, sự đè nén kéo dài mãi mãi đã khiến
cho bản năng không thể chịu đƣợc nữa. Nó phải tìm một con đƣờng siêu thoát (...). Nó đã là
văn chƣơng. Chính thế, viết văn để tả những cảnh sôi máu, đối với Vũ Trọng Phụng là một
cách hành dâm vậy" [89, 69].
Nhƣ vậy, theo Lan Khai, Vũ Trọng Phụng viết về cái dâm cũng là để thỏa mãn bản
năng của mình mà cái "đa dục" lại do bệnh lao sinh ra! Vũ
111
Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, tuy có dè dặt hơn, nhƣng cũng cho rằng "Vũ Trọng
Phụng có lẽ cũng thuộc về cái ca ấy". Lấy bản năng tính dục để giải thích sự sáng tạo nghệ
thuật một cách dung tục nhƣ vậy, thì thật là Freud hơn cả chính nhà văn họ Vũ.
Một yếu tố tự nhiên chủ nghĩa nữa trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là cái nhìn miệt
thị đối với những kể khốn cùng, tha hóa, tội lỗi. Trong các phóng sự này, thỉnh thoảng ông có
nói về sự ngu dại, đần độn, "vô nghĩa lý" của đám con sen, thằng nhỏ trong "bọn cơm thầy
cơm cô"; hoặc cái xấu xí, kệch cỡm, thô lỗ của những ngƣời đàn bà làm me Tây, gái điếm.
Đôi chỗ ông sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi mô tả ngoại hình những nhân vật này. Đó là bà Tƣ
Bạc, một me Tây, giữa lúc "mơn mởn đào tơ" thì bà ta có "cái nhan sắc mẫu dạ xoa" [157,
49]. Hay Thị Lanh, một cô gái điếm "Thị không những xấu xa mà thôi, thị còn đáng ghê tởm
đến buồn nôn nữa. Hai cái má bánh đúc nó.. cặp môi dày nó.. hai mắt nhỏ tí nó... chao ôi, khó
nói quá đi mất! Thị có một cái bụng và hai bắp đùi có thể đựng lọt một ngƣời đàn ông tầm
thƣớc, và hai cánh tay để ôm cho chết ngạt ngƣời đàn ông ấy. Thêm vào những mãnh lực nhƣ
thế, lại còn một thứ giọng ồ ồ và một thứ cƣời cùng cục nó rất đặc biệt cho những gái thanh
lâu" [155, 203, 204]. Theo chúng tôi, có thể sự miêu tả này không phải vì hứng thú cá nhân
hay mục đích tự thân mà chính là cho ngƣời đọc thấy đƣợc sự bất công của tạo hóa và do cái
môi trƣờng phi nhân bản làm cho con ngƣời biến hình, dị dạng, nhƣng sự phô diễn quá đà đã
làm cho các hình ảnh mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa. Tuy nhiên, cái bao trùm ở đây là nỗi
cảm thông, sự xót xa, nhức nhối của tác giả trƣớc số phận của những ngƣời đàn bà khốn khổ,
tha hóa... Về điểm này Vũ Trọng Phụng gần gũi với Nam Cao và khác biệt so với Trọng
Lang. Trong Hà Nội lầm than" [101], ta gặp những gái điếm, cô đầu có những cặp môi "vành
đen nhƣ thịt trâu ôi" (Sđd, tr.118), hai hàm răng "trắng mờ vừa hở vừa nhọn nhƣ răng yêu
tinh" (Sđd, tr.148)"
112
cƣời giòn nhƣ ma cƣời" (Sđd, tr.176), "ăn nhƣ thần trùng, bẩn nhƣ lợn" (Sđd, tr.148), "ngƣời
trắng bệch... tanh nhƣ con mối rách (Sđd, tr.166), "thối nhƣ cóc chết" (Sđd, tr.177)... Đối với
những con ngƣời đƣợc tác giả mô tả cực kỳ nhơ bẩn ấy, Trọng Lang cho rằng "Đối đãi với
gái nhảy bằng tình thƣơng, thì cũng nhƣ đối với cô đầu, gái đĩ, ngƣời ta sẽ là một nhà đạo đức
dớ dẩn" (Sđd, tr. 116). Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, ngƣời ta không tìm đƣợc những câu
nặng nề và tàn nhẫn nhƣ vậy. Riêng đối với những "ngƣời nhà quê" bần cùng, phải bỏ quê
hƣơng bản quán đi làm con sen, con ở, lấy Tây... nhƣ Đũi (Cơm thầy cơm cô), Ái, Tích, bà
Kiểm Lâm (Kỹ nghệ lấy Tây) đều có một quá khứ "ngây thơ", "tính tình trong sạch", khác xa
với các cô gái "bộ mặt với răng đen và nƣớc da nâu thẫm là bộ mặt nhà quê đặc, nhƣng hai
con mắt lầm lầm, ƣơn ƣớt lại gian giảo vô cùng" trong Hà Nội lầm than (Sđd, tr.150). Trong
phóng sự của họ Vũ, có đôi chỗ ông dùng một số từ nặng nề nhƣ "bọn đực", "bọn cái",
"thú"... phần nhiều là do không kìm đƣợc sự bực bội. Ông chƣa bao giờ mô tả con ngƣời nhƣ
một sinh vật thấp kém. Nhƣng việc họ Vũ nhân danh chủ trƣơng "tả chân" triệt để, đƣa cả bài
Phong tình ca khúc vào tác phẩm là một việc làm quá đỗi "tự nhiên" và quá sống sƣợng.
Vũ Trọng Phụng hay đề cập đến cái dâm. Cái "tật", cái "gót chân Asin" của ông chính
ở chỗ đó. Tuy nhận mình là đồ đệ của Freud, nhƣng qua sự giải thích và vận dụng của họ Vũ,
ta thấy ông hiểu học thuyết của "thầy" một cách nông cạn và có phần dung tục. Cái Libido
của Freud không chỉ là những ham muốn tình dục bị dồn nén, mà còn là những ẩn ức về
nhiều mặt, về quyền lực, về lực sống nói chung, cần đƣợc giải tỏa, cần đƣợc "thăng hoa"
trong những hình thức biểu hiện quan trọng khác, nhƣ giấc mơ và nghệ thuật, chứ không chỉ
thể hiện ở cái họ Vũ gọi là "ham muốn tình dục", "căn tính dâm đãng" ở con ngƣời. Nguyễn
Công Hoan thì cho rằng do phải "chiều lòng chủ báo", "chiều thị hiếu của bạn đọc" Vũ Trọng
113
Phụng đã "viết mấy thiên phóng sự khá khêu gọi" [89, 274]. Còn Nguyễn Tuân lại nhận định
"thực chất của văn phẩm Vũ Trọng Phụng là vƣợt lên những hiện tƣợng ấy để nói lên một cái
gì rất lớn và nói lên cái hoài bão rất lanh rất đẹp của tác giả" [89, 325]. Nhƣng theo ý kiến
của chúng tôi thì cái chính vẫn là sự bất cập của ông đối với Freud. Không ít chỗ ông có phần
nào buông thả ngồi bút, lạm dụng "tả chân" để viết nhiều về cái dâm. Nhƣng không thể kết
luận ông "khiêu dâm" và văn chƣơng của Vũ là "dâm uế", "đồi trụy", làm "tha hóa" độc giả,
mà phải thừa nhận giá trị hiện thực và nhân đạo vẫn la điều cơ bản của những thiên phóng sự,
tuy có xen những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa.
Cũng nhƣ nhiều nha văn hiện thực đƣơng thoi, Vũ Trọng Phụng viết rất hồn nhiên,
muốn ngoại hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ nhất, mãnh liệt nhất những điều mình chiêm
nghiệm đƣợc va những tình cảm yêu, ghét của mình. Vì vậy, có những khi đã chuyển hóa
một cách không tự giác từ chủ nghĩa hiện thực sang những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Mặt
khác, có thể các nha văn lúc đó, ít nhiều cũng phải "chạy theo" thị hiếu của công chúng, phải
"chiều lòng chủ báo". Chẳng hạn, trên báo Tương lai ngày 2 Mars, 1934, trong bài Nghề báo
ở nước ta, tác giả Trung Ngôn cho biết:"... độc giả trông ngóng những số báo có bài chửi
nhau không khác gì khát nƣớc. Có điều nữa là độc giả ƣa sắc dục (...) tôi dám chắc nếu tờ báo
nào hay đăng tin về xóm Bình Khang, cũng nhƣ tin gian phu, dâm phụ thì số ngƣời đọc sẽ
thêm đƣợc rất nhiều" (trang 65). Việc Vũ Trọng Phụng viết một đôi thiên phóng sự "khêu
gợi" cũng nằm trong tình trạng chung đó, vì khi phải sinh sống bằng ngòi bút, trong hoàn
cảnh văn học, báo chí đã trở thành một thứ hàng hóa thì làm sao ông hoàn toàn có tự do!
Muốn hay không, ông cũng phải ít nhiều phụ thuộc vào "túi tiền, sự bao thầu" của những nhà
xuất bản. Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa có thể còn có
114
"cội nguồn" từ đó nữa. Có thể về mặt lý luận, ông chƣa hiểu đƣợc rằng, tuy "con ngƣời trƣớc
hết là một thực thể tự nhiên", những quy luật sinh vật học là tất yếu, nhƣng phải thông qua
những quan hệ xã hội; bản chất xã hội của con người là cái bao trùm, bản chất sinh vật chỉ
là cái nền tảng. Vì vậy, ông đã đem cái "quyền của sinh lý học" ra cắt nghĩa cái dâm và nạn
mại dâm. Nhƣng cái sự thật "tự nó nói lên, nói to lên" trong các phóng sự của họ Vũ đã cho
ngƣời đọc thấy rằng, nguyên nhân xã hội mới là "thủ phạm" chính gây ra các tệ nạn xã hội và
sự tha hóa của con ngƣời. Đây là hiện tƣợng mâu thuẫn giữa hiện thực và tƣ tƣởng trong
phóng sự của Vũ Trọng Phụng, nhƣng cuối cùng cái quyết định luận về mặt xã hội vẫn giành
phần thắng.
Qua việc khảo sát về đặc điểm hiện thực và tƣ tƣởng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng,
chúng tôi xin có một số kết luận như sau:
Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến những vấn đề hết sức cơ bản về những
tệ nạn xã hội trầm kha và những vấn đề xã hội nhức nhối thời Pháp thuộc. Trong đó, nạn cờ
gian bạc bịp nhƣ là một thứ cạm bẫy thực sự làm hƣ hỏng con ngƣời; tệ tham nhũng đã trở
thành một thứ "công lệ" của cái chính quyền thực dân nửa phong kiến và nạn mại dâm lan
tràn, với một đội ngũ những "ngƣời lao động tình dục" đông đảo đã gây ra cảnh đồi phong
bại tục, cảnh nhớp nhơ, bệnh hoạn cả về tinh thần lẫn thể xác; đẩy bao con ngƣời vào vòng
trụy lạc. Ngòai ra, trong phóng sự của ông còn có bao chuyện éo le, thƣơng tâm. Đó là những
cuộc đời lỡ dở của những ngƣời phụ nữ phải làm me Tây, những kiếp con đời, con ở...
Ngụp lặn trong những thứ tệ nạn xã hội đó là biết bao con người tha hóa, băng hoại.
Tuy mỗi kẻ có một lí do va hoàn cảnh khác nhau, nhƣng họ đều có chung một "lộ trình" tha
hóa, hủy hoại nhân cách, trong đó có
115
yếu tố tự hủy diệt của chính bản thân con người.
Bức tranh về xã hội và con ngƣời giàu trữ lượng hiện thực nói trên đã có một sức tố
cáo mạnh mẽ cái xã hội thuộc địa đen tối, thối nát. Đồng thời phóng sự của họ Vũ cũng gióng
lên một hồi chuồng cảnh báo về sự tha hóa, tự hủy diệt nhân cách của chính con người.
Chính vì vậy, tƣ tƣởng nhân đạo của Vũ Trọng Phụng như là một thứ thuốc đắng giã tật, một
thứ roi quất làm thức tỉnh lương tâm, để con ngƣời trở nên CON NGƢỜI theo đúng nghĩa
của nó.
Tuy là nhà văn xã hội, có tƣ tƣởng xã hội thấm từ trong máu, có ý thức và tinh thần
trách nhiệm trƣớc dân tộc, giống nòi thể hiện ở sự mong muốn về một hiện thực tốt đẹp,
nhƣng do hạn chế về thế giới quan, chƣa thoát ra khỏi ảnh hƣởng của tƣ tƣởng cải lƣơng tƣ
sản và do những lệch lạc về nhận thức chính trị... nên trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng
còn bộc lộ một số sai lầm, bất cập và bức tranh hiện thực còn đan xen một số yếu tố tự nhiên
chủ nghĩa. Tuy nhiên, giá trị hiện thực, lịch sử - thời sự, giá trị nhân đạo của những thiên
phóng sự vẫn là cơ bản, thể hiện năng lực nhận thức và sự tìm tòi tƣ tƣởng của Vũ Trọng
Phụng.
116
CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT
Năng lực nhận thức cuộc sống và sự tìm tòi về tƣ tƣởng của Vũ Trọng Phụng đã làm
nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo ở nội dung các thiên phóng sự. Tuy nhiên, sự "sắc sảo
và khôn ngoan" của ngòi bút phóng sự họ Vũ còn bộc lộ đậm nét ở sự sáng tạo nghệ thuật.
Bằng tài năng của mình, Vũ Trọng Phụng đã góp cho thành tựu phóng sự thời "tiền chiến"
những tác phẩm độc đáo, mới mẻ, gây không ít ngạc nhiên cho độc giả đƣơng thời và cho đến
tận hôm nay.
Giá trị nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng bộc lộ ở nhiều phƣơng diện. Trong
luận án này, chúng tôi xin đề cập đến ba vấn đề nổi bật nhất. Đó là nghệ thuật khám phá hiện
thực, sử dụng những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết và nghệ thuật trào phúng. Đây là ba
điểm đặc sắc làm nên chất thời sự tư liệu, chất văn học đậm đà, tạo cho phóng sự của ông
sức hấp dẫn đặc biệt và có thể sống mãi cũng thời gian.
3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực, khai thác tƣ liệu
Phóng sự là thể văn "áp sát" dòng thời sự, luôn có khả năng phản ứng nhanh nhạy đối
với những vấn đề mới nảy sinh. Giá trị của một thiên phóng sự, trƣớc hết là ở chỗ nó khám
phá, phát hiện và nêu ra đƣợc những vấn đề có ý nghĩa đối với cuộc sống và kèm theo đó là
thái độ, quan điểm đánh giá đúng đắn của tác giả. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng là cả một
kho tƣ liệu dồi dào, phong phú, những tri thức chính xác về những vấn đề xã hội và con
ngƣời, sở dĩ có điều đó, vì họ Vũ đã có cả một nghệ thuật
117
khám phá hiện thực, biểu hiện ở sự sắc sảo trong việc lựa chọn những sự kiện những con
ngƣời, tình huống tiêu biểu chứa đựng yếu tố thông tin -thẩm mỹ; ở sự năng động, sáng tạo
trong phương thức tiếp cận hiện thực và khai thác tư liệu.
3.1.1. Sự tinh tế trong "tuyển chọn" thực tại
Khi nói về bản chất của nghệ thuật, văn hào Pháp Flaubert cho rằng: "Nghệ thuật
không phải là thực tại... cần phải tuyển chọn lấy những nhân tố mà thực tại đƣa ra" [140,
193]. về vấn đề này Hegel cũng từng chỉ rõ: "thiếu sự cân nhắc thận trọng, sự phân lọc, khu
biệt, ngƣời nghệ sĩ không thể làm chủ đƣợc vấn đề mà anh ta định trình bày..." [140, 193].
3.1.1.1. Những khó khăn của việc "tuyển chọn"
Đối với thể phóng sự - một thể văn phản ánh ngƣời thực việc thực và phải đảm bảo
tính thời sự, thì sự "tuyển chọn" nay có những khó khăn riêng. Điều nay biểu hiện ở hai lẽ.
Một là, thể phóng sự bám theo dòng thoi sự nên sự tuyển chọn theo kiểu đãi cát tìm vàng phải
đƣợc tiến hành nhanh chóng. Chỉ một thời gian ngắn mà nhà phóng sự phải "biết phát hiện
những nét chủ yếu, nét điển hình trong vô số hiện tƣợng", nhƣ B. Pôlêvôi nói, thì quả là khó
khăn biết chừng nào! Hai là, thể phóng sự không cho phép sử dụng rộng rãi biện pháp hƣ cấu
theo kiểu "quan sát nhiều ngƣời cùng loại để sáng tác một điển hình" (L. Tolstôi) mà phải
đảm bảo tính xác thực của nguyên mẫu nhân vật. Việc luyện quặng mà phải tìm cho ra khối
quặng gần nhƣ nguyên chất là một việc làm không mấy dễ dàng, vì những tƣ liệu mang tính
tiêu biểu có chứa đựng yếu tố thẩm mỹ vốn nằm lẫn lộn trong vô vàn những cái bình thƣờng
của cuộc sống.
3.1.1.2. Sự tinh tế trong "tuyển chọn"
Xung quanh những mảng hiện thực về các tệ nạn và những vấn đề
118
xã hội nhức nhối, thƣơng tâm mà ống kính phóng sự của họ Vũ hƣớng vào, có biết bao sự
kiện, tình huống, vấn đề bộn bề và phức tạp. Nhƣng với nhãn quan sắc sảo và cảm quan hiện
thực tinh tế, ông đã tiến hành "tuyển chọn" những khía cạnh quan trọng, những hiên tượng
tiêu biểu của vấn đề mà ông đề cập cùng tư liệu về các giới người và những "mẫu hàng" của
nó. Trong tác phẩm, đôi khi tác giả nói rõ cái ý nghĩa nội dung những điều mà mình lựa chọn.
Chẳng hạn:
"... bài nói về hạng chồng lê dƣơng cũng đã đủ khiến độc giả hiểu được nhiều trường
hợp có đặc tính trong cái kỹ nghệ lấy Tây rồi" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd, tr. 83).
"Một thiên phóng sự về nhà Lục xì thì đó lại còn là một công cuộc khảo cứu về nạn
mại dâm" (Lục xì, Sđd, tr. 81).
Đúng là chuyện lấy Tây hay chuyện về cái kỹ nghệ lấy Tây là cả một câu chuyện dài.
Nhà phóng sự chỉ chọn cái khía cạnh nổi bật nhất là cái kỹ nghệ lấy Tây lê dƣơng. Đối với
nghề mại dâm, tác giả chỉ chọn mô tả cái nhà Lục xì mà ông coi là cái "Viện bảo tàng những
điều ô uế". Hay Xung quanh cái tệ tham nhũng ở một huyện có thể đem viết thành mấy tập
sách dày, nhƣng nhà phóng sự chỉ đặc tả nó trong một tình huống nó "buộc phải" xuất đầu lộ
diện. Đó là dịp huyện nha ăn tết.
Đối với tƣ liệu về con ngƣời, Vũ Trọng Phụng cũng "tuyển chọn" theo cách "khoanh
vùng" kiểu nhƣ vậy. Trong phóng sự của họ Vũ, tƣ liệu về con ngƣời không chung chung,
trừu tƣợng mà tồn tại với tư cách là một thành viên của một giới người nhất định. Bức tranh
nhân sinh ở từng thiên phóng sự bị "chiếm lĩnh" bởi hình ảnh tập thể của nhiều giới người
khác nhau: giới cờ bạc bịp, giới chủ nhà, giới cơm thầy cơm cô, giới quan nha... và cả cái
"đoàn thể" của các thầy nho (trong Một huyện ăn Tết). Điều này ít thấy ở các phóng sự đƣơng
thời.
119
Sự lựa chọn tƣ liệu về nhiều giới ngƣời trong khi viết về những tệ nạn và vấn nạn xã
hội là hết sức tinh tế, vì mỗi tệ nạn chỉ liên quan đến một hoặc nhiều nhóm người, giới người
nhất định. Và từ những cái "tập thể" ấy, nhà phóng sự lại tiếp tục việc tuyển chọn và đƣa ra
những "mẫu hàng" (những nhân vật có tính điển hình, tiêu biểu) của từng giới. Chẳng hạn, ở
phóng sụ Kĩ nghệ lấy Tây, ông cho biết: "Tôi chỉ còn ao ƣớc đƣợc bà Ách Nhoáng tiếp nữa là
đã có thể lƣợm lặt gần đủ những "mẫu hàng" của cái kĩ nghệ lấy Tây [157, 77]. Hoặc ở phóng
sự Cơm thầy cơm cô, ông nói: "Tôi có thể đưa ra cho các ngài đủ các mẫu hàng về giới cơm
thầy cơm cô" [155, 71], nhƣ kiểu ông đƣa ra "Những mẫu hàng đặc biệt của công giới và
thƣơng giới" - đám bạn hàng, vây cánh, tay sai của Nghị Hách trong tiểu thuyết Giông tố.
Nghệ thuật lựa chọn những mặt, những khía cạnh, tình huống của hiện thực và những
giới ngƣời với những "mẫu hàng" mang tính tiêu biểu đã đƣợc thể hiện rất sinh động trong
từng thiên phóng sự. Tuy nhiên, việc xác định đối tƣợng mới chỉ là bƣớc đầu của quá trình
khám phá hiện thực. Cùng với việc lựa chọn đối tƣợng, trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng
còn có cả một nghệ thuật tiếp cận khám phá bản chất của hiện tƣợng vốn rất phức tạp của
cuộc sống.
3.1.2. Sự năng động trong tiếp cận hiện thực
Ống kính phóng sự của Vũ Trọng Phụng vừa sắc sảo lại vừa linh hoạt và năng động
trong phƣơng thức tiếp cận hiện thực. Từ nhiều góc độ và những khoảng cách khác nhau, khi
cận cảnh để đặc tả, khi mở rộng để thâu tóm toàn cảnh, ống kính của họ Vũ đã soi sáng, phát
hiện nhiều mặt khác nhau của hiện thực. Đây là cách nhìn mới về sự thật, làm cho vấn đề nổi
bật và sâu sắc hơn. Chẳng hạn, đối với tệ nạn này, ông tiếp cận ở tầm bao quát, tìm ra cái cơ
câu tổ chức của nó; còn ở hiện tƣợng xã hội kia
120
ông lại xem xét nó dưới góc độ nghề nghiệp, "kỹ nghệ"...
3.1.2.1 Sự khám phá cơ cấu những tổ chức tội phạm
Khi viết về nạn cơ gian bạc bịp, họ Vũ không đi mô tả cảnh sát phạt lẫn nhau ở các
sòng bạc lớn nhỏ, vốn nhan nhản ở khắp Hà Thành thời đó, mà ông đột nhập thẳng vào cơ
quan đầu não của làng bịp, để khám phá cái cơ cấu tổ chức và phƣơng thức làm ăn của
chúng, Cả một hệ thống nhân sự, từ tên Trùm đến những thành viên trong "bộ chỉ huy" cho
đến cái chân rết của nó là lũ tạ đầu trâu mặt ngựa - toàn bộ mạng lƣới tổ chức của cái làng
bạc bịp cứ hiện lên một cách sinh động trong ống kính phóng sự.
Tệ tham nhũng cũng đƣợc tác giả tiếp cận theo một cách nhìn nhƣ thế. Điểm khác biệt
là, ở Cạm bẫy người, cái làng bịp la một "tổ chức ngầm" hoạt động trong bóng tối, còn ở Một
huyện ăn Tết lại là một tổ chức tham nhũng công khai hoạt động giữa lúc bạch nhật, thanh
thiên. "Quy trình" tham nhũng rất bài bản: quan huyện ký Công lệnh sai hết toán lính cơ rồi
lính lệ đi "tuần tra", gây chuyện, buộc đám lý dịch ở tất cả các xã phải lấy công quỹ ra cống
nạp. Số tiền tham nhũng theo lối "ăn cƣớp" này nằm trong dự toán chi cho việc ăn tết và đƣợc
chia theo một tỉ lệ định sẵn cho toàn bộ máy hành chính, từ cụ Thƣợng, cụ Bố, ông Đồn...
xuống đến từng tên lính lệ, lính cơ.
Phƣơng pháp "tiếp cận hệ thống" cả một bộ máy tham nhũng nhƣ vậy đã giúp tác giả
khám phá ra "cách tổ chức xã hội kim thời", "kể đã là chu đáo đến tột bậc. Xã hội thì nhƣ một
bộ máy tinh tế, mà cá nhân là những bánh xe, nếu một cái quay, thì bao nhiêu cái khác cũng
phải quay theo (...). Chẳng một ai lại có thể đứng ra ngoài công lệ: cá lớn nuốt cái bé, vì cái
phận sự nộp của đút, hoạt động từ dƣới lên trên..." (Một huyện ăn tết, Sđd, tr. 99). Một bộ
máy chính quyền mà bản chất là tham nhũng,
121
cƣớp bóc, thì đủ biết cái xã hội đó đen tối, băng hoại đến chừng nào!
3.1.2.2 Nhìn vấn đề dưới góc độ "kĩ nghệ"
Tuy mấy cái làng me cũng đƣợc mô tả nhƣ một thứ tổ chức có tôn ti trật tự, nhƣng
nhà phóng sự đã chủ yếu xem xét hiện tượng lấy Tây như là một nghề nghiệp, một "kỹ nghệ".
Bên cạnh cái "kỹ nghệ" thảm hại nay, họ Vũ cồn nói đến những cái "kỹ nghệ" quái gở khác
nhƣ "nền kỹ nghệ bạc bịp" (Cạm bẫy người, Sdd, tr. 57) và nền "kỹ nghệ mại dâm" (Com
thầy cơm cô và Lục xì, Sđd, tr. 159).
Vũ Trọng Phụng đã khám phá ra rằng, lấy Tây không những là một nghề, mà còn là
một nghề đã có cả một bề dày "truyền thống". Biểu hiện ở chỗ từng công đoạn nhƣ đã đƣợc
"chuyên môn hóa", có hẳn một lớp "thợ già" nhƣ ba Ách Nhoáng, bà Kiểm Lâm, Đội Chóp...
chuyên tiếp nhận những "cô thợ trẻ" nhƣ Duyên, Ái, Tích... và truyền cho họ những ngón
nghề, sửa sang dung nhan cho họ, sao cho có nét me, rồi gả bán họ cho Tây để lấy tiền hoa
hồng. Sự cạnh tranh trong nghề này cũng rất dữ dội. Họ "gièm pha", "phá giá", "hớt tay"
nhau. Luật "cung cầu" cũng chi phối mạnh mẽ cái "thị trƣờng" quái gở này, cuốn hút cả
những "khách hàng" (đám Tây lê dƣơng đủ mọi quốc tịch) vào những pha đụng đầu gay gắt,
chẳng khác nào cuộc giáp chiến giữa "Sơn Tinh và Thủy Tinh" trong huyền thoại.
Lấy Tây lê dƣơng chẳng qua là nghề buôn son bán phấn, làm đĩ mạt hạng phục vụ
tình dục cho đội quân viễn chinh này. Nhƣng các me lại đội lốt ái tình để hành nghề, dùng ái
tình làm bùa mê, làm cho nhiều gã lê dƣơng phải "gục ngã". Phƣơng châm của các me là "cứ
gãi về mặt tình cảm là các cậu bị ngay" (Sđd, tr. 59). Họ thành công trong những pha giả
đánh ghen, hoặc tỏ ra mình "có một mảnh hồn u uất và một trái tim đau thƣơng" (Sđd, tr. 84),
khi viết những lá thƣ tình rất "mùi" để tỏ tình, xin tiền...
122
Xem qua cái cung cách "làm ăn" ấy, nghề lấy Tây quả là một "kỹ nghệ". Cách tiếp
cận này đã mở ra một cách nhìn mới về hiện tƣợng me Tây, vốn là vấn đề trôi nổi trên dòng
sông dƣ luận với nhiều điều tiếng khinh khi, dè bỉu... Trong Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng
Phụng, các me đều khẳng định "Chúng tôi lấy họ vì tiền chứ không bao giờ vì tình" (Sđd, tr.
33). Họ lấy chồng hay bỏ chồng cũng nhƣ "tậu đƣợc một cái chén hoặc nhỡ tay đánh vỡ mất
mà thôi" (Sđd, 56). Họ bị "bơ và phó mát chinh phục" chứ đâu phải vì đám lê dƣơng thô lỗ,
nghiện ngập, "trùm xỏ lá, đại ma lanh" và lấy vợ Việt "coi nhƣ thuê gái một hạn dài vậy"
(Sđd, tr. 25). Cho nên, sự kiện lấy Tây của những ngƣời phụ nữ vong quốc là một sự cực
chẳng đành, một "nghiệp chƣớng", chứ đâu phải là sự "mất gốc", "lạc nòi" nhƣ nhiều ngƣời
lên án. Đằng sau cái "Kỹ nghệ" quái gở đó là cả một sự đau đớn trăm bề của những kiếp me,
phú quý thì "giật lùi" cùng cuộc đời lỡ dở và cái số phận đầy tủi hờn của những đứa con lai
"không Tổ quốc". Họ cũng là hiện thân của bao nỗi bi thương của một thời nô lệ. Tuy cái
"nghề" của họ có nhiều cái đáng chê cƣới, đáng giận, nhung rất đáng đƣợc cảm thông.
Chính vì thế, cách tiếp cận dƣới góc độ nghề nghiệp, tƣởng nhƣ "khách quan" lạnh
lùng của Vũ Trọng Phụng trong "Kỹ nghệ lấy Tây" lại ẩn chứa cái nhìn nhân đạo.
Cũng tiếp cận dƣới dạng một "nghề", một "Kỹ nghệ", nên trong Cạm bẫy người, Vũ
Trọng Phụng đã khám phá đƣợc bao điều bí ẩn trong những "ngón nghề" bịp của một tổ chức
lƣu manh chuyên nghiệp. Tâm lý, tính cách, số phận của các con bạc, dƣới góc nhìn "nghề
nghiệp" đã hiện lên hết sức sinh động. Cái máu đỏ đen nhƣ một chất ma túy thấm sâu vào tận
huyết quản của họ, làm họ cứ lún sâu mãi vào vũng bùn tội lỗi, lụi tàn về nhân cách...
123
3.1.3. Sự sáng tạo trong khai thác tư liệu
Cùng với sự năng động trong tiếp cận hiện thực, Vũ Trọng Phụng còn rất "khôn
ngoan" trong những thao tác nghề nghiệp khi khai thác tƣ liệu. Họ Vũ rất tinh vi trong nghệ
thuật điều tra và dùng cả trí tƣởng tƣợng sáng tạo để tái hiện tƣ liệu. Trong những trƣờng hợp
cần thiết, ông dùng cả tài liệu gián tiếp và có khi cả tƣ liệu mang tính mơ hồ, ƣớc lệ...
3.1.3.1 Sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin
Với cái nhìn của một nhà văn cùng với con mắt của một nhà báo, Vũ Trọng Phụng rất
nhanh nhạy trong việc phát hiện ra những đầu mối thông tin và rất khéo léo khơi gợi, để khai
thác đƣợc nguồn thông tin dồi dào, đủ độ tin cậy. Để tìm hiểu những bí ẩn của cái "thế giới
bạc bịp", nhà phóng sự đã "túm" lấy tên thủ lĩnh của cái "đảng" bạc bịp là Trùm Ấm B. Qua
đấy, nhà phóng sự thu thập đƣợc nhiều tƣ liệu về nội tình, cơ cấu tổ chức và phƣơng cách
"làm ăn" của cả cái làng bạc bịp... Sự khôn khéo, thậm chí nhún mình, để đeo bám viên thầy
thuốc, bác sĩ Joyeux giám đốc nhà Lục xì, kiêm giám đốc ngạch vệ sinh thành phố Hà Nội,
cũng là "nhắm" vào cái mục đích ấy. Và họ Vũ đã đƣợc viên bác sĩ này cung cấp cho cả một
"kho" tƣ liệu về cái "viện bảo tàng những điều ô uế" và mở ra cả một "thế giới" của tệ mại
dâm ở khắp lãnh thổ. Để khám phá ra tệ tham nhũng trong dịp tết của cả một huyện nha, nhà
phóng sự không cần phải đi đâu xa, mà còn "bật mí" rằng mình chỉ nằm bên khay đèn của
một viên lục sự già, vì lão ta là đầu mối của các hoạt động tham nhũng. Hơn nữa, cái lão lục
sự nay lại có cái "đức", tuy "đục khoét thành thánh", nhƣng chẳng thèm che đậy hành vi xấu
xa. Vì vậy, bên cạnh khay đèn, lại đƣợc tạo hứng bởi "nàng tiên nâu", ông ta đã "tuôn" ra tất
cả những thủ đoạn "ăn bẩn" của giới quan trƣờng. Vũ Trọng Phụng đã biết "nhấn" đúng cái
nút thông tin "đầu mối" này và ông đã thành công!
