ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRỊNH VĂN QUỲNH
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NỮ THÁI NGUYÊN
(Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Lưu Thị Bạch Liễu)
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
THÁI NGUYÊN - 2019
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TRỊNH VĂN QUỲNH
HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
TRONG THƠ NỮ THÁI NGUYÊN
(Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Lưu Thị Bạch Liễu)
Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8 22 01 21
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,
VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ĐIỆP
THÁI NGUYÊN - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Hình tượng nghệ thuật trong thơ nữ Thái
Nguyên” (Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn
Thúy Quỳnh) là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép
của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các
công trình khác.
Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên
các tác phẩm, tạp chí, các trang website theo danh mục tài liệu tham khảo của
luận văn.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn
Trịnh Văn Quỳnh
i
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc cùng những tình cảm chân thành tới
TS.Hoàng Điệp - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên về sự hướng
dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong toàn bộ
quá trình em hoàn thành luận văn.
Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm
Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm -
Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động
viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019
Tác giả luận văn
Trịnh Văn Quỳnh
ii
MỤC LỤC
Lời cam đoan ........................................................................................................ i
Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii
Mục lục ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2
3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 6
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7
7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7
8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 7
NỘI DUNG ......................................................................................................... 8
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ
THUẬT VÀ THƠ NỮ THÁI NGUYÊN.......................................................... 8
1.1. Những vấn đề lí luận về hình tượng nghệ thuật và hình tượng nghệ
thuật trong thơ trữ tình ......................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm hình tượng, hình tượng nghệ thuật .......................................... 8
1.1.2. Hình tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình ................................................ 10
1.2. Thơ nữ Thái Nguyên trong dòng chảy thơ ca quê hương .......................... 11
1.2.1. Giới thiệu về thơ Thái Nguyên đương đại và các nhà thơ nữ Thái Nguyên .. 11
1.2.2. Giới thiệu về ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Lưu Thị Bạch Liễu ............................................................................................. 12
Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 16
iii
Chương 2: HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NỮ
THÁI NGUYÊN (QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG, NGUYỄN
THÚY QUỲNH, LƯU THỊ BẠCH LIỄU) .................................................... 17
2.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Trần Thị Vân Trung ......................... 17
2.1.1. Người tình đắm say, người vợ thủy chung .............................................. 17
2.1.2. Người mẹ minh triết và vẻ đẹp mẫu tính ................................................. 20
2.2. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh ....................... 22
2.2.1. Người phụ nữ với những nỗi niềm thân phận ......................................... 22
2.2.2. Người phụ nữ với trái tim yêu bình dị mà sâu sắc .................................. 28
2.3. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu .......................... 35
2.3.1. Cái tôi cô đơn của người phụ nữ ............................................................. 35
2.3.2. Cái tôi bất an, không yên ổn .................................................................... 40
2.3.3. Tình yêu trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu ................................................... 43
Chương 3: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG
THƠ NỮ THÁI NGUYÊN (QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG,
NGUYỄN THÚY QUỲNH, LƯU THỊ BẠCH LIỄU) ................................. 55
3.1. Hình tượng thời gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy
Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu ................................................................................ 55
3.1.1. Thời gian hoài niệm trong thơ Trần Thị Vân Trung ............................... 55
3.1.2. Thời gian hiện tại với cảm nhận cá nhân trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu ....... 60
3.1.3. Thời gian đêm tối trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh. ................................. 64
3.2. Hình tượng không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy
Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu ................................................................................ 69
3.2.1. Hình tượng không gian quê hương gần gũi, thân thiết trong các sáng
tác của ba nhà thơ .............................................................................................. 69
3.2.2. Những không gian riêng .......................................................................... 74
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89
iv
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở khu vực Trung du miền núi phía Bắc với
nhiều phong cảnh đẹp, nhiều di tích lịch sử, là vùng đất cách mạng và là một
trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị lớn nhất cả
nước. Thêm vào đó, Thái Nguyên còn là một trong ba tỉnh có số lượng các
trường Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp lớn nhất cả nước. Chính
những điều này đã là nguồn cảm hứng cũng như nguồn đề tài phong phú để cho
các nhà văn, nhà thơ Thái Nguyên sáng tác.
Cũng hòa cùng với sự phát triển của thơ ca Việt Nam đương đại, các tác
phẩm thơ của các nhà thơ Thái Nguyên vừa mang nét chung của các nhà thơ
cùng thời vừa mang những đặc điểm riêng của thơ Thái Nguyên. Góp phần tạo
nên sự lớn mạnh của thơ Thái Nguyên không thể không kể đến sự đóng góp
của các nhà thơ nữ. Nếu như các nhà thơ nam mang đến cho thơ sự mạnh mẽ,
phóng khoáng thì thơ của các nhà thơ nữ chúng ta bắt gặp sự nhẹ nhàng, sâu
lắng nhưng cũng chứa đầy những tình cảm đằm thắm, mãnh liệt. Trong những
nhà thơ nữ Thái Nguyên, chúng ta thấy nổi bật lên ba gương mặt tiêu biểu, đó
là nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu.
Ba nhà thơ với ba thế hệ khác nhau ngoài những nét giống nhau thì
chúng ta thấy họ còn để lại dấu ấn trong lòng độc giả bởi những nét riêng có
của mình. Việc lựa chọn ba nhà thơ ở ba thế hệ để nghiên cứu là một sự nỗ lực
nhằm kiến giải sự khác biệt được biểu hiện trong thơ Thái Nguyên nói chung
và ba nhà thơ nói trên. Đó sẽ là nguồn tư liệu tài liệu tham khảo cho rất nhiều
người nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn học Thái Nguyên.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, các bài viết, các công trình
nghiên cứ về những đặc điểm nội dung, phong cách nghệ thuật của các nhà thơ
Thái Nguyên nói chung, của ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy
Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu nói riêng vẫn còn hạn chế. Chúng tôi muốn dành
1
công trình nghiên cứu đầu tiên của mình để nghiên cứu về ba nhà thơ nữ Thái
Nguyên mà bản thân đã từng gặp gỡ và quen biết, kính trọng và cũng là tư liệu
cho các bạn giáo viên dạy văn trong tỉnh Thái Nguyên có thêm hướng tiếp cận
với văn học địa phương. Vì những lí do nói trên, chúng tôi chọn đề tài: “Hình
tượng nghệ thuật trong thơ nữ Thái Nguyên”(Qua thơ Trần Thị Vân
Trung, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh) làm vấn đề nghiên cứu cho
luận văn của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ Thái Nguyên
Thái Nguyên là mảnh đất có truyền thống văn hóa, văn học, có những
điều kiện thuận lợi để nuôi dưỡng và phát triển truyền thống văn học nói chung
và thơ ca nói riêng. Thơ Thái Nguyên đã có một chặng đường lịch sử lâu dài
với những tên tuổi như Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Trần Thị Việt Trung, Hồ Thủy Giang, Nguyễn Đức Hạnh… Với những nhà thơ
thuộc thế hệ những nhà thơ trước, với những sáng tác được khẳng định, những
nghiên cứu về thơ của các tác giả này cũng được quan tâm trong nhiều bài báo
khoa học, là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên luận, luận văn, luận án, đề
tài nghiên cứu khoa học của sinh viên sư phạm… Trong các công trình nghiên
cứu ấy có thể kể đến các bài viết của Nguyễn Kiến Thọ. Trong các bài nghiên
cứu của mình anh đã khẳng định vai trò, đóng góp của các nhà thơ Thái
Nguyên với chặng đường hơn 30 năm phát triển. Anh viết về các nhà thơ trẻ
trong bài “30 năm thơ Thái Nguyên” trên báo điện tử Văn nghệ Thái Nguyên:
“Những đóng góp của thơ Thái Nguyên thời kì đầu còn phải kể đến những nhà
thơ trẻ. Họ cũng là thế hệ đầu tiên cùng với các bậc tiền bối góp phần tạo dựng
nền móng cho thơ Thái Nguyên. Đó là Trần Thị Vân Trung, một giảng viên đại
học, một chuyên gia giáo dục tại nước bạn Campuchia, thơ của chị duyên dáng
một cách hồn hậu thể hiện một tâm hồn nữ sĩ khao khát mà kín đáo, mãnh liệt
mà dịu dàng, khổ đau mà lạc quan…” [27].
2
Có thể nói, với những nghiên cứu đó, sáng tác của các nhà thơ Thái
Nguyên tiêu biểu đã được tìm hiểu trên nhiều phương diện, từ nội dung đến
hình thức nghệ thuật, từ ngôn ngữ, hình ảnh đến cấu trúc, nhịp điệu hay những
sáng tạo mới mẻ và những nỗ lực cách tân nghệ thuật trong thơ. Nói đến thơ nữ
Thái Nguyên, Nguyễn Kiến Thọ cũng dành những lời ngợi ca cho những đóng
góp của các nhà thơ nữ trong sự phát triển của thơ ca đương đại Việt Nam nói
chung và thơ Thái Nguyên nói riêng: “Thơ nữ Thái Nguyên trong thời điểm
hiện tại, ít nhiều đã có được vị thế nhất định trong thơ nữ Việt Nam đương đại.
Những tác giả nữ Thái Nguyên là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam như Trần Thị
Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Cao Hồng, và bên cạnh đó là Minh Thắng,
Lưu Thị Bạch Liễu… là những đại diện xứng đáng của thơ nữ Thái Nguyên,
cũng là những gương mặt khá quen thuộc của thơ nữ Việt Nam hiện đại. Tác
phẩm của họ đã là đối tượng nghiên cứu của các luận văn, luận án, những
công trình nghiên cứu về thơ Thái Nguyên cũng như thơ các dân tộc thiểu số
Việt Nam thời kì hiện đại.”[27] (Ba mươi năm thơ Thái Nguyên). Hay trong
một số luận văn tốt nghiệp Đại học, Luận văn ThS cũng đã đền cập đến những
đóng góp của các nhà Thái Nguyên đối với sự phát triển thơ ca cũng như văn
học nghệ thuật của tỉnh nhà. Có thể kể đến luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị
Tuyến với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong thơ trẻ Thái Nguyên” [29] , Luận
văn ThS của Trần Thị Lan “Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái” [52]
hay dưới dạng những bài viết, những dòng cảm nhận trên các trang báo mạng.
Hành trình nghiên cứu về thơ Thái Nguyên đã và đang diễn ra không
ngừng, đó vẫn là mảnh đất màu mỡ cho những ai quan tâm và yêu mến thơ của
các nhà thơ Thái Nguyên có thể tìm hiểu, khai thác để tìm ra những cái hay, cái
mới, cái thú vị trong những sáng tác đầy tâm huyết của các nhà thơ trên mảnh
đất này.
3
2.2. Lịch sử nghiên cứu về thơ của ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn
Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu
Trong những năm gần đây, dưới sự hướng dẫn của các giảng viên thuộc
Đại học Thái Nguyên, đã có những luận văn đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu về
thơ của các nhà thơ Thái Nguyên nói chung cũng như thơ của ba nhà thơ Trần
Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu nói riêng, tuy
nhiên những nghiên cứu này còn rất khiêm tốn.
Việc nghiên cứu thơ nữ Thái Nguyên hiện đại được nhiều người quan
tâm. Ngày 20/10/2009, tại Thái Nguyên đã tổ chức Hội thảo thơ nữ Thái
Nguyên đương đại. Tham gia hội thảo có nhiều nhà phê bình, nhiều nhà thơ
như: Vũ Đình Toàn, Nguyễn Kiến Thọ, Phạm Văn Vũ, Ma Trường Nguyên…,
tại Hội thảo đã giới thiệu một số tập thơ, bài thơ đánh giá trên phương diện nội
dung tư tưởng. Tại Hội thảo, chúng ta thấy những nhận xét, đánh giá hữu ích
như thơ của các chị làm cho người đọc thấy yêu đời hơn, bởi họ quá đẹp, đepj
trong tình yêu, hạnh phúc và trong cả nỗi đau. Qua thơ của các nhà thơ nữ,
người đọc thấy mình muốn sống tốt đẹp hơn.
Đánh giá về nhà thơ Lưu Thị Bạch Liễu, Tạ Văn Sỹ viết trên trang
wedsite Lưu tộc Việt Nam (ngày 19/9/2014): “Thơ Lưu Thị Bạch Liễu giàu nữ
tính mà cũng đầy cá tính, nhạy cảm và tinh tế trong quan sát và trong liên
tưởng và cách biểu đạt hàm xúc, sắc nét. Đây là thơ của một cây bút chắc tay
và có ý thức sáng tạo. Người đọc tin rằng nhà thơ nữ trẻ này còn tiếp tục
những bước thong dong rộng dài và ngày càng đằm thắm”[60].
Khi nói về nữ sĩ Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Kiến Thọ viết “Ẩn ức
trong đêm thơ Nguyễn Thúy Quỳnh” trên trang mạng Văn học Việt: “Không
gian tinh thần trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh như bị nêm cứng bởi những lịch
lí, không dễ gì tháo gỡ hay vứt bỏ. Cảm giác tù túng châm ngòi cho sự sụp đổ.
Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh là những mảnh vỡ của trạng thái tinh thần ấy” [28].
4
Hay nhận xét thơ Vân Trung, tác giả Nguyễn Kiến Thọ trong bài viết 30
năm thơ Thái Nguyên nhân dịp Kỷ niệm 30 năm thành lập Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Thái Nguyên (1987 - 2017): “Đó là Trần Thị Vân Trung....thơ của
chị duyên dáng một cách hồn hậu thể hiện một tâm hồn nữ sĩ khao khát mà kín
đáo, mãnh liệt mà dịu dàng, khổ đau mà lạc quan”[27].
Đặc điểm thơ nữ Thái Nguyên cũng không ngoài đặc điểm chung của thơ
nữ nói chung đó là rất giàu nữ tính: dịu dàng, đằm thắm mà mãnh liệt, ý thức
sâu sắc về giá trị nhân phẩm và nỗi bất hạnh của cá nhân nhưng vẫn giàu nghị
lực, khát vọng và tình yêu. Các nhà thơ nữ Thái Nguyên không chỉ tạo nên vẻ
đẹp riêng của mình mà còn thể hiện tầm nhìn và bóng dáng rất rõ của họ qua
thế giới nghệ thuật trong thơ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thơ của họ chưa
thành hệ thống và chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về các đặc điểm thế
giới nghệ thuật trong thơ của họ. Thực hiện đề tài “Hình tượng nghệ thuật
trong thơ nữ Thái Nguyên qua thơ: Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Lưu Thị Bạch Liễu”, chúng tôi hi vọng sẽ có những đóng góp mới, bù đắp vào
khoảng trống đó. Trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi sẽ cố gắng tìm
hiểu và trình bày để làm rõ được nét riêng về thế giới nghệ thuật qua thơ của
các tác giả nữ Thái Nguyên và bản sắc văn hóa thể hiện trong thơ của họ
Tuy nhiên, để đi sâu vào hiểu hết thơ của họ, con người họ qua thơ thì
vẫn còn nhiều đất trống. Chúng tôi hiểu rằng, điều đó vừa là thuận lợi nhưng
đồng thời cũng là thách thức không nhỏ trong quá trình thực hiện luận văn. Với
tinh thần làm việc nghiêm túc và sự cố gắng trong quá trình nghiên cứu, chúng
tôi hi vọng luận văn sẽ góp thêm cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong công tác
nghiên cứu, đánh giá và phê bình các nhà thơ nữ trên. Đồng thời chúng tôi cũng
mong muốn, khi hoàn thành luận văn sẽ là một trong những công trình tham
khảo trong quá trình giảng dạy tại trường chuyên nghiệp cũng như trong
chương trình văn học địa phương ở các nhà trường phổ thông.
5
3. Mục đích nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích :
Nhằm lí giải, cắt nghĩa những nét đặc trưng mang tính bản sắc riêng của
ba nhà thơ thuộc ba thế hệ khác nhau.
Đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu vào các tập thơ tiêu biểu của ba
nhà thơ từ góc nhìn nội dung biểu hiện cái tôi cá nhân và thế giới nghệ thuật
không gian và thời gian mang tính đặc trưng của vùng miền.
Đánh giá những thành công và đóng góp của ba nhà thơ trong nền văn
học thơ Thái Nguyên.
Đề tài cũng giúp người viết hiểu thêm về con người và phong cách sáng
tác của các nhà thơ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu ở trên,chúng tôi thực hiện
các nhiệm vụ sau:
Vận dụng lí thuyết về lí luận văn học để đi sâu tìm hiểu.
Tìm hiểu khái quát về ba nhà thơ và đi sâu vào các tập thơ có giá trị của
các nhà thơ .
Tìm hiểu về cuộc đời và những yếu tố đã tạo nên những nét đặc sắc cho
ba nhà thơ.
Tìm hiểu đặc điểm thơ của ba nhà thơ trên một số phương diện nội dung
và nghệ thuật thơ.
Xác định những đóng góp của ba nhà thơ cho thơ Thái Nguyên.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: những đặc sắc trong hình tượng nghệ thuật thơ nữ Thái
Nguyên: Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu
Phạm vi nghiên cứu : Đi sâu vào nghiên cứu các tập thơ của các nhà thơ
và chỉ ra được sự khác biệt của ba thế hệ nhà thơ.
6
Nguyễn Thúy Quỳnh thể hiện qua ba tập thơ: “Giá mà em từ chối ”,
“Mưa mùa đông”, “Những tích tắc quanh tôi”.
Lưu Thị Bạch Liễu với các tập thơ: “Sông Cầu đang chảy đâu đây”,
“Cõi tôi”, “Trường Sa ơi Trường Sa”
Trần Thị Vân Trung với các tập thơ: “Hoa bất tử”, “Xin đừng té nước
vào em” 6. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tổng hợp: Làm rõ những đặc điểm chính về nội dung và hình thức của các tập thơ tiêu biểu của ba nhà thơ làm cơ sở để đưa ra các nhận định, kết luận thuyết phục và có ý nghĩa khoa học.
Phương pháp đối chiếu so sánh: So sánh, đối chiếu giữa các sáng tác của từng nhà thơ; giữa các tác giả, tác phẩm khác nhau, giữa các giai đoạn văn học khác nhau... để có những kết luận cần thiết.
Phương pháp hệ thống: hệ thống hóa các nét riêng, những điểm chung
trong thế giới nghệ thuật trong thơ của ba nhà thơ.
Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: sử dụng những kiến thức lý luận văn
học chung để làm nền tảng cho những kết luận khoa học. 7. Đóng góp của luận văn
Khẳng định được những thành tựu và đóng góp của Trần Thị Vân Trung,
Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu trong thơ Thái Nguyên.
Luận văn thể hiện rõ sự khác biệt trong phong cách sáng tác của ba thế
hệ khác nhau khi viết về thơ Thái Nguyên.
Đồng thời ở mức độ nào đó, luận văn cũng đóng góp làm tài liệu tham
khảo cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy về văn học Thái Nguyên. 8. Cấu trúc luận văn Mở đầu Nội dung: Chương 1: Giới thuyết chung. Chương 2: Hình tượng cái tôi trư tình trong thơ nữ Thái Nguyên (Qua
thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu)
Chương 3: Hình tượng không gian, thời gian nghệ thuật trong thơ nữ Thái Nguyên (Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu)
Kết luận. Tài liệu tham khảo.
7
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT
VÀ THƠ NỮ THÁI NGUYÊN
1.1. Những vấn đề lí luận về hình tượng nghệ thuật và hình tượng nghệ
thuật trong thơ trữ tình
1.1.1. Khái niệm hình tượng, hình tượng nghệ thuật
Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật
dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực
tiếp bằng cảm tính.
Khái niệm hình tượng nghệ thuật: Mỗi một loại hình nghệ thuật sử dụng
chất liệu riêng biệt để xây dựng hình tượng. Chất liệu của hội họa là đường nét,
màu sắc, của kiến trúc là mảng khối, của âm nhạc là giai điệu, âm thanh. Ngôn
từ là chất liệu của văn học cho nên hình tượng nghệ thuật là hình tượng của
ngôn từ.
Theo nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong
cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục Việt Nam năm 2010 thì
Hình tượng nghệ thuật là “Sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh và tái tạo
hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật, người nghệ sĩ
sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng
và tình cảm của mình, giúp con người thể hiện ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi
quan hệ có ý nghĩa muôn màu, muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh.
Nhưng khác với những nhà khoa học, nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩa
và tình cảm bằng khái niệm trừu tượng, bằng định lý, công thức mà bằng hình
tượng, nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự
việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình
đời, tình người qua một chất liệu cụ thể” [15, tr. 147].
8
Như vậy, hình tượng nghệ thuật chính là khách thể đời sống được nghệ sĩ
tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Khi nói
đến hình tượng nghệ thuật, người ta thường nghĩ tới hình tượng con người như:
hình tượng tập thể như hình tượng nhân dân, hình tượng Tổ quốc, hình tượng
cá nhân nhân vật như hình tượng chị Dậu, hình tượng Chí Phèo… với những
chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú.
Nhưng cũng cần lưu ý rằng: hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống
nhưng tái hiện một cách có chọn lọc thông qua trí tưởng tượng và tài năng của
tác giả (chứ không sao chép y nguyên những hiện tượng có thật). Qua đó, các
hình tượng tạo ra được những ấn tượng sâu sắc, những day dứt, trăn trở không
nguôi đối với bạn đọc. Mặt khác, hình tượng nghệ thuật vừa có giá trị thể hiện
những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, vừa có khả năng khái quát, bộc lộ được
bản chất của con người hoặc sự vật theo quan niệm của tác giả.
Tóm lại, theo Từ điển thuật ngữ văn học, qua hình tượng nghệ thuật,
“Người đọc không chỉ thưởng thức “bức tranh” hiện thực, mà còn thưởng thức cả
nét vẽ, màu sắc, nụ cười, sự suy tư ẩn trong bức tranh ấy. Hình tượng nghệ thuật
thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mĩ của nghệ thuật” [15, tr. 148].
Một trong những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu hình
tượng nghệ thuật trong thơ của ba nhà thơ Nữ Thái Nguyên: tác giả Trần Thị
Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu - nên người viết muốn
làm rõ hơn khái niệm lý thuyết lý luận có liên quan nữa đó là khái niệm về hình
tượng tác giả trong sáng tác nghệ thuật.
* Hình tượng tác giả:
Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,
Nguyễn Khắc Phi (2010) thì Hình tượng tác giả là “Phạm trù thể hiện cách tự ý
thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm,
một vai trò được người đọc chờ đợi … hình tượng tác giả trong tác phẩm văn
học gắn với ý thức của tác giả về vai trò xã hội, tư thế văn học rất đa dạng của
9
mình”[15, tr. 149]. Theo đó, cơ sở tâm lý hình tượng tác giả là hình tượng “cái
tôi” trong nhân cách mỗi người thể hiện trong giao tiếp, mang đậm cá tính sáng
tạo của tác giả. Cũng theo quan niệm của các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn
học, thì “ phạm trù hình tượng tác giả chẳng những cho phép nhận ra phong cách
cá nhân, mà còn giúp tìm hiểu hệ thống của văn bản tác phẩm, mối quan hệ của
nó với ý thức về vai trò xã hội và văn học của bản thân văn học” [15,tr. 150].
1.1.2. Hình tượng nghệ thuật và hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ
Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,
(2010) Thơ trữ tình là một “thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình,
trong đó những cảm xúc, những suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình
trước các hiện tượng đời sống được thực hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá
thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu
hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả
năng thể hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc
của tình cảm cho tới những chính kiến, những tư tưởng triết học” [15,tr. 317].
Hình tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình thường được biểu hiện qua cái
“ tôi” trữ tình. Tuy nhiên, hình tượng nghệ thuật là sáng tạo của người nghệ sĩ.
Hình tượng nghệ thuật là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái tạo bằng
tưởng tượng. Bởi vậy mà thế giới nghệ thuật thường sẽ vô cùng phong phú.
