Trang 1 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

CHƯƠNG 1

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN

VÀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM

1.1. Thực trạng việc quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam

Hiện nay Việt nam vẫn là một nước đang phát triển, một đất nước trải qua nhiều

cuộc chiến tranh đô hộ và tàn dư của các cuộc chiến tranh để lại vẫn còn rất nặng

nề. Hệ thống khung pháp luật chưa hoàn chỉnh, các chính sách về các lĩnh vực cũng

đang được Nhà nước rất quan tâm nghiên cứu. Trong các lĩnh vực được quan tâm

trong đó có lĩnh vực quản lý tài nguyên môi trường đang được đề cập nhiều để đưa

ra những chính sách phù hợp với điều kiện thực tế phát triển đất nước.

Ở đây tác giả xin được đi sâu vào lĩnh vực tài nguyên nước và sau đây là tóm

lược hiện trạng ngành nước của Việt Nam trong điều kiện dân số, sự tăng trưởng và

thay đổi cơ cấu kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Mục này tập trung vào cách tiếp cận

Quản lý Tài nguyên Nước Tổng hợp (QLTNNTH) để quản lý, và có những thay đổi

tổ chức cần thiết đối với ngành nước để Việt Nam có thể nắm bắt và đi theo cách

tiếp cận mới này. Nó nêu ra mối quan hệ tổng thể và những vấn đề liên quan cần

phải được đưa vào một chương trình cải tổ ngành.

1.1.2. Bối cảnh phát triển

Việt Nam hiện đang là nước đông dân số thứ 5 trên thế giới. Năm 2009, dân số

Việt Nam là trên 86 triệu người – dự báo sẽ đạt đến con số 100 triệu người trong

vòng 20 năm tới và sẽ ổn định quanh mức 120 triệu người vào giữa thế kỷ này. Tuy

nhiên, mặc dù cứ một năm dân số lại tăng 1 triệu người, tốc độ tăng dân số đã giảm

đáng kể trong thập niên 90 của Thế kỷ 20 vừa qua. Khoảng một phần ba dân số hiện

nay đang sinh sống ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình, gần 21% ở Đồng bằng Sông

Cửu Long (ĐBSCL) và 15% ở lưu vực sông Đồng Nai.

Phân bố dân cư đang có sự chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị và đến các

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

vùng kinh tế mới. Trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2005, dân số thành thị tăng

Trang 2 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

từ 15 triệu lên 22,4 triệu đã tạo nên một áp lực lớn cho đầu tư cơ sở hạ tầng và làm

gia tăng ô nhiễm môi trường. Trên phạm vi toàn quốc, luôn có một lượng người di

cư đều đặn từ Bắc vào Nam. Có bốn vùng chủ yếu thu hút làn sóng di cư: vùng đô

thị thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, và các tỉnh Tây Nguyên.

Trong vòng 20 năm tới, lượng dân số gia tăng trên sẽ đòi hỏi một lượng nước từ

4 đến 4,5 triệu m³ ngày đêm, hay 8–9 triệu m³/ngày đêm nếu tính cả nhu cầu cho

các hoạt động sản xuất công nghiệp đi kèm – gấp đôi khả năng cấp nước hiện tại.

Các trung tâm đô thị cũng đang thải ra ra lượng nước thải rất lớn, trong khi đó, trên

toàn quốc chỉ vài phần trăm lượng nước thải này được xử lý trước khi đưa vào

nguồn nước thiên nhiên. Khối lượng đầu tư cần thiết để đáp ứng các Mục tiêu Thiên

niên kỷ (MTTNK) của Việt Nam về cấp nước và vệ sinh nông thôn và đô thị tới

năm 2020 ước tính là 600 triệu USD mỗi năm – gấp gần 4 lần đầu tư hàng năm

trong hơn 10 năm qua. Khoản đầu tư trong quá khứ, đặc biệt là cho khu vực đô thị,

chủ yếu là từ nguồn vốn ODA (gần 85% trong số 1 tỷ USD được đầu tư).