124
Cái nổi lên ở đây là tinh thần khảo sát, nghiên cứu. Chẳng hạn, ông đã tìm ra lí do vì
sao nhà Phúc đƣờng (Dispensaire) lại có cái tên là nhà "Lục xì", trƣớc năm 1900, cái nhà nay
nằm ở phố nào. Ông tìm ra cái Nghị định đầu tiên của Toàn quyền Paul Bert kí năm 1886 về
nhà Lục xì, cũng nhƣ tìm đƣợc bao tài liệu "nguyên gốc" về tệ mại dâm...
Đối với vấn đề mà mình cho là chƣa rõ thực hƣ, nhƣ chuyện kỹ nghệ lấy Tây, Vũ
Trọng Phụng đã tiến hành một cuộc điều tra ở cả hai bên "đối tác". Bên "ta", ông chọn những
me già đời đã từng nhiều lần lấy chồng Tây, nhƣ bà Kiểm Lâm, bà Đội Tứ, bà cai Bu Dích,
v.v... Còn bên "Tây", họ Vũ cũng chọn những kẻ đã từng có nhiều đời vợ Việt, nhƣ lão "cự
môn thê thiếp" Đimitốp (14 lần lấy vợ), v.v... Và thận trọng hơn, ông còn khai thác ý kiến của
những kẻ "trung gian" nhƣ cô đầm lai Suzanne. Bằng nghệ thuật gọi mở khéo léo, họ Vũ đã
"buộc" những đối tƣợng này "Cởi hết gan ruột" thổ lộ nỗi lòng. Qua sự chúng khẩu đồng từ
của họ, nhà phóng sự đã rút ra những kết luận khách quan về cái kỹ nghệ lấy Tây quái gở.
Không thật thỏa mãn với kết luận về nguyên nhân làm nghề mại dâm của một số phụ nữ, họ
Vũ đã chọn hai ngƣời trong số họ "một ngƣời vừa già, vừa xấu và một ngƣời nữa, còn trẻ,
mới vào nghề độ ít lâu" [155, 200 - 201], để ông trực tiếp "trắc nghiệm", nhằm rút ra những
nhận định chính xác về vấn đề nay. Việc "chọn mẫu" là những đối tượng chứa nhiều "năng
lượng" thông tin, mang tính "đại diện" cho từng loại để đối chứng là một thao tác hết sức
khoa học. Sự khéo léo tiếp cận, hòa đồng cùng đối tƣợng, nhằm khai thác đƣợc những ẩn ức
của họ, nghiên cứa họ trong một hoàn cảnh hết sức tự nhiên đã có một hiệu quả to lớn trong
việc thu thập đƣợc những tƣ liệu phong phú, sinh động và xác thực.
3.1.3.2 Sự tưởng tượng về cái có thật
Tuy nhiên, trƣớc một hiện thực dù đã đƣợc "tuyển chọn" và đã tiếp
125
cận nó bằng cách soi rọi từ nhiều phía, dùng cả những thao tác kỹ thuật "khôn ngoan" đi sâu
vào đời sống, trực tiếp quan sát, chứng kiến... nhƣng có những mặt, những khía cạnh, không
thể dùng mắt thƣờng để quan sát, tìm ra bản chất của nó. Trong những trường hợp như vậy,
Vũ Trọng Phụng đã dùng đến tư duy tưởng tượng để tái hiện tư liệu. Họ Vũ làm đƣợc điều
đó, vì ông có một năng lực nhận thức cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân phong phú. Poe cho
rằng "con ngƣời tài tình là luôn luôn tràn đầy tƣởng tƣợng (plein d' imaginative) và con ngƣời
thực sự tƣởng tƣợng (imaginatib) chẳng bao giờ cái gì khác là một nhà phân tích". Và nói
nhƣ A. Puskin thì "sự tƣởng tƣợng chân chính đòi hỏi một sự hiểu biết thiên tài" (dẫn lại theo
Tạp chí văn học số 4-1967, trang 49).
Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, sự tƣởng tƣợng luôn phù hợp với lô gích của cuộc
sống. Sự tƣởng tƣợng sáng tạo này vừa khoa học và lại mang tính thẩm mỹ cao. Để "nhớ tới"
cảnh con sen Đũi khiêu dâm cậu bé con chủ nhà, tác giả cho rằng: "Nói cho đúng ra, hình như
tôi thấy hiện rõ trƣớc mắt tôi cái cảnh tƣợng thảm hại một cậu bé mới 12 tuổi mà đã hứng
tình trƣớc hai cái đùi trắng nõn của một con sen vờ nằm ngủ say"[155,39]. Để tái tạo lại cuộc
đời của cô Duyên trƣớc khi trôi dạt đến cái làng me, họ Vũ cũng dùng tƣởng tƣợng: "Tôi
không đƣợc mục kích thấy Duyên chê chồng (...) Vậy tôi thử cứ phác họa ra cái đoạn đời của
Duyên khi Duyên còn là cô gái quê..." [157, 39]... Tác giả đã phác họa cảnh Duyên cùng mấy
chị em đi làm đồng gặp một "anh đi đƣờng cái quan" hào hoa, phong nhã. Về nhà Duyên thấy
chán ngán với cái anh chồng "bần tiện... đầu gối quá tai" và bỏ chồng ra Hà thành, bị lừa lọc
va cuối cùng đi lam me...
Còn khá nhiều chân dung những nhân vật khác nhƣ Trùm Ấm B, Tham Ngọc, Vân,
Ba Mỹ Ký (Cạm bẫy người), ba Kiểm Lâm (Kỹ nghệ lấy Tây), con sen Đũi (Cơm thầy cơm
cô), thầy nho Kh (Một huyện ăn Tết)...
126
đều ít nhiều chứa đựng yếu tố tƣởng tƣợng. Sự miêu tả có pha tƣởng tƣợng đã làm những
nhân vật này lung linh hẳn lên. Nếu đặt những nhân vật này cạnh những nhân vật, nhƣ thầy
ký Oanh, Thi Mỹ, Bùi Độ Diễm, Lê văn Quang, Nguyễn Văn Tích, phó lý Mùi, v.v... trong
phóng sự Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo, thì quả là hai thế giới nhân vật khác biệt.
Đúng là, nhƣ I. Gôncharốp có nói: "lối chụp trực tiếp từ cuộc sống sẽ dẫn tới một bản sao
nhợt nhạt, thảm hại. Chỉ bằng con đƣờng của tƣởng tƣợng sáng tạo nó mới đến gần đƣợc với
cuộc sống" [3, 304]. Nhìn "cái bảng thống kê to bằng một cái chiếu" ghi rõ danh sách gái mại
dâm, tình hình bệnh tật, số trốn đi, số còn lại... tác giả tƣởng tƣợng đó là: "Phong vũ biểu và
thời khắc biểu của nghề mại dâm" [155, 113]. Tất cả sự tƣởng tƣợng nói trên là tưởng tượng
về cái có thật. Ở đây hoàn toàn không có chuyện trộn lẫn giữa cái thật với cái bịa đặt, mà là
sự gia công "nhào nặn" lại những tƣ liệu ngƣời thật, việc thật theo một cách riêng, bằng vốn
sống phong phú của mình, biến sư thật của hiện thực thành sư thật của nghệ thuật. Vì thế,
những tƣ liệu ở đây trở nên có hồn, ngay cả những con số cũng cất lên tiếng nói...
Trong phóng sự của họ Vũ, còn có cả những tư liệu mang tính mơ hồ ước lệ. Chẳng
hạn, khi tả một quán cơm, ông đã "không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào", nhƣng lại
"bắt" đúng cái mùi vị thâm căn cố đế của nghìn vạn cái hàng cơm thuộc loại mạt hạng. Đó là
cái "mùi cá mè... mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi dƣa khú" (Cơm thầy cơm cô). Nói" về
chuyện quan nha ở một huyện, ăn Tết bằng các thủ đoạn tham nhũng trắng trợn, bẩn thỉu, nhà
phóng sự cũng đã chủ trƣơng: "chẳng nên nói rõ ra đây là cái tên của huyện ấy", vì ông cho
rằng "bất cứ ở chỗ nào, sự đời cũng đến vậy cả" (Một huyện ăn Tết). Không gian mơ hồ, thời
gian cũng lại rất mơ hồ. Phiên tòa xử một me Tây xảy ra vào "một buổi nọ"; chuyện cái
huyện
127
ăn Tết nói trên là vào "tháng Chạp năm ngoái", nhƣng theo ông: "nó có thể cứ vẫn là câu
chuyện của Tết năm nay, lại có thể sẽ là câu chuyện của Tết sang năm nữa". Đối với một ngòi
bút phóng sự sắc sảo, có thể nói có sách mách có chứng, nhƣ khi tiến hành khảo sát khoa học
về tệ mại dâm, thì những cái mơ hồ kiểu nhƣ trên không phải do thiếu khả năng nắm bắt đƣợc
đối tƣợng miêu tả, càng không phải là sự phóng bút ngẫu hứng, mà là sự mơ hồ tự giác, chủ
động, nhằm nhận thức vấn đề một cách khái quát, nhằm đi sâu để nắm bắt cái bản chất bên
trong của nó.
3.1.3.3 Làm sống dậy những tư liệu gián tiếp
Xung quanh cách làm phóng sự của họ Vũ, có nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau, nhƣng
hầu hết đều cho rằng, ông không thể "trải nghiệm", "lăn lóc" hết tất cả các mảng hiện thực, vì
sức ông rất yếu. Vả lại, làm phóng sự rất tốn kém, lấy tiền đâu mà đi. Có những trƣờng hợp
ông phải dùng tài liệu gián tiếp. Khi viết về nạn mại dâm, họ Vũ nói: "Tôi không phải đi điều
tra ở các nhà săm, các tổ quỷ ở nơi ngõ hẻm hang cùng. Không phải đút lót bọn bồi săm, bọn
phu xe đêm, cũng không cầm ôm ấp vào lòng bọn gái đĩ (...). Tôi chỉ việc điều tra những sách
vở thảo luận về vấn đề ấy" [155, 170 - 171]. Từ những sách vở ấy, ông dựng lên những cảnh
tƣợng sinh động, những tình tiết "có hồn". Chẳng hạn, đây là giọng của tên bồi săm "chào
hàng": "Ứ ừ! Cậu cứ tƣởng! Ở nhà quê mới ra đây có hai hôm... Mặc váy cẩn thận và chƣa
biết đi guốc [155, 202]. Trong Tàn đèn dầu lạc, Nguyễn Tuân kể rằng có lần, sau khi "vớ"
đƣợc tập ký ức của một tay cỡ "thánh sƣ" trong nghề bồi tiêm thuốc phiện, Vũ Trọng Phụng
nói: "Tập ký ức đó, tài liệu nhiều, toàn những truyện sống cả, nhƣng lúc lấy về, cũng còn phải
chần lại, xào nấu lại mấy lần lửa nữa rồi mới ăn đƣợc" [204, 6]. Sự chần lại, xào nấu lại mà
Vũ Trọng Phụng nói, là sắp xếp lại, thêm chỗ nọ, bỏ chỗ kia, trên cơ sở của một tƣ duy khái
quát, tổng hợp. Dƣới ánh sáng của
128
tƣ duy tổng hợp, việc khai thác tƣ liệu vừa đƣợc chọn lọc, vừa đi vào chiều sâu bản chất, vừa
có sự liên kết chặt chẽ. Chính vì vậy, những tư liệu trong phóng sự của họ Vũ được dùng một
cách cụ thể và toàn diện hơn. Và cũng vì thế, hiện thực trong phóng sự của họ Vũ thƣờng
hiện lên nhƣ những bức tranh đời sống sinh động. Ngay cả ở Lục xì, mặc dù có nhiều con số
thống kê, nhiều tƣ liệu nguyên gốc của chính quyền... nhƣng đây không phải là một công
trình điều tra xã hội học, vì tác giả của nó đã "vẽ" lên cả một bức tranh "toàn cảnh" về nạn
mại dâm đầy nhuốc nhơ, nhức nhối. Đây là điểm khác biệt giữa Vũ Trọng Phụng với Nguyễn
Đình Lạp và một vài cây bút phóng sự đƣơng thời. Trên cấp độ rộng, Nguyễn Đình Lạp
thƣờng thể hiện rõ quan điểm xã hội học, trƣớc những vấn đề mà ông tiếp cận. Những mảng
hiện thực trong các phóng sự Cường hào, Thanh niên trụy lạc, Những vụ án tình, v.v...
thƣờng đƣợc khai thác và nêu thành một hệ thống vấn đề, đƣợc nhận thức, khái quát, tổng
kết, bình luận, thuyết lý, nêu giải pháp... Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, hiện thực cuộc sống
được tái hiện dưới dạng những bức tranh nhân sinh, vừa cụ thể, sinh động, lại vừa khái quát,
triết lý. Đây là kiểu nhận thức bằng cách xác lập sự cảm nhận toàn bộ về thế giới. Chính vì
vậy, trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, chất văn học khá đậm đà, trong đó yếu tố tiểu thuyết
nổi lên như một điểm nghệ thuật độc đáo.
3.2. Những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết
Về mặt thể loại, phóng sự của Vũ Trọng Phụng không phải là một thứ tiểu thuyết trá
hình. Tuy đó là những phóng sự nhƣng ở mỗi tác phẩm có "pha" những yếu tố tiểu thuyết ở
những mức độ khác nhau. Yếu tố tiểu thuyết biểu hiện ở nội dung từng "vấn đề" được trình
bày dưới dạng một "câu chuyện", ở việc đưa những tư liệu về con người dưới dạng một quần
thể nhân vật sống động và ở một lối thuật kể theo kiểu tiểu thuyết.
129
3.2.1. Mỗi "vấn đề" đều thành "câu chuyện"
3.2.1.1 Những tiêu dề hấp dẫn, chứa nhiều hàm ẩn
Là một thể văn viết về ngƣời thật, việc thật, mỗi thiên phóng sự thƣờng đề cập đến
một vấn đề nào đó về hiện thực xã hội và cuộc sống của con ngƣời. Trong phóng sự của mình
họ Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa hiện thực và tƣ tƣởng sâu sắc. Nhƣng những sự kiện,
biến cố và hành vi của con ngƣời thƣờng đƣợc ông trình bày dưới dạng một câu chuyện:
chuyện về cờ bạc bịp, về chuyện đi ở, mại dâm, lấy Tây, tham nhũng...
Những câu chuyện nhƣ trên thƣờng đƣợc bắt đầu bằng những biến cố khác thường,
"lệch chuẩn", dự báo một sự thay đổi hay một hiểm họa... Chẳng hạn, chuyện cờ bạc đỏ đen
tràn lan trong cái xã hội đƣơng thời thì có gì lạ, nhƣng bỗng nhiên có một kẻ lại "bật mí" một
điều hết sức lạ lùng: "Ông thân tôi là mòng", thì là đã có chuyện: cơ bạc bịp đã len vào tận tế
bào gia đình, nghiêm trọng đến mức con dẫn bợm về nhà "thịt" cả bố đẻ. Chuyện lấy Tây đã
có từ lâu, me Tây đâu phải là chuyện gì mới mẻ, nhƣng bỗng trƣớc một phiên tòa, có một thị
lại "táo tợn", "xƣng xƣng" khai là mình "làm nghề lấy Tây", thì đó lại là một câu chuyện hết
sức nghiêm túc về một thứ nghề quái gở trong cái xã hội thuộc địa. Hay chuyện đi ở trong xã
hội bóc lột là chuyện thƣờng tình, nhƣng hiện tƣợng cả một "tập thể" những kẻ ăn đợi nằm
chờ ở cái sân sau đầy xú uế của một hạng cơm mạt hạng; sáng sáng lại kéo nhau ra phơi mặt
ở cái chợ bán ngƣời, để "cầu" đƣợc một gia chủ mua về làm đầy tớ, thì đó lại là chuyện của
cả một "giới" Cơm thầy cơm cô, v.v...
Cũng giống nhƣ các tiểu thuyết vói cái tên "Giông tố", "Số đỏ", "Làm dĩ"... các phóng
sự của Vũ Trọng Phụng mang những tiêu đề đầy hấp dẫn: "Cạm bẫy người", "Đời cạo giấy",
"Kĩ nghệ lấy Tây", "Dân biểu, dân biểu", "Cơm thầy cơm cô", "Lục xì", "Một huyện ăn Tết".
Đứng là những tiêu đề
130
này có phần "khiêu khích" óc tò mò của ngƣời đọc, chứ không "hiền lành" bình dị, nhẹ nhàng
nhƣ tên các phóng sự "Tôi kéo xe", 'Việc làng", "Hà Nội lầm than", "Từ ái tình đến hôn
nhân"... của các nhà phóng sự đƣơng thời. Có những ý kiến cho rằng, những tiêu đề phóng sự
nói trên của họ Vũ đầy "giật gân" mang tính lập dị. Theo chúng tôi, ý kiến này không đúng,
vì sự giật gân chỉ gây được sự kích động bên ngoài, còn bên trong không có nội dung gì cả.
Đằng nay, các tiêu đề phóng sự của họ Vũ không chỉ dừng ở những từ ngữ khác thƣờng, khác
lạ, trệch chuẩn mà còn đi sâu vào bản chất của hiện tượng.
Đứng là cái tiêu đề có vẻ úp mở nhƣ "Cạm bẫy người", "Kĩ nghệ lấy Tây"... hay tiêu
đề gồm có hai từ "Lục xì" rất khó hiểu, xa lạ... đã có một sức cuốn hút mạnh mẽ. Nhƣng sự
hấp dẫn đặc biệt của nó chủ yếu lại ở chỗ đã không chỉ làm bật đƣợc nội dung câu chuyện mà
còn gợi lên bao hàm ẩn sâu xa, tạo nên sự phức hợp chủ đề cho từng thiên phóng sự. Chẳng
hạn, với cái tên Cạm bẫy người, tác phẩm không chỉ lột trần những ngón đồn lừa nham hiểm,
tinh vi để hại ngƣời của lũ cờ gian bạc bịp; sự khốc hại của nạn cờ bạc, mà còn dựng lên cả
một hình tƣợng xã hội đen tối, bất nhân nhƣ một thứ Cạm bẫy khổng lồ đầy hiểm họa với tất
cả con ngƣời. Kĩ nghệ lấy Tây không chỉ là nỗi bi hài của một thứ "kĩ nghệ" thuộc hàng quái
gở, thảm hại, nhục nhã của những ngƣời phụ nữ thời nô lệ, vong quốc mà có thể đó còn là
chủ đề về phụ nữ - tính dục - chiến tranh, nhƣ trong văn học Hàn Quốc, Phần Lan, Na Uy
viết về thân phận ngƣời phụ nữ phải phục vụ tình dục cho đội quân chiếm đóng thời Đệ nhị
thế chiến, v.v...
3.2.1.2 Những tư liệu được kết dính chặt chẽ
Trong phóng sự của họ Vũ đầy ắp những tƣ liệu, sự kiện. Với một tác phong khoa
học, chính xác, ông đã tỉ mỉ lục tìm tất cả các tƣ liệu trong tập Bulletin de la Ste, Médics -
Chirurgicale... nói về nạn mại dâm. Ông còn
131
đƣa những tƣ liệu về những "đòn" bạc bịp từ thời Tự Đức và thời Ba Sống, Hai Tôm hồi đầu
thế kỉ hoặc tìm cả tƣ liệu về bà Đội Chóp, vị "tổ sƣ" của cái Kĩ nghệ lấy Tây... Nhiều cây bút
phóng sự đƣơng thời nhƣ Trọng Lang, Hoàng Đạo, v.v... cũng có chung cách làm tƣ liệu kĩ
nhƣ thế. Nhƣng nghệ thuật đưa tƣ liệu lại rất khác nhau. Nếu ở Hà Nội lầm than, các mục ở
bốn phần của thiên phóng sự (Gái nhảy, cô đầu...) ít nhiều có mối liên hệ với nhau thì ở
Trước vành móng ngựa, tuy cùng viết về những hiện tƣợng diễn ra ở nơi tòa án, nhƣng 52
mục là những sự việc hoàn toàn riêng biệt, không hề có mối quan hệ nội tại. Còn ở các phóng
sự của Vũ Trọng Phụng, các tƣ liệu, sự kiện được tổ chức thành một câu chuyện vói những
chương, mục ràng buộc với nhau một cách chặt chẽ. Nhƣ một cuốn phim có kịch bản thống
nhất, tác giả dẫn dắt ngƣời đọc đi suốt tác phẩm thông qua hàng loạt sự kiện đan xen, xoắn
xuýt lấy nhau, cái trƣớc là tiền đề của cái sau, mở tiếp đƣơng cho câu chuyện tiến triển. Vì
vậy, các chƣơng, mục trong câu chuyện kết dính với nhau một cách tự nhiên, chúng cứ nhƣ
"huých" nhau "gọi" nhau lần lƣợt xuất hiện liền một mạch, "buộc" ngƣời đọc phải theo dõi
liên tục, nếu bỏ mất một mục thì lập tức câu chuyện sẽ bị gián đoạn. Chẳng hạn, ở Cạm bẫy
người, sau mục I (Ông thân tôi là "mòng") giới thiệu hai nhân vật Vân, Tham Ngọc (Xuân)
và màn bịp đầu tiên hết sức "ngoạn mục", do chúng trình diễn là đến mục II (Ông quân sự
của bạc bịp) mô tả chân dung và cái lai lịch bất hảo của tên Trùm Ấm B cùng gã Cả Ủn - tên
giữ két tiền của làng bịp... Những chƣơng sau lại xuất hiện thêm những nhân vật và những sự
kiện mới, nhƣng vẫn xoay quanh câu chuyện của cái làng bạc bịp: chuyện "làm ăn", những
mâu thuẫn, chia rẽ, lừa phản nhau... Hầu hết các nhân vật đều "tham dự" vào diễn biến của
câu chuyện từ mục đầu cho đến mục kết thúc (XIV - Kẻ ở với người về).
Ở Cơm thầy cơm cô, câu chuyện cũng đƣợc hình thành kiểu nhƣ vậy.
132
Mở đầu là màn "trình diễn thời trang" rất "láu cá" của anh bồi giả danh, câu chuyện
bắt đầu từ mục Đêm ấy, tại hàng cơm với sự xuất hiện cả một "bọn Cơm thầy cơm cô nằm
ngổn ngang nhƣ lợn". Câu chuyện đƣợc tiếp nối sang cái chợ Muốn bán mười sáu người...
Tiếp sau là chuyện về Cái giá trị làm người, rồi từ đó "phăng" ra cái Cuốn tiểu thuyết của
con sen Đũi, v.v...
Việc trình bày một vấn đề dƣới dạng một câu chuyện đã đem lại sự hấp dẫn, tránh
đƣợc sự khô khan vốn có của thể văn tƣ liệu. Nhƣng điều này chỉ thực hiện đƣợc khi những
tư liệu, sự kiện nói trên phải được tổ chức thành một hệ thống theo yêu cầu của một tư tưởng
và nghệ thuật nhất định. Ở báo Phóng sự năm 1938, có ba thiên phóng sự dài cũng lấy đề tài
cờ bạc bịp (Theo chơn bọn cờ bạc của Đông Giang), đi ở (Trong làng bồi bếp của Thổ Công),
mại dâm (Điều tra tại Sở phong tục của Y Lang). Mặc dù đƣợc giới thiệu đây là những thiên
phóng sự đƣợc làm một cách công phu, nghiêm túc: "Ghi chép một cách rành rẽ, dùng sự
thật một trăm phần trăm do "mắt thấy" và "tai nghe" chớ không phải ngồi một chỗ mà tưởng
tượng làm càn, viết bướng" (Theo chơn bọn cờ bạc - báo Phóng sự số 1.1938, tr. 3) và ở ba
thiên phóng sự này, nhiều mục đƣợc viết dƣới dạng một câu chuyện, nhƣ: Cách xổ đề lận, xổ
đề cách Hàn Tín điểm binh, Bài Phé, Tứ sắc, v.v... (Theo chơn bọn cờ bạc); Gái đĩ xin chỗ
làm, Bằng cấp làm đĩ, Bán phấn buôn hương, v.v... (Điều tra tại Sở phong tục); Tôi làm bồi
chó, Tâm sự cô bồi, Một anh bồi mưu Tào Tháo, Anh Xuân đại thánh, v.v... (Trong làng bồi
bếp), nhƣng những câu chuyện này, phần nhiều, nhằm thỏa mãn trí tò mò và có phần mua
vui. Chẳng hạn, ở phóng sự Trong làng bồi bếp (số 7/ 1938), tác giả cho biết:
"Chuyến du lịch của tôi vào làng bồi bếp nầy, đứng về mặt tinh thần kể cũng mát thật,
nhƣng tôi đƣợc khí lạc quan về kinh tế. Tôi đóng vai:
133
Cậu bồi là cậu bồi bô,
Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm".
(Trang 5)
"Cậu bồi" này "cầu hôn" một cô bồi (cô Ba): "Mình ạ, nhƣ thế thì chúng ta cùng
chung một cảnh ngộ, cùng con nhà tử tế cả, chỉ vì hoàn cảnh xui nên mới phải đem thân lƣu
lạc làm tôi mọi cho ngƣời (...) chúng ta có thể lấy nhau làm vợ chồng". Bị cô từ chối, vì cô
chỉ muốn lấy Tây, cậu bồi nói với độc giả: "Thế là thƣa các ngài, thế nào nó cũng lấy Tây (...)
có Trời cũng chẳng cản đƣợc nó nữa là thằng tôi (...) khi hỏi nó có ngoại tình với ngƣời Nam
không, nó nói: Con trâu khát nƣớc làm sao, con bồ khát nƣớc làm vậy, cần gì là vợ chồng
mới có quyền gần nhau" (Trang 15), v.v...
Những câu chuyện nhƣ thế cứ tràn lan. Trong đó có rất nhiều nội dung, tình tiết
"nhái" phóng sự Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, do không có một định hướng tư tưởng và sự
sáng tạo nghệ thuật nên những câu chuyện trở nên rời rạc, tản mạn, tẻ nhạt. Do không tạo ra
đƣợc giá trị mới mẻ, những thiên phóng sự nói trên đã bị nhanh chóng lãng quên.
Việc trình bày những vấn đề "lệch chuẩn" của đời sống (cụ thể là những tệ nạn, vấn
nạn) dƣới dạng những "câu chuyện" có lớp lang, đầu cuối trong thể văn phóng sự nhƣ Vũ
Trọng Phụng đã làm một sự "khôn ngoan", vì đi kèm với "câu chuyện" thƣờng là những nhân
vật đƣợc hình tƣợng hóa từ hiện tƣợng ngƣời thật, việc thật. Cũng chính bởi thế, trong phóng
sự của Vũ quân, bên cạnh những tƣ liệu về con ngƣơi còn có cả một quần thể nhân vật sống
động.
3.2.2. Một quần thể nhân vật sống động
Ống kính phóng sự sắc lẹm và tinh nhạy của Vũ Trọng Phụng thu đƣợc nhiều hình
ảnh rất nét, rất thực, có giá trị tƣ liệu về con ngƣời: Kia là viên quan "đứng đầu thủ đô Bắc
kì" - Đốc lí Virgitti "y phục xềnh xoàng
134
- áo một màu, quần một màu khác, ca-vát cũ kĩ, đôi giày không đánh kem"... [155, 112]. Bên
cạnh đó là bác sĩ Joyeux, y sĩ Nguyễn Huy Quỳnh, viên thanh tra Mas... và đây là nhà văn
đƣơng thời Lê Tràng Kiều, còn đây là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, đang "mỉm cƣời
một cách tinh quái" [155, 72] khi bàn tới việc nên điều tra giới chủ nhà độc ác bằng cách
nào...
Bên cạnh những tƣ liệu sống nhƣ thế, trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng còn có hẳn
một thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng và sinh động... gồm rất nhiều loại: những "me" già,
"me" trẻ và những "đức ông chồng" Tây thuộc nhiều quốc tịch của mấy cái "làng me" quái
gở; đám con sen thằng nhỏ khốn khổ, tinh quái, lƣu manh và giới chủ nhà tham lam, ác độc...
cùng đủ các loại gái điếm, trong đó có những ả mang cái tên quá đỗi "mĩ miều", độc nhất, vô
nhị, chƣa từng có trong cõi đời này: Tâm Thị Dã Mận...
Cả cái thế giới ấy nhƣ là một thứ "nhân loại" nhếch nhác, lem luốc, xô bồ, ồn ào, ma
quái... đang "họp chợ" dƣới cái gầm trời bức bối, u ám, hấp hối ánh hoàng hôn của cái xã hội
thực dân phong kiến thời Pháp thuộc.
Trong cái khung cảnh tấp nập ấy, bên cạnh nhiều nhân vật mới chỉ là những chân
dung phác thảo, là những nhân vật khá đậm nét, đầy dặn cả về ngoại hình lẫn nội tâm... gây
đƣợc ấn tƣợng mạnh, nhƣ những nhân vật sống động trong những tác phẩm tiểu thuyết. Trà
trộn vào cái quần thể nhân vật đông đúc ấy, còn có một nhân vật đặc biệt: nhân vật Tôi. Đây
là một nhân vật "đa năng", khi thì hội nhập hoàn toàn vào "thế giới" nhân vật đông đảo, khi
lại đứng tách ra để đảm nhiệm những vai trò khác nhau trong nghệ thuật của từng thiên
phóng sự.
3.2.2.1 Những bức chân dung sống động
135
Quần thể nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng hiện lên sinh động, trước hết là
nhờ nghệ thuật miêu tả, khắc họa. Khi miêu tả chân dung nhân vật, họ Vũ đã sử dụng khá
nhiều kĩ xảo linh hoạt, khi thì miêu tả bao quát, khi thì đặc tả từng bộ phận, khi thì mô tả qua
cái nhìn của một nhân vật khác...
Chẳng hạn, chỉ với một vài nét phác, nhân vật Ba Mĩ Ký đã hiện ra với toàn bộ vẻ
ngoài bao gồm cả phục trang và thần thái hết sức thảm hại: "Ngƣời ấy nói đoạn, mở rộng
cánh cửa. Bấy giờ tôi mới nhận đƣợc rõ là bác Ba Mĩ Ký, một người trong vòng ba mươi
tuổi, thân thể rạc như xác ve, hai vai xo lên gần đến mang tai, vừa đứng vừa run trong một
tấm chăn bông vải màu nâu đã xám xịt lại như khăn lau giường" [154, 121]. Cũng chỉ bằng
một vài nét bút, họ Vũ đã dựng lên một bức chân dung có góc cạnh của Trùm Ấm B: "ông ta
ngƣời trông đẫy đà, bệ vệ nhƣ một ông hậu bổ hoặc một viên tri châu nào. Hai con mắt rất
sắc sảo, có đủ vẻ đối địch với đời, tiểu nhân cũng đƣợc mà quân tử cũng đƣợc. Miệng có
duyên một cách lạ, thƣờng hay mỉm cƣời để "giá trị" cho câu chuyện: nhất là lúc gọi đến
thằng nhỏ thì tiếng đồng sang sảng, thật là có giọng quan" [154, 39]. Và ở một chỗ khác mô
tả cơn giận của Ấm B trƣớc sự lừa dối "ăn mảnh" của Tham Ngọc: "ông Ấm làm ra vẻ không
buồn nghe nữa. Vẫn ngồi xếp bằng tròn nhƣ tƣợng phật giữa giƣờng nhƣng mặt đã đỏ bừng
lên nhƣ gấc chín, ông tuy vậy, là một ngƣời rất thâm" [154, 160]. Cách mô tả trong sự so
sánh xen với nghị luận nhƣ thế đã thể hiện sắc thái tình cảm chủ quan và sự phân tích sáng
suốt của tác giả đối với nhân vật. Trùm Ấm B đã hiện lên nhƣ một kẻ gian hùng, dạn dĩ, đầy
bản lĩnh. Với một tên Trùm cờ bạc khác là Thƣợng Ký, cũng chỉ với một hai nét đặc tả như
kiểu điện ảnh, đã "chộp" được cái thần thái của một gã trùm lưu manh, nham hiểm nhƣ cú vọ
sợ ánh mặt trời: "một chiếc xe nhà sơn đồi mồi do một tên phu quần áo
136
hồ lơ xanh biếc chạy ngang mặt chúng tôi, bên trên có một ông ngồi đã có tuổi, y phục sang
nhƣng vẻ ngƣời không sang, lông mày sâu róm, mắt lim dim nhƣ lúc nào cũng chói mặt trời,
cúi đầu với ông Ấm B một cái" [154, 219]. Hoặc tác giả tả bộ mặt của tên lính lê dƣơng già
nua (chồng mới của bà Kiểu Lâm) nhƣ là một hình ảnh tƣợng trƣng cho sự tàn tạ, bẩn thỉu,
mệt mỏi, vô hồn của đám lính đánh thuê ô hợp: "một cái mặt lởm chởm những râu và ria với
lùng bùng những túi thịt dƣới hai con mắt, với cặp môi không màu, trắng bệch và hai hàm
răng sâu, một cái mặt buồn khi ngƣời ta vô tƣ lự và cáu kỉnh nhăn nhở khi ngƣời ta muốn
cƣời" [157, 70]. Sự đặc tả nhƣ trên đã gây ấn tƣợng mạnh, làm ngƣời đọc khó quên hình
tƣợng của Thƣợng Ký và gã lê dƣơng nọ. Có những khi, họ Vũ không trực tiếp tả nhân vật
mà lại thông qua lời kể của nhân vật khác, nhƣ đoạn con sen Đũi kể về mụ chủ "khốn nạn"
của nó: "Con mẹ chủ tôi thì ăn mặc trông đến nực cƣời. Chân thì đi giày đầm, đầu thì để tóc
đuôi gà, mà quần áo thì là quần áo khách (...) cái má nó đã nhăn nheo, nó lại trát phấn bự
khắp cả, thành thử trông nhƣ mặt ngáo ộp, thế mà cũng có anh bắt nhân ngãi với nó" [155,
31]. Kiểu tả gián tiếp này cũng sinh động không kém gì so với việc miêu tả chính diện.