Cái tôi trữ tình là một sản phẩm độc đáo trong thế giới hình tượng do
người nghệ sĩ sáng tạo nên. Trong quá trình sáng tác, cái tôi nghệ sĩ bước vào
thế giới nghệ thuật và trở thành một hình tượng trọn vẹn.
Cái “tôi” trữ tình là một trong những yếu tố quan trọng bộc lộ tư tưởng
và phong cách của mỗi nhà thơ. Đó chính là tâm trạng, là cảm xúc, là thế giới
nội tâm của nhà thơ trước hiện thực khách quan. Do vậy, tìm hiểu hình tượng
nghệ thuật trong thơ trữ tình không thể không tìm hiểu về cái “tôi” trữ tình
trong thơ, nhờ đó người đọc có được cái nhìn thấu đáo và toàn diện về thế giới
cảm xúc và tư duy nghệ thuật của nhà thơ.
10
1.2. Thơ nữ Thái Nguyên trong dòng chảy thơ ca quê hương
1.2.1. Giới thiệu về thơ Thái Nguyên đương đại và các nhà thơ nữ Thái Nguyên
Thái Nguyên có đầy đủ các điều kiện thuận lợi về truyền thống văn hóa,
thắng cảnh cũng như nhân lực để có một nền văn học phát triển mạnh. Cũng
như tiến trình phát triển của văn học cả nước, văn học nói chung và thơ ca Thái
Nguyên nói riêng cũng được phát triển bắt đầu từ văn học dân gian, thơ ca dân
gian. Ngoài số lượng người Kinh chiếm đa số thì Thái Nguyên còn là nơi tập
trung của các dân tộc anh em như Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao,
H'Mông và người Hoa cho nên có một nền văn hóa rất phong phú, đa dạng.
Văn học Thái Nguyên chính là tổng hòa của tất cả những giá trị văn học dân
gian và đương đại của các dân tộc anh em đang sinh sống trên địa bàn Thái
Nguyên. Nó vừa chứa đựng những nguồn sống trong mạch chảy chung của văn
hóa cộng đồng người Việt Nam nói chung vừa tích tụ những nét bản sắc mang
tính đặc trưng riêng của cộng động dân cư Thái Nguyên.
Bước sang thế kỉ XXI, cùng với sự chuyển mình về mọi mặt kinh tế, văn
hóa, xã hội, Thái Nguyên đang từng ngày thay da đổi thịt. Theo đó nền văn học
Thái Nguyên trong đó có thơ ca có bước tiến mới, đạt được nhiều thành tựu
mới cả về số lượng, giá trị tác phẩm cũng như đội ngũ sáng tác. Thơ ca Thái
Nguyên đã kịp thời phản ánh sự lớn mạnh của quê hương cũng như phản ánh
những tâm tư của con người trước những đổi thay của cuộc sống. Hòa vào dòng
chảy văn chương của thời đại, sự xuất hiện của hàng loạt các nhà thơ mới bên
cạnh những nhà thơ cũ với nhiều lứa tuổi, nhiều thể loại, nhiều bút pháp khác
nhau đã làm cho kho tàng thơ ca nói riêng, văn chương Thái Nguyên nói chung
ngày càng thêm phong phú, tiêu biểu là: Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Ma
Trường Nguyên, Minh Thắng, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Hoàng Tố Nga, Cao Hồng... Trong thơ của mình, các nhà thơ đều ít nhiều tự
tạo cho mình một hướng đi riêng, không hòa lẫn với nhau: có nhà thơ thì nhẹ
nhàng, có nhà thơ lại mạnh mẽ, thách thức hoặc khiêm nhường, gai góc hoặc
11
dịu êm... Tuy có những nét rất riêng như vậy nhưng giữa các nhà thơ vẫn có sự
gặp ngỡ nhau trong nỗi buồn, sự cô đơn và đều có sự bứt phá về thi pháp thơ.
Đóng góp không nhỏ cho sự lớn mạnh của thơ ca Thái Nguyên đó là các
cây bút nữ. Trong số các cây bút này có những người không chỉ đóng góp vai
trò của mình trong dòng thơ ca Thái Nguyên mà còn có những đóng góp cho
thơ nữ Việt Nam đương đại như Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Cao Hồng, Lưu Thị Bạch Liễu … Các nhà thơ nữ Thái Nguyên mỗi người một
vẻ đã điểm tô những nét duyên dáng, mềm mại bên cạnh những góc cạnh, mạnh
mẽ của các cây bút nam. Chính các chị đã góp phần làm cho thơ ca Thái
Nguyên thêm nhiều màu sắc và có sự hấp dẫn riêng.
1.2.2. Giới thiệu về ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,
Lưu Thị Bạch Liễu
1.2.2.1. Nhà thơ Trần Thị Vân Trung
* Tiểu sử
Trần Thị Vân Trung tên thật là Trần Thị Việt Trung, sinh năm 1956 tại
Thái Nguyên. Chị là ham học, say mê nghiên cứu khoa học và là một trong
những nhà thơ nữ có đóng góp không nhỏ cho thơ Thái Nguyên.
Sinh ra và lớn lên khi đất nước còn khó khăn, gia đình túng thiếu nhưng
với một ý chí nỗ lực và phấn đấu mạnh mẽ, chị đã đạt được rất nhiều thành tựu
trong lĩnh vực khoa học, giáo dục và thơ văn.
Ngay từ năm thứ 2 Đại học Vân Trung đã được Khoa Ngữ văn - ĐH Sư
phạm Việt Bắc cử đi tham dự Hội thảo Khoa học Toàn quốc. Tốt nghiệp ĐH
khi còn rất trẻ (21 tuổi), chị đã được Trường ĐH Sư phạm giữ lại giảng dạy.
Năm 1977, chị được cử đi học Cao học. Từ đây chị được tiếp sức trên con
đường làm nghiên cứu khoa học, tích lũy kiến thức để giúp chị tiếp tục giảng
dạy và nghiên cứu của mình.
Tháng 12/1979, Vân Trung là một trong 10 người đầu tiên có trình độ
Cao học của trường Đại học Sư phạm Việt Bắc lúc bấy giờ. Trong giai đoạn
12
khó khăn của đất nước, nhiều người đã phải bỏ nghề giáo để tìm đường mưu
sinh. Nhưng với niềm say mê với nghề, chị đã bám trụ với trường, lớp.
Chị cùng với một số nhà giáo được cử sang công tác giúp nước bạn
Campuchia một thời gian. Trong thời gian xa nhà, nỗi nhớ chồng, nhớ con đã
được chị thể hiện trong những dòng thơ thấm đẫm tâm sự. Tập thơ đầu tay
“Xin đừng té nước vào em” ra đời đã được sự đón nhận của đông đảo bạn đọc
và là nguồn động viên, khích lệ để chị sáng tác và tiếp tục cho ra mắt bạn đọc
những tập thơ tiếp theo, trong đó có 2 tập thơ được trao tặng giải thưởng Quốc
gia và Giải thưởng Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên.
Ngoài làm thơ, Trần Thị Vân Trung còn là một nhà khoa học với tinh thần
làm việc không biết mệt mỏi. Chị đã có nhiều công trình khoa học cấp nhà nước
được đánh giá rất cao. Ngoài ra chị còn là cán bộ quản lí đầy kinh nghiệm.
Năm 1995: Phó trưởng ban Đào tạo và Nghiên cứu khoa học
- Năm 1997: Phó trưởng ban Đào tạo và Nghiên cứu khoa học & Hợp tác
quốc tế.
- Năm 2003: Trưởng ban Đào tạo và Nghiên cứu khoa học & Hợp tác
quốc tế.
- Năm 2004: Được phong Phó giáo sư
- Năm 2005: Trưởng Ban Khoa học và Công nghệ
- Năm 2008: Giám đốc - Tổng Biên tập NXB Đại học Thái Nguyên
Hiện nay chị là UV BCH hội nữ trí thức VN tại Thái Nguyên, UV hội
đồng lí luận phê bình Văn học Nghệ thuật TW, Hội viên Hội Nhà văn Việt
Nam và tham gia một số tổ chức chính trị khác.
* Các tác phẩm thơ
- Xin đừng té nước vào em (Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Thái, 1989)
- Sao đôi xa xăm (NXB Thanh niên, 1991)
- Khoảng cách cuối cùng (NXB Thanh niên, 1999)
- Hoa bất tử (NXB Thanh niên, 2011)
13
1.2.2.2. Nguyễn Thúy Quỳnh
* Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
Nguyễn Thúy Quỳnh sinh ngày 09/10/1968. Quê gốc nhà thơ ở Nghĩa
Hưng - Nam Định nhưng nhà thơ lại sinh sống nhiều năm ở xã Hà Thượng,
huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay, nhà thơ đang có hộ khẩu thường
trú tại phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên.
Năm 1989, Nguyễn Thúy Quỳnh tốt nghiệp khoa Ngữ Văn - trường đại
học Sư phạm Việt Bắc. Chị từng có thời gian làm giáo viên của trường Phổ
thông Trung học Đại Từ sau đó được chuyển công tác sang làm ở Tỉnh đoàn
Thái Nguyên. Nguyễn Thúy Quỳnh là hội viên Hội nhà báo Việt Nam và hội
viên Hội nhà văn Việt Nam. Hiện nay, Nguyễn Thúy Quỳnh là thạc sĩ văn học,
giữ chức vụ Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Tổng biên
tập báo Văn nghệ tỉnh Thái Nguyên.
* Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thúy Quỳnh
Ngay từ thời còn rất nhỏ tuổi, Nguyễn Thúy Quỳnh đã có một niềm đam
mê sáng tác văn chương. Đến năm 1982, khi mới 14 tuổi, nhà thơ đã cho ra đời
tác phẩm đầu tay, in trên Tạp chí Văn nghệ Bắc Thái.
Năm 2003, Nguyễn Thúy Quỳnh bắt đầu công tác tại Hội Văn học Nghệ
thuật của tỉnh. Cũng bắt đầu từ đây, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ thật sự bước
sang một trang mới với tư cách là một nhà thơ, một nhà báo chuyên nghiệp.
Nguyễn Thúy Quỳnh đã cho cho xuất bản hai tập thơ là: "Giá mà em từ
chối" (Nxb Văn hóa dân tộc, H.2002), "Mưa mùa đông" (Nxb Hội nhà văn,
H.2004) và mới đây nhất, vào tháng 11/2011 nhà thơ đã cho ra mắt tập thơ thứ
ba với tên gọi "Những tích tắc quanh tôi" viết về sự trải nghiệm mới của nhà
thơ về cuộc đời.
Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Thúy Quỳnh cũng đạt được
một số giải thưởng cao về văn học của trung ương như: Giải nhì về thơ của Ủy
ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ
14
"Mưa mùa đông", Giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội, của Tạp chí Văn
hóa các dân tộc Việt Nam. Với những giải thưởng đã đạt được, thơ Nguyễn
Thúy Quỳnh đã bước đầu khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn thi ca
Việt Nam.
Nguyễn Thúy Quỳnh là một nhà thơ có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của
người làm thơ, đó chính là ý thức của một con người có trách nhiệm với cộng
đồng. Nhà thơ từng đưa ra quan niệm: "Mình không giúp được gì cho những
thân phận nhỏ bé và bất hạnh thì mình chia sẻ bằng trang viết". Cũng chính vì
ý thức đó mà nhà thơ đã có sự chuyển biến lớn về xu hướng sáng tác, từ việc
chủ yếu viết về cuộc đời chính mình, về gia đình, tình yêu nhà thơ đã chuyển
hướng sự quan tâm, lo lắng, trăn trở đến những điều rộng lớn hơn, vượt hẳn ra
ngoài phạm vi bản thể để hướng tới cộng đồng xã hội.
Nhà thơ quan niệm: "Mình không giúp được gì cho những thân phận nhỏ
bé và bất hạnh thì mình chia sẻ bằng trang viết". Đó chính là ý thức của một
nhà thơ có trách nhiệm, điều này đã trở thành một tư tưởng chi phối xuyên suốt
quá trình sáng tác về sau này của Nguyễn Thúy Quỳnh.
1.2.2.3. Nhà thơ Lưu Thị Bạch Liễu
* Tiểu sử
Lưu Thị Bạch Liễu sinh 25/12/1973 tại Thành phố Thái Nguyên. Với
Lưu Thị Bạch Liễu chúng ta thấy chị là con người ham học hỏi, đa tài. Chị đã
học rất nhiều chuyên ngành khác nhau nhưng lại không có ngành nào liên quan
đến nghệ thuật. Chị tốt nghiệp chuyên ngành Toán của trường Đại học Sư
phạm Thái Nguyên năm 1994. Một năm sau chị tốt nghiệp chuyên ngành tiếng
Anh, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Năm 1995, chị nhận bằng ĐH tiếng Trung
của trường ĐH Thái Nguyên. Năm 2017, chị tốt nghiệp lớp Cao cấp chính trị -
Học viện Chính trị Quốc gia Khu vực 1.
Sau khi tốt nghiệp ĐH Sư phạm, Bạch Liễu không đi dạy mà chuyển
sang làm một cán bộ công an tại Công an tỉnh Thái Nguyên (Từ 1994 đến
15
2004). Với tính cách ưa khám phám, thích “rong chơi” nên tháng 12/2004 chị
chuyển sang làm phóng viên báo Sài Gòn giải phóng và đến năm 2013 chị
chuyển hẳn về công tác tại Hội nhà báo tỉnh Thái Nguyên.
* Các tác phẩm
- Cõi tôi - Tập thơ 2007
- Sông Cầu đang chảy đâu đây - Tập thơ 2009
- Nửa đêm gió lùa - Tập truyện ngắn 2011
- Nở muộn - Tập thơ 2013
- Trường Sa! Ơi, Trường Sa! - Tập thơ 2014
Tiểu kết chương 1
Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu là những
nhà thơ nữ tiêu biểu của nền thơ Thái Nguyên. Cả ba nhà thơ đều có một quá
trình hoạt động sáng tác lâu dài cho đến tận ngày nay, trong sáng tạo nghệ thuật
mỗi người lại có một quan niệm riêng, không giống nhau. Chính điều này đã
góp phần tạo nên phong cách riêng cho mỗi nhà thơ. Đây cũng là những nhà
thơ đạt được nhiều giải thưởng ấn tượng của cả Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
Thái Nguyên cũng như giải thưởng của Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.
16
Chương 2
HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NỮ THÁI NGUYÊN
(QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG, NGUYỄN THÚY QUỲNH,
LƯU THỊ BẠCH LIỄU)
2.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Trần Thị Vân Trung
2.1.1. Người tình đắm say, người vợ thủy chung
Đọc thơ Vân Trung, ta thấy đây chính là câu chuyện tình yêu được chị
viết bằng thơ. Với giọng thơ trẻ trung, yêu đời và say đắm trong tình yêu,
chúng ta được chứng kiến những cung bậc cảm xúc của tình yêu. Những ngày
đi công tác xa nhà, những dòng thơ gửi cho người chồng yêu dấu với những nét
tinh nghịch được chị gửi về cho người chồng ở nhà:
Không Trung - anh có nhớ
Chơi vơi - một cánh diều?
Mây trắng - xin dệt áo
Choàng bọc trái tim yêu!
(Mây trắng -Phnôm Pênh, 1986)
Lối chơi chữ hóm hỉnh nhưng ẩn chứ sâu trong từng câu chữ là nỗi
nhớ người chồng. Xa anh, em như cánh diều chơi vơi, liệu anh có giống
như em không?
Nhà thơ cũng không giấu giếm nỗi lòng khi nhớ đến những nồng ấm,
nhớ đến những cái ôm của chồng. Mạnh bạo thể hiện nỗi lòng, thể hiện khao
khát mãnh liệt yêu đương của người đàn bà trỗi dậy trong thơ chị. Chị đã dám
nói thật nỗi lòng mình, dám thể hiện khát khao được yêu thương của mình qua
những dòng thơ gửi về người chồng yêu dấu.
Em cứ run lên - trong nỗi nhớ cồn cào
Cứ muốn nép mình dưới vòm ngực nở,
Cứ lả mềm đi như lá úa
Trong cánh tay Anh - khỏe, ấm, nồng nàn!
(Có nỡ xa)
17
Ta bắt gặp một Vân Trung hóm hỉnh, có duyên khi dùng lối chơi chữ để
mà trao yêu thương, nhung nhớ cho người chồng của mình, một Vân Trung đầy
sức sống khao khát yêu đương, không ngần ngại dâng hiến. Đối với Vân Trung,
chị luôn mong ước và cũng luôn cố gắng để xây đắp một tình yêu bất tử:
Em đi tìm hoa bất tử
Chẳng tin - trẻ mãi không già!
Nhưng lòng em hằng khao khát
Tình yêu Bất tử như hoa!
(Hoa bất tử)
Tin tưởng vào tình yêu, thơ Vân Trung là những dòng tâm sự nhẹ nhàng
với người bạn đời của mình. Chị tự thu mình lại, hóa mình thành nhỏ bé trước
mặt người đàn ông của mình, để được che chở, yêu thương. Ta bắt gặp hình
ảnh chị giống như bao người phụ nữ Việt khác, dù ngoài xã hội có làm những
công việc lớn lao gì đi chăng nữa thì khi về với tổ ấm của mình, chị lại trở
thành người phụ nữ của gia đình, cũng yếu đuối và cần được chở che:
Trước anh - em nhỏ bé
Niềm kiêu hãnh xưa như cháy lụi đi rồi
Chút nhan sắc, tài hoa và tuổi trẻ
Cũng trở thành …. vô nghĩa lắm…
(Không đề)
Với Vân Trung, chị luôn hết mình trong tình yêu, chị giống như một cô
gái dại khờ, ngây thơ, không giữ lại chút gì cho mình. Chị yêu say đắm, yêu
bằng cả trái tim. Có tình yêu, cuộc đời trở nên tươi đẹp biết bao. Chị ngợi ca
tình yêu, chị thấy tình yêu giống như một cơn mưa xuân tưới đẫm tâm hồn
mình, chảy trôi đi những muộn phiền của cuộc sống:
Anh như cơn mưa chợt đến
Thấm dần … ướt đẫm hồn em
Trôi đi bao nhiêu bụi bặm,
Tan đi bao nỗi ưu phiền …
(Mưa xuân)
18
Đang say đắm trong tình yêu, đang được tận hưởng những cảm xúc ngọt
ngào của trái yêu đương thì lại phải chia xa, thơ Vân Trung bật lên nỗi nhớ
nhung, khắc khoải “Có xa ngàn vạn dặm/ Mới hiểu thấu “trăng thề”/ Mới biết
còn khắc khoải/ Mới biết còn đam mê” để rồi tâm hồn trở nên lạnh giá, mọi thứ
đều trở nên vô nghĩa ngày xa anh, đến nỗi “Môi nhạt màu son thắm/ Má phai sắc
hồng đào…” và trái tim thì “Trái tim dường tan nát/ Lại cháy lên nỗi niềm…. /
Tâm hồn dường nguội lạnh/ Lại nhớ thương triền miên…” (Ngày xa anh)
Tình yêu nồng cháy thế nhưng không phải không có những lúc giận hờn.
Đã có lúc chị tự hỏi, tự dằn vặt bởi những lỗi lầm của người yêu, chị âm thầm
khóc cho sự rạn nứt vô hình trong tình yêu đôi lứa, nhưng những kỉ niệm xưa
cứ ùa về, để chị không dám nghĩ tiếp:
Đã bao lần em định viết về anh
Về sụ thật giữ lòng ta - hai đứa
Nhưng kỉ niệm xưa, khiến em chẳng nỡ
Viết cái điều - emm nghĩ về anh!
(Điều không muốn viết)
Chị sợ rằng khi sự thật được phơi bày ra thì sẽ không còn gì có thể níu
kéo lại được. Chị tiếc, chị buồn cho những kỉ niệm đã qua. Chính vì không thể
nói ra được nên:
Đã bao lần anh biết trong đêm
Nước mắt đã hoen vàng gối trắng?
Chuyện chúng mình … trong tận cùng sâu thẳm
Đã bao lần tiếng nấc nuốt vào trong
(Điều không muốn viết)
Khổ đau là vậy, nhưng với bản chất hiền lành nên chị đành một mình
nuốt những nỗi đau ấy vào trong, để cố gắng xây dựng lại một tình yêu đẹp. Sự
vị tha, trái tim nhân hậu của chị đã được đáp đền, để đến bây giờ, chị cười, chị
vui trong niềm vui của tình yêu gia đình, vui với tiếng cười của con cháu:
19
Tiếng cháu cười trong vắt
Múa, hát và đọc thơ
Ông đệm đàn mê mải
Bà vui đến … sững sờ
(Linh Đan)
2.1.2. Người mẹ minh triết và vẻ đẹp mẫu tính
Không chỉ là một người tình say đắm, một người vợ thủy chung, trong
thơ Trần Thị Vân Trung ta còn thấy hình ảnh đầy mẫu tính của một người mẹ
đảm đang. Ta có thể thấy trong thơ Vân Trung, chị không viết về những điều
lớn lao to tát mà chị đi sâu vào những điều bình dị nhất của cuộc sống. Đó
chính là tình yêu dành cho chồng, cho con, cho gia đình nhỏ bé của mình. Đó là
những giây phút đa sầu đa cảm, những lúc trái tim yếu mềm bởi một ánh mắt,
một nụ cười của ai đó….
Âm hưởng nữ tính xuất hiện trong phần lớn các sáng tác của Trần Thị
Vân Trung. Nữ tính trong cách thể hiện tình yêu, nữ tính trong tình cảm gia
đình, với người mẹ của mình, với những đứa con, đứa cháu…
Người mẹ nào cung lo lắng cho con của mình, kể cả khi những đứa con
ấy đã trưởng thành, vui cùng với niềm vui của con, buồn cùng với nỗi buồn của
con. Vân Trung cũng đã từng trăn trở, day dứt khi thấy cậu con trai bé bỏng
ngày nào của mình giờ đang dần rời xa vòng tay mẹ, dời xa tổ ấm mà bao năm
cha mẹ đã xây dựng, bồi đắp cho con. Chị lo ngoài đời kia nhiều bão giông cám
dỗ, đứa con của mình không đủ bản lĩnh để mà vượt qua:
Cuộc sống ngoài kia - chứa đầy cạm bẫy
Và sục sôi như thác, lũ đầu nguồn
Đi đứng, học hành, yêu, chơi… đều hiện đại
Mẹ quặn lòng, day dứt - nghĩ về con!
(Lời trăn trở tháng Ba)
20
Sau những trăn trở, day dứt ấy, bằng tình thương vĩ đại của người mẹ,
Vân Trung đã tâm sự với con, đã dạy bảo con sống phải biết yêu thương cha
mẹ, yêu những người ruột thịt thì con mới cảm nhận được hạnh phúc là gì:
Nếu con biết yêu mẹ - bằng tình yêu máu thịt
Con mới biết yêu người yêu - bằng tình yêu máu thịt của mình
Nếu con biết quý từng phút giây hạnh phúc
Thì đời con - hạnh phúc mới hồi sinh
(Lời trăn trở tháng Ba)
Lời dạy bảo của người mẹ thật nhẹ nhàng nhưng chứa đầy tình cảm.
Được làm con của một người mẹ như vậy, tôi nghĩ rằng cậu con trai của chị
phải rất hạnh phúc. Không có những triết lí cao siêu, chỉ là những điều rất bình
dị thôi nhưng đọng lại rất sâu, rất lâu trong lòng người đọc. Phải biết yêu như
chính máu thịt của mình, phải biết quý trong từng giây phút hạnh phúc thì cuộc
đời chúng ta mới có được niểm vui.