Rõ ràng một trong những áp lực lớn nhất đến tài nguyên nước và ngành nước là

do sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, và thay đổi trong cơ cấu kinh

tế. Sự phát triển mạnh kinh tế dẫn đến việc tiêu thụ ngày càng nhiều nguồn tài

nguyên, đòi hỏi một nguồn nước tốt hơn, tạo ra sự tập trung dân số lớn, và quan

trọng hơn cả là tạo ra lượng nước thải bị ô nhiễm cùng các chất thải khác. Nền kinh

tế đã và đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm là 7,5% và

Dự báo trong hai năm tới đạt 6,4% – 6.7%. Với tốc độ tăng trưởng hiện tại, sản

phẩm của kinh tế của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi sau mỗi thời gian 10 năm.

Trong vòng 10 năm qua, GDP đã tăng gần gấp 3 lần. Các ngành công nghiệp,

xây dựng và dịch vụ tăng trưởng mạnh. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng

trưởng cao và ổn định. Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản cũng có mức tăng

trưởng cao nhưng với mức tăng thấp hơn.

Cơ cấu tăng trưởng kinh tế trên phạm vi toàn quốc rất không đồng đều. Ví dụ,

lưu vực sông Đồng Nai có mức phát triển nhanh hơn mức trung bình của cả nước,

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

trong khi các lưu vực khác như sông Mã và Trà Khúc, lại là những lưu vực rất

Trang 3 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nghèo, với cơ cấu kinh tế tương tự với cơ cấu kinh tế của Việt Nam 15–20 năm

trước. Ba lưu vực sông đóng góp trên 70% vào GDP của Việt nam là lưu vực sông

Hồng-Thái Bình (25%), ĐBSCL (17%), và lưu vực sông Đồng Nai (28%). Tỉ trọng

của Nhóm lưu vực sông Đông Nam bộ là 10%. Điều này cho thấy cơ cấu tăng

trưởng kinh tế rất không đồng đều. Quan trọng là Việt nam cần nhận thức được sự

khác biệt trên và cần ưu tiên phát triển tài nguyên nước để hỗ trợ cho cả người dân

và phát triển kinh tế.

Bước tiến của Việt nam vào một nền kinh tế thị trường vẫn trong giai đoạn quá

độ. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn chiếm phần lớn trong nền kinh tế.

Quá trình cải tổ các DNNN hay quá trình ‘cổ phần hóa” diễn ra chậm chạp trong

những năm gần đây và đóng góp của các DNNN chiếm khoảng 39% cho cả GDP và

đầu ra ngành công nghiệp và 35% tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm không phải là dầu

mỏ. Khu vực các DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn so với khu vực ngoài

quốc doanh. Điển hình gần đây là việc thất thoát hàng nghìn tỷ đồng của Tập Đoàn

Công nghiệp Tầu thuỷ Việt Nam (VINASHIN), việc Kinh doanh thua lỗ của Tập

đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), ..Việc đối xử thiên vị đối với các DNNN đã khiến

khu vực ngoài quốc doanh mất đi nhiều cơ hội tăng trưởng. Các DNNN cũng sở

hữu một số ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất cả nước. Việc tiếp tục cải tổ các

DNNN là rất cần thiết, vì nó sẽ tạo ra “sân chơi công bằng” giữa khu vực quốc

doanh và ngoài quốc doanh.

Chính phủ Việt Nam rõ ràng kỳ vọng tốc độ của cải tổ kinh tế sẽ được tiếp tục

duy trì trong tương lai, điều này sẽ tạo nên áp lực lớn hơn cho tài nguyên nước.

Trong các quy hoạch các ngành, chỉ đối với phát triển thủy điện tài chính mới

không là vấn đề. Tất cả các quy hoạch các ngành khác dường như quá tham vọng

và phần lớn không có nguồn vốn.

Thủy điện là ngành có ảnh tác động lớn đến tài nguyên nước ở nhiều lưu vực

sông. Trong những năm gần đây, phát triển thuỷ điện diễn ra nhanh và sẽ tiếp tục đà

phát triển này. Sơ đồ Tổng quan VI ngành điện là quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

điện năng trong giai đoạn 2006–2015, trong quy hoạch có đưa ra kế hoạch xây dựng

Trang 4 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

thêm 26 hồ chứa, trong đó một số hồ chứa đang được xây dựng. So với các nước

trên thế giới, Việt Nam là nước có tiềm năng thuỷ điện tương đối nhỏ - tối đa là

85.000 GWh/năm, so với 130.000 GWh/năm của Nhật Bản, 320.000 GWh/năm của

Ấn Độ và 1.300.000 GWh/năm của Trung Quốc. Vào năm 2010, khoảng 50% tiềm

năng kỹ thuật và kinh tế trên toàn quốc đã được triển khai. Tuy nhiên, vào năm

2025, tỉ lệ này dự định sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao, góp phần đưa Việt nam

thành quốc gia có tỉ lệ tận dụng tiềm năng thủy điện ở mức cao nhất.

Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đưa ra một danh mục các dự án đầu tư. Các

dự án liên quan đến nước được tài trợ từ ngân sách quốc gia với tổng kinh phí là

78.000 tỉ đồng trong đó các dự án thuỷ điện chiếm đến 64%. Các dự án phòng

chống thiên tai chiếm 14%, đô thị 10%, nước sạch và vệ sinh nông thôn 9%, tưới

3%. Một phần kinh phí bổ sung 32.500 tỉ đồng vốn đầu tư được lấy từ nguồn trái

phiếu chính phủ, và toàn bộ kinh phí này được dành cho các công trình thuỷ lợi.

Các dự án ODA cam kết ước tính có tổng giá trị là 677 triệu USD. Khoảng 90%

các dự án có liên quan đến cấp nước đô thị, vệ sinh và cải thiện môi trường, còn lại

là cho ngành thủy lợi.

1.1.3. Đánh giá đối với ngành nước

Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các con sông quốc tế mà Việt Nam chia sẻ với

các nước khác. Tổng lượng nước mặt trung bình năm của Việt Nam là khoảng

830 tỉ m3 và hơn 60% lượng nước này phát sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Sáu lưu vực

phụ thuộc vào dòng chảy từ các nước khác là sông Cửu Long, có gần 95% tổng

lượng nước đến trung bình năm là từ các nước thượng lưu sông Mê Công; sông

Hồng -Thái Bình có gần 40% lượng nước mặt đến từ phần lưu vực nằm trong lãnh

thổ Trung Quốc; lưu vực sông Mã và Cả, có gần 30 % và 22% tương ứng, lượng

nước đến từ Lào; và lưu vực sông Đồng Nai có gần 17% lượng nước đến từ

Campuhica. Sông Bằng Giang-Kỳ Cùng cũng chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam và

sau đó lại chảy về lại Trung Quốc. Dòng chảy mặt trên lưu vực sông Sê San và

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

Srê Pốk trên lãnh thổ Việt nam chiếm 75% và 50% tổng lượng nước toàn lưu vực.

Trang 5 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Gần 57% tổng lượng nước của cả nước là của lưu vực sông Cửu Long, hơn 16%

trên sông Hồng -Thái Bình, và hơn 4% trên lưu vực sông Đồng Nai.

Mùa khô có ảnh hưởng lớn đến dòng chảy và lượng nước. Mùa khô thường kéo

dài từ 6 đến 9 tháng và kéo dài nhất ở các lưu vực sông Miền trung Việt Nam.

Lượng nước tự nhiên đến vào mùa khô chiếm 20–30% tổng lượng nước cả năm.

Lượng trữ nước của các hồ chứa và lượng nước chuyển ra ngoài lưu vực vào mùa

khô có thể tạo ra sự khác biệt đáng kể đối với lượng nước hiện có vào mùa khô.

Nếu giả thiết rằng các hồ chứa trữ đầy vào mùa mưa và sẵn sàng để sử dụng trong

mùa khô thì lượng trên sông vào mùa khô sẽ được cải thiện lên mức từ 23% và 46%

so với tổng lượng cả năm. Trên lưu vực sông Đồng Nai, dung tích trữ hiện tại gấp

đôi lượng nước đến thiên nhiên vào mùa khô.

Báo cáo hiện trạng sử dụng hai chỉ số chính để phản ánh thực trạng về lượng

nước hiện có và áp lực lên nguồn nước của lưu vực sông. Chỉ số thứ nhất là lượng

nước tính trên đầu người. Tổng lượng nước mặt của Việt Nam tính trên đầu người

là 9.856m3/năm, nhưng tỉ lệ này khác nhau nhiều giữa các lưu vực. Theo tiêu chuẩn

quốc tế tổng lượng nước trên đầu người khoảng 1.700m3/năm được xem là đáp ứng

đủ nhu cầu, với lượng nước bình quân đầu người từ 1.700m3/năm đến

4.000m3/năm được xem là thiếu nước không thường xuyên hoặc thiếu nước cục bộ.