Vũ Trọng Phụng còn thường lựa chọn mô tả những hành vi, ngôn ngữ có thể biểu
hiện, làm nổi rõ tính cách của nhân vật. Chẳng hạn, với Trùm Ấm B, tên thủ lĩnh, bộ óc của
làng bạc bịp, họ Vũ thƣờng tập trung mô tả những hành vi, động tác của kề đa mưu, túc kế:
"ông Ấm để mặc chúng tôi mỗi anh ngồi chầu một chén nƣớc nóng, còn mình thì, một tay đỡ
lấy trán, tay kia bấm đốt, tính lẩm nhẩm nhƣ một thầy bói lấy số tử vi ... Hai đám xì, một đám
bất, một đám xóc đĩa va một đám tổ tôm. Đám xì ở hàng Ken đã có Ba Mĩ Ký với Bập đánh
giác... đám xì đƣờng Cột Cờ đã có tay Bỉnh, tay Sinh đánh đòn Vân Nam (...). Còn đám tổ
tôm không biết nên
137
tính thế nào! Chỗ chơi là chỗ đài các phong lƣu mà phái Cửu Sần đi thì sợ lộ!... Ác quá, có cụ
Ngọc là ngƣời trông có mẽ một chút thì lại mắc xuống Nam. Cẩu thật!..." [154, 45]. Đối với
mụ đƣa ngƣời ở cái chợ bán ngƣời trong Cơm thầy cơm cô, tác giả đã mô tả một loạt hành vi,
động tác và các giọng lưỡi khác nhau thể hiện đặc trưng tính cách con buôn của mụ: "Mụ
đƣa ngƣời thì không ngồi, chỉ đi đi lại lại, nhìn ngƣời này, nhìn ngƣời nọ nhƣ một viên quan
võ lúc điểm binh, và mấp máy cái mồm, không hiểu là đếm hay là đánh giá những kẻ chịu lụy
mụ" [155, 19]. Khi không bằng lòng với cái giá mà mình muốn "bóp" khách hàng "Tức thì
mụ già chắp tay vái lấy vái để nhƣ đứng trƣớc một cửa điện nào vậy. Rồi quay mặt ra chỗ
khác, không đáp" [155, 24]. Và khi đƣợc đúng với cái giá hời mà mụ "chỉ trỏ" thì "Một cách
khả ố, mụ già gãi đầu một hồi, rồi cau nét mặt, phàn nàn rằng: - Lạy mẹ, thật nể mẹ quá đi
mất! Bây giờ con lại phải đi tìm ngay một con vú khác cho cụ lí con dƣới kia đây... Mẹ cứ
cho con xin một nửa trƣớc vậy" [155, 25]. Tác giả cứ tả bằng cách "vẽ" dần, bổ sung dần cho
bức chân dung thật đầy đặn. Điều này có đƣợc bởi tất cả đều móc xích với nhau nhƣ một
chuỗi hành vi xuyên suốt, lột trần bản chất của nhân vật. Vì vậy, khi kết thúc đoạn mô tả tính
cách của mụ đƣa ngƣời này, tác giả viết: "Mụ đƣa ngƣời đã thành công trong cái việc "bóp
cổ" ngƣời. Cái giá trị làm ngƣời (...) treo trên đầu lƣỡi của con mẹ nặc nô mềm nắn, rắn
buông và suốt đời không bao giờ biết nói thật" [155, 25-26].
Nghệ thuật tả ngƣời nhƣ trên đã đạt đến mức "tuyệt xảo". Cũng bằng kĩ thuật miêu tả
nhƣ thế, tác giả đã dựng thành công chân dung nhiều nhân vật khác, nhƣ Tham Ngọc (Xuân),
Mỹ Bối, Ký Vũ... (trong Cạm bẫy ngƣời); bà Kiểm Lâm, cô đầm lai Suzanne, Đimitốp, Hiếc
tôn... (trong Kĩ nghệ lấy Tây); con sen Đũi (trong Cơm thầy cơm cô); lão lục sự già, thầy nho
Kh,... (trong Một huyện ăn Tết), v.v... Tất cả các nhân vật nhƣ vậy đã
138
"hợp" thành cả một "thế giới" nhân vật giống nhƣ trong tiểu thuyết.
3.2.2.2 Những tính cách nhăn vật đậm nét
Điều đặc biệt là những nhân vật có "bề dày", trong phóng sự của họ Vũ đều có "cuốn
tiểu thuyết" (chữ của Vũ Trọng Phụng) riêng về cuộc đời mình. Chẳng hạn, trong Cạm bẫy
người, nhân vật Trùm Ấm B nhƣ có hẳn một "cuốn tiểu thuyết" tỉ mỉ và sinh động: xuất thân
từ cậu ấm con quan, nhƣng do đam mê cờ bạc từ lúc thiếu thời, sau khi phá tan cơ nghiệp,
Ấm B sớm bƣớc vào nghề cờ bạc bịp. Lăn lộn nhiều năm trong các sòng bạc lớn nhỏ, nếm
trải đủ mùi cay đắng, hắn đã trở thành "quân sƣ" và leo lên cái chức ông Trùm của cái làng
bạc bịp. Gã "chuyên gia bạc bịp" Tham ngọc cũng có một lai lịch "rõ ràng", cặn kẽ: Năm
1910, hắn là một thằng nhỏ, đi ở cho nha một ông phán. Sớm học đƣợc ngón bài lận, hắn
"chơi" luôn cả ông chủ trong cuộc bài tiêu khiển ngày xuân. Đƣợc chủ cấp cho vốn là hai
chục bạc, hắn bắt đầu lao vào con đƣờng cờ bạc "khi thì đội lốt học trò, khi đội lốt cậu ngầu
nhà quê, đã lăn lộn trong những đám vã, đám trếch (Valetaille) trƣớc khi đƣợc đụng chạm
với phái thợ, phái thầy" [154, 167 - 168]. Hắn tinh khôn góp nhặt kiến thức, giao thiệp lịch sự
nên càng biết đóng đủ mọi vai kịch trên sân khấu cuộc đời. Tham Ngọc là "chuyên gia" của
làng bịp nhƣng hay "ăn mảnh", gây vốn, ngấm ngầm mua sòng bạc ở Chợ Chu để tách ra
khỏi vòng cƣơng tỏa của Trùm Ấm B...
Con sen Đũi trong Cơm thầy cơm cô cũng có một "cuốn tiểu thuyết" riêng về mình
dài hơn một chƣơng sách và không kém phần hấp dẫn. Những nhân vật khác, nhƣ Vân, Ký
Vũ, Ba Mĩ Ký, cả Ủn, Mĩ Bối (Cạm bẫy người); bà Kiểm Lâm, Ách Nhoáng, Ái, Tích,
Đimitốp... (Kĩ nghệ lấy Tây); Thị Lành, Thị Tý (Lục xì), thầy nho Kh... (Một huyện ăn Tết),
tuy ở mức độ khác nhau, nhƣng đều có "cuốn tiểu thuyết" riêng về cuộc đời của chính mình
kiểu nhƣ vậy. Ngay cả nhân vật xƣng Tôi cũng tự "thêu dệt
139
ra cái tiểu thuyết bi đát" [155, 41] của mình, khi thì là một tay anh chị trong giới Cơm thầy
cơm cô, khi thì phải "bịa" ra cái lai lịch "con dòng cháu giống" nhƣng đang thất cơ lỡ vận để
gạ gẫm con sen Đũi cùng "tính cuộc vuông tròn"... Chính vì thế mà sau khi đọc xong phóng
sự của Vũ Trọng Phụng, ta có thể kể lại câu chuyện có đầu, có đuôi về một số nhân vật nêu
trên. Lai lịch, diện mạo, tính cách, số phận... của từng nhân vật rất khác nhau, nhƣng đều
đƣợc thể hiện qua những cái "khung", cái "sƣờn" của những sự kiện. Nếu gọi đó là những cốt
truyện, thì trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng có khá nhiều cốt truyện nho nhỏ, gọn gàng,
hấp dẫn, đủ dung lƣợng cho từng nhân vật tồn tại nhƣ "một sinh mệnh" riêng...
Nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ có "cuốn tiểu thuyết" riêng mà
mỗi kẻ còn là cả "một thế giới riêng" [155, 40], đúng nhƣ nhân vật xƣng TÔI nói về đám con
sen thằng nhỏ. Đó là dạng "một con người trong một con người", với chiều sâu nội tâm, bản
ngã đích thực, đƣợc thể hiện qua hành vi, ngôn ngữ, giọng điệu riêng biệt không hề lẫn lộn.
Trong các nhân vật của làng bạc bịp, Ấm B, Tham Ngọc, Ký Vũ, Mĩ Bôi; v.v..., mỗi kẻ đều
có tính cách, cá tính riêng... Gã "chuyên gia bạc bịp" Tham Ngọc cũng luôn tƣơm tất "áo gấm
trong, áo sa tanh ngoài, giày ban, tay cầm máy ảnh" giống "mẽ" của ông kí, ông tham. Nhƣng
bên trong là cả một "thế giới" của sự thấp hèn: dối trá, vụ lợi, đểu cáng, trụy lạc, nham hiểm...
Còn Mỹ Bối "thân thể to hơn khổng lồ, một tay nhiều thủ đoạn nhất, gian hùng nhất, vì khối
óc là một cái pho sách lớn chứa những ý nghĩ tinh ma" [154, 110]. Bao nhiêu sự ám muội hắn
đều dùng tay vào, vì theo hắn: "những việc ấy tuy có hại cho ngƣời nhƣng không có hại cho
tôi (...). Tôi mang trong đời cái "nhân nghĩa" của một anh thầy cò va lời "cam đoan" của thầy
lang chữa thuốc lậu" [154, 207]. Ba Đội Tứ có cái tính cách dữ dội của loai "sƣ tử", không hề
biết sợ những gã chồng Tây:"... chửi thì chửi
140
trả, đánh cũng đánh trả... bị đấm một cái mà tát lại đƣợc những ba cái... Giơ dao lên dọa, gái
này cũng tốc phăng ngay cái coóc xê lên. Anh nào cũng phải gờm" [157, 62 - 67]. Đây chính
là một cuộc "ẩu đả" thực sự với Tây chứ không còn bóng gió nhƣ lời Nguyễn Khuyến. Con
sen Đũi, bà Kiểm Lâm, lão lục sự gia, thày nho Kh..., v.v... đều có những "thế giới riêng",
tính cách riêng kiểu nhƣ vậy.
Những nhân vật trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng là sản phẩm sinh động của
chính cái môi trường tạo ra nó, chỉ phối sự biến đổi tính cách của nó. Xã hội cờ bạc đã sản
sinh ra những "quân sƣ", "chuyên gia" bạc bịp nhƣ Tham Ngọc, Trùm Ấm B, v.v... Nạn
khủng hoảng kinh tế, trí thức thất nghiệp đã góp phần đẩy những Ký Vũ, Vân... vào con
đƣờng cơ bạc. Cái xã hội thị thành đầy giả dối đã biến đám con sen thằng nhỏ, vốn là những
"ngƣời nhà quê" hiền lành, thật thà "mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở đƣợc vài tháng
thì ăn cắp nhƣ ranh, ăn bớt nhƣ quỷ" [155, 71]... Nghề lấy Tây, làm me đã biến bao cô gái
thanh đám đàn bà "ma bùn", v.v...
Đúng là cái hoàn cảnh xã hội đen tối đã đẩy con người vào đƣờng hƣ hỏng. Nhưng cái
quyết định luận xã hội này lại luôn hòa hợp với cái quyết định luận tâm lí, tính cách. Những
nhân vật bế tắc, tự hủy hoại trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, mỗi kẻ, có một con đường
đi riêng, không cần ai "mách nước" cho nó. Trùm Ấm B vốn là kẻ rong chơi, bài bạc từ lúc
thiếu thời, phá tan cơ nghiệp và phải xa gia đình. Xuân (Tham Ngọc), tuy là một thằng nhỏ,
đi ở nhƣng cũng sớm sa vào tệ bài bạc. Cả hai đều lăn lộn, nếm đủ mọi thứ cay đắng trong cái
trƣờng cờ trận bạc đỏ đen. Sự gian hùng, xảo trá, thâm hiểm, tàn nhẫn... trong ngƣời chúng
đƣợc "đào luyện" bởi chính cái môi trƣờng ma quái mà chúng tự chọn. Vốn là một bác thợ
hàng bạc, giỏi giang, hiền lành, lƣơng thiện, Ba Mỹ Ký, đầu tiên chỉ đánh
141
bài "giải trí". Nhƣng giải mãi cái trí vào chuyện bạc bài nên cũng trở thành hƣ hỏng, thân tàn
ma dại. Con sen Đũi bị hiếp dâm, rồi chính nó lại là kẻ khiêu dâm và dấn mãi vào con đƣờng
trụy lạc...
Nhìn chung, các nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đều có cả một quá trình
băng hoại. Mỗi kẻ "dị dạng" theo một cách riêng, nhƣng đều tha hóa một cách có triết lí, bào
chữa cho mình. Trùm Ấm B: "tuy là bịp, tôi vẫn không lam một việc nhỏ mọn gì la bất
nghĩa" [154,42]. Còn lão lục sự già chuyên nghề "đục khoét thành thánh" thì cho rằng: "Ta
xấu nhƣng nhiều kẻ khác cũng nhƣ ta, vậy thì ai cũng xấu hoặc là chẳng ai xấu cả" [154, 96],
v.v... Đây là dạng nhân vật "mình làm mình chịu", không thèm giấu diếm và chẳng ai cản trở
đƣợc nó. Vì vậy mới có hiện tƣợng: đám dân làng bịp, biết nghề cơ bạc là "bất lương nhưng
vẫn cứ làm" (lời Trùm Ấm B); đám quan nha biết việc "đi ăn cƣớp" bằng thủ đoạn tống tiền
hối lộ là "bậy nhưng cứ làm" [154, 98]. Còn con sen Đũi sẽ cứ làm cô đào. Cô gái quê đã bị
một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh sẽ là một cái thang để cô gái quê trèo
lên cao" [155, 40].
Nhƣ vậy, khi khắc họa tính cách nhân vật, Vũ Trọng Phụng đã không chỉ mô tả việc
mà cá nhân đó lam mà còn diễn tả cái cách họ làm điều đó. Vói cách làm cái xấu một cách
chủ động, tha hóa một cách có "triết lí", các nhân vật nói trên đã bị cuốn vào cái "guồng
quay" nghiệt ngã: gieo hành động gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách
gặt số phận. Tính cách - số phận của các nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã phản
ánh một cách sinh động cái "quy luật của muôn đời".
3.2.2.3 Sự gần gũi với thế giới nhân vật tiểu thuyết
Một điều hết sức thú vị là nhiều nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng lại nhƣ có
tông tích, họ hàng, bà con, bạn bè gì đó với một số nhân vật quen thuộc trong các tiểu thuyết
của ông. Có thể thấy Trùm Ấm B,
142
Tham Ngọc (Xuân), những tên "chuyên gia bạc bịp", "giáo sƣ quỷ thuật" này, nhƣ là đồng
bọn với những Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ... vì chúng cùng là một lũ họ bợm. Con sen Đũi
cũng thuộc loại cùng hội cùng thuyền với những Phó Đoan, Thị Mịch, vì cũng bắt đầu "sự
nghiệp" bằng cái "tai biến dâm sự"; Thị Lanh, Thị Tý (trong Lục xì) nhƣ là cùng nhóm bạn
gái với Huyền (trong Làm đĩ) vì giống nhau ở cái bệnh "ngứa ngáy xác thịt", luôn bị ám ảnh
bởi "cái ấy" ngay từ tuổi vị thành niên, sau đó cứ trƣợt dài vào con đƣờng trụy lạc và cuối
cùng đến với nghề bán phấn, buôn hoa nhƣ là một nghiệp chƣớng...
Việc tìm ra những mối liên hệ nhƣ thế, cho thấy sự gần gũi giữa thế giới nhân vật
phóng sự và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Chúng đều là những nhân vật thuộc loại dâm,
đểu, ác, hận đời và muốn trả thù đời. Một đặc điểm rất tiểu thuyết của các nhân vật trong
phóng sự của họ Vũ còn ở chỗ, cũng giống nhƣ những Phó Đoan, Nghị Hách, Xuân Tóc
Đỏ..., những Trùm Ấm B, Xuân (Tham Ngọc), con sen Đũi, bà Kiểm Lâm, Thị Lanh, Thị
Tý... đều thuộc dạng "con người nếm trải", những truân chiên, vật vã, đau đớn, trần ai;
chúng có những ẩn ức, dằn vặt, suy tƣ về cuộc đời. Những nhân vật này không chỉ là dạng
nhân vật hành động mà còn là những "nhân vật tâm tư" mang chất của nhân vật tiểu thuyết.
Mặt khác, việc tìm ra sự giống nhau về nhân vật giữa phóng sự và tiểu thuyết của họ
Vũ còn cho thấy một điểm quan trọng nữa là: khi làm phóng sự, ông đã xuất phát từ một vấn
đề có thật, trình bày nó dưới dạng một câu chuyện. Vì vậy, ngoài việc lí giải bằng những tƣ
liệu, sự kiện có thật, ông còn dùng phương thức tư duy bằng hình tượng nhân vật, đƣợc xây
dựng thông qua việc lựa chọn những nguyên mẫu mang tính tiêu biểu. Chính vì thế nên mới
có hiện tƣợng là ngay những cùng thời và lại là thân hữu của họ Vũ đã thay nhau đoán định,
tranh luận với nhau về nguyên
143
mẫu ngoài đời của nhân vật trong phóng sự của ông. Sôi nổi nhất là những ý kiến khác nhau
về một ông Trƣởng Tạo nao đó, mà họ cho là nguyên mẫu của nhân vật trong Cạm bẫy
người. Họa sĩ Mạnh Quỳnh, ngƣời đã có lần cộng tác với nhà văn, cho rằng "Trùm Ấm B...
trong Cạm bẫy người chính là Trƣởng Tạo đƣợc Vũ Trọng Phụng đổi tên". Nhà văn Thanh
Châu thì cho rằng "ông Trƣởng Tạo tức Nguyễn Thủy Tạo thợ lành nghề vàng bạc (...) là
ngƣời biết nhiều mánh khóe của con bạc, nên đã kể cho Phụng nghe. Cái nhân vật ông Mĩ
Bối trong phóng sự là tả qua hình ảnh ông, Trƣởng Tạo đấy" (Vũ Trọng Phụng tài năng và sự
thật, NXB Văn học HN, 1997, tr. 148). Cồn nhà văn Ngọc Giao lại cho răng khi viết Cạm
bẫy người, Vũ Trọng Phụng đã vào tận" các sòng bạc của Cả Vê, Hai Mơ, Ba Sinh là ba tên
cầm đầu sòng bạc thời bấy giờ ở Hà Nội" [55,68]. Điều này cho thấy thế giới nhân vật trong
phóng sự của Vũ Trọng Phụng luôn có mối quan hệ mật thiết đối vói hiện thực cuộc sống.
3.2.3 Một lối thuật kể hấp dẫn
Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đặc biệt lôi cuốn ngƣời đọc bởi một lối thuật kể tự
nhiên, có duyên và phóng khoáng. Có được sự hấp dẫn này là nhờ có một cái Tôi trần thuật
uyển chuyển, cách thức tổ chức những điểm nhìn linh hoạt và sự biến hóa trong cấu trúc bố
cục.
3.2.3.1. Một cái Tôi trần thuật đa năng
Cái Tôi trần thuật trong phóng sự của họ Vũ không bao giơ dấu mặt. Đây là dạng
ngƣời trần thuật đƣợc trình diễn. Khi thì nó la cái tôi - tác giả-nhà phóng sự (như "Monsieur
Phung" trong Lục xì - Đây là tác phẩm duy nhất mà họ Vũ xƣng đích danh tên mình); khi thì
là người trần thuật ngụy trang (dƣới "lốt" một "thám tử" chui sâu vào tổ chức làng bạc bịp
hay sắm vai một tay anh chị trong giới Cơm thầy cơm cô); khi thì là người trần thuật được ủy
nhiệm (trong vai phóng viên đi điều tra "thực địa" ở mấy
144
làng me; kẻ "phiếm du" xem một huyện ăn Tết), v.v... Tất cả những cái TÔI này đều là cái tôi
nhân chứng - ngƣời trần thuật tham dự vào câu chuyện, dẫn dắt bạn đọc đi suốt toàn thiên
phóng sự. Nhƣng do sự "tham dự" vừa toàn diện vừa sâu vào diễn biến của câu chuyện nên
đa số các trƣờng hợp (trừ cái tôi - tác giả - nhà phóng sự ở Lục xì) cái Tôi đều thẩm thấu vào
tác phẩm, đảm nhiệm thêm vai trò cái Tôi Nhân vật. Người kể chuyện được nhân vật hóa này
đã trực tiếp xông xáo, hội nhập vào thế giới nhân vật trong tác phẩm. Sự "nhập cuộc" nhƣ thế
không phải là chuyện dễ dàng. Ngay nhƣ Tam Lang, mặc dù đã hết sức chu đáo, sắm sửa cho
nhân vật Tôi của mình nào áo quần, nón mũ để đi "làm xe", nhƣng đã bị Vũ Ngọc Phan "bắt
lỗi", cho rằng con ngƣời to béo, nặng nề đó "cầm càng xe sao đƣợc". Và chính bác phu xe giả
danh này lúc nào cũng ngay ngáy lo bị lộ mặt. Thậm chí có lúc bác ta xấu hổ đến mức, đang
kéo xe mà thấy mình "nhƣ một thằng trần truồng đi ra ngoài phố" [102, 21]. Còn nhân vật Tôi
trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng thì hồn nhiên trong cả cách ăn mặc, đi đứng, nói năng,
làm trò... Với các nhân vật khác, nó không chỉ "tri kỉ" ở mức ông - tôi ma còn "thân mật" đến
mức suồng sã mày - tao -chi tớ; thậm chí còn có lức bờm xờm, chim chuột nhƣ thật!
3.2.3.2 Nhiều nhân vật cùng tham gia kể chuyện
Sự nhập vai tài tình của nhân vật Tôi đã đem lại cho phóng sự của Vũ Trọng Phụng
một lối thuật kể hấp dẫn, khác hẳn phương thức trần thuật "khách quan" theo quan điểm
"ống kính" của không ít nhà phóng sự đương thời. Vì là ngƣời "trong cuộc" nên nhân vật Tôi
đã tạo dựng đƣợc một điểm nhìn từ bên trong rất đắc dụng cho việc tiếp cận, tìm tòi, khám
phá. Câu chuyện về cái làng bịp, làng me, của giới Cơm thầy cơm cô, thay vì chỉ đƣợc thuật
kể bằng cái nhìn ngoại quan của nhà phóng sự, thì đã đƣợc thuật kể bằng chính một ngƣời
thuộc "dân" của các làng, các giới ấy...
145
Câu chuyện trở nên hấp dẫn, vì biết bao chuyện vốn bí mật, bí hiểm của cái tổ chức bạc bịp
ma quái; bao sự nhiêu khê quanh cái nghề lấy Tây quái gở; bao điều khuất lấp, đầy những nỗi
bi hài và cả những "vụ" mang tính "xì căng đan" của giới Cơm thầy cơm cô cùng giới chủ
nhà... đã đƣợc "bật mí", phơi bày ra trƣớc bạch nhật thanh thiên, bởi chính một kẻ "tay trong"
- nhân vật Tôi, đầy tin cậy! Vì là một kẻ "đồng bọn", "anh em mình cả" với giới bạc bịp; là kẻ
đồng hội, đồng thuyền của con sen thằng nhỏ; là kẻ "tri kỉ" của cả hai bên "đối tác" của cái
làng me... nhân vật Tôi đã mở ra cả một thế giới nội tâm muôn hình vạn trạng của họ. Cũng
chính vì thế trong các thiên phóng sự của họ Vũ, con ngƣời không chỉ hiện ra với những tên
tuổi; lai lịch rõ ràng ma còn cả phần hồn sống động nhƣ là bản thân đời sống.
Trong không ít trƣờng hợp, nhân vật Tôi đã khéo léo "trao" cho các nhân vật nhiệm
vụ kể chuyện thay mình. Nhân vật này kể về nhân vật nọ, nhiều khi rất say sƣa, để tỏ rõ "ta
đây" thông suốt sự đời. Chẳng hạn nhƣ ông "chú" của nhân vật Tôi trong Cạm bẫy người
khoe mình có lạ gì cái hành tung bất hảo của cái lão Ấm B: "Ấm B tên tục là Tƣ Quân, trong
khi giao thiệp với bọn bồi bếp còn có tên là ông Cửu và trong khi giao thiệp với hạng thƣợng
lƣu lại là ông Nghị..." [154, 100]. Hoặc cái ông chú "nửa tỉnh nửa quê" của bồi An kể vanh
vách về các ngôn bài bịp để ra vẻ "Đố anh nào bịt đƣợc mắt tôi!" [154, 54]. Hay việc những
nhân vật Cơm thầy cơm cô kể về những xấu xa của gia chủ, v.v...
Nhƣng điều hấp dẫn hơn là việc các nhân vật "thi nhau" kể về chính cuộc đời của nó.
Phần lớn cái "Cuốn tiểu thuyết của con sen Đũi" (trong Cơm thầy cơm cô), là do nó tự bạch.
Bắt đầu từ trang 30: "U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy tôi hiện giờ thì kéo xe...". Đũi
kể về cảnh đi ở "khổ tuyệt trần đời", về mụ chủ nhà kệch cỡm, đĩ bợm; về chuyện nó bị
"thằng oẳn" hiếp, chuyện nó bầy mƣu tính kế khiêu dâm hai đứa con gia
146
chủ để trả thù và ƣớc mơ thành cô đào, bà phán, bà kí (các trang 31, 32, 33 của mục V và
"vắt" sang mấy trang ở mục VI). Đến khi dứt lời tự kể thì cái "chân dung" tự họa của cái con
sen "hƣ hỏng, giả dối, rất nguy hiểm cho đời" [155, 44] cũng "đà" hoàn tất. Mục II trong
phóng sự Cạm bẫy người cũng đƣợc bắt đầu bằng lời "tự thú" về mình của Trùm Ấm B:
"Ông nên biết rằng: quá nửa đời ngƣời, tôi đã sống bằng nghề cơ bạc..." (trang 38). Lời tự kể
về mình này kéo dài sang các trang 40, 41, 42. Cái "tiểu sử" cuộc đời của tên trùm bạc bịp cứ
theo lời kể mà hiện lên mồn một, từ dòng dõi, gia thế, phiêu bạt, vào làng bạc bịp và bao điều
ẩn ức qua cái "triết lí" dị thƣờng, trái khoáy của hắn. Các nhân vật khác nhƣ Thị Lành (trong
Lục xì) phẫn uất kể lại nỗi đau đớn, nhục nhã của mình khi bị bọn "đĩ nhà nƣớc" hành hạ dã
man buộc phải "cầm giấy" hành nghề nhƣ chúng; cô đầm lai dễ thƣơng Suzanne (trong Kĩ
nghệ lấy Tây) lại bộc bạch nỗi xót xa, tủi nhục của một đứa con hai dòng máu mà "không tổ
quốc", v.v...
Việc "tổ chức" cho các nhân vật thay nhau tự kể là "mánh khóe" thay đổi, di chuyển,
nối kết điểm nhìn trong nghệ thuật trần thuật. Sự "đồng tịch đồng sàng" giữa nhân vật Tôi
với các nhân vật tự kể đã tạo ra tính bình đẳng của nhiều tiếng nói. Sự ngang quyền nay cho
thấy nhân vật Tôi ở đây không phải là dạng "ngƣời biết trƣớc", "biết hết tất thảy" và đứng ra
"ban phát" thông tin, kể lại mọi chuyện. Nó cùng với các nhân vật của mình cùng hợp tác
trong công cuộc tìm kiếm sự thật, theo phƣơng thức "kiếm" đƣợc sự kiện nào là lập tức "trình
ra" một cách kịp thời. Ngƣời đọc cũng không còn đƣợc thụ động "ngồi" nghe những gì đã
xảy ra, mà nhƣ "bị" cuốn hút theo ống kính của nhà phóng sự cùng khám phá những điều mới
mẻ. Có khi chính nhà phóng sự cũng hồi hộp chẳng kém gì độc giả trƣớc một thời cơ, một dịp
may hiếm có: "Chỉ ít bữa nữa là tôi đƣợc vào nhà Lục xì (...) là các ngài cũng đƣợc vào nhà
lục xì" [155, 96], cái nhà đầy
147
bí ẩn đã hàng nửa thế kỉ "im ỉm khóa", để từ đó mở ra cả "thế giới" của nạn mại dâm. Có khi
chính nhân vật Tôi cũng nhƣ độc giả và các nhân vật trong câu chuyện đều bị bất ngờ trƣớc
một sự việc, tình huống nào đó. Chẳng hạn, ở chương Bi hài kịch (Cơm thầy cơm cô), tất cả
mọi ngƣời chẳng hiểu vì sao khi đang nghe điệu cheo rất "mùi" do nhân vật Tôi "trình diễn",
thì cái con Sen "mặt mũi sạch sẽ" lại "ngã ngửa xuống bằng trời giáng". Té ra là nó lên cơn
động kinh (do bị điện giật trƣớc đó) chứ không phải vì "tiếng sét ái tình" trƣớc sự tai họa của
mình, nhƣ nhân vật Tôi lầm tƣởng!
3.2.3.3. Những "sơ đồ" kể chuyện biến hóa
Sự nhập vai của nhân vật Tôi và việc thuật kể theo quá trình di chuyển điểm nhìn của
chính nó và sự chuyển đổi điểm nhìn bằng hình thức cho nhân vật tự kể, trong những thời
gian và không gian khác nhau đã mở rộng khả năng bao quát, đánh giá của trần thuật. Sự linh
hoạt trong việc tổ chức điểm nhìn đã tạo ra cái "nền" và làm nên sự biến hóa trong cấu trúc
bố cục câu chuyện. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đƣợc mở đầu một cách tự nhiên, nhƣ có
một "ma lực" cuốn hút ngƣời đọc" nhập" ngay vào câu chuyện, sau đó họ bị dẫn dắt đi theo
những "lộ trình" những tình huống khác nhau hết sức bất ngờ khó mà đoán định nổi.
Mở đầu Kĩ nghệ lấy Tây là chuyện anh nhà báo đi điều tra "thực địa" tại làng me bị
một gã lê dƣơng hiểu lầm, gây gổ. Sự cố này "buộc" anh phóng viên này phải tƣờng trình cho
ra cái mục đích đi tìm sự thật về chuyện có hay không có một "nghề lấy Tây", mà trƣớc đó
một me đã khai ở phiên tòa. Câu chuyện thật là tự nhiên "giúp" cho tác giả tránh đƣợc chuyện
phải "đặt vấn đề" một cách rối rắm. Và bằng cách xâu chuỗi những tình cảnh của cuộc đời
từng me lại (Bà Kiểm Lâm, Đội Chóp, cai Bu dích, Duyên, Ái, Tích...), cùng với những bức
"chân dung" sống động của những "đức ông chồng" Tây thuộc loại "cự môn", tiêu biểu, nhà
phóng sự đã dựng đƣợc cả
148
lịch sử đầy những nhiêu khê, thăng trầm và thực chất của cái nghề lấy Tây quái gở... Đoạn
kết thúc giống nhƣ một vĩ thanh, vừa chốt vừa mở; gói lại chuyện Kĩ nghệ lấy Tây lê dƣơng
và gợi sang vấn đề lấy Tây khác cho độc giả thấy chuyện lấy chồng Tây còn bao điều "bí
mật"... Cũng cấu trúc bằng cách xâu chuỗi nhiều sự kiện nhiều cuộc đời xung quanh chủ đề
như vậy, nhƣng ở Cơm thầy cơm cô, câu chuyện đƣợc bắt đầu từ cái "màn" hóa trang của một
anh bồi giả danh. Nơi đột nhập đầu tiên của anh ta là một hàng cơm vào một đêm nóng nực.