Không chỉ lo cho con, Vân Trung còn niềm vui bên những đứa cháu của
mình. Tuổi trẻ qua đi nhưng chị lại bất ngờ thấy một mùa xuân trong hình ảnh
đứa cháu bé nhỏ:
Nhưng bất ngờ - lại thấy Một Mùa Xuân
Nở bừng lên trong tiếng cười của cháu
Mắt đen láy, má đào đôi môi sáo…
Lai thấy LÒNG MÌNH TƯƠI TRẺ - thủa xa xưa!
(Lại thấy một mùa xuân)
Quên đi những điều không vui, những điều chưa hài lòng trong cuộc
sống, Vân Trung thấy lòng mình có niềm tin hơn khi có niềm vui gia đình,
niềm vui của những đứa cháu ngoan:
Mặc cuộc đời dâu bể
Đen - trắng và vàng - thau
Giả dối cùng chân thật
Hạnh phúc lẫn khổ đau…
- Bà tin yêu nhìn cháu
Hy vọng vào MAI, SAU…!
(Linh Đan)
21
Vẻ đẹp trong thơ Trần Thị Vân Trung còn là những dòng thơ đầy xúc
động khi chị viết về mẹ. Chị dành hẳn một phần trong tập thơ “Hoa bất tử” để
viết về mẹ. Trong tâm trí chị, mẹ và quê hương là hai thực thể không thể tách
rời. Mẹ là quê hương và quê hương là mẹ. Những kí ức về mẹ luôn hiện hữu
trong thơ Vân Trung. Một chiều trở gió, vô tình bắt gặp bóng lưng còng của
một bà cụ nào đó, nhà thơ lại hoài niệm về bóng dáng mẹ “Chợt thấy bóng ai
như dáng mẹ/ Tất tả chiều Thu - sương đẫm vai…” (Mẹ và quê hương).
Nhớ đến mẹ, Vân Trung nhớ đến những tảo tần của mẹ, nhớ lại hình
ảnh mẹ:
Thắt lại chiếc khăn hình mỏ quạ
Nồng miếng trầu cay thắm miệng Người
Dáng vội vã - “chân đi không đi bén gót”
Suốt cuộc đời - chưa một phút thảnh thơi!
(Mẹ ơi!)
Cho dù cuộc đời có bao chông gai cạm bẫy, con có mẹ giống như có chỗ
dựa lớn lao. Là một người mẹ nên Vân Trung càng hiểu nỗi khổ của mẹ, càng
thương mẹ hơn. Đó là một vẻ đẹp trong thơ Vân Trung nói riêng và trong thơ
của các nhà thơ nữ nói chung.
2.2. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
2.2.1. Người phụ nữ với những nỗi niềm thân phận
Đọc những trang thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh, ta bắt gặp những bộn bề,
những suy nghĩ trăn trở của cuộc sống. Tác giả luôn day dứt, trăn trở, lo âu về
thân phận như tình yêu, về ý thức cá nhân, sự hư hao mỏng manh của kiếp
người. Có thể qua bất cứ hình ảnh nào tác giả cũng có thể nhận ra trong đó
những ý nghĩa nhân sinh của cuộc sống. “Thơ về lạc đà” không chỉ là hình ảnh
của con lạc đà chầm chậm đi trên sa mạc với trên lưng mang nặng hàng hóa,
mà qua hình ảnh cái bướu nó mang trên mình, tác giả thể hiện chiều sâu suy
ngẫm của mình:
22
Trời hoang hoang nắng
Cát mênh mang trắng
Lạc đà thầm lặng
đi
Không chỉ sinh ra để mang trên mình
những gì người ta chất lên
còn mang cả chính mình
những chiếc bướu như tiền kiếp úp xuống lưng
………..
Lớn hơn nỗi cô đơn
Là không ai có thể mang gánh nặng hộ mình
....
Quả thật trong cuộc đời mỗi con người, gánh nặng không ai giống ai,
chính vì vây, không ai có thể giúp ta mang gánh nặng. Chỉ có mình ta giống
như chú lạc đà lầm lũi đi trong sa mạc, tự mang gánh nặng trên lưng mình.
Tập thơ “Hai phía phù sinh” là những day dứt, trăn trở của tác giả về lẽ
sống chết của con người, của vạn vật. Người đàn ông trụ cột trong ngôi nhà ấy
chết đi để lại nhớ thương và sự trống vắng cho người vợ và những đứa con. Chỉ
khi con người chết đi thì mới nhận ra được cái lẽ sống ở đời chỉ là phù du, thì
có lẽ người chồng vẫn còn ở lại. Đấy chỉ là “giá mà” mà thôi.
Khi nghe tin một cô bé vì đói quá, trên đường đi học về ngã xuống
mương nước và qua đời, tác giả viết bài thơ “Tặng linh hồn bé Nhung” như là
thắp một nén tâm nhang dành cho người xấu số. An ủi cho linh hồn bé nhỏ,
mong con được về với nơi chỉ có ánh sáng chan hòa, nơi có bình yên và ấm no.
Tấm thân bé nhỏ của con không còn
“Trái tim bé bỏng của con
Sẽ không còn triền miên nhức nhối cơn đau
Thân thể gày gò của con
Không còn cơn đói vật vã cào xé suốt đêm ngày”.
23
Cái chết của bé Nhung là tiếng chuông cảnh báo cho những trái tim vô
cảm. Tác giả biết “Không một lời biện minh nào đủ lấp đầy sự ra đi tức tưởi
của con,/không một sự sám hối nào đủ xóa tội cho những người ở lại”. Bởi vì
những người lớn chúng ta đang sống trong no đủ, thừa thãi mà lại có một sinh
mệnh bé nhỏ phải lìa đời chỉ vì đói.
Chúng ta
những kẻ thản nhiên sống và ca ngợi sự giàu sang
giữa trùng trùng áp phích, pa nô quảng cáo sáng choang
không ai đủ tư cách cầu xin con,
một em bé chết đói giữa ban ngày,
tha thứ.
(Tặng linh hồn bé Nhung)
Với tác giả, mọi ánh sáng hào nhoáng của cuộc sống kia chỉ là vẻ bề
ngoài, chỉ là sự giả tạo. Những con người đang ca tụng cuộc sống kia nợ em
một lời xin lỗi, không ai có đủ tư cách để xin được tha thứ. Lỗi lầm của chúng
ta là đã quá vô tâm đối với những cuộc sống xung quanh chúng ta.
Hay tác giả thấy mình yêu hèn và bất lực khi nghe tin trên đài báo về vụ
thảm họa sóng thần ở Ishinomaki, sau trận sóng thần này thì có 30 đứa trẻ vẫn
hướng đôi mắt ngây thơ ra phía của trường học để ngóng chờ cha mẹ tới đón.
Những đôi mắt ngây thơ ấy, những tâm hồn non nớt ấy không biết rằng cha mẹ
chúng đã mãi mãi không thể trở về để đón chúng về trong ngôi nhà êm ấm của
chúng nữa. Và với hình ảnh ấy, tác giả - một người mẹ Việt Nam biết rằng “mẹ
biết tim mình suốt đời sẽ còn dư chấn”, tác giả thấy “nhưng lúc này mẹ thấy
mình yếu hèn và bất lực/ nước mắt chẳng giúp gì được các con trong khoảnh
khắc khủng khiếp này.”
Giống như nhan đề tập thơ, cõi người chỉ là kiếp phù sinh nên trong thơ
của Nguyễn Thúy Quỳnh, cái chết được tác giả nhắc đến rất nhiều. Những cái
chết ở trong thơ của chị không chỉ là cái chết của con người, của sinh vật mà
24
còn đáng sợ hơn là cái chết của tâm hồn, nhân cách con người. Những người có
chức có quyền đã nhẹ tay kí vào những văn bản để “Đâu phải chiến tranh/ mà
mấy chục cuộc đời nát vụn một ngày mìn nổ đá rơi,/phút chốc chạm đường ray,
đồng làng bời bời khăn trắng” (Những tích tắc quanh tôi). Những kẻ có chức
quyền kia vì sao lại có thể đặt bút kí. Chẳng hề kiêng dè, tác giả đã nói hộ tiếng
nói của những người vợ mất chồng những người con mất cha kia “một chữ kí
nhẹ tênh/ kéo chập trùng sông suối núi đồi chui vào két nhỏ” và rồi con người
không chỉ chết về thể xác mà còn là cái chết về tâm hồn “những tuổi teen/ tóc
đỏ dắt nhau vào nhà nghỉ bình dân còn quên tháo khăn quàng.”
Cái tôi trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh là những trăn trở, suy tư trước vạn
vật trong cuộc sống. Một con mèo bị xe cán, một cái cây vừa bị chặt hạ đã trở
thành nỗi niềm ám ảnh về số phận của con người, về một kiếp nhân sinh.
Đọc thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh ta bắt gặp một tâm hồn mẫn cảm, một
trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương. Dù không nhiều bài nhưng những vần
thơ của chị đã gợi cho người đọc bao suy nghĩ. Những hình ảnh thơ của chị
khiến người đọc day dứt, đau đớn cho kiếp người - số kiếp ngắn ngủi với
những vật lộn, lo toan, với những khổ đau cả về thể xác lẫn tinh thần. Và từ
những góc nhìn đa chiều về thân phận con người, tác giả đặt ra cho chúng ta
một câu hỏi lớn để suy ngẫm, đó là trong cuộc đời này ta nên sống thế nào?
Đời con người so với nhân gian chỉ là cõi tạm. vậy mà chúng ta đang sống
một cách phung phí thời gian ngắn ngủi bằng những ham muốn tầm thường.
Con người ta không còn hình bóng của con người mà chỉ còn gỗ đá, bởi
lẽ khi con người không biết đến tình yêu thương, không biết trân trọng cái đẹp,
không còn biết sẻ chia thì đâu gọi là sống nữa. Đó không chỉ là câu hỏi dành
riêng cho một thời mà cho mọi thời, cho những con người đánh mất mình, đánh
mất tình người. Con người rơi vào bi kịch vì chính sự vô tâm của mình. Đằng
sau những nghịch lý là một niềm tiếc nuối của tác giả. Tiếc nuối vì đời người
ngắn ngủi đến là vậy mà ta không biết nâng niu quý trọng nó. Bởi vì, tự thân
25
mỗi con người sống trong đời sống này không thoát khỏi đau khổ. Đọc chùm
thơ của chị, ta cảm nhận nỗi đau làm người thấm thía và sâu sắc. Mỗi bài thơ là
một góc cạnh mà nhà thơ xuyên thấu vào từng mảnh đời, số phận và trạng
huống con người phải trải qua.
Có đôi khi, tác giả muốn mang những nỗi nhọc nhằn trong cuộc sống gửi
lên chùa, nhưng rồi nghê đa, Đức Phật, Quan Âm cũng chẳng thể nào cứu giúp
được nên con người ta lại phải quay trở về với cái bản thể của mình, trở về với
kiếp nhân sinh nhọc nhằn của mình:
Gánh chuân chuyên gửi vào chùa
Gặp con nghê đá thẫn thờ đợi chuông
Trên tòa, Đức Phật ngồi suông
Quan Âm phất áo, chỉ đường sắc không
Niết Bàn đành ngửa cổ trông
Diệt sao hết khổ mà mong vô thường
Chắp tay đợi một tuần hương
Còi người dằng dặc, lần đường lại đi
(Đi chùa)
Một trái tim mẫn cảm trước cuộc đời nên khi vô tình nghe được lời ca
của bài hát “Gửi em ở cuối sông Hồng” của người bán hàng rong, tác giả đã
nghĩ đến sự chia cắt của tình yêu đôi lứa. Nhưng sự chia cắt này không phải
trong chiến tranh mà là trong cuộc đời đầy thanh bình này. Tình yêu trong
chiến tranh lãng mạn và bay bổng, con người ta có thể gửi trao cho nhau nỗi
nhớ nhung, những tình cảm nồng thắm, còn trong thời bình, cuộc sống mưu
sinh nên chẳng có đủ thời gian để mà nhớ, mà thương. Câu hát gửi trao nhau
theo những chiếc xe đẩy, gánh hàng rong len vào các con phố.
26
Từ hình ảnh những con cá chết trên dòng sông Duệ nước đen nhánh,
những con còn lại cố gắng trồi lên để hít lấy, lọc lấy từng phân tử ô xy còn sót
lại, tác giả đã quay về liên tưởng đến số phận của con người:
Bỏ lại một dòng sông đen và một dòng sông đen khác
Chảy âm thầm trên những gương mặt
Sạm đen.
(Về những con cá chết ở sông Duệ)
Những con cá cố gắng kiếm tìm cơ hội sống, con người bon chen nhau
cũng để kiếm tìm sự sống. Con người cũng giống như những con cá đang ngụp
lặn ở dòng sông đen của cuộc đời.
Rồi những suy ngẫm của nhà thơ lại quay trở về những sự vật xung
quanh cuộc sống, từ những cây lim, cây sưa trong phố bị đốn hạ để ngẫm nghĩ
về câu tục ngữ “cây ngay không sợ chết đứng”, nhưng sống giữa nhân gian con
người lại bị dìm chết bởi những lời đồn thổi “Ở đâu đó/ lời đồn như gió độc/
luồn vào từng mảnh hồn nhân gian/ lấm lét mắt lươn cao giọng đa ngôn/ đong
đưa mắt nai lem lẻm mỹ từ/ có thể vặn thừng sự thật/ dìm những đời sen xuống
bùn/ ngoi lên được cũng đã xong một kiếp” (Nghĩ chơi). Hay sự đời vốn không
là công bằng để cho những kẻ tiểu nhân ngoi lên vũ đài chính trị, những người
tài giỏi đành ngậm ngùi vì không gặp “thời thế”: “Cá chép mắc lưới ngày hăm
ba tháng chạp/ ngẩng nhìn cua ếch hùng hục qua nhan nhản vũ môn”; “bậc
đại trí đại nhân/ nhìn theo mây trắng nhởn nhơ cùng các linh hồn/ không
được không thua không còn không mất” và tự an ủi mình rằng “thượng đế lại
đùa dai”.
Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh cũng nặng lòng với những bài học nhân
sinh, về cuộc đời củ những người thầy, về giá trị đạo đức thay đổi. Người thầy
một đời tích nghĩa nhân, gieo mầm đức, đóng đò chở người qua sông Chữ, vậy
mà khi qua đò rồi thì những người được thầy chở qua, kẻ thất học “sau một
năm/ cầm rìu chặt đò làm đôi”, những kẻ tiểu nhân “sau mười năm/ vung búa
27
chặt đò làm ba”. Thật là đau xót. Thế nhưng đớn đau hơn đó là cái trở mình
của kẻ tâm phúc. Chẳng ai lường trước được thế sự. Con đò của thầy “Người
tâm phúc đi qua/ sau ba mươi năm/ trở bút một lần mà đò tan vạn mảnh”, để
rồi khi tìm về thầy chỉ còn biết lên sông Ngân để hỏi. Những mảnh vỡ của con
đò đã găm vào trái tim thầy, để “Sông Chữ ngầu ngầu khóc/ - Thầy ơi…” (Thầy
tôi). Quả đúng là con người ta có thể lường hết được. Kẻ thất học, kẻ tiểu nhân
thôi thì còn có thể tránh được nhưng nỗi đau lớn nhất lại là không đề phòng
được người ngay bên cạnh ta, người ta tin tưởng, kẻ tâm phúc, để rồi mang vết
thương chí mạng.
Ta cũng bắt gặp lời kết án cho những sự giả dối xung quanh chúng ta.
Người ta xúm vào để mà bàn luận, để mà lên giọng rao giảng những điều cao
siêu về một nhà thơ bằng những lời hoa mỹ mà ở đó, người ta nhân danh thơ,
nhân danh sự tử tế để mà phán xét. Thế nhưng đằng sau đó có ai quan tâm đến
đối tượng mà mình đang bàn luận đến đang lúc nào cũng “toan rụng về đất/
vẫn trĩu niềm xót thương dâng tất thảy nhân gian” (Về một nhà)
Bỏ ra khỏi những bài báo cáo, những lời tổng kết đầy hoa mỹ với những
điều làm được vô cùng lớn lao, những thu nhập ngàn đô, tác giả nhìn thấy được
những “chợ lao động dài thêm những đứng ngồi chờ việc”, rồi những người
phụ nữ bỏ lại chồng, con để “giờ phiêu dạt xứ người/ lo giấc ngủ bữa ăn cho
chồng con thiên hạ”. Bỏ qua những cây cầu nghìn tỉ, những cung đường được
coi là đẹp nhất nước, Nguyễn Thúy Quỳnh nhìn thấy “bầy em nhỏ ngày ngày
đu dây vào tương lai/ vùi giấc mơ đến trường nơi hầm than, bãi quặng”, và
những nhà chính trị thì đang trên bục diễn đàn nói về những thay đổi vĩ đại
nhưng “giá thị trường tăng, giá niềm tin giảm”. Nhà thơ cảm thấy hoang mang
cho cuộc sống. Và rồi “xác chữ cũng ngổn ngang” giống như nỗi lòng ngổn
ngang với thế sự của tác giả.
2.2.2. Người phụ nữ với trái tim yêu bình dị mà sâu sắc
Tình yêu trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh không có những điều cao siêu
vĩ đại mà là tình yêu dành cho chồng. Những vất vả của cuộc sống hàng ngày,
28
những điều bình dị của cuộc sống vợ chồng đều được chị tâm sự vào những
dòng thơ. Tình yêu đó là sự chăm lo cho chồng khi anh đau ốm. Chị đếm từng
ngày anh đau đớn, nín thở nghe từng tiếng trở mình cùng tiếng thở dài nặng
nhọc của anh.
Năm ngàn đêm dấu bao nhiêu cơn vật vã trở mình
Trong tiếng tích tắc đóng đinh chịu nạn
Nghe tiếng em và con thở đều từ cõi nào xa lắm
Nghe sự sống thóp thoi trong từng mạch máu âm thầm
Phải có sức chịu đựng lớn lao đến nhường nào thì mới có thể chống chọi
bệnh tật hơn năm ngàn ngày cùng với người chồng của mình. Tình yêu khiến
cho người đàn bà nhỏ bé, yếu ớt trở nên kiên cường đến như vậy. Năm ngàn
ngày đêm anh ốm là:
Năm ngàn đêm
Giấc ngủ em xoe tròn
Bọc trái tim đá gỗ
Để đêm nay
Em, con bò già kéo cày số phận
Lê trên cánh đồng mờ mịt
Cắt xuống mặt đêm vô vàn rãnh sâu
Rỉ những giọt bầm đen
Chị cũng như những người phụ nữ khác, khát khao được yêu thương,
khát khao được bảo vệ, chở che nhưng số phận không chiều chị. Nhiều lúc mệt
mỏi, chị thấy mình giống như “con bò già” sinh ra để kéo cày, trả nợ cho số
phận. Tuy nhiên mệt mỏi, chán chường không làm chị gục ngã, bởi với chị,
người đàn ông, người chồng là trụ cột trong gia đình. Cho dù anh có ốm đau đi
chăng nữa thì anh vẫn là cây trụ về tinh thần cho chị và các con dựa vào. Chẳng
thế cho nên chị đã viết về người đàn ông trong nhà:
29
Đàn ông, hẳn phụ nữ nào cũng muốn
Vì đàn ông mạnh mẽ làm sao
Có đàn ông trong nhà, yên tâm như cây non mọc cao
Được đàn ông yêu, là củi khô cũng đam chồi nảy lộc.
Chị vui vì những đêm anh ngon giấc, không khó nhọc trong cơn đau với
những viên thuốc ngủ, các con mơ giấc mơ đẹp với nụ cười trong giấc ngủ “đêm
nay anh ngon giấc hơn/ cầu cho những giấc mơ dịu dàng đưa anh về nơi xa/
Cầu cho những giấc mơ vạm vỡ đưa anh về xưa” (Trong ngôi nhà nhỏ của tôi).
Chính bởi vì tình yêu lớn lao với chồng nên khi anh buông tay chị để ra
đi về cõi vĩnh hằng, chị đã có biết bao đau đớn, dằn vặt. Bản thân chị cũng là
người giác ngộ Phật giáo, chị biết “sinh kí tử quy” nhưng rồi nỗi đau ấy vẫn
không thể nào nguôi ngoai. Chị vẫn hằng tưởng bóng đáng anh đâu đây, vẫn
dõi theo nhìn cuộc sống của mẹ con chị:
Có thể ở nơi khó hương bay lên
Đêm đêm anh về
Sau cánh cửa kia
Lắng nghe các con ríu ran
Nhìn theo những ngón tay em gõ trên bàn phím
Đợi em tắt đèn
Im lặng
Sáng lại đi
Mặc dù đã làm hết sức mình để chăm lo khi anh còn sống nhưng trong
thâm tâm mình, nhà thơ vẫn còn nhiều điều nuối tiếc. Chị ước ao giá như có thể
đổi cho anh một nửa thời gian của mình để anh ở lại cùng chị và các con thì chị
cũng sẵn sàng đánh đổi:
Nếu có thể gửi những ngày dương gian của mình
Nối thêm kiếp sau của anh dài hơn
Xin anh nhận cho em một nửa
30
Còn nửa này
Em chăm cho các con dài rộng thêm chút nữa
Thế cũng là nhiều.
(Có thể ở nơi ngọn khói hương bay lên)
Vắng anh nên chị hay mơ về anh, nhiều lúc chi tự hỏi hay tại chị nên anh
giận dỗi, nên anh rời xa mẹ con chị. Những đêm không ngủ, chị tự hỏi “có phải
những gánh nặng cuộc đời em đã làm anh mệt mỏi?/ có phải cuộc đua giữa sự
bướng bỉnh của em với sự khắc kỉ của anh đã không còn nước vãn hồi?/ có
phải cửa địa đàng đóng lối này để mở về lối khác?” (Nghĩ lúc 23 giờ 15). Và
rồi theo thói quen khi anh chưa đi xa, khi quờ tay sang bên cạnh, không thấy
anh nằm ở bên, không còn hơi ấm của anh
Trong bóng tối kinh hãi của im lặng
Em quờ tay không chạm anh
Bàn chân run rẩy chạm vào hành trình ngược về ngày cũ
Ngày mà những giấc mơ của chúng mình cuộn chặt vào nhau
Dựng ngời ngời một ngôi nhà ấm
Phòng ngủ treo đầy các con.
(Nghĩ lúc 23 giờ 15)
Vượt qua nỗi đau của sự mất mát chia lìa, chị mạnh mẽ chèo chống con
thuyền gia đình, mà lúc này, tình yêu thương chồng chuyển sang thành tình yêu
thương con. Nỗi đau được cất dấu ẩn sâu trong lòng, thời gian dần nguôi ngoai.
Tình yêu thương của các con, của bạn bè đã trả lại cho chúng ta một Nguyễn
Thúy Quỳnh yêu đời, yêu thơ.
Khi vượt qua được nỗi đau, chúng ta lại thấy trong thơ chị lấp lánh tình
yêu với con người. Với người đến sau, chị cũng dành sự yêu thương trọn vẹn.
Mặc dù còn thiếu thốn bộn bề trong cuộc sống nhưng chúng ta vẫn gặp ánh mắt
và nụ cười ấm áp của chị:
31
Nhà mình chỗ nào cũng chật
Mùa đông giá rét đỡ lo
Nhà mình thứ gì cũng nhỏ
Chỉ những tiếng cười là to
…………..
Nhà mình cái gì cũng khuyết
Chỉ niềm hy vọng tròn đầy
Mẹ cha dù là khuất núi
Con không bao giờ trắng tay
(Thơ về nhà mình)
Rồi những mỏi mệt trong cuộc sống, những vất vả trong công việc thì
cũng tạm rời xa khi chị về đến nhà, về đến tổ ấm bé nhỏ của mình, với tiếng
của con trẻ và sự quan tâm chăm sóc của người chồng:
“Chợt nhận ra mình đã về đến nhà,
Nghe bi bô con đánh vần tiếng mẹ
Anh lo lắng “Sao em về muộn thế?”
