BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HOÀI THANH

KHẢO SÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM

THỂ LOẠI PHÓNG SỰ CỦA

VŨ TRỌNG PHỤNG

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1999

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN HOÀI THANH

KHẢO SÁT NHỮNG ĐẶC ĐIỂM

THỂ LOẠI PHÓNG SỰ CỦA

VŨ TRỌNG PHỤNG

Chuyên ngành: Lý thuyết và lịch sử văn học

Mã số: 5. 04. 01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

- GS. Hoàng Nhƣ Mai

- PGS – TS Trần Hữu Tá

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 1999

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu

trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kì công trình nào khác.

Tác giả luận án

NGUYỄN HOÀI THANH

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 1

1. Sự cấp thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu ..................................................... 1

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.......................................................................... 3

3. Lịch sử vấn đề ........................................................................................................ 6

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................... 23

5. Đóng góp mới của luận án ................................................................................... 24

6. Bố cục của luận án ............................................................................................... 24

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ PHÓNG SỰ............................................. 25

1.1. Một số quan niệm về thể phóng sự ................................................................... 25

1.1.1. Một ít tƣ liệu về thể phóng sự ở nƣớc ngoài .............................................. 25

1.1.2 Một số quan niệm ở Việt Nam về thể phóng sự ......................................... 31

1.2. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học ............................................................. 37

1.2.1 Phóng sự - một thể kí trong báo chí và văn học .......................................... 39

1.2.2 Phóng sự báo chí và Phóng sự văn học ....................................................... 42

1.2.3. Phóng sự mang yếu tố tiểu thuyết .............................................................. 49

1.3. Mấy nét cơ bản về lịch sử thể phóng sự ở Việt Nam ........................................ 51

1.3.1. Sự xuất hiện thể phóng sự .......................................................................... 51

1.3.2. Sơ lƣợc về quá trình phát triển ................................................................... 56

CHƢƠNG 2: PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG: HIỆN THỰC VÀ TƢ TƢỞNG .. 69

2.1. Những mảng hiện thực đen tối .......................................................................... 70

2.1.1. Những tệ nạn xã hội trầm kha .................................................................... 70

2.1.2 Những cảnh tƣợng thƣơng tâm, nhức nhối ................................................. 74

2.2. Sự tha hóa của những “giới” ngƣời .................................................................. 77

2.2.1. Những kẻ lụi tàn vì cờ bạc bịp ................................................................... 78

2.2.2. Những kẻ khốn cùng tha hóa ..................................................................... 80

2.2.3. Sự băng hoại của giới chủ nhà ................................................................... 82

2.3. Giá trị và hạn chế của nội dung phóng sự ......................................................... 83

2.3.1. Giá trị lịch sử - thời sự ............................................................................... 84

2.3.2. Tƣ tƣởng nhân đạo ..................................................................................... 93

2.3.3. Những bất cập, sai lầm và yếu tố tự nhiên chủ nghĩa .............................. 104

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT ............................ 117

3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực, khai thác tƣ liệu .......................................... 117

3.1.1. Sự tinh tế trong "tuyển chọn" thực tại ...................................................... 118

3.1.2. Sự năng động trong tiếp cận hiện thực .................................................... 120

3.1.3. Sự sáng tạo trong khai thác tƣ liệu ........................................................... 124

3.2. Những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết ........................................................ 129

3.2.1. Mỗi "vấn đề" đều thành "câu chuyện" ..................................................... 130

3.2.2. Một quần thể nhân vật sống động ............................................................ 134

3.2.3 Một lối thuật kể hấp dẫn ........................................................................... 144

3.3. Nghệ thuật trào phúng ..................................................................................... 151

3.3.1. Nhân vật hài hƣớc, biếm họa ................................................................... 152

3.3.2. Tổ chức tình huống hài hƣớc, trào phúng ................................................ 157

3.3.3. Một lối văn giễu nhại ............................................................................... 161

CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM LỜI VĂN PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG ............... 168

4.1. Chất khẩu ngữ trong lời văn phóng sự ............................................................ 169

4.1.1. Những yếu tố khẩu ngữ ............................................................................ 169

4.1.1.1. Các lớp khẩu ngữ .............................................................................. 170

4.1.1.2. Lƣợng thành ngữ, tục ngữ mang màu sắc khẩu ngữ ......................... 172

4.1.1.3. Biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ .......................................... 174

4.1.2. Vai trò của các yếu tố khẩu ngữ ............................................................... 179

4.1.2.1. Sử dụng khẩu ngữ để mô tả, đánh giá hiện thực ............................... 179

4.1.2.2. Dùng khẩu ngữ để miêu tả quần thể nhân vật ................................... 180

4.2. Giọng điệu trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng ..................................... 181

4.2.1. Giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện ............................................... 181

4.2.2. Giọng điệu của cái Tôi - tác giả ............................................................... 184

4.2.3. Giọng điệu chính của quần thể nhân vật .................................................. 185

4.3. Tính hiện đại và những chế của lời văn phóng sƣ Vũ Trọng Phụng .............. 186

4.3.1. Những từ vựng mới mẻ ............................................................................ 187

4.3.2. Câu văn hiện đại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng ................................. 188

4.3.3. Những hạn chế trong lời văn phóng sự .................................................... 193

KẾT LUẬN ............................................................................................................... 195

TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................... 201

PHỤ LỤC .................................................................................................................. 218

MỞ ĐẦU

1. Sự cấp thiết của đề tài và mục đích nghiên cứu

Tuy đƣợc tôn vinh ở cả lĩnh vực tiểu thuyết lẫn phóng sự, nhƣng cho đến nay, sau hơn

nửa thế kỉ, việc nghiên cứu di sản văn chƣơng của Vũ Trọng Phụng vẫn có một sự thiên lệch:

bút mực đã dành sự ƣu ái cho "nhà tiểu thuyết trác tuyệt" nhiều hơn so vói "ông vua phóng

sự". Theo thƣ mục nghiên cứu trong Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay [178, 265 - 281]

tính đến thời điểm 1992, trong tổng số 141 bài và sách nghiên cứu sự nghiệp văn chƣơng của

họ Vũ, chỉ có 3 bài bàn riêng về phóng sự. Cũng theo Thƣ mục này, trong 29 báo cáo khoa

học tại hai cuộc Hội thảo lớn kỉ niệm Vũ Trọng Phụng (tháng 12 năm 1987 ở Thành phố Hồ

Chí Minh và tháng 10 năm 1989 ở Hà Nội) cũng chỉ có 2 bài bàn riêng về phóng sự của ông.

Ngay trong 25 báo cáo khoa học tại cuộc Hội thảo thứ 3 (ngày 15 tháng 3 năm 1992), kỉ niệm

80 năm ngày sinh của Vũ Trọng Phụng tại Thành phố Hồ Chí Minh, đã không có một báo cáo

nào bàn riêng về phóng sự. Từ đó cho đến nay (1999) đã có thêm một số bài báo khoa học và

1 luận văn Thạc sĩ về đề tài phóng sự của họ Vũ. Đồng thời cũng có 1 luận án Phó tiến sĩ đề

cập đến cả lĩnh vực tiểu thuyết và phóng sự của ông. Tuy nhiên, do các tác giả chỉ mới giới

hạn trong việc tìm hiểu, nghiên cứu về một số vấn đề theo mục tiêu nhất định nên chưa đem

lại một cái nhìn toàn diện và còn để lại những khoảng trống cần bù lấp.

Nói nhƣ vậy không có nghĩa phóng sự Vũ Trọng Phụng ít đƣợc bàn tới. Bên cạnh

những báo cáo, bài báo và công trình chuyên về phóng sự, còn có nhiều ý kiến đề cập đến

mảng sáng tác này của họ Vũ, nhân khảo

1

cứu một vấn đề nào đó về văn nghiệp và cuộc đời của ông. Nhƣng ngay trong số những ý

kiến này cũng lại bộc lộ thêm một sự thiên lệch khác. Đó là, đa phần bàn về phương diện nội

dung đạo đức, chính trị, giá trị hiện thực của từng thiên phóng sự hơn là bàn về phương diện

nghệ thuật. Vì thế, bức chân dung "ông vua phóng sự" còn thiếu một sự đầy đặn, hài hòa.

Thời kì mới trong việc tiếp cận di sản văn học của Vũ Trọng Phụng đòi hỏi phải mở

rộng tầm nhìn, hƣớng nhìn sang mảng phóng sự, để tìm hiểu, đánh giá đúng những đóng góp

của ông ở địa hạt sáng tác quan trọng này.

Trên cơ sở tiếp thu thành tựu nghiên cứu của những người đi trước, luận án này xin

mở một cuộc khảo sát toàn diện, theo một hệ thống, nhằm mục đích tìm ra những đặc điểm

nổi bật cả về phương diện nội dung lẫn nghệ thuật, để thấy giá trị đặc sắc, sự độc đáo, sáng

tạo và những hạn chế, lệch lạc của những tác phẩm thuộc thể phóng sự của Vũ Trọng Phụng.

Sự khảo cứu những đặc điểm của phóng sự Vũ Trọng Phụng, không những có ý nghĩa

đối với việc nghiên cứu di sản văn chƣơng của họ Vũ mà còn có ý nghĩa đối với việc nghiên

cứu lí luận và thực tiễn của thể phóng sự.

Phóng sự là một thể tân văn ra đời trong những năm sôi động nhất, khi văn học nƣớc

nhà tăng tốc lao vào quỹ đạo hiện đại. Thể văn nay là kết quả của "cuộc tình" đằm thắm giữa

văn học và báo chí lúc đó. Chỉ trong một thời gian ngắn, phóng sự đã đạt đƣợc một thành tựu

rực rỡ. Nếu theo quan điểm của M. Bakhtin về vai trò to lớn của thể loại trong quá trình phát

triển văn học, thì có thể coi thể phóng sự là một trong "những nhân vật chính của tấn kịch

lịch sử văn học" đương thời. Vì vậy, nó đã thu hút đƣợc sự quan tâm, kiến giải của cả lí luận

văn học và lí luận báo chí. Việc tìm hiểu đặc điểm phóng sự của một cây bút tiêu biểu thuộc

bậc "ông vua", có thể góp phần vào việc đánh giá đôi với cả nền phóng sự đƣơng thời, một

2

hiện tƣợng văn học độc đáo, mang đậm dấu ấn sáng tạo của một lớp nhà văn lớn.

Phóng sự là một bộ phận hợp thành quan trọng của di sản văn học Vũ Trọng Phụng.

Chất phóng sự lại là thành tố "máu thịt" của phong cách văn học họ Vũ. Việc xác định đặc

điểm phóng sự sẽ góp phần soi sáng những mảng sáng tác khác của ông. Điều này có một ý

nghĩa đối với công tác giảng dạy và học tập văn chƣơng Vũ Trọng Phụng. Trƣớc tình hình

"bùng nổ" trở lại của thể phóng sự trong những năm gần đây, cũng đòi hỏi sự tiếp sức của

kinh nghiệm quá khứ. Luận văn này cũng có một tham vọng nhỏ là gợi lại cách làm phóng sự

của một cây bút "sắc sảo và khôn ngoan", có thể để người viết phóng sự hôm nay học hỏi, rút

ra nhũng điều bổ ích cho nghề nghiệp của mình. Trƣớc xu hƣớng xóa nhòa ranh giới thể loại

để tạo ra một dạng thức biểu hiện mới nhằm đạt đƣợc hiệu quả thông tin - thẩm mĩ tối ƣu của

văn xuôi hiện nay, việc nghiên cứu đặc điểm phóng sự của họ Vũ còn có giá trị gợi mở đối

với sự tìm tòi, sáng tạo. Mặt khác, những vấn đề và những tệ nạn xã hội mà họ Vũ phản ánh,

nay vẫn còn đang là vấn nạn, quốc nạn không dễ giải quyết một sớm, một chiều. Chính trong

lúc này, rất cần có một nền phóng sự sôi động, đóng vai trò xung kích trên lĩnh vực báo chí

và văn học, góp phần vào công cuộc cải tạo, xây dựng xã hội mới. Vì thế, sự nghiên cứu di

sản phóng sự của Vũ Trọng Phụng càng có ý nghĩa thực tiễn không nhỏ.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Suốt gần mƣời năm cầm bút, Vũ Trọng Phụng luôn gắn bó với thể phóng sự. Từ năm

1933 đến 1939, cùng với việc cho ra đời hàng loạt những tác phẩm có giá trị thuộc những thể

loại khác, ông đã viết cả thảy 8 thiên phóng sự dài, theo trình tự thời gian nhƣ sau:

3

- Cạm bẫy người (Nhật Tân, tháng 8 - 1933), -Đời cạo giấy (Tân thiếu niên, 1934),

- Kĩ nghệ lấy Tây (Nhật Tân, tháng 12 - 1934),

- Dân biểu và dân biểu (Công Dân, tháng 9 - 1935),

- Cơm thầy cơm cô (Hà Nội báo, tháng 5 - 1936),

- Vẽ nhọ bôi hề (Phụ nữ thời đàm, tháng 9 - 1936),

- Lục xì (Tương Lai, tháng 01 - 1937),

- Một huyện ăn Tết (Tiểu thuyết thứ bẩy, tháng 2 - 1939).

Trong 8 tác phẩm nói trên, phóng sự Dân biểu và dân biểu đăng trên tờ Công Dân,

hiện chƣa tìm đƣợc văn bản. Theo các Giáo sƣ Phan Cự Đệ, Nguyễn Hoành Khung và Trần

Hữu Tá (Trong Tổng tập Văn học Việt Nam, Tập 29A), đây là tác phẩm "Công kích cái Viện

dân biểu bù nhìn, mà các ngài nghị viên xuất thân chỉ là những lão cai xe, những bọn cho vay

nặng lãi, những tên địa chủ vô học mà lại hiếu danh" [37, 36 - 38]. Một thiên phóng sự đã đề

cập trực tiếp đến một vấn đề chính trị của xã hội đƣơng thời, nhƣng rất tiếc là bị thất lạc. Còn

phóng sự Vẽ nhọ bôi hề đăng dở dang, vì tờ Phụ nữ thời đàm bị đình bản. Theo họa sĩ Mạnh

Quỳnh, ngƣời đuợc Vũ Trọng Phụng mời minh họa cho thiên phóng sự này, thì: "Nhà văn

chọn hậu trƣờng sân khấu làm đề tài, là nhằm nói lên cuộc đời của những ngƣời bán hơi, bán

tài, bán sức mà không đủ sống. Không những thế, trong mƣời ngƣời, có tới năm sáu ngƣời sa

vào con đƣơng nghiện hút" [178, 124]. Riêng phóng sự Đời cạo giấy, cũng chƣa tìm đƣợc

văn bản; nhƣng theo bài xã luận "Phóng sự là gì" ở trang 3 của báo Phóng sự số 3 năm 1938

(xuất bản ở Sài Gòn) thì: "Thiên phỏng sự Đời cạo giấy vừa ra trên số báo Tân thiếu niên của

ông Lê Tràng Kiều thì đã đem ngay cái chết lại cho báo ấy. Chứng tôi kể lại chuyện này vì

muốn cho bạn đọc thấy

4

rõ cái giá trị của phỏng sự, vì trong Đời cạo giấy, Vũ Trọng Phụng đã nói đến đời cách mạng

của Đoàn Trần Nghiệp tục danh là Ký Con".

Qua các lời thuật kể nhƣ vậy, có thể yên tâm về nội dung đƣợc đề cập ở ba thiên

phóng sự nói trên, là những vấn đề có ý nghĩa chính trị, xã hội tích cực.

Vì vậy, đối tƣợng nghiên cứu của Luận án này là năm thiên phóng sự còn lại: Cạm

bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì và Một huyện ăn Tết. Đây là những

phóng sự chính yếu, không bị lƣỡi kéo kiểm duyệt đƣơng thơi cắt bỏ. Số lƣợng phóng sự hiện

còn, cho phép việc khảo cứu, tìm tòi đặc điểm của thành tựu phóng sự của Vũ Trọng Phụng.

2.2. Phạm vi nghiên cứu

Với đề tài "Khảo sát những đặc điểm thể loại phóng sư của Vũ Trọng Phụng", luận án

xin định rõ mục đích của mình là khảo sát những đặc điểm của năm tác phẩm thuộc thể loại

phóng sự của Vũ Trọng Phụng nhƣ đã trình bày ở trên. Phóng sự là một thể loại mới xuất

hiện trong cuộc cách tân văn học. Nhƣ nhiều nhà văn cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã tìm đến

thể phóng sự và đã góp cho thể tài này những tác phẩm xuất sắc mang đậm phong cách riêng,

chứ không phải ông đã sáng tạo ra một "thể loại" phóng sự riêng biệt của mình. Trên cơ sở

xác định đối tƣợng và mục đích nghiên cứu nhƣ vậy, luận án xin tự đặt cho mình những giới

hạn nhƣ sau:

Một là, thông qua việc tìm hiểu những quan niệm về thể phóng sự, chúng tôi đề cập

đến thể phóng sự báo chí và phóng sự văn học, tìm ra những điểm giống nhau và sự khác biệt

giữa chúng. Tuy lí luận không phải là mục đích chính của việc nghiên cứu, nhƣng chúng tôi

thấy cần phải minh định hai khái niệm này, để làm cơ sở cho việc khảo sát đặc điểm phóng

sự của Vũ Trọng Phụng.

5

Hai là, chỉ khảo sát nội dung phóng sự của họ Vũ ở hai phƣơng diện: hiện thực và tư

tưởng. Từ đó, luận án rút ra giá trị lịch sử - thời sự; giá trị nhân đạo và những bất cập, sai

lầm, yếu tố tự nhiên chủ nghĩa.

Ba là, khảo sát về phương diện nghê thuật của các tác phẩm phóng sự, nhƣ nghệ thuật

khai thác, sử dụng tƣ liệu, tính tiểu thuyết và nghệ thuật trào phúng.

Bốn là, khảo sát đặc điểm của lời văn trong các thiên phóng sự của họ Vũ, để nhằm

tìm ra cái riêng, cái độc đáo về lối phô diễn của "ông vua phóng sự".

Phạm vi nghiên cứu bao gồm một hệ thống vấn đề nhƣ trên, ngõ hầu đem lại một cái

nhìn bao quát cả về năng lực nhận thức hiện thực, sự tìm tòi về mặt tƣ tƣởng; sự sáng tạo về

nghệ thuật và những đóng góp riêng về ngôn ngữ, để từ đó có thể rút ra đƣợc những đặc điểm

nổi bật của thành tựu phóng sự Vũ Trọng Phụng.

3. Lịch sử vấn đề

Trong thế hệ những cây bút "tiền chiến", chƣa một văn tài nào lại có một số phận vinh

quang và cay đắng nhƣ "ông vua phóng sự" Vũ Trọng Phụng. Không đƣợc sống đến tuổi

"tam thập", thời gian cầm bút chƣa đƣợc quá mƣời năm, để lại một di sản văn chƣơng đồ sộ

vói những kiệt tác bất hủ... Vậy mà, ngay từ lúc sinh thời và suốt gần nửa thế kỉ, sau khi phải

vĩnh biệt cuộc đời, họ Vũ và văn nghiệp của ông đã phải trải qua nhiều con vật vã, nổi chìm

trên dòng sông dƣ luận; có giai đoạn còn bị loại bỏ ra khỏi văn mạch của dân tộc. Nhƣng

những năm gần đây, dƣới ánh sáng của thời kì đổi mới, sự nghiệp văn chƣơng của họ Vũ đã

dần từng bƣớc đƣợc đánh giá lại một cách khách quan hơn.

Phóng sự là một thành tựu, là một bộ phận hợp thành quan trọng

6

trong trƣớc tác của ông, nên lịch sử vấn đề phóng sự không tách rồi vấn đề Vũ Trọng Phụng

trong tiến trình nghiên cứu, phê bình văn học. Nhƣng mảng sáng tác này lại có một "sinh

mệnh" riêng, sự kiện riêng, nên lịch sử vấn đề cũng có những đặc điểm riêng biệt. Suốt thời

gian qua, bầu không khí chính trị, xã hội luôn đóng vai trò quan trọng chi phối việc khảo cứu

văn chƣơng của họ Vũ, sự chi phối này càng mạnh mẽ hơn đối với sự xem xét, đánh giá

phóng sự Vũ Trọng Phụng, vì hơn bất cứ thể loại nào, phóng sự của ông luôn nhạy cảm,

"đụng chạm" trực tiếp đến những vấn đề chính trị, xã hội; đến chuyện "ngƣời thật, việc thật"

của đời sống.

Căn cứ vào những mốc lịch sử lớn, có ý nghĩa đối với xã hội và đời sống văn học,

chúng tôi chia lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng thanh ba giai đoạn nhƣ sau:

- Giai đoạn từ 1933 đến 1944,

- Giai đoạn từ 1945 đến 1985,

- Giai đoạn từ 1986 đến nay.

Để thấy rõ hiện trạng của việc nghiên cứu, phê bình phóng sự Vũ Trọng Phụng, chúng

tôi xin điểm lại những sự kiện chính theo dồng thời gian, đồng thời cũng tìm hiểu những lối

tiếp cận, phê bình khác nhau đối với mảng sáng tác này.

3.1 Giai đoạn từ 1933 - 1944

Từ năm 1933 đến năm 1944 đã có nhiều ý kiến sôi nổi luận bàn về phóng sự của Vũ

Trọng Phụng. Đây là câu chuyện giữa những ngƣời đƣơng thời: có luồng ý kiến tôn vinh,

ngợi ca; có luồng ý kiến phê phán, trong đó, gay gắt nhất là những ý kiến lên án, phủ định

nhằm "hạ bệ"; ý kiến tự bảo vệ của đƣơng sự và những ý kiến khảo cứu cẩn trọng, khách

quan...

Nhƣ nhiều nhà văn cùng thời, Vũ Trọng Phụng đã mở đầu sự nghiệp

7

bằng đôi ba truyện ngắn. Tuy có gây đƣợc sự chú ý ít nhiều của bạn đọc, nhƣng họ Vũ chỉ

thực sự "dậy" tiếng khi ông "trình làng" thiên phóng sự đầu tay đăng trên tờ Nhật Tân, tháng

8 năm 1933. Cạm bẫy người nhƣ là một sự bột phát, báo hiệu sự xuất hiện của một tài năng

lớn về phóng sự. Lê Tràng Kiều, trên tờ Văn học tạp chí đã cho biết: "Cạm bẫy người vừa ra

đời đã đƣợc ngay báo chí và các nhà phê bình cực lực hoan nghênh. Nó đã làm cho tài Vũ

Trọng Phụng không còn ai ngờ đƣợc nữa" [183, 54 - 55]. Và đúng là chỉ mấy năm sau đó, họ

Vũ đã liên tiếp cho in cả một xêri phóng sự dài "Những cuốn... Kĩ nghệ lấy Tây... Lục xì...

Cơm thầy cơm cô... đƣợc khắp ba kì hoan nghênh nhiệt liệt" (Nguyễn Triệu Luật) [183, 23].

Lan Khai trong Vũ Trọng Phụng (Mớ tài liệu cho văn - sử Việt Nam) kể rằng: "... trên các tờ

Ngọ Báo, Nhật Tân và nhiều báo khác, ngƣời ta bắt đầu đọc các bài truyện ngắn, phóng sự,

truyện dài do anh viết, cái tên Vũ Trọng Phụng ra đời lừng lẫy trong chớp mắt". [208, 38].

Dƣ luận đƣơng thời tiếp tục xôn xao trƣớc sự bừng sáng của cây bút phóng sự tài hoa.

Báo Tràng An tôn vinh Vũ Trọng Phụng lên hàng "ông vua phóng sự đất Bắc". Phùng Tất

Đắc viết lời Tựa cuốn Kĩ nghệ lấy Tây với lời ngợi ca nồng nhiệt: "ngòi bút phóng sự của ông

Vũ Trọng Phụng đã nói tới một độ rất cao trong nghệ thuật (...). Cuốn sách này (...) vào hàng

những công trình ảnh hƣởng xa rộng hơn, những công trình có thể vạch phƣơng hƣớng cho

văn nghệ, những công trình giúp đƣợc tài liệu cho đời sau khảo xét về buổi này" [157, 9].

Trên tơ Tin Văn, Nguyễn Thanh hƣởng ứng, tán thành vói Phùng Tất Đắc và đƣa thêm những

nhận xét mới mẻ: "Ông Vũ Trọng Phụng tác giả Kĩ nghệ lấy Tây, một thiên phóng sự mà chỉ

riêng cái đầu đề, cũng đủ làm cho ta phải ngạc nhiên (...). Bằng một thể văn tả thực, mới mẻ,

chua chát (...) đã lột hẳn tinh thần của đối tƣợng" [104, 265 - 270]. Năm 1938, trên tuần báo

Phóng sự, chuyên về phóng sự xuất bản tại Sài Gòn, Lãng Tử, một đồng nghiệp ở Nam Kỳ,

đã nhiệt thành

8

ngợi ca thiên phóng sự Kĩ nghệ lấy Tây và cảm phục tài năng của "ông vua phóng sự đất

Bắc": "ông đã vƣợt khỏi cái tầm thƣờng của số đông và tự tạo riêng cho mình một mảnh đất

bất khả xâm phạm. Rồi ông đứng trên ấy, trên cái mảnh đất mênh mông ấy để ghi chép từng

hồi, từng cảnh của một tấn bi kịch vĩ đại (...). Ở xứ ta, nền văn học đƣơng thơi còn nghèo

nàn, lối văn phóng sự chƣa đƣợc hoàn toàn phát triển. Tuy nhiên, với Kĩ nghệ lấy Tây của

ông Vũ Trọng Phụng, chúng ta có quyền hi vọng ở một tƣởng lai lạc quan" (Nhơn đọc "Kĩ

nghệ lấy Tây" của Vũ Trọng Phụng nói đến giá trị của phóng sự trong lúc Đông - Tây mói

gặp nhau - báo Phóng sự số 7, SG, 1938).

Nguyễn Triệu Luật cho rằng họ Vũ đã làm đƣợc điều kì diệu "một bƣớc, bƣớc lên bực

văn hào lỗi lạc". Đặc biệt, sau cái chết thƣờng tâm của Vũ Trọng Phụng, Tao Đàn, số đặc

biệt, tháng 12 năm 1939, với sự góp mặt của Ngô Tất Tố, Nguyễn Tuân, Lƣu Trọng Lƣ, Lê

Tràng Kiều... là một bản hòa tấu nỗi bi ai, ngợi ca văn tài, đức sáng của "ông vua phóng sự".

Tam Lang, nhà phóng sự tiên phong, đã chân thanh cảm phục Vũ Trọng Phụng về tài năng

phóng sự: "Đọc những thiên phóng sự ấy, tôi nhận thấy về mặt phóng sự - một lối văn do tôi

khỏi xƣớng - đã bỏ xa tôi lắm"! [178, 42]. Trƣờng Tửu ngợi ca bốn quyển Cạm bẫy người;

Cơm thầy cơm cô, Lục xì, Kĩ nghệ lấy Tây "là những kiệt tác... nền móng đầu tiên của nghệ

thuật phóng sự trong văn giới Việt Nam hiện đại" [178, 138]...

Luồng ý kiến ngợi ca, khẳng định, tôn vinh Vũ Trọng Phụng lức này nổi lên nhƣ một

"gam" chủ đạo. Tuy phong phú về ý tƣởng, nhƣng tất cả đều xuất phát từ cái nhìn thân ái đối

vói họ Vũ và phần nhiều có chung một lối phê bình dựa trên những ấn tượng chủ quan. Bằng

trực cảm và cái nhìn sắc sảo, những nhà văn chuyên sáng tác nói trên, đã đƣa ra những nhận

xét tinh tế và có khi đã đột nhập đƣợc vào cái "thần" của tác phẩm. Nhƣng do chủ yếu dựa

vào sự trải nghiệm, chƣa thật sự đƣợc dẫn dắt bởi

9

một tƣ duy lí luận, nên không ít những ý kiến chỉ mới dùng ở những phán đoán nghệ thuật,

tuy rất đúng nhƣng chƣa thật trúng những giá trị nhiều mặt của phóng sự Vũ Trọng Phụng.

Ngay cả với những cây bút làm phê bình nhƣ Phùng Tất Đắc, Nguyễn Thanh..., mặc dù đã

"đột phá" vào tác phẩm cụ thể (nhƣ Kĩ nghệ lấy Tây); nhƣng do chƣa có một "công cụ" phê

bình mới, nên cũng chỉ rút ra đƣợc những nhận định khái quát mang tính trực cảm, chủ quan

chứ chƣa có sự phân tích, lí giải sâu sắc, vì thế, chƣa tạo đƣợc sức thuyết phục cao.

Bên cạnh sự liên tài ngợi ca, tôn vinh Vũ Trọng Phụng thì một số nhà văn lại chê

trách, đả kích, lên án, phủ nhận, nhằm "lật đổ ngai vàng" của "ông vua phóng sự". Tiêu biểu

hơn cả là ý kiến gay gắt, thù địch của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai (tức Nhất Linh). Trên tờ Tin

văn (tháng 5.1936), Thái Phỉ lên án loại văn sĩ "Viện cái chủ nghĩa tả chân" để tả "cảnh dâm

uế một cách táo bạo". Ông khuyên "các nhà kĩ nghệ viết văn dâm uế" nên "hãm bớt cái đà"

không thì "công chứng lại nổi lòng công phẫn". Rõ ràng sự nhại lại từ "kĩ nghệ" ở đây là ám

chỉ phóng sự Vũ Trọng Phụng. Ngay 21 tháng 3 năm 1937, dƣới bút danh Nhất Chi Mai,

Nhất Linh viết bài Ý kiến một người đọc "dâm hay không dâm", đả kích đích danh "Nhà văn

Vũ Trọng Phụng tác giả thiên phóng sự Lục xì ở báo Tương Lai". [105, 494]. Nhất Linh nhắc

đến cảnh "con sen vạch quần để hở đùi non", "những chuyện hiếp dâm, làm đĩ, ăn cắp, bạc

bịp"... mà họ Vũ mô tả trong phóng sự. Và vị "chủ tƣớng" của Tự lực văn đoàn đã tỏ thái độ

"phẫn uất, khó chịu, tức tối" trƣớc nhà văn "có bộ óc đen và một nguồn văn càng đen" đã "bôi

đen" cuộc đời!

Họ Vũ đã tiến hành một cuộc "phản pháo" mạnh mẽ bằng hai bài bút chiến: Thư ngỏ

cho ông Thái Phỉ, chủ bút báo Tin Văn về bài "Văn chương

10

dâm uế" (trên Hà Nội Báo, 29 tháng 3, 1936) và bài Để đáp báo Ngày Nay: dâm hay không

dâm (đăng trên tờ Tương Lai; ngày 25 tháng 3 năm 1937). Vũ Trọng Phụng coi đây là dịp để

"bày tỏ cái chủ trƣơng" văn học lâu nay của mình: "Tả thực cái xã hội khốn nạn, công kích

cái xa hoa, dâm đãng của bọn ngƣời có của nhiều tiền..." [4, 130]. Thái độ công khai, không

thèm che đậy và lập trƣờng hiện thực triệt để, vị nhân sinh đã tạo cho họ Vũ cái thế "thƣợng

phong" trong cuộc tranh luận này.

Cũng đứng trên quan điểm đó, năm 1937, Vũ Trọng Phụng viết thƣ ngỏ cho độc giả

về thiên phóng sự Lục xì, giải thích vì sao mình đƣa nguyên văn bài Phong tình ca khúc vào

tác phẩm này. Họ Vũ cho rằng, ngoài tƣ cách một nhà văn, ông còn là một nhà báo nên "Phải

nói rõ sự thật cho mọi ngƣời biết" [4, 133] để ngƣời đọc phải ghê tởm cái nhà Lục xì, để các

cô gái tự răn mình, chứ không hề có dụng ý khiêu dâm...

Cuộc bút chiến giữa Nhất Linh, Thái Phỉ với Vũ Trọng Phụng đã phản ánh "đặc tính

của văn học thế hệ 1933 - 1945 là sự động đạt bằng những cuộc tranh luận sôi nổi giữa các

phe nhóm" [103, 643]. Giữa lúc phong hóa đang suy đồi vì phong trào Âu hóa, việc đƣa vấn

đề chống "văn chƣơng dâm uế" quả là một vũ khí lợi hại của Nhất Linh và Thái Phỉ. Cái sai

của Thái Phỉ, Nhất Linh ở đây là họ chỉ đi tìm những dấu hiệu mà họ cho là "dâm uế", "bẩn

thỉu, nhơ nhớp, dơ dáy" trích dẫn theo kiểu "vạch lá tìm sâu", để quy kết đạo đức, tƣ tƣởng,

suy ra "hành tung" của tác giả và phủ nhận toàn bộ giá trị của tác phẩm. Tuy nhiên, cũng phải

thấy lời viết táo bạo, "bạo đến sỗ sàng" của cây bút phóng sự Vũ Trọng Phụng cũng đã gây ra

ấn tƣợng về "cái dâm" không phải ở ít ngƣời. Sang đến năm 1944, Lê Thanh, tác giả Cuốn sổ

văn học vẫn còn nhắc lại "khoảng năm 1936 mấy tờ báo ở Hà Nội, đua nhau trình bày những

thể văn khêu tình, gợi

11

dục (...) những lời tự tình của bọn com thầy cơm cô, những cử chỉ trơ trẽn của gái giang hồ..."

[169, 162].

Ngay chính Vũ Trọng Phụng cũng chƣa thật thấu tình, đạt lí khi triết lí về cái dâm. Đã

có một số nhà văn đƣơng thời, nhƣ Thế Lữ, Khái Hƣng, Lan Khai, Trƣơng Chính, Tam

Lang... chê trách sự lộ liễu của họ Vũ khi viết về cái dâm; nhƣng họ đã không vì thế mà phủ

nhận các tác phẩm của "ông vua phóng sự".

Biên độ khảo cứu phóng sự Vũ Trọng Phụng đã đƣợc mở rộng thêm với lời phê bình

của Vũ Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại (1942). Vƣơn lên trên lời phê bình cổ điển, ngoài

việc dùng trực cảm, Vũ Ngọc Phan đã đặt phóng sự Vũ Trọng Phụng nhƣ một đối tƣợng

khách quan để khảo cứu và đã rút ra đƣợc những kết luận khoa học về cả phƣơng diện nội

dung và nghệ thuật. Vũ Ngọc Phan rất tinh tế khi cho rằng ngòi bút "tả chân triệt để" của họ

Vũ, thƣờng đạt độ "tuyệt xảo" khi tả "những cảnh nghèo khổ" nhƣ ở chƣơng VII (Bi hài kịch)

trong Cơm thầy cơm cô. Đặc biệt, Vũ Ngọc Phan còn nhận ra vai trò của "tố chất", cái

"giọng" phóng sự đối với phong cách, con đƣờng nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng. Vũ Ngọc

Phan còn phát hiện ra vai trò của nhân vật tôi (cái tôi kể chuyện) đối với nghệ thuật kể

chuyện trong phóng sự của họ Vũ và cho rằng Lục xì "là một thiên nghị luận về nghề mại

dâm (...) hơn là một thiên phóng sự" [141, 522] ...

Trong giai đoạn 1933 - 1944, còn có những ý kiến khác, thể hiện cách nhìn, cách tiếp

cận đối với văn nghiệp Vũ Trọng Phụng, trong đó bao hàm cả phóng sự của ông, nhƣ kiểu

tiếp cận phân tâm học, phong cách học... Nhƣng do những ý kiến này không trực tiếp đề cập

đến phóng sự, nên chúng ta xin dành làm cứ liệu trong phần khảo cứu nội dung và nghệ thuật

của phóng sự Vũ Trọng Phụng ở những chƣơng sau.

3.2. Giai đoạn 1945 – 1985b

12

Trong Hội nghị tranh luận văn nghệ tại Việt Bắc năm 1949, nhà thơ Tố Hữu đã trân

trọng khi nói về công lao của họ Vũ: "... cách mạng cám ơn Vũ Trọng Phụng đã vạch rõ cái

thực xấu xa thối nát của xã hội" [89, 157]. Năm 1950, trong bài giảng về thể phóng sự cho

các khóa đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến, nhà văn Nguyễn Đình Lạp đã đề cao sự đóng

góp của "ba chàng họ Vũ" đối với thể phóng sự, trong đó "Vũ Trọng Phụng là nhà phóng sự

phong phú nhất, sâu sắc nhất. Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì đã

làm cho độc giả say mê" [108, 302]. Năm 1953, nhà văn Ngọc Giao viết bài chiêu niệm Vũ

Trọng Phụng. Ông cho biết, khi làm phóng sự, họ Vũ thƣơng khai thác những tài liệu gián

tiếp: "Viết Kĩ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng chỉ nghe một lão hảo hán ngõ Sầm Công vui kể

cạnh khay đèn" [54, 12]; khi viết Cơm thầy cơm cô, họ Vũ cũng "chỉ lƣợm lặt đƣợc chút tài

liệu qua câu chuyện cợt đùa của mấy dân nghiện hút" [54, 12]. Nhƣng sau này, trong bài "Đôi

điều tôi biết về Vũ Trọng Phụng" (Tạp chí văn học, số 5, năm 1989), Ngọc Giao lại kể rằng,

để viết đƣợc một thiên phóng sự, Vũ Trọng Phụng đã phải đi thực tế vất vả, không quản cả

nguy hiểm tính mạng... Sự "tiền hậu bất nhất" này của một nhà văn đƣơng thời, lại là ngƣời

tự nhận có quan hệ gần gũi, thân thiết với họ Vũ, đã "gây nhiễu" cho việc tìm hiểu cách làm

phóng sự của Vũ Trọng Phụng.

Sau ngay hòa bình đƣợc lập lại (1954), ở miền Bắc, vào năm 1956 -1957 vấn đề Vũ

Trọng Phụng bỗng lại trở nên sôi nổi trên văn đàn. Nhƣ cùng một lúc, nhiều nhà văn, nhà

nghiên cứu, phê bình đã viết những bài tƣởng nhớ, bàn về con ngƣời, sự nghiệp văn chƣơng,

trong đó có đề cập đến thành tựu phóng sự của ông.

Với niềm "sung sƣớng và vinh dự" có đƣợc cái tên nhƣ Vũ Trọng Phụng, Nguyên

Hồng đã coi phóng sự Cạm bẫy người, là tác phẩm đánh

13

dấu sự mở đầu của khuynh, hƣớng văn học hiện thực, cho "thể văn chiến đấu linh hoạt". Theo

ông "Với hai thiên phóng sự đặc biệt Cơm thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số đỏ và

Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã làm chuyển động cả dƣ luận văn học bấy giơ, giơ cao thêm

ngọn cơ hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho một nền văn học tiến bộ" [89,

175 - 176].

Những bài viết trong tập san Vũ Trọng Phụng với chúng ta (do Minh Đức xuất bản)

cũng theo chiều hƣớng khẳng định, đánh giá cao tiểu thuyết, phóng sự... của họ Vũ. Phan

Khôi cho rằng họ Vũ là nhà văn "thông cảm với và tố khổ cho hạng ngƣời Việt Nam bị coi là

cặn bã" nên "những phóng sự Cơm thầy cơm cô, Kĩ nghệ lấy Tây, Cạm bẫy người (...) từ

trƣớc đến sau, đều hƣớng chiều về một đƣờng lối ấy cả" [88, 11].

Trong Lược thảo lịch sử văn học Viêt Nam, tập III, Vũ Trọng Phụng đƣợc dành mục

riêng nhƣ nhiều nhà văn đƣơng thời. Các tác giả Lược thảo... đã cho rằng họ Vũ có sở trƣờng

về phóng sự và tiểu thuyết. Các nhân vật trong Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy

cơm cô, Lục xì là hạng ngƣời "vì đồng tiền mà trở thành lƣu manh" [112 , 342]. Đồng thời

cũng phê phán việc họ Vũ "chú trọng tả cảnh dâm đãng của con ngƣời" trong một số phóng

sự và không tán thành với sự "biện bác" của họ Vũ về việc tả cái dâm...

Cũng thời gian này, Văn Tâm, một sinh viên trẻ, đã cho ra đời chuyên luận Vũ Trọng

Phụng - nhà văn hiện thực. Tác giả cho rằng, với "tình cảm nhân đạo sâu xa" trong phóng sự,

Vũ Trọng Phụng đã "làm cho độc giả xót thƣơng những hạng ngƣời bị xã hội coi là rác rƣởi,

cặn bã" [186, 159]. Văn Tâm đánh giá cao cách thức khai thác tài liệu để viết Lục xì của họ

Vũ. Theo Văn Tâm, do "trình độ nhận thức chính trị còn non yếu, Vũ Trọng Phụng đã không

phân biệt nổi ranh giới giữa hai khối tiến bộ và phản

14

động" [186, 172], nên đã có những so sánh không đứng giữa Trùm Ấm B với Stalin, phố

Hàng Cá với Moscou...

Cũng trong không khí ấy, Thiều Quang cho ra đời tập san phê bình Vũ Trọng Phụng -

Đời sống và con người. Thiều Quang đánh giá: "Viết Cạm bẫy người (...) Vũ Trọng Phụng đã

làm một cuộc cách mạng về nghề văn", đánh dấu "một bƣớc ngoặt tiến vào chủ nghĩa tả thực

xã hội" [165, 10].

Nhìn lại, sự khảo cứu phóng sự Vũ Trọng Phụng trong năm 1956 -1957 đã có một

bƣớc tiến hơn giai đoạn trƣớc: tiếp thu có phê phán, dựa trên quan điểm mĩ học duy vật.

Nhƣng do còn ảnh hƣởng của lời phê bình ấn tƣợng, trực cảm cùng vời cảm hứng ngợi ca và

lòng ngƣỡng mộ họ Vũ, nên không ít ý kiến đã rơi vào tình trạng thiên lệch, một chiều và có

khi cũng còn khá cực đoan.

Khi cuộc đấu tranh chống Nhân văn - Giai phẩm bƣớc vào hồi quyết liệt thì vấn đề

Vũ Trọng Phụng bị đẩy vào giữa con lốc xoáy. Đúng là những ngƣời cầm đầu nhóm Nhân

văn - Giai phẩm đã đề cao Vũ Trọng Phụng nhằm thực hiện mƣu đồ chính trị, nhƣng thay vì

phải đấu tranh, vạch trần việc lợi dụng tên tuổi họ Vũ, thì một số cây bút phê bình lại hƣớng

mũi nhọn vào ông và câu chuyện văn chƣơng đã bị đẩy sang lĩnh vực tƣ tƣởng, chính trị.

Trong thời gian này đã xuất hiện một bài viết của Hoàng Văn Hoan (dƣới hình thức

"Thƣ luân lƣu") nhan đề Một vài ý kiến về vấn đề tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong văn học

Việt Nam. Ông Hoàng đã cho rằng Vũ Trọng Phụng nhƣ "là một con trâu chọi hăng máu, bất

trừ ai, húc vào tất cả các hạng ngƣời, từ con đĩ, thằng lƣu manh cho đến ngƣời nhân dân thật

thà hiền lành, cho đến ngƣời cách mạng" [89, 241]. Theo ông thì: "Đối với

15

Đảng cộng sản, Vũ Trọng Phụng viết: "Có thể nói rằng những cuộc rối loạn xảy ra trên khắp

mặt địa cầu phần nhiều do các bàn tay bí mật của Mạc Tƣ Khoa gây nên, thì những cuộc

xiểng liểng của bọn thơ "Chủ nghĩa đổ bác", ở khắp Bắc Kỳ cũng đều do cái bàn tay bí mật

của ông Ấm B (ý muốn nói Bolchévich) dính vào vậy" [89, 231]. Và việc họ Vũ so sánh

Trùm Ấm B với Stalin, "kinh đô bạc bịp" với Moscou trong Cạm bẫy người là "chửi cộng sản

ra mặt" [89, 242]. ông còn cho rằng những triết lí về cái dâm của họ Vũ trong Lục xì và một

vài tác phẩm khác là "cả một ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ nhục dục" [89, 236].

Những năm sáu mƣơi, vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng không phải đƣợc "tạm gác

lại", nhƣ Việt Trung nhận xét (Nghiên cứu văn học, số 5.1960), mà đã đƣợc xem xét ở một

bình diện mới: chủ nghĩa tự nhiên. Vì cho rằng họ Vũ có "duyên nợ nặng nề" với chủ nghĩa

tự nhiên nên nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh kết luận "Lục xì căn bản là một tác phẩm tự

nhiên chủ nghĩa" [125, 117]. Cũng chung cái nhìn kiểu nhƣ vậy, nhà nghiên cứu Vũ Đức

Phúc đã đƣa ra một nhận định tổng quát: "Phần lớn phóng sự của Vũ Trọng Phụng xƣa kia

chỉ là những tiểu thuyết tự nhiên chủ nghĩa không thành tiểu thuyết, đƣợc "hƣ cấu" bằng cách

lƣợm lặt những mẩu chuyện bên cạnh bàn đèn thuốc phiện, nhƣng lại trá hình là phóng sự"

[150, 40].

Nhƣng kể từ thập niên bảy mƣơi đã có dấu hiệu đổi khác trong cách nhìn nhận vấn đề

Vũ Trọng Phụng, trong đó có phóng sự của ông. Mở đầu là ý kiến của nhà văn lão thành

Nguyễn Công Hoan ngƣời cùng thời với họ Vũ. Ông cho biết, vì những năm ba mƣơi, vì Hà

Nội báo chiều "thị hiếu độc giả" để cạnh tranh, và là ngƣời "ở báo ấy" nên họ Vũ đã viết

"mấy thiên phóng sự khá khêu gợi". Rồi "đến cái phóng sự phải nghiên cứu tài liệu

16

(...) cũng đặt cho cái tên là Lục xì" [178, 110]. Năm 1973, tác giả giáo trình Lịch sử văn học

Việt Nam 1930 - 1945 tập V (phần I), tuy không dành cho Vũ Trọng Phụng một chƣơng

riêng, nhƣng đã giới thiệu tóm tắt 4 thiên phóng sự (Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Lục xì,

Cơm thầy cơm cô) và kết luận "những tác phẩm trên đã đƣa Vũ Trọng Phụng lên hàng "ông

vua phóng sự đất Bắc" [120, 53]. Năm 1984, Vũ Trọng Phụng xuất hiện trên Từ điển văn học.

Phó giáo sƣ Nguyễn Hoành Khung đã giới thiệu khá kĩ về cuộc đời, văn nghiệp, khẳng định ý

nghĩa của hai phóng sự Cạm bẫy người và Kĩ nghệ lấy Tây đối với con đƣờng sáng tác của họ

Vũ. Những sự kiện nói trên đã có một ý nghĩa nhƣ là một sự khởi đầu cho việc phục hồi Vũ

Trọng Phụng diễn ra ở mấy năm về sau.

Cũng trong giai đoạn này, phóng sự Vũ Trọng Phụng cũng đã đƣợc bàn luận, ca ngợi

ở vùng tạm chiếm miền Nam, trong một số công trình văn học sử, lí luận văn chƣơng và

chuyên san kỉ niệm ông. Nhà văn học sử Phạm Thế Ngũ đã giới thiệu tóm tắt các phóng sự

Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô, Lục xì, và rút ra kết luận: "Đọc những

thiên phóng sự trên (...) ta thấy tất cả những gì gọi là hài hƣớc, bi đát, rùng rợn trong những

vết thƣơng xã hội lúc bấy giờ. Ta cũng thấy công phu điều tra, khiếu quan sát lịch duyệt của

tác giả (...) cây bút tả chân già dặn linh hoạt nhƣ chụp đƣợc sự thật (...). Ông moi móc những

vết thƣơng xã hội ấy nhƣ một ngƣời từng biết rõ, từng nằm trong đó, ghê tởm về những cái

đó và nói ra với một giọng mỉa mai chua chát, đôi khi đƣợm vẻ căm hờn" [133, 513 - 514].

Trong Bảng lược đồ văn học Việt Nam, Thanh Lãng nhận xét: "Vũ Trọng Phụng, trong Cạm

bẫy người (1933) cho chúng ta thấy cái xã hội mà Phạm Quỳnh đã từng ca ngợi chỉ là một xã

hội giả dối, tội lỗi, xấu xa" [103, 722]. Ngoài việc ca ngợi sức mạnh tố cáo, lột mặt trái

17

xã hội của cây bút phóng sự họ Vũ, tác giả Bảng lược đồ... còn cho rằng, vì họ Vũ, cũng nhƣ

các nhà văn tả chân đƣơng thời, chủ trƣơng "vẽ những cảnh quen thuộc hàng ngày diễu hanh

dƣới con mắt mọi ngƣời", "hay dùng hình thức phóng sự, điều tra để viết truyện", nên mới

thấy "còn gì sống động và cũng sƣợng sùng cho bằng những thiên điều tra của Vũ Trọng

Phụng trong Cơm thầy cơm cô hay Lục xì! Truyện nhƣ trốn tránh kết cấu. Chỉ còn la một sự

diễn hành" [103, 744].

Bên cạnh những phát hiện mới của hai nhà giáo khoa Phạm Thế Ngũ và Thanh Lãng,

còn có một số bạn văn thời "tiền chiến" và một số văn nghệ sĩ đã đề cập đến phóng sự của họ

Vũ. Chẳng hạn, năm 1971, nhân trả lời phỏng vấn, Tam Lang vẫn chân thành ngợi ca: "Vũ

Trọng Phụng viết sau tôi mà sắc bén hơn tôi". [142, 22]. Còn Dƣong Nghiễm Mậu thì rất đề

cao tài năng của họ Vũ, khi so sánh phóng sự của ông với các phóng sự của những tác giả

khác: "những phóng sự đó, nhiều khi phảng phất cái không khí phóng sự Vũ Trọng Phụng,

những nhân vật gần nhƣ củng bị "nhái" lại, ở đó có cả cái giọng Vũ Trọng Phụng, nhƣng

không vì thế mà có đƣợc những Vũ Trọng Phụng mới" [208, 65]. Các ý kiến kiểu nhƣ vậy,

chủ yếu dựa trên sự ấn tƣợng, trục cảm và ngợi ca một chiều. Đây nhƣ là sự tiếp nối của

luồng ý kiến thời "tiền chiến" ngợi ca, khẳng định phóng sự Vũ Trọng Phụng.

3.3. Giai đoạn 1986 - 1998

Năm 1986, công cuộc đổi mới đã tạo ra một bƣớc tiên mới đối với việc tiếp nhận di

sản văn học quá khứ. Vấn đề Vũ Trọng Phụng và phóng sự của ông đƣợc nhìn nhận lại trên

quan điểm lịch sử - cụ thể và có tính khoa học, khách quan. Trƣớc hết, phải kể đến sự xuất

hiện trở lại của các tác phẩm phóng sự của họ Vũ, sau một thời gian dài vắng bóng. Năm

1987,

18

Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô... đƣợc trích đăng lại trong tập II của

Tuyển tập Vũ Trọng Phụng (Nhà xuất bản văn học). Sang năm 1989, Nhà xuất bản Hà Nội tái

bản toàn văn Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô. Năm 1993, Cạm bẫy người đƣợc Nhà xuất

bản văn học in lại trọn vẹn. Đặc biệt, vừa qua, thiên phóng sự đƣợc xem thuộc loại "cấm kị"

nhất là Lục xì, cũng đƣợc Nhà xuất bản văn học cho tái ra mắt ngƣời đọc (1998). Không

những thế, hai phóng sự Kĩ nghệ lấy Tây va Cơm thầy cơm cô còn đƣợc chuyển thể, đƣa lên

màn ảnh với cuốn phim mang tựa đề Ánh sáng kinh thành...

Cùng với sự hiện diện này, phóng sự của họ Vũ cũng đã thu hút đƣợc sự chú ý của

một số nhà nghiên cứu, phê bình và đã trở thanh đề tài của một số luận án cao học và nghiên

cứu sinh. Trƣớc hết, phải kể đến sự đặt lại vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng của Giáo sƣ

Nguyễn Đăng Mạnh. Theo ông: "Vũ Trọng Phụng thành công hơn cả ở thể tài phóng sự với

Cạm bẫy người (1933) và Kỹ nghệ lấy Tây (1934). Hai tác phẩm này đã phát huy ở ông một

sở trƣờng quan sát sắc sảo, khả năng kí họa mau lẹ, linh hoạt và lối hành văn biến hóa hấp

dẫn..." [128, 25]. Về đặc điểm phóng sự của họ Vũ, Giáo sƣ cho rằng do "luôn luôn có nhu

cầu bộc lộ trực tiếp chủ quan của mình, vì thế cứ phải xem vào những sự kiện có thực nhiều

hình ảnh, tình tiết tƣởng tƣợng..., khiến phóng sự của ông bao giơ cũng gần với bút pháp tiểu

thuyết" [128, 25]. Giáo sƣ coi Lục xì là tác phẩm tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu cho sáng tác

của họ Vũ, còn ở các tác phẩm khác, nếu có chủ nghĩa tự nhiên thì chỉ là "yếu tố xen kẽ".

Một năm sau, Giáo sƣ đã dựng chân dung Vũ Trọng Phụng "ông vua phóng sự" (Bài giới

thiệu cuốn Kĩ nghệ lấy Tây, Cơm thầy cơm cô do Nhà xuất bản Hà Nội tái bản, 1989). Ông

đánh giá "trong đời sống văn học hợp pháp thời kì 1930 - 1945, có lẽ không có tập phóng sự

nào có đƣợc giá trị hiện thực sâu sắc" nhƣ thiên

19

phóng sự Cơm thầy cơm cô và với tác phẩm này, họ Vũ "đã tỏ ra là một ngòi bút có khả năng

phân tích và lí giải nhiều hiện tƣợng xã hội một cách sắc sảo" [129, 6 - 7]. Là ngƣời trực tiếp

tuyển chọn và giới thiệu phần phóng sự trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Phó giáo sƣ Trần

Hữu Tá đã nhấn mạnh những nội dung và giá trị đặc sắc của hai thiên phóng sự Cạm bẫy

người và Cơm thầy cơm cô. Theo ông:"Đằng sau những nhân vật Cạm bẫy người (...) ngƣời

đọc phần nào thấy đƣợc hình ảnh của xã hội thành thị trụy lạc hóa hồi những năm 30 và tình

trạng bần cùng, bế tắc, lƣu manh hóa của loại tiểu tƣ sản lớp dƣới và dân nghèo thanh thị lúc

bấy giơ" [207, 8]. Ông còn đề cập đến tiêu đề tiểu thuyết phóng sự của tác phẩm Cạm bẫy

người và cho rằng "khuynh hƣớng tiểu thuyết hóa ở một mức độ vào đấy (...) là một đặc điểm

của ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng" [207, 8].

Năm 1988, Vũ Trọng Phụng đƣợc dành một vị trí xứng đáng trong bộ giáo trình quy

mô bậc Đại học, mở đầu cho việc đƣa văn chƣơng họ Vũ trở lại với chƣơng trình văn học

Việt Nam trong nhà trƣờng. Trong giáo trình này, Phó giáo sƣ Nguyễn Hoành Khung đã đề

cập đến giá trị nội dung của các thiên phóng sự Cạm bẫy người, Kĩ nghệ lấy Tây... và đánh

giá Cơm thầy cơm cô là một tác phẩm xuất sắc. Theo ông, trong Kĩ nghệ lấy Tây những yếu

tố tự nhiên chủ nghĩa đã thể hiện ở quan điểm sinh lí và lối viết sống sƣợng; nhƣng điều nổi

lên trong toàn bộ phóng sự của Vũ Trọng Phụng là "lối viết chính luận nghệ thuật đanh sắc

(...) đƣợc phát huy ở thể loại báo chí nghệ thuật này" [93, 212]. Đặc biệt, trong phần Kết luận,

ngƣời viết đã khẳng định vị trí và công lao to lớn của họ Vũ đối với thể phóng sự: "ông là

một trong số những ngƣời mở đầu và là ngƣời có công lớn nhất trong việc đƣa thể loại phóng

sự đến thanh thục" [93, 249 - 250]. Trong lời phát biểu tại cuộc Hội thảo kỉ niệm Vũ Trọng

Phụng,

20

ngày 13 tháng 10 năm 1989 ở Hà Nội, Phó giáo sƣ Nguyễn Hoành Khung còn nhiệt thành

khẳng định: "Chƣa có phóng sự nào kể cả trƣớc và sau cách mạng có thể vƣợt đƣợc Cơm thầy

cơm cô và Kĩ nghệ lấy Tây. Đọc thấy sợ và sƣớng lắm, viết phóng sự nhƣ thế thì thật là tuyệt

vời" (Băng ghi âm).

Năm 1995, trong lời bạt cuốn Phóng sự chọn lọc, nhà nghiên cứu, phê bình văn học

Vƣơng Trí Nhàn cũng đã cho rằng, đứng về mặt thuần túy thể loại thì phóng sự của họ Vũ

"đã là một cái gì rất chín, rất thành thục, không chê vào đâu đƣợc" [101, 450].

Trong khoảng mƣời năm qua, khi văn chƣơng Vũ Trọng Phụng trở lại với nhà trƣờng

thì dƣờng nhƣ có một sự "bùng nổ" những khóa luận, luận văn, luận án lây đề tài về tiểu

thuyết và phóng sự của ông. Nhƣng, nhƣ chúng tôi đã trình bày ở phần mở đầu, đề tài riêng

về phóng sự còn rất ít. Ở bậc sau đại học, có hai công trình tiêu biểu nhƣ sau:

Luận văn Thạc sĩ "Những nét đặc sắc của ngồi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng" của

Nguyễn Huy Quảng, Đại học sƣ phạm Thái Nguyên, tháng 8 năm 1996.

Luận án Phó tiến sĩ "Đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối với lịch sử văn học Việt Nam

hiện đại trong lĩnh vực phóng sự và tiểu thuyết phóng sự" của Trần Đăng Thao, Đại học sƣ

phạm Ha Nội I, tháng 10/1996.

Ở hai công trình nói trên, các tác giả đã đề cập đến một số vấn đề thuộc cả lĩnh vục:

nội dung và nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Nguyễn Huy Quảng tìm thấy sự đặc

sắc của ngòi bút phóng sự này ở phƣơng diện tiếp cận va thể hiện. Trần Đăng Thao đề cập

đến sự phản ánh, phơi bày cuộc sống đau thƣơng trong xã hội, phƣơng thức tự sự, xu hƣớng

tiểu thuyết hóa, nghệ thuật tiếp cận hiện thực trong các thiên phóng sự của họ Vũ. Đó là

những đóng góp đáng quý.

21

Tuy nhiên, do giới hạn trong khuôn khổ của luận văn cao học và do cùng một lúc phải

thực hiện cả hai nhiệm vụ, tìm ra sự đóng góp của họ Vũ ở cả lĩnh vực phóng sự và tiểu

thuyết phóng sự, nên các tác giả chƣa có dịp bao quát thêm nhiều tƣ liệu, những vấn đề đƣợc

nêu ra ít đƣợc lí giải và biên độ khảo sát chƣa mở rộng để hƣớng sang các phƣơng diện khác

của đối tƣợng nghiên cứu.

Thực ra, những điều "chƣa" này không phải là khiếm khuyết của hai công trình nói

trên; mà đó nhƣ là những mục tiêu nghiên cứu nhằm từng bƣớc chiếm lĩnh toàn diện di sản

phóng sự của Vũ Trọng Phụng. Đây là công việc đòi hỏi sự "chạy tiếp sức" của những công

trình nghiên cứu mới.

Trên bƣớc đƣờng nghiên cứu những ảnh hƣởng của phân tâm học Freud trong sáng

tác của Vũ Trọng Phụng, tác giả Nguyễn Thành đã đƣa ra một cách nhìn mới để lí giải những

yêu tố tự nhiên chủ nghĩa trong thiên phóng sự Lục xì. Theo ông: "Trong phóng sự này không

có một chỗ nào có tính chất khiêu dâm, cũng không có vân đề tự nhiên chủ nghĩa" [191, 58].

Nhận định này có một sự khác biệt đối với nhiều nhà phê bình, nghiên cứu.

Trên đây là những nét cơ bản về lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng. Nhƣ một

vấn đề thời sự kéo dài, suốt hơn nửa thế kỉ vừa qua, lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng

đã diễn ra khá sôi động và có những lúc căng thẳng, phức tạp. Bản thân phóng sự của ông có

những chỗ phức tạp. Từ năm 1933 đến 1985, tuy vẫn đƣợc một số nhà nghiên cứu, nhƣ Vũ

Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Nguyễn Đăng Mạnh... nghiên cứu dƣới góc độ học thuật; nhƣng

có một số ngƣời đã chỉ xem xét phóng sự của họ Vũ ở bình diện đạo đức, chính trị và coi đó

là thứ "văn chƣơng dâm uế", đồi trụy, phản động. Một thời gian khá dài, phóng sự của Vũ

Trọng Phụng đã

22

không đƣợc khảo cứu một cách toàn diện.

Từ năm 1987, cùng với sự xuất hiện trở lại những phóng sự của Vũ Trọng Phụng,

những hƣớng tiếp cận mới trong nghiên cứu đã đƣợc mở ra. Những kết quả đạt đƣợc trong

thập niên vừa qua đã đánh dấu bƣớc khởi đầu đối với việc "phát hiện lại" ông vua phóng sự.

Lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng đã mở sang một trang mới... Với công sức của

nhiều ngƣời, chắc rằng bức chân dung "ông vua phóng sự" sẽ đƣợc dựng lên một cách đầy

đặn, trung thực hơn.

4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án này lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử làm nền

tảng lí luận. Căn cứ vào đối tƣợng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu, Luận án xác định cơ sở

lí luận và các phƣơng pháp nghiên cứu chính nhƣ sau:

- Từ cơ sở lí luận văn học và báo chí về thể kí, xác định một số đặc điểm của thể

Phóng sự báo chí và Phóng sự văn học.

- Vận dụng phƣơng pháp lịch sử để khảo sát quá trình phát sinh, phát triển của thể

phóng sự và lịch sử đánh giá, phê bình phóng sự Vũ Trọng Phụng, tìm hiểu giá trị hiện thực

và tƣ tƣởng, những sai lầm, bất cập của ông.

- Vận dụng phƣơng pháp tiếp cận hệ thống và phƣơng pháp so sánh để nghiên cứu cấu

trúc nội tại của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Đặt phóng sự trong thanh tựu sáng tác của ông và

trong diện mạo chung của thể phóng sự đƣơng thời, nhằm tìm ra những điều riêng biệt của

"ông vua phóng sự".

- Vận dụng phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học để nghiên cứu, khảo sát đặc điểm về

nghệ thuật và đặc điểm lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng.

23

Đó là những phƣơng pháp chủ yếu và hƣớng vận dụng chính. Còn trong quá trình

khảo sát sẽ vận dụng đan xen, phối hợp các phƣơng pháp. Ngoài ra, luận án còn sử dụng một

số phƣơng pháp bổ trợ nhƣ phân loại, thống kê... để giải quyết một số vấn đề cụ thể khi khảo

sát.

5. Đóng góp mới của luận án

Do mở rộng biên độ khảo sát theo hƣớng tìm ra những đặc điểm của phóng sự Vũ

Trọng Phụng nên luận án tham vọng đem lại những đóng góp mới nhƣ sau:

Trên cơ sở nghiên cứu lí luận văn học và lí luận báo chí về thể phóng sự, tiến hành

minh định quan niệm: phóng sự văn học, phóng sự báo chí và phóng sự mang yếu tố tiểu

thuyết.

Tìm hiểu giá trị mới mẻ của bức tranh hiện thực trong phóng sự của họ Vũ, để thấy rõ

năng lực nhận thức, sự tìm tòi về tư tưởng và những sai lầm, bất cập của "ông vua phóng sự".

Trình bày một số đặc điểm chính về phƣơng diện nghệ thuật, để thấy sự "khôn

ngoan", độc đáo trong cách làm phóng sự của Vũ Trọng Phụng.

Khảo sát bình diện ngôn ngữ để tìm đặc điểm nổi bật của lời văn phóng sự Vũ Trọng

Phụng.

6. Bố cục của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án này gồm có 4 chƣơng:

Chương 1: Một số vấn đề về thể phóng sự.

Chương 2: Phóng sự Vũ Trọng Phụng: hiện thực và tƣ tƣởng.

Chương 3: Đặc điểm về phƣơng diện nghệ thuật.

Chương 4: Đặc điểm lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng.

24

CHƢƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ THỂ PHÓNG SỰ

1.1. Một số quan niệm về thể phóng sự

1.1.1. Một ít tư liệu về thể phóng sự ở nước ngoài

1.1.1.1 Sự ra đời của thể phóng sự

Vào thế kỉ thứ XIX, ở phƣơng Tây, báo chí trở thành một cái "dàn" thông tin đại

chúng và là cơ hội cho những ngƣời cầm bút công bố rộng rãi tác phẩm của mình.

Sự phát triển của báo chí đã tạo ra một đội ngủ nhà báo, nhà văn đông đảo. Nghề làm

báo hỗ trợ cho nhà văn không chỉ bởi nó buộc nhà văn viết ngay lập tức và thiết lập giao tiếp

thƣờng xuyên với từ ngữ sinh động, mà chủ yếu bởi nó buộc nhà văn phải thƣờng xuyên liên

hệ với thực tế. Nhiều nhà văn, nhà báo lớn của phƣơng Tây đã từng rèn cây bút của mình

trong "trƣờng văn, trận bút" sôi động của báo chí. Ở đó, họ rèn luyện sự mẫn cảm, óc tinh

nhạy, năng lực sáng tạo, bồi đắp ý tƣởng chính trị, tƣ tƣởng nhân văn... Đó chính là môi

trƣờng nảy sinh nhiều thể văn - báo, trong đó có thể phóng sự.

Từ điển nghiên cứu văn học của Đức (Chủ biên: GS-TS. Claus Träger, NXB

Bibliographisches Institut, Leipzig, 1986) cho rằng phóng sự là một "Thể loại văn học, phát

triển lên từ loại tƣờng thuật tai nghe mắt thấy của báo chí trong mối quan hệ qua lại của sự

miêu tả khách quan và những phát biểu chủ quan (...). Bắt nguồn từ báo chí và đáp ứng

những đòi hỏi của nó (ngắn gọn, cụ thể, tính chất tƣờng thuật và cung cấp tƣ liệu, thông

25

tin) phóng sự đã phát triển thành thể loại riêng (...). Người Mỹ tên là W.Iruing đã thể hiện

những ấn tƣợng của ông về nƣớc Mỹ và nuớc Anh trong cuốn Sketch Book (1819) của mình,

hay Ch. Dickens miêu tả cuộc sống ở Luân Đôn khi ông tập hợp các Sketches by Boz (1835);

trong văn học Đức, G. Weerth, trên cơ sở những kinh nghiệm của mình, đã viết Ký sự Anh

quốc (1843) và Những ký sự khôi hài về đời sống thương mại Đức (1845), khi ông làm chủ

bút Nhật báo sông Ranh mới. Trong những kí sự này cũng nhƣ trong các phóng sự về nƣớc

Anh của Th. Fontaul (1882) - mà từ đó ra đời các cuốn nhƣ Một mùa hè ở Luân Đôn (1854),

Từ Anh quốc, Những bài nghiên cứu về thư từ về sân khấu nghệ thuật và báo chí Luân Đôn

(1860) và Phía bên kia Tweed (1860) - bằng một phƣơng thức hết sức hấp dẫn đã hòa quyện

đƣợc sự tƣờng thuật với sự nâng cao bằng hƣ cấu các sự kiện. Từ đây trở đi phóng sự chứng

tỏ khả năng của nó đặc biệt ở những nơi mà những sự biến đổi xã hội cần phải đƣợc nhanh

chóng suy xét và thúc đẩy" (trang 434 - 435).

Theo Encyclopédia Universalis (Bách khoa toàn cầu) xuất bản ở Pari năm 1991, thì

thể phóng sự "Ra đời ở Mỹ trong chiến tranh Nam Bắc (1861 - 1865) phóng sự đã nhanh

chóng phát triển trong các báo Anglo-Saxonne và trên mục Thời luận" lúc đó [215, 326]. Còn

tác giả bài xã luận Phỏng sự là gì đăng trên trang 2 của báo Phóng sự, số 3, năm 1938 ở Sài

Gòn cũng cho rằng "Lần đầu hết, trên tờ báo New - York Herald xuất bản Ở Nữu Ước vào

năm 1871, người ta thấy một bài của Stanley thuật chuyện mình đi tìm ông Livingstone ở hồ

Tanganuyika. Bài kĩ thuật ấy, Stanley viết bằng một lối văn mới lạ, chưa từng thấy bao giờ và

nó có cái mãnh lực lôi cuốn người xem làm cho thiên hạ phải ngạc nhiên và hoan nghênh

nhiệt liệt. Đó là thể văn phỏng sự do nhà báo Stanley là người đầu tiên đã sáng tạo ra và cái

danh từ "phỏng viên" cũng bắt đầu có từ đó. Trước sự thành công của Stanley, các báo ở

Nữu Ước và trong thế giới mới lục tục bắt chước theo. Và trong lịch sử của văn học thế giới

từ ấy, người ta đã ghi

26

tên nhà phỏng viên Stanley bằng nét chữ vàng. Về phỏng sự, Stanley là thủy tổ".