Theo chân nhân vật Tôi - người trần thuật lang thang này, những mục trong câu chuyện kế
nhau xuất hiện một cách tự nhiên mà nội dung là chính những sự kiện, tƣ liệu mà nó thâu
nhận, khám phá. Hết cảnh này đến sự nọ, tạo ra một sự kế tục, bổ sung, mở rộng thêm vấn
đề... Cấu trúc theo lối xâu chuỗi nhƣ thế còn tạo ra một cái nhìn xuyên suốt câu chuyện, tạo
thuận lợi cho việc khái quát, triết lí. Câu chuyện nọ nhƣ chẳng có hồi kết thức, nếu không có
sự hồi nguyên "Thƣa các ngài, bây giờ thì tôi lại là tôi". Lúc này cái tôi - tác giả Vũ Trọng
Phụng xuất hiện và trực tiếp đƣa ra lời luận bàn, tô đậm thêm tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm.
Một lối cấu trúc khác trong phóng sự của họ Vũ là: xâu chuỗi những sự kiện, cuộc đời
của các nhân vật phụ quanh nhân vật trung tâm, nhân vật chính. Trong Cạm bẫy người,
Trùm Ấm B là nhân vật chính đƣợc mô tả đầy đặn. Nhƣ một cái trục xuyên suốt chiều dài câu
chuyện, nhân vật nay có "can dự" đến những xung đột lớn (xung đột trong nội bộ của làng
bịp nhƣ với Thƣợng Ký, Tham Ngọc; xung đột với những con bạc nhƣ Nguyễn Đình Mầu,
chú của bồi An). Cuộc đời và số phận của hầu hết những nhân vật chính phụ khác đều có liên
quan đến nhân vật Trùm Ấm B. Nhân vật lão Lục sự gia trong Một huyện ăn Tết cũng có một
vai trò tƣơng tự. Mọi diễn biến, sự kiện câu chuyện "sôi lên sùng sục" nhƣng đều
149
châu tuần vào cái nhân vật trung tâm nay: quan đƣa giấy xuống, hết cai lệ rồi lại cai cơ vào
nhơ cậy, thầy nho Kh. vào thƣa bẩm... Từ nhân vật này, ngƣời ta có thể hiểu hết toàn bộ câu
chuyện tham nhũng ở một huyện nha. Kiểu cấu trúc này đã thuận tiện cho việc bổ sung thêm
những nhân vật cùng loại, mở rộng phạm vi của một loại hiện tƣợng; tạo cho ống kính phóng
sự thêm khả năng thu nhận thêm nhiều nhân vật có mối quan hệ đồng đẳng, phụ thuộc.
Những tính cách này vừa soi sáng lẫn nhau, lại vừa cùng nhau tô đậm chủ đề tác phẩm.
Những kiểu cấu trúc khác nhau nhƣ trên đã dẫn tới những "sơ đồ" kể chuyện linh
hoạt. Khi thì bắt đầu câu chuyện bằng một sự kiện; khi thì bằng điểm nhìn cụ thể về thời
gian, không gian; khi thì nêu lên một vấn đề và triển khai giải quyết (nhƣ ở Lục xì). Chính vì
vậy, lối kể của phóng sự Vũ Trọng Phụng có nhiều biến hóa so vói nhiều phóng sự đƣơng
thời. Chẳng hạn, ở phóng sự Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo, cả 52 mục đều đƣợc kể
theo lƣợc đồ: ai (ngƣời phạm tội; cái gì (phạm tội gì, nguyên nhân vì sao); kết quả (tòa xử lí
hình phạt). Trong tập Việc làng [206] nổi tiếng của Ngô Tất Tố gồm 16 thiên phóng sự ngắn.
Trong đó, có đến 12 phóng sự được bắt đầu bằng điểm nhìn thời gian: "Hôm ấy, một hôm về
cuối mùa đông" (Lớp người bị bỏ sót, tr.378); "Nhà bác cả Mão (...) hôm nay bỗng..." (Một
đám vào ngôi; tr.386); "Bây giờ đã quá trƣa..." (Cái án ông cụ, tr.393); "Từ khi thôi học (...)
bây giờ tôi mới..." (Nghệ thuật băm thịt gà, tr.398); "Trời đã quá trưa..." (Góc chiếu giữa
đình, tr.409); "Từ hôm làng bàn chữa lại tam quan đến nay..." (Nén hương sau khi chết,
tr.414); "Hôm nay vừa đầy tám ngay..." (Hạt gạo xôi mới tr.419); "Hơn một năm nay..." (Cỗ
oản tuần sóc, tr.439); "Hôm ấy, nhằm phiên chợ Đình" (Một tiệc ăn vạ, tr.446); "Một ngày
hôm qua..." (Xâu lòng thờ, tr.451); "Bấy giờ đã bóng chiều cả..." (Một chiếc lăm lợn, tr.457),
v.v... Tuy sự mở đầu bằng
150
điểm nhìn thời gian nhƣ trên có sức hấp dẫn riêng của nó, nhƣng câu chuyện lại dễ "bị" rơi
vào lƣợc đồ đơn giản: thời gian nào - cái gì đã xảy ra - nguyên nhân vì sao - kết quả thế nào.
Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, lối kể theo kiểu tiểu thuyết đã đem đến sự biến hóa về
cấu trúc. Cấu trúc theo kiểu xâu chuỗi sự kiện, cuộc đời xung quanh chủ đề, xung quanh nhân
vật trung tâm, v.v..., vừa bao quát đƣợc những mảng hiện thực rộng lớn, những sự kiện bề
bộn lại vừa có sức kết dính chúng lại một cách tự nhiên thành một chỉnh thể nghệ thuật,
nhƣng đây vẫn là phóng sự chứ không phải là tiểu thuyết nửa vời. Đây chính là điểm độc đáo,
là sự "khôn ngoan" của "ông vua phóng sự".
Cùng với nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tƣ liệu; sử dụng những yếu tố
của nghệ thuật tiểu thuyết, trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng còn nổi lên chất hài hước,
trào phúng. Đây cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị độc đáo trong thanh
tựu phóng sự của ông.
3.3. Nghệ thuật trào phúng
Trong điếu văn đọc trƣớc mộ Vũ Trọng Phụng ngày 15 tháng 10 năm 1939, Lƣu
Trọng Lƣ đã khái quát nhận định: "Tất cả cái sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng là phơi bày là
chế nhạo tất cả những cái rởm, cái xấu, cái bần tiện, cái đồi bại của một hạng ngƣời, của một
thời đại". [89, 33]. Trong các tác phẩm của họ Vũ, không chỉ có tiếng thét phẫn nộ mà còn
âm vang tiếng cười trào phúng. Cùng với chuỗi cƣời dài Số đỏ, tiếng cƣời trong phóng sự của
ông không kém phần độc đáo, tô đậm thêm "tấn bi hài kịch thuộc địa" đầy những chuyện dở
khóc, dở cƣời...
Tiếng cƣời trong phóng sự Vũ Trọng Phụng có nhiều cung bậc, nhƣng âm hƣởng chủ
đạo là tiếng cười hài hước và tiếng cười châm biếm, mỉa
151
mai. Tuy ranh giới giữa hai cung bậc này không phải lúc nào cũng rõ ràng, rành mạch, nhung
đúng là trong phóng sự của ông, rất nhiều trƣờng hợp sự hài hƣớc chỉ nhằm diễu cợt những
hiện tƣợng khác lạ, "trật khớp" so với cái bình thƣờng, vốn đầy rẫy trong hiện thực cuộc đời;
còn sự châm biếm, mỉa mai vừa mang yếu tố hai hƣớc lại kèm theo một dụng ý phê phán, đả
kích.
Vũ Trọng Phụng đã tìm thấy bao cái dáng cười ngay trong những tệ nạn xã hội trầm
kha và những vấn đề xã hội nhức nhối. Tiếng cười của ông bật lên từ nhiều trang phóng sự,
bằng một nghệ thuật trào phúng, qua các thủ pháp xây dựng nhân vật hài hước, biếm họa; tổ
chức tình huống và lối văn giễu nhại.
3.3.1. Nhân vật hài hước, biếm họa
Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng có cả một thế giới nhân vật sống động, bao gồm
nhiều "giới" ngƣời với những "mẫu hàng" của nó. Đây là cả một "nhân loại" dị dạng, dị hình
trên đƣờng tha hóa nên là hiện thân của bao nỗi bi hài. Quần thể nhân vật này không chỉ
mang trong nó những nỗi bi thảm, bi thƣơng, khốn cùng mà còn mang cả những cái hài hƣớc,
kệch cỡm, đáng cƣời. Trong phóng sự của họ Vũ, nhiều nhân vật hiện lên nhƣ những bức
chân dung hài hƣớc, biếm họa.
Để khắc họa những chân dung nhƣ vậy, Vũ Trọng Phụng đã dùng các thủ pháp mô tả
khác nhau, khi thì dựng lên hình ảnh mang tính tượng trung, khi thì đặc tả ngoại hình, khi thì
kịch hóa hành động và lời nói... của loại nhân vật trống rỗng, "vô nghĩa lí".
3.3.1.1 Hình ảnh nhân vật hài hước
Trong phóng sự Cơm thầy cơm cô có một nhẫn vật "người nhà quê" ra tỉnh. Cũng
giống nhƣ nhân vật trong cuốn phim hài Ánh sáng thị thành
152
của vua hề Charlie Chaplin, nhân vật này bị cái vầng hào quang đêm đêm sáng rực nơi Hà
thành quyến rũ. Họ bỗng nhƣ "bị rơi" vào giữa phố phƣờng xa lạ, phố nào cũng giống nhau,
"người nhà quê một trăm phần trăm" này vô cùng ngơ ngác, nhƣng "đã đi, đã đi và đã đi (...)
đi đã mỏi, vẫn phải đi (...) lang thang hết phố nọ đến phố kia, có khi vòng trở lại mà không
biết..." [155, 49]. Đƣợc một mụ già ăn mặc "sang trọng" (mụ mối dẫn ngƣời) hỏi chuyện,
"người nhà quê này sung sướng lắm" vì tỉnh thành đã chịu nói chuyện với mình! Và họ đƣợc
"hội nhập" ngay vào cái "sân sau" đầy xú uế, cống rãnh bẩn thỉu, chơ đợi đƣợc làm đầy tớ,
"không đƣợc ai thí cho đồng trinh bát cháo", ngƣời nhà quê "phải sinh ra liều mạng", phải có
"lá gan to" đi chôm chĩa, trộm cắp, làm điếm. Kết thúc của một đời nhà quê ra tỉnh là "đàn bà
sẽ đi đến thần Bạch Mi, đàn ông sẽ đến Hình phạt". Đúng là có nguyên do là sự nghèo đói,
nhƣng đâu phải vì cùng quẫn ma những ngƣời nông dân đều tìm đến đô thị để trở thành cái
hình nộm, ngơ ngáo, nhếch nhác giữa cái phố phƣờng huyên náo, tấp nập, ồn ào. Do "ngƣời
nhà quê" nay "bị quáng mắt về những ánh sáng của kinh thành", "nơi lắm của nhiều tiền"
nên họ mới "như con thiêu thân bay vào đống lửa" [155, 50]. Cái tâm lí hám nơi giàu sang,
"đứng núi nay trông núi nọ" đã làm cho cái nhân vật "ngƣời nhà quê" này lâm vào tình cảnh
bi hài, ê chệ. Ở đây, Vũ Trọng Phụng không chê cƣời "ngƣời nhà quê" nói chung mà chỉ diễu
cợt cái tâm lí của những ngƣời hão huyền, trông chờ vào cái vô vọng. Sau cả nửa thế kỉ, dạng
"người nhà quê" nhƣ thế lại đƣợc tái hiện trong cái Huyền thoại phố phường. Nhân vật Hạnh
đƣợc Nguyễn Huy Thiệp mô tả "Sinh ra ở nông thôn, y ít có dịp tiếp xúc với giới thƣợng lƣu
thành thị. Hạnh nhìn cuộc sống của bọn ngƣời giàu với nhiều khát khao thèm muốn" [193,
57]. Vì vậy, y không từ cả việc dùng tay mò chiếc nhẫn ở một rãnh bùn lõng bõng phân
ngƣời, để lấy lòng gia chủ. Và chính sự thèm muốn cháy
153
bỏng sự giàu sang nơi thị thành, cái "ngƣời nhà quê" thời hiện đại này đã trở thành một kẻ lì
lợm, trắng trợn, hung hãn để rồi chuốc lấy số phận bi thảm. Cho đến nay, cái nhân vật biếm
họa "ngƣời nhà quê" hám thành thị giàu sang mà trở nên kệch cỡm đáng cƣời, đâu phải đã
mất tính thời sự!
3.3.1.2 Những dung mạo dị dạng, hài hước
Khi đặc tả ngoại hình của nhân vật, Vũ Trọng Phụng thƣờng tập trung vào cái dị dạng
của dung mạo, điệu bộ, củ chỉ, lời nói để tóm bắt cái "thần" có tính hài hước của nó. Hình
ảnh một gia đình "một ông chồng Tây chân đi guốc mộc quai cao su lúi híu cầm bồ cào san
một luống rau" bên cạnh ngƣời vợ Nam "chễm chuệ ngồi trên ghế mây" chửi rủa tục tằn",
nhƣng ông chồng vốn quen với "những tiếng súng đại bác ở Verdun, nên không chấp chi
ngôn ngữ mọi rợ của một mụ đàn bà mọi rợ" [157, 14], thật là khôi hài, nhƣng tác giả "đành
lòng" coi đó nhƣ một "mẫu" về gia đình "hỗn hợp Pháp - Nam" "hạnh phúc"! Giới me Tây
hiện lên bao chân dung đáng cƣời. Me này thì, dù đƣợc trang điểm "từ đầu đến chân" nhƣng
cũng "không bài trí nổi cho mặt có đƣợc lấy một nét... me". Me kia thì có cái mặt thản nhiên
đến nỗi "cứ trơ nhƣ đá, vững nhƣ đồng (...) cứ "gan lì tƣớng công" nhƣ Từ Hải lúc chết đứng"
[157, 76], ngay trong "đêm tân hôn". Còn me già này, thân tàn ma dại thì "để tâm tƣ vào việc
khóc mƣớn", đã "vui vẻ mà khóc, tƣơi cƣời mà khóc, khóc một cách chu đáo, mà lại không
tính tiền, nghĩa là khóc gatuýt vậy" [157, 55]. Bút pháp hí họa của họ Vũ cũng "bài trí" hết
sức sinh động "hình ảnh tập thể" của giới Cơm thầy cơm cô. Đây là "anh chàng đầu trọc và
mặt bủng da chì ngửa cổ hể hể cƣời nhƣ một chú khách lồi rốn"; kia là "một anh chàng khác,
cái cổ cao ngỏng dán đến ba bốn lá cao, đƣơng ngồi ngửa cổ xem thiên văn trên trời". Và đây
là một bà già "nét mặt bần thần trông vô nghĩa lí", v.v... Trong giới bạc bịp,
154
gái điếm cũng có nhiều hình ảnh khôi hài nhƣ thế. Nhân vật Cả Ủn (ngƣời giữ két bạc của
làng bịp" có cái "thân thể khổng lồ lẫn bộ quần áo Tây phƣơng lại đeo thêm bộ mặt của dân
Nhật Bản (...). Nƣớc da còn hồng hào vói một ít râu để lối Hoa Kỳ của ông tỏ ra rằng ông
chƣa quá 40 tuổi". Thật là bức chân dung pha tạp, lố lăng của cái thời nhộn nhạo. Hình hài Ba
Mỹ Ký, một kẻ "sinh nghề tử nghiệp" vì cờ gian bạc bịp đã hiện lên một cách bi hài trong bài
văn tế đầy chất trào phúng:
"... Ngực lép quân bài, Mặt trông lộ tẩy.
(...) Hơn mấy chục năm lăn lóc... đổi bàn này, thay chiếu khác, bịp vung tàn tán, than
ôi cay vẫn hoàn cay.
Gần ba vạn cuộc miệt mài... phịa chuyện nọ, đặt cớ kia, gian lận như ranh, ngán nỗi
tấy không thấy tấy! [154, 223 - 224].
Cái hài ở nhân vật này là do "cái xấu hay một lỗi lầm" dại dột. Cũng thuộc "dân" làng
bịp, nhân vật Trùm ấm B là cả một sự tƣơng phản. Là một tên đại bịp, chuyên làm điều xấu
xa, nhƣng mồm luôn "triết lí": nào là nghề cờ bạc là "cầu cái khôn trong cái dại"; nào là "lấy
việc ác để trả nghĩa việc ác"; "không làm việc nhỏ mọn gì là bất nghĩa" [154, 41 - 42]. Đây là
điển hình của "cái rỗng tuếch và sự vô nghĩa bên trong được che đậy bằng một cái vỏ huênh
hoang tự cho rằng có nội dung và có ý nghĩa đích thực". Nhân vật thầy nho Kh trong Một
huyện ăn Tết cũng đƣợc họ Vũ biếm họa bằng bút pháp tƣơng tự. Thầy nho Kh con một ông
phó tổng giàu có, đã đỗ bằng sơ học Pháp - Việt lại "võ vẽ chữ nho" nên "tỏ ra hơi hổ thẹn về
cái nghề" bâu bám kiếm ăn quanh cái việc thảo đơn từ, làm giấy tờ ở huyện nha. Thầy đọc
luôn cả năm bài thơ Đƣơng luật "chửi bới cái công danh, phú quý mà thầy cầu mãi không
đƣợc nên thầy chán ghét..." và để
155
lộ ra những ngón xoay tiền cùng lời lẽ thô tục: "Mẹ kiếp! đƣợc rồi, sang năm thì rồi mày xem
ông! Ông ăn cơm mới rồi mới nói chuyện cũ" với đám lí dịch không đến đút lót. Ở nhân vật
nay cái hài còn bật ra trong sự mâu thuẫn giữa "sự chân thật và điều dối trá"...
3.3.1.3 Những nhân vật diễn kịch, làm trò
Để xây dựng những nhân vật trào phúng, hài hước, tác giả còn dùng thủ pháp kịch
hóa nhân vật, cho nhân vật diễn kịch, làm trò... Kẻ diễn kịch, làm trò "sành sỏi" nhất chính là
nhân vật Tôi. Anh ta có một nghệ thuật hóa trang "tuyệt xảo". Đầu mốt Philudốp, quần lĩnh
đen, áo cụt tay màu hoa cà, đeo kính đen, mặt mày "lấc cấc", "hơi du côn". Đây là một tay
"anh chị" "chính hiệu" trong giới Cơm thầy cơm cô, đủ "tƣ cách" "nếm cơm thiên hạ", ra vòi
máy nƣớc công cộng "chỉ hét một cái là lấy đƣợc hai thùng nƣớc". Nhân vật này "bờm xờm
với ba bốn con nhãi", "bắt nhân tình với một vú em"... và làm trò diễn kịch hát chèo... Bằng
"giọng nồi niêu" đóng vai ông già lƣng gù lụ khụ mà vẫn còn mê gái, trò diễn đã hết sức
"thành công" làm cho đám Cơm thầy cơm cô đang ngủ "đứa đã dậy rồi lấy chân đạp vào
bụng mỡ để đánh thức đứa khác...". Nhân vật này làm "náo loạn" nhiều chƣơng mục trong tác
phẩm. Nhiều nhân vật khác cũng được "ông vừa phóng sự" "cho" dóng kịch, làm trò để ông
cười cợt, biếm họa chính bản thân nó: các me diễn trò giả ghen, khi chồng Tây đi chơi gái về
là "không cần cắt nghĩa gì, cứ việc túm lấy tóc mà cấu mà tát", vì đƣợc một trận "đòn ghen"
nhƣ thế thì "anh chồng sung sƣờng có thể hóa dại, vì tƣởng đƣợc vợ yêu"! Các nhân vật trong
làng bịp thì thƣờng xuyên phải đóng kịch: Tham Ngọc đóng đủ các vai trong những cảnh bạc
bịp; Ký Vũ, Vân đóng vai kẻ làm ăn lƣơng thiện để lừa mẹ lừa cha; Ấm B sắm khá nhiều vai,
"đắc địa", nhất là vai ông nghị sang trọng. Khi cần gã còn bày cả một màn kịch, mình bị một
con bạc (chính là cháu của hắn) đâm trúng ngực
156
máu chảy lênh láng (bọc máu vịt đƣợc bó kèm với mảnh sắt mỏng che bên trong), nhằm ăn
vạ chủ sòng bạc, để "gỡ" lại số tiền thằng cháu bị thua... Những "vở kịch" do các nhân vật tự
diễn vừa bộc lộ tính cách của chính nó, vừa tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn, bất ngờ, góp
phần làm cho nghệ thuật kể chuyện "hết sức linh hoạt... thoải mái và vui" [157, 7].
3.3.2. Tổ chức tình huống hài hước, trào phúng
Vũ Trọng Phụng không chỉ là "nhà hóa học của những tính cách" mà còn là một "nhà
ảo thuật" trong tổ chức tình huống, dẫn dắt tình tiết. Bản thân những tƣ liệu về cuộc sống và
con ngƣời mà ông thu vào trong ống kính phóng sự đã chứa đựng bao cái đáng cƣời, nhưng
họ Vũ đã biết tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để cái đáng cười này có cơ bộc lộ ra thành
tiếng cười hài hước, trào phúng. Hoàn cảnh để cái đáng cƣời bộc lộ ra trong phóng sự của
ông thƣờng là những tình huống ngưọc đời, phi lí; tình huống éo le, tình huống mắc mưu -
lừa bịp... Những tình huống trên đều ít nhiều chứa đựng yếu tố bất ngơ, gây ra sự ngạc
nhiên...
3.3.2.1. Những tình huống ngược đời, phi lí
Cái đáng cƣời là một hiện tƣợng chứa đựng mâu thuẫn, trái với lôgích tự nhiên. Trong
phóng sự của họ Vũ có rất nhiều tình huống ngược đời, phi lí. Gái đĩ trong Lục xì, khi cạnh
tranh với kẻ mại dâm lậu thì xƣng: "chúng bà có ba tăng, là đĩ nhà nƣớc", nhƣng chỉ muốn
nhà báo gọi mình là "gái giang hồ" và rất bất bình khi bị gọi là gái đĩ! Ngƣợc lại với "tính cả
thẹn của nhà thổ" nay, các me Tây hết sức nổi nóng khi chàng phóng viên cho rằng "nghề"
lấy Tây là vì tình và họ đề nghị "cứ viết phăng rằng chúng tôi lấy họ là vì tiền, thế thôi!".
Thói đời, ăn vụng thì thƣờng biết chùi mép, nhƣng cái lão lục sự gia chuyên tham nhũng "đục
khoét thành thánh" lại "cứ nói ra" không thèm che đậy. Đám lính lệ, lính cơ hàng ngũ chỉnh
tề tiền hô hậu ủng, tiếng là đi tuần tra nhƣng thực chất lại là đi "ăn cƣớp"
157
có giấy phép. Bị hãm hiếp là một nỗi nhục, lã nỗi đau đối với một đời con gái, nhƣng với con
sen Đũi, chính cái "tai biến dâm sự" (bị thằng oẳn hiếp) lại là "bài học thực nghiệp" là "cái
thang" cho nó trèo lên cao, với giấc mơ thành cô đào, bà phán, bà kí... Rồi chuyện vô luân
trong cái tế bào gia đình giới chủ, vốn tƣợng trƣng cho nền nếp, nho phong thì: con gọi cha
bằng thằng, nuôi bố không bằng nuôi chó; vợ chồng gia "đấu khẩu" hết sức tục tằn; vợ chồng
trẻ lừa dối nhau; thằng nhỏ này thì đƣợc "kì lƣng cho cô chủ", "đƣợc ngủ giƣờng Hồng Kông
với bà chủ"; con ở gái thì đƣợc ông chủ thƣơng yêu hơn vợ, v.v... Tất cả đều "lộn tùng phèo",
nhưng đó lại là điều rất hữu lí, là hiện thực phũ phàng trong cái xã hội thối nát và giả dối.
Qua các tình huống ngƣợc đời, phi lí, tiếng cƣời đã bật lên, với những sắc thái, cung bậc khác
nhau. Đồng thời, chân dung, tính cách nhân vật cũng hiện lên rõ nét.
3.3.2.2 Những tình huống lừa bịp - mắc mưu
Tình huống mắc mưu - lừa bịp cũng xuất hiện nhiều lần trong phóng sự của họ Vũ.
Có đến một loạt nhân vật sa vào tình huống bị mắc mƣu và trở nên đáng cƣời: ông Phán bố
tên Vân, ông chú của bồi An, ông Nguyễn Đình Mầu... đều trở thành những con "mòng" hết
sức khôi hài của đám bạc bịp. Riêng ông Mầu đã bị Trùm Ấm B (đóng giả ông nghị đàng
hoàng) bịp lột sạch túi tiền ở canh bạc, lại còn mắc mƣu, vì cái chiêu bài hiếu đễ, danh dự,
nên phải rút thêm tiền đƣa cho hắn lại còn nhận gã nay là "tri kỉ"! Hai gã lê dƣơng, một già
một trẻ, đều mắc mƣu vì lá thƣ của me Thị B, ở mãi trời Tây vẫn gửi tiền dài dài về cho mụ
tiêu xài. Hai cô cậu con gia chủ mắc mƣu khiêu dâm của con sen Đũi. Anh học trò mắc mƣu,
tƣởng rằng cô gái con chủ nhà - ngƣời yêu của mình là trong sạch, nhƣng thực ra đã nhiều lần
vào nhà săm ngủ với đàn ông (Lục xì), v.v... Khôi hài hơn cả là cánh dân làng bịp: đi bịp
ngƣời lại bị ngƣời bịp, bịp non gặp bịp già,
158
"khôn sặc máu mồm" mà vẫn "sa hố", "Đánh bạc chỉ cốt thịt ngƣời ta mà càng hức bao nhiêu
lại càng tổ cho ngƣời ta thịt lại" [154, 108]. Cả đám đàn em của Trùm Ấm B dùng "siêu hình
học, thần linh học, tinh thần học" [154, 112] (cắm đinh, đổ nƣớc phân vào bát nhang nhà đối
thủ), nhƣng vẫn thua bạc chú Cắm "con trời". Cuối cùng Ấm B phải ra tay, dùng cả "khoa
học thái Tây" (quân xúc xắc kiểu con lật đật) "hạ" đƣợc gã ba Tàu này và đƣợc đồng bọn tôn
là "vị anh hùng cứu quốc" [154, 117], kiểu nhƣ Xuân Tóc Đỏ... Còn tên Vân thì điêu đứng
trước những tình huống khôi hài có tính nhân quả: dẫn bợm về nhà "thịt" bố đẻ, lấy tiền nuôi
gái (con Dung) và hắn lại bị gái "thịt" để lấy tiền nuôi thân (biến hắn thành mòng); chƣa kể
chuyện Vân còn bị đồng bọn (Tham Ngọc) tống tiền bằng lá thƣ mời Ấm B cho ngƣời về
"thịt" bố... Tình huống mắc mưu - lừa bịp đã phanh phui ra một sự thật nháo nhào xỏ xiên,
quay cuồng, toàn là những hạng người mạt cưa, mướp đắng, quỷ quái tinh ma, kẻ cắp bà già
gặp nhau trong một cái "sân chơi" mà đồng tiền bất chính là chúa tể. Xét đến cùng, đây là
thực tế của cái xã hội "chó đểu", chỉ vì đồng tiền mà những kẻ bất lương sẵn sàng chà đạp
lên tất cả mọi quan hệ, kể cả những người ruột thịt.
3.3.2.3 Những tình huống éo le, trắc trở
Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, có những khi cái cười lại xuất phát từ một tình huống
éo le, trắc trở mang tính hài hước. Mở đầu Kĩ nghệ lấy Tây là tình huống khó xử của anh
phóng viên: suýt bị một gã lê dƣơng hành hung, vì cho rằng anh ta đến làng me để "ăn trộm
ái tình", làm cho câu chuyện ngay từ đầu đã rất hài hƣớc. Xung quanh việc lấy Tây có bao
chuyện nực cƣời. Đây là tình huống gay cấn giữa hai "chàng" cùng đến cầu hôn với bà Kiểm
Lâm. "Cuộc chiến" giữa họ không kém gì Sơn Tinh -Thủy Tinh thời cổ. Chuyện "xe duyên"
của mấy bà mối không khác gì tiếu lâm: "bao tin đi mối lại... trầu cau, chạm ngõ... đại lễ, dẫn
cƣới chỉ là mấy
159
câu Tây giả cầy" [157, 42] cùng tiền hoa hồng là Tây - Ta "nên vợ nên chồng". Bất đồng
ngôn ngữ cũng gây bao chuyện nực cƣời: chồng bảo "đánh cái mũ" vợ lại đi "lau đôi giày";
bảo mua thuốc lá chƣa cuốn, lại đi mua về 20 điếu thuốc... Một số me, chồng đƣa ít tiền, lo ăn
không đủ hóa ra "lấy chồng lỗ vốn", nên phải "chạy làng". "Trong cái Kĩ nghệ lấy Tây, thợ
chỉ làm việc trên giƣờng" và tuy biết rằng đó là cái nghề "khả bỉ", nhƣng các me lại trách cứ
nhau "không có nhân cách gì cả, không biết giữ danh giá cho ngƣời xuất thân đi lấy Tây"! Và
cái "thƣờng trƣờng" này không kém phần sôi động: cạnh tranh, dèm pha, phá giá, hớt tay trên
nhau. Có cả chàng ngƣời Nam lấy vợ đầm lai để mà "đào mỏ". Cái nghề lấy Tây lại còn chịu
một "quy luật" nghiệt ngã: phú quý thụt lùi, đầu tiên lấy Tây "sang" (Tây xivin); sau mất giá
dần phải lấy Côlônhần, rồi tây lê dƣơng cũng chƣa chắc đã đƣợc! Về già, nhiều me thân tàn
ma dại phải đi làm nghề khóc mƣớn, lúc "phẫn chí" chỉ biết lột truồng con ra đánh đòn nhƣ
bà Ách Nhoáng...
Có những khi nhà phóng sự gặp phải tình huống éo le. Định tâm làm một cuộc điều
tra phỏng vấn, để lấy tƣ liệu, nhƣng gặp phải một đối tƣợng cứ nhƣ vừa "ở trên trời rơi
xuống":
- "Còn thằng này nữa, mày cũng nghèo à?
- Tôi không biết.
- Bố mày đâu?
- Tôi không biết.
- Mẹ mày đâu?
- Tôi không biết
- Làng mày ở đâu?
- Tôi có làng bao giờ." [155, 61]
160
Những tình huống nhƣ trên đều rất khôi hài, nhưng đấy lại hoàn toàn là sự thật. Cái
hài ở đây chỉ nhƣ một lớp vỏ mỏng bên ngoài, không che nổi những điều bi thảm, bi thƣơng
bên trong của những số phận, những cuộc đời đầy bất hạnh, khốn khổ. Tạo ra những tình
huống có tính hài hƣớc này, họ Vũ không phải là "những ngƣời thích đùa", vì ông không phải
là kẻ đứng ngoài, đứng trên những cái bi hài đó. Ẩn dưới cái nhìn hài hước là những niềm
trắc ẩn. Chẳng hạn, ngay sau đoạn "phỏng vấn" thằng bé đi ở nói trên, là một lời than xót xa:
"Nó chẳng biết gì cả. Nó chỉ mới độ lên tám tuổi là cùng mà thôi!" [155, 61].
3.3.3. Một lối văn giễu nhại
Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng nhại là "Một thể văn châm biếm dùng sự bắt
chƣớc để chế diễu một tác phẩm hoặc cả một trào lƣu nghệ thuật. Phƣơng tiện của nhại là bắt
chƣớc phong cách" [61, 155]. Phóng sự Vũ Trọng Phụng không phải là một thể văn châm
biếm, nhƣng trong nhiều trƣờng hợp, ông dùng lối văn giễu nhại nhƣ một phƣơng tiện để
châm biếm, mỉa mai những đối tƣợng mang cái xấu xí, đáng cƣời.