Với dân số và mức độ phát triển hiện tại, theo tiêu chuẩn này, cho thấy lưu vực sông

Đồng Nai và Nhóm lưu vực sông Đông Nam Bộ (NLVSĐNB) đều đang đối mặt với

nguy cơ thiếu nước không thường xuyên và cục bộ, trong khi các sông Hồng, Mã và

sông Côn đang tiệm cận mức độ thiếu nước này.

Chỉ số thứ 2 là đánh giá về phần trăm lượng nước bị khai thác so tổng lượng

nước trung bình năm của một lưu vực sông. Tiêu chuẩn quốc tế về “căng thẳng do

khai thác nguồn nước” đề ra, mức độ căng thẳng trung bình bắt đầu với ngưỡng

khai thác là 20%, và mức căng thẳng cao là trên 40%. Với mức độ sử dụng hiện tại,

các lưu vực sông Mã, Hương và ở trong tình trạng căng thẳng trung bình về nguồn

nước (giữa 20% và 40%), và sông Đồng Nai cũng đang ở giới hạn này. Tất cả các

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

sông khác đều đang có mức căng thẳng thấp. Tuy nhiên, vào mùa khô, sáu trong số

Trang 6 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

16 lưu vực được xếp loại là “căng thẳng trung bình” và 4 lưu vực khác được xếp

loại “căng thẳng mức độ cao” (sông Mã, , Hương và Đồng Nai). Mức độ căng thẳng

cao nhất chính là NLVSĐNB, với hơn 75% lượng mùa khô bị khai thác, và sông

Mã với gần 80%. Các tỉ lệ trên cho thấy các hoạt động khai thác nước quá mức đã

và sẽ tạo nên mức độ rất không bền vững cho các lưu vực.

Trên phạm vi cả nước, gần 82% tổng lượng khai thác nước mặt hiện tại là dùng

cho tưới, 11% cho thuỷ sản, 5% cho công nghiệp và 3% cho đô thị. Trong đó có 3

lưu vực, lượng nước tưới chiếm hơn 90% lượng nước sử dụng. Lưu ý là thủy điện

không được tính là đối tượng sử dụng nước vì thuỷ điện nhìn chung không “tiêu

hao” nguồn nước, mặc dù nó có thể làm thay đổi đáng kể chế độ dòng chảy và đôi

khi còn chuyển nước từ sông này sang sông khác. Hiện tại, lượng nước đang được

sử dụng hang năm cho tất cả các much đích khoảng 80,6 tỉ m3. Đến năm 2020 tổng

lượng nước sử dụng sẽ tăng lên khoảng 120 tỉ m3, tức tăng thêm 48%. Trong đó,

nước cho tưới sẽ tăng 30%, công nghiệp tăng gần 190%, đô thị 150% và nước cho

nuôi trồng thủy sản 90%. Dự báo nhu cầu nước sẽ tăng đáng kể trên các lưu vực

sông Trà Khúc, Côn, Ba, NLVSĐNB, Sê San và Srê Pốk.

Dân số gia tăng đi cùng với sự gia tăng sử dụng nước sẽ làm thay đổi lượng

nước hiện tại và làm thay đổi mức “căng thẳng” ở các lưu vực sông. Dự báo dân số

tới năm 2020 cho thấy lưu vực sông Đồng Nai sẽ tiến gần tới mức thiếu nước

nghiêm trọng nếu xét về tổng lượng nước hàng năm. Các lưu vực Sông Hồng, Mã

và Côn sẽ ở ngang hoặc dưới mức thiếu nước. Các lưu vực còn lại sẽ có đủ nước

cho nhu cầu cộng đồng trên cơ sở lượng nước trung bình năm. Tính cả dự báo sử

dụng nước trong tương lai vào mùa khô tới năm 2020 trong chỉ số khai thác nguồn

nước cho thấy lưu vực NLVSĐNB trên ngưỡng 100%, điều này có nghĩa là sử dụng

nước dự báo sẽ vượt xa tổng lượng nước sẵn có trên lưu vực trong mùa khô. Lưu

vực sông Mã sẽ ở mức 100% và sông Côn đang tiến đến mức này. Các sông Hồng,

Ba, Đồng Nai, Hương và Trà Khúc sẽ nằm trong khu vực chịu căng thẳng cao về

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

nước. Các lưu vực khác sẽ nằm trong khu vực căng thẳng trung bình về nước, trong

Trang 7 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

khi chỉ có lưu vực sông Sê San và Thạch Hãn sẽ không chịu áp lực về nước, mặc dù

các lưu vực này cũng có thể sẽ đối mặt với tình trạng thiếu nước cục bộ.