Cũng theo Bách khoa toàn cầu (Encyclopedia Uniuersalis) nói trên của Pháp, sau khi

thể phóng sự đã có mặt trên báo chí Mỹ, thì: "báo chí Pháp còn lâu vẫn dè dặt, ngập ngừng,

các kí giả, chủ yếu là các nhà biên niên và những nhà bình luận đời sống chính trị quốc gia,

nhận thức không đúng cái sản phẩm mới này". Và bài xã luận Phỏng sự là gì của báo Phóng

sự, số 3, tr.2 năm 1938 ở Sài Gòn cũng cho biết: "Văn phỏng sự nhập cảng vào nƣớc Pháp rất

muộn. Mãi đến cuối thế kỉ 19, mới có ngƣời bắt chƣớc Stanley về thể văn ấy. Rồi đến bây giờ

thì nó đã chiếm một địa vị quan trọng trong văn chƣơng Pháp. Phỏng sự đã thịnh hành cho

đến đỗi phỏng sự tiểu thuyết đã thay thế cho phong tục tiểu thuyết. Nhiều nhà danh sĩ Pháp đã

nhờ lối văn ấy mà khét tiếng nhƣ Albert Londres (đã chết trong vụ đắm tàu Philippar lúc đi

phỏng sự ở Tàu về), Roland Dorgeles, Pierre Mac Orlan, Louis Roubaud, Andrée Viollis... và

gần đây Roger Marlin du Gard". Lúc ấy, theo Léon Daudet: "Cái ghế nhà báo quý giá hơn

ngai vàng".

Sự trùng hợp trong những tài liệu khác nhau nói trên có thể cung cấp cho ta một vài

thông tin về quá trình phát sinh của thể phóng sự.

Giáo trình Tác phẩm kí báo chí, tập Một, (Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Nhà xuất bản Giáo dục, H.1995, trang 45) thì cho rằng "Trong lịch sử, ngƣời Anh là ngƣời

đầu tiên sử dụng phóng sự trên báo chí". Tác giả Các thể kí báo chí cũng có ý kiến tƣơng tự

và còn cho biết là: "Sau đó ít lâu, trên các báo chí ở nƣớc Pháp, phóng sự cũng xuất hiện với

tƣ cách là bài viết về quá trình điều tra của phóng viên đối với những con ngƣời, những sự

việc chứa nhiều điều bí ẩn..." [28, 61].

Có thể còn có những nguồn tƣ liệu khác cho thấy rõ hơn sự phát sinh của thể phóng

sự. Đến đầu thế kỉ XX, đặc biệt là kể từ sau chiến tranh thế

27

giới thứ Nhất, thể phóng sự rất thịnh hành và ngày càng phát triển, khẳng định chỗ đứng

vững chắc của mình. Có thể kể hàng loạt những tác giả lớn và những tác phẩm phóng sự danh

tiếng nhƣ John Reed vói Mười ngày rung chuyển thế giới (viết về những ngày sôi động của

cuộc Cách mạng tháng Mƣời vĩ đại - 1917), Hem Barbusse vói Khói lửa, Jack London, Upton

Beall Sinclair vói những tác phẩm Dân dưới vực thẳm, Rừng rậm, Julius Fucik vói Viết dưới

giá treo cổ, Mácxim Gorki với Trên những nẻo đường Liên bang Xô viết, Edgar Snow với

Ngôi sao đỏ ở Trung Quốc, E. Keat với Nước Trung Hoa bí mật, Andrée Viollis với Đông

Dương cấp cứu, Burchett với Ngày thứ 30 Ở Hirôsima, Lục Trụ Quốc với Thượng Cam Lĩnh,

Ngụy Nguy với Ai là người đáng yêu nhất, v.v...

Có thể kể thêm những tên tuổi khác nữa nhƣ Jean Cocteau, André Malraux (Pháp);

ILia Êrenbua, Boris Pôlêvôi, Congstantin Simonov, Vlađimia Linđin (ở Nga); Hạ Diễn, Xu

Chi, Liu Binyam (ở Trung Quốc), Vũ Trọng Phụng (ở Việt Nam), v.v... Đây là những tên tuổi

sẽ gắn mãi với lịch sử phát triển của thể phóng sự.

1.1.1.2 Những quan niệm về thể phóng sự

Trong các ngôn ngữ ở châu Âu, nhƣ tiếng Pháp, tiếng Nga, thuật ngữ phóng sự đều

bắt nguồn từ một từ tiếng Anh là Report. Theo Từ điển từ nguyên (Dictionnaire

Etymologique) của Anbert Dauzat, do Larouss xuất bản năm 1947, ở trang 625 và 725 có hai

từ: re (lặp lại), port (mang vác, mang sự kiện). Vì vậy, có thể xem từ report của tiếng Anh có

nguồn gốc từ hai từ Latinh cổ này ghép lại.

Là một thể loại mới rất đắc dụng nên phóng sự đã "phát tán" và nhanh chóng "bắt rễ"

vào đời sống báo chí, văn học nhiều quốc gia. Từ thực tế sáng tác, ở mỗi nƣớc đã có những

quan niệm khác nhau về thể loại này. Chẳng hạn, ở Pháp, từ điển Le Petit Larouss, năm 1996,

trang 878 giải

28

thích từ Reportage theo 3 nghĩa: "là một bài báo viết theo sự điều tra của phóng sự viên; là

bài điều tra đƣợc công bố trên đài, báo ảnh, truyền hình; là chức năng, nhiệm vụ của một

phóng sự viên thuộc một tờ báo". Từ điển Petit Robert, năm 1973, trang 1525 cho rằng:

"Phóng sự là một bài báo hay một loạt bài báo, trong đó phóng viên phản ánh một cách sinh

động những gì mà anh ta đã nhìn và nghe thấy...". Còn trong Bách khoa toàn cầu thì cho

rằng: "Phóng sự là tƣờng thuật những điều trông thấy (từ động từ tiếng Anh to report va tiếng

Pháp là rapporter). Phóng sự là bài báo đƣợc đặc trƣng bởi sự quan trọng của miêu tả: bầu

không khí bao phủ sự việc, những chi tiết hình tƣợng, những chi tiết về con ngƣời, hay những

chi tiết độc đáo, những mầu sắc... tất cả cho phép ngƣời đọc thấu hiểu biến cố, hoàn cảnh bao

quanh nó, mối quan hệ giữa các nhân vật chủ chốt. Chúng tôi xin nhắc rằng, tất cả mọi thông

tin đều phải xác định, ít nhất, bằng sự trả lơi 5 câu hỏi: ai, cái gì? ở đâu? khi nào? như thế

nào? tại sao? cho phép đồng thời miêu tả và giải thích" (tài liệu đã dẫn).

Cũng ở Pháp, một số nhà văn lại có quan niệm khác về thể phóng sự. Chẳng hạn,

trong bài Tựa cuốn Cherie năm 1884, nhà văn Edmond de Goncourt "cảnh báo" các nhà văn

đƣơng thời: "Chúng tôi nhắc lại, ngày mà ở mỗi ngƣời có học thức không còn nữa sự cố gắng

để viết, và sự cố gắng để viết theo quan điểm của riêng mình, thì ngƣời ta có thể biết chắc

chắn rằng ở Pháp, phóng sự sẽ kế nhiệm văn chương". Nhƣng sang thế kỉ XX, qua thực tiễn

văn học, Andrée Gide dƣờng nhƣ đã "phản bác" lại ý kiến ấy, khi khẳng định: "phóng sự còn

lâu mới loại bỏ đƣợc văn chƣơng, cũng nhƣ nhiếp ảnh còn lâu mới loại bỏ đƣợc giá trị vốn có

của hội họa" (Journal 10 Avil 1943). Còn nhà văn Jean - Paul Sartre thì đƣa ra lời tiên đoán:

"Thực vậy, hình nhƣ đối với chúng ta, phóng sự tham dự vào các thể loại văn chƣơng và nó

có thể trở thành một trong những thể loại quan

29

trọng nhất của loại thể văn chƣơng" (Situations, 1947, trang 30).

Ở Mỹ, tuy đã có những thiên phóng sự hay của Jack London, Upton Sinclair... nhƣng

nhà văn, nhà báo Mark Twain lại quan niệm rằng phóng sự chỉ la sự ghi chép lại một cách

giản đơn, máy móc một hiện tƣợng nào đó. Còn cuốn từ điển Óepxtơ cũng chỉ coi phóng sự

là một sự ghi chép, mô tả, tƣờng thuật lại một hiện tƣợng, chẳng hạn một cuộc họp Quốc

hội...

Ở Liên Xô trƣớc đây, nhiều ý kiến cũng chỉ xem phóng sự là một thể loại (жанр) của

báo chí. Từ điển Bách khoa Xô Viết, năm 1985, trang 1117 cũng định nghĩa: PEПOPTAЖ

(mƣợn tiếng Pháp là reportage, từ này lại mƣợn từ tiếng Anh report) có nghĩa là сообщать,

tức là loan tin, báo tin, đƣợc dùng làm thuật ngữ chỉ thể loại phóng sự báo chí, phát thanh,

truyền hình của ngƣời tham dự vào sự kiện, đó là phóng viên. Trong cuốn Từ điển tiếng Nga

của X.I. Ơgiêgov, xuất bản năm 1981, trang 603, từ Репортаж cũng chỉ bao hàm 2 nghĩa:

thông báo tin tức, sự kiện trên báo chí, phát thanh, truyền hình, là sự tƣờng thuật công việc.

Nhà phong cách học Nga G.Ia. Solganic trong cuốn Phong cách phóng sự (Стил

Репортажa) do trƣờng đại học Tổng họp Lômônôxốp xuất bản năm 1970, cũng coi phóng

sự là một thể loại thuộc phong cách báo chí. Theo ông, "Phóng sự là tai và mắt của độc giả.

Tác giả của phóng sự chỉ có thể là ngƣời chính bản thân quan sát sự kiện hoặc đôi khi cũng

tham dự vào sự kiện" (trang 4).

Giáo sƣ Caren Xtorocan ở Tiệp Khắc trƣớc đây đã đƣa ra khái niệm "phóng sự hiện

đại". Theo ông thì "Trong phóng sự hiện đại, không phải là một sự ghi chép giản đơn, mà còn

là sự trả lời một loạt câu hỏi phức tạp liên quan đến cuộc sống chúng ta" [28, 213].

Tác giả mục Reportage của Từ điển nghiên cứu văn học (của Đức

30

Tài liệu đã dẫn), ngoài việc cho biết sự ra đời của thể phóng sự còn quan niệm rằng: "Những

tiêu chí quan trọng nhất của nó là thể hiện một cách chân thực và thuyết phục ngƣời đọc - tức

là vƣợt lên trên sự thông báo thuần túy các sự kiện, hoàn cảnh và những tiến trình có ý nghĩa

xã hội trong mối quan hệ và trong sự phát triển của chúng, cũng nhƣ miêu tả một cách có thể

nếm trải đƣợc và có hiệu quả thẩm mĩ và tình cảm về con ngƣời. Những khả năng tác động

của phóng sự xuất phát từ các khả năng cung cấp tƣ liệu về các sự kiện của thể loại cũng nhƣ

từ cái năng lực đánh giá và thể hiện nghệ thuật của tác giả (...), nhờ vào khả năng chủ quan

của tác giả trong việc thể hiện có tính chất phê phán - đánh giá cũng nhƣ gây hiệu quả thẩm

mĩ và tình cảm, phóng sự đã vƣợt lên sự trình bày các tin tức chỉ có tính cách thông báo, rời

rạc, thiếu nghệ thuật" (trang 434).

1.1.2 Một số quan niệm ở Việt Nam về thể phóng sự

1.1.2.1 Giai đoạn 1930 - 1945

Đối với đời sống báo chí và văn học Việt Nam, phóng sự là một loại tân văn, sản

phẩm của công cuộc hiện đại hóa văn học trong những thập niên đầu thế kỉ này.

Trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895) chƣa thấy xuất hiện từ

Phóng sự. Lần đầu tiên từ Phóng sự xuất hiện ở nƣớc ta, có lẽ, là ở cuốn Việt Nam tự điển

của Hội khai trí tiến đức, xuất bản năm 1931. Ở trang 441 của cuốn từ điển này có ghi:

"Phóng sự: người hỏi tin cho nhà báo". Sang năm 1932, tuy không có mục từ Phóng sự,

nhƣng trong Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh lại có hai chữ: phóng (bắt chước, hỏi, phỏng

theo) và sự (việc). Nếu ghép hai từ này lại thì từ Phóng sự có nghĩa là phỏng theo sự việc (đã

xảy ra), Ở giai đoạn 1930 - 1945, cùng với tiểu thuyết, thơ mới, phóng sự là một thể văn phát

triển mạnh mẽ. Ngƣời ta

31

tranh luận kịch liệt về Thơ mới, nhiều ngƣời "lập ngôn" về tiểu thuyết, nhƣng với thể phóng

sự thì tình hình có khác. Mặc dù có nhiều nhà văn, nhà báo viết phóng sự, thậm chí một số

ngƣơi còn "tự tác" ra những thuật ngữ lai ghép nhƣ tiểu thuyết - phóng sự, phóng sự - tiểu

thuyết... nhƣng không thấy có sự bàn luận sôi nổi về thể tài này. Có tình hình nhƣ vậy, có lẽ

là do lúc đó, tiểu thuyết hiện đại và Thơ mới là những thể chủ đạo, thu hút mọi sự quan tâm,

lí giải của mọi ngƣời. Theo tài liệu gần đây mới đƣợc công bố thì có lẽ, Vũ Trọng Phụng là

ngƣời đầu tiên ban đến thể phóng sự. Trong bức thƣ gửi vợ chồng ngƣời bạn là bà Đồng Thị

Bích Khuê và ông Nguyễn Văn Đạm đề ngày 31 tháng 12 năm 1935, họ Vũ đã cho rằng:

"Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể văn gần nhau. Phóng sự là một thiên truyện kể với cơ sở

là những điều mà nhà báo đã từng mắt thấy, tai nghe, trừ phi là một thiên "phóng sự trong

buồng", nhà báo nghe ngƣời ta kể lại cái mà mình chƣa biết bằng tai, bằng mắt" [89, 125 -

126].

Ở tờ Phóng sự, báo chuyên về phóng sự xuất bản ở Sài Gòn từ tháng 11 năm 1938,

trong một loạt bài xã luận nhƣ: "Chào độc giả" (Số khai trƣơng, tháng 11 năm 1938), "Phỏng

sự là gì?" (số 3 năm 1938), "Làm phóng sự khó hay dễ?" (số 9 Jeudi 12 Janvier 1939), "Kiếp

sống của phỏng sự viên" (số 1 - 1938), v.v... không thấy định nghĩa thế nào là phóng sự. Tuy

vậy, nếu lọc một số ý, có thể thấy lộ ra một số quan niệm nhƣ sau:

- "Phỏng sự! thấy tên các bạn đã rõ nghĩa (...) các báo hằng ngay thì. gặp tin gì cũng

đăng, nên thƣờng khi phải nói một cách sơ lƣợc. Còn báo nầy thì trái lại, chỉ lƣu tâm về

những việc quan hệ, nên luôn luôn sẽ đủ thời giờ mà khảo sát rất châu đáo. Nếu cuộc đời nhƣ

ngƣời ta đã nói, là "tấn tuồng trăm cảnh" thì báo này nhƣ tập Album để ghi lại những cảnh

(...) "cụp lạc" hơn hết. Đối với công lí, báo này có thể làm một ngọn đuốc

32

soi tỏ bao nhiêu nỗi oan tình. Đối với chánh phủ, báo nầy có thể làm một tấm gƣơng để phản

chiếu những bề trái của xã hội" (Chào độc giả, trang 3).

- "Không phải đi nhặt tin xe cán chó, không phải mƣợn ngƣời ta biên cho mình những

lời của ngƣời ta đã nói, không phải chỉ nhờ mấy ông trạng sƣ mới biết tòa đã lên án tội nhơn

(...). Muốn làm phỏng sự phải có đƣợc nhiều cái hay hơn nữa" (Làm phóng sự dễ hay khó,

trang 2).

Đặc biệt, lúc kết thúc bài Nhơn đọc "Hà Nội lầm than" của Trọng Lang nói đến lòng

bác ái trong phóng sự (số tháng 3/1938, trang 2), Lãng Tử đã cho rằng: "Lúc nói văn chương,

chúng tôi muốn nói phỏng sự". Đây là quan niệm rất mói về thể phóng sự trong thời điểm

những năm 30 ở nƣớc ta.

Năm 1942, nhà nghiên cứu, phê bình Vũ Ngọc Phan đã có những quan niệm cụ thể

hơn về thể phóng sự. ông cho rằng "Lối văn này thật hoàn toàn mới ở nƣớc ta, và cũng nhƣ ở

các nƣớc, nó là con đầu lòng của nghề viết báo (...). Phóng sự là thăm dò lấy việc mà ghi lấy

(...) phóng sự là kí sự mà có lời phẩm bình, phóng sự ghi những điều mắt thấy tai nghe, có

tính cách thời sự và có chỉ trích (...) không có lối văn nào giúp ích cho việc cải cách, cho nhà

đƣơng chức, nhà pháp luật và nhà xã hội học bằng các thiên phóng sự" [141, 504 - 505]. Từ

quan niệm nhƣ vậy, ông đã xếp và đánh giá các nhà phóng sự đƣơng thời.

1.1.2.2 Giai đoạn từ 1945 đến nay

Cho đến những năm 50, ở Việt Nam, chƣa có ai bàn về thể phóng sự một cách kĩ càng

nhƣ nhà văn Nguyễn Đình Lạp. Có thể xem tập bài giảng mang tên Muốn làm phóng sự của

ông ở các khóa đào tạo đội ngũ văn nghệ kháng chiến, năm 1950, do Giáo sƣ Đặng Thai Mai

(lúc đó là Chủ tịch ủy ban kháng chiến Liên khu IV) mở tại Thanh Hóa, là một giáo trình đầu

tiên về thể phóng sự. Trong tập bài giảng này, Nguyễn Đình Lạp đã trình

33

bày cả một hệ thống vấn đề khá cơ bản về thể loại cũng nhƣ phƣơng pháp, cách thức làm

phóng sự. Theo ông phóng sự là "một bộ môn của nghề làm báo", và ông giải thích từ phóng

sự nhƣ sau: "Phóng sự hay là phỏng sự. Phóng sự tức là phóng tác (imiter), con phỏng tức là

hỏi, tìm hiểu nghiên cứu. Còn sự tức là sự kiện (Fait). Nhƣ thế thì phải gọi là Phỏng sự mới

đúng hơn, mới hay hơn. Nhƣng vì thói quen hay dùng là phóng sự rồi. Cho nên chúng ta cũng

cứ gọi là phóng sự. Vậy thì phóng sự là nghiên cứu tìm hiểu một sự kiện gì rồi ghi chép lại

cho thật đúng" [108, 305].

Năm 1962, trên Văn nghệ, nhà văn Bùi Huy Phồn đã trình bày quan niệm của mình về

thể phóng sự. Theo ông, phóng sự là "một thể văn xung kích", "thuyết phục trực tiếp ngƣời

đọc bằng những số liệu, ngƣời thật có thể kiểm tra thấy đƣợc... Nhất là tính chiến đấu và tính

kịp thời" [145, 6].

Tạp chí văn học (từ số tháng 5 năm 1966 đến số tháng 6 năm 1967) đã mở đạt Trao

dổi về thể kí và vấn đề viết về người thật, việc thật. Trong cuộc trao đổi này, một số nhà văn,

nhà nghiên cứu phê bình đã trình bày những quan niệm của mình về thể phóng sự. Theo Vũ

Đức Phúc thì "cũng đƣợc gọi là kí, nhƣng phóng sự có nhiều đặc điểm không giống các loại

kí khác (...) phóng sự lớn là kết quả của một sự nghiên cứu tại chỗ một vấn đề thời sự rất lớn

đang làm cho cả xã hội, có khi cả thế giới chú ý, đặt ra nhiều dấu hỏi, mà vấn đề ấy lại xảy ra

ở một nơi ít người có điều kiện đến nghiên cứu tường tận, một nơi đương thời rất khó đến.

Chính do đặc điểm cơ bản này của phóng sự mà một phóng sự có giá trị phải sốt dẻo, xác

thực, toàn diện" [150, 39].

Trong bài viết có tính chất tổng kết đạt trao đổi ý kiến về thể kí và vấn đề viết về

ngƣời thật, việc thật nay, trên cơ sở những ý kiến của những ngƣời tham gia thảo luận, nhà

nghiên cứu Nam Mộc đã đi tới quan niệm: "Có tác phẩm (nhƣ loại ý kiến thứ nhất đã quan

niệm) thiên về việc ghi

34

sự kiện xã hội, hành động con ngƣời xoay quạnh một vấn đề nhất định của xã hội, của thời

đại. Tác phẩm này cồn có thể chứa cả những tài liệu báo cáo, số liệu thống kê, bắc cầu giũa

văn học và báo chí. Ta có thể gọi đó là phóng sự (thuật ngữ phóng sự này gần gụi với các

thuật ngữ tường thuật, điều tra của ta, văn học báo cáo của Trung Quốc, văn học tư liệu -

nghệ thuật của Liên Xô)" [130, 29].

Cũng trong những năm 60, Chàng Văn (Chế Lan Viên) đã trình bày quan niệm về thể

phóng sự, nhân khi trả lời bạn đọc về kinh nghiệm sáng tác. Theo ông "Ở phóng sự thì ta chỉ

cần ngƣời mà không cần nhân vật (hiểu theo đúng nghĩa tiểu thuyết của nó) và cần vấn đề,

cần sự việc mà cốt truyện lại không cần. Tóm lại, chuyện có thực hay không, có nhân vật hay

không có nhân vật, có cốt truyện hay chỉ là những sự việc nối vào nhau bởi một vấn đề, là ba

điểm lớn để phân biệt tiểu thuyết và phóng sự" [209, 109 - 110].

Cũng bàn về phóng sự trong mối quan hệ của nó với tiểu thuyết, nhà giáo khoa Phạm

Thế Ngũ cho răng "Ở hình thức giản dị nhất, thì đó chỉ là một tƣờng thuật, nhằm cái mục

đích chung nhất của tờ báo là thông tin, giúp độc giả trông nghe những điều xa xôi ẩn dấu mà

có thật. Phóng sự khi đó khác với tiểu thuyết bởi vì tiểu thuyết cần sắp xếp cho thành một câu

truyện, sự góp sức của chủ quan tác giả, của trang sức văn chƣơng, cho thành một sáng tác có

mầu văn nghệ, còn phóng sự chỉ là hình ảnh chụp lại sự thật một cách vô tƣ, những hình ảnh

vụn vặt là khách quan" [133, 512].

Từ những năm 70 đến nay, đã có thêm nhiều ý kiến góp phần minh định thể loại

phóng sự. Cuốn Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1977) cho rằng: "Phóng sự

là thể văn chú trọng diễn tả sự thật mà mình trông thấy và giải đáp các vấn đề do sự thật ấy

nêu ra". Từ điển học

35

sinh (NXB Giáo dục, năm 1977), lại cho rằng "Phóng sự là thể văn phản ánh, phân tích kịp

thời những sự việc tai nghe, mắt thấy có tính chất điều tra". Trong Từ điển văn học (NXB

khoa học xã hội, năm 1984), Phó giáo sƣ Nguyễn Xuân Nam quan niệm phóng sự "Là một

thể thuộc loại kí, nhằm ghi chép cụ thể tình hình một vấn đề, một sự việc nào đó có ý nghĩa

thời sự. Phóng sự sẽ có thêm giá trị văn học khi nó đi sâu khắc họa thế giới nội tâm, miêu tả

tính cách nhân vật, với lời văn giàu hình ảnh và cảm xúc". Còn cuốn Từ điển thuật ngữ văn

học, do các Giáo sƣ Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi làm chủ biên (NXB Giáo

dục, 1992), đã nhƣ "dấn" thêm một bƣớc nữa, khi cho rằng "Việc sử dụng một số phƣơng tiện

biểu đạt của văn học nhƣ các biện pháp tu từ, ngôn ngữ giàu hình ảnh, hƣớng vào thế giới bên

trong (ở một mức độ nhất định) của nhân vật, v.v... khiến cho phóng sự vốn từ báo chí, có thể

trở thành văn học, một số tác phẩm thuộc loại này thƣờng đƣợc chấp nhận nhƣ là những tác

phẩm văn học có giá trị" (trang 172).

Từ đặc điểm cơ bản của kí là trần thuật ngƣời thật, việc thật và vai trò của chủ thể trần

thuật, Giáo sƣ Phƣơng Lựu quan niệm phóng sự là một "loại kí phi cốt truyện theo lối kết cấu

liên tƣởng (...) nổi bật bằng những sự thật xác thục, dồi dào và nóng hổi. Ở phƣơng Tây đề ra

công thức 6W cho phóng sự". Giáo sƣ cho rằng công thức nay "là những tiêu chuẩn đề ra cho

phƣơng diện luận cứ trong một thiên phóng sự. Nội dung chủ yếu của phóng sự lại thiên về

vấn đề mà ngƣời viết muốn đề xuất và giải quyết. Phóng sự, do đó, mặc dù chất liệu chủ yếu

vẫn la ngƣời thật, việc thật, nhƣng có màu sắc chính luận" [171, 299].

Trên cơ sở xếp phóng sự vào loại thể kí văn học, năm 1962, Giáo sƣ Hà Minh Đức

quan niệm: "điều chủ yếu trong một thiên phóng sự... là sự việc và hiện thực khách quan"

(Thể loại văn học, NXB Giáo dục, tr. 160).

36

Đến năm 1992, Giáo sự cho rằng: "Về cơ bản, phóng sự cũng có đặc tính của một thiên kí sự:

chú trọng sự kiện khách quan, tôn trọng tính xác thực của đối tƣợng miêu tả. Nhƣng phóng sự

lại đpfi hỏi tính thời sự trực tiếp. Phóng sự đƣợc viết ra nhằm giải đáp những vấn đề nào đó

mà xã hội đang quan tâm. Ngƣời viết trình bày một cách khách quan diễn biến của câu

chuyện, sự việc, đồng thời cũng nhằm chứng minh cho một kết luận của mình, hoặc từ đó đề

xuất ra những vấn đề xã hội nhất định (...). Ngƣời viết phóng sự giỏi trƣớc hết phải là ngƣời

có trách nhiệm với ngồi bút, với chân lí của cuộc sống, phải biết xông xáo, đi sâu vào thực tế

đời sống, có năng lực phát hiện và khái quát hóa" [51, 229 - 230].

Theo Phó giáo sƣ Trần Hữu Tá, phóng sự là "một thể văn xung kích của báo chí. Khi

nói đến phóng sự, ngƣời ta thƣờng nghĩ ngay đó là một thể thuộc loại kí, chủ yếu phục vụ cho

báo chí (...). Có điều đáng lƣu ý, nếu phóng sự chỉ thuần túy mang tính tân văn báo chí, tuổi

thọ của nó thƣờng rất ngắn. Những thiên phóng sự lớn, vƣợt qua đƣợc sự sàng lọc khắc

nghiệt của thời gian, thƣờng nhờ vào yếu tố quan trọng: chất văn học đậm đà" [176, 6].

Xuất phát từ bình diện của thể kí báo chí, nhà nghiên cứu lí luận báo chí Đức Dũng đã

định nghĩa: "Phóng sự là một thể loại đứng giữa văn học và báo chí, có khả năng trình bày,

diễn tả những sự kiện, con ngƣời, tình huống điển hình, trong một quá trình phát sinh, phát

triển dƣới dạng một bức tranh toàn cảnh vừa khái quát, vừa chi tiết sống động với vai trò

quan trọng của nhân vật trần thuật va bút pháp linh hoạt, ngôn ngữ giàu chất văn học" [28,

83].

1.2. Phóng sự báo chí và phóng sự văn học

Trên đây, chúng tôi đã chọn lọc, trình bày một số tƣ liệu về thể phóng

37

sự ở nƣớc ngoài và điểm lại một số quan niệm về thể phóng sự ở Việt Nam. Sự phong phú về

số lƣợng và sự đa dạng về quan niệm đã cho thấy thể phóng sự thu hút đƣợc sự quan tâm, chú

ý của cả giới sáng tác và lí luận. Điều này cho thấy vị trí, vai trò không nhỏ của thể loại này,

trong đời sống văn học và báo chí. Sự khác biệt trong những ý kiến nói trên về thể loại phóng

sự, không phải là do tình trạng "thầy bói xem voi" mà do tính năng động và quá trình vận

động, phát triển của thể loại nay ở những giai đoạn khác nhau, ở những quốc gia khác nhau

trên thế giới. Ở Việt Nam, ngòai những ý kiến trực tiếp bàn về khái niệm phóng sự, có nhiều

ngƣời tiến hành nhận diện thể loại này thông qua sự đối chứng, so sánh với các thể loại khác,

nhƣ tiểu thuyết, văn đặc tả, văn học báo cáo, văn tƣ liệu - nghệ thuật, bút kí, v.v... Điều này

cho thấy tính tích cực của tƣ duy lí luận nhằm đi sâu vào đặc trƣng của thể tân văn này.

Qua toàn bộ những quan niệm nói trên, chứng tôi thấy nổi lên những điểm khái quát

nhƣ sau: Thể phóng sự trƣớc hết là thể thuộc hệ thống loại thể báo chí. Thể loại này ngày

càng đƣợc mở rộng, tăng cƣờng thêm chức năng trong quá trình phát triển. Đầu tiên, chỉ là sự

ghi chép giản đơn, "phỏng" theo "cố sự", tƣờng thuật lại những điều tai nghe mắt thấy, nhằm

mục đích thông tin thời sự. Kế theo đó, phóng sự lại "trang bị" thêm cho mình ống kính điều

tra, khám phá những điều khuất tất, lắt léo, hoặc ẩn sâu sau những bức mềm bí mật, đƣa nó ra

ánh sáng, nhằm thỏa mãn nhu cầu khát khao sự thật của công chúng. Với đặc tính năng động,

xông xáo và tốc tả, thể phóng sự hết sức nhanh nhạy trong việc phát hiện và tức thời đƣa ra

những thông tin sốt dẻo, với những chứng cớ, số liệu xác thực khoa học có sức thuyết phục

cao. Phóng sự không chỉ giới hạn ở việc mô tả, phản ánh hiện thực mà còn thẩm định, đánh

giá hiện thực, trả lời những câu hỏi mà cuộc sống đặt ra. Bằng việc sử dụng những phƣơng

tiện

38

của văn học nhƣ các biện pháp tu từ, ngôn ngữ sống động, miêu tả tâm lí nhân vật... phóng sự

có khả năng trở thành tác phẩm văn học.

1.2.1 Phóng sự - một thể kí trong báo chí và văn học

1.2.1.1 "Cuộc kéo co giữa báo chí và văn học"

Quan niệm về thể phóng sự nhƣ trên là rất đúng vói "tinh thần thể loại". Phóng sự là

một thể nằm ở vùng giáp ranh của báo chí và văn học. Thực ra, trong "bản đồ" loại hình, loại

thể, phóng sự không phải là trƣờng hợp duy nhất nằm ở vùng giáp ranh. Giống nhƣ "hoàn

cảnh" của thể phóng sự, có thể thấy: tục ngữ, câu đố cũng nằm ở đƣờng ranh giữa lời nói

thƣờng và ca dao về lao động sản xuất; văn bia nằm ở đƣờng ranh giữa Sử và Văn... Khi đã

"rơi" vào vị trí đó thì mọi thể loại đều chịu chung một "số phận" là sự không dứt khoát,

không rõ ràng; khi thì đƣợc coi la cái này; khi thì đƣợc xem là cái khác.

Những quan niệm "hai mang" về thể phóng sự là sự phản ánh tình trạng "khó xử" đó.

Nhưng thời gian gần đây, do sự năng động của thể văn này và sự phát triển của lí luận báo

chí và lí luận văn học nên quan niệm về thể loại này trở nên tương đối rõ rệt.

Giữa văn học và báo chí có một mối quan hệ gần gũi thông qua loại thể kí. Kí văn học

có nhiều mối liên hệ với báo chí, đồng thời kí báo chí cũng có nhiều mối liên hệ với văn học.

Và "đầu mối" của sự liên hệ này là thể phóng sự. Do tính năng động, mềm mại nên thể kí đã

trở thành đối tƣợng "bị" văn học và báo chí thu hút vào quỹ đạo của mình, trong quá trình hội

nhập, tƣơng tác, để cùng phát triển. Chính vì vậy ILia Côchencô mới cho rằng kí là "thể loại

nằm trong cuộc kéo co giữa văn học và báo chi" [51, 214].

Lí luận báo chí coi phóng sự là "thể tài gần văn học hơn cả" [138, 224]. Ngƣợc lại, lí

luận văn học lại cho răng phóng sự là "tiểu loại kí "báo chí"

39

hơn cả" [74, 8]. Nhƣng thể phóng sự ở hai ý kiến trên là hai thể thuộc hai hệ thống thể loại

riêng: kí báo chí và kí văn học. Vì vậy, phóng sự không phải là một thể loại chung nằm ở vị

trí nhƣ kiểu "đầu binh cuối cán" trong bảng "tổng sắp" của "đội quân" thể loại báo chí và văn

học; được bên này "tôn" là thể loại "vừa" trong loại báo "viết", góp phần nâng vị trí của

ngƣời phóng viên ra khỏi "bậc thang thấp nhất của xã hội" và bị bên kia coi là thể loại "đàn

em" dễ viết, chỉ đáng "viết bằng tay trái", nhƣ quan niệm lâu nay của một số ngƣời.

Kết quả của cuộc "kéo co" thể kí mà Ilia Côchencô nói ở trên thật là đặc biệt: cả hai

"đối thủ" đều giành thắng lợi! Cả báo chí lẫn văn học đều có thể phóng sự riêng của mình.

Trong lí luận báo chí hiện nay, thể phóng sự lại bị "lâm" vào cuộc "kéo co" nội bộ. Giáo trình

Tác phẩm báo chí xếp phóng sự vào loại tác phẩm thông tấn gồm cùng với thể loại nhƣ tin,

tường thuật, phỏng vấn, điều tra... [188, 42]. Còn chuyên luận Các thể kí báo chí và một vài

bài báo khác lại xếp phóng sự vào thể loại kí báo chí, đứng trƣớc các thể Ghi nhanh, Kí chân

dung, Kí chính luận, Nhật kí phóng viên... Tuy có sự "mâu thuẫn nội bộ" nhƣ vậy, nhƣng lí

luận báo chí luôn coi phóng sự là thể chủ công, đóng vai trò "hạt nhân" của hệ thống thể

loại. Đối với lí luận văn học, các thể kí văn học "Bao gồm nhiều thể khác nhau như kí sự,

phóng sự, tùy bút, bút kí... [51, 210]. Trong đó, phóng sự đƣợc xem là "loại kí phi cốt truyện

theo lối kết cấu liên tƣởng" [171, 299]. Giáo sƣ Hà Minh Đức xem thể kí phóng sự là một

"thể kí trong báo chí và văn học" [51, 216].

1.21.2. Sự sinh động của thực tiễn sáng tác

Trong lịch sử báo chí và văn học nƣớc ta, thể phóng sự đã có một "bề dày" trên nửa

thế kỉ với một thành tựu rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh những thiên phóng sự ngắn

đƣợc viết theo yêu cầu cập nhật thông

40

tin mang những cái tên nhƣ Phóng sự, Phóng sự điều tra, Điều tra phóng sự, Phóng sự tài

liệu, v.v... còn có những dạng phóng sự "dài hơi", đƣợc đăng tải nhiều kì trên báo, sau đó

đƣợc in thành các tập sách dày hàng trăm trang với những cái tên nhƣ Phóng sự, Phóng sự

tiểu thuyết, Tiểu thuyết phóng sự, Tiểu thuyết phiêu lưu phóng sự, v.v... Trong đó, có những

thiên phóng sự đƣợc đánh giá là những tác phẩm văn học đích thực. Mảng phóng sự văn học

này đã góp phần tạo nên diện mạo "tân kì" của văn xuôi hiện đại. Nhiều nhà văn hiện đại của

nƣớc ta bắt đầu sự nghiệp bằng phóng sự. Có những nhà phóng sự chuyên nghiệp; có những

ngƣời đã chuyển sang viết tiểu thuyết, truyện ngắn, tùy bút... nhƣng vẫn đồng thời viết phóng

sự, có "duyên" với phóng sự suốt đời. Điều này cho thấy sức hấp dẫn, sự "co kéo" của thể

phóng sự ở ngay trong một số "đơn vị" chủ thể sáng tạo.

Như vậy, thể phóng sự báo chí và phóng sự văn học đã thực sự tồn tại trong đời sống

báo chí, văn học và đã được thừa nhận về mặt lí luận. Sự hiện diện của thể văn này ở cả hệ

thống thể loại kí báo chí và văn học là quy luật tiến bộ của cả báo chí và văn học, vì lịch sử

của cả hai loại hình này là lịch sử hình thành, phát triển, tƣơng tác giữa các thể loại.

Tuy nhiên, trong thực tiễn sáng tác, có những thiên phóng sự, tính chất báo chí va tính

chất văn học đan xen với nhau một cách sinh động. Vì vậy, việc nhận diện thể loại phải dựa

vào chính từng tác phẩm cụ thể.

Cuộc trao đổi về thể kí và việc viết về ngƣời thật, việc thật trên Tạp chí văn học năm

1966 - 1967 và những ý kiến tiếp theo sau, tuy mới chỉ dừng ở vấn đề phân biệt tính chất văn

học va tính chất báo chí trong các

41

tác phẩm kí văn học; nhƣng đã nhƣ đặt ra trƣớc lí luận báo chí và lí luận văn học một vấn đề

có tính mấu chốt của loại kí là phân biệt giữa kí báo chí và kí văn học. Đó chính là cơ sở để

xác lập hệ thống thể loại cho loại thể kí một cách khoa học. Cho đến nay, những vấn đề trên

đã đƣợc từng bƣớc giải quyết, tạo tiền đề cho việc đi sâu minh định các thể loại, trong đó có

thể phóng sự.

1.2.2 Phóng sự báo chí và Phóng sự văn học

Theo Nôen Đuytore, ở Trung Quốc, "các nhà lí luận văn học xác định một sự phân

biệt rõ rệt giữa phóng sự báo chí - tƣờng thuật các sự việc một cách trần trụi, không "văn

hóa" - với văn học phóng sự - cũng nhƣ phóng sự báo chí, vốn cũng dựa trên cơ sở các sự

kiện và nhân vật có thật, nhƣng khía cạnh văn học rất chau chuốt" [43, 1], Ở Việt Nam,

Nguyễn Đình Lạp chia phóng sự thành hai loại: loại "Có tính chất báo, thông tin, tƣờng thuật,

báo cáo" và loại có "tính chất văn chƣơng: điều tra, phỏng vấn, mẩu chuyện phóng sự" [108,

310]. Năm 1962, nhà văn Bùi Huy Phồn cũng chia phóng sự thành hai loại phóng sự văn học

và phóng sự tân văn. Theo ông: "Phóng sự tân văn là loại làm cho ngƣời đọc thấy những

ngƣời thật, việc thật ở một thời gian không gian nhất định vói những tài liệu, số liệu cụ thể.

Đọc nó quả có phần khô khan, vì nó chỉ nhằm thuyết phục độc giả về mặt lí và nhẹ về mặt

tình" [145 , 8]. Khái niệm phóng sự tân văn mà nhà văn dùng ở đây là phóng sự báo chí.

Cũng theo Bùi Huy Phồn: "Phóng sự văn học có những điểm khác phóng sự tân văn, tất

nhiên về căn bản vẫn giống nhau. Nếu tiểu thuyết làm cho ngƣời viết thấy thoải mái vì nó là

thể tổng họp của các thể văn, thì tôi nghĩ rằng, phóng sự văn học cũng không đến nỗi gò bó vì

nó là thể tổng hợp của các thể văn: bút

42

kí, hồi kí, tƣơng thuật, điều tra, phỏng vấn... để cho nhà văn có chỗ tung hoành ngồi bút (...).

Mặt khác, thể phóng sự văn học, ngoài tính chất phản ánh ngƣời thật, việc thật còn có thêm

phần tả ngƣời, tả cảnh bằng hình tƣợng nghệ thuật, và có xen kẽ những cảm nghĩ chủ quan

của tác giả, nên nó có sức thuyết phục cả về mặt lí trí, cả về mặt tình cảm của con ngƣời"

[145, 8].

Cả hai ý kiến trực tiếp bàn về phóng sự báo chí và phóng sự văn học nói trên đều

thống nhất khẳng định sự giống nhau về căn bản giữa hai thể phóng sự. Đó là phải lấy người

thật việc thật làm đối tượng phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng miêu tả.

Đây là điểm có tính nguyên tắc, có ý nghĩa quan trọng nhất, quyết đinh sự tồn tại của thể

phóng sự. Cái lam nên sự khác biệt giữa hai thể phóng sự này là do mỗi thể đảm trách một

chức năng khác nhau: trong khi chức năng của phóng sự báo chí là phản ánh - thông tin thì

chức năng của phóng sự văn học là phản ánh - thông tin - thẩm mĩ. Chúc năng thông tin -

thẩm mĩ được thực hiện đồng thời và ở cùng một chủ thể la phóng sự văn học.

1.2.2.1 Phóng sự báo chí

Cùng phản ánh hiện thực ở cái thế trực tiếp, nhƣng phóng sự báo chí phải ở cái thế

trực tiếp nhất. Chủ thể của sự phản ánh là nhà báo trực tiếp mắt thấy, tai nghe. Hiện thực phải

đƣợc phản ánh nguyên vẹn, xác thực tối đa và nóng hổi; hiện thực ở đây phải "bất di, bất

dịch"; đúng nhƣ hiện trạng và phải đáp ứng đƣợc nguyên tắc 6Wh: cái gì đã xảy ra (What),

xảy ra ở đâu (Where), xảy ra bao giờ (When), xảy ra thế nào (Which), xảy ra với ai (Who), tại

sao xảy ra (Why). Nếu vi phạm nguyên tắc này thì hậu quả rất tai hại. Chuyện B. Pôlêvôi sơ

xuất viết bác công nhân già Cusơmin hói đầu mà lại hay chải tóc, làm bác bị cánh thợ trẻ chế

diễu, là một ví dụ

43

"kinh điển". Câu chuyện một anh phóng viên (ngồi ở nhà, tƣởng tƣợng rồi viết về cuộc đua

ngựa ở Hải Phòng, khi bài đăng báo thì mới biết cuộc đua ngựa đã không diễn ra vì hôm đó

mƣa lớn và tòa báo bị đóng cửa ba ngày) mà Nguyễn Đình Lạp kể, cũng là một ví dụ tiêu

biểu. Hay gần đây, do viết sai sự thật nên bài phóng sự Cẩm Nhượng - khi con thuyền rẽ sóng

của P.T.C (đăng trên báo Lao dộng chủ nhật, số 66 năm 1993) đã gây ra không ít rắc rối cho

địa phƣơng và bị phản ứng của dƣ luận. Và một khi sự sai lạc ở mức nghiêm trọng, nhà

phóng sự có thể bị kiện tụng trước tòa. Còn với phóng sự văn học thì không có vấn đề phạm

luật mà nhà phóng sự chỉ chịu trách nhiệm trƣớc tòa án lương tâm.

Phóng sự báo chí là kết quả của quá trình tìm tòi những hình thức: mới, để báo chí

vƣợt ra khỏi cái khung của lối văn thông tấn khô khan. Tuy đòi hỏi phải có sự sáng tạo, nhƣ

phải linh hoạt trong kết cấu, sinh động về bút pháp, để thông tin xác thực, kịp thời và hấp

dẫn... nhưng không cho phép sử dụng biện pháp hư cấu dưới bất cứ hình thức nào. Đây là

một đặc điểm quan trọng khu biệt với phóng sự văn học. Ngôn ngữ trong phóng sự báo chí

tuy có giàu hình ảnh và có khả năng biểu cảm, nhƣng nhìn chung là phải thiên về thông tin,

thông báo, hướng tới sự mô tả sự cụ thể, chính xác về con người, sự việc, sự kiện; đặc biệt là

không được dùng những biện pháp khoa trương, phóng đại, ngoa dụ... khi diễn tả.

Để chinh phục niềm tin, thuyết phục lí trí độc giả, phóng sự báo chí luôn xác lập một

cách rõ ràng đường kênh giao tiếp: ngƣời phát tin là tác giả - nhà báo, cái tôi trần thuật ở đây

là cái tôi nhân chứng, khách quan. Tính khách quan ở đây không phải là sự thờ ơ, lãnh đạm

mà nói nhƣ Bêlinski, là: "biểu thị ở sự phù hợp giữa việc mô tả và đối tượng mô tả, được hiểu

một cách đúng đắn ở sự thống nhất cái bên trong và bên ngoài, giữa hiện tượng và bản chất

của nó" [140, 84]. Vì vậy, cái tôi ở đây là cái

44

tôi cảm xúc trƣớc sự thật, phản ánh, đúng sự thật, giàu lí lẽ, tỉnh táo và không thẩm định sự

thật bằng những cảm xúc thẩm mĩ. Chính vì những lẽ như trên nên trước hết, phóng sự báo

chí vẫn thiên về hướng tạo ra những văn bản đơn nghĩa.

Một yêu cầu quan trọng nữa đối với phóng sự báo chí là phải đáp ứng thông tin kịp

thời; có những trường hợp phải thông tin cập nhật. Bài phóng sự báo chí đƣợc viết thƣờng

bắt đầu từ yêu cầu xã hội, có thể đó là do tòa soạn báo giao việc, có thể do sự thôi thúc của

dƣ luận, sau đó mới gắn với những yêu cầu cá nhân. Thời gian ngắn, phải làm gấp, nên nhà

phóng sự phải tốc tả, khẩn trƣơng "phóng" theo cái "sự", thâu tóm nó, tức thời đƣa ngay lên

mặt báo. Ví dụ, giữa lức dƣ luận đang hƣ hƣ, thực thực về chuyện "đổ bể" của Xƣởng nƣớc

hoa Thanh Hƣơng, thì thiên phóng sự Xưởng tư doanh Thanh Hương tồn tại đến bao giờ của

Mai Anh và Việt Trung (giải nhất, giải báo chí Thành phố Hồ Chí Minh năm 1990) đã ra mắt

kịp thời, vạch rõ chân tƣớng lừa đảo và sự sụp đổ tất yếu của nó. Vì đáp ứng đƣợc nhu cầu

bức bách về thông tin nên đƣợc công luận hoan nghênh. Nếu phóng sự này chậm trễ, đăng

báo, khi vụ án Thanh Hƣơng bắt đầu bị đƣa ra xét xử thì chắc chắn đó chỉ là một sự "vuốt

đuôi" sự kiện thời sự, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu đối với công chúng.

1.2.2.2 Phóng sự văn học

Tuy cũng phải đảm bảo nguyên tắc tôn trọng tính xác thực và tính thời sự của đối

tƣợng đƣợc phản ánh, nhƣng ở phóng sự văn học không đòi hỏi một sự xác thực tuyệt đối và

cũng không chịu áp lực cấp bách của yêu cầu thời sự như trong phóng sự báo chí. Trong

phóng sự văn học, không chỉ có sự kiện mà còn có cả vấn đề; không chỉ có những phiến đoạn

mà còn có những mảng khác nhau của đời sống đƣợc tái tạo dƣới hình thức một bức tranh,

vừa cụ thể, sinh động, vừa có tính khái quát nhất định; không

45

chỉ có con ngƣời mà còn có cả nhân vật, trong đó có nhân vật mang dáng dấp một điển hình.

Để tái tạo một hiện thực nhƣ vậy, phóng sự văn học không thể không tuân thủ một phần

những quy luật của sáng tạo nghệ thuật. Sự sáng tạo nay bắt đầu từ việc lựa chọn những sự

kiện, con người, tình huống mang tính tiêu biểu và chứa dựng yếu tố thẩm mĩ. Đây là điểm

khác biệt giữa phóng sự văn học với phóng sự báo chí. Đối tƣợng mang tính tiêu biểu và chứa

đựng yếu tố thẩm mĩ vốn nằm lẫn lộn với muôn vàn cái bình thƣờng của cuộc sống bề bộn.

Muốn lựa chọn đƣợc nó, theo kinh nghiệm của B.Pôlêvôi, ngƣời viết phải:"... đi sâu nghiên

cứu từng li, từng tí, cần cù khắc khổ phấn đấu không mệt mỏi, chỉ khi nào biết bồi dƣỡng cho

mình, biết phát hiện những nét chủ yếu, điển hình trong vô số hiện tƣợng, và những điều có

thể đạt đƣợc tinh thần và thực chất của thời đại" (Tạp chí văn học, số 2. 1967, tr.32).

Sự sáng tạo nghệ thuật còn đƣợc thể hiện ở phương thức phản ánh đối tượng được lựa

chọn. Bản thân đối tƣợng mang tính tiêu biểu, điển hình vốn là một hiện tƣợng khách quan,

tồn tại với tƣ cách một chỉnh thể, một "thế giới" riêng, luôn vận động, biến chuyển. Cho dù

nhà phóng sự đƣợc "mục sở thị" và đƣợc hỗ trợ bởi những phƣơng tiện nghe, nhìn hiện đại

(nhƣ máy ghi âm, ghi hình...), thậm chí là "ngƣời trong cuộc" đi chăng nữa, cũng khó lòng

"cho tƣờng" tất cả mọi sự. Để khắc phục tình trạng bất cập này, nhà phóng sự phải dựa vào

năng lực phán đoán, tưởng tượng để bù đắp vào những khoảng trống, trên cơ sở suy luận

khoa học, hợp lôgích. Sự tƣởng tƣợng sáng tạo tất yếu dẫn đến hƣ cấu. Đây là một điểm khác

biệt quan trọng nữa giữa phóng sự văn học với phóng sự báo chí. Là một thể thuộc loại kí

văn học, sự hƣ cấu trong phóng sự văn học cũng phải tuân theo mục đích, tính chất hƣ cấu

của loại thể kí. Đó là "Không đƣợc sử dụng một cách tùy tiện, ảnh hƣởng đến sự xác thực của

nội dung, mà phải làm tăng thêm ý nghĩa xã hội và giá trị nghệ thuật cho tác phẩm" [51, 221].

46

Trên cơ sở mục đích, tính chất nhƣ vậy, sự hƣ cấu trong phóng sự văn học chỉ diễn ra

ở phạm vi và mức độ nhất định. Thứ nhất, phần nhiều diễn ra ở mức độ hư cấu kĩ thuật: lựa

chọn những hiện tƣợng có thực trong đời sống, tổ chức, sắp xếp, tô đậm, xóa mờ... để kết câu

tác phẩm một cách tối ƣu, theo lôgích của khách thể. Thứ hai, có thể dùng trí tƣởng tƣợng

hợp lôgích để hƣ cấu "nâng cấp" những hình tƣợng ghi chép sự thật. Sự "nâng cấp" này

không chỉ dừng ở việc hƣ cấu ở những thành phần không thật xác định (nhƣ "thế giới" nội

tâm của nhân vật...), mà trong một chừng mực nào đó, có thể sáng tạo thêm những chi tiết,

những dữ kiện mới, nhằm mục đích trình bày hiện thực cho đúng bản chất của nó. Đây là sự

phản ánh và sáng tạo. Nhƣng sự sáng tạo này có "ngƣỡng": Không được tạo ra một "thế giới

thứ hai"; sự tƣởng tƣợng cũng chỉ đƣợc "bay bổng" nhƣ kiểu cánh diều, luôn bị sợi dây giữ

chặt với mặt đất. Trong phóng sự cũng có thể có những hình tƣợng mang tính điển hình.

Nhƣng nguyên tắc xây dựng điển hình không phải theo kiểu "miệng ở Chiết Giang, mặt ở

Bắc Kinh, áo quần ở Sơn Tây" [194, 240]; cũng không phải làm nhƣ con ong hút nhụy trăm

hoa để luyện thanh mật, mà chỉ đƣợc phép nhƣ con tằm ăn một thứ dâu để nhả tơ mà thôi.

Phóng sự văn học là một thể thuộc loại kí văn học. Vì vậy, chủ thể đã một phần đƣợc

cá biệt, chủ quan hóa. Chủ quan ở đây, nói nhƣ Bêlinski, không phải là "thứ chủ quan mà với

tất cả sự hạn chế hay phiến diện, làm sai lệch thực tại khách quan của các đối tƣợng (...), mà

là tính chủ quan sâu sắc, rộng lớn, nhân đạo, tính chủ quan, tìm thấy trong con ngƣời nghệ sĩ

một con ngƣời với trái tim nồng nhiệt, tâm hồn trìu mến, nhân cách độc lập, tính chủ quan

không cho phép anh ta với thói thờ ơ, lạnh nhạt, trở thành ngƣời xa lạ đối với thế giới mà anh

ta mô tả" [140, 85]. Vì vậy, cái tôi ở đây không đon thuần la nhà báo - công dân mà là cái tôi

- nhân vật

47

trần thuật. Điểm nổi bật của cái tôi này là thái độ thẩm mĩ trong việc thông tin sự thật. Trong

nhiều tình huống, những tình cảm - xúc cảm của cái tôi - nhân vật trần thuật đã hình tƣợng

hóa những hình ảnh ngƣời thật, việc thật và chính yếu tố tình cảm đã góp phần tạo ra cho cái

tôi một giọng điệu trần thuật riêng biệt rất phong phú về sắc thái biểu cảm. Trong phóng sự

văn học, cái tôi - nhân vật trần thuật nhƣ dẫn dắt độc giả theo "ống kính" của mình, dùng

những tƣ liệu chân thực, sống động thuyết phục độc giả va đồng thời tác động đến tình cảm

của họ bằng những lời bình luận, triết lí chân thành, đầy tâm huyết. Do đó, cái Tôi nay đã

vƣợt khỏi "từ trƣờng duy lí" trở thành cái Tôi thẩm mĩ. Xu hƣớng chung của phóng sự văn

học là tạo ra văn bản đa nghĩa: không chỉ nói về đối tƣợng mà nó phản ánh mà con nói về cái

bao hàm cả đối tƣợng phản ánh.

Về phƣơng diện ngôn ngữ, giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí có một sự

khác biệt rõ rệt: ngôn ngữ của phóng sự văn học thuộc phạm trù ngôn ngữ văn chương còn

ngôn ngữ báo chí không thuộc phạm trù của ngôn ngữ văn chương. Sự khác nhau cơ bản giữa

hai loại ngôn ngữ này là ở tính mục đích, ở chỗ nói về cái gì, ở tầng nghĩa. Ngôn ngữ phóng

sự báo chí nhằm thông tin nội dung sự việc, chỉ nói về chính cái đã xảy ra, để ngƣời đọc

nhận biết duy nhất về cái đã xảy ra. Vì vậy, ngôn ngữ phải luôn tường minh và chỉ có một

tầng nghĩa. Tầng nghĩa này gồm hai bộ phận: nghĩa ý tưởng và nghĩa tình cảm kèm theo

nghĩa ý tưởng về chính cái xảy ra. Đọc xong một phóng sự báo chí, độc giả có thể có những ý

tƣởng khác ngoài cái đã xảy ra, nhƣng đây chỉ là những ý tƣởng theo kiểu liên hệ thực tế, chứ

không phải tầng nghĩa thứ hai.

Trong khi đó, ngôn ngữ của phóng sự văn học không chỉ nói về chính cái xảy ra, mà

còn gọi ra những hàm ẩn được suy ra từ chính cái xảy ra. Cơ sở của nó là năng lực của nhà

nghệ sĩ có thể song song lĩnh hội hiện

48

thực trên một số bình diện cùng một lúc. Vì vậy, ngôn ngữ phóng sự văn học có thể bao hàm

hai tầng ngữ nghĩa: nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn. Đây là dạng ngôn ngữ nghệ thuật "ý

tại ngôn ngoại". Trong đó, nghĩa hàm ẩn đƣợc rút ra từ khả năng câu có thể sản sinh ra nghĩa

bổ sung nhờ kết cấu khác nhau của nó.

1.2.3. Phóng sự mang yếu tố tiểu thuyết

Trên cấp độ thể loại, giữa phóng sự và tiểu thuyết có một mối quan hệ gần gũi. Không

phải là ngẫu nhiên, khi rất nhiều ý kiến đặt tiểu thuyết cạnh phóng sự để so sánh, nhằm tìm ra

đặc điểm của từng thể loại, "ông vua phóng sự" Vũ Trọng Phụng xem "Tiểu thuyết và phóng

sự là hai thể văn gần nhau". Nôen Đuytore cho rằng văn học phóng sự là thể "nằm giữa tiểu

thuyết và phóng sự báo chí" [43, 15]. Một số nhà văn, nhà phê bình đã nói đến hai thể loại

kép: Phóng sự tiểu thuyết và Tiểu thuyết phóng sự. Trong lời giới thiệu cuốn Bỉ vỏ của mình,

Nguyên Hồng gọi đó là cuốn Phóng sự tiểu thuyết. Nguyễn Đình Lạp cũng dùng thuật ngữ

này đặt cho cuốn Ngoại ô và theo ông, Phóng sự tiểu thuyết là: "dùng những tài liệu chân

xác, dồi dào, đầy đủ về một vấn đề gì rồi dùng sức tƣởng tƣợng tạo ra nhân vật sống hẳn hoi,

có mạch lạc, liên hệ chặt chẽ với nhau" (Bài giảng Muốn làm phóng sự) [108, 322]. Tuy

nhiên, Vũ Ngọc Phan lại cho rằng Ngoại ô là cuốn tiểu thuyết, vì "có rất nhiều tƣởng tƣợng".

Và theo ông Phóng sự tiểu thuyết phải là "một loại tiểu thuyết mà tác giả muốn thuật lại

những việc có thực, những việc có thể làm đầu đề cho những thiên phóng sự và chỉ có rất ít

tƣởng tƣợng" (Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, NXB KHXH, HN, 1989, tập II, tr. 1008 -

1009). Trong Nhà văn hiện đại, Vũ Ngọc Phan chia tiểu thuyết thành 10 loại trong đó có Tiểu

thuyết phóng sự, nhƣng không giải thích khái niệm này. Trƣớc đó, khi in cuốn Cạm bẫy

người lần đầu, Vũ Trọng Phụng cũng đề là Tiểu thuyết phóng sự...

49

Theo chúng tôi, khi ghi những tên thể loại vào tác phẩm nhƣ vậy, các tác giả nói trên,

với tƣ cách là chủ thể sáng tạo, đã dự báo cho độc giả cái vùng đời sống được quan tâm,

cách tiếp cận đối với nó, hƣớng họ vận dụng kinh nghiệm vốn có vào việc tiếp nhận tác

phẩm. Điều mà họ muốn lƣu tâm đối với ngƣời đọc ở đây là: hiện thực trong tác phẩm là

những cái có thật, do "tai nghe mắt thấy", thậm chí, đây còn là chuyện của "người trong

cuộc" kể lại chứ không phải "bịa ra"...

Nhƣng qua những hiện tƣợng nói trên, có thể thấy rằng giữa phóng sự và tiểu thuyết

có mối quan hệ gần gũi, trong đó có những phóng sự văn học mang tính của tiểu thuyết, đặc

biệt là tiểu thuyết hiện thực được viết theo bút pháp "tả chân". Với tính chất là thể văn lấy

ngƣời thật, việc thật làm đối tƣợng phản ánh, phóng sự đã "học hỏi" đƣợc ở tiểu thuyết nhiều

điều: sự năng động, công phu; phƣơng thức chọn lọc, tổng hợp tƣ liệu; khả năng tiếp cận,

thâu thái hiện thực bằng những điểm nhìn linh hoạt; nghệ thuật hình tƣợng hóa những con

ngƣời, sự kiện thành những thực thể thẩm mĩ có hình thức giống nhƣ bản thân đời sống; khả

năng phân tích xã hội trong đánh giá, thẩm định; ngôn ngữ đa thanh, giọng điệu mang bản sắc

riêng... Do việc sử dụng có chọn lọc những phƣơng tiện của bút pháp tiểu thuyết nên những

phóng sự văn học nay thƣờng có một dung lƣợng tƣơng đối lớn, kết cấu khá chặt chẽ, nhân

vật sống động, nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, hấp dẫn... "giống như:" ở tiểu thuyết; nhưng

vẫn không mất đi "cái gốc" người thật, việc thật. Sự tuân thủ một phần quy luật sáng tạo nghệ

thuật đã mang đến hiệu quả: có những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng, hình ảnh... trong tác phẩm

có tính khái quát. Vì thế, có những trƣờng họp, phóng sự mang tính tiểu thuyết, không chỉ nói

về chính đối tượng mà nó phản ánh, mà còn nói về những cái rộng hơn, bao hàm cả cái nó

nói, cái mà - theo cách nói của L.Tolstôi - có thể "gọi ra một tập hợp

50

không sao kể xiết nhũng ý tƣởng, những tình cảm, những sự giải thích". Đây chính là tính đa

nghĩa của văn bản.

Tuy nhiên, trƣớc những yêu cầu có tính khách quan cần có những văn bản thông tin -

thẩm mĩ, bằng tài năng và cá tính sáng tạo, nhiều nhà văn hiện đại của Việt Nam đã góp cho

thể phóng sự những tác phẩm mang "tính" của các thể loại văn học khác nữa. Đây cũng là

một biểu hiện sinh động của quá trình phát triển của thể phóng sự ở nƣớc ta.

1.3. Mấy nét cơ bản về lịch sử thể phóng sự ở Việt Nam

1.3.1. Sự xuất hiện thể phóng sự

1.3.1.1 Bối cảnh lịch sử

Sự hình thành và phát triển của thể phóng sự ở nƣớc ta là một quá trình lịch sử. Trƣớc

hết là do nhu cầu của xã hội và những điều kiện, khả năng của hoạt động văn hóa, báo chí và

văn học.

Đến những năm ba mƣơi của thế kỉ này, xã hội thực dân nửa phong kiến ở nƣớc ta

càng lao nhanh trên con đƣờng băng hoại, bộc lộ hết tính chất xấu xa, tàn bạo. Do chịu thêm

ảnh hƣởng nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới nên tình hình càng đen tối. Sự

phân hóa và áp bức giai cấp càng thêm nặng nề; mâu thuẫn giữa dân tộc ta và thực dân xâm

lƣợc càng thêm gay gắt. Những biến động về mặt chính trị, kinh tế đã làm đời sống văn học,

tƣ tƣởng biến chuyển sâu sắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại đã chấm dứt vai trò chính trị

và đƣờng lối cách mạng của giai cấp tƣ sản. Năm 1930, Đảng cộng sản Việt Nam đƣợc thành

lập, giai cấp vô sản bƣớc lên vũ đài chính trị, đảm nhiệm sứ mạng lịch sử của mình là giải

phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Sự quật khởi của phong trao Xô viết Nghệ Tĩnh, khí thế

sôi nổi của phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dƣơng (1936 - 1939) đã lam rung động chế độ

thuộc địa.

51

Tuy nhiên, thực dân Pháp chẳng chịu bó tay. Ngoài việc chuyên chê, đàn áp, bƣng bít,

lòe bịp, chúng còn dùng chính sách mị dân, tuyên truyền chủ trƣơng "Pháp Việt đề huề",

dùng khuynh hƣớng cải lƣơng, nhƣ phong trào Âu hóa, vui vẻ trẻ trung, hội Ánh sáng, hội

Hƣớng đạo, nhằm lừa bịp, đánh lạc hƣớng công luận...

Trƣớc những biến chuyển của thời cuộc, trƣớc những điều thật giả lẫn lộn, hơn lúc

nào hết, lúc này "quốc dân chỉ muốn biết sự thật diễn ra xung quanh mình" (Trƣơng Tửu:

Tam Lang - Nhà văn tả chân, báo Loa, số 86, ngày 10 tháng 10 năm 1935) [142, 94]. Còn

Tam Lang thì kể lại rằng: "Để tìm bộ mặt thật của xã hội Việt Nam lúc bấy giơ, thị hiếu đại

chúng hầu nhƣ thay đổi hoàn toàn, chỉ ƣa tìm đọc những văn, những chuyện thuộc loại tả

chân và lãng quên dần loại văn lãng mạn mà ngƣời ta cho là không thích hợp" [142, 67].

Cũng giống nhƣ ý kiến của Tam Lang, trong bài Nhà phỏng sự trong xã hội Việt Nam (đăng ở

trang 3, báo Phóng sự ở Sài gòn, số Xuân 1939), nhà văn Thiếu Sơn cho rằng: "dƣới một chế

độ mục nát, trong một thời đại suy đồi, đầy những giả dối, đầy những mâu thuẫn (...). Cái tình

trạng ẩn khuất đó phải có con mắt tò mò chú ý tới, phải có cây viết linh hoạt tô vẽ ra".

1.3.1.2 Những tiền đề báo chí và văn học

Thực ra, trƣớc những năm ba mƣơi đã có những tác phẩm "tả chân" nhƣ thơ trào

phúng của Tú Xƣơng, Nguyễn Khuyên, Học Lạc... và sau đó là tiểu thuyết, truyện ngắn,

kịch... của Phạm Duy Tốn, Vũ Đình Long, Trọng Khiêm, Hồ Biểu chánh, Nam Xƣơng...

Nhƣng đa phần trong các tác phẩm nói trên còn gắn hiện thực với khuynh hƣớng đạo lí, kết

thúc câu chuyện có hậu, ngôn ngữ còn mang màu sắc ƣớc lệ, khuôn sáo... Trong khi đó, vì

"chỉ muôn biết sự thật diễn ra xung quanh mình" nên công chúng những năm ba mƣơi rất cần

một "lối viết thiết thực hơn và giản dị hơn,

52

cần đi sát với đời sống, nhất là đời sống bình dân, quan sát tƣờng tận và ghi lại những điều tai

nghe mắt thấy" [112, 322]. Đây chính là lối viết của phóng sự. Cuối thế kỉ trƣớc, đầu thế kỉ

này, đã có một số tác phẩm văn xuôi quốc ngữ ghi lại những điều tai nghe mắt thấy qua

những cuộc du hành của Trƣơng Vĩnh Ký, Trƣơng Minh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm

Quỳnh, Nguyễn Bá Trác... Tuy nhiên, đó chƣa phải là phóng sự, vì thể văn này chỉ ra đời khi

nƣớc ta đã có một nền báo chí trƣởng thành. Điều này cũng góp phần giải thích, vì sao thể kí

viết về ngƣời thực, việc thực đã có từ lâu, nhƣng chƣa thể hình thanh nên thể phóng sự. Từ

chỗ đầu tiên chỉ là những tờ Công báo, một thứ công cụ phục vụ cho chính sách cai trị, nhƣ

kiểu tờ Gia Định báo (1865); phụ họa với luận điệu tuyên truyền "Pháp Việt đề huề"; cổ vũ

cho nền quân chủ lập hiến, như tờ Đông Dương tạp chí (1913) hay Nam Phong tạp chí

(1917)... báo chí nƣớc ta dần trƣởng thành thoát ra khỏi ảnh hƣởng nặng nề của thực dân, một

số tờ báo đã đứng trên lập trƣờng dân tộc chống lại ách nô dịch của chúng. Chẳng hạn, Minh

Viên Huỳnh Thúc Kháng coi báo Tiếng dân (1927) là "sự vui buồn (...) sự trông mong từ

trong trái tim hai mƣời triệu đồng bào" (Tiếng dân số 2, ngay 13 tháng 8 năm 1927), nên ông

đã "thét Tiếng dân giữa kinh thành Huế" (Trƣờng Chinh); hay tờ Thần chung (1929) của Tản

Đà, Ngô Tất Tố đã đƣợc dƣ luận cổ vũ vì những bài sắc nhọn đả kích kẻ thù của dân tộc...

Đến những năm ba mƣơi, báo chí đã trở thành một "dàn" thông tin rộng khắp, đƣợc hỗ trợ

của cả một hệ thống cơ sở in ấn, phát hành. Theo thống kê của ngƣời Pháp, nếu từ 1865 đến

1923 mới có 71 tờ báo thì đến năm 1934 đã có đến 227 tờ. Chỉ riêng ở Sài Gòn, Chợ Lớn,

những năm sáu mƣơi của thế kỉ trƣớc chỉ có một số nhà in của Nhà nƣớc thuộc địa và Nhà

chung, thì cho đến năm 1930 đã có đến gần 100, trong đó nhiều cái là của chủ ngƣời Việt và

Hoa kiều. Do báo chí phát triển, làm báo đã trở thành một

53

nghề ma lực lƣợng chính gồm những ngƣời "Tây học" và những nhà nho thức thời đã ném

"bút lông" và dùng "bút sắt". Và ở giai đoạn giao thời cũ - mới lúc nay, đã nảy sinh hiện

tƣợng đặc biệt: văn báo bất phân. Cả một thế hệ ngƣời cầm bút vừa làm báo, vừa viết văn,

nhiều tòa báo kiêm cả vai trò xuất bản. Sự xâm nhập lẫn nhau giữa văn học và báo chí ẩn

chứa ngay trong một chủ thể sáng tạo. Các báo chí không ngừng cải tiến từ nội dung đến hình

thức để tranh thủ độc giả. Tam Lang kể lại rằng vì "không muốn mình còn là một ngƣời viết

báo lỗi thời, tôi đã thay đổi cả ngòi bút lẫn bình mực (...) tôi đã chuyển luôn cách viết, dứt

khoát bỏ hẳn lối văn lãng mạn, ghi chép những điều tai nghe mắt thấy trong mục Những cái

mắt thấy cũng vẫn trên tờ Ngọ báo bằng lối văn tả chân" [142, 67 - 68]. Và ông bắt chƣớc

Maryse Choisi khoác áo phu xe đi làm phóng sự. Vũ Trọng Phụng cũng đọc nhiều phóng sự

của nƣớc ngoài. Ở phóng sự Cơm thầy cơm cô, họ Vũ nhắc đến thiên phóng sự Carnet d'une

femme de chambre 1934 của Maryse Choisi. Trong thƣ gửi vợ chồng Nguyễn Văn Đạm, ông

đã nói đến các thiên phóng sự của Albert Londres "Le chemin de Buenos- Aires" (Đƣờng đi

Buenos - Aires), "La Traite des Blanches" (Việc buôn bán phụ nữ da trắng); nhắc đến phóng

sự "À l'ombre de la Croix gammée" (Dưới bóng chữ thập ngoặc) của Xavier de Hautecloque

[89, 127 - 128]. Đặc biệt, ông đánh giá cao thiên phóng sự "Indochine S.O.S" của A.Viollis

coi "phong trào xin mở rộng cửa ngục tha hết thảy chính trị phạm Việt Nam do cuốn sách ấy

gây ra (...) đã kích thích rất mạnh đến quần chúng ở xã-hội ta" (Những việc đáng ghi chép

của năm Bính Tý, báo Tương lai, ngày 18 tháng 2, 1937, trang 3). Khi nói về "Ảnh hƣởng văn

học Pháp tới văn học Việt Nam trong giai đoạn 1932 -1945" (Tạp chí văn học, Số 4 năm

1993), Phó giáo sƣ Phan Ngọc đã cho biết, thời đó, cuốn phóng sự Satan conduit le bai (Quỷ

Xa tăng cầm đầu cuộc khiêu vũ) là tác phẩm "chấn động dƣ

54

luận (...) ai cũng đọc và rất có ảnh hƣởng". Những sự kiện trên cho thấy, cũng nhƣ tiểu thuyết

hiện đại, phóng sự cũng là thể văn đã du nhập vào nƣớc ta bằng những tác phẩm sống động.