Là một nhà văn xã hội "tả chân triệt để" chuyên dùng ngồi bút "tả thực cái xã hội
khốn nạn, công kích cái xa hoa, dâm đãng của bọn ngƣời có nhiều tiền, kêu ca những sự
thống khổ của dân nghèo bị bóc lột..." [4, 130], họ Vũ vốn không mấy cảm tình với văn
chƣơng lãng mạn, loại văn chƣơng mà, theo ông, đã "chạy xa sự thực bằng những danh từ
điêu trá". Trong sáng tác, dƣờng nhƣ, mỗi khi có dịp là ông lại đem nó ra giễu nhại. Trong
Cơm thầy cơm cô, họ Vũ cho rằng: "Một thằng nhỏ không biết thêu dệt nhƣ một nhà văn..."
[155, 68]. Trong vở kịch Phân bua một nhân vật lại bị mắng: "Mày hay thêu dệt (...) hay điêu
toa thế thì sao không đi ma làm nghề viết báo, thành nữ sĩ cho nó hợp với tính tình một thể!".
Cái "thói" điêu toa, thêu dệt mà ông đay đả không phải nhắm vào nghề văn, nghề
161
báo nói chung và càng không "liên đới" gì đến các nhà văn "cùng chí hƣớng" vói ông, luôn
coi văn chƣơng là "sự thực ở đời". Xét trong bối cảnh cụ thể, cái điêu toa, thêu dệt này là của
loại văn chƣơng mà ông cho là "điều trá", đáng phê phán.
3.3.3.1. Bắt chước lời văn, giọng điệu
Xuất phát từ quan niệm nhƣ vậy, Vũ Trọng Phụng đã giễu nhại loại văn chƣơng mà
ông cho là chỉ "than mây khóc gió", bằng cách bắt chước lời văn, giọng điệu của nó để diễn
tả những cái "trần tục" xấu xí của cuộc đời. Trong Cạm bẫy người, tên Vân thua bạc, bị
ngƣời tình và đồng bọn lừa phản, không còn một xu dính túi... Tên bịp này bộc bạch: "Tôi
đau lòng quá, chán đời quá, khổ quá, dễ thƣờng đến hóa ra... thi sĩ mất! Đã cay bởi thua bạc,
chán nản bởi khan xu, lại đau đớn trong tình trƣờng (...). Tôi cần tìm một nơi vắng vẻ. Tôi
mang trong lòng cái đau đớn của một "thi sĩ" đến một bàn kem ở Bờ Hồ" [154, 191 - 194];
"Chẳng lẽ tôi lại dùng cái giọng "em chết mất anh ạ" của trai gái trong những tiểu thuyết bi
tình; dù sao tôi cũng cố gƣợng cƣời, chỉ mong thƣ không đến nỗi khôi hài đã là may!" [154,
191]. Không chỉ nhại lời văn, giọng điệu của văn chương lãng mạn, họ Vũ còn mỉa mai cái
"bút pháp" của nó. Cũng trong Cạm bẫy người, sau khi vẽ cái chân dung gian manh, bần tiện
của Thƣợng Ký, một tên trùm bạc bịp đáng bị phỉ nhổ, thì nhà phóng sự nêu lên "giả thuyết":
"Biết đâu sẽ chẳng có nhà văn sĩ viết tiểu sử con ngƣời ấy bằng ngọn bút lãng mạn chứa
chan thi vị mơ màng, đại để nhƣ sau này: "Lúc thiếu thời, ngài thật là một ngƣời biết thơ đạo
trung dung. Ngài thấy dân gian phải lầm than trăm đƣờng nghìn nỗi..." [154, 224]. Trong Kĩ
nghệ lấy Tây, họ Vũ đã liên tƣởng cuộc đời "oanh liệt" của ba Đội Tứ, một me Tây cỡ "hổ -
hoặc sƣ tử" với con hổ "nhớ rừng" than về "thời oanh liệt nay còn đâu" của Thế Lữ (trang
62). Còn bà Kiểm Lâm, một nhân vật me Tây, sau bao năm lăn lộn
162
trong tình trƣờng đã hóa ra "một con quái vật" (trang 33), nên nhà phóng sự đã "đành" phải
"ghen" với nhân vật "có giá" của thơ lãng mạn: "Than ôi! Bà Kiểm Lâm nào phải đâu còn là
ngƣời mà "mê nàng bao nhiêu ngƣời làm thơ!" nhƣ Mỵ Nƣơng của ông Nguyễn Nhƣợc
Pháp..." [157, 68]. Không chỉ nhại Thơ mới; họ Vũ còn giễu cả nhà phê bình của nó. Trƣớc
tình cảnh lấy Tây bị lỗ vốn, bị Tây "vặc" phải tìm đƣờng "chuồn" nhà phóng sự bỗng mỉa
mai: "Nào cô Nguyễn Thị Kiêm đâu?"
3.3.3.2 Giễu nhại bằng so sánh - tương phản
Trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, lối giễu nhại còn được thể hiện bằng thủ pháp
đối lập. Cuộc "ve nhau" của giới Cơm thầy cơm cô "hạ lƣu", cái tên thì xấu xí (con Đũi), diễn
ra tại "một vỉa hè, gần đống rác... cả hai cứ để ống quần vén lên đến đùi", chứ không phải là
"cuộc tình" thi vị của Đạm Thủy - Tố Tâm, Mộng Hà - Lệ Anh ở đƣờng Cổ Ngƣ hay bãi biển
Đồ Sơn, nhƣng cuộc "ve nhau" này vẫn đƣợc tác giả coi là của một cặp "uyên ƣơng", chỉ
"khốn nạn thay" là "không biết kiểu cách"! [155, 29 - 30].
Dƣơng nhƣ giễu nhại nhƣ thế vẫn chƣa đủ, tác giả "Lục xì" còn "lôi tuột" cả Nàng
Thơ và nhân vật của tiểu thuyết lãng mạn vào cái "Viện bảo tàng những diều ô uế". Tuy
"Nàng Thơ của nhà Lục xì" chỉ là bài Phong tình ca khúc, đƣợc viết theo lối "tả chân" đến
mức không thể nào "chân" hơn đƣợc nữa (dạy về vệ sinh cho gái đĩ mù chữ), ấy vậy mà nó
không hề mất đi vẻ "thơ mộng" lãng mạn: "Dƣới một gốc cây, dƣới bóng trăng thanh, bên
một dòng suối, có một phụ nữ búi tóc sè goòng, ôm một cây đàn nguyệt, ý chừng đƣơng ca
bài thơ vệ sinh" này [155, 89 - 90]. Và cũng theo tác giả thì: "Phong tình ca khúc, Nàng Thơ,
đem những vần "du dƣơng huyền ảo" dắt tay khoa học đi đến chỗ chiến đấu những ác quả của
thần Bạch Mi" [155, 154]. Sự giễu nhại càng trở nên mạnh mẽ khi nhà phóng sự cho rằng
"Sao lại đƣợc gọi gái đĩ là gái đĩ? Đáng lẽ tôi phải gọi họ thí dụ là... Nàng
163
Thơ" [155,132] (cũng xin đƣợc nhắc lại trong bài bút chiến "Để đáp lồi báo Ngày nay: dâm
hay không dâm", Vũ Trọng Phụng đã từng nói: "Tôi không biết gọi đĩ là nàng... thi vị hoặc tô
điểm cho gái đĩ... đến nỗi đọc xong truyện ngƣời ta chỉ thấy một gái đĩ là làm gƣơng cho thế
gian noi theo" [4, 127] nhƣ "văn phái" của Nhất Chi Mai đã làm). Chính vì vậy, sự giễu nhại
đối với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã chuyển sang mức châm biếm trực tiếp: khi quan sát
gái điếm trong Một ngày khám bệnh ở nhà Lục xì, họ Vũ cho rằng: "trong số tám chục ả ấy,
cũng có một vài thị là có cái ngây thơ, đài các đầy thi vị của cô Tuyết trong Đời mưa gió của
Khái Hƣng" [155, 141].
Có thể nói, bằng lối văn giễu nhại, châm biếm văn học lãng mạn nhƣ trên, Vũ Trọng
Phụng nhƣ vẫn tiếp tục tiến hành cuộc tranh luận của mình với Nhất Linh, Thái Phỉ... Điều
này cho thấy sự nhất quán về quan điểm nghệ thuật của ông. Sự giễu nhại này đã làm chất
trào phúng của phóng sự Vũ Trọng Phụng thêm sâu đậm. Tuy quan điểm của ông cơ bản là
đúng đắn, nhƣng cũng phải thấy rằng, do những định kiến quá nặng, ông không thấy cái phần
lành mạnh, tích cực của văn học lãng mạn. Vì vậy sự châm biếm ở đây có tính đả phá, phủ
nhận.
Lối văn giễu nhại của họ Vũ còn "đụng chạm" đến khá nhiều đối tƣợng khác trong
phạm vi hiện thực đƣợc chiếm lĩnh bởi những thiên phóng sự của ông. Chẳng hạn, ông ví nạn
mại dâm nhƣ một con quái vật không biết sợ ai. Nó lớn nhƣ một trái núi. Bao nhiêu sách vở
loài ngƣời viết ra để chống nó càng chất đầy xung quanh thì nó càng vƣơn mình cao hơn. Vì
vậy, đối với "mãi dâm là không thể "cai trị" đƣợc" [155, 94]. Cùng với việc nhại khẩu khí
của các nhà "cai trị", ông còn mô tả, nhạo báng sự lúng túng, bất lực của nhà nƣớc thuộc địa
trong dự án này, kế hoạch nọ, nhằm giải quyết tệ nạn trầm kha này. Qua lời một viên cảnh sát
Tây: "Các ông là nhà báo cả. Thế ở những "con vịt" nào vậy. Thôi đi, rồi các ông lại đi kể
164
những chuyện tam toạng" [155, 110], tác giả đã nhại cái tên của báo Vịt Đực, Con ong, v.v...
thời đó. Họ Vũ còn nhại Kiều, khi mô tả gái đĩ: "Bọn gái của phức đƣờng sống những đoạn
đời "thâm khuê kín cổng cao tƣờng" cũng nhƣ những thiếu nữ cấm cung của cái giòng giõi
quý phái" [155,200]. Ông còn nhại đám gái đĩ "con trời", gái đầm "chính hiệu", nhại tiếng tây
bồi của me Tây; nhại tiếng Tàu của mấy "chú khách"... Bản thân từ "kĩ nghệ" trong cái tiêu
đề Kĩ nghệ lấy Tây cũng bao hàm sự giễu nhại luận điệu "văn minh", "khai hóa" của thực dân
Pháp. Tuy nhiên, sự giễu nhại văn học lãng mạn đã nổi lên như một trong những chủ âm
xuyên suốt chuỗi cười nhại trong phóng sự của họ Vũ. Đây là một trong những dấu hiệu riêng
của tiếng cƣời trào phúng Vũ Trọng Phụng so với các tác giả đƣơng thời.
Tiếng cƣời trào phúng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng rất đậm màu sắc dân gian. Hai
gã lê dƣơng một trẻ, một già cãi cọ, mắng nhiếc nhau tranh đƣợc làm chồng bà Kiểm Lâm
đƣợc ông mô tả nhƣ "cuộc chiến" giữa Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh nàng Mị Nƣơng trong
truyền thuyết. Màn kịch nhân vật Tôi diễn đúng là một vở hề chèo: từ cái "giọng nồi niêu",
nội dung bài ca cho đến động tác diễn xuất. Màn chèo hài này không chỉ "chinh phục" giới
cơm thầy cơm cô mà còn làm thích thú cả độc giả phóng sự. Là một me Tây về già, bà Đội
Chóp chuyên đi khóc ma mƣớn, tuy khóc với động cơ từ thiện, khóc gatuýt (miễn phí) theo
tinh thần "nhân đạo" phƣơng Tây, nhƣng lời khóc thảm sầu, thống thiết, rất đúng "bài bản
dân gian": "Ôi ai ơi là ai ơi: Trăm đưòng nghìn nỗi, ai ơi... Ai đi đâu bỏ nhà bỏ của, bỏ anh
em cha mẹ, họ hàng, ai ơi!". Bài văn tế Ba Mỹ Ký là nghệ thuật nhại văn tế để kể "công đức"
của một kẻ "sinh nghề tử nghiệp" vì làng bạc bịp, nhƣng lời lẽ khôi hài rất đỗi dân gian:
"Thôi chẳng may phận mỏng, ngắn đời - Xong nay đã kèn đây, trống đấy!". Tình huống "ông
nói gà, bà nói vịt" trong tiếu lâm, hề chèo cũng đƣợc họ Vũ dùng tạo tiếng cƣời đối
165
với cái "nghề" lấy Tây: quan tòa thì cứ hỏi "làm nghề gì", thị me Tây nọ lại trả lời lấy hết ông
Tây này đến ông Tây khác. Khi tòa kết luận thị ta "vô nghề nghiệp" (Sans profession) thì thị
bất bình (nhƣ bị xúc phạm), và khẳng định mình có nghề nghiệp "nghiêm chỉnh": "Làm
nghề... làm nghề lấy Tây!". Tình huống mắc lỡm, mắc mưu trong truyện cƣời dân gian cũng
đƣợc sử dụng rất thƣờng xuyên trong phóng sự Cạm bẫy người để tạo tình huống trào phúng:
những kẻ "khôn sặc máu mồm" nhƣ ông chú của Bồi An, ông Phán bố của Vân... mà vẫn bị
lừa; kẻ đi bịp bị ngƣời bịp lại, rồi bịp non gặp bịp già, v.v... đều là những màn hài kịch dân
gian. Sắc thái dân gian trong tiếng cƣời trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã làm cho bức tranh
hiện thực thêm phần sống động. Bằng vốn hài dân giã, họ Vũ đã góp phần dân tộc hóa một
thể văn Tây. Về phƣơng diện này, chƣa thấy có ở những cây bút phóng sự khác.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày những đặc điểm cơ bản về phƣơng diện nghệ thuật
của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở phóng sự của họ Vũ có cả một
nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu. Với một cái nhìn sắc sảo và tinh tế, họ
Vũ đã lựa chọn đƣợc nhiều tƣ liệu tiêu biểu chứa đựng những yếu tố thông tin - thẩm mĩ cao.
Đối với những tệ nạn xã hội, ông đã tập trung mô tả những khía cạnh cơ bản mang tính quy
luật, làm sáng rõ bản chất của từng hiện tƣợng. Gắn với từng tệ nạn, từng vấn đề xã hội là
những giới ngƣời với những "mẫu hàng" riêng biệt. Cách tiếp cận hiện thực cũng rất linh
hoạt: hiện tƣợng này đƣợc nhìn dƣới dạng một tổ chức; hiện tƣợng kia lại đƣợc nhà phóng sự
xem xét ở góc độ nghề nghiệp, kĩ nghệ... Đây là cách nhìn mới về một sự thật, làm cho vấn
đề vừa nổi bật và sâu sắc hơn. Không chỉ năng động trong tiếp cận, họ Vũ còn thể hiện sự
sáng tạo trong khai thác tƣ liệu. Điều này thể hiện ở việc ông luôn lựa chọn những "mẫu
ngƣời" tiêu biểu chứa
166
nhiều năng lƣợng thông tin. Ngoài những tƣ liệu trực tiếp, ông còn sử dụng cả tƣ duy tƣởng
tƣợng để tái hiện tƣ liệu. Do tƣ liệu đƣợc khai thác dƣới ánh sáng của tƣ duy tổng hợp nên tƣ
liệu đƣợc tái hiện dƣới dạng một bức tranh nhân sinh vừa mang tính khái quát, vừa cụ thể,
sinh động.
Việc sử dụng những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết đã làm cho phóng sự của họ Vũ
có chất văn học đậm đà. Chất tiểu thuyết đƣợc biểu hiện ở nghệ thuật miêu tả, xây dựng một
quần thể nhân vật sống động, trong đó có những nhân vật có một "bề dày" cả về ngoại hình
lẫn nội tâm mang dáng dấp của một tính cách điển hình. Sự sáng tạo trong việc nhân vật hóa
ngƣời kể chuyện (nhân vật Tôi), việc di chuyển linh hoạt điểm nhìn... đã tạo ra một lối thuật
kể biến hóa, hấp dẫn. Sự "dẫn truyền" yếu tố tiểu thuyết vào tác phẩm phóng sự là một điểm
độc đáo trong nghệ thuật phóng sự của họ Vũ. Hiện tƣợng này có cội nguồn từ quan niệm của
ông về thể loại. Theo ông thì: "Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể văn gần nhau. Phóng sự là
thiên truyện kể với cơ cở là những điều mắt thấy tai nghe..." [89, 125]. Mặt khác, khả năng
chiếm lĩnh cuộc sống ở tầm khái quát tổng hợp và xu hƣớng khái quát hóa trong cây bút của
họ Vũ cũng là một trong những nguyên do của yếu tố tiểu thuyết trong các phóng sự này.
Bằng việc xây dựng những nhân vật hài hước, tổ chức tình huống trào phúng và sử
dụng một lối văn giễu nhại, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên một tiếng cƣời nhân văn: phê phán,
châm biếm, trào lộng, mỉa mai... những cái xấu xí, lạc hậu trong xã hội đƣơng thời, "tống
tiễn" nó vào quá khứ, giúp cho sự thắng lợi của cái đẹp, cái tiên tiến, trung thực... nhƣ mong
muốn sâu xa của ông.
167
CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM LỜI VĂN PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG
Những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật đƣợc nêu ra ở những chƣơng trên là do sự
gợi ra của lời văn, vì văn chƣơng là nghệ thuật dùng ngôn từ làm phƣơng tiện biểu đạt, "ngôn
ngữ là yếu tố trƣớc tiên của văn học" (M. Gorki). Theo M. Bakhtin thì lời văn "là ngôn ngữ
trong tính toàn vẹn cụ thể và sinh động của nó, chứ không phải ngôn ngữ với tính cách là đối
tƣợng chuyên biệt của ngôn ngữ học" [7,170]. Xuất phát từ quan niệm nhƣ thế, trong công
trình khảo cứu "Những vấn đề thi pháp của Đôx-tôiepxki" nổi tiếng của mình, ông đã dành
hẳn cả một chƣơng (chƣơng V) gồm 79 trang bàn về lời văn của nhà văn thiên tài này [7,170-
248]. Theo phƣơng hƣớng đó, để tìm hiểu đặc điểm phóng sự Vũ Trọng Phụng, Luận án này
cũng xin mở thêm một hƣớng tiếp cận: Khảo sát đặc điểm lời văn của "ông vua phóng sự",
nhằm tìm những nét riêng trong cách phô diễn của họ Vũ ở một thể văn xuôi mới mẻ lúc
đƣơng thời.
Mỗi nhà văn có vốn từ ngữ và câu văn riêng, gọi chung là vốn diễn đạt. Trong vốn
diễn đạt này, mỗi nhà văn lại có sở trƣờng và thói quen diễn đạt nhất định. Những yếu tố này
đã làm nên đặc điểm riêng của lời văn nghệ thuật của mỗi cây bút. Với sở trƣờng và thói
quen diễn đạt riêng của mình, "ông vua phóng sự" Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một lời văn giàu
chất khẩu ngữ, một lời văn đa giọng điệu, một lời văn vừa mang tính truyền thống và hiện
đại.
168
Vấn đề đƣợc đặt ra ở đây là Vũ Trọng Phụng đã ưa sử dụng, quen sử dụng, thành
thạo sử dụng những phương tiện ngôn ngữ nào của tiếng Việt và đã tiếp thu những yếu tố nào
của ngôn ngữ bên ngoài, để tạo nên một lời văn có những đặc điểm trên và đặc điểm lời văn
đó đƣợc thể hiện ra sao? Đó chính là những vấn đề mà chúng tôi tập trung khảo sát trong
chƣơng 4 này.
4.1. Chất khẩu ngữ trong lời văn phóng sự
Những trang phóng sự của Vũ Trọng Phụng đều tƣơi rói một thứ ngôn ngữ đời sống.
Có đƣợc điều này vì trong lời văn của ông giàu chất khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang
màu sắc khẩu ngữ.
Sự đậm đà màu sắc khẩu ngữ trong lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng đƣợc thể
hiện ở độ phân bố của khẩu ngữ, ở các lớp khẩu ngữ, ở lượng thành ngữ tục ngữ và các biện
pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ. Điểm độc đáo ở đây là họ Vũ đã huy động "sức mạnh
tổng hợp" của khối lƣợng khẩu ngữ phong phú, dồi dào này vào việc phản ánh, đánh giá hiện
thực; vào việc xây dựng nhân vật, khắc họa tính cách... hướng thẳng vào nội dung vấn đề mà
mình trình bày, mô tả.
4.1.1. Những yếu tố khẩu ngữ
Ở bất cứ trang phóng sự nào của Vũ Trọng Phụng, ngƣời đọc cũng có thể nhận ra
giọng văn khẩu ngữ hàng ngày thân quen và bị lôi cuốn bởi giọng văn này. Khẩu ngữ hàng
ngay không chỉ "có mặt" trong lời nhân vật, mà còn xuất hiện ngay cả trong lời nhân vật Tôi-
Tác giả. Chẳng hạn, sau khi chứng kiến xong cuộc "đấu khẩu" giữa hai gã lê dƣơng tranh
nhau làm chồng bà Kiểm Lâm (trong Kỹ nghệ lấy Tây), nhân vật Tôi-tác giả kể: "Ông lính già
chả biết có để ý đến những lời đâm bị thóc chọc bị gạo kia không mà đã xin phép tôi cởi bỏ
áo nhà binh khi trò chuyện, thì hãy "bẻ vài miếng cùi bánh" đã. Câu nói xỏ lá của Hiếc tôn
bắt tôi phải tức khắc nhận lời. Nếu lão già này có mượn chén đưa lời thì tôi sẽ tùy cơ ứng
biến
169
sau" [157, 72 -73] (những chỗ in nghiêng là do chúng tôi, ở các dẫn chứng sau cũng vậy). Có
rất nhiều câu kể của tác giả ở các thiên phóng sự giàu yếu tố khẩu ngữ. Có thể nói khẩu ngữ
hàng ngày dày đặc trong các trang phóng sự của họ Vũ. Đây là thành tố quan trọng làm cho
lời văn của ông vang động những âm thanh nhƣ chính cuộc đời, có sức lôi cuốn, hấp dẫn
mạnh mẽ.
4.1.1.1. Các lớp khẩu ngữ
Không chỉ riêng Vũ Trọng Phụng mới dùng khẩu ngữ hàng ngày trong văn chƣơng
mà những nhà văn lớn cùng thời nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố.... đều quen dùng, ƣa
dùng khẩu ngữ, triệt để khai thác các "nguồn" khẩu ngữ. Nguyễn Công Hoan rất sành lớp
khẩu ngữ thành thị, Ngô Tất Tố rất thạo lớp khẩu ngữ nông thôn. Vũ Trọng Phụng lại nhƣ
thành thục tất cả: trong văn phóng sự của ông có đủ khẩu ngữ của mọi hạng ngƣời mà ông
mô tả, từ me Tây, gái điếm, kẻ cơ gian bạc bịp, lính cơ, lính lệ... ở thị thành đến con đời con
ở từ thôn quê ra. Đây là khẩu ngữ của một me Tây nói về ba Cẩm:
-"... Phải lắm, đến bà Hai Yểnh là nguôi đã sống thâm căn cố đế bên này, cửa hàng
cát cút (casse croute) đắt, cửa hàng xe đạp chạy mà chỉ bao số chị em "chạy làng" cũng đến
lệch nghiệp nữa là trần nhƣ bà ta. Đã ít xu mà cờ bạc thì tất phải chết" [157, 37].
Và đây là khẩu ngữ của con sen Đũi:"... thầy tôi hiện giờ kéo xe! Thật thân làm tội
đời, đƣợc cái tiếng hão thì mất nghiệp, làm khổ con, làm khổ vợ. Ngày nay đi kéo xe, có khi
thiếu tiền, bị cai nó đá cho lệch mạng mỡ, nhƣng tôi chả thương! Cho chết! Có thế mới biết
thân, mới đáng đời" [155, 30].
Còn đây là lời đáp của một tay "chuyên gia bạc bịp:"
- "Ông phát tài?
170
- Phát tài phải gió!
- Sao ông vẫn bảo săn mòng, két nhƣ thƣờng?
- Đã đành thế rồi, mòng, két vẫn có đấy, nhƣng ít con có lườn lắm, mà tạ mỗi ngày
một đông tấy lên, chia năm xẻ bẩy đi, còn ăn thua gì nữa" [154, 203].
Các nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đều đƣợc ông "cho phép" nói năng theo
đúng tiếng nói của chính nó. Khẩu ngữ trong phóng sự Vũ Trọng Phụng "y hệt" như từng
hạng người, nên đã tạo ra một hợp âm tiếng nói nhƣ chính đời sống. Giới me Tây với âm
ngọng nghịu của thứ tiếng Tây "giả cầy" pha tiếng Việt: "Maniét Bay dan, don Bố cu tốt! Toa
vù loa ê pu dê"; "Bạc đồng me sừ chớ có mà phát xê"... "Dân "con trời" lại nói tiếng quan
thoại xen với tiếng Việt thành một thứ tiếng "hẩu lốn", nhƣ "Tủi nà ma ni ấy có được
không?". Giới cờ bạc bịp có hẳn một "kênh" ngôn ngữ riêng, thứ biệt ngữ pha rất nhiều tiếng
lóng: mòng, két, thiếc, trạc xếch, giác mùi, giác bóng, róc mấu, xiếc, v.v...
Có thể nói các lớp từ khẩu ngữ đủ loại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã là một
thành tố làm nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm. Ở ba thí dụ trên, những từ chạy làng,
lệch nghiệp, trần, ít xu đã phản ánh nỗi khốn cùng của kiếp me. Tiếng Tây bồi cát cút đích thị
là ngôn ngữ của "vợ" Tây. Và những thành ngữ thân làm tội đời, lệch mạng mỡ... cho thấy sự
khốn cùng của tình cảnh gia đình kẻ đi ở. Hoặc chỉ cần những yếu tố khẩu ngữ nhƣ, có lườn
(có tiền), đông tấy lên, chia năm xẻ bảy cũng đã "cung cấp" cho ta thấy sự tràn lan của nghề
cờ bạc bịp và sự giành giật miếng ăn giữa bọn chúng. Mặt khác, chính những thành tố khẩu
ngữ này đã làm nên phong cách diễn đạt riêng của Vũ Trọng Phụng.
171
4.1.1.2. Lượng thành ngữ, tục ngữ mang màu sắc khẩu ngữ
Trong các phóng sự của mình, họ Vũ dùng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ. Chúng tôi
xin trình bày bản thống kê số lƣợng các thành ngữ, tục ngữ này trong các phóng sự. Nhân
đây, chúng tôi cũng tiến hành thống kê số thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết Số đỏ, phóng
sự Việc làng của Ngô Tất Tố và Tôi kéo xe của Tam Lang.
Tình hình cụ thể nhƣ sau:
TÁC PHẨM SỐ TRANG SỐ THÀNH NGỮ SỐ TỤC NGỮ
Giông tố 336 61 10
Số đỏ 236 50 15
Cạm bẫy người 228 58 1
Kỹ nghệ lấy Tây 75 32 2
Cơm thầy cơm cô 64 44 1
Lục xì 168 8 2
Một huyện ăn Tết 20 25 6
Tôi kéo xe 124 10 1
Việc làng 98 19 1
(chúng tôi xin đính kèm bản thống kê này ở phần Phụ lục. Riêng con số thống kê tác
phẩm Giông tố là của ông Nguyễn Văn Mệnh ở Tạp chí ngôn ngữ số 3, năm 1978).
Qua bảng thống kê cho thấy, tuy số trang của các phóng sự Vũ Trọng Phụng thƣờng ít
hơn tiểu thuyết, nhưng số lượng thành ngữ, tục ngữ được dùng lại nhiều hơn. Điều này
chứng tỏ, ngôn ngữ phóng sự là một ngôn ngữ "áp sát" đời sống hơn ngôn ngữ của tiểu
thuyết. Ở Việc làng, Ngô Tất Tố dùng rất nhiều khẩu ngữ nông thôn, nhƣng ông ít đƣa vào
lời văn những thành ngữ, tục ngữ nguyên vẹn mà chỉ dùng ý hoặc một vế của nó.
Tuy trong khẩu ngữ còn nhiều yếu tố khác, nhƣng thành ngữ, tục
172
ngữ là một đơn vị từ vựng, là một thành tố tạo nên diện mạo của phong cách khẩu ngữ. Với
chức năng là thông báo và định danh, các thành ngữ, tục ngữ với số lƣợng hết sức phong phú
và lại được dùng nguyên vẹn nhƣ một đội quân tinh nhuệ vừa sinh động vì giàu tính hình
tƣợng vừa có tính khái quát trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng đã có tác dụng gợi ra
một cuộc sống rất thực, làm bức tranh hiện thực của ông rất gần với cuộc sống, "y hệt" như
cuộc đời.
Sự phong phú của thanh ngữ, tục ngữ trong phóng sự còn biểu hiện ở chỗ, ông không
chỉ dùng đúng các thành ngữ, tục ngữ dân gian nói về các giới ngƣời và nghề nghiệp của họ,
mà còn khai thác đƣợc những thành ngữ lóng của lớp ngƣời hạ lƣu, dƣới đáy xã hội, diễn tả
đúng tình cảnh và tiếng nói của họ. Chẳng hạn:
Ở Cạm bẫy người có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ đọc lên biết đấy là cờ gian, bạc bịp,
nhƣ "thay hình đổi dạng", "che mắt thế gian", "thiên biến vạn hóa", "rong chơi bài bạc", "hỗn
quân hỗn quan", "quay tít nhƣ con thò lò", "bán trời không văn tự", "thiên phƣơng bách kế",
"biết rõ mƣời mƣơi", v.v... Đặc biệt là những thành ngữ lóng chỉ có giới cờ bạc bịp mới dùng,
nhƣ "Đào ngoái xoáy xỏa", "nhét đất thó vào mũi" (mà lấy tiền), con bạc "mắt nhƣ rắn ráo",
"khôn sặc máu mồm" (thành ngữ dân gian là "khôn nhƣ rái", "khôn có nọc").
Ở Kỹ nghệ lấy Tây có những thành ngữ nhƣ "trao xƣơng gửi thịt", "lá gió cành chim",
"bắt đƣợc quả tang". Me Tây dùng thành ngữ Pháp "bồi": "Ba xí ba tú" (Par si par tout).
Thậm chí, tác giả còn sửa đổi một vài thành tố của tục ngữ dân gian, "nhại" lại để châm biếm,
mỉa mai: "Một ngƣời lấy Tây cả họ đƣợc nhờ", v.v...
Ở Cơm thầy cơm cô có những thành ngữ nhƣ "chết rã họng", "năm cha ba mẹ", "ăn
chực nằm chờ", "trầm luân khổ ải", "con ong cái kiến", "cơm
173
thừa canh cặn"... Và có những thành ngữ mang tiếng nói của những ngƣời đi ở, nhƣ "ăn đói
làm no", "khổ tuyệt trần đời", "nếm cơm thiên hạ", v.v...
Ở hai phóng sự còn lại, thành ngữ, tục ngữ cũng ở dạng nhƣ thế. Ngoài những thành
ngữ, tục ngữ đƣợc dùng nguyên vẹn, Vũ Trọng Phụng cũng hay dùng ý hoặc một vế của
nhiều thành ngữ, tục ngữ khác.
Một câu hỏi đƣợc đặt ra: vì sao Vũ Trọng Phụng lại sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ
nhƣ vậy? Theo chúng tôi, do thành ngữ có đặc trƣng là có tính hình tƣợng và khái quát cao
nên phƣơng tiện này rất thích hợp với khuynh hướng diễn đạt của họ Vũ là vừa mô tả một
cách sống động đối tượng vừa làm rõ bản thể vốn thường bị che lấp của nó.
Ngoài việc sử dụng khẩu ngữ, trong phóng sự của mình, Vũ Trọng Phụng còn dùng
nhiều biện pháp tu từ. Trong đó, nổi bật là hai biện pháp tu từ so sánh và tương phản.
4.1.1.3. Biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, hầu nhƣ tất cả các biện pháp tu từ đều đƣợc Vũ
Trọng Phụng sử dụng trong các phóng sự của ông, nhƣ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, phúng dụ,
tƣợng trƣng, hoán dụ, điệp ngữ, khoa trƣơng, tiệm tiến, tƣơng phản, v.v... Điều làm cho luận
án này quan tâm hơn cả là hai biện pháp so sánh và tương phản. Đây là hai biện pháp tu từ
xuất hiên với một tần số cao hơn cả và lối so sánh, tƣơng phản của Vũ Trọng Phụng có
những nét rất đặc biệt: đó là màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính của nó.
a) So sánh tu từ mang màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính.