Chương này đã chỉ ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng ở Việt Nam khi cần

đáp ứng các nhu cầu sử dụng trong tương lai, đặc biệt là vào mùa khô, và sự căng

thẳng về nước sẽ đặt lên các sông. Các lưu vực NLVSĐNB, Đồng Nai, Mã, Côn và

sông Hương bị ảnh hưởng rất nặng nề. Áp lực về nước cũng dẫn đến việc tập trung

khai thác nguồn nước dưới đất để đáp ứng sự phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên

sự hiểu biết về tài nguyên nước dưới đất trên lãnh thổ Việt Nam còn hạn chế.

Tổng dung tích hữu ích của các hồ chứa hiện tại ở Việt nam là khoảng 37 tỷ m3

(khoảng 4,5% tổng lượng nước mặt trung bình hàng năm). Trong đớ, trên 45% nằm

ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình. Gần 22% thuộc lưu vực sông Đồng Nai, sông

Cả, Ba, và Sê San ở mức tương ứng 5% và 7%. Việt Nam có dung tích chứa tính

trên đầu người là 440 m3/người. Đây là tỉ lệ khá cao so với nhiều nước khô hạn

như Ethiopia, Ấn Độ và Pakistan nhưng lại thấp so với Mỹ và Úc (trên 5.000

m3/người), và Trung Quốc (2.200 m3/người). Chỉ có 3 lưu vực sông có hồ chứa có

thêm mục tiêu phòng lũ đó là lưu vực sông Hồng – Thái Bình, Mã, và sông Hương.

Do vị trí địa lý và địa hình, Việt nam là một trong các nước chịu đựng nhiều

thiên tai nhất. Thực tế là khoảng 50% dân cư sinh sống ở ven biển sẽ đối mặt với

thiên tai. Hơn 80% dân số của đất nước sống ở các vùng chịu rủi ro do các tác động

trực tiếp của thiên tai. Việt Nam hứng chịu nhiều loại thiên tai và các hậu quả gây

nên như thiệt hại về người, tài sản đã gây nhiều trở ngại, cản trở con người thoát

khỏi vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo và giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. Lũ lụt

gây nên những khó khăn lớn cho Đồng bằng sông Cửu Long và Miền Trung trong

khi đó nhờ hệ thống đê kè, lũ lụt ở Đồng bằng sông Hồng đã phần nào được kiểm

soát. Lũ quét xảy ra trên khắp cả nước. Bão thường xuyên tấn công Việt nam nhưng

nhiều hơn là khu vực Miền trung

Việt nam có tổng “tiềm năng nước dưới đất” vào khoảng 63 tỉ m3/năm. Lượng

nước phân bổ trên đầu người hàng năm là từ 3.770 m3/người/năm ở vùng tây bắc, và

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

thấp ở mức 84 m3/người/năm ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Các tầng chứa

Trang 8 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nước có trữ lượng lớn là vùng cát và sỏi không cố kết chủ yếu tìm thấy ở vùng sông

Hồng, và ở vùng Đông Nam bộ và châu thổ sông Mê Công, và các đồng bằng ven

biển. Các tầng chứa nước này tương đối gần với mặt đất, nên việc khai thác nước

dưới đất là tương đối rẻ và hiệu quả, nhưng đồng thời cũng khiến cho nước dưới đất

dễ bị ô nhiễm.

Nước dưới đất cung cấp tới 55% lượng nước sinh hoạt của người dân Việt nam

(trên 23% lượng nước dưới đất được bơm từ các giếng khoan sâu, và hơn 23% được

bơm bằng tay hay giếng xây). 34% dân số đô thị và xấp xỉ 65% dân số nông thôn

sống phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất, phần lớn dân số nông thôn phụ thuộc vào

các giếng xây thủ công.