Một số cây bút phóng sự tiên phong nhƣ Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng đã học hỏi và

vận dụng vào thực tiễn sáng tác, đƣa phóng sự trở thanh một thể loại mới trong báo chí và

văn học dân tộc. Bằng tài năng sáng tạo của mình, họ đã đem đến cho đại chúng một "mặt

hàng" mới lạ, hấp dẫn, đáp ứng nhu cầu bức xúc về thông tin sự thật. Trƣớc những vấn đề

chính trị, xã hội nóng bỏng, bề bộn và hết sức sôi sục lúc đó, không có thể loại nào có thể

nhanh nhạy, sắc bén chiếm lĩnh hiện thực bằng thể phóng sự. Nó không chỉ cung cấp cho độc

giả những tập ảnh, những số liệu... mà có thể dựng lên một bức tranh sống động, với những

nhân vật hệt nhƣ nguyên mẫu và những sự kiện xác thực; đƣa lại một cái nhìn, không chỉ từ

bên ngoài mà còn mô tả từ bên trong, làm sáng rõ bản chất của hiện tƣợng nên có sức hấp

dẫn, lôi cuốn đối với ngƣời đọc. Cùng với tiểu thuyết hiện thực, phóng sự đã trở thành thể

loại "ăn khách" lúc đó, tạo ra một "lực hấp dẫn" mạnh mẽ đối với hàng loạt cây bút. Chẳng

hạn nhƣ trƣờng hợp của Vũ Trọng Phụng, theo nhƣ Vũ Bằng thì, sở dĩ "Vũ Trọng Phụng

chuyên chú về phóng sự và tiểu thuyết, vì độc giả hồi ấy chỉ ƣa "sơi" hai món đó mà các nhà

báo và nhà xuất bản cũng chỉ "đặt" anh hai món đó" (Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng)

[10, 38]. Ngƣời ta thƣờng nói, dƣờng nhƣ, họ Vũ sinh ra để viết tiểu thuyết và phóng sự.

Nhƣng theo chúng tôi, chính nhu cầu của xã hội về thể phóng sự đã là một "tác nhân" quan

trọng góp phần tạo nên tài năng phóng sự của ông. Đối với một ngƣời sống bằng ngòi bút,

luôn khốn đốn, thiếu thốn đồng tiền, quỹ thời gian lại rất là eo hẹp... thì dù có sở trƣờng đến

mấy, chắc rằng, ông không thể cứ cúi "cái lƣng khòng xuống trang giấy, một tay giữ lấy cổ,

cố ngăn lại một cơn ho", một tay kia viết phóng sự chỉ để thỏa

55

mãn hứng thú riêng của mình, nếu không có "đơn đặt hàng" cấp thiết của xã hội!

Hoàn cảnh xã hội có vấn đề, bao nhiêu sự kiện, sự việc mới nảy sinh, liên tục biến

động; nhu cầu của xã hội về một loại văn bản phản ánh sự thật một cách trực tiếp "áp sát

vào hiện thực"; sự trưởng thành của báo chí trong sự xâm nhập với văn chương; ảnh hưởng

của phóng sự nước ngoài; tài năng sáng tạo và tâm huyết của một lớp người cầm bút... đã

hội đủ những điều kiện cho việc hình thành nên thể phóng sự trong những năm ba mươi của

thế kỉ.

1.3.2. Sơ lược về quá trình phát triển

1.3.2.1 Giai đoạn 1932 - 1945

Vũ Đình Chí - bút hiệu Tam Lang (1900 - 1986) - là ngƣời có công mở đầu thể phóng

sự ở Việt Nam. Ông kể lại rằng, khi làm công việc nhặt tin cho tờ Ngọ báo, ông đã "biến mục

Tin tức thành các mục Mắt thấy tai nghe" [142, 65]. Đi sâu vào đời sống của những "ngƣời

ngựa", năm 1932, Tam Lang viết thiên phóng sự Tôi kéo xe, đăng liên tiếp 20 kì trên tờ Ngọ

báo. Năm 1935, ông tự bỏ tiền in thành sách. Cũng trong những năm này, ông còn viết 8

thiên phóng sự ngắn, đăng trên mục Những cái... mắt thấy, nhƣ Trên dòng Tiêu Kim Thủy,

Đêm sông Hương, Lạc trong Sơn Đỉnh Quách, Người ngợm... Tuy nhiên, phóng sự Tôi kéo xe

vẫn là tác phẩm có ý nghĩa mở đầu và là tác phẩm nổi bật "gây ngạc nhiên không ít cho độc

giả và đồng nghiệp" (Thƣợng Sỹ - Thân thế và sự nghiệp Tam Lang) [102, 6]. Vũ Bằng cũng

viết nhiều phóng sự, nhƣ Một đêm trắng với năm bông hoa tàn, v.v... nhƣng hầu hết đăng dở

dang thì báo chết. Năm 1933, Vũ Trọng Phụng làm chấn động dƣ luận với tác phẩm Cạm bẫy

người và sau đó là cả một xêri phóng sự đặc sắc.

56

Sự mở đầu thành công của "Ba chàng họ Vũ" nói trên đã như chiếc đầu tàu kéo theo

cả một đội ngủ những nhà văn, nhà báo đến vói thể phóng sự. Ở giai đoạn 1932 - 1945, một

số nhà văn khỏi đầu sự nghiệp bằng phóng sự, nhiều ngƣời đã từng viết phóng sự va có đời

văn "thủy chung" với thể loại này cho đến lúc phải buông cây bút. Nếu thống kê, sẽ có một

danh sách với những tên tuổi: Tam Lang, Vũ Trọng Phụng, Vũ Bằng, Ngô Tất Tố, Trọng

Lang, Thạch Lam, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân, Nguyễn Đình Lạp, Lê Văn Hiến, Phi Vân,

v.v...

Điểm độc đáo của thể phóng sự ở Việt Nam là ngay từ đầu đã có phóng sự văn học.

Sau đó, cả phóng sự văn học và phóng sự báo chí cùng phát triển một cách phong phú, đặc

biệt trong những năm sôi nổi của Mặt trận dân chủ (1936 - 1939). Vùng hiện thực mà thể

phóng sự lúc này chiếm lĩnh và phản ánh là những vấn đề nóng bỏng, nhức nhối của xã hội

thực dân nửa phong kiến ở cả thành thị lẫn nông thôn và còn đƣa ra trƣớc công luận một

mảng hiện thực vốn bị thực dân bƣng bít: cuộc sống của các nhà tù, đặc biệt là chính trị ở các

nhà lao hoặc bị lƣu đày ở những nơi rừng thiêng, nƣớc độc.

Trong "khu rừng" phóng sự thời "tiền chiến", số lƣợng nhiều hơn cả là những tác

phẩm viết về hiện thực nơi thị thành. Cuộc sống lam lũ, vất vả, khốn cùng và tha hóa của lớp

ngƣời "dƣới đáy" nhƣ phu xe, con sen, thằng nhỏ... đƣợc tái hiện sinh động và sâu sắc trong

Tôi kéo xe của Tam Lang (Ngọ báo, 1932); Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng (Hà Nội

báo, 1936); Trong làng bồi bếp của Thổ Công (báo Phóng sự, số 8 năm 1939)... Lối sống

buông thả, sa đọa ở nơi thị thành thuộc địa đã hiện lên một cách rõ nét trong Thanh niên trụy

lạc, Từ ái tình... đến hôn nhân, Chợ phiên đi về đâu (Ích hữu, 1937) của Nguyễn Đình Lạp.

Sự thối nát, bẩn thỉu, nhố nhăng của đám "nghị gật" bù nhìn đƣợc phơi bày trong Dân biểu và

57

dân biểu của Vũ Trọng Phụng (Công dân, năm 1935), trong loạt phóng sự Lớp tuồng đầu, lớp

tuồng thứ hai, thứ ba v.v... của Viện dân biểu (Tin tức, năm 1938). Số phận bi đát của đời

nghệ sĩ, những ngƣời bị coi là hạng "xƣớng ca vô loại" đã đƣợc tái hiện trong Vẽ nhọ bôi hề

(Phụ nữ thời đàm, 1936) của Vũ Trọng Phụng...

Một trong những vấn đề nổi cộm của thành thị là những tệ nạn, vấn nạn xã hội. Trong

phóng sự Cạm bẫy người (Nhật tân, 1933) của Vũ Trọng Phụng, Theo chân bọn cờ bạc (báo

Phóng sự, 1938) của Đông Giang... "nghề" cơ gian, bạc bịp đã bị đƣa ra ánh sáng. Trọng

Lang lật tẩy "nghề" đạo chích bằng phóng sự Trong làng chạy (Ngày nay, 1935) "Thế giới"

ma mị của "nàng tiên nâu" hiện hình trong Ngọn đèn dầu lạc (Mai Lĩnh, 1939) và Ngọn đèn

dầu lạc (Mai Lĩnh, 1941) - hai thiên phóng sự của Nguyễn Tuân, Đàn bà nghiện hút của

Trọng Lang, v.v... Thực trạng đen tối, nhơ nhớp của nạn mại dâm đƣợc phơi bày qua nhiều

thiên phóng sự: Đêm sông Hương của Tam Lang, Hà Nội lầm than (Ngày nay, 1937) của

Trọng Lang, Hà Nội ban đêm (Ngày nay, 1936) của Tràng Khanh - Việt Sinh, Lục xì (Tương

lai, 1937) của Vũ Trọng Phụng, Điều tra tại Sở phong tục (báo Phóng sự, 1938) của Y

Lang... Tệ tham nhũng đƣợc Vũ Trọng Phụng mô tả một cách sinh động trong Một huyện ăn

Tết (Tiểu thuyết thứ bẩy, 1939). Trước vành móng ngựa (Đời nay, 1938 của Hoàng Đạo là

một tập phóng sự gồm rất nhiều phóng sự rất ngắn về cuộc sống "muôn mặt" đầy những bi

hài của cái xã hội đƣơng thời.

Hƣớng "ống kính" về những miền quê, nhiều nhà phóng sự đã thu đƣợc những bức

tranh đầy ấn tƣợng sâu sắc. Trong số những cây bút phóng sự viết về nông thôn, Ngô Tất Tố

là một tác giả tiêu biểu. Hai tập phóng sự Việc làng (Hà Nội tân văn, 1940) và Tập án cái

đình đã phơi bày những hủ tục "quái gở, mọi rợ" ở chốn đình làng và những cảnh ngộ thƣơng

tâm,

58

nực cƣời ở chốn làng quê. Phóng sự Làm dân của Trọng Lang cũng tập trung mô tả nỗi khốn

đốn của những ngƣời dân trƣớc những hủ tục lạc hậu và vô nhân đạo. Những cây bút phóng

sự không chỉ tập trung mô tả cảnh "bùn lầy nƣớc đọng" mà còn kịp thời phản ánh những tai

ƣơng, chƣớng họa áp xuống đầu dân đen. Phóng sự Câu chuyện Bắc Giang (Tin tức, số 10 -

18, tháng 6, 1938) của Đ.K đã diễn tả cảnh lụt lội cơ hàn của nông dân xứ Kinh Bắc và sự ăn

chặn bẩn thỉu của đám cƣờng hào, quan lại đối với đồ cứu tế. Một cuộc điều tra muối (Tin

tức, số 20; 22 - 27 tháng 7 năm 1938) của L. P là một bức tranh sinh động về đời sống của

ngƣời nông dân miền biển... Phi Vân viết nhiều thiên phóng sự về làng quê Nam Bộ: Tình

quê, Dân quê, Cô gái quê, Đồng quê... Trong đó, Đồng quê là một tác phẩm nổi bật. Ở Đồng

quê của Phi Vân có những bức tranh tƣơi tắn, hồn nhiên của cảnh vật và con ngƣời vùng đất

phƣơng Nam, nhƣng cũng không át đƣợc tiếng rên xiết, oán hờn của những ngƣời nông dân

Nam Bộ nơi thôn ấp, kênh rạch trƣớc nỗi bất công, áp bức của đám chủ điền độc ác, xảo trá,

dâm ô... Qua ngòi bút phóng sự của những nhà văn, nhà báo kể trên, nông thôn thời thuộc

Pháp hoàn toàn khác hẳn với "Một làng An Nam" tƣơi đẹp, thanh bình dƣới chính sách "khai

hóa" của chính quyền bảo hộ, nhƣ sự mô tả của Bùi Đình Tá (cuốn sách xuất bản năm 1937),

mà hiện lên nhƣ một bức tranh xám xịt, xơ xác, tiêu điều, đói nghèo và lạc hậu. Đó thực sự là

một "Túp lều nát" mà nhà văn Nguyễn Đổng Chi đã khái quát trong một thiên phóng sự cùng

tên (Trảo Nha, Hà Tĩnh, năm 1937).

Một mảng hiện thực vốn bị khuất tất bởi sự che đậy của chính quyền thuộc địa là cảnh

lao tù cũng đƣợc các nhà phóng sự đƣa ra ánh sáng. Nguyên Hồng viết Tết của tù đàn bà, Tù

trẻ con (khoảng năm 1937, 1938). Phan Văn Hùm viết Khám lớn Sài Gòn, Nguyễn Đức

Chính viết Đảo Côn Lôn. Trên báo Phóng sự năm 1939 đăng phóng sự nhiều kì Côn Lôn kí

sự

59

của nhà văn - tƣớng cƣớp Sơn Vƣơng. Quần đạo ngục tù (Poulo Condore) hiện lên khá sinh

động từ điểm nhìn của một ngƣời tù thƣờng phạm. Đến số tháng 11 năm 1939, tuần báo này

lại đăng "Phóng sự chưa từng có: các chị Thân, Ninh, Tạo, Nguyền đi thăm chồng - Một cuộc

hội ngộ cảm động cuối năm ở khám lớn Sài Gòn" của nhà văn Thúc Tề nói về cuộc sống của

những ngƣời tù chính trị. Nhƣng khủng khiếp nhất là sự đọa đày, khủng bố, sát hại một cách

cục kì dã man của thực dân Pháp đối với những ngƣời tù cộng sản mà Lê Văn Hiến tái hiện

trong thiên phóng sự điều tra Ngục Kontum (1938). Tác phẩm không chỉ là tiếng thét hờn

căm đối với quân thù mà còn là bài ca về tinh thần quật cƣơng, bất khuất, là trang sử anh

hùng thấm đẫm một màu máu những chiến sĩ cách mạng. Đƣợc viết bằng tiếng Pháp, thiên

phóng sự này đã trực tiếp tác động mạnh mẽ trên trƣờng quốc tế, khi đƣợc dịch, đăng tải trên

tờ Le Travail (Lao động) đã làm chấn động dƣ luận trong nƣớc. Đây cũng là một dạng thông

điệp Đông Dương cấp cứu đƣợc viết từ ngòi bút phóng sự của những ngƣời cộng sản. Những

ngƣời cộng sản không chỉ dùng thể phóng sự viết về đề tài ngục tù, mà trên các tờ báo nhƣ

Tin Tức, Lao dộng, Nhành lúa, Việt Nam độc lập, nhiều nhà báo đồng thời cũng là các lãnh tụ

cách mạng nhƣ Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp... đã viết nhiều bài phóng

sự vừa có giá trị thông tin cao, vừa có tính chất tuyên truyền, vận động, chỉ đạo cách mạng.

Thể phóng sự ở giai đoạn 1932 - 1945 còn đi vào một số lĩnh vực khác nữa của cuộc

sống. Ở phóng sự pha chất bút kí Hà Nội băm sáu phố phường (1943), Thạch Lam đã bàn về

tên các phố xá, biển hàng, đặc biệt là những món ăn thanh lịch, đậm đà của đất Thăng Long

"nghìn năm văn vật"... Đúng là, sau khi có thể phóng sự, nhiều nhà báo, nhà văn thuộc những

khuynh hƣớng khác nhau đã nhanh chóng nắm lấy thể loại mới mẻ, đầy năng động và hiệu

quả nay để tiếp cận, chiếm lĩnh, phản ánh hiện thực,

60

tạo nên một thành tựu rất phong phú và đặc sắc. Đặc biệt, năm 1938, ở Sài Gòn xuất hiện tờ

tuần báo chuyên về phóng sự. Tờ Phóng sự ra số đầu tiên ngày 10 Novembre, 1938. (Chủ

nhiệm báo là Công Minh). Tuần báo này đăng cả phóng sự báo chí và phóng sự văn học, với

sự tham gia của Thiếu Sơn, Lãng Tử, Thức Tề, Lê Pha, v.v... Nhƣng sang đến năm 1940,

đăng cả truyện ngắn, truyện dịch và thơ. Bài vở cứ nhạt và nghèo dần, phải hợp nhất với tờ

Trào phúng. Đến số ngày 16 Mars, 1940 thì chấm dứt.

1.3.2.2 Giai đoạn 1945 - 1979

Trong vài năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với hai thiên phóng sự dài

Cảnh Dương chiến đấu và Thôn Lệ Sơn của Nguyễn Đình Lạp và bài giảng Muốn làm phóng

sự của ông, ở nhiều khóa bồi dƣỡng cho lực lƣợng văn nghệ kháng chiến do Chủ tịch Ủy ban

Kháng chiến Liên khu IV Đặng Thai Mai tổ chức, thể phóng sự đã như nhập cuộc vào hiện

thực chiến tranh và cách mạng. Nguyễn Đình Lạp cho rằng: "dân tộc ta vùng đứng dậy kháng

chiến, kiến thiết. Bao nhiêu sự nghiệp lớn lao của 25 triệu con ngƣời đang từng giờ, từng phút

phô diễn bằng xƣơng máu trên khắp nẻo đƣờng của xứ sở. Chúng ta không thể để cho chúng

trôi qua đi. Chúng ta có bổn phận phải chép lại, ghi chép đầy đủ, nóng hổi sự sống và chí quật

cƣơng. Thể phóng sự có thể giúp chúng ta làm đƣợc nhiệm vụ ấy (...). Dƣới thời Pháp thuộc,

phóng sự còn là một lợi khí sắc bén thì trong lúc này chúng ta cần đặt phóng sự vào vai trò

xứng đáng của nó" (Bài giảng Muốn làm phóng sự - Tlđd, tr. 304). Nhƣng đến năm 1949 và

đầu thập niên năm mƣơi, vai trò xung kích của thể phóng sự nhƣ đƣợc chuyển giao sang cho

thể bút kí và kí sự, bằng sự ra đời của một loạt tác phẩm kí kháng chiến, với những tên tuổi

nhƣ Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nam Cao, Nguyễn Huy Tƣởng, Bùi Hiển và lớp nhà văn trẻ

nhƣ Trần Đăng, Hồ Phƣơng... Và cũng từ đấy, thể phóng sự chìm dần vào sự quên lãng kéo

dài

61

suốt gần 40 năm, bỗng tự nhiên như thành trường hợp ngoài "biên chế" hệ thống thể loại văn

học cách mạng. Sự vắng bóng thể phóng sự trên văn đàn, phần nào gây nên sự hẫng hụt trong

đời sống văn học. Điều nghịch lí ở đây là, trong khi ở văn học từ sau 1945, chất liệu thẩm mĩ

của sáng tác phát triển theo hướng tăng cường tính sự kiện, tính chính luận - hai yếu tố nay

vốn sung mãn trong bản thể của phóng sự - thì chính thể loại này, thay vì đƣợc "trọng dụng"

lại bị hơ hững, lãng quên!

Tuy nhiên, vào năm 1962, tạp chí Văn nghệ và báo Văn học đã có sự khuyến khích

thể văn nay bằng việc vận động thi viết bút kí, phóng sự. Nhân dịp nay, một số nhà văn đã lên

tiếng. Bùi Huy Phồn, tuy không viết phóng sự, những là ngƣời "ƣa" dùng tƣ liệu, sự kiện khi

làm văn, đã bức xúc, ngậm ngùi: "Chẳng những các nhà phê bình lí luận văn học, các cơ quan

xuất bản thƣờng ít quan tâm đến thể văn này, thậm chí cả nhiều nhà văn đối với nó cũng tỏ ra

thái độ hững hờ, nếu không muốn nói là rẻ rúng" [145, 5]. Theo ông: "chúng ta cần có một

quan niệm đúng đắn về tính chất đặc thù, khả năng và tác dụng của thể văn phóng sự"; đừng

để "thứ vũ khí vô cùng nhạy bén bị han rỉ ra không dùng"; nên trả lại "chỗ đứng xứng đáng

trong văn học" cho thể phóng sự... Bốn năm sau đó, trong cuộc trao đổi về thể kí và vấn đề

viết về ngƣời thật, việc thật (năm 1966 - 1967), nhà nghiên cứu Vũ Đức Phúc đã phân tích

đặc trƣng, chức năng riêng của thể văn này, so với những thể loại kí khác. Ông cho rằng,

trong thanh tựu của mảng kí có "Một số tác phẩm có tính chất phóng sự dài (mặc dầu tác giả

đề là kí sự)... là Kí sự Cao - Lạng (1950) của Nguyễn Huy Tƣởng, Hiên ngang Cu Ba (1962)

của Thép Mới, Họ sống và chiến đấu (1966) của Nguyễn Khải" [150, 39].

Những đề nghị thiết tha và sự gọi nhớ về "tinh thần thể loại" của các nhà văn, nhà

nghiên cứu nói trên cũng bị thời gian quên lãng. Sự khuyến

62

khích, vận động viết bút kí, phóng sự của tạp chí Văn nghệ và báo Văn học ở những năm đầu

thập niên sáu mƣơi ấy cũng không giúp cho thể phóng sự hồi sinh. Vì thiếu mất một thành

viên "gạo cội" mạnh, sắc, tốc tả là thể phóng sự, nên mảng kí văn học đã ít nhiều chịu những

thiệt thòi. Chẳng hạn, trên thế giới có nhiều thiên phóng sự nổi tiếng về đề tài chiến tranh và

cách mạng của John Reed, Hemingway, Malamarte, Salsbuny, Graham Green, Burchétt,

Êrenbua, Pôlêvôi, Ngụy Nguy... (riêng Burchett đã lặn lội đến tận chiến trƣờng miền Nam

Việt Nam để làm phóng sự). Vậy mà, các nhà viết kí của ta đã bỏ lỡ dịp, không làm đƣợc

thiên phóng sự lớn về hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại đánh thắng "hai đế quốc to", với

những chiến thắng Điện Biên "chấn động địa cầu", đại thắng mùa Xuân 1975 của chiến dịch

Hồ Chí Minh lừng lẫy... Thể phóng sự đã không "có mặt" để chớp lấy cái cảnh tƣợng đầy

khói lửa, ác liệt và hào hùng, dựng lên những bức tranh hoành tráng về chiến thắng vinh

quang, thật đáng tiếc thay!

Cũng xin trình bày thêm là ở giai đoạn 1946 - 1954 tại vùng Pháp tạm chiếm và giai

đoạn 1954 - 1975 ở vùng tạm chiếm của Mỹ ngụy, thể phóng sự vẫn tồn tại, nhƣng không có

đƣợc thành tựu đáng kể nào. Hai chàng họ Vũ (Tam Lang và Vũ Bằng), tuy vẫn còn cầm bút

nhƣng không viết phóng sự. Theo Phó giáo sƣ Trần Hữu Tá, thì vào khoảng 1955 - 1956, có

một số thiên phóng sự, nhƣ Trong ngõ hẻm, Dưới gầm cầu, Đây Cái Sắn... viết về tình cảnh

của những ngƣời dân di cƣ vào Nam. Năm 1965 - 1966 đã có một số thiên phóng sự viết về

cuộc sống nhộn nhạo, xô bồ, băng hoại nơi đô thị Sài Gòn, nhƣ Mãnh lực đô la của Vũ Duy,

Sài Gòn rác rưởi của Nguyễn Đình Thiên, Tư Chơi ngày tàn, v.v... Trong văn học đô thị

miền Nam, những năm tiếp sau đó, xuất hiện một số tiểu thuyết - phóng sự (nhƣ Tiểu thuyết

phiêu lƣu phóng sự Người anh hùng chín núi của Lê Văn Trƣơng (1972)).

63

Sự lãng quên đối với thể phóng sự trong suốt gần 40 năm không phải là do quá trình hoán cải

hay loại trừ thể loại này khi xây dựng hệ thống thể loại của nền văn học Cách mạng mà chủ

yếu là vì những nhận thức phiến diện về chức năng xã hội của thể loại. Ngay đến mấy năm

gần đây, khi nói về thể phóng sự, nhà văn Nguyên Ngọc đã cho rằng: "Phóng sự là một thể

loại có khả năng đặc biệt mạnh va sắc trong chức năng đào bới, phanh phui, mổ xẻ tức thời

những sự thật xã hội phức tạp, ngổn ngang, đen tối" [131, 11]. Liền sau đó, ông giải thích:

"trong gần 40 năm, phóng sự lặn hẳn đi, mất hút. Có lẽ không khó giải thích lắm: trong một

dòng văn học chủ yếu anh hùng ca, không có đất đứng và nảy nở cho phóng sự" [131, 11].

Phóng sự đâu phải chỉ có khả năng đặc biệt trong chức năng "đào bới, phanh phui, mổ xẻ tức

thời những sự thật xã hội phức tạp, ngổn ngang, đen tối"! Cả một nền phóng sự rất đặc sắc về

chiến tranh và cách mạng (nhƣ đã nói ở trên), hàng loạt những phóng sự nổi tiếng khám phá

những vùng đất lạ (thiên phóng sự đầu tiên trên thế giới của Staley viết về hồ Tanganuyika,

phóng sự của Upton Sinclair về rừng hoang dã Amadone, phóng sự Halibocton về dãy

Anpơ...), đã minh chứng cho khả năng mạnh và sắc của thể phóng sự trong việc khám phá

nhiều mặt khác nhau của hiện thực. Vì vậy, thể phóng sự hoàn toàn có thể có mặt, thậm chí

còn đóng vai trò xung kích xuất sắc trong "dòng văn học chủ yếu anh hùng ca", ngợi ca cái

đẹp, cái cao cả, cái hùng... Sự nhận thức phiến diện về chức năng của thể phóng sự không

phải chỉ là một sai lầm của một thời đã qua mà còn có thể là một vấn đề của thực tế sáng tác

hiện nay.

1.3.2.3 Từ 1980 đến nay

Sau gần 40 năm dài tắt lặng, những năm tám mươi, thể phóng sự đã xuất hiện trở lại.

Tác phẩm "lại mặt" đầu tiên là phóng sự Cây cói ở Hải Tân (tháng 8/1980) viết về chuyện

đồng cói Tiền Hải (Thái Bình) của Trần

64

Huy Quang. Nhƣng phải đến sau năm 1986, khi những tƣ tƣởng đổi mới về văn hóa văn nghệ

của Đảng đã có ý nghĩa quyết định đối vói diện mạo và chiều hƣớng phát triển của báo chí và

văn học thì thể phóng sự nhƣ "bùng nổ" mạnh mẽ. Đây cũng là lúc xuất hiện nền kinh tế thị

trƣờng với những mặt tích cực và tiêu cực của nó. Trƣớc một hiện thực phong phú nhƣng có

phần ngổn ngang, bề bộn, phức tạp, thể phóng sự đã xuất hiện đúng lúc, với một thái độ nhập

cuộc, một cái nhìn mạnh dạn, thẳng thắn. Vai trò xung kích của thể văn sắc sảo nay đƣợc

phát huy trở lại. Có thể nói, phóng sự là thể văn đã đi đầu thực hiện phƣơng châm nhìn thẳng

vào sự thật, nói rõ sự thật mà công cuộc đổi mới đề ra. Các tác phẩm phóng sự thi nhau nở

rộ, trong đó, những tác phẩm đầu tiên gây đƣợc ấn tƣợng mạnh mẽ phải kể đến Vua lốp

(tháng 3 năm 1987) của Trần Huy Quang và Cái đêm hôm ấy... đêm gì! (8 - 1988) của Phùng

Gia Lộc. Trên các báo, tạp chí, chuyên san... phóng sự xuất hiện ngay càng nhiều; các nhà

báo, nhà văn viết phóng sự ngày một đông đảo. Ở thập niên chín muồi này, hàng loạt tập

phóng sự đã ra mắt bạn đọc nhƣ: Mọi linh hồn đều được đưa tiễn (1991), Vẫn phải tin vào

những giọt nước mắt (1996) đều của Xuân Ba, Phóng sự (tuyển - 1995) của Trần Huy Quang,

Ăn tết trong rừng chó sói (1995) của "con sói phóng sự" Huỳnh Dũng Nhân, Hành trình tới

chân lí (1995) của Trần Đình Bá, Tiếng kêu cứu của con chim gõ kiến (1995) của Trúc Chi -

Nguyễn Công Thắng, Huyền thoại giữa đời thường (1995) của Phạm Thục, Dòng sông êm

vẫn chảy giữa đời (1996) của Hoàng Chức Nguyên, SBC trên từng cây số (1996) của Nguyễn

Ngọc Thạo, Hồ sơ về một thế giới khác (1996) của Lê Huy Phú, Sự đời (1996) của Vũ Hữu

Sự, Kí sự pháp đình (1996) của Thủy Cúc, v.v... Một số phóng sự đã đạt đƣợc giải Nhất, Nhì

trong các cuộc thi viết bút kí, phóng sự, tiêu biểu nhƣ Mấy suy nghĩ về trạm bơm và cụm thủy

nông Cầu Giẽ (1980) của Hữu Thọ, Xưởng

65

nước hoa Thanh Hương tồn tại đến bao giờ của Mai Anh - Ngọc Trung, v.v...

Nhìn vào diện mạo thể phóng sự của thời kì đổi mới này, có thể thấy đề tài "thế sự",

"chống tiêu cực" chiếm một tỉ lệ nhiều hơn cả. Vì vậy, nhƣ chúng tôi đã nói tới ở trên, có thể

sự phiến diện trong quan niệm về thể phóng sự chưa phải đã hết. Không khéo, thứ "vũ khí"

sắc bén đƣợc tái dùng này sẽ chỉ lại đƣợc đem "chuyên trị" vào việc "đào bới, phanh phui, mổ

xẻ" nhƣ thời "tiền chiến" mà thôi! Hơn lúc nào hết, cái "ống kính" của thể loại phóng sự đang

vận hành hôm nay, muốn phát huy hết "công năng", nó đang rất cần đến sự "đạo diễn" của

phê bình, lí luận. Một điều dễ nhận thấy là hiện nay, không có những thiên phóng sự dài.

Trong bối cảnh "bùng nổ thông tin", với sự phát triển rộng khắp của các phƣơng tiện truyền

thanh, truyền hình, báo ảnh, internet... hiện nay, có lẽ "trí khôn thể loại" đã tự làm cuộc "tự

điều chỉnh" đó. Vả lại, sự dài, ngắn đâu có là thƣớc đo giá trị của tác phẩm và cũng không

làm ảnh hƣởng đến khả năng tiềm tàng vốn có của thể loại. Và một điểm quan trọng nữa là,

tuy số lƣợng phóng sự ngày càng nhiều nhƣng thành tựu đạt được chưa có bao nhiêu. Nhiều

thiên phóng sự mới chỉ khai thác được bề nổi của sự kiện thời sự chứ chưa khám phá được bề

sâu của "tảng băng" chìm - những vấn đề bản chất, quy luật của cuộc sống đầy phong phú và

cũng không kém phần phức tạp hiện nay. Khác với phóng sự thời trước 1945, đường ranh

giữa phóng sự văn học và phóng sự báo chí trong giai đoạn hiện nay khá là mờ nhạt. Ngay

trong một vài tác phẩm đƣợc xem là tiêu biểu hơn cả, nhƣ Cái đêm hôm ấy... đêm gì? (của

Phùng Gia Lộc), Lời khai của bị can (của Trần Huy Quang), Người đàn bà quỳ (của Trần

Khắc)... vẫn chƣa có đƣợc cái chất văn học đậm đà.

Sự trở lại của thể phóng sự đã góp phần làm không khí văn học thêm

66

sôi động. Công cuộc đổi mới chỉ có thể khôi phục lại chứ không ai có thể trả lại được "địa vị

xứng đáng" của thể phóng sự trong báo chí và văn học. Chỉ bằng sự phát triển và thành tựu

phong phú của chính mình, thể phóng sự mói làm đƣợc điều đó. Thành tựu còn rất khiêm tốn

của thể phóng sự trong hơn mƣời năm qua cho thấy, mặc dù con đƣờng đã đƣợc rộng mở, lại

tận hƣởng đƣợc những phƣơng tiện hiện đại, nhƣng đâu phải dễ dầu mà thể loại này tạo nên

một cuộc bứt phá, để xác lập đƣợc vai trò của mình trong đời sống văn học hôm nay. Nhƣng

may thay, thành tựu phong phú của một thời còn đó. Đây không phải là những tia hồi quang

mà là cả một kho kinh nghiệm quý giá, kết tinh trong những thiên phóng sự thuộc hàng mẫu

mực của những cây bút bậc thầy. Trong đó, "ông vua phóng sự đất Bắc" Vũ Trọng Phụng là

một đại biểu xuất sắc nhất.

*

* *

Trên đây là một số vấn đề xung quanh thể loại phóng sự, qua những nội dung đã trình

bày, chúng tôi xin có một số kết luận nhƣ sau:

Theo những tài liệu mới và đối chứng cùng tài liệu ở các thời kì khác nhau, chúng tôi

thấy các ý kiến cho rằng, thể phóng sự ra đời đầu tiên ở Mỹ là có cơ sở hơn cả, vì đã đƣa ra

đƣợc dẫn chứng cụ thể. Từ cái nôi sinh thành đó, thể phóng sự nhanh chóng "phát tán" ra

nhiều quốc gia và ở mỗi nƣớc, từ thực tế sáng tác của mình, đã có nhiều quan niệm giống và

khác nhau về thể loại này.

Đầu tiên, thể phóng sự chỉ là sự ghi chép giản đơn "phỏng" theo "cố sự", tƣờng thuật

lại những điều tai nghe, mắt thấy, nhằm mục đích thông tin thời sự. Kế theo đó, phóng sự

tăng thêm chức năng điều tra, thẩm định, đánh giá hiện thực, góp phần trả lời những câu hỏi

mà cuộc sống đặt ra. Bằng việc sử dụng những phƣơng tiện của văn chƣơng, phóng sự có khả

năng trở thành tác phẩm văn học

67

Vì vậy, từ chỗ chỉ là một thể thuộc loại kí báo chí, là nơi gặp gỡ giữa báo chí và văn

học, cho đến nay, thể phóng sự đƣợc xem là "một thể kí trong báo chí và văn học" (Hà Minh

Đức). Giữa phóng sự báo chí và phóng sự văn học, tuy có cái gốc chung là tính người thật,

việc thật và tính chất thời sự, nhƣng lại là hai thể loại thuộc hai hệ thống loại thể riêng là kí

báo chí và kí văn học, với những đặc điểm riêng biệt. Điều này phản ánh sự tiến bộ của văn

học và báo chí.

Ở Việt Nam, thể phóng sự đã xuất hiện từ năm 1932, với thiên phóng sự mở đầu là

Tôi kéo xe của Tam Lang và đã đạt thành tựu to lớn với sự góp mặt của nhiều tên tuổi trong

làng văn - báo thời "tiền chiến". Sau một thời gian dài chìm trong quên lãng, đến cuối thập kỉ

tám mƣơi, thể phóng sự đã xuất hiện trở lại, góp phần không nhỏ vào công cuộc đổi mói báo

chí và văn học. Thể phóng sự đang trên đà phát triển, phát huy vai trò xung kích của mình

vào nhiệm vụ cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trong giai đoạn hiện nay.

68

CHƢƠNG 2: PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG: HIỆN THỰC VÀ TƢ

TƢỞNG

Những thiên phóng sự và tiểu thuyết kiệt tác đã đƣa Vũ Trọng Phụng lên hàng "chiếu

nhất", tài năng bậc thầy ở cả lĩnh vực tiểu thuyết và phóng sự. Khối lƣợng hết sức đồ sộ của

di sản văn chƣơng Vũ Trọng Phụng cho thấy cái bút lực "ghê gớm" của ông.

Khả năng chiếm lĩnh hiện thực của ngòi bút Vũ Trọng Phụng thật là phi thƣờng. Từng

mảng đời sống xã hội đƣơng thời cứ dần hiện lên trong từng tác phẩm của ông, hợp thành

một bức tranh rộng lớn, phong phú và rất đậm nét. Có thể xem họ Vũ là "ngƣời thƣ ký" mẫn

cảm của thời đại, vì chỉ mảng hiện thực đƣợc ông ghi chép bằng "ống kính" phóng sự cũng đã

là một khối tƣ liệu quý giá đối vói những nhà viết sử và những nhà khoa học xã hội muốn

khảo cứu về cái xã hội thời Pháp thuộc. Nội dung của những thiên phóng sự không chỉ bao

hàm toàn bộ hiện thực được phản ánh, mà còn chứa đựng những tư tưởng, tình cảm của tác

giả. Những vấn đề xã hội đƣợc tái hiện, mô tả một cách trung thực, sâu sắc là kết quả của sự

tôn trọng sự thật đời sống, óc tỉnh táo, khoa học trong quá trình nhận thức. Sự đánh giá, thẩm

định hiện thực đó, tuy có liên quan đến sự nhận thức, nhƣng lại phụ thuộc nhiều vào tƣ tƣởng

- tình cảm của nhà phóng sự. Vì vậy, để khảo sát giá trị nội dung của thành tựu phóng sự Vũ

Trọng Phụng, chúng tôi đi vào cả hai phƣơng diện nói trên, để một mặt, thấy sức bao quát và

khả năng cảm nhận, hiểu biết của Vũ Trọng Phụng về

69

hiện thực cuộc sống mà ông trình bày; mặt khác, thấy đƣợc sự thật của cách nhìn, của thái độ

cũng nhƣ cách đánh giá của họ Vũ đối với những sự thật đƣợc phản ánh, tức là tính chân thực

lịch sử của tƣ tƣởng - tình cảm của ông. Đối vói một hiện tƣợng đƣợc coi là "phức tạp" nhƣ

Vũ Trọng Phụng, cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, để có thể tránh đƣợc những sai lầm

trong nhận định và đánh giá, nhằm tìm đƣợc những đóng góp và những hạn chế của "ông vua

phóng sự" trong chính những tác phẩm thuộc bộ phận sáng tác quan trọng này.

Những mảng hiện thực đƣợc thể hiện trong 5 thiên phóng sự còn lại, chủ yếu thuộc về

vùng hiện thực nơi thị thành của xã hội thuộc địa. Cũng nhƣ nhiều nhà văn đƣơng thời, ông

hƣớng ngòi bút phóng sự của mình vào việc khám phá những tệ nạn xã hội nhức nhối; những

vấn đề xã hội thƣơng tâm, éo le. Cây bút phóng sự sắc nhọn của họ Vũ đã "xói" thêm những

vấn đề mới, "đào" thêm những vỉa, tầng hiện thực ngay ở những lĩnh vực vốn đã đƣợc nhiều

ngƣời "thâm canh", để nhận thức thêm những phƣơng diện mới, những lớp hiện thực mới về

đời sống xã hội và con ngƣời.

2.1. Những mảng hiện thực đen tối

Bằng nhãn quan sắc sảo và ngồi bút hiện thực năng động, táo bạo, Vũ Trọng Phụng

đã lật tung những vấn đề xã hội thuộc hàng quốc nạn lúc đó là tệ tham nhũng, nạn cờ bạc bịp,

mại dâm và những vấn đề xã hội đầy thƣơng tâm nhƣ chuyện con đòi, con ở; chuyện lấy

chồng Tây của ngƣời phụ nữ vong quốc, phơi bày cái mặt trái đầy những ung nhọt và những

vết thƣơng lở lói trên cái cơ thể đang băng hoại của chế độ thực dân nửa phong kiến thời

Pháp thuộc.

2.1.1. Những tệ nạn xã hội trầm kha

2.1.1.1 Nạn cờ bạc bịp, một thứ "Cạm bẫy người"

70

Ngay từ thiên phóng sự đầu tay, họ Vũ đã tiến hành một cuộc thâm nhập táo bạo vào

một mảng hiện thực nơi thị thành: nạn cờ gian, bạc bịp... Trong Cạm bẫy người [154] là cả

một "thế giới ngầm", với cả một bề lũ lƣu manh, chuyên nghề cờ bạc bịp. Bề lũ lƣu manh này

đƣợc tập hợp thành hẳn một "làng" bạc bịp, với nhiều phe nhóm. Lực lƣợng của chúng, với

nhiều phe nhóm. Đứng đầu là gã Trùm Ấm B và Thƣợng Ký. Dƣới trƣớng của hai gã này là

cả một "bộ máy nhân sự" gồm những "giáo sƣ quỷ thuật", "chuyên gia bạc bịp" cùng một lũ

"tạ" đầu trâu mặt ngựa đƣợc "chuyên môn hóa" ở từng khâu trong "cỗ máy" bạc bịp: kẻ thì

chuyên ban mƣu tính kế, đóng vai con "chim mồi", trực tiếp làm "tài ban" (nhƣ tên Vân, Ký

Vũ); kẻ thì chuyên giữ "két" của làng bịp (nhƣ Cả Ủn); kẻ chuyên chế tạo "khí giới" (dụng cụ

gian khi hanh nghề)... Chúng phối hợp với nhau một cách hoàn hảo, trong cái "quy trình công

nghệ", nhằm "thịt" những "con mồi" khi sa vào "cạm bẫy". Cái làng bịp đầy bí hiểm nay có

cả một "chiến lƣợc" làm ăn và rất nhiều thủ đoạn nham hiểm.

Đối với mỗi loại bài cơ bạc, chúng có những ngón lừa đủ loại, từ thấp đến cao, từ

"non" đến "già", từ đơn giản đến tinh vi, phức tạp. Và tùy từng đối tƣợng mà tung ra những

ngón đòn thích hợp để cuối cùng có thể "nhét đất thó vào mũi" con bạc, móc sạch hầu bao

của họ. "Sự thiên biến vạn hóa" của những ngón nhà nghề này đã đạt đến mức "quỷ thuật":

nào là đòn trinh thám, hụt nọc, đồn bát lò xo, đòn Vân Nam (ngoại quốc). Chúng còn sử dụng

cả "khoa học thái Tây", chẳng hạn nhƣ đổ chì vào một con xúc xắc khiến nó biến thành một

thứ lật đật, không ngã, gieo mƣời lƣợt trúng cả mƣời... Những mánh khóe, thủ đoạn của làng

bịp thật là "thiên hình vạn trạng". Đến cả những con bạc lõi đời "khôn sặc máu mồm" vẫn cứ

"sa hố" mà vẫn không biết nên "hỏi Chúa Jesus hỏi Phật Thích Ca hay hỏi ma quỷ" [154,

178] xem mình bị bịp ra sao!

71

Trong cái xã hội tối tăm, đảo điên lúc ấy, có biết bao hiểm họa đối với con ngƣời,

trong đó, nạn cờ gian bạc bịp cũng là một thứ cạm bẫy nguy hiểm, gây ra bao cảnh tan cửa

nát nhà, bao ngƣời thân tàn ma dại, táng tận lƣơng tâm. Đây cũng là một trong những nguyên

nhân làm cho đạo đức, nhân tâm của cả cộng đồng càng thêm suy thoái.

2.1.1.2. Nạn mại dâm, cái "ung nhọt" khó trị

Thị thành thời thuộc địa là nơi mà tệ mại dâm hoành hành dữ dội. Cây bút phóng sự

Vũ Trọng Phụng đã tập trung khám phá tệ nạn này từ chính trong ngôi nhà Lục xì

(Dispensaire) "một nơi cấm, mà nếu không phải là nhà thổ, không là mật thám, không là thầy

thuốc thì ta không bao giờ đƣợc bƣớc chân vào" [155, 83]. Và từ cái "Viện bảo tàng những

điều ô uế" này, bao điều bí ẩn về một tệ nạn đƣợc nhà phóng sự đƣa ra ánh sáng.

Tuy đƣợc gọi là nhà Phúc đƣơng, nhƣng trƣớc những năm ba mƣơi; đây là "một nơi

ngục tù ghê gớm trong đó có bao nhiêu sự hành hạ, bao nhiêu sự lạm quyền, bao nhiêu sự đàn

áp của ngƣời nhà nƣớc" [155, 109 - 110]. Trong các "ngục thất" đó "có một ngƣời đã 60 tuổi,

không thể bán dâm đƣợc nữa" [155, 113]; có "một đứa gái độ 13,14 tuổi bị cáo là mãi dâm

lậu thuế" [155, 123]. Còn gƣơng mặt đám đông kỹ nữ ở đây là "những con ma lem mặt bủng

da chì mà da thịt nồng nặc những mùi nƣớc hoa rẻ tiền và khó ngửi, có những cái vú nát

nhẽo, những cái đùi hoặc ghẻ ruồi, hoặc hắc lào, hoặc điểm lấm tấm những vòng đen, di tích

của trùng giang mai" [155, 114].

Cai quản hai trăm những con ngƣời nhƣ vậy mà chỉ có một ban "Đội con gái" gồm

năm hay sáu ngƣời do một viên thanh tra ngƣời Pháp tên là Mass chỉ huy. Đội này có phận sự

"phải đi kiểm soát, lùng bắt 16 nhà thổ chung, 15 nhà điếm riêng, 377 cái phòng ngủ trong

các nhà săm! trong một đêm!" [155, 108], để bài trừ "bọn gái đi ngang về tắt". Họ còn có

nhiệm

72

vụ phát hoặc xé giấy cho gái thanh lâu, giữ sổ sách, giấy má của ngạch Cảnh sát xướng kĩ

(Services des Moeurs)...

Do quan hệ với nhiều khách làng chơi, phải chịu đựng cả những thú tính cực kỳ quái

gở, nhƣ lối kê giao (Sodunue) của lính Tây, nên "Có khi một gái thanh lâu có thể mắc một lúc

ba thứ bệnh của ba thứ vi trùng hoa liễu: gono, spiro, ducrey, ở âm hộ, hậu môn và ở mồm"

[155, 151].

Trong nhà Lục xì có một lớp học "mới lạ, kỳ quái nhất Đông Dƣơng, nếu (...) không

muốn nói: kỳ quái nhất thế giới" [155, 162], vì "mục tiêu đào tạo" là dạy bệnh nhân "trở

thanh gái đĩ tốt" [155, 153]! Trong cái lớp học kỳ lạ này "cô giáo lại kém vế nữ học sinh".

Đám học trò "tinh quái", "ăn gian nói dối nhƣ quỷ" lại hay "tủi thân" hay "phẫn chí" đã có lần

"xúm nhau đánh lại bà đầm dạy học khâu". Trƣớc một đối tƣợng giáo dục nhƣ vậy, "chính

sách trừng trị" của cô giáo đứng lớp cũng lại hết sức kỳ dị: "học trò túm đánh lẫn nhau, mỗi

khi thầy giáo thấy cần phải trừng phạt"! [155, 166].

Gái Lục xì không chỉ toàn loại mạt hạng, bệnh tật, bẩn thỉu mà còn có hạng đĩ

"thƣợng lƣu". Những ngƣời nay "có giấy ở riêng, có xe nhà, có xe hơi nhỏ (...) và đi nhuộm

tóc ở phố Paul Bert mỗi lần mất 16 đồng bạc" [155, 166 - 167]. Đó là những ả gái bao "nhân

tình của những quý quan"...

Những sự thật nhơ nhuốc và không kém phần quái đản diễn ra trong bốn bức tƣờng

của nhà Lục xì đã cho thấy tình cảnh bi thƣơng, ê chề của những kiếp gái "bán hoa" và đó

cũng chính là sự đen tối tận cùng của nghề kỹ nữ.

2.1.1.3 Nạn tham nhũng, một "công lệ" của giới quan nha

Bên cạnh nạn cờ gian bạc bịp và tệ mại dâm, một vấn đề nổi cộm, cũng không kém

phần nhức nhối của xã hội thuộc địa là nạn tham nhũng

73

tràn lan. Ống kính phóng sự Vũ Trọng Phụng hƣớng về một nơi huyện nhỏ, nhƣ bao huyện lỵ

khác trong cái cơ cấu hành chính của xã hội đƣơng thời, vào thời điểm là "tháng củ mật", khi

năm hết Tết đến.

Những ngay tết vui vẻ đang đến gần. Nhƣng trái lại, "Cả một huyện đều nhăn nhó gãi

đầu gãi tai, và dễ thƣờng chỉ có quan là giữ đƣợc cái vẻ đƣơng bệ và thƣ nhàn bình nhật"

[160, 92]. Bọn lính cơ thì "sôi lên sùng sục" chạy đến viên lục sự già, nhờ ông này "thƣơng

cho chúng cháu nhờ" - giúp xin quan huyện xuống lệnh cho họ đƣợc "đi tuần hơn trăm xã".

Đúng là cứ đến tháng chạp hàng năm cái "cỗ máy tinh tế" của xã hội kim thời là

những huyện nhà lại lặp lại cái vòng quẩn quanh thƣơng lệ khá nhịp nhàng và thuần thục.

Lúc này "chẳng một ai có thể đứng ra ngoài công lệ: cá lớn nuốt cá bé, vì cái phận sự nộp của

đút, hoạt động từ dƣới lên trên" [160, 99]. Đám lính cơ, lính lệ "thì đi ăn cƣớp có giấy phép"

[160, 100]; đám thầy nho thì trổ những thủ đoạn tống tiền. Công sứ Tây, quan tỉnh, quan

huyện, thầy Thừa, thầy Lục... thì cấp giấy cho lính đi làm tiền hoặc "nhắm mắt làm ngơ"

trƣớc những thủ đoạn xấu xa, hành vi trắng trọn của thuộc cấp. Điều này thật dễ hiểu, vì nếu

sự ăn cƣớp nhƣ thế không còn, thì cái "công lệ" đút lót từ dƣới lên trên lấy gì mà tồn tại!

Ngƣời nhẵn túi, không ai khác, chính là những dân đen vốn đã khốn cùng, xác xơ, nghèo đói.

2.1.2 Những cảnh tượng thương tâm, nhức nhối

Không chỉ phanh phui những tệ nạn, cây bứt phóng sự Vũ Trọng Phụng còn tiếp cận

những cảnh tƣợng xã hội nhức nhối, thƣơng tâm.

2.1.2.1 Một "kĩ nghệ" quái gở

Ngạc nhiên vì lời khai hết sức "táo tợn", "ngộ nghĩnh" với thái độ "xƣng xƣng" trƣớc

tòa của một me Tây và hành vi "ngẩn ngƣời" rồi "mỉm cƣời tha thứ" của hai viên quan tòa,

nhà phóng sự tiến hành ngay một cuộc

74

điều tra để tìm ra sự thật.

Trƣớc hết, nha phóng sự tìm đến chỗ các me lê dƣơng, làng me bên cạnh trại lính lê

dƣơng Thị Cầu, Bắc Ninh để mở đầu cho một chuyến điều tra thực địa. Qua tình cảnh sống,

những lời "tự thuật" trung thực chẳng cần một chút che đậy của các me già, me trẻ, những cô

Tây lai và cả của những gã lính lê dƣơng, nhà phóng sự đã phát hiện ra bao điều "bí mật"

không kém phần bi hài xung quanh cái chuyện lấy Tây của những ngƣời phụ nữ vong quốc.

Nhà phóng sự cung cấp độc giả những thông tin, từ chính miệng của những ngƣời

trong cuộc về cái "lý do" lấy nhau của họ. Bà Kiểm Lâm buồn bã tâm sự: "chúng tôi lấy họ vì

tiền chứ không bao giờ vì tình" [157, 33]. Còn những gã chồng lê dƣơng thì cũng chẳng cần

úp mở: "tôi gọi ai tôi cũng coi nhƣ thuê gái một hạn dài vậy. Không còn bao giờ tƣởng nhầm

đến cái nghĩa cả: vợ chồng" (Đimitốp) [157, 25 - 26].

Thế là đã rõ. Thực chất của chuyện vợ chồng ở đây là "ngƣời đàn bà chỉ nghĩ đến tiền,

đàn ông chỉ nghĩ đến nhục dục" [157 , 57].

Nhƣng đối với ngƣời phụ nữ, làm điếm đã là một nỗi nhục. Phải làm me Tây thì nỗi

nhục này càng gấp bội phần vì vừa phải làm điếm vừa là đầy tớ cho Tây, nhất là Tây lê

dƣơng, một thứ lính viễn chinh, thành phần cặn bã của xã hội tƣ sản. Chúng đánh thuê là vì

tiền, hầu hết là những kẻ nát rƣợu và lấy vợ bản xứ để làm đồ mua vui, thỏa mãn thú tính. Là

những tên lính thực dân xâm lƣợc, bàn tay nhơ bẩn của chứng đã nhiều lần vấy máu "Bọn

giặc cộng sản là tôi bắn không tiếc tay" [157, 60] và tất nhiên cũng chẳng từ mọi tội ác khác

nhƣ đốt nhà, cƣớp của, hãm hiếp... Phải bám lấy những tên lính tƣợng trƣng cho tội ác xâm

lƣợc đó, những phụ nữ đi làm me còn phải chuốc lấy sự ác cảm của đồng bào mình. Đây

chính là những kẻ "bị quê hƣơng ruồng bỏ, giống nòi khinh". Còn những

75

gã lê dƣơng hung hãn, liều lĩnh, thô bỉ và dâm đãng kia thì lại có thể sẵn sàng chà đạp họ bất

cứ lúc nào...

Phải làm một thứ điếm mạt hạng, những ngƣời phụ nữ đó đã bị đẩy vào bƣớc đƣờng

cùng của sự tủi nhục, tối tăm. Sự chà đạp lên phẩm giá và sự tha hóa họ càng làm tăng thêm

những điều nhức nhối về số phận con ngƣời trong cái xã hội thuộc địa.

2.1.2.2 Những kiếp tôi đòi khốn khổ

Cùng với việc khám phá ra cái kỹ nghệ lấy Tây kỳ quái và số phận hẩm hiu của những

ngƣời phụ nữ làm me, ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng còn hƣớng đến thân phận của

những kiếp còn đòi, con ở, một hạng ngƣời "dƣới đáy" của cái xã hội thị thành thời thuộc địa.

Những con ngƣời thuộc "giới" cơm thầy cơm cô vốn không phải là những kẻ có gốc gác nơi

phố xá. Họ là những ngƣời nông dân phải rời bỏ cái làng quê xơ xác, tiêu điều vì những tai

trời ách đất, đi tha phƣơng cầu thực, đến đƣợc Hà thành, vì những tƣởng nơi đó là vùng đất

hứa.

Và từ đấy, ngƣời nhà quê nọ bắt đầu cuộc hội nhập vào cái xã hội thị dân, nhƣng giá

trị của họ bị bọn ngƣời dẫn mối xếp ngang với lòai súc vật. Họ cầu sao cho mình chỉ đƣợc

"nhƣ một con chó, nhiều khi kém một con chó", muốn đem sức trâu bò của mình ra "làm

nhiều công việc nặng nhọc" mà "vẫn không có việc làm" nên "tất là họ phải sinh ra liều

mạng, có những lá gan to. Đàn bà sẽ đi đến thần Bạch Mi. Đàn ông sẽ đi đến Hình phạt"

[155, 50].

Hầu hết những ngƣời may mắn đƣợc làm con sen thằng nhỏ trong giới cơm thầy com

cô đã phải trải qua những cảnh đồi đen tối, trớ trêu, đắng cay, tủi cực. Làm con ở, họ "chỉ cầu

vào một cửa (...) đãi mình cho vừa phải, đừng bắt mình làm quá sức, đừng đánh mình, chửi

mình" [155,

76

15]. Nhƣng cái cửa lành nhƣ vậy rất hiếm. Trong khi đó, phổ biến là cảnh con sen, thằng nhỏ

đƣợc chủ cho "ăn đói làm no", cảnh "ngƣời này sai chƣa xong việc này, ngƣời khác lại sai

việc khác". Vì vậy, thân con ở hóa thành "cái thân ba vạ".

Giới chủ nhà không chỉ bóc lột một cách tàn nhẫn sức lao động, mà còn chà đạp thô

bạo phẩm giá, thân thể của họ. Tình cảnh những kẻ tôi đòi thật quá đỗi thảm thƣơng. Nhƣng

cũng từ những con ngƣời sống trong xó bếp, sân sau của ngôi nhà giới chủ, nhà phóng sự đã

khám phá ra một sự thật không kém phần đen tối khác. Đó là sự nhẫn tâm, độc ác, keo kiệt,

bủn xỉn của giới chủ nhà. Nhƣng đó chƣa phải là điều tồi tệ nhất của giới chủ nhà. Điều lớn

hơn cả là sự suy bại gia phong, đạo đức, nhân cách của cái "tế bao" gia đình giới chủ, mà nha

phóng sự đã khám phá đƣợc qua những lời thuật kể của đám ngƣời đầy tớ.

2.2. Sự tha hóa của những “giới” ngƣời

Trong "vòng vây" của những tệ nạn xã hội hoặc phải sống trong cảnh lắt lay, nghèo

khổ và éo le, ở cái "nhân loại" mà Vũ Trọng Phụng đã khám phá, tuy có nhiều ngƣời vô tội,

đáng thƣơng, nhƣng, hiện diện trong đó có không ít những kẻ thuộc nhiều "giới" ngƣời khác

nhau, những tầng lóp xã hội khác nhau, trên đƣờng tha hóa, băng hoại: từ bọn trùm cờ bạc và

lũ tay chân của làng bạc bịp; giới chủ nhà và đám thằng nhỏ, con sen đến cánh "chị em mình"

trong cái nghề lấy Tây hoặc buôn hoa, bán phấn...

"Nhân chi sơ, tính bản thiện". Nhƣng ở thời thuộc địa, do phải sống trong hoàn cảnh

xã hội bóc lột, thối nát, nên con ngƣời không thể sống nhƣ mình mong muốn, họ bị tƣớc đoạt

mất cái bản chất ngƣời vốn có của mình. Con ngƣời trở nên xa lạ vói chính mình và trở thành

xa lạ đối với cộng đồng, nhân loại. Trong phóng sự của họ Vũ có cả một "quần thể" những

77

giới ngƣời lâm vào tình trạng tha hóa nhƣ vậy. Trong vòng của những tội lỗi, nhân cách của

họ trở nên dị dạng, dị hình, lƣơng tâm của họ dần bị băng hoại.

2.2.1. Những kẻ lụi tàn vì cờ bạc bịp

Nạn cờ bạc bịp đã gây ra bao hậu quả, nhƣng cái lớn nhất chính là sức tàn phá dữ dội

của nó đối với nhân cách con ngƣời. Đã bƣớc vào vòng cờ bạc thì những kẻ giăng bẫy và

những nạn nhân sa bẫy, cuối cùng, đều có chung một số phận là bị thần đỏ đen biến họ thành

những con bạc mất hết tính ngƣời.

"Nhân sự" của làng bạc bịp là một "tập thể" những bộ mặt bất lƣơng, tàn độc từ thầy

đến tớ. Chúng chẳng khác gì một lũ quỷ tham lam, lừa lọc, đểu cáng, đê tiện, "ăn thịt ngƣời

ngọt xót nhƣ đƣờng". Tên trùm Ấm B thú nhận hắn vốn là "Kẻ rong chơi bài bạc từ lúc thiếu

thời" rồi "đã phải xa gia đình vì đã phá tan cơ nghiệp". Hắn muốn lấy "việc ác trả nghĩa cho

việc ác" và trắng trợn khẳng định là mình "đã làm, đang làm và sau nay nữa vẫn cứ làm cái

nghề bất lƣơng này". Là một tên trùm, ngày đêm hắn vắt óc tìm ra những mƣu ma, chƣớc

quỷ, gài thêm những cạm bẫy thâm độc nhằm "làm thịt" cho đƣợc nhiều "con mồi". Đối với

đồng bọn, hắn cũng nói đến cái "nghĩa khí ăn ở với nhau nhƣ bọn Lƣơng Sơn Bạc, "có thủy

có chung"; nhƣng lại sẵn sàng "chỉ vì một con mòng, cũng đủ đâm lòi ruột nhau" thì đó chẳng

qua đó "chỉ là cái nhân nghĩa của quân đạo tặc mà thôi!"

Dƣới trƣớng gã "giáo sƣ quỷ thuật" này là đám "chuyên gia bạc bịp" và những lũ "tạ"

đầu trâu mặt ngựa, sống bâu bám quanh cái guồng máy bạc bịp bất nhân. Một trong những

thuộc hạ "sáng giá" của Trùm Ấm B là gã "chuyên gia" Tham Ngọc (tức Xuân), vốn xuất

thân đi ở cho nhà một ông Phán, Xuân thông minh, đƣợc xem nhƣ một con bạc bẩm sinh.

78

Trƣờng cờ trận bạc đã "đào luyện" hắn thành một tay bịp có cỡ, một tên lƣu manh, sẵn sàng

lừa thầy, trắng trợn phản bạn, lòng dạ rất ti tiện, thấp hèn. Đƣờng vào nghề bịp của hắn có nét

giống Trùm Ấm B, nhƣng hắn không thù đời mà chỉ muốn "cắt" đƣợc cho nhiều cái hầu bao

của thiên hạ để thỏa thú ăn chơi, trác táng...

Là một ngƣời lao động, hiền lành, bác thợ bạc Ba Mỹ Ký vốn có một “bàn tay vàng"

khéo léo, "làm ăn phát tài". Đầu tiên, bác thợ này chỉ đánh bạc để giải trí, nhƣng từ đó sinh ra

lƣời biếng và bị chủ đuổi việc. Rồi bác ta xin vào làm môn đồ cho Trùm Ấm B và dùng chính

những cây búa, dũa... vốn là công cụ lao động và cả tay nghề, tâm trí của mình vào việc chế

ra những "khí giới" các loại - những đồ nghề "đểu" phục vụ cho cái "kỹ nghệ bạc bịp" của

bọn bất nhân. Bác ta đã "sinh nghề tử nghiệp" một cách thảm thƣơng với một đám ma lạnh

lẽo và bài văn tế đầy chất khôi hài của "đồng nghiệp"; "chết rồi mà "linh hồn còn phải chịu

tủi nhục".

Khác với Ba Mỹ Ký, Vân là một sinh viên, vừa tốt nghiệp Trƣờng cao đẳng thƣơng

mại. Con một ông Phán giàu có, lại sắp cƣới vợ đẹp, nhƣng do muốn có nhiều tiền để cung

phụng cho gái điếm, hắn đã chủ động "rƣớc" bịp về và làm hƣớng đạo để "thịt" bố, lấy tiền

chia nhau. Từ đó, Vân chính thức thành dân làng bịp.

Tuy nhiên, lại còn có rất nhiều ngƣời lao vào con đƣờng cơ bạc đâu phải vì kiếm kế

sinh nhai, ông công chức "lƣơng tháng đến hai trăm đồng", hễ có tiền là đi đánh bạc cho đến

nhẵn túi, mặc cho vợ chì chiết, nói nhƣ "xẻo từng miếng thịt" mà ông vẫn bình tĩnh. Tệ hơn

nữa, ông còn sẵn sàng "lột áo ngƣời sống bán áo ngƣời chết" theo đúng nghĩa đen của thành

ngữ này và "chung thân làm con bò vắt sữa cho tụi ông Ấm B...". Còn những kẻ nhƣ cả Sính

(chủ ả đào), Đại Thiềng (chủ hiệu giày), Mỹ Bối (chủ hiệu

79

vàng bạc)... thì nào có phải nghèo hèn mà vẫn lao vào những canh bạc đỏ đen! Và cả ông

Nguyễn Đình Mầu "một tay cự phách trong nghề buôn gỗ" giàu nứt đố đổ vách, đánh bạc

thua cả năm, bảy trăm, một nghìn đồng; ông phú hộ nửa tỉnh nửa quê "bán ngót chục mẫu

ruộng" vì bài bạc, đem bốn chục bạc đi cân sâm cho đứa con trai đang ốm thập tử nhất sinh

"nƣớng" vào canh bạc bịp, ra về tay không; rồi vô số những viên tổng lý bị cách chức vì đem

hết tiền thuế đi đánh bạc, những viên chức đánh bạc thụt két bị tù, v.v... Tất cả những ngƣời

kể trên đều tự nguyên làm đồ đệ trung thành của thần đổ bác, bất chấp luân thƣờng đạo lý ở

đời. Họ thực sự là những kẻ trên đƣờng băng hoại.

2.2.2. Những kẻ khốn cùng tha hóa

Bên cạnh những con ngƣời tha hóa vì sa vào vòng cờ gian, bạc bịp, còn có những kẻ

nghèo hèn, khốn cùng, vì những lí do khác nhau, cũng đã bị sa ngã, băng hoại.

Phải làm kẻ tôi đòi cho giới chủ nhà (mà phần nhiều rất keo kiệt, ác độc), trong cái xã

hội thị thành đầy giả dối, không ít những con sen thằng nhỏ đã nhanh chóng "dứt bỏ" cái gốc

gác dân quê thật thà, hiền lƣơng, chất phát, thay vào đó là sự tinh quái, ranh ma, hiểm độc.

Ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng đã ghi nhận đƣợc những trƣờng hợp tiêu biểu: có thằng

nhỏ ác độc "bỏ thuốc độc định giết cả nhà chủ", có những đứa ở lƣu manh dám "đốt nhà của

chủ hoặc dắt cƣớp vào nhà"; có những thằng nhỏ đê tiện, dâm ô "hiếp con gái ông Phán..."

[155, 71]. Sự biến chất và trở thành những kẻ bất lƣơng nhƣ vậy có thể xuất phát từ nỗi căm

uất đối với sự ác độc của chủ nhà, nhƣng những hành động hèn hạ nhƣ trên đều là những tội

lỗi bất nhân. Có những khi, hành vi trả thù lên đến mức vô cùng hiểm độc, nhƣ trƣờng hợp

của con sen Đũi. Cái con sen tinh ma quỷ quái này đã tiến

80

hành một "kế hoạch hành động "mà" mục tiêu" của nó là khiêu dâm, làm hƣ hỏng hai thiếu

niên con chủ. Và đến lƣợt mình, sau cái lần bị hiếp và nhất là sau phi vụ khiêu dâm thành

công đối với hai đứa con chủ, thì chính con Đũi đã trở thành "một đứa hƣ hỏng, giả dối, rất

nguy hiểm cho đời" [155, 44]. Không thể tìm thấy ở nó "những dấu vết cũ của một cô gái nhà

quê, ngoan ngoãn hay làm, có những ƣớc mơ bình dị (...) nhẫn nhục sống với một ngƣời

chồng cục mịch, chỉ có việc chịu khó làm ăn" [155, 43 - 44]. Đũi không chỉ muốn làm cô đầu

mà còn muốn leo lên các địa vị cao hơn: làm ba Phán, bà Kí trong cái xã hội trƣởng giả. Có

những thằng nhỏ lập mƣu (đem cứt chó bôi lên phản ngủ) làm cho hai bố con chủ nhà chửi

bới lẫn nhau. Sự biến chất nhanh chóng của giới cơm thầy cơm cô đƣợc nhà phóng sự "khái

quát" trong một nhận xét: "mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở đƣợc vài tháng thì ăn cắp

nhƣ ranh, ăn bớt nhƣ quỷ" [155, 71].

Trong những ngƣời phụ nữ cùng đƣờng phải lấy những tên lê dƣơng thô bỉ, cũng có

những kẻ vì tiền mà trở nên trơ trẽn, lố bịch. Họ đánh mất tất cả, từ thể xác đến tâm hồn, khi

hành cái "nghề" lấy Tây quái gở. Không chỉ giận dữ khi nhà phóng sự cho rằng họ "lấy Tây

vì tình" mà những ngƣời phụ nữ nay còn chẳng ngần ngại phơi bày cho mọi ngƣời biết những

mánh khóe, thủ đoạn trong cái "kĩ nghệ" lấy Tây vì tiền của mình: nào giả ghen, để đƣợc

"chồng" yêu; viết những lá thƣ tình giả dối, nhằm "gãi vào tình cảm", để móc hầu bao những

gã "chồng" Tây, kể cả những kẻ đã về "mẫu quốc". Không ít những ngƣời phụ nữ, sau những

năm "lăn lộn" trong cái "kĩ nghệ" làm me đầy bi hài đã trở thành những "con quái vật", những

thứ "đàn bà ma bùn" nhƣ lời lẽ của chính họ "tổng kết" cái cuộc đời "bỏ đi" của mình.