So sánh là biện pháp tu từ cơ bản. Xét cho cùng, mọi biện pháp tu từ đều quy về so
sánh. Vì vậy, so sánh là "linh hồn" của các biện pháp chuyển nghĩa.
174
So sánh tu từ la sự đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng có một dấu hiệu chung nào đấy,
nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tuông, đem lại giá trị biểu cảm và hiệu quả
thẩm mỹ. So sánh tu từ mang màu sắc khẩu ngữ là so sánh đưọc dùng riêng cho khẩu ngữ. Vì
là dùng riêng cho khẩu ngữ nên so sánh tu từ này chủ yếu mang sắc thái biểu cảm âm tính.
Lối so sánh này xuất hiện khá phổ biến trong những phóng sự của họ Vũ. Chẳng hạn,
đây là hình ảnh của kẻ bị lũ bạc bịp lột nhẵn túi, thua sạch sành sanh:
- "Ông chú bác bồi An rũ rƣợi ngƣời như con chim bị đạn" (Cạm bẫy người, Sđd, tr.
67).
Đây là "chân dung" mụ chủ nhà của con sen Đũi:
- "... cái má nó đã răn reo, nó lại trát phấn bự khắp cả, thành thử trông như mặt ngoáo
ộp" (Cơm thầy cơm cô, tr. 31).
Còn đây là hình ảnh một gái điếm trong lớp học của nhà Lục xì:
-"... nó xấu làm sao, mặt mũi béo phị và xanh nhợt, đứng lên khoanh tay, lúc ngập
ngừng, lúc lƣu loát tựa hồ con vẹt" (Lục xì, Sđd, tr. 165). v.v...
Lối so sánh mang tính dân gian nhƣ vậy xuất hiện hết sức thoải mái, tự nhiên nhƣ
chẳng hề có một sự gia công, tô vẽ.
Để lột tả bản chất của hiện tƣợng, để mỉa mai, đả kích, phủ định..., Vũ Trọng Phụng
còn sáng tạo ra nhiều kiểu so sánh theo kiểu "tạt ngang", trùm lớp hoặc so sánh đối tƣợng với
chính nó. Đây là lối so sánh "tạt ngang" nhƣ một cú đánh bất ngờ:
"Ngƣời Âu ở Đông Dƣơng có cái thói quen hễ cứ thấy một ngƣời bản xứ làm báo thì
nghi cho là làm hội kín, cũng như thấy một ngƣời vận âu phục lại gần nhà mình là chỉ có một
nghề chim vợ Tây" (Kỹ nghệ lấy Tây,
175
Sđd, tr. 13).
Thì ra, tâm địa của lũ ngƣời đó thật là xấu xa: nghi ngờ từ chính trị cho đến khoản...
tình dục... Kiểu so sánh nay còn đƣợc họ Vũ thể hiện ở việc so sánh cái mặt của một me Tây
"hầm hầm như quan khâm sai Lê Hoan" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd, tr. 78); việc con sen Đũi "giữ
chỗ" (ngồi vào lòng tình nhân) với việc vị quan lớn giữ chỗ khi nghe tin ngƣời này, kẻ nọ về
hƣu (Cơm thầy cơm cô, tr. 38); hoặc so sánh sự vô trách nhiệm của me Tây với con lai: "Song
le, hoặc con ngƣời, hoặc con ta, bà Cai có cần... "đếch" gì? Bà cũng y như Nhà nước".
Một so sánh tu từ hay đƣợc nhiều ngƣời nhắc tới. Đó là câu:
"Cái giƣờng của một me Tây cũng nhƣ cái dùi khui của một thầy cảnh sát, cũng nhƣ
cái búa của bác thợ rèn, cũng nhƣ cái cổ của một ông nghị Việt Nam" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd,
tr. 53).
Có ý kiến cho rằng "sức công phá mãnh liệt của sự so sánh này là ví các ông nghị bù
nhìn lúc đó cũng là một thứ me Tây". Theo chúng tôi, hàm ý chính của sự so sánh, có lẽ
không phải chỉ có đọng ở ý đó. Vì nếu theo lôgic ấy, thì viên cảnh sát và cả bác thợ rèn cũng
phải là một thứ me Tây! Việc đặt bốn đối tƣợng rất khác nhau vào chung một trƣờng so sánh
nhƣ vậy là hết sức táo bạo, gây nên một sự bất ngơ thú vị. Ở bốn đối tƣợng này có một cái
chung để có thể tiến hành so sánh, đó là "công cụ lao động" của họ: chiếc giường (công cụ
hành nghề của me Tây), dùi khui, chiếc búa (công cụ hành nghề của cảnh sát và thợ rèn). Và
vì thế cái cổ của ông nghị Việt Nam lúc đó cũng là một thứ công cụ để hành nghề... gật. Vì
vậy, hàm ý chế giễu, đả kích ở đây, chủ yếu, là nhằm vào thứ nghị bù nhìn, "nghị gật" lúc đó.
Một lối so sánh lạ lẫm, táo bạo của Vũ Trọng Phụng đƣợc nhiều ngƣời
176
bàn luận là so sánh đối tƣợng với chính nó, kiểu nhƣ "từ khi ông Lý là ông Lý, thì cũng như
từ khi loài ngƣời là loài ngƣời", "cuộc đời là cuộc đời". Có thể hiểu đây là sự trùng ngôn, để
nhấn mạnh thêm bản thể của đối tƣợng: nó đƣơng nhiên, cố hữu là nó, vĩnh viễn là nó, không
thể nào khác đƣợc... Lối nói đầy triết lí này chứa đựng một sự mỉa mai, châm biếm hết sức
sâu sắc.
Khuynh hƣớng diễn đạt chung của lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng là từ mô tả cái
bên ngoài đi vào cái bản thể của sự vật. Sức mạnh chính của so sánh tu từ là nhận thức (còn
sức mạnh của ẩn dụ là gợi cảm). Vì thế cho nên, lối so sánh tu từ có sắc thái biểu cảm âm
tính rất thích hợp vói lối diễn đạt cực mạnh nhằm phanh phui "sự thật ở đời" của Vũ Trọng
Phụng. Lối so sánh nay làm cho sức mạnh tố cáo của ngồi bút phóng sự họ Vũ tăng lên gấp
bội.
b) Tương phản mang màu sắc khẩu ngữ, sắc thái biểu cảm âm tính
Cùng với so sánh tu từ, biện pháp tƣơng phản cũng đƣợc dùng khá thƣờng xuyên
trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Tương phản (hay đối lập) là biện pháp tu từ sử dụng các từ
ngữ biểu thị những khái niệm trái ngƣợc nhau cùng trong một văn cảnh, nhằm mục đích làm
rõ hơn đặc điểm của đối tƣợng đƣợc mô tả. Trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng xuất
hiện nhiều lối tƣơng phản, để mô tả sự vật, hiện tƣợng, khắc họa ngoại hình và nội tâm nhân
vật...
Để thể hiện cái nhục, cái khổ của kiếp ngƣời đi ở, Vũ Trọng Phụng đã đặt sự tƣơng
phản:
"Cái giá trị làm ngƣời... có khi không bằng sức vật (...). Mƣời sáu ngƣời, đủ hạng lớn
bé trẻ già này, mỗi ngƣời chỉ cầu nhƣ một con chó, nhiều khi kém một con chó..." [155 , 21].
Sở dĩ có điều này vì "một vài con chó còn đƣợc chủ nhà mua thịt bò
177
cho xơi! Có khi con chó mỗi tháng khiến chủ tốn kém hơn một đứa tôi tớ trong nhà"[155,21].
Nhƣng cũng bằng nghệ thuật tƣơng phản, Vũ Trọng Phụng đã diễn tả quá trình tha
hóa hết sức nhanh chóng của giới cơm thầy cơm cô, trong cái môi trƣờng thị thành đầy giả
dối: "mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở đƣợc vài tháng thì ăn cắp nhƣ ranh, ăn bớt nhƣ
quỷ" [ 155, 71].
Bằng lối tƣơng phản, họ Vũ đã bóc trần cái thực trạng đen tối cùng cực của nạn mại
dâm thời thuộc Pháp:
"... những cái vú nát nhẽo, những cái đùi hoặc ghẻ ruồi, hoặc hắc lào, hoặc điểm lấm
tấm những vòng đen, di tích của trùng giang mai", "những con ma lem mặt bủng da chì",
"hoàn toàn rách rƣới, bệ rạc". Thế mà "tối đến diện quần áo vào, đeo đồ nữ trang vào, một
lƣợt phấn trát lên trên những mảng ghét thì một vai ả hóa ra ngon lành, kháu khỉnh cho những
con mắt mơ vì men rƣợu của khách làng chơi" (Lục xì, Sđd, tr. 172).
Thực trạng tệ nạn và những vấn nạn xã hội đƣợc bóc trần nhƣ vậy la triệt để. Ngồi bút
phóng sự của Vũ Trọng Phụng không viết kín đáo đƣợc mà phải nói toạc ra. Biện pháp tƣơng
phản đã rất đắc dụng, giúp ngồi bút của ông lật tung cái sự thật đen tối đầy bất công của cái
xã hội đƣơng thời.
Lời văn giàu chất khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ đã làm
cho phẩm chất hiện thực của phóng sự Vũ Trọng Phụng cao hơn, sâu sắc hơn. Chất khẩu ngữ
lại làm cho lời văn của họ Vũ "đời" hơn. Sự tƣơng tác này cho thấy ngòi bút phóng sự Vũ
Trọng Phụng gắn bó chặt chẽ với các phương tiện khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang
sắc thái âm tính. Họ Vũ ƣa dùng, quen dùng và sử dụng thanh thạo những phƣơng tiện quý
báu đó của ngôn ngữ dân tộc, để tạo ra một lời văn với
178
một lối phô diễn cực mạnh.
4.1.2. Vai trò của các yếu tố khẩu ngữ
Khẩu ngữ hàng ngày trong phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ vì mục đích tạo ra
hình thức diễn đạt mà còn vì những mục đích hướng thẳng vào nội dung đối tượng được miêu
tả.
4.1.2.1. Sử dụng khẩu ngữ để mô tả, đánh giá hiện thực
Đây là hiện thực của cái "kỹ nghệ lấy Tây" quái gở:
"Tuần lễ trƣớc có cả mấy cô thiếu nữ Hà thành cũng sang đây để kiếm chồng! Có
chồng rồi, vì không biết nèo đƣợc đồng lƣơng cao thành ra không đủ tiền mua rƣợu, mua
thuốc lá đồ hộp cho chúng nó. Thiếu thốn, bị chồng vặc, chƣa chi đã sợ, ấy thế là bảo nhau
tìm đường chuồn. Thành thử lấy chồng lỗ vốn! Rõ khốn nạn!" [157,19].
Tổ hợp khẩu ngữ hàng ngày, như kiếm chồng, không biết nèo, bị chồng vặc, tìm
đường chuồn, lấy chồng lỗ vốn, khốn nạn, ấy thế là, làm ngƣời đọc có thể nhận ra bức tranh
bi hài của những con ngƣời không biết nên giận hay nên thƣơng này?!
Có khi chỉ qua một câu mắng với lời lẽ hết sức "dung dị" của lão lục sự già, một kẻ
biết "đục khoét thành thánh", đối với đám "đệ tử" (đám lính cơ lính lệ), khi bọn này không
biết "đƣờng" làm ăn, tác giả cũng đã lột trần thủ đoạn nham hiểm, "cao tay" của giới quan
nha, trong cái tệ tham nhũng:
"Các anh ngu lắm! Ngƣơi ta đƣơng say rƣợu thì nói với ngƣời ta làm gì để đến nỗi cãi
nhau, rồi bắt bớ nhau. Thì cứ sang nhà thằng lý trƣởng mà nằm, chờ chúng nó tỉnh rƣợu xem
có phải lạy mình như tế sao không, bóp bao nhiêu mà không phải lòi ra? Năm hết tết đến còn
sinh sự lôi thôi, rõ làm việc quan quá nửa đời ngƣời rồi mà còn dốt đến thế (Một huyện ăn
Tết, Sđd, tr. 108).
179
Bức tranh hiện thực trong các phóng sự khác, nhƣ Cơm thầy cơm cô, Cạm bẫy người,
Lục xì, cũng đƣợc phơi bày bằng khẩu ngữ hàng ngày kiểu nhƣ vậy. Chính phƣơng tiện khẩu
ngữ đã giúp nhà văn đã tái hiện đƣợc bao thảm cảnh, nghịch cảnh dở khóc dở cƣời, bi hài lẫn
lộn... hệt nhƣ cuộc đời.
4.1.2.2. Dùng khẩu ngữ để miêu tả quần thể nhân vật
Không chỉ dùng yếu tố khẩu ngữ để tạo tiếng nói riêng cho mỗi nhân vật, Vũ Trọng
Phụng còn dùng nhiều yếu tố của phương tiện khẩu ngữ để xây dựng chân dung, khắc họa
tính cách. Chẳng hạn, "Cuốn tiểu thuyết" của con sen Đũi, tông tích của nhân vật đƣợc ngƣời
kể chuyện kể bằng một lời văn pha nhiều khẩu ngữ:
"... Năm lên 12 tuổi, cái Đũi là con một ông lý trƣởng cứng cổ ra phết. Thế rồi từ khi
ông lý là ông lý, thì cũng như từ khi loài người là loài người của cải của ông cứ việc từ trong
nhà "đội nón ra đi". Ruộng cả ao liền của ông lý bán hết... sạch sành sanh, cái Đũi phải ra
tỉnh đi ở" [155, 30].
Có khi chỉ qua một lời tâm sự rất chân tình bằng khẩu ngữ của nhân vật viên lục sự
già giải thích lý do vì sao lão ta không nhận quà biếu, chân dung cái kẻ tính toán chi ly, tính
đếm thiệt hơn, trong việc tham nhũng hiện ra thật là sinh động:
"- Nếu nhận của họ bốn chục cam, hai cân đƣờng ta, thì lại phải chạy cái bữa rƣợu tất
niên cho họ, ít nhất là một con gà, hai cái chân giò, không thì cả một con chó. Chi bằng cứ
chối phăng đi là hơn. Trò đời có đi có lại mới toại lòng nhau, vậy ai dại gì mà nhận cái lễ vật
chưa đáng đồng bạc để phải mất bữa rƣợu hai đồng bạc? Mà lại khổ vợ con, đầy tớ mình hầu
các bố ấy nữa chứ?" (Một huyện ăn Tết, Sđd, tr. 95).
Cái "máu đỏ" đen của một con bạc nhƣ "hiện hình" ra ở những hành vi
180
điển hình, qua những tục ngữ, từ và kết cấu khẩu ngữ của lời văn thuật kể:
"Cái máu đánh bạc của ông chú tôi không hiểu nó pha chất đỏ, đen thế nào mà mỗi
khi đả động đến ông, ai cũng phải lắc đầu mà phê một câu: "bút khôn xiết tả" (...) Bình phẩm
về ông, những ngƣời quen thuộc đã ban cho ông cái đức lớn: "lột áo người sống, bán áo
người chết" (...) tiền sang nhờ ông đi mua hộ cỗ ván, ông cũng có gan đem ngay số tiền "cắt
cổ" ấy đem đi nướng đến tong hết" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 99).
Những yếu tố khẩu ngữ trong những trích đoạn nói trên đã tạo ra những nét cụ thể,
sinh động của chân dung nhân vật. Nếu thay thế những yếu tố này bằng những câu, những từ
của ngôn ngữ gọt giũa, chắc rằng các tính cách, các chân dung này khó tránh đƣợc sự nhợt
nhạt, bằng phẳng...
4.2. Giọng điệu trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng
Lời văn trong tác phẩm văn chƣơng khác với lời văn của tác phẩm khoa học và báo
chí ở chỗ tính giọng điệu. Bàn về giọng điệu trong tác phẩm văn học, M. Khrapchencô cho
rằng: "Đề tài, tƣ tƣởng, hình tƣợng chỉ đƣợc thể hiện trong môi trƣờng giọng điệu nhất định,
trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tƣợng sáng tác". Ông còn cho
rằng: "Hiệu suất cảm xúc của lối kể, trƣớc hết thể hiện ở giọng điệu" [ 87,167]. Chúng tôi
hiểu rằng giọng điệu là vẻ riêng trong diễn đạt, thể hiện ra bằng việc sử dụng các phƣơng tiện
ngôn ngữ. Nếu xét về phía lời nói cá nhân thì mỗi cá nhân, mỗi tầng lóp có cái giọng riêng
của mình. Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng có cả một quần thể nhân vật, có nhân vật Tôi -
ngƣời kể chuyện và có những khi, tác giả trực tiếp xuất hiện, tham gia vào nội dung câu
chuyện. Vì thế, lời văn trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là một lời văn đa giọng, tạo nên một
âm thanh sống động nhƣ chính cuộc đời.
4.2.1. Giọng điệu của cái Tôi - người kể chuyện
181
Là một thể ký viết về ngƣời thật, việc thật theo đồng thời sự, nên cho dù tác giả phóng
sự có đƣợc trực tiếp tham dự, trực tiếp đƣợc chứng kiến câu chuyện hay chỉ thông qua một
nguồn tài liệu gián tiếp, thì lời văn trong phóng sự cũng phải chứng tỏ rằng đây là lời thuật
kể của một người đã mắt thấy tai nghe những điều có thực đã xảy ra. Vì thể phóng sự "là tai
là mắt" của độc giả nên nhà phóng sự phải viết sao cho độc giả thấy mình nhƣ đƣợc chứng
kiến những gì đã xảy ra, hoàn toàn tin vào những lời thuật kể về những điều có thực đã xảy
ra, chứ không phải là chuyện hƣ cấu, tƣởng tƣợng, giúp cho độc giả hình dung đƣợc câu
chuyện đã xảy ra nhƣ thế nào, làm cho họ suy tƣ về cái sự thật ấy.
Tuy bị "bắt buộc" phải thuật kể bằng một lời văn của cái Tôi -nhà phóng sự nhƣ thế
nhƣng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, lời văn của cái Tôi này lại rất đa dạng gây hứng thú,
bất ngờ: khi thì là lời của một "thám tử tƣ" thuật kể về những bí hiểm của cái làng bạc bịp
(Cạm bẫy người); khi thì là lời của một tay cơm thầy cơm cô "chính hiệu" (Cơm thầy cơm
cô); khi lại là lời của một kẻ phiếm du, tình cờ biết đƣợc tệ tham nhũng ở một huyện nha
(Một huyện ăn Tết); khi là lời kể của nhân vật Tôi - nhà báo đến mấy làng me, tìm hiểu sự
thật của nghề lấy Tây (Kỹ nghệ lấy Tây), khi là lời thuật kể của chính tác giả - nhà phóng sự
Vũ Trọng Phụng (Lục xì).
Nhƣ vậy, lời văn của cái Tôi - Nhà phóng sự trong phóng sự của họ Vũ hiện ra với
nhiều tư cách khác nhau. Đây là đặc điểm độc đáo riêng làm nên sự khác biệt với lời văn của
nhiều nhà phóng sự đƣơng thời. Cũng là phóng sự văn học, lời văn trong phóng sự Việc làng,
Dao cầu thuyền tán... của Ngô Tất Tố chỉ là lời của cái Tôi - người kể chuyện. Lời văn trong
Tôi kéo xe của Tam Lang là cái Tôi - anh phu xe giả danh Tam Lang. Còn với Trọng Lang,
tuy viết rất nhiều phóng sự, nhƣng lời văn của ông hầu nhƣ lại chỉ là của chính tác giả. Vì
trong phóng sự của ông, chỗ này thấy
182
một ngƣời đàn ông chợt hỏi: "ông có phải là Trọng Lang, tác giả Hà Nội lầm than?' [101,
165]; chỗ khác lại thấy cô gái điếm K nói: "Em biết rồi... Anh là Trọng Lang trong báo Ngày
nay" [101, 321]. Cũng vì chỉ dùng một cái Tôi duy nhất nhƣ thế nên trong lời văn có những
khi không tránh đƣợc sự khô khan, đơn điệu.
Sự đa dạng về lời ngƣời kể chuyện trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã khắc phục
đƣợc cái thế "độc bạch" về lời ngƣời kể. Với những cái Tôi, trong những tƣ cách khác nhau,
thẩm thấu sâu vào câu chuyện đã tạo ra một sự đa dạng, sinh động cho lời văn của các phóng
sự. Trừ ở Lục xì, còn những cái Tôi - ngƣời kể chuyện đều đƣợc nhân vật hóa, "mỹ hóa " ở
những mức độ, khác nhau có khi hội nhập hoàn toàn vào thế giới nhân vật. Cái Tôi này đã
đóng vai trò đầu mối của những cuộc đối thoại đa chiều: nó không chỉ nói về nhân vật mà còn
nói với nhân vật; và có những khi không chỉ nói với nhân vật mà còn trực tiếp đối thoại với
độc giả. Vì vậy, giọng văn luôn chuyển đổi, theo những chiều, những hướng khác nhau của
sự đối thoại.
Giọng điệu chính của cái Tôi - ngƣời kể chuyện trong các thiên phóng sự Vũ Trọng
Phụng là căm uất, cay đắng, châm biếm, mỉa mai... nhưng do thuật kể bằng con mắt, tấm
lòng của người trong cuộc nên mọi sắc thái, cung bậc, khuynh hướng của tình cảm đã được
thể hiện rất phong phú, sinh động. Ở Cạm bẫy người, bao trùm lên là cái giọng cay đắng, bực
bội: "Khả ố thay là cái nạn kinh tế" (nạn khủng hoảng kinh tế), "chỉ có cái máu cờ bạc của
loài ngƣời là khiến tôi không thể hiểu đƣợc"! Bên cạnh đó là nỗi chua chát: "Đông Tây...
cũng đến thua kém cái tinh túy cờ bạc ở Việt Nam chúng tôi" và xót xa cho những kẻ lấy
nghề bạc bịp làm lẽ sống ở đời: "bịp vung tàn tán, than ôi cay vẫn hoan cay!". Trƣớc cái nghề
lấy Tây đầy rẫy những bi hài; trƣớc cái thói tham nhũng theo lối "gà què ăn quẩn", giọng
ngƣời trần thuật đƣợm một nỗi buồn chua xót, đay đả: "Một sự không ngờ!
183
Trong cái kỹ nghệ lấy Tây này, ngƣời ta không buồn nghĩ đến cách phủ lên những sự thật
nhơ bẩn một nƣớc son bóng nhoáng nữa" [157-76]; "Ấy đấy, các cụ đã thấy chƣa? Con cháu
đã đủ làm rạng rỡ tổ tiên chƣa, vì trong năm qua, con cháu cƣớp bóc đƣợc nhƣ thế" (Một
huyện ăn Tết, Sđd, tr. 110).
4.2.2. Giọng điệu của cái Tôi - tác giả
Trong phóng sự Lục xì, Vũ Trọng Phụng xuất hiện với cái tên thật của mình. Nhƣ ở
cuối tác phẩm Cơm thầy cơm cô, cái Tôi - ngƣời kể chuyện "hồi nguyên" theo kiểu: "Thƣa
các ngài, bây giờ tôi lại là tôi". Việc "hồi nguyên" này là một sự "bật nút" của những tƣ tƣởng
tình cảm, do nhu cầu đƣợc trực tiếp đối thoại, giãi bày. Chẳng hạn, ở cuối phóng sự Cơm thầy
cơm cô, khi đang bàn việc bằng cách nào thì có thể điều tra đƣợc sự độc ác của giới chủ nhà
đối với con ở, tác giả bỗng "lôi thẳng" độc giả và câu chuyện và còn lên giọng "sửa gáy" họ:
"Bây giờ tôi có thể nói với hết thảy (xin nhớ cho là hết thảy)... rằng xin các ngài cứ điều tra
ngay các ngài" [155, 73]. Hoặc trƣớc chính sách "tùy thời", "làm cho phải phép" của nhà
chức trách thực dân, khi đối phó với tệ mại dâm, nhà phóng sự Vũ Trọng Phụng đã bật lên lời
nguyền rủa, lên án với một giọng gay gắt: "... cái xã hội một nghìn lần khốn nạn này chỉ có
thể có đƣợc những ông đầu cơ, coi công việc cải tạo xã hội cũng nhƣ sự nịnh hót những cái
thị dục đê hèn của đàn bà, con gái..." [155, 247], v.v...
Nếu nối kết giọng điệu của các chủ thể lời kể ở các thiên phóng sự lại, có thể thấy tình
cảm và thái độ của Vũ Trọng Phụng; khi thì dí dỏm, hóm hỉnh; khi thì mỉa mai, giễu cợt, chua
chát; khi thì buồn bã, cảm thương, não lòng; khi thì khinh khi, giận dữ như muốn thét lên; có
khi lại vươn đến giọng triết luận về xã hội, nhân sinh, về thân phận con người... Đây là giọng
điệu chứa chất sự "nhức nhối của trí tuệ". Ẩn dƣới những điều
184
bực bội, chua chát bất bình đó, không có cái gì khác là ƣớc mong về một hiện thực tốt đẹp,
không còn những điều "vô nghĩa lý". Giọng điệu của cái Tôi - Tác giả - ngƣời kể chuyện
trong phóng sự Vũ Trọng Phụng nhƣ hòa vào cùng một "bề" với giọng điệu đắng cay chua
chát của Nam Cao; châm biếm, giễu cợt của Nguyễn Công Hoan và có lúc lại có cái thiết tha
mãnh liệt của Nguyên Hồng...
4.2.3. Giọng điệu chính của quần thể nhân vật
Bên cạnh giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện cái Tôi - tác giả, trong phóng sự
Vũ Trọng Phụng còn có một hợp âm giọng điệu của quần thể nhân vật.
Là những con ngƣời khốn khổ trên con đƣờng băng hoại tha hóa, giọng điệu của quần
thể nhân vật này cũng đầy nhức nhối, hận đời, muốn trả thù đời...
Đây là giọng "lạnh tanh máu cá" của đám bạc bịp. Chúng sẵn sàng "thịt" luôn cả
ngƣơi thân, không hề mảy may thƣơng tiếc, nhƣ lời của bồi An nói về ông chú họ của mình:
"Trong lƣng giắt đến ba bốn chục bạc từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con trai
đang ốm thập tử nhất sinh đấy!... Nằm chờ ăn chực đã ba hôm nay ở đây để đợi đánh xì! Ông
bảo thế mà không thịt thì có dại không? Mình không xơi thì cũng đến lƣợt chán vạn thằng
khác chúng nó cũng xơi" [154, 63].
Còn đây là giọng bán xới cuộc đời của một gái điếm: "Anh hỏi thì tôi phải nói (...).
Tôi bây giờ nhƣ cái đò ngang, ai sang cũng chở tuốt" [155, 205].
Và đây là câu chửi chất chứa đầy hờn căm và hả hê của con sen Đũi đối với mụ chủ
nhà thất đức:
185
"Cha tiên nhân năm đời mƣời đời nhà nó! Chính nó làm cho tôi mất tân (...) Tiên sƣ
nó, thật là giỏi quả báo nên mấy hôm sau nó bị ô tô đâm phải, gẫy mẹ nó ngay một cánh
tay..." [155, 31-32-33].
Cùng với sự chán ngán buông xuôi và nỗi căm tức ấy là cái giọng hận đời, muốn trả
thù đời. Nếu tên Trùm Ấm B muốn trả thù "cái bọn đã làm tôi hƣ hỏng, đã ngăn rào mọi
đƣờng công danh tiến thủ của tôi", thì bà Kiểm Lâm "chỉ cố chí làm giàu để sau nay có thể ác
lại với những kẻ đã khinh tôi...". Còn con sen Đũi thì "nghĩ rằng mình, mình cần báo thù, có
báo thù thì mới hả dạ...", v.v...
Những giọng điệu khác nhau nhƣ thế trong lời văn đã "thổi hồn" vào thế giới nhân
vật, tạo nên những âm thanh sôi réo những tiếng rên xiết, tiếng hồn, bất bình, uất hận... Điều
này cho thấy một thực trạng xã hội thối nát đầy mâu thuẫn gay gắt, đầy hận thù. Đó là một xã
hội "khốn khổ, khốn nạn" chất chứa bao điều "vô nghĩa lý".
4.3. Tính hiện đại và những chế của lời văn phóng sƣ Vũ Trọng Phụng
Lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ thuần túy truyền thống mà còn là một
lời văn mang tính hiện đại. Tính hiện đại thể hiện ở sự "có mặt" của những từ vựng mới, ở
một kiểu câu văn cách tân, ở lối diễn đạt mới mẻ. Tuy nhiên, lời văn của ông không phải là
"toàn bích" mà còn có những hạn chế nhất định.
Lời văn phóng sự của họ Vũ có "cội rễ" từ lời văn truyền thống. Phong cách khẩu ngữ
tự nhiên mang hơi thở nóng hổi, tƣơi mới của sự sống đã làm cho lời văn của ông không chỉ
thân quen với ngƣời đọc đƣơng thời mà còn rất gần gũi với độc giả hôm nay.
Sở trƣờng của Vũ Trọng Phụng là khẩu ngữ. Cái "thế mạnh" nay đã
186
làm cho lời văn của ông hài hòa, gần với lời nói tự nhiên. Đây là một trong những yếu tố làm
nên sự mới mẻ, tính hiện đại trong lời văn phóng sự.
Xu hƣớng có tính đặc trƣng của văn xuôi hiện đại là xích gần với ngôn ngữ hàng
ngày, tiếp nhận nhiều yếu tố khẩu ngữ. Trong khi đó chính khẩu ngữ cũng phát triển, nâng
cao và tiến gần đến chuẩn mực của văn viết. Xu hƣớng dân chủ hóa, hiện đại hóa này đƣợc
bắt đầu từ Hồ Biểu Chánh. Tuy là ngƣời có công đầu "làm cách mạng đập vỡ cái khuôn khổ
văn chƣơng đài các (...) đặt vào miệng cái vai truyện của ông những ngôn ngữ đơn sơ, chất
phác..." [103, 567] là tiếng nói tự nhiên, mộc mạc của những ngƣời dân Nam Bộ, nhƣng do
không gọt giũa, không gia công thêm, hoặc gia công không thích ứng nên lời văn của ông
"trơn tuột", "viết nhƣ nói" nói sao viết vậy. Vì thế, Đông Hồ gọi ông là "nhà văn bạch thoại
miền Nam" (Tạp chí Văn số 80, Sài Gòn, 15-4-1967). Chẳng hạn, về từ vụng, trong "Ai làm
dược" và "Một đời tài sắc", Hồ Biểu Chánh dùng từ "cuộc" hết sức gƣợng gạo: "cuộc hung
ác của bà phủ", "cuộc khuẩn bách", "cuộc tu", "cuộc ở", v.v... Hoặc khi dùng khẩu ngữ tả
cảnh trong "Ngọn cỏ gió đùa" (1926), tác giả còn để cho cái thô nhám làm mất vẻ đẹp của
hình ảnh, hình tƣợng. "Gió thổi lai rai, đƣa đẩy mấy chòm lau, bóng giũ phất phơ, cọng ngã
oặt òa oặt oại. Con cò ngà đậu trên nhánh bần rạch, xòe cánh ra phơi; con vịt xiêm mái lội
xuồng mé đƣờng mƣơng kêu con đi rút tép", v.v...
4.3.1. Những từ vựng mới mẻ
Tuy các phóng sự của Vũ Trọng Phụng chỉ ra đời sau những tác phẩm nói trên của Hồ
Biểu Chánh có khoảng mƣời năm, nhƣng về phƣơng diện từ vựng, ngữ pháp và lối tƣ duy...
rất là mới lạ. Từ vựng của họ Vũ rất phong phú rất gợi tả, gợi cảm, chi tiết, có nhiều từ trừu
tƣợng, trí tuệ, đủ sức diễn tả mọi tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời hiện đại. Ngoài vốn từ
khẩu ngữ tự nhiên phong phú đến mức làm độc giả phải ngạc nhiên, trong
187
lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng có khá nhiều từ khẩu ngữ và những từ vụng mới mẻ dùng
để tăng hiệu lực cho việc tả, kể hay bày tỏ sự đánh giá, thể hiện tình cảm, châm biếm, mỉa
mai... Chẳng hạn có những từ, nhƣ: "kỷ lục ngu", "nguội tết", "không lấy thằng nào bền
đƣợc", "nuôi chỉ chờ đến lúc là... quăng cho Tây", "bà ta nghỉ việc - chết! quên "nghỉ chồng",
"cũng đến lệch nghiệp nữa là trần nhƣ bà", "không phải điều luật, đó là điều lệ, "luật cung
không quá luật cầu", "300 lính ít ra cũng phải chế tạo đƣợc 350 me Tây", v.v... Đó là những
từ ngữ còn rất mới mẻ nhƣ từ ngữ của ngày hôm nay, mặc dù nó đã đƣợc viết ra cách đây hai
phần ba thế kỷ. Có những trƣờng hợp họ Vũ còn Việt hóa từ nƣớc ngoài một cách triệt để:
Cảnh sát xướng kỹ (Services de Moeurs) thành "Ban đội con gái" (giống nhƣ cách gọi Nữ
chiến sĩ, Nữ dân quân thành chiến sĩ gái, dân quân gái... thời chống Mỹ)...