Các khu vực khai thác nước dưới đất tập trung đang gây nên mối lo ngại. Ở Hà

Nội, mực nước dưới đất đang rút xuống 1m mỗi năm ở một số khu vực, và đã giảm

tổng cộng là 30 m. Ở một số khu vực ở thành phố Hồ Chí Minh, mực nước dưới đất

suy giảm 30 m, và ở một số khu vực khác ở Đồng bằng Cửu Long, mực nước dưới

đất hạ thấp đáng kể. Vấn đề khai thác quá mức nước dưới đất đang diễn ra ở các

vùng trồng cà phê ở Tây Nguyên, tại đây mực nước dưới đất hạ giảm tới 2,5 m/năm.

Hệ sinh thái tự nhiên của Việt nam bao gồm một số lượng phong phú các cánh

rừng đẹp và đa dạng, các vùng đầm lầy, sông và các rặng san hô, có đến gần 10%

tổng số loài thú có vú và chim toàn cầu. Nguồn nước ngọt và đa dạng sinh học biển

của Việt Nam đang bị đe doạ do ô nhiễm nước sinh hoạt và công nghiệp, do việc

xây dựng đập và cơ sở hạ tầng, do việc nạo vét, do các phương thức đánh bắt cá hủy

diệt, do nuôi trồng thuỷ sản và đánh bắt quá mức. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội

cũng lưu ý chỉ số bền vững môi trường của Việt Nam năm 2005 là 42,3 - xếp hàng

thứ 8 trong số các nước ASEAN, sau cả Myanmar, Lào và Campuchia. Trong số

146 nước được đánh giá, Việt nam xếp hạng thứ 127, thấp hơn rất nhiều nước láng

giềng như Thái Lan (thứ 73), Campuchia (thứ 68) và Lào (thứ 52).

Việt nam có nguồn nước ngọt và đất ngập nước ven biển phong phú. Các nguồn

tài nguyên này phân bố chủ yếu ở đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long và dọc

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

theo 3.260 km ven biển. Các đánh giá hiện tại cho thấy có 1 triệu hecta đất ngập

Trang 9 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nước, chủ yếu tập trung ở vùng cửa sông và xung quanh một số đầm phá, với hơn

100.000 ha của 12 đầm phá trải dài từ Thừa Thiên Huế đến Bình Thuận. Danh mục

kiểm kê đất ngập nước châu Á có liệt kê trên 25 khu vực đất ngập nước ở Việt nam

đáp ứng tiêu chuẩn của “Đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế”. Mặc du như

vậy, chỉ có hai khu vực đất ngập nước được công nhận là khu vực RAMSAR –

Xuân Thủy ở Đồng bằng sông Hồng và khu vực Bàu Sấu mới hình thành thuộc

vườn quốc gia Cát Tiên.

Nhìn chung, một lưu vực sẽ có khoảng 40% đến 50% diện tích là rừng, 20% đến

30% là đất nông nghiệp, dưới 3% là đất ở, khoảng 5% là đất chuyên dụng và 20% đến

30% đất sử dụng cho các mục đích khác. Là một phần của lưu vực, độ che phủ của

rừng có diện tích lớn nhất ở lưu vực sông Gianh (72%), sông Sê San (62%) và sông

Bằng Giang- Kỳ Cùng (55%), cho thấy có sự đóng góp đáng kể của rừng vào quá trình

bảo đảm bền vững của các lưu vực sông và điều tiết lại sự phân phối dòng chảy sông

trong năm.

Một dòng sông khỏe mạnh, bao gồm cả lòng dẫn, đáy sông, bờ sông và môi

trường sống, hỗ trợ và duy trì một tập hợp các loài sinh vật thủy sinh. Ba chỉ số

được sử dụng trong Báo cáo Hiện trạng giúp xem xét các tác động của phát triển

đến sức khỏe của sông. Phần lượng được lấy đi từ sông có ý nghĩa rất quan trọng và

nó cho biết mức độ “căng thẳng” của một con sông. Ở phần trên Báo cáo đã nêu ra

4 lưu có mức độ căng thẳng cao trong mùa khô và mức độ căng thẳng này sẽ tiếp

tục gia tăng trong tương lai. Phần diện tích lưu vực nằm phía trên các đập lớn cho

thấy mức độ nào thì dòng chảy mặt trên lưu vực không bị ảnh hưởng bởi các đập

lớn. Ở phần diện tích thượng lưu các đập lớn, dòng chảy dường như còn tương đối

“tự nhiên” về mặt thời gian và tính biến động. Ba lưu vực có các giá trị của chỉ số