81

2.2.3. Sự băng hoại của giới chủ nhà

Hầu hết chủ nhà là ông thông, ông phán, ông tham, ông cai, ông kí... Kèm theo các

"quý ông" là các bà chủ và những cô, cậu chủ. Đây là lớp ngƣời trƣởng giả có cuộc sống

phong lƣu và nhìn bên ngoài họ là loại ngƣời cao sang, phẩm giá - một hình ảnh đối lập với

hạng ngƣời thấp hèn là đám con đời, con ở của họ.

Nhƣng qua những ngƣời ăn, kẻ ở, nhà phóng sự đã khám phá đƣợc bao sự thật phũ

phàng ẩn chứa trong từng tế bào gia đình của cái tầng lớp đƣợc xem là cao sang đó. Ở một

gia đình ông tùy phái nọ, nhà có sáu ngƣời, "cùng chung máu mủ (...) mà mỗi ngƣời đều vào

bếp thổi một niêu cơm" và mỗi ngƣời có thức ăn của riêng mình. Khi ngƣời cha trót "ăn

nhầm" của mình mấy miếng chả rƣơi, ông tùy phán đã không ngần ngại "hạ cấp" ông thân

của mình xuống hàng thằng này, con nọ: "... thằng thuê gác ngoài, thằng thuê gác trong, mà

vợ ngƣời ta để phần cơm ngƣời ta, mà lại nhầm! Nhầm kể cũng lạ!". Một gia chủ khác thì lại

nuôi chó tử tế hơn nuôi bố đẻ. Chó thì ăn toàn xúp thịt bò, còn ngƣời bố thì mặc áo nâu, còm

cọm làm vƣờn suốt ngày nhƣ một đứa ở. Khi ông bố cầm xe điếu đánh con chó (vì trúng kế

đứa ở) thì gã chủ nhà này chửi luôn cả "tiên sƣ" ông cụ, v.v...

Đó là hiện trạng của mối quan hệ cha con. Còn mối quan hệ giữa vợ chồng gia chủ

cũng có không ít những "xen" thảm hại. Ở những cặp vợ chồng trẻ thì có chuyện "ông ăn chả,

bà ăn nem". Vợ chồng già thì đối xử với nhau một cách thô bỉ. Họ đều giống nhau ở cách đối

xử tàn nhẫn với con ở. Một con sen đã "tổng kết quy luật": "càng những quân giàu có thì lại

càng keo bẩn, chó đểu, không ra loài ngƣời" [155, 34].

Lại còn chuyện, các thành viên của gia đình giới chủ có lúc "đồng

82

sàng" với đám đầy tớ "thấp hèn". Có anh đầy tớ đẹp trai "thỉnh thoảng lại đƣợc một chuyến

bà chủ yêu, hoặc con gái ba chủ yêu" [155, 67]. Có thằng nhỏ "đƣợc kỳ lƣng cho các tiểu

thƣ", "có những thằng xe đƣợc ngủ giƣờng Hồng Công với bà chủ" [155, 71]. Có "những con

sen đƣợc ông chủ quý hơn vợ" và có những cậu chủ mới 12 tuổi mà "trong cặp sách đi nhà

trƣờng, lúc nào cũng đầy những cảnh dâm dục" [155, 35], đã bị con sen đẩy xuống vực dâm

bôn... Những cảnh tƣợng vô luân, đồi bại nhƣ thế đã minh chứng cho sự suy bại về đạo đức

và lối sống của tầng lớp đƣợc xem là nhân vật trung tâm của xã hội đô thị đƣơng thời.

Bằng việc khám phá những mảng hiện thực đen tối và sự tha hóa của nhiều giới ngƣời

trong cái xã hội thị thành, Vũ Trọng Phụng đã bóc trần cái sự thật "hãi hùng, kinh ngạc về

loài ngƣời" lúc đƣơng thời. Ống kính sắc sảo đƣợc "vận hành" bởi một nhiệt tâm còn cho

thấy cái nhìn và tƣ tƣởng, tình cảm của "ông vua phóng sự".

2.3. Giá trị và hạn chế của nội dung phóng sự

Là một nhà hiện thực luôn chủ trƣơng "tả chân" triệt để, Vũ Trọng Phụng đã nhƣ

"buông mình xuống đáy sâu nhất" của hiện thực xã hội đƣơng thời, để khám phá, phản ánh và

sáng tạo. Ông đã đề cập đến những vấn đề cơ bản thuộc những tệ nạn và vấn nạn xã hội trong

cái chế độ thời thuộc Pháp. Trong phóng sự của họ Vũ, chủ đề xã hội kết hợp chặt chẽ với

chủ đề con người; qua con ngƣời thấy bộ mặt xã hội và qua hiện trạng xã hội cho thấy những

vấn đề nhân sinh trong đó. Đây chính là khả năng nắm bắt hiện thực và những hình thức biểu

hiện của nó.

Muốn nhận thức đƣợc bản chất của hiện thực phải "xâm nhập vào tồn tại", đi sâu

khám phá những bí mật của cuộc sống ở những vỉa, tầng

83

phức tạp, khuất lấp, để từ đó có những nhận xét, đánh giá và thể hiện sự tìm tòi tƣ tƣởng, cảm

quan hiện thực nhạy bén và sự hiểu biết hiện thực một cách sâu sắc sẽ giúp nhà phóng sự phát

hiện đƣợc những vấn đề mới. Cảm quan và sự hiểu biết này dựa trên một lập trƣờng tƣ tƣởng

tiến bộ sẽ giúp cho nhà phóng sự phân tích, lý giải hiện thực một cách đúng đắn và có thái độ

thẩm định, đánh giá một cách khoa học theo chiều hƣớng nhân đạo, và trong một chừng mực

nào đó, có thể đƣa ra những giải pháp nhằm nhân đạo hóa hoàn cảnh và xây dựng nhân cách

con ngƣời.

Bằng việc khám phá ra những vấn đề xã hội nóng bỏng, những vấn đề có tính vĩnh

hằng thể hiện khát vọng sâu xa của con ngƣời, những thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng

vừa có giá trị lịch sử - thời sự, vừa có giá trị nhân đạo quý giá, mặc dù trong đó còn có những

điều bất cập và những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa.

2.3.1. Giá trị lịch sử - thời sự

2.3.1.1. Sự dộc đáo của bức tranh hiện thực

Phạm vi hiện thực mà cây bút phóng sự họ Vũ hƣớng tới là thị thành nơi cuộc sống

diễn ra hết sức sôi động, xã hội phân hóa một cách sâu sắc, nhiều tệ nạn và những vấn đề xã

hội phát sinh... Đây là giai đoạn băng hoại đến tột cùng, báo hiệu sự cáo chung của chế độ

thực dân Pháp ở Việt Nam, mà chính Pierre Pasquier, trong báo cáo trƣớc Đại hội kinh tế lý

tài Đông Dƣơng ngày 25 tháng 11 năm 1931 đã phải hoảng hốt báo động: "sự rối loạn trầm

trọng đến mức phải tự hỏi rằng xã hội tƣ bản của chúng ta, phải chăng đang độ hoàn toàn tan

rã" [57, 23].

Do cùng phản ánh một phạm vi hiện thực nhƣ vậy nên đề tài của văn học hiện thực

phê phán ở giai đoạn 1932 - 1945 thƣờng lặp đi, lặp lại một số vấn đề quen thuộc. Nhƣng với

nhãn quan hiện thực nhạy bén, khi cùng

84

với những cây bút phóng sự đƣơng thời viết về những tệ nạn và những vấn đề xã hội, Vũ

Trọng Phụng đã khám phá, bóc trần thêm những tệ nạn xã hội trầm kha, nguy kịch và những

vấn đề xã hội tiềm ẩn, bức xúc. Chính vì vậy, bức tranh hiện thực trong phóng sự của họ Vũ

có nhữg điểm mới độc đáo, mang đậm cá tính sáng tạo của riêng của ông. Điểm nổi bật của

những bức tranh này là tính chân thực, sâu sắc nên nó vừa có sức tố cáo mạnh mẽ, vừa mang

đậm tính nhân sinh, nhân đạo.

Nạn cơ bạc đã có từ lâu. Cảnh "chồng đánh bạc, vợ đánh bài" đã xuất hiện trong ca

dao truyền thống; cảnh bài bạc cũng đƣợc đã mô tả trong một số tác phẩm của Trọng Khiêm,

Đặng Trần Phất, Nam Cao, v.v... Nhƣng có thể nói chưa có một tác phẩm nào viết một cách

tập trung, sinh động và sâu sắc về tệ cờ bạc đỏ đen, đặc biệt là những thủ đoạn cờ gian bạc

bịp xảo quyệt, tinh vi, muôn hình vạn trạng nhƣ phóng sự Cạm bẫy người của Vũ Trọng

Phụng. Điều này thể hiện ở sự khám phá ra cái nạn cờ gian bạc bịp, với bao thủ đoạn xảo

quyệt, tinh vi. Đây là một thứ tội ác có tổ chức, quy mô hoạt động rộng khắp. Ấy thế mà "Sở

liêm phóng tuy làm việc một cách giỏii không ai địch nổi, là có thể khám phá nổi cả những

hội kín, thế mà bọn tạ kia hành động công nhiên cũng không thấy mật thám nào biết đến, cái

đó mới thật đáng chép trong cuốn sách "những sự chẳng ngơ"" [154, 232]. Hậu quả của tệ

nạn nay thật to lớn ở chỗ không chỉ làm cho những kẻ say máu đỏ đen thƣờng khánh kiệt gia

sản mà tất cả họ còn đều trở thành những kẻ lạnh lùng, điêu trá, lƣu manh, tàn nhẫn. Nhƣ

vậy, tệ cơ bạc bịp thực sự là thứ cạm bẫy nguy hiểm đối với nhân cách, đạo đức của con

ngƣời. Sự khám phá có ý nghĩa sâu sắc nay của Vũ Trọng Phụng càng cho thấy âm mƣu của

thực dân Pháp thâm độc biết chừng nào, trong việc chúng dung túng cho nạn cờ bạc hoành

hành tàn

85

phá lƣơng tâm, đạo đức của con ngƣời trong chế độ thuộc địa.

Trong nhiều tác phẩm văn học của ta, hình ảnh con ở, con đời thƣờng xuất hiện một

cách lẻ loi. Họ nhƣ những cái bóng, sống một cuộc đời tủi nhục, cay đắng trong những gia

đình giàu có, keo kiệt, độc ác... Còn trong Cơm thầy cơm cô của Vũ Trọng Phụng là cả hình

ảnh "tập thể" của giới tôi đòi. Chuyện đi ở của họ đƣợc nhìn nhận như một vấn đề xã hội với

bao điều xót xa, nhức nhối mang đậm tính bi hài. Đã có những tác giả viết nhiều trang cảm

động về cảnh bán vợ đợ con hay những cô gái bán mình vì hiếu nghĩa. Nhƣng chƣa có tác

phẩm nào viết về cái chợ bán ngƣời nhƣ trong Cơm thầy cơm cô của nhà văn họ Vũ. Đây là

một cái chợ mua bán ngƣời thực thụ. Hàng hóa "tƣơi sống" ở đây là những kẻ bần cùng.

Những lái buôn là các mụ mối chuyên nghiệp, hết sức gian giảo "Suốt đời không bao giơ biết

nói thật" [155, 26], mềm nắn rắn buông. Xen chị vú em nọ "vạch yếm để hở cái ngực trắng

nõn vắt sữa vào lồng một bên bàn gay" [155, 23] cho khách hàng xem, thật là vƣợt xa hơn cả

hành vi "vén tóc bắt tay" của mụ mối khi mua Thúy Kiều. cảnh thử sữa nay tƣơng tự nhƣ

cảnh nắn bắp thịt, xem miệng, xem răng trong những cái chợ mua bán nô lệ thời kỳ man rợ...

Nhƣ vậy, trong xã hội đồng tiền thời thuộc địa, con người thực sự trở thành một thứ hàng

hóa được đem mua bán một cách lạnh lùng, công khai.

Trong chế độ thuộc địa, tệ tham nhũng tràn lan nhƣ một nạn dịch. Đến những thập

niên đầu thê kỷ này, khi xã hội thực dân sắp đến lúc cáo chung thì tệ tham nhũng càng hoành

hành dữ dội. Nhiều nhà văn hiện thực phê phán giai đoạn này đã tái hiện một cách sinh động

hình ảnh xấu xa của giới quan tham lại nhũng. Bằng nghệ thuật trào phúng sắc sảo, trong

Dòng nước ngược, Tú Mỡ đã tố cáo lũ quan lớn, quan bé, quan mới, quan cũ... bòn rút, đục

khoét dân lành. Chúng "ăn bẩn" đến mức ngƣời ta có thể ngửi thấy hơi đồng nơi đáy bụng"

từng tên. Trong nhiều tác phẩm

86

của mình, đặc biệt là những truyện ngắn nhƣ Cái nạn ô tô, Đàn bà là giống yếu..., Nguyễn

Công Hoan đã tố cáo những thủ đoạn bẩn thỉu, đả kích sâu cay bọn quan lại sâu mọt. Đó là

một lũ không những bóp hầu, bóp cổ ngƣời dân mà còn thẳng tay bóp nặn đám thuộc hạ của

mình một cách trắng trợn. Vũ Trọng Phụng tuy không viết nhiều về tệ tham nhũng, nhƣng

thiên phóng sự Một huyện ăn tết của ông đã góp phần khám phá ra một điều mới mẻ: những

thủ đoạn tham nhũng bẩn thỉu, trắng trợn hay tinh vi không chỉ có ở viên quan nay hay gã lại

kia, mà là của cả cái bộ máy hành chính thối nát thời thuộc địa. Lũ quan nha bản địa nhƣ một

bầy "gà qùe" ăn quẩn một cách thảm hại quanh cái "cối xay" nghèo cũ nát của đồng loại và

đem cung phụng cho những ông chủ thực dân. Đó cũng chính là tấn bi kịch thuộc địa của một

dân tộc đang phải sống trong vòng nô lệ. Chứa bên trong tấn bi kịch thuộc địa nặng nề này

còn có những kiếp ngƣời đau khổ nhƣ những ngƣời phụ nữ cùng đƣờng phải làm me Tây.

Vói sự tinh nhạy của một nhãn quan hiện thực sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã không để hiện

tƣợng me trôi nổi trên dòng sông dƣ luận với bao lời dị nghị, hoặc chỉ thấp thoáng ẩn hiện

nhƣ những hình ảnh vụn vặt trong bức tranh xã hội thuộc địa đen tối của văn học đƣơng thời.

Và ông đã là người đầu tiên đưa vấn đề me Tây lên ống kính phóng sự. Kỹ nghệ lấy Tây là

một mảng hiện thực độc đáo về xã hội thuộc địa. Trong đó, chuyện lấy Tây, làm me cũng

nhức nhối nhƣ bất cứ vấn đề xã hội nào. Ở đây, không phải riêng chuyện của một mợ nào đó

"đi Tây", chuyện của một cô Tây Hoẻn, hay xa hơn nữa là chuyện của người đàn bà vợ tên

quan Tây đồn Bà Rịa thời của Thầy Lazaro Phiền, mà là một câu chuyện dài đầy bi hài của

cả một làng me, với cả một lịch sử thăng trầm và sự phũ phàng, chua cay, bẽ bàng của biết

bao cuộc đòi lỡ dở, tàn tạ...

Sẽ không sao tả đƣợc đầy đủ và sâu sắc tình cảnh của ngƣời phụ nữ

87

dƣới chế độ thuộc địa, nếu bỏ qua những số phận cay đắng của những phụ nữ cùng đƣờng

phải sống kiếp me Tây, một loại gái mãi dâm mạt hạng cho những kẻ ngoại bang xâm lƣợc.

Tệ mãi dâm lúc đó tràn lan nhƣ một nạn dịch. Hiện thực đen tối này đƣợc phản ánh

trong nhiều tiểu thuyết và phóng sự đƣơng thời: Một cô Tuyết có học nhƣng thích sống

phóng đãng, giang hồ nên dấn thân vào "đời mƣa gió" (Đời mưa gió - Nhất Linh - Khái

Hƣng). Một cô thôn nữ hiền lành tên là Tám Bính bị phụ tình, bị cha mẹ hắt hủi đã bỏ làng ra

tỉnh rồi bị lừa, bị cƣỡng hiếp và bị biến thành lƣu manh, gái điếm (Bỉ vỏ - Nguyên Hồng). Và

vô số những phụ nữ nghèo của "Hà Nội lầm than" (Hà Nội lầm than - Trọng Lang) vào

những lúc "Hà Nội ban đêm" (Hà Nội ban đêm - Tràng Khanh - Việt Sinh) đi ăn sƣơng, đón

khách...

Khi thực hiện một thiên phóng sự điều tra về thực trạng này, chớp lấy dịp may, Vũ

Trọng Phụng đã "nhanh tay" mở toang luôn cái cánh cửa nặng nề vốn im ỉm khóa chặt trƣớc

công luận bấy lâu của ngôi nhà Lục xì u ám, đầy những điều bí mật. Và những điều ô uế, nhơ

nhớp đen tối đến tận cùng của nghề kỹ nữ đã đƣợc nhà văn họ Vũ phơi bày trƣớc ánh sáng.

Trong thiên phóng sự này, ông còn "điểm bình khắp một lƣợt những cô thợ của cái kỹ nghệ

mãi dâm ở Hà thanh", từ gái đĩ "nhà nƣớc" (có giấy hành nghề), gái đĩ lậu, cô đầu, gái nhảy,

me Tây, đầm lai và cả gái đĩ đầm Tây "chính hiệu"... Đó là một bức tranh toàn cảnh về một tệ

nạn. Bằng việc lấy số liệu chính từ miệng viên Đốc lý Hà Nội Virgitti nói về số lƣợng gái

mại dâm ở Hà Thành (5 nghìn trên 18 vạn dân), bằng việc so sánh số liệu này với nạn mại

dâm ở chính thủ đô của nƣớc Pháp, nhà phóng sự họ Vũ đã tố cáo trƣớc công luận cái "thành

tích văn minh, khai hóa" của thực dân Pháp. Ông nói: "xã hội này có vết thƣơng, tôi phô nó

ra để các ngài biết mà chạy chữa. Lục xì là nạn mại dâm, là nạn hoa liễu, nó đƣơng đục

88

khoét 9/10 cái xã hội" [115, 135]. Không chỉ dừng lại ở việc phơi bày thực trạng, tác giả Lục

xì còn hăng hái truy tìm nguyên nhân, tìm hiểu cách thức, biện pháp đối phó vói tệ nạn mại

dâm của nhà chức trách thực dân. Rồi với bản lĩnh và "thiên chức" của nhà phóng sự, Vũ

Trọng Phụng đã chế diễu, phê phán cái đám "cảnh sát phƣờng chèo", "chính sách tùy thời"

của chính quyền thuộc địa, đồng thời bày tỏ quan điểm của mình trƣớc những giải pháp nhằm

giải quyết tệ nạn nhức nhối và trầm kha này.

Trong các nhà văn đƣơng thời, rất hiếm ngƣời có sức bao quát hiện thực trên bình

diện rộng lớn và sâu sắc nhƣ Vũ Trọng Phụng. Chỉ xét riêng thành tựu về thể phóng sự, ta

thấy sức tìm tòi, phát hiện của ông lớn lao biết chừng nào. Ông đúng là ngƣời "biết đào sâu,

biết tìm tòi, khơi những nguồn chƣa ai khơi và sáng tạo những cái gì chƣa có". Ngay cả đối

với đề tài nạn mãi dâm, tuy đã có nhiều cây bút chú mục và khai thác thành công trên nhiều

bình diện, nhung Vũ Trọng Phụng vẫn tìm ra một góc nhìn riêng, có tầm bao quát và cũng rất

sâu sắc. Cũng chính vì vậy mà bức tranh về xã hội và con ngƣời trong phóng sự của ông đã

có ý nghĩa lịch sử thời sự, ý nghĩa nhân sinh, nhân đạo sâu sắc.

Những vấn đề xã hội và con ngƣời nổi cộm lên trong năm thiên phóng sự của Vũ

Trọng Phụng đã làm cho ngƣơi đọc không khỏi giật mình, kinh ngạc trƣớc một thực trạng bi

đát, phũ phàng đến mức khó mà tƣởng tƣợng nổi. Bằng ngòi bút thần tình và điêu luyện, ông

đã xé toạc tấm áo mỹ miều, phơi bầy những mụn nhọt hôi hám trên cái thân hình thối tha, đầy

những vết thƣơng và những căn bệnh hiểm nghèo đã ăn sâu vào tận "lục phủ ngũ tạng" của xã

hội thuộc địa.

2.3.1.2. Giá trị lịch sử

Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã ra đời trên cái "phông" lịch sử xã hội đen tối, thối

tha đầy rẫy cảnh bần cùng, tha hóa cùng biết bao tệ nạn.

89

Còn đến lƣợt mình, bằng nguồn tƣ liệu phong phú, ngồn ngộn chất sống, những phóng sự của

ông có giá trị nhƣ những cuộn phim tƣ liệu với nhiều đoạn quay chậm, quay gần, với nhiều

góc độ khác nhau, làm từng mảng lịch sử hiện lên sống động, rõ nét. Đó là "cái xã hội một

nghìn lần khốn nạn" [155, 247], nạn khủng hoảng kinh tế và chính sách bóc lột tàn bạo đã

đẩy con ngƣời vào cảnh lao đao. Công chức thất nghiệp phải sa vào con đƣờng lƣu manh, dân

quê phải dời bỏ những làng quê xơ xác tiêu điều dồn về thành thị làm nghề ở đợ... Biết bao tệ

nạn và những vấn đề xã hội nhức nhối nảy sinh. Kia là cả một thế giới bạc bịp với những tên

trùm, bọn "quân sƣ" và cả một lũ "tạ" đầu trâu mặt ngựa đang ráo riết săn những con "mòng",

trong mấy trăm cái sòng bạc đã đƣợc chính sử thống kê. Đây là hình ảnh nhớp nhơ đủ hạng

của làng kỹ nữ, với những khuôn mặt xanh xao và những thân hình lở loét vì vi trùng lậu,

trong sáu nghìn gái mãi dâm ở Hà thành mà chính sử đã ghi nhận. Rồi những ba Đội Chớp,

Chánh Tý, Duy Kiềng, La Oa... làm "dầy dặn" hơn cho cái trang lịch sử me đầy tính bi hài

với những cô Tƣ Hồng, bà Bé Tí... những mụ me Tây nổi tiếng xấu một thời, nhƣ họ Vũ từng

nói: "Những đàn bà mà chúng ta thừa biết cái danh tiếng vang lừng, song tôi không thuật vào

đây, vì rằng ở đời này vẫn sẵn có ngƣời thừa độc ác để lôi mình ra tòa án" [155, 63 - 64].

Những trang phóng sự đầy chất liệu sống đó của Vũ Trọng Phụng mang ý nghĩa như

một bản cáo trạng, làm phong phú thêm cho cái bản án chế độ thực dân Pháp, vì nó cung cấp

những sự kiện và những "chứng nhân" đầy sức thuyết phục: Cờ bạc, đĩ điếm, tham nhũng,

phụ nữ cùng đƣờng phải làm me Tây, v.v... Đó cũng là một thứ bia ai điếu cái chế độ thực

dân nửa phong kiến thời thuộc Pháp.

"Trong các nhà văn hiện thực phê phán, Vũ Trọng Phụng là ngƣời thành công nhất

trong việc vạch trần những sự thối tha của xã hội tƣ sản"

90

[37, 37] Những vấn đề mà Vũ Trọng Phụng đặt ra trong phóng sự của ông có ý nghĩa xã hội

sâu sắc. Mỗi thiên phóng sự của ông là một bức tranh riêng, có giá trị bổ sung cho bức tranh

toàn cảnh về xã hội thuộc địa trong văn học hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945.

2.3.1.3 Ý nghĩa thời sự

Cái quy luật "khách quan" lạnh lùng mà Vũ Trọng Phụng đã phát hiện và trình bày

trong các phóng sự của ông, không chỉ là câu chuyện của đương thời mà còn có giá trị thời

sự cho đến hôm nay. Trong bối cảnh đất nƣớc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng và

chiến lƣợc mở cửa, ngoài những yếu tố tích cực mà nó mang lại thì những tệ nạn và những

vấn đề xã hội lại có cơ phục hồi và phát triển với tính chất, quy mô ngày càng tăng. Tình hình

này liên tục đƣợc phản ánh trên báo chí. Chẳng hạn, báo Nhân Dân, ngay 28 tháng 10.1995,

báo Sài Gòn giải phóng ngày 6 tháng 11.1995 đều đăng tin công an triệt phá đƣợc những

sòng bạc lớn. Báo Thanh Niên ngày 2 tháng 4.1996 viết về "hậu duệ" của Casinô Năm Can sa

lƣới. Còn báo Pháp luật đăng chuyện "Những công ty cơ bạc" bị phát hiện. Và ngày 29 tháng

3 năm 1996 đã đăng một phóng sự dự thi: Cờ bạc, số đề - cuộc chiến chưa có hồi kết thúc,

v.v... Đặc biệt, trên báo Nhân Dân ngày 21 tháng 1 năm 1996 có đăng bài của Trần Thanh:

Hà Nội chống tệ nạn xã hội. Trong đó có đoạn: "Nạn cơ bạc, số đề hoành hành ở mức báo

động. Số đề ở thành phố lan đi rất nhanh, tàn phá nông thôn các huyện ngoại thành. Bọn chủ

chứa gái tổ chức quy mô, tinh vi có trang bị máy bộ đàm, điện thoại, vũ khí để đối phó với

lực lƣợng công an... Qua công tác điều tra cơ bản, Hà Nội có 167 chủ chứa mại dâm; 296 chủ

chứa tội nghiện hút, tiêm chích; 117 chủ chứa cờ bạc, 158 đối tƣợng dắt gái mại dâm..."

(trang 7). Trên báo Hà Nội mói ngày 23 tháng 1 năm 1994 có đăng phóng sự Những đứa trẻ

đi ở của Tạ Việt Anh. Tác giả cho biết, ở Hà Nội có hàng

91

ngàn các em ở các tỉnh lân cận về làm nghề đi ở. Nhƣng "Ai mà biết chắc rằng trong hàng

ngàn đứa bé đi ở ở Hà Nội có bao nhiêu em đƣợc đối đãi tử tế. Và ai có thể nói chắc rằng các

em bị lợi dụng quá mức, làm việc không hợp với lứa tuổi, thậm chí là công việc phạm pháp

hay bị lợi dụng tình dục..." (trang 3).

Tuy nhiên, đó là chuyện của mấy năm về trƣớc ở Hà Nội. Cho đến nay tình hình đã

phức tạp hơn rất nhiều; bao nhiêu chỉ thị, kế hoạch bài trừ, phòng chống tệ nạn xã hội đều ít

có hiệu quả. Nạn tham nhũng đã đƣợc coi nhƣ một thứ quốc nạn "tệ nạn của mọi tệ nạn". Rồi

chuyện lấy Tây, Tàu, Hàn Quốc vì tiền... đang nhƣ một bệnh dịch gây ảnh hƣởng xấu đến đạo

đức, lối sống của thế hệ trẻ. Theo báo Sài Gòn giải phóng ngày 8 tháng 6 năm 1999, trong

cuộc tọa đàm Phụ nữ với vấn đề lấy chồng người nước ngoài, do Hội phụ nữ Việt Nam tổ

chức, ngƣời ta đã thống kê đƣợc con số là 9.713 phụ nữ lấy chồng ngoại quốc. Trong những

năm vừa qua, ngƣời ta nhắc nhiều đến Vũ Trọng Phụng và viết những phóng sự "nhại" theo

những cái tít của ông: Kỹ nghệ lấy chồng Tây, Kỹ nghệ lấy chồng Đài Loan, v.v... Và họ Vũ

nhƣ đang đồng hành cùng chúng ta hôm nay chống các tệ nạn xã hội. Công cuộc chống các tệ

nạn và giải quyết những vấn đề xã hội hôm nay khác thời Vũ Trọng Phụng về căn bản, vì

chúng ta có thể chủ động xóa bỏ. Hơn nữa, trong điều kiện kinh tế thị trƣờng, nhiều thành

phần, tệ nạn không phải là một thứ định mệnh, có thể tránh đƣợc nó, thông qua vai trò quản

lý của nhà nƣớc và tính tích cực của cả cộng đồng. Trong những lúc này, lòng nhiệt thành

chống những tệ nạn "phàm ngƣời nào quan tâm đến xã hội, lo sợ cho giống nồi cũng đều phải

biết" [155, 81] của nhà phóng sự Vũ Trọng Phụng càng đáng đƣợc trân trọng. Có lẽ ông là

ngƣời Việt Nam đầu tiên kêu gọi phải giáo dục giới tính cho học trò. Đây là sự nhìn xa trong

vấn đề giáo dục trẻ vị thanh niên của "ông vua phóng

92

sự". Chính vì vậy, giá trị lịch sử - thời sự của phóng sự Vũ Trọng Phụng càng có tính nhân

đạo sâu sắc.

2.3.2. Tư tưởng nhân đạo

Khi bàn về yếu tố tƣ tƣởng, tình cảm trong văn chƣơng, L. Tolstôi cho rằng: Cái mà

nghệ sĩ miêu tả, nhƣ thần thánh, bọn ăn cƣớp, các sa hoàng, đám chó săn, thì chúng ta chỉ tìm

và thấy có tâm hồn của chính nhà nghệ sĩ mà thôi.

Xuyên suốt năm thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng là sự nhức nhối trƣớc một hiện

thực đen tối về xã hội và con ngƣời. Đó là nỗi nhức nhối đậm màu sắc nhân đạo chủ nghĩa.

Tƣ tƣởng nhân đạo ở đây không chỉ thể hiện qua nhiệt tình phê phán phủ nhận cái thực tại

thối nát làm hƣ hỏng con ngƣời, lòng trắc ẩn và thái độ cảm thông bênh vực những nạn nhân

của cái xã hội vô nhân đạo ấy, mà còn ở việc thẳng thắn vạch ra một sự thật hết sức bi đát về

con ngƣời. Đó là sự tha hóa, biến chất một cách thảm hại của họ.

2.3.2.1. Một niềm trắc ẩn

Phóng sự của Vũ là một cuộc hành trình nhằm tìm tòi và khám phá sự thật. Những

cuộc tìm tòi, phát hiện có pha màu sắc ly kỳ, nhƣng đó đích thực là những cuộc săn lùng cái

ác, cái xấu đã gây nên những tệ nạn, hoặc những nguyên nhân gây ra một thực trạng, một tình

cảnh bi đát. Đó chính là những dấu hiện chắc chắn của chủ nghĩa nhân đạo. Chẳng hạn, nhƣ

ở trƣờng hợp ông viết Cạm bẫy người. Bạn thân của Vũ Trọng Phụng kể rằng, để có tƣ liệu

viết phóng sự này, Vũ đã "dám liều mình "đâm đầu" vào các sòng bạc của Cả Vê, Hai Mơ,

Ba Sính la ba tên cầm đầu các sòng bạc bấy giờ ở Hà Nội (...). Và ông đã "lật tẩy" tất cả

những mánh khóe cạm bẫy, lột túi "thịt" ngƣời của bọn chủ sòng ác ôn, trên mặt giấy" [55,

68].

93

Cũng theo lời ngƣời bạn này kể thì "lũ ác ôn" làng bịp đã gửi thƣ cảnh cáo, dọa "lấy

cái đầu" của ông (cũng nhƣ lũ hào lý làng Đại Hoàng dọa giết Nam Cao sau khi ông viết Chí

Phèo). Cho dù đó chỉ là một giai thoại, nhƣng cuộc "truy lùng" đầy mạo hiểm này đã có kết

quả. Cạm bẫy người không khác gì một "trái bom" cực mạnh giáng trúng đầu não hết sứ bí

hiểm của cái làng bịp ma quái. Đồng thời, tác phẩm nhƣ chứa cái thông điệp "Hỡi loại ngƣời,

hãy cảnh giác!" vốn rất cần trong bối cảnh nạn cờ bạc đỏ đen đang hoành hành và tác oai tác

quái dữ dội lức bấy giờ.

Tệ mãi dâm cũng bị nhà phóng sự truy tìm ở tận cái nhà Lục xì đầy nhơ nhớp.

Nguyên nhân của tệ nạn này cũng đƣợc đƣa ra mổ xẻ, truy cứu. Tệ nạn này có bởi sự "tiếp

xúc với những dân tộc khác, hoặc vì thƣơng mại, hoặc bị xâm chiếm (...) càng dễ bị nạn hoa

liễu" [155, 96]. Tệ nạn này còn tồn tại là do nhà nƣớc bảo hộ cứ "bình chân nhƣ vại chỉ chữa

chạy qua loa", do "sự lãnh đạm cổ truyền của ngƣời An Nam với vấn đề hoa liễu" [155, 97]...

Rồi nguyên nhân gì làm đám ngƣời "nhà quê" kia phải bỏ quê hƣơng bản quán, phiêu bạt lên

Hà thành kiếm một cửa làm con đòi, con ở. Vì sao những cô gái quê hiền lành và xinh xắn

nhƣ Ái, Tích... lại phải làm me, và những cô gái "tài có, sắc có, chữ nghĩa cũng có" [157, 19]

mà phải lấy Tây để cuối cùng trở thành loại "đàn ba ma bùn". Nhìn thấy những đứa trẻ con

lai, vô thừa nhận "đứa nào trông cũng hay hay, tinh khôn nhanh nhẹn lạ (...) trông nhƣ trẻ

quảng cáo của hiệu sữa Con chim", nhà phóng sự bỗng nặng lòng với những lo lắng suy tƣ

"Tôi buồn rầu vì chợt nghĩ đến bố mẹ chúng. Bọn trẻ ấy sau này sẽ có tƣơng lai ra sao?" [157,

56]... Cứ vậy, mỗi phóng sự có biết bao nhiêu câu hỏi kiểu nhƣ thế và tất cả phóng sự của họ

Vũ là một câu hỏi lớn bao trùm về cuộc đời về xã hội và số phận con ngƣời. Tuy không phải

câu hỏi nào cũng đƣợc ông lý giải một cách đủ đầy, nhƣng rõ ràng phải có một nỗi "đau đớn

lòng" đến mức

94

nào đó thì mới có thể đặt ra được những câu hỏi trước "những điều trông thấy" ấy.

Nhân vật chính trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là ngƣời thuộc tầng lớp "hạ lƣu"

sống dƣới đáy xã hội thực dân phong kiến. Có đôi chỗ, ông tỏ ra khinh miệt họ. Nhƣng bao

trùm lên tất cả là tình thƣơng của tác giả đối với lớp ngƣời nghèo khổ sa chân lỡ bƣớc. Đó là

đám ngƣời "nhà quê", "những kẻ mà ngƣời ngợm với áo quần đã đủ tiêu biểu cho bao nhiêu

nỗi thống khổ của loài ngƣời, từ khi cuộc đời là cuộc đời" [155, 47]. Rồi chuyện đau lòng của

anh đầu trọc, thằng bé ho lao "Vỡ đê, trôi cả nhà, cửa trâu, bò. Vợ nó ra đi ở vú em rồi không

về. Ra tìm mãi không thấy phải đi kéo xe" [155, 59 - 60]. Đặc biệt là cảnh thảm thƣơng của

con sen động kinh, bị mật thám xích, bị "cô ả tân thời" (bà chủ cũ) tát vào gáy, đã gây cho tác

giả "đầy những bất bình", "không bao giơ quên đƣợc" cảnh tƣợng đó. Chỉ mƣời trang của

chƣơng "Bi hài kịch" nay đã chứa "biết bao nỗi thƣơng tâm, bao tình nhân loại" [155, 552].

Những ngƣời đàn ba cùng đƣờng phải lấy Tây, phải làm gái điếm cũng đưọc nhà

phóng sự dành cho những tình cảm xót thương như vậy. Ông cảm thông trƣớc nỗi thẹn thùng

của gái Lục xì trong mỗi lần khám bệnh, đồng cảm với nỗi day dứt, nhức nhối của họ "đến

nhƣ họ là khổ lắm, nhục lắm rồi, mà ngƣời trên lại cho ngƣời nhà báo vào kiếm chuyện rêu

rao họ là đĩ, nói họ xấu, nhìn họ nhƣ nhìn những loài hổ, báo, trăn, rắn trên Bách thú thì thật

khó chịu lắm" [155, 161]. Khi những cái tên của những cô gái Việt đáng thƣơng ấy, đƣợc một

ngƣời Pháp lơ lớ đọc lên, trong phiên điểm danh khám bệnh ở nhà Lục xì, nhƣ Trane Ti Lock

(Trần Thi Lộc), Nguyen Ti Yane (Nguyễn Thị Yến), Nguyên Ti Suau (Nguyễn Thị Sửu)... thì

nỗi thương cảm của nhà phóng sự bỗng như trào dâng, bật thành lời than hết sức cảm động

"những cái tên ấy nghe nhƣ vô tội, những cái

95

tên xƣa kia đã bao phen thốt ra một cách âu yếm ở miệng một ngƣời mẹ hiền, một cách lo sợ

ở miệng một ngƣời bố "gà sống nuôi con", hay là một cách ảo não đến đứt gan đứt ruột ở

miệng một cậu nhân tình" [155, 147].

Không chỉ cảm thông, thƣơng xót mà trong nhiều trƣờng hợp, nhà phóng sự đã đứng

ra "tố khổ", kêu oan, thanh minh, bênh vực những con người khốn khổ ấy. Trƣớc câu hỏi làm

điếm do nghèo đói hay hƣ hỏng, ông dứt khoát đồng cảm với lời giải đáp rằng "họ phần nhiều

là gái nhà quê, thất nghiệp. Hƣ hỏng thì có lẽ cũng có, nhƣng "hƣ hỏng" theo nghĩa Tây

phƣơng thì, không!" [155, 135]. Theo ông, họ là cả "một cái nhân loại hỗn độn, bất trị vừa

đáng ghê tởm, vừa đáng thƣơng xót" [155, 131]. Và có trƣờng hợp, ông hết sức tán thành với

lời tố cáo chế độ bất nhân: "Khi có một con bé khốn nạn, phải bán thân nuôi miệng thì tức

khắc Nhà nƣớc vồ lấy nó rồi bắt nó đóng một thứ thuế mà có ngƣời kêu ca là vô nhân đạo.

Sau khi đã sắp chết đói thì lại đến cái nhục nhã" [155, 124]. Nhiều cô gái phải làm me, lấy

Tây cũng do tình cảnh tƣơng tự. Đứng trƣớc sự tàn ác, bất nhân của giới chủ nhà với con ở,

ông dứt khoát đứng về phía những nạn nhân, mặc dù chính họ cũng phạm lầm lỗi "còn xa tôi

mới làm thầy kiện cãi không công cho hạng ngƣời giàu có ma bắt đứa ở đi mua một hào chỉ

thịt quay cho chủ nhà, khi chủ không dặn kỹ nó, và, do thế, báo thù chủ nhà, bằng cách rẩy

đứa con chủ nhà vào cái vực dâm bôn" [157, 40].

Khi đặt nỗi cảm thông, lòng trắc ẩn, sự bênh vực của Vũ Trọng Phụng dành cho lớp

ngƣời hạ lƣu, cùng khổ bên cạnh thái độ của ông đối với bọn quan nha tham nhũng trắng

trợn, bẩn thỉu, lũ lƣu manh bạc bịp, giới chủ nhà độc ác tham lam, ta thấy tƣ tƣởng nhân đạo

trong các phóng sự của ông mang đậm tính nhân đạo truyền thống; lên án những kẻ cƣờng

quyền, áp bức; phanh phui bản chất tham lam, thối tha của chúng, bênh vực những kẻ khốn

cùng.

96

2.3.2.2 Một lời cảnh báo

Nhƣng trong bức tranh toàn cảnh của những thiên phóng sự, tầm nhìn của ông còn

rộng và bao quát hơn. Ông không chỉ đứng về phía những ngƣời nghèo đói "kêu ca cho

những sự thống khổ (...) bị áp chế, bị cƣỡng bức" [89, 130], nỗi bất hạnh về mặt vật chất;

quan tâm đến số phận tinh thần của con ngƣời cả về mặt tâm hồn, ý thức, ý niệm, xác tín, mà

còn quan tâm đến con ngƣời ở một trong những phần sâu sắc nhất và cũng hiện thực nhất của

nó. Đó là cái xấu, cái thấp hèn, cái thô bỉ, ác độc... mà ông gọi dó là "thói xấu của người

đời". Khi phơi bày cái sự thật phũ phàng và đen tối này sẽ làm "ta phải hãi hùng kinh ngạc

về loài người" [155, 68].

Thực ra, ở một vai chỗ, trong bức tranh đen tối về con ngƣời cũng có nhấp nháy đôi

ba điểm sáng yếu ớt. Tên Trùm Ấm B... tuy là kẻ đại gian manh, hiểm độc nhƣng cũng có

tình thƣơng với Ba Mỹ Ký, một gã tay chân trung thanh, xấu số. Gã chuyên gia bạc bịp Ký

Vũ là ngƣời có hiếu với mẹ. Bọn chúng ăn ở vói nhau theo cái nghĩa khí Lƣơng Sơn Bạc

(Cạm bẫy người). Còn trong cái xã hội nhớp nhúa của làng me Tây vẫn hiện lên khuôn mặt

dễ thƣơng, một con ngƣời biết tự trọng, có hiếu với mẹ nhƣ cô đầm lai Suzanne. Hoặc trong

đám "đàn bà ma bùn" lấy Tây chỉ vì tiền, sống không biết có ngày mai ấy, vẫn có một bà

Kiểm Lâm âm thầm tủi nhục, xót xa, "tự biết phận mình" là đáng khinh, "là hạng bỏ đi"...

Con hầu hết những ngƣời trong cái "nhân loại" ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, nhƣ chúng tôi

đã có dịp trình bày ở phần trên, là một đám ngƣời lem luốc, xấu xí đủ đƣờng. Đó là những kẻ

sống bất chấp luân thƣờng đạo lý, sẵn sàng chà đạp lên tình nghĩa cha con, vợ chồng, sống

ích kỷ, đố kỵ, lừa lọc, ăn gian nói dối, tham lam, lừa thầy, phản bạn, trâng tráo, dâm ô, trụy

lạc, đểu giả, lƣu manh, độc ác... Trong mỗi con ngƣời này đều có một phần ác quỷ, theo nhƣ

triết lý của họ Vũ "ngƣời ta ai không là một thứ quái vật".

97

Nhƣng ở hầu hết mọi trƣờng hợp, phần quỷ dữ luôn chiến thắng.

Đúng là một "nhân loại" hƣ hỏng, xấu xa. Nhƣng cái xấu của "ngƣời đời" trong phóng

sự Vũ Trọng Phụng không chỉ có nhƣ vậy. Điều "hãi hùng về loài ngƣời" mà Vũ Trọng

Phụng khám phá đƣợc ở đây là sự bi đát và đen tối tận cùng ở sự tha hóa của con người.

Trong cái xã hội thuộc địa đầy bất công, tàn bạo, có biết bao con ngƣời bị tha hóa, bị

xô đẩy và vòng tội lỗi hoặc xuống vực thẳm của sự sa đọa. Hoàn cảnh đã đè bẹp, ngốn nuốt

cả nhân tính và biến nhân hình của anh cố nông hiền lành, biến anh thành con quỷ dữ của

lang Vũ Đại (Chí Phèo - Nam Cao). Hoàn cảnh cũng xô đẩy những thôn nữ hiền lành nhƣ

Tám Bính (Bỉ vỏ - Nguyên Hồng), Tiền (Chuyện người hàng xóm - Nam Cao) hay những cô

gái quê trong Tối ba mươi - (Thạch Lam)... vào con đƣờng trụy lạc, sa đọa.

Mặc dầu cái xã hội độc ác đóng dấu lên mặt anh ta những vết sẹo ngang dọc, khƣớc từ

quyền đƣợc làm ngƣời, nhƣng cái "nhất điểm linh đài" trong con ngƣời, khi bừng sáng đã

thôi thức Chí Phèo ngật ngƣỡng, nắm chắc cán dao đi tìm kẻ thù đòi trả cho mình quyền đƣợc

làm ngƣời lƣơng thiện. Những cô gái điếm nói trên cũng có một khát vọng tƣơng tự. Trong

nỗi xót xa cho thân phận chìm nổi của mình, Tám Bính da diết nhớ con, khao khát đƣợc làm

mẹ; Tiền mong thoát khỏi nơi bùn nhơ và trong cái Tối ba mươi mịt mù, mấy cô kỹ nữ ngồi

khóc nhớ quê hƣơng, thƣơng tiếc những ngay còn sống thanh sạch... Họ là loại cây, bị đầy ải

trong bóng đêm, nhƣng vẫn muốn vƣơn ra ánh sáng.

Xa hơn nữa có thể thấy một Thúy Kiều cũng bị sa vào bể trầm luân của cuộc đời kỹ

nữ. Nàng phải chịu bao đớn đau, tủi cực, ê chề. Trong những năm trời đằng đẵng, Thúy Kiều

đã bao phen vùng vẫy, những mong thoát ra khỏi cảnh đời nhục nhã...

98

Nhƣng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng rất khó tìm thấy cái mô típ tha hóa theo kiểu

"truyền thống" như trên. Cái "nhân loại" xấu xa, trong phóng sự của họ Vũ, mỗi kể tha hóa

do hoàn cảnh và tình huống riêng, nhung tất cả như đều có chung một "lộ trình", một "công

thức.". Đó là "Khi một người đã sa ngã, hoặc tự mình, hoặc do người khác xô đẩy cũng vậy,

đã sa ngã một lần rồi cứ sa ngã mãi" [157, 65].

Một lũ dân làng bịp, từ những tên trùm đến bọn tay chân cứ mãi lao sâu vào con

đƣờng tội lỗi; mặc dù biết mình đang làm cái việc "bất lƣơng". Đám quan quân ở một huyện

nhà chuyên nghề đục khoét và ăn cƣớp một cách chẳng thèm che đậy. Và cái con sen vốn là

cô gái quê hiền lành lại lao vào "lộ trình": "đã là con sen thì cô gái quê sẽ cứ làm cô đào. Cô

gái quê đã bị một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh sẽ là một cái thang để

cô gái quê treo lên cao" [157 , 40] để rồi lún sâu vào vực thẳm trụy lạc... Tất cả đều cứ nhƣ

những con thiêu thân cứ lao mãi vào đƣờng băng hoại. Khác với những nhân vật của Nguyên

Hồng, Nam Cao... cái "nhân loại" của họ Vũ không có ý thức chống lại sự tha hóa, cũng

không phải là những kẻ "đã liều nhắm mắt đƣa chân"... mà cả cuộc đời "đã sa ngã một lần rồi

cứ sa ngã mãi" không hề mảy may hối tiếc và muốn hoàn lƣơng cả.

Sự tha hóa nhƣ vậy có ý nghĩa nhƣ một sự hủy diệt hoàn toàn nhân cách, trong đó có

yếu tố tự hủy diệt. Đây chính là điều "hãi hùng" nhất của con ngƣời "từ khi nó là con ngƣời",

nhƣ cách nói của Vũ Trọng Phụng.

2.3.2.3 Một thái độ thẳng thắn với cái xấu của con người

Trong cuộc hành trình khám phá bản thể con ngƣời, họ Vũ đã phát hiện ra một vùng

đau mới. Tuy các nhà văn hiện thực đƣơng thời cùng khám phá bi kịch của cuộc sống, có

chung "nỗi đau về con ngƣời", nhƣng chƣa ai phát hiện ra cái "vùng đau" dữ dội nhƣ vậy.

Thạch Lam đã từng

99

quan niệm, con ngƣời "là ngƣời với những sự cao quý và hèn hạ của ngƣời". Cái hèn hạ,

nhếch nhác, xấu xí... của con ngƣời cũng đƣợc phơi bày rất nhiều trong nhũng tác phẩm của

Nam Cao, Nguyễn Công Hoan, v.v... Nhưng sự tha hóa của con người không ở đâu "hãi

hùng" như các nhân vật trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng.

Tính chân thực, cụ thể của việc miêu tả con ngƣời, không phải thể hiện ở chỗ nhà văn

điều tiết những phẩm chất tốt và xấu của mỗi nhân vật, mà bởi sự thâm nhập vào chiều sâu

thế giới nội tâm của nhân cách. Họ Vũ đã tiếp cận bản thể con ngƣời ở những tầng bản chất

vốn rất phong phú, phức tạp của nó. Đầu tiên là cái bản chất hàng một. Đó là con ngƣời với

tƣ cách là thành viên của một giới hoặc một giai cấp nhất định. Trong phóng sự của ông, có

rất nhiều "mẫu hàng" của giới cơm thầy cơm cô, giới gái mại dâm, giới quan lại, giới cờ bạc

bịp, giới các ông bà chủ, v.v... Ông còn đi sâu khám phá, nói nhƣ giáo sƣ Trần Đức Thảo, thì

đó là "con ngƣời theo nghĩa chung của loài ngƣời, con người nói chung. Đây là bản chất

hàng hai ở bề sâu mỗi con ngƣời, cái chất ngƣời bị tha hóa bởi những quan hệ giai cấp bóc

lột" [189, 34]. Và ông còn đào sâu đến cả bản chất sinh vật học của con ngƣời. Vì vậy, trong

phóng sự của ông không chỉ có "ngƣời đời" mà còn có cả "loài ngƣời", có hẳn cả một "nhân

loại".

Tuy nhiên, "nhân loại" ở đây không phải là một khối chung chung, trừu tƣợng mà là

những con ngƣời cụ thể đƣợc họ Vũ nhìn nhận từ phƣơng diện cá nhân của nó, trong đó mỗi

con ngƣời là một chủ thể ý thức. Và ông đã phát hiện ra rằng chính những dục vọng đen tối

đã là nguyên nhân chủ yếu gây nên sự phá hủy nhân cách của mỗi con người. Dục vọng tội

lỗi là mẫu số chung cho tất cả những kẻ tha hóa, trong đó đồng tiền là hệ quy chiếu của

những dục vọng tội lỗi, thấp hèn. Những nhân vật dị hình trong vòng tội lỗi và những con

ngƣời tha hóa trong phóng sự của họ Vũ

100

đều là nhũng con ngƣời chứa đầy dục vọng.

Vũ Trọng Phụng đã từng cho rằng: "Phải giả dối cực điểm hoặc là vô học thức thì mới

tƣởng nhân loại không có sự nhơ bẩn ô uế nào" [4, 216]. Bằng ngòi bút phóng sự, họ Vũ đã

tiến hành một cuộc hành trình nhằm khám phá ra "sự nhơ bẩn ô uế đó" và ông đã khám phá

ra điều "bí mật" kinh hoàng: cùng với cái thực tại đen tối hủy diệt "đơn vị" con người, thì

chính con người, với những dục vọng thấp hèn cũng đang tự hủy hoại cái "nhân tố người"

của mình.

Có lẽ, ở Vũ Trọng Phụng, không có gì thuộc về con ngƣời lại xa lạ đối với ông. Ngòi

bút phóng sự của họ Vũ không hề tàn nhẫn khi viết về sự thật mà là đã dám viết về một sự

thật tàn nhẫn. Vùng đau, cái "khu ung thƣ" trong nhân cách con ngƣời đã thật sự nguy kịch

và ông đã tiến hành một "cuộc giải phẫu" phanh phui sự thật. Lỗ Tấn cũng từng chủ trƣơng:

"Mỗi lần chọn đề tài, tôi thƣờng chọn những ngƣời bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục

đích lôi hết bệnh tật của họ ra để mọi ngƣơi tìm cách chạy chữa" [194, 240]. Và ông còn làm

một cuộc giải phẫu, mổ xẻ "quốc dân tính" nhằm phục vụ tôn chỉ cao quý là "lập nhân". Vũ

Trọng Phụng không chỉ chọn riêng ngƣời bất hạnh mà ông đã công bằng, thẳng thắn, dũng

cảm nhìn thẳng vào sự thật đen tối nhất của con ngƣời và phơi bày ra trƣớc ánh sáng. Gorki,

tác giả của câu nói nổi tiếng "Văn học là nhân học", năm 1909 đã kỳ vọng "Cần phải chờ đợi

để trong một tương lai không xa, một người dũng cảm, trung thực nào đó viết một cuốn sách

đáng buồn "Sự phá hủy nhân cách" và trong cuốn sách ấy chỉ rõ cho chúng ta quá trình cằn

cỗi tinh thần liên tục của con người, sự co hẹp không tránh khỏi của cái "tôi". Một cuốn sách

như vậy chính là lịch sử của văn học thế giới, trước hết là nghệ thuật hiện thục" [140, 141].

Theo chúng tôi, ngƣời "nêu cao lá cờ tả chân triệt để" [133 - 517], với cây bút "có gân, có

sức" nhƣ Vũ

101

Trọng Phụng đã là một trong những ngƣời "dũng cảm, trung thực" viết "cuốn sách đáng

buồn" đó. Cái thực tại đen tối thời nô lệ, dƣới ách thực dân vốn thù địch với con ngƣời, luôn

muốn đè bẹp nhân tính của họ. Nhƣng chính con ngƣời cũng tự thủ tiêu, "phá hủy nhân cách"

của mình bằng những điều xấu xa, tội lỗi... Ở nhiều trang phóng sự của mình, Vũ Trọng

Phụng đã thẳng thắn phanh phui cái sự thật "hãi hùng" đó. Vì thế mà tƣ tƣởng nhân đạo của

ông không phải là dạng mật ngọt, gối êm; không phải là những lời thuyết lí, mà như một liều

thuốc đắng, một làn roi quất mạnh, nhằm thức tỉnh nhân tâm. "Lòng nhân" của ông bộc lộ ở

nhiệt tình phê phán, lên án cái xấu của "ngƣời đời", nhằm thổi bùng lên ý chí loại trừ những

cái "nhơ bẩn, ô uế" nơi họ. Ẩn dƣới cái nhìn cay nghiệt, chửi đời, giận đời, cƣời đời, là nỗi

đau đời, thƣơng ngƣời. Bao trùm lên tất cả là tấm lòng "giận mà thƣơng" và cũng là niềm ƣớc

vọng về một cuộc đời với những con ngƣời sống "có nghĩa lý". Đây la điều khác về cơ bản

giữa văn chƣơng Vũ Trọng Phụng với văn chƣơng suy đồi, vì thứ văn chƣơng này chuyên'

phơi bày những xấu xa, hèn kém, bỉ ổi của con ngƣời với một thái độ dửng dƣng, buông xuôi,

bất lực...

Cái "sự thật ở đời" mà Vũ Trọng Phụng đã phơi bày trong các phóng sự của ông là cả

một bức tranh xám xịt. Đó là cái xã hội nghìn lần "khốn khổ, khốn nạn" với bao tệ nạn và

cạm bẫy bủa vây con ngƣời. Thảm trạng về con ngƣời tha hóa càng trở nên nặng nề khi con

ngƣời để những điều "nhơ bẩn, ô uế" của chính mình hủy diệt cái "tính bản thiện", cái tố chất

người vốn có. Vũ Trọng Phụng đã lớn tiếng lên án, phủ nhận cái thực tại đen tối, đồng thời

cũng thẳng tay bóc trần cái phần đen tối nhất của con ngƣời. Vũ Trọng Phụng đã thƣơng yêu

con ngƣời theo "cách" của riêng ông. Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, giữa hiện thực và nhân

đạo có một sự thống nhất. Vả lại, không một nhà văn lớn nào lại không phải là một nhà

102

phải là một nhà nhân đạo chủ nghĩa theo ý nghĩa rộng rãi của khái niệm này. Vũ Trọng Phụng

là một trƣờng hợp nhƣ vậy.

Từ số phận, tình cảnh, đƣờng đời và quá trình tha hóa của các nhân vật, Vũ Trọng

Phụng đã soi chiếu lại lịch sử. Các tác phẩm của ông, trong đó có phóng sự là "vở đại bi kịch

nhân loại, nhân tình" [141, 516]. Trong tấn "đậi bi kích" nay, thông qua những bức tranh giàu

năng lương sư thật về xã hội và cả một "nhân loại" trên đƣờng tha hóa họ Vũ đã đặt ra những

vấn đề về cuộc sông và con ngƣời của một thời nô lệ, thể hiện đƣợc tƣ tƣởng nhân đạo mang

sắc thái của riêng mình.

Vũ Trọng Phụng đã làm được điều đó vì ông là "nhà văn có khuynh hướng xã hội" mà

tư tưởng xã hội vốn "kết lại từ trong mạch máu". Ông còn "là một phóng viên của cuộc đời",

là một cây bút phóng sự "dấn thân", với một cái đầu tỉnh táo và có một trái tim nóng bỏng. Ở

phóng sự nào, ông cũng hăng hái nhập cuộc, với một tinh thần trách nhiệm và nhiệt tình cải

cách xã hội. Vì thế, có thể thấy, ở họ Vũ có một khát khao nghiên cứu và tinh thần phân tích

xã hội nhƣ là một sở nguyện không thể kiềm chế nổi. Đối với con ngƣời, ông luôn có một thái

độ công bằng, không đóng vai một phán quan để phán xét, không hề cao ngạo tự kỉ trung tâm

và không bao giờ hí hửng, hể hả bôi nhọ, lăng nhục con ngƣời.

Là một ngƣời mẫn cảm, họ Vũ cũng là ngƣời dồi dào cảm hứng trƣớc sự thật, đặc biệt

với khu vực nghịch chiều của cuộc sống đương thời. Ông lại có hứng thứ và sở trƣờng trong

việc khắc họa những chân dung thô kệch, hài hƣớc, đặc biệt là những chân dung của những

kẻ dị dạng, tha hóa. Chính cái "vùng thẩm mỹ" riêng và cái "chất dính" riêng đó đã giúp ông

khám phá và tái tạo một cách sinh động nhiều hiện tƣợng nằm ở mặt trái của cuộc đời, trong

cái xã hội mà họ Vũ vốn nuôi một "niềm căm uất không nguôi". Và cái không khí sôi nổi của

thời kỳ Mặt trận bình dân chắc

103

chắn đã tiếp thêm sức lực cho ngòi bút phóng sự của ông, cũng nhƣ cái tinh thần duy lý của

triết học Pháp ít nhiều có ảnh hưởng tích cực đến năng lực tư duy; óc phân tích, tổng hợp,

lập luận, lý giải của ông trƣớc những tệ nạn xã hội và sự suy thoái nhân cách của con ngƣời.

Những bao trùm lên vẫn là những tình cảm thẳng thắn, chất phác xuất phát từ cái tâm

bộc trực, trong sáng của "ông vua phóng sự". Trái tim họ Vũ đã luôn vui, buồn, hy vọng, thất

vọng theo sự diễn biễn của thời cuộc. Chẳng hạn, khi thấy những điều hứa hẹn rùm beng của

chính phủ Bình dân Pháp chỉ là những điều đầu môi chóp lƣỡi, họ Vũ phải ngậm ngùi: "bao

nhiêu điều cải cách của chính phủ chẳng hạn, mà té ra cũng lại là chẳng thay đổi gì cả" [160,

91]. ông luôn có quan điểm độc lập và nhất quán trong cái nhìn về những tệ nạn và số phận

của con ngƣời. Bên cạnh lòng nhân hậu, vị tha, ông đã thẳng thắn lên án, tố cáo cái xã hội phi

nhân và cả những kẻ tha hóa, tội lỗi. Đó chính là hiện thực của tƣ tƣởng, tình cảm của "ông

vua phóng sự".

2.3.3. Những bất cập, sai lầm và yếu tố tự nhiên chủ nghĩa

Tuy là một cây bút nhạy bén, sắc sảo đã phản ánh đƣợc nhiều vấn đề có ý nghĩa sâu

xa của cuộc sống xã hội thuộc địa, nhƣng cũng nhƣ nhiều nhà văn hiện thực đƣơng thời, Vũ

Trọng Phụng cũng không tránh khỏi những bất cập, sai lầm về nhận thức, tư tưởng và chịu

ảnh hưởng ít nhiều của cách nhìn tự nhiên chủ nghĩa.

2.3.3.1 Những điều bất cập, sai lầm

Cũng nhƣ nhiều ngƣời cầm bút đƣơng thời, ngoài việc viết văn, họ Vũ con làm báo.

Nhƣng có thể nói, ít thấy những ngƣời gắn bó với thời cuộc nhƣ ông. Tuy trong Lục xì, ông

có "tiên đoán": đến một "ngay kia" (lúc có thể ban hành cái chủ trƣơng thủ tiêu nạn mại

dâm), thì "Đến ngày ấy

104

trong xã hội Việt Nam, sẽ có nhiều sự thay đổi, nhiều cuộc "cách mệnh", nhiều vụ "loạn lạc""

[155, 245], nhưng ông lại là người có những nhận thức mơ hồ về chính trị. Biểu hiện rõ nhất

là sự ngộ nhận công lao chữa bệnh cho gái mại dâm của một vài viên chức thực dân và đã tỏ

ra mặc cảm tự ti dân tộc trước họ. Có thể những cử chỉ tiếp đón lịch sự, ân cần (tiếp

"Monsieur Phung" ngay cả khi đã hết giờ làm việc, cung cấp tài liệu...) của bác sĩ Joyeux

giám đốc nhà Lục xì và cái bộ "y phục xuềnh xoàng... cử chỉ, ngôn ngữ tỏ ra cái tính nết

chăm việc... giản dị bình dân cả trăm phần trăm" [155, 112] của viên đốc lý, đứng đầu Thủ đô

Bắc kỳ Virgitti, đã làm cho họ Vũ cảm động, không nhận ra cái "huyền thoại" do thực dân

dựng lên để che giấu, "biện chính" cho hành động của chúng. Cũng đứng vào năm này, trong

bài báo Những việc đáng ghi chép của năm Bính Tý, sau khi điểm vài sự kiện có tính "cải

cách" của chính quyền thực dân, họ Vũ cho rằng: ngần ấy thi đã đủ cho người bi quan nhất

đời cũng đã dám hy vọng ở tương lai, vì xem ra cái chính sách thực dân "bằng dùi cui" đã có

phần nhượng bộ rồi đó" (Báo Tương lai ngày 18 tháng 2, năm 1937, tr.3) Thực chất của cái

"huyền thoại" về "lòng tốt" của thực dân, đƣợc giáo sƣ Nguyễn Văn Trung giải thích: "Ngƣời

thực dân chỉ nghĩ lợi cho mình. Dĩ nhiên đôi khi họ cũng nghĩ đến quyền lợi của ngƣời thuộc

địa nhƣng không phải cho ngƣời thuộc địa... Chẳng hạn, ngƣời Pháp phải mở trƣờng dạy học,

hay lập các nhà thƣơng trừ các bệnh (...) ngƣời bản xứ có đƣợc học và có sức khỏe mới làm

việc phục vụ cho họ đƣợc, do đó năng suất, lợi tức đƣợc tăng hơn... vả lại, nếu không trừ

bệnh thời khí, để lan tràn thì chính Tây cũng chết luôn" [200, 53]. Vũ Trọng Phụng cũng đã

"khách quan", khi cho rằng mại dâm là "sự hại cần phải có", vì nếu không có nó thì "chín

trăm binh lính (ở Hà Nội - tác giả luận án chú thích) sẽ bất bình, nếu những ngƣời ấy họ

không có vợ, không theo nổi lý thuyết nhịn nhục,

105

tiết chế dâm dục của Freud" [155, 106]. Và cũng chính ông đã ghi nhận cảnh: "Có khi, giữa

đêm khuya, hàng lũ binh lính trắng và đen, rƣợu say bét nhe, vào các nhà thanh lâu phá tán

đồ đạc, đánh đập con gái, bóp cổ những cả không thuận bán dâm!" [155, 168]. Nhƣ vậy đã

rõ! Lập ra nhà Phúc đƣờng (Dispensaire), tiếng là làm phúc cho ngƣời Việt Nam, nhưng mục

tiêu trước hết là nhằm bảo toàn lực lượng cho cái đội quân lê dương ô hợp nửa người, nửa

thú tại Hà thành khỏi bị vi trùng hoa liễu, để chúng có thể sẵn sàng nhận lệnh đi bắn giết.

Thực dân luôn che giấu mục đích của mình. Còn nhà văn xã hội Vũ Trọng Phụng thì lại quá

chân thành, chỉ nghĩ đó là họ "thƣơng ngƣời bản xứ"! Là ngƣời rất lo lắng cho giống nòi, cho

dân tộc trƣóc nạn vi trùng hoa liễu, họ Vũ bỗng "bị" hàm ơn đối với thực dân. Vì thế, khi

đƣợc vào thăm nhà Lục xì, thái độ của ông rất khép nép, mặc cảm đến tội nghiệp trƣớc đám

nhân viên công vụ: "Ông thanh tra không có đây cho tôi cầu một việc, tôi phải nhìn trộm các

thầy đội mà cũng không dám gạn hỏi điều gì" [155, 120]. Và lòng tự ti dân tộc đã làm ông tỏ

ra đồng tình, chia sẻ với những lời lẽ thóa mạ hỗn xƣợc đối với ngƣời Việt Nam của Joyeux,

khi hắn cho là: "chỉ có một số ít trí thức là đã hoàn toàn Âu hóa, còn thì có những bộ lạc còn

man- di- mọi- rợ nhƣ ngƣời cổ xƣa" [155, 243].

Khi tiến hành khám phá những tệ nạn, Vũ Trọng Phụng có tiến hành truy tầm nguồn

gốc, nguyên nhân của nó và có trƣờng hợp, ông đã đƣa ra phƣơng hƣớng giải quyết. Điều này

cho thấy tính tích cực xã hội rất cao của cây bút phóng sự Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, có

những nguyên nhân tệ nạn mà ông nêu ra, chỉ là những nguyên nhân trực tiếp chứ không

phải là những nguyên nhân sâu xa, cội nguồn của những tệ nạn. Và những giải pháp mà ông

đƣa ra cũng chỉ nhằm giải quyết vấn đề trong cái khuôn khổ của xã hội đương thời nên đều

không thể thực hiện được. Chẳng hạn, ông

106

rất đúng khi mô tả cái cơ cấu tham nhũng từ trên xuống dƣới của cái bộ máy hành chính

đƣơng thời, nhƣng chƣa thấy chế độ bóc lột và giai cấp bóc lột là nguyên nhân sâu xa của tệ

tham nhũng, mà căn nguyên cụ thể của nó là bản tính tư lợi cộng với quyền lực công cộng.

Ông rất tinh tế khi phân tích những dục vọng thấp hèn, chỉ muốn thâu tóm tiền bạc, tài sản

của ngƣời khác của cái nghề cờ gian bạc bịp, nhƣng chƣa chỉ ra đƣợc, chính chế độ bóc lột

mói có thể sản sinh và dung dưỡng những dục vọng thấp hèn đó. Đối với việc giải quyết tệ

mại dâm, ông đã tích cực đƣa ra giải pháp, nhƣ thành lập một ngạch đội con gái quy mô, có

nhiều quyền hành rộng rãi; sáp nhập nhà Lục xì vào nhà thƣơng Bảo hộ; đặt khu riêng cho

nghề mại dâm... Và cuối cùng ông lại tán thƣởng dự án Sellier thủ tiêu hoàn toàn tệ mại dâm.

Cho dù ông có tâm huyết đến mấy thì những giải pháp này đều không thể thực hiện đƣợc.

Bản chất của tƣ bản là chạy theo lợi nhuận, mà lợi nhuận từ việc kinh doanh món hang "tƣơi

sống" này là quá hời. Lợi nhuận mà cao, nhà tƣ bản còn sẵn sàng "nhảy vào lửa". Vậy thì cái

chế độ luôn "vận động" theo quy luật của đồng tiền, lấy đồng tiền làm cứu cánh, lam sao lại

có thể dứt bỏ đƣợc món siêu lợi nhuận này đƣợc!

Phóng sự của Vũ Trọng Phụng còn bộc lộ những bi quan về thời cuộc và bi quan về

phẩm chất tinh thần của con người, ông đã "quá tam ba bận" đƣa ra cái triết lí về sự đố kị của

con ngƣời "trò đời nó thế (...) không gì ghét nhau bằng bọn ngƣời cùng nghề nghiệp" (Cạm

bẫy người, Sđđ, tr. 220 - 221). Hoặc triết lí "khái quát" hơn "Ở đời này, bất cứ vào hạng nào,

cái công lệ thiên nhiên bất di bất dịch nó là thế này: không ai muốn cho ai "khá" hơn cả!"

[155, 216]. Họ Vũ cho rằng đây là một trong những điều "hãi hùng, kinh ngạc về loài ngƣời"

mà mình đã "khám phá" đƣợc! Ở Lục xì, ông hăng hái bàn về giải pháp, về tƣơng lai của

công cuộc chống nạn mại dâm, nhƣng lại bi quan cho rằng: "Nạn ấy có tính chất số kiếp (...)

đè

107

ép số mệnh chúng ta bằng một mối sầu chua chát lạ thƣờng [155, 104]. Đến Một huyện ăn Tết

thì chỉ còn là nỗi buồn, buồn về thế sự, cuộc đời...

