intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:109

21
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới. Mời các bạn cùng tham khảo!

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Kinh tế Chính trị: Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững

  1. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  MAI THỊ KIM HỒNG ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ HÀ NỘI - 2014
  2. BỘ QUỐC PHÒNG HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ  MAI THỊ KIM HỒNG ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÃ SỐ: 60 31 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM VĂN SƠN HÀ NỘI - 2014
  3. MỤC LỤC Tran g MỞ ĐẦU 3 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐÔ THỊ HOÁ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 10 1.1. Đô thị hóa và đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững 10 1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững 23 1.3. Kinh nghiệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững của một số nước trên thế giới và bài học rút ra cho Hà Nội 26 Chương 2 THỰC TRẠNG ĐÔ THỊ HOÁ NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 36 2.1 Tổng quan về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội 36 2.2 Những thành tựu đạt được trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững 39 2.3 Một số hạn chế trong quá trình đô thị hoá ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững 49 Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 58 NHẰM THÚC ĐẨY QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA NGOẠI THÀNH HÀ NỘI THEO HƯỚNG PHÁT
  4. TRIỂN BỀN VỮNG TRONG THỜI GIAN TỚI 3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới 58 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững trong thời gian tới 63 KẾT LUẬN 93 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 95 PHỤ LỤC 101
  5. DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT Chữ viết đầy đủ Chữ viết tắt Cơ sở hạ tầng CSHT Khu đô thị KĐT Khu chế xuất KCX Khu công nghiệp KCN Kinh tế - xã hội KT - XH Khoa học và Công nghệ KH&CN Lực lượng sản xuất LLSX Quan hệ sản xuất QHSX Tài nguyên thiên nhiên TNTN Phát triển bền vững PTBV Ủy ban nhân dân UBND
  6. 6 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Đô thị hóa là xu thế tất yếu đối với các quốc gia chậm phát triển khi bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đô thị hóa có tác động tích cực, sâu sắc tới mọi mặt đời sống KT-XH của mỗi quốc gia nói chung, tới khu vực nông thôn mỗi quốc gia nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, quá trình đô thị hóa cũng phát sinh nhiều vấn đề cần giải quyết như: Việc làm cho nông dân mất đất sản xuất; xây dựng cơ sở hạ tầng, an ninh xã hội, các vấn đề về môi trường… Do vậy, nếu không có một chiến lược giải pháp cụ thể, các quốc gia trong quá trình phát triển sẽ gặp phải nhiều vấn đề vướng mắc và lúng túng trong quá trình giải quyết, đôi khi làm nẩy sinh nhiều vấn đề phức tạp từ quá trình đô thị hóa. Thành phố Hà Nội trong những năm qua có tốc độ đô thị hóa nhanh; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực, tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp trong tổng GDP. Quá trình đô thị hóa đã có tác động tích cực, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là cư dân nông thôn, góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh cho Hà Nội; tài nguyên thiên nhiên của Thành phố từng bước đưa vào khai thác và sử dụng có hiệu quả. Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội còn thiếu tính bền vững như: Chưa tạo điều kiện cho sự phát triển thành phố theo xu hướng văn minh, hiện đại và bền vững; phát triển nguồn nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị hóa; cơ sở hạ tầng đô thị chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị hiện đại; giải quyết công ăn việc làm cho người dân bị thu hồi đất còn khó khăn; ô nhiễm môi trường và các tệ nạn xã hội diễn ra phức tạp... Như vậy, vấn đề đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội đã tác động không nhỏ tới mọi mặt KT-XH, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, nhằm cung cấp cơ sở khoa học cho các cấp, các ngành, cơ quan chức năng thành phố Hà Nội đảm