vào khoảng 80% hoặc hơn là – lưu vực sông Gianh, Bằng Giang – Kỳ Cùng và Thu

Bồn – và 5 lưu vực khác trên 50%. Lưu vực có giá trị chỉ số thấp nhất (tức là sông

có dòng chảy tự nhiên nhỏ nhất) là sông Ba (27%). Phần chiều dài của các đoạn

sông lớn trong một lưu vực nằm ở thượng lưu của một công trình chắn sông (đập,

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

đập dâng hoặc đập tràn) chỉ ra rằng liệu việc chuyển dịch của các loài cá/thủy sinh

Trang 10 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

có bị hạn chế và vận tải thủy có bị gây cản trở không. Phần lớn dọc chiều dài của

các sông trên đều có công trình chắn vĩnh viễn. Những sông lớn như sông Hương.

Dòng chính của hai lưu vực sông lớn như Hương và Ba có giá trị của chỉ số gần

100%, có nghĩa là các hệ thống sông này bị chắn bởi các công trình gần cửa sông,

và đồng nghĩa với việc sẽ có ảnh hưởng đáng kể đến thông thủy của sông, đến

đường đi và vòng đời của cá.

Nước mặt của tất cả các sông không đáp ứng các tiêu chuẩn ô nhiễm hữu cơ cho

nước uống. Nồng độ BOD5 trung bình của hầu hết các con sông gấp từ 1,2 đến 2

lần so với tiêu chuẩn Việt Nam loại A. Các giá trị nồng độ cao được kiểm tra thấy ở

lưu vực các sông Trà Khúc, Gianh, Đồng Nai, Hồng - Thái Bình và Cửu Long trong

khi các giá trị thấp nhất đo được ở sông Côn, Srê Pốk và sông Ba. Có một số điểm

nóng trên các đoạn sông chạy qua khu dân cư, ở đây nồng độ BOD5 trung bình

vượt xa tiêu chuẩn cho phép. Ô nhiễm hữu cơ thường nằm trong giới hạn tiêu chuẩn

loại B (trừ các điểm nóng). Trong khi có ít số liệu để xác định mức độ ô nhiễm của

các kim loại nặng, nước mặt của tất cả các lưu vực sông thường đáp ứng tiêu chuẩn

về nước uống.

Biến đổi khí hậu được xem là yếu tố làm thay đổi dòng chảy mặt hiện tại và chế

độ mưa. Mô phỏng mô hình khí hậu Bộ Tài nguyên và Môi trường đang sử dụng

cho thấy lượng mưa trung bình hàng năm sẽ tăng khoảng 5%, trong đó lượng mưa

sẽ tăng nhiều ở miền Bắc hơn so với miền Nam. Hầu hết các mô hình cho thấy,

trung bình lượng mưa tăng cao hơn lượng bốc hơi do nhiệt độ tăng, kết quả người ta

dự đoán lượng dòng chảy trung bình sẽ tăng, khoảng 50 mm/năm (xấp xỉ lượng tăng

5%). Hầu hết lượng mưa tăng trung bình hàng năm được dự đoán sẽ diễn ra vào các

tháng vốn đã mưa nhiều trong năm, chỉ có lượng nhỏ mưa tăng thêm vào mùa khô.

Các báo cáo gần đây của UNDP và Ngân hàng Thế giới cho thấy Việt Nam là

một trong năm nước trên thế giới có khả năng bị ảnh hưởng nặng nề nhất khi nước

biển dâng do hậu quả của biến đổi khí hậu. Trong một kịch bản với mực nước biển

dâng thêm 1 m, các đánh giá cho thấy Việt Nam sẽ mất 5% đất, 11% dân số sẽ bị

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

ảnh hưởng nặng nề, sản xuất nông nghiệp sẽ giảm 7%, và GDP giảm 10%. Nước

Trang 11 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

biển dâng ở một số khu vực sẽ gây nên hậu quả rất lớn. Nước biển dâng thêm 1m sẽ

làm ngập hơn 11.000 km2 ở lưu vực sông Cửu Long, tức là 38% diện tích đất của

lưu vực. Một số tỉnh cũng sẽ mất gần một nửa diện tích đất.

Tháng 12/2007, Chính phủ ