ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH VĂN QUỲNH

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ NỮ THÁI NGUYÊN

(Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Lưu Thị Bạch Liễu)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

THÁI NGUYÊN - 2019

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRỊNH VĂN QUỲNH

HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ NỮ THÁI NGUYÊN

(Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Lưu Thị Bạch Liễu)

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 8 22 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ,

VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ĐIỆP

THÁI NGUYÊN - 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Hình tượng nghệ thuật trong thơ nữ Thái

Nguyên” (Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn

Thúy Quỳnh) là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, hoàn toàn không sao chép

của bất cứ ai. Các kết quả của đề tài là trung thực và chưa được công bố ở các

công trình khác.

Nội dung của luận văn có sử dụng tài liệu, thông tin được đăng tải trên

các tác phẩm, tạp chí, các trang website theo danh mục tài liệu tham khảo của

luận văn.

Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019

Tác giả luận văn

Trịnh Văn Quỳnh

i

LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc cùng những tình cảm chân thành tới

TS.Hoàng Điệp - Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên về sự hướng

dẫn tận tình, đầy đủ, chu đáo và đầy tinh thần trách nhiệm của cô trong toàn bộ

quá trình em hoàn thành luận văn.

Em xin trân trọng cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Ban chủ nhiệm

Khoa Ngữ Văn và các thầy cô giáo Phòng đào tạo Trường Đại học Sư phạm -

Đại học Thái Nguyên đã giúp đỡ em thực hiện đề tài luận văn này.

Em cũng xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động

viên và nhiệt tình giúp đỡ em trong thời gian hoàn thành luận văn.

Thái Nguyên, tháng 4 năm 2019

Tác giả luận văn

Trịnh Văn Quỳnh

ii

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................ i

Lời cảm ơn ........................................................................................................... ii

Mục lục ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................. 1

2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................. 2

3. Mục đích nghiên cứu ....................................................................................... 6

4. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................... 6

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 6

6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 7

7. Đóng góp của luận văn .................................................................................... 7

8. Cấu trúc luận văn ............................................................................................. 7

NỘI DUNG ......................................................................................................... 8

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ

THUẬT VÀ THƠ NỮ THÁI NGUYÊN.......................................................... 8

1.1. Những vấn đề lí luận về hình tượng nghệ thuật và hình tượng nghệ

thuật trong thơ trữ tình ......................................................................................... 8

1.1.1. Khái niệm hình tượng, hình tượng nghệ thuật .......................................... 8

1.1.2. Hình tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình ................................................ 10

1.2. Thơ nữ Thái Nguyên trong dòng chảy thơ ca quê hương .......................... 11

1.2.1. Giới thiệu về thơ Thái Nguyên đương đại và các nhà thơ nữ Thái Nguyên .. 11

1.2.2. Giới thiệu về ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Lưu Thị Bạch Liễu ............................................................................................. 12

Tiểu kết chương 1 .............................................................................................. 16

iii

Chương 2: HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NỮ

THÁI NGUYÊN (QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG, NGUYỄN

THÚY QUỲNH, LƯU THỊ BẠCH LIỄU) .................................................... 17

2.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Trần Thị Vân Trung ......................... 17

2.1.1. Người tình đắm say, người vợ thủy chung .............................................. 17

2.1.2. Người mẹ minh triết và vẻ đẹp mẫu tính ................................................. 20

2.2. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh ....................... 22

2.2.1. Người phụ nữ với những nỗi niềm thân phận ......................................... 22

2.2.2. Người phụ nữ với trái tim yêu bình dị mà sâu sắc .................................. 28

2.3. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu .......................... 35

2.3.1. Cái tôi cô đơn của người phụ nữ ............................................................. 35

2.3.2. Cái tôi bất an, không yên ổn .................................................................... 40

2.3.3. Tình yêu trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu ................................................... 43

Chương 3: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG

THƠ NỮ THÁI NGUYÊN (QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG,

NGUYỄN THÚY QUỲNH, LƯU THỊ BẠCH LIỄU) ................................. 55

3.1. Hình tượng thời gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy

Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu ................................................................................ 55

3.1.1. Thời gian hoài niệm trong thơ Trần Thị Vân Trung ............................... 55

3.1.2. Thời gian hiện tại với cảm nhận cá nhân trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu ....... 60

3.1.3. Thời gian đêm tối trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh. ................................. 64

3.2. Hình tượng không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy

Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu ................................................................................ 69

3.2.1. Hình tượng không gian quê hương gần gũi, thân thiết trong các sáng

tác của ba nhà thơ .............................................................................................. 69

3.2.2. Những không gian riêng .......................................................................... 74

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 87

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 89

iv

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thái Nguyên là một tỉnh nằm ở khu vực Trung du miền núi phía Bắc với

nhiều phong cảnh đẹp, nhiều di tích lịch sử, là vùng đất cách mạng và là một

trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị lớn nhất cả

nước. Thêm vào đó, Thái Nguyên còn là một trong ba tỉnh có số lượng các

trường Đại học, Cao đẳng và trung học chuyên nghiệp lớn nhất cả nước. Chính

những điều này đã là nguồn cảm hứng cũng như nguồn đề tài phong phú để cho

các nhà văn, nhà thơ Thái Nguyên sáng tác.

Cũng hòa cùng với sự phát triển của thơ ca Việt Nam đương đại, các tác

phẩm thơ của các nhà thơ Thái Nguyên vừa mang nét chung của các nhà thơ

cùng thời vừa mang những đặc điểm riêng của thơ Thái Nguyên. Góp phần tạo

nên sự lớn mạnh của thơ Thái Nguyên không thể không kể đến sự đóng góp

của các nhà thơ nữ. Nếu như các nhà thơ nam mang đến cho thơ sự mạnh mẽ,

phóng khoáng thì thơ của các nhà thơ nữ chúng ta bắt gặp sự nhẹ nhàng, sâu

lắng nhưng cũng chứa đầy những tình cảm đằm thắm, mãnh liệt. Trong những

nhà thơ nữ Thái Nguyên, chúng ta thấy nổi bật lên ba gương mặt tiêu biểu, đó

là nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu.

Ba nhà thơ với ba thế hệ khác nhau ngoài những nét giống nhau thì

chúng ta thấy họ còn để lại dấu ấn trong lòng độc giả bởi những nét riêng có

của mình. Việc lựa chọn ba nhà thơ ở ba thế hệ để nghiên cứu là một sự nỗ lực

nhằm kiến giải sự khác biệt được biểu hiện trong thơ Thái Nguyên nói chung

và ba nhà thơ nói trên. Đó sẽ là nguồn tư liệu tài liệu tham khảo cho rất nhiều

người nghiên cứu, giảng dạy, học tập về văn học Thái Nguyên.

Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện nay, các bài viết, các công trình

nghiên cứ về những đặc điểm nội dung, phong cách nghệ thuật của các nhà thơ

Thái Nguyên nói chung, của ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy

Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu nói riêng vẫn còn hạn chế. Chúng tôi muốn dành

1

công trình nghiên cứu đầu tiên của mình để nghiên cứu về ba nhà thơ nữ Thái

Nguyên mà bản thân đã từng gặp gỡ và quen biết, kính trọng và cũng là tư liệu

cho các bạn giáo viên dạy văn trong tỉnh Thái Nguyên có thêm hướng tiếp cận

với văn học địa phương. Vì những lí do nói trên, chúng tôi chọn đề tài: “Hình

tượng nghệ thuật trong thơ nữ Thái Nguyên”(Qua thơ Trần Thị Vân

Trung, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh) làm vấn đề nghiên cứu cho

luận văn của mình.

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu về thơ Thái Nguyên

Thái Nguyên là mảnh đất có truyền thống văn hóa, văn học, có những

điều kiện thuận lợi để nuôi dưỡng và phát triển truyền thống văn học nói chung

và thơ ca nói riêng. Thơ Thái Nguyên đã có một chặng đường lịch sử lâu dài

với những tên tuổi như Ma Trường Nguyên, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Trần Thị Việt Trung, Hồ Thủy Giang, Nguyễn Đức Hạnh… Với những nhà thơ

thuộc thế hệ những nhà thơ trước, với những sáng tác được khẳng định, những

nghiên cứu về thơ của các tác giả này cũng được quan tâm trong nhiều bài báo

khoa học, là đối tượng nghiên cứu của nhiều chuyên luận, luận văn, luận án, đề

tài nghiên cứu khoa học của sinh viên sư phạm… Trong các công trình nghiên

cứu ấy có thể kể đến các bài viết của Nguyễn Kiến Thọ. Trong các bài nghiên

cứu của mình anh đã khẳng định vai trò, đóng góp của các nhà thơ Thái

Nguyên với chặng đường hơn 30 năm phát triển. Anh viết về các nhà thơ trẻ

trong bài “30 năm thơ Thái Nguyên” trên báo điện tử Văn nghệ Thái Nguyên:

“Những đóng góp của thơ Thái Nguyên thời kì đầu còn phải kể đến những nhà

thơ trẻ. Họ cũng là thế hệ đầu tiên cùng với các bậc tiền bối góp phần tạo dựng

nền móng cho thơ Thái Nguyên. Đó là Trần Thị Vân Trung, một giảng viên đại

học, một chuyên gia giáo dục tại nước bạn Campuchia, thơ của chị duyên dáng

một cách hồn hậu thể hiện một tâm hồn nữ sĩ khao khát mà kín đáo, mãnh liệt

mà dịu dàng, khổ đau mà lạc quan…” [27].

2

Có thể nói, với những nghiên cứu đó, sáng tác của các nhà thơ Thái

Nguyên tiêu biểu đã được tìm hiểu trên nhiều phương diện, từ nội dung đến

hình thức nghệ thuật, từ ngôn ngữ, hình ảnh đến cấu trúc, nhịp điệu hay những

sáng tạo mới mẻ và những nỗ lực cách tân nghệ thuật trong thơ. Nói đến thơ nữ

Thái Nguyên, Nguyễn Kiến Thọ cũng dành những lời ngợi ca cho những đóng

góp của các nhà thơ nữ trong sự phát triển của thơ ca đương đại Việt Nam nói

chung và thơ Thái Nguyên nói riêng: “Thơ nữ Thái Nguyên trong thời điểm

hiện tại, ít nhiều đã có được vị thế nhất định trong thơ nữ Việt Nam đương đại.

Những tác giả nữ Thái Nguyên là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam như Trần Thị

Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Cao Hồng, và bên cạnh đó là Minh Thắng,

Lưu Thị Bạch Liễu… là những đại diện xứng đáng của thơ nữ Thái Nguyên,

cũng là những gương mặt khá quen thuộc của thơ nữ Việt Nam hiện đại. Tác

phẩm của họ đã là đối tượng nghiên cứu của các luận văn, luận án, những

công trình nghiên cứu về thơ Thái Nguyên cũng như thơ các dân tộc thiểu số

Việt Nam thời kì hiện đại.”[27] (Ba mươi năm thơ Thái Nguyên). Hay trong

một số luận văn tốt nghiệp Đại học, Luận văn ThS cũng đã đền cập đến những

đóng góp của các nhà Thái Nguyên đối với sự phát triển thơ ca cũng như văn

học nghệ thuật của tỉnh nhà. Có thể kể đến luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Thị

Tuyến với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong thơ trẻ Thái Nguyên” [29] , Luận

văn ThS của Trần Thị Lan “Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái” [52]

hay dưới dạng những bài viết, những dòng cảm nhận trên các trang báo mạng.

Hành trình nghiên cứu về thơ Thái Nguyên đã và đang diễn ra không

ngừng, đó vẫn là mảnh đất màu mỡ cho những ai quan tâm và yêu mến thơ của

các nhà thơ Thái Nguyên có thể tìm hiểu, khai thác để tìm ra những cái hay, cái

mới, cái thú vị trong những sáng tác đầy tâm huyết của các nhà thơ trên mảnh

đất này.

3

2.2. Lịch sử nghiên cứu về thơ của ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn

Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu

Trong những năm gần đây, dưới sự hướng dẫn của các giảng viên thuộc

Đại học Thái Nguyên, đã có những luận văn đi sâu vào nghiên cứu, tìm hiểu về

thơ của các nhà thơ Thái Nguyên nói chung cũng như thơ của ba nhà thơ Trần

Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu nói riêng, tuy

nhiên những nghiên cứu này còn rất khiêm tốn.

Việc nghiên cứu thơ nữ Thái Nguyên hiện đại được nhiều người quan

tâm. Ngày 20/10/2009, tại Thái Nguyên đã tổ chức Hội thảo thơ nữ Thái

Nguyên đương đại. Tham gia hội thảo có nhiều nhà phê bình, nhiều nhà thơ

như: Vũ Đình Toàn, Nguyễn Kiến Thọ, Phạm Văn Vũ, Ma Trường Nguyên…,

tại Hội thảo đã giới thiệu một số tập thơ, bài thơ đánh giá trên phương diện nội

dung tư tưởng. Tại Hội thảo, chúng ta thấy những nhận xét, đánh giá hữu ích

như thơ của các chị làm cho người đọc thấy yêu đời hơn, bởi họ quá đẹp, đepj

trong tình yêu, hạnh phúc và trong cả nỗi đau. Qua thơ của các nhà thơ nữ,

người đọc thấy mình muốn sống tốt đẹp hơn.

Đánh giá về nhà thơ Lưu Thị Bạch Liễu, Tạ Văn Sỹ viết trên trang

wedsite Lưu tộc Việt Nam (ngày 19/9/2014): “Thơ Lưu Thị Bạch Liễu giàu nữ

tính mà cũng đầy cá tính, nhạy cảm và tinh tế trong quan sát và trong liên

tưởng và cách biểu đạt hàm xúc, sắc nét. Đây là thơ của một cây bút chắc tay

và có ý thức sáng tạo. Người đọc tin rằng nhà thơ nữ trẻ này còn tiếp tục

những bước thong dong rộng dài và ngày càng đằm thắm”[60].

Khi nói về nữ sĩ Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Kiến Thọ viết “Ẩn ức

trong đêm thơ Nguyễn Thúy Quỳnh” trên trang mạng Văn học Việt: “Không

gian tinh thần trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh như bị nêm cứng bởi những lịch

lí, không dễ gì tháo gỡ hay vứt bỏ. Cảm giác tù túng châm ngòi cho sự sụp đổ.

Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh là những mảnh vỡ của trạng thái tinh thần ấy” [28].

4

Hay nhận xét thơ Vân Trung, tác giả Nguyễn Kiến Thọ trong bài viết 30

năm thơ Thái Nguyên nhân dịp Kỷ niệm 30 năm thành lập Hội Văn học nghệ

thuật tỉnh Thái Nguyên (1987 - 2017): “Đó là Trần Thị Vân Trung....thơ của

chị duyên dáng một cách hồn hậu thể hiện một tâm hồn nữ sĩ khao khát mà kín

đáo, mãnh liệt mà dịu dàng, khổ đau mà lạc quan”[27].

Đặc điểm thơ nữ Thái Nguyên cũng không ngoài đặc điểm chung của thơ

nữ nói chung đó là rất giàu nữ tính: dịu dàng, đằm thắm mà mãnh liệt, ý thức

sâu sắc về giá trị nhân phẩm và nỗi bất hạnh của cá nhân nhưng vẫn giàu nghị

lực, khát vọng và tình yêu. Các nhà thơ nữ Thái Nguyên không chỉ tạo nên vẻ

đẹp riêng của mình mà còn thể hiện tầm nhìn và bóng dáng rất rõ của họ qua

thế giới nghệ thuật trong thơ. Tuy nhiên, việc nghiên cứu về thơ của họ chưa

thành hệ thống và chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về các đặc điểm thế

giới nghệ thuật trong thơ của họ. Thực hiện đề tài “Hình tượng nghệ thuật

trong thơ nữ Thái Nguyên qua thơ: Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Lưu Thị Bạch Liễu”, chúng tôi hi vọng sẽ có những đóng góp mới, bù đắp vào

khoảng trống đó. Trong khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi sẽ cố gắng tìm

hiểu và trình bày để làm rõ được nét riêng về thế giới nghệ thuật qua thơ của

các tác giả nữ Thái Nguyên và bản sắc văn hóa thể hiện trong thơ của họ

Tuy nhiên, để đi sâu vào hiểu hết thơ của họ, con người họ qua thơ thì

vẫn còn nhiều đất trống. Chúng tôi hiểu rằng, điều đó vừa là thuận lợi nhưng

đồng thời cũng là thách thức không nhỏ trong quá trình thực hiện luận văn. Với

tinh thần làm việc nghiêm túc và sự cố gắng trong quá trình nghiên cứu, chúng

tôi hi vọng luận văn sẽ góp thêm cái nhìn đầy đủ, toàn diện hơn trong công tác

nghiên cứu, đánh giá và phê bình các nhà thơ nữ trên. Đồng thời chúng tôi cũng

mong muốn, khi hoàn thành luận văn sẽ là một trong những công trình tham

khảo trong quá trình giảng dạy tại trường chuyên nghiệp cũng như trong

chương trình văn học địa phương ở các nhà trường phổ thông.

5

3. Mục đích nghiên cứu

Chúng tôi nghiên cứu đề tài này với mục đích :

Nhằm lí giải, cắt nghĩa những nét đặc trưng mang tính bản sắc riêng của

ba nhà thơ thuộc ba thế hệ khác nhau.

Đề tài chỉ đi sâu tập trung nghiên cứu vào các tập thơ tiêu biểu của ba

nhà thơ từ góc nhìn nội dung biểu hiện cái tôi cá nhân và thế giới nghệ thuật

không gian và thời gian mang tính đặc trưng của vùng miền.

Đánh giá những thành công và đóng góp của ba nhà thơ trong nền văn

học thơ Thái Nguyên.

Đề tài cũng giúp người viết hiểu thêm về con người và phong cách sáng

tác của các nhà thơ.

4. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu như đã nêu ở trên,chúng tôi thực hiện

các nhiệm vụ sau:

Vận dụng lí thuyết về lí luận văn học để đi sâu tìm hiểu.

Tìm hiểu khái quát về ba nhà thơ và đi sâu vào các tập thơ có giá trị của

các nhà thơ .

Tìm hiểu về cuộc đời và những yếu tố đã tạo nên những nét đặc sắc cho

ba nhà thơ.

Tìm hiểu đặc điểm thơ của ba nhà thơ trên một số phương diện nội dung

và nghệ thuật thơ.

Xác định những đóng góp của ba nhà thơ cho thơ Thái Nguyên.

5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng: những đặc sắc trong hình tượng nghệ thuật thơ nữ Thái

Nguyên: Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu

Phạm vi nghiên cứu : Đi sâu vào nghiên cứu các tập thơ của các nhà thơ

và chỉ ra được sự khác biệt của ba thế hệ nhà thơ.

6

Nguyễn Thúy Quỳnh thể hiện qua ba tập thơ: “Giá mà em từ chối ”,

“Mưa mùa đông”, “Những tích tắc quanh tôi”.

Lưu Thị Bạch Liễu với các tập thơ: “Sông Cầu đang chảy đâu đây”,

“Cõi tôi”, “Trường Sa ơi Trường Sa”

Trần Thị Vân Trung với các tập thơ: “Hoa bất tử”, “Xin đừng té nước

vào em” 6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp phân tích tổng hợp: Làm rõ những đặc điểm chính về nội dung và hình thức của các tập thơ tiêu biểu của ba nhà thơ làm cơ sở để đưa ra các nhận định, kết luận thuyết phục và có ý nghĩa khoa học.

Phương pháp đối chiếu so sánh: So sánh, đối chiếu giữa các sáng tác của từng nhà thơ; giữa các tác giả, tác phẩm khác nhau, giữa các giai đoạn văn học khác nhau... để có những kết luận cần thiết.

Phương pháp hệ thống: hệ thống hóa các nét riêng, những điểm chung

trong thế giới nghệ thuật trong thơ của ba nhà thơ.

Phương pháp nghiên cứu lí thuyết: sử dụng những kiến thức lý luận văn

học chung để làm nền tảng cho những kết luận khoa học. 7. Đóng góp của luận văn

Khẳng định được những thành tựu và đóng góp của Trần Thị Vân Trung,

Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu trong thơ Thái Nguyên.

Luận văn thể hiện rõ sự khác biệt trong phong cách sáng tác của ba thế

hệ khác nhau khi viết về thơ Thái Nguyên.

Đồng thời ở mức độ nào đó, luận văn cũng đóng góp làm tài liệu tham

khảo cho công tác học tập, nghiên cứu và giảng dạy về văn học Thái Nguyên. 8. Cấu trúc luận văn Mở đầu Nội dung: Chương 1: Giới thuyết chung. Chương 2: Hình tượng cái tôi trư tình trong thơ nữ Thái Nguyên (Qua

thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu)

Chương 3: Hình tượng không gian, thời gian nghệ thuật trong thơ nữ Thái Nguyên (Qua thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu)

Kết luận. Tài liệu tham khảo.

7

NỘI DUNG

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HÌNH TƯỢNG NGHỆ THUẬT

VÀ THƠ NỮ THÁI NGUYÊN

1.1. Những vấn đề lí luận về hình tượng nghệ thuật và hình tượng nghệ

thuật trong thơ trữ tình

1.1.1. Khái niệm hình tượng, hình tượng nghệ thuật

Hình tượng là sự phản ánh hiện thực một cách khái quát bằng nghệ thuật

dưới hình thức những hiện tượng cụ thể, sinh động, điển hình, nhận thức trực

tiếp bằng cảm tính.

Khái niệm hình tượng nghệ thuật: Mỗi một loại hình nghệ thuật sử dụng

chất liệu riêng biệt để xây dựng hình tượng. Chất liệu của hội họa là đường nét,

màu sắc, của kiến trúc là mảng khối, của âm nhạc là giai điệu, âm thanh. Ngôn

từ là chất liệu của văn học cho nên hình tượng nghệ thuật là hình tượng của

ngôn từ.

Theo nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi trong

cuốn Từ điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục Việt Nam năm 2010 thì

Hình tượng nghệ thuật là “Sản phẩm của phương thức chiếm lĩnh và tái tạo

hiện thực theo quy luật của tưởng tượng, của hư cấu nghệ thuật, người nghệ sĩ

sáng tạo ra tác phẩm là để nhận thức và cắt nghĩa đời sống, thể hiện tư tưởng

và tình cảm của mình, giúp con người thể hiện ý vị của cuộc đời và lĩnh hội mọi

quan hệ có ý nghĩa muôn màu, muôn vẻ của bản thân và thế giới xung quanh.

Nhưng khác với những nhà khoa học, nghệ sĩ không diễn đạt trực tiếp ý nghĩa

và tình cảm bằng khái niệm trừu tượng, bằng định lý, công thức mà bằng hình

tượng, nghĩa là bằng cách làm sống lại một cách cụ thể và gợi cảm những sự

việc, những hiện tượng đáng làm ta suy nghĩ về tính cách và số phận, về tình

đời, tình người qua một chất liệu cụ thể” [15, tr. 147].

8

Như vậy, hình tượng nghệ thuật chính là khách thể đời sống được nghệ sĩ

tái hiện bằng tưởng tượng sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Khi nói

đến hình tượng nghệ thuật, người ta thường nghĩ tới hình tượng con người như:

hình tượng tập thể như hình tượng nhân dân, hình tượng Tổ quốc, hình tượng

cá nhân nhân vật như hình tượng chị Dậu, hình tượng Chí Phèo… với những

chi tiết biểu hiện cảm tính phong phú.

Nhưng cũng cần lưu ý rằng: hình tượng nghệ thuật tái hiện đời sống

nhưng tái hiện một cách có chọn lọc thông qua trí tưởng tượng và tài năng của

tác giả (chứ không sao chép y nguyên những hiện tượng có thật). Qua đó, các

hình tượng tạo ra được những ấn tượng sâu sắc, những day dứt, trăn trở không

nguôi đối với bạn đọc. Mặt khác, hình tượng nghệ thuật vừa có giá trị thể hiện

những nét cụ thể, cá biệt không lặp lại, vừa có khả năng khái quát, bộc lộ được

bản chất của con người hoặc sự vật theo quan niệm của tác giả.

Tóm lại, theo Từ điển thuật ngữ văn học, qua hình tượng nghệ thuật,

“Người đọc không chỉ thưởng thức “bức tranh” hiện thực, mà còn thưởng thức cả

nét vẽ, màu sắc, nụ cười, sự suy tư ẩn trong bức tranh ấy. Hình tượng nghệ thuật

thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mĩ của nghệ thuật” [15, tr. 148].

Một trong những nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là nghiên cứu hình

tượng nghệ thuật trong thơ của ba nhà thơ Nữ Thái Nguyên: tác giả Trần Thị

Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu - nên người viết muốn

làm rõ hơn khái niệm lý thuyết lý luận có liên quan nữa đó là khái niệm về hình

tượng tác giả trong sáng tác nghệ thuật.

* Hình tượng tác giả:

Trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi (2010) thì Hình tượng tác giả là “Phạm trù thể hiện cách tự ý

thức của tác giả về vai trò xã hội và vai trò văn học của mình trong tác phẩm,

một vai trò được người đọc chờ đợi … hình tượng tác giả trong tác phẩm văn

học gắn với ý thức của tác giả về vai trò xã hội, tư thế văn học rất đa dạng của

9

mình”[15, tr. 149]. Theo đó, cơ sở tâm lý hình tượng tác giả là hình tượng “cái

tôi” trong nhân cách mỗi người thể hiện trong giao tiếp, mang đậm cá tính sáng

tạo của tác giả. Cũng theo quan niệm của các tác giả cuốn Từ điển thuật ngữ văn

học, thì “ phạm trù hình tượng tác giả chẳng những cho phép nhận ra phong cách

cá nhân, mà còn giúp tìm hiểu hệ thống của văn bản tác phẩm, mối quan hệ của

nó với ý thức về vai trò xã hội và văn học của bản thân văn học” [15,tr. 150].

1.1.2. Hình tượng nghệ thuật và hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ

Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi,

(2010) Thơ trữ tình là một “thuật ngữ chỉ chung các thể thơ thuộc loại trữ tình,

trong đó những cảm xúc, những suy tư của nhà thơ hoặc của nhân vật trữ tình

trước các hiện tượng đời sống được thực hiện một cách trực tiếp. Tính chất cá

thể hóa của cảm nghĩ và tính chất chủ quan hóa của sự thể hiện là những dấu

hiệu tiêu biểu của thơ trữ tình. Là tiếng hát của tâm hồn, thơ trữ tình có khả

năng thể hiện những biểu hiện phức tạp của thế giới nội tâm, từ các cung bậc

của tình cảm cho tới những chính kiến, những tư tưởng triết học” [15,tr. 317].

Hình tượng nghệ thuật trong thơ trữ tình thường được biểu hiện qua cái

“ tôi” trữ tình. Tuy nhiên, hình tượng nghệ thuật là sáng tạo của người nghệ sĩ.

Hình tượng nghệ thuật là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái tạo bằng

tưởng tượng. Bởi vậy mà thế giới nghệ thuật thường sẽ vô cùng phong phú.

Cái tôi trữ tình là một sản phẩm độc đáo trong thế giới hình tượng do

người nghệ sĩ sáng tạo nên. Trong quá trình sáng tác, cái tôi nghệ sĩ bước vào

thế giới nghệ thuật và trở thành một hình tượng trọn vẹn.

Cái “tôi” trữ tình là một trong những yếu tố quan trọng bộc lộ tư tưởng

và phong cách của mỗi nhà thơ. Đó chính là tâm trạng, là cảm xúc, là thế giới

nội tâm của nhà thơ trước hiện thực khách quan. Do vậy, tìm hiểu hình tượng

nghệ thuật trong thơ trữ tình không thể không tìm hiểu về cái “tôi” trữ tình

trong thơ, nhờ đó người đọc có được cái nhìn thấu đáo và toàn diện về thế giới

cảm xúc và tư duy nghệ thuật của nhà thơ.

10

1.2. Thơ nữ Thái Nguyên trong dòng chảy thơ ca quê hương

1.2.1. Giới thiệu về thơ Thái Nguyên đương đại và các nhà thơ nữ Thái Nguyên

Thái Nguyên có đầy đủ các điều kiện thuận lợi về truyền thống văn hóa,

thắng cảnh cũng như nhân lực để có một nền văn học phát triển mạnh. Cũng

như tiến trình phát triển của văn học cả nước, văn học nói chung và thơ ca Thái

Nguyên nói riêng cũng được phát triển bắt đầu từ văn học dân gian, thơ ca dân

gian. Ngoài số lượng người Kinh chiếm đa số thì Thái Nguyên còn là nơi tập

trung của các dân tộc anh em như Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chay, Dao,

H'Mông và người Hoa cho nên có một nền văn hóa rất phong phú, đa dạng.

Văn học Thái Nguyên chính là tổng hòa của tất cả những giá trị văn học dân

gian và đương đại của các dân tộc anh em đang sinh sống trên địa bàn Thái

Nguyên. Nó vừa chứa đựng những nguồn sống trong mạch chảy chung của văn

hóa cộng đồng người Việt Nam nói chung vừa tích tụ những nét bản sắc mang

tính đặc trưng riêng của cộng động dân cư Thái Nguyên.

Bước sang thế kỉ XXI, cùng với sự chuyển mình về mọi mặt kinh tế, văn

hóa, xã hội, Thái Nguyên đang từng ngày thay da đổi thịt. Theo đó nền văn học

Thái Nguyên trong đó có thơ ca có bước tiến mới, đạt được nhiều thành tựu

mới cả về số lượng, giá trị tác phẩm cũng như đội ngũ sáng tác. Thơ ca Thái

Nguyên đã kịp thời phản ánh sự lớn mạnh của quê hương cũng như phản ánh

những tâm tư của con người trước những đổi thay của cuộc sống. Hòa vào dòng

chảy văn chương của thời đại, sự xuất hiện của hàng loạt các nhà thơ mới bên

cạnh những nhà thơ cũ với nhiều lứa tuổi, nhiều thể loại, nhiều bút pháp khác

nhau đã làm cho kho tàng thơ ca nói riêng, văn chương Thái Nguyên nói chung

ngày càng thêm phong phú, tiêu biểu là: Trần Thị Vân Trung, Võ Sa Hà, Ma

Trường Nguyên, Minh Thắng, Lưu Thị Bạch Liễu, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Hoàng Tố Nga, Cao Hồng... Trong thơ của mình, các nhà thơ đều ít nhiều tự

tạo cho mình một hướng đi riêng, không hòa lẫn với nhau: có nhà thơ thì nhẹ

nhàng, có nhà thơ lại mạnh mẽ, thách thức hoặc khiêm nhường, gai góc hoặc

11

dịu êm... Tuy có những nét rất riêng như vậy nhưng giữa các nhà thơ vẫn có sự

gặp ngỡ nhau trong nỗi buồn, sự cô đơn và đều có sự bứt phá về thi pháp thơ.

Đóng góp không nhỏ cho sự lớn mạnh của thơ ca Thái Nguyên đó là các

cây bút nữ. Trong số các cây bút này có những người không chỉ đóng góp vai

trò của mình trong dòng thơ ca Thái Nguyên mà còn có những đóng góp cho

thơ nữ Việt Nam đương đại như Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Cao Hồng, Lưu Thị Bạch Liễu … Các nhà thơ nữ Thái Nguyên mỗi người một

vẻ đã điểm tô những nét duyên dáng, mềm mại bên cạnh những góc cạnh, mạnh

mẽ của các cây bút nam. Chính các chị đã góp phần làm cho thơ ca Thái

Nguyên thêm nhiều màu sắc và có sự hấp dẫn riêng.

1.2.2. Giới thiệu về ba nhà thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh,

Lưu Thị Bạch Liễu

1.2.2.1. Nhà thơ Trần Thị Vân Trung

* Tiểu sử

Trần Thị Vân Trung tên thật là Trần Thị Việt Trung, sinh năm 1956 tại

Thái Nguyên. Chị là ham học, say mê nghiên cứu khoa học và là một trong

những nhà thơ nữ có đóng góp không nhỏ cho thơ Thái Nguyên.

Sinh ra và lớn lên khi đất nước còn khó khăn, gia đình túng thiếu nhưng

với một ý chí nỗ lực và phấn đấu mạnh mẽ, chị đã đạt được rất nhiều thành tựu

trong lĩnh vực khoa học, giáo dục và thơ văn.

Ngay từ năm thứ 2 Đại học Vân Trung đã được Khoa Ngữ văn - ĐH Sư

phạm Việt Bắc cử đi tham dự Hội thảo Khoa học Toàn quốc. Tốt nghiệp ĐH

khi còn rất trẻ (21 tuổi), chị đã được Trường ĐH Sư phạm giữ lại giảng dạy.

Năm 1977, chị được cử đi học Cao học. Từ đây chị được tiếp sức trên con

đường làm nghiên cứu khoa học, tích lũy kiến thức để giúp chị tiếp tục giảng

dạy và nghiên cứu của mình.

Tháng 12/1979, Vân Trung là một trong 10 người đầu tiên có trình độ

Cao học của trường Đại học Sư phạm Việt Bắc lúc bấy giờ. Trong giai đoạn

12

khó khăn của đất nước, nhiều người đã phải bỏ nghề giáo để tìm đường mưu

sinh. Nhưng với niềm say mê với nghề, chị đã bám trụ với trường, lớp.

Chị cùng với một số nhà giáo được cử sang công tác giúp nước bạn

Campuchia một thời gian. Trong thời gian xa nhà, nỗi nhớ chồng, nhớ con đã

được chị thể hiện trong những dòng thơ thấm đẫm tâm sự. Tập thơ đầu tay

“Xin đừng té nước vào em” ra đời đã được sự đón nhận của đông đảo bạn đọc

và là nguồn động viên, khích lệ để chị sáng tác và tiếp tục cho ra mắt bạn đọc

những tập thơ tiếp theo, trong đó có 2 tập thơ được trao tặng giải thưởng Quốc

gia và Giải thưởng Văn học nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên.

Ngoài làm thơ, Trần Thị Vân Trung còn là một nhà khoa học với tinh thần

làm việc không biết mệt mỏi. Chị đã có nhiều công trình khoa học cấp nhà nước

được đánh giá rất cao. Ngoài ra chị còn là cán bộ quản lí đầy kinh nghiệm.

Năm 1995: Phó trưởng ban Đào tạo và Nghiên cứu khoa học

- Năm 1997: Phó trưởng ban Đào tạo và Nghiên cứu khoa học & Hợp tác

quốc tế.

- Năm 2003: Trưởng ban Đào tạo và Nghiên cứu khoa học & Hợp tác

quốc tế.

- Năm 2004: Được phong Phó giáo sư

- Năm 2005: Trưởng Ban Khoa học và Công nghệ

- Năm 2008: Giám đốc - Tổng Biên tập NXB Đại học Thái Nguyên

Hiện nay chị là UV BCH hội nữ trí thức VN tại Thái Nguyên, UV hội

đồng lí luận phê bình Văn học Nghệ thuật TW, Hội viên Hội Nhà văn Việt

Nam và tham gia một số tổ chức chính trị khác.

* Các tác phẩm thơ

- Xin đừng té nước vào em (Hội Văn học Nghệ thuật Bắc Thái, 1989)

- Sao đôi xa xăm (NXB Thanh niên, 1991)

- Khoảng cách cuối cùng (NXB Thanh niên, 1999)

- Hoa bất tử (NXB Thanh niên, 2011)

13

1.2.2.2. Nguyễn Thúy Quỳnh

* Tiểu sử nhà thơ Nguyễn Thúy Quỳnh

Nguyễn Thúy Quỳnh sinh ngày 09/10/1968. Quê gốc nhà thơ ở Nghĩa

Hưng - Nam Định nhưng nhà thơ lại sinh sống nhiều năm ở xã Hà Thượng,

huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Hiện nay, nhà thơ đang có hộ khẩu thường

trú tại phường Hoàng Văn Thụ, thành phố Thái Nguyên.

Năm 1989, Nguyễn Thúy Quỳnh tốt nghiệp khoa Ngữ Văn - trường đại

học Sư phạm Việt Bắc. Chị từng có thời gian làm giáo viên của trường Phổ

thông Trung học Đại Từ sau đó được chuyển công tác sang làm ở Tỉnh đoàn

Thái Nguyên. Nguyễn Thúy Quỳnh là hội viên Hội nhà báo Việt Nam và hội

viên Hội nhà văn Việt Nam. Hiện nay, Nguyễn Thúy Quỳnh là thạc sĩ văn học,

giữ chức vụ Phó chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Thái Nguyên, Tổng biên

tập báo Văn nghệ tỉnh Thái Nguyên.

* Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Thúy Quỳnh

Ngay từ thời còn rất nhỏ tuổi, Nguyễn Thúy Quỳnh đã có một niềm đam

mê sáng tác văn chương. Đến năm 1982, khi mới 14 tuổi, nhà thơ đã cho ra đời

tác phẩm đầu tay, in trên Tạp chí Văn nghệ Bắc Thái.

Năm 2003, Nguyễn Thúy Quỳnh bắt đầu công tác tại Hội Văn học Nghệ

thuật của tỉnh. Cũng bắt đầu từ đây, sự nghiệp sáng tác của nhà thơ thật sự bước

sang một trang mới với tư cách là một nhà thơ, một nhà báo chuyên nghiệp.

Nguyễn Thúy Quỳnh đã cho cho xuất bản hai tập thơ là: "Giá mà em từ

chối" (Nxb Văn hóa dân tộc, H.2002), "Mưa mùa đông" (Nxb Hội nhà văn,

H.2004) và mới đây nhất, vào tháng 11/2011 nhà thơ đã cho ra mắt tập thơ thứ

ba với tên gọi "Những tích tắc quanh tôi" viết về sự trải nghiệm mới của nhà

thơ về cuộc đời.

Trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Thúy Quỳnh cũng đạt được

một số giải thưởng cao về văn học của trung ương như: Giải nhì về thơ của Ủy

ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam cho tập thơ

14

"Mưa mùa đông", Giải thưởng của tạp chí Văn nghệ Quân đội, của Tạp chí Văn

hóa các dân tộc Việt Nam. Với những giải thưởng đã đạt được, thơ Nguyễn

Thúy Quỳnh đã bước đầu khẳng định được vị trí của mình trên văn đàn thi ca

Việt Nam.

Nguyễn Thúy Quỳnh là một nhà thơ có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của

người làm thơ, đó chính là ý thức của một con người có trách nhiệm với cộng

đồng. Nhà thơ từng đưa ra quan niệm: "Mình không giúp được gì cho những

thân phận nhỏ bé và bất hạnh thì mình chia sẻ bằng trang viết". Cũng chính vì

ý thức đó mà nhà thơ đã có sự chuyển biến lớn về xu hướng sáng tác, từ việc

chủ yếu viết về cuộc đời chính mình, về gia đình, tình yêu nhà thơ đã chuyển

hướng sự quan tâm, lo lắng, trăn trở đến những điều rộng lớn hơn, vượt hẳn ra

ngoài phạm vi bản thể để hướng tới cộng đồng xã hội.

Nhà thơ quan niệm: "Mình không giúp được gì cho những thân phận nhỏ

bé và bất hạnh thì mình chia sẻ bằng trang viết". Đó chính là ý thức của một

nhà thơ có trách nhiệm, điều này đã trở thành một tư tưởng chi phối xuyên suốt

quá trình sáng tác về sau này của Nguyễn Thúy Quỳnh.

1.2.2.3. Nhà thơ Lưu Thị Bạch Liễu

* Tiểu sử

Lưu Thị Bạch Liễu sinh 25/12/1973 tại Thành phố Thái Nguyên. Với

Lưu Thị Bạch Liễu chúng ta thấy chị là con người ham học hỏi, đa tài. Chị đã

học rất nhiều chuyên ngành khác nhau nhưng lại không có ngành nào liên quan

đến nghệ thuật. Chị tốt nghiệp chuyên ngành Toán của trường Đại học Sư

phạm Thái Nguyên năm 1994. Một năm sau chị tốt nghiệp chuyên ngành tiếng

Anh, Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. Năm 1995, chị nhận bằng ĐH tiếng Trung

của trường ĐH Thái Nguyên. Năm 2017, chị tốt nghiệp lớp Cao cấp chính trị -

Học viện Chính trị Quốc gia Khu vực 1.

Sau khi tốt nghiệp ĐH Sư phạm, Bạch Liễu không đi dạy mà chuyển

sang làm một cán bộ công an tại Công an tỉnh Thái Nguyên (Từ 1994 đến

15

2004). Với tính cách ưa khám phám, thích “rong chơi” nên tháng 12/2004 chị

chuyển sang làm phóng viên báo Sài Gòn giải phóng và đến năm 2013 chị

chuyển hẳn về công tác tại Hội nhà báo tỉnh Thái Nguyên.

* Các tác phẩm

- Cõi tôi - Tập thơ 2007

- Sông Cầu đang chảy đâu đây - Tập thơ 2009

- Nửa đêm gió lùa - Tập truyện ngắn 2011

- Nở muộn - Tập thơ 2013

- Trường Sa! Ơi, Trường Sa! - Tập thơ 2014

Tiểu kết chương 1

Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu là những

nhà thơ nữ tiêu biểu của nền thơ Thái Nguyên. Cả ba nhà thơ đều có một quá

trình hoạt động sáng tác lâu dài cho đến tận ngày nay, trong sáng tạo nghệ thuật

mỗi người lại có một quan niệm riêng, không giống nhau. Chính điều này đã

góp phần tạo nên phong cách riêng cho mỗi nhà thơ. Đây cũng là những nhà

thơ đạt được nhiều giải thưởng ấn tượng của cả Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh

Thái Nguyên cũng như giải thưởng của Nhà nước về Văn học Nghệ thuật.

16

Chương 2

HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ NỮ THÁI NGUYÊN

(QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG, NGUYỄN THÚY QUỲNH,

LƯU THỊ BẠCH LIỄU)

2.1. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Trần Thị Vân Trung

2.1.1. Người tình đắm say, người vợ thủy chung

Đọc thơ Vân Trung, ta thấy đây chính là câu chuyện tình yêu được chị

viết bằng thơ. Với giọng thơ trẻ trung, yêu đời và say đắm trong tình yêu,

chúng ta được chứng kiến những cung bậc cảm xúc của tình yêu. Những ngày

đi công tác xa nhà, những dòng thơ gửi cho người chồng yêu dấu với những nét

tinh nghịch được chị gửi về cho người chồng ở nhà:

Không Trung - anh có nhớ

Chơi vơi - một cánh diều?

Mây trắng - xin dệt áo

Choàng bọc trái tim yêu!

(Mây trắng -Phnôm Pênh, 1986)

Lối chơi chữ hóm hỉnh nhưng ẩn chứ sâu trong từng câu chữ là nỗi

nhớ người chồng. Xa anh, em như cánh diều chơi vơi, liệu anh có giống

như em không?

Nhà thơ cũng không giấu giếm nỗi lòng khi nhớ đến những nồng ấm,

nhớ đến những cái ôm của chồng. Mạnh bạo thể hiện nỗi lòng, thể hiện khao

khát mãnh liệt yêu đương của người đàn bà trỗi dậy trong thơ chị. Chị đã dám

nói thật nỗi lòng mình, dám thể hiện khát khao được yêu thương của mình qua

những dòng thơ gửi về người chồng yêu dấu.

Em cứ run lên - trong nỗi nhớ cồn cào

Cứ muốn nép mình dưới vòm ngực nở,

Cứ lả mềm đi như lá úa

Trong cánh tay Anh - khỏe, ấm, nồng nàn!

(Có nỡ xa)

17

Ta bắt gặp một Vân Trung hóm hỉnh, có duyên khi dùng lối chơi chữ để

mà trao yêu thương, nhung nhớ cho người chồng của mình, một Vân Trung đầy

sức sống khao khát yêu đương, không ngần ngại dâng hiến. Đối với Vân Trung,

chị luôn mong ước và cũng luôn cố gắng để xây đắp một tình yêu bất tử:

Em đi tìm hoa bất tử

Chẳng tin - trẻ mãi không già!

Nhưng lòng em hằng khao khát

Tình yêu Bất tử như hoa!

(Hoa bất tử)

Tin tưởng vào tình yêu, thơ Vân Trung là những dòng tâm sự nhẹ nhàng

với người bạn đời của mình. Chị tự thu mình lại, hóa mình thành nhỏ bé trước

mặt người đàn ông của mình, để được che chở, yêu thương. Ta bắt gặp hình

ảnh chị giống như bao người phụ nữ Việt khác, dù ngoài xã hội có làm những

công việc lớn lao gì đi chăng nữa thì khi về với tổ ấm của mình, chị lại trở

thành người phụ nữ của gia đình, cũng yếu đuối và cần được chở che:

Trước anh - em nhỏ bé

Niềm kiêu hãnh xưa như cháy lụi đi rồi

Chút nhan sắc, tài hoa và tuổi trẻ

Cũng trở thành …. vô nghĩa lắm…

(Không đề)

Với Vân Trung, chị luôn hết mình trong tình yêu, chị giống như một cô

gái dại khờ, ngây thơ, không giữ lại chút gì cho mình. Chị yêu say đắm, yêu

bằng cả trái tim. Có tình yêu, cuộc đời trở nên tươi đẹp biết bao. Chị ngợi ca

tình yêu, chị thấy tình yêu giống như một cơn mưa xuân tưới đẫm tâm hồn

mình, chảy trôi đi những muộn phiền của cuộc sống:

Anh như cơn mưa chợt đến

Thấm dần … ướt đẫm hồn em

Trôi đi bao nhiêu bụi bặm,

Tan đi bao nỗi ưu phiền …

(Mưa xuân)

18

Đang say đắm trong tình yêu, đang được tận hưởng những cảm xúc ngọt

ngào của trái yêu đương thì lại phải chia xa, thơ Vân Trung bật lên nỗi nhớ

nhung, khắc khoải “Có xa ngàn vạn dặm/ Mới hiểu thấu “trăng thề”/ Mới biết

còn khắc khoải/ Mới biết còn đam mê” để rồi tâm hồn trở nên lạnh giá, mọi thứ

đều trở nên vô nghĩa ngày xa anh, đến nỗi “Môi nhạt màu son thắm/ Má phai sắc

hồng đào…” và trái tim thì “Trái tim dường tan nát/ Lại cháy lên nỗi niềm…. /

Tâm hồn dường nguội lạnh/ Lại nhớ thương triền miên…” (Ngày xa anh)

Tình yêu nồng cháy thế nhưng không phải không có những lúc giận hờn.

Đã có lúc chị tự hỏi, tự dằn vặt bởi những lỗi lầm của người yêu, chị âm thầm

khóc cho sự rạn nứt vô hình trong tình yêu đôi lứa, nhưng những kỉ niệm xưa

cứ ùa về, để chị không dám nghĩ tiếp:

Đã bao lần em định viết về anh

Về sụ thật giữ lòng ta - hai đứa

Nhưng kỉ niệm xưa, khiến em chẳng nỡ

Viết cái điều - emm nghĩ về anh!

(Điều không muốn viết)

Chị sợ rằng khi sự thật được phơi bày ra thì sẽ không còn gì có thể níu

kéo lại được. Chị tiếc, chị buồn cho những kỉ niệm đã qua. Chính vì không thể

nói ra được nên:

Đã bao lần anh biết trong đêm

Nước mắt đã hoen vàng gối trắng?

Chuyện chúng mình … trong tận cùng sâu thẳm

Đã bao lần tiếng nấc nuốt vào trong

(Điều không muốn viết)

Khổ đau là vậy, nhưng với bản chất hiền lành nên chị đành một mình

nuốt những nỗi đau ấy vào trong, để cố gắng xây dựng lại một tình yêu đẹp. Sự

vị tha, trái tim nhân hậu của chị đã được đáp đền, để đến bây giờ, chị cười, chị

vui trong niềm vui của tình yêu gia đình, vui với tiếng cười của con cháu:

19

Tiếng cháu cười trong vắt

Múa, hát và đọc thơ

Ông đệm đàn mê mải

Bà vui đến … sững sờ

(Linh Đan)

2.1.2. Người mẹ minh triết và vẻ đẹp mẫu tính

Không chỉ là một người tình say đắm, một người vợ thủy chung, trong

thơ Trần Thị Vân Trung ta còn thấy hình ảnh đầy mẫu tính của một người mẹ

đảm đang. Ta có thể thấy trong thơ Vân Trung, chị không viết về những điều

lớn lao to tát mà chị đi sâu vào những điều bình dị nhất của cuộc sống. Đó

chính là tình yêu dành cho chồng, cho con, cho gia đình nhỏ bé của mình. Đó là

những giây phút đa sầu đa cảm, những lúc trái tim yếu mềm bởi một ánh mắt,

một nụ cười của ai đó….