Tuy là ngƣời luôn dõi theo từng bƣớc của biến động lịch sử, nhưng họ Vũ chưa có

một khoa học nhận thức về thời cuộc. Dƣờng nhƣ sự nhạy bén của ông thƣờng chỉ dính bắt

với phía đen tối của cuộc đời. Sự mặc cảm tự ti dân tộc, ca ngợi lòng tốt của trí thức thực dân,

bi quan về con ngƣời... là do có những lúc ông thiếu niềm tin vào con ngƣời, vào sức mạnh

đấu tranh của quần chúng lao động. Do không hiểu thời cuộc và chỉ nắm bắt đƣợc những

nguồn thông tin từ phía nhà nƣớc thực dân, nên họ Vũ đã viết: "Có thể nói rằng những cuộc

rối loạn xảy ra trên khắp mặt địa cầu phần nhiều do bàn tay bí mật của Mạc Tƣ Khoa gây

nên, thì những cuộc xiểng liểng của bọn thơ "chủ nghĩa đổ bác" ở khắp Bắc Kỳ ta cũng đều

do các bàn tay bí mật của ông Ấm B... dính vào vậy. Hơn hẳn Staline về mọi phƣơng diện,

Ấm B... đã đặt cho tòa nhà mình ở phố Hàng Cá là "Kinh đô bạc bịp" trong khi Staline chƣa

đƣợc lúc gọi: Moscou, capitale du monde" [154,101 - 102]. Đây là một lầm lẫn đáng tiếc về

mặt nhận thức chính trị của Vũ Trọng Phụng.

2.3.3.2 Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa

Một điểm hạn chế nữa trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng là cái nhìn mang tính tự

nhiên chủ nghĩa, khi mô tả và giải thích hiện tƣợng xã hội và số phận con ngƣời.

Yếu tố tự nhiên chủ nghĩa đƣợc thể hiện rõ nhất khi họ Vũ đề cập đến cái dâm và nạn

mại dâm. Trong phóng sự của mình, ông đã đƣa ra nhiều nhân vật có căn tính dâm đãng, nhƣ

đã bị một ông thần định mệnh quái ác buộc họ phải lâm vào con đƣờng sa đọa.

Con Sen Đũi vốn là "một gái quê hiền lành", nhƣng lại là "một đứa

108

con gái mà tạo hóa sinh ra để cho lam đĩ. Chƣa làm đĩ, nó đã thạo nghề lẳng lơ" [155, 33 -

39]. Sau khi bị thằng oẳn "hiếp lấy hiếp để", do đã đƣợc hiểu biết "sự đời", nó "trở nên một ả

thiện nghệ trong việc khiêu dâm và mãi dâm". Theo tác giả, cuộc hiếp dâm trên đã dạy cho

con Đũi "một bài học về thực nghiệp" rất hữu ích và rất chóng có "kết quả", vì "cái sức ám thị

của nó". Và "sau này nếu cái Đũi sẽ lên bà, dễ thƣờng rồi bố mẹ nó phải đi cảm ơn cái thằng

oẳn đã hiếp nó" [155, 32 - 33 - 37]. Còn "Thị Lành có lẽ vì vốn hƣ hỏng và lƣời biếng mà

bƣớc vào nghề mãi dâm. Thị tập sự vào lúc sớm lắm: 15 tuổi". Đầu tiên vì vốn "tò mò, thị rất

muốn biết cái ấy nó ra làm sao" và lại đƣợc những ba hào bạc nên thị đi theo bác lính tập...

Từ đó "lúc bán bƣởi, đã không gạt bàn tay của những khách hàng bóp vú mình", thị còn

"không lắc đầu" khi họ thầm thì vào tai rủ đi. Rồi thị bị đội con gái bắt quả tang khi bán dâm

ở nhà săm, bị điệu về nhà Lục xì, khi trong ngƣời đã có cả vi trùng giang mai lẫn vi trùng lậu.

Ở nhà Lục xì, thị bị lũ điếm có giấy đánh rất dã man, buộc phải "cầm giấy" làm điếm chuyên

nghiệp [155, 206 - 207 - 208 - 209].

Đó là căn nguyên của việc trở thành kỹ nữ của hai cô thôn nữ. Mỗi ngƣời đến với

chốn thanh lâu trong hoàn cảnh khác nhau, nhƣng đều có chung một nguyên nhân. Đó là cái

căn tính dâm đãng, hay bản năng nhục dục đã kích thích các cô này từ độ tuổi trăng tròn, nhƣ

kiểu cô Huyền trong Làm đĩ. Những cô gái này "bị" Vũ Trọng Phụng xếp vào loại có tên

trong "sổ đoạn trường" như một tiền định. Để kiểm tra lại sự "khám phá" này của mình, ông

con tiến hành một cuộc "trắc nghiệm" đối với Thị Lành để tìm hiểu thêm "những cảm tƣởng

của ngƣời đàn bà khi mới bắt đầu làm đệ tử chính thức của thần Bạch Mi". Và ông lại "phát

hiện" ra thêm một điều làm ông thất vọng: "Họ có đâu mà mình biết?", "đã từ lâu, họ chẳng là

đàn bà nữa rồi. Đã từ lâu, tuy chƣa có giấy họ cũng đã sẵn có cái linh

109

hồn gái thanh lâu" [155, 214]. Rồi còn "những cô gái lƣơng thiện", nhƣng do "quá dại dột" và

"ngứa nghề" nên mắc bẫy bọn bồi săm, bị chúng xô đẩy vào vòng trụy lạc [155, 225]...

Trong cái xã hội "chó đểu", "loạn dâm" thì những chuyện cƣỡng dâm, thông dâm,

ngoại tình, mọc sừng, loạn luân... là phổ biến. Và nạn mãi dâm thì lan tràn nhƣ một bệnh dịch

khủng khiếp. Vũ Trọng Phụng đã khám phá một cách toàn diện bộ mặt của tệ nạn này.

Nhƣng trƣớc sự hung hãn và bất khả chiến bại của "con quái vật" mại dâm (chữ dùng của Vũ

Trọng Phụng) và sự bất lực của nhà chức trách, ông ỏ ra bi quan và bế tắc trong giải thích.

Đối với ông, những nguyên nhân xã hội (nhƣ phong trào Âu hóa, giải phóng phụ nữ) không

đủ sức giải thích tệ nạn xã hội này. Và ông cho rằng "sự ngứa ngáy xác thịt của loài ngƣời"

mới là nguyên nhân căn bản. Đồng tình với quan điểm của nhà chức trách, Vũ Trọng Phụng

cho rằng, sở dĩ có nạn mại dâm, vì "không kể những kẻ bán trôn nuôi miệng vì không muốn

chết đói, thì đa số lại chỉ làm đĩ vì cái thích làm đĩ mà thôi". Để chứng minh cho quan điểm

mãi dâm là "sự hại cần phải có", ông viết: "... ta lại thấy tính chất khác nữa của nạn mãi dâm

cũng kỳ lạ vô cùng. Đã đành đó là một nạn bất hủ, không tránh đƣợc, nhƣng đó cũng là một

sự không có không đƣợc". Tuy nó là một vết thƣơng rất đáng ghê tởm của nhân loại, song le

không có nó thì nhân loại sẽ không đứng vững vì mất thế quân bình" và "loài ngƣời không

sống đƣợc, nếu không có nạn mãi dâm". Rồi ông kết luận một cách chua chát "Nạn mãi dâm

cũng thuộc vào những vấn đề bất hủ của tất cả các giống ngƣời, mà ai cũng phải chịu tìm

cách để mà chịu đựng nó vậy"! [155, 78-94-104-105-198].

Là một ngƣời rất rạch ròi trong quan niệm về cái dâm "cao thƣợng" (dâm trong hôn

nhân) và cái dâm "thấp hèn" (dâm ô, hoang dâm, loạn dâm...), trong thƣ trả lời Thái Phỉ, Vũ

Trọng Phụng đã từng viết: "Cái dâm

110

của cặp vợ chồng chẳng hạn thì là sự thƣờng nhƣ sự ăn uống, không có gì là uế tạp nhơ bẩn

mà còn là điều thanh cao, cao thƣợng nữa (...). Song còn những thứ dâm đãng gọi là uế, thí

dụ hiếp dâm, gian dâm, loạn dâm, nghĩa là những thứ dâm của hạng nam nữ mà không là vợ

chồng" [89, 120]. Nhƣng khi bàn về hiện tƣợng mãi dâm, gái đĩ, ông nhƣ bỗng "quên", và đã

đánh đồng hai cái dâm đó làm một. Trong Kỹ nghệ lấy Tây, Vũ Trọng Phụng viết: "Ngẫm

cho cùng, làm vợ một đêm hay làm vợ suốt cả một đời thì ngƣời đàn bà cũng chỉ là đĩ cả mà

thôi" [157, 74]. Còn trong Lục xì, ông cũng "triết lý" tƣơng tự "bọn làm đĩ vì nghèo đói mà

phải để yên cho bọn đĩ có kim cƣơng, làm đĩ hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, suốt đời!",

hay "cô nào, bà nào trong đám phụ nữ dám tự phụ làm mình không... mãi dâm?"! [155, 138].

Cứ nhƣ vậy, họ Vũ "triết lý" về cái dâm và về nạn mãi dâm. Tất cả chỉ xoay quanh cái

bản năng tính dục của con ngƣời, nhất là của ngƣời đàn bà. Đƣơng thời, những ngƣời nhƣ

Thái Phỉ, Nhất Chi Mai... coi tiểu thuyết, phóng sự của Vũ là văn chƣơng "dâm uế". Còn Lan

Khai thì giải thích "cái dâm" này bằng việc đi tìm nó trong "tâm tính" của tác giả. Theo Lan

Khai thì "Vũ Trọng Phụng đã mang theo ra đời cái bệnh ho lao, tức là anh đã thuộc vào cái

hạng đa dục vì bệnh" [89, 68]. Lan Khai viết tiếp: "Thế là, nhƣ trên đã nói, cái khuynh hƣớng

của con ngƣời đa dục vì bệnh ấy đã bị ngăn cấm bởi luân lý, bởi thể chất, bởi sự thiếu đồng

tiền. Ở Phụng, đã có tất cả một sự đè nén nguy hiểm. Và, sự đè nén kéo dài mãi mãi đã khiến

cho bản năng không thể chịu đƣợc nữa. Nó phải tìm một con đƣờng siêu thoát (...). Nó đã là

văn chƣơng. Chính thế, viết văn để tả những cảnh sôi máu, đối với Vũ Trọng Phụng là một

cách hành dâm vậy" [89, 69].

Nhƣ vậy, theo Lan Khai, Vũ Trọng Phụng viết về cái dâm cũng là để thỏa mãn bản

năng của mình mà cái "đa dục" lại do bệnh lao sinh ra! Vũ

111

Ngọc Phan, trong Nhà văn hiện đại, tuy có dè dặt hơn, nhƣng cũng cho rằng "Vũ Trọng

Phụng có lẽ cũng thuộc về cái ca ấy". Lấy bản năng tính dục để giải thích sự sáng tạo nghệ

thuật một cách dung tục nhƣ vậy, thì thật là Freud hơn cả chính nhà văn họ Vũ.

Một yếu tố tự nhiên chủ nghĩa nữa trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là cái nhìn miệt

thị đối với những kể khốn cùng, tha hóa, tội lỗi. Trong các phóng sự này, thỉnh thoảng ông có

nói về sự ngu dại, đần độn, "vô nghĩa lý" của đám con sen, thằng nhỏ trong "bọn cơm thầy

cơm cô"; hoặc cái xấu xí, kệch cỡm, thô lỗ của những ngƣời đàn bà làm me Tây, gái điếm.

Đôi chỗ ông sa vào chủ nghĩa tự nhiên khi mô tả ngoại hình những nhân vật này. Đó là bà Tƣ

Bạc, một me Tây, giữa lúc "mơn mởn đào tơ" thì bà ta có "cái nhan sắc mẫu dạ xoa" [157,

49]. Hay Thị Lanh, một cô gái điếm "Thị không những xấu xa mà thôi, thị còn đáng ghê tởm

đến buồn nôn nữa. Hai cái má bánh đúc nó.. cặp môi dày nó.. hai mắt nhỏ tí nó... chao ôi, khó

nói quá đi mất! Thị có một cái bụng và hai bắp đùi có thể đựng lọt một ngƣời đàn ông tầm

thƣớc, và hai cánh tay để ôm cho chết ngạt ngƣời đàn ông ấy. Thêm vào những mãnh lực nhƣ

thế, lại còn một thứ giọng ồ ồ và một thứ cƣời cùng cục nó rất đặc biệt cho những gái thanh

lâu" [155, 203, 204]. Theo chúng tôi, có thể sự miêu tả này không phải vì hứng thú cá nhân

hay mục đích tự thân mà chính là cho ngƣời đọc thấy đƣợc sự bất công của tạo hóa và do cái

môi trƣờng phi nhân bản làm cho con ngƣời biến hình, dị dạng, nhƣng sự phô diễn quá đà đã

làm cho các hình ảnh mang màu sắc tự nhiên chủ nghĩa. Tuy nhiên, cái bao trùm ở đây là nỗi

cảm thông, sự xót xa, nhức nhối của tác giả trƣớc số phận của những ngƣời đàn bà khốn khổ,

tha hóa... Về điểm này Vũ Trọng Phụng gần gũi với Nam Cao và khác biệt so với Trọng

Lang. Trong Hà Nội lầm than" [101], ta gặp những gái điếm, cô đầu có những cặp môi "vành

đen nhƣ thịt trâu ôi" (Sđd, tr.118), hai hàm răng "trắng mờ vừa hở vừa nhọn nhƣ răng yêu

tinh" (Sđd, tr.148)"

112

cƣời giòn nhƣ ma cƣời" (Sđd, tr.176), "ăn nhƣ thần trùng, bẩn nhƣ lợn" (Sđd, tr.148), "ngƣời

trắng bệch... tanh nhƣ con mối rách (Sđd, tr.166), "thối nhƣ cóc chết" (Sđd, tr.177)... Đối với

những con ngƣời đƣợc tác giả mô tả cực kỳ nhơ bẩn ấy, Trọng Lang cho rằng "Đối đãi với

gái nhảy bằng tình thƣơng, thì cũng nhƣ đối với cô đầu, gái đĩ, ngƣời ta sẽ là một nhà đạo đức

dớ dẩn" (Sđd, tr. 116). Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, ngƣời ta không tìm đƣợc những câu

nặng nề và tàn nhẫn nhƣ vậy. Riêng đối với những "ngƣời nhà quê" bần cùng, phải bỏ quê

hƣơng bản quán đi làm con sen, con ở, lấy Tây... nhƣ Đũi (Cơm thầy cơm cô), Ái, Tích, bà

Kiểm Lâm (Kỹ nghệ lấy Tây) đều có một quá khứ "ngây thơ", "tính tình trong sạch", khác xa

với các cô gái "bộ mặt với răng đen và nƣớc da nâu thẫm là bộ mặt nhà quê đặc, nhƣng hai

con mắt lầm lầm, ƣơn ƣớt lại gian giảo vô cùng" trong Hà Nội lầm than (Sđd, tr.150). Trong

phóng sự của họ Vũ, có đôi chỗ ông dùng một số từ nặng nề nhƣ "bọn đực", "bọn cái",

"thú"... phần nhiều là do không kìm đƣợc sự bực bội. Ông chƣa bao giờ mô tả con ngƣời nhƣ

một sinh vật thấp kém. Nhƣng việc họ Vũ nhân danh chủ trƣơng "tả chân" triệt để, đƣa cả bài

Phong tình ca khúc vào tác phẩm là một việc làm quá đỗi "tự nhiên" và quá sống sƣợng.

Vũ Trọng Phụng hay đề cập đến cái dâm. Cái "tật", cái "gót chân Asin" của ông chính

ở chỗ đó. Tuy nhận mình là đồ đệ của Freud, nhƣng qua sự giải thích và vận dụng của họ Vũ,

ta thấy ông hiểu học thuyết của "thầy" một cách nông cạn và có phần dung tục. Cái Libido

của Freud không chỉ là những ham muốn tình dục bị dồn nén, mà còn là những ẩn ức về

nhiều mặt, về quyền lực, về lực sống nói chung, cần đƣợc giải tỏa, cần đƣợc "thăng hoa"

trong những hình thức biểu hiện quan trọng khác, nhƣ giấc mơ và nghệ thuật, chứ không chỉ

thể hiện ở cái họ Vũ gọi là "ham muốn tình dục", "căn tính dâm đãng" ở con ngƣời. Nguyễn

Công Hoan thì cho rằng do phải "chiều lòng chủ báo", "chiều thị hiếu của bạn đọc" Vũ Trọng

113

Phụng đã "viết mấy thiên phóng sự khá khêu gọi" [89, 274]. Còn Nguyễn Tuân lại nhận định

"thực chất của văn phẩm Vũ Trọng Phụng là vƣợt lên những hiện tƣợng ấy để nói lên một cái

gì rất lớn và nói lên cái hoài bão rất lanh rất đẹp của tác giả" [89, 325]. Nhƣng theo ý kiến

của chúng tôi thì cái chính vẫn là sự bất cập của ông đối với Freud. Không ít chỗ ông có phần

nào buông thả ngồi bút, lạm dụng "tả chân" để viết nhiều về cái dâm. Nhƣng không thể kết

luận ông "khiêu dâm" và văn chƣơng của Vũ là "dâm uế", "đồi trụy", làm "tha hóa" độc giả,

mà phải thừa nhận giá trị hiện thực và nhân đạo vẫn la điều cơ bản của những thiên phóng sự,

tuy có xen những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa.

Cũng nhƣ nhiều nha văn hiện thực đƣơng thoi, Vũ Trọng Phụng viết rất hồn nhiên,

muốn ngoại hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ nhất, mãnh liệt nhất những điều mình chiêm

nghiệm đƣợc va những tình cảm yêu, ghét của mình. Vì vậy, có những khi đã chuyển hóa

một cách không tự giác từ chủ nghĩa hiện thực sang những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Mặt

khác, có thể các nha văn lúc đó, ít nhiều cũng phải "chạy theo" thị hiếu của công chúng, phải

"chiều lòng chủ báo". Chẳng hạn, trên báo Tương lai ngày 2 Mars, 1934, trong bài Nghề báo

ở nước ta, tác giả Trung Ngôn cho biết:"... độc giả trông ngóng những số báo có bài chửi

nhau không khác gì khát nƣớc. Có điều nữa là độc giả ƣa sắc dục (...) tôi dám chắc nếu tờ báo

nào hay đăng tin về xóm Bình Khang, cũng nhƣ tin gian phu, dâm phụ thì số ngƣời đọc sẽ

thêm đƣợc rất nhiều" (trang 65). Việc Vũ Trọng Phụng viết một đôi thiên phóng sự "khêu

gợi" cũng nằm trong tình trạng chung đó, vì khi phải sinh sống bằng ngòi bút, trong hoàn

cảnh văn học, báo chí đã trở thành một thứ hàng hóa thì làm sao ông hoàn toàn có tự do!

Muốn hay không, ông cũng phải ít nhiều phụ thuộc vào "túi tiền, sự bao thầu" của những nhà

xuất bản. Những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa có thể còn có

114

"cội nguồn" từ đó nữa. Có thể về mặt lý luận, ông chƣa hiểu đƣợc rằng, tuy "con ngƣời trƣớc

hết là một thực thể tự nhiên", những quy luật sinh vật học là tất yếu, nhƣng phải thông qua

những quan hệ xã hội; bản chất xã hội của con người là cái bao trùm, bản chất sinh vật chỉ

là cái nền tảng. Vì vậy, ông đã đem cái "quyền của sinh lý học" ra cắt nghĩa cái dâm và nạn

mại dâm. Nhƣng cái sự thật "tự nó nói lên, nói to lên" trong các phóng sự của họ Vũ đã cho

ngƣời đọc thấy rằng, nguyên nhân xã hội mới là "thủ phạm" chính gây ra các tệ nạn xã hội và

sự tha hóa của con ngƣời. Đây là hiện tƣợng mâu thuẫn giữa hiện thực và tƣ tƣởng trong

phóng sự của Vũ Trọng Phụng, nhƣng cuối cùng cái quyết định luận về mặt xã hội vẫn giành

phần thắng.

Qua việc khảo sát về đặc điểm hiện thực và tƣ tƣởng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng,

chúng tôi xin có một số kết luận như sau:

Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã đề cập đến những vấn đề hết sức cơ bản về những

tệ nạn xã hội trầm kha và những vấn đề xã hội nhức nhối thời Pháp thuộc. Trong đó, nạn cờ

gian bạc bịp nhƣ là một thứ cạm bẫy thực sự làm hƣ hỏng con ngƣời; tệ tham nhũng đã trở

thành một thứ "công lệ" của cái chính quyền thực dân nửa phong kiến và nạn mại dâm lan

tràn, với một đội ngũ những "ngƣời lao động tình dục" đông đảo đã gây ra cảnh đồi phong

bại tục, cảnh nhớp nhơ, bệnh hoạn cả về tinh thần lẫn thể xác; đẩy bao con ngƣời vào vòng

trụy lạc. Ngòai ra, trong phóng sự của ông còn có bao chuyện éo le, thƣơng tâm. Đó là những

cuộc đời lỡ dở của những ngƣời phụ nữ phải làm me Tây, những kiếp con đời, con ở...

Ngụp lặn trong những thứ tệ nạn xã hội đó là biết bao con người tha hóa, băng hoại.

Tuy mỗi kẻ có một lí do va hoàn cảnh khác nhau, nhƣng họ đều có chung một "lộ trình" tha

hóa, hủy hoại nhân cách, trong đó có

115

yếu tố tự hủy diệt của chính bản thân con người.

Bức tranh về xã hội và con ngƣời giàu trữ lượng hiện thực nói trên đã có một sức tố

cáo mạnh mẽ cái xã hội thuộc địa đen tối, thối nát. Đồng thời phóng sự của họ Vũ cũng gióng

lên một hồi chuồng cảnh báo về sự tha hóa, tự hủy diệt nhân cách của chính con người.

Chính vì vậy, tƣ tƣởng nhân đạo của Vũ Trọng Phụng như là một thứ thuốc đắng giã tật, một

thứ roi quất làm thức tỉnh lương tâm, để con ngƣời trở nên CON NGƢỜI theo đúng nghĩa

của nó.

Tuy là nhà văn xã hội, có tƣ tƣởng xã hội thấm từ trong máu, có ý thức và tinh thần

trách nhiệm trƣớc dân tộc, giống nòi thể hiện ở sự mong muốn về một hiện thực tốt đẹp,

nhƣng do hạn chế về thế giới quan, chƣa thoát ra khỏi ảnh hƣởng của tƣ tƣởng cải lƣơng tƣ

sản và do những lệch lạc về nhận thức chính trị... nên trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng

còn bộc lộ một số sai lầm, bất cập và bức tranh hiện thực còn đan xen một số yếu tố tự nhiên

chủ nghĩa. Tuy nhiên, giá trị hiện thực, lịch sử - thời sự, giá trị nhân đạo của những thiên

phóng sự vẫn là cơ bản, thể hiện năng lực nhận thức và sự tìm tòi tƣ tƣởng của Vũ Trọng

Phụng.

116

CHƢƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM VỀ PHƢƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Năng lực nhận thức cuộc sống và sự tìm tòi về tƣ tƣởng của Vũ Trọng Phụng đã làm

nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo ở nội dung các thiên phóng sự. Tuy nhiên, sự "sắc sảo

và khôn ngoan" của ngòi bút phóng sự họ Vũ còn bộc lộ đậm nét ở sự sáng tạo nghệ thuật.

Bằng tài năng của mình, Vũ Trọng Phụng đã góp cho thành tựu phóng sự thời "tiền chiến"

những tác phẩm độc đáo, mới mẻ, gây không ít ngạc nhiên cho độc giả đƣơng thời và cho đến

tận hôm nay.

Giá trị nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng bộc lộ ở nhiều phƣơng diện. Trong

luận án này, chúng tôi xin đề cập đến ba vấn đề nổi bật nhất. Đó là nghệ thuật khám phá hiện

thực, sử dụng những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết và nghệ thuật trào phúng. Đây là ba

điểm đặc sắc làm nên chất thời sự tư liệu, chất văn học đậm đà, tạo cho phóng sự của ông

sức hấp dẫn đặc biệt và có thể sống mãi cũng thời gian.

3.1. Nghệ thuật khám phá hiện thực, khai thác tƣ liệu

Phóng sự là thể văn "áp sát" dòng thời sự, luôn có khả năng phản ứng nhanh nhạy đối

với những vấn đề mới nảy sinh. Giá trị của một thiên phóng sự, trƣớc hết là ở chỗ nó khám

phá, phát hiện và nêu ra đƣợc những vấn đề có ý nghĩa đối với cuộc sống và kèm theo đó là

thái độ, quan điểm đánh giá đúng đắn của tác giả. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng là cả một

kho tƣ liệu dồi dào, phong phú, những tri thức chính xác về những vấn đề xã hội và con

ngƣời, sở dĩ có điều đó, vì họ Vũ đã có cả một nghệ thuật

117

khám phá hiện thực, biểu hiện ở sự sắc sảo trong việc lựa chọn những sự kiện những con

ngƣời, tình huống tiêu biểu chứa đựng yếu tố thông tin -thẩm mỹ; ở sự năng động, sáng tạo

trong phương thức tiếp cận hiện thực và khai thác tư liệu.

3.1.1. Sự tinh tế trong "tuyển chọn" thực tại

Khi nói về bản chất của nghệ thuật, văn hào Pháp Flaubert cho rằng: "Nghệ thuật

không phải là thực tại... cần phải tuyển chọn lấy những nhân tố mà thực tại đƣa ra" [140,

193]. về vấn đề này Hegel cũng từng chỉ rõ: "thiếu sự cân nhắc thận trọng, sự phân lọc, khu

biệt, ngƣời nghệ sĩ không thể làm chủ đƣợc vấn đề mà anh ta định trình bày..." [140, 193].

3.1.1.1. Những khó khăn của việc "tuyển chọn"

Đối với thể phóng sự - một thể văn phản ánh ngƣời thực việc thực và phải đảm bảo

tính thời sự, thì sự "tuyển chọn" nay có những khó khăn riêng. Điều nay biểu hiện ở hai lẽ.

Một là, thể phóng sự bám theo dòng thoi sự nên sự tuyển chọn theo kiểu đãi cát tìm vàng phải

đƣợc tiến hành nhanh chóng. Chỉ một thời gian ngắn mà nhà phóng sự phải "biết phát hiện

những nét chủ yếu, nét điển hình trong vô số hiện tƣợng", nhƣ B. Pôlêvôi nói, thì quả là khó

khăn biết chừng nào! Hai là, thể phóng sự không cho phép sử dụng rộng rãi biện pháp hƣ cấu

theo kiểu "quan sát nhiều ngƣời cùng loại để sáng tác một điển hình" (L. Tolstôi) mà phải

đảm bảo tính xác thực của nguyên mẫu nhân vật. Việc luyện quặng mà phải tìm cho ra khối

quặng gần nhƣ nguyên chất là một việc làm không mấy dễ dàng, vì những tƣ liệu mang tính

tiêu biểu có chứa đựng yếu tố thẩm mỹ vốn nằm lẫn lộn trong vô vàn những cái bình thƣờng

của cuộc sống.

3.1.1.2. Sự tinh tế trong "tuyển chọn"

Xung quanh những mảng hiện thực về các tệ nạn và những vấn đề

118

xã hội nhức nhối, thƣơng tâm mà ống kính phóng sự của họ Vũ hƣớng vào, có biết bao sự

kiện, tình huống, vấn đề bộn bề và phức tạp. Nhƣng với nhãn quan sắc sảo và cảm quan hiện

thực tinh tế, ông đã tiến hành "tuyển chọn" những khía cạnh quan trọng, những hiên tượng

tiêu biểu của vấn đề mà ông đề cập cùng tư liệu về các giới người và những "mẫu hàng" của

nó. Trong tác phẩm, đôi khi tác giả nói rõ cái ý nghĩa nội dung những điều mà mình lựa chọn.

Chẳng hạn:

"... bài nói về hạng chồng lê dƣơng cũng đã đủ khiến độc giả hiểu được nhiều trường

hợp có đặc tính trong cái kỹ nghệ lấy Tây rồi" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd, tr. 83).

"Một thiên phóng sự về nhà Lục xì thì đó lại còn là một công cuộc khảo cứu về nạn

mại dâm" (Lục xì, Sđd, tr. 81).

Đúng là chuyện lấy Tây hay chuyện về cái kỹ nghệ lấy Tây là cả một câu chuyện dài.

Nhà phóng sự chỉ chọn cái khía cạnh nổi bật nhất là cái kỹ nghệ lấy Tây lê dƣơng. Đối với

nghề mại dâm, tác giả chỉ chọn mô tả cái nhà Lục xì mà ông coi là cái "Viện bảo tàng những

điều ô uế". Hay Xung quanh cái tệ tham nhũng ở một huyện có thể đem viết thành mấy tập

sách dày, nhƣng nhà phóng sự chỉ đặc tả nó trong một tình huống nó "buộc phải" xuất đầu lộ

diện. Đó là dịp huyện nha ăn tết.

Đối với tƣ liệu về con ngƣời, Vũ Trọng Phụng cũng "tuyển chọn" theo cách "khoanh

vùng" kiểu nhƣ vậy. Trong phóng sự của họ Vũ, tƣ liệu về con ngƣời không chung chung,

trừu tƣợng mà tồn tại với tư cách là một thành viên của một giới người nhất định. Bức tranh

nhân sinh ở từng thiên phóng sự bị "chiếm lĩnh" bởi hình ảnh tập thể của nhiều giới người

khác nhau: giới cờ bạc bịp, giới chủ nhà, giới cơm thầy cơm cô, giới quan nha... và cả cái

"đoàn thể" của các thầy nho (trong Một huyện ăn Tết). Điều này ít thấy ở các phóng sự đƣơng

thời.

119

Sự lựa chọn tƣ liệu về nhiều giới ngƣời trong khi viết về những tệ nạn và vấn nạn xã

hội là hết sức tinh tế, vì mỗi tệ nạn chỉ liên quan đến một hoặc nhiều nhóm người, giới người

nhất định. Và từ những cái "tập thể" ấy, nhà phóng sự lại tiếp tục việc tuyển chọn và đƣa ra

những "mẫu hàng" (những nhân vật có tính điển hình, tiêu biểu) của từng giới. Chẳng hạn, ở

phóng sụ Kĩ nghệ lấy Tây, ông cho biết: "Tôi chỉ còn ao ƣớc đƣợc bà Ách Nhoáng tiếp nữa là

đã có thể lƣợm lặt gần đủ những "mẫu hàng" của cái kĩ nghệ lấy Tây [157, 77]. Hoặc ở phóng

sự Cơm thầy cơm cô, ông nói: "Tôi có thể đưa ra cho các ngài đủ các mẫu hàng về giới cơm

thầy cơm cô" [155, 71], nhƣ kiểu ông đƣa ra "Những mẫu hàng đặc biệt của công giới và

thƣơng giới" - đám bạn hàng, vây cánh, tay sai của Nghị Hách trong tiểu thuyết Giông tố.

Nghệ thuật lựa chọn những mặt, những khía cạnh, tình huống của hiện thực và những

giới ngƣời với những "mẫu hàng" mang tính tiêu biểu đã đƣợc thể hiện rất sinh động trong

từng thiên phóng sự. Tuy nhiên, việc xác định đối tƣợng mới chỉ là bƣớc đầu của quá trình

khám phá hiện thực. Cùng với việc lựa chọn đối tƣợng, trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng

còn có cả một nghệ thuật tiếp cận khám phá bản chất của hiện tƣợng vốn rất phức tạp của

cuộc sống.

3.1.2. Sự năng động trong tiếp cận hiện thực

Ống kính phóng sự của Vũ Trọng Phụng vừa sắc sảo lại vừa linh hoạt và năng động

trong phƣơng thức tiếp cận hiện thực. Từ nhiều góc độ và những khoảng cách khác nhau, khi

cận cảnh để đặc tả, khi mở rộng để thâu tóm toàn cảnh, ống kính của họ Vũ đã soi sáng, phát

hiện nhiều mặt khác nhau của hiện thực. Đây là cách nhìn mới về sự thật, làm cho vấn đề nổi

bật và sâu sắc hơn. Chẳng hạn, đối với tệ nạn này, ông tiếp cận ở tầm bao quát, tìm ra cái cơ

câu tổ chức của nó; còn ở hiện tƣợng xã hội kia

120

ông lại xem xét nó dưới góc độ nghề nghiệp, "kỹ nghệ"...

3.1.2.1 Sự khám phá cơ cấu những tổ chức tội phạm

Khi viết về nạn cơ gian bạc bịp, họ Vũ không đi mô tả cảnh sát phạt lẫn nhau ở các

sòng bạc lớn nhỏ, vốn nhan nhản ở khắp Hà Thành thời đó, mà ông đột nhập thẳng vào cơ

quan đầu não của làng bịp, để khám phá cái cơ cấu tổ chức và phƣơng thức làm ăn của

chúng, Cả một hệ thống nhân sự, từ tên Trùm đến những thành viên trong "bộ chỉ huy" cho

đến cái chân rết của nó là lũ tạ đầu trâu mặt ngựa - toàn bộ mạng lƣới tổ chức của cái làng

bạc bịp cứ hiện lên một cách sinh động trong ống kính phóng sự.

Tệ tham nhũng cũng đƣợc tác giả tiếp cận theo một cách nhìn nhƣ thế. Điểm khác biệt

là, ở Cạm bẫy người, cái làng bịp la một "tổ chức ngầm" hoạt động trong bóng tối, còn ở Một

huyện ăn Tết lại là một tổ chức tham nhũng công khai hoạt động giữa lúc bạch nhật, thanh

thiên. "Quy trình" tham nhũng rất bài bản: quan huyện ký Công lệnh sai hết toán lính cơ rồi

lính lệ đi "tuần tra", gây chuyện, buộc đám lý dịch ở tất cả các xã phải lấy công quỹ ra cống

nạp. Số tiền tham nhũng theo lối "ăn cƣớp" này nằm trong dự toán chi cho việc ăn tết và đƣợc

chia theo một tỉ lệ định sẵn cho toàn bộ máy hành chính, từ cụ Thƣợng, cụ Bố, ông Đồn...

xuống đến từng tên lính lệ, lính cơ.

Phƣơng pháp "tiếp cận hệ thống" cả một bộ máy tham nhũng nhƣ vậy đã giúp tác giả

khám phá ra "cách tổ chức xã hội kim thời", "kể đã là chu đáo đến tột bậc. Xã hội thì nhƣ một

bộ máy tinh tế, mà cá nhân là những bánh xe, nếu một cái quay, thì bao nhiêu cái khác cũng

phải quay theo (...). Chẳng một ai lại có thể đứng ra ngoài công lệ: cá lớn nuốt cái bé, vì cái

phận sự nộp của đút, hoạt động từ dƣới lên trên..." (Một huyện ăn tết, Sđd, tr. 99). Một bộ

máy chính quyền mà bản chất là tham nhũng,

121

cƣớp bóc, thì đủ biết cái xã hội đó đen tối, băng hoại đến chừng nào!

3.1.2.2 Nhìn vấn đề dưới góc độ "kĩ nghệ"

Tuy mấy cái làng me cũng đƣợc mô tả nhƣ một thứ tổ chức có tôn ti trật tự, nhƣng

nhà phóng sự đã chủ yếu xem xét hiện tượng lấy Tây như là một nghề nghiệp, một "kỹ nghệ".

Bên cạnh cái "kỹ nghệ" thảm hại nay, họ Vũ cồn nói đến những cái "kỹ nghệ" quái gở khác

nhƣ "nền kỹ nghệ bạc bịp" (Cạm bẫy người, Sdd, tr. 57) và nền "kỹ nghệ mại dâm" (Com

thầy cơm cô và Lục xì, Sđd, tr. 159).

Vũ Trọng Phụng đã khám phá ra rằng, lấy Tây không những là một nghề, mà còn là

một nghề đã có cả một bề dày "truyền thống". Biểu hiện ở chỗ từng công đoạn nhƣ đã đƣợc

"chuyên môn hóa", có hẳn một lớp "thợ già" nhƣ ba Ách Nhoáng, bà Kiểm Lâm, Đội Chóp...

chuyên tiếp nhận những "cô thợ trẻ" nhƣ Duyên, Ái, Tích... và truyền cho họ những ngón

nghề, sửa sang dung nhan cho họ, sao cho có nét me, rồi gả bán họ cho Tây để lấy tiền hoa

hồng. Sự cạnh tranh trong nghề này cũng rất dữ dội. Họ "gièm pha", "phá giá", "hớt tay"

nhau. Luật "cung cầu" cũng chi phối mạnh mẽ cái "thị trƣờng" quái gở này, cuốn hút cả

những "khách hàng" (đám Tây lê dƣơng đủ mọi quốc tịch) vào những pha đụng đầu gay gắt,

chẳng khác nào cuộc giáp chiến giữa "Sơn Tinh và Thủy Tinh" trong huyền thoại.

Lấy Tây lê dƣơng chẳng qua là nghề buôn son bán phấn, làm đĩ mạt hạng phục vụ

tình dục cho đội quân viễn chinh này. Nhƣng các me lại đội lốt ái tình để hành nghề, dùng ái

tình làm bùa mê, làm cho nhiều gã lê dƣơng phải "gục ngã". Phƣơng châm của các me là "cứ

gãi về mặt tình cảm là các cậu bị ngay" (Sđd, tr. 59). Họ thành công trong những pha giả

đánh ghen, hoặc tỏ ra mình "có một mảnh hồn u uất và một trái tim đau thƣơng" (Sđd, tr. 84),

khi viết những lá thƣ tình rất "mùi" để tỏ tình, xin tiền...

122

Xem qua cái cung cách "làm ăn" ấy, nghề lấy Tây quả là một "kỹ nghệ". Cách tiếp

cận này đã mở ra một cách nhìn mới về hiện tƣợng me Tây, vốn là vấn đề trôi nổi trên dòng

sông dƣ luận với nhiều điều tiếng khinh khi, dè bỉu... Trong Kỹ nghệ lấy Tây của Vũ Trọng

Phụng, các me đều khẳng định "Chúng tôi lấy họ vì tiền chứ không bao giờ vì tình" (Sđd, tr.

33). Họ lấy chồng hay bỏ chồng cũng nhƣ "tậu đƣợc một cái chén hoặc nhỡ tay đánh vỡ mất

mà thôi" (Sđd, 56). Họ bị "bơ và phó mát chinh phục" chứ đâu phải vì đám lê dƣơng thô lỗ,

nghiện ngập, "trùm xỏ lá, đại ma lanh" và lấy vợ Việt "coi nhƣ thuê gái một hạn dài vậy"

(Sđd, tr. 25). Cho nên, sự kiện lấy Tây của những ngƣời phụ nữ vong quốc là một sự cực

chẳng đành, một "nghiệp chƣớng", chứ đâu phải là sự "mất gốc", "lạc nòi" nhƣ nhiều ngƣời

lên án. Đằng sau cái "Kỹ nghệ" quái gở đó là cả một sự đau đớn trăm bề của những kiếp me,

phú quý thì "giật lùi" cùng cuộc đời lỡ dở và cái số phận đầy tủi hờn của những đứa con lai

"không Tổ quốc". Họ cũng là hiện thân của bao nỗi bi thương của một thời nô lệ. Tuy cái

"nghề" của họ có nhiều cái đáng chê cƣới, đáng giận, nhung rất đáng đƣợc cảm thông.

Chính vì thế, cách tiếp cận dƣới góc độ nghề nghiệp, tƣởng nhƣ "khách quan" lạnh

lùng của Vũ Trọng Phụng trong "Kỹ nghệ lấy Tây" lại ẩn chứa cái nhìn nhân đạo.

Cũng tiếp cận dƣới dạng một "nghề", một "Kỹ nghệ", nên trong Cạm bẫy người, Vũ

Trọng Phụng đã khám phá đƣợc bao điều bí ẩn trong những "ngón nghề" bịp của một tổ chức

lƣu manh chuyên nghiệp. Tâm lý, tính cách, số phận của các con bạc, dƣới góc nhìn "nghề

nghiệp" đã hiện lên hết sức sinh động. Cái máu đỏ đen nhƣ một chất ma túy thấm sâu vào tận

huyết quản của họ, làm họ cứ lún sâu mãi vào vũng bùn tội lỗi, lụi tàn về nhân cách...

123

3.1.3. Sự sáng tạo trong khai thác tư liệu

Cùng với sự năng động trong tiếp cận hiện thực, Vũ Trọng Phụng còn rất "khôn

ngoan" trong những thao tác nghề nghiệp khi khai thác tƣ liệu. Họ Vũ rất tinh vi trong nghệ

thuật điều tra và dùng cả trí tƣởng tƣợng sáng tạo để tái hiện tƣ liệu. Trong những trƣờng hợp

cần thiết, ông dùng cả tài liệu gián tiếp và có khi cả tƣ liệu mang tính mơ hồ, ƣớc lệ...

3.1.3.1 Sự nhanh nhạy nắm bắt thông tin

Với cái nhìn của một nhà văn cùng với con mắt của một nhà báo, Vũ Trọng Phụng rất

nhanh nhạy trong việc phát hiện ra những đầu mối thông tin và rất khéo léo khơi gợi, để khai

thác đƣợc nguồn thông tin dồi dào, đủ độ tin cậy. Để tìm hiểu những bí ẩn của cái "thế giới

bạc bịp", nhà phóng sự đã "túm" lấy tên thủ lĩnh của cái "đảng" bạc bịp là Trùm Ấm B. Qua

đấy, nhà phóng sự thu thập đƣợc nhiều tƣ liệu về nội tình, cơ cấu tổ chức và phƣơng cách

"làm ăn" của cả cái làng bạc bịp... Sự khôn khéo, thậm chí nhún mình, để đeo bám viên thầy

thuốc, bác sĩ Joyeux giám đốc nhà Lục xì, kiêm giám đốc ngạch vệ sinh thành phố Hà Nội,

cũng là "nhắm" vào cái mục đích ấy. Và họ Vũ đã đƣợc viên bác sĩ này cung cấp cho cả một

"kho" tƣ liệu về cái "viện bảo tàng những điều ô uế" và mở ra cả một "thế giới" của tệ mại

dâm ở khắp lãnh thổ. Để khám phá ra tệ tham nhũng trong dịp tết của cả một huyện nha, nhà

phóng sự không cần phải đi đâu xa, mà còn "bật mí" rằng mình chỉ nằm bên khay đèn của

một viên lục sự già, vì lão ta là đầu mối của các hoạt động tham nhũng. Hơn nữa, cái lão lục

sự nay lại có cái "đức", tuy "đục khoét thành thánh", nhƣng chẳng thèm che đậy hành vi xấu

xa. Vì vậy, bên cạnh khay đèn, lại đƣợc tạo hứng bởi "nàng tiên nâu", ông ta đã "tuôn" ra tất

cả những thủ đoạn "ăn bẩn" của giới quan trƣờng. Vũ Trọng Phụng đã biết "nhấn" đúng cái

nút thông tin "đầu mối" này và ông đã thành công!

124

Cái nổi lên ở đây là tinh thần khảo sát, nghiên cứu. Chẳng hạn, ông đã tìm ra lí do vì

sao nhà Phúc đƣờng (Dispensaire) lại có cái tên là nhà "Lục xì", trƣớc năm 1900, cái nhà nay

nằm ở phố nào. Ông tìm ra cái Nghị định đầu tiên của Toàn quyền Paul Bert kí năm 1886 về

nhà Lục xì, cũng nhƣ tìm đƣợc bao tài liệu "nguyên gốc" về tệ mại dâm...

Đối với vấn đề mà mình cho là chƣa rõ thực hƣ, nhƣ chuyện kỹ nghệ lấy Tây, Vũ

Trọng Phụng đã tiến hành một cuộc điều tra ở cả hai bên "đối tác". Bên "ta", ông chọn những

me già đời đã từng nhiều lần lấy chồng Tây, nhƣ bà Kiểm Lâm, bà Đội Tứ, bà cai Bu Dích,

v.v... Còn bên "Tây", họ Vũ cũng chọn những kẻ đã từng có nhiều đời vợ Việt, nhƣ lão "cự

môn thê thiếp" Đimitốp (14 lần lấy vợ), v.v... Và thận trọng hơn, ông còn khai thác ý kiến của

những kẻ "trung gian" nhƣ cô đầm lai Suzanne. Bằng nghệ thuật gọi mở khéo léo, họ Vũ đã

"buộc" những đối tƣợng này "Cởi hết gan ruột" thổ lộ nỗi lòng. Qua sự chúng khẩu đồng từ

của họ, nhà phóng sự đã rút ra những kết luận khách quan về cái kỹ nghệ lấy Tây quái gở.

Không thật thỏa mãn với kết luận về nguyên nhân làm nghề mại dâm của một số phụ nữ, họ

Vũ đã chọn hai ngƣời trong số họ "một ngƣời vừa già, vừa xấu và một ngƣời nữa, còn trẻ,

mới vào nghề độ ít lâu" [155, 200 - 201], để ông trực tiếp "trắc nghiệm", nhằm rút ra những

nhận định chính xác về vấn đề nay. Việc "chọn mẫu" là những đối tượng chứa nhiều "năng

lượng" thông tin, mang tính "đại diện" cho từng loại để đối chứng là một thao tác hết sức

khoa học. Sự khéo léo tiếp cận, hòa đồng cùng đối tƣợng, nhằm khai thác đƣợc những ẩn ức

của họ, nghiên cứa họ trong một hoàn cảnh hết sức tự nhiên đã có một hiệu quả to lớn trong

việc thu thập đƣợc những tƣ liệu phong phú, sinh động và xác thực.

3.1.3.2 Sự tưởng tượng về cái có thật

Tuy nhiên, trƣớc một hiện thực dù đã đƣợc "tuyển chọn" và đã tiếp

125

cận nó bằng cách soi rọi từ nhiều phía, dùng cả những thao tác kỹ thuật "khôn ngoan" đi sâu

vào đời sống, trực tiếp quan sát, chứng kiến... nhƣng có những mặt, những khía cạnh, không

thể dùng mắt thƣờng để quan sát, tìm ra bản chất của nó. Trong những trường hợp như vậy,

Vũ Trọng Phụng đã dùng đến tư duy tưởng tượng để tái hiện tư liệu. Họ Vũ làm đƣợc điều

đó, vì ông có một năng lực nhận thức cuộc sống và kinh nghiệm cá nhân phong phú. Poe cho

rằng "con ngƣời tài tình là luôn luôn tràn đầy tƣởng tƣợng (plein d' imaginative) và con ngƣời

thực sự tƣởng tƣợng (imaginatib) chẳng bao giờ cái gì khác là một nhà phân tích". Và nói

nhƣ A. Puskin thì "sự tƣởng tƣợng chân chính đòi hỏi một sự hiểu biết thiên tài" (dẫn lại theo

Tạp chí văn học số 4-1967, trang 49).

Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, sự tƣởng tƣợng luôn phù hợp với lô gích của cuộc

sống. Sự tƣởng tƣợng sáng tạo này vừa khoa học và lại mang tính thẩm mỹ cao. Để "nhớ tới"

cảnh con sen Đũi khiêu dâm cậu bé con chủ nhà, tác giả cho rằng: "Nói cho đúng ra, hình như

tôi thấy hiện rõ trƣớc mắt tôi cái cảnh tƣợng thảm hại một cậu bé mới 12 tuổi mà đã hứng

tình trƣớc hai cái đùi trắng nõn của một con sen vờ nằm ngủ say"[155,39]. Để tái tạo lại cuộc

đời của cô Duyên trƣớc khi trôi dạt đến cái làng me, họ Vũ cũng dùng tƣởng tƣợng: "Tôi

không đƣợc mục kích thấy Duyên chê chồng (...) Vậy tôi thử cứ phác họa ra cái đoạn đời của

Duyên khi Duyên còn là cô gái quê..." [157, 39]... Tác giả đã phác họa cảnh Duyên cùng mấy

chị em đi làm đồng gặp một "anh đi đƣờng cái quan" hào hoa, phong nhã. Về nhà Duyên thấy

chán ngán với cái anh chồng "bần tiện... đầu gối quá tai" và bỏ chồng ra Hà thành, bị lừa lọc

va cuối cùng đi lam me...

Còn khá nhiều chân dung những nhân vật khác nhƣ Trùm Ấm B, Tham Ngọc, Vân,

Ba Mỹ Ký (Cạm bẫy người), ba Kiểm Lâm (Kỹ nghệ lấy Tây), con sen Đũi (Cơm thầy cơm

cô), thầy nho Kh (Một huyện ăn Tết)...

126

đều ít nhiều chứa đựng yếu tố tƣởng tƣợng. Sự miêu tả có pha tƣởng tƣợng đã làm những

nhân vật này lung linh hẳn lên. Nếu đặt những nhân vật này cạnh những nhân vật, nhƣ thầy

ký Oanh, Thi Mỹ, Bùi Độ Diễm, Lê văn Quang, Nguyễn Văn Tích, phó lý Mùi, v.v... trong

phóng sự Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo, thì quả là hai thế giới nhân vật khác biệt.

Đúng là, nhƣ I. Gôncharốp có nói: "lối chụp trực tiếp từ cuộc sống sẽ dẫn tới một bản sao

nhợt nhạt, thảm hại. Chỉ bằng con đƣờng của tƣởng tƣợng sáng tạo nó mới đến gần đƣợc với

cuộc sống" [3, 304]. Nhìn "cái bảng thống kê to bằng một cái chiếu" ghi rõ danh sách gái mại

dâm, tình hình bệnh tật, số trốn đi, số còn lại... tác giả tƣởng tƣợng đó là: "Phong vũ biểu và

thời khắc biểu của nghề mại dâm" [155, 113]. Tất cả sự tƣởng tƣợng nói trên là tưởng tượng

về cái có thật. Ở đây hoàn toàn không có chuyện trộn lẫn giữa cái thật với cái bịa đặt, mà là

sự gia công "nhào nặn" lại những tƣ liệu ngƣời thật, việc thật theo một cách riêng, bằng vốn

sống phong phú của mình, biến sư thật của hiện thực thành sư thật của nghệ thuật. Vì thế,

những tƣ liệu ở đây trở nên có hồn, ngay cả những con số cũng cất lên tiếng nói...

Trong phóng sự của họ Vũ, còn có cả những tư liệu mang tính mơ hồ ước lệ. Chẳng

hạn, khi tả một quán cơm, ông đã "không cần nói rõ hàng cơm nào, ở phố nào", nhƣng lại

"bắt" đúng cái mùi vị thâm căn cố đế của nghìn vạn cái hàng cơm thuộc loại mạt hạng. Đó là

cái "mùi cá mè... mùi thịt trâu, thịt lợn thiu, mùi dƣa khú" (Cơm thầy cơm cô). Nói" về

chuyện quan nha ở một huyện, ăn Tết bằng các thủ đoạn tham nhũng trắng trợn, bẩn thỉu, nhà

phóng sự cũng đã chủ trƣơng: "chẳng nên nói rõ ra đây là cái tên của huyện ấy", vì ông cho

rằng "bất cứ ở chỗ nào, sự đời cũng đến vậy cả" (Một huyện ăn Tết). Không gian mơ hồ, thời

gian cũng lại rất mơ hồ. Phiên tòa xử một me Tây xảy ra vào "một buổi nọ"; chuyện cái

huyện

127

ăn Tết nói trên là vào "tháng Chạp năm ngoái", nhƣng theo ông: "nó có thể cứ vẫn là câu

chuyện của Tết năm nay, lại có thể sẽ là câu chuyện của Tết sang năm nữa". Đối với một ngòi

bút phóng sự sắc sảo, có thể nói có sách mách có chứng, nhƣ khi tiến hành khảo sát khoa học

về tệ mại dâm, thì những cái mơ hồ kiểu nhƣ trên không phải do thiếu khả năng nắm bắt đƣợc

đối tƣợng miêu tả, càng không phải là sự phóng bút ngẫu hứng, mà là sự mơ hồ tự giác, chủ

động, nhằm nhận thức vấn đề một cách khái quát, nhằm đi sâu để nắm bắt cái bản chất bên

trong của nó.

3.1.3.3 Làm sống dậy những tư liệu gián tiếp

Xung quanh cách làm phóng sự của họ Vũ, có nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau, nhƣng

hầu hết đều cho rằng, ông không thể "trải nghiệm", "lăn lóc" hết tất cả các mảng hiện thực, vì

sức ông rất yếu. Vả lại, làm phóng sự rất tốn kém, lấy tiền đâu mà đi. Có những trƣờng hợp

ông phải dùng tài liệu gián tiếp. Khi viết về nạn mại dâm, họ Vũ nói: "Tôi không phải đi điều

tra ở các nhà săm, các tổ quỷ ở nơi ngõ hẻm hang cùng. Không phải đút lót bọn bồi săm, bọn

phu xe đêm, cũng không cầm ôm ấp vào lòng bọn gái đĩ (...). Tôi chỉ việc điều tra những sách

vở thảo luận về vấn đề ấy" [155, 170 - 171]. Từ những sách vở ấy, ông dựng lên những cảnh

tƣợng sinh động, những tình tiết "có hồn". Chẳng hạn, đây là giọng của tên bồi săm "chào

hàng": "Ứ ừ! Cậu cứ tƣởng! Ở nhà quê mới ra đây có hai hôm... Mặc váy cẩn thận và chƣa

biết đi guốc [155, 202]. Trong Tàn đèn dầu lạc, Nguyễn Tuân kể rằng có lần, sau khi "vớ"

đƣợc tập ký ức của một tay cỡ "thánh sƣ" trong nghề bồi tiêm thuốc phiện, Vũ Trọng Phụng

nói: "Tập ký ức đó, tài liệu nhiều, toàn những truyện sống cả, nhƣng lúc lấy về, cũng còn phải

chần lại, xào nấu lại mấy lần lửa nữa rồi mới ăn đƣợc" [204, 6]. Sự chần lại, xào nấu lại mà

Vũ Trọng Phụng nói, là sắp xếp lại, thêm chỗ nọ, bỏ chỗ kia, trên cơ sở của một tƣ duy khái

quát, tổng hợp. Dƣới ánh sáng của

128

tƣ duy tổng hợp, việc khai thác tƣ liệu vừa đƣợc chọn lọc, vừa đi vào chiều sâu bản chất, vừa

có sự liên kết chặt chẽ. Chính vì vậy, những tư liệu trong phóng sự của họ Vũ được dùng một

cách cụ thể và toàn diện hơn. Và cũng vì thế, hiện thực trong phóng sự của họ Vũ thƣờng

hiện lên nhƣ những bức tranh đời sống sinh động. Ngay cả ở Lục xì, mặc dù có nhiều con số

thống kê, nhiều tƣ liệu nguyên gốc của chính quyền... nhƣng đây không phải là một công

trình điều tra xã hội học, vì tác giả của nó đã "vẽ" lên cả một bức tranh "toàn cảnh" về nạn

mại dâm đầy nhuốc nhơ, nhức nhối. Đây là điểm khác biệt giữa Vũ Trọng Phụng với Nguyễn

Đình Lạp và một vài cây bút phóng sự đƣơng thời. Trên cấp độ rộng, Nguyễn Đình Lạp

thƣờng thể hiện rõ quan điểm xã hội học, trƣớc những vấn đề mà ông tiếp cận. Những mảng

hiện thực trong các phóng sự Cường hào, Thanh niên trụy lạc, Những vụ án tình, v.v...

thƣờng đƣợc khai thác và nêu thành một hệ thống vấn đề, đƣợc nhận thức, khái quát, tổng

kết, bình luận, thuyết lý, nêu giải pháp... Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, hiện thực cuộc sống

được tái hiện dưới dạng những bức tranh nhân sinh, vừa cụ thể, sinh động, lại vừa khái quát,

triết lý. Đây là kiểu nhận thức bằng cách xác lập sự cảm nhận toàn bộ về thế giới. Chính vì

vậy, trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, chất văn học khá đậm đà, trong đó yếu tố tiểu thuyết

nổi lên như một điểm nghệ thuật độc đáo.

3.2. Những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết

Về mặt thể loại, phóng sự của Vũ Trọng Phụng không phải là một thứ tiểu thuyết trá

hình. Tuy đó là những phóng sự nhƣng ở mỗi tác phẩm có "pha" những yếu tố tiểu thuyết ở

những mức độ khác nhau. Yếu tố tiểu thuyết biểu hiện ở nội dung từng "vấn đề" được trình

bày dưới dạng một "câu chuyện", ở việc đưa những tư liệu về con người dưới dạng một quần

thể nhân vật sống động và ở một lối thuật kể theo kiểu tiểu thuyết.

129

3.2.1. Mỗi "vấn đề" đều thành "câu chuyện"

3.2.1.1 Những tiêu dề hấp dẫn, chứa nhiều hàm ẩn

Là một thể văn viết về ngƣời thật, việc thật, mỗi thiên phóng sự thƣờng đề cập đến

một vấn đề nào đó về hiện thực xã hội và cuộc sống của con ngƣời. Trong phóng sự của mình

họ Vũ đã đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa hiện thực và tƣ tƣởng sâu sắc. Nhƣng những sự kiện,

biến cố và hành vi của con ngƣời thƣờng đƣợc ông trình bày dưới dạng một câu chuyện:

chuyện về cờ bạc bịp, về chuyện đi ở, mại dâm, lấy Tây, tham nhũng...

Những câu chuyện nhƣ trên thƣờng đƣợc bắt đầu bằng những biến cố khác thường,

"lệch chuẩn", dự báo một sự thay đổi hay một hiểm họa... Chẳng hạn, chuyện cờ bạc đỏ đen

tràn lan trong cái xã hội đƣơng thời thì có gì lạ, nhƣng bỗng nhiên có một kẻ lại "bật mí" một

điều hết sức lạ lùng: "Ông thân tôi là mòng", thì là đã có chuyện: cơ bạc bịp đã len vào tận tế

bào gia đình, nghiêm trọng đến mức con dẫn bợm về nhà "thịt" cả bố đẻ. Chuyện lấy Tây đã

có từ lâu, me Tây đâu phải là chuyện gì mới mẻ, nhƣng bỗng trƣớc một phiên tòa, có một thị

lại "táo tợn", "xƣng xƣng" khai là mình "làm nghề lấy Tây", thì đó lại là một câu chuyện hết

sức nghiêm túc về một thứ nghề quái gở trong cái xã hội thuộc địa. Hay chuyện đi ở trong xã

hội bóc lột là chuyện thƣờng tình, nhƣng hiện tƣợng cả một "tập thể" những kẻ ăn đợi nằm

chờ ở cái sân sau đầy xú uế của một hạng cơm mạt hạng; sáng sáng lại kéo nhau ra phơi mặt

ở cái chợ bán ngƣời, để "cầu" đƣợc một gia chủ mua về làm đầy tớ, thì đó lại là chuyện của

cả một "giới" Cơm thầy cơm cô, v.v...

Cũng giống nhƣ các tiểu thuyết vói cái tên "Giông tố", "Số đỏ", "Làm dĩ"... các phóng

sự của Vũ Trọng Phụng mang những tiêu đề đầy hấp dẫn: "Cạm bẫy người", "Đời cạo giấy",

"Kĩ nghệ lấy Tây", "Dân biểu, dân biểu", "Cơm thầy cơm cô", "Lục xì", "Một huyện ăn Tết".

Đứng là những tiêu đề

130

này có phần "khiêu khích" óc tò mò của ngƣời đọc, chứ không "hiền lành" bình dị, nhẹ nhàng

nhƣ tên các phóng sự "Tôi kéo xe", 'Việc làng", "Hà Nội lầm than", "Từ ái tình đến hôn

nhân"... của các nhà phóng sự đƣơng thời. Có những ý kiến cho rằng, những tiêu đề phóng sự

nói trên của họ Vũ đầy "giật gân" mang tính lập dị. Theo chúng tôi, ý kiến này không đúng,

vì sự giật gân chỉ gây được sự kích động bên ngoài, còn bên trong không có nội dung gì cả.

Đằng nay, các tiêu đề phóng sự của họ Vũ không chỉ dừng ở những từ ngữ khác thƣờng, khác

lạ, trệch chuẩn mà còn đi sâu vào bản chất của hiện tượng.

Đứng là cái tiêu đề có vẻ úp mở nhƣ "Cạm bẫy người", "Kĩ nghệ lấy Tây"... hay tiêu

đề gồm có hai từ "Lục xì" rất khó hiểu, xa lạ... đã có một sức cuốn hút mạnh mẽ. Nhƣng sự

hấp dẫn đặc biệt của nó chủ yếu lại ở chỗ đã không chỉ làm bật đƣợc nội dung câu chuyện mà

còn gợi lên bao hàm ẩn sâu xa, tạo nên sự phức hợp chủ đề cho từng thiên phóng sự. Chẳng

hạn, với cái tên Cạm bẫy người, tác phẩm không chỉ lột trần những ngón đồn lừa nham hiểm,

tinh vi để hại ngƣời của lũ cờ gian bạc bịp; sự khốc hại của nạn cờ bạc, mà còn dựng lên cả

một hình tƣợng xã hội đen tối, bất nhân nhƣ một thứ Cạm bẫy khổng lồ đầy hiểm họa với tất

cả con ngƣời. Kĩ nghệ lấy Tây không chỉ là nỗi bi hài của một thứ "kĩ nghệ" thuộc hàng quái

gở, thảm hại, nhục nhã của những ngƣời phụ nữ thời nô lệ, vong quốc mà có thể đó còn là

chủ đề về phụ nữ - tính dục - chiến tranh, nhƣ trong văn học Hàn Quốc, Phần Lan, Na Uy

viết về thân phận ngƣời phụ nữ phải phục vụ tình dục cho đội quân chiếm đóng thời Đệ nhị

thế chiến, v.v...

3.2.1.2 Những tư liệu được kết dính chặt chẽ

Trong phóng sự của họ Vũ đầy ắp những tƣ liệu, sự kiện. Với một tác phong khoa

học, chính xác, ông đã tỉ mỉ lục tìm tất cả các tƣ liệu trong tập Bulletin de la Ste, Médics -

Chirurgicale... nói về nạn mại dâm. Ông còn

131

đƣa những tƣ liệu về những "đòn" bạc bịp từ thời Tự Đức và thời Ba Sống, Hai Tôm hồi đầu

thế kỉ hoặc tìm cả tƣ liệu về bà Đội Chóp, vị "tổ sƣ" của cái Kĩ nghệ lấy Tây... Nhiều cây bút

phóng sự đƣơng thời nhƣ Trọng Lang, Hoàng Đạo, v.v... cũng có chung cách làm tƣ liệu kĩ

nhƣ thế. Nhƣng nghệ thuật đưa tƣ liệu lại rất khác nhau. Nếu ở Hà Nội lầm than, các mục ở

bốn phần của thiên phóng sự (Gái nhảy, cô đầu...) ít nhiều có mối liên hệ với nhau thì ở

Trước vành móng ngựa, tuy cùng viết về những hiện tƣợng diễn ra ở nơi tòa án, nhƣng 52

mục là những sự việc hoàn toàn riêng biệt, không hề có mối quan hệ nội tại. Còn ở các phóng

sự của Vũ Trọng Phụng, các tƣ liệu, sự kiện được tổ chức thành một câu chuyện vói những

chương, mục ràng buộc với nhau một cách chặt chẽ. Nhƣ một cuốn phim có kịch bản thống

nhất, tác giả dẫn dắt ngƣời đọc đi suốt tác phẩm thông qua hàng loạt sự kiện đan xen, xoắn

xuýt lấy nhau, cái trƣớc là tiền đề của cái sau, mở tiếp đƣơng cho câu chuyện tiến triển. Vì

vậy, các chƣơng, mục trong câu chuyện kết dính với nhau một cách tự nhiên, chúng cứ nhƣ

"huých" nhau "gọi" nhau lần lƣợt xuất hiện liền một mạch, "buộc" ngƣời đọc phải theo dõi

liên tục, nếu bỏ mất một mục thì lập tức câu chuyện sẽ bị gián đoạn. Chẳng hạn, ở Cạm bẫy

người, sau mục I (Ông thân tôi là "mòng") giới thiệu hai nhân vật Vân, Tham Ngọc (Xuân)

và màn bịp đầu tiên hết sức "ngoạn mục", do chúng trình diễn là đến mục II (Ông quân sự

của bạc bịp) mô tả chân dung và cái lai lịch bất hảo của tên Trùm Ấm B cùng gã Cả Ủn - tên

giữ két tiền của làng bịp... Những chƣơng sau lại xuất hiện thêm những nhân vật và những sự

kiện mới, nhƣng vẫn xoay quanh câu chuyện của cái làng bạc bịp: chuyện "làm ăn", những

mâu thuẫn, chia rẽ, lừa phản nhau... Hầu hết các nhân vật đều "tham dự" vào diễn biến của

câu chuyện từ mục đầu cho đến mục kết thúc (XIV - Kẻ ở với người về).

Ở Cơm thầy cơm cô, câu chuyện cũng đƣợc hình thành kiểu nhƣ vậy.

132

Mở đầu là màn "trình diễn thời trang" rất "láu cá" của anh bồi giả danh, câu chuyện

bắt đầu từ mục Đêm ấy, tại hàng cơm với sự xuất hiện cả một "bọn Cơm thầy cơm cô nằm

ngổn ngang nhƣ lợn". Câu chuyện đƣợc tiếp nối sang cái chợ Muốn bán mười sáu người...

Tiếp sau là chuyện về Cái giá trị làm người, rồi từ đó "phăng" ra cái Cuốn tiểu thuyết của

con sen Đũi, v.v...

Việc trình bày một vấn đề dƣới dạng một câu chuyện đã đem lại sự hấp dẫn, tránh

đƣợc sự khô khan vốn có của thể văn tƣ liệu. Nhƣng điều này chỉ thực hiện đƣợc khi những

tư liệu, sự kiện nói trên phải được tổ chức thành một hệ thống theo yêu cầu của một tư tưởng

và nghệ thuật nhất định. Ở báo Phóng sự năm 1938, có ba thiên phóng sự dài cũng lấy đề tài

cờ bạc bịp (Theo chơn bọn cờ bạc của Đông Giang), đi ở (Trong làng bồi bếp của Thổ Công),

mại dâm (Điều tra tại Sở phong tục của Y Lang). Mặc dù đƣợc giới thiệu đây là những thiên

phóng sự đƣợc làm một cách công phu, nghiêm túc: "Ghi chép một cách rành rẽ, dùng sự

thật một trăm phần trăm do "mắt thấy" và "tai nghe" chớ không phải ngồi một chỗ mà tưởng

tượng làm càn, viết bướng" (Theo chơn bọn cờ bạc - báo Phóng sự số 1.1938, tr. 3) và ở ba

thiên phóng sự này, nhiều mục đƣợc viết dƣới dạng một câu chuyện, nhƣ: Cách xổ đề lận, xổ

đề cách Hàn Tín điểm binh, Bài Phé, Tứ sắc, v.v... (Theo chơn bọn cờ bạc); Gái đĩ xin chỗ

làm, Bằng cấp làm đĩ, Bán phấn buôn hương, v.v... (Điều tra tại Sở phong tục); Tôi làm bồi

chó, Tâm sự cô bồi, Một anh bồi mưu Tào Tháo, Anh Xuân đại thánh, v.v... (Trong làng bồi

bếp), nhƣng những câu chuyện này, phần nhiều, nhằm thỏa mãn trí tò mò và có phần mua

vui. Chẳng hạn, ở phóng sự Trong làng bồi bếp (số 7/ 1938), tác giả cho biết:

"Chuyến du lịch của tôi vào làng bồi bếp nầy, đứng về mặt tinh thần kể cũng mát thật,

nhƣng tôi đƣợc khí lạc quan về kinh tế. Tôi đóng vai:

133

Cậu bồi là cậu bồi bô,

Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm".

(Trang 5)

"Cậu bồi" này "cầu hôn" một cô bồi (cô Ba): "Mình ạ, nhƣ thế thì chúng ta cùng

chung một cảnh ngộ, cùng con nhà tử tế cả, chỉ vì hoàn cảnh xui nên mới phải đem thân lƣu

lạc làm tôi mọi cho ngƣời (...) chúng ta có thể lấy nhau làm vợ chồng". Bị cô từ chối, vì cô

chỉ muốn lấy Tây, cậu bồi nói với độc giả: "Thế là thƣa các ngài, thế nào nó cũng lấy Tây (...)

có Trời cũng chẳng cản đƣợc nó nữa là thằng tôi (...) khi hỏi nó có ngoại tình với ngƣời Nam

không, nó nói: Con trâu khát nƣớc làm sao, con bồ khát nƣớc làm vậy, cần gì là vợ chồng

mới có quyền gần nhau" (Trang 15), v.v...

Những câu chuyện nhƣ thế cứ tràn lan. Trong đó có rất nhiều nội dung, tình tiết

"nhái" phóng sự Vũ Trọng Phụng. Tuy nhiên, do không có một định hướng tư tưởng và sự

sáng tạo nghệ thuật nên những câu chuyện trở nên rời rạc, tản mạn, tẻ nhạt. Do không tạo ra

đƣợc giá trị mới mẻ, những thiên phóng sự nói trên đã bị nhanh chóng lãng quên.

Việc trình bày những vấn đề "lệch chuẩn" của đời sống (cụ thể là những tệ nạn, vấn

nạn) dƣới dạng những "câu chuyện" có lớp lang, đầu cuối trong thể văn phóng sự nhƣ Vũ

Trọng Phụng đã làm một sự "khôn ngoan", vì đi kèm với "câu chuyện" thƣờng là những nhân

vật đƣợc hình tƣợng hóa từ hiện tƣợng ngƣời thật, việc thật. Cũng chính bởi thế, trong phóng

sự của Vũ quân, bên cạnh những tƣ liệu về con ngƣơi còn có cả một quần thể nhân vật sống

động.

3.2.2. Một quần thể nhân vật sống động

Ống kính phóng sự sắc lẹm và tinh nhạy của Vũ Trọng Phụng thu đƣợc nhiều hình

ảnh rất nét, rất thực, có giá trị tƣ liệu về con ngƣời: Kia là viên quan "đứng đầu thủ đô Bắc

kì" - Đốc lí Virgitti "y phục xềnh xoàng

134

- áo một màu, quần một màu khác, ca-vát cũ kĩ, đôi giày không đánh kem"... [155, 112]. Bên

cạnh đó là bác sĩ Joyeux, y sĩ Nguyễn Huy Quỳnh, viên thanh tra Mas... và đây là nhà văn

đƣơng thời Lê Tràng Kiều, còn đây là nhà văn nổi tiếng Nguyễn Công Hoan, đang "mỉm cƣời

một cách tinh quái" [155, 72] khi bàn tới việc nên điều tra giới chủ nhà độc ác bằng cách

nào...

Bên cạnh những tƣ liệu sống nhƣ thế, trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng còn có hẳn

một thế giới nhân vật đông đúc, đa dạng và sinh động... gồm rất nhiều loại: những "me" già,

"me" trẻ và những "đức ông chồng" Tây thuộc nhiều quốc tịch của mấy cái "làng me" quái

gở; đám con sen thằng nhỏ khốn khổ, tinh quái, lƣu manh và giới chủ nhà tham lam, ác độc...

cùng đủ các loại gái điếm, trong đó có những ả mang cái tên quá đỗi "mĩ miều", độc nhất, vô

nhị, chƣa từng có trong cõi đời này: Tâm Thị Dã Mận...

Cả cái thế giới ấy nhƣ là một thứ "nhân loại" nhếch nhác, lem luốc, xô bồ, ồn ào, ma

quái... đang "họp chợ" dƣới cái gầm trời bức bối, u ám, hấp hối ánh hoàng hôn của cái xã hội

thực dân phong kiến thời Pháp thuộc.

Trong cái khung cảnh tấp nập ấy, bên cạnh nhiều nhân vật mới chỉ là những chân

dung phác thảo, là những nhân vật khá đậm nét, đầy dặn cả về ngoại hình lẫn nội tâm... gây

đƣợc ấn tƣợng mạnh, nhƣ những nhân vật sống động trong những tác phẩm tiểu thuyết. Trà

trộn vào cái quần thể nhân vật đông đúc ấy, còn có một nhân vật đặc biệt: nhân vật Tôi. Đây

là một nhân vật "đa năng", khi thì hội nhập hoàn toàn vào "thế giới" nhân vật đông đảo, khi

lại đứng tách ra để đảm nhiệm những vai trò khác nhau trong nghệ thuật của từng thiên

phóng sự.

3.2.2.1 Những bức chân dung sống động

135

Quần thể nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng hiện lên sinh động, trước hết là

nhờ nghệ thuật miêu tả, khắc họa. Khi miêu tả chân dung nhân vật, họ Vũ đã sử dụng khá

nhiều kĩ xảo linh hoạt, khi thì miêu tả bao quát, khi thì đặc tả từng bộ phận, khi thì mô tả qua

cái nhìn của một nhân vật khác...

Chẳng hạn, chỉ với một vài nét phác, nhân vật Ba Mĩ Ký đã hiện ra với toàn bộ vẻ

ngoài bao gồm cả phục trang và thần thái hết sức thảm hại: "Ngƣời ấy nói đoạn, mở rộng

cánh cửa. Bấy giờ tôi mới nhận đƣợc rõ là bác Ba Mĩ Ký, một người trong vòng ba mươi

tuổi, thân thể rạc như xác ve, hai vai xo lên gần đến mang tai, vừa đứng vừa run trong một

tấm chăn bông vải màu nâu đã xám xịt lại như khăn lau giường" [154, 121]. Cũng chỉ bằng

một vài nét bút, họ Vũ đã dựng lên một bức chân dung có góc cạnh của Trùm Ấm B: "ông ta

ngƣời trông đẫy đà, bệ vệ nhƣ một ông hậu bổ hoặc một viên tri châu nào. Hai con mắt rất

sắc sảo, có đủ vẻ đối địch với đời, tiểu nhân cũng đƣợc mà quân tử cũng đƣợc. Miệng có

duyên một cách lạ, thƣờng hay mỉm cƣời để "giá trị" cho câu chuyện: nhất là lúc gọi đến

thằng nhỏ thì tiếng đồng sang sảng, thật là có giọng quan" [154, 39]. Và ở một chỗ khác mô

tả cơn giận của Ấm B trƣớc sự lừa dối "ăn mảnh" của Tham Ngọc: "ông Ấm làm ra vẻ không

buồn nghe nữa. Vẫn ngồi xếp bằng tròn nhƣ tƣợng phật giữa giƣờng nhƣng mặt đã đỏ bừng

lên nhƣ gấc chín, ông tuy vậy, là một ngƣời rất thâm" [154, 160]. Cách mô tả trong sự so

sánh xen với nghị luận nhƣ thế đã thể hiện sắc thái tình cảm chủ quan và sự phân tích sáng

suốt của tác giả đối với nhân vật. Trùm Ấm B đã hiện lên nhƣ một kẻ gian hùng, dạn dĩ, đầy

bản lĩnh. Với một tên Trùm cờ bạc khác là Thƣợng Ký, cũng chỉ với một hai nét đặc tả như

kiểu điện ảnh, đã "chộp" được cái thần thái của một gã trùm lưu manh, nham hiểm nhƣ cú vọ

sợ ánh mặt trời: "một chiếc xe nhà sơn đồi mồi do một tên phu quần áo

136

hồ lơ xanh biếc chạy ngang mặt chúng tôi, bên trên có một ông ngồi đã có tuổi, y phục sang

nhƣng vẻ ngƣời không sang, lông mày sâu róm, mắt lim dim nhƣ lúc nào cũng chói mặt trời,

cúi đầu với ông Ấm B một cái" [154, 219]. Hoặc tác giả tả bộ mặt của tên lính lê dƣơng già

nua (chồng mới của bà Kiểu Lâm) nhƣ là một hình ảnh tƣợng trƣng cho sự tàn tạ, bẩn thỉu,

mệt mỏi, vô hồn của đám lính đánh thuê ô hợp: "một cái mặt lởm chởm những râu và ria với

lùng bùng những túi thịt dƣới hai con mắt, với cặp môi không màu, trắng bệch và hai hàm

răng sâu, một cái mặt buồn khi ngƣời ta vô tƣ lự và cáu kỉnh nhăn nhở khi ngƣời ta muốn

cƣời" [157, 70]. Sự đặc tả nhƣ trên đã gây ấn tƣợng mạnh, làm ngƣời đọc khó quên hình

tƣợng của Thƣợng Ký và gã lê dƣơng nọ. Có những khi, họ Vũ không trực tiếp tả nhân vật

mà lại thông qua lời kể của nhân vật khác, nhƣ đoạn con sen Đũi kể về mụ chủ "khốn nạn"

của nó: "Con mẹ chủ tôi thì ăn mặc trông đến nực cƣời. Chân thì đi giày đầm, đầu thì để tóc

đuôi gà, mà quần áo thì là quần áo khách (...) cái má nó đã nhăn nheo, nó lại trát phấn bự

khắp cả, thành thử trông nhƣ mặt ngáo ộp, thế mà cũng có anh bắt nhân ngãi với nó" [155,

31]. Kiểu tả gián tiếp này cũng sinh động không kém gì so với việc miêu tả chính diện.

Vũ Trọng Phụng còn thường lựa chọn mô tả những hành vi, ngôn ngữ có thể biểu

hiện, làm nổi rõ tính cách của nhân vật. Chẳng hạn, với Trùm Ấm B, tên thủ lĩnh, bộ óc của

làng bạc bịp, họ Vũ thƣờng tập trung mô tả những hành vi, động tác của kề đa mưu, túc kế:

"ông Ấm để mặc chúng tôi mỗi anh ngồi chầu một chén nƣớc nóng, còn mình thì, một tay đỡ

lấy trán, tay kia bấm đốt, tính lẩm nhẩm nhƣ một thầy bói lấy số tử vi ... Hai đám xì, một đám

bất, một đám xóc đĩa va một đám tổ tôm. Đám xì ở hàng Ken đã có Ba Mĩ Ký với Bập đánh

giác... đám xì đƣờng Cột Cờ đã có tay Bỉnh, tay Sinh đánh đòn Vân Nam (...). Còn đám tổ

tôm không biết nên

137

tính thế nào! Chỗ chơi là chỗ đài các phong lƣu mà phái Cửu Sần đi thì sợ lộ!... Ác quá, có cụ

Ngọc là ngƣời trông có mẽ một chút thì lại mắc xuống Nam. Cẩu thật!..." [154, 45]. Đối với

mụ đƣa ngƣời ở cái chợ bán ngƣời trong Cơm thầy cơm cô, tác giả đã mô tả một loạt hành vi,

động tác và các giọng lưỡi khác nhau thể hiện đặc trưng tính cách con buôn của mụ: "Mụ

đƣa ngƣời thì không ngồi, chỉ đi đi lại lại, nhìn ngƣời này, nhìn ngƣời nọ nhƣ một viên quan

võ lúc điểm binh, và mấp máy cái mồm, không hiểu là đếm hay là đánh giá những kẻ chịu lụy

mụ" [155, 19]. Khi không bằng lòng với cái giá mà mình muốn "bóp" khách hàng "Tức thì

mụ già chắp tay vái lấy vái để nhƣ đứng trƣớc một cửa điện nào vậy. Rồi quay mặt ra chỗ

khác, không đáp" [155, 24]. Và khi đƣợc đúng với cái giá hời mà mụ "chỉ trỏ" thì "Một cách

khả ố, mụ già gãi đầu một hồi, rồi cau nét mặt, phàn nàn rằng: - Lạy mẹ, thật nể mẹ quá đi

mất! Bây giờ con lại phải đi tìm ngay một con vú khác cho cụ lí con dƣới kia đây... Mẹ cứ

cho con xin một nửa trƣớc vậy" [155, 25]. Tác giả cứ tả bằng cách "vẽ" dần, bổ sung dần cho

bức chân dung thật đầy đặn. Điều này có đƣợc bởi tất cả đều móc xích với nhau nhƣ một

chuỗi hành vi xuyên suốt, lột trần bản chất của nhân vật. Vì vậy, khi kết thúc đoạn mô tả tính

cách của mụ đƣa ngƣời này, tác giả viết: "Mụ đƣa ngƣời đã thành công trong cái việc "bóp

cổ" ngƣời. Cái giá trị làm ngƣời (...) treo trên đầu lƣỡi của con mẹ nặc nô mềm nắn, rắn

buông và suốt đời không bao giờ biết nói thật" [155, 25-26].

Nghệ thuật tả ngƣời nhƣ trên đã đạt đến mức "tuyệt xảo". Cũng bằng kĩ thuật miêu tả

nhƣ thế, tác giả đã dựng thành công chân dung nhiều nhân vật khác, nhƣ Tham Ngọc (Xuân),

Mỹ Bối, Ký Vũ... (trong Cạm bẫy ngƣời); bà Kiểm Lâm, cô đầm lai Suzanne, Đimitốp, Hiếc

tôn... (trong Kĩ nghệ lấy Tây); con sen Đũi (trong Cơm thầy cơm cô); lão lục sự già, thầy nho

Kh,... (trong Một huyện ăn Tết), v.v... Tất cả các nhân vật nhƣ vậy đã

138

"hợp" thành cả một "thế giới" nhân vật giống nhƣ trong tiểu thuyết.

3.2.2.2 Những tính cách nhăn vật đậm nét

Điều đặc biệt là những nhân vật có "bề dày", trong phóng sự của họ Vũ đều có "cuốn

tiểu thuyết" (chữ của Vũ Trọng Phụng) riêng về cuộc đời mình. Chẳng hạn, trong Cạm bẫy

người, nhân vật Trùm Ấm B nhƣ có hẳn một "cuốn tiểu thuyết" tỉ mỉ và sinh động: xuất thân

từ cậu ấm con quan, nhƣng do đam mê cờ bạc từ lúc thiếu thời, sau khi phá tan cơ nghiệp,

Ấm B sớm bƣớc vào nghề cờ bạc bịp. Lăn lộn nhiều năm trong các sòng bạc lớn nhỏ, nếm

trải đủ mùi cay đắng, hắn đã trở thành "quân sƣ" và leo lên cái chức ông Trùm của cái làng

bạc bịp. Gã "chuyên gia bạc bịp" Tham ngọc cũng có một lai lịch "rõ ràng", cặn kẽ: Năm

1910, hắn là một thằng nhỏ, đi ở cho nha một ông phán. Sớm học đƣợc ngón bài lận, hắn

"chơi" luôn cả ông chủ trong cuộc bài tiêu khiển ngày xuân. Đƣợc chủ cấp cho vốn là hai

chục bạc, hắn bắt đầu lao vào con đƣờng cờ bạc "khi thì đội lốt học trò, khi đội lốt cậu ngầu

nhà quê, đã lăn lộn trong những đám vã, đám trếch (Valetaille) trƣớc khi đƣợc đụng chạm

với phái thợ, phái thầy" [154, 167 - 168]. Hắn tinh khôn góp nhặt kiến thức, giao thiệp lịch sự

nên càng biết đóng đủ mọi vai kịch trên sân khấu cuộc đời. Tham Ngọc là "chuyên gia" của

làng bịp nhƣng hay "ăn mảnh", gây vốn, ngấm ngầm mua sòng bạc ở Chợ Chu để tách ra

khỏi vòng cƣơng tỏa của Trùm Ấm B...

Con sen Đũi trong Cơm thầy cơm cô cũng có một "cuốn tiểu thuyết" riêng về mình

dài hơn một chƣơng sách và không kém phần hấp dẫn. Những nhân vật khác, nhƣ Vân, Ký

Vũ, Ba Mĩ Ký, cả Ủn, Mĩ Bối (Cạm bẫy người); bà Kiểm Lâm, Ách Nhoáng, Ái, Tích,

Đimitốp... (Kĩ nghệ lấy Tây); Thị Lành, Thị Tý (Lục xì), thầy nho Kh... (Một huyện ăn Tết),

tuy ở mức độ khác nhau, nhƣng đều có "cuốn tiểu thuyết" riêng về cuộc đời của chính mình

kiểu nhƣ vậy. Ngay cả nhân vật xƣng Tôi cũng tự "thêu dệt

139

ra cái tiểu thuyết bi đát" [155, 41] của mình, khi thì là một tay anh chị trong giới Cơm thầy

cơm cô, khi thì phải "bịa" ra cái lai lịch "con dòng cháu giống" nhƣng đang thất cơ lỡ vận để

gạ gẫm con sen Đũi cùng "tính cuộc vuông tròn"... Chính vì thế mà sau khi đọc xong phóng

sự của Vũ Trọng Phụng, ta có thể kể lại câu chuyện có đầu, có đuôi về một số nhân vật nêu

trên. Lai lịch, diện mạo, tính cách, số phận... của từng nhân vật rất khác nhau, nhƣng đều

đƣợc thể hiện qua những cái "khung", cái "sƣờn" của những sự kiện. Nếu gọi đó là những cốt

truyện, thì trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng có khá nhiều cốt truyện nho nhỏ, gọn gàng,

hấp dẫn, đủ dung lƣợng cho từng nhân vật tồn tại nhƣ "một sinh mệnh" riêng...

Nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ có "cuốn tiểu thuyết" riêng mà

mỗi kẻ còn là cả "một thế giới riêng" [155, 40], đúng nhƣ nhân vật xƣng TÔI nói về đám con

sen thằng nhỏ. Đó là dạng "một con người trong một con người", với chiều sâu nội tâm, bản

ngã đích thực, đƣợc thể hiện qua hành vi, ngôn ngữ, giọng điệu riêng biệt không hề lẫn lộn.

Trong các nhân vật của làng bạc bịp, Ấm B, Tham Ngọc, Ký Vũ, Mĩ Bôi; v.v..., mỗi kẻ đều

có tính cách, cá tính riêng... Gã "chuyên gia bạc bịp" Tham Ngọc cũng luôn tƣơm tất "áo gấm

trong, áo sa tanh ngoài, giày ban, tay cầm máy ảnh" giống "mẽ" của ông kí, ông tham. Nhƣng

bên trong là cả một "thế giới" của sự thấp hèn: dối trá, vụ lợi, đểu cáng, trụy lạc, nham hiểm...

Còn Mỹ Bối "thân thể to hơn khổng lồ, một tay nhiều thủ đoạn nhất, gian hùng nhất, vì khối

óc là một cái pho sách lớn chứa những ý nghĩ tinh ma" [154, 110]. Bao nhiêu sự ám muội hắn

đều dùng tay vào, vì theo hắn: "những việc ấy tuy có hại cho ngƣời nhƣng không có hại cho

tôi (...). Tôi mang trong đời cái "nhân nghĩa" của một anh thầy cò va lời "cam đoan" của thầy

lang chữa thuốc lậu" [154, 207]. Ba Đội Tứ có cái tính cách dữ dội của loai "sƣ tử", không hề

biết sợ những gã chồng Tây:"... chửi thì chửi

140

trả, đánh cũng đánh trả... bị đấm một cái mà tát lại đƣợc những ba cái... Giơ dao lên dọa, gái

này cũng tốc phăng ngay cái coóc xê lên. Anh nào cũng phải gờm" [157, 62 - 67]. Đây chính

là một cuộc "ẩu đả" thực sự với Tây chứ không còn bóng gió nhƣ lời Nguyễn Khuyến. Con

sen Đũi, bà Kiểm Lâm, lão lục sự gia, thày nho Kh..., v.v... đều có những "thế giới riêng",

tính cách riêng kiểu nhƣ vậy.

Những nhân vật trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng là sản phẩm sinh động của

chính cái môi trường tạo ra nó, chỉ phối sự biến đổi tính cách của nó. Xã hội cờ bạc đã sản

sinh ra những "quân sƣ", "chuyên gia" bạc bịp nhƣ Tham Ngọc, Trùm Ấm B, v.v... Nạn

khủng hoảng kinh tế, trí thức thất nghiệp đã góp phần đẩy những Ký Vũ, Vân... vào con

đƣờng cơ bạc. Cái xã hội thị thành đầy giả dối đã biến đám con sen thằng nhỏ, vốn là những

"ngƣời nhà quê" hiền lành, thật thà "mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở đƣợc vài tháng

thì ăn cắp nhƣ ranh, ăn bớt nhƣ quỷ" [155, 71]... Nghề lấy Tây, làm me đã biến bao cô gái

thanh đám đàn bà "ma bùn", v.v...

Đúng là cái hoàn cảnh xã hội đen tối đã đẩy con người vào đƣờng hƣ hỏng. Nhưng cái

quyết định luận xã hội này lại luôn hòa hợp với cái quyết định luận tâm lí, tính cách. Những

nhân vật bế tắc, tự hủy hoại trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, mỗi kẻ, có một con đường

đi riêng, không cần ai "mách nước" cho nó. Trùm Ấm B vốn là kẻ rong chơi, bài bạc từ lúc

thiếu thời, phá tan cơ nghiệp và phải xa gia đình. Xuân (Tham Ngọc), tuy là một thằng nhỏ,

đi ở nhƣng cũng sớm sa vào tệ bài bạc. Cả hai đều lăn lộn, nếm đủ mọi thứ cay đắng trong cái

trƣờng cờ trận bạc đỏ đen. Sự gian hùng, xảo trá, thâm hiểm, tàn nhẫn... trong ngƣời chúng

đƣợc "đào luyện" bởi chính cái môi trƣờng ma quái mà chúng tự chọn. Vốn là một bác thợ

hàng bạc, giỏi giang, hiền lành, lƣơng thiện, Ba Mỹ Ký, đầu tiên chỉ đánh

141

bài "giải trí". Nhƣng giải mãi cái trí vào chuyện bạc bài nên cũng trở thành hƣ hỏng, thân tàn

ma dại. Con sen Đũi bị hiếp dâm, rồi chính nó lại là kẻ khiêu dâm và dấn mãi vào con đƣờng

trụy lạc...

Nhìn chung, các nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đều có cả một quá trình

băng hoại. Mỗi kẻ "dị dạng" theo một cách riêng, nhƣng đều tha hóa một cách có triết lí, bào

chữa cho mình. Trùm Ấm B: "tuy là bịp, tôi vẫn không lam một việc nhỏ mọn gì la bất

nghĩa" [154,42]. Còn lão lục sự già chuyên nghề "đục khoét thành thánh" thì cho rằng: "Ta

xấu nhƣng nhiều kẻ khác cũng nhƣ ta, vậy thì ai cũng xấu hoặc là chẳng ai xấu cả" [154, 96],

v.v... Đây là dạng nhân vật "mình làm mình chịu", không thèm giấu diếm và chẳng ai cản trở

đƣợc nó. Vì vậy mới có hiện tƣợng: đám dân làng bịp, biết nghề cơ bạc là "bất lương nhưng

vẫn cứ làm" (lời Trùm Ấm B); đám quan nha biết việc "đi ăn cƣớp" bằng thủ đoạn tống tiền

hối lộ là "bậy nhưng cứ làm" [154, 98]. Còn con sen Đũi sẽ cứ làm cô đào. Cô gái quê đã bị

một chú oẳn làm cho nhị rữa hoa tàn thì rồi cái hôi tanh sẽ là một cái thang để cô gái quê trèo

lên cao" [155, 40].

Nhƣ vậy, khi khắc họa tính cách nhân vật, Vũ Trọng Phụng đã không chỉ mô tả việc

mà cá nhân đó lam mà còn diễn tả cái cách họ làm điều đó. Vói cách làm cái xấu một cách

chủ động, tha hóa một cách có "triết lí", các nhân vật nói trên đã bị cuốn vào cái "guồng

quay" nghiệt ngã: gieo hành động gặt thói quen, gieo thói quen gặt tính cách, gieo tính cách

gặt số phận. Tính cách - số phận của các nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã phản

ánh một cách sinh động cái "quy luật của muôn đời".

3.2.2.3 Sự gần gũi với thế giới nhân vật tiểu thuyết

Một điều hết sức thú vị là nhiều nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng lại nhƣ có

tông tích, họ hàng, bà con, bạn bè gì đó với một số nhân vật quen thuộc trong các tiểu thuyết

của ông. Có thể thấy Trùm Ấm B,

142

Tham Ngọc (Xuân), những tên "chuyên gia bạc bịp", "giáo sƣ quỷ thuật" này, nhƣ là đồng

bọn với những Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ... vì chúng cùng là một lũ họ bợm. Con sen Đũi

cũng thuộc loại cùng hội cùng thuyền với những Phó Đoan, Thị Mịch, vì cũng bắt đầu "sự

nghiệp" bằng cái "tai biến dâm sự"; Thị Lanh, Thị Tý (trong Lục xì) nhƣ là cùng nhóm bạn

gái với Huyền (trong Làm đĩ) vì giống nhau ở cái bệnh "ngứa ngáy xác thịt", luôn bị ám ảnh

bởi "cái ấy" ngay từ tuổi vị thành niên, sau đó cứ trƣợt dài vào con đƣờng trụy lạc và cuối

cùng đến với nghề bán phấn, buôn hoa nhƣ là một nghiệp chƣớng...

Việc tìm ra những mối liên hệ nhƣ thế, cho thấy sự gần gũi giữa thế giới nhân vật

phóng sự và tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng. Chúng đều là những nhân vật thuộc loại dâm,

đểu, ác, hận đời và muốn trả thù đời. Một đặc điểm rất tiểu thuyết của các nhân vật trong

phóng sự của họ Vũ còn ở chỗ, cũng giống nhƣ những Phó Đoan, Nghị Hách, Xuân Tóc

Đỏ..., những Trùm Ấm B, Xuân (Tham Ngọc), con sen Đũi, bà Kiểm Lâm, Thị Lanh, Thị

Tý... đều thuộc dạng "con người nếm trải", những truân chiên, vật vã, đau đớn, trần ai;

chúng có những ẩn ức, dằn vặt, suy tƣ về cuộc đời. Những nhân vật này không chỉ là dạng

nhân vật hành động mà còn là những "nhân vật tâm tư" mang chất của nhân vật tiểu thuyết.

Mặt khác, việc tìm ra sự giống nhau về nhân vật giữa phóng sự và tiểu thuyết của họ

Vũ còn cho thấy một điểm quan trọng nữa là: khi làm phóng sự, ông đã xuất phát từ một vấn

đề có thật, trình bày nó dưới dạng một câu chuyện. Vì vậy, ngoài việc lí giải bằng những tƣ

liệu, sự kiện có thật, ông còn dùng phương thức tư duy bằng hình tượng nhân vật, đƣợc xây

dựng thông qua việc lựa chọn những nguyên mẫu mang tính tiêu biểu. Chính vì thế nên mới

có hiện tƣợng là ngay những cùng thời và lại là thân hữu của họ Vũ đã thay nhau đoán định,

tranh luận với nhau về nguyên

143

mẫu ngoài đời của nhân vật trong phóng sự của ông. Sôi nổi nhất là những ý kiến khác nhau

về một ông Trƣởng Tạo nao đó, mà họ cho là nguyên mẫu của nhân vật trong Cạm bẫy

người. Họa sĩ Mạnh Quỳnh, ngƣời đã có lần cộng tác với nhà văn, cho rằng "Trùm Ấm B...

trong Cạm bẫy người chính là Trƣởng Tạo đƣợc Vũ Trọng Phụng đổi tên". Nhà văn Thanh

Châu thì cho rằng "ông Trƣởng Tạo tức Nguyễn Thủy Tạo thợ lành nghề vàng bạc (...) là

ngƣời biết nhiều mánh khóe của con bạc, nên đã kể cho Phụng nghe. Cái nhân vật ông Mĩ

Bối trong phóng sự là tả qua hình ảnh ông, Trƣởng Tạo đấy" (Vũ Trọng Phụng tài năng và sự

thật, NXB Văn học HN, 1997, tr. 148). Cồn nhà văn Ngọc Giao lại cho răng khi viết Cạm

bẫy người, Vũ Trọng Phụng đã vào tận" các sòng bạc của Cả Vê, Hai Mơ, Ba Sinh là ba tên

cầm đầu sòng bạc thời bấy giờ ở Hà Nội" [55,68]. Điều này cho thấy thế giới nhân vật trong

phóng sự của Vũ Trọng Phụng luôn có mối quan hệ mật thiết đối vói hiện thực cuộc sống.

3.2.3 Một lối thuật kể hấp dẫn

Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đặc biệt lôi cuốn ngƣời đọc bởi một lối thuật kể tự

nhiên, có duyên và phóng khoáng. Có được sự hấp dẫn này là nhờ có một cái Tôi trần thuật

uyển chuyển, cách thức tổ chức những điểm nhìn linh hoạt và sự biến hóa trong cấu trúc bố

cục.

3.2.3.1. Một cái Tôi trần thuật đa năng

Cái Tôi trần thuật trong phóng sự của họ Vũ không bao giơ dấu mặt. Đây là dạng

ngƣời trần thuật đƣợc trình diễn. Khi thì nó la cái tôi - tác giả-nhà phóng sự (như "Monsieur

Phung" trong Lục xì - Đây là tác phẩm duy nhất mà họ Vũ xƣng đích danh tên mình); khi thì

là người trần thuật ngụy trang (dƣới "lốt" một "thám tử" chui sâu vào tổ chức làng bạc bịp

hay sắm vai một tay anh chị trong giới Cơm thầy cơm cô); khi thì là người trần thuật được ủy

nhiệm (trong vai phóng viên đi điều tra "thực địa" ở mấy

144

làng me; kẻ "phiếm du" xem một huyện ăn Tết), v.v... Tất cả những cái TÔI này đều là cái tôi

nhân chứng - ngƣời trần thuật tham dự vào câu chuyện, dẫn dắt bạn đọc đi suốt toàn thiên

phóng sự. Nhƣng do sự "tham dự" vừa toàn diện vừa sâu vào diễn biến của câu chuyện nên

đa số các trƣờng hợp (trừ cái tôi - tác giả - nhà phóng sự ở Lục xì) cái Tôi đều thẩm thấu vào

tác phẩm, đảm nhiệm thêm vai trò cái Tôi Nhân vật. Người kể chuyện được nhân vật hóa này

đã trực tiếp xông xáo, hội nhập vào thế giới nhân vật trong tác phẩm. Sự "nhập cuộc" nhƣ thế

không phải là chuyện dễ dàng. Ngay nhƣ Tam Lang, mặc dù đã hết sức chu đáo, sắm sửa cho

nhân vật Tôi của mình nào áo quần, nón mũ để đi "làm xe", nhƣng đã bị Vũ Ngọc Phan "bắt

lỗi", cho rằng con ngƣời to béo, nặng nề đó "cầm càng xe sao đƣợc". Và chính bác phu xe giả

danh này lúc nào cũng ngay ngáy lo bị lộ mặt. Thậm chí có lúc bác ta xấu hổ đến mức, đang

kéo xe mà thấy mình "nhƣ một thằng trần truồng đi ra ngoài phố" [102, 21]. Còn nhân vật Tôi

trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng thì hồn nhiên trong cả cách ăn mặc, đi đứng, nói năng,

làm trò... Với các nhân vật khác, nó không chỉ "tri kỉ" ở mức ông - tôi ma còn "thân mật" đến

mức suồng sã mày - tao -chi tớ; thậm chí còn có lức bờm xờm, chim chuột nhƣ thật!

3.2.3.2 Nhiều nhân vật cùng tham gia kể chuyện

Sự nhập vai tài tình của nhân vật Tôi đã đem lại cho phóng sự của Vũ Trọng Phụng

một lối thuật kể hấp dẫn, khác hẳn phương thức trần thuật "khách quan" theo quan điểm

"ống kính" của không ít nhà phóng sự đương thời. Vì là ngƣời "trong cuộc" nên nhân vật Tôi

đã tạo dựng đƣợc một điểm nhìn từ bên trong rất đắc dụng cho việc tiếp cận, tìm tòi, khám

phá. Câu chuyện về cái làng bịp, làng me, của giới Cơm thầy cơm cô, thay vì chỉ đƣợc thuật

kể bằng cái nhìn ngoại quan của nhà phóng sự, thì đã đƣợc thuật kể bằng chính một ngƣời

thuộc "dân" của các làng, các giới ấy...

145

Câu chuyện trở nên hấp dẫn, vì biết bao chuyện vốn bí mật, bí hiểm của cái tổ chức bạc bịp

ma quái; bao sự nhiêu khê quanh cái nghề lấy Tây quái gở; bao điều khuất lấp, đầy những nỗi

bi hài và cả những "vụ" mang tính "xì căng đan" của giới Cơm thầy cơm cô cùng giới chủ

nhà... đã đƣợc "bật mí", phơi bày ra trƣớc bạch nhật thanh thiên, bởi chính một kẻ "tay trong"

- nhân vật Tôi, đầy tin cậy! Vì là một kẻ "đồng bọn", "anh em mình cả" với giới bạc bịp; là kẻ

đồng hội, đồng thuyền của con sen thằng nhỏ; là kẻ "tri kỉ" của cả hai bên "đối tác" của cái

làng me... nhân vật Tôi đã mở ra cả một thế giới nội tâm muôn hình vạn trạng của họ. Cũng

chính vì thế trong các thiên phóng sự của họ Vũ, con ngƣời không chỉ hiện ra với những tên

tuổi; lai lịch rõ ràng ma còn cả phần hồn sống động nhƣ là bản thân đời sống.

Trong không ít trƣờng hợp, nhân vật Tôi đã khéo léo "trao" cho các nhân vật nhiệm

vụ kể chuyện thay mình. Nhân vật này kể về nhân vật nọ, nhiều khi rất say sƣa, để tỏ rõ "ta

đây" thông suốt sự đời. Chẳng hạn nhƣ ông "chú" của nhân vật Tôi trong Cạm bẫy người

khoe mình có lạ gì cái hành tung bất hảo của cái lão Ấm B: "Ấm B tên tục là Tƣ Quân, trong

khi giao thiệp với bọn bồi bếp còn có tên là ông Cửu và trong khi giao thiệp với hạng thƣợng

lƣu lại là ông Nghị..." [154, 100]. Hoặc cái ông chú "nửa tỉnh nửa quê" của bồi An kể vanh

vách về các ngôn bài bịp để ra vẻ "Đố anh nào bịt đƣợc mắt tôi!" [154, 54]. Hay việc những

nhân vật Cơm thầy cơm cô kể về những xấu xa của gia chủ, v.v...

Nhƣng điều hấp dẫn hơn là việc các nhân vật "thi nhau" kể về chính cuộc đời của nó.

Phần lớn cái "Cuốn tiểu thuyết của con sen Đũi" (trong Cơm thầy cơm cô), là do nó tự bạch.

Bắt đầu từ trang 30: "U tôi vẫn đi cày cấy thuê ở làng, còn thầy tôi hiện giờ thì kéo xe...". Đũi

kể về cảnh đi ở "khổ tuyệt trần đời", về mụ chủ nhà kệch cỡm, đĩ bợm; về chuyện nó bị

"thằng oẳn" hiếp, chuyện nó bầy mƣu tính kế khiêu dâm hai đứa con gia

146

chủ để trả thù và ƣớc mơ thành cô đào, bà phán, bà kí (các trang 31, 32, 33 của mục V và

"vắt" sang mấy trang ở mục VI). Đến khi dứt lời tự kể thì cái "chân dung" tự họa của cái con

sen "hƣ hỏng, giả dối, rất nguy hiểm cho đời" [155, 44] cũng "đà" hoàn tất. Mục II trong

phóng sự Cạm bẫy người cũng đƣợc bắt đầu bằng lời "tự thú" về mình của Trùm Ấm B:

"Ông nên biết rằng: quá nửa đời ngƣời, tôi đã sống bằng nghề cơ bạc..." (trang 38). Lời tự kể

về mình này kéo dài sang các trang 40, 41, 42. Cái "tiểu sử" cuộc đời của tên trùm bạc bịp cứ

theo lời kể mà hiện lên mồn một, từ dòng dõi, gia thế, phiêu bạt, vào làng bạc bịp và bao điều

ẩn ức qua cái "triết lí" dị thƣờng, trái khoáy của hắn. Các nhân vật khác nhƣ Thị Lành (trong

Lục xì) phẫn uất kể lại nỗi đau đớn, nhục nhã của mình khi bị bọn "đĩ nhà nƣớc" hành hạ dã

man buộc phải "cầm giấy" hành nghề nhƣ chúng; cô đầm lai dễ thƣơng Suzanne (trong Kĩ

nghệ lấy Tây) lại bộc bạch nỗi xót xa, tủi nhục của một đứa con hai dòng máu mà "không tổ

quốc", v.v...

Việc "tổ chức" cho các nhân vật thay nhau tự kể là "mánh khóe" thay đổi, di chuyển,

nối kết điểm nhìn trong nghệ thuật trần thuật. Sự "đồng tịch đồng sàng" giữa nhân vật Tôi

với các nhân vật tự kể đã tạo ra tính bình đẳng của nhiều tiếng nói. Sự ngang quyền nay cho

thấy nhân vật Tôi ở đây không phải là dạng "ngƣời biết trƣớc", "biết hết tất thảy" và đứng ra

"ban phát" thông tin, kể lại mọi chuyện. Nó cùng với các nhân vật của mình cùng hợp tác

trong công cuộc tìm kiếm sự thật, theo phƣơng thức "kiếm" đƣợc sự kiện nào là lập tức "trình

ra" một cách kịp thời. Ngƣời đọc cũng không còn đƣợc thụ động "ngồi" nghe những gì đã

xảy ra, mà nhƣ "bị" cuốn hút theo ống kính của nhà phóng sự cùng khám phá những điều mới

mẻ. Có khi chính nhà phóng sự cũng hồi hộp chẳng kém gì độc giả trƣớc một thời cơ, một dịp

may hiếm có: "Chỉ ít bữa nữa là tôi đƣợc vào nhà Lục xì (...) là các ngài cũng đƣợc vào nhà

lục xì" [155, 96], cái nhà đầy

147

bí ẩn đã hàng nửa thế kỉ "im ỉm khóa", để từ đó mở ra cả "thế giới" của nạn mại dâm. Có khi

chính nhân vật Tôi cũng nhƣ độc giả và các nhân vật trong câu chuyện đều bị bất ngờ trƣớc

một sự việc, tình huống nào đó. Chẳng hạn, ở chương Bi hài kịch (Cơm thầy cơm cô), tất cả

mọi ngƣời chẳng hiểu vì sao khi đang nghe điệu cheo rất "mùi" do nhân vật Tôi "trình diễn",

thì cái con Sen "mặt mũi sạch sẽ" lại "ngã ngửa xuống bằng trời giáng". Té ra là nó lên cơn

động kinh (do bị điện giật trƣớc đó) chứ không phải vì "tiếng sét ái tình" trƣớc sự tai họa của

mình, nhƣ nhân vật Tôi lầm tƣởng!

3.2.3.3. Những "sơ đồ" kể chuyện biến hóa

Sự nhập vai của nhân vật Tôi và việc thuật kể theo quá trình di chuyển điểm nhìn của

chính nó và sự chuyển đổi điểm nhìn bằng hình thức cho nhân vật tự kể, trong những thời

gian và không gian khác nhau đã mở rộng khả năng bao quát, đánh giá của trần thuật. Sự linh

hoạt trong việc tổ chức điểm nhìn đã tạo ra cái "nền" và làm nên sự biến hóa trong cấu trúc

bố cục câu chuyện. Phóng sự của Vũ Trọng Phụng đƣợc mở đầu một cách tự nhiên, nhƣ có

một "ma lực" cuốn hút ngƣời đọc" nhập" ngay vào câu chuyện, sau đó họ bị dẫn dắt đi theo

những "lộ trình" những tình huống khác nhau hết sức bất ngờ khó mà đoán định nổi.

Mở đầu Kĩ nghệ lấy Tây là chuyện anh nhà báo đi điều tra "thực địa" tại làng me bị

một gã lê dƣơng hiểu lầm, gây gổ. Sự cố này "buộc" anh phóng viên này phải tƣờng trình cho

ra cái mục đích đi tìm sự thật về chuyện có hay không có một "nghề lấy Tây", mà trƣớc đó

một me đã khai ở phiên tòa. Câu chuyện thật là tự nhiên "giúp" cho tác giả tránh đƣợc chuyện

phải "đặt vấn đề" một cách rối rắm. Và bằng cách xâu chuỗi những tình cảnh của cuộc đời

từng me lại (Bà Kiểm Lâm, Đội Chóp, cai Bu dích, Duyên, Ái, Tích...), cùng với những bức

"chân dung" sống động của những "đức ông chồng" Tây thuộc loại "cự môn", tiêu biểu, nhà

phóng sự đã dựng đƣợc cả

148

lịch sử đầy những nhiêu khê, thăng trầm và thực chất của cái nghề lấy Tây quái gở... Đoạn

kết thúc giống nhƣ một vĩ thanh, vừa chốt vừa mở; gói lại chuyện Kĩ nghệ lấy Tây lê dƣơng

và gợi sang vấn đề lấy Tây khác cho độc giả thấy chuyện lấy chồng Tây còn bao điều "bí

mật"... Cũng cấu trúc bằng cách xâu chuỗi nhiều sự kiện nhiều cuộc đời xung quanh chủ đề

như vậy, nhƣng ở Cơm thầy cơm cô, câu chuyện đƣợc bắt đầu từ cái "màn" hóa trang của một

anh bồi giả danh. Nơi đột nhập đầu tiên của anh ta là một hàng cơm vào một đêm nóng nực.

Theo chân nhân vật Tôi - người trần thuật lang thang này, những mục trong câu chuyện kế

nhau xuất hiện một cách tự nhiên mà nội dung là chính những sự kiện, tƣ liệu mà nó thâu

nhận, khám phá. Hết cảnh này đến sự nọ, tạo ra một sự kế tục, bổ sung, mở rộng thêm vấn

đề... Cấu trúc theo lối xâu chuỗi nhƣ thế còn tạo ra một cái nhìn xuyên suốt câu chuyện, tạo

thuận lợi cho việc khái quát, triết lí. Câu chuyện nọ nhƣ chẳng có hồi kết thức, nếu không có

sự hồi nguyên "Thƣa các ngài, bây giờ thì tôi lại là tôi". Lúc này cái tôi - tác giả Vũ Trọng

Phụng xuất hiện và trực tiếp đƣa ra lời luận bàn, tô đậm thêm tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm.

Một lối cấu trúc khác trong phóng sự của họ Vũ là: xâu chuỗi những sự kiện, cuộc đời

của các nhân vật phụ quanh nhân vật trung tâm, nhân vật chính. Trong Cạm bẫy người,

Trùm Ấm B là nhân vật chính đƣợc mô tả đầy đặn. Nhƣ một cái trục xuyên suốt chiều dài câu

chuyện, nhân vật nay có "can dự" đến những xung đột lớn (xung đột trong nội bộ của làng

bịp nhƣ với Thƣợng Ký, Tham Ngọc; xung đột với những con bạc nhƣ Nguyễn Đình Mầu,

chú của bồi An). Cuộc đời và số phận của hầu hết những nhân vật chính phụ khác đều có liên

quan đến nhân vật Trùm Ấm B. Nhân vật lão Lục sự gia trong Một huyện ăn Tết cũng có một

vai trò tƣơng tự. Mọi diễn biến, sự kiện câu chuyện "sôi lên sùng sục" nhƣng đều

149

châu tuần vào cái nhân vật trung tâm nay: quan đƣa giấy xuống, hết cai lệ rồi lại cai cơ vào

nhơ cậy, thầy nho Kh. vào thƣa bẩm... Từ nhân vật này, ngƣời ta có thể hiểu hết toàn bộ câu

chuyện tham nhũng ở một huyện nha. Kiểu cấu trúc này đã thuận tiện cho việc bổ sung thêm

những nhân vật cùng loại, mở rộng phạm vi của một loại hiện tƣợng; tạo cho ống kính phóng

sự thêm khả năng thu nhận thêm nhiều nhân vật có mối quan hệ đồng đẳng, phụ thuộc.

Những tính cách này vừa soi sáng lẫn nhau, lại vừa cùng nhau tô đậm chủ đề tác phẩm.

Những kiểu cấu trúc khác nhau nhƣ trên đã dẫn tới những "sơ đồ" kể chuyện linh

hoạt. Khi thì bắt đầu câu chuyện bằng một sự kiện; khi thì bằng điểm nhìn cụ thể về thời

gian, không gian; khi thì nêu lên một vấn đề và triển khai giải quyết (nhƣ ở Lục xì). Chính vì

vậy, lối kể của phóng sự Vũ Trọng Phụng có nhiều biến hóa so vói nhiều phóng sự đƣơng

thời. Chẳng hạn, ở phóng sự Trước vành móng ngựa của Hoàng Đạo, cả 52 mục đều đƣợc kể

theo lƣợc đồ: ai (ngƣời phạm tội; cái gì (phạm tội gì, nguyên nhân vì sao); kết quả (tòa xử lí

hình phạt). Trong tập Việc làng [206] nổi tiếng của Ngô Tất Tố gồm 16 thiên phóng sự ngắn.

Trong đó, có đến 12 phóng sự được bắt đầu bằng điểm nhìn thời gian: "Hôm ấy, một hôm về

cuối mùa đông" (Lớp người bị bỏ sót, tr.378); "Nhà bác cả Mão (...) hôm nay bỗng..." (Một

đám vào ngôi; tr.386); "Bây giờ đã quá trƣa..." (Cái án ông cụ, tr.393); "Từ khi thôi học (...)

bây giờ tôi mới..." (Nghệ thuật băm thịt gà, tr.398); "Trời đã quá trưa..." (Góc chiếu giữa

đình, tr.409); "Từ hôm làng bàn chữa lại tam quan đến nay..." (Nén hương sau khi chết,

tr.414); "Hôm nay vừa đầy tám ngay..." (Hạt gạo xôi mới tr.419); "Hơn một năm nay..." (Cỗ

oản tuần sóc, tr.439); "Hôm ấy, nhằm phiên chợ Đình" (Một tiệc ăn vạ, tr.446); "Một ngày

hôm qua..." (Xâu lòng thờ, tr.451); "Bấy giờ đã bóng chiều cả..." (Một chiếc lăm lợn, tr.457),

v.v... Tuy sự mở đầu bằng

150

điểm nhìn thời gian nhƣ trên có sức hấp dẫn riêng của nó, nhƣng câu chuyện lại dễ "bị" rơi

vào lƣợc đồ đơn giản: thời gian nào - cái gì đã xảy ra - nguyên nhân vì sao - kết quả thế nào.

Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, lối kể theo kiểu tiểu thuyết đã đem đến sự biến hóa về

cấu trúc. Cấu trúc theo kiểu xâu chuỗi sự kiện, cuộc đời xung quanh chủ đề, xung quanh nhân

vật trung tâm, v.v..., vừa bao quát đƣợc những mảng hiện thực rộng lớn, những sự kiện bề

bộn lại vừa có sức kết dính chúng lại một cách tự nhiên thành một chỉnh thể nghệ thuật,

nhƣng đây vẫn là phóng sự chứ không phải là tiểu thuyết nửa vời. Đây chính là điểm độc đáo,

là sự "khôn ngoan" của "ông vua phóng sự".

Cùng với nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tƣ liệu; sử dụng những yếu tố

của nghệ thuật tiểu thuyết, trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng còn nổi lên chất hài hước,

trào phúng. Đây cũng là một yếu tố quan trọng góp phần làm nên giá trị độc đáo trong thanh

tựu phóng sự của ông.

3.3. Nghệ thuật trào phúng

Trong điếu văn đọc trƣớc mộ Vũ Trọng Phụng ngày 15 tháng 10 năm 1939, Lƣu

Trọng Lƣ đã khái quát nhận định: "Tất cả cái sự nghiệp của Vũ Trọng Phụng là phơi bày là

chế nhạo tất cả những cái rởm, cái xấu, cái bần tiện, cái đồi bại của một hạng ngƣời, của một

thời đại". [89, 33]. Trong các tác phẩm của họ Vũ, không chỉ có tiếng thét phẫn nộ mà còn

âm vang tiếng cười trào phúng. Cùng với chuỗi cƣời dài Số đỏ, tiếng cƣời trong phóng sự của

ông không kém phần độc đáo, tô đậm thêm "tấn bi hài kịch thuộc địa" đầy những chuyện dở

khóc, dở cƣời...

Tiếng cƣời trong phóng sự Vũ Trọng Phụng có nhiều cung bậc, nhƣng âm hƣởng chủ

đạo là tiếng cười hài hước và tiếng cười châm biếm, mỉa

151

mai. Tuy ranh giới giữa hai cung bậc này không phải lúc nào cũng rõ ràng, rành mạch, nhung

đúng là trong phóng sự của ông, rất nhiều trƣờng hợp sự hài hƣớc chỉ nhằm diễu cợt những

hiện tƣợng khác lạ, "trật khớp" so với cái bình thƣờng, vốn đầy rẫy trong hiện thực cuộc đời;

còn sự châm biếm, mỉa mai vừa mang yếu tố hai hƣớc lại kèm theo một dụng ý phê phán, đả

kích.

Vũ Trọng Phụng đã tìm thấy bao cái dáng cười ngay trong những tệ nạn xã hội trầm

kha và những vấn đề xã hội nhức nhối. Tiếng cười của ông bật lên từ nhiều trang phóng sự,

bằng một nghệ thuật trào phúng, qua các thủ pháp xây dựng nhân vật hài hước, biếm họa; tổ

chức tình huống và lối văn giễu nhại.

3.3.1. Nhân vật hài hước, biếm họa

Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng có cả một thế giới nhân vật sống động, bao gồm

nhiều "giới" ngƣời với những "mẫu hàng" của nó. Đây là cả một "nhân loại" dị dạng, dị hình

trên đƣờng tha hóa nên là hiện thân của bao nỗi bi hài. Quần thể nhân vật này không chỉ

mang trong nó những nỗi bi thảm, bi thƣơng, khốn cùng mà còn mang cả những cái hài hƣớc,

kệch cỡm, đáng cƣời. Trong phóng sự của họ Vũ, nhiều nhân vật hiện lên nhƣ những bức

chân dung hài hƣớc, biếm họa.

Để khắc họa những chân dung nhƣ vậy, Vũ Trọng Phụng đã dùng các thủ pháp mô tả

khác nhau, khi thì dựng lên hình ảnh mang tính tượng trung, khi thì đặc tả ngoại hình, khi thì

kịch hóa hành động và lời nói... của loại nhân vật trống rỗng, "vô nghĩa lí".

3.3.1.1 Hình ảnh nhân vật hài hước

Trong phóng sự Cơm thầy cơm cô có một nhẫn vật "người nhà quê" ra tỉnh. Cũng

giống nhƣ nhân vật trong cuốn phim hài Ánh sáng thị thành

152

của vua hề Charlie Chaplin, nhân vật này bị cái vầng hào quang đêm đêm sáng rực nơi Hà

thành quyến rũ. Họ bỗng nhƣ "bị rơi" vào giữa phố phƣờng xa lạ, phố nào cũng giống nhau,

"người nhà quê một trăm phần trăm" này vô cùng ngơ ngác, nhƣng "đã đi, đã đi và đã đi (...)

đi đã mỏi, vẫn phải đi (...) lang thang hết phố nọ đến phố kia, có khi vòng trở lại mà không

biết..." [155, 49]. Đƣợc một mụ già ăn mặc "sang trọng" (mụ mối dẫn ngƣời) hỏi chuyện,

"người nhà quê này sung sướng lắm" vì tỉnh thành đã chịu nói chuyện với mình! Và họ đƣợc

"hội nhập" ngay vào cái "sân sau" đầy xú uế, cống rãnh bẩn thỉu, chơ đợi đƣợc làm đầy tớ,

"không đƣợc ai thí cho đồng trinh bát cháo", ngƣời nhà quê "phải sinh ra liều mạng", phải có

"lá gan to" đi chôm chĩa, trộm cắp, làm điếm. Kết thúc của một đời nhà quê ra tỉnh là "đàn bà

sẽ đi đến thần Bạch Mi, đàn ông sẽ đến Hình phạt". Đúng là có nguyên do là sự nghèo đói,

nhƣng đâu phải vì cùng quẫn ma những ngƣời nông dân đều tìm đến đô thị để trở thành cái

hình nộm, ngơ ngáo, nhếch nhác giữa cái phố phƣờng huyên náo, tấp nập, ồn ào. Do "ngƣời

nhà quê" nay "bị quáng mắt về những ánh sáng của kinh thành", "nơi lắm của nhiều tiền"

nên họ mới "như con thiêu thân bay vào đống lửa" [155, 50]. Cái tâm lí hám nơi giàu sang,

"đứng núi nay trông núi nọ" đã làm cho cái nhân vật "ngƣời nhà quê" này lâm vào tình cảnh

bi hài, ê chệ. Ở đây, Vũ Trọng Phụng không chê cƣời "ngƣời nhà quê" nói chung mà chỉ diễu

cợt cái tâm lí của những ngƣời hão huyền, trông chờ vào cái vô vọng. Sau cả nửa thế kỉ, dạng

"người nhà quê" nhƣ thế lại đƣợc tái hiện trong cái Huyền thoại phố phường. Nhân vật Hạnh

đƣợc Nguyễn Huy Thiệp mô tả "Sinh ra ở nông thôn, y ít có dịp tiếp xúc với giới thƣợng lƣu

thành thị. Hạnh nhìn cuộc sống của bọn ngƣời giàu với nhiều khát khao thèm muốn" [193,

57]. Vì vậy, y không từ cả việc dùng tay mò chiếc nhẫn ở một rãnh bùn lõng bõng phân

ngƣời, để lấy lòng gia chủ. Và chính sự thèm muốn cháy

153

bỏng sự giàu sang nơi thị thành, cái "ngƣời nhà quê" thời hiện đại này đã trở thành một kẻ lì

lợm, trắng trợn, hung hãn để rồi chuốc lấy số phận bi thảm. Cho đến nay, cái nhân vật biếm

họa "ngƣời nhà quê" hám thành thị giàu sang mà trở nên kệch cỡm đáng cƣời, đâu phải đã

mất tính thời sự!

3.3.1.2 Những dung mạo dị dạng, hài hước

Khi đặc tả ngoại hình của nhân vật, Vũ Trọng Phụng thƣờng tập trung vào cái dị dạng

của dung mạo, điệu bộ, củ chỉ, lời nói để tóm bắt cái "thần" có tính hài hước của nó. Hình

ảnh một gia đình "một ông chồng Tây chân đi guốc mộc quai cao su lúi híu cầm bồ cào san

một luống rau" bên cạnh ngƣời vợ Nam "chễm chuệ ngồi trên ghế mây" chửi rủa tục tằn",

nhƣng ông chồng vốn quen với "những tiếng súng đại bác ở Verdun, nên không chấp chi

ngôn ngữ mọi rợ của một mụ đàn bà mọi rợ" [157, 14], thật là khôi hài, nhƣng tác giả "đành

lòng" coi đó nhƣ một "mẫu" về gia đình "hỗn hợp Pháp - Nam" "hạnh phúc"! Giới me Tây

hiện lên bao chân dung đáng cƣời. Me này thì, dù đƣợc trang điểm "từ đầu đến chân" nhƣng

cũng "không bài trí nổi cho mặt có đƣợc lấy một nét... me". Me kia thì có cái mặt thản nhiên

đến nỗi "cứ trơ nhƣ đá, vững nhƣ đồng (...) cứ "gan lì tƣớng công" nhƣ Từ Hải lúc chết đứng"

[157, 76], ngay trong "đêm tân hôn". Còn me già này, thân tàn ma dại thì "để tâm tƣ vào việc

khóc mƣớn", đã "vui vẻ mà khóc, tƣơi cƣời mà khóc, khóc một cách chu đáo, mà lại không

tính tiền, nghĩa là khóc gatuýt vậy" [157, 55]. Bút pháp hí họa của họ Vũ cũng "bài trí" hết

sức sinh động "hình ảnh tập thể" của giới Cơm thầy cơm cô. Đây là "anh chàng đầu trọc và

mặt bủng da chì ngửa cổ hể hể cƣời nhƣ một chú khách lồi rốn"; kia là "một anh chàng khác,

cái cổ cao ngỏng dán đến ba bốn lá cao, đƣơng ngồi ngửa cổ xem thiên văn trên trời". Và đây

là một bà già "nét mặt bần thần trông vô nghĩa lí", v.v... Trong giới bạc bịp,

154

gái điếm cũng có nhiều hình ảnh khôi hài nhƣ thế. Nhân vật Cả Ủn (ngƣời giữ két bạc của

làng bịp" có cái "thân thể khổng lồ lẫn bộ quần áo Tây phƣơng lại đeo thêm bộ mặt của dân

Nhật Bản (...). Nƣớc da còn hồng hào vói một ít râu để lối Hoa Kỳ của ông tỏ ra rằng ông

chƣa quá 40 tuổi". Thật là bức chân dung pha tạp, lố lăng của cái thời nhộn nhạo. Hình hài Ba

Mỹ Ký, một kẻ "sinh nghề tử nghiệp" vì cờ gian bạc bịp đã hiện lên một cách bi hài trong bài

văn tế đầy chất trào phúng:

"... Ngực lép quân bài, Mặt trông lộ tẩy.

(...) Hơn mấy chục năm lăn lóc... đổi bàn này, thay chiếu khác, bịp vung tàn tán, than

ôi cay vẫn hoàn cay.

Gần ba vạn cuộc miệt mài... phịa chuyện nọ, đặt cớ kia, gian lận như ranh, ngán nỗi

tấy không thấy tấy! [154, 223 - 224].

Cái hài ở nhân vật này là do "cái xấu hay một lỗi lầm" dại dột. Cũng thuộc "dân" làng

bịp, nhân vật Trùm ấm B là cả một sự tƣơng phản. Là một tên đại bịp, chuyên làm điều xấu

xa, nhƣng mồm luôn "triết lí": nào là nghề cờ bạc là "cầu cái khôn trong cái dại"; nào là "lấy

việc ác để trả nghĩa việc ác"; "không làm việc nhỏ mọn gì là bất nghĩa" [154, 41 - 42]. Đây là

điển hình của "cái rỗng tuếch và sự vô nghĩa bên trong được che đậy bằng một cái vỏ huênh

hoang tự cho rằng có nội dung và có ý nghĩa đích thực". Nhân vật thầy nho Kh trong Một

huyện ăn Tết cũng đƣợc họ Vũ biếm họa bằng bút pháp tƣơng tự. Thầy nho Kh con một ông

phó tổng giàu có, đã đỗ bằng sơ học Pháp - Việt lại "võ vẽ chữ nho" nên "tỏ ra hơi hổ thẹn về

cái nghề" bâu bám kiếm ăn quanh cái việc thảo đơn từ, làm giấy tờ ở huyện nha. Thầy đọc

luôn cả năm bài thơ Đƣơng luật "chửi bới cái công danh, phú quý mà thầy cầu mãi không

đƣợc nên thầy chán ghét..." và để

155

lộ ra những ngón xoay tiền cùng lời lẽ thô tục: "Mẹ kiếp! đƣợc rồi, sang năm thì rồi mày xem

ông! Ông ăn cơm mới rồi mới nói chuyện cũ" với đám lí dịch không đến đút lót. Ở nhân vật

nay cái hài còn bật ra trong sự mâu thuẫn giữa "sự chân thật và điều dối trá"...

3.3.1.3 Những nhân vật diễn kịch, làm trò

Để xây dựng những nhân vật trào phúng, hài hước, tác giả còn dùng thủ pháp kịch

hóa nhân vật, cho nhân vật diễn kịch, làm trò... Kẻ diễn kịch, làm trò "sành sỏi" nhất chính là

nhân vật Tôi. Anh ta có một nghệ thuật hóa trang "tuyệt xảo". Đầu mốt Philudốp, quần lĩnh

đen, áo cụt tay màu hoa cà, đeo kính đen, mặt mày "lấc cấc", "hơi du côn". Đây là một tay

"anh chị" "chính hiệu" trong giới Cơm thầy cơm cô, đủ "tƣ cách" "nếm cơm thiên hạ", ra vòi

máy nƣớc công cộng "chỉ hét một cái là lấy đƣợc hai thùng nƣớc". Nhân vật này "bờm xờm

với ba bốn con nhãi", "bắt nhân tình với một vú em"... và làm trò diễn kịch hát chèo... Bằng

"giọng nồi niêu" đóng vai ông già lƣng gù lụ khụ mà vẫn còn mê gái, trò diễn đã hết sức

"thành công" làm cho đám Cơm thầy cơm cô đang ngủ "đứa đã dậy rồi lấy chân đạp vào

bụng mỡ để đánh thức đứa khác...". Nhân vật này làm "náo loạn" nhiều chƣơng mục trong tác

phẩm. Nhiều nhân vật khác cũng được "ông vừa phóng sự" "cho" dóng kịch, làm trò để ông

cười cợt, biếm họa chính bản thân nó: các me diễn trò giả ghen, khi chồng Tây đi chơi gái về

là "không cần cắt nghĩa gì, cứ việc túm lấy tóc mà cấu mà tát", vì đƣợc một trận "đòn ghen"

nhƣ thế thì "anh chồng sung sƣờng có thể hóa dại, vì tƣởng đƣợc vợ yêu"! Các nhân vật trong

làng bịp thì thƣờng xuyên phải đóng kịch: Tham Ngọc đóng đủ các vai trong những cảnh bạc

bịp; Ký Vũ, Vân đóng vai kẻ làm ăn lƣơng thiện để lừa mẹ lừa cha; Ấm B sắm khá nhiều vai,

"đắc địa", nhất là vai ông nghị sang trọng. Khi cần gã còn bày cả một màn kịch, mình bị một

con bạc (chính là cháu của hắn) đâm trúng ngực

156

máu chảy lênh láng (bọc máu vịt đƣợc bó kèm với mảnh sắt mỏng che bên trong), nhằm ăn

vạ chủ sòng bạc, để "gỡ" lại số tiền thằng cháu bị thua... Những "vở kịch" do các nhân vật tự

diễn vừa bộc lộ tính cách của chính nó, vừa tạo ra nhiều tình huống hấp dẫn, bất ngờ, góp

phần làm cho nghệ thuật kể chuyện "hết sức linh hoạt... thoải mái và vui" [157, 7].

3.3.2. Tổ chức tình huống hài hước, trào phúng

Vũ Trọng Phụng không chỉ là "nhà hóa học của những tính cách" mà còn là một "nhà

ảo thuật" trong tổ chức tình huống, dẫn dắt tình tiết. Bản thân những tƣ liệu về cuộc sống và

con ngƣời mà ông thu vào trong ống kính phóng sự đã chứa đựng bao cái đáng cƣời, nhưng

họ Vũ đã biết tạo ra một hoàn cảnh thích hợp để cái đáng cười này có cơ bộc lộ ra thành

tiếng cười hài hước, trào phúng. Hoàn cảnh để cái đáng cƣời bộc lộ ra trong phóng sự của

ông thƣờng là những tình huống ngưọc đời, phi lí; tình huống éo le, tình huống mắc mưu -

lừa bịp... Những tình huống trên đều ít nhiều chứa đựng yếu tố bất ngơ, gây ra sự ngạc

nhiên...

3.3.2.1. Những tình huống ngược đời, phi lí

Cái đáng cƣời là một hiện tƣợng chứa đựng mâu thuẫn, trái với lôgích tự nhiên. Trong

phóng sự của họ Vũ có rất nhiều tình huống ngược đời, phi lí. Gái đĩ trong Lục xì, khi cạnh

tranh với kẻ mại dâm lậu thì xƣng: "chúng bà có ba tăng, là đĩ nhà nƣớc", nhƣng chỉ muốn

nhà báo gọi mình là "gái giang hồ" và rất bất bình khi bị gọi là gái đĩ! Ngƣợc lại với "tính cả

thẹn của nhà thổ" nay, các me Tây hết sức nổi nóng khi chàng phóng viên cho rằng "nghề"

lấy Tây là vì tình và họ đề nghị "cứ viết phăng rằng chúng tôi lấy họ là vì tiền, thế thôi!".

Thói đời, ăn vụng thì thƣờng biết chùi mép, nhƣng cái lão lục sự gia chuyên tham nhũng "đục

khoét thành thánh" lại "cứ nói ra" không thèm che đậy. Đám lính lệ, lính cơ hàng ngũ chỉnh

tề tiền hô hậu ủng, tiếng là đi tuần tra nhƣng thực chất lại là đi "ăn cƣớp"

157

có giấy phép. Bị hãm hiếp là một nỗi nhục, lã nỗi đau đối với một đời con gái, nhƣng với con

sen Đũi, chính cái "tai biến dâm sự" (bị thằng oẳn hiếp) lại là "bài học thực nghiệp" là "cái

thang" cho nó trèo lên cao, với giấc mơ thành cô đào, bà phán, bà kí... Rồi chuyện vô luân

trong cái tế bào gia đình giới chủ, vốn tƣợng trƣng cho nền nếp, nho phong thì: con gọi cha

bằng thằng, nuôi bố không bằng nuôi chó; vợ chồng gia "đấu khẩu" hết sức tục tằn; vợ chồng

trẻ lừa dối nhau; thằng nhỏ này thì đƣợc "kì lƣng cho cô chủ", "đƣợc ngủ giƣờng Hồng Kông

với bà chủ"; con ở gái thì đƣợc ông chủ thƣơng yêu hơn vợ, v.v... Tất cả đều "lộn tùng phèo",

nhưng đó lại là điều rất hữu lí, là hiện thực phũ phàng trong cái xã hội thối nát và giả dối.

Qua các tình huống ngƣợc đời, phi lí, tiếng cƣời đã bật lên, với những sắc thái, cung bậc khác

nhau. Đồng thời, chân dung, tính cách nhân vật cũng hiện lên rõ nét.

3.3.2.2 Những tình huống lừa bịp - mắc mưu

Tình huống mắc mưu - lừa bịp cũng xuất hiện nhiều lần trong phóng sự của họ Vũ.

Có đến một loạt nhân vật sa vào tình huống bị mắc mƣu và trở nên đáng cƣời: ông Phán bố

tên Vân, ông chú của bồi An, ông Nguyễn Đình Mầu... đều trở thành những con "mòng" hết

sức khôi hài của đám bạc bịp. Riêng ông Mầu đã bị Trùm Ấm B (đóng giả ông nghị đàng

hoàng) bịp lột sạch túi tiền ở canh bạc, lại còn mắc mƣu, vì cái chiêu bài hiếu đễ, danh dự,

nên phải rút thêm tiền đƣa cho hắn lại còn nhận gã nay là "tri kỉ"! Hai gã lê dƣơng, một già

một trẻ, đều mắc mƣu vì lá thƣ của me Thị B, ở mãi trời Tây vẫn gửi tiền dài dài về cho mụ

tiêu xài. Hai cô cậu con gia chủ mắc mƣu khiêu dâm của con sen Đũi. Anh học trò mắc mƣu,

tƣởng rằng cô gái con chủ nhà - ngƣời yêu của mình là trong sạch, nhƣng thực ra đã nhiều lần

vào nhà săm ngủ với đàn ông (Lục xì), v.v... Khôi hài hơn cả là cánh dân làng bịp: đi bịp

ngƣời lại bị ngƣời bịp, bịp non gặp bịp già,

158

"khôn sặc máu mồm" mà vẫn "sa hố", "Đánh bạc chỉ cốt thịt ngƣời ta mà càng hức bao nhiêu

lại càng tổ cho ngƣời ta thịt lại" [154, 108]. Cả đám đàn em của Trùm Ấm B dùng "siêu hình

học, thần linh học, tinh thần học" [154, 112] (cắm đinh, đổ nƣớc phân vào bát nhang nhà đối

thủ), nhƣng vẫn thua bạc chú Cắm "con trời". Cuối cùng Ấm B phải ra tay, dùng cả "khoa

học thái Tây" (quân xúc xắc kiểu con lật đật) "hạ" đƣợc gã ba Tàu này và đƣợc đồng bọn tôn

là "vị anh hùng cứu quốc" [154, 117], kiểu nhƣ Xuân Tóc Đỏ... Còn tên Vân thì điêu đứng

trước những tình huống khôi hài có tính nhân quả: dẫn bợm về nhà "thịt" bố đẻ, lấy tiền nuôi

gái (con Dung) và hắn lại bị gái "thịt" để lấy tiền nuôi thân (biến hắn thành mòng); chƣa kể

chuyện Vân còn bị đồng bọn (Tham Ngọc) tống tiền bằng lá thƣ mời Ấm B cho ngƣời về

"thịt" bố... Tình huống mắc mưu - lừa bịp đã phanh phui ra một sự thật nháo nhào xỏ xiên,

quay cuồng, toàn là những hạng người mạt cưa, mướp đắng, quỷ quái tinh ma, kẻ cắp bà già

gặp nhau trong một cái "sân chơi" mà đồng tiền bất chính là chúa tể. Xét đến cùng, đây là

thực tế của cái xã hội "chó đểu", chỉ vì đồng tiền mà những kẻ bất lương sẵn sàng chà đạp

lên tất cả mọi quan hệ, kể cả những người ruột thịt.

3.3.2.3 Những tình huống éo le, trắc trở

Ở phóng sự Vũ Trọng Phụng, có những khi cái cười lại xuất phát từ một tình huống

éo le, trắc trở mang tính hài hước. Mở đầu Kĩ nghệ lấy Tây là tình huống khó xử của anh

phóng viên: suýt bị một gã lê dƣơng hành hung, vì cho rằng anh ta đến làng me để "ăn trộm

ái tình", làm cho câu chuyện ngay từ đầu đã rất hài hƣớc. Xung quanh việc lấy Tây có bao

chuyện nực cƣời. Đây là tình huống gay cấn giữa hai "chàng" cùng đến cầu hôn với bà Kiểm

Lâm. "Cuộc chiến" giữa họ không kém gì Sơn Tinh -Thủy Tinh thời cổ. Chuyện "xe duyên"

của mấy bà mối không khác gì tiếu lâm: "bao tin đi mối lại... trầu cau, chạm ngõ... đại lễ, dẫn

cƣới chỉ là mấy

159

câu Tây giả cầy" [157, 42] cùng tiền hoa hồng là Tây - Ta "nên vợ nên chồng". Bất đồng

ngôn ngữ cũng gây bao chuyện nực cƣời: chồng bảo "đánh cái mũ" vợ lại đi "lau đôi giày";

bảo mua thuốc lá chƣa cuốn, lại đi mua về 20 điếu thuốc... Một số me, chồng đƣa ít tiền, lo ăn

không đủ hóa ra "lấy chồng lỗ vốn", nên phải "chạy làng". "Trong cái Kĩ nghệ lấy Tây, thợ

chỉ làm việc trên giƣờng" và tuy biết rằng đó là cái nghề "khả bỉ", nhƣng các me lại trách cứ

nhau "không có nhân cách gì cả, không biết giữ danh giá cho ngƣời xuất thân đi lấy Tây"! Và

cái "thƣờng trƣờng" này không kém phần sôi động: cạnh tranh, dèm pha, phá giá, hớt tay trên

nhau. Có cả chàng ngƣời Nam lấy vợ đầm lai để mà "đào mỏ". Cái nghề lấy Tây lại còn chịu

một "quy luật" nghiệt ngã: phú quý thụt lùi, đầu tiên lấy Tây "sang" (Tây xivin); sau mất giá

dần phải lấy Côlônhần, rồi tây lê dƣơng cũng chƣa chắc đã đƣợc! Về già, nhiều me thân tàn

ma dại phải đi làm nghề khóc mƣớn, lúc "phẫn chí" chỉ biết lột truồng con ra đánh đòn nhƣ

bà Ách Nhoáng...

Có những khi nhà phóng sự gặp phải tình huống éo le. Định tâm làm một cuộc điều

tra phỏng vấn, để lấy tƣ liệu, nhƣng gặp phải một đối tƣợng cứ nhƣ vừa "ở trên trời rơi

xuống":

- "Còn thằng này nữa, mày cũng nghèo à?

- Tôi không biết.

- Bố mày đâu?

- Tôi không biết.

- Mẹ mày đâu?

- Tôi không biết

- Làng mày ở đâu?

- Tôi có làng bao giờ." [155, 61]

160

Những tình huống nhƣ trên đều rất khôi hài, nhưng đấy lại hoàn toàn là sự thật. Cái

hài ở đây chỉ nhƣ một lớp vỏ mỏng bên ngoài, không che nổi những điều bi thảm, bi thƣơng

bên trong của những số phận, những cuộc đời đầy bất hạnh, khốn khổ. Tạo ra những tình

huống có tính hài hƣớc này, họ Vũ không phải là "những ngƣời thích đùa", vì ông không phải

là kẻ đứng ngoài, đứng trên những cái bi hài đó. Ẩn dưới cái nhìn hài hước là những niềm

trắc ẩn. Chẳng hạn, ngay sau đoạn "phỏng vấn" thằng bé đi ở nói trên, là một lời than xót xa:

"Nó chẳng biết gì cả. Nó chỉ mới độ lên tám tuổi là cùng mà thôi!" [155, 61].

3.3.3. Một lối văn giễu nhại

Từ điển thuật ngữ văn học cho rằng nhại là "Một thể văn châm biếm dùng sự bắt

chƣớc để chế diễu một tác phẩm hoặc cả một trào lƣu nghệ thuật. Phƣơng tiện của nhại là bắt

chƣớc phong cách" [61, 155]. Phóng sự Vũ Trọng Phụng không phải là một thể văn châm

biếm, nhƣng trong nhiều trƣờng hợp, ông dùng lối văn giễu nhại nhƣ một phƣơng tiện để

châm biếm, mỉa mai những đối tƣợng mang cái xấu xí, đáng cƣời.

Là một nhà văn xã hội "tả chân triệt để" chuyên dùng ngồi bút "tả thực cái xã hội

khốn nạn, công kích cái xa hoa, dâm đãng của bọn ngƣời có nhiều tiền, kêu ca những sự

thống khổ của dân nghèo bị bóc lột..." [4, 130], họ Vũ vốn không mấy cảm tình với văn

chƣơng lãng mạn, loại văn chƣơng mà, theo ông, đã "chạy xa sự thực bằng những danh từ

điêu trá". Trong sáng tác, dƣờng nhƣ, mỗi khi có dịp là ông lại đem nó ra giễu nhại. Trong

Cơm thầy cơm cô, họ Vũ cho rằng: "Một thằng nhỏ không biết thêu dệt nhƣ một nhà văn..."

[155, 68]. Trong vở kịch Phân bua một nhân vật lại bị mắng: "Mày hay thêu dệt (...) hay điêu

toa thế thì sao không đi ma làm nghề viết báo, thành nữ sĩ cho nó hợp với tính tình một thể!".

Cái "thói" điêu toa, thêu dệt mà ông đay đả không phải nhắm vào nghề văn, nghề

161

báo nói chung và càng không "liên đới" gì đến các nhà văn "cùng chí hƣớng" vói ông, luôn

coi văn chƣơng là "sự thực ở đời". Xét trong bối cảnh cụ thể, cái điêu toa, thêu dệt này là của

loại văn chƣơng mà ông cho là "điều trá", đáng phê phán.

3.3.3.1. Bắt chước lời văn, giọng điệu

Xuất phát từ quan niệm nhƣ vậy, Vũ Trọng Phụng đã giễu nhại loại văn chƣơng mà

ông cho là chỉ "than mây khóc gió", bằng cách bắt chước lời văn, giọng điệu của nó để diễn

tả những cái "trần tục" xấu xí của cuộc đời. Trong Cạm bẫy người, tên Vân thua bạc, bị

ngƣời tình và đồng bọn lừa phản, không còn một xu dính túi... Tên bịp này bộc bạch: "Tôi

đau lòng quá, chán đời quá, khổ quá, dễ thƣờng đến hóa ra... thi sĩ mất! Đã cay bởi thua bạc,

chán nản bởi khan xu, lại đau đớn trong tình trƣờng (...). Tôi cần tìm một nơi vắng vẻ. Tôi

mang trong lòng cái đau đớn của một "thi sĩ" đến một bàn kem ở Bờ Hồ" [154, 191 - 194];

"Chẳng lẽ tôi lại dùng cái giọng "em chết mất anh ạ" của trai gái trong những tiểu thuyết bi

tình; dù sao tôi cũng cố gƣợng cƣời, chỉ mong thƣ không đến nỗi khôi hài đã là may!" [154,

191]. Không chỉ nhại lời văn, giọng điệu của văn chương lãng mạn, họ Vũ còn mỉa mai cái

"bút pháp" của nó. Cũng trong Cạm bẫy người, sau khi vẽ cái chân dung gian manh, bần tiện

của Thƣợng Ký, một tên trùm bạc bịp đáng bị phỉ nhổ, thì nhà phóng sự nêu lên "giả thuyết":

"Biết đâu sẽ chẳng có nhà văn sĩ viết tiểu sử con ngƣời ấy bằng ngọn bút lãng mạn chứa

chan thi vị mơ màng, đại để nhƣ sau này: "Lúc thiếu thời, ngài thật là một ngƣời biết thơ đạo

trung dung. Ngài thấy dân gian phải lầm than trăm đƣờng nghìn nỗi..." [154, 224]. Trong Kĩ

nghệ lấy Tây, họ Vũ đã liên tƣởng cuộc đời "oanh liệt" của ba Đội Tứ, một me Tây cỡ "hổ -

hoặc sƣ tử" với con hổ "nhớ rừng" than về "thời oanh liệt nay còn đâu" của Thế Lữ (trang

62). Còn bà Kiểm Lâm, một nhân vật me Tây, sau bao năm lăn lộn

162

trong tình trƣờng đã hóa ra "một con quái vật" (trang 33), nên nhà phóng sự đã "đành" phải

"ghen" với nhân vật "có giá" của thơ lãng mạn: "Than ôi! Bà Kiểm Lâm nào phải đâu còn là

ngƣời mà "mê nàng bao nhiêu ngƣời làm thơ!" nhƣ Mỵ Nƣơng của ông Nguyễn Nhƣợc

Pháp..." [157, 68]. Không chỉ nhại Thơ mới; họ Vũ còn giễu cả nhà phê bình của nó. Trƣớc

tình cảnh lấy Tây bị lỗ vốn, bị Tây "vặc" phải tìm đƣờng "chuồn" nhà phóng sự bỗng mỉa

mai: "Nào cô Nguyễn Thị Kiêm đâu?"

3.3.3.2 Giễu nhại bằng so sánh - tương phản

Trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, lối giễu nhại còn được thể hiện bằng thủ pháp

đối lập. Cuộc "ve nhau" của giới Cơm thầy cơm cô "hạ lƣu", cái tên thì xấu xí (con Đũi), diễn

ra tại "một vỉa hè, gần đống rác... cả hai cứ để ống quần vén lên đến đùi", chứ không phải là

"cuộc tình" thi vị của Đạm Thủy - Tố Tâm, Mộng Hà - Lệ Anh ở đƣờng Cổ Ngƣ hay bãi biển

Đồ Sơn, nhƣng cuộc "ve nhau" này vẫn đƣợc tác giả coi là của một cặp "uyên ƣơng", chỉ

"khốn nạn thay" là "không biết kiểu cách"! [155, 29 - 30].

Dƣơng nhƣ giễu nhại nhƣ thế vẫn chƣa đủ, tác giả "Lục xì" còn "lôi tuột" cả Nàng

Thơ và nhân vật của tiểu thuyết lãng mạn vào cái "Viện bảo tàng những diều ô uế". Tuy

"Nàng Thơ của nhà Lục xì" chỉ là bài Phong tình ca khúc, đƣợc viết theo lối "tả chân" đến

mức không thể nào "chân" hơn đƣợc nữa (dạy về vệ sinh cho gái đĩ mù chữ), ấy vậy mà nó

không hề mất đi vẻ "thơ mộng" lãng mạn: "Dƣới một gốc cây, dƣới bóng trăng thanh, bên

một dòng suối, có một phụ nữ búi tóc sè goòng, ôm một cây đàn nguyệt, ý chừng đƣơng ca

bài thơ vệ sinh" này [155, 89 - 90]. Và cũng theo tác giả thì: "Phong tình ca khúc, Nàng Thơ,

đem những vần "du dƣơng huyền ảo" dắt tay khoa học đi đến chỗ chiến đấu những ác quả của

thần Bạch Mi" [155, 154]. Sự giễu nhại càng trở nên mạnh mẽ khi nhà phóng sự cho rằng

"Sao lại đƣợc gọi gái đĩ là gái đĩ? Đáng lẽ tôi phải gọi họ thí dụ là... Nàng

163

Thơ" [155,132] (cũng xin đƣợc nhắc lại trong bài bút chiến "Để đáp lồi báo Ngày nay: dâm

hay không dâm", Vũ Trọng Phụng đã từng nói: "Tôi không biết gọi đĩ là nàng... thi vị hoặc tô

điểm cho gái đĩ... đến nỗi đọc xong truyện ngƣời ta chỉ thấy một gái đĩ là làm gƣơng cho thế

gian noi theo" [4, 127] nhƣ "văn phái" của Nhất Chi Mai đã làm). Chính vì vậy, sự giễu nhại

đối với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn đã chuyển sang mức châm biếm trực tiếp: khi quan sát

gái điếm trong Một ngày khám bệnh ở nhà Lục xì, họ Vũ cho rằng: "trong số tám chục ả ấy,

cũng có một vài thị là có cái ngây thơ, đài các đầy thi vị của cô Tuyết trong Đời mưa gió của

Khái Hƣng" [155, 141].

Có thể nói, bằng lối văn giễu nhại, châm biếm văn học lãng mạn nhƣ trên, Vũ Trọng

Phụng nhƣ vẫn tiếp tục tiến hành cuộc tranh luận của mình với Nhất Linh, Thái Phỉ... Điều

này cho thấy sự nhất quán về quan điểm nghệ thuật của ông. Sự giễu nhại này đã làm chất

trào phúng của phóng sự Vũ Trọng Phụng thêm sâu đậm. Tuy quan điểm của ông cơ bản là

đúng đắn, nhƣng cũng phải thấy rằng, do những định kiến quá nặng, ông không thấy cái phần

lành mạnh, tích cực của văn học lãng mạn. Vì vậy sự châm biếm ở đây có tính đả phá, phủ

nhận.

Lối văn giễu nhại của họ Vũ còn "đụng chạm" đến khá nhiều đối tƣợng khác trong

phạm vi hiện thực đƣợc chiếm lĩnh bởi những thiên phóng sự của ông. Chẳng hạn, ông ví nạn

mại dâm nhƣ một con quái vật không biết sợ ai. Nó lớn nhƣ một trái núi. Bao nhiêu sách vở

loài ngƣời viết ra để chống nó càng chất đầy xung quanh thì nó càng vƣơn mình cao hơn. Vì

vậy, đối với "mãi dâm là không thể "cai trị" đƣợc" [155, 94]. Cùng với việc nhại khẩu khí

của các nhà "cai trị", ông còn mô tả, nhạo báng sự lúng túng, bất lực của nhà nƣớc thuộc địa

trong dự án này, kế hoạch nọ, nhằm giải quyết tệ nạn trầm kha này. Qua lời một viên cảnh sát

Tây: "Các ông là nhà báo cả. Thế ở những "con vịt" nào vậy. Thôi đi, rồi các ông lại đi kể

164

những chuyện tam toạng" [155, 110], tác giả đã nhại cái tên của báo Vịt Đực, Con ong, v.v...

thời đó. Họ Vũ còn nhại Kiều, khi mô tả gái đĩ: "Bọn gái của phức đƣờng sống những đoạn

đời "thâm khuê kín cổng cao tƣờng" cũng nhƣ những thiếu nữ cấm cung của cái giòng giõi

quý phái" [155,200]. Ông còn nhại đám gái đĩ "con trời", gái đầm "chính hiệu", nhại tiếng tây

bồi của me Tây; nhại tiếng Tàu của mấy "chú khách"... Bản thân từ "kĩ nghệ" trong cái tiêu

đề Kĩ nghệ lấy Tây cũng bao hàm sự giễu nhại luận điệu "văn minh", "khai hóa" của thực dân

Pháp. Tuy nhiên, sự giễu nhại văn học lãng mạn đã nổi lên như một trong những chủ âm

xuyên suốt chuỗi cười nhại trong phóng sự của họ Vũ. Đây là một trong những dấu hiệu riêng

của tiếng cƣời trào phúng Vũ Trọng Phụng so với các tác giả đƣơng thời.

Tiếng cƣời trào phúng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng rất đậm màu sắc dân gian. Hai

gã lê dƣơng một trẻ, một già cãi cọ, mắng nhiếc nhau tranh đƣợc làm chồng bà Kiểm Lâm

đƣợc ông mô tả nhƣ "cuộc chiến" giữa Sơn Tinh - Thủy Tinh tranh nàng Mị Nƣơng trong

truyền thuyết. Màn kịch nhân vật Tôi diễn đúng là một vở hề chèo: từ cái "giọng nồi niêu",

nội dung bài ca cho đến động tác diễn xuất. Màn chèo hài này không chỉ "chinh phục" giới

cơm thầy cơm cô mà còn làm thích thú cả độc giả phóng sự. Là một me Tây về già, bà Đội

Chóp chuyên đi khóc ma mƣớn, tuy khóc với động cơ từ thiện, khóc gatuýt (miễn phí) theo

tinh thần "nhân đạo" phƣơng Tây, nhƣng lời khóc thảm sầu, thống thiết, rất đúng "bài bản

dân gian": "Ôi ai ơi là ai ơi: Trăm đưòng nghìn nỗi, ai ơi... Ai đi đâu bỏ nhà bỏ của, bỏ anh

em cha mẹ, họ hàng, ai ơi!". Bài văn tế Ba Mỹ Ký là nghệ thuật nhại văn tế để kể "công đức"

của một kẻ "sinh nghề tử nghiệp" vì làng bạc bịp, nhƣng lời lẽ khôi hài rất đỗi dân gian:

"Thôi chẳng may phận mỏng, ngắn đời - Xong nay đã kèn đây, trống đấy!". Tình huống "ông

nói gà, bà nói vịt" trong tiếu lâm, hề chèo cũng đƣợc họ Vũ dùng tạo tiếng cƣời đối

165

với cái "nghề" lấy Tây: quan tòa thì cứ hỏi "làm nghề gì", thị me Tây nọ lại trả lời lấy hết ông

Tây này đến ông Tây khác. Khi tòa kết luận thị ta "vô nghề nghiệp" (Sans profession) thì thị

bất bình (nhƣ bị xúc phạm), và khẳng định mình có nghề nghiệp "nghiêm chỉnh": "Làm

nghề... làm nghề lấy Tây!". Tình huống mắc lỡm, mắc mưu trong truyện cƣời dân gian cũng

đƣợc sử dụng rất thƣờng xuyên trong phóng sự Cạm bẫy người để tạo tình huống trào phúng:

những kẻ "khôn sặc máu mồm" nhƣ ông chú của Bồi An, ông Phán bố của Vân... mà vẫn bị

lừa; kẻ đi bịp bị ngƣời bịp lại, rồi bịp non gặp bịp già, v.v... đều là những màn hài kịch dân

gian. Sắc thái dân gian trong tiếng cƣời trào phúng của Vũ Trọng Phụng đã làm cho bức tranh

hiện thực thêm phần sống động. Bằng vốn hài dân giã, họ Vũ đã góp phần dân tộc hóa một

thể văn Tây. Về phƣơng diện này, chƣa thấy có ở những cây bút phóng sự khác.

Trên đây, chúng tôi đã trình bày những đặc điểm cơ bản về phƣơng diện nghệ thuật

của phóng sự Vũ Trọng Phụng. Qua khảo sát, chúng tôi thấy ở phóng sự của họ Vũ có cả một

nghệ thuật khám phá hiện thực và khai thác tư liệu. Với một cái nhìn sắc sảo và tinh tế, họ

Vũ đã lựa chọn đƣợc nhiều tƣ liệu tiêu biểu chứa đựng những yếu tố thông tin - thẩm mĩ cao.

Đối với những tệ nạn xã hội, ông đã tập trung mô tả những khía cạnh cơ bản mang tính quy

luật, làm sáng rõ bản chất của từng hiện tƣợng. Gắn với từng tệ nạn, từng vấn đề xã hội là

những giới ngƣời với những "mẫu hàng" riêng biệt. Cách tiếp cận hiện thực cũng rất linh

hoạt: hiện tƣợng này đƣợc nhìn dƣới dạng một tổ chức; hiện tƣợng kia lại đƣợc nhà phóng sự

xem xét ở góc độ nghề nghiệp, kĩ nghệ... Đây là cách nhìn mới về một sự thật, làm cho vấn

đề vừa nổi bật và sâu sắc hơn. Không chỉ năng động trong tiếp cận, họ Vũ còn thể hiện sự

sáng tạo trong khai thác tƣ liệu. Điều này thể hiện ở việc ông luôn lựa chọn những "mẫu

ngƣời" tiêu biểu chứa

166

nhiều năng lƣợng thông tin. Ngoài những tƣ liệu trực tiếp, ông còn sử dụng cả tƣ duy tƣởng

tƣợng để tái hiện tƣ liệu. Do tƣ liệu đƣợc khai thác dƣới ánh sáng của tƣ duy tổng hợp nên tƣ

liệu đƣợc tái hiện dƣới dạng một bức tranh nhân sinh vừa mang tính khái quát, vừa cụ thể,

sinh động.

Việc sử dụng những yếu tố của nghệ thuật tiểu thuyết đã làm cho phóng sự của họ Vũ

có chất văn học đậm đà. Chất tiểu thuyết đƣợc biểu hiện ở nghệ thuật miêu tả, xây dựng một

quần thể nhân vật sống động, trong đó có những nhân vật có một "bề dày" cả về ngoại hình

lẫn nội tâm mang dáng dấp của một tính cách điển hình. Sự sáng tạo trong việc nhân vật hóa

ngƣời kể chuyện (nhân vật Tôi), việc di chuyển linh hoạt điểm nhìn... đã tạo ra một lối thuật

kể biến hóa, hấp dẫn. Sự "dẫn truyền" yếu tố tiểu thuyết vào tác phẩm phóng sự là một điểm

độc đáo trong nghệ thuật phóng sự của họ Vũ. Hiện tƣợng này có cội nguồn từ quan niệm của

ông về thể loại. Theo ông thì: "Tiểu thuyết và phóng sự là hai thể văn gần nhau. Phóng sự là

thiên truyện kể với cơ cở là những điều mắt thấy tai nghe..." [89, 125]. Mặt khác, khả năng

chiếm lĩnh cuộc sống ở tầm khái quát tổng hợp và xu hƣớng khái quát hóa trong cây bút của

họ Vũ cũng là một trong những nguyên do của yếu tố tiểu thuyết trong các phóng sự này.

Bằng việc xây dựng những nhân vật hài hước, tổ chức tình huống trào phúng và sử

dụng một lối văn giễu nhại, Vũ Trọng Phụng đã tạo nên một tiếng cƣời nhân văn: phê phán,

châm biếm, trào lộng, mỉa mai... những cái xấu xí, lạc hậu trong xã hội đƣơng thời, "tống

tiễn" nó vào quá khứ, giúp cho sự thắng lợi của cái đẹp, cái tiên tiến, trung thực... nhƣ mong

muốn sâu xa của ông.

167

CHƢƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM LỜI VĂN PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG

Những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật đƣợc nêu ra ở những chƣơng trên là do sự

gợi ra của lời văn, vì văn chƣơng là nghệ thuật dùng ngôn từ làm phƣơng tiện biểu đạt, "ngôn

ngữ là yếu tố trƣớc tiên của văn học" (M. Gorki). Theo M. Bakhtin thì lời văn "là ngôn ngữ

trong tính toàn vẹn cụ thể và sinh động của nó, chứ không phải ngôn ngữ với tính cách là đối

tƣợng chuyên biệt của ngôn ngữ học" [7,170]. Xuất phát từ quan niệm nhƣ thế, trong công

trình khảo cứu "Những vấn đề thi pháp của Đôx-tôiepxki" nổi tiếng của mình, ông đã dành

hẳn cả một chƣơng (chƣơng V) gồm 79 trang bàn về lời văn của nhà văn thiên tài này [7,170-

248]. Theo phƣơng hƣớng đó, để tìm hiểu đặc điểm phóng sự Vũ Trọng Phụng, Luận án này

cũng xin mở thêm một hƣớng tiếp cận: Khảo sát đặc điểm lời văn của "ông vua phóng sự",

nhằm tìm những nét riêng trong cách phô diễn của họ Vũ ở một thể văn xuôi mới mẻ lúc

đƣơng thời.

Mỗi nhà văn có vốn từ ngữ và câu văn riêng, gọi chung là vốn diễn đạt. Trong vốn

diễn đạt này, mỗi nhà văn lại có sở trƣờng và thói quen diễn đạt nhất định. Những yếu tố này

đã làm nên đặc điểm riêng của lời văn nghệ thuật của mỗi cây bút. Với sở trƣờng và thói

quen diễn đạt riêng của mình, "ông vua phóng sự" Vũ Trọng Phụng đã tạo ra một lời văn giàu

chất khẩu ngữ, một lời văn đa giọng điệu, một lời văn vừa mang tính truyền thống và hiện

đại.

168

Vấn đề đƣợc đặt ra ở đây là Vũ Trọng Phụng đã ưa sử dụng, quen sử dụng, thành

thạo sử dụng những phương tiện ngôn ngữ nào của tiếng Việt và đã tiếp thu những yếu tố nào

của ngôn ngữ bên ngoài, để tạo nên một lời văn có những đặc điểm trên và đặc điểm lời văn

đó đƣợc thể hiện ra sao? Đó chính là những vấn đề mà chúng tôi tập trung khảo sát trong

chƣơng 4 này.

4.1. Chất khẩu ngữ trong lời văn phóng sự

Những trang phóng sự của Vũ Trọng Phụng đều tƣơi rói một thứ ngôn ngữ đời sống.

Có đƣợc điều này vì trong lời văn của ông giàu chất khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang

màu sắc khẩu ngữ.

Sự đậm đà màu sắc khẩu ngữ trong lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng đƣợc thể

hiện ở độ phân bố của khẩu ngữ, ở các lớp khẩu ngữ, ở lượng thành ngữ tục ngữ và các biện

pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ. Điểm độc đáo ở đây là họ Vũ đã huy động "sức mạnh

tổng hợp" của khối lƣợng khẩu ngữ phong phú, dồi dào này vào việc phản ánh, đánh giá hiện

thực; vào việc xây dựng nhân vật, khắc họa tính cách... hướng thẳng vào nội dung vấn đề mà

mình trình bày, mô tả.

4.1.1. Những yếu tố khẩu ngữ

Ở bất cứ trang phóng sự nào của Vũ Trọng Phụng, ngƣời đọc cũng có thể nhận ra

giọng văn khẩu ngữ hàng ngày thân quen và bị lôi cuốn bởi giọng văn này. Khẩu ngữ hàng

ngay không chỉ "có mặt" trong lời nhân vật, mà còn xuất hiện ngay cả trong lời nhân vật Tôi-

Tác giả. Chẳng hạn, sau khi chứng kiến xong cuộc "đấu khẩu" giữa hai gã lê dƣơng tranh

nhau làm chồng bà Kiểm Lâm (trong Kỹ nghệ lấy Tây), nhân vật Tôi-tác giả kể: "Ông lính già

chả biết có để ý đến những lời đâm bị thóc chọc bị gạo kia không mà đã xin phép tôi cởi bỏ

áo nhà binh khi trò chuyện, thì hãy "bẻ vài miếng cùi bánh" đã. Câu nói xỏ lá của Hiếc tôn

bắt tôi phải tức khắc nhận lời. Nếu lão già này có mượn chén đưa lời thì tôi sẽ tùy cơ ứng

biến

169

sau" [157, 72 -73] (những chỗ in nghiêng là do chúng tôi, ở các dẫn chứng sau cũng vậy). Có

rất nhiều câu kể của tác giả ở các thiên phóng sự giàu yếu tố khẩu ngữ. Có thể nói khẩu ngữ

hàng ngày dày đặc trong các trang phóng sự của họ Vũ. Đây là thành tố quan trọng làm cho

lời văn của ông vang động những âm thanh nhƣ chính cuộc đời, có sức lôi cuốn, hấp dẫn

mạnh mẽ.

4.1.1.1. Các lớp khẩu ngữ

Không chỉ riêng Vũ Trọng Phụng mới dùng khẩu ngữ hàng ngày trong văn chƣơng

mà những nhà văn lớn cùng thời nhƣ Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố.... đều quen dùng, ƣa

dùng khẩu ngữ, triệt để khai thác các "nguồn" khẩu ngữ. Nguyễn Công Hoan rất sành lớp

khẩu ngữ thành thị, Ngô Tất Tố rất thạo lớp khẩu ngữ nông thôn. Vũ Trọng Phụng lại nhƣ

thành thục tất cả: trong văn phóng sự của ông có đủ khẩu ngữ của mọi hạng ngƣời mà ông

mô tả, từ me Tây, gái điếm, kẻ cơ gian bạc bịp, lính cơ, lính lệ... ở thị thành đến con đời con

ở từ thôn quê ra. Đây là khẩu ngữ của một me Tây nói về ba Cẩm:

-"... Phải lắm, đến bà Hai Yểnh là nguôi đã sống thâm căn cố đế bên này, cửa hàng

cát cút (casse croute) đắt, cửa hàng xe đạp chạy mà chỉ bao số chị em "chạy làng" cũng đến

lệch nghiệp nữa là trần nhƣ bà ta. Đã ít xu mà cờ bạc thì tất phải chết" [157, 37].

Và đây là khẩu ngữ của con sen Đũi:"... thầy tôi hiện giờ kéo xe! Thật thân làm tội

đời, đƣợc cái tiếng hão thì mất nghiệp, làm khổ con, làm khổ vợ. Ngày nay đi kéo xe, có khi

thiếu tiền, bị cai nó đá cho lệch mạng mỡ, nhƣng tôi chả thương! Cho chết! Có thế mới biết

thân, mới đáng đời" [155, 30].

Còn đây là lời đáp của một tay "chuyên gia bạc bịp:"

- "Ông phát tài?

170

- Phát tài phải gió!

- Sao ông vẫn bảo săn mòng, két nhƣ thƣờng?

- Đã đành thế rồi, mòng, két vẫn có đấy, nhƣng ít con có lườn lắm, mà tạ mỗi ngày

một đông tấy lên, chia năm xẻ bẩy đi, còn ăn thua gì nữa" [154, 203].

Các nhân vật trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đều đƣợc ông "cho phép" nói năng theo

đúng tiếng nói của chính nó. Khẩu ngữ trong phóng sự Vũ Trọng Phụng "y hệt" như từng

hạng người, nên đã tạo ra một hợp âm tiếng nói nhƣ chính đời sống. Giới me Tây với âm

ngọng nghịu của thứ tiếng Tây "giả cầy" pha tiếng Việt: "Maniét Bay dan, don Bố cu tốt! Toa

vù loa ê pu dê"; "Bạc đồng me sừ chớ có mà phát xê"... "Dân "con trời" lại nói tiếng quan

thoại xen với tiếng Việt thành một thứ tiếng "hẩu lốn", nhƣ "Tủi nà ma ni ấy có được

không?". Giới cờ bạc bịp có hẳn một "kênh" ngôn ngữ riêng, thứ biệt ngữ pha rất nhiều tiếng

lóng: mòng, két, thiếc, trạc xếch, giác mùi, giác bóng, róc mấu, xiếc, v.v...

Có thể nói các lớp từ khẩu ngữ đủ loại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã là một

thành tố làm nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm. Ở ba thí dụ trên, những từ chạy làng,

lệch nghiệp, trần, ít xu đã phản ánh nỗi khốn cùng của kiếp me. Tiếng Tây bồi cát cút đích thị

là ngôn ngữ của "vợ" Tây. Và những thành ngữ thân làm tội đời, lệch mạng mỡ... cho thấy sự

khốn cùng của tình cảnh gia đình kẻ đi ở. Hoặc chỉ cần những yếu tố khẩu ngữ nhƣ, có lườn

(có tiền), đông tấy lên, chia năm xẻ bảy cũng đã "cung cấp" cho ta thấy sự tràn lan của nghề

cờ bạc bịp và sự giành giật miếng ăn giữa bọn chúng. Mặt khác, chính những thành tố khẩu

ngữ này đã làm nên phong cách diễn đạt riêng của Vũ Trọng Phụng.

171

4.1.1.2. Lượng thành ngữ, tục ngữ mang màu sắc khẩu ngữ

Trong các phóng sự của mình, họ Vũ dùng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ. Chúng tôi

xin trình bày bản thống kê số lƣợng các thành ngữ, tục ngữ này trong các phóng sự. Nhân

đây, chúng tôi cũng tiến hành thống kê số thành ngữ, tục ngữ trong tiểu thuyết Số đỏ, phóng

sự Việc làng của Ngô Tất Tố và Tôi kéo xe của Tam Lang.

Tình hình cụ thể nhƣ sau:

TÁC PHẨM SỐ TRANG SỐ THÀNH NGỮ SỐ TỤC NGỮ

Giông tố 336 61 10

Số đỏ 236 50 15

Cạm bẫy người 228 58 1

Kỹ nghệ lấy Tây 75 32 2

Cơm thầy cơm cô 64 44 1

Lục xì 168 8 2

Một huyện ăn Tết 20 25 6

Tôi kéo xe 124 10 1

Việc làng 98 19 1

(chúng tôi xin đính kèm bản thống kê này ở phần Phụ lục. Riêng con số thống kê tác

phẩm Giông tố là của ông Nguyễn Văn Mệnh ở Tạp chí ngôn ngữ số 3, năm 1978).

Qua bảng thống kê cho thấy, tuy số trang của các phóng sự Vũ Trọng Phụng thƣờng ít

hơn tiểu thuyết, nhưng số lượng thành ngữ, tục ngữ được dùng lại nhiều hơn. Điều này

chứng tỏ, ngôn ngữ phóng sự là một ngôn ngữ "áp sát" đời sống hơn ngôn ngữ của tiểu

thuyết. Ở Việc làng, Ngô Tất Tố dùng rất nhiều khẩu ngữ nông thôn, nhƣng ông ít đƣa vào

lời văn những thành ngữ, tục ngữ nguyên vẹn mà chỉ dùng ý hoặc một vế của nó.

Tuy trong khẩu ngữ còn nhiều yếu tố khác, nhƣng thành ngữ, tục

172

ngữ là một đơn vị từ vựng, là một thành tố tạo nên diện mạo của phong cách khẩu ngữ. Với

chức năng là thông báo và định danh, các thành ngữ, tục ngữ với số lƣợng hết sức phong phú

và lại được dùng nguyên vẹn nhƣ một đội quân tinh nhuệ vừa sinh động vì giàu tính hình

tƣợng vừa có tính khái quát trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng đã có tác dụng gợi ra

một cuộc sống rất thực, làm bức tranh hiện thực của ông rất gần với cuộc sống, "y hệt" như

cuộc đời.

Sự phong phú của thanh ngữ, tục ngữ trong phóng sự còn biểu hiện ở chỗ, ông không

chỉ dùng đúng các thành ngữ, tục ngữ dân gian nói về các giới ngƣời và nghề nghiệp của họ,

mà còn khai thác đƣợc những thành ngữ lóng của lớp ngƣời hạ lƣu, dƣới đáy xã hội, diễn tả

đúng tình cảnh và tiếng nói của họ. Chẳng hạn:

Ở Cạm bẫy người có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ đọc lên biết đấy là cờ gian, bạc bịp,

nhƣ "thay hình đổi dạng", "che mắt thế gian", "thiên biến vạn hóa", "rong chơi bài bạc", "hỗn

quân hỗn quan", "quay tít nhƣ con thò lò", "bán trời không văn tự", "thiên phƣơng bách kế",

"biết rõ mƣời mƣơi", v.v... Đặc biệt là những thành ngữ lóng chỉ có giới cờ bạc bịp mới dùng,

nhƣ "Đào ngoái xoáy xỏa", "nhét đất thó vào mũi" (mà lấy tiền), con bạc "mắt nhƣ rắn ráo",

"khôn sặc máu mồm" (thành ngữ dân gian là "khôn nhƣ rái", "khôn có nọc").

Ở Kỹ nghệ lấy Tây có những thành ngữ nhƣ "trao xƣơng gửi thịt", "lá gió cành chim",

"bắt đƣợc quả tang". Me Tây dùng thành ngữ Pháp "bồi": "Ba xí ba tú" (Par si par tout).

Thậm chí, tác giả còn sửa đổi một vài thành tố của tục ngữ dân gian, "nhại" lại để châm biếm,

mỉa mai: "Một ngƣời lấy Tây cả họ đƣợc nhờ", v.v...

Ở Cơm thầy cơm cô có những thành ngữ nhƣ "chết rã họng", "năm cha ba mẹ", "ăn

chực nằm chờ", "trầm luân khổ ải", "con ong cái kiến", "cơm

173

thừa canh cặn"... Và có những thành ngữ mang tiếng nói của những ngƣời đi ở, nhƣ "ăn đói

làm no", "khổ tuyệt trần đời", "nếm cơm thiên hạ", v.v...

Ở hai phóng sự còn lại, thành ngữ, tục ngữ cũng ở dạng nhƣ thế. Ngoài những thành

ngữ, tục ngữ đƣợc dùng nguyên vẹn, Vũ Trọng Phụng cũng hay dùng ý hoặc một vế của

nhiều thành ngữ, tục ngữ khác.

Một câu hỏi đƣợc đặt ra: vì sao Vũ Trọng Phụng lại sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ

nhƣ vậy? Theo chúng tôi, do thành ngữ có đặc trƣng là có tính hình tƣợng và khái quát cao

nên phƣơng tiện này rất thích hợp với khuynh hướng diễn đạt của họ Vũ là vừa mô tả một

cách sống động đối tượng vừa làm rõ bản thể vốn thường bị che lấp của nó.

Ngoài việc sử dụng khẩu ngữ, trong phóng sự của mình, Vũ Trọng Phụng còn dùng

nhiều biện pháp tu từ. Trong đó, nổi bật là hai biện pháp tu từ so sánh và tương phản.

4.1.1.3. Biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ

Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy, hầu nhƣ tất cả các biện pháp tu từ đều đƣợc Vũ

Trọng Phụng sử dụng trong các phóng sự của ông, nhƣ: so sánh, ẩn dụ, nhân hóa, phúng dụ,

tƣợng trƣng, hoán dụ, điệp ngữ, khoa trƣơng, tiệm tiến, tƣơng phản, v.v... Điều làm cho luận

án này quan tâm hơn cả là hai biện pháp so sánh và tương phản. Đây là hai biện pháp tu từ

xuất hiên với một tần số cao hơn cả và lối so sánh, tƣơng phản của Vũ Trọng Phụng có

những nét rất đặc biệt: đó là màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính của nó.

a) So sánh tu từ mang màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính.

So sánh là biện pháp tu từ cơ bản. Xét cho cùng, mọi biện pháp tu từ đều quy về so

sánh. Vì vậy, so sánh là "linh hồn" của các biện pháp chuyển nghĩa.

174

So sánh tu từ la sự đối chiếu hai hay nhiều đối tƣợng có một dấu hiệu chung nào đấy,

nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tuông, đem lại giá trị biểu cảm và hiệu quả

thẩm mỹ. So sánh tu từ mang màu sắc khẩu ngữ là so sánh đưọc dùng riêng cho khẩu ngữ. Vì

là dùng riêng cho khẩu ngữ nên so sánh tu từ này chủ yếu mang sắc thái biểu cảm âm tính.

Lối so sánh này xuất hiện khá phổ biến trong những phóng sự của họ Vũ. Chẳng hạn,

đây là hình ảnh của kẻ bị lũ bạc bịp lột nhẵn túi, thua sạch sành sanh:

- "Ông chú bác bồi An rũ rƣợi ngƣời như con chim bị đạn" (Cạm bẫy người, Sđd, tr.

67).

Đây là "chân dung" mụ chủ nhà của con sen Đũi:

- "... cái má nó đã răn reo, nó lại trát phấn bự khắp cả, thành thử trông như mặt ngoáo

ộp" (Cơm thầy cơm cô, tr. 31).

Còn đây là hình ảnh một gái điếm trong lớp học của nhà Lục xì:

-"... nó xấu làm sao, mặt mũi béo phị và xanh nhợt, đứng lên khoanh tay, lúc ngập

ngừng, lúc lƣu loát tựa hồ con vẹt" (Lục xì, Sđd, tr. 165). v.v...

Lối so sánh mang tính dân gian nhƣ vậy xuất hiện hết sức thoải mái, tự nhiên nhƣ

chẳng hề có một sự gia công, tô vẽ.

Để lột tả bản chất của hiện tƣợng, để mỉa mai, đả kích, phủ định..., Vũ Trọng Phụng

còn sáng tạo ra nhiều kiểu so sánh theo kiểu "tạt ngang", trùm lớp hoặc so sánh đối tƣợng với

chính nó. Đây là lối so sánh "tạt ngang" nhƣ một cú đánh bất ngờ:

"Ngƣời Âu ở Đông Dƣơng có cái thói quen hễ cứ thấy một ngƣời bản xứ làm báo thì

nghi cho là làm hội kín, cũng như thấy một ngƣời vận âu phục lại gần nhà mình là chỉ có một

nghề chim vợ Tây" (Kỹ nghệ lấy Tây,

175

Sđd, tr. 13).

Thì ra, tâm địa của lũ ngƣời đó thật là xấu xa: nghi ngờ từ chính trị cho đến khoản...

tình dục... Kiểu so sánh nay còn đƣợc họ Vũ thể hiện ở việc so sánh cái mặt của một me Tây

"hầm hầm như quan khâm sai Lê Hoan" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd, tr. 78); việc con sen Đũi "giữ

chỗ" (ngồi vào lòng tình nhân) với việc vị quan lớn giữ chỗ khi nghe tin ngƣời này, kẻ nọ về

hƣu (Cơm thầy cơm cô, tr. 38); hoặc so sánh sự vô trách nhiệm của me Tây với con lai: "Song

le, hoặc con ngƣời, hoặc con ta, bà Cai có cần... "đếch" gì? Bà cũng y như Nhà nước".

Một so sánh tu từ hay đƣợc nhiều ngƣời nhắc tới. Đó là câu:

"Cái giƣờng của một me Tây cũng nhƣ cái dùi khui của một thầy cảnh sát, cũng nhƣ

cái búa của bác thợ rèn, cũng nhƣ cái cổ của một ông nghị Việt Nam" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd,

tr. 53).

Có ý kiến cho rằng "sức công phá mãnh liệt của sự so sánh này là ví các ông nghị bù

nhìn lúc đó cũng là một thứ me Tây". Theo chúng tôi, hàm ý chính của sự so sánh, có lẽ

không phải chỉ có đọng ở ý đó. Vì nếu theo lôgic ấy, thì viên cảnh sát và cả bác thợ rèn cũng

phải là một thứ me Tây! Việc đặt bốn đối tƣợng rất khác nhau vào chung một trƣờng so sánh

nhƣ vậy là hết sức táo bạo, gây nên một sự bất ngơ thú vị. Ở bốn đối tƣợng này có một cái

chung để có thể tiến hành so sánh, đó là "công cụ lao động" của họ: chiếc giường (công cụ

hành nghề của me Tây), dùi khui, chiếc búa (công cụ hành nghề của cảnh sát và thợ rèn). Và

vì thế cái cổ của ông nghị Việt Nam lúc đó cũng là một thứ công cụ để hành nghề... gật. Vì

vậy, hàm ý chế giễu, đả kích ở đây, chủ yếu, là nhằm vào thứ nghị bù nhìn, "nghị gật" lúc đó.

Một lối so sánh lạ lẫm, táo bạo của Vũ Trọng Phụng đƣợc nhiều ngƣời

176

bàn luận là so sánh đối tƣợng với chính nó, kiểu nhƣ "từ khi ông Lý là ông Lý, thì cũng như

từ khi loài ngƣời là loài ngƣời", "cuộc đời là cuộc đời". Có thể hiểu đây là sự trùng ngôn, để

nhấn mạnh thêm bản thể của đối tƣợng: nó đƣơng nhiên, cố hữu là nó, vĩnh viễn là nó, không

thể nào khác đƣợc... Lối nói đầy triết lí này chứa đựng một sự mỉa mai, châm biếm hết sức

sâu sắc.

Khuynh hƣớng diễn đạt chung của lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng là từ mô tả cái

bên ngoài đi vào cái bản thể của sự vật. Sức mạnh chính của so sánh tu từ là nhận thức (còn

sức mạnh của ẩn dụ là gợi cảm). Vì thế cho nên, lối so sánh tu từ có sắc thái biểu cảm âm

tính rất thích hợp vói lối diễn đạt cực mạnh nhằm phanh phui "sự thật ở đời" của Vũ Trọng

Phụng. Lối so sánh nay làm cho sức mạnh tố cáo của ngồi bút phóng sự họ Vũ tăng lên gấp

bội.

b) Tương phản mang màu sắc khẩu ngữ, sắc thái biểu cảm âm tính

Cùng với so sánh tu từ, biện pháp tƣơng phản cũng đƣợc dùng khá thƣờng xuyên

trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Tương phản (hay đối lập) là biện pháp tu từ sử dụng các từ

ngữ biểu thị những khái niệm trái ngƣợc nhau cùng trong một văn cảnh, nhằm mục đích làm

rõ hơn đặc điểm của đối tƣợng đƣợc mô tả. Trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng xuất

hiện nhiều lối tƣơng phản, để mô tả sự vật, hiện tƣợng, khắc họa ngoại hình và nội tâm nhân

vật...

Để thể hiện cái nhục, cái khổ của kiếp ngƣời đi ở, Vũ Trọng Phụng đã đặt sự tƣơng

phản:

"Cái giá trị làm ngƣời... có khi không bằng sức vật (...). Mƣời sáu ngƣời, đủ hạng lớn

bé trẻ già này, mỗi ngƣời chỉ cầu nhƣ một con chó, nhiều khi kém một con chó..." [155 , 21].

Sở dĩ có điều này vì "một vài con chó còn đƣợc chủ nhà mua thịt bò

177

cho xơi! Có khi con chó mỗi tháng khiến chủ tốn kém hơn một đứa tôi tớ trong nhà"[155,21].

Nhƣng cũng bằng nghệ thuật tƣơng phản, Vũ Trọng Phụng đã diễn tả quá trình tha

hóa hết sức nhanh chóng của giới cơm thầy cơm cô, trong cái môi trƣờng thị thành đầy giả

dối: "mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ mà ở đƣợc vài tháng thì ăn cắp nhƣ ranh, ăn bớt nhƣ

quỷ" [ 155, 71].

Bằng lối tƣơng phản, họ Vũ đã bóc trần cái thực trạng đen tối cùng cực của nạn mại

dâm thời thuộc Pháp:

"... những cái vú nát nhẽo, những cái đùi hoặc ghẻ ruồi, hoặc hắc lào, hoặc điểm lấm

tấm những vòng đen, di tích của trùng giang mai", "những con ma lem mặt bủng da chì",

"hoàn toàn rách rƣới, bệ rạc". Thế mà "tối đến diện quần áo vào, đeo đồ nữ trang vào, một

lƣợt phấn trát lên trên những mảng ghét thì một vai ả hóa ra ngon lành, kháu khỉnh cho những

con mắt mơ vì men rƣợu của khách làng chơi" (Lục xì, Sđd, tr. 172).

Thực trạng tệ nạn và những vấn nạn xã hội đƣợc bóc trần nhƣ vậy la triệt để. Ngồi bút

phóng sự của Vũ Trọng Phụng không viết kín đáo đƣợc mà phải nói toạc ra. Biện pháp tƣơng

phản đã rất đắc dụng, giúp ngồi bút của ông lật tung cái sự thật đen tối đầy bất công của cái

xã hội đƣơng thời.

Lời văn giàu chất khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ đã làm

cho phẩm chất hiện thực của phóng sự Vũ Trọng Phụng cao hơn, sâu sắc hơn. Chất khẩu ngữ

lại làm cho lời văn của họ Vũ "đời" hơn. Sự tƣơng tác này cho thấy ngòi bút phóng sự Vũ

Trọng Phụng gắn bó chặt chẽ với các phương tiện khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang

sắc thái âm tính. Họ Vũ ƣa dùng, quen dùng và sử dụng thanh thạo những phƣơng tiện quý

báu đó của ngôn ngữ dân tộc, để tạo ra một lời văn với

178

một lối phô diễn cực mạnh.

4.1.2. Vai trò của các yếu tố khẩu ngữ

Khẩu ngữ hàng ngày trong phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ vì mục đích tạo ra

hình thức diễn đạt mà còn vì những mục đích hướng thẳng vào nội dung đối tượng được miêu

tả.

4.1.2.1. Sử dụng khẩu ngữ để mô tả, đánh giá hiện thực

Đây là hiện thực của cái "kỹ nghệ lấy Tây" quái gở:

"Tuần lễ trƣớc có cả mấy cô thiếu nữ Hà thành cũng sang đây để kiếm chồng! Có

chồng rồi, vì không biết nèo đƣợc đồng lƣơng cao thành ra không đủ tiền mua rƣợu, mua

thuốc lá đồ hộp cho chúng nó. Thiếu thốn, bị chồng vặc, chƣa chi đã sợ, ấy thế là bảo nhau

tìm đường chuồn. Thành thử lấy chồng lỗ vốn! Rõ khốn nạn!" [157,19].

Tổ hợp khẩu ngữ hàng ngày, như kiếm chồng, không biết nèo, bị chồng vặc, tìm

đường chuồn, lấy chồng lỗ vốn, khốn nạn, ấy thế là, làm ngƣời đọc có thể nhận ra bức tranh

bi hài của những con ngƣời không biết nên giận hay nên thƣơng này?!

Có khi chỉ qua một câu mắng với lời lẽ hết sức "dung dị" của lão lục sự già, một kẻ

biết "đục khoét thành thánh", đối với đám "đệ tử" (đám lính cơ lính lệ), khi bọn này không

biết "đƣờng" làm ăn, tác giả cũng đã lột trần thủ đoạn nham hiểm, "cao tay" của giới quan

nha, trong cái tệ tham nhũng:

"Các anh ngu lắm! Ngƣơi ta đƣơng say rƣợu thì nói với ngƣời ta làm gì để đến nỗi cãi

nhau, rồi bắt bớ nhau. Thì cứ sang nhà thằng lý trƣởng mà nằm, chờ chúng nó tỉnh rƣợu xem

có phải lạy mình như tế sao không, bóp bao nhiêu mà không phải lòi ra? Năm hết tết đến còn

sinh sự lôi thôi, rõ làm việc quan quá nửa đời ngƣời rồi mà còn dốt đến thế (Một huyện ăn

Tết, Sđd, tr. 108).

179

Bức tranh hiện thực trong các phóng sự khác, nhƣ Cơm thầy cơm cô, Cạm bẫy người,

Lục xì, cũng đƣợc phơi bày bằng khẩu ngữ hàng ngày kiểu nhƣ vậy. Chính phƣơng tiện khẩu

ngữ đã giúp nhà văn đã tái hiện đƣợc bao thảm cảnh, nghịch cảnh dở khóc dở cƣời, bi hài lẫn

lộn... hệt nhƣ cuộc đời.

4.1.2.2. Dùng khẩu ngữ để miêu tả quần thể nhân vật

Không chỉ dùng yếu tố khẩu ngữ để tạo tiếng nói riêng cho mỗi nhân vật, Vũ Trọng

Phụng còn dùng nhiều yếu tố của phương tiện khẩu ngữ để xây dựng chân dung, khắc họa

tính cách. Chẳng hạn, "Cuốn tiểu thuyết" của con sen Đũi, tông tích của nhân vật đƣợc ngƣời

kể chuyện kể bằng một lời văn pha nhiều khẩu ngữ:

"... Năm lên 12 tuổi, cái Đũi là con một ông lý trƣởng cứng cổ ra phết. Thế rồi từ khi

ông lý là ông lý, thì cũng như từ khi loài người là loài người của cải của ông cứ việc từ trong

nhà "đội nón ra đi". Ruộng cả ao liền của ông lý bán hết... sạch sành sanh, cái Đũi phải ra

tỉnh đi ở" [155, 30].

Có khi chỉ qua một lời tâm sự rất chân tình bằng khẩu ngữ của nhân vật viên lục sự

già giải thích lý do vì sao lão ta không nhận quà biếu, chân dung cái kẻ tính toán chi ly, tính

đếm thiệt hơn, trong việc tham nhũng hiện ra thật là sinh động:

"- Nếu nhận của họ bốn chục cam, hai cân đƣờng ta, thì lại phải chạy cái bữa rƣợu tất

niên cho họ, ít nhất là một con gà, hai cái chân giò, không thì cả một con chó. Chi bằng cứ

chối phăng đi là hơn. Trò đời có đi có lại mới toại lòng nhau, vậy ai dại gì mà nhận cái lễ vật

chưa đáng đồng bạc để phải mất bữa rƣợu hai đồng bạc? Mà lại khổ vợ con, đầy tớ mình hầu

các bố ấy nữa chứ?" (Một huyện ăn Tết, Sđd, tr. 95).

Cái "máu đỏ" đen của một con bạc nhƣ "hiện hình" ra ở những hành vi

180

điển hình, qua những tục ngữ, từ và kết cấu khẩu ngữ của lời văn thuật kể:

"Cái máu đánh bạc của ông chú tôi không hiểu nó pha chất đỏ, đen thế nào mà mỗi

khi đả động đến ông, ai cũng phải lắc đầu mà phê một câu: "bút khôn xiết tả" (...) Bình phẩm

về ông, những ngƣời quen thuộc đã ban cho ông cái đức lớn: "lột áo người sống, bán áo

người chết" (...) tiền sang nhờ ông đi mua hộ cỗ ván, ông cũng có gan đem ngay số tiền "cắt

cổ" ấy đem đi nướng đến tong hết" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 99).

Những yếu tố khẩu ngữ trong những trích đoạn nói trên đã tạo ra những nét cụ thể,

sinh động của chân dung nhân vật. Nếu thay thế những yếu tố này bằng những câu, những từ

của ngôn ngữ gọt giũa, chắc rằng các tính cách, các chân dung này khó tránh đƣợc sự nhợt

nhạt, bằng phẳng...

4.2. Giọng điệu trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng

Lời văn trong tác phẩm văn chƣơng khác với lời văn của tác phẩm khoa học và báo

chí ở chỗ tính giọng điệu. Bàn về giọng điệu trong tác phẩm văn học, M. Khrapchencô cho

rằng: "Đề tài, tƣ tƣởng, hình tƣợng chỉ đƣợc thể hiện trong môi trƣờng giọng điệu nhất định,

trong phạm vi của một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tƣợng sáng tác". Ông còn cho

rằng: "Hiệu suất cảm xúc của lối kể, trƣớc hết thể hiện ở giọng điệu" [ 87,167]. Chúng tôi

hiểu rằng giọng điệu là vẻ riêng trong diễn đạt, thể hiện ra bằng việc sử dụng các phƣơng tiện

ngôn ngữ. Nếu xét về phía lời nói cá nhân thì mỗi cá nhân, mỗi tầng lóp có cái giọng riêng

của mình. Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng có cả một quần thể nhân vật, có nhân vật Tôi -

ngƣời kể chuyện và có những khi, tác giả trực tiếp xuất hiện, tham gia vào nội dung câu

chuyện. Vì thế, lời văn trong phóng sự Vũ Trọng Phụng là một lời văn đa giọng, tạo nên một

âm thanh sống động nhƣ chính cuộc đời.

4.2.1. Giọng điệu của cái Tôi - người kể chuyện

181

Là một thể ký viết về ngƣời thật, việc thật theo đồng thời sự, nên cho dù tác giả phóng

sự có đƣợc trực tiếp tham dự, trực tiếp đƣợc chứng kiến câu chuyện hay chỉ thông qua một

nguồn tài liệu gián tiếp, thì lời văn trong phóng sự cũng phải chứng tỏ rằng đây là lời thuật

kể của một người đã mắt thấy tai nghe những điều có thực đã xảy ra. Vì thể phóng sự "là tai

là mắt" của độc giả nên nhà phóng sự phải viết sao cho độc giả thấy mình nhƣ đƣợc chứng

kiến những gì đã xảy ra, hoàn toàn tin vào những lời thuật kể về những điều có thực đã xảy

ra, chứ không phải là chuyện hƣ cấu, tƣởng tƣợng, giúp cho độc giả hình dung đƣợc câu

chuyện đã xảy ra nhƣ thế nào, làm cho họ suy tƣ về cái sự thật ấy.

Tuy bị "bắt buộc" phải thuật kể bằng một lời văn của cái Tôi -nhà phóng sự nhƣ thế

nhƣng trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, lời văn của cái Tôi này lại rất đa dạng gây hứng thú,

bất ngờ: khi thì là lời của một "thám tử tƣ" thuật kể về những bí hiểm của cái làng bạc bịp

(Cạm bẫy người); khi thì là lời của một tay cơm thầy cơm cô "chính hiệu" (Cơm thầy cơm

cô); khi lại là lời của một kẻ phiếm du, tình cờ biết đƣợc tệ tham nhũng ở một huyện nha

(Một huyện ăn Tết); khi là lời kể của nhân vật Tôi - nhà báo đến mấy làng me, tìm hiểu sự

thật của nghề lấy Tây (Kỹ nghệ lấy Tây), khi là lời thuật kể của chính tác giả - nhà phóng sự

Vũ Trọng Phụng (Lục xì).

Nhƣ vậy, lời văn của cái Tôi - Nhà phóng sự trong phóng sự của họ Vũ hiện ra với

nhiều tư cách khác nhau. Đây là đặc điểm độc đáo riêng làm nên sự khác biệt với lời văn của

nhiều nhà phóng sự đƣơng thời. Cũng là phóng sự văn học, lời văn trong phóng sự Việc làng,

Dao cầu thuyền tán... của Ngô Tất Tố chỉ là lời của cái Tôi - người kể chuyện. Lời văn trong

Tôi kéo xe của Tam Lang là cái Tôi - anh phu xe giả danh Tam Lang. Còn với Trọng Lang,

tuy viết rất nhiều phóng sự, nhƣng lời văn của ông hầu nhƣ lại chỉ là của chính tác giả. Vì

trong phóng sự của ông, chỗ này thấy

182

một ngƣời đàn ông chợt hỏi: "ông có phải là Trọng Lang, tác giả Hà Nội lầm than?' [101,

165]; chỗ khác lại thấy cô gái điếm K nói: "Em biết rồi... Anh là Trọng Lang trong báo Ngày

nay" [101, 321]. Cũng vì chỉ dùng một cái Tôi duy nhất nhƣ thế nên trong lời văn có những

khi không tránh đƣợc sự khô khan, đơn điệu.

Sự đa dạng về lời ngƣời kể chuyện trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã khắc phục

đƣợc cái thế "độc bạch" về lời ngƣời kể. Với những cái Tôi, trong những tƣ cách khác nhau,

thẩm thấu sâu vào câu chuyện đã tạo ra một sự đa dạng, sinh động cho lời văn của các phóng

sự. Trừ ở Lục xì, còn những cái Tôi - ngƣời kể chuyện đều đƣợc nhân vật hóa, "mỹ hóa " ở

những mức độ, khác nhau có khi hội nhập hoàn toàn vào thế giới nhân vật. Cái Tôi này đã

đóng vai trò đầu mối của những cuộc đối thoại đa chiều: nó không chỉ nói về nhân vật mà còn

nói với nhân vật; và có những khi không chỉ nói với nhân vật mà còn trực tiếp đối thoại với

độc giả. Vì vậy, giọng văn luôn chuyển đổi, theo những chiều, những hướng khác nhau của

sự đối thoại.

Giọng điệu chính của cái Tôi - ngƣời kể chuyện trong các thiên phóng sự Vũ Trọng

Phụng là căm uất, cay đắng, châm biếm, mỉa mai... nhưng do thuật kể bằng con mắt, tấm

lòng của người trong cuộc nên mọi sắc thái, cung bậc, khuynh hướng của tình cảm đã được

thể hiện rất phong phú, sinh động. Ở Cạm bẫy người, bao trùm lên là cái giọng cay đắng, bực

bội: "Khả ố thay là cái nạn kinh tế" (nạn khủng hoảng kinh tế), "chỉ có cái máu cờ bạc của

loài ngƣời là khiến tôi không thể hiểu đƣợc"! Bên cạnh đó là nỗi chua chát: "Đông Tây...

cũng đến thua kém cái tinh túy cờ bạc ở Việt Nam chúng tôi" và xót xa cho những kẻ lấy

nghề bạc bịp làm lẽ sống ở đời: "bịp vung tàn tán, than ôi cay vẫn hoan cay!". Trƣớc cái nghề

lấy Tây đầy rẫy những bi hài; trƣớc cái thói tham nhũng theo lối "gà què ăn quẩn", giọng

ngƣời trần thuật đƣợm một nỗi buồn chua xót, đay đả: "Một sự không ngờ!

183

Trong cái kỹ nghệ lấy Tây này, ngƣời ta không buồn nghĩ đến cách phủ lên những sự thật

nhơ bẩn một nƣớc son bóng nhoáng nữa" [157-76]; "Ấy đấy, các cụ đã thấy chƣa? Con cháu

đã đủ làm rạng rỡ tổ tiên chƣa, vì trong năm qua, con cháu cƣớp bóc đƣợc nhƣ thế" (Một

huyện ăn Tết, Sđd, tr. 110).

4.2.2. Giọng điệu của cái Tôi - tác giả

Trong phóng sự Lục xì, Vũ Trọng Phụng xuất hiện với cái tên thật của mình. Nhƣ ở

cuối tác phẩm Cơm thầy cơm cô, cái Tôi - ngƣời kể chuyện "hồi nguyên" theo kiểu: "Thƣa

các ngài, bây giờ tôi lại là tôi". Việc "hồi nguyên" này là một sự "bật nút" của những tƣ tƣởng

tình cảm, do nhu cầu đƣợc trực tiếp đối thoại, giãi bày. Chẳng hạn, ở cuối phóng sự Cơm thầy

cơm cô, khi đang bàn việc bằng cách nào thì có thể điều tra đƣợc sự độc ác của giới chủ nhà

đối với con ở, tác giả bỗng "lôi thẳng" độc giả và câu chuyện và còn lên giọng "sửa gáy" họ:

"Bây giờ tôi có thể nói với hết thảy (xin nhớ cho là hết thảy)... rằng xin các ngài cứ điều tra

ngay các ngài" [155, 73]. Hoặc trƣớc chính sách "tùy thời", "làm cho phải phép" của nhà

chức trách thực dân, khi đối phó với tệ mại dâm, nhà phóng sự Vũ Trọng Phụng đã bật lên lời

nguyền rủa, lên án với một giọng gay gắt: "... cái xã hội một nghìn lần khốn nạn này chỉ có

thể có đƣợc những ông đầu cơ, coi công việc cải tạo xã hội cũng nhƣ sự nịnh hót những cái

thị dục đê hèn của đàn bà, con gái..." [155, 247], v.v...

Nếu nối kết giọng điệu của các chủ thể lời kể ở các thiên phóng sự lại, có thể thấy tình

cảm và thái độ của Vũ Trọng Phụng; khi thì dí dỏm, hóm hỉnh; khi thì mỉa mai, giễu cợt, chua

chát; khi thì buồn bã, cảm thương, não lòng; khi thì khinh khi, giận dữ như muốn thét lên; có

khi lại vươn đến giọng triết luận về xã hội, nhân sinh, về thân phận con người... Đây là giọng

điệu chứa chất sự "nhức nhối của trí tuệ". Ẩn dƣới những điều

184

bực bội, chua chát bất bình đó, không có cái gì khác là ƣớc mong về một hiện thực tốt đẹp,

không còn những điều "vô nghĩa lý". Giọng điệu của cái Tôi - Tác giả - ngƣời kể chuyện

trong phóng sự Vũ Trọng Phụng nhƣ hòa vào cùng một "bề" với giọng điệu đắng cay chua

chát của Nam Cao; châm biếm, giễu cợt của Nguyễn Công Hoan và có lúc lại có cái thiết tha

mãnh liệt của Nguyên Hồng...

4.2.3. Giọng điệu chính của quần thể nhân vật

Bên cạnh giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện cái Tôi - tác giả, trong phóng sự

Vũ Trọng Phụng còn có một hợp âm giọng điệu của quần thể nhân vật.

Là những con ngƣời khốn khổ trên con đƣờng băng hoại tha hóa, giọng điệu của quần

thể nhân vật này cũng đầy nhức nhối, hận đời, muốn trả thù đời...

Đây là giọng "lạnh tanh máu cá" của đám bạc bịp. Chúng sẵn sàng "thịt" luôn cả

ngƣơi thân, không hề mảy may thƣơng tiếc, nhƣ lời của bồi An nói về ông chú họ của mình:

"Trong lƣng giắt đến ba bốn chục bạc từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con trai

đang ốm thập tử nhất sinh đấy!... Nằm chờ ăn chực đã ba hôm nay ở đây để đợi đánh xì! Ông

bảo thế mà không thịt thì có dại không? Mình không xơi thì cũng đến lƣợt chán vạn thằng

khác chúng nó cũng xơi" [154, 63].

Còn đây là giọng bán xới cuộc đời của một gái điếm: "Anh hỏi thì tôi phải nói (...).

Tôi bây giờ nhƣ cái đò ngang, ai sang cũng chở tuốt" [155, 205].

Và đây là câu chửi chất chứa đầy hờn căm và hả hê của con sen Đũi đối với mụ chủ

nhà thất đức:

185

"Cha tiên nhân năm đời mƣời đời nhà nó! Chính nó làm cho tôi mất tân (...) Tiên sƣ

nó, thật là giỏi quả báo nên mấy hôm sau nó bị ô tô đâm phải, gẫy mẹ nó ngay một cánh

tay..." [155, 31-32-33].

Cùng với sự chán ngán buông xuôi và nỗi căm tức ấy là cái giọng hận đời, muốn trả

thù đời. Nếu tên Trùm Ấm B muốn trả thù "cái bọn đã làm tôi hƣ hỏng, đã ngăn rào mọi

đƣờng công danh tiến thủ của tôi", thì bà Kiểm Lâm "chỉ cố chí làm giàu để sau nay có thể ác

lại với những kẻ đã khinh tôi...". Còn con sen Đũi thì "nghĩ rằng mình, mình cần báo thù, có

báo thù thì mới hả dạ...", v.v...

Những giọng điệu khác nhau nhƣ thế trong lời văn đã "thổi hồn" vào thế giới nhân

vật, tạo nên những âm thanh sôi réo những tiếng rên xiết, tiếng hồn, bất bình, uất hận... Điều

này cho thấy một thực trạng xã hội thối nát đầy mâu thuẫn gay gắt, đầy hận thù. Đó là một xã

hội "khốn khổ, khốn nạn" chất chứa bao điều "vô nghĩa lý".

4.3. Tính hiện đại và những chế của lời văn phóng sƣ Vũ Trọng Phụng

Lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ thuần túy truyền thống mà còn là một

lời văn mang tính hiện đại. Tính hiện đại thể hiện ở sự "có mặt" của những từ vựng mới, ở

một kiểu câu văn cách tân, ở lối diễn đạt mới mẻ. Tuy nhiên, lời văn của ông không phải là

"toàn bích" mà còn có những hạn chế nhất định.

Lời văn phóng sự của họ Vũ có "cội rễ" từ lời văn truyền thống. Phong cách khẩu ngữ

tự nhiên mang hơi thở nóng hổi, tƣơi mới của sự sống đã làm cho lời văn của ông không chỉ

thân quen với ngƣời đọc đƣơng thời mà còn rất gần gũi với độc giả hôm nay.

Sở trƣờng của Vũ Trọng Phụng là khẩu ngữ. Cái "thế mạnh" nay đã

186

làm cho lời văn của ông hài hòa, gần với lời nói tự nhiên. Đây là một trong những yếu tố làm

nên sự mới mẻ, tính hiện đại trong lời văn phóng sự.

Xu hƣớng có tính đặc trƣng của văn xuôi hiện đại là xích gần với ngôn ngữ hàng

ngày, tiếp nhận nhiều yếu tố khẩu ngữ. Trong khi đó chính khẩu ngữ cũng phát triển, nâng

cao và tiến gần đến chuẩn mực của văn viết. Xu hƣớng dân chủ hóa, hiện đại hóa này đƣợc

bắt đầu từ Hồ Biểu Chánh. Tuy là ngƣời có công đầu "làm cách mạng đập vỡ cái khuôn khổ

văn chƣơng đài các (...) đặt vào miệng cái vai truyện của ông những ngôn ngữ đơn sơ, chất

phác..." [103, 567] là tiếng nói tự nhiên, mộc mạc của những ngƣời dân Nam Bộ, nhƣng do

không gọt giũa, không gia công thêm, hoặc gia công không thích ứng nên lời văn của ông

"trơn tuột", "viết nhƣ nói" nói sao viết vậy. Vì thế, Đông Hồ gọi ông là "nhà văn bạch thoại

miền Nam" (Tạp chí Văn số 80, Sài Gòn, 15-4-1967). Chẳng hạn, về từ vụng, trong "Ai làm

dược" và "Một đời tài sắc", Hồ Biểu Chánh dùng từ "cuộc" hết sức gƣợng gạo: "cuộc hung

ác của bà phủ", "cuộc khuẩn bách", "cuộc tu", "cuộc ở", v.v... Hoặc khi dùng khẩu ngữ tả

cảnh trong "Ngọn cỏ gió đùa" (1926), tác giả còn để cho cái thô nhám làm mất vẻ đẹp của

hình ảnh, hình tƣợng. "Gió thổi lai rai, đƣa đẩy mấy chòm lau, bóng giũ phất phơ, cọng ngã

oặt òa oặt oại. Con cò ngà đậu trên nhánh bần rạch, xòe cánh ra phơi; con vịt xiêm mái lội

xuồng mé đƣờng mƣơng kêu con đi rút tép", v.v...

4.3.1. Những từ vựng mới mẻ

Tuy các phóng sự của Vũ Trọng Phụng chỉ ra đời sau những tác phẩm nói trên của Hồ

Biểu Chánh có khoảng mƣời năm, nhƣng về phƣơng diện từ vựng, ngữ pháp và lối tƣ duy...

rất là mới lạ. Từ vựng của họ Vũ rất phong phú rất gợi tả, gợi cảm, chi tiết, có nhiều từ trừu

tƣợng, trí tuệ, đủ sức diễn tả mọi tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời hiện đại. Ngoài vốn từ

khẩu ngữ tự nhiên phong phú đến mức làm độc giả phải ngạc nhiên, trong

187

lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng có khá nhiều từ khẩu ngữ và những từ vụng mới mẻ dùng

để tăng hiệu lực cho việc tả, kể hay bày tỏ sự đánh giá, thể hiện tình cảm, châm biếm, mỉa

mai... Chẳng hạn có những từ, nhƣ: "kỷ lục ngu", "nguội tết", "không lấy thằng nào bền

đƣợc", "nuôi chỉ chờ đến lúc là... quăng cho Tây", "bà ta nghỉ việc - chết! quên "nghỉ chồng",

"cũng đến lệch nghiệp nữa là trần nhƣ bà", "không phải điều luật, đó là điều lệ, "luật cung

không quá luật cầu", "300 lính ít ra cũng phải chế tạo đƣợc 350 me Tây", v.v... Đó là những

từ ngữ còn rất mới mẻ nhƣ từ ngữ của ngày hôm nay, mặc dù nó đã đƣợc viết ra cách đây hai

phần ba thế kỷ. Có những trƣờng hợp họ Vũ còn Việt hóa từ nƣớc ngoài một cách triệt để:

Cảnh sát xướng kỹ (Services de Moeurs) thành "Ban đội con gái" (giống nhƣ cách gọi Nữ

chiến sĩ, Nữ dân quân thành chiến sĩ gái, dân quân gái... thời chống Mỹ)...

Trong Cạm bẫy người và Lục xì, Vũ Trọng Phụng đã cập nhật rất nhiều danh từ khoa

học "giống y" nhƣ các thuật ngữ khoa học của ngày hôm nay: "công trình khoa học", "xƣởng

chế tạo khí giới", "vật lý học", "cơ thể học", "triệu chứng bệnh"... ông dùng cả những từ ngữ

rất mới mẻ nhƣ "cục diện chiến tranh" "đồng chí", "trình độ nhân dân lao động"; dùng cả từ

"khiêu vũ" lẫn "nhảy đầm"; dùng cả từ "ma cô" và sáng tạo thêm từ "ma cậu", v.v... Sự tăng

cường thêm vốn từ vựng mới là dấu hiệu của tính hiện đại trong lời văn phóng sự Vũ Trọng

Phụng.

4.3.2. Câu văn hiện đại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng

Câu văn phóng sự Vũ Trọng Phụng không chỉ gồm những kết cấu khẩu ngữ mà còn

gồm những kết cấu câu gọt giũa của văn xuôi hiện đại. Đặc điểm của câu văn xuôi hiện đại là

có độ dài hơn câu khẩu ngữ, các thành phần của câu có quan hệ chặt chẽ, sáng rõ, có hàm

lượng thông tin cao và không gò bó như câu văn biền ngẫu. Thành phần của câu được mởi

188

rộng, nhưng không có sự dư thừa, không vần vè... như câu khẩu ngữ.

Điều này đƣợc thấy rõ trong phóng sự Vũ Trọng Phụng. Ví dụ những câu sau đây:

- "Nhƣng nghĩ đến ngƣời con giai ốm kia phải có con sâm mới mong qua khỏi, khi

nghĩ đến ông bố vô lƣơng tâm đang ngồi ở một toa trong chuyến tàu vừa mở máy ấy, tôi

không khỏi thấy trong mình khó chịu, hình nhƣ cũng bốc hỏa lên vậy, dù chẳng giống với toa

xe phun khói lúc rồi sân ga" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 68-69).

- "Bốn chục chiếc xe hơi từ thềm nhà thờ nối nhau một hàng dài vắt qua phố

Lagisquet nhƣ một con rắn bể kỳ quái nằm vƣơn mình: một đám cƣới Tây" (Kỹ nghệ lấy Tây,

Sđd, tr. 13).

- "Chính ra, nó rất nhiều chuyện thƣơng tâm... Nó đã cất tiếng gọi dân quê bỏ những

nơi đồng khô cỏ héo đến đây để chết đói lần thứ hai, sau khi bỏ cửa bỏ nhà; nó đã làm cho giá

con ngƣời phải ngang hàng với giá loài vật; nó đã làm cho một bọn trẻ đực vào nhà Hỏa lò và

một bọn trẻ cái đi làm nghề mãi dâm!" (Cơm thầy cơm cô, Sđd, tr. 19-20).

- "Với cặp kính trắng gọng đồi mồi ấy, với cái cằm có vết râu xanh mà lƣỡi dao cạo

không để cho mọc ra đƣợc, nếu hai má đầy đặn hơn chút nữa thì bác sĩ Joyeux hao hao giống

một tài tử của màn ảnh: Jim Gérald." (Lục xì, Sđd, tr. 84).

- "Nếu đứng giữa, ta nhìn đƣợc khắp xung quanh, đó là một câu phƣơng ngôn Âu

Tây. Tôi xin nói ngay rằng không phải tôi đã đứng giữa huyện đƣờng mà biết đƣợc một

huyện ăn tết" (Một huyện ăn Tết, Sđd, tr. 92).

Trong cả năm thiên phóng sự của họ Vũ, có nhiều câu văn có lối kết cấu kiểu nhƣ

những câu văn ở những thí dụ nói trên.

189

Trong văn phóng sự Vũ Trọng Phụng con có những câu mở rộng với những thành

phần chêm, xen và những câu đảo trật tự một cách linh hoạt. Thí dụ:

- "Các ngài cứ tƣởng tƣợng ra hộ một ông quan to, đứng đầu thủ đô Bắc Kỳ, mà y

phục rất xềnh xoang - áo một màu, quần một màu khác, ca vát cũ kỹ, đôi giày không đánh

kem - (...) có vẻ bình dân cả trăm phần trăm" (Lục xì, Sđd, tr. 112).

- "Đã giới thiệu cùng độc giả ông chúa nghề bịp, tôi lại muốn độc giả làm quen với

một ông chung thân làm "con bò vắt sữa" cho tụi ông Ấm B" (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 99).

Câu văn xuôi của Vũ Trọng Phụng, trong phóng sự không chỉ uyển chuyển, đa dạng

nhƣ thế, mà còn có những chỗ, sự liên kết các câu rất tự nhiên và khéo léo tạo nên một lời

văn ít nhiều mang tính đa thanh. Chẳng hạn, đây là đoạn văn kể về "tình cảnh" của con mòng

(kẻ ham mê bài bạc) bị lũ "chuyên gia bạc bịp" bí mật đút bài xuống dƣới chiếu chỗ họ ngồi,

để vu vạ là giấu bài, ăn gian (nhƣ kiểu Xuân Tóc Đỏ bí mật đút truyền đơn vào túi quần, hại

đối thủ quần vợt):

"Mòng bị cả anh anh sừng sộ tái mặt lại, run đây đẩy, nhìn xuống chỗ chiếu mình

ngồi. Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh nào thiêng. Có ông thần nào linh, xin chứng giám cho

nỗi oan này! Mê ngủ hay vẫn thức? Mòng bàng hoàng dụi mắt nhìn, vẫn chƣa túi, lại dụi mắt

lần nữa. Lạ thật! Quái thật! Kỳ thật! Vô phúc thật! Nào mình có giở ngón cờ gian bạc lận ra

bao giờ, cớ sao bài lại thiếu, mà cớ sao ở chỗ chiếu mình ngồi lại có một... hai quân bài nằm

lù lù thế kia" [154, 150-151].

Trong đoạn văn này có ít nhất hai chủ ngôn. Câu đầu và câu thứ 7 (Mòng bàng

hoàng... lần nữa) thuần túy là của người kể chuyện. Còn chủ

190

ngôn của câu thứ hai, thứ ba, tƣ, năm, sáu, tám, chín, mƣời: "Giời hỡi! Đất hỡi! Có ông thánh

nào thiêng. Có ông thần nào linh (...) Lạ thật! Quái thật! Kỳ thật! Vô phúc thật!..." là của

chính con mòng. Tác giả đã giễu nhại sự hoảng hốt, bàng hoàng của con mòng bị "sa hố"

bằng chính giọng điệu hoảng hốt, thảng thốt của nó. Còn câu cuối cùng ("Nào mình có giở

ngón... thế kia") chủ yếu vẫn là lời của con mòng nhƣng có "pha" lời bình phẩm, giễu cợt của

ngƣời kể chuyện đối với sự thật-thà-dại-dột của họ trƣớc đám bạc bịp đầy thủ đoạn nham

hiểm, quỷ quái.

Theo lý thuyết đa thanh của M. Bakhtin thì đoạn văn trên có sự đa thanh khác hướng.

Sự khác hƣớng thể hiện ở sắc thái mỉa mai, diễu nhại trong lời kể. Trong phóng sự của Vũ

Trọng Phụng có một số lời văn đƣợc tổ chức kiểu nhƣ thế.

Hình thức hiện đại của lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng hàm chứa trong nó một tinh

thần tƣ duy mới mẻ, hiện đại. Thực ra, chính cách cảm, cách nghĩ, cách nhìn hiện đại đã chi

phối cách chọn từ, phối ý, cách diễn đạt trong lời văn. Chẳng hạn, đây là lối tả rất là mới mẻ:

"Đúng 6 giờ. Một hồi còi... Mƣời toa tầu lù tiến đến sân ga, nhả ra độ mƣời ngƣời

khách." (Cạm bẫy người, Sđd, tr. 27).

Hoặc đây là lời "tự kể" của gã lính lê dƣơng cỡ "cự môn thê thiếp" nuối tiếc cô vợ

ngƣời Việt thứ tƣ mà gã đã bỏ:

"Chúng tôi hợp nhau. Không phải hợp nhau về tinh thần, đã không cùng một thứ lƣỡi

thì hiểu nhau làm sao đƣợc...? Nhƣng nó hợp tôi về... xác thịt. Bây giờ bỏ rồi, tôi lại tiếc.

Không thể nào lại còn tìm đƣợc một ngƣời đàn bà thứ hai có cái thân thể bốc lửa ngùn ngụt

đến thế nữa" (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđđ, tr. 25).

Trong đoạn văn trên, từ cách ngắt câu, nhả giọng, lựa chọn, sử dụng

191

từ ngữ, đến cách diễn đạt hiện đại "thân thể bốc lửa ngùn ngụt" đã làm cho lời văn mới mẻ

ngay cả với đời sống ngôn ngữ hôm nay.

Ngay cả cái tiêu đề Kỹ nghệ lấy Tây cũng đã thể hiện một lối tƣ duy mang tính truyền

thống và hiện đại. Bằng cách sử dụng lối ví von truyền thống, họ Vũ đã liên hệ, so sánh giữa

"kỹ nghệ", một danh từ khoa học mói mẻ của thời đó (năm 1907 Pháp cho thành lập Công ty

kỹ nghệ và Thương mại Trung kỳ (Société Industrielle et Commerciale d'Annam) và năm

1932 lần đầu tiên từ "kỹ nghệ" xuất hiện trong Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh), với sự

"lành nghề" của "công việc" lấy Tây và rút ra sự giống nhau giữa hai hiện tƣợng. Đó là sự

tinh vi, thiện nghệ. Dựa vào sự tƣơng đồng này, tác giả đã "thiết lập" đƣợc mối quan hệ giữa

hai hiện tƣợng vốn chẳng có mối liên hệ gì với nhau để hình thành nên cái tiêu đề độc đáo.

Đây là cách nói "trệch chuẩn" sáng tạo, gây đƣợc ấn tƣợng mạnh, vì nó lột tả đƣợc bản chất

của hiện tƣợng "lấy Tây" vì tiền, vừa nói đƣợc cái bi, hài của một "nghề nghiệp" quái gở thời

thuộc địa. Vũ Trọng Phụng cũng không lấy tiêu đề "Đi ở" mà dùng thanh ngữ Cơm thầy cơm

cô đặt cho thiên phóng sự, vì thanh ngữ này rất giàu tính hình tƣợng: gợi đƣợc sự cù bất cù

bơ, nhếch nhác, hèn mọn, luôn phải "hãi ngƣời cho ở, sợ ngƣời cho ăn" của cái kiếp tôi đồi,

khốn khổ... Tiêu đề Cạm bẫy người cũng có sức tạo hình mạnh mẽ, diễn tả đƣợc sự ác hiểm,

nguy hại của tệ cờ gian bạc bịp, nhƣ những chiếc bẫy, cái cạm đã giƣơng sẵn, chỉ chờ "nuốt

sống" những con ngƣời.

Tính hiện đại trong lời văn, câu văn của phóng sự Vũ Trọng Phụng là kết quả của sự

nâng cao lối diễn đạt truyền thống: dùng các phƣơng tiện khẩu ngữ và những biện pháp tu từ

để miêu tả hành động, sự việc, sự vật, tính cách ở độ đỉnh điểm của nó. Không chỉ phát huy

lối diễn đạt truyền thống, Vũ Trọng Phụng còn tiếp thu một cách sáng tạo lối diễn đạti

192

của câu văn Pháp, tạo nên tính trong sáng, rõ ràng, chính xác trong lời văn, câu văn của các

thiên phóng sự.

4.3.3. Những hạn chế trong lời văn phóng sự

Tính truyền thống và hiện đại của lời văn phóng sự là một trong những yếu tố quan

trọng tạo cho tác phẩm của Vũ Trọng Phụng có sức vƣợt thời gian. Tuy vậy, ở một vài trƣờng

hợp, lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng đã bộc lộc một số hạn chế của nó.

Tiếp thu vốn diễn đạt truyền thống, bằng cách dùng các phƣơng tiện khẩu ngữ và các

biện pháp tu từ, Vũ Trọng Phụng đã tạo đƣợc một lời văn giàu chất khẩu ngữ giàu hình tƣợng

và giàu hàm ẩn. Nhƣng có chỗ, họ Vũ dã dùng lối diễn đạt bình dân để châm biếm bình dân.

Điều này thể hiện rõ khi ông dùng những từ trong câu: "Bọn cơm thầy cơm cô nằm ngổn

ngang như lợn cả, bọn đực nằm phía bên kia, bọn cái phía bên này" [155, 12]. Có những khi,

khẩu ngữ tự nhiên đƣợc họ Vũ dùng phô diễn quá mạnh trong trƣờng hợp ông viết về cái

dâm. Chẳng hạn trong lời bình luận: "Thật rõ lôi thôi là cái sự ngứa ngáy xác thịt của loài

ngƣời. Nó đã làm rầy rà biết bao nhiêu ngƣời" [155, 94]. Hoặc khi mô tả hậu quả của sự kích

dâm của con sen Đũi, họ Vũ viết: "Bà chủ có cô con gái dậy thì, mới 13 tuổi, nhƣng mà lửa

tình bốc sớm, lức nào cũng lồng lộn như đồ đĩ rạc" [155 -35]. Tuy nghệ thuật khoa trƣơng

của ông không nhằm mục đích thổi phồng, xuyên tạc sự thật, nhƣng có khi, cũng do phô diễn

quá mạnh nên cứ nhƣ là sự ngoa ngôn. Điều nay thể hiện ở việc ông miêu tả đến mức quá chi

li cảnh cậu con trai bà chủ nhìn thấy "hai cái đùi non trắng hếu của con sen, lại phô ra nhƣ

đấu xảo! Từ đêm ấy trở đi có đêm cậu đi tiểu đến tám mươi nhăm lần. Đến lần thứ tám mươi

sáu, cậu vừa nhìn thở, rón rén để tay vào một cái đùi non..." [155, 35]. Có thể khi mô tả nhƣ

vậy, tác giả chỉ cốt để người đọc tin vào điều ông muốn nói lên chứ không phải là điều ông

kể,

193

nhƣng dù sao, sự ngoa ngôn không thích hợp đối với thể phóng sự. Sự tô đậm mức độ của cái

dâm nhƣ "lồng lộn lên như đồ đĩ rạc", "ngứa ngáy xác thịt" và sự chi li trong mô tả nhƣ trên

dễ bị hiểu là ngồi bút đã sa vào chủ nghĩa tự nhiên, do chịu ảnh hƣởng của học thuyết tính

dục của Freud...

Vũ Trọng Phụng đã tiếp thu cái sáng sủa, chính xác, rõ ràng của câu văn và lối diễn

đạt của văn Pháp, nhƣng có những chỗ câu văn còn "nệ" Tây nên lời văn có phần kiểu cách,

gượng gạo. Thí dụ:

- "Chỉ biết không theo học đƣợc nữa thì hai ngƣời vào làm cho một hiệu mũ áo ở Hà

Nội do một bà đầm chủ trương" [157, 64].

- "Tôi cũng phải dùng luồng nhỡn tuyến có ngụ ý cảm thương ra yêu cầu... Chỉ trù

trừ ít lâu" [157, 65].

- "Cụ Phán cúi đầu, nhìn tôi một cách trông buồn cười là phóng đôi nhỡn tuyến lên

bên trên đôi mắt kính" [154, 190].

- "Cuộc gặp gỡ của chủ với khách bắt đầu gắn bó bằng một bữa cơm bừa bộn những

thịnh soạn" [154, 28].

Theo chúng tôi, sự phô diễn cực mạnh bằng khẩu ngữ đến mức làm cho lời văn sỗ

sàng, sự khoa trƣơng ở những câu văn nói trên và những câu văn "nệ" Tây, không góp phần

làm đẹp cho lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng.

Qua khảo sát đặc điểm lời văn phóng sự của Vũ Trọng Phụng, chúng tôi xin có mấy

điểm kết luận:

Bằng sự điêu luyện và sáng tạo trong việc sử dụng khẩu ngữ tự nhiên và các biện

pháp tu từ, bằng sự thâu thái nhũng yếu tố tích cực của văn chƣơng Pháp hiện đại, Vũ Trọng

Phụng đã tạo ra một lối phô diễn cực mạnh trong một lời văn sáng rõ. Lời văn của ông chỉ

cốt áp sát cuộc sống, phanh phui "sự thật ở đời", đi thẳng vào bản thể của đối tượng. Nhìn

khái quát,

194

lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng vừa mang tính truyền thông, vừa mang tính hiện đại. Đọc

phóng sự Vũ Trọng Phụng có thể thấy phảng phất lời văn tả thực của Nguyễn Du, Hồ Xuân

Hƣơng, Nguyễn Khuyến, Tú Xƣơng... Lời văn của họ Vũ rất gần gũi với lời nói hàng ngày và

lại có những kiểu câu rất mới so với những kiểu câu khẩu ngữ. Lời văn phóng sự của Vũ

Trọng Phụng không chỉ tiêu biểu cho lối diễn đạt đƣơng thời, mà còn thể hiện khuynh hƣớng

diễn đạt của những năm sau. Có thể nói Vũ Trọng Phụng là một trong những người mở

đường trong việc xây dựng lời văn xuôi hiện đại. Điều này càng có ý nghĩa trong bối cảnh

ngôn ngữ văn học vừa thoát ra khỏi những ràng buộc, khuôn sáo của văn học Trung đại.

KẾT LUẬN

1. Thời kỳ mới trong việc tiếp thu di sản văn học của Vũ Trọng Phụng đòi hỏi một cái

nhìn bao quát cả mảng thành tựu phóng sự của ông. Việc khảo sát đặc điểm thể loại phóng sự

của Vũ Trọng Phụng, tìm hiểu giá trị và những hạn chế của nó có ý nghĩa đối với thực tiễn

sáng tác hiện nay của thể phóng sự.

Suốt hơn một nửa thế kỷ vừa qua, lịch sử vấn đề phóng sự Vũ Trọng Phụng đã diễn ra

rất sôi nổi và không tách rời lịch sử vấn đề Vũ Trọng Phụng. Trong đó, những ý kiến ca ngợi

một chiều và những ý kiến phủ định sạch trơn dần dần nhƣờng chỗ cho sự đánh giá khách

quan, vừa khẳng định những đóng góp của ông, đồng thời cũng chỉ ra những mặt hạn chế

lệch lạc của "ông vua phóng sự".

2. Phóng sự là thể "tân văn" của văn xuôi trong quá trình hiện đại

195

hóa văn học dân tộc ở những thập niên đầu thế kỷ. Bằng việc học tập kinh nghiệm sáng tác

của nƣớc ngoài, bằng quá trình sáng tạo, Vũ Trọng Phụng cùng các nhà văn viết phóng sự

thời "tiền chiến" đã tạo đƣợc một thành tựu sáng tác phong phú, làm giàu cho văn học dân

tộc, góp phần đƣa nền văn học đi vào quỹ đạo hiện đại. Bằng chính sáng tác và sự khảo cứu,

các nhà sáng tác, nghiên cứu, phê bình Việt Nam đã từng bƣớc xây dựng đƣợc một hệ thống

quan niệm và lý luận về thể phóng sự. Từ chỗ quan niệm phóng sự là một thể "đứng giữa văn

học và báo chí", lý luận văn học và lý luận báo chí đã đi đến quan niệm rạch ròi hơn, cụ thể

hơn: Phóng sự là một "thể ký trong báo chí và văn học" (Hà Minh Đức). Giữa phóng sự báo

chí và phóng sự văn học tuy có sự khác biệt về mức độ xác thực và tính thoi sự của sự phản

ánh, về cái Tôi trần thuật, về ngôn ngữ, v.v... nhƣng có sự giống nhau về căn bản. Đó là phải

lấy người thật việc thật làm đối tượng phản ánh và phải chú ý đến tính thời sự của đối tượng

miêu tả.

Trƣớc nhu cầu của xã hội và sự trƣởng thành của ngành báo chí, sự phát triển của văn

hóa, văn học, ảnh hƣởng của các phóng sự nƣớc ngoài.... đầu thập niên ba mƣơi, thể phóng sự

ở Việt Nam chính thức đƣợc hình thành. Điểm độc đáo là ngay từ đầu đã có phóng sự văn

học (Tôi kéo xe của Tam Lang, 1932) va chỉ trong khoảng 15 năm thể phóng sự đã phát triển

mạnh mẽ, đạt đƣợc thành tựu phong phú, với nhiều tác phẩm độc đáo và hàng loạt cây bút có

tên tuổi. Thể phóng sự đã góp phần làm hiện đại hóa diện mạo văn xuôi hiện đại.

Do sự nhận thức lệch lạc về chức năng xã hội và văn học... của thể phóng sự, từ năm

1946 đến những năm bảy mƣơi, thể phóng sự đã bị chìm vào quên lãng. Nhƣng kể từ thập

niên tám mƣơi, công cuộc đổi mới đã giúp thể vãn nay hồi sinh và ngày càng phát huy đƣợc

vai trò xung kích của mình trên mặt trận báo chí và văn học, góp phần vào sự nghiệp xây

196

đó. Ẩn dƣới cái nhìn cay nghiệt, chửi đời, giận đời, cƣời đời là nỗi đau đời, thƣơng đời và

niềm mong muốn con người thực sự trở thành con người, với những phẩm chất ngƣời vốn có

của nó. Tuy nhiên, trong phóng sự của mình, họ Vũ đã bộc lộ ra những điều hạn chế, bất cập

và những yếu tố tự nhiên chủ nghĩa. Điều này đƣợc thể hiện rõ ở sự mơ hồ, lệch lạc về nhận

thức chính trị (ví Stalin với Trùm Ấm B...); ở sự bi quan về thời cuộc và phẩm chất tinh thần

của con ngƣời, không đặt niềm tin vào quần chúng lao khổ; ở sự giải thích cái dâm và nạn

mại dâm; ở lối mô tả một số nhân vật bằng một bút pháp có pha màu sắc tự nhiên chủ nghĩa.

4. Sự "sắc sảo, khôn ngoan" trong cách làm phóng sự của họ Vũ biểu hiện ở nghệ

thuật khám phá hiện thực. Việc tiếp cận hiện thực với những điểm nhìn khác nhau là một

hình thức thay đổi hệ quy chiếu để nhận thức hiện thực sâu sắc hơn. Vũ Trọng Phụng còn rất

tinh tế trong việc "tuyển chọn" những khía cạnh quan trọng, những hiện tƣợng tiêu biểu của

thực tại; sáng tạo trong việc khai thác tƣ liệu; nhanh nhạy nắm bắt thông tin. Ngoài ra, ông

còn dùng tƣởng tƣợng và hƣ cấu làm sống dậy những tƣ liệu gián tiếp. Sự "sắc sảo, khôn

ngoan" trong cách làm phóng sự của họ Vũ còn ở chỗ, ông đã dẫn truyền chất tiểu thuyết vào

nghệ thuật phóng sự. Trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, ngoài những tƣ liệu về ngƣời

thực, việc thực còn cả một thế giới nhân vật sống động, có tính cách, số phận, một số nhân

vật mang dáng dấp của điển hình như trong tiểu thuyết. Do đặt vấn đề cá nhân và những vấn

đề xã hội vào tầm quan sát và thể hiện nên các phóng sự của ông có một chủ đề phức hợp, có

hướng vươn tới tầm khái quát của tác phẩm tiểu thuyết. Tính tiểu thuyết còn bộc lộ ở sự biến

hóa trong kết cấu và ở lối thuật kể. Trong phóng sự của họ Vũ, cái Tôi -ngƣời kể chuyện luôn

bao hàm trong nó cả cái Tôi nhân chứng và cái Tôi thẩm mỹ. Đây là dạng cái Tôi đa năng,

khi thì đƣợc nhân vật hóa, thâm

198

nhập sâu vào thế giới nhân vật, khi lại đứng tách ra khỏi quần thể nhân vật để nhận xét, luận

bàn. Sự di chuyển điểm nhìn của cái Tôi ngƣời kể chuyện cho một số nhân vật "tự kể" đã

chuyển sự quan sát bên ngoài vào sự thể hiện bên trong, đã tạo yếu tố nền cho lối cấu trúc

biến hóa và sự linh hoạt, hấp dẫn trong thuật kể. Sự đặc sắc trong nghệ thuật phóng sự Vũ

Trọng Phụng còn thể hiện ở nghệ thuật trào phúng. Họ Vũ đã tạo nên dạng nhân vật hài

hƣớc, biếm họa; tài tình trong việc tổ chức những tình huống trào phúng; dùng lối văn giễu

nhại để châm biếm, mỉa mai những cái xấu xa, kệch cỡm, đáng cƣời...

5. Những đặc điểm về nội dung và nghệ thuật của phóng sự Vũ Trọng Phụng đƣợc thể

hiện bằng một lời văn giàu chất khẩu ngữ, một lời văn đa giọng điệu; một lời văn mang tính

truyền thống và hiện đại. Trong lời văn phóng sự của mình, họ Vũ đã thể hiện sự điêu luyện

trong việc sử dụng khẩu ngữ và các biện pháp chuyển nghĩa. Ông đã sử dụng thành thạo mọi

loại khẩu ngữ của đủ mọi hạng ngƣời mà ông mô tả. Những biện pháp chuyển nghĩa nhƣ so

sánh, tƣơng phản... đều mang màu sắc khẩu ngữ và sắc thái biểu cảm âm tính. Đó là phƣơng

tiện rất đắc dụng để ông xây dựng một lời văn có lối diễn đạt cực mạnh, đi thẳng vào cái bản

thể, cái "lõi" của sự vật, hiện tƣợng, bắt nó phải hiện ra một cách trần trụi, nguyên hình, nhằm

xét toạc những bức màn giả dối, phanh phui bản chất xấu xa của xã hội đƣơng thời. Lời văn

phóng sự âm vang nhiều giọng điệu: giọng điệu của cái Tôi - ngƣời kể chuyện; giọng điệu

của cái Tôi - tác giả; giọng điệu của một thế giới nhân vật đầy sôi động, nhƣ chính cuộc

sống... Giọng điệu của cái Tôi - tác giả, cái Tôi - ngƣời kể chuyện chứa đầy "cảm xúc đối

nghịch", với nhiều cung bậc thể hiện "sự nhức nhối của trí tuệ" hòa cùng giọng điệu căm đời,

hận đời, muốn trả thù đời... của quần thể nhân vật tạo thành một âm thanh sôi động những

tiếng rên xiết, vật vã, đau đớn,

199

xót xa, cay đắng, mỉa mai, uất hận... đối với cái thực trạng đầy đen tối, bất công, chà đạp và

làm tha hóa con ngƣời. Một xã hội mà con ngƣời không còn chịu đựng nổi tất yếu phải bị phá

bỏ.

Lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng vừa mang tính truyền thống lại mang tính hiện

đại, vì họ Vũ đã kế thừa lối diễn đạt bình dân truyền thống và thâu thái đƣợc lối phô diễn cực

mạnh của Hồ Xuân Hƣơng, Tú Xƣơng... Lời văn của ông chỉ cốt tiếp cận trực diện với hiện

thực, đi thẳng vào bản thể của đối tƣợng. Ông lại biết tiếp thu những yếu tố tích cực của ngôn

ngữ nƣớc ngoài (đặc biệt là ngôn ngữ văn chƣơng Pháp hiện đại) để tạo ra một lời văn trong

sáng, rõ ràng, chính xác. Ông xứng đáng là một trong những ngƣời mở đƣờng cho việc xây

dựng lời văn xuôi hiện đại và khuynh hƣớng diễn đạt của những năm sau. Tuy nhiên, họ Vũ

còn để lại trong lời văn phóng sự của mình một số "hạt sạn". Đó là những câu văn sống

sƣợng hoặc lối diễn đạt cầu kì, gƣợng gạo...

Vói mong muốn đem lại một cái nhìn bao quát, Luận án này đã tiến hành khảo sát đặc

điểm phóng sự Vũ Trọng Phụng trên cả bình diện nội dung, nghệ thuật và lời văn. Tuy nhiên,

sự tiếp cận này chỉ là một sự thử nghiệm và những đặc điểm đƣợc trình bày cũng chỉ là những

kết quả bước đầu.

Trong phóng sự Vũ Trọng Phụng, cái thực dụng hòa quyện với cái thẩm mĩ đã đem

lại tính thông tin đậm đặc và chất văn học đậm đà; nhân cách nhà báo hòa chung vói nhân

cách nhà văn trong cùng một chủ thể sáng tạo. Giá trị nhiều mặt của phóng sự Vũ Trọng

Phụng, không chỉ có ý nghĩa đối với lí luận và thực tiễn của thể phóng sự mà cồn có ý nghĩa

với một số ngành khoa học xã hội và nhân văn khác. Vì vậy, để khám phá toàn diện di sản

phóng sự của họ Vũ, có thể cần đến một lối tiếp cận liên ngành, giữa văn học, ngôn ngữ học,

báo chí, sử học, dân tộc học và xã hội học...

200

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh, Hán-Việt từ điển (Giản yếu) Trƣờng Thi xuất bản, SG, 1957.

2. Tràng An-Lệ chi-Đuốc Nhà Nam, Dứt tình với làng văn, Tao Đàn, Số đặc biệt, HN,

12/1939.

3. M. Arnaudop, Tâm lý học sáng tạo văn học, NXB Văn học, HN, 1978.

4. Lại Nguyên Ân (biên soạn), Vũ Trọng Phụng - tài năng và sự thật, NXB Hội nhà văn, HN,

1992.

5. Ban văn học Hội Khai Trí Tiến Đức (khởi thảo), Việt Nam tự điển, Trung Bắc Tân Văn,

HN, 1931.

6. M. Bakhtin, Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hóa Thông tin và Thể thao - Trƣờng

viết văn Nguyễn Du, HN, 1992.

7. M. Bakhtin, Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, NXB Giáo dục, HN, 1993.

8. S. Barnet - M. Berman - W. Burto, Nhập môn văn học, Trƣờng viết văn Nguyễn Du, HN,

1992.

9. Vũ Bằng, Bốn mươi năm nói láo, Phạm Quang Khai xuất bản, SG, 1969.

10. Vũ Bằng, Cái tài, cái tật của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học SG, số 114, ngày

15/10/1970.

11. Vũ Bằng, Cảm nhớ Vũ Trọng Phụng (Lời đề tựa tiểu thuyết Lấy nhau vì tình) Tạp chí văn

học, số 94, SG, ngay 1/10/1969.

201

12. Vũ Bằng, Những cây cười tiền chiến, SG, 1971.

13. Vũ Bằng, Tôi, thằng vô lại, Tạp chí văn học, SG, số 94,1/10/1969.

14. Nguyễn Duy Bình, Trao đổi về "Mấy vấn đề về văn học hiện thực phê phán", Tạp chí văn

học, HN, 11/1964.

15. IV. Borep, Mỹ học - NXB Chính trị Maxcova (tƣ liệu Trƣờng ĐHSP Ha Nội 1).

16. Thiết Can, Ngày xuân nhớ bạn cũ, báo Chuông Mai, Xuân Canh Tý, SG, 1960.

17. Nam Cao, Tác phẩm, Tập 1-2 (Hà Minh Đức sƣu tầm giới thiệu), NXB Văn học, HN,

1976.

18. Huệ Chi - Phong Lê, Vài vấn đề văn học sử giai đoạn 1930-1945 nhân đọc cuốn "Lược

thảo lịch sử văn học Việt Nam" của nhóm Lê Quý Đôn, Tạp chí văn học, HN, 5/1960.

19. Nguyễn Đình Chú, Cần nhận thức dùng thời kỳ văn học 1930-1945, báo Giáo viên nhân

dân, các số 27-28-29-30-31, tháng 7/1989.

20. Nguyễn Đình Chú, Về giai đoạn văn học Việt Nam đầu thế kỷ 20-1945, (Tài liệu bồi

dƣỡng môn Văn lớp 11), Vụ giáo viên, HN, 1991.

21. Nguyễn Mạnh Côn, Vũ Trọng Phụng, một giàu có, một thiệt hại của văn chương chúng

ta, Tạp chí văn học, SG, số 67, năm 1966.

22. Huỳnh Tịnh Paulus Của, Đại Nam quốc âm tự vị, Imprimerie Rey, curiol, SG, 1895.

23. Nguyễn Đức Dân, Lôgích và tiếng Việt, NXB Giáo dục, TP HCM, 1998.

24. Nguyễn Đức Dân (chủ biên) Tiếng cười thế giới, NXB Khoa học xã hội, HN, 1979.

202

25. Nguyễn Duy Diễn, Vũ Trọng Phụng, nhà văn tả chân bất hủ, Tạp chí văn học, số 94, SG,

ngày 5/8/1965.

26. Lê Tiến Dũng, Vũ Trọng Phụng và nỗi trăn trở về nghĩa lí cuộc đời, báo Văn nghệ T.P

Hồ Chí Minh, số 22-28/10/1992

27. Lê Tiến Dũng, Tìm hiểu tác phẩm văn học, NXB Tổng hợp Sông Bé, 1991.

28. Đức Dũng, Các thể ký báo chí, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1996.

29. Nguyễn Hữu Dụng, Giông tố của Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 44, ngày

5/8/1966.

30. Nguyễn Đức Đàn - Phan Cự Đệ, Ngô Tất Tố, NXB Văn hóa, HN, 1962.

31. Nguyễn Đức Đàn, Bàn uể một số dặc trung của khuynh hướng tự nhiên chủ nghĩa trong

văn học Việt Nam trước cách mạng, Tạp chí văn học số 9, HN, 9/1966.

32. Nguyễn Đức Đàn, Bàn về trường hợp Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, HN, 1/1972.

33. Nguyễn Đức Đàn, Đặc điểm văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Văn học, HN,

1964.

34. Nguyễn Đức Đàn, Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam, NXB Khoa học xã

hội, HN, 1968.

35. Phùng Tất Đắc, Kỹ nghệ lấy Tây, (Bài tựa), NXB Hà Nội, 1989.

36. Phan Cự Đệ - Hà Văn Đức - Nguyễn Hoành Khung, Văn học Việt Nam, (1930-1945) Tập

1, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1988.

37. Phan Cự Đệ (chủ biên) - Nguyễn Hoành Khung - Trần Hữu Tá,

203

Tổng tập văn học Việt Nam, tập 29A, NXB Khoa học xã hội, HN, 1988.

38. Phan Cự Đệ, Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, tập 1, NXB Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, HN, 1978.

39. Phan Cự Đệ, Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), NXB Giáo dục, HN, 1997.

40. Phan Cự Đệ, Vấn đề Vũ Trọng Phụng - Văn học Việt Nam 1930-1945, tập 2, NXB Giáo

dục, HN, 1961.

41. Phan Cự Đệ, Những đặc trưng thẩm mỹ của ngôn ngữ tiểu thuyết, Tạp chí ngôn ngữ, số 1,

HN, 1974.

42. Nguyễn Kim Đính, Một số vấn đề thi pháp của nghệ thuật ngôn từ, Tạp chí Văn học, số

5-6/1985.

43. N. Đuytơre, Bàn về văn học phóng sự, báo Văn nghệ (Hà Nội) số 21, ngày 26 tháng

5.1990.

44. Hà Minh Đức, Tác phẩm văn học, NXB Giáo dục, HN, 1962.

45. Hà Minh Đức, Loại thể văn học, NXB Giáo dục, HN, 1962.

46. Hà Minh Đức - Phan Cự Đệ, Nhà văn Việt Nam, tập 1, NXB Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, HN, 1979.

47. Hà Minh Đức, Ký viết về chiến tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, NXB

Quân đội nhân dân, HN, 1980.

48. Hà Minh Đức, Nam Cao - đời văn và tác phẩm, NXB Văn học, HN, 1997.

49. Hà Minh Đức (chủ biên) Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB

Chính trị quốc gia, HN, 1990.

50. Hà Minh Đức (chủ biên) Báo chí, những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 1 và 2, NXB

Giáo dục, 1996.

204

51. Hà Minh Đức (chủ biên) Lý luận văn học (Tái bản), NXB Giáo dục, HN, 1995.

52. Hà Minh Đức, Khảo luận văn chương (Thể loại -tác giả), NXB Khoa học xã hội, HN,

1998.

53. I.R. Galperin, Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, NXB Khoa

học xã hội, HN, 1987.

53. Ngọc Giao, Đốt lò hương cũ - Vũ Trọng Phụng, báo Mới, Xuân Quý Tỵ, HN, ngày 9

tháng 1 năm 1953.

54. Ngọc Giao, Đôi điều tôi biết về Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 5,HN, 1989.

55. Trần Văn Giàu (chủ biên) Lịch sử Việt Nam cận đại, tập 3, NXB Giáo dục, HN, 1960.

56. Trần Văn Giàu (chủ biên) Lịch sử Việt Nam cận đại, tập 4 (1919-1930), NXB Giáo dục,

HN, 1963.

57. M. Gorki, Bàn về văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1982.

58. N.A. Gulaiep, Lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1982.

59. Dƣơng Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, HN, 1941.

60. Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên), Từ điển thuật ngữ văn học,

NXB Giáo dục, HN, 1992.

61. Lê Thịu Đức Hạnh, Nhìn lại việc đánh giá Vũ Trọng Phụng, suy nghĩ về vấn đề đổi mới tư

duy trong nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học số 1, HN, 1989.

62. Lê Thị Đức Hạnh, Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, NXB Khoa học xã hội, HN,

1979.

205

64. Lê Thị Đức Hạnh, Lời bạt (tập truyện ngắn Vũ Trọng Phụng), NXB Hội nhà văn, HN,

1996.

65. Nguyễn Văn Hạnh, về nội dung khái niệm chủ nghĩa hiện thực trong văn học, Tạp chí văn

học, số 1, 1987.

66. Nguyễn Văn Hạnh, Suy nghĩ về văn học, NXB Văn học, HN, 1979.

67. Nguyễn Văn Hanh, Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ thuật, Tạp chí

văn học, số 2, 1987.

68. Nguyễn Văn Hạnh, Về bản chất của văn chương, báo Văn nghệ, số 27, ngày 4 tháng 7

năm 1998.

69. Nguyễn Văn Hạnh, Hai hướng tiếp cận lớn đối với văn học, Mấy vấn đề về ngôn ngữ và

văn học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1977.

70. Nguyễn Văn Hạnh - Huỳnh Nhƣ Phƣơng, Lý luận văn học vấn đề và suy nghĩ, NXB Giáo

dục, TP HCM, 1995.

71. Nguyễn Văn Hạnh, về thi pháp và thi pháp học, Một số vấn đề về ngôn ngữ và văn học,

NXB Khoa học xã hội, 1997.

72. G.F. Hêghen, Mỹ học tập 1A, tai liệu của Viện văn học, HN, 1973.

73. Hoàng Ngọc Hiến, Chủ nghĩa hiện thực và chả nghĩa nhân dạo, Văn học - học văn,

Trƣờng viết văn Nguyễn Du, 1990.

74. Hoàng Ngọc Hiến, Năm bài giảng nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục, HN, 1997.

75. Hoàng Ngọc Hiến, Văn học - học văn, Trƣờng CĐSP TP. Hồ Chí Minh - Trƣờng viết văn

Nguyễn Du, TP HCM, 1990.

76. Hoàng Ngọc Hiến, Tăng cường tính chính xác trong nghiên cứa văn học, Các vấn đề của

khoa học văn học, NXB Khoa học xã hội, HN, 1990.

206

77. Đỗ Đức Hiểu, Đổi mới phê bình văn học, NXB Khoa học xã hội -Nhà xuất bản Mũi Cà

Mau, 1993

78. Đỗ Đức Hiểu, Những nguyên lý mỹ học của chủ nghĩa tự nhiên, Thông báo khoa học, tập

1, Đại học tổng hợp, Hà Nội, NXB Giáo dục, HN, 1962.

79. Nguyễn Công Hoan, Đời viết văn của tôi, NXB Văn học, HN, 1971.

80. Hội thảo khoa học tại Hà Nội, kỷ niệm 50 năm ngày mất của Vũ Trọng Phụng (gồm 21

tham luận) tháng 10/1989.

81. Hội thảo khoa học tại TP. Hồ Chí Minh, kỷ niệm 75 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng

(gồm 8 tham luận) tháng 12/1987.

82. Hội thảo khoa học tại thành phố Hồ Chí Minh, kỷ niệm 80 năm ngày sinh Vũ Trọng

Phụng (tháng 3-1992) có 25 tham luận.

83. Nguyên Hồng, Vũ Trọng Phụng và những tác phẩm của anh (giới thiệu Giông tố), NXB

Văn nghệ, Hà Nội, 1970.

84. Đinh Hùng, Nhớ Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 44, SG, 1965.

85. Lan Khai, Vũ Trọng Phụng - mớ tài liệu cho văn sử Việt Nam, NXB Minh Phƣơng, HN,

1941.

86. Tràng Khanh - Việt Sinh, Hà Nội ban đêm, Ngày nay, HN, 1936.

87. M.B. Khrapchenco, Cá tính sáng tạo và sự phát triển của văn học, NXB Tác phẩm mới,

HN, 1978.

88. Phan Khôi, Không đề cao Vũ Trọng Phụng, chỉ đánh giá đúng, Vũ Trọng Phụng với

chúng ta, Minh Đức xuất bản, HN, tháng 10/1956.

89. Nguyễn Hoành Khung - Lại Nguyên Ân, Vũ Trọng Phụng, con người và tác phẩm, NXB

Hội nhà văn, HN, 1994.

207

90. Nguyễn Hoành Khung, Giông tố, Từ điển văn học, tập 1, NXB Khoa học xã hội, HN,

1984.

91. Nguyễn Hoành Khung, Số đỏ, Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984.

92. Nguyễn Hoành Khung, Vấn đề Vũ Trọng Phụng qua những bước thăng trầm, báo Giáo

viên nhàn dân, số 27-28-29-30-31, tháng 7-1989.

93. Nguyễn Hoành Khung, Vũ Trọng Phụng (Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập 1),

NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1988.

94. Nguyễn Hoành Khung, Vũ Trọng Phụng, Từ điển văn học tập 2, NXB Khoa học xã hội,

HN, 1984.

95. Lê Trang Kiều, Viết về Vũ Trọng Phụng, Tạp chí văn học, số 94, ngày 1 tháng 10, 1969

(SG).

96. Lê Đình Ky, Vấn đề đánh giá văn học Việt Nam 1932-1945 và đánh giá Vũ Trọng Phụng,

Tạp chí văn học, số 6, 1992.

97. Đinh Trọng Lạc, Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục, HN, 1994.

98. Hoài Lam, Nguyên lý mỹ học Mác - Lênin, NXB Sách giáo khoa Mác-Lênin, HN, 1984.

99. Hoài Lam, Tìm hiểu mỹ học Mác-Lênin, NXB Văn hóa, HN, 1973.

100. Đinh Xuân Lâm (chủ biên), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục, HN,

1998.

101. Tam Lang - Trọng Lang - Hoàng Đạo, Phóng sự chọn lọc, NXB Hội Nhà văn, HN,

1995.

102. Tam Lang, Tôi kéo xe, NXB Đất mới, SG, 1974.

208

103. Thanh Lãng, Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển hạ, Ba thế hệ của nền văn học mới,

Trình bày, SG, 1967.

104. Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, tập I, NXB Văn học -Hội NCVGDVHTP. Hồ

Chí Minh, 1995.

105. Thanh Lãng, 13 năm tranh luận văn học, tập III, NXB Văn học - Hội NCVGDVHTP.

Hồ Chí Minh, 1995.

106. Thanh Lãng, Phê bình văn học thế hệ 1932-1945, NXB Khai Trí, SG, 1972.

107. Nguyễn Đình Lạp, Ngõ hẻm, NXB Văn học, HN, 1990.

108. Nguyễn Đình Lạp, Ngoại ô, NXB Văn hóa thông tin, HN, 1997.

109. Nguyễn Đình Lạp, Tác phẩm chọn lọc, NXB Hội nhà văn, HN, 1995.

110. Phong Lê, 50 năm ngày mất của Vũ Trọng Phụng trong sự nghiệp đổi mới của chúng ta,

Tạp chí văn học, số 2 năm 1990.

111. V.I.Lênin, Bàn về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1960.

112. Vũ Đình Liên - Đỗ Đức Hiểu - Lê Trí Viễn - Huỳnh Lý - Trƣờng Chính - Lê Thƣớc,

Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam, tập III, NXB Xây dựng, HN, 1957.

113. Nguyễn Triệu Luật, Vũ Trọng Phụng - hiện diện cần thiết cho xã hội ngày nay, Tạp chí

văn học (SG) số 44 ngày 15/8/1965.

114. Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam - Thành Thế Thái Bình, Lý luận văn học, tập 3, NXB

Giáo dục, HN, 1988.

115. Phƣơng Lựu - Trần Đình Sử - Lê Ngọc Trà, Lý luận văn học, tập 1, NXB Giáo dục, HN,

1987.

116. Phƣơng Lựu, Tìm hiểu lý luận văn học phương Tây hiện đại,

209

NXB Văn học, HN, 1995.

117. Phƣơng Lựu, Tiếp nhận văn học, NXB Giáo dục, HN, 1997.

118. Phƣơng Lựu, Lỗ Tấn, nhà lý luận văn học, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp,

HN, 1997.

119. Phƣơng Lựu, Khơi dòng lý thuyết, NXB Hội nha văn, HN, 1997.

120. Huỳnh Lý - Hoàng Dung - Nguyễn Hoành Khung - Nguyễn Đăng Mạnh - Nguyễn Trác,

Lịch sử văn học Việt Nam, tập V, 1930-1945 (phần I), NXB Giáo dục, HN, 1973.

121. C. Mác - F. Ănghen - V.I.Lênin, Về văn học nghệ thuật, NXB Sự thật, HN, 1958.

122. Hoàng Nhƣ Mai, Chân dung và tác phẩm, NXB Giáo dục, TP HCM, 1999.

123. Hoàng Nhƣ Mai, Nụ cười ấy khổ đau hơn tiếng khóc, Tuổi trẻ chủ nhật, số 41, tháng

10.1989.

124. Hoàng Nhƣ Mai, Nhà văn Vũ Trọng Phụng và cái thời thuộc Pháp (Bài đề dẫn cho Hội

nghị khoa học kỷ niêm 75 năm ngày sinh Vũ Trọng Phụng, tại TP Hồ Chí Minh tháng

12.1987).

125. Nguyễn Đăng Mạnh, Nhà văn, tư tưởng và phong cách, NXB Tác phẩm mới, HN, 1979.

126. Nguyễn Đăng Mạnh, Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục,

1994.

127. Nguyễn Đăng Mạnh, Dẫn luận nghiên cứa tác giả văn học, Trƣờng Đại học sƣ phạm Hà

Nội 1, tháng 12.1993.

128. Nguyễn Đăng Mạnh, Lòi giói thiệu Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập 1, NXB Văn học,

HN, 1987.

210

129. Nguyễn Đăng Mạnh, Vũ Trọng Phụng, "Ông vua phóng sự" – Lời giới thiệu phóng sự

Kỹ nghệ lấy Tây – Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội, 1989.

130. Nam Mộc, Thể ký và vấn dề viết về người thật, việc thật, Tạp chí văn học, sô 6 năm

1967.

131. Nguyên Ngọc, Văn xuôi sau 1975, thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí

văn học, (Hà Nội) số 4.1991.

132. Phan Nguyên, Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng và xã hội nô lệ, Văn học (Sài Gòn) số 18

năm 1962.

133. Phạm Thế Ngũ, Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III, Quốc học tùng thƣ, SG,

1961.

134. Vƣơng Trí Nhàn (sƣu tầm, biên soạn), Khảo về tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, HN,

1996.

135. Vƣơng Trí Nhàn, Một lớp người thành thị, một kiểu nhà văn: trường hợp Vũ Trọng

Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội) số 2.1990.

136. Hoàng Nhân, Ảnh hưởng của văn học Pháp qua một số tác phẩm của Vũ Trọng Phụng,

Tạp chí văn học (Hà Nội) số 2.1988.

137. Huỳnh Dũng Nhân, Ăn tết trong rừng chó sói (Tập phóng sự), NXB Lao động, TP

HCM, 1995.

138. Nhiều tác giả, Nghề nghiệp và công việc của nhà báo, Hội nhà báo Việt Nam xuất bản,

HN, 1992.

139. A. Pazzi, Người Việt cao quý, NXB Kiến thức thời đại, SG, 1965.

140. X.M. Pêtơrốp, Chủ nghĩa hiện thực phê phán, NXB Đại học và Trung học chuyên

nghiệp, HN, 1986.

141. Vũ Ngọc Phan, Nhà văn hiện đại, tập Một, NXB Khoa học xã hội, HN, 1989.

211

142. Thế Phong, Cuộc đời viết văn làm báo của Tam Lang, NXB Văn hóa thông tin, TP

HCM, 1996.

143. Thế Phong, Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền chiến 1930-1945, Vàng son, SG,

15.8.1974.

144. Phóng sự L'Hebdomadaire du Reportage (Sài Gòn) số 1 ra ngày 10 Novembre 1938, số

cuối ngay 16 Mars 1940. Chủ nhiệm: Công Minh (Nguyễn Trƣờng Thế).

145. Bùi Huy Phồn, Phóng sự - một thể văn xung kích, Văn nghệ (Hà Nội) số 63, tháng 8

năm 1962.

146. Bùi Huy Phồn, Vũ Trọng Phụng - văn không hẳn là người, báo Văn nghệ (Hà Nội) số

8.1990.

147. Sigmund Freud, Phân tâm học nhập môn, NXB Khai trí, SG, 1970.

148. Sigmund Freud, Phân tâm học về tính dục, NXB Khai trí, SG, 1970.

149. Lê Huy Phú, Hồ sơ về một thế giói khác (tập phóng sự), NXB Công an nhân dân, HN,

1996.

150. Vũ Đức Phúc, Bàn về các thể ký trong văn học từ Cách mạng tháng Tám đến nay, Tạp

chí văn học (Hà Nội) số 8.1966.

151. Vũ Đức Phúc, Đặc điểm tình hình văn học Việt Nam trong giai đoạn 1930-1945, Tạp chí

văn học (Hà Nội) số 1.1964.

152. Vũ Đức Phúc, Trào lim hiện thực chủ nghĩa trong văn học Viết Nam từ 1930-1945, Tạp

chí văn học (Hà Nội) số 5.1976.

153. Vũ Đức Phúc, Văn xuôi cách mạng thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936-1939), Tạp chí văn

học (Hà Nội) số 1.1981.

154. Vũ Trọng Phụng, Cạm bẫy người, NXB Văn học, HN, 1993.

212

155. Vũ Trọng Phụng, Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phƣơng, HN, 1937.

156. Vũ Trọng Phụng, Giết mẹ - kịch của V. Hugo, Dịch thuật tùng thƣ xuất bản, HN, 1936.

157. Vũ Trọng Phụng, Kỹ nghệ lấy Tây - Cơm thầy cơm cô, NXB Hà Nội, 1989.

158. Vũ Trọng Phụng, Làm đĩ, NXB Văn học, HN, 1991.

159. Vũ Trọng Phụng, Lấy nhau vì tình, NXB Văn học, HN, 1989.

160. Vũ Trọng Phụng, Một huyện ăn Tết, Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, NXB Văn học,

HN, 1987.

161. Vũ Trọng Phụng, Số đỏ, NXB Văn học, HN, 1990.

162. Vũ Trọng Phụng, Trúng số độc đắc, NXB Văn học, HN, 1990.

163. Vũ Trọng Phụng, Vỡ đê - Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II, NXB Văn học, HN, 1987.

164. G.N. Pospelov (chủ biên), Dẫn luận nghiên cứu văn học, 2 tập, NXB Giáo dục, HN,

1985.

165. Thiều Quang, Một chút tài liệu về Vũ Trọng Phụng, Tập phê bình, số đặc biệt về Vũ

Trọng Phụng, HN, 1957.

166. Trần Huy Quang, Phóng sự (tuyển), NXB Văn học, HN, 1985.

167. Doãn Quốc Sĩ, Văn học và tiểu thuyết, NXB Sáng tạo, SG, 1973.

168. Lê Văn Siêu, Vũ Trọng Phụng - Văn học sử thời kháng Pháp 1858-1945, NXB Trí

Năng, SG, 1974.

169. Mộng Bình Sơn - Đào Đức Chƣơng, Nhà văn phê bình (Khảo cứu văn học Việt Nam

1932-1945), NXB Văn học, HN, 1996.

170. Trần Đình Sử, Bàn thêm về tiếp nhận văn học, báo Văn nghệ

213

(Hà Nội), số 7.1990.

171. Trần Đình Sử - Phƣơng Lựu - Nguyễn Xuân Nam, Lý luận văn học, tập 2, NXB Giáo

dục, HN, 1987.

172. Trần Đình sử, Con người trong văn học Việt Nam sau 1945 - Một thời đại mới trong văn

học (nhiều tác giả), NXB Văn học, HN, 1996.

173. Trần Đình sử, Lý luận và phê bình văn học, NXB Hội nhà văn, HN, 1996.

174. Trần Đình sử, Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ giáo

viên, HN, 1993.

175. Trần Đình sử, Truyện, ký về các sự kiện sắp xảy ra, Tạp chí văn học, số 2 năm 1987.

176. Trần Hữu T á , Phóng sự - Một thể văn xung kích của báo chí, Báo Lao động xã hội, số

8, ngày 25.12.1993.

177. Trần Hữu Tá, Vỡ đê, Từ điển văn học, tập 2, NXB Khoa học xã hội, HN, 1984.

178. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng - hôm qua và hôm nay, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1992.

179. Trần Hữu Tá, Nhà văn Vũ Trọng Phụng với chúng ta, NXB TP. Hồ Chí Minh, 1999.

180. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng, một tài năng lớn (bài viết trong cuốn "Nhà văn Vũ

Trọng Phụng vói chúng ta")

181. Trần Hữu Tá, Vũ Trọng Phụng "ông vua phóng sự Việt Nam" báo Tuổi trẻ chủ nhật,

tháng 10/1999.

182. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 67 (1.10.1966): Số đặc biệt tƣởng niệm Vũ Trọng Phụng.

214

183. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 94 (1.10.1969): Vũ Trọng Phụng dứt tình với làng văn.

184. Tạp chí văn học (Sài Gòn), số 114 (15.10.1970): Số đặc biệt về Vũ Trọng Phụng.

185. Văn Tâm, Góp lời thiên cổ sự, NXB Văn học, HN, 1992.

186. Văn Tâm, Vũ Trọng Phụng, nhà văn hiện thực, NXB Kim Đức, HN, 1957.

187. Văn Tâm, Vũ Trọng Phụng, "người thư ký của thời đại" (In trong "Vũ Trọng Phụng với

chúng ta" NXB Kim Đức, HN, 1956.

188. Tạ Ngọc Tấn (chủ biên), Tác phẩm báo chí, tập Một, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh - Phân viện báo chí và tuyên truyền - NXB Giáo dục, HN, 1995.

189. Trần Đức Thảo, Vấn đề con người và chủ nghĩa "Lý luận không có con người", NXB

thành phố Hồ Chí Minh, 1988.

190. Đào Thản, Đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật thể hiện trong văn xuôi, Tạp chí ngôn

ngữ, (Hà Nội) số 2.1994.

191. Nguyễn Thành, Ảnh hưởng của phân tâm học Freud trong sáng tác của Vũ Trọng

Phụng, Tạp chí văn học (Hà Nội), số 4.1997.

192. Phạm Huy Thông, Văn Pháp rất Pháp của Nguyễn Ái Quốc, Tạp chí ngôn ngữ, (HN), số

2,1986.

193. Nguyễn Huy Thiệp, Như những ngọn gió, NXB Văn học, HN, 1997.

194. Lƣơng Duy Thứ, Lỗ Tấn - tác phẩm và tư liệu, NXB Giáo dục, TP HCM, 1997.

195. Timôphiep, Nguyên lý lý luận văn học, NXB Văn hóa, HN, 1962.

215

196. Lê Ngọc Trà, Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TP HCM, 1990.

197. Lê Ngọc Trà, Vấn dề con người trong văn học hiện nay, Mấy vấn đề lý luận văn nghệ

trong sự nghiệp đổi mới (Hà Minh Đức chủ biên), NXB Sự thật, HN, 1991.

198. Nguyễn Văn Trung, Nhà văn, người là ai? với ai? NXB Nam Sơn, Sài Gòn, 1967.

199. Nguyễn Văn Trung, Nhóm tả chân xã hội, xây dựng tác phẩm tiểu thuyết, Tự do xuất

bản, SG, 1962.

200. Nguyễn Văn Trung, Chủ nghĩa thực dân Pháp ở Việt Nam, thực chất và huyền thoại,

NXB Nam Sơn, SG, 1963.

201. Việt Trung, Vấn đề Vũ Trọng Phụng, Tạp chí nghiên cứu văn học (Hà Nội), số 5. 1960.

202. Cù Đình Tú, Mấy cảm nghĩ ban đầu về cách phô diễn của nhà văn Vũ Trọng Phụng,

Kiến thức ngay nay, số 2.1988.

203. Cù Đình Tú, Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, HN, 1983.

204. Nguyễn Tuân, Tàn đèn dầu lạc, Édition Mai Lĩnh, HN, 1941.

205. Nguyễn Tuân, Ngọn đèn dầu lạc, Édition Mai Lĩnh, HN, 1939.

206. Tuyển tập Ngô Tất Tố, tập II, NXB Văn học, HN, 1994.

207. Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, Tập II (Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu Tá tuyển chọn, giới

thiệu), NXB Văn học, HN, 1987.

208. Văn (Tạp chí), số đặc biệt tƣởng niệm Vũ Trọng Phụng, SG, 1967.

209. Chàng Văn (Chế Lan Viên), Vào nghề, NXB Văn học, HN, 1993.

210. Viện thông túi khoa học xã hội, Tệ nạn xã hội - căn nguyên, biểu hiện, phương thức

khắc phục, Thông tin KHXN, HN, 1996.

216

211. A. Viollis, Đông Dương cấp cứu (Thế Phong dịch) Hồ sơ số Q.18, Phòng Lƣu trữ Ban

nghiên cứu lịch sử Đảng trung ƣơng.

212. С. И. ОЖЕГОВ, Словарь Русского Языка. Москва издательство "Русский Язык",

1981.

213. Г.Я. СОЛГАНИК, Стил Репотажа, издательство Московского Университета,

1970.

214. Albert Dauzat, Dictionnaire etymologique, Larousse, Paris, 1947,

215. Encyclopedia Universalis, Paris, 1991.

216. Le Petit Larousse ilustre 1996, Paris, 1996.

217

PHỤ LỤC

THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TRONG MỘT SỐ TÁC PHẨM

SỐ ĐỎ

A. THÀNH NGỮ

An cƣ lạc nghiệp. 1.

Ăn sung mặc sƣớng. 2.

Bách niên giai lão. 3.

Bàn dân thiên hạ. 4.

Thả mồi bắt bóng. 5.

Con rồng cháu tiên. 6.

Công kia việc nọ. 7.

Cứu nhân độ thế. 8.

Bàn ra tán vào. 9.

Bất tuân thƣợng lệnh. 10.

Bôi tro trát trấu. 11.

Bung tai giả điếc. 12.

Cao lƣơng mỹ vị. 13.

Câm miệng hến. 14.

Chẳng chóng thì chày. 15.

Dĩ hòa vi quý. 16.

Đánh đông dẹp bắc. 17.

Đi đến đâu chết trâu đến đấy 18.

(Dùng như một thành ngữ)

Giúp nƣớc phò vua. 19.

Há miệng mắc quai. 20.

Núi xƣơng sông máu. 21.

Nửa nạc nửa mỡ. 22.

Ốm no bò dậy. 23.

218

Tai to mặt lớn. 24.

Tài cao chí cả. 25.

Tam tòng tứ đức. 26.

Tay trắng làm nên. 27.

Hiền nhân quân tử. 28.

Hƣ thân mất nết. 29.

30. Môn đăng hộ đối.

31. Mời thầy chạy thuốc.

32. Mục bất tà thị.

Ngày sinh tháng đẻ. 33.

Nhanh mồm nhẹ miệng. 34.

Nhất cử lƣỡng tiện. 35.

Nhiều phiền lắm não. 36.

Nổi trận lôi đình. 37.

Tay trắng làm nên. 38.

Thả mồi bắt bóng. 39.

Xỏ lá ba que. 40.

Vô công rồi nghề. 41.

Tựkỷámthị. 42.

Túi cơm giá áo. 43.

Trời tru đất diệt. 44.

Trốn xuống suối vàng. 45.

Treo ấn từ quan. 46.

Trai thanh gái lịch. 47.

Tòng nhất nhị chung. 48.

Thƣơng nòi yêu giống. 49.

Thiên biến vạn hóa. 50.

Thấp cổ bé họng. 51.

B. TỤC NGỮ

1. Bói rẻ còn ơn ngồi không.

2. Có ăn có chọi mới gọi là trâu.

219

Có tài mà cậy chi tài. 3.

Con giun xéo lắm cũng quằn. 4.

Con hƣ tại mẹ cháu hƣ tại bà. 5.

Uốn lƣỡi bảy lần. 6.

Tốt khoe ra, xấu đậy lại. 7.

Tai vách mạch rừng. 8.

Sinh nghề tử nghiệp. 9.

Nuôi ong tay áo. 10.

Cạnh bên nào thì ngả về bên ấy. 11.

Trai tân gái góa thì chơi, 12.

Đừng nơi có vợ, đừng nơi có chồng.

Già chơi trống bỏi. 13.

Gái năm con chƣa hết lòng chồng. 14.

Duyên kia ai đợi ai chơ, 15.

Tình kia ai tƣởng ai tơ tƣởng mình. (dạng ca dao)

CẠM BẪY NGƢỜI

A. THÀNH NGỮ

Tuy không ăn ớt mà cay. 1.

Hỗn quân hỗn quan. 2.

Che mắt thế gian. 3.

Thiên biến vạn hóa. 4.

Tiu nghỉu nhƣ chó bị thiến. 5.

Thất cơ lỡ vận. 6.

Dòng dõi gia thế. 7.

Rong chơi bài bạc. 8.

Khôn sặc máu mồm. 9.

Đồ vô tích sự. 10.

Năng tới coi thƣờng. 11.

Nói toạc móng heo. 12.

Trông mặt mà bắt hình dong. 13.

220

Trắng nõn nhƣ ngà. Nửa tỉnh nửa quê. 14. 15.

Thập tử nhất sinh. Bất phân thắng bại. 16. 17.

Chia năm xẻ bảy.

18. 19. Ƣu nhân bất đắc dĩ.

Thiên phƣơng bách kế. Cờ gian bạc lận. 20. 21.

Sớm vác ô đi, tối vác ô về. Xơ nhƣ nhộng. 22. 23.

Quỷ thần hai vai soi xét. Bút khôn xiết tả. 24. 25.

Lột áo ngƣời sống bán áo ngƣời chết. Chính đại quang minh. 26. 27.

Biết rõ mƣời mƣơi. Nhàn cƣ vi bất thiện. 28. 29.

Con tiên cháu rồng. Quay tít nhƣ con thò lò. 30. 31.

Rạc nhƣ xác ve. Hai vai xo gần đến mang tai. 32. 33.

Hoa chúc động phồng. Nhét đất thó vào mũi. 34. 35.

Không tiền tuyệt hậu. Nhƣ gà cắt tiết. 36. 37.

Chấp kinh tòng quyền.

38. 39. Mắt nhƣ rắn ráo.

40. Mặt đỏ bùng nhƣ gấc chín. Đào ngoái xoáy xỏa. 41. 42. Chó ăn vụng bột. 43. Mục hạ vô nhân.

44. 45. Thay hình đổi dạng. Hang hùm nọc rắn.

221

46. 47. Cải tà quy chính. Bán giời không văn tự.

48. 49. Xuống chó lên voi. Thiên nhiên bất dịch.

50. 51. Bách chiến bách thắng. Đào thải luân hồi.

52. 53. Thiên hình vạn trạng. Yêu tinh quỷ quái.

Đầu trâu mặt ngựa. 54. 55. Mặt sƣng mày xỉa.

56. 57. Che mắt thế gian. Lên voi xuống chó.

58. Mỏng phận ngắn đời.

B. TỤC NGỮ 1. Nghĩa tử là nghĩa tận.

KỸ NGHỆ LẤY TÂY

A. THÀNH NGỮ: 1. Năm đời mƣời đời.

Vũ vô kiềm tỏa. Lử đử lừ đừ. 2. 3.

Cởi hết ruột gan. Giang hồ lƣu lạc. 4. 5.

Đầu trâu mặt ngụa. Cạn tàu ráo máng. 6. 7.

Lá gió cành chim. Thâm căn cố đế. 8. 9.

Cổ cày vai bừa. Đầu gối quá tai. 10. 11.

Ngôn xuất bất khẩu. Trốn chúa lộn chồng. 12. 13.

Kết duyên loan phụng. 14.

222

Ngồi lê đôi mách. 15. 16. Mơn mởn đào tơ.

17. 18. Tang gia bối rối. Trao xƣơng gửi thịt.

19. 20. Ba xí ba tú. Ăn gian nói dối.

21. 22. Tiền hậu bất nhất. Dầy dạn phong trần.

Giở chứng giở quẻ.

23. 24. Mềm nắn rắn buông.

25. 26. Bắt đƣợc quả tang. Đâm bị thóc chọc bị gạo.

27. Mƣợn chén đƣa lời. 28. Tùy cơ ứng biến.

29. 30. Trơ nhƣ đá vững nhƣ đồng. Gan lì tƣớng quân.

31. 32. Bách niên giao lão. Quỷ thần phù hộ.

B. TỤC NGỮ

1. 2. Râu ông nọ cắm cằm bà kia. Một ngƣời lấy Tây cả họ đƣợc nhờ.

CƠM THẦY CƠM CÔ

A. THÀNH NGỮ 1. Cơm thầy cơm cô.

Rong chơi tuyết nguyệt. Những ngƣời là ngƣời. 2. 3.

Nằm ngổn nằm ngang. Đứng núi nọ trông núi kia. 4. 5.

Nếm cơm thiên hạ. Chết rã họng. 6. 7.

Trông nhƣ ngoáo ộp. 8.

223

Năm cha ba mẹ. Văn vật ngàn năm. 9. 10.

Cùng chƣng máu mủ. Chân lấm tay bùn. 11. 12.

13. Vái lấy vái để. 14. Mềm nắn rắn buông.

Ngựa xe nhƣ nƣớc. Đội nón ra đi. 15. 16.

Ruộng cả ao liền. Thân làm tội đời. 17. 18.

Khổ tuyệt trần đời. Ăn đói làm no. 19. 20.

Năm đời mƣời đời. Xa lắc xa lơ. 21. 22.

Vu oan giá họa. Có giời có ta. 23. 24.

Son son thiếp vàng. Nhƣ đồ đĩ rạc. 25. 26.

Tin đi mối lại. Ăn chực nằm chờ. 27. 28.

Tay bắt mặt mừng. Tinh ma quỷ quái. 29. 30.

Tính cuộc vuông tròn. Trầm luân khổ ải. 31. 32.

33. Mèo đƣờng chó điếm. 34. Nhƣ con thiêu thân.

35. 36. Không trăng không sao. Lạch bạch nhƣ vịt bầu.

37. Mặt bủng da chì. 38. Trầm tƣ mặc tƣởng.

39. 40. Cả trăm phần trăm. Độc nhất vô nhị.

224

41. 42. Con ong cái kiến. Cơm thừa canh cặn.

43. 44. Ăn cắp nhƣ ranh. Ăn bớt nhƣ quỷ.

B. TỤC NGỮ:

1. Ho sù sụ nhƣ ông cụ.

LỤC XÌ

A. THÀNH NGỮ

Bình chân nhƣ vại. Béo nục béo nạc. 1. 2.

Ăn gian nói dối. Mặt bủng da chì. 3. 4.

Mục bất tà thị. Gà sống nuôi con. 5. 6.

Ma cũ bắt nạt ma mới. Thuần phong mỹ tục. 7. 8.

B. TỤC NGỮ:

No cơm ấm cật giậm giật mọi nơi. Sống lâu lên lão làng. 1. 2.

MỘT HUYỆN ĂN TẾT

A. THÀNH NGỮ: 1. Năm cùng tháng tận.

Từ trên xuống dƣới. Thƣ nhàn bình nhật. 2. 3.

Sôi lên sùng sục. Năm hết tết đến. 4. 5.

Gãi đầu gãi tai. Vũ vô kiềm tỏa. 6. 7.

Vẽ vời phiền phức. Đục khoét thành thánh. 8. 9.

225

An cƣ lạc nghiệp. Bới lông tìm vết. 10. 11.

Nhắm mắt làm ngơ. Từ dƣới lên trên. 12. 13.

Bày vẽ lôi thôi. Cắn hạt cơm không vỡ. 14. 15.

Chu du thiên hạ. Sét đánh ngang tai. 16. 17.

Ăn cơm mới nói chuyện cũ. Sƣớng quá hóa hỗn. 18. 19.

Quá nửa đời ngƣời. Trầm tƣ mặc tƣởng. 20. 21.

Tống cựu nghinh tân. Đòn xóc hai đầu. 22. 23.

24.

Cái tính chất gà què ăn quẩn. (Tục ngữ chuyển hóa thành thành ngữ)

Của ít lòng nhiều.

25.

B. TỤC NGỮ: 1. Gà què ăn quẩn.

Có đi có lại mới toại lòng nhau. Đáo tụng đình. 2. 3.

Bạc là dân bất nhân là lính. Cá lớn nuốt cá bé. 4. 5.

Đƣợc đằng chân lân đằng đầu.

6.

TÔI KÉO XE (TAM LANG)

A. THÀNH NGỮ:

Nửa đùa nửa thật. Bụng bảo dạ. 1. 2.

Bở hơi tai. Ngủ nhƣ chết. 3. 4.

Dãi gió dầm mƣa. 5.

226

Mệt lử cỏ bợ. Thật thà nhƣ đếm. 6. 7.

Buồn nhƣ giòi nhúc. Đuổi nhƣ đuổi tà. 8. 9.

Dầm mƣa dãi nắng.

10.

B. TỤC NGỮ 1. Gà què ăn quẩn.

VIỆC LÀNG (NGÔ TẤT TỐ)

A. THÀNH NGỮ: 1. Cày sâu cuốc bẫm.

Buôn ngƣợc bán xuôi. Nghèo xác nghèo xơ. 2. 3.

Kinh thiên địa nghĩa. Tứ quý kỳ phúc. 4. 5.

Bẻ vành bẻ vẻ. Sát nhân giả tử. 6. 7.

Bất đắc kỳ tử. Trời kia đất nọ. 8. 9.

10. Bới bèo ra bọ. 11. Mẹ nào con ấy.

12. 13. Em nào chị ấy. Vắt cổ chày ra nƣớc.

14. Mƣa thuận gió hòa. 15. Sớm cạn mạ úa.

Về với tổ tiên. Vụt lấy vụt để. 16. 17.

Bất phân thắng bại. Cái giá cắn đôi. 18. 19.

B. TỤC NGỮ

Đắc tội với quỷ thần.

1.

227