Trong Cạm bẫy người và Lục xì, Vũ Trọng Phụng đã cập nhật rất nhiều danh từ khoa
học "giống y" nhƣ các thuật ngữ khoa học của ngày hôm nay: "công trình khoa học", "xƣởng
chế tạo khí giới", "vật lý học", "cơ thể học", "triệu chứng bệnh"... ông dùng cả những từ ngữ
rất mới mẻ nhƣ "cục diện chiến tranh" "đồng chí", "trình độ nhân dân lao động"; dùng cả từ
"khiêu vũ" lẫn "nhảy đầm"; dùng cả từ "ma cô" và sáng tạo thêm từ "ma cậu", v.v... Sự tăng
cường thêm vốn từ vựng mới là dấu hiệu của tính hiện đại trong lời văn phóng sự Vũ Trọng
Phụng.
4.3.2. Câu văn hiện đại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng
Câu văn phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ gồm những kết cấu khẩu ngữ mà còn
gồm những kết cấu câu gọt giũa của văn xuôi hiện đại. Đặc điểm của câu văn xuôi hiện đại là
có độ dài hơn câu khẩu ngữ, các thành phần của câu có quan hệ chặt chẽ, sáng rõ, có hàm
lượng thông tin cao và không gò bó như câu văn biền ngẫu. Thành phần của câu được mởi
188
rộng, nhưng không có sự dư thừa, không vần vè... như câu khẩu ngữ.
Điều này đƣợc thấy rõ trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Ví dụ những câu sau đây:
- "Nhƣng nghĩ đến ngƣời con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi
nghĩ đến ông bố vô lƣơng tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi
không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình nhƣ cũng bốc hỏa lên vậy, dù chẳng giống với toa
xe phun khói lúc rồi sân ga" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 68-69).
- "Bốn chục chiếc xe hơi từ thềm nhà thờ nối nhau một hàng dài vắt qua phố
Lagisquet nhƣ một con rắn bể kỳ quái nằm vƣơn mình: một đám cƣới Tây" (Kỹ nghệ lấy Tây,
Sđd, tr. 13).
- "Chính ra, nó rất nhiều chuyện thƣơng tâm... Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những
nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói lần thứ hai, sau khi bỏ cửa bỏ nhà; nó đã làm cho giá
con ngƣời phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hỏa lò và
một bọn trẻ cái đi làm nghề mãi dâm!" (Cơm thầy cơm cô, Sđd, tr. 19-20).
- "Với cặp kính trắng gọng đồi mồi ấy, với cái cằm có vết râu xanh mà lƣỡi dao cạo
không để cho mọc ra đƣợc, nếu hai má đầy đặn hơn chút nữa thì bác sĩ Joyeux hao hao giống
một tài tử của màn ảnh: Jim Gérald." (Lục xì, Sđd, tr. 84).
- "Nếu đứng giữa, ta nhìn đƣợc khắp xung quanh, đó là một câu phƣơng ngôn Âu
Tây. Tôi xin nói ngay rằng không phải tôi đã đứng giữa huyện đƣờng mà biết đƣợc một
huyện ăn tết" (Một huyện ăn Tết, Sđd, tr. 92).
Trong cả năm thiên phóng sự của họ Vũ, có nhiều câu văn có lối kết cấu kiểu nhƣ
những câu văn ở những thí dụ nói trên.
189
Trong văn phóng sự Vũ Trọng Phụng con có những câu mở rộng với những thành
phần chêm, xen và những câu đảo trật tự một cách linh hoạt. Thí dụ:
- "Các ngài cứ tƣởng tƣợng ra hộ một ông quan to, đứng đầu thủ đô Bắc Kỳ, mà y
phục rất xềnh xoang - áo một màu, quần một màu khác, ca vát cũ kỹ, đôi giày không đánh
kem - (...) có vẻ bình dân cả trăm phần trăm" (Lục xì, Sđd, tr. 112).
- "Đã giới thiệu cùng độc giả ông chúa nghề bịp, tôi lại muốn độc giả làm quen với
một ông chung thân làm "con bò vắt sữa" cho tụi ông Ấm B" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 99).
Câu văn xuôi của Vũ Trọng Phụng, trong phóng sự không chỉ uyển chuyển, đa dạng
nhƣ thế, mà còn có những chỗ, sự liên kết các câu rất tự nhiên và khéo léo tạo nên một lời
văn ít nhiều mang tính đa thanh. Chẳng hạn, đây là đoạn văn kể về "tình cảnh" của con mòng
(kẻ ham mê bài bạc) bị lũ "chuyên gia bạc bịp" bí mật đút bài xuống dƣới chiếu chỗ họ ngồi,
để vu vạ là giấu bài, ăn gian (nhƣ kiểu Xuân Tóc Đỏ bí mật đút truyền đơn vào túi quần, hại
đối thủ quần vợt):
"Mòng bị cả anh anh sừng sộ tái mặt lại, run đây đẩy, nhìn xuống chỗ chiếu mình
ngồi. Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh nào thiêng. Có ông thần nào linh, xin chứng giám cho
nỗi oan này! Mê ngủ hay vẫn thức? Mòng bàng hoàng dụi mắt nhìn, vẫn chƣa túi, lại dụi mắt
lần nữa. Lạ thật! Quái thật! Kỳ thật! Vô phúc thật! Nào mình có giở ngón cờ gian bạc lận ra
bao giờ, cớ sao bài lại thiếu, mà cớ sao ở chỗ chiếu mình ngồi lại có một... hai quân bài nằm
lù lù thế kia" [154, 150-151].
Trong đoạn văn này có ít nhất hai chủ ngôn. Câu đầu và câu thứ 7 (Mòng bàng
hoàng... lần nữa) thuần túy là của người kể chuyện. Còn chủ
190
ngôn của câu thứ hai, thứ ba, tƣ, năm, sáu, tám, chín, mƣời: "Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh
nào thiêng. Có ông thần nào linh (...) Lạ thật! Quái thật! Kỳ thật! Vô phúc thật!..." là của
chính con mòng. Tác giả đã giễu nhại sự hoảng hốt, bàng hoàng của con mòng bị "sa hố"
bằng chính giọng điệu hoảng hốt, thảng thốt của nó. Còn câu cuối cùng ("Nào mình có giở
ngón... thế kia") chủ yếu vẫn là lời của con mòng nhƣng có "pha" lời bình phẩm, giễu cợt của
ngƣời kể chuyện đối với sự thật-thà-dại-dột của họ trƣớc đám bạc bịp đầy thủ đoạn nham
hiểm, quỷ quái.
Theo lý thuyết đa thanh của M. Bakhtin thì đoạn văn trên có sự đa thanh khác hướng.
Sự khác hƣớng thể hiện ở sắc thái mỉa mai, diễu nhại trong lời kể. Trong phóng sự của Vũ
Trọng Phụng có một số lời văn đƣợc tổ chức kiểu nhƣ thế.
Hình thức hiện đại của lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng hàm chứa trong nó một tinh
thần tƣ duy mới mẻ, hiện đại. Thực ra, chính cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn hiện đại đã chi
phối cách chọn từ, phối ý, cách diễn đạt trong lời văn. Chẳng hạn, đây là lối tả rất là mới mẻ:
"Đúng 6 giờ. Một hồi còi... Mƣời toa tầu lù tiến đến sân ga, nhả ra độ mƣời ngƣời
khách." (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 27).
Hoặc đây là lời "tự kể" của gã lính lê dƣơng cỡ "cự môn thê thiếp" nuối tiếc cô vợ
ngƣời Việt thứ tƣ mà gã đã bỏ:
"Chúng tôi hợp nhau. Không phải hợp nhau về tinh thần, đã không cùng một thứ lƣỡi
thì hiểu nhau làm sao đƣợc...? Nhƣng nó hợp tôi về... xác thịt. Bây giờ bỏ rồi, tôi lại tiếc.
Không thể nào lại còn tìm đƣợc một ngƣời đàn bà thứ hai có cái thân thể bốc lửa ngùn ngụt
đến thế nữa" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđđ, tr. 25).
Trong đoạn văn trên, từ cách ngắt câu, nhả giọng, lựa chọn, sử dụng
191
từ ngữ, đến cách diễn đạt hiện đại "thân thể bốc lửa ngùn ngụt" đã làm cho lời văn mới mẻ
ngay cả với đời sống ngôn ngữ hôm nay.
Ngay cả cái tiêu đề Kỹ nghệ lấy Tây cũng đã thể hiện một lối tƣ duy mang tính truyền
thống và hiện đại. Bằng cách sử dụng lối ví von truyền thống, họ Vũ đã liên hệ, so sánh giữa
"kỹ nghệ", một danh từ khoa học mói mẻ của thời đó (năm 1907 Pháp cho thành lập Công ty
kỹ nghệ và Thương mại Trung kỳ (Société Industrielle et Commerciale d'Annam) và năm
1932 lần đầu tiên từ "kỹ nghệ" xuất hiện trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), với sự
"lành nghề" của "công việc" lấy Tây và rút ra sự giống nhau giữa hai hiện tƣợng. Đó là sự
tinh vi, thiện nghệ. Dựa vào sự tƣơng đồng này, tác giả đã "thiết lập" đƣợc mối quan hệ giữa
hai hiện tƣợng vốn chẳng có mối liên hệ gì với nhau để hình thành nên cái tiêu đề độc đáo.
Đây là cách nói "trệch chuẩn" sáng tạo, gây đƣợc ấn tƣợng mạnh, vì nó lột tả đƣợc bản chất
của hiện tƣợng "lấy Tây" vì tiền, vừa nói đƣợc cái bi, hài của một "nghề nghiệp" quái gở thời
thuộc địa. Vũ Trọng Phụng cũng không lấy tiêu đề "Đi ở" mà dùng thanh ngữ Cơm thầy cơm
cô đặt cho thiên phóng sự, vì thanh ngữ này rất giàu tính hình tƣợng: gợi đƣợc sự cù bất cù
bơ, nhếch nhác, hèn mọn, luôn phải "hãi ngƣời cho ở, sợ ngƣời cho ăn" của cái kiếp tôi đồi,
khốn khổ... Tiêu đề Cạm bẫy người cũng có sức tạo hình mạnh mẽ, diễn tả đƣợc sự ác hiểm,
nguy hại của tệ cờ gian bạc bịp, nhƣ những chiếc bẫy, cái cạm đã giƣơng sẵn, chỉ chờ "nuốt
sống" những con ngƣời.
Tính hiện đại trong lời văn, câu văn của phóng sự Vũ Trọng Phụng là kết quả của sự
nâng cao lối diễn đạt truyền thống: dùng các phƣơng tiện khẩu ngữ và những biện pháp tu từ
để miêu tả hành động, sự việc, sự vật, tính cách ở độ đỉnh điểm của nó. Không chỉ phát huy
lối diễn đạt truyền thống, Vũ Trọng Phụng còn tiếp thu một cách sáng tạo lối diễn đạti
192
của câu văn Pháp, tạo nên tính trong sáng, rõ ràng, chính xác trong lời văn, câu văn của các
thiên phóng sự.
4.3.3. Những hạn chế trong lời văn phóng sự
Tính truyền thống và hiện đại của lời văn phóng sự là một trong những yếu tố quan
trọng tạo cho tác phẩm của Vũ Trọng Phụng có sức vƣợt thời gian. Tuy vậy, ở một vài trƣờng
hợp, lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã bộc lộc một số hạn chế của nó.
Tiếp thu vốn diễn đạt truyền thống, bằng cách dùng các phƣơng tiện khẩu ngữ và các
biện pháp tu từ, Vũ Trọng Phụng đã tạo đƣợc một lời văn giàu chất khẩu ngữ giàu hình tƣợng
và giàu hàm ẩn. Nhƣng có chỗ, họ Vũ dã dùng lối diễn đạt bình dân để châm biếm bình dân.
Điều này thể hiện rõ khi ông dùng những từ trong câu: "Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn
ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái phía bên này" [155, 12]. Có những khi,
khẩu ngữ tự nhiên đƣợc họ Vũ dùng phô diễn quá mạnh trong trƣờng hợp ông viết về cái
dâm. Chẳng hạn trong lời bình luận: "Thật rõ lôi thôi là cái sự ngứa ngáy xác thịt của loài
ngƣời. Nó đã làm rầy rà biết bao nhiêu ngƣời" [155, 94]. Hoặc khi mô tả hậu quả của sự kích
dâm của con sen Đũi, họ Vũ viết: "Bà chủ có cô con gái dậy thì, mới 13 tuổi, nhƣng mà lửa
tình bốc sớm, lức nào cũng lồng lộn như đồ đĩ rạc" [155 -35]. Tuy nghệ thuật khoa trƣơng
của ông không nhằm mục đích thổi phồng, xuyên tạc sự thật, nhƣng có khi, cũng do phô diễn
quá mạnh nên cứ nhƣ là sự ngoa ngôn. Điều nay thể hiện ở việc ông miêu tả đến mức quá chi
li cảnh cậu con trai bà chủ nhìn thấy "hai cái đùi non trắng hếu của con sen, lại phô ra nhƣ
đấu xảo! Từ đêm ấy trở đi có đêm cậu đi tiểu đến tám mươi nhăm lần. Đến lần thứ tám mươi
sáu, cậu vừa nhìn thở, rón rén để tay vào một cái đùi non..." [155, 35]. Có thể khi mô tả nhƣ
vậy, tác giả chỉ cốt để người đọc tin vào điều ông muốn nói lên chứ không phải là điều ông
kể,
193
nhƣng dù sao, sự ngoa ngôn không thích hợp đối với thể phóng sự. Sự tô đậm mức độ của cái
dâm nhƣ "lồng lộn lên như đồ đĩ rạc", "ngứa ngáy xác thịt" và sự chi li trong mô tả nhƣ trên
dễ bị hiểu là ngồi bút đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên, do chịu ảnh hƣởng của học thuyết tính
dục của Freud...
Vũ Trọng Phụng đã tiếp thu cái sáng sủa, chính xác, rõ ràng của câu văn và lối diễn
đạt của văn Pháp, nhƣng có những chỗ câu văn còn "nệ" Tây nên lời văn có phần kiểu cách,
gượng gạo. Thí dụ:
- "Chỉ biết không theo học đƣợc nữa thì hai ngƣời vào làm cho một hiệu mũ áo ở Hà
Nội do một bà đầm chủ trương" [157, 64].
- "Tôi cũng phải dùng luồng nhỡn tuyến có ngụ ý cảm thương ra yêu cầu... Chỉ trù
trừ ít lâu" [157, 65].
- "Cụ Phán cúi đầu, nhìn tôi một cách trông buồn cười là phóng đôi nhỡn tuyến lên
bên trên đôi mắt kính" [154, 190].
- "Cuộc gặp gỡ của chủ với khách bắt đầu gắn bó bằng một bữa cơm bừa bộn những
thịnh soạn" [154, 28].
Theo chúng tôi, sự phô diễn cực mạnh bằng khẩu ngữ đến mức làm cho lời văn sỗ
sàng, sự khoa trƣơng ở những câu văn nói trên và những câu văn "nệ" Tây, không góp phần
làm đẹp cho lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng.
Qua khảo sát đặc điểm lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi xin có mấy
điểm kết luận:
Bằng sự điêu luyện và sáng tạo trong việc sử dụng khẩu ngữ tự nhiên và các biện
pháp tu từ, bằng sự thâu thái nhũng yếu tố tích cực của văn chƣơng Pháp hiện đại, Vũ Trọng
Phụng đã tạo ra một lối phô diễn cực mạnh trong một lời văn sáng rõ. Lời văn của ông chỉ
cốt áp sát cuộc sống, phanh phui "sự thật ở đời", đi thẳng vào bản thể của đối tượng. Nhìn
khái quát,
194
lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng vừa mang tính truyền thông, vừa mang tính hiện đại. Đọc
phóng sự Vũ Trọng Phụng có thể thấy phảng phất lời văn tả thực của Nguyễn Du, Hồ Xuân
Hƣơng, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng... Lời văn của họ Vũ rất gần gũi với lời nói hàng ngày và
lại có những kiểu câu rất mới so với những kiểu câu khẩu ngữ. Lời văn phóng sự của Vũ
Trọng Phụng không chỉ tiêu biểu cho lối diễn đạt đƣơng thời, mà còn thể hiện khuynh hƣớng
diễn đạt của những năm sau. Có thể nói Vũ Trọng Phụng là một trong những người mở
đường trong việc xây dựng lời văn xuôi hiện đại. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh
ngôn ngữ văn học vừa thoát ra khỏi những ràng buộc, khuôn sáo của văn học Trung đại.
KẾT LUẬN
1. Thời kỳ mới trong việc tiếp thu di sản văn học của Vũ Trọng Phụng đòi hỏi một cái
nhìn bao quát cả mảng thành tựu phóng sự của ông. Việc khảo sát đặc điểm thể loại phóng sự
của Vũ Trọng Phụng, tìm hiểu giá trị và những hạn chế của nó có ý nghĩa đối với thực tiễn
sáng tác hiện nay của thể phóng sự.
Suốt hơn một nửa thế kỷ vừa qua, lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng đã diễn ra
rất sôi nổi và không tách rời lịch sử vấn đề Vũ Trọng Phụng. Trong đó, những ý kiến ca ngợi
một chiều và những ý kiến phủ định sạch trơn dần dần nhƣờng chỗ cho sự đánh giá khách
quan, vừa khẳng định những đóng góp của ông, đồng thời cũng chỉ ra những mặt hạn chế
lệch lạc của "ông vua phóng sự".
2. Phóng sự là thể "tân văn" của văn xuôi trong quá trình hiện đại
195
hóa văn học dân tộc ở những thập niên đầu thế kỷ. Bằng việc học tập kinh nghiệm sáng tác
của nƣớc ngoài, bằng quá trình sáng tạo, Vũ Trọng Phụng cùng các nhà văn viết phóng sự
thời "tiền chiến" đã tạo đƣợc một thành tựu sáng tác phong phú, làm giàu cho văn học dân
tộc, góp phần đƣa nền văn học đi vào quỹ đạo hiện đại. Bằng chính sáng tác và sự khảo cứu,
các nhà sáng tác, nghiên cứu, phê bình Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng đƣợc một hệ thống
quan niệm và lý luận về thể phóng sự. Từ chỗ quan niệm phóng sự là một thể "đứng giữa văn
học và báo chí", lý luận văn học và lý luận báo chí đã đi đến quan niệm rạch ròi hơn, cụ thể
hơn: Phóng sự là một "thể ký trong báo chí và văn học" (Hà Minh Đức). Giữa phóng sự báo
chí và phóng sự văn học tuy có sự khác biệt về mức độ xác thực và tính thoi sự của sự phản
ánh, về cái Tôi trần thuật, về ngôn ngữ, v.v... nhƣng có sự giống nhau về căn bản. Đó là phải
lấy người thật việc thật làm đối tượng phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng
miêu tả.
Trƣớc nhu cầu của xã hội và sự trƣởng thành của ngành báo chí, sự phát triển của văn
hóa, văn học, ảnh hƣởng của các phóng sự nƣớc ngoài.... đầu thập niên ba mƣơi, thể phóng sự
ở Việt Nam chính thức đƣợc hình thành. Điểm độc đáo là ngay từ đầu đã có phóng sự văn
học (Tôi kéo xe của Tam Lang, 1932) va chỉ trong khoảng 15 năm thể phóng sự đã phát triển
mạnh mẽ, đạt đƣợc thành tựu phong phú, với nhiều tác phẩm độc đáo và hàng loạt cây bút có
tên tuổi. Thể phóng sự đã góp phần làm hiện đại hóa diện mạo văn xuôi hiện đại.
Do sự nhận thức lệch lạc về chức năng xã hội và văn học... của thể phóng sự, từ năm
1946 đến những năm bảy mƣơi, thể phóng sự đã bị chìm vào quên lãng. Nhƣng kể từ thập
niên tám mƣơi, công cuộc đổi mới đã giúp thể vãn nay hồi sinh và ngày càng phát huy đƣợc
vai trò xung kích của mình trên mặt trận báo chí và văn học, góp phần vào sự nghiệp xây
196
đó. Ẩn dƣới cái nhìn cay nghiệt, chửi đời, giận đời, cƣời đời là nỗi đau đời, thƣơng đời và
niềm mong muốn con người thực sự trở thành con người, với những phẩm chất ngƣời vốn có
của nó. Tuy nhiên, trong phóng sự của mình, họ Vũ đã bộc lộ ra những điều hạn chế, bất cập
và những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Điều này đƣợc thể hiện rõ ở sự mơ hồ, lệch lạc về nhận
thức chính trị (ví Stalin với Trùm Ấm B...); ở sự bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh thần
của con ngƣời, không đặt niềm tin vào quần chúng lao khổ; ở sự giải thích cái dâm và nạn
mại dâm; ở lối mô tả một số nhân vật bằng một bút pháp có pha màu sắc tự nhiên chủ nghĩa.
4. Sự "sắc sảo, khôn ngoan" trong cách làm phóng sự của họ Vũ biểu hiện ở nghệ
thuật khám phá hiện thực. Việc tiếp cận hiện thực với những điểm nhìn khác nhau là một
hình thức thay đổi hệ quy chiếu để nhận thức hiện thực sâu sắc hơn. Vũ Trọng Phụng còn rất
tinh tế trong việc "tuyển chọn" những khía cạnh quan trọng, những hiện tƣợng tiêu biểu của
thực tại; sáng tạo trong việc khai thác tƣ liệu; nhanh nhạy nắm bắt thông tin. Ngoài ra, ông
còn dùng tƣởng tƣợng và hƣ cấu làm sống dậy những tƣ liệu gián tiếp. Sự "sắc sảo, khôn
ngoan" trong cách làm phóng sự của họ Vũ còn ở chỗ, ông đã dẫn truyền chất tiểu thuyết vào
nghệ thuật phóng sự. Trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, ngoài những tƣ liệu về ngƣời
thực, việc thực còn cả một thế giới nhân vật sống động, có tính cách, số phận, một số nhân
vật mang dáng dấp của điển hình như trong tiểu thuyết. Do đặt vấn đề cá nhân và những vấn
đề xã hội vào tầm quan sát và thể hiện nên các phóng sự của ông có một chủ đề phức hợp, có
hướng vươn tới tầm khái quát của tác phẩm tiểu thuyết. Tính tiểu thuyết còn bộc lộ ở sự biến
hóa trong kết cấu và ở lối thuật kể. Trong phóng sự của họ Vũ, cái Tôi -ngƣời kể chuyện luôn
bao hàm trong nó cả cái Tôi nhân chứng và cái Tôi thẩm mỹ. Đây là dạng cái Tôi đa năng,
khi thì đƣợc nhân vật hóa, thâm
198
nhập sâu vào thế giới nhân vật, khi lại đứng tách ra khỏi quần thể nhân vật để nhận xét, luận
bàn. Sự di chuyển điểm nhìn của cái Tôi ngƣời kể chuyện cho một số nhân vật "tự kể" đã
chuyển sự quan sát bên ngoài vào sự thể hiện bên trong, đã tạo yếu tố nền cho lối cấu trúc
biến hóa và sự linh hoạt, hấp dẫn trong thuật kể. Sự đặc sắc trong nghệ thuật phóng sự Vũ
Trọng Phụng còn thể hiện ở nghệ thuật trào phúng. Họ Vũ đã tạo nên dạng nhân vật hài
hƣớc, biếm họa; tài tình trong việc tổ chức những tình huống trào phúng; dùng lối văn giễu
nhại để châm biếm, mỉa mai những cái xấu xa, kệch cỡm, đáng cƣời...
5. Những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng đƣợc thể
hiện bằng một lời văn giàu chất khẩu ngữ, một lời văn đa giọng điệu; một lời văn mang tính
truyền thống và hiện đại. Trong lời văn phóng sự của mình, họ Vũ đã thể hiện sự điêu luyện
trong việc sử dụng khẩu ngữ và các biện pháp chuyển nghĩa. Ông đã sử dụng thành thạo mọi
loại khẩu ngữ của đủ mọi hạng ngƣời mà ông mô tả. Những biện pháp chuyển nghĩa nhƣ so
sánh, tƣơng phản... đều mang màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính. Đó là phƣơng
tiện rất đắc dụng để ông xây dựng một lời văn có lối diễn đạt cực mạnh, đi thẳng vào cái bản
thể, cái "lõi" của sự vật, hiện tƣợng, bắt nó phải hiện ra một cách trần trụi, nguyên hình, nhằm
xét toạc những bức màn giả dối, phanh phui bản chất xấu xa của xã hội đƣơng thời. Lời văn
phóng sự âm vang nhiều giọng điệu: giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện; giọng điệu
của cái Tôi - tác giả; giọng điệu của một thế giới nhân vật đầy sôi động, nhƣ chính cuộc
sống... Giọng điệu của cái Tôi - tác giả, cái Tôi - ngƣời kể chuyện chứa đầy "cảm xúc đối
nghịch", với nhiều cung bậc thể hiện "sự nhức nhối của trí tuệ" hòa cùng giọng điệu căm đời,
hận đời, muốn trả thù đời... của quần thể nhân vật tạo thành một âm thanh sôi động những
tiếng rên xiết, vật vã, đau đớn,
199
xót xa, cay đắng, mỉa mai, uất hận... đối với cái thực trạng đầy đen tối, bất công, chà đạp và
làm tha hóa con ngƣời. Một xã hội mà con ngƣời không còn chịu đựng nổi tất yếu phải bị phá
bỏ.
Lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng vừa mang tính truyền thống lại mang tính hiện
đại, vì họ Vũ đã kế thừa lối diễn đạt bình dân truyền thống và thâu thái đƣợc lối phô diễn cực
mạnh của Hồ Xuân Hƣơng, Tú Xƣơng... Lời văn của ông chỉ cốt tiếp cận trực diện với hiện
thực, đi thẳng vào bản thể của đối tƣợng. Ông lại biết tiếp thu những yếu tố tích cực của ngôn
ngữ nƣớc ngoài (đặc biệt là ngôn ngữ văn chƣơng Pháp hiện đại) để tạo ra một lời văn trong
sáng, rõ ràng, chính xác. Ông xứng đáng là một trong những ngƣời mở đƣờng cho việc xây
dựng lời văn xuôi hiện đại và khuynh hƣớng diễn đạt của những năm sau. Tuy nhiên, họ Vũ
còn để lại trong lời văn phóng sự của mình một số "hạt sạn". Đó là những câu văn sống
sƣợng hoặc lối diễn đạt cầu kì, gƣợng gạo...
Vói mong muốn đem lại một cái nhìn bao quát, Luận án này đã tiến hành khảo sát đặc
điểm phóng sự Vũ Trọng Phụng trên cả bình diện nội dung, nghệ thuật và lời văn. Tuy nhiên,
sự tiếp cận này chỉ là một sự thử nghiệm và những đặc điểm đƣợc trình bày cũng chỉ là những
kết quả bước đầu.
Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, cái thực dụng hòa quyện với cái thẩm mĩ đã đem
lại tính thông tin đậm đặc và chất văn học đậm đà; nhân cách nhà báo hòa chung vói nhân
cách nhà văn trong cùng một chủ thể sáng tạo. Giá trị nhiều mặt của phóng sự Vũ Trọng
Phụng, không chỉ có ý nghĩa đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà cồn có ý nghĩa
với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá toàn diện di sản
phóng sự của họ Vũ, có thể cần đến một lối tiếp cận liên ngành, giữa văn học, ngôn ngữ học,
báo chí, sử học, dân tộc học và xã hội học...
200
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển (Giản yếu) Trƣờng Thi xuất bản, SG, 1957.
2. Tràng An-Lệ chi-Đuốc Nhà Nam, Dứt tình với làng văn, Tao Đàn, Số đặc biệt, HN,
12/1939.
3. M. Arnaudop, Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học, HN, 1978.
4. Lại Nguyên Ân (biên soạn), Vũ Trọng Phụng - tài năng và sự thật, NXB Hội nhà văn, HN,
1992.
5. Ban văn học Hội Khai Trí Tiến Đức (khởi thảo), Việt Nam tự điển, Trung Bắc Tân Văn,
HN, 1931.
6. M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa Thông tin và Thể thao - Trƣờng
viết văn Nguyễn Du, HN, 1992.
7. M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, HN, 1993.
8. S. Barnet - M. Berman - W. Burto, Nhập môn văn học, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, HN,
1992.
9. Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, Phạm Quang Khai xuất bản, SG, 1969.
10. Vũ Bằng, Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học SG, số 114, ngày
15/10/1970.
11. Vũ Bằng, Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng (Lời đề tựa tiểu thuyết Lấy nhau vì tình) Tạp chí văn
học, số 94, SG, ngay 1/10/1969.
201
12. Vũ Bằng, Những cây cười tiền chiến, SG, 1971.
13. Vũ Bằng, Tôi, thằng vô lại, Tạp chí văn học, SG, số 94,1/10/1969.
14. Nguyễn Duy Bình, Trao đổi về "Mấy vấn đề về văn học hiện thực phê phán", Tạp chí văn
học, HN, 11/1964.
15. IV. Borep, Mỹ học - NXB Chính trị Maxcova (tƣ liệu Trƣờng ĐHSP Ha Nội 1).
16. Thiết Can, Ngày xuân nhớ bạn cũ, báo Chuông Mai, Xuân Canh Tý, SG, 1960.
17. Nam Cao, Tác phẩm, Tập 1-2 (Hà Minh Đức sƣu tầm giới thiệu), NXB Văn học, HN,
1976.
18. Huệ Chi - Phong Lê, Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930-1945 nhân đọc cuốn "Lược
thảo lịch sử văn học Việt Nam" của nhóm Lê Quý Đôn, Tạp chí văn học, HN, 5/1960.
19. Nguyễn Đình Chú, Cần nhận thức dùng thời kỳ văn học 1930-1945, báo Giáo viên nhân
dân, các số 27-28-29-30-31, tháng 7/1989.
20. Nguyễn Đình Chú, Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20-1945, (Tài liệu bồi
dƣỡng môn Văn lớp 11), Vụ giáo viên, HN, 1991.
21. Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Trọng Phụng, một giàu có, một thiệt hại của văn chương chúng
ta, Tạp chí văn học, SG, số 67, năm 1966.
22. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quốc âm tự vị, Imprimerie Rey, curiol, SG, 1895.
23. Nguyễn Đức Dân, Lôgích và tiếng Việt, NXB Giáo dục, TP HCM, 1998.
24. Nguyễn Đức Dân (chủ biên) Tiếng cười thế giới, NXB Khoa học xã hội, HN, 1979.
202
25. Nguyễn Duy Diễn, Vũ Trọng Phụng, nhà văn tả chân bất hủ, Tạp chí văn học, số 94, SG,
ngày 5/8/1965.
26. Lê Tiến Dũng, Vũ Trọng Phụng và nỗi trăn trở về nghĩa lí cuộc đời, báo Văn nghệ T.P
Hồ Chí Minh, số 22-28/10/1992
27. Lê Tiến Dũng, Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tổng hợp Sông Bé, 1991.
28. Đức Dũng, Các thể ký báo chí, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1996.
29. Nguyễn Hữu Dụng, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 44, ngày
5/8/1966.
30. Nguyễn Đức Đàn - Phan Cự Đệ, Ngô Tất Tố, NXB Văn hóa, HN, 1962.
31. Nguyễn Đức Đàn, Bàn uể một số dặc trung của khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa trong
văn học Việt Nam trước cách mạng, Tạp chí văn học số 9, HN, 9/1966.
32. Nguyễn Đức Đàn, Bàn về trường hợp Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, HN, 1/1972.
33. Nguyễn Đức Đàn, Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Văn học, HN,
1964.
34. Nguyễn Đức Đàn, Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Khoa học xã
hội, HN, 1968.
35. Phùng Tất Đắc, Kỹ nghệ lấy Tây, (Bài tựa), NXB Hà Nội, 1989.
36. Phan Cự Đệ - Hà Văn Đức - Nguyễn Hoành Khung, Văn học Việt Nam, (1930-1945) Tập
1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1988.
37. Phan Cự Đệ (chủ biên) - Nguyễn Hoành Khung - Trần Hữu Tá,
203
Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A, NXB Khoa học xã hội, HN, 1988.
38. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, HN, 1978.
39. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Giáo dục, HN, 1997.
40. Phan Cự Đệ, Vấn đề Vũ Trọng Phụng - Văn học Việt Nam 1930-1945, tập 2, NXB Giáo
dục, HN, 1961.