Âm hưởng nữ tính xuất hiện trong phần lớn các sáng tác của Trần Thị

Vân Trung. Nữ tính trong cách thể hiện tình yêu, nữ tính trong tình cảm gia

đình, với người mẹ của mình, với những đứa con, đứa cháu…

Người mẹ nào cung lo lắng cho con của mình, kể cả khi những đứa con

ấy đã trưởng thành, vui cùng với niềm vui của con, buồn cùng với nỗi buồn của

con. Vân Trung cũng đã từng trăn trở, day dứt khi thấy cậu con trai bé bỏng

ngày nào của mình giờ đang dần rời xa vòng tay mẹ, dời xa tổ ấm mà bao năm

cha mẹ đã xây dựng, bồi đắp cho con. Chị lo ngoài đời kia nhiều bão giông cám

dỗ, đứa con của mình không đủ bản lĩnh để mà vượt qua:

Cuộc sống ngoài kia - chứa đầy cạm bẫy

Và sục sôi như thác, lũ đầu nguồn

Đi đứng, học hành, yêu, chơi… đều hiện đại

Mẹ quặn lòng, day dứt - nghĩ về con!

(Lời trăn trở tháng Ba)

20

Sau những trăn trở, day dứt ấy, bằng tình thương vĩ đại của người mẹ,

Vân Trung đã tâm sự với con, đã dạy bảo con sống phải biết yêu thương cha

mẹ, yêu những người ruột thịt thì con mới cảm nhận được hạnh phúc là gì:

Nếu con biết yêu mẹ - bằng tình yêu máu thịt

Con mới biết yêu người yêu - bằng tình yêu máu thịt của mình

Nếu con biết quý từng phút giây hạnh phúc

Thì đời con - hạnh phúc mới hồi sinh

(Lời trăn trở tháng Ba)

Lời dạy bảo của người mẹ thật nhẹ nhàng nhưng chứa đầy tình cảm.

Được làm con của một người mẹ như vậy, tôi nghĩ rằng cậu con trai của chị

phải rất hạnh phúc. Không có những triết lí cao siêu, chỉ là những điều rất bình

dị thôi nhưng đọng lại rất sâu, rất lâu trong lòng người đọc. Phải biết yêu như

chính máu thịt của mình, phải biết quý trong từng giây phút hạnh phúc thì cuộc

đời chúng ta mới có được niểm vui.

Không chỉ lo cho con, Vân Trung còn niềm vui bên những đứa cháu của

mình. Tuổi trẻ qua đi nhưng chị lại bất ngờ thấy một mùa xuân trong hình ảnh

đứa cháu bé nhỏ:

Nhưng bất ngờ - lại thấy Một Mùa Xuân

Nở bừng lên trong tiếng cười của cháu

Mắt đen láy, má đào đôi môi sáo…

Lai thấy LÒNG MÌNH TƯƠI TRẺ - thủa xa xưa!

(Lại thấy một mùa xuân)

Quên đi những điều không vui, những điều chưa hài lòng trong cuộc

sống, Vân Trung thấy lòng mình có niềm tin hơn khi có niềm vui gia đình,

niềm vui của những đứa cháu ngoan:

Mặc cuộc đời dâu bể

Đen - trắng và vàng - thau

Giả dối cùng chân thật

Hạnh phúc lẫn khổ đau…

- Bà tin yêu nhìn cháu

Hy vọng vào MAI, SAU…!

(Linh Đan)

21

Vẻ đẹp trong thơ Trần Thị Vân Trung còn là những dòng thơ đầy xúc

động khi chị viết về mẹ. Chị dành hẳn một phần trong tập thơ “Hoa bất tử” để

viết về mẹ. Trong tâm trí chị, mẹ và quê hương là hai thực thể không thể tách

rời. Mẹ là quê hương và quê hương là mẹ. Những kí ức về mẹ luôn hiện hữu

trong thơ Vân Trung. Một chiều trở gió, vô tình bắt gặp bóng lưng còng của

một bà cụ nào đó, nhà thơ lại hoài niệm về bóng dáng mẹ “Chợt thấy bóng ai

như dáng mẹ/ Tất tả chiều Thu - sương đẫm vai…” (Mẹ và quê hương).

Nhớ đến mẹ, Vân Trung nhớ đến những tảo tần của mẹ, nhớ lại hình

ảnh mẹ:

Thắt lại chiếc khăn hình mỏ quạ

Nồng miếng trầu cay thắm miệng Người

Dáng vội vã - “chân đi không đi bén gót”

Suốt cuộc đời - chưa một phút thảnh thơi!

(Mẹ ơi!)

Cho dù cuộc đời có bao chông gai cạm bẫy, con có mẹ giống như có chỗ

dựa lớn lao. Là một người mẹ nên Vân Trung càng hiểu nỗi khổ của mẹ, càng

thương mẹ hơn. Đó là một vẻ đẹp trong thơ Vân Trung nói riêng và trong thơ

của các nhà thơ nữ nói chung.

2.2. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh

2.2.1. Người phụ nữ với những nỗi niềm thân phận

Đọc những trang thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh, ta bắt gặp những bộn bề,

những suy nghĩ trăn trở của cuộc sống. Tác giả luôn day dứt, trăn trở, lo âu về

thân phận như tình yêu, về ý thức cá nhân, sự hư hao mỏng manh của kiếp

người. Có thể qua bất cứ hình ảnh nào tác giả cũng có thể nhận ra trong đó

những ý nghĩa nhân sinh của cuộc sống. “Thơ về lạc đà” không chỉ là hình ảnh

của con lạc đà chầm chậm đi trên sa mạc với trên lưng mang nặng hàng hóa,

mà qua hình ảnh cái bướu nó mang trên mình, tác giả thể hiện chiều sâu suy

ngẫm của mình:

22

Trời hoang hoang nắng

Cát mênh mang trắng

Lạc đà thầm lặng

đi

Không chỉ sinh ra để mang trên mình

những gì người ta chất lên

còn mang cả chính mình

những chiếc bướu như tiền kiếp úp xuống lưng

………..

Lớn hơn nỗi cô đơn

Là không ai có thể mang gánh nặng hộ mình

....

Quả thật trong cuộc đời mỗi con người, gánh nặng không ai giống ai,

chính vì vây, không ai có thể giúp ta mang gánh nặng. Chỉ có mình ta giống

như chú lạc đà lầm lũi đi trong sa mạc, tự mang gánh nặng trên lưng mình.

Tập thơ “Hai phía phù sinh” là những day dứt, trăn trở của tác giả về lẽ

sống chết của con người, của vạn vật. Người đàn ông trụ cột trong ngôi nhà ấy

chết đi để lại nhớ thương và sự trống vắng cho người vợ và những đứa con. Chỉ

khi con người chết đi thì mới nhận ra được cái lẽ sống ở đời chỉ là phù du, thì

có lẽ người chồng vẫn còn ở lại. Đấy chỉ là “giá mà” mà thôi.

Khi nghe tin một cô bé vì đói quá, trên đường đi học về ngã xuống

mương nước và qua đời, tác giả viết bài thơ “Tặng linh hồn bé Nhung” như là

thắp một nén tâm nhang dành cho người xấu số. An ủi cho linh hồn bé nhỏ,

mong con được về với nơi chỉ có ánh sáng chan hòa, nơi có bình yên và ấm no.

Tấm thân bé nhỏ của con không còn

“Trái tim bé bỏng của con

Sẽ không còn triền miên nhức nhối cơn đau

Thân thể gày gò của con

Không còn cơn đói vật vã cào xé suốt đêm ngày”.

23

Cái chết của bé Nhung là tiếng chuông cảnh báo cho những trái tim vô

cảm. Tác giả biết “Không một lời biện minh nào đủ lấp đầy sự ra đi tức tưởi

của con,/không một sự sám hối nào đủ xóa tội cho những người ở lại”. Bởi vì

những người lớn chúng ta đang sống trong no đủ, thừa thãi mà lại có một sinh

mệnh bé nhỏ phải lìa đời chỉ vì đói.

Chúng ta

những kẻ thản nhiên sống và ca ngợi sự giàu sang

giữa trùng trùng áp phích, pa nô quảng cáo sáng choang

không ai đủ tư cách cầu xin con,

một em bé chết đói giữa ban ngày,

tha thứ.

(Tặng linh hồn bé Nhung)

Với tác giả, mọi ánh sáng hào nhoáng của cuộc sống kia chỉ là vẻ bề

ngoài, chỉ là sự giả tạo. Những con người đang ca tụng cuộc sống kia nợ em

một lời xin lỗi, không ai có đủ tư cách để xin được tha thứ. Lỗi lầm của chúng

ta là đã quá vô tâm đối với những cuộc sống xung quanh chúng ta.

Hay tác giả thấy mình yêu hèn và bất lực khi nghe tin trên đài báo về vụ

thảm họa sóng thần ở Ishinomaki, sau trận sóng thần này thì có 30 đứa trẻ vẫn

hướng đôi mắt ngây thơ ra phía của trường học để ngóng chờ cha mẹ tới đón.

Những đôi mắt ngây thơ ấy, những tâm hồn non nớt ấy không biết rằng cha mẹ

chúng đã mãi mãi không thể trở về để đón chúng về trong ngôi nhà êm ấm của

chúng nữa. Và với hình ảnh ấy, tác giả - một người mẹ Việt Nam biết rằng “mẹ

biết tim mình suốt đời sẽ còn dư chấn”, tác giả thấy “nhưng lúc này mẹ thấy

mình yếu hèn và bất lực/ nước mắt chẳng giúp gì được các con trong khoảnh

khắc khủng khiếp này.”

Giống như nhan đề tập thơ, cõi người chỉ là kiếp phù sinh nên trong thơ

của Nguyễn Thúy Quỳnh, cái chết được tác giả nhắc đến rất nhiều. Những cái

chết ở trong thơ của chị không chỉ là cái chết của con người, của sinh vật mà

24

còn đáng sợ hơn là cái chết của tâm hồn, nhân cách con người. Những người có

chức có quyền đã nhẹ tay kí vào những văn bản để “Đâu phải chiến tranh/ mà

mấy chục cuộc đời nát vụn một ngày mìn nổ đá rơi,/phút chốc chạm đường ray,

đồng làng bời bời khăn trắng” (Những tích tắc quanh tôi). Những kẻ có chức

quyền kia vì sao lại có thể đặt bút kí. Chẳng hề kiêng dè, tác giả đã nói hộ tiếng

nói của những người vợ mất chồng những người con mất cha kia “một chữ kí

nhẹ tênh/ kéo chập trùng sông suối núi đồi chui vào két nhỏ” và rồi con người

không chỉ chết về thể xác mà còn là cái chết về tâm hồn “những tuổi teen/ tóc

đỏ dắt nhau vào nhà nghỉ bình dân còn quên tháo khăn quàng.”

Cái tôi trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh là những trăn trở, suy tư trước vạn

vật trong cuộc sống. Một con mèo bị xe cán, một cái cây vừa bị chặt hạ đã trở

thành nỗi niềm ám ảnh về số phận của con người, về một kiếp nhân sinh.

Đọc thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh ta bắt gặp một tâm hồn mẫn cảm, một

trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương. Dù không nhiều bài nhưng những vần

thơ của chị đã gợi cho người đọc bao suy nghĩ. Những hình ảnh thơ của chị

khiến người đọc day dứt, đau đớn cho kiếp người - số kiếp ngắn ngủi với

những vật lộn, lo toan, với những khổ đau cả về thể xác lẫn tinh thần. Và từ

những góc nhìn đa chiều về thân phận con người, tác giả đặt ra cho chúng ta

một câu hỏi lớn để suy ngẫm, đó là trong cuộc đời này ta nên sống thế nào?

Đời con người so với nhân gian chỉ là cõi tạm. vậy mà chúng ta đang sống

một cách phung phí thời gian ngắn ngủi bằng những ham muốn tầm thường.

Con người ta không còn hình bóng của con người mà chỉ còn gỗ đá, bởi

lẽ khi con người không biết đến tình yêu thương, không biết trân trọng cái đẹp,

không còn biết sẻ chia thì đâu gọi là sống nữa. Đó không chỉ là câu hỏi dành

riêng cho một thời mà cho mọi thời, cho những con người đánh mất mình, đánh

mất tình người. Con người rơi vào bi kịch vì chính sự vô tâm của mình. Đằng

sau những nghịch lý là một niềm tiếc nuối của tác giả. Tiếc nuối vì đời người

ngắn ngủi đến là vậy mà ta không biết nâng niu quý trọng nó. Bởi vì, tự thân

25

mỗi con người sống trong đời sống này không thoát khỏi đau khổ. Đọc chùm

thơ của chị, ta cảm nhận nỗi đau làm người thấm thía và sâu sắc. Mỗi bài thơ là

một góc cạnh mà nhà thơ xuyên thấu vào từng mảnh đời, số phận và trạng

huống con người phải trải qua.

Có đôi khi, tác giả muốn mang những nỗi nhọc nhằn trong cuộc sống gửi

lên chùa, nhưng rồi nghê đa, Đức Phật, Quan Âm cũng chẳng thể nào cứu giúp

được nên con người ta lại phải quay trở về với cái bản thể của mình, trở về với

kiếp nhân sinh nhọc nhằn của mình:

Gánh chuân chuyên gửi vào chùa

Gặp con nghê đá thẫn thờ đợi chuông

Trên tòa, Đức Phật ngồi suông

Quan Âm phất áo, chỉ đường sắc không

Niết Bàn đành ngửa cổ trông

Diệt sao hết khổ mà mong vô thường

Chắp tay đợi một tuần hương

Còi người dằng dặc, lần đường lại đi

(Đi chùa)

Một trái tim mẫn cảm trước cuộc đời nên khi vô tình nghe được lời ca

của bài hát “Gửi em ở cuối sông Hồng” của người bán hàng rong, tác giả đã

nghĩ đến sự chia cắt của tình yêu đôi lứa. Nhưng sự chia cắt này không phải

trong chiến tranh mà là trong cuộc đời đầy thanh bình này. Tình yêu trong

chiến tranh lãng mạn và bay bổng, con người ta có thể gửi trao cho nhau nỗi

nhớ nhung, những tình cảm nồng thắm, còn trong thời bình, cuộc sống mưu

sinh nên chẳng có đủ thời gian để mà nhớ, mà thương. Câu hát gửi trao nhau

theo những chiếc xe đẩy, gánh hàng rong len vào các con phố.

26

Từ hình ảnh những con cá chết trên dòng sông Duệ nước đen nhánh,

những con còn lại cố gắng trồi lên để hít lấy, lọc lấy từng phân tử ô xy còn sót

lại, tác giả đã quay về liên tưởng đến số phận của con người:

Bỏ lại một dòng sông đen và một dòng sông đen khác

Chảy âm thầm trên những gương mặt

Sạm đen.

(Về những con cá chết ở sông Duệ)

Những con cá cố gắng kiếm tìm cơ hội sống, con người bon chen nhau

cũng để kiếm tìm sự sống. Con người cũng giống như những con cá đang ngụp

lặn ở dòng sông đen của cuộc đời.

Rồi những suy ngẫm của nhà thơ lại quay trở về những sự vật xung

quanh cuộc sống, từ những cây lim, cây sưa trong phố bị đốn hạ để ngẫm nghĩ

về câu tục ngữ “cây ngay không sợ chết đứng”, nhưng sống giữa nhân gian con

người lại bị dìm chết bởi những lời đồn thổi “Ở đâu đó/ lời đồn như gió độc/

luồn vào từng mảnh hồn nhân gian/ lấm lét mắt lươn cao giọng đa ngôn/ đong

đưa mắt nai lem lẻm mỹ từ/ có thể vặn thừng sự thật/ dìm những đời sen xuống

bùn/ ngoi lên được cũng đã xong một kiếp” (Nghĩ chơi). Hay sự đời vốn không

là công bằng để cho những kẻ tiểu nhân ngoi lên vũ đài chính trị, những người

tài giỏi đành ngậm ngùi vì không gặp “thời thế”: “Cá chép mắc lưới ngày hăm

ba tháng chạp/ ngẩng nhìn cua ếch hùng hục qua nhan nhản vũ môn”; “bậc

đại trí đại nhân/ nhìn theo mây trắng nhởn nhơ cùng các linh hồn/ không

được không thua không còn không mất” và tự an ủi mình rằng “thượng đế lại

đùa dai”.

Tác giả Nguyễn Thúy Quỳnh cũng nặng lòng với những bài học nhân

sinh, về cuộc đời củ những người thầy, về giá trị đạo đức thay đổi. Người thầy

một đời tích nghĩa nhân, gieo mầm đức, đóng đò chở người qua sông Chữ, vậy

mà khi qua đò rồi thì những người được thầy chở qua, kẻ thất học “sau một

năm/ cầm rìu chặt đò làm đôi”, những kẻ tiểu nhân “sau mười năm/ vung búa

27

chặt đò làm ba”. Thật là đau xót. Thế nhưng đớn đau hơn đó là cái trở mình

của kẻ tâm phúc. Chẳng ai lường trước được thế sự. Con đò của thầy “Người

tâm phúc đi qua/ sau ba mươi năm/ trở bút một lần mà đò tan vạn mảnh”, để

rồi khi tìm về thầy chỉ còn biết lên sông Ngân để hỏi. Những mảnh vỡ của con

đò đã găm vào trái tim thầy, để “Sông Chữ ngầu ngầu khóc/ - Thầy ơi…” (Thầy

tôi). Quả đúng là con người ta có thể lường hết được. Kẻ thất học, kẻ tiểu nhân

thôi thì còn có thể tránh được nhưng nỗi đau lớn nhất lại là không đề phòng

được người ngay bên cạnh ta, người ta tin tưởng, kẻ tâm phúc, để rồi mang vết

thương chí mạng.

Ta cũng bắt gặp lời kết án cho những sự giả dối xung quanh chúng ta.

Người ta xúm vào để mà bàn luận, để mà lên giọng rao giảng những điều cao

siêu về một nhà thơ bằng những lời hoa mỹ mà ở đó, người ta nhân danh thơ,

nhân danh sự tử tế để mà phán xét. Thế nhưng đằng sau đó có ai quan tâm đến

đối tượng mà mình đang bàn luận đến đang lúc nào cũng “toan rụng về đất/

vẫn trĩu niềm xót thương dâng tất thảy nhân gian” (Về một nhà)

Bỏ ra khỏi những bài báo cáo, những lời tổng kết đầy hoa mỹ với những

điều làm được vô cùng lớn lao, những thu nhập ngàn đô, tác giả nhìn thấy được

những “chợ lao động dài thêm những đứng ngồi chờ việc”, rồi những người

phụ nữ bỏ lại chồng, con để “giờ phiêu dạt xứ người/ lo giấc ngủ bữa ăn cho

chồng con thiên hạ”. Bỏ qua những cây cầu nghìn tỉ, những cung đường được

coi là đẹp nhất nước, Nguyễn Thúy Quỳnh nhìn thấy “bầy em nhỏ ngày ngày

đu dây vào tương lai/ vùi giấc mơ đến trường nơi hầm than, bãi quặng”, và

những nhà chính trị thì đang trên bục diễn đàn nói về những thay đổi vĩ đại

nhưng “giá thị trường tăng, giá niềm tin giảm”. Nhà thơ cảm thấy hoang mang

cho cuộc sống. Và rồi “xác chữ cũng ngổn ngang” giống như nỗi lòng ngổn

ngang với thế sự của tác giả.

2.2.2. Người phụ nữ với trái tim yêu bình dị mà sâu sắc

Tình yêu trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh không có những điều cao siêu

vĩ đại mà là tình yêu dành cho chồng. Những vất vả của cuộc sống hàng ngày,

28

những điều bình dị của cuộc sống vợ chồng đều được chị tâm sự vào những

dòng thơ. Tình yêu đó là sự chăm lo cho chồng khi anh đau ốm. Chị đếm từng

ngày anh đau đớn, nín thở nghe từng tiếng trở mình cùng tiếng thở dài nặng

nhọc của anh.

Năm ngàn đêm dấu bao nhiêu cơn vật vã trở mình

Trong tiếng tích tắc đóng đinh chịu nạn

Nghe tiếng em và con thở đều từ cõi nào xa lắm

Nghe sự sống thóp thoi trong từng mạch máu âm thầm

Phải có sức chịu đựng lớn lao đến nhường nào thì mới có thể chống chọi

bệnh tật hơn năm ngàn ngày cùng với người chồng của mình. Tình yêu khiến

cho người đàn bà nhỏ bé, yếu ớt trở nên kiên cường đến như vậy. Năm ngàn

ngày đêm anh ốm là:

Năm ngàn đêm

Giấc ngủ em xoe tròn

Bọc trái tim đá gỗ

Để đêm nay

Em, con bò già kéo cày số phận

Lê trên cánh đồng mờ mịt

Cắt xuống mặt đêm vô vàn rãnh sâu

Rỉ những giọt bầm đen

Chị cũng như những người phụ nữ khác, khát khao được yêu thương,

khát khao được bảo vệ, chở che nhưng số phận không chiều chị. Nhiều lúc mệt

mỏi, chị thấy mình giống như “con bò già” sinh ra để kéo cày, trả nợ cho số

phận. Tuy nhiên mệt mỏi, chán chường không làm chị gục ngã, bởi với chị,

người đàn ông, người chồng là trụ cột trong gia đình. Cho dù anh có ốm đau đi

chăng nữa thì anh vẫn là cây trụ về tinh thần cho chị và các con dựa vào. Chẳng

thế cho nên chị đã viết về người đàn ông trong nhà:

29

Đàn ông, hẳn phụ nữ nào cũng muốn

Vì đàn ông mạnh mẽ làm sao

Có đàn ông trong nhà, yên tâm như cây non mọc cao

Được đàn ông yêu, là củi khô cũng đam chồi nảy lộc.

Chị vui vì những đêm anh ngon giấc, không khó nhọc trong cơn đau với

những viên thuốc ngủ, các con mơ giấc mơ đẹp với nụ cười trong giấc ngủ “đêm

nay anh ngon giấc hơn/ cầu cho những giấc mơ dịu dàng đưa anh về nơi xa/

Cầu cho những giấc mơ vạm vỡ đưa anh về xưa” (Trong ngôi nhà nhỏ của tôi).

Chính bởi vì tình yêu lớn lao với chồng nên khi anh buông tay chị để ra

đi về cõi vĩnh hằng, chị đã có biết bao đau đớn, dằn vặt. Bản thân chị cũng là

người giác ngộ Phật giáo, chị biết “sinh kí tử quy” nhưng rồi nỗi đau ấy vẫn

không thể nào nguôi ngoai. Chị vẫn hằng tưởng bóng đáng anh đâu đây, vẫn

dõi theo nhìn cuộc sống của mẹ con chị:

Có thể ở nơi khó hương bay lên

Đêm đêm anh về

Sau cánh cửa kia

Lắng nghe các con ríu ran

Nhìn theo những ngón tay em gõ trên bàn phím

Đợi em tắt đèn

Im lặng

Sáng lại đi

Mặc dù đã làm hết sức mình để chăm lo khi anh còn sống nhưng trong

thâm tâm mình, nhà thơ vẫn còn nhiều điều nuối tiếc. Chị ước ao giá như có thể

đổi cho anh một nửa thời gian của mình để anh ở lại cùng chị và các con thì chị

cũng sẵn sàng đánh đổi:

Nếu có thể gửi những ngày dương gian của mình

Nối thêm kiếp sau của anh dài hơn

Xin anh nhận cho em một nửa

30

Còn nửa này

Em chăm cho các con dài rộng thêm chút nữa

Thế cũng là nhiều.

(Có thể ở nơi ngọn khói hương bay lên)

Vắng anh nên chị hay mơ về anh, nhiều lúc chi tự hỏi hay tại chị nên anh

giận dỗi, nên anh rời xa mẹ con chị. Những đêm không ngủ, chị tự hỏi “có phải

những gánh nặng cuộc đời em đã làm anh mệt mỏi?/ có phải cuộc đua giữa sự

bướng bỉnh của em với sự khắc kỉ của anh đã không còn nước vãn hồi?/ có

phải cửa địa đàng đóng lối này để mở về lối khác?” (Nghĩ lúc 23 giờ 15). Và

rồi theo thói quen khi anh chưa đi xa, khi quờ tay sang bên cạnh, không thấy

anh nằm ở bên, không còn hơi ấm của anh

Trong bóng tối kinh hãi của im lặng

Em quờ tay không chạm anh

Bàn chân run rẩy chạm vào hành trình ngược về ngày cũ

Ngày mà những giấc mơ của chúng mình cuộn chặt vào nhau

Dựng ngời ngời một ngôi nhà ấm

Phòng ngủ treo đầy các con.

(Nghĩ lúc 23 giờ 15)

Vượt qua nỗi đau của sự mất mát chia lìa, chị mạnh mẽ chèo chống con

thuyền gia đình, mà lúc này, tình yêu thương chồng chuyển sang thành tình yêu

thương con. Nỗi đau được cất dấu ẩn sâu trong lòng, thời gian dần nguôi ngoai.