  7. 7 bảo quá trình đô thị hóa ở ngoại thành Hà Nội phát triển theo hướng bền vững. Với lý do đó, vấn đề “Đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng phát triển bền vững” được tác giả lựa chọn làm đề tài luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu vấn đề đô thị hoá theo hướng PTBV ở các mức độ và góc độ tiếp cận khác nhau, dưới các hình thức như: Đề tài khoa học các cấp, sách tham khảo và chuyên khảo, các đề tài luận văn, luận án, các bài báo được đăng tải trên các báo và tạp chí… Trong đó đáng chú ý một số công trình tiêu biểu sau: * Các công trình luận văn, luận án Luận án tiến sỹ kinh tế “Vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hoá nhằm góp phần xây dựng các quan điểm phát triển đô thị ở Việt Nam đến năm 2020, lấy Hà Nội làm ví dụ”, tác giả Nguyễn Hữu Đoàn [12]. Luận án đã hệ thống hoá các vấn đề lý luận về đô thị hoá trên thế giới và ở Việt Nam, từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí và tiêu chuẩn đánh giá mức độ đô thị hoá là cơ sở để đánh giá và so sánh mức độ đô thị hoá của các đô thị. Trên cơ sở vận dụng phương pháp phân tích đa tiêu chí đánh giá mức độ đô thị hóa bằng định lượng và định tính, luận án đã chứng minh tính khả thi của việc vận dụng phương pháp bằng việc áp dụng đánh giá mức độ đô thị hóa cho Hà Nội và làm rõ một số vấn đề chủ yếu về lý luận đô thị hoá và phát triển đô thị trong quá trình phát triển KT-XH. Từ những phân tích trên, luận án đã đề xuất một số quan điểm phát triển đô thị nhằm góp phần đẩy mạnh quá trình đô thị hoá ở Việt Nam và Hà Nội. Luận án tiến sỹ cấp Viện “Nghiên cứu tác động đến môi trường tự nhiên của quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An”, tác giả Trần Thị Ngân Hà [15]. Luận án đã đánh giá quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh trong thời gian qua. Theo tác giả luận án, quá trình đô thị hóa ở Thành phố Vinh đã làm biến đổi môi trường tự nhiên, tuy mức độ chưa lớn nhưng đã tạo ra sức ép đối với sự phát triển KT-XH và bảo vệ môi trường tại địa phương;
  8. 8 luận án cũng đánh giá những tác động đến môi trường tự nhiên của quá trình đô thị hóa ở thành phố Vinh là căn cứ khoa học để đề xuất các giải pháp bảo vệ môi trường tự nhiên, phát triển đô thị theo hướng bền vững. Luận văn thạc sỹ kinh tế “Giảm nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa”, tác giả Nguyễn Công Bằng [4]. Luận văn đã hệ thống hoá những vấn đề lý luận cơ bản về giảm nghèo trong quá trình đô thị hóa; đánh giá khách quan thực trạng đói nghèo tại các huyện ngoại thành Hà Nội trong quá trình đô thị hóa trên các phương diện: Kết quả, hạn chế và nguyên nhân. Trên cơ sở đó, luận văn đã đề xuất một số giải pháp chủ yếu thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các huyện ngoại thành Hà Nội trong thời gian tới. Luận văn thạc sỹ địa lý “Nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới biến đổi kinh tế - xã hội của thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh”, tác giả Nguyễn Thị Huyền Minh [24]. Luận văn đã nghiên cứu ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa tới biến đổi KT-XH thị xã Từ Sơn, Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010, chỉ ra những ảnh hưởng tích cực cũng như ảnh hưởng tiêu cực ở địa phương này. Từ đó luận văn đã đề xuất những giải pháp phát triển bền vững KT-XH của địa phương dưới ảnh hưởng của quá trình đô thị hóa. Luận văn thạc sỹ nông nghiệp “Nghiên cứu ảnh hưởng của đô thị hóa đến phát triển kinh tế- xã hội của huyện Phổ Yên, tỉnh Thái Nguyên”, tác giả Ngô Thị Mỹ [26]. Luận văn đã đi sâu nghiên