Chuông đồng hồ thong thả báo bình yên”
(Thơ trên đường về nhà)
Trái tim người phụ nữ lại đập lên những nhịp đập của tình yêu, của
những bồi hồi xao xuyến. Phải nói rằng tình yêu thật kì diệu, không có giới hạn
của tuổi tác. Nó làm cho người ta trở nên yêu đời hơn, làm cho người già trở
nên trẻ lại, làm cho người ta mong ngóng, đợi chờ.
Người đàn ông đi qua con đường của tôi
Mái tóc mềm trẻ thơ
Bờ vai biết chắn giông che gió
………
Đã bao nhiêu tin nhắn người gửi vào trái tim tôi
Bao nhiêu bài tình ca, đêm đêm về hát ru tôi thật khẽ
(Người đàn ông đi qua con đường của tôi)
32
Rồi cũng có những lúc trái tim đi lơ đãng, xao lòng bởi một ánh mắt, một
nụ cười hay đôi khi chỉ là sự nhớ nhung vơ vẩn
“Em chờ đợi mà không kịp về
Cô đơn em, ta nợ một đời
Dáng kiêu hãnh sáng cùng trời đất
Hương nồng nàn riêng chỉ ta thôi”
(Hoa hồng)
Hay
Ta vùi thương nhớ bên bờ cát
Chiều hóa thành ta, đã ngẩn ngơ
Thuyền neo bến lặng xa mùa bão
Ta neo vào đâu, mùa - tương - tư
(Chiều Đồ Sơn)
Người đàn bà dịu dàng, trầm mặc Nguyễn Thúy Quỳnh cũng đầy mãnh
liệt trong tình yêu. Chị khát khao yêu thương, khi nghe câu hát của Trịnh Công
Sơn thì chị nghĩ đến mình, thấy sao mà Trịnh lại hiểu mình đến như vậy: “Từ
ấy, tôi mang theo bên mình giấc mơ viên sỏi nhỏ/ ngày qua ngày, đêm thay
đêm, ủ nó bằng hơi thở/ rồi sống, rồi yêu, chờ một ngày mặt trời không đến
nữa/ Để nghe lời sỏi hát/ rằng, làm sao mà Trịnh biết, bia đá cũng đau…”
(Nhớ Trịnh).
Trong tình yêu, chị cũng có những giận hờn, ghen tuông cũng có những
day dứt, trăn trở khi mình là người đến sau trên sân ga vắng người:
Này thương nhớ mỗi ngày anh xa vắng
Này nồng nàn yêu dấu hằng đêm
Này hờn giận, ghen tuông … chia hai nửa
Em và không- phải - em.
Để rồi hạnh phúc đôi khi chị nghĩ cũng thật mong manh, khó hiểu:
Hạnh phúc như con tàu, em thành kẻ đến sau
33
Phận trốn vé, làm sao về ga cuối
Toa hạng nhất bên người, anh lặng thầm sám hối
Với cả em và không - phải - em.
(Thơ viết trên tàu)
Một lần tuột mất hạnh phúc nên phải ngay cả trong lúc hạnh phúc, “có
anh”, nhà thơ vẫn luôn lo sợ hạnh phúc sẽ bay đi mất, sẽ biến đi “em lo sợ một
ngày chẳng biết ai có lỗi/ khi hạnh phúc ngả nghiêng dưới mái ấm nhà mình”
(Viết cho người say).
Nhưng dù có lo lắng cũng chẳng thay đổi được số phận nên chị mỉm
cười chấp nhận. Sống ngày hôm nay để yêu thương và để cống hiến hết mình.
Thế nên tác giả đã ngộ ra rằng
Thôi đừng ước những gì xa xỉ
Chỉ mong mỗi ngày thức dậy
Còn nhìn thấy mặt trời
Còn nhìn thấy mọi người
Còn hơi ấm người ta yêu nhất
Vẫn được vẹn nguyen giữa bao nhiêu bất trắc
Thế đã là hạnh phúc
Ước gì hơn?
(Nghĩ cùng năm mới)
Tình yêu trong thơ chị không ồn ào, mãnh liệt, mà lặng lẽ, lắng sâu. Có
chăng thỉnh thoảng ta mới bắt gặp được đôi dòng “nổi loạn” trong tình yêu ở
thơ chị. Và chúng ta nhớ đến Thúy Quỳnh với anh mắt buồn, sự suy ngẫm về
cuộc đời, thế sự và kiếp nhân sinh cùng với tình yêu dành cho chồng con, cho
gia đình. Chị đã tự phác họa lại chân dung thơ của mình qua lời “Tự bạch”:
Có một chút em mang niềm Mầu Thị
Thả phận - duyên - tình theo tiếng mõ khua
Lửa tình yêu đốt nhầm nơi cửa Phật
Để luận hồi lăn theo trái tào chua
34
Có một chút em trong xót xa Nam Xương thiếu phụ
Rửa oan khiên, sông bao nước cho vừa?
Đời dẫu thế, vẫn còn điều đáng sống
Gắng gỏi đau vì một kẻ cuồng phu
Có một chút em không là Tô Thị
Vò võ đợi chờ, mòn mỏi tình chung
Nơi cuối đất anh thành người xứ lạ
Nhười xưa ơi, ai thương hộ má hồng
Dưới chân núi, nửa mùa xuân sắp cạn
Em hóa đá đợi người, xuân có đợi em không?
2.3. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu
2.3.1. Cái tôi cô đơn của người phụ nữ
Trong cuộc sống ồn ào sôi động, con người ta luôn chìm trong sự náo
nhiệt, sự vận động không ngừng nghỉ, nhưng ẩn sâu trong đó là những nối cô
đơn không mấy ai có thể hiểu được. Lưu Thị Bạch Liễu cũng là một người sau
những ồn ã của cuộc sống lại đối diện với nỗi buồn sâu thẳm, nỗi cô đơn đến
tận cùng. Sự cô đơn trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu hiện lên rõ nhất trong tập thơ
“Cõi tôi”. Ngay trong những câu thơ đầu tiên của tập thơ, nỗi cô đơn của người
phụ nữ độc hành trên con đường đời của mình:
một mình trên đường Đông
trăng xanh
những đống lửa đốt đồng run lên vì lạnh
con đường như cây cầu
nối từ chơi vơi này
sang chới với kia
Người phụ nữ một mình bước đi trên con đường của những mộng tưởng,
con đường Đông chỉ có cái giá lạnh ngấm vào lòng tạo nên cảm giác chới với
35
cô đơn. Chị tìm vào con đường khác để mong có chút hơi ấm thì lại như lậc vào
con đường Sương đầy mờ mịt, không có lối thoát. Sự bế tắc hiện lên khiến cho
người thiếu phụ ấy lại phải quy về thực tại để đi con đường của chính mình,
con đường mà chị đang tìm cách để thoát ra:
một mình trên đường Sương
bước từ mờ mịt
anh vội đi đường của gió
tôi trên đường của tôi
tận cuối con đường xa xôi
tách trà
đang
tỏa khói.
Sự nhỏ bé, cô đơn của người phụ nữ khi một mình giữa đất trời bao la.
Không gian rộng lớn càng làm cho con người trở nên nhỏ bé, nỗi cô đơn dường
như càng thấm sâu vào cõi lòng của người thiếu phụ. Tâm trạng “chơi vơi” và
“chới với” khiến cho ta càng cảm nhận thêm được sự yếu đuối, mong manh.
Người phụ nữ nào cũng vậy, luôn mong muốn bên cạnh mình có người yêu
thương và được yêu thương, luôn muốn có người đàn ông để chở che. Thế
những trong những câu thơ của tác giả, ta thấy hiện lên hình ảnh một người phụ
nữ cô đơn một munhf đi hết cả quãng đường đời dài dằng dặc.
Nỗi cô đơn của người phụ nữ càng như kéo dài vô tận khi mà người phụ
nữ không chỉ độc hành trên đường đời còn độc hành trong cả tình yêu. Khát
khao yêu đương, tình yêu cháy bỏng và dữ dội nhưng cuối cùng chỉ còn lại nỗi
cô đơn không người chia sẻ.
Không có tên anh trong nỗi thất vọng của em
Không có tên anh trong nỗi tuyệt vọng của em
(Người yêu)
36
Sự cô đơn ấy của tác giả phải lớn lao đến nhường nào mà ngay cả trong
sự thất vọng, sự tuyệt vọng của tác giả cũng không có tên của người đàn ông
ấy. Để rồi nỗi cô đơn trở thành sự sự hãi khi bóng đêm về, người phụ nữ đối diện
với tâm hồn mình, với những dự cảm về cuộc đời. Tác giả thấy sợ hãi trong tình
yêu, cảm nhận được sự mong manh yếu ớt của mình cũng như chiếc lá bé nhỏ
kia, lúc nào cũng bị giật phăng ra khỏi cành và cuốn vào cuộc đời đầy bão táp.
Chính vì vậy nên chi sợ hãi, nỗi sợ hãi ám ảnh chị cả trong những giấc mơ.
Có lúc em sợ hãi tột cùng
Thấy mình như chiếc lá duy nhất bị gió giật khỏi cành
quăng vào bão táp
Có những đêm em mơ giấc mơ khủng khiếp
Không gọi anh
Người đàn yêu khi yêu mãnh liệt như Liễu “Phố đen chiều mưa/ em
trắng đêm nhớ/ cách có một lòng/ tôi thành ngọn gió/ một trời long đong”
(Nhớ) nhưng lại luôn gập ghềnh, trắc trở. Sự trắc trở này không phải vì không
trao hết, không yêu hết mình mà bởi vì
Anh đã ngập ngừng hồi lâu
Nửa tin nửa ngờ
Cánh cửa nhà dù mở
Nhưng anh không thấy được
Cửa một trái tim vừa khép.
(Một lời tiễn biệt)
Trong tình yêu, nếu đối phương không vượt qua đươc cám dỗ, được
nhưng trắc trở thì khó lòng đến được với nhau, để rồi khi nhận ra thì sự chờ đợi
của người phụ nữ đã trở nên mệt mỏi, buông xuôi “nhưng anh không thấy
được/ cửa một trái tim vừa khép”. Thế nên người đàn bà trong thơ Liễu luôn cô
đơn, cô đơn trong tất cả mọi hoàn cảnh.
37
Trong ngày sinh nhật của mình, người đàn bà ấy chỉ có 1 mình “không
rượu/ không nến/ không hoa” và cảm nhận nỗi cô đơn dài theo cả không gian
và thời gian “cách nửa vòng trái đất/ sao cách nửa vòng đời?” Câu hỏi đau đáu
rơi vào hư không, để nỗi buồn cứ gặm nhấm vào tâm hồn đa sầu, đa cảm của
nhà thơ.
Cái nỗi cô đơn trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu có ở khắp mọi lúc, mọi nơi.
Khi mà người người đang tất bật, hổi hả lo toan cho những ngày cuối năm, thì
Liễu một mình ngồi bó gối để mà suy ngẫm, mà chiêm nghiệm “Một ngày
cuối năm ngồi bó gối/ Nhìn dòng xe cộ nối đuôi nhau/ Không gian xám màu
mây sẫm/ Con đường ướt rượt mưa rơi” và “Một ngày cuối năm ngẫm
ngợi/Những gì đã đến, đi qua/ Dường như được nhiều hơn mất/ Nỗi buồn như
thể cũng đang xa” (Tất niên).
Trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu, ta thấy nỗi buồn trải ra trên từng trang
viết. Nhà thơ buồn vì tình yêu không thành, buồn vì những lo toan cuộc sống,
buồn vì những chuyện vẩn vơ bất chợt gặp ngoài đường. Và những nỗi buồn ấy
của nhà thơ dường như khó có thể tìm người đồng cảm, khó có thể hiểu được
mình nên nhà thơ chìm vào trong nỗi cô đơn.
Nếu như chúng ta bắt gặp ngoài đời một Lưu Thị Bạch Liễu sổi nổi, lúc
nào cũng cười tươi và câu chuyện luôn dí dỏm thì không ai có thể nghĩ rằng chị
lại có nỗi buồn lớn đến vậy. Tôi gặp chị sau khi chị đi Trường Sa về, chị kể
những câu chuyện trên đảo, kể lại tình yêu của một anh lính trên đảo đối với
chị. Giọng kể dí dỏm, tinh nghịch và rất có duyên nên tôi thấy giật mình khi
đọc những câu thơ trong “Cõi tôi” của chị.
Vũ Nho đã viết về cuốn “Cõi tôi” của Lưu Thị Bạch Liễu “Nỗi cô đơn cứ
trải dài miên miết”. Quả đúng là như vậy. Trong toàn bộ tập thơ “Cõi tôi” ta
thấy nỗi cô đơn thể hiện ngay ở tiêu đề của bài như: Độc hành, Một mình; Một
buổi chiều nào tôi không trở dậy; Không nỗi buồn nào buồn hơn nỗi buồn
nào… Và một mình chị đi suốt chiều dài của nỗi cô đơn ấy mới chợt giật mình
38
thảng thốt nhận ra “đã đi/ quá nửa cuộc đời/ mới hay/ đất gọi/ ơi hời/ dưới
chân” (Độc hành). Cái tôi cô đơn, độc hành ấy đã được tác giả mang cả vào
trong tình yêu “phố đen chiều mưa/ em trắng đêm nhớ/ bật chùm hoa gạo đỏ/
cháy lên mà chờ” (Đợi 2). Có lẽ nhà thơ yêu hết mình, cháy hết mình trong
tình yêu nhưng cũng lại ngập ngừng, lo sợ nên tình yêu không trọn vẹn chăng?
Đọc thơ Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy tâm trạng suy tư, hay nói về cõi
mình, về “cõi tôi” với những khao khát, kiêu hãnh, tầng tầng tâm trạng … và
hơn hết là nỗi cô đơn đến tận cùng “Tôi hóa bức tường câm lặng/ Mặc thời
gian bệch bạc rêu phong” (Đợi) để rồi tìm kiếm một nơi chốn bình yên “Con
tim êm đêm đêm vẫn hóa kẻ hành khất nghèo/ Lần đến từng cuộc đời gõ cửa”
(Một mình). Nghịch lí trong cuộc đời.
Thơ của Bạch Liễu ta thấy chính tự bản thân tác giả cũng cảm nhận sự
thừa thãi của chính bản thân. Ngay cả trăng và trời cũng còn có đôi, vậy mà
người thơ lúc nào cũng cảm thấy thừa mình ra “trăng ở bên trời/ mình tôi lẻ
bóng” rồi cả đến bóng của mình cũng không còn có, con người cô độc đứng
mọt mình “trăng và trời dẫn nhau đi đâu/ tôi một mình không bóng” để rồi “tôi
đến nơi nào/ cũng thừa tôi cả” (Tự khúc). Người đàn bà tuổi 30 đã đốt cháy
mình trong tình yêu, rồi cuối cũng trở về với con số không của cuộc đời:
Mùa hạ tôi nhan sắc tuổi ba mươi
rừng rực cháy đến từng chân tóc
tôi đâu biết có chiều đông buốt
nhạc sỹ già gom nắng tìm tôi
(Về một bài thơ tôi đã lãng quên).
Khi đã đứng vững trên cái tôi cá nhân thì tất cả những gì là của con
người, những tình cảm sâu sắc nhất, kín đáo nhất, huyền bí nhất và kể cả những
lo lắng thường nhật, những uẩn khúc rắc rối, đều không xa lạ với sự sáng tạo.
Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy tầng tầng lớp lớp những suy ngẫm về
hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ, về thời cuộc, được thua, thành bại, mất còn, sự
39
hữu hạn của con người và sự vô hạn của thời gian... đã làm giọng thơ hôm nay
buồn hơn, thật hơn, lắng đọng hơn, giàu suy tưởng và vì vậy mang nhiều ý
nghĩa triết lý nhân sinh hơn.
2.3.2. Cái tôi bất an, không yên ổn
Ngoài nỗi cô đơn thì trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu còn thể hiện sự bất an,
không yên ổn. Trong đêm trăng sáng bên sông Cầu, người đàn bà yêu ấy ước
ao được hóa thân thành Mỵ Nương để trao tình trọn vẹn cho chàng Trương, thế
nhưng “Mị Nương em bỏng khát”:
Chao nghiêng chén bạch đàn
Chỉ vục được xác nước
Hồn sông đã vụt tan”
(Sông Cầu)
Bất ổn trong tình yêu, Lưu Thị Bạch Liễu bất ổn, sợ hãi mọi thứ trong
cuộc đời, luôn bị ám ảnh bởi những điều vu vơ, vô hình “Qua những ngôi nhà/
Sợ người quen chạy ra/ Đòi thứ này thứ nọ/ Qua nghĩa địa/ Sợ người chết nhận
ra/ Đòi thứ này thứ nọ/ Ô! Có kẻ tựa cửa chờ/ Chắc cũng muốn đòi ta/ Thứ này
thứ nọ” (Ám ảnh I). Sự bất ổn của nhà thơ phải chăng cũng bởi sự chứng kiến
cảnh sinh li tử biệt của con người “Những lá xanh ngăn ngắt/ Theo gió đi xa
rồi/ Lá vàng không còn sức/ Khóc cho lá xanh rơi/ Lá không lá về cội/ Gió
không gió mồ côi/ Chỉ lá vàng không nỡ/ Bỏ lá xanh về trời” (Ám ảnh II).
Hay nỗi bất an trong từng tiếng sấm “Mùa hè đến mang nhiều dông bão/
Cùng sấm rền chớp giật giữa trời đông/Một buổi sáng mặt trời lên vòi vọi/ Rồi
cuối chiều mưa bào ào ạt tuôn” (Cuối đường). Nhiều khi nhà thơ lại thấy như
mình chẳng còn là mình nữa mà bỗng hóa thành con ong “Tranh đống rơm với
bầy gà con líu ríu theo chân mẹ/gà con nhìn tôi bằng đôi mắt đen/ Tôi nhìn gà
bằng ánh nhìn nhuốm bạc/ … Rúc vào đống rơm, thấy mình mọc đôi cánh ong”
(Về làng).
40
Suy nghĩ về hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ, về cuộc sống, sự được thua,
thành bại.. khiến cho hồn thơ của tác giả trở nên hoang mang, vô định. Rất
nhiều dấu chấm hỏi mà không thể giải đáp, những sự bất ổn trong cuộc đời mà
tác giả thấy được từ chính cuộc đời mình, từ những người thân và cả từ chính
những người xa lạ đã khiến cho tâm trạng của nhà thơ trở nên rối rắm và hoang
mang. Nhiều khi nhà thơ muốn chạy trốn thực tại, muốn biến vào thế giới của
thiên nhiên cây cỏ để thoát khỏi sự mệt mỏi trong cuộc sống
Em không muốn mặt trời đi khuất
Dù cuối đường rớt lại ráng hoàng hôn
Trái tim này, mặt trời hằng thiêu đốt
Sao đến giờ muốn hóa một hạt sương
(Cuối đường)
Cái nỗi bất an ấy được tác giả cảm nhận ngay cả trong tình yêu. Có khi
đang ở bên cạnh người mình yêu đấy những cơn bão lòng đang nổi, “anh”
không thể nào hiểu được cái lo sợ của “em”. Tác giả sợ tay nắm tay đấy nhưng
rồi vẫn không thể giữ nổi được tình yêu
Hạnh phúc thay một mái ấm trong đời
Mong manh quá, chắc gì em giữ nổi
Anh ở bên, đang là thực đấy
Nhưng mai này, nào sẽ biết đâu”
(Đêm giông).
Phải chăng là nhà thơ đã quá nhạy cảm nên không tin vào những gì đang
hiện hữu, để đi bên cạnh một người rồi mà vẫn thấy lòng không yên “Rồi sớm
mai tỉnh dậy bên nhau/ Tay vẫn trong trong tay, nắng bừng trong mắt/ Vì thế
làm sao anh biết được/ Có cơn bão lòng mới tạm đi qua” (Đêm giông).
Nhà thơ thấy một kiếp người có biết bao đau khổ và thật ngắn ngủi, so
với đời kiến cũng chẳng khác gì nhau “Một đời người/ Thực ra/ Ngắn quá/
41
Như một giấc chiêm bao/ Nghĩ cho cùng kiếp người và đời kiến nào có khác gì
nhau?” (Gửi … III).
Ám ảnh về nỗi cô đơn, về sự chuyển mình hóa thành những vật thể khác
tồn tại trong nhiều sáng tác của nhà thơ. Nhà thơ viết để đi tìm mình, để khám
phá chính bản thân và để tìm quên cái nỗi khắc khoải, sự bất ổn trong tâm hồn.
Tác giả thấy rằng thế giới sao mà bình yên và nhỏ hẹp đến thế, nó khép kín và
đồng nghĩa với “tôi đang tự hủy diệt tôi” (Một chiều nào tôi không trở dậy).
Tác giả suy tư trăn trở và bất an trong tình yêu, trong những lẽ sống hàng ngày
để rồi khi dạy con gái, chị cũng đã tâm sự với con về nỗi bất an của mình. Chị
muốn trốn chạy khỏi những lo toan, khỏi những muộn phiền.
“Đời đôi khi rất phiền, con gái ạ
Mẹ muốn một mình yên ổn trong một cõi riêng
Như con rùa rụt đầu trong mai cứng
Cả cuộc đời mong mỏi chút bình yên”
(Nói với con)
Và rồi tác giả trốn mình vào trong nỗi cô đơn. Ở một nơi không có xa lạ,
một nơi chỉ có 1 mình tác giả mới cảm nhận được sự yên ổn “Tôi cảm thấy
được yên ổn trong ngôi nhà không phải của tôi [….] Và đêm qua, giấc mơ thiếu
nữ/ Lại ngọt ngào trên môi thiếu phụ của tôi” (Viết trong ngôi nhà lạ). Hay nỗi
bất an ấy được hóa giải khi mà tác giả gặp một “người điên”, để mà yêu
thương, để mà khao khát những điều tốt đẹp trong cuộc đời “Đến bây giờ tôi
hát khúc hát xưa/ Một người điên dạy cho tôi lời hát/ Không nỗi chán chường,
không thù hằn chi hết/ Bài hát đầy yêu thương” (Bài ca riêng).
Nếu không gặp chị, nói chuyện với chị thì chúng ta không thể hình dung
ra một con người hay nói vui đùa tếu táo ấy lại luôn cảm thấy bất an như vậy.
Trong thơ chị, mọi thứ đều mong manh, dễ vỡ. Phải chăng, chị vui đùa để che
dấu đi những trăn trở, suy tư, những sự ghập ghềnh trong cuộc sống, để rồi khi
42
đối diện với chính mình, hồn thơ Lưu Thị Bạch Liễu mới cất lên những lời tâm
sự đầy khắc khoải, đau đớn ấy.
Ngay cả khi hòa mình trong tình yêu thì tác giả cũng đặt câu hỏi “tan vào
anh có thể! Trọn vẹn một kiếp này” (Lời của gió) và chính những dự cảm bất
trắc ấy khiến cho tình yêu không trọn vẹn “Đám cưới anh qua nhà/ Lá thẫn
thờ, ngơ ngác/Lá đỏ rơi lớp lớp/ em chẳng dám dẫm lên/ Thế mà trong kí ức/
Vẫn còn hằn dấu chân” (Lá đỏ). Nhà thơ thẫn thờ trở về với chính mình và do
dự đứng trước ngã ba đường, không biết đi đâu về đâu: “Giữa ngã ba ngã
bốn/ Đèn đỏ và đèn xanh/ Ai là người chỉ lối/ Đưa em về bình yên?” (Do dự),
ngay đến cả con sông miệt mài chảy kia vì nó biết cũng có nơi để về “Vì biết
cuối hành trình là biển”, còn tác giả chỉ có một mình với ánh trăng “Tự tròn.
Tự khuyết”.
Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy dù viết cho mình, cho người
cũng mang đầy vẻ suy tư, trăn trở, lúc nào cũng dằn vặt một nỗi niềm cô đơn,
khác khoải. Cái tôi của tác giả luôn trong tâm thức thảng thốt, hãi hùng, nghi
ngờ, thất vọng …. Cảm thức ấy không chỉ được thể hiện qua từng câu chữ mà
còn ẩn chứa qua những hình ảnh thơ. Có thể nói, cái tôi cô đơn, bất an luôn bủa
vây người-thơ.
Sống sâu sắc cuộc sống của chính mình nên tác giả luôn trăn trở, dày vò
với tất cả những gì thoáng qua. Một cơn gió, một vài chiếc lá rơi, thời tiết giao
mùa … tất cả đều khiến tác giả vơ vào để mà suy nghĩ, để mà chiêm nghiệm và
lo sợ. Nhưng cái lo âu trong thơ Bạch Liễu không bi quan, chán nản mà trái lại
vẫn tràn đầy sự hy vọng.
2.3.3. Tình yêu trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu
Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu, ngoài sự cô đơn, sợ hãi và trăn trở thì
chúng ta cũng thấy được tình yêu tràn ngập. Trong thơ chị, tình yêu đôi lứa,
tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương con cái, tình yêu đối với những người mà
43
chị gặp khi đặt chân đến những vùng đất xa lạ. Tất cả các cung bậc tình cảm
đều đong đầy trong những vần thơ của chị.
Tình yêu là đề tài muôn thủa, hầu như nhà thơ nào cũng có những bài
thơ, những dòng thơ viết về tình yêu. Vượt qua những nỗi đau, sự sợ hãi, Lưu
Thị Bạch Liễu đam mê và khát vọng trong tình yêu. Khó có thể phân tích rạch
ròi được tận cùng mọi ngõ ngách của tình yêu, nhưng người phụ nữ trong thơ
Bạch Liễu lúc nào cũng nhớ đau đáu về một cái tên đã rất xa nhưng mỗi khi
nghe đến lại làm trái tim run lên:
“Một phần tư thế kỉ
Còn ai nhắc đến …
Trái tim em dù tan thành đất
Linh hồn hóa cỏ cây
Thì vẫn cứ run lên
Khi sóng thời gian gợi đến cái tên này”
(Gửi III)
Có những kỉ niệm tưởng chừng đã quên đi, có những cái tên tưởng
chừng như đã lãng quên vào dĩ vãng, nhưng dường như con sóng thời gian cứ
lật ngược, xô nó lại gần người ta hơn, đến nỗi muốn quên nhưng mỗi khi vô
tình nghe nhắc đến, trái tim người phụ nữ ấy lại run lên. Tác giả biết rằng có lẽ
ngay cả khi bản thân mình tan và đất, linh hồn hóa cây cỏ thì cái tên ấy vẫn
theo chị không rời. Tình yêu sâu sắc, khó có thể bị phai mờ, bị lãng quên bởi
không gian và thời gian. Chị hiểu và chiêm nghiệm được cái mãnh lực, cái sức
hút của tình yêu “Trái tim người đàn bà khi bị hút về người đàn ông của nó/
Không theo quy luật tự nhiên nào/ Bất chấp các nguyên tắc.”. (Đợi III..). Và
tác giả cảm thấy mình may mắn khi gặp được người đàn ông của đời mình. Chị
dâng hiến và nguyên cháy hết mình vì tình yêu ấy “Trái tim em may mắn gặp
người chủ các giấc mơ/ Xin được làm hoa hướng dương/ Luôn hướng về mặt
trời cháy đỏ” (Đợi III…).
44
Tình yêu đẹp ấy đã làm tác giả nhớ nhung da diết khi xa cách. Lưu Thị
Bạch Liễu muốn cho cả thế gian biết được tình yêu của mình, Tác giả muốn
nhờ gió đưa tiếng lòng của mình đến tất cả mọi người, muồn nói cho cả thế
gian biết được “Em yêu anh!”.
Em chọn con đường nhiều gió
Hét gọi tên anh
Gió đưa tiếng em thật xa
Cho cả thế gian đều biết
Em yêu anh!
(Nhớ …)
Thật là không khiêm tốn. Nhưng cũng phải thôi, người ta nói rằng trong
cuộc đời có những thứ không bao giờ giấu được đó là kẻ say rượu, người điên
và kẻ đang yêu. Người đang yêu lúc nào cũng muốn nói về người mình yêu.
Chính vì vậy chúng ta thấy cái ý nghĩ muốn cho cả thế giới biết về tình yêu của
mình thì không phải chỉ có Bạch Liễu, nhưng chị táo bạo đến độ muốn hét to
tên mình để gió mang đi, để cho tất cả biết rằng Bạch Liễu đang yêu, đang nhớ.
Và Bạch Liễu đã không ngần ngại để thế hiện cái nỗi niềm nhung nhớ,
cái khao khát yêu đương ấy. Khi xa nhau, nhà thơ đã chọn cho mình cái cách
đề vượt qua khoảng thời gian dường như dài vô tận ấy:
“Em chọn con đường nhiều nắng
Để thiêu đốt em
Như môi và mắt anh đầy lửa”
(Nhớ …)
Vượt qua nỗi e dè, sợ hãi, nhà thơ bộc bạch nỗi niềm tâm sự, cảm nhận
của mình vè “anh”. Không có sự cao ngạo của người nữ trong cuộc yêu, chị
luôn thẳng thắn thú nhận lòng mình. Chị biết rằng trong tình yêu không có chỗ
cho sự sĩ diện, cho sự phân định nam nữ. Ai yêu cũng muốn mở lòng, và hình
như khi người nữ yêu họ thường dễ “dại khờ” hơn chăng để rồi tất cả những
45
suy nghĩ chị được chị tâm sự qua bài thơ “Thiêu thân”. Chị thấy mình như con
ốc sên sống nhút nhát, ẩn mình, để rồi khi “anh” đến, con ốc sên nhút nhát yếu
hèn ấy bỗng hóa thành con thiêu thân, sẵng sàng lao vào ánh đèn của tình yêu,
không cần biết ngày mai sẽ ra sao. Có thể là một kết cục chẳng mấy tốt đẹp
nhưng nhà thơ vẫn chọn sống và yêu hết mình
Nhưng đâu cần biết đến ngày mai
Cả hôm nay, đâu cần biết hôm nay
Chỉ sống phút này cho mãi mãi
Biết không bao giờ làm lại
Em vui đùa, kiệt sức, nằm yên
Còn kiếp nào để hạnh phúc yêu đương
(Thiêu thân)
Trong tình yêu, Lưu Thị Bạch Liễu cũng đã từ bỏ hết sự tự tôn, kiêu
ngạo của mình, chỉ còn lại là người đàn bà yêu và khao khát được yêu:
Anh chìa tay
Đủ biến kẻ nghèo khó thành nữ hoàng
………………….
Là bà hoàng trong vương quốc của anh
Em lại thấy mình là con cún nhỏ
Lân la nằm dưới chân
Nịnh nọt chủ bằng cái lưỡi mềm
(Một mình)
Trong tình yêu, sự kết hợp về thể xác và tâm hồn làm cho tình yêu trở
nên linh diệu hơn. Lưu Thị Bạch Liễu đã thể hiện khát vọng được nâng niu
nhưng cũng rất chủ động, mạnh mẽ và quyết liệt đấu tranh cho tình yêu, dành
tình yêu và sẵn sàng đi đến tận cùng của bản thể.
Trong thơ Bạch Liễu ta thấy tác giả đã rất chủ động trong tình yêu. Dẹp
bỏ qua mọi tự ái, sĩ diện, người phụ nữ trong thơ của tác giả luôn sẵn sàng chờ
46
đợi, bất chấp cảm xúc cô đơn, chủ động đón nhận cả những đắng cay, tủi hờn
của tình yêu và xem đó như là hương vị của tình yêu …. Dù ở tâm thế nào đi
chăng nữa chúng ta cũng không thấy sự tuyệt vọng, chán chường, bởi vì những
vui, buồn, hạnh phúc ấy là gia vị không thể thiếu trong tình yêu.
Chủ động yêu, dâng hiến hết mình cho tình yêu nhưng không hèn yếu,
tác giả cũng rất quyết liệt khi kết thúc cuộc tình. Khi thời gian và sự chờ đợi
không được đền đáp, tác giả đã không tìm mình vào góc tối để mà gặm nhấm
sự đau buồn tổn thương mà chọn cách đóng lại cánh cửa tình yêu ấy, bởi vì nửa
kia không phải của mình nên họ không thể nhận được ra sự hi sinh của mình.
Chị đi tìm cho mình cái nửa mà thượng đế đã tạo ra cho chị, dù cho
trong cuộc kiến tìm ấy gặp không biết bao nhiêu khó khăn, bị thương không
biết bao nhiêu lần.
Trăn trở trước những còn và mất, trước bình yêu và bão tố trong tình yêu
nên chúng ta nhận ra sự lo âu trong thơ chị. Lo âu ngay cả khi đang hạnh phúc
Em không dám nghĩ
Không dám nhìn
Sợ anh biết em biết anh yêu em biết mấy
Em đến với anh
Dù cuối đất cùng trời
Nhưng ánh mắt ở đời
Không dễ gì vượt nổi
Anh ơi!
(Gửi… I)
Nhưng chị không chùn bước. Với chị tình yêu là lẽ sống, chỉ khi nào mệt
mỏi thì người phụ nữ khát khao yêu thương ấy mới tạm nghỉ chân để rồi tiếp
thêm sức sống mới trên con đường đi tìm tình yêu, hạnh phúc của chính mình.
Càng lo lắng bao nhiêu chị càng cả tin, gắn bó với con người bấy nhiêu. Chị
lặng lẽ hi sinh, lặng lẽ kiếm tìm. Trong thơ chị chúng ta thấy lấp lánh một niềm
tin yêu hi vọng. Biết rằng yêu là đau khổ nhưng chị vẫn tin vào tình yêu.
Không phải là cô gái mới lớn lần đầu biết yêu, bẽn lẽn trong tình yêu để mà
47
phải dấu những tình cảm những khao khát nhớ nhung vào thơ để mà tiếc nuối.
Tiếng thơ của tác giả là tiếng nói của người đàn bà từng trải, biết tận hưởng
cuộc sống và biết dâng hiến cho tình yêu. Chi không chỉ muốn biểu hiện tình
yêu ấy trên trang viết mà còn muốn tạo dựng, phơi mở một thế giới khác trong
chính thế giới hiện thực, vươn tới đầy khao khát và mãnh liệt. Qua thơ chị ta
thấy một tâm hồn yêu đa cảm, tinh tế, luôn rung lên những nhịp cảm xúc nóng
bỏng, chân thực.
Ngoài tình yêu đôi lứa, ta còn thấy ánh lên tình yêu đối với cô con gái
của mình. Chị coi cô con gái của mình như một người bạn để những khi mỏi
mệt có người bầu bạn, tâm sự. Con chính là dây nối để níu giữ mẹ những lúc
mệt mỏi muốn buông trôi “khi mẹ sắp rơi/ con níu/ khi mẹ sắp trôi/ con neo”
(Hằng). Thường thì trong thơ chúng ta hay bắt gặp hình ảnh mẹ chở che cho
con, là nơi con tở về mỗi khi mệt mỏi thế nhưng trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu
chúng ta lại thấy điều ngược lại, con lại là nơi che cho mẹ, là nơi an ủi nỗi buồn
cũng như là người chăm sóc lúc mẹ ốm đau, trách cứ mỗi khi mẹ mắc lỗi. Cảm
thấy như vai trò mẹ con trong thơ của tác giả đã được đổi ngôi.
Khi mẹ mắc lỗi
Mẹ trên đường gục ngã
Con trách cứ, vỗ về
Con xòe cánh chở che
Mẹ ốm đau buồn nản
Con an ủi, chăm lo
Mẹ cố sống thật tốt
Làm bạn con suốt đời
Vịn vào con gái nhỏ
Mẹ không còn chơi vơi
(Hằng)
48
Khi mẹ buồn thì mẹ không muốn cất tiếng ru vì sợ trái tim nhỏ bé của
con không thể chứa đựng được nỗi buồn của mẹ “Mẹ không thể ru con/ bằng
nỗi buồn của mẹ/ trái tim con nhỏ bé/ không đủ chứa nỗi đau” (Hát ru). Người
mẹ ấy cũng tâm sự với con gái nhỏ của mình về cuộc sống. Chị dạy con mọi lẽ
sống ở đời, muốn dạy con nhiều điều nhưng thấy mọi thứ đều chỉ đúng một
nửa, chị không muốn những điều nửa vời ấy “nên cả bài hát ru/ chỉ là hai tiếng
à ơi… dang dở…” (hát ru).
Chị tâm sự với con gái về những điều tốt đẹp nhất, nói với con về tình
yêu thương của cha mẹ dành cho con bằng những lời lẽ giản dị đầy yêu thương.
Con là thiên thần đến bên cuộc đời của cha mẹ trong một buổi sáng mùa xuân,
khi mà mẹ còn chưa kịp may áo sơ sinh, chưa kịp mua tã lót. Chị yêu con gái
nhưng lại sợ làm thân con gái sau này khổ, lại đa đoan giống mình chăng nên
chị đã nói tâm sự của mình với con:
“Mẹ từng luôn ao ước con là con trai
Biết nghe hát dân ca và sửa tủ lạnh
…..
Là con trai
Con sẽ có rất ít thời gian để buồn
Mẹ sẽ không phải lo lắng khi con về muộn
Con sẽ chọn một cô dâu thật tốt
Rồi nhà mình sẽ đông đúc cháu con”
(Con gái)
Chị không dạy con mình những điều màu hồng đẹp như trong cổ tích. Từ
những trải nghiệm của cuộc đời mình, chị dạy cho con biết những sóng gió
cuộc đời rồi con sẽ phải trải qua nhưng sau hết, hạnh phúc sẽ luôn mỉm cười
khi con cố gắng “Con gái ạ, cuộc đời là như thế/ Dẫu ngã rồi, hãy cố đứng
lên.” (Nói với con)
49
Thơ viết về con của Lưu Thị Bạch Liễu không nhiều nhưng qua những
vần thơ của chị, ta thấy đứa con chính là niềm tự hào của chị. Không những lời
màu mè hoa mĩ, không cổ tích hay giáo điều, những lời người mẹ nói với con
giống như hai người bạn. Đôi khi, ta còn thấy sự dựa dẫm của tác giả vào chính
cô con gái bé bỏng của mình. Con chính là niềm tin, an ủi, là ánh sáng để sưởi
ấm, là điểm tựa tinh thần cho mẹ đau khổ, cô đơn.
Là người mẹ, chị đồng cảm với những người phụ nữ phải xa nhà, xa gia
đình đi trông trẻ để mong kiếm được đồng tiền nuôi con “Xứ lạ mẹ ôm con
người/ Cơm chan nước mắt/ Mồ côi con mình”. Đây chính là thiên tính nữ trong
thơ của Lưu Thị Bạch Liễu cũng như trong thơ của các nhà thơ nữ Thái Nguyên.
Để quên đi những muộn phiền trong cuộc sống, nhà thơ đi, trải nghiệm
và dành tình yêu cho những nơi mình đã đến. Với bất cứ nơi nào, nhà thơ dường
như cũng “yếu lòng” để mà yêu mến, để mà trao gửi nhớ thương. Phải chăng tâm
hồn ấy nhạy cảm hay là quê hương đất nước quá đẹp để mà yêu thương?
Đi qua mỗi một miền đất, tác giả lại gửi tâm tình của mình. Về Phú
Lương mơ thấy mình hóa thân thành nàng tiên nữ “Mơ thấy mình bay về trời/
mang mây xuống giặt” để rồi khi xa “Ngỡ sẽ chẳng có gì để thương/ Mà tim cứ
trĩu hình bóng núi/ Lặng lẽ ai nhìn như muốn hỏi/ Em xa rồi, có về lại Phú
Lương?” (Nhớ Phú Lương). Ngồi một mình lặng lẽ nơi thành Tuyên nhìn sông
Lô sóng nước, mây ngang mạn thuyền để mà nhớ đến “cố nhân”, với những kỉ
niệm của năm nào (một mình 2). Đất Hà Giang cheo leo vách núi, thị xã bé nhỏ
trầm tư, những ngôi nhà mây giăng ngang cửa, “đàn ông Hà Giang trầm như
núi/ cuồng nhiệt như dòng chảy” … tất cả đã để lại nhớ thương khi xa:
tôi rời Hà Giang
trên chiếc xe vắng khách
không lời chào
vì mây và núi còn đang mải ôm nhau
chỉ sông Lô hổn hển đuổi theo
dặn tôi đừng quên tình người Hà Giang như cây trên đá
bám rễ rồi là xanh đến muôn sau
(…………..)
50
Rời Hà Giang, đến đất Tuyên Quang với hình ảnh những cô gái Tuyên
xinh đẹp, nhà thơ lại để lòng mình lạc vào những địa danh như thác Mơ, sông
Gâm, sông Năng, Pác Tạ… (Na Hang) và khi ở Thái Nguyên rồi thì những hình
ảnh thác đổ, dòng sông lại nhở thành nhớ mong trong lòng tác giả. Phải chăng
đó là nỗi nhớ đất hay nhớ người để rồi “thèm trở lại Na Hang”.
Ta cũng bắt gặp Lưu Thị Bạch Liễu “nhẹ dạ” muốn bỏ nhà để theo người
yêu về Cư Lễ để được nhìn ngắm đại ngàn, những dòng suối và những ngôi
nhà sàn ngủ yên bên chênh vênh sườn núi giống như những chiếc tổ chim, theo
anh về để cùng sống trong không khí yên bình của làng bản với đám mây trăng
như tóc bà, để được nghe điệu sli mỗi tối, để hạnh phúc và để được yêu (Yêu
anh, em về Cư Lễ).
Cảnh sắc núi rừng là cảnh sắc quen thuộc trong thơ trong thơ Lưu Thị
Bạch Liễu. Những dòng sông có tên hoặc không tên, những bản làng với mái
cọ, với nhà sàn, cầu thang . .. những địa danh vừa cụ thể nhưng lại dường như
giống tất cả những địa danh miền núi khác, chỉ biết là ở vùng cao Hà Giang
cũng được, Cao Bằng, Sơn La hay Bắc Kạn cũng chẳng sai.
Nhưng tác giả dành nhiều tình yêu cho miền đất nơi chị sinh sống, nơi có
những người yêu thương chị, những người chị yêu thương, nơi có cô con gái bé
nhỏ của chị qua tập thơ “Sông Cầu đang chảy đâu đây”...
Dòng sông Cầu trong thơ của tác giả là dòng sông quan họ, dòng sông
của những kỉ niệm vui buồn. Trong tập thơ này, tác giả không còn vùi mình
vào nỗi cô đơn, sợ hãi mà dường như đã trải lòng mình, hướng ngoại hơn. Phải
chăng chị biết, dòng sông Cầu sẽ không quay lưng, bỏ rơi chị, chị gửi gắm lòng
tin, tình yêu nới dòng sông quê hương để mà bộc bạch nỗi lòng mình. Phải yêu
dòng sông quê, phải gắn bó máu thịt thì mới cảm nhận được vẻ đẹp của nó
Ven sông Cầu cất nhà ta ở
Trong bão bùng nghe sóng nước ngân vang
Bờ phù sa óng nâu bờ mật
Bông lúa vàng Kim Quý Kim Cang
(Sông Cầu đang chảy đâu đây)
51
Con sông Cầu ấy là nguồn cảm hứng thi ca của tác giả. Đã có làn tác giả mơ
ước được hóa thân làm Mỵ Nương trong một đêm trăng
Mị Nương em bỏng khát
Chao nghiêng chén bạch đàn
Chỉ vục được xác nước
Hồn sông đã vụt tan
(Sông Cầu)
Hay đơn giản hơn, sông Cầu là nơi mà khi con người ta trống rỗng, mệt
mỏi, muốn giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống thì đến bên bờ sông để
Một ngày làm gì cũng không nổi
Thì ra bờ sông xem cát reo
…
Một ngày làm gì cũng không xong
Thì ra bờ sông xem ngô trổ
Phấn theo gió cuốn mãi phương nào
Phất phơ run một vài cành hoa cũ
(Một chiều)
Hay chỉ đơn giản là ngắm dòng sông “ngắm cà phê/ Cùng nhấp dòng
sông Cầu đang chảy” để lắng nghe “Thái Nguyên trăng rơi/ Đẫm từng câu
hát” (Trôi cùng đêm).
Một tình yêu nữa dành cho những địa danh nơi tác giả đi qua đó là
Trường Sa. Sau chuyến đi thực tế ngoài Trường Sa về, tác giả đã cho ra mắt tập
thơ “Trường Sa! Ơi Trường Sa!”. Tập thơ là những tình yêu chị gửi đến biển,
đến đất, đến những con sóng bạc đầu, đến những người lính và cả vạn vật trên
đảo. Nơi đây, chị bỗng như người con gái mới lớn lạc nhịp trong tình yêu của
một người lính đảo nên đành:
52
Giấu mình sau cánh cửa
Nghe tim đập dồn không kịp thở
….
Em không thể tin ở nơi cùng trời cuối đất
Em quay cuồng trong một ánh mắt”
(Thơ tình trên sóng 1)
Niềm tự hào về biển đảo, thấy mọi vật đều trở nên đáng yêu, đáng trân
trọng. Một lớp học nhỏ, một con ốc biển, một vườn rau, một ngọn gió cũng gợi
nên tình yêu trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu. Thế nên khi trở về đất liền, tập thơ
là lời tri ân, là lời cảm ơn của tác giả đến người đến vật trên đảo, trong đó có cả
lời gửi đến người lính đã làm xao xuyến trái tim “thiếu nữ” của người đàn bà
Bạch Liễu “Nhờ cánh hải âu chở mênh mông thương nhớ/ Tới người yêu đang
nơi đầu sóng gió” (Gửi đảo xa).
Đến với thơ là Lưu Thị Bạch Liễu muốn trải lòng mình với đời, với
người. Những cung điệu buồn, vui được chị trải ra trên trang giấy như là một
lời tri ân, một lời cảm ơn cuộc đời đã cho chị được sống và được yêu, được
rung động và cả những lo âu. Để rồi “Đến khi về với cát/ Hồn lại gửi vào cây/
Lá cành reo tiếng nhạc/ Tri ân cuộc đời này” (Gọi ngày xưa).
Tiểu kết chương 2
Thơ của ba nhà thơ nữ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và
Lưu Thị Bạch Liễu đã phản ánh tâm hồn, thế giới nội tâm của những người phụ
nữ đa đoan, nhạy cảm, là cách các chị nhìn đời thông qua lăng kính của trái tim
người đàn bà. Thiên tính nữ, số phận đa đoan, khát vọng về hạnh phúc và tình
yêu, những trăn trở về cuộc sống, về con người…. chính là những chiều sâu
trong thơ của các chị. Khát vọng được thể hiện cái tôi, sống vì mình và để sống
cho những người xung quanh, các chị không ngần ngại bộc lộ những dòng tâm
sự của mình. Mỗi nhà thơ có một cách thể hiện cái tôi riêng của mình và tạo
53
cho mình một phong cách nghệ thuật riêng biệt. Thơ của Bạch Liễu không phải
để đọc thuộc bởi vì những vần thơ trúc trắc, những dấu nghỉ, dấu lặng như
tiếng lòng của chính nhà thơ mà chúng ta chỉ có thể đọc và chiêm nghiệm, suy
ngẫm. thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh lại là tiếng nói dịu dàng của người phụ nữ
đã trải bao nỗi truân chuyên của cuộc đời. Với Vân Trung ta thấy đó là một
khát khao tình yêu bất tận, giống như tựa đề tập thơ “Hoa bất tử”.
Tiếng nói của các nhà thơ đã được cất lên theo một điệu tâm hồn riêng,
mà qua những bài thơ, tập thơ của các chị, ta ghi nhận sự đóng góp không nhỏ
của các chị vào sự phát triển của văn học Thái Nguyên nói riêng và văn học
đương đại Việt Nam nói chung.
54
Chương 3
KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NỮ
THÁI NGUYÊN (QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG, NGUYỄN THÚY
QUỲNH, LƯU THỊ BẠCH LIỄU)
3.1. Hình tượng thời gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy
Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu
3.1.1. Thời gian hoài niệm trong thơ Trần Thị Vân Trung
Thời gian hoài niệm là một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ Trần
Thị Vân Trung. Đây là đặc trưng trong thi ca phương Đông. Con người ta
thường có tâm lí tìm về quá khứ để nhớ tiếc những gì đã qua, để quên đi hiện
tại đau khổ. Trong thơ Trần Thị Vân Trung, chúng ta thấy tâm trạng nhớ tiếc
quá khứ thường trực nổi bật.
Tất cả những gì thuộc về quá khứ trong thơ Vân Trung đều chưa chan
cảm xúc: nơi góc phố lần đầu hai người yêu nhau hẹn hò có vầng trăng làm
chứng, trong căn phòng nhỏ nơi đất khách quê người nhớ về những kỉ niệm
tình yêu, trước biển nhớ về một ánh mắt, một nụ cười của ai đó… hay đơn giản
chỉ là những hoài niệm về thời gian đã trôi qua, tuổi trẻ đã lùi xa. Nhớ về quá
khứ, những sự vật nhỏ bé, tưởng như vô tri vô giác cũng trở thành đối tượng để
Vân Trung bày tỏ tâm trạng của mình. Quá khứ với đầy đủ cung bậc cảm xúc
được tái hiện trong thơ Vân Trung.
Cô gái bé nhỏ ngây thơ trong tình yêu của Vân Trung luôn cháy rực nhỗi
nhớ người yêu khi hoa phượng về:
“Hoa Phượng đỏ như đuốc trong không gian
Đốt cháy cả bầu trời thành phố
Đốt cháy cả tình em trong nỗi nhớ
Những ngày hè rực lửa - vắng xa anh!”
(Hoa Phượng tháng Năm)
55
Quá khứ đẹp, bình yên nên trong cái bộn bề của hiện thực, trong sự vụn
vỡ niềm tin hiện thực, chị tìm về với hoài niệm để thấy mình sống lại, để thấy
mình vẫn còn là một cô gái trẻ với đầy nhiệt huyết và đam mê.
Ta như nhận thấy
Cái thời xa xanh cũ
Qua mái tóc của em
Buông hờ trên vai nhỏ
Và những tháng ngày thơ ngây ấy, cô gái tuổi trăng tròn ấy còn chưa biết
yêu, chưa dám yêu “Cái thời chưa lớn khôn/ Mọi điều đều lạ lẫm/ Cái thời
chưa… dám hôn…./ Chỉ nhìn …. Mà say đắm!” (Tuổi mười sáu). Giờ đây khi
đã trải nghiệm, đã đủ chín chắn trong cuộc đời thì người phụ nữ Vân Trung tiếc
nuối “Thế mà… đã xa rồi…./Cái thời - mười sáu tuổi! Mùa Xuân trôi quá vội/
Để lại bao vấn vương” (Tuổi mười sáu).
Những từ ngữ, hình ảnh trong thơ Vân Trung như con thuyền, cánh
buồm, tiếng còi tàu, ánh trăng… đều chuyên trở tâm trạng của nhà thơ. Tiếng
còi tàu hiện tại làm cho tác giả nhớ về tiếng còi tàu của quá khứ, nhớ đến nơi
bắt đầu của tình yêu: “Chỉ có một lần thôi/ Con tàu chậm cho chúng mình gặp
gỡ/ Để hôm nay/ Tiếng còi càng khắc sâu nỗi nhớ/ - Ngày ấy, mình gặp nhau”
(Ngày ấy … quen nhau).
Thời gian hoài niệm, day dứt về quá khứ đưa tác giả về căn phòng kỉ
niệm với đầy ánh trăng, với hạnh phúc nồng nàn, cháy bỏng “Đôi mắt em thiết
tha/ Đôi môi em nồng cháy…/ Hạnh phúc ngập gian phòng” (Căn phòng kỉ
niệm). Quá khứ đẹp là thế để quay về thực tại thật buồn để tác giả ước:
Nỗi buồn - nếu có thể tan ra thành nước mắt
Cháy đến cạn khô - đôi mắt hóa mù lòa
Và sa mạc - tâm hồn thành đói khát
Vì một tình yêu phiêu lạc…. cuối trời xa!
(Nỗi buồn…)
56
Hay một mình cô đơn trong đêm giao thừa
Em nâng chén đắng cay
Thấy hình anh trong đó
…Đã má hồng, môi đỏ
Em dốc cạn … chén này!
(Uống rượu đêm giao thừa)
Hiện thực phũ phàng đến tận cùng, kỉ niệm đẹp biết bao chính vì vậy mà
tác giả đã ru kỉ niệm, để cho kỉ niệm ngủ yên, để cho quá khứ luôn đẹp mãi
trong lòng mình:
Thôi ngủ đi! - Những kỉ niệm đẹp xinh
Không bao giờ già, không bao giờ cũ
Xin ngăn lại - ôi! dòng thác lũ
Đừng cuốn ta trôi trong nỗi nhớ xa vời…
(Khúc ru kỉ niệm)
Nhịp điệu thời gian trong thơ Trần Thị Vân Trung tương đối chậm. Chị
để thời gian chậm trôi cho mình sống với quá khứ. Những lúc ấy, chúng dường
như thấy một Vân Trung đắm chìm vào cảm xúc, quên đi thực tại, cảm giác
như chị chẳng thể nào thoát ra được các hình ảnh của quá khứ. Chị hồi tưởng
lại những ngày tháng có “anh”, lúc tình yêu còn nồng cháy, mãnh liệt, cũng
giống như bốn mùa của đất trời:
Em nhớ anh
- Như Hè về nhớ những trận mưa rào,
nhớ tiếng sét chói tai,
nhớ nhập nhoằng ánh chớp
Em nhớ anh
- Như cây Đông nhớ rét
nhớ đến quắt gầy,
đến nâu sạm làn da.
57
Em nhớ anh
- Như mùa thu nhớ lá vàng
rụng rơi đầy mặt đất
- Như trăng thu cuối tháng
nhớ võ vàng…
Cái nỗi nhớ của người đàn bà lỡ dở trong thơ Vân Trung làm cho người
băn khoăn, day dứt. Nỗi nhớ mong của Vân Trung dường như không bao giờ
dứt. Chị nhớ tất cả những gì là niềm vui, nỗi buồn trong quá khứ. Đọc những
dòng thơ của chị, ta thấy xúc động về một tình yêu cháy bỏng. Ta cũng cảm
nhận phải chăng trong tình yêu chị đã cho đi quá nhiều, như con tằm rút ruột
dâng cho tình yêu những sợi tơ vàng óng, để lại một thân hình gầy mòn, héo
hắt. Nỗi nhớ ấy trở thành ám ảnh, thường trực trong chị, để ngay cả khi đêm về
“Giật mình, tỉnh giấc, giơ tay kéo/ Vào lòng…. cả một… khối hư không”. Quá
khứ tồn tại bùng lên trong thơ Vân Trung nhiều khi làm chị nghẹt thở, chị tìm
quên cả quá khứ lẫn hiện tại trong men rượu:
Một li này, một li nữa mà thôi
Vẫn còn rượu đây, đầy thêm chút nữa
Ai đã thắp - trong em ngọn lửa
Ai mang đi còn lại đống hoang tàn
(Chuốc rượu cho mình)
Vậy là không chỉ có đàn ông mới tìm quên trong men rượu. Thời gian là
liều thuốc hữu hiệu nhất để xóa nhòa đi kí ức nhưng cũng có khi thời gian chở
kí ức theo cuộc đời con người đến tận khi về bên kia thế giới. Chính vì vậy,
niềm vui, nỗi buồn trong quá khứ đều là những kỉ niệm đẹp để giúp chị nhìn
nhận hiện tại, để mà vươn lên sống tiếp. Thời gian vẫn sẽ vô tình như ngàn đời
vẫn vậy, chỉ có người thơ hữu tình luôn đi bên cạnh thời gian. Hiểu được điều
đó nên khi đối diện với quá khứ, chị lại dự cảm về tương lai, người đàn bà đầy
đau khổ, băn khoăn ấy “Trong khung của sổ bằng gỗ mun được chạm trổ tinh
58
vi/ Có một người đàn bà sang trọng. Kiêu hãnh. Cô đơn. Mòn mỏi. Im lìm….
Tôi run lên - khi nghĩ: Có một ngày/ Khung cửa gỗ mun kia không có người
đàn bà ấy/ - Người đàn bà sang trọng. Kiêu hãnh. Cô đơn. Có lửa ở bên
trong!” (Sẽ có một ngày). Và nhà thơ Vân Trung cũng có ngày mỏi tay bút, để
trang viết bị bụi nhện chăng đầy theo thời gian “Đôi guốc mỏi mòn - xếp đầy
chân tủ/ Trang viết mỏi mòn - bụi nhện chăng đầy/ Tâm hồn mỏi mòn - mắt
quầng ngơ ngác/ Trái tim mỏi mòn xao xác… yêu đương…!” (Tản mạn). Thời
gian chầm chậm trôi để Vân Trung có thể bộc bạch nỗi lòng mình, đó là những
hờn ghen, những băn khoăn tự hỏi, để nhớ về những giây phút xao lòng trước
một ánh mắt, một nụ cười của ai đó và rồi tự mình cứ dối lòng, cứ tìm cách để
lẩn trốn tình yêu “Có phải lỗi lầm - với kẻ mến yêu không?/ - Khi ta trốn tình
yêu thương chớm hé,/ - Khi ta khép lòng ta tươi trẻ,/ Để tôn thờ…. Một kẻ
hững hờ… không” (Có phải lỗi lầm). Tự băn khoăn nhưng cũng là lời trách
móc gửi đến ai đó đang có được tình yêu của Vân Trung nhưng lại không biết
quý trọng, giữ gìn.
Day dứt về quá khứ nhưng cuối cùng vẫn là con người của hiện tại nên
chị phải sống với hiện tại. Chị cảm thấy mình như trẻ lại khi nhìn các em nhỏ
đang tập múa, giống như những cánh chim thiên nga nhỏ “Rung rung trong
nắng/ Như bao cánh hoa/ Trong ngày xuân thắm”. Chị cũng trở nên tinh
nghịch khi bắt gặp những dòng thơ trên vách núi để mà bạo dạn gọi vị vua sống
cách chị vài thế kỉ là “chàng”. Chị thấy như mình trẻ lại, để mà ngắm nhìn, để
mà chiêm ngưỡi vẻ đẹp của con người cũng như những nét bút tài hoa của
“chàng” thi sĩ Thánh Tông. Chị khẳng định “Thời gian phủ niềm vinh quang
cũ, Riêng Người thơ - trẻ mãi… tận bây giờ!” (Gửi chàng thi sĩ Thánh Tông).
Người thơ của muôn năm cũ còn trẻ mãi, còn người thơ Vân Trung thì sao?
Phải chăng chị muốn gửi đến người đọc lời nhắn gửi rằng có thế Vân Trung già
đi theo thời gian như quy luật cuộc đời nhưng thơ Vân Trung vẫn còn trẻ mãi.
59
Như vậy, thời gian trong hoài niệm trong thơ Vân Trung thường mang
màu sắc nhớ tiếc một thời đã qua hay là hồi tưởng lại những gì tươi đẹp. Nhưng
dù có như thế nào thì chúng ta vẫn thấy một hồn thơ Vân Trung đằm thắm, dịu
dàng và đầy sự hi sinh, nhất là trong tình yêu.
3.1.2. Thời gian hiện tai với cảm nhận cá nhân trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu
Cuộc sống nơi phố xá ồn ào đã đem đến trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu sự
cảm nhận thời gian đậm tính cá nhân. Chị ý thức được sự quý giá của thời gian
và của đời người. Chúng ta nhận thấy người phụ nữ cô đơn đi qua hết nửa đời
người mới tìm được bản thể
“đã đi
quá nửa cuộc đời
mới hay
đất gọi
ơi hời
dưới chân”
(Độc hành)
Thời gian trôi nhanh, con người bận bịu với vòng xoáy cuộc đời, hết bốn
mùa của đất trời, giật mình nhìn lại thì thời gian đã không còn chờ đợi mình
nữa mà chỉ còn đất gọi tên. Lưu Thị Bạch Liễu ý thức sâu sắc về sự trôi chảy
của thời gian nên chị buồn, chị tiếc cho thời thanh xuân đã trôi qua nên chị
sống vội vàng, mãnh liệt:
“Mùa hạ tôi nhan sắc tuổi ba mươi
Rừng rực cháy đến từng chân tóc”
Thời gian thật khắc nghiệt. Con người hữu tình mà thời gian lại vô tình
nên nhà thơ chấp nhận đánh đổi cuộc đời để được sống hết mình với cái bản
ngã của mình: “Mong một lần được cháy/ dẫu tàn tro suốt đời” (du xuân). Thế
những đấy chỉ là những phút giây bứt phá, sau đó chị lại trở lại với thiên tính
60
của người phụ nữ. Chi lặng lẽ đi bên thời gian, cảm nhận sự chảy trôi của thời
gian để mà tiếc nuối, chờ đợi một bóng hình:
“Mặt trăng mải theo trái đất
Bao buồn vui
Lúc khuyết
Lúc tròn
Em
Cả đời quay cuồng ảo mộng
Chưa một lần mỏi mệt như trăng”
(Đợi)
Thời gian tàn phai, con người yêu trong Liễu còn đấy nên Liễu buồn,
chấp nhận đồng hành cùng thời gian, tranh thủ từng phút giây…
Nhưng ta cũng thấy thời gian hiện tại trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu cũng
có những nét vui, nét nhí nhảnh yêu đời trong bài “Mở cửa ra nào”. Khi mở
cánh cửa của ngôi nhà là thấy xuân về, thấy tiếng mưa rì rào, tiếng gõ cửa của
gió. Mùa xuân của đất trời hay mùa xuân của lòng người, để thấy lòng mình rạo
rực “Phơi phới sắc hồng nhưng nhức/ Nàng rừng rực/ Xuân” (Xuân của Picaso).
Đôi khi, chán chường, tuyệt vọng, mệt mỏi nhà thơ lại mong cho thời gian chóng
qua “Sức có hạn cuộc đời ngắn vậy/ Bao giờ mới hết một vòng quay?”
Nhưng thời gian để diễn tả những tâm trạng vui tươi, phấn khởi thường
trôi qua rất nhanh, còn khi tâm trạng u sầu, cô đơn thời gian lại chảy trôi rất
chậm. Chị để thời gian trôi để mà thả lỏng tâm hồn mình hòa cùng thiên nhiên
“Thèm một người ngồi bên/ Ngắm cà phê với em/ Cùng nhấp dòng sông Cầu
đang chảy ….. ” (Trôi cùng đêm).
Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta không thấy nhiều hoài niệm về quá
khứ và cũng không có những dự đoán cho tương lai. Ta thấy trong thơ chị là
thời gian của hiện tại, của những gì đang tồn tại. Phải chăng chị quan niệm rằng
ngày hôm qua là quá khứ, là thời gian đã qua, ngày mai thì chưa đến nên chị
61
sống hết mình cho ngày hôm nay. Sống với hiện tại nên trong thơ Lưu Thị
Bạch Liễu ta thấy đó là sự giao hòa với thiên nhiên, với con người, nhất là đất
và con người Thái Nguyên. Trên mảnh đất Thái Nguyên ấy, ta thấy tình yêu chị
dành cho dòng sông Cầu rất lớn. Khi vui cũng như khi buồn, chị đều tìm đến
với sông để mà bầu bạn. Hòa hợp với thiên nhiên nên trong chân dung tự họa,
Lưu Thị Bạch Liễu ví mình giống như một thân cây suốt đời mọc thẳng, cho dù
chỉ là một thân gỗ tầm thường thì cũng giúp cho đời sưởi ấm.
Không mơ làm gỗ quý
Không mộng làm thuốc tiên
Sưởi ấm lòng nhân gian
Chính với lẽ sống ấy nên chị chẳng sợ thời gian trôi, chị sống hết mình ở
hiện tại để sau này khi trở thành quá khứ chị không tiếc nuối: “Tôi hóa bức
tường câm lặng/ Mặc thời gian bệch bạc rêu phong” (Đợi).
Chị cảm thấy tự hào, bình an, và được khám phá khi rong ruổi khắp mọi
miền để làm thơ, quên đi thời gian thực tại. Và trên con đường khám phá ấy,
chị bỗng ngản ngơ khi bắt gặp hình ảnh
Nhìn lung linh bóng đỏ
Áo người chèo thuyền thắm những ngù hoa
(Thèm trở lại Na Hang)
Hay đó cũng là cảm giác rợn ngợp trước một thiên nhiên rộng lớn, nó
khiến cho con người trở nên vô cùng nhỏ bé: “ thượng nguồn sông Miện/ Nơi
chỉ có chớp và trời” để … “thấy thế nào là sông chảy […] biết thế nào là mây
bay” (Gửi Hà Giang).
Tác giả cũng hòa mình với những đêm hội của đồng bào vùng dân tộc,
để sống trong không khí và những sản vật của địa phương:
62
Thèm được trở lại Na Hang
Lênh đênh trên căn nhà nổi của ông Chuyền
Người đàn ông oang oang sóng nước
Sẵn sàng thết bạn món cá tiến vua
Hàng năm xa vẫn còn vương vất say rượu ngô
Cùng vị cay dưa cải Mèo trồng trên nương đá
(Thèm trở lại Na Hang)
Cùng người yêu về quê hương, nơi có dòng sông chảy quanh, để sống
một cuộc đời giản dị, được leo lên chín bậc thang nhà sàn, được ngắm nhìm
mưa rừng rơi, những hạt mưa lăn trên mái nhà đơn sơ của mẹ, sống một cuộc
sống bình yên, không bon chen, không đau khổ
anh hẹn trời mưa sẽ đem em về quê
nhìn mưa lăn trên mái nhà của mẹ
lăn qua chín bậc cầu thang thành dòng sông nhỏ
chảy một đời không tới nổi bình yên
chảy cả đời không tới nổi bình yên
(Người yêu)
Hay chị lại trở về dòng sông quê quen thuộc, ở nơi ấy chị thỏa mình
trong dòng nước mát lành, để sống lại với chính bản thể, những khát khao
của mình:
Mỵ Nương em bỏng khát
Chao nghiêng chén bạch đàn
Chỉ vục được xác nước
Hồn sông đã vụn tan...
63
Cũng có khi chị cũng thao thức, băn khoăn vì tình yêu, để mà trao gửi tình
yêu của mình đến ai đó, một mình vẫn hát khúc hát độc hành của kẻ cô đơn:
đôi mắt tôi không ngủ
sáng thành hai vì sao
hai vì sao không ngủ
cháy mãi một nơi nào
(Tự khúc)
Lưu Thị Bạch Liễu rất biết giá trị của thời gian, nên chị tranh thủ sống,
tranh thủ để tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống, những gì mà cuộc đời đã
ban tặng cho mình bởi vì chị biết “Không nỗi buồn nào giống nỗi buồn nào”:
Mỗi ngày vẫn bắt đầu bằng một ban mai
Qua một ban trưa
Tiếp nối bằng một hoàng hôn rực rỡ
Những đoá hoa nhỏ lệ giữa đêm
Vì chúng biết sức nóng và sự dịu dàng
của ngày mai
không thể nào còn giống ngày hôm nay
3.1.3. Thời gian đêm tối trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh.
Hình tượng đêm có sức gợi ám mạnh mẽ đến người đọc. Có thể nói đêm
trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh chính là những khúc xạ về cuộc đời đầy tâm sự
u uất của chị. Có phải chăng khi bóng đêm kéo đến, mọi vật chìm vào yên tĩnh
thì lúc này nhà thơ mới có thể tĩnh tâm để lắng nghe tiếng của đêm mà trong thơ
của Nguyễn Thúy Quỳnh, ta bắt gặp thời gian đêm ngự trị rất nhiều. Trong đêm
tối ấy, chị lắng nghe tiếng thở đều của chồng sau cơn đau bệnh, để cảm thấy yên
lòng hơn khi gấc ngủ của chồng đã nhẹ nhàng hơn
64
Đêm nay anh ngon giấc hơn
Cầu cho những giấc mơ dịu dàng đưa anh về xa
(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)
Để tác giả có thể nhớ lại cái ngày mà còn đầy vui tiếng cười hạnh phúc,
nhớ lại những ngày người chồng còn mạnh khỏe, lúc ấy, đêm không phải là sự
lo lắng mà
“đêm kết thành vườn địa đàng
ở ra những thiên thần”
(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)
Nhưng những đêm với tiếng cười ấy không nhiều. Ta bắt gặp trong thơ của
Nguyễn Thúy Quỳnh thời gian đêm thường là thời gian mà chị trở về với bản thể,
với cái tôi đầy trăn trở, day dứt. Nỗi niềm day dứt của chị là sự day dứt về nhân
thế, về tình đời, tình người, về những người chị yêu thương và cả về tình yêu. Để
tuột mất tình yêu, đánh rơi câu hát và những lời yêu thương, chị đi tìm khắp nơi
nhưng vô vọng để đêm đêm:
Từ ấy
đêm đêm hồn ta về
qùy lên mỏm đá này
tạ lỗi với cao nguyên
(Xin lỗi)
Đêm trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh thường rất tĩnh lặng, có chăng chỉ là
những âm thanh của tiếng gõ bàn phím, và trong đêm tối ấy, hình bóng người
chồng đã khuất dường như đang trở về bên cạnh mẹ con chị:
Có thể ở nơi ngọn khói hương bay lên
Đêm đêm anh về
Sau cánh cửa kia
Lắng nghe các con ríu ran
Nhìn theo những ngón tay em gõ trên bàn phím
Đợi em tắt đèn
Im lặng
Sáng lại đi
65
Phải chăng, chỉ có đêm chị mới gặp lại được người chồng đã khuất của
mình. Người ta thường nói rằng thời gian đêm tối là lúc linh hồn của những
người đã mất mới có thể trở về thế giới dương gian, chính vì vậy mà chị thức
cùng đêm để gặp chồng mình, để cũng anh giãi bày những khổ đau, những tủi
hờn mà khi ánh sáng ban ngày còn ngự trị, chị phải gồng mình lên để chịu
đựng, làm chỗ dựa cho các con, rồi mai khi ánh bình minh đón chào ngày mới,
chị lại là Nguyễn Thúy Quỳnh mạnh mẽ, một trụ cột để lo lắng cho các con.
Nhà thơ đã lấy cái tĩnh lặng của đêm để làm nổi bật những ngân rung của
tâm hồn, của cuộc sống để thể hiện sự nhớ nhung người chồng đã khuất. Đêm
trong thơ chị ta nghe được tiếng thở dài ám ảnh của người đau bệnh, nghe được
tiếng bước chân rất nhẹ trong hư không… Đêm phải chăng là thời điểm chuyển
giao giữa hai trạng thái đối lập: sống và chết nên khi đêm về chị lại suy tư tự
hỏi rất nhiều điều. Kiếp sống con người mong manh nhỏ bé trước thiên nhiên
vô tận, từ một cơn lũ về để chị đặt ra muôn vàn câu hỏi cho số phận con người:
Quặn thắt ý nghĩ
Đêm nay bao nhiêu cơn mưa đổ
Đêm nay bao nhiêu sườn núi lở?
Đêm nay bao nhiêu khúc đê vỡ?
Đêm nay bao nhiêu người không nhà?
Đêm nay bao nhiêu người không về?