Tình yêu thương của các con, của bạn bè đã trả lại cho chúng ta một Nguyễn

Thúy Quỳnh yêu đời, yêu thơ.

Khi vượt qua được nỗi đau, chúng ta lại thấy trong thơ chị lấp lánh tình

yêu với con người. Với người đến sau, chị cũng dành sự yêu thương trọn vẹn.

Mặc dù còn thiếu thốn bộn bề trong cuộc sống nhưng chúng ta vẫn gặp ánh mắt

và nụ cười ấm áp của chị:

31

Nhà mình chỗ nào cũng chật

Mùa đông giá rét đỡ lo

Nhà mình thứ gì cũng nhỏ

Chỉ những tiếng cười là to

…………..

Nhà mình cái gì cũng khuyết

Chỉ niềm hy vọng tròn đầy

Mẹ cha dù là khuất núi

Con không bao giờ trắng tay

(Thơ về nhà mình)

Rồi những mỏi mệt trong cuộc sống, những vất vả trong công việc thì

cũng tạm rời xa khi chị về đến nhà, về đến tổ ấm bé nhỏ của mình, với tiếng

của con trẻ và sự quan tâm chăm sóc của người chồng:

“Chợt nhận ra mình đã về đến nhà,

Nghe bi bô con đánh vần tiếng mẹ

Anh lo lắng “Sao em về muộn thế?”

Chuông đồng hồ thong thả báo bình yên”

(Thơ trên đường về nhà)

Trái tim người phụ nữ lại đập lên những nhịp đập của tình yêu, của

những bồi hồi xao xuyến. Phải nói rằng tình yêu thật kì diệu, không có giới hạn

của tuổi tác. Nó làm cho người ta trở nên yêu đời hơn, làm cho người già trở

nên trẻ lại, làm cho người ta mong ngóng, đợi chờ.

Người đàn ông đi qua con đường của tôi

Mái tóc mềm trẻ thơ

Bờ vai biết chắn giông che gió

………

Đã bao nhiêu tin nhắn người gửi vào trái tim tôi

Bao nhiêu bài tình ca, đêm đêm về hát ru tôi thật khẽ

(Người đàn ông đi qua con đường của tôi)

32

Rồi cũng có những lúc trái tim đi lơ đãng, xao lòng bởi một ánh mắt, một

nụ cười hay đôi khi chỉ là sự nhớ nhung vơ vẩn

“Em chờ đợi mà không kịp về

Cô đơn em, ta nợ một đời

Dáng kiêu hãnh sáng cùng trời đất

Hương nồng nàn riêng chỉ ta thôi”

(Hoa hồng)

Hay

Ta vùi thương nhớ bên bờ cát

Chiều hóa thành ta, đã ngẩn ngơ

Thuyền neo bến lặng xa mùa bão

Ta neo vào đâu, mùa - tương - tư

(Chiều Đồ Sơn)

Người đàn bà dịu dàng, trầm mặc Nguyễn Thúy Quỳnh cũng đầy mãnh

liệt trong tình yêu. Chị khát khao yêu thương, khi nghe câu hát của Trịnh Công

Sơn thì chị nghĩ đến mình, thấy sao mà Trịnh lại hiểu mình đến như vậy: “Từ

ấy, tôi mang theo bên mình giấc mơ viên sỏi nhỏ/ ngày qua ngày, đêm thay

đêm, ủ nó bằng hơi thở/ rồi sống, rồi yêu, chờ một ngày mặt trời không đến

nữa/ Để nghe lời sỏi hát/ rằng, làm sao mà Trịnh biết, bia đá cũng đau…”

(Nhớ Trịnh).

Trong tình yêu, chị cũng có những giận hờn, ghen tuông cũng có những

day dứt, trăn trở khi mình là người đến sau trên sân ga vắng người:

Này thương nhớ mỗi ngày anh xa vắng

Này nồng nàn yêu dấu hằng đêm

Này hờn giận, ghen tuông … chia hai nửa

Em và không- phải - em.

Để rồi hạnh phúc đôi khi chị nghĩ cũng thật mong manh, khó hiểu:

Hạnh phúc như con tàu, em thành kẻ đến sau

33

Phận trốn vé, làm sao về ga cuối

Toa hạng nhất bên người, anh lặng thầm sám hối

Với cả em và không - phải - em.

(Thơ viết trên tàu)

Một lần tuột mất hạnh phúc nên phải ngay cả trong lúc hạnh phúc, “có

anh”, nhà thơ vẫn luôn lo sợ hạnh phúc sẽ bay đi mất, sẽ biến đi “em lo sợ một

ngày chẳng biết ai có lỗi/ khi hạnh phúc ngả nghiêng dưới mái ấm nhà mình”

(Viết cho người say).

Nhưng dù có lo lắng cũng chẳng thay đổi được số phận nên chị mỉm

cười chấp nhận. Sống ngày hôm nay để yêu thương và để cống hiến hết mình.

Thế nên tác giả đã ngộ ra rằng

Thôi đừng ước những gì xa xỉ

Chỉ mong mỗi ngày thức dậy

Còn nhìn thấy mặt trời

Còn nhìn thấy mọi người

Còn hơi ấm người ta yêu nhất

Vẫn được vẹn nguyen giữa bao nhiêu bất trắc

Thế đã là hạnh phúc

Ước gì hơn?

(Nghĩ cùng năm mới)

Tình yêu trong thơ chị không ồn ào, mãnh liệt, mà lặng lẽ, lắng sâu. Có

chăng thỉnh thoảng ta mới bắt gặp được đôi dòng “nổi loạn” trong tình yêu ở

thơ chị. Và chúng ta nhớ đến Thúy Quỳnh với anh mắt buồn, sự suy ngẫm về

cuộc đời, thế sự và kiếp nhân sinh cùng với tình yêu dành cho chồng con, cho

gia đình. Chị đã tự phác họa lại chân dung thơ của mình qua lời “Tự bạch”:

Có một chút em mang niềm Mầu Thị

Thả phận - duyên - tình theo tiếng mõ khua

Lửa tình yêu đốt nhầm nơi cửa Phật

Để luận hồi lăn theo trái tào chua

34

Có một chút em trong xót xa Nam Xương thiếu phụ

Rửa oan khiên, sông bao nước cho vừa?

Đời dẫu thế, vẫn còn điều đáng sống

Gắng gỏi đau vì một kẻ cuồng phu

Có một chút em không là Tô Thị

Vò võ đợi chờ, mòn mỏi tình chung

Nơi cuối đất anh thành người xứ lạ

Nhười xưa ơi, ai thương hộ má hồng

Dưới chân núi, nửa mùa xuân sắp cạn

Em hóa đá đợi người, xuân có đợi em không?

2.3. Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu

2.3.1. Cái tôi cô đơn của người phụ nữ

Trong cuộc sống ồn ào sôi động, con người ta luôn chìm trong sự náo

nhiệt, sự vận động không ngừng nghỉ, nhưng ẩn sâu trong đó là những nối cô

đơn không mấy ai có thể hiểu được. Lưu Thị Bạch Liễu cũng là một người sau

những ồn ã của cuộc sống lại đối diện với nỗi buồn sâu thẳm, nỗi cô đơn đến

tận cùng. Sự cô đơn trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu hiện lên rõ nhất trong tập thơ

“Cõi tôi”. Ngay trong những câu thơ đầu tiên của tập thơ, nỗi cô đơn của người

phụ nữ độc hành trên con đường đời của mình:

một mình trên đường Đông

trăng xanh

những đống lửa đốt đồng run lên vì lạnh

con đường như cây cầu

nối từ chơi vơi này

sang chới với kia

Người phụ nữ một mình bước đi trên con đường của những mộng tưởng,

con đường Đông chỉ có cái giá lạnh ngấm vào lòng tạo nên cảm giác chới với

35

cô đơn. Chị tìm vào con đường khác để mong có chút hơi ấm thì lại như lậc vào

con đường Sương đầy mờ mịt, không có lối thoát. Sự bế tắc hiện lên khiến cho

người thiếu phụ ấy lại phải quy về thực tại để đi con đường của chính mình,

con đường mà chị đang tìm cách để thoát ra:

một mình trên đường Sương

bước từ mờ mịt

anh vội đi đường của gió

tôi trên đường của tôi

tận cuối con đường xa xôi

tách trà

đang

tỏa khói.

Sự nhỏ bé, cô đơn của người phụ nữ khi một mình giữa đất trời bao la.

Không gian rộng lớn càng làm cho con người trở nên nhỏ bé, nỗi cô đơn dường

như càng thấm sâu vào cõi lòng của người thiếu phụ. Tâm trạng “chơi vơi” và

“chới với” khiến cho ta càng cảm nhận thêm được sự yếu đuối, mong manh.

Người phụ nữ nào cũng vậy, luôn mong muốn bên cạnh mình có người yêu

thương và được yêu thương, luôn muốn có người đàn ông để chở che. Thế

những trong những câu thơ của tác giả, ta thấy hiện lên hình ảnh một người phụ

nữ cô đơn một munhf đi hết cả quãng đường đời dài dằng dặc.

Nỗi cô đơn của người phụ nữ càng như kéo dài vô tận khi mà người phụ

nữ không chỉ độc hành trên đường đời còn độc hành trong cả tình yêu. Khát

khao yêu đương, tình yêu cháy bỏng và dữ dội nhưng cuối cùng chỉ còn lại nỗi

cô đơn không người chia sẻ.

Không có tên anh trong nỗi thất vọng của em

Không có tên anh trong nỗi tuyệt vọng của em

(Người yêu)

36

Sự cô đơn ấy của tác giả phải lớn lao đến nhường nào mà ngay cả trong

sự thất vọng, sự tuyệt vọng của tác giả cũng không có tên của người đàn ông

ấy. Để rồi nỗi cô đơn trở thành sự sự hãi khi bóng đêm về, người phụ nữ đối diện

với tâm hồn mình, với những dự cảm về cuộc đời. Tác giả thấy sợ hãi trong tình

yêu, cảm nhận được sự mong manh yếu ớt của mình cũng như chiếc lá bé nhỏ

kia, lúc nào cũng bị giật phăng ra khỏi cành và cuốn vào cuộc đời đầy bão táp.

Chính vì vậy nên chi sợ hãi, nỗi sợ hãi ám ảnh chị cả trong những giấc mơ.

Có lúc em sợ hãi tột cùng

Thấy mình như chiếc lá duy nhất bị gió giật khỏi cành

quăng vào bão táp

Có những đêm em mơ giấc mơ khủng khiếp

Không gọi anh

Người đàn yêu khi yêu mãnh liệt như Liễu “Phố đen chiều mưa/ em

trắng đêm nhớ/ cách có một lòng/ tôi thành ngọn gió/ một trời long đong”

(Nhớ) nhưng lại luôn gập ghềnh, trắc trở. Sự trắc trở này không phải vì không

trao hết, không yêu hết mình mà bởi vì

Anh đã ngập ngừng hồi lâu

Nửa tin nửa ngờ

Cánh cửa nhà dù mở

Nhưng anh không thấy được

Cửa một trái tim vừa khép.

(Một lời tiễn biệt)

Trong tình yêu, nếu đối phương không vượt qua đươc cám dỗ, được

nhưng trắc trở thì khó lòng đến được với nhau, để rồi khi nhận ra thì sự chờ đợi

của người phụ nữ đã trở nên mệt mỏi, buông xuôi “nhưng anh không thấy

được/ cửa một trái tim vừa khép”. Thế nên người đàn bà trong thơ Liễu luôn cô

đơn, cô đơn trong tất cả mọi hoàn cảnh.

37

Trong ngày sinh nhật của mình, người đàn bà ấy chỉ có 1 mình “không

rượu/ không nến/ không hoa” và cảm nhận nỗi cô đơn dài theo cả không gian

và thời gian “cách nửa vòng trái đất/ sao cách nửa vòng đời?” Câu hỏi đau đáu

rơi vào hư không, để nỗi buồn cứ gặm nhấm vào tâm hồn đa sầu, đa cảm của

nhà thơ.

Cái nỗi cô đơn trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu có ở khắp mọi lúc, mọi nơi.

Khi mà người người đang tất bật, hổi hả lo toan cho những ngày cuối năm, thì

Liễu một mình ngồi bó gối để mà suy ngẫm, mà chiêm nghiệm “Một ngày

cuối năm ngồi bó gối/ Nhìn dòng xe cộ nối đuôi nhau/ Không gian xám màu

mây sẫm/ Con đường ướt rượt mưa rơi” và “Một ngày cuối năm ngẫm

ngợi/Những gì đã đến, đi qua/ Dường như được nhiều hơn mất/ Nỗi buồn như

thể cũng đang xa” (Tất niên).

Trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu, ta thấy nỗi buồn trải ra trên từng trang

viết. Nhà thơ buồn vì tình yêu không thành, buồn vì những lo toan cuộc sống,

buồn vì những chuyện vẩn vơ bất chợt gặp ngoài đường. Và những nỗi buồn ấy

của nhà thơ dường như khó có thể tìm người đồng cảm, khó có thể hiểu được

mình nên nhà thơ chìm vào trong nỗi cô đơn.

Nếu như chúng ta bắt gặp ngoài đời một Lưu Thị Bạch Liễu sổi nổi, lúc

nào cũng cười tươi và câu chuyện luôn dí dỏm thì không ai có thể nghĩ rằng chị

lại có nỗi buồn lớn đến vậy. Tôi gặp chị sau khi chị đi Trường Sa về, chị kể

những câu chuyện trên đảo, kể lại tình yêu của một anh lính trên đảo đối với

chị. Giọng kể dí dỏm, tinh nghịch và rất có duyên nên tôi thấy giật mình khi

đọc những câu thơ trong “Cõi tôi” của chị.

Vũ Nho đã viết về cuốn “Cõi tôi” của Lưu Thị Bạch Liễu “Nỗi cô đơn cứ

trải dài miên miết”. Quả đúng là như vậy. Trong toàn bộ tập thơ “Cõi tôi” ta

thấy nỗi cô đơn thể hiện ngay ở tiêu đề của bài như: Độc hành, Một mình; Một

buổi chiều nào tôi không trở dậy; Không nỗi buồn nào buồn hơn nỗi buồn

nào… Và một mình chị đi suốt chiều dài của nỗi cô đơn ấy mới chợt giật mình

38

thảng thốt nhận ra “đã đi/ quá nửa cuộc đời/ mới hay/ đất gọi/ ơi hời/ dưới

chân” (Độc hành). Cái tôi cô đơn, độc hành ấy đã được tác giả mang cả vào

trong tình yêu “phố đen chiều mưa/ em trắng đêm nhớ/ bật chùm hoa gạo đỏ/

cháy lên mà chờ” (Đợi 2). Có lẽ nhà thơ yêu hết mình, cháy hết mình trong

tình yêu nhưng cũng lại ngập ngừng, lo sợ nên tình yêu không trọn vẹn chăng?

Đọc thơ Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy tâm trạng suy tư, hay nói về cõi

mình, về “cõi tôi” với những khao khát, kiêu hãnh, tầng tầng tâm trạng … và

hơn hết là nỗi cô đơn đến tận cùng “Tôi hóa bức tường câm lặng/ Mặc thời

gian bệch bạc rêu phong” (Đợi) để rồi tìm kiếm một nơi chốn bình yên “Con

tim êm đêm đêm vẫn hóa kẻ hành khất nghèo/ Lần đến từng cuộc đời gõ cửa”

(Một mình). Nghịch lí trong cuộc đời.

Thơ của Bạch Liễu ta thấy chính tự bản thân tác giả cũng cảm nhận sự

thừa thãi của chính bản thân. Ngay cả trăng và trời cũng còn có đôi, vậy mà

người thơ lúc nào cũng cảm thấy thừa mình ra “trăng ở bên trời/ mình tôi lẻ

bóng” rồi cả đến bóng của mình cũng không còn có, con người cô độc đứng

mọt mình “trăng và trời dẫn nhau đi đâu/ tôi một mình không bóng” để rồi “tôi

đến nơi nào/ cũng thừa tôi cả” (Tự khúc). Người đàn bà tuổi 30 đã đốt cháy

mình trong tình yêu, rồi cuối cũng trở về với con số không của cuộc đời:

Mùa hạ tôi nhan sắc tuổi ba mươi

rừng rực cháy đến từng chân tóc

tôi đâu biết có chiều đông buốt

nhạc sỹ già gom nắng tìm tôi

(Về một bài thơ tôi đã lãng quên).

Khi đã đứng vững trên cái tôi cá nhân thì tất cả những gì là của con

người, những tình cảm sâu sắc nhất, kín đáo nhất, huyền bí nhất và kể cả những

lo lắng thường nhật, những uẩn khúc rắc rối, đều không xa lạ với sự sáng tạo.

Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy tầng tầng lớp lớp những suy ngẫm về

hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ, về thời cuộc, được thua, thành bại, mất còn, sự

39

hữu hạn của con người và sự vô hạn của thời gian... đã làm giọng thơ hôm nay

buồn hơn, thật hơn, lắng đọng hơn, giàu suy tưởng và vì vậy mang nhiều ý

nghĩa triết lý nhân sinh hơn.

2.3.2. Cái tôi bất an, không yên ổn

Ngoài nỗi cô đơn thì trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu còn thể hiện sự bất an,

không yên ổn. Trong đêm trăng sáng bên sông Cầu, người đàn bà yêu ấy ước

ao được hóa thân thành Mỵ Nương để trao tình trọn vẹn cho chàng Trương, thế

nhưng “Mị Nương em bỏng khát”:

Chao nghiêng chén bạch đàn

Chỉ vục được xác nước

Hồn sông đã vụt tan”

(Sông Cầu)

Bất ổn trong tình yêu, Lưu Thị Bạch Liễu bất ổn, sợ hãi mọi thứ trong

cuộc đời, luôn bị ám ảnh bởi những điều vu vơ, vô hình “Qua những ngôi nhà/

Sợ người quen chạy ra/ Đòi thứ này thứ nọ/ Qua nghĩa địa/ Sợ người chết nhận

ra/ Đòi thứ này thứ nọ/ Ô! Có kẻ tựa cửa chờ/ Chắc cũng muốn đòi ta/ Thứ này

thứ nọ” (Ám ảnh I). Sự bất ổn của nhà thơ phải chăng cũng bởi sự chứng kiến

cảnh sinh li tử biệt của con người “Những lá xanh ngăn ngắt/ Theo gió đi xa

rồi/ Lá vàng không còn sức/ Khóc cho lá xanh rơi/ Lá không lá về cội/ Gió

không gió mồ côi/ Chỉ lá vàng không nỡ/ Bỏ lá xanh về trời” (Ám ảnh II).

Hay nỗi bất an trong từng tiếng sấm “Mùa hè đến mang nhiều dông bão/

Cùng sấm rền chớp giật giữa trời đông/Một buổi sáng mặt trời lên vòi vọi/ Rồi

cuối chiều mưa bào ào ạt tuôn” (Cuối đường). Nhiều khi nhà thơ lại thấy như

mình chẳng còn là mình nữa mà bỗng hóa thành con ong “Tranh đống rơm với

bầy gà con líu ríu theo chân mẹ/gà con nhìn tôi bằng đôi mắt đen/ Tôi nhìn gà

bằng ánh nhìn nhuốm bạc/ … Rúc vào đống rơm, thấy mình mọc đôi cánh ong”

(Về làng).

40

Suy nghĩ về hạnh phúc và bất hạnh, đau khổ, về cuộc sống, sự được thua,

thành bại.. khiến cho hồn thơ của tác giả trở nên hoang mang, vô định. Rất

nhiều dấu chấm hỏi mà không thể giải đáp, những sự bất ổn trong cuộc đời mà

tác giả thấy được từ chính cuộc đời mình, từ những người thân và cả từ chính

những người xa lạ đã khiến cho tâm trạng của nhà thơ trở nên rối rắm và hoang

mang. Nhiều khi nhà thơ muốn chạy trốn thực tại, muốn biến vào thế giới của

thiên nhiên cây cỏ để thoát khỏi sự mệt mỏi trong cuộc sống

Em không muốn mặt trời đi khuất

Dù cuối đường rớt lại ráng hoàng hôn

Trái tim này, mặt trời hằng thiêu đốt

Sao đến giờ muốn hóa một hạt sương

(Cuối đường)

Cái nỗi bất an ấy được tác giả cảm nhận ngay cả trong tình yêu. Có khi

đang ở bên cạnh người mình yêu đấy những cơn bão lòng đang nổi, “anh”

không thể nào hiểu được cái lo sợ của “em”. Tác giả sợ tay nắm tay đấy nhưng

rồi vẫn không thể giữ nổi được tình yêu

Hạnh phúc thay một mái ấm trong đời

Mong manh quá, chắc gì em giữ nổi

Anh ở bên, đang là thực đấy

Nhưng mai này, nào sẽ biết đâu”

(Đêm giông).

Phải chăng là nhà thơ đã quá nhạy cảm nên không tin vào những gì đang

hiện hữu, để đi bên cạnh một người rồi mà vẫn thấy lòng không yên “Rồi sớm

mai tỉnh dậy bên nhau/ Tay vẫn trong trong tay, nắng bừng trong mắt/ Vì thế

làm sao anh biết được/ Có cơn bão lòng mới tạm đi qua” (Đêm giông).

Nhà thơ thấy một kiếp người có biết bao đau khổ và thật ngắn ngủi, so

với đời kiến cũng chẳng khác gì nhau “Một đời người/ Thực ra/ Ngắn quá/

41

Như một giấc chiêm bao/ Nghĩ cho cùng kiếp người và đời kiến nào có khác gì

nhau?” (Gửi … III).

Ám ảnh về nỗi cô đơn, về sự chuyển mình hóa thành những vật thể khác

tồn tại trong nhiều sáng tác của nhà thơ. Nhà thơ viết để đi tìm mình, để khám

phá chính bản thân và để tìm quên cái nỗi khắc khoải, sự bất ổn trong tâm hồn.

Tác giả thấy rằng thế giới sao mà bình yên và nhỏ hẹp đến thế, nó khép kín và

đồng nghĩa với “tôi đang tự hủy diệt tôi” (Một chiều nào tôi không trở dậy).

Tác giả suy tư trăn trở và bất an trong tình yêu, trong những lẽ sống hàng ngày

để rồi khi dạy con gái, chị cũng đã tâm sự với con về nỗi bất an của mình. Chị

muốn trốn chạy khỏi những lo toan, khỏi những muộn phiền.

“Đời đôi khi rất phiền, con gái ạ

Mẹ muốn một mình yên ổn trong một cõi riêng

Như con rùa rụt đầu trong mai cứng

Cả cuộc đời mong mỏi chút bình yên”

(Nói với con)

Và rồi tác giả trốn mình vào trong nỗi cô đơn. Ở một nơi không có xa lạ,

một nơi chỉ có 1 mình tác giả mới cảm nhận được sự yên ổn “Tôi cảm thấy

được yên ổn trong ngôi nhà không phải của tôi [….] Và đêm qua, giấc mơ thiếu

nữ/ Lại ngọt ngào trên môi thiếu phụ của tôi” (Viết trong ngôi nhà lạ). Hay nỗi

bất an ấy được hóa giải khi mà tác giả gặp một “người điên”, để mà yêu

thương, để mà khao khát những điều tốt đẹp trong cuộc đời “Đến bây giờ tôi

hát khúc hát xưa/ Một người điên dạy cho tôi lời hát/ Không nỗi chán chường,

không thù hằn chi hết/ Bài hát đầy yêu thương” (Bài ca riêng).

Nếu không gặp chị, nói chuyện với chị thì chúng ta không thể hình dung

ra một con người hay nói vui đùa tếu táo ấy lại luôn cảm thấy bất an như vậy.

Trong thơ chị, mọi thứ đều mong manh, dễ vỡ. Phải chăng, chị vui đùa để che

dấu đi những trăn trở, suy tư, những sự ghập ghềnh trong cuộc sống, để rồi khi

42

đối diện với chính mình, hồn thơ Lưu Thị Bạch Liễu mới cất lên những lời tâm

sự đầy khắc khoải, đau đớn ấy.

Ngay cả khi hòa mình trong tình yêu thì tác giả cũng đặt câu hỏi “tan vào

anh có thể! Trọn vẹn một kiếp này” (Lời của gió) và chính những dự cảm bất

trắc ấy khiến cho tình yêu không trọn vẹn “Đám cưới anh qua nhà/ Lá thẫn

thờ, ngơ ngác/Lá đỏ rơi lớp lớp/ em chẳng dám dẫm lên/ Thế mà trong kí ức/

Vẫn còn hằn dấu chân” (Lá đỏ). Nhà thơ thẫn thờ trở về với chính mình và do

dự đứng trước ngã ba đường, không biết đi đâu về đâu: “Giữa ngã ba ngã

bốn/ Đèn đỏ và đèn xanh/ Ai là người chỉ lối/ Đưa em về bình yên?” (Do dự),

ngay đến cả con sông miệt mài chảy kia vì nó biết cũng có nơi để về “Vì biết

cuối hành trình là biển”, còn tác giả chỉ có một mình với ánh trăng “Tự tròn.