cứu những tác động tích cực cũng như hạn chế của đô thị hóa đối với các hộ nông dân mất đất nói riêng và tình hình KT-XH của huyện Phổ Yên nói chung. Từ việc nghiên cứu thực trạng của đô thị hóa, luận văn chỉ ra những ảnh hưởng của nó đến phát triển KT-XH của huyện Phổ Yên; trên cơ sở đó luận văn đã đề ra những định hướng và giải pháp phù hợp thúc đẩy KT-XH của huyện tiếp tục phát triển. * Sách, báo cáo hội thảo và đề tài nghiên cứu các cấp Sách “Đô thị hóa và cấu trúc đô thị Việt Nam trước và sau đổi mới 1979 - 1989 và 1989 - 1999” của tác giả Lê Thanh Sang, Viện khoa học Nông
  9. 9 thôn Việt Nam - Bộ thuộc Viện khoa học xã hội Việt Nam chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, ấn hành năm 2008. Cuốn sách đã phác họa bức tranh đô thị hóa và cấu trúc đô thị hóa ở Việt Nam giai đoạn 1979 - 1999 từ đó, đề xuất các biện pháp tiến hành cấu trúc lại đô thị ở Việt Nam. Sách “Đô thị hóa và chính sách phát triển đô thị trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam”, Trần Ngọc Hiên và Trần Văn Chử đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998. Cuốn sách đã trình bày khái quát về quá trình đô thị hóa ở Việt Nam kể từ năm 1975 cùng các chính sách về đô thị hóa của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Theo các tác giả, quá trình đô thị hóa của Việt Nam từ sau năm 1974 đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, góp phần xây dựng bộ mặt đô thị trên cả nước. Đồng thời để cập quá trình đô thị hóa còn không ít những hạn chế xuất phát từ nguyên nhân chủ quan - các chính sách đô thị hóa của các cấp quản lý. Trên cơ sở đó có những kiến nghị chính sách để đảm bảo quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đạt được nhiều thành tựu nhất. Sách “Đô thị học- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Minh Hòa, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2012. Đây là một tuyển tập 93 bài viết trong số hàng trăm bài công bố trên các tạp chí, sách chuyên khảo trong và ngoài nước của tác giả khi nghiên cứu về đô thị hóa trong 20 năm liên tục (1990-2012). Cuốn sách được tác giả trình bày theo các nội dung: Nhận thức chung về đô thị; văn hóa và xã hội đô thị; tổ chức không gian sống đô thị; phát triển đô thị trong bối cảnh ở Việt Nam; phát triển đô thị từ kinh nghiệm quốc tế. Cuốn sách cung cấp những kiến thức về nguyên lý và quy luật chung của phát triển đô thị, về quy hoạch - kiến trúc, giao thông, môi trường; đặc biệt là những cách tiếp cận mới về đô thị dưới nhãn quan của đô thị học. Cuốn sách “Phát triển bền vững đô thị: những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới” của tác giả Đào Hoàng Tuấn, Nxb Khoa học xã hội, năm 2008. Cuốn sách đã khái quát kinh nghiệm phát triển đô thị của nhiều
  10. 10 nước trên thế giới từ đó đề xuất hệ thống tiêu chí đối với đô thị ở Việt Nam hiện nay. Thông tin chuyên đề “Những tác động về văn hóa và xã hội của quá trình đô thị hóa ở Việt Nam và Australia” do Khoa Văn hóa, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Trung tâm nghiên cứu đô thị và xã hội Trường đại học Công nghệ Swiburme Australia phối hợp nghiên cứu, năm 1997. Bản Thông tin đã phân tích những tác động về văn hóa và xã hội của quá trình đô thị hóa ở hai quốc gia Việt Nam và Australia, từ đó, xác định những điểm tương đồng và không tương đồng trong quá trình đô thị hóa giữa hai nước và đề xuất những bài học kinh nghiệm cho quá trình đô thị hóa ở Việt Nam. Bài tham luận của Ngô Thắng Lợi tại Hội thảo “Phát triển bền vững thủ đô Hà Nội văn hiến, anh hùng, vì hòa bình” và “Đô thị hóa ở Hà Nội nhìn từ góc độ phát triển bền vững”, năm 2010, đã khẳng định những khía cạnh bền vững trong đô thị hóa Hà Nội bao gồm: Đô thị hóa đã gắn được với tăng trưởng kinh tế và nâng cao mật độ kinh tế; đô thị hóa gắn với quá trình công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; đô thị hóa với gắn liền với việc mở rộng quy mô Thủ đô, tạo không gian thuận lợi bảo đảm tính bền vững của quá trình đô thị hóa; đô thị hóa gắn với mở rộng phạm vi lan tỏa qua việc hình thành và phát triển vùng thủ đô với tư cách là “bệ đỡ” cho phát triển Hà Nội. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra tính chất thiếu bền vững trong đô thị hóa Hà Nội gồm: Quá trình đô thị hóa đã không tạo điều kiện cho sự phát triển thành phố theo xu hướng hiện đại và bền vững trong tương lai; phát triển nguồn nhân lực không theo kịp được với quá trình đô thị hóa; cơ sở hạ tầng đô thị chưa đảm bảo các tiêu chuẩn phát triển đô thị hiện đại; ô nhiễm môi trường đô thị Hà Nội trở thành “điểm nóng” cản trở sự phát triển… Bên cạnh những công trình tiêu biểu nêu trên, chủ đề đô thị hóa còn thu hút được không ít các bài báo, sách và đề tài nghiên cứu khoa học khác, có thể kể đến là: “Đô thị Việt Nam”, Nxb Xây dựng, năm 1995 của Đàm Trung Phương; “Quản lí đô thị”, Nxb Xây dựng, năm 2001 của Nguyễn Ngọc Châu;
  11. 11 “Quản lí đô thị”, Nxb Xây dựng năm 2005 của Phạm Trọng Mạnh; “Kinh tế đô thị và vùng”, Nxb Xây dựng năm 2006 của Trần Văn Tấn; “Phân tích dưới góc độ địa lí kinh tế - xã hội sự chuyển hóa nông thôn thành đô thị ở Hà Nội trong quá trình đô thị hóa” của Đỗ Thị Minh Đức; “Nghiên cứu đo đạc một số chỉ tiêu chất lượng cuộc sống năm 2002 của Thành phố Hồ Chí Minh” của Hồ Thiệu Hùng; “Cộng đồng dân cư ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình đô thị hóa” của Văn Thị Ngọc Lan… Những công trình khoa học, bài viết trên của các tác giả đã đề cập đến quá trình đô thị hoá trên nhiều phương diện, mục đích khác nhau như: Phát triển đô thị lấy kinh tế làm trọng tâm; phát triển đô thị lấy con người làm trọng tâm; lý thuyết đô thị hóa tiếp cận dưới góc độ dân số học. Tổng quan về quá trình đô thị hóa, các xu hướng, hình thái đô thị hóa và sự biến đổi kinh tế, xã hội, văn hóa… cùng những chính sách, kinh nghiệm của các địa phương trong và ngoài nước về đô thị hóa. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV. 3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài * Mục đích nghiên cứu Luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV, trên cơ sở đó luận văn đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới. * Nhiệm vụ nghiên cứu - Luận giải quan niệm, đặc điểm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến đô thị hóa theo hướng PTBV. - Đánh giá thực trạng đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV. - Đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy đô thị hóa ngoại thành Hà Nội theo hướng PTBV trong thời gian tới. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài * Đối tượng nghiên cứu: Đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững.
  12. 12 * Phạm vi nghiên cứu: Ngoại thành Hà Nội. Tư liệu, số liệu phục vụ nghiên cứu đề tài được thực hiện chủ yếu từ năm 2008 đến nay. Đó là thời điểm Hà Nội mở rộng địa giới hành chính gần đây nhất. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài * Cơ sở lý luận nghiên cứu Đề tài được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và các nghị quyết của thành phố Hà Nội về đô thị hóa, đồng thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố có liên quan. * Phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin (trừu tượng hóa khoa học) và các phương pháp: Kết hợp logic và lịch sử, phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp chuyên gia. 6. Ý nghĩa của đề tài - Góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận và thực tiễn về đô thị hóa theo hướng PTBV. Qua đó cung cấp cứ liệu khoa học để Đảng bộ, chính quyền thành phố Hà Nội có thể tham khảo trong nghiên cứu xác định chủ trương, chính sách nhằm hướng tới sự PTBV trong quá trình đô thị hóa ngoại thành Hà Nội. - Đề tài có thể làm tài liệu tham khảo nghiên cứu, giảng dạy và học tập bộ môn kinh tế chính trị ở các trường đại học, cao đẳng. 7. Kết cấu của đề tài Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (8 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
  13. 13 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM VỀ ĐÔ THỊ HOÁ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG 1.1. Đô thị hóa và đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững 1.1.1. Đô thị hóa * Khái niệm đô thị hóa Đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát triển. Những năm cuối của thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, ở những mức độ khác nhau và những sắc thái khác nhau, đô thị hóa tiếp tục lan rộng như là một quá trình phát triển KT-XH trên toàn thế giới. Đó là quá trình mở rộng thành phố, tập trung dân cư, thay đổi các mối quan hệ xã hội; quá trình đẩy mạnh và đa dạng hóa những chức năng phi nông nghiệp, mở rộng giao dịch, phát triển lối sống cũng như văn hóa đô thị. Đó cũng là quá trình biến đổi về phân bố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị trở thành đô thị. Tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ… thu hút nhiều nhân lực từ nông thôn đến sinh sống và làm việc, làm cho tỉ trọng dân cư ở các đô thị tăng nhanh. Đô thị xuất hiện làm tăng sự phát triển giao thông với các vùng nông nghiệp xung quanh và các đô thị khác. Hiện nay, do cách tiếp cận và đối tượng nghiên cứu khác nhau của các chuyên ngành khoa học nên quan niệm về đô thị hóa cũng có sự khác nhau: Trong tác phẩm “Đô thị Việt Nam” của Đàm Trung Phương cho rằng: “Đô thị hoá là quá trình chuyển dịch hoạt động nông nghiệp phân tán sang hoạt động phi nông nghiệp tập trung trên một số địa bàn thích hợp” [33, tr.33]. Mặt khác, cũng theo tác giả này: “Đô thị hoá cũng bao gồm quá trình di cư từ nông thôn ra thành thị, tập trung ngày càng nhiều dân cư trong những vùng lãnh thổ hạn chế, gọi là đô thị” [33, tr.34]. Theo báo cáo của Viện nghiên cứu Phát triển KT- XH Hà Nội, quá trình đô thị hoá được nhìn từ hai góc độ, một mặt đó là “Quá trình hình thành
  14. 14 và phát triển các điểm dân cư được tập hợp lại và phổ biến lối sống thành thị, đồng thời phát triển các hoạt động khác nhau để phục vụ sự tồn tại và phát triển trong cộng đồng đó”; mặt khác “Đô thị hoá cũng là quá trình mở rộng biên giới lãnh thổ đô thị do nhu cầu công nghiệp hoá, thương mại, dịch vụ và giao lưu quốc tế - là sự tăng trưởng về không gian đô thị từ phát triển dân số và phát triển sản xuất” [57]. Thực tế, đô thị hoá không chỉ đơn thuần là quá trình dịch cư từ nông thôn ra thành thị và dịch cư nghề nghiệp mà còn bao hàm các quá trình dịch cư khác, đa chiều, đa cấp độ như các dòng dịch cư đô thị - đô thị, đô thị - ven đô, đô thị - nông thôn, vùng - quốc tế với các mức độ khác nhau theo từng hoản cảnh của các đô thị cụ thể. Các nhân tố kinh tế vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc tạo nên quá trình đô thị hoá, tuy nhiên các nhân tố khác phi kinh tế như văn hoá, lịch sử, lối sống… đang ngày càng có những ảnh hưởng lớn tới các đặc tính đô thị hoá của mỗi vùng. Từ các quan niệm trên cho thấy: Đô thị hóa là quá trình mở rộng đô thị và biến đổi, phân bố lại các yếu tố của lực lượng sản xuất, bố trí dân cư, hình thành, phát triển các hình thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị; có sự chuyển biến rõ nét trong quy hoạch, xây dựng, quản lý đô thị tạo tiền đề vững chắc cho phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số. Theo nghĩa hẹp, đô thị hoá là quá trình dịch cư từ lĩnh vực nông nghiệp sang phi nông nghiệp với biểu hiện là sự tăng tỷ lệ dân số đô thị và nâng cao mức độ trang bị kỹ thuật đô thị. Theo nghĩa rộng, đô thị hoá là quá trình chuyển biến KT-XH, văn hoá và không gian lãnh thổ, gắn liền với những tiến bộ về KH&CN, trong đó diễn ra sự phát triển nghề nghiệp mới, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự chuyển đổi lối sống, sự mở rộng không gian thành hệ thống song song với việc tổ chức bộ máy hành chính.
  15. 15 Như vậy, đô thị hóa là sự mở rộng đô thị cả về không gian và thời gian. Về không gian, mức độ đô thị hóa được tính bằng tỷ lệ giữa dân số đô thị trên tổng số dân hay giữa diện tích đô thị trên diện tích của địa phương. Về thời gian, tốc độ đô thị hóa được tính bằng tốc độ gia tăng theo thời gian của yếu tố dân số đô thị và diện tích đô thị; là quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị, biến đổi về phân bố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải là đô thị thành đô thị. Ngoại thành Hà Nội là phạm vi danh giới địa chính ngoại thị của thành phố, gồm các đơn vị hành chính huyện, thị xã và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thành lập, bao quanh, tiếp giáp với phần nội thành, không bao gồm phần nội thị (các quận nội thành), dân cư phần lớn là làm nông nghiệp cùng với những thói quen sản xuất, sinh hoạt, văn hóa truyền thống của người nông dân, nông thôn. Trên cơ sở quan niệm chung về đô thị hóa, có thể hiểu về đô thị hóa ngoại thành Hà Nội là quá trình mở rộng đô thị; biến đổi, phân bố lại các yếu tố của LLSX từ nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; bố trí dân cư ở các huyện ngoại thành, hình thành phát triển các hình thức, điều kiện sống theo kiểu đô thị và tăng quy mô dân số đô thị; cải tạo nâng cấp, mở rộng, hiện đại hóa các cơ sở tương ứng của ngoại thành và các vùng, địa phương lân cận cho phù hợp với quá trình đô thị hóa. * Đặc điểm của quá trình đô thị hoá Đô thị hóa gắn liền với quá trình tăng trưởng kinh tế của một khu vực, một quốc gia. Tuy nhiên, tốc độ và đặc điểm của đô thị hóa còn phụ thuộc vào trình độ phát triển của một khu vực hay quốc gia đó. Ngày nay, đô thị hóa được hiểu là quá trình mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu xã hội từ nông nghiệp- nông dân- nông thôn sang công nghiệp- thị dân- đô thị được biểu hiện ở một số đặc điểm sau:
  16. 16 Thứ nhất, đô thị hóa là một quá trình lâu dài diễn ra trong một không gian, lãnh thổ rộng lớn. Thứ hai, tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp hay công nghiệp hóa, đô thị hóa. Trong quá trình đô thị hóa có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Thứ ba, đô thị hóa là quá trình hình thành nâng cấp mở rộng quy mô đô thị với kết cấu hạ tầng hiện đại. Thứ tư, không gian đô thị ngày càng mở rộng, cùng với nó là sự thu hẹp đất nông nghiệp để phát triển KĐT, KCN, thương mại, dịch vụ, du lịch. Thứ năm, tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế ngày càng gia tăng thể hiện ở sự gia tăng của quy mô và tốc độ thu hút vốn, gia tăng số lượng và quy mô các đơn vị kinh tế. Thứ sáu, đô thị hóa đã góp phần chuyển từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị, từ văn hóa làng xã sang văn hóa đô thị, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh công nghiệp; cùng với đó là sự thay đổi về cơ chế, chính sách phát triển và quản lý đô thị. * Nội dung đô thị hoá: Một là, mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp. Đô thị hóa dù diễn ra dưới hình thức nào cũng đều dẫn đến sự chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất: Mở rộng không gian đô thị, tức phát triển đô thị theo chiều rộng làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp nhanh chóng. Nguyên nhân do Nhà nước và chính quyền các cấp chuyển đổi mục đích sử dụng để dành đất cho xây dựng các công trình; do hình thành thị trường bất động sản, kinh doanh đất đai và một phần do nhân dân ở nơi đang có quá trình đô thị hóa bán cho những người từ địa phương khác đến. Tuy nhiên, bất kể mục đích chuyển đổi đất nông nghiệp để làm gì thì trong quá trình đô thị hóa, Nhà nước phải nắm quyền chủ động chuyển đổi mục đích sử dụng đất để tạo đà cho sự phát triển đô thị.
  17. 17 Hai là, bố trí dân cư trong các khu đô thị mới, giải quyết vấn đề dân số, giải quyết vấn đề việc làm, thay đổi cơ cấu lao động. Khu đô thị mới là khu đô thị đang được phát triển tập trung theo dự án đầu tư xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ các công trình kết cấu hạ tầng, các công trình sản xuất, công trình phúc lợi và nhà ở. Đồng thời, với các khu đô thị mới đang được phát triển làm cho các khu nông thôn được chuyển thành phố, phường. Vì vậy, đòi hỏi phải bố trí lại dân cư cho phù hợp với quy mô và chức năng của đô thị, phải giải quyết vấn đề dân số, cả dân số tự nhiên và dân số cơ học đáp ứng yêu cầu của sản xuất và bảo đảm không ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư. Từ làng lên phố, từ xã lên phường, người nông dân không còn đất để sản xuất nông nghiệp và trong số này không phải ai cũng có điều kiện để tham gia lao động trong các ngành công nghiệp, dịch vụ, thương mại nhất là với những người dân lớn tuổi, trình độ văn hóa thấp càng ít có khả năng có việc làm để bảo đảm thu nhập và cuộc sống. Bên cạnh đó là sự gia tăng dân số và lao động cơ học từ nơi khác vào đô thị mới. Vì vậy, đô thị hóa đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ cả cơ cấu lao động và việc làm cho dân cư sở tại và dân cư từ các địa phương khác về. Ba là, có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành; cơ cấu thành phần kinh tế. Đô thị hóa tất yếu sẽ dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Do đất đai dùng cho sản xuất nông nghiệp trước đây ngày càng bị thu hẹp. Các đô thị mới với chức năng chủ yếu là phát triển công nghiệp, thương mại và dịch vụ. Vì vậy, quá trình đô thị hóa, cơ cấu ngành kinh tế cũng thay đổi theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, thương mại trong tổng GDP. Đến lượt nó, sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế trong quá trình đô thị hóa lại kéo theo sự thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh thương mại và dịch vụ phục vụ cho đô thị như xây dựng các trung tâm mua sắm, khu vui chơi giải trí, nghỉ ngơi cuối tuần. Bản thân ngành nông nghiệp cũng chuyển biến mạnh mẽ theo hướng phát triển nông nghiệp công nghệ cao,
  18. 18 nông nghiệp sinh thái. Cơ cấu thành phần kinh tế cũng thay đổi nhanh chóng. Các hộ nông dân trong các Hợp tác xã nông nghiệp trước đây có thể phát triển thành các hộ kinh doanh thương mại, dịch vụ, hộ làm các nghề tiểu thủ công nghiệp; phát triển mạnh các hình thức tổ chức kinh tế của nhiều thành phần như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty nhà nước, công ty liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài… Bốn là, có sự phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội. Quá trình đô thị hóa là quá trình hình thành nhanh chóng kết cấu hạ tầng KT-XH. Những công trình này phải đáp ứng được yêu cầu của sản xuất và đời sống với những tiêu chuẩn cụ thể của từng loại đô thị. Đảm bảo hiện đại và đồng bộ kết nối với đô thị cũ trung tâm và các vùng lân cận. Việc giải quyết tốt hay không tốt nội dung này đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực tới sản xuất và đời sống nhân dân. Về giao thông, có thể thấy mật độ giao thông đô thị tăng nhanh, do tăng dân số, lao động và tăng trưởng kinh tế với tốc độ nhanh cùng với nhu cầu đi lại, vận chuyển và giao lưu hàng hóa, dịch vụ ngày càng lớn làm cho mật độ giao thông phát triển mạnh. Năm là, thay đổi hình thái kiến trúc từ kiến trúc nông thôn sang kiến trúc đô thị. Trong quá trình đô thị hóa, tất yếu phải thay đổi kiến trúc nông thôn bằng kiến trúc đô thị. Tuy nhiên, ở đây có hai nội dung cần bàn là: Ở các đô thị mới phải có kiến trúc, xây dựng nhà ở, các cơ quan, công sở bảo đảm mĩ quan, văn minh, hiện đại; khắc phục nhà siêu mỏng, siêu méo, nhà không số, phố không tên… Sáu là, thành lập các đơn vị hành chính mới ở địa bàn được đô thị hoá. Đô thị hóa dẫn đến sự biến động ranh giới các đơn vị hành chính như: sự thay đổi địa giới hành chính, dân số của đô thị, của các phường, các quận mới và bộ phận còn lại của các thôn, các xã, các huyện ngoại thành. Sự thay đổi này kéo theo sự thay đổi của bộ máy hành chính cùng với thay đổi quy mô, trình độ, cách thức, hình thức, phương thức, biện pháp quản lý. Do đó quá trình đô thị hóa rất cần thiết tổ chức lại quản lý nhà nước trên địa bàn.
  19. 19 1.1.2. Phát triển bền vững Trong báo cáo “Tương lai chung của chúng ta” (Hay báo cáo Brundtland) của Uỷ ban Thế giới về Môi trường và phát triển (WCED) năm 1997 cũng đã đưa ra khái niệm về phát triển bền vững, theo đó, thừa nhận mối liên kết chặt chẽ giữa môi trường và phát triển. Theo WCED "Phát triển bền vững là sự phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng các yêu cầu của họ” [27, tr.16]. Phát triển bền vững bao hàm các quá trình thay đổi về kinh tế, xã hội, môi trường. Đến nay, khái niệm này vẫn còn tiếp tục được bàn luận, sự diễn giải về nó vẫn còn có sự khác nhau. Tuy nhiên, bản chất của phát triển bền vững theo ba khía cạnh kinh tế, xã hội và môi trường: Thứ nhất, phát triển bền vững về kinh tế đòi hỏi con đường phát triển tạo ra sự tăng thu nhập thực sự, gia tăng sản xuất xã hội, xóa bỏ nghèo đói, bảo đảm nhịp độ tăng trưởng nhanh, ổn định, hiệu quả. Mức độ bền vững về kinh tế bị chi phối bởi tính hữu ích, chi phí đầu vào, chi phí khai thác, chế biến và nhu cầu đối với sản phẩm. Để bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế nhanh, khai thác tài nguyên thiên nhiên với cường độ lớn hơn vẫn là phương thức mà nhiều quốc gia lựa chọn. Tuy nhiên, nếu quá phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên thì dễ rơi vào khủng hoảng khi tài nguyên bị cạn kiệt và có những tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo được. Việc khai thác tài nguyên như vậy sẽ vượt quá sức chịu đựng của các hệ sinh thái, gây ô nhiễm, suy thoái môi trường và tạo ra những nguy cơ tiềm ẩn mà con người có thể còn chưa biết đến hoặc chưa lường hết được. Vì vậy, đây không phải là phương thức PTBV. Những vấn đề khác như vay nợ, đầu tư kém hiệu quả, thất thoát các nguồn vốn... cũng sẽ ảnh hưởng đến mức độ bền vững về kinh tế. Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội gắn chặt và có quan hệ biện chứng với PTBV về kinh tế, là sự phát triển kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với ổn định xã hội, không có xung đột, xáo trộn; huy động tối đa, hiệu quả các
  20. 20 nguồn lực cho quá trình phát triển; bảo đảm giải quyết tốt các vấn đề về việc làm, giáo dục, y tế, công bằng về thu nhập, phúc lợi xã hội giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng lãnh thổ; xây dựng, bảo vệ và phát huy những chuẩn mực của xã hội hiện tại trên cơ sở tôn giáo, truyền thống, phong tục, tập quán, bản sắc dân tộc, đạo đức, luật pháp. Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường có mối quan hệ chặt chẽ với PTBV về kinh tế và về xã hội, phản ánh mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên. Mọi quá trình phát triển xét đến cùng là việc sử dụng nguồn lực con người để khai thác tài nguyên thiên nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu của con người. Vì vậy, việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường phải bảo đảm sự bền vững. Bền vững về môi trường cũng có nghĩa là tận dụng, tái tạo các nguồn tài nguyên, năng lượng, phòng ngừa và giảm thiểu ô nhiễm môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo đảm cân bằng sinh thái. Nói cách khác, PTBV về môi trường là sự bảo đảm cho môi trường sống luôn duy trì được ba chức năng cơ bản của nó: Là không gian sống của con người; là nơi cung cấp nguồn lực cho sự tồn tại, phát triển của con người và xã hội; là nơi chứa đựng, tiêu huỷ các chất thải. Chỉ một trong ba chức năng này bị tổn thương hoặc mất cân bằng là nguy cơ PTBV về môi trường sẽ bị đe dọa. 1.1.3. Đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững * Quan niệm đô thị hóa theo hướng phát triển bền vững Có thể hiểu đô thị hóa theo hướng PTBV là sự phối hợp phát triển đa ngành, đa cấp và của toàn xã hội. Đô thị hóa theo hướng PTBV là tư duy đổi mới về quá trình đô thị hóa được diễn giải trên cơ sở duy trì những hiểu biết về kinh tế, văn hóa và bảo vệ môi trường. Phát triển đô thị là nền tảng vững chắc để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Một cách hiểu đơn giản nhất đô thị hóa theo hướng PTBV là sự can thiệp với cách thức có chiến lược của con người vào quá trình đô thị hóa phù hợp với xu thế, nguồn lực, quy luật phát triển chung và đặc trưng riêng của từng quốc gia. Cho đến nay, chưa có
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2