………
(Hỏi)
Nguyễn Thúy Quỳnh tạo cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về thời điểm
tận cùng của ngày, chị đã diễn tả được những rung động tinh tế của thời khắc
đêm nhưng cũng không kém phần dữ dội. Cảm xúc dữ dội và tuyệt vọng khi cái
chết chia lìa tình duyên chồng vợ, cảm xúc tiếc nuối khi có một cái gì đó vụt
mất. Từ những câu thơ này ta nhận ra cái tôi của nhà thơ, cái tôi hữu tình trước
66
vạn vật: một thân cây vừa bị xẻ xuống, một con mèo bị xe cán chết hay nghe
tin tức trên báo đài về cái chết của một cô bé không hề quen biết…
Một em gái sinh viên vừa lao từ tầng bốn xuống
Máy bay chở đoàn nghệ sĩ rơi xuống đại dương
Hàng trăm người trôi cùng mưa lũ miền trung
Hàng nghìn mạng tị nạn dưới lòng Địa Trung Hải
…….
Mơ hồ nghĩ vì đâu mà biến mất
……vì đâu mà biến mất?
……….vì đâu?
(Nghĩ trong sương mù)
Đọc thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh, người đọc dường như đi lạc vào thế
giới của bóng đêm ở đó những linh hồn chết quay về để mà dõi nhìn, để mà vấn
lương tâm của người đang sống.
Nhà thơ cũng cho ta thấy sự đối lập của âm thanh đêm: đó là tiếng sấm
chớp chói lòa ngoài ô của sổ và sự run rẩy, cần sự chở che của những đứa con.
Người mẹ Nguyễn Thúy Quỳnh đã nhận ra:
Trong bóng tối chết lặng
dưới tay mình
mẹ gặp những mạch máu của các con đang líu ríu chảy
những nơ ron thần kinh nép vào nhau run rẩy
những tế bào tươi non cuống cuồng
khao khát được chở che.
………………………………
Trong thơ, Nguyễn Thúy Quỳnh đã sử dụng các phép tu từ để diễn tả
những trạng thái khác nhau của tạo vật và xúc cảm của con người. Bóng đêm kì
ảo, ẩn chứa đầy sự mơ hồ, khó nắm bắt nhưng cũng đầy quyến rũ đã được tác
giả tái hiện trong các giác quan của mình, mọi vật đều xoay chuyển theo quỹ
67
đạo riêng của nhà thơ. Trong thơ chị, lúc nào cúng ta cũng thấy những nợ nần,
những cái chết tức tưởi:
“Đêm đêm/ hồn cây về/ sừng sững trên những gốc cũ/ Triệu mắt lá chứa
chan lệ ứa/ Khóc những quả trứng chim còn chưa kịp nở/ ta biết lấy gì xin tha
thứ, cây ơi!”.
Thế nhưng không phải thời gian đêm trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
chỉ có chết chóc, có những linh hồn vơ vẩn mà trong Đêm tối, ta cũng thấy
được một trạng thái đối lập khác. Tác giả nhìn ra được sự chân chất của
những người nông dân làm thơ, nhận ra lòng mình đang rung ngân khe khẽ
những cung bậc của tình yêu… trong bóng tối ấp ủ ánh sáng “”Đã bao nhiêu
tin nhắn người gửi vào trái tim tôi/ Bao nhiêu bản tình ca, đêm đêm về hát
ru tôi thật khẽ”. Tác giả cũng đối diện với bóng đêm để nhận lại lòng mình
cho một cuộc tình không có hậu:
Những giấc mơ không kết thúc như thế
Những nỗi buồn không dang dở như thế…
……………………..
Đã có thể bình thản quay về
Mặc giấc mơ với nỗi buồn,
chờ mùa sau trổ lộc trổ hoa,
nếu ngọn đền đường kia
đêm ấy đã tắt
bây giờ đừng chớp mắt nhìn theo
(Cho một người với một ngày)
Hay là sự mỏi mong chờ đợi người tình không đến
Ai gọi cửa?
Lẽ nào….?
Không phải. Gió
Trời ơi! Ta trót đợi tự bao giờ?
68
Nghe nhạc Trịnh, thấy dường như sao mà Trịnh hiểu mình đến thế.
Những câu hát ấy đi theo tác giả trong một đêm bên tách cà phê buồn “Từ ấy
tôi mang theo bên mình giấc mơ viên sỏi nhỏ/ ngày qua ngày, đêm thay đêm, ủ
nó bằng hơi thở, rồi sống, rồi yêu, chờ một ngày mặt trời không đến nữa/ để
nghe lời sỏi hát/ rằng, làm sao mà Trịnh biết,/ bia đá cũng đau….” (Nhớ Trịnh)
Có thể nói, sự song hành đối lập hai trạng thái đêm trong thơ Nguyễn
Thúy Quỳnh làm nổi bật lên hình ảnh đầy nữ tính của tác giả. Ban ngày bề bọn
với những lo toan, chỉ có đêm về chị mới có thể sống riêng cho bản thân, cho
những cảm xúc ùa về, để trao trọn thể xác và tâm hồn cho bóng đêm. Hình
tượng bóng đêm trong thơ tác giả chính là sự thả nổi tâm hồn trong vô thức,
hiện thực huyền ảo nhưng cũng mang đầy nét bi thương... Tác giả ý thức được
sâu sắc từng giây phút tồn tại trong cuộc sống. Chính đặc điểm này tạo nên nét
riêng cũng như nét duyên cho thơ Nguyễn Thúy Quỳnh.
3.2. Hình tượng không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy
Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu
3.2.1. Hình tượng không gian quê hương gần gũi, thân thiết trong các sáng
tác của ba nhà thơ
Một đặc điểm chung dễ nhận thấy trong những bài thơ của ba nhà thơ
Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu đó chính là
những không gian quen thuộc nơi vùng rừng núi phía Bắc.
Cảm xúc chủ đạo trong thơ của ba nhà thơ đó là hướng về nguồn cội, nơi
các chị được sinh ra, lớn lên và nó cũng chính là nguồn thơ cho các nhà thơ. Có
thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh của những bản làng, những con suối, ngôi nhà
sàn bên lưng đồi hiện lên trong thơ của cả ban nhà thơ cho ta thấy được tình
yêu, sự gắn bó của các chị đối với quê hương.
Không gian nghệ thuật trong thơ của ba nhà thơ nữ Thái Nguyên như
một dòng chảy đưa người đọc về với cảm xúc nguồn cội, về quê núi, về với
những cánh đồng, những đêm hội làng. Một Na Rì với con đường quanh co, với
69
những nương ngô leo ngang sườn đá, được chiếc khăn choàng mây trắng vắt
ngang làm cho cảnh vật say lòng người, tiếng cười nói của những thiếu nữ nơi
phiên chợ là hình ảnh không thể nào quên trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh:
Con đường dập dìu lưng núi
Mặt trời ngủ quên chân đèo
Thung xa chập chờn sương bạc
Suối từ hồng hoang vẫn reo.
Nương ngô leo ngang sườn đá
Lửa hoa thắp dọc sông Cầu
Núi trải trùng trùng sóng nhạc
Áo chàm gieo thơ vào nhau
(Na Rì)
Hay nỗi nhớ quê đã khiến Nguyễn Thúy Quỳnh có lần ước ao mình
giống như một chú cá, ước một ngày mắc lại để ngược phía sông Cầu về đầu
nguồn, để:
Ngắm hoa mận xòe lời chào trắng muốt
Những nương cải đổ nắng sườn non
Nhịp ngựa thồ gõ rộn sớm mai
Bếp cống phù lập lòe dốc đêm thơm phức
(Gửi đầu nguồn)
Trần Thị Vân Trung lại dẫn người đọc đến với quê hương Thái Nguyên,
vùng đất cách mạng, thủ đô kháng chiến của chị bằng những hình ảnh thơ
rất “tình”. Chúng ta đến với Thái Nguyên như đặt chân với những mảnh đất
với “kho huyền thoại” mà “ngọn núi, con sông, đến cây cỏ dại…/ Đều có cuộc
đời riêng!”
Cùng theo những vần thơ của Vân Trung đi thăm thú cảnh đẹp của vùng
đất chè nổi tiếng:
70
Vì quá yêu người trần thế
Nàng yên giấc ngủ triệu năm
Một làn mi cong
Đẹp xinh ngay cả dáng nằm
Vua cha ân hận
Cho đàn tiên nhỏ xuống thăm
Núi Quần Tiên bên núi Tiên Nằm
Hay người đọc cũng lạc bước đến với câu chuyện tình của đôi trai tài gái
sắc, nhớ về tiếng sáo của càng Cốc ngheo khổ và những giọt nước mắt chung
tình của nàng Công bên hồ Núi Cốc huyền thoại
Thương nhớ người yêu
Cuộc đời mòn theo nước mắt
Sông Công dằng dặc
Tìm về núi Cốc yêu đương…
Hay cả những cái tên Núi Đợi Chờ, Núi Tương Tư, Cây đa đôi, Suối
Đôi… như thể bào chuyện tình buồn và đẹp đều có ở mảnh đất nới đây. Và đó
cũng chhính là lí do làm cho hồn thơ Trần Thị Vân Trung đầy đa sầu, đa cảm.
Vân Trung cũng đưa người đọc đến với điệu kèn lá của chàng trai người
H’mông đang xuống chợ tìm người yêu hay đưa người đọc say sưa với tiếng
hát của người trai bản làm xao xuyến trái tim biết bao người:
“Tiếng hát cất lên từ trái tim của người trai bản
Vang vọng núi rừng
Thao thiết vạn con tim…”
(Tiếng hát núi rừng)
Đến với Thơ Lưu Thị Bạch Liễu người đọc bắt gặp hình ảnh dòng
sông Cầu êm trôi làm bạn với thi sĩ. Chi làm bạn với dòng sông, khi vui,
khi buồn đều tìm đến với sông, ngay cả khi không làm gì chị cũng ra sông
để ngắm, để nhìn:
71
Một ngày làm gì cũng không nổi
Thì ra bờ sông xem cát reo
……
Một ngày làm gì cũng không xong
Thì ra bờ sông xem ngô trổ
Phấn theo gió cuốn mãi phương nào
Phất phơ run vài cành hoa cũ
(Một chiều)
Và dòng sông Cầu còn là nơi mà “ngắm cà phê/ Cùng nhấp dòng sông
Cầu đang chảy” và cảm nhận “Thái Nguyên trăng rơi/ Đẫm từng câu hát”
(Trôi cùng đêm).
Chính vì tình yêu nơi dòng sông Cầu ấy mà chị đã cho ra đời cả một tập
thơ “Sông Cầu đang chảy đâu đây” để bày tỏ tâm tình với con sông mang
dòng nước ngọt tưới cho những nương chè xanh. Phải chăng nhờ dòng nước
sông Cầu ấy mà hè Thái Nguyên trở nên ngon hơn, nước ngọt hơn chăng?
Nhiều khi trong tiềm thức, tác giả thấy như dòng sông Cầu đang chảy
đâu đây rất gần:
Phải rì rầm sông Cầu đang chảy
Hay Then cùng Tính về trời
Chợ Tam Quang hai người đến muộn
Lạc dọc đường vơ vất mảnh hồn trôi
……
Ven sông Cầu cất nhà, ta ở
Trong bão bùng nghe sóng nước ngân vang
Bờ phù sa óng nâu bờ mật
Bông lúa vàng - Kim Quí Kim Cang
Để ở bên trong ngôi nhà bên bờ sông ấy, người thơ nguyện trở thành
người vợ hiền ngày ngày dệt những sợi chỉ tình yêu:
72
Em sẽ chăm một vườn dâu mướt
Rồi sẽ học nghề canh cửi tằm tơ
Để cả đời chỉ dệt nên ba sợi
Cho tiếng tình tiếng tính ngân nga…
(Sông Cầu đang chảy đâu đây)
Người đọc cũng có thể ngược dòng sông Cầu cùng Liễu về Bắc Kạn
thưởng thức rượu ngon, cá chua Ba Bể, măng khô, những quả hồng… hay cùng
nhau về Cư Lễ, nơi mảnh đất mà “chưa thấy phố thị/ Đã giữa đại ngàn/ Bên
này ngát thung/ Bên kia biếc núi” và sẽ không thể nào quên những cảnh núi
non hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng:
Quanh quanh dòng suối
Nhà sàn ngủ yên
Chênh vênh sườn núi
Nhà sàn như những tổ chim
……
Em về Cư Lễ
Để nghe điệu sli
(Yêu anh, em về Cư Lễ)
Hay về Lam Vỹ để nhớ lại chín bậc cầu thang, những bậc cầu thang đã
đen lại, mòn đi theo thời gian để bước chân trở nên mạnh mẽ hơn.
Có thể thấy trong thơ của ba nhà thơ nữ, hình ảnh của ruộng bậc thang,
của nhà sàn, của những dòng sông, dòng suối là những hình ảnh quen thuộc của
các tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Không gian trong thơ các nhà thơ không
chỉ có chim, có suối, có núi, có đồi mà không gian đó còn chứa đựng cả tình
người ấm áp, chứa đựng những câu chuyện kể về quá trình hình thành của địa
danh nơi các chị đi qua. Không gian ấy còn mang ý nghĩa thiêng liêng khi nó
nhắc cho người ta nhớ về trách nhiệm của những người con sinh ra, được mảnh
đất này nuôi dưỡng trưởng thành. Phải yêu mảnh đất nơi mình sinh ra, mảnh
73
đất và con người mình đã gặp thì các nhà thơ nữ Thái Nguyên mới có sự đồng
điệu trong tâm hồn, để cùng gặp gỡ nhau nơi những vần thơ viết về miền núi
đầy xúc cảm đến như vậy. Hình ảnh cuộc sống, con người vùng rừng núi đã
làm cho thơ của Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu
trở nên gần gũi với người đọc hơn, sống động lòng người hơn.
Không gian thơ của ba nhà thơ nữ trải rộng trên khắp các vùng đất khu
vực miền núi phía Bắc. Đây là những cảm xúc về nguồn, nó là sự chân thực,
hồn hậu đầy chất nhân văn của các tác giả. Chúng ta thấy trong những bài thơ
của các chị viết về miền núi thường là những giọng thơ trong trẻo, đầy lạc quan
yêu đời. Phải chăng, về với quê hương, về với cuộc sống bình yên bên cạnh
thiên nhiên, với những người dân tộc thiểu số chân thật đã khiến cho tâm hồn
các chị được buông bỏ, được quên hết những ưu tư bộn bề của cuộc sống bon
chen nơi phố xá, để được hòa mình vào với những đêm hội, những câu sli, câu
lượn. Đó chính là những nét chung mà chúng ta bắt gặp trong thơ của ba chị
3.2.2. Những không gian riêng
3.2.2.1. Không gian rộng lớn của biển khơi, của vũ trụ trong thơ Trần Thị
Vân Trung
Đọc thơ Trần Thị Vân Trung, chúng ta bắt gặp hai đối cực khác nhau
của không gian: đó là sự mở ra không gian rộng lớn với những vần thơ đầy
yêu đời, yêu người với không gian đóng kín mà tác giả tự nhốt mình với
nỗi buồn đầy vơi.
Không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung luôn tràn đầy sự hoài niệm về
quá khứ. Đó là những chiến trường xưa nơi đất bạn Cam-pu-chia khi chị đi
công tác, không gian của những lễ hội trên đất Phnôm Pênh. Nhưng nhiều nhất
vẫn là không gian về biển, về sóng và những bãi cát dài. Biển rộng bao la cũng
làm cho những tâm sự buồn của nhà thơ vơi đi không ít. Dường như sóng biển
đã cuốn nỗi buồn ra xa ngoài đại dương để trả lại cho đời một Vân Trung
“trong trẻo, thanh tân”:
74
Bao nỗi buồn đau vụt trở thành vô nghĩa
Biển tặng cho ta niềm thanh thản diệu kì
Sóng nâng ta trong từng bước chân đi
Ta - trong trẻo,
thanh tân
- TỪ PHÍA BIỂN
(Từ phía biển)
Nhìn những con sóng xô bờ, sóng đuổi nhau mãi chẳng bao giờ gặp được
nhà thơ nghĩ đến tình yêu của con người có khi nào như sóng, mãi tìm nhau
trong cái không gian mênh mông vô tận của đất trời. Và tác giả lí giải cho
những con sóng ấy:
Những con sóng đuổi nhau
- Vì khát khao gặp gỡ
Những con sóng gọi nhau
- Bởi muôn đời thương nhớ
Những ngày ta xa nhau
Lóng ta như sóng gọi
Nỗi nhớ như sóng đuổi
Chẳng bao giờ … gặp nhau
(Sóng gọi gì nhau?)
Khi giã từ nhau, thì con sóng lòng cứ đổ về để không thể lí giải nổi “Sao
lòng mình … con sóng cứ xôn xao…?” (Xôn xao…)
Và nhân vật em trong thơ Vân Trung luôn cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn
trước biển, trước những con sóng bạc đầu “Nhưng - như cánh buồm cô đơn trên
mặt biển/ Chẳng bao giờ - Em vĩnh viễn có anh…!” (Có thể, không thể).
Trước biển, nhà thơ dường như nhiều hóa thân vào các dạng thức khác
nhau, lúc thì là sóng, lúc là bờ và có khi lại trở về là cô gái nhỏ bên biển là một
người tình hay ghen
75
Biển như người tình hay ghen
Ngày đêm sóng vỗ êm đềm
Bỗng dưng … nổi cơn thịnh nộ
Xô vào … nghiến nát … bờ em
(Biển)
Và tình yêu của cô gái nhỏ ấy thật bao la, vĩ đại khi không sợ ngoài khơi
xa kia, cánh buồm sẽ gặp biết bao con thuyền hay gặp những bất trắc trong
sóng gió đại dương mà động viên, cổ vũ thuyền anh ra khơi:
Em muốn thuyền anh ra giữa đại dương
Nơi sóng cả dữ dằn, bạo cuồng nắng gió
Dẫu chẳng may - có tan ngàn mảnh nhỏ
Cũng một lần - Anh rạng rỡ - ở trong em
(Cánh buồm)
Ngoài không gian bao la của vũ trụ, của biển khơi thì ánh trăng dường
như là người bạn tâm tình của nhà thơ. Đã bao lần ta bắt gặp ánh trăng trong
những đêm buồn nhớ người yêu. Những dằn vặt, day dứt khi mà trái tim người
đàn bà trót lỡ nhịp, trot xao lòng bởi một ánh mắt, một nụ cười của ai đó, để rồi
giống như bị trăng bắt quả tang
“- Ta thấy lòng mình tươi tắn quá
- Ta lại thấy ửng hồng đôi gò má
- Thấy chông chênh trong mỗi buổi trăng về”
(Có phải lỗi lầm)
Trong không gian bao la và rợn ngợp của trời và đất ta bắt gặp hình ảnh
trăng mồ côi hay chính con người cô đơn của tác giả
Cánh diều trăng mỏng manh
Chao đảo giữa bầu trời
……
Anh xa - mang đi hết
Trăng … giờ thành mồ côi!
(Trăng mồ côi)
76
Và trong những lúc xao lòng ấy, cũng dưới ánh trăng nhà thơ đã tự mình
nhìn lại về mối tình hiện hữu của mình, và dường như ánh trăng cũng đã chứng
kiến biết bao đêm trăng tác giả tự vấn, tự đưa ra cho mình đáp án:
“Chẳng có bao giờ - người nhớ thương ta
Chỉ có mặt trăng đau đáu soi trần thế”
(Chẳng có bao giờ)
Trong cái không gian bao la của vũ trụ, của đêm trăng, nhà thơ hoài niệm
về một thời thiếu nữ đã qua: “Trăng mười bốn, lúa đang thì con gái/ Gió dịu
dàng mê mải đuổi sóng xanh…” (Khúc ru kỉ niệm). Cũng có khi, trăng là
nhân chứng cho tình yêu đôi lứa trong thơ Trần Thị Vân Trung, đó là vần “Đêm
trăng ấy bầu trời trinh bạch/ Không gian đầy hương thơm”. Bầu trời trinh bạch
cũng giống như tâm hồn trinh bạch của người thiếu nữ đang yêu, và chị Hằng
cũng chứng kiến những hẹn hò của các cặp đôi yêu nhau một cách đầy tinh
nghịch: “Chị Hằng cười - kín đáo, bao dung…” và chính anh cũng là vầng
trăng trong đêm tối của em “Ánh trăng tan ra từng mảnh/ Khi anh cười vô tư”
(Ngày ấy… quen nhau). Trăng cũng giống như một cô gái tinh nghịch trêu
đùa cặp đôi đang yêu “ánh trăng òa đến/ Đầy căn phòng đôi ta”
Ánh trăng là người bạn đồng hành trong mọi buồn vui của tác giả. Ánh
“trăng thề” gợi nhớ đến người yêu nơi phương trời xa, nhìn các cháu nhỏ trong
lớp học múa, tác giả như nhìn thấy “Đàn Thiên Nga nhỏ/ Như ánh trăng rằm”,
ánh trăng mùa thu soi sáng con đường tuần tra biên giới “Trăng mùa Thu rất
xanh/ Sáng, soi từng góc rừng biên giới”.
Tác giả tìm đến trăng để soi rọi lòng mình. Trăng có khi là bạn đồng
hành, có khi là nhân chứng, nhưng cũng có khi là “tòng phạm” khi tác giả vượt
rào suy nghĩ trong tình yêu. Có thể nói, ánh trăng trong thơ Vân Trung mang
nhiều sắc thái, nhiều tính cách khác nhau cũng giống như con người vậy. Đây
là một nét riêng trong hình tượng không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung.
77
3.2.2.2. Không gian trong nhà - ra phố trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh
Trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh thời gian đêm tối luôn luôn hiện hữu
cùng với không gian trong căn nhà nhỏ luôn luôn được nhắc đến. Trong căn
nhà nhỏ ấy có những con người mà chị yêu thương, cần được chị che chở và
chình chị cũng cần được chở che bởi những con người ấy. Sau những bộn bề
của công việc, chị trở về ngôi nhà nhỏ của mình với tiếng cười của các con, với
tiếng ngủ mơ dễ thương của chúng:
Trong ngôi nhà nhỏ của tôi
Các con cuộn trong ủ nhau
Thiên Lương mải chơi suốt ngày chắc lại tè dầm
Ngọc nói mơ còn giục em đi học
Ôi, các con tôi
(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)
Và cũng trong ngôi nhà nhỏ ấy, nhà thơ đã cùng với chồng mình chiến
đấu qua cơn bạo bệnh trong suốt một thời gian dài
Trong ngôi nhà nhỏ của tôi
Anh thở đều
Đêm nay anh ngon giấc hơn
….
(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)
Không chỉ một lần chị viết về các con trong ngôi nhà nhỏ với giấc ngủ
thiên thần. Chính hình ảnh của các con vô tư, đáng yêu ấy đã làm cho chị quên
đi những cái xô bồ của cuộc đời, quên đi những ám ảnh về cái chết của những
đứa trẻ bị hiểm họa sóng thần, về cái chết của những người thọ mỏ đá, cái chết
của một em bé giữa thế kỉ XXI giàu có này lại bị chết đói …. Và cả quên đi
những hình ảnh bỗng vô tình bắt gặp đâu đó trên đường phố.
Căn nhà nhỏ đó là nơi lưu giữ những kỉ niệm ngọt ngào của chị với
những người thân yêu. Ở đó, chị là người vợ hiền, đảm đang và yêu thương
chồng con hết mực với những hành động hết sức giản dị:
78
Nếu biết hôm nay sẽ ra đi như họ
…
Thì vẫn cứ càu nhàu chuông báo thức
sao cứ vang lên đúng giờ
Xiết cái bụng bự của chồng thêm lần nữa, thật lâu
Hít thật sâu mùi mồ hôi quen thuộc
Lấy kem đánh răng vào bàn chải cho anh
như mỗi ngày anh vẫn lấy cho mình
Uống cốc nước mật ong anh pha mỗi sáng
Xem thời sự và tập dịch cân kinh
…..
(Ý nghĩ chợt đến)
Viết về ngôi nhà nhỏ của mình, Nguyễn Thúy Quỳnh luôn tự hào bởi vì
ở đó chị dạy cho các con biết sống yêu thương với mọi người. Giọng thơ hóm
hỉnh dường như muốn quên đi cái thực tại còn đang nhiều khó khăn “Nhà mình
chỗ nào cũng chật/ Mùa đông giá rét đỡ lo/ Nhà mình thứ gì cũng nhỏ/ Chỉ
những tiếng cười là to”. Nhà thơ tự động viên mình, động viên các con, dạy
bảo các con trở thành người tốt “Nhà mình tiền luôn rỗng túi/ Nợ vay đâu chỉ
áo cơm/ Lòng tốt bao người đem tặng/ Làm của để đời cho con”. (Thơ về nhà
mình) Trong căn nhà nhỏ ấy, thứ của cải quý giá nhất mà cha mẹ trao tặng cho
con đó chính là trao đi những yêu thương.
Trong ngôi nhà nhỏ ấy, đã bao lần chị đón anh về trong cơn say “Thỉnh
thoảng có ngày/ cơn say đưa anh về khi đêm đã khuya/ dáng mảnh liêu xiêu/
bước chân chao đảo/ và khi ấy nhà mình có bão” những lúc ấy chị dịu dàng
chăm sóc anh, những cũng không tránh khỏi nỗi buồn đọng sâu trong ánh mắt.
Cũng trong căn nhà nhỏ ấy chị mất đi người chồng vĩnh viễn. Chị đã
cùng anh chiến đấu không ngừng nghỉ như những chiến binh dũng cảm nhưng
duyên phận của anh chị chỉ có đến như vậy, để đêm đêm chị như thấy bóng
79
dáng anh về nơi ngọn khói hương bay lên. Những lúc này chị đề cho hồn mình
trôi về quá khứ, thấy mọi thứ dường như mới vừa đâu đây. Vẫn những ống
thuốc giảm đau, những chén sữa … và cả tiếng nấc cuối cùng của anh.
Không gian của chị nhỏ thôi để chị suy ngẫm những điều lớn lao của
cuộc đời. Trong căn phòng nhỏ, chị suy nghĩ về cái chết của bé Nhung ở một
nơi xa nào đó, chị thương cảm cho những em bé ở Ishinomaki, và chị còn đau
đáu những lo lắng, trăn trở với những hành cây bị chặt hạ, những con cá chết
trên sông Nhuệ và vấn đề bảo vệ môi trường.
Và trong ngôi nhà nhỏ của mình, chị cũng đã bao đêm khóc thầm bởi nỗi
cô đơn, sự tủi phận. Sự cô đơn đến ngay cả trong ngày sinh nhật của chị:
Mở mắt
Gặp cơn sốt theo sang tuổi bốn mươi
Sự im lặng ngự trị các căn phòng
Đến đồng hồ treo tường cũng không thèm tích tắc
(sinh nhật)
Còn nỗi cô đơn, buồn tủi nào hơn khi trong ngày sinh nhật của mình, chỉ
có một mình với cơ thể ốm yếu. Ngay cả chiếc đồng hồ cũng không thèm tích
tắc. Dường như cả thế giới đã rời bỏ chị, để chị ở lại gặm nhấm nỗi đau.
Không gian nhỏ hẹp trong căn phòng của chị nhưng lại giúp cho chị nhìn
ra được cả thế giới của con người, của vạn vật. Trong căn phòng nhỏ ấy chị đã
viết lên những dòng tâm sự của mình:
Mười mét vuông
hang ổ cuối cùng của tôi
một máy tính, một giá sách, một giường, một tủ, một ti vi
một tờ lịch
mỗi năm thay một lần
…………..
Nơi tôi cất nỗi xấu hổ của kẻ bất tài
80
Sau mỗi ngày khoác túi ra đi
Bánh xe tôi cán lên vết xe thồ của
những người bán hàng rong
Mà không làm được điều gì có ích như họ
Không làm nổi kẻ bán chữ rong
(Về căn phòng của tôi)
Không gian trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh còn là những lần ra phố, trên
đường đi làm, đi chơi, bất chợt chị nhìn thấy cảnh, thấy người cũng đã gợi cho
chị bao suy nghĩ. Nghe tiếng hát từ xe hàng rong, nhà thơ cảm thương cho kiếp
mưu sinh vất vả:
Những giai điệu ngân lên rung cả triệu tấm lòng
Trộn lẫn tiếng rao giữa ồn ào phố xá
Những lời ca đã qua thời giặc giã
Giờ chia cùng người nỗi mưu sinh gieo neo
(Nghe câu hát từ xe hàng rong)
Đọc thơ Thúy Quỳnh ta thấy đậm chất nữ tính. Chẳng thế mà trên đường
phố, bất chợt nhìn thấy xác con mèo bị xe cán, chị cũng có thể làm thơ. Và qua
cái chết của con mèo, chị cũng buồn cho kiếp phù sinh của con người. Sự đa
cảm của chị còn thể hiện ở những vần thơ viết về cái cây bị đốn ngã. Chị
mường tượng những cái cây như một sinh thể sống, như một người mẹ chở che
cho lũ chim sâu đang làm tổ trên thân cây. Vậy mà chỉ vì một chữ kí, một lệnh
được ban ra, những cái cây ấy bị đốn hạ không thương tiếc. Để đêm đêm những
hòn cây ấy hiện về với với triệu mắt là chan chứa lệ, thương những chú chim
nhỏ bơ vơ, thương những quả trứng chim còn chưa kịp nở.
Không gian của Thúy Quỳnh cũng là nơi quán nước, chị ngồi nghe khách
đến nói đủ thứ chuyện trên đời, từ những chuyện to tát như vũ trụ, chuyện
chính trị của các quốc gia đến những chuyện vặt vãnh đời thường, để từ đó chị
thấy được những giá trị nhân sinh ở đời. Cũng có lúc chị ngồi nghe nhạc Trịnh
81
trong quán cà phê để mà chìm đắm mình trong từng câu hát, để thấy nỗi cô
đơn càng nhân lên khi nghe “Dù sao sỏi đá cũng cần có nhau” trong lời bài
hát của Trịnh.
Như vậy, không gian của trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh thật nhỏ bé.
Nhưng trong cái không gian khiêm tốn ấy chị đã sống với đầy đủ những cung
bậc cảm xúc, với những yêu thương cuộc đời, yêu thương gia đình.
Một buổi sớm mai thức dậy, giao hòa với một ngày mới là những âm
thanh quen thuộc của phố phường, tiếng rao bán hàng, tiếng tivi, quảng cáo…
và để từ đó chị đưa ra những chiêm nghiệm của mình:
Chỉ lòng tốt không cần tiếp thị
Vẫn chảy rì rầm trong triệu trái tim
Và mùa xuân chẳng màng tiếp thị
Ríu rít hoa mai bung cánh, sáng cả thềm!
(Vừa đi vừa nghĩ)
Và chúng ta thấy, dù cho cuộc sống có tàn khốc đến đâu đi chăng nữa, dù
nỗi buồn có chất chứa đến bao nhiêu đi chăng nữa thì mỗi buổi mai thức dậy,
Thúy Quỳnh đã cố gắng tận hưởng những gì tốt đẹp mà cuộc sống đã ban tặng
cho mình, cũng giống như nghệ sĩ Ấn Độ Kahli Gibran viết, đã được nhà văn
Nguyễn Nhật Ánh dịch ra tiếng Việt:
Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
Ta có thêm ngày nữa để yêu thương.
3.2.2.3. Không gian tương phản giữa vẻ đẹp hài hòa với không gian buồn trong
thơ Lưu Thị Bạch Liễu
Cũng đồng hành với hình tượng thời gian là không gian mang vẻ đẹp hài
hòa tương phản với không gian mang nỗi buồn trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu.
Chúng ta thấy không gian hài hòa, rộng lớn trong những bài thơ ở tập “Sông
Cầu đang chảy đâu đây” hay những không gian của các vùng quê vùng miền
núi trong tập thơ “Theo dòng sông quan họ” hay không gian biển rộng cùng với
82
sóng vỗ, cảm giác tự hào, cảm phục với những chiến sĩ nơi đảo Trường Sa
trong tập thơ “Trường Sa! Ơi Trường Sa!”
Trường Sa nhưng không xa bởi vì luôn gần trong tim của mỗi người dân
Việt. Chị hồ hởi, tràn đầy niểm tin, niềm phấn khởi khi đến với đảo, đến với
những chàng trai mặc áo lính:
Chẳng có nhiều điều để kể về Trường Sa
Chỉ có cát, có mây trời có biển
Có san hô chẳng có người để tặng
Có bông hoa bàng cùng thức trong đêm
Biết kể gì về Trường Sa hỡi em
(Vụng về lính biển)
Và tất cả những gì thuộc về Trường Sa cũng làm chị thấy đáng yêu, thấy
sao mà lạ lẫm thế:
Hoa bàng vuông
Lung linh
Mở những lồng đèn nhỏ
Trắng sáng
Dịu thơm
Những con sóng thèm mùi hương
Xô về quanh đảo.
Lớp học trên đảo cũng thật khác với những lớp học trên đất liền. Cũng
alf màu trắng nhưng không phải là tường vôi trắng bảng xanh mà là bao quanh
bởi những con sóng trắng và biển xanh:
Lớp học như con tàu
Đâu cũng nhìn ra biển
Bốn bên là sóng trắng
Bốn bề là biển xanh
Lớp học trên đảo
83
Một tiếng chim hót cũng “dễ thương” vì gợi nhớ quê hương. Tiếng chim
hót nghe sao mà da diết thế. Trường Sa thấy thật gần bởi vì tiếng chim hót
tưởng như đang ở đất liền:
Chợt vang tiếng hót sơn ca
Hót say sưa hót thật là dễ thương
Ầm ào sóng gió đại dương
Nghe chim hót
Ngỡ quê hương thật gần
(Đảo Sơn Ca chợt nghe tiếng hót)
Tác giả cũng thấy sự quý giá, sự vất vả của những cây rau xanh được
trồng trên đảo, giọt nước ở đây cũng quý giá biết nhường nào. Hoa ở đảo cũng
kiên cường bất khuất như con người“ lửa cháy của nắng thiêu, sóng thét gào,
gió thổi… đến mây trời cũng mặn”. Hoa vượt qua phong ba bão táp, vượt
những nắng, giớ biển khơi để dâng cho đời những đóa hoa đẹp: “ Bất chấp bão
giông. Bất chấp nắng nung. Bất chấp gió thét biển gào bào mòn da thịt” (Hoa
cúc trên đảo Sơn Ca).
Không chỉ ở đảo chị mới có những cảm nhận về một không gia khoáng
đạt mà ngay cả khi trên đất liền thì thiên nhiên bao la cũng làm cho Lưu Thị
Bạch Liễu say đắm. Một dòng sông Cầu với biết bao cảm xúc vui buồn: “ngắm
cà phê/ Cùng nhấp dòng sông Cầu đang chảy” để cùng cảm nhận
Thái Nguyên trăng rơi
Đẫm từng câu hát
(Trôi cùng đêm)
Tác giả cùng phiêu du trên cánh đồng quê để cảm nhận được màu sắc,
mùi vị của quê hương
Vỡ tung
Tiếng ríu ran khắp cánh đồng
Lúa đang làm đòng
84
Ngái ngủ bên dòng sông
Rặng núi mệt lả
chỉ chực đổ nhào lên bóng
Bóng núi duỗi dài trên lúa xanh
Từ từ từ trời
Mưa buông tấm voan
(Chiều chim én)
Tác giả cũng vui hòa mình với đám trẻ quê
Mái cọ già ngủ dưới tán cọ già
Cầu thang cót két trở mình dưới chân bầy trẻ
Cầu thang chín bậc
[…]
Bầy cháu ngày ngày kiễng chân đo cột
Tập vỗ cánh bay
(Lam Vỹ)
Một không gian đối lập trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu đó là không gian nhốt
kín mình chất chứa đầy tâm sự. Khi trở về với bản thể, Lưu Thị Bạch Liễu tìm
mình trong “”Cõi tôi” đầy cô đơn. Một mình tren đường đông nhưng chị lại cô
đơn. Chị thích một mình lặng lẽ, độc hành: Một mình trên đường Đông […]/Một
mình trên đường Sương /bước từ mờ mịt/ vào mịt mờ /gió vội đi đường của gió/ tôi
trên đường của tôi (Cõi tôi).
Không gian trong ngày sinh nhật của chị lại càng nhỏ bé, vắng lặng đến
cùng cực: Không rượu /không nến/ không hoa/ chỉ một người nhớ/ đang
xa (Sinh nhật) và lúc nào chị cũng ở trong tình trạng “mình tôi lẻ bóng […]/
tôi một mình không bóng […]/ tôi đến nơi nào cũng thừa tôi cả (Tự khúc 1)”.
Chị tự nhốt mình trong căn phòng nhỏ để gặm nhấm nỗi buồn. Chính chị
cũng tự thấy được thế giới thật nhỏ bé để mà “tôi đang tự hủy diệt tôi” (Một
chiều nào tôi không trở dậy). Phải chăng chính vì luôn cô đơn nên tác giả
85
phải luôn tìm đến thiên nhiên để làm bầu bạn? Những giọt mưa, những đóa hoa
tàn, hoa khóc, những ngôi nhà bơ vơ, những nương chè…. đều là nơi để chị
náu mình, để gặm nhấm nỗi buồn cô đơn.
Có thể nói trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy sự đối lập giữa một
không gian rộng lớn khoáng đạt với một không gian khép kín, bó hẹp mang đầy
tâm trạng của tác giả. Đây chính là nét điển hình trong hình tượng không gian
thơ Lưu Thị Bạch Liễu.
86
KẾT LUẬN
Đến với những trang thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Thị Vân Trung,
Lưu Thị Bạch Liễu là người đọc đến với những cuộc sống, con người mảnh đất
Thái Nguyên. Mỗi một nhà thơ là một nét văn hóa của đất và người Thái
Nguyên. Thơ của các chị có những nét chung giống nhau những cũng có những
nét khác nhau. Điều này tạo nên ba phong cách thơ khác nhau, làm cho thơ ca
Thái Nguyên phong phú hơn, đa dạng hơn. Sự giống nhau đó là do cả ba chị
đều sống và gắn bó với mảnh đất Thái Nguyên, với đồng bào dân tộc miền núi
nên trong thơ các chị có một số nét đặc trưng giống nhau.
Trong các bài thơ của ba nhà thơ nữ Thái Nguyên Trần Thị Vân Trung,
Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy mỗi nhà thơ đều có dấu ấn
riêng của mình. Những dấu ấn riêng ấy đã thể hiện được cá tính sáng tạo và cái
tôi trữ tình riêng có trong thơ.
Với thơ của Trần Thị Vân Trung thể hiện một hình tượng người phụ nữ
dịu dàng, nhân hậu với trái tim yêu cháy bỏng và khát khao sự tuyệt đối sự thủy
chung trong tình yêu, một người mẹ tâm lí luôn trăn trở với tương lai và hạnh
phúc của con cháu. Đến với thơ Vân Trung, ta đến với một không gian thơ rộng
lớn của biển cả mênh mang, với những đêm trăng mà ở đó tác giả được trở về
với bản thể của mình. Những nỗi buồn đều nhờ ánh trăng soi hộ, nhờ sóng biển
cuốn trôi xa ngoài đại dương để ngày mai lại trả về một Vân Trung yêu đời,
yêu người và đằm thắm dịu dàng.
Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh luôn trăn trở về những lẽ phù sinh ở đời. Từ
những cái chết của những cây xanh, những con cá trên sông Nhuệ đến cái chết
của những con người xa lạ mà chị biết được trên bản tin. Chị trăn trở về những
sự đổi thay đang diễn ra trong cuộc sống, những thay đổi của các chuẩn mực
giá trị. Thơ chị luôn đau đáu nỗi lo lắng, tình yêu thương dành cho người chồng
của mình. Chị thao thức bao đêm và đau cùng với nỗi đau của chồng. Ta cũng
thấy được sự dịu dàng, đầy nữ tính trong thơ Thúy Quỳnh. Đồng hành cùng với
87
nhà thơ chính là đêm tối và căn phòng nhỏ. Trong bóng đêm, chị ẩn giấu mình
với nỗi đau mình, đau đời. Với chị, đời là kiếp phù sinh.
Lưu Thị Bạch Liễu đưa người đọc đến với sự cô đơn của kiếp người, chỉ
một mình “độc hành” trong cuộc sống. Trong thơ chị nỗi cô đơn thường trực.
Và chúng ta cùng sống với Bạch Liễu ở thời gian hiện tại. Thơ chị ít hoài niệm
quá khứ, ít dự cảm tương lai mà chị sống hết mình với thực tại. Ngoài cảm giác
cái tôi cá nhân cô đơn thì khi đến với thiên nhiên ta lại thấy một Lưu Thị Bạch
Liễu vui tươi, yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu từng địa danh của quê hương. Không
gian trong thơ Bạch Liễu mang màu sắc tươi sáng với những địa danh gần gũi
quen thuộc của quê hương Thái Nguyên.
Tuy nhiên, sự khác nhau đó là ba nhà thơ là ba thế hệ khác nhau, họ có
cách cảm, cách nghĩ khác nhau. Mỗi nhà thơ lại có một xuất phát điểm khác
nhau, họ có hoàn cảnh sống khác nhau, cách nhìn nhận cuộc sống và con người
cũng khác nhau, có những khả năng khác nhau nên đã tạo ra những nét riêng
của mỗi nhà thơ. Đồng thời qua đó tạo nên những màu sắc khác nhau, làm
phong phú hơn cho nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam
từ 1945 đến nay, Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn quốc gia, Viện văn học.
2. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Khoa học
xã hội.
3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia,
Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1998), Văn học và phê binh, Nhà xuất bản TP mới, Hội
Văn học.
5. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Nghiên
cứu Văn học.
7. Hoàng Điệp (2010), “Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh”, Tạp chí
Khoa học Xã hội Việt Nam .
8. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.
9. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ”, Tạp
chí Văn học
10. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
11. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thơ ca, Nxb Văn học.
12. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
13. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
14. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - vấn đề
và suy nghĩ, Nhà xuất bản Giáo dục.
89
17. Cao Thị Hồng (2010), “Nỗi đau trần thế”, Báo Văn nghệ, số 40.
18. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục Hà Nội.
19. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb ĐHQG, Hà Nội.
20. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam
hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.
21. Lưu Thị Bạch Liễu (2007), “Cõi tôi”, Nxb Hội Nhà văn
22. Lưu Thị Bạch Liễu (2009), “Sông Cầu đang chảy đâu đây”, Nxb Quân đội
Nhân dân
23. Lưu Thị Bạch Liễu (2013), “Nở muộn”, Nxb lao động.
24. Lưu Thị Bạch Liễu (2014), “Trường Sa! Ơi Trường Sa”, NXB Đại học
Thái Nguyên
25. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục
Hà Nội.
26. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục,
Hà Nội
27. Nguyễn Kiến Thọ (2017), Ba mươi năm thơ Thái Nguyên, Báo điện tử Văn
nghệ Thái Nguyên, http://vannghethainguyen.vn/2017/07/31/30-nam-tho-
thai-nguyen/ (31/7/2017).
28. Nguyễn Kiến Thọ (2014), Ẩn ức trong đêm thơ Nguyễn Thúy Quỳnh, Báo
điện tử Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, http://nhavantphcm.com.vn/chan-
dung-phong-van/an-uc-dem-trong-tho-nguyen-thuy-quynh.html (6/4/2014).
29. Nguyễn Thị Tuyến (2017), Thế giới nghệ thuật trong thơ trẻ Thái Nguyên,
Luận văn Thạc sỹ, Trung tâm học liệu – ĐH Thái Nguyên.
30. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.
31. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào vào thế giới nghệ thuật của
nhà văn, Nhà xuất bản Giáo dục.
90
32. Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc
trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học
Thái Nguyên.
33. Ma Trường Nguyên (2010), Hiện đại mà dân tộc, Tập tiểu luận, NXB Văn
hóa dân tộc.
34. Ma Trường Nguyên (2011), Trên cánh đồng chữ nghĩa, Tập tiểu luận,
NXB Đại học Thái Nguyên.
35. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.
36. Nhiều tác giả (1994), Bốn mươi truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội
37. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày Nùng, Nxb
Văn hóa dân tộc Hà Nội
38. Nhiều tác giả (2006), “Kỉ yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng”, Hội VHNT Thái
Nguyên - Khoa Ngữ văn ĐHSP Thái Nguyên.
39. Nhiều tác giả (2010), Văn mới 5 năm 2006 - 2010, Hồ Anh Thái tuyển,
Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.
40. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975- 1990, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia Hà Nội.
41. Hoàng Phê (2007), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
42. Nguyễn Thúy Quỳnh (2002), Giá mà em từ chối, Nxb Văn hóa dân tộc.
43. Nguyễn Thúy Quỳnh (2004), Mưa mùa đông, Nxb Hội nhà văn.
44. Nguyễn Thúy Quỳnh (2011), Những tích tắc quanh tôi, Nxb Hội nhà văn.
45. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu. Nhà xuất bản Tác phẩm mới,
Hội Văn học.
46. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, BGD-ĐT,
Vụ giáo viên, Hà Nội.
47. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản Giáo dục.
48. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nhà xuất bản Văn học,
Hà Nội.
91
49. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
50. Trần Đình Sử (2005), (Giáo trình) Dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản
Giáo dục.
51. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư Phạm,
Hà Nội.
52. Trần Thị Lan (2017), Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái, Luận văn
Thạc sỹ, Trung tâm học liệu Thái Nguyên.
53. Thanh Tâm (2011), Nguồn:http://www.moitruong.com.vn/ (12/6/2011)
54. Lưu Khánh Thơ (1999), Diện mạo thơ 1998, Tạp chí Văn học số 1.
55. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo, in trong
cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
56. Lý Hoài Thu (1997), Đồng cảm và sáng tạo. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
57. Lý Hoài Thu (2001), Thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh, Tạp chí Văn hoá -
Văn nghệ Công an số 2.
58. Lý Hoài Thu (2010), Thơ Hữu Thỉnh - một hướng tìm tòi từ sáng tạo dân
tộc đến hiện đại, Tạp chí Sông Hương, số 142.
59. Đỗ Lai Thuý (2012), Thơ như là mỹ học của cái Khác, Nxb Hội nhà văn,
Hà Nội.
60. Tạ Văn Sỹ (2014), Lưu Thị Bạch Liễu-Nữ sĩ thơ tình, Nguồn:
http://luutoc.vn/vi/?go=detail/19/9/2014/LBiHg/News/luu-thi-bach-lieu-_-
nu-si-tho-tinh.dhtml (19/9/2014)
61. Trần Thị Vân Trung (2011 ) Hoa bất tử, (Tập tiểu luận), NXB Đại học
Thái Nguyên.
62. Trần Thị Việt Trung - Nguyễn Thị Thu Hiền (2014), "Lời văn nghệ thuật -
một số phương diện đặc sắc trong tiểu thuyết của Vi Hồng", Tạp chí Văn
học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại, NXB Đại học
Thái Nguyên.
92
63. Trần Thị Việt Trung (2014), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - truyền
thống và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.
64. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2002), Tổng tập văn học
dân gian Việt (tập 15), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội.
65. Tuyển tập thơ văn Thái Nguyên (1990-2000)(2000), Hội VHNT Thái Nguyên.
66. Tuyển tập thơ Thái Nguyên (2001-2006) (2007), Hội VHNT Thái Nguyên.
93