Tự khuyết”.

Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy dù viết cho mình, cho người

cũng mang đầy vẻ suy tư, trăn trở, lúc nào cũng dằn vặt một nỗi niềm cô đơn,

khác khoải. Cái tôi của tác giả luôn trong tâm thức thảng thốt, hãi hùng, nghi

ngờ, thất vọng …. Cảm thức ấy không chỉ được thể hiện qua từng câu chữ mà

còn ẩn chứa qua những hình ảnh thơ. Có thể nói, cái tôi cô đơn, bất an luôn bủa

vây người-thơ.

Sống sâu sắc cuộc sống của chính mình nên tác giả luôn trăn trở, dày vò

với tất cả những gì thoáng qua. Một cơn gió, một vài chiếc lá rơi, thời tiết giao

mùa … tất cả đều khiến tác giả vơ vào để mà suy nghĩ, để mà chiêm nghiệm và

lo sợ. Nhưng cái lo âu trong thơ Bạch Liễu không bi quan, chán nản mà trái lại

vẫn tràn đầy sự hy vọng.

2.3.3. Tình yêu trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu

Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu, ngoài sự cô đơn, sợ hãi và trăn trở thì

chúng ta cũng thấy được tình yêu tràn ngập. Trong thơ chị, tình yêu đôi lứa,

tình yêu thiên nhiên, tình yêu thương con cái, tình yêu đối với những người mà

43

chị gặp khi đặt chân đến những vùng đất xa lạ. Tất cả các cung bậc tình cảm

đều đong đầy trong những vần thơ của chị.

Tình yêu là đề tài muôn thủa, hầu như nhà thơ nào cũng có những bài

thơ, những dòng thơ viết về tình yêu. Vượt qua những nỗi đau, sự sợ hãi, Lưu

Thị Bạch Liễu đam mê và khát vọng trong tình yêu. Khó có thể phân tích rạch

ròi được tận cùng mọi ngõ ngách của tình yêu, nhưng người phụ nữ trong thơ

Bạch Liễu lúc nào cũng nhớ đau đáu về một cái tên đã rất xa nhưng mỗi khi

nghe đến lại làm trái tim run lên:

“Một phần tư thế kỉ

Còn ai nhắc đến …

Trái tim em dù tan thành đất

Linh hồn hóa cỏ cây

Thì vẫn cứ run lên

Khi sóng thời gian gợi đến cái tên này”

(Gửi III)

Có những kỉ niệm tưởng chừng đã quên đi, có những cái tên tưởng

chừng như đã lãng quên vào dĩ vãng, nhưng dường như con sóng thời gian cứ

lật ngược, xô nó lại gần người ta hơn, đến nỗi muốn quên nhưng mỗi khi vô

tình nghe nhắc đến, trái tim người phụ nữ ấy lại run lên. Tác giả biết rằng có lẽ

ngay cả khi bản thân mình tan và đất, linh hồn hóa cây cỏ thì cái tên ấy vẫn

theo chị không rời. Tình yêu sâu sắc, khó có thể bị phai mờ, bị lãng quên bởi

không gian và thời gian. Chị hiểu và chiêm nghiệm được cái mãnh lực, cái sức

hút của tình yêu “Trái tim người đàn bà khi bị hút về người đàn ông của nó/

Không theo quy luật tự nhiên nào/ Bất chấp các nguyên tắc.”. (Đợi III..). Và

tác giả cảm thấy mình may mắn khi gặp được người đàn ông của đời mình. Chị

dâng hiến và nguyên cháy hết mình vì tình yêu ấy “Trái tim em may mắn gặp

người chủ các giấc mơ/ Xin được làm hoa hướng dương/ Luôn hướng về mặt

trời cháy đỏ” (Đợi III…).

44

Tình yêu đẹp ấy đã làm tác giả nhớ nhung da diết khi xa cách. Lưu Thị

Bạch Liễu muốn cho cả thế gian biết được tình yêu của mình, Tác giả muốn

nhờ gió đưa tiếng lòng của mình đến tất cả mọi người, muồn nói cho cả thế

gian biết được “Em yêu anh!”.

Em chọn con đường nhiều gió

Hét gọi tên anh

Gió đưa tiếng em thật xa

Cho cả thế gian đều biết

Em yêu anh!

(Nhớ …)

Thật là không khiêm tốn. Nhưng cũng phải thôi, người ta nói rằng trong

cuộc đời có những thứ không bao giờ giấu được đó là kẻ say rượu, người điên

và kẻ đang yêu. Người đang yêu lúc nào cũng muốn nói về người mình yêu.

Chính vì vậy chúng ta thấy cái ý nghĩ muốn cho cả thế giới biết về tình yêu của

mình thì không phải chỉ có Bạch Liễu, nhưng chị táo bạo đến độ muốn hét to

tên mình để gió mang đi, để cho tất cả biết rằng Bạch Liễu đang yêu, đang nhớ.

Và Bạch Liễu đã không ngần ngại để thế hiện cái nỗi niềm nhung nhớ,

cái khao khát yêu đương ấy. Khi xa nhau, nhà thơ đã chọn cho mình cái cách

đề vượt qua khoảng thời gian dường như dài vô tận ấy:

“Em chọn con đường nhiều nắng

Để thiêu đốt em

Như môi và mắt anh đầy lửa”

(Nhớ …)

Vượt qua nỗi e dè, sợ hãi, nhà thơ bộc bạch nỗi niềm tâm sự, cảm nhận

của mình vè “anh”. Không có sự cao ngạo của người nữ trong cuộc yêu, chị

luôn thẳng thắn thú nhận lòng mình. Chị biết rằng trong tình yêu không có chỗ

cho sự sĩ diện, cho sự phân định nam nữ. Ai yêu cũng muốn mở lòng, và hình

như khi người nữ yêu họ thường dễ “dại khờ” hơn chăng để rồi tất cả những

45

suy nghĩ chị được chị tâm sự qua bài thơ “Thiêu thân”. Chị thấy mình như con

ốc sên sống nhút nhát, ẩn mình, để rồi khi “anh” đến, con ốc sên nhút nhát yếu

hèn ấy bỗng hóa thành con thiêu thân, sẵng sàng lao vào ánh đèn của tình yêu,

không cần biết ngày mai sẽ ra sao. Có thể là một kết cục chẳng mấy tốt đẹp

nhưng nhà thơ vẫn chọn sống và yêu hết mình

Nhưng đâu cần biết đến ngày mai

Cả hôm nay, đâu cần biết hôm nay

Chỉ sống phút này cho mãi mãi

Biết không bao giờ làm lại

Em vui đùa, kiệt sức, nằm yên

Còn kiếp nào để hạnh phúc yêu đương

(Thiêu thân)

Trong tình yêu, Lưu Thị Bạch Liễu cũng đã từ bỏ hết sự tự tôn, kiêu

ngạo của mình, chỉ còn lại là người đàn bà yêu và khao khát được yêu:

Anh chìa tay

Đủ biến kẻ nghèo khó thành nữ hoàng

………………….

Là bà hoàng trong vương quốc của anh

Em lại thấy mình là con cún nhỏ

Lân la nằm dưới chân

Nịnh nọt chủ bằng cái lưỡi mềm

(Một mình)

Trong tình yêu, sự kết hợp về thể xác và tâm hồn làm cho tình yêu trở

nên linh diệu hơn. Lưu Thị Bạch Liễu đã thể hiện khát vọng được nâng niu

nhưng cũng rất chủ động, mạnh mẽ và quyết liệt đấu tranh cho tình yêu, dành

tình yêu và sẵn sàng đi đến tận cùng của bản thể.

Trong thơ Bạch Liễu ta thấy tác giả đã rất chủ động trong tình yêu. Dẹp

bỏ qua mọi tự ái, sĩ diện, người phụ nữ trong thơ của tác giả luôn sẵn sàng chờ

46

đợi, bất chấp cảm xúc cô đơn, chủ động đón nhận cả những đắng cay, tủi hờn

của tình yêu và xem đó như là hương vị của tình yêu …. Dù ở tâm thế nào đi

chăng nữa chúng ta cũng không thấy sự tuyệt vọng, chán chường, bởi vì những

vui, buồn, hạnh phúc ấy là gia vị không thể thiếu trong tình yêu.

Chủ động yêu, dâng hiến hết mình cho tình yêu nhưng không hèn yếu,

tác giả cũng rất quyết liệt khi kết thúc cuộc tình. Khi thời gian và sự chờ đợi

không được đền đáp, tác giả đã không tìm mình vào góc tối để mà gặm nhấm

sự đau buồn tổn thương mà chọn cách đóng lại cánh cửa tình yêu ấy, bởi vì nửa

kia không phải của mình nên họ không thể nhận được ra sự hi sinh của mình.

Chị đi tìm cho mình cái nửa mà thượng đế đã tạo ra cho chị, dù cho

trong cuộc kiến tìm ấy gặp không biết bao nhiêu khó khăn, bị thương không

biết bao nhiêu lần.

Trăn trở trước những còn và mất, trước bình yêu và bão tố trong tình yêu

nên chúng ta nhận ra sự lo âu trong thơ chị. Lo âu ngay cả khi đang hạnh phúc

Em không dám nghĩ

Không dám nhìn

Sợ anh biết em biết anh yêu em biết mấy

Em đến với anh

Dù cuối đất cùng trời

Nhưng ánh mắt ở đời

Không dễ gì vượt nổi

Anh ơi!

(Gửi… I)

Nhưng chị không chùn bước. Với chị tình yêu là lẽ sống, chỉ khi nào mệt

mỏi thì người phụ nữ khát khao yêu thương ấy mới tạm nghỉ chân để rồi tiếp

thêm sức sống mới trên con đường đi tìm tình yêu, hạnh phúc của chính mình.

Càng lo lắng bao nhiêu chị càng cả tin, gắn bó với con người bấy nhiêu. Chị

lặng lẽ hi sinh, lặng lẽ kiếm tìm. Trong thơ chị chúng ta thấy lấp lánh một niềm

tin yêu hi vọng. Biết rằng yêu là đau khổ nhưng chị vẫn tin vào tình yêu.

Không phải là cô gái mới lớn lần đầu biết yêu, bẽn lẽn trong tình yêu để mà

47

phải dấu những tình cảm những khao khát nhớ nhung vào thơ để mà tiếc nuối.

Tiếng thơ của tác giả là tiếng nói của người đàn bà từng trải, biết tận hưởng

cuộc sống và biết dâng hiến cho tình yêu. Chi không chỉ muốn biểu hiện tình

yêu ấy trên trang viết mà còn muốn tạo dựng, phơi mở một thế giới khác trong

chính thế giới hiện thực, vươn tới đầy khao khát và mãnh liệt. Qua thơ chị ta

thấy một tâm hồn yêu đa cảm, tinh tế, luôn rung lên những nhịp cảm xúc nóng

bỏng, chân thực.

Ngoài tình yêu đôi lứa, ta còn thấy ánh lên tình yêu đối với cô con gái

của mình. Chị coi cô con gái của mình như một người bạn để những khi mỏi

mệt có người bầu bạn, tâm sự. Con chính là dây nối để níu giữ mẹ những lúc

mệt mỏi muốn buông trôi “khi mẹ sắp rơi/ con níu/ khi mẹ sắp trôi/ con neo”

(Hằng). Thường thì trong thơ chúng ta hay bắt gặp hình ảnh mẹ chở che cho

con, là nơi con tở về mỗi khi mệt mỏi thế nhưng trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu

chúng ta lại thấy điều ngược lại, con lại là nơi che cho mẹ, là nơi an ủi nỗi buồn

cũng như là người chăm sóc lúc mẹ ốm đau, trách cứ mỗi khi mẹ mắc lỗi. Cảm

thấy như vai trò mẹ con trong thơ của tác giả đã được đổi ngôi.

Khi mẹ mắc lỗi

Mẹ trên đường gục ngã

Con trách cứ, vỗ về

Con xòe cánh chở che

Mẹ ốm đau buồn nản

Con an ủi, chăm lo

Mẹ cố sống thật tốt

Làm bạn con suốt đời

Vịn vào con gái nhỏ

Mẹ không còn chơi vơi

(Hằng)

48

Khi mẹ buồn thì mẹ không muốn cất tiếng ru vì sợ trái tim nhỏ bé của

con không thể chứa đựng được nỗi buồn của mẹ “Mẹ không thể ru con/ bằng

nỗi buồn của mẹ/ trái tim con nhỏ bé/ không đủ chứa nỗi đau” (Hát ru). Người

mẹ ấy cũng tâm sự với con gái nhỏ của mình về cuộc sống. Chị dạy con mọi lẽ

sống ở đời, muốn dạy con nhiều điều nhưng thấy mọi thứ đều chỉ đúng một

nửa, chị không muốn những điều nửa vời ấy “nên cả bài hát ru/ chỉ là hai tiếng

à ơi… dang dở…” (hát ru).

Chị tâm sự với con gái về những điều tốt đẹp nhất, nói với con về tình

yêu thương của cha mẹ dành cho con bằng những lời lẽ giản dị đầy yêu thương.

Con là thiên thần đến bên cuộc đời của cha mẹ trong một buổi sáng mùa xuân,

khi mà mẹ còn chưa kịp may áo sơ sinh, chưa kịp mua tã lót. Chị yêu con gái

nhưng lại sợ làm thân con gái sau này khổ, lại đa đoan giống mình chăng nên

chị đã nói tâm sự của mình với con:

“Mẹ từng luôn ao ước con là con trai

Biết nghe hát dân ca và sửa tủ lạnh

…..

Là con trai

Con sẽ có rất ít thời gian để buồn

Mẹ sẽ không phải lo lắng khi con về muộn

Con sẽ chọn một cô dâu thật tốt

Rồi nhà mình sẽ đông đúc cháu con”

(Con gái)

Chị không dạy con mình những điều màu hồng đẹp như trong cổ tích. Từ

những trải nghiệm của cuộc đời mình, chị dạy cho con biết những sóng gió

cuộc đời rồi con sẽ phải trải qua nhưng sau hết, hạnh phúc sẽ luôn mỉm cười

khi con cố gắng “Con gái ạ, cuộc đời là như thế/ Dẫu ngã rồi, hãy cố đứng

lên.” (Nói với con)

49

Thơ viết về con của Lưu Thị Bạch Liễu không nhiều nhưng qua những

vần thơ của chị, ta thấy đứa con chính là niềm tự hào của chị. Không những lời

màu mè hoa mĩ, không cổ tích hay giáo điều, những lời người mẹ nói với con

giống như hai người bạn. Đôi khi, ta còn thấy sự dựa dẫm của tác giả vào chính

cô con gái bé bỏng của mình. Con chính là niềm tin, an ủi, là ánh sáng để sưởi

ấm, là điểm tựa tinh thần cho mẹ đau khổ, cô đơn.

Là người mẹ, chị đồng cảm với những người phụ nữ phải xa nhà, xa gia

đình đi trông trẻ để mong kiếm được đồng tiền nuôi con “Xứ lạ mẹ ôm con

người/ Cơm chan nước mắt/ Mồ côi con mình”. Đây chính là thiên tính nữ trong

thơ của Lưu Thị Bạch Liễu cũng như trong thơ của các nhà thơ nữ Thái Nguyên.

Để quên đi những muộn phiền trong cuộc sống, nhà thơ đi, trải nghiệm

và dành tình yêu cho những nơi mình đã đến. Với bất cứ nơi nào, nhà thơ dường

như cũng “yếu lòng” để mà yêu mến, để mà trao gửi nhớ thương. Phải chăng tâm

hồn ấy nhạy cảm hay là quê hương đất nước quá đẹp để mà yêu thương?

Đi qua mỗi một miền đất, tác giả lại gửi tâm tình của mình. Về Phú

Lương mơ thấy mình hóa thân thành nàng tiên nữ “Mơ thấy mình bay về trời/

mang mây xuống giặt” để rồi khi xa “Ngỡ sẽ chẳng có gì để thương/ Mà tim cứ

trĩu hình bóng núi/ Lặng lẽ ai nhìn như muốn hỏi/ Em xa rồi, có về lại Phú

Lương?” (Nhớ Phú Lương). Ngồi một mình lặng lẽ nơi thành Tuyên nhìn sông

Lô sóng nước, mây ngang mạn thuyền để mà nhớ đến “cố nhân”, với những kỉ

niệm của năm nào (một mình 2). Đất Hà Giang cheo leo vách núi, thị xã bé nhỏ

trầm tư, những ngôi nhà mây giăng ngang cửa, “đàn ông Hà Giang trầm như

núi/ cuồng nhiệt như dòng chảy” … tất cả đã để lại nhớ thương khi xa:

tôi rời Hà Giang

trên chiếc xe vắng khách

không lời chào

vì mây và núi còn đang mải ôm nhau

chỉ sông Lô hổn hển đuổi theo

dặn tôi đừng quên tình người Hà Giang như cây trên đá

bám rễ rồi là xanh đến muôn sau

(…………..)

50

Rời Hà Giang, đến đất Tuyên Quang với hình ảnh những cô gái Tuyên

xinh đẹp, nhà thơ lại để lòng mình lạc vào những địa danh như thác Mơ, sông

Gâm, sông Năng, Pác Tạ… (Na Hang) và khi ở Thái Nguyên rồi thì những hình

ảnh thác đổ, dòng sông lại nhở thành nhớ mong trong lòng tác giả. Phải chăng

đó là nỗi nhớ đất hay nhớ người để rồi “thèm trở lại Na Hang”.

Ta cũng bắt gặp Lưu Thị Bạch Liễu “nhẹ dạ” muốn bỏ nhà để theo người

yêu về Cư Lễ để được nhìn ngắm đại ngàn, những dòng suối và những ngôi

nhà sàn ngủ yên bên chênh vênh sườn núi giống như những chiếc tổ chim, theo

anh về để cùng sống trong không khí yên bình của làng bản với đám mây trăng

như tóc bà, để được nghe điệu sli mỗi tối, để hạnh phúc và để được yêu (Yêu

anh, em về Cư Lễ).

Cảnh sắc núi rừng là cảnh sắc quen thuộc trong thơ trong thơ Lưu Thị

Bạch Liễu. Những dòng sông có tên hoặc không tên, những bản làng với mái

cọ, với nhà sàn, cầu thang . .. những địa danh vừa cụ thể nhưng lại dường như

giống tất cả những địa danh miền núi khác, chỉ biết là ở vùng cao Hà Giang

cũng được, Cao Bằng, Sơn La hay Bắc Kạn cũng chẳng sai.

Nhưng tác giả dành nhiều tình yêu cho miền đất nơi chị sinh sống, nơi có

những người yêu thương chị, những người chị yêu thương, nơi có cô con gái bé

nhỏ của chị qua tập thơ “Sông Cầu đang chảy đâu đây”...

Dòng sông Cầu trong thơ của tác giả là dòng sông quan họ, dòng sông

của những kỉ niệm vui buồn. Trong tập thơ này, tác giả không còn vùi mình

vào nỗi cô đơn, sợ hãi mà dường như đã trải lòng mình, hướng ngoại hơn. Phải

chăng chị biết, dòng sông Cầu sẽ không quay lưng, bỏ rơi chị, chị gửi gắm lòng

tin, tình yêu nới dòng sông quê hương để mà bộc bạch nỗi lòng mình. Phải yêu

dòng sông quê, phải gắn bó máu thịt thì mới cảm nhận được vẻ đẹp của nó

Ven sông Cầu cất nhà ta ở

Trong bão bùng nghe sóng nước ngân vang

Bờ phù sa óng nâu bờ mật

Bông lúa vàng Kim Quý Kim Cang

(Sông Cầu đang chảy đâu đây)

51

Con sông Cầu ấy là nguồn cảm hứng thi ca của tác giả. Đã có làn tác giả mơ

ước được hóa thân làm Mỵ Nương trong một đêm trăng

Mị Nương em bỏng khát

Chao nghiêng chén bạch đàn

Chỉ vục được xác nước

Hồn sông đã vụt tan

(Sông Cầu)

Hay đơn giản hơn, sông Cầu là nơi mà khi con người ta trống rỗng, mệt

mỏi, muốn giải tỏa những căng thẳng trong cuộc sống thì đến bên bờ sông để

Một ngày làm gì cũng không nổi

Thì ra bờ sông xem cát reo

Một ngày làm gì cũng không xong

Thì ra bờ sông xem ngô trổ

Phấn theo gió cuốn mãi phương nào

Phất phơ run một vài cành hoa cũ

(Một chiều)

Hay chỉ đơn giản là ngắm dòng sông “ngắm cà phê/ Cùng nhấp dòng

sông Cầu đang chảy” để lắng nghe “Thái Nguyên trăng rơi/ Đẫm từng câu

hát” (Trôi cùng đêm).

Một tình yêu nữa dành cho những địa danh nơi tác giả đi qua đó là

Trường Sa. Sau chuyến đi thực tế ngoài Trường Sa về, tác giả đã cho ra mắt tập

thơ “Trường Sa! Ơi Trường Sa!”. Tập thơ là những tình yêu chị gửi đến biển,

đến đất, đến những con sóng bạc đầu, đến những người lính và cả vạn vật trên

đảo. Nơi đây, chị bỗng như người con gái mới lớn lạc nhịp trong tình yêu của

một người lính đảo nên đành:

52

Giấu mình sau cánh cửa

Nghe tim đập dồn không kịp thở

….

Em không thể tin ở nơi cùng trời cuối đất

Em quay cuồng trong một ánh mắt”

(Thơ tình trên sóng 1)

Niềm tự hào về biển đảo, thấy mọi vật đều trở nên đáng yêu, đáng trân

trọng. Một lớp học nhỏ, một con ốc biển, một vườn rau, một ngọn gió cũng gợi

nên tình yêu trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu. Thế nên khi trở về đất liền, tập thơ

là lời tri ân, là lời cảm ơn của tác giả đến người đến vật trên đảo, trong đó có cả

lời gửi đến người lính đã làm xao xuyến trái tim “thiếu nữ” của người đàn bà

Bạch Liễu “Nhờ cánh hải âu chở mênh mông thương nhớ/ Tới người yêu đang

nơi đầu sóng gió” (Gửi đảo xa).

Đến với thơ là Lưu Thị Bạch Liễu muốn trải lòng mình với đời, với

người. Những cung điệu buồn, vui được chị trải ra trên trang giấy như là một

lời tri ân, một lời cảm ơn cuộc đời đã cho chị được sống và được yêu, được

rung động và cả những lo âu. Để rồi “Đến khi về với cát/ Hồn lại gửi vào cây/

Lá cành reo tiếng nhạc/ Tri ân cuộc đời này” (Gọi ngày xưa).

Tiểu kết chương 2

Thơ của ba nhà thơ nữ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và

Lưu Thị Bạch Liễu đã phản ánh tâm hồn, thế giới nội tâm của những người phụ

nữ đa đoan, nhạy cảm, là cách các chị nhìn đời thông qua lăng kính của trái tim

người đàn bà. Thiên tính nữ, số phận đa đoan, khát vọng về hạnh phúc và tình

yêu, những trăn trở về cuộc sống, về con người…. chính là những chiều sâu

trong thơ của các chị. Khát vọng được thể hiện cái tôi, sống vì mình và để sống

cho những người xung quanh, các chị không ngần ngại bộc lộ những dòng tâm

sự của mình. Mỗi nhà thơ có một cách thể hiện cái tôi riêng của mình và tạo

53

cho mình một phong cách nghệ thuật riêng biệt. Thơ của Bạch Liễu không phải

để đọc thuộc bởi vì những vần thơ trúc trắc, những dấu nghỉ, dấu lặng như

tiếng lòng của chính nhà thơ mà chúng ta chỉ có thể đọc và chiêm nghiệm, suy

ngẫm. thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh lại là tiếng nói dịu dàng của người phụ nữ

đã trải bao nỗi truân chuyên của cuộc đời. Với Vân Trung ta thấy đó là một

khát khao tình yêu bất tận, giống như tựa đề tập thơ “Hoa bất tử”.

Tiếng nói của các nhà thơ đã được cất lên theo một điệu tâm hồn riêng,

mà qua những bài thơ, tập thơ của các chị, ta ghi nhận sự đóng góp không nhỏ

của các chị vào sự phát triển của văn học Thái Nguyên nói riêng và văn học

đương đại Việt Nam nói chung.

54

Chương 3

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ NỮ

THÁI NGUYÊN (QUA THƠ TRẦN THỊ VÂN TRUNG, NGUYỄN THÚY

QUỲNH, LƯU THỊ BẠCH LIỄU)

3.1. Hình tượng thời gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy

Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu

3.1.1. Thời gian hoài niệm trong thơ Trần Thị Vân Trung

Thời gian hoài niệm là một trong những đặc điểm nổi bật trong thơ Trần

Thị Vân Trung. Đây là đặc trưng trong thi ca phương Đông. Con người ta

thường có tâm lí tìm về quá khứ để nhớ tiếc những gì đã qua, để quên đi hiện

tại đau khổ. Trong thơ Trần Thị Vân Trung, chúng ta thấy tâm trạng nhớ tiếc

quá khứ thường trực nổi bật.

Tất cả những gì thuộc về quá khứ trong thơ Vân Trung đều chưa chan

cảm xúc: nơi góc phố lần đầu hai người yêu nhau hẹn hò có vầng trăng làm

chứng, trong căn phòng nhỏ nơi đất khách quê người nhớ về những kỉ niệm

tình yêu, trước biển nhớ về một ánh mắt, một nụ cười của ai đó… hay đơn giản

chỉ là những hoài niệm về thời gian đã trôi qua, tuổi trẻ đã lùi xa. Nhớ về quá

khứ, những sự vật nhỏ bé, tưởng như vô tri vô giác cũng trở thành đối tượng để

Vân Trung bày tỏ tâm trạng của mình. Quá khứ với đầy đủ cung bậc cảm xúc

được tái hiện trong thơ Vân Trung.

Cô gái bé nhỏ ngây thơ trong tình yêu của Vân Trung luôn cháy rực nhỗi

nhớ người yêu khi hoa phượng về:

“Hoa Phượng đỏ như đuốc trong không gian

Đốt cháy cả bầu trời thành phố

Đốt cháy cả tình em trong nỗi nhớ

Những ngày hè rực lửa - vắng xa anh!”

(Hoa Phượng tháng Năm)

55

Quá khứ đẹp, bình yên nên trong cái bộn bề của hiện thực, trong sự vụn

vỡ niềm tin hiện thực, chị tìm về với hoài niệm để thấy mình sống lại, để thấy

mình vẫn còn là một cô gái trẻ với đầy nhiệt huyết và đam mê.

Ta như nhận thấy

Cái thời xa xanh cũ

Qua mái tóc của em

Buông hờ trên vai nhỏ

Và những tháng ngày thơ ngây ấy, cô gái tuổi trăng tròn ấy còn chưa biết

yêu, chưa dám yêu “Cái thời chưa lớn khôn/ Mọi điều đều lạ lẫm/ Cái thời

chưa… dám hôn…./ Chỉ nhìn …. Mà say đắm!” (Tuổi mười sáu). Giờ đây khi

đã trải nghiệm, đã đủ chín chắn trong cuộc đời thì người phụ nữ Vân Trung tiếc

nuối “Thế mà… đã xa rồi…./Cái thời - mười sáu tuổi! Mùa Xuân trôi quá vội/

Để lại bao vấn vương” (Tuổi mười sáu).

Những từ ngữ, hình ảnh trong thơ Vân Trung như con thuyền, cánh

buồm, tiếng còi tàu, ánh trăng… đều chuyên trở tâm trạng của nhà thơ. Tiếng

còi tàu hiện tại làm cho tác giả nhớ về tiếng còi tàu của quá khứ, nhớ đến nơi

bắt đầu của tình yêu: “Chỉ có một lần thôi/ Con tàu chậm cho chúng mình gặp

gỡ/ Để hôm nay/ Tiếng còi càng khắc sâu nỗi nhớ/ - Ngày ấy, mình gặp nhau”

(Ngày ấy … quen nhau).

Thời gian hoài niệm, day dứt về quá khứ đưa tác giả về căn phòng kỉ

niệm với đầy ánh trăng, với hạnh phúc nồng nàn, cháy bỏng “Đôi mắt em thiết

tha/ Đôi môi em nồng cháy…/ Hạnh phúc ngập gian phòng” (Căn phòng kỉ

niệm). Quá khứ đẹp là thế để quay về thực tại thật buồn để tác giả ước:

Nỗi buồn - nếu có thể tan ra thành nước mắt

Cháy đến cạn khô - đôi mắt hóa mù lòa

Và sa mạc - tâm hồn thành đói khát

Vì một tình yêu phiêu lạc…. cuối trời xa!

(Nỗi buồn…)

56

Hay một mình cô đơn trong đêm giao thừa

Em nâng chén đắng cay

Thấy hình anh trong đó

…Đã má hồng, môi đỏ

Em dốc cạn … chén này!

(Uống rượu đêm giao thừa)

Hiện thực phũ phàng đến tận cùng, kỉ niệm đẹp biết bao chính vì vậy mà

tác giả đã ru kỉ niệm, để cho kỉ niệm ngủ yên, để cho quá khứ luôn đẹp mãi

trong lòng mình:

Thôi ngủ đi! - Những kỉ niệm đẹp xinh

Không bao giờ già, không bao giờ cũ

Xin ngăn lại - ôi! dòng thác lũ

Đừng cuốn ta trôi trong nỗi nhớ xa vời…

(Khúc ru kỉ niệm)

Nhịp điệu thời gian trong thơ Trần Thị Vân Trung tương đối chậm. Chị

để thời gian chậm trôi cho mình sống với quá khứ. Những lúc ấy, chúng dường

như thấy một Vân Trung đắm chìm vào cảm xúc, quên đi thực tại, cảm giác

như chị chẳng thể nào thoát ra được các hình ảnh của quá khứ. Chị hồi tưởng

lại những ngày tháng có “anh”, lúc tình yêu còn nồng cháy, mãnh liệt, cũng

giống như bốn mùa của đất trời:

Em nhớ anh

- Như Hè về nhớ những trận mưa rào,

nhớ tiếng sét chói tai,

nhớ nhập nhoằng ánh chớp

Em nhớ anh

- Như cây Đông nhớ rét

nhớ đến quắt gầy,

đến nâu sạm làn da.

57

Em nhớ anh

- Như mùa thu nhớ lá vàng

rụng rơi đầy mặt đất

- Như trăng thu cuối tháng

nhớ võ vàng…

Cái nỗi nhớ của người đàn bà lỡ dở trong thơ Vân Trung làm cho người

băn khoăn, day dứt. Nỗi nhớ mong của Vân Trung dường như không bao giờ

dứt. Chị nhớ tất cả những gì là niềm vui, nỗi buồn trong quá khứ. Đọc những

dòng thơ của chị, ta thấy xúc động về một tình yêu cháy bỏng. Ta cũng cảm

nhận phải chăng trong tình yêu chị đã cho đi quá nhiều, như con tằm rút ruột

dâng cho tình yêu những sợi tơ vàng óng, để lại một thân hình gầy mòn, héo

hắt. Nỗi nhớ ấy trở thành ám ảnh, thường trực trong chị, để ngay cả khi đêm về

“Giật mình, tỉnh giấc, giơ tay kéo/ Vào lòng…. cả một… khối hư không”. Quá

khứ tồn tại bùng lên trong thơ Vân Trung nhiều khi làm chị nghẹt thở, chị tìm

quên cả quá khứ lẫn hiện tại trong men rượu:

Một li này, một li nữa mà thôi

Vẫn còn rượu đây, đầy thêm chút nữa

Ai đã thắp - trong em ngọn lửa

Ai mang đi còn lại đống hoang tàn

(Chuốc rượu cho mình)

Vậy là không chỉ có đàn ông mới tìm quên trong men rượu. Thời gian là

liều thuốc hữu hiệu nhất để xóa nhòa đi kí ức nhưng cũng có khi thời gian chở

kí ức theo cuộc đời con người đến tận khi về bên kia thế giới. Chính vì vậy,

niềm vui, nỗi buồn trong quá khứ đều là những kỉ niệm đẹp để giúp chị nhìn

nhận hiện tại, để mà vươn lên sống tiếp. Thời gian vẫn sẽ vô tình như ngàn đời

vẫn vậy, chỉ có người thơ hữu tình luôn đi bên cạnh thời gian. Hiểu được điều

đó nên khi đối diện với quá khứ, chị lại dự cảm về tương lai, người đàn bà đầy

đau khổ, băn khoăn ấy “Trong khung của sổ bằng gỗ mun được chạm trổ tinh

58

vi/ Có một người đàn bà sang trọng. Kiêu hãnh. Cô đơn. Mòn mỏi. Im lìm….

Tôi run lên - khi nghĩ: Có một ngày/ Khung cửa gỗ mun kia không có người

đàn bà ấy/ - Người đàn bà sang trọng. Kiêu hãnh. Cô đơn. Có lửa ở bên

trong!” (Sẽ có một ngày). Và nhà thơ Vân Trung cũng có ngày mỏi tay bút, để

trang viết bị bụi nhện chăng đầy theo thời gian “Đôi guốc mỏi mòn - xếp đầy

chân tủ/ Trang viết mỏi mòn - bụi nhện chăng đầy/ Tâm hồn mỏi mòn - mắt

quầng ngơ ngác/ Trái tim mỏi mòn xao xác… yêu đương…!” (Tản mạn). Thời

gian chầm chậm trôi để Vân Trung có thể bộc bạch nỗi lòng mình, đó là những

hờn ghen, những băn khoăn tự hỏi, để nhớ về những giây phút xao lòng trước

một ánh mắt, một nụ cười của ai đó và rồi tự mình cứ dối lòng, cứ tìm cách để

lẩn trốn tình yêu “Có phải lỗi lầm - với kẻ mến yêu không?/ - Khi ta trốn tình

yêu thương chớm hé,/ - Khi ta khép lòng ta tươi trẻ,/ Để tôn thờ…. Một kẻ

hững hờ… không” (Có phải lỗi lầm). Tự băn khoăn nhưng cũng là lời trách

móc gửi đến ai đó đang có được tình yêu của Vân Trung nhưng lại không biết

quý trọng, giữ gìn.

Day dứt về quá khứ nhưng cuối cùng vẫn là con người của hiện tại nên

chị phải sống với hiện tại. Chị cảm thấy mình như trẻ lại khi nhìn các em nhỏ

đang tập múa, giống như những cánh chim thiên nga nhỏ “Rung rung trong

nắng/ Như bao cánh hoa/ Trong ngày xuân thắm”. Chị cũng trở nên tinh

nghịch khi bắt gặp những dòng thơ trên vách núi để mà bạo dạn gọi vị vua sống

cách chị vài thế kỉ là “chàng”. Chị thấy như mình trẻ lại, để mà ngắm nhìn, để

mà chiêm ngưỡi vẻ đẹp của con người cũng như những nét bút tài hoa của

“chàng” thi sĩ Thánh Tông. Chị khẳng định “Thời gian phủ niềm vinh quang

cũ, Riêng Người thơ - trẻ mãi… tận bây giờ!” (Gửi chàng thi sĩ Thánh Tông).

Người thơ của muôn năm cũ còn trẻ mãi, còn người thơ Vân Trung thì sao?

Phải chăng chị muốn gửi đến người đọc lời nhắn gửi rằng có thế Vân Trung già

đi theo thời gian như quy luật cuộc đời nhưng thơ Vân Trung vẫn còn trẻ mãi.

59

Như vậy, thời gian trong hoài niệm trong thơ Vân Trung thường mang

màu sắc nhớ tiếc một thời đã qua hay là hồi tưởng lại những gì tươi đẹp. Nhưng

dù có như thế nào thì chúng ta vẫn thấy một hồn thơ Vân Trung đằm thắm, dịu

dàng và đầy sự hi sinh, nhất là trong tình yêu.

3.1.2. Thời gian hiện tai với cảm nhận cá nhân trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu

Cuộc sống nơi phố xá ồn ào đã đem đến trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu sự

cảm nhận thời gian đậm tính cá nhân. Chị ý thức được sự quý giá của thời gian

và của đời người. Chúng ta nhận thấy người phụ nữ cô đơn đi qua hết nửa đời

người mới tìm được bản thể

“đã đi

quá nửa cuộc đời

mới hay

đất gọi

ơi hời

dưới chân”

(Độc hành)

Thời gian trôi nhanh, con người bận bịu với vòng xoáy cuộc đời, hết bốn

mùa của đất trời, giật mình nhìn lại thì thời gian đã không còn chờ đợi mình

nữa mà chỉ còn đất gọi tên. Lưu Thị Bạch Liễu ý thức sâu sắc về sự trôi chảy

của thời gian nên chị buồn, chị tiếc cho thời thanh xuân đã trôi qua nên chị

sống vội vàng, mãnh liệt:

“Mùa hạ tôi nhan sắc tuổi ba mươi

Rừng rực cháy đến từng chân tóc”

Thời gian thật khắc nghiệt. Con người hữu tình mà thời gian lại vô tình

nên nhà thơ chấp nhận đánh đổi cuộc đời để được sống hết mình với cái bản

ngã của mình: “Mong một lần được cháy/ dẫu tàn tro suốt đời” (du xuân). Thế

những đấy chỉ là những phút giây bứt phá, sau đó chị lại trở lại với thiên tính

60

của người phụ nữ. Chi lặng lẽ đi bên thời gian, cảm nhận sự chảy trôi của thời

gian để mà tiếc nuối, chờ đợi một bóng hình:

“Mặt trăng mải theo trái đất

Bao buồn vui

Lúc khuyết

Lúc tròn

Em

Cả đời quay cuồng ảo mộng

Chưa một lần mỏi mệt như trăng”

(Đợi)

Thời gian tàn phai, con người yêu trong Liễu còn đấy nên Liễu buồn,

chấp nhận đồng hành cùng thời gian, tranh thủ từng phút giây…

Nhưng ta cũng thấy thời gian hiện tại trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu cũng

có những nét vui, nét nhí nhảnh yêu đời trong bài “Mở cửa ra nào”. Khi mở

cánh cửa của ngôi nhà là thấy xuân về, thấy tiếng mưa rì rào, tiếng gõ cửa của

gió. Mùa xuân của đất trời hay mùa xuân của lòng người, để thấy lòng mình rạo

rực “Phơi phới sắc hồng nhưng nhức/ Nàng rừng rực/ Xuân” (Xuân của Picaso).

Đôi khi, chán chường, tuyệt vọng, mệt mỏi nhà thơ lại mong cho thời gian chóng

qua “Sức có hạn cuộc đời ngắn vậy/ Bao giờ mới hết một vòng quay?”

Nhưng thời gian để diễn tả những tâm trạng vui tươi, phấn khởi thường

trôi qua rất nhanh, còn khi tâm trạng u sầu, cô đơn thời gian lại chảy trôi rất

chậm. Chị để thời gian trôi để mà thả lỏng tâm hồn mình hòa cùng thiên nhiên

“Thèm một người ngồi bên/ Ngắm cà phê với em/ Cùng nhấp dòng sông Cầu

đang chảy ….. ” (Trôi cùng đêm).

Trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta không thấy nhiều hoài niệm về quá

khứ và cũng không có những dự đoán cho tương lai. Ta thấy trong thơ chị là

thời gian của hiện tại, của những gì đang tồn tại. Phải chăng chị quan niệm rằng

ngày hôm qua là quá khứ, là thời gian đã qua, ngày mai thì chưa đến nên chị

61

sống hết mình cho ngày hôm nay. Sống với hiện tại nên trong thơ Lưu Thị

Bạch Liễu ta thấy đó là sự giao hòa với thiên nhiên, với con người, nhất là đất

và con người Thái Nguyên. Trên mảnh đất Thái Nguyên ấy, ta thấy tình yêu chị

dành cho dòng sông Cầu rất lớn. Khi vui cũng như khi buồn, chị đều tìm đến

với sông để mà bầu bạn. Hòa hợp với thiên nhiên nên trong chân dung tự họa,

Lưu Thị Bạch Liễu ví mình giống như một thân cây suốt đời mọc thẳng, cho dù

chỉ là một thân gỗ tầm thường thì cũng giúp cho đời sưởi ấm.

Không mơ làm gỗ quý

Không mộng làm thuốc tiên

Sưởi ấm lòng nhân gian

Chính với lẽ sống ấy nên chị chẳng sợ thời gian trôi, chị sống hết mình ở

hiện tại để sau này khi trở thành quá khứ chị không tiếc nuối: “Tôi hóa bức

tường câm lặng/ Mặc thời gian bệch bạc rêu phong” (Đợi).

Chị cảm thấy tự hào, bình an, và được khám phá khi rong ruổi khắp mọi

miền để làm thơ, quên đi thời gian thực tại. Và trên con đường khám phá ấy,

chị bỗng ngản ngơ khi bắt gặp hình ảnh

Nhìn lung linh bóng đỏ

Áo người chèo thuyền thắm những ngù hoa

(Thèm trở lại Na Hang)

Hay đó cũng là cảm giác rợn ngợp trước một thiên nhiên rộng lớn, nó

khiến cho con người trở nên vô cùng nhỏ bé: “ thượng nguồn sông Miện/ Nơi

chỉ có chớp và trời” để … “thấy thế nào là sông chảy […] biết thế nào là mây

bay” (Gửi Hà Giang).

Tác giả cũng hòa mình với những đêm hội của đồng bào vùng dân tộc,

để sống trong không khí và những sản vật của địa phương:

62

Thèm được trở lại Na Hang

Lênh đênh trên căn nhà nổi của ông Chuyền

Người đàn ông oang oang sóng nước

Sẵn sàng thết bạn món cá tiến vua

Hàng năm xa vẫn còn vương vất say rượu ngô

Cùng vị cay dưa cải Mèo trồng trên nương đá

(Thèm trở lại Na Hang)

Cùng người yêu về quê hương, nơi có dòng sông chảy quanh, để sống

một cuộc đời giản dị, được leo lên chín bậc thang nhà sàn, được ngắm nhìm

mưa rừng rơi, những hạt mưa lăn trên mái nhà đơn sơ của mẹ, sống một cuộc

sống bình yên, không bon chen, không đau khổ

anh hẹn trời mưa sẽ đem em về quê

nhìn mưa lăn trên mái nhà của mẹ

lăn qua chín bậc cầu thang thành dòng sông nhỏ

chảy một đời không tới nổi bình yên

chảy cả đời không tới nổi bình yên

(Người yêu)

Hay chị lại trở về dòng sông quê quen thuộc, ở nơi ấy chị thỏa mình

trong dòng nước mát lành, để sống lại với chính bản thể, những khát khao

của mình:

Mỵ Nương em bỏng khát

Chao nghiêng chén bạch đàn

Chỉ vục được xác nước

Hồn sông đã vụn tan...

63

Cũng có khi chị cũng thao thức, băn khoăn vì tình yêu, để mà trao gửi tình

yêu của mình đến ai đó, một mình vẫn hát khúc hát độc hành của kẻ cô đơn:

đôi mắt tôi không ngủ

sáng thành hai vì sao

hai vì sao không ngủ

cháy mãi một nơi nào

(Tự khúc)

Lưu Thị Bạch Liễu rất biết giá trị của thời gian, nên chị tranh thủ sống,

tranh thủ để tận hưởng những vẻ đẹp của cuộc sống, những gì mà cuộc đời đã

ban tặng cho mình bởi vì chị biết “Không nỗi buồn nào giống nỗi buồn nào”:

Mỗi ngày vẫn bắt đầu bằng một ban mai

Qua một ban trưa

Tiếp nối bằng một hoàng hôn rực rỡ

Những đoá hoa nhỏ lệ giữa đêm

Vì chúng biết sức nóng và sự dịu dàng

của ngày mai

không thể nào còn giống ngày hôm nay

3.1.3. Thời gian đêm tối trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh.

Hình tượng đêm có sức gợi ám mạnh mẽ đến người đọc. Có thể nói đêm

trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh chính là những khúc xạ về cuộc đời đầy tâm sự

u uất của chị. Có phải chăng khi bóng đêm kéo đến, mọi vật chìm vào yên tĩnh

thì lúc này nhà thơ mới có thể tĩnh tâm để lắng nghe tiếng của đêm mà trong thơ

của Nguyễn Thúy Quỳnh, ta bắt gặp thời gian đêm ngự trị rất nhiều. Trong đêm

tối ấy, chị lắng nghe tiếng thở đều của chồng sau cơn đau bệnh, để cảm thấy yên

lòng hơn khi gấc ngủ của chồng đã nhẹ nhàng hơn

64

Đêm nay anh ngon giấc hơn

Cầu cho những giấc mơ dịu dàng đưa anh về xa

(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)

Để tác giả có thể nhớ lại cái ngày mà còn đầy vui tiếng cười hạnh phúc,

nhớ lại những ngày người chồng còn mạnh khỏe, lúc ấy, đêm không phải là sự

lo lắng mà

“đêm kết thành vườn địa đàng

ở ra những thiên thần”

(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)

Nhưng những đêm với tiếng cười ấy không nhiều. Ta bắt gặp trong thơ của

Nguyễn Thúy Quỳnh thời gian đêm thường là thời gian mà chị trở về với bản thể,

với cái tôi đầy trăn trở, day dứt. Nỗi niềm day dứt của chị là sự day dứt về nhân

thế, về tình đời, tình người, về những người chị yêu thương và cả về tình yêu. Để

tuột mất tình yêu, đánh rơi câu hát và những lời yêu thương, chị đi tìm khắp nơi

nhưng vô vọng để đêm đêm:

Từ ấy

đêm đêm hồn ta về

qùy lên mỏm đá này

tạ lỗi với cao nguyên

(Xin lỗi)

Đêm trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh thường rất tĩnh lặng, có chăng chỉ là

những âm thanh của tiếng gõ bàn phím, và trong đêm tối ấy, hình bóng người

chồng đã khuất dường như đang trở về bên cạnh mẹ con chị:

Có thể ở nơi ngọn khói hương bay lên

Đêm đêm anh về

Sau cánh cửa kia

Lắng nghe các con ríu ran

Nhìn theo những ngón tay em gõ trên bàn phím

Đợi em tắt đèn

Im lặng

Sáng lại đi

65

Phải chăng, chỉ có đêm chị mới gặp lại được người chồng đã khuất của

mình. Người ta thường nói rằng thời gian đêm tối là lúc linh hồn của những

người đã mất mới có thể trở về thế giới dương gian, chính vì vậy mà chị thức

cùng đêm để gặp chồng mình, để cũng anh giãi bày những khổ đau, những tủi

hờn mà khi ánh sáng ban ngày còn ngự trị, chị phải gồng mình lên để chịu

đựng, làm chỗ dựa cho các con, rồi mai khi ánh bình minh đón chào ngày mới,

chị lại là Nguyễn Thúy Quỳnh mạnh mẽ, một trụ cột để lo lắng cho các con.

Nhà thơ đã lấy cái tĩnh lặng của đêm để làm nổi bật những ngân rung của

tâm hồn, của cuộc sống để thể hiện sự nhớ nhung người chồng đã khuất. Đêm

trong thơ chị ta nghe được tiếng thở dài ám ảnh của người đau bệnh, nghe được

tiếng bước chân rất nhẹ trong hư không… Đêm phải chăng là thời điểm chuyển

giao giữa hai trạng thái đối lập: sống và chết nên khi đêm về chị lại suy tư tự

hỏi rất nhiều điều. Kiếp sống con người mong manh nhỏ bé trước thiên nhiên

vô tận, từ một cơn lũ về để chị đặt ra muôn vàn câu hỏi cho số phận con người:

Quặn thắt ý nghĩ

Đêm nay bao nhiêu cơn mưa đổ

Đêm nay bao nhiêu sườn núi lở?

Đêm nay bao nhiêu khúc đê vỡ?

Đêm nay bao nhiêu người không nhà?

Đêm nay bao nhiêu người không về?

………

(Hỏi)

Nguyễn Thúy Quỳnh tạo cho người đọc ấn tượng mạnh mẽ về thời điểm

tận cùng của ngày, chị đã diễn tả được những rung động tinh tế của thời khắc

đêm nhưng cũng không kém phần dữ dội. Cảm xúc dữ dội và tuyệt vọng khi cái

chết chia lìa tình duyên chồng vợ, cảm xúc tiếc nuối khi có một cái gì đó vụt

mất. Từ những câu thơ này ta nhận ra cái tôi của nhà thơ, cái tôi hữu tình trước

66

vạn vật: một thân cây vừa bị xẻ xuống, một con mèo bị xe cán chết hay nghe

tin tức trên báo đài về cái chết của một cô bé không hề quen biết…

Một em gái sinh viên vừa lao từ tầng bốn xuống

Máy bay chở đoàn nghệ sĩ rơi xuống đại dương

Hàng trăm người trôi cùng mưa lũ miền trung

Hàng nghìn mạng tị nạn dưới lòng Địa Trung Hải

…….

Mơ hồ nghĩ vì đâu mà biến mất

……vì đâu mà biến mất?

……….vì đâu?

(Nghĩ trong sương mù)

Đọc thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh, người đọc dường như đi lạc vào thế

giới của bóng đêm ở đó những linh hồn chết quay về để mà dõi nhìn, để mà vấn

lương tâm của người đang sống.

Nhà thơ cũng cho ta thấy sự đối lập của âm thanh đêm: đó là tiếng sấm

chớp chói lòa ngoài ô của sổ và sự run rẩy, cần sự chở che của những đứa con.

Người mẹ Nguyễn Thúy Quỳnh đã nhận ra:

Trong bóng tối chết lặng

dưới tay mình

mẹ gặp những mạch máu của các con đang líu ríu chảy

những nơ ron thần kinh nép vào nhau run rẩy

những tế bào tươi non cuống cuồng

khao khát được chở che.

………………………………

Trong thơ, Nguyễn Thúy Quỳnh đã sử dụng các phép tu từ để diễn tả

những trạng thái khác nhau của tạo vật và xúc cảm của con người. Bóng đêm kì

ảo, ẩn chứa đầy sự mơ hồ, khó nắm bắt nhưng cũng đầy quyến rũ đã được tác

giả tái hiện trong các giác quan của mình, mọi vật đều xoay chuyển theo quỹ

67

đạo riêng của nhà thơ. Trong thơ chị, lúc nào cúng ta cũng thấy những nợ nần,

những cái chết tức tưởi:

“Đêm đêm/ hồn cây về/ sừng sững trên những gốc cũ/ Triệu mắt lá chứa

chan lệ ứa/ Khóc những quả trứng chim còn chưa kịp nở/ ta biết lấy gì xin tha

thứ, cây ơi!”.

Thế nhưng không phải thời gian đêm trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh

chỉ có chết chóc, có những linh hồn vơ vẩn mà trong Đêm tối, ta cũng thấy

được một trạng thái đối lập khác. Tác giả nhìn ra được sự chân chất của

những người nông dân làm thơ, nhận ra lòng mình đang rung ngân khe khẽ

những cung bậc của tình yêu… trong bóng tối ấp ủ ánh sáng “”Đã bao nhiêu

tin nhắn người gửi vào trái tim tôi/ Bao nhiêu bản tình ca, đêm đêm về hát

ru tôi thật khẽ”. Tác giả cũng đối diện với bóng đêm để nhận lại lòng mình

cho một cuộc tình không có hậu:

Những giấc mơ không kết thúc như thế

Những nỗi buồn không dang dở như thế…

……………………..

Đã có thể bình thản quay về

Mặc giấc mơ với nỗi buồn,

chờ mùa sau trổ lộc trổ hoa,

nếu ngọn đền đường kia

đêm ấy đã tắt

bây giờ đừng chớp mắt nhìn theo

(Cho một người với một ngày)

Hay là sự mỏi mong chờ đợi người tình không đến

Ai gọi cửa?

Lẽ nào….?

Không phải. Gió

Trời ơi! Ta trót đợi tự bao giờ?

68

Nghe nhạc Trịnh, thấy dường như sao mà Trịnh hiểu mình đến thế.

Những câu hát ấy đi theo tác giả trong một đêm bên tách cà phê buồn “Từ ấy

tôi mang theo bên mình giấc mơ viên sỏi nhỏ/ ngày qua ngày, đêm thay đêm, ủ

nó bằng hơi thở, rồi sống, rồi yêu, chờ một ngày mặt trời không đến nữa/ để

nghe lời sỏi hát/ rằng, làm sao mà Trịnh biết,/ bia đá cũng đau….” (Nhớ Trịnh)

Có thể nói, sự song hành đối lập hai trạng thái đêm trong thơ Nguyễn

Thúy Quỳnh làm nổi bật lên hình ảnh đầy nữ tính của tác giả. Ban ngày bề bọn

với những lo toan, chỉ có đêm về chị mới có thể sống riêng cho bản thân, cho

những cảm xúc ùa về, để trao trọn thể xác và tâm hồn cho bóng đêm. Hình

tượng bóng đêm trong thơ tác giả chính là sự thả nổi tâm hồn trong vô thức,

hiện thực huyền ảo nhưng cũng mang đầy nét bi thương... Tác giả ý thức được

sâu sắc từng giây phút tồn tại trong cuộc sống. Chính đặc điểm này tạo nên nét

riêng cũng như nét duyên cho thơ Nguyễn Thúy Quỳnh.

3.2. Hình tượng không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy

Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu

3.2.1. Hình tượng không gian quê hương gần gũi, thân thiết trong các sáng

tác của ba nhà thơ

Một đặc điểm chung dễ nhận thấy trong những bài thơ của ba nhà thơ

Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu đó chính là

những không gian quen thuộc nơi vùng rừng núi phía Bắc.

Cảm xúc chủ đạo trong thơ của ba nhà thơ đó là hướng về nguồn cội, nơi

các chị được sinh ra, lớn lên và nó cũng chính là nguồn thơ cho các nhà thơ. Có

thể dễ dàng nhận thấy hình ảnh của những bản làng, những con suối, ngôi nhà

sàn bên lưng đồi hiện lên trong thơ của cả ban nhà thơ cho ta thấy được tình

yêu, sự gắn bó của các chị đối với quê hương.

Không gian nghệ thuật trong thơ của ba nhà thơ nữ Thái Nguyên như

một dòng chảy đưa người đọc về với cảm xúc nguồn cội, về quê núi, về với

những cánh đồng, những đêm hội làng. Một Na Rì với con đường quanh co, với

69

những nương ngô leo ngang sườn đá, được chiếc khăn choàng mây trắng vắt

ngang làm cho cảnh vật say lòng người, tiếng cười nói của những thiếu nữ nơi

phiên chợ là hình ảnh không thể nào quên trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh:

Con đường dập dìu lưng núi

Mặt trời ngủ quên chân đèo

Thung xa chập chờn sương bạc

Suối từ hồng hoang vẫn reo.

Nương ngô leo ngang sườn đá

Lửa hoa thắp dọc sông Cầu

Núi trải trùng trùng sóng nhạc

Áo chàm gieo thơ vào nhau

(Na Rì)

Hay nỗi nhớ quê đã khiến Nguyễn Thúy Quỳnh có lần ước ao mình

giống như một chú cá, ước một ngày mắc lại để ngược phía sông Cầu về đầu

nguồn, để:

Ngắm hoa mận xòe lời chào trắng muốt

Những nương cải đổ nắng sườn non

Nhịp ngựa thồ gõ rộn sớm mai

Bếp cống phù lập lòe dốc đêm thơm phức

(Gửi đầu nguồn)

Trần Thị Vân Trung lại dẫn người đọc đến với quê hương Thái Nguyên,

vùng đất cách mạng, thủ đô kháng chiến của chị bằng những hình ảnh thơ

rất “tình”. Chúng ta đến với Thái Nguyên như đặt chân với những mảnh đất

với “kho huyền thoại” mà “ngọn núi, con sông, đến cây cỏ dại…/ Đều có cuộc

đời riêng!”

Cùng theo những vần thơ của Vân Trung đi thăm thú cảnh đẹp của vùng

đất chè nổi tiếng:

70

Vì quá yêu người trần thế

Nàng yên giấc ngủ triệu năm

Một làn mi cong

Đẹp xinh ngay cả dáng nằm

Vua cha ân hận

Cho đàn tiên nhỏ xuống thăm

Núi Quần Tiên bên núi Tiên Nằm

Hay người đọc cũng lạc bước đến với câu chuyện tình của đôi trai tài gái

sắc, nhớ về tiếng sáo của càng Cốc ngheo khổ và những giọt nước mắt chung

tình của nàng Công bên hồ Núi Cốc huyền thoại

Thương nhớ người yêu

Cuộc đời mòn theo nước mắt

Sông Công dằng dặc

Tìm về núi Cốc yêu đương…

Hay cả những cái tên Núi Đợi Chờ, Núi Tương Tư, Cây đa đôi, Suối

Đôi… như thể bào chuyện tình buồn và đẹp đều có ở mảnh đất nới đây. Và đó

cũng chhính là lí do làm cho hồn thơ Trần Thị Vân Trung đầy đa sầu, đa cảm.

Vân Trung cũng đưa người đọc đến với điệu kèn lá của chàng trai người

H’mông đang xuống chợ tìm người yêu hay đưa người đọc say sưa với tiếng

hát của người trai bản làm xao xuyến trái tim biết bao người:

“Tiếng hát cất lên từ trái tim của người trai bản

Vang vọng núi rừng

Thao thiết vạn con tim…”

(Tiếng hát núi rừng)

Đến với Thơ Lưu Thị Bạch Liễu người đọc bắt gặp hình ảnh dòng

sông Cầu êm trôi làm bạn với thi sĩ. Chi làm bạn với dòng sông, khi vui,

khi buồn đều tìm đến với sông, ngay cả khi không làm gì chị cũng ra sông

để ngắm, để nhìn:

71

Một ngày làm gì cũng không nổi

Thì ra bờ sông xem cát reo

……

Một ngày làm gì cũng không xong

Thì ra bờ sông xem ngô trổ

Phấn theo gió cuốn mãi phương nào

Phất phơ run vài cành hoa cũ

(Một chiều)

Và dòng sông Cầu còn là nơi mà “ngắm cà phê/ Cùng nhấp dòng sông

Cầu đang chảy” và cảm nhận “Thái Nguyên trăng rơi/ Đẫm từng câu hát”

(Trôi cùng đêm).

Chính vì tình yêu nơi dòng sông Cầu ấy mà chị đã cho ra đời cả một tập

thơ “Sông Cầu đang chảy đâu đây” để bày tỏ tâm tình với con sông mang

dòng nước ngọt tưới cho những nương chè xanh. Phải chăng nhờ dòng nước

sông Cầu ấy mà hè Thái Nguyên trở nên ngon hơn, nước ngọt hơn chăng?

Nhiều khi trong tiềm thức, tác giả thấy như dòng sông Cầu đang chảy

đâu đây rất gần:

Phải rì rầm sông Cầu đang chảy

Hay Then cùng Tính về trời

Chợ Tam Quang hai người đến muộn

Lạc dọc đường vơ vất mảnh hồn trôi

……

Ven sông Cầu cất nhà, ta ở

Trong bão bùng nghe sóng nước ngân vang

Bờ phù sa óng nâu bờ mật

Bông lúa vàng - Kim Quí Kim Cang

Để ở bên trong ngôi nhà bên bờ sông ấy, người thơ nguyện trở thành

người vợ hiền ngày ngày dệt những sợi chỉ tình yêu:

72

Em sẽ chăm một vườn dâu mướt

Rồi sẽ học nghề canh cửi tằm tơ

Để cả đời chỉ dệt nên ba sợi

Cho tiếng tình tiếng tính ngân nga…

(Sông Cầu đang chảy đâu đây)

Người đọc cũng có thể ngược dòng sông Cầu cùng Liễu về Bắc Kạn

thưởng thức rượu ngon, cá chua Ba Bể, măng khô, những quả hồng… hay cùng

nhau về Cư Lễ, nơi mảnh đất mà “chưa thấy phố thị/ Đã giữa đại ngàn/ Bên

này ngát thung/ Bên kia biếc núi” và sẽ không thể nào quên những cảnh núi

non hùng vĩ nhưng cũng đầy thơ mộng:

Quanh quanh dòng suối

Nhà sàn ngủ yên

Chênh vênh sườn núi

Nhà sàn như những tổ chim

……

Em về Cư Lễ

Để nghe điệu sli

(Yêu anh, em về Cư Lễ)

Hay về Lam Vỹ để nhớ lại chín bậc cầu thang, những bậc cầu thang đã

đen lại, mòn đi theo thời gian để bước chân trở nên mạnh mẽ hơn.

Có thể thấy trong thơ của ba nhà thơ nữ, hình ảnh của ruộng bậc thang,

của nhà sàn, của những dòng sông, dòng suối là những hình ảnh quen thuộc của

các tỉnh trung du miền núi phía Bắc. Không gian trong thơ các nhà thơ không

chỉ có chim, có suối, có núi, có đồi mà không gian đó còn chứa đựng cả tình

người ấm áp, chứa đựng những câu chuyện kể về quá trình hình thành của địa

danh nơi các chị đi qua. Không gian ấy còn mang ý nghĩa thiêng liêng khi nó

nhắc cho người ta nhớ về trách nhiệm của những người con sinh ra, được mảnh

đất này nuôi dưỡng trưởng thành. Phải yêu mảnh đất nơi mình sinh ra, mảnh

73

đất và con người mình đã gặp thì các nhà thơ nữ Thái Nguyên mới có sự đồng

điệu trong tâm hồn, để cùng gặp gỡ nhau nơi những vần thơ viết về miền núi

đầy xúc cảm đến như vậy. Hình ảnh cuộc sống, con người vùng rừng núi đã

làm cho thơ của Trần Thị Vân Trung, Nguyễn Thúy Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu

trở nên gần gũi với người đọc hơn, sống động lòng người hơn.

Không gian thơ của ba nhà thơ nữ trải rộng trên khắp các vùng đất khu

vực miền núi phía Bắc. Đây là những cảm xúc về nguồn, nó là sự chân thực,

hồn hậu đầy chất nhân văn của các tác giả. Chúng ta thấy trong những bài thơ

của các chị viết về miền núi thường là những giọng thơ trong trẻo, đầy lạc quan

yêu đời. Phải chăng, về với quê hương, về với cuộc sống bình yên bên cạnh

thiên nhiên, với những người dân tộc thiểu số chân thật đã khiến cho tâm hồn

các chị được buông bỏ, được quên hết những ưu tư bộn bề của cuộc sống bon

chen nơi phố xá, để được hòa mình vào với những đêm hội, những câu sli, câu

lượn. Đó chính là những nét chung mà chúng ta bắt gặp trong thơ của ba chị

3.2.2. Những không gian riêng

3.2.2.1. Không gian rộng lớn của biển khơi, của vũ trụ trong thơ Trần Thị

Vân Trung

Đọc thơ Trần Thị Vân Trung, chúng ta bắt gặp hai đối cực khác nhau

của không gian: đó là sự mở ra không gian rộng lớn với những vần thơ đầy

yêu đời, yêu người với không gian đóng kín mà tác giả tự nhốt mình với

nỗi buồn đầy vơi.

Không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung luôn tràn đầy sự hoài niệm về

quá khứ. Đó là những chiến trường xưa nơi đất bạn Cam-pu-chia khi chị đi

công tác, không gian của những lễ hội trên đất Phnôm Pênh. Nhưng nhiều nhất

vẫn là không gian về biển, về sóng và những bãi cát dài. Biển rộng bao la cũng

làm cho những tâm sự buồn của nhà thơ vơi đi không ít. Dường như sóng biển

đã cuốn nỗi buồn ra xa ngoài đại dương để trả lại cho đời một Vân Trung

“trong trẻo, thanh tân”:

74

Bao nỗi buồn đau vụt trở thành vô nghĩa

Biển tặng cho ta niềm thanh thản diệu kì

Sóng nâng ta trong từng bước chân đi

Ta - trong trẻo,

thanh tân

- TỪ PHÍA BIỂN

(Từ phía biển)

Nhìn những con sóng xô bờ, sóng đuổi nhau mãi chẳng bao giờ gặp được

nhà thơ nghĩ đến tình yêu của con người có khi nào như sóng, mãi tìm nhau

trong cái không gian mênh mông vô tận của đất trời. Và tác giả lí giải cho

những con sóng ấy:

Những con sóng đuổi nhau

- Vì khát khao gặp gỡ

Những con sóng gọi nhau

- Bởi muôn đời thương nhớ

Những ngày ta xa nhau

Lóng ta như sóng gọi

Nỗi nhớ như sóng đuổi

Chẳng bao giờ … gặp nhau

(Sóng gọi gì nhau?)

Khi giã từ nhau, thì con sóng lòng cứ đổ về để không thể lí giải nổi “Sao

lòng mình … con sóng cứ xôn xao…?” (Xôn xao…)

Và nhân vật em trong thơ Vân Trung luôn cảm thấy mình nhỏ bé, cô đơn

trước biển, trước những con sóng bạc đầu “Nhưng - như cánh buồm cô đơn trên

mặt biển/ Chẳng bao giờ - Em vĩnh viễn có anh…!” (Có thể, không thể).

Trước biển, nhà thơ dường như nhiều hóa thân vào các dạng thức khác

nhau, lúc thì là sóng, lúc là bờ và có khi lại trở về là cô gái nhỏ bên biển là một

người tình hay ghen

75

Biển như người tình hay ghen

Ngày đêm sóng vỗ êm đềm

Bỗng dưng … nổi cơn thịnh nộ

Xô vào … nghiến nát … bờ em

(Biển)

Và tình yêu của cô gái nhỏ ấy thật bao la, vĩ đại khi không sợ ngoài khơi

xa kia, cánh buồm sẽ gặp biết bao con thuyền hay gặp những bất trắc trong

sóng gió đại dương mà động viên, cổ vũ thuyền anh ra khơi:

Em muốn thuyền anh ra giữa đại dương

Nơi sóng cả dữ dằn, bạo cuồng nắng gió

Dẫu chẳng may - có tan ngàn mảnh nhỏ

Cũng một lần - Anh rạng rỡ - ở trong em

(Cánh buồm)

Ngoài không gian bao la của vũ trụ, của biển khơi thì ánh trăng dường

như là người bạn tâm tình của nhà thơ. Đã bao lần ta bắt gặp ánh trăng trong

những đêm buồn nhớ người yêu. Những dằn vặt, day dứt khi mà trái tim người

đàn bà trót lỡ nhịp, trot xao lòng bởi một ánh mắt, một nụ cười của ai đó, để rồi

giống như bị trăng bắt quả tang

“- Ta thấy lòng mình tươi tắn quá

- Ta lại thấy ửng hồng đôi gò má

- Thấy chông chênh trong mỗi buổi trăng về”

(Có phải lỗi lầm)

Trong không gian bao la và rợn ngợp của trời và đất ta bắt gặp hình ảnh

trăng mồ côi hay chính con người cô đơn của tác giả

Cánh diều trăng mỏng manh

Chao đảo giữa bầu trời

……

Anh xa - mang đi hết

Trăng … giờ thành mồ côi!

(Trăng mồ côi)

76

Và trong những lúc xao lòng ấy, cũng dưới ánh trăng nhà thơ đã tự mình

nhìn lại về mối tình hiện hữu của mình, và dường như ánh trăng cũng đã chứng

kiến biết bao đêm trăng tác giả tự vấn, tự đưa ra cho mình đáp án:

“Chẳng có bao giờ - người nhớ thương ta

Chỉ có mặt trăng đau đáu soi trần thế”

(Chẳng có bao giờ)

Trong cái không gian bao la của vũ trụ, của đêm trăng, nhà thơ hoài niệm

về một thời thiếu nữ đã qua: “Trăng mười bốn, lúa đang thì con gái/ Gió dịu

dàng mê mải đuổi sóng xanh…” (Khúc ru kỉ niệm). Cũng có khi, trăng là

nhân chứng cho tình yêu đôi lứa trong thơ Trần Thị Vân Trung, đó là vần “Đêm

trăng ấy bầu trời trinh bạch/ Không gian đầy hương thơm”. Bầu trời trinh bạch

cũng giống như tâm hồn trinh bạch của người thiếu nữ đang yêu, và chị Hằng

cũng chứng kiến những hẹn hò của các cặp đôi yêu nhau một cách đầy tinh

nghịch: “Chị Hằng cười - kín đáo, bao dung…” và chính anh cũng là vầng

trăng trong đêm tối của em “Ánh trăng tan ra từng mảnh/ Khi anh cười vô tư”

(Ngày ấy… quen nhau). Trăng cũng giống như một cô gái tinh nghịch trêu

đùa cặp đôi đang yêu “ánh trăng òa đến/ Đầy căn phòng đôi ta”

Ánh trăng là người bạn đồng hành trong mọi buồn vui của tác giả. Ánh

“trăng thề” gợi nhớ đến người yêu nơi phương trời xa, nhìn các cháu nhỏ trong

lớp học múa, tác giả như nhìn thấy “Đàn Thiên Nga nhỏ/ Như ánh trăng rằm”,

ánh trăng mùa thu soi sáng con đường tuần tra biên giới “Trăng mùa Thu rất

xanh/ Sáng, soi từng góc rừng biên giới”.

Tác giả tìm đến trăng để soi rọi lòng mình. Trăng có khi là bạn đồng

hành, có khi là nhân chứng, nhưng cũng có khi là “tòng phạm” khi tác giả vượt

rào suy nghĩ trong tình yêu. Có thể nói, ánh trăng trong thơ Vân Trung mang

nhiều sắc thái, nhiều tính cách khác nhau cũng giống như con người vậy. Đây

là một nét riêng trong hình tượng không gian trong thơ Trần Thị Vân Trung.

77

3.2.2.2. Không gian trong nhà - ra phố trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh

Trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh thời gian đêm tối luôn luôn hiện hữu

cùng với không gian trong căn nhà nhỏ luôn luôn được nhắc đến. Trong căn

nhà nhỏ ấy có những con người mà chị yêu thương, cần được chị che chở và

chình chị cũng cần được chở che bởi những con người ấy. Sau những bộn bề

của công việc, chị trở về ngôi nhà nhỏ của mình với tiếng cười của các con, với

tiếng ngủ mơ dễ thương của chúng:

Trong ngôi nhà nhỏ của tôi

Các con cuộn trong ủ nhau

Thiên Lương mải chơi suốt ngày chắc lại tè dầm

Ngọc nói mơ còn giục em đi học

Ôi, các con tôi

(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)

Và cũng trong ngôi nhà nhỏ ấy, nhà thơ đã cùng với chồng mình chiến

đấu qua cơn bạo bệnh trong suốt một thời gian dài

Trong ngôi nhà nhỏ của tôi

Anh thở đều

Đêm nay anh ngon giấc hơn

….

(Trong ngôi nhà nhỏ của tôi)

Không chỉ một lần chị viết về các con trong ngôi nhà nhỏ với giấc ngủ

thiên thần. Chính hình ảnh của các con vô tư, đáng yêu ấy đã làm cho chị quên

đi những cái xô bồ của cuộc đời, quên đi những ám ảnh về cái chết của những

đứa trẻ bị hiểm họa sóng thần, về cái chết của những người thọ mỏ đá, cái chết

của một em bé giữa thế kỉ XXI giàu có này lại bị chết đói …. Và cả quên đi

những hình ảnh bỗng vô tình bắt gặp đâu đó trên đường phố.

Căn nhà nhỏ đó là nơi lưu giữ những kỉ niệm ngọt ngào của chị với

những người thân yêu. Ở đó, chị là người vợ hiền, đảm đang và yêu thương

chồng con hết mực với những hành động hết sức giản dị:

78

Nếu biết hôm nay sẽ ra đi như họ

Thì vẫn cứ càu nhàu chuông báo thức

sao cứ vang lên đúng giờ

Xiết cái bụng bự của chồng thêm lần nữa, thật lâu

Hít thật sâu mùi mồ hôi quen thuộc

Lấy kem đánh răng vào bàn chải cho anh

như mỗi ngày anh vẫn lấy cho mình

Uống cốc nước mật ong anh pha mỗi sáng

Xem thời sự và tập dịch cân kinh

…..

(Ý nghĩ chợt đến)

Viết về ngôi nhà nhỏ của mình, Nguyễn Thúy Quỳnh luôn tự hào bởi vì

ở đó chị dạy cho các con biết sống yêu thương với mọi người. Giọng thơ hóm

hỉnh dường như muốn quên đi cái thực tại còn đang nhiều khó khăn “Nhà mình

chỗ nào cũng chật/ Mùa đông giá rét đỡ lo/ Nhà mình thứ gì cũng nhỏ/ Chỉ

những tiếng cười là to”. Nhà thơ tự động viên mình, động viên các con, dạy

bảo các con trở thành người tốt “Nhà mình tiền luôn rỗng túi/ Nợ vay đâu chỉ

áo cơm/ Lòng tốt bao người đem tặng/ Làm của để đời cho con”. (Thơ về nhà

mình) Trong căn nhà nhỏ ấy, thứ của cải quý giá nhất mà cha mẹ trao tặng cho

con đó chính là trao đi những yêu thương.

Trong ngôi nhà nhỏ ấy, đã bao lần chị đón anh về trong cơn say “Thỉnh

thoảng có ngày/ cơn say đưa anh về khi đêm đã khuya/ dáng mảnh liêu xiêu/

bước chân chao đảo/ và khi ấy nhà mình có bão” những lúc ấy chị dịu dàng

chăm sóc anh, những cũng không tránh khỏi nỗi buồn đọng sâu trong ánh mắt.

Cũng trong căn nhà nhỏ ấy chị mất đi người chồng vĩnh viễn. Chị đã

cùng anh chiến đấu không ngừng nghỉ như những chiến binh dũng cảm nhưng

duyên phận của anh chị chỉ có đến như vậy, để đêm đêm chị như thấy bóng

79

dáng anh về nơi ngọn khói hương bay lên. Những lúc này chị đề cho hồn mình

trôi về quá khứ, thấy mọi thứ dường như mới vừa đâu đây. Vẫn những ống

thuốc giảm đau, những chén sữa … và cả tiếng nấc cuối cùng của anh.

Không gian của chị nhỏ thôi để chị suy ngẫm những điều lớn lao của

cuộc đời. Trong căn phòng nhỏ, chị suy nghĩ về cái chết của bé Nhung ở một

nơi xa nào đó, chị thương cảm cho những em bé ở Ishinomaki, và chị còn đau

đáu những lo lắng, trăn trở với những hành cây bị chặt hạ, những con cá chết

trên sông Nhuệ và vấn đề bảo vệ môi trường.

Và trong ngôi nhà nhỏ của mình, chị cũng đã bao đêm khóc thầm bởi nỗi

cô đơn, sự tủi phận. Sự cô đơn đến ngay cả trong ngày sinh nhật của chị:

Mở mắt

Gặp cơn sốt theo sang tuổi bốn mươi

Sự im lặng ngự trị các căn phòng

Đến đồng hồ treo tường cũng không thèm tích tắc

(sinh nhật)

Còn nỗi cô đơn, buồn tủi nào hơn khi trong ngày sinh nhật của mình, chỉ

có một mình với cơ thể ốm yếu. Ngay cả chiếc đồng hồ cũng không thèm tích

tắc. Dường như cả thế giới đã rời bỏ chị, để chị ở lại gặm nhấm nỗi đau.

Không gian nhỏ hẹp trong căn phòng của chị nhưng lại giúp cho chị nhìn

ra được cả thế giới của con người, của vạn vật. Trong căn phòng nhỏ ấy chị đã

viết lên những dòng tâm sự của mình:

Mười mét vuông

hang ổ cuối cùng của tôi

một máy tính, một giá sách, một giường, một tủ, một ti vi

một tờ lịch

mỗi năm thay một lần

…………..

Nơi tôi cất nỗi xấu hổ của kẻ bất tài

80

Sau mỗi ngày khoác túi ra đi

Bánh xe tôi cán lên vết xe thồ của

những người bán hàng rong

Mà không làm được điều gì có ích như họ

Không làm nổi kẻ bán chữ rong

(Về căn phòng của tôi)

Không gian trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh còn là những lần ra phố, trên

đường đi làm, đi chơi, bất chợt chị nhìn thấy cảnh, thấy người cũng đã gợi cho

chị bao suy nghĩ. Nghe tiếng hát từ xe hàng rong, nhà thơ cảm thương cho kiếp

mưu sinh vất vả:

Những giai điệu ngân lên rung cả triệu tấm lòng

Trộn lẫn tiếng rao giữa ồn ào phố xá

Những lời ca đã qua thời giặc giã

Giờ chia cùng người nỗi mưu sinh gieo neo

(Nghe câu hát từ xe hàng rong)

Đọc thơ Thúy Quỳnh ta thấy đậm chất nữ tính. Chẳng thế mà trên đường

phố, bất chợt nhìn thấy xác con mèo bị xe cán, chị cũng có thể làm thơ. Và qua

cái chết của con mèo, chị cũng buồn cho kiếp phù sinh của con người. Sự đa

cảm của chị còn thể hiện ở những vần thơ viết về cái cây bị đốn ngã. Chị

mường tượng những cái cây như một sinh thể sống, như một người mẹ chở che

cho lũ chim sâu đang làm tổ trên thân cây. Vậy mà chỉ vì một chữ kí, một lệnh

được ban ra, những cái cây ấy bị đốn hạ không thương tiếc. Để đêm đêm những

hòn cây ấy hiện về với với triệu mắt là chan chứa lệ, thương những chú chim

nhỏ bơ vơ, thương những quả trứng chim còn chưa kịp nở.

Không gian của Thúy Quỳnh cũng là nơi quán nước, chị ngồi nghe khách

đến nói đủ thứ chuyện trên đời, từ những chuyện to tát như vũ trụ, chuyện

chính trị của các quốc gia đến những chuyện vặt vãnh đời thường, để từ đó chị

thấy được những giá trị nhân sinh ở đời. Cũng có lúc chị ngồi nghe nhạc Trịnh

81

trong quán cà phê để mà chìm đắm mình trong từng câu hát, để thấy nỗi cô

đơn càng nhân lên khi nghe “Dù sao sỏi đá cũng cần có nhau” trong lời bài

hát của Trịnh.

Như vậy, không gian của trong thơ Nguyễn Thúy Quỳnh thật nhỏ bé.

Nhưng trong cái không gian khiêm tốn ấy chị đã sống với đầy đủ những cung

bậc cảm xúc, với những yêu thương cuộc đời, yêu thương gia đình.

Một buổi sớm mai thức dậy, giao hòa với một ngày mới là những âm

thanh quen thuộc của phố phường, tiếng rao bán hàng, tiếng tivi, quảng cáo…

và để từ đó chị đưa ra những chiêm nghiệm của mình:

Chỉ lòng tốt không cần tiếp thị

Vẫn chảy rì rầm trong triệu trái tim

Và mùa xuân chẳng màng tiếp thị

Ríu rít hoa mai bung cánh, sáng cả thềm!

(Vừa đi vừa nghĩ)

Và chúng ta thấy, dù cho cuộc sống có tàn khốc đến đâu đi chăng nữa, dù

nỗi buồn có chất chứa đến bao nhiêu đi chăng nữa thì mỗi buổi mai thức dậy,

Thúy Quỳnh đã cố gắng tận hưởng những gì tốt đẹp mà cuộc sống đã ban tặng

cho mình, cũng giống như nghệ sĩ Ấn Độ Kahli Gibran viết, đã được nhà văn

Nguyễn Nhật Ánh dịch ra tiếng Việt:

Cảm ơn đời mỗi sớm mai thức dậy

Ta có thêm ngày nữa để yêu thương.

3.2.2.3. Không gian tương phản giữa vẻ đẹp hài hòa với không gian buồn trong

thơ Lưu Thị Bạch Liễu

Cũng đồng hành với hình tượng thời gian là không gian mang vẻ đẹp hài

hòa tương phản với không gian mang nỗi buồn trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu.

Chúng ta thấy không gian hài hòa, rộng lớn trong những bài thơ ở tập “Sông

Cầu đang chảy đâu đây” hay những không gian của các vùng quê vùng miền

núi trong tập thơ “Theo dòng sông quan họ” hay không gian biển rộng cùng với

82

sóng vỗ, cảm giác tự hào, cảm phục với những chiến sĩ nơi đảo Trường Sa

trong tập thơ “Trường Sa! Ơi Trường Sa!”

Trường Sa nhưng không xa bởi vì luôn gần trong tim của mỗi người dân

Việt. Chị hồ hởi, tràn đầy niểm tin, niềm phấn khởi khi đến với đảo, đến với

những chàng trai mặc áo lính:

Chẳng có nhiều điều để kể về Trường Sa

Chỉ có cát, có mây trời có biển

Có san hô chẳng có người để tặng

Có bông hoa bàng cùng thức trong đêm

Biết kể gì về Trường Sa hỡi em

(Vụng về lính biển)

Và tất cả những gì thuộc về Trường Sa cũng làm chị thấy đáng yêu, thấy

sao mà lạ lẫm thế:

Hoa bàng vuông

Lung linh

Mở những lồng đèn nhỏ

Trắng sáng

Dịu thơm

Những con sóng thèm mùi hương

Xô về quanh đảo.

Lớp học trên đảo cũng thật khác với những lớp học trên đất liền. Cũng

alf màu trắng nhưng không phải là tường vôi trắng bảng xanh mà là bao quanh

bởi những con sóng trắng và biển xanh:

Lớp học như con tàu

Đâu cũng nhìn ra biển

Bốn bên là sóng trắng

Bốn bề là biển xanh

Lớp học trên đảo

83

Một tiếng chim hót cũng “dễ thương” vì gợi nhớ quê hương. Tiếng chim

hót nghe sao mà da diết thế. Trường Sa thấy thật gần bởi vì tiếng chim hót

tưởng như đang ở đất liền:

Chợt vang tiếng hót sơn ca

Hót say sưa hót thật là dễ thương

Ầm ào sóng gió đại dương

Nghe chim hót

Ngỡ quê hương thật gần

(Đảo Sơn Ca chợt nghe tiếng hót)

Tác giả cũng thấy sự quý giá, sự vất vả của những cây rau xanh được

trồng trên đảo, giọt nước ở đây cũng quý giá biết nhường nào. Hoa ở đảo cũng

kiên cường bất khuất như con người“ lửa cháy của nắng thiêu, sóng thét gào,

gió thổi… đến mây trời cũng mặn”. Hoa vượt qua phong ba bão táp, vượt

những nắng, giớ biển khơi để dâng cho đời những đóa hoa đẹp: “ Bất chấp bão

giông. Bất chấp nắng nung. Bất chấp gió thét biển gào bào mòn da thịt” (Hoa

cúc trên đảo Sơn Ca).

Không chỉ ở đảo chị mới có những cảm nhận về một không gia khoáng

đạt mà ngay cả khi trên đất liền thì thiên nhiên bao la cũng làm cho Lưu Thị

Bạch Liễu say đắm. Một dòng sông Cầu với biết bao cảm xúc vui buồn: “ngắm

cà phê/ Cùng nhấp dòng sông Cầu đang chảy” để cùng cảm nhận

Thái Nguyên trăng rơi

Đẫm từng câu hát

(Trôi cùng đêm)

Tác giả cùng phiêu du trên cánh đồng quê để cảm nhận được màu sắc,

mùi vị của quê hương

Vỡ tung

Tiếng ríu ran khắp cánh đồng

Lúa đang làm đòng

84

Ngái ngủ bên dòng sông

Rặng núi mệt lả

chỉ chực đổ nhào lên bóng

Bóng núi duỗi dài trên lúa xanh

Từ từ từ trời

Mưa buông tấm voan

(Chiều chim én)

Tác giả cũng vui hòa mình với đám trẻ quê

Mái cọ già ngủ dưới tán cọ già

Cầu thang cót két trở mình dưới chân bầy trẻ

Cầu thang chín bậc

[…]

Bầy cháu ngày ngày kiễng chân đo cột

Tập vỗ cánh bay

(Lam Vỹ)

Một không gian đối lập trong thơ Lưu Thị Bạch Liễu đó là không gian nhốt

kín mình chất chứa đầy tâm sự. Khi trở về với bản thể, Lưu Thị Bạch Liễu tìm

mình trong “”Cõi tôi” đầy cô đơn. Một mình tren đường đông nhưng chị lại cô

đơn. Chị thích một mình lặng lẽ, độc hành: Một mình trên đường Đông […]/Một

mình trên đường Sương /bước từ mờ mịt/ vào mịt mờ /gió vội đi đường của gió/ tôi

trên đường của tôi (Cõi tôi).

Không gian trong ngày sinh nhật của chị lại càng nhỏ bé, vắng lặng đến

cùng cực: Không rượu /không nến/ không hoa/ chỉ một người nhớ/ đang

xa (Sinh nhật) và lúc nào chị cũng ở trong tình trạng “mình tôi lẻ bóng […]/

tôi một mình không bóng […]/ tôi đến nơi nào cũng thừa tôi cả (Tự khúc 1)”.

Chị tự nhốt mình trong căn phòng nhỏ để gặm nhấm nỗi buồn. Chính chị

cũng tự thấy được thế giới thật nhỏ bé để mà “tôi đang tự hủy diệt tôi” (Một

chiều nào tôi không trở dậy). Phải chăng chính vì luôn cô đơn nên tác giả

85

phải luôn tìm đến thiên nhiên để làm bầu bạn? Những giọt mưa, những đóa hoa

tàn, hoa khóc, những ngôi nhà bơ vơ, những nương chè…. đều là nơi để chị

náu mình, để gặm nhấm nỗi buồn cô đơn.

Có thể nói trong thơ của Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy sự đối lập giữa một

không gian rộng lớn khoáng đạt với một không gian khép kín, bó hẹp mang đầy

tâm trạng của tác giả. Đây chính là nét điển hình trong hình tượng không gian

thơ Lưu Thị Bạch Liễu.

86

KẾT LUẬN

Đến với những trang thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh, Trần Thị Vân Trung,

Lưu Thị Bạch Liễu là người đọc đến với những cuộc sống, con người mảnh đất

Thái Nguyên. Mỗi một nhà thơ là một nét văn hóa của đất và người Thái

Nguyên. Thơ của các chị có những nét chung giống nhau những cũng có những

nét khác nhau. Điều này tạo nên ba phong cách thơ khác nhau, làm cho thơ ca

Thái Nguyên phong phú hơn, đa dạng hơn. Sự giống nhau đó là do cả ba chị

đều sống và gắn bó với mảnh đất Thái Nguyên, với đồng bào dân tộc miền núi

nên trong thơ các chị có một số nét đặc trưng giống nhau.

Trong các bài thơ của ba nhà thơ nữ Thái Nguyên Trần Thị Vân Trung,

Nguyễn Thúy Quỳnh và Lưu Thị Bạch Liễu ta thấy mỗi nhà thơ đều có dấu ấn

riêng của mình. Những dấu ấn riêng ấy đã thể hiện được cá tính sáng tạo và cái

tôi trữ tình riêng có trong thơ.

Với thơ của Trần Thị Vân Trung thể hiện một hình tượng người phụ nữ

dịu dàng, nhân hậu với trái tim yêu cháy bỏng và khát khao sự tuyệt đối sự thủy

chung trong tình yêu, một người mẹ tâm lí luôn trăn trở với tương lai và hạnh

phúc của con cháu. Đến với thơ Vân Trung, ta đến với một không gian thơ rộng

lớn của biển cả mênh mang, với những đêm trăng mà ở đó tác giả được trở về

với bản thể của mình. Những nỗi buồn đều nhờ ánh trăng soi hộ, nhờ sóng biển

cuốn trôi xa ngoài đại dương để ngày mai lại trả về một Vân Trung yêu đời,

yêu người và đằm thắm dịu dàng.

Thơ Nguyễn Thúy Quỳnh luôn trăn trở về những lẽ phù sinh ở đời. Từ

những cái chết của những cây xanh, những con cá trên sông Nhuệ đến cái chết

của những con người xa lạ mà chị biết được trên bản tin. Chị trăn trở về những

sự đổi thay đang diễn ra trong cuộc sống, những thay đổi của các chuẩn mực

giá trị. Thơ chị luôn đau đáu nỗi lo lắng, tình yêu thương dành cho người chồng

của mình. Chị thao thức bao đêm và đau cùng với nỗi đau của chồng. Ta cũng

thấy được sự dịu dàng, đầy nữ tính trong thơ Thúy Quỳnh. Đồng hành cùng với

87

nhà thơ chính là đêm tối và căn phòng nhỏ. Trong bóng đêm, chị ẩn giấu mình

với nỗi đau mình, đau đời. Với chị, đời là kiếp phù sinh.

Lưu Thị Bạch Liễu đưa người đọc đến với sự cô đơn của kiếp người, chỉ

một mình “độc hành” trong cuộc sống. Trong thơ chị nỗi cô đơn thường trực.

Và chúng ta cùng sống với Bạch Liễu ở thời gian hiện tại. Thơ chị ít hoài niệm

quá khứ, ít dự cảm tương lai mà chị sống hết mình với thực tại. Ngoài cảm giác

cái tôi cá nhân cô đơn thì khi đến với thiên nhiên ta lại thấy một Lưu Thị Bạch

Liễu vui tươi, yêu thiên nhiên cây cỏ, yêu từng địa danh của quê hương. Không

gian trong thơ Bạch Liễu mang màu sắc tươi sáng với những địa danh gần gũi

quen thuộc của quê hương Thái Nguyên.

Tuy nhiên, sự khác nhau đó là ba nhà thơ là ba thế hệ khác nhau, họ có

cách cảm, cách nghĩ khác nhau. Mỗi nhà thơ lại có một xuất phát điểm khác

nhau, họ có hoàn cảnh sống khác nhau, cách nhìn nhận cuộc sống và con người

cũng khác nhau, có những khả năng khác nhau nên đã tạo ra những nét riêng

của mỗi nhà thơ. Đồng thời qua đó tạo nên những màu sắc khác nhau, làm

phong phú hơn cho nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và thơ ca Việt

Nam hiện đại nói chung.

88

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1995), Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam

từ 1945 đến nay, Luận án Phó tiến sĩ KH Ngữ văn, Trung tâm khoa học xã

hội và nhân văn quốc gia, Viện văn học.

2. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945 - 1975, Nxb Khoa học

xã hội.

3. Lại Nguyên Ân (1999), 150 Thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1998), Văn học và phê binh, Nhà xuất bản TP mới, Hội

Văn học.

5. Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nhà xuất bản Giáo dục.

6. Hoàng Điệp (2008), “Hữu Thỉnh với thể loại trường ca”, Tạp chí Nghiên

cứu Văn học.

7. Hoàng Điệp (2010), “Ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ Hữu Thỉnh”, Tạp chí

Khoa học Xã hội Việt Nam .

8. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học.

9. Nguyễn Đăng Điệp (2003), “Hữu Thỉnh và quá trình tự đổi mới thơ”, Tạp

chí Văn học

10. Hà Minh Đức (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

11. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tạo thơ ca, Nxb Văn học.

12. Hà Minh Đức (1984), Thơ ca chống Mỹ cứu nước, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

13. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

14. Hà Minh Đức (2004), Nhà văn nói về tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

15. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học - vấn đề

và suy nghĩ, Nhà xuất bản Giáo dục.

89

17. Cao Thị Hồng (2010), “Nỗi đau trần thế”, Báo Văn nghệ, số 40.

18. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục Hà Nội.

19. Mã Giang Lân (2004), Thơ hình thành và tiếp nhận, Nxb ĐHQG, Hà Nội.

20. Phong Lê, Vũ Văn Sỹ, Bích Thu, Lưu Khánh Thơ (2002), Thơ Việt Nam

hiện đại, Nxb Lao động, Hà Nội.

21. Lưu Thị Bạch Liễu (2007), “Cõi tôi”, Nxb Hội Nhà văn

22. Lưu Thị Bạch Liễu (2009), “Sông Cầu đang chảy đâu đây”, Nxb Quân đội

Nhân dân

23. Lưu Thị Bạch Liễu (2013), “Nở muộn”, Nxb lao động.

24. Lưu Thị Bạch Liễu (2014), “Trường Sa! Ơi Trường Sa”, NXB Đại học

Thái Nguyên

25. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục

Hà Nội.

26. Nguyễn Văn Long (2000), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo dục,

Hà Nội

27. Nguyễn Kiến Thọ (2017), Ba mươi năm thơ Thái Nguyên, Báo điện tử Văn

nghệ Thái Nguyên, http://vannghethainguyen.vn/2017/07/31/30-nam-tho-

thai-nguyen/ (31/7/2017).

28. Nguyễn Kiến Thọ (2014), Ẩn ức trong đêm thơ Nguyễn Thúy Quỳnh, Báo

điện tử Hội nhà văn TP Hồ Chí Minh, http://nhavantphcm.com.vn/chan-

dung-phong-van/an-uc-dem-trong-tho-nguyen-thuy-quynh.html (6/4/2014).

29. Nguyễn Thị Tuyến (2017), Thế giới nghệ thuật trong thơ trẻ Thái Nguyên,

Luận văn Thạc sỹ, Trung tâm học liệu – ĐH Thái Nguyên.

30. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

31. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào vào thế giới nghệ thuật của

nhà văn, Nhà xuất bản Giáo dục.

90

32. Đào Thủy Nguyên, Dương Thu Hằng (2014), Bản sắc văn hóa dân tộc

trong văn xuôi của các nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam, NXB Đại học

Thái Nguyên.

33. Ma Trường Nguyên (2010), Hiện đại mà dân tộc, Tập tiểu luận, NXB Văn

hóa dân tộc.

34. Ma Trường Nguyên (2011), Trên cánh đồng chữ nghĩa, Tập tiểu luận,

NXB Đại học Thái Nguyên.

35. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội.

36. Nhiều tác giả (1994), Bốn mươi truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

37. Nhiều tác giả (1996), Văn hóa truyền thống các dân tộc Tày Nùng, Nxb

Văn hóa dân tộc Hà Nội

38. Nhiều tác giả (2006), “Kỉ yếu hội thảo Nhà Văn Vi Hồng”, Hội VHNT Thái

Nguyên - Khoa Ngữ văn ĐHSP Thái Nguyên.

39. Nhiều tác giả (2010), Văn mới 5 năm 2006 - 2010, Hồ Anh Thái tuyển,

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

40. Lê Lưu Oanh (1999), Thơ trữ tình Việt Nam 1975- 1990, Nhà xuất bản Đại

học Quốc gia Hà Nội.

41. Hoàng Phê (2007), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.

42. Nguyễn Thúy Quỳnh (2002), Giá mà em từ chối, Nxb Văn hóa dân tộc.

43. Nguyễn Thúy Quỳnh (2004), Mưa mùa đông, Nxb Hội nhà văn.

44. Nguyễn Thúy Quỳnh (2011), Những tích tắc quanh tôi, Nxb Hội nhà văn.

45. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu. Nhà xuất bản Tác phẩm mới,

Hội Văn học.

46. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, BGD-ĐT,

Vụ giáo viên, Hà Nội.

47. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nhà xuất bản Giáo dục.

48. Trần Đình Sử (1996), Lý luận phê bình văn học, Nhà xuất bản Văn học,

Hà Nội.

91

49. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

50. Trần Đình Sử (2005), (Giáo trình) Dẫn luận thi pháp học, Nhà xuất bản

Giáo dục.

51. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình Lý luận văn học, Nxb Đại học Sư Phạm,

Hà Nội.

52. Trần Thị Lan (2017), Thơ Thái Nguyên dưới góc nhìn sinh thái, Luận văn

Thạc sỹ, Trung tâm học liệu Thái Nguyên.

53. Thanh Tâm (2011), Nguồn:http://www.moitruong.com.vn/ (12/6/2011)

54. Lưu Khánh Thơ (1999), Diện mạo thơ 1998, Tạp chí Văn học số 1.

55. Lưu Khánh Thơ (2005), Hữu Thỉnh - một phong cách thơ sáng tạo, in trong

cuốn Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

56. Lý Hoài Thu (1997), Đồng cảm và sáng tạo. Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.

57. Lý Hoài Thu (2001), Thực và ảo trong thơ Hữu Thỉnh, Tạp chí Văn hoá -

Văn nghệ Công an số 2.

58. Lý Hoài Thu (2010), Thơ Hữu Thỉnh - một hướng tìm tòi từ sáng tạo dân

tộc đến hiện đại, Tạp chí Sông Hương, số 142.

59. Đỗ Lai Thuý (2012), Thơ như là mỹ học của cái Khác, Nxb Hội nhà văn,

Hà Nội.

60. Tạ Văn Sỹ (2014), Lưu Thị Bạch Liễu-Nữ sĩ thơ tình, Nguồn:

http://luutoc.vn/vi/?go=detail/19/9/2014/LBiHg/News/luu-thi-bach-lieu-_-

nu-si-tho-tinh.dhtml (19/9/2014)

61. Trần Thị Vân Trung (2011 ) Hoa bất tử, (Tập tiểu luận), NXB Đại học

Thái Nguyên.

62. Trần Thị Việt Trung - Nguyễn Thị Thu Hiền (2014), "Lời văn nghệ thuật -

một số phương diện đặc sắc trong tiểu thuyết của Vi Hồng", Tạp chí Văn

học dân tộc thiểu số Việt Nam - Truyền thống và hiện đại, NXB Đại học

Thái Nguyên.

92

63. Trần Thị Việt Trung (2014), Văn học dân tộc thiểu số Việt Nam - truyền

thống và hiện đại, NXB Đại học Thái Nguyên.

64. Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2002), Tổng tập văn học

dân gian Việt (tập 15), NXB Khoa học Xã hội Hà Nội.

65. Tuyển tập thơ văn Thái Nguyên (1990-2000)(2000), Hội VHNT Thái Nguyên.

66. Tuyển tập thơ Thái Nguyên (2001-2006) (2007), Hội VHNT Thái Nguyên.

93