41. Phan Cự Đệ, Những đặc trưng thẩm mỹ của ngôn ngữ tiểu thuyết, Tạp chí ngôn ngữ, số 1,
HN, 1974.
42. Nguyễn Kim Đính, Một số vấn đề thi pháp của nghệ thuật ngôn từ, Tạp chí Văn học, số
5-6/1985.
43. N. Đuytơre, Bàn về văn học phóng sự, báo Văn nghệ (Hà Nội) số 21, ngày 26 tháng
5.1990.
44. Hà Minh Đức, Tác phẩm văn học, NXB Giáo dục, HN, 1962.
45. Hà Minh Đức, Loại thể văn học, NXB Giáo dục, HN, 1962.
46. Hà Minh Đức - Phan Cự Đệ, Nhà văn Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, HN, 1979.
47. Hà Minh Đức, Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, NXB
Quân đội nhân dân, HN, 1980.
48. Hà Minh Đức, Nam Cao - đời văn và tác phẩm, NXB Văn học, HN, 1997.
49. Hà Minh Đức (chủ biên) Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB
Chính trị quốc gia, HN, 1990.
50. Hà Minh Đức (chủ biên) Báo chí, những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 1 và 2, NXB
Giáo dục, 1996.
204
51. Hà Minh Đức (chủ biên) Lý luận văn học (Tái bản), NXB Giáo dục, HN, 1995.
52. Hà Minh Đức, Khảo luận văn chương (Thể loại -tác giả), NXB Khoa học xã hội, HN,
1998.
53. I.R. Galperin, Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, NXB Khoa
học xã hội, HN, 1987.
53. Ngọc Giao, Đốt lò hương cũ - Vũ Trọng Phụng, báo Mới, Xuân Quý Tỵ, HN, ngày 9
tháng 1 năm 1953.
54. Ngọc Giao, Đôi điều tôi biết về Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 5,HN, 1989.
55. Trần Văn Giàu (chủ biên) Lịch sử Việt Nam cận đại, tập 3, NXB Giáo dục, HN, 1960.
56. Trần Văn Giàu (chủ biên) Lịch sử Việt Nam cận đại, tập 4 (1919-1930), NXB Giáo dục,
HN, 1963.
57. M. Gorki, Bàn về văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1982.
58. N.A. Gulaiep, Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1982.
59. Dƣơng Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, HN, 1941.
60. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Giáo dục, HN, 1992.
61. Lê Thịu Đức Hạnh, Nhìn lại việc đánh giá Vũ Trọng Phụng, suy nghĩ về vấn đề đổi mới tư
duy trong nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học số 1, HN, 1989.
62. Lê Thị Đức Hạnh, Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, NXB Khoa học xã hội, HN,
1979.
205
64. Lê Thị Đức Hạnh, Lời bạt (tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng), NXB Hội nhà văn, HN,
1996.
65. Nguyễn Văn Hạnh, về nội dung khái niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn học, Tạp chí văn
học, số 1, 1987.
66. Nguyễn Văn Hạnh, Suy nghĩ về văn học, NXB Văn học, HN, 1979.
67. Nguyễn Văn Hanh, Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ thuật, Tạp chí
văn học, số 2, 1987.
68. Nguyễn Văn Hạnh, Về bản chất của văn chương, báo Văn nghệ, số 27, ngày 4 tháng 7
năm 1998.
69. Nguyễn Văn Hạnh, Hai hướng tiếp cận lớn đối với văn học, Mấy vấn đề về ngôn ngữ và
văn học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1977.
70. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Nhƣ Phƣơng, Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo
dục, TP HCM, 1995.
71. Nguyễn Văn Hạnh, về thi pháp và thi pháp học, Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn học,
NXB Khoa học xã hội, 1997.
72. G.F. Hêghen, Mỹ học tập 1A, tai liệu của Viện văn học, HN, 1973.
73. Hoàng Ngọc Hiến, Chủ nghĩa hiện thực và chả nghĩa nhân dạo, Văn học - học văn,
Trƣờng viết văn Nguyễn Du, 1990.
74. Hoàng Ngọc Hiến, Năm bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, HN, 1997.
75. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học - học văn, Trƣờng CĐSP TP. Hồ Chí Minh - Trƣờng viết văn
Nguyễn Du, TP HCM, 1990.
76. Hoàng Ngọc Hiến, Tăng cường tính chính xác trong nghiên cứa văn học, Các vấn đề của
khoa học văn học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1990.
206
77. Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội -Nhà xuất bản Mũi Cà
Mau, 1993
78. Đỗ Đức Hiểu, Những nguyên lý mỹ học của chủ nghĩa tự nhiên, Thông báo khoa học, tập
1, Đại học tổng hợp, Hà Nội, NXB Giáo dục, HN, 1962.
79. Nguyễn Công Hoan, Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, HN, 1971.
80. Hội thảo khoa học tại Hà Nội, kỷ niệm 50 năm ngày mất của Vũ Trọng Phụng (gồm 21
tham luận) tháng 10/1989.
81. Hội thảo khoa học tại TP. Hồ Chí Minh, kỷ niệm 75 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng
(gồm 8 tham luận) tháng 12/1987.
82. Hội thảo khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh, kỷ niệm 80 năm ngày sinh Vũ Trọng
Phụng (tháng 3-1992) có 25 tham luận.
83. Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng và những tác phẩm của anh (giới thiệu Giông tố), NXB
Văn nghệ, Hà Nội, 1970.
84. Đinh Hùng, Nhớ Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 44, SG, 1965.
85. Lan Khai, Vũ Trọng Phụng - mớ tài liệu cho văn sử Việt Nam, NXB Minh Phƣơng, HN,
1941.
86. Tràng Khanh - Việt Sinh, Hà Nội ban đêm, Ngày nay, HN, 1936.
87. M.B. Khrapchenco, Cá tính sáng tạo và sự phát triển của văn học, NXB Tác phẩm mới,
HN, 1978.
88. Phan Khôi, Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng, Vũ Trọng Phụng với
chúng ta, Minh Đức xuất bản, HN, tháng 10/1956.
89. Nguyễn Hoành Khung - Lại Nguyên Ân, Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm, NXB
Hội nhà văn, HN, 1994.
207
90. Nguyễn Hoành Khung, Giông tố, Từ điển văn học, tập 1, NXB Khoa học xã hội, HN,
1984.
91. Nguyễn Hoành Khung, Số đỏ, Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984.
92. Nguyễn Hoành Khung, Vấn đề Vũ Trọng Phụng qua những bước thăng trầm, báo Giáo
viên nhàn dân, số 27-28-29-30-31, tháng 7-1989.
93. Nguyễn Hoành Khung, Vũ Trọng Phụng (Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập 1),
NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1988.
94. Nguyễn Hoành Khung, Vũ Trọng Phụng, Từ điển văn học tập 2, NXB Khoa học xã hội,
HN, 1984.
95. Lê Trang Kiều, Viết về Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 94, ngày 1 tháng 10, 1969
(SG).
96. Lê Đình Ky, Vấn đề đánh giá văn học Việt Nam 1932-1945 và đánh giá Vũ Trọng Phụng,
Tạp chí văn học, số 6, 1992.
97. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục, HN, 1994.
98. Hoài Lam, Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin, NXB Sách giáo khoa Mác-Lênin, HN, 1984.
99. Hoài Lam, Tìm hiểu mỹ học Mác-Lênin, NXB Văn hóa, HN, 1973.
100. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục, HN,
1998.
101. Tam Lang - Trọng Lang - Hoàng Đạo, Phóng sự chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, HN,
1995.
102. Tam Lang, Tôi kéo xe, NXB Đất mới, SG, 1974.
208
103. Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Ba thế hệ của nền văn học mới,
Trình bày, SG, 1967.
104. Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, tập I, NXB Văn học -Hội NCVGDVHTP. Hồ
Chí Minh, 1995.
105. Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, tập III, NXB Văn học - Hội NCVGDVHTP.
Hồ Chí Minh, 1995.
106. Thanh Lãng, Phê bình văn học thế hệ 1932-1945, NXB Khai Trí, SG, 1972.
107. Nguyễn Đình Lạp, Ngõ hẻm, NXB Văn học, HN, 1990.
108. Nguyễn Đình Lạp, Ngoại ô, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1997.
109. Nguyễn Đình Lạp, Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, HN, 1995.
110. Phong Lê, 50 năm ngày mất của Vũ Trọng Phụng trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta,
Tạp chí văn học, số 2 năm 1990.
111. V.I.Lênin, Bàn về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1960.
112. Vũ Đình Liên - Đỗ Đức Hiểu - Lê Trí Viễn - Huỳnh Lý - Trƣờng Chính - Lê Thƣớc,
Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, NXB Xây dựng, HN, 1957.
113. Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng - hiện diện cần thiết cho xã hội ngày nay, Tạp chí
văn học (SG) số 44 ngày 15/8/1965.
114. Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam - Thành Thế Thái Bình, Lý luận văn học, tập 3, NXB
Giáo dục, HN, 1988.
115. Phƣơng Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà, Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, HN,
1987.
116. Phƣơng Lựu, Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại,
209
NXB Văn học, HN, 1995.
117. Phƣơng Lựu, Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, HN, 1997.
118. Phƣơng Lựu, Lỗ Tấn, nhà lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
HN, 1997.
119. Phƣơng Lựu, Khơi dòng lý thuyết, NXB Hội nha văn, HN, 1997.
120. Huỳnh Lý - Hoàng Dung - Nguyễn Hoành Khung - Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Trác,
Lịch sử văn học Việt Nam, tập V, 1930-1945 (phần I), NXB Giáo dục, HN, 1973.
121. C. Mác - F. Ănghen - V.I.Lênin, Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1958.
122. Hoàng Nhƣ Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, TP HCM, 1999.
123. Hoàng Nhƣ Mai, Nụ cười ấy khổ đau hơn tiếng khóc, Tuổi trẻ chủ nhật, số 41, tháng
10.1989.
124. Hoàng Nhƣ Mai, Nhà văn Vũ Trọng Phụng và cái thời thuộc Pháp (Bài đề dẫn cho Hội
nghị khoa học kỷ niêm 75 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng, tại TP Hồ Chí Minh tháng
12.1987).
125. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, HN, 1979.
126. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục,
1994.
127. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứa tác giả văn học, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà
Nội 1, tháng 12.1993.
128. Nguyễn Đăng Mạnh, Lòi giói thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, NXB Văn học,
HN, 1987.
210
129. Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Trọng Phụng, "Ông vua phóng sự" – Lời giới thiệu phóng sự
Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội, 1989.
130. Nam Mộc, Thể ký và vấn dề viết về người thật, việc thật, Tạp chí văn học, sô 6 năm
1967.
131. Nguyên Ngọc, Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí
văn học, (Hà Nội) số 4.1991.
132. Phan Nguyên, Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng và xã hội nô lệ, Văn học (Sài Gòn) số 18
năm 1962.
133. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thƣ, SG,
1961.
134. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn), Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, HN,
1996.
135. Vƣơng Trí Nhàn, Một lớp người thành thị, một kiểu nhà văn: trường hợp Vũ Trọng
Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 2.1990.
136. Hoàng Nhân, Ảnh hưởng của văn học Pháp qua một số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng,
Tạp chí văn học (Hà Nội) số 2.1988.
137. Huỳnh Dũng Nhân, Ăn tết trong rừng chó sói (Tập phóng sự), NXB Lao động, TP
HCM, 1995.
138. Nhiều tác giả, Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam xuất bản,
HN, 1992.
139. A. Pazzi, Người Việt cao quý, NXB Kiến thức thời đại, SG, 1965.
140. X.M. Pêtơrốp, Chủ nghĩa hiện thực phê phán, NXB Đại học và Trung học chuyên
nghiệp, HN, 1986.
141. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập Một, NXB Khoa học xã hội, HN, 1989.
211
142. Thế Phong, Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang, NXB Văn hóa thông tin, TP
HCM, 1996.
143. Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930-1945, Vàng son, SG,
15.8.1974.
144. Phóng sự L'Hebdomadaire du Reportage (Sài Gòn) số 1 ra ngày 10 Novembre 1938, số
cuối ngay 16 Mars 1940. Chủ nhiệm: Công Minh (Nguyễn Trƣờng Thế).
145. Bùi Huy Phồn, Phóng sự - một thể văn xung kích, Văn nghệ (Hà Nội) số 63, tháng 8
năm 1962.
146. Bùi Huy Phồn, Vũ Trọng Phụng - văn không hẳn là người, báo Văn nghệ (Hà Nội) số
8.1990.
147. Sigmund Freud, Phân tâm học nhập môn, NXB Khai trí, SG, 1970.
148. Sigmund Freud, Phân tâm học về tính dục, NXB Khai trí, SG, 1970.
149. Lê Huy Phú, Hồ sơ về một thế giói khác (tập phóng sự), NXB Công an nhân dân, HN,
1996.
150. Vũ Đức Phúc, Bàn về các thể ký trong văn học từ Cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp
chí văn học (Hà Nội) số 8.1966.
151. Vũ Đức Phúc, Đặc điểm tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945, Tạp chí
văn học (Hà Nội) số 1.1964.
152. Vũ Đức Phúc, Trào lim hiện thực chủ nghĩa trong văn học Viết Nam từ 1930-1945, Tạp
chí văn học (Hà Nội) số 5.1976.
153. Vũ Đức Phúc, Văn xuôi cách mạng thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), Tạp chí văn
học (Hà Nội) số 1.1981.
154. Vũ Trọng Phụng, Cạm bẫy người, NXB Văn học, HN, 1993.
212
155. Vũ Trọng Phụng, Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phƣơng, HN, 1937.
156. Vũ Trọng Phụng, Giết mẹ - kịch của V. Hugo, Dịch thuật tùng thƣ xuất bản, HN, 1936.
157. Vũ Trọng Phụng, Kỹ nghệ lấy Tây - Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội, 1989.
158. Vũ Trọng Phụng, Làm đĩ, NXB Văn học, HN, 1991.
159. Vũ Trọng Phụng, Lấy nhau vì tình, NXB Văn học, HN, 1989.
160. Vũ Trọng Phụng, Một huyện ăn Tết, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, NXB Văn học,
HN, 1987.
161. Vũ Trọng Phụng, Số đỏ, NXB Văn học, HN, 1990.
162. Vũ Trọng Phụng, Trúng số độc đắc, NXB Văn học, HN, 1990.
163. Vũ Trọng Phụng, Vỡ đê - Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, NXB Văn học, HN, 1987.
164. G.N. Pospelov (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXB Giáo dục, HN,
1985.
165. Thiều Quang, Một chút tài liệu về Vũ Trọng Phụng, Tập phê bình, số đặc biệt về Vũ
Trọng Phụng, HN, 1957.
166. Trần Huy Quang, Phóng sự (tuyển), NXB Văn học, HN, 1985.
167. Doãn Quốc Sĩ, Văn học và tiểu thuyết, NXB Sáng tạo, SG, 1973.
168. Lê Văn Siêu, Vũ Trọng Phụng - Văn học sử thời kháng Pháp 1858-1945, NXB Trí
Năng, SG, 1974.
169. Mộng Bình Sơn - Đào Đức Chƣơng, Nhà văn phê bình (Khảo cứu văn học Việt Nam
1932-1945), NXB Văn học, HN, 1996.
170. Trần Đình Sử, Bàn thêm về tiếp nhận văn học, báo Văn nghệ
213
(Hà Nội), số 7.1990.
171. Trần Đình Sử - Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo
dục, HN, 1987.
172. Trần Đình sử, Con người trong văn học Việt Nam sau 1945 - Một thời đại mới trong văn
học (nhiều tác giả), NXB Văn học, HN, 1996.
173. Trần Đình sử, Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, HN, 1996.
174. Trần Đình sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo
viên, HN, 1993.
175. Trần Đình sử, Truyện, ký về các sự kiện sắp xảy ra, Tạp chí văn học, số 2 năm 1987.
176. Trần Hữu T á , Phóng sự - Một thể văn xung kích của báo chí, Báo Lao động xã hội, số
8, ngày 25.12.1993.
177. Trần Hữu Tá, Vỡ đê, Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984.
178. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1992.
179. Trần Hữu Tá, Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999.
180. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng, một tài năng lớn (bài viết trong cuốn "Nhà văn Vũ
Trọng Phụng vói chúng ta")
181. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng "ông vua phóng sự Việt Nam" báo Tuổi trẻ chủ nhật,
tháng 10/1999.
182. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 67 (1.10.1966): Số đặc biệt tƣởng niệm Vũ Trọng Phụng.
214
183. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 94 (1.10.1969): Vũ Trọng Phụng dứt tình với làng văn.
184. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 114 (15.10.1970): Số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng.
185. Văn Tâm, Góp lời thiên cổ sự, NXB Văn học, HN, 1992.
186. Văn Tâm, Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực, NXB Kim Đức, HN, 1957.
187. Văn Tâm, Vũ Trọng Phụng, "người thư ký của thời đại" (In trong "Vũ Trọng Phụng với
chúng ta" NXB Kim Đức, HN, 1956.
188. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), Tác phẩm báo chí, tập Một, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh - Phân viện báo chí và tuyên truyền - NXB Giáo dục, HN, 1995.
189. Trần Đức Thảo, Vấn đề con người và chủ nghĩa "Lý luận không có con người", NXB
thành phố Hồ Chí Minh, 1988.
190. Đào Thản, Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi, Tạp chí ngôn
ngữ, (Hà Nội) số 2.1994.
191. Nguyễn Thành, Ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong sáng tác của Vũ Trọng
Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội), số 4.1997.
192. Phạm Huy Thông, Văn Pháp rất Pháp của Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí ngôn ngữ, (HN), số
2,1986.
193. Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, HN, 1997.
194. Lƣơng Duy Thứ, Lỗ Tấn - tác phẩm và tư liệu, NXB Giáo dục, TP HCM, 1997.
195. Timôphiep, Nguyên lý lý luận văn học, NXB Văn hóa, HN, 1962.
215
196. Lê Ngọc Trà, Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP HCM, 1990.
197. Lê Ngọc Trà, Vấn dề con người trong văn học hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn nghệ
trong sự nghiệp đổi mới (Hà Minh Đức chủ biên), NXB Sự thật, HN, 1991.
198. Nguyễn Văn Trung, Nhà văn, người là ai? với ai? NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1967.
199. Nguyễn Văn Trung, Nhóm tả chân xã hội, xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Tự do xuất
bản, SG, 1962.
200. Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại,
NXB Nam Sơn, SG, 1963.
201. Việt Trung, Vấn đề Vũ Trọng Phụng, Tạp chí nghiên cứu văn học (Hà Nội), số 5. 1960.
202. Cù Đình Tú, Mấy cảm nghĩ ban đầu về cách phô diễn của nhà văn Vũ Trọng Phụng,
Kiến thức ngay nay, số 2.1988.
203. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, HN, 1983.
204. Nguyễn Tuân, Tàn đèn dầu lạc, Édition Mai Lĩnh, HN, 1941.
205. Nguyễn Tuân, Ngọn đèn dầu lạc, Édition Mai Lĩnh, HN, 1939.
206. Tuyển tập Ngô Tất Tố, tập II, NXB Văn học, HN, 1994.
207. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Tập II (Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá tuyển chọn, giới
thiệu), NXB Văn học, HN, 1987.
208. Văn (Tạp chí), số đặc biệt tƣởng niệm Vũ Trọng Phụng, SG, 1967.
209. Chàng Văn (Chế Lan Viên), Vào nghề, NXB Văn học, HN, 1993.
210. Viện thông túi khoa học xã hội, Tệ nạn xã hội - căn nguyên, biểu hiện, phương thức
khắc phục, Thông tin KHXN, HN, 1996.
216
211. A. Viollis, Đông Dương cấp cứu (Thế Phong dịch) Hồ sơ số Q.18, Phòng Lƣu trữ Ban
nghiên cứu lịch sử Đảng trung ƣơng.
212. С. И. ОЖЕГОВ, Словарь Русского Языка. Москва издательство "Русский Язык",
1981.
213. Г.Я. СОЛГАНИК, Стил Репотажа, издательство Московского Университета,
1970.
214. Albert Dauzat, Dictionnaire etymologique, Larousse, Paris, 1947,
215. Encyclopedia Universalis, Paris, 1991.
216. Le Petit Larousse ilustre 1996, Paris, 1996.
217
PHỤ LỤC
THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM
SỐ ĐỎ
A. THÀNH NGỮ
An cƣ lạc nghiệp. 1.
Ăn sung mặc sƣớng. 2.
Bách niên giai lão. 3.
Bàn dân thiên hạ. 4.
Thả mồi bắt bóng. 5.
Con rồng cháu tiên. 6.
Công kia việc nọ. 7.
Cứu nhân độ thế. 8.
Bàn ra tán vào. 9.
Bất tuân thƣợng lệnh. 10.
Bôi tro trát trấu. 11.
Bung tai giả điếc. 12.
Cao lƣơng mỹ vị. 13.
Câm miệng hến. 14.
Chẳng chóng thì chày. 15.
Dĩ hòa vi quý. 16.
Đánh đông dẹp bắc. 17.
Đi đến đâu chết trâu đến đấy 18.
(Dùng như một thành ngữ)
Giúp nƣớc phò vua. 19.
Há miệng mắc quai. 20.
Núi xƣơng sông máu. 21.
Nửa nạc nửa mỡ. 22.
Ốm no bò dậy. 23.
218
Tai to mặt lớn. 24.
Tài cao chí cả. 25.
Tam tòng tứ đức. 26.
Tay trắng làm nên. 27.
Hiền nhân quân tử. 28.
Hƣ thân mất nết. 29.
30. Môn đăng hộ đối.
31. Mời thầy chạy thuốc.
32. Mục bất tà thị.
Ngày sinh tháng đẻ. 33.
Nhanh mồm nhẹ miệng. 34.
Nhất cử lƣỡng tiện. 35.
Nhiều phiền lắm não. 36.
Nổi trận lôi đình. 37.
Tay trắng làm nên. 38.
Thả mồi bắt bóng. 39.
Xỏ lá ba que. 40.
Vô công rồi nghề. 41.
Tựkỷámthị. 42.
Túi cơm giá áo. 43.
Trời tru đất diệt. 44.
Trốn xuống suối vàng. 45.
Treo ấn từ quan. 46.
Trai thanh gái lịch. 47.
Tòng nhất nhị chung. 48.
Thƣơng nòi yêu giống. 49.
Thiên biến vạn hóa. 50.
Thấp cổ bé họng. 51.
B. TỤC NGỮ
1. Bói rẻ còn ơn ngồi không.
2. Có ăn có chọi mới gọi là trâu.
219
Có tài mà cậy chi tài. 3.
Con giun xéo lắm cũng quằn. 4.
Con hƣ tại mẹ cháu hƣ tại bà. 5.
Uốn lƣỡi bảy lần. 6.
Tốt khoe ra, xấu đậy lại. 7.
Tai vách mạch rừng. 8.
Sinh nghề tử nghiệp. 9.
Nuôi ong tay áo. 10.
Cạnh bên nào thì ngả về bên ấy. 11.
Trai tân gái góa thì chơi, 12.
Đừng nơi có vợ, đừng nơi có chồng.
Già chơi trống bỏi. 13.
Gái năm con chƣa hết lòng chồng. 14.
Duyên kia ai đợi ai chơ, 15.
Tình kia ai tƣởng ai tơ tƣởng mình. (dạng ca dao)
CẠM BẪY NGƢỜI
A. THÀNH NGỮ
Tuy không ăn ớt mà cay. 1.
Hỗn quân hỗn quan. 2.
Che mắt thế gian. 3.
Thiên biến vạn hóa. 4.
Tiu nghỉu nhƣ chó bị thiến. 5.
Thất cơ lỡ vận. 6.
Dòng dõi gia thế. 7.
Rong chơi bài bạc. 8.
Khôn sặc máu mồm. 9.
Đồ vô tích sự. 10.
Năng tới coi thƣờng. 11.
Nói toạc móng heo. 12.
Trông mặt mà bắt hình dong. 13.
220
Trắng nõn nhƣ ngà. Nửa tỉnh nửa quê. 14. 15.
Thập tử nhất sinh. Bất phân thắng bại. 16. 17.
Chia năm xẻ bảy.
18. 19. Ƣu nhân bất đắc dĩ.
Thiên phƣơng bách kế. Cờ gian bạc lận. 20. 21.
Sớm vác ô đi, tối vác ô về. Xơ nhƣ nhộng. 22. 23.
Quỷ thần hai vai soi xét. Bút khôn xiết tả. 24. 25.
Lột áo ngƣời sống bán áo ngƣời chết. Chính đại quang minh. 26. 27.
Biết rõ mƣời mƣơi. Nhàn cƣ vi bất thiện. 28. 29.
Con tiên cháu rồng. Quay tít nhƣ con thò lò. 30. 31.
Rạc nhƣ xác ve. Hai vai xo gần đến mang tai. 32. 33.
Hoa chúc động phồng. Nhét đất thó vào mũi. 34. 35.
Không tiền tuyệt hậu. Nhƣ gà cắt tiết. 36. 37.
Chấp kinh tòng quyền.
38. 39. Mắt nhƣ rắn ráo.
40. Mặt đỏ bùng nhƣ gấc chín. Đào ngoái xoáy xỏa. 41. 42. Chó ăn vụng bột. 43. Mục hạ vô nhân.
44. 45. Thay hình đổi dạng. Hang hùm nọc rắn.
221
46. 47. Cải tà quy chính. Bán giời không văn tự.
48. 49. Xuống chó lên voi. Thiên nhiên bất dịch.
50. 51. Bách chiến bách thắng. Đào thải luân hồi.
52. 53. Thiên hình vạn trạng. Yêu tinh quỷ quái.
Đầu trâu mặt ngựa. 54. 55. Mặt sƣng mày xỉa.
56. 57. Che mắt thế gian. Lên voi xuống chó.
58. Mỏng phận ngắn đời.
B. TỤC NGỮ 1. Nghĩa tử là nghĩa tận.
KỸ NGHỆ LẤY TÂY
A. THÀNH NGỮ: 1. Năm đời mƣời đời.
Vũ vô kiềm tỏa. Lử đử lừ đừ. 2. 3.
Cởi hết ruột gan. Giang hồ lƣu lạc. 4. 5.
Đầu trâu mặt ngụa. Cạn tàu ráo máng. 6. 7.
Lá gió cành chim. Thâm căn cố đế. 8. 9.
Cổ cày vai bừa. Đầu gối quá tai. 10. 11.
Ngôn xuất bất khẩu. Trốn chúa lộn chồng. 12. 13.
Kết duyên loan phụng. 14.
222
Ngồi lê đôi mách. 15. 16. Mơn mởn đào tơ.
17. 18. Tang gia bối rối. Trao xƣơng gửi thịt.
19. 20. Ba xí ba tú. Ăn gian nói dối.
21. 22. Tiền hậu bất nhất. Dầy dạn phong trần.
Giở chứng giở quẻ.
23. 24. Mềm nắn rắn buông.
25. 26. Bắt đƣợc quả tang. Đâm bị thóc chọc bị gạo.
27. Mƣợn chén đƣa lời. 28. Tùy cơ ứng biến.
29. 30. Trơ nhƣ đá vững nhƣ đồng. Gan lì tƣớng quân.
31. 32. Bách niên giao lão. Quỷ thần phù hộ.
B. TỤC NGỮ
1. 2. Râu ông nọ cắm cằm bà kia. Một ngƣời lấy Tây cả họ đƣợc nhờ.
CƠM THẦY CƠM CÔ
A. THÀNH NGỮ 1. Cơm thầy cơm cô.
Rong chơi tuyết nguyệt. Những ngƣời là ngƣời. 2. 3.
Nằm ngổn nằm ngang. Đứng núi nọ trông núi kia. 4. 5.
Nếm cơm thiên hạ. Chết rã họng. 6. 7.
Trông nhƣ ngoáo ộp. 8.
223
Năm cha ba mẹ. Văn vật ngàn năm. 9. 10.
Cùng chƣng máu mủ. Chân lấm tay bùn. 11. 12.
13. Vái lấy vái để. 14. Mềm nắn rắn buông.
Ngựa xe nhƣ nƣớc. Đội nón ra đi. 15. 16.
Ruộng cả ao liền. Thân làm tội đời. 17. 18.
Khổ tuyệt trần đời. Ăn đói làm no. 19. 20.
Năm đời mƣời đời. Xa lắc xa lơ. 21. 22.
Vu oan giá họa. Có giời có ta. 23. 24.
Son son thiếp vàng. Nhƣ đồ đĩ rạc. 25. 26.
Tin đi mối lại. Ăn chực nằm chờ. 27. 28.
Tay bắt mặt mừng. Tinh ma quỷ quái. 29. 30.
Tính cuộc vuông tròn. Trầm luân khổ ải. 31. 32.
33. Mèo đƣờng chó điếm. 34. Nhƣ con thiêu thân.
35. 36. Không trăng không sao. Lạch bạch nhƣ vịt bầu.
37. Mặt bủng da chì. 38. Trầm tƣ mặc tƣởng.
39. 40. Cả trăm phần trăm. Độc nhất vô nhị.
224
41. 42. Con ong cái kiến. Cơm thừa canh cặn.
43. 44. Ăn cắp nhƣ ranh. Ăn bớt nhƣ quỷ.
B. TỤC NGỮ:
1. Ho sù sụ nhƣ ông cụ.
LỤC XÌ
A. THÀNH NGỮ
Bình chân nhƣ vại. Béo nục béo nạc. 1. 2.
Ăn gian nói dối. Mặt bủng da chì. 3. 4.
Mục bất tà thị. Gà sống nuôi con. 5. 6.
Ma cũ bắt nạt ma mới. Thuần phong mỹ tục. 7. 8.
B. TỤC NGỮ:
No cơm ấm cật giậm giật mọi nơi. Sống lâu lên lão làng. 1. 2.
MỘT HUYỆN ĂN TẾT
A. THÀNH NGỮ: 1. Năm cùng tháng tận.
Từ trên xuống dƣới. Thƣ nhàn bình nhật. 2. 3.
Sôi lên sùng sục. Năm hết tết đến. 4. 5.
Gãi đầu gãi tai. Vũ vô kiềm tỏa. 6. 7.
Vẽ vời phiền phức. Đục khoét thành thánh. 8. 9.
225
An cƣ lạc nghiệp. Bới lông tìm vết. 10. 11.
Nhắm mắt làm ngơ. Từ dƣới lên trên. 12. 13.
Bày vẽ lôi thôi. Cắn hạt cơm không vỡ. 14. 15.
Chu du thiên hạ. Sét đánh ngang tai. 16. 17.
Ăn cơm mới nói chuyện cũ. Sƣớng quá hóa hỗn. 18. 19.
Quá nửa đời ngƣời. Trầm tƣ mặc tƣởng. 20. 21.
Tống cựu nghinh tân. Đòn xóc hai đầu. 22. 23.
24.
Cái tính chất gà què ăn quẩn. (Tục ngữ chuyển hóa thành thành ngữ)
Của ít lòng nhiều.
25.
B. TỤC NGỮ: 1. Gà què ăn quẩn.
Có đi có lại mới toại lòng nhau. Đáo tụng đình. 2. 3.
Bạc là dân bất nhân là lính. Cá lớn nuốt cá bé. 4. 5.
Đƣợc đằng chân lân đằng đầu.
6.
TÔI KÉO XE (TAM LANG)
A. THÀNH NGỮ:
Nửa đùa nửa thật. Bụng bảo dạ. 1. 2.
Bở hơi tai. Ngủ nhƣ chết. 3. 4.
Dãi gió dầm mƣa. 5.
226
Mệt lử cỏ bợ. Thật thà nhƣ đếm. 6. 7.
Buồn nhƣ giòi nhúc. Đuổi nhƣ đuổi tà. 8. 9.
Dầm mƣa dãi nắng.
10.
B. TỤC NGỮ 1. Gà què ăn quẩn.
VIỆC LÀNG (NGÔ TẤT TỐ)
A. THÀNH NGỮ: 1. Cày sâu cuốc bẫm.
Buôn ngƣợc bán xuôi. Nghèo xác nghèo xơ. 2. 3.
Kinh thiên địa nghĩa. Tứ quý kỳ phúc. 4. 5.
Bẻ vành bẻ vẻ. Sát nhân giả tử. 6. 7.
Bất đắc kỳ tử. Trời kia đất nọ. 8. 9.
10. Bới bèo ra bọ. 11. Mẹ nào con ấy.
12. 13. Em nào chị ấy. Vắt cổ chày ra nƣớc.
14. Mƣa thuận gió hòa. 15. Sớm cạn mạ úa.
Về với tổ tiên. Vụt lấy vụt để. 16. 17.
Bất phân thắng bại. Cái giá cắn đôi. 18. 19.
B. TỤC NGỮ
Đắc tội với quỷ thần.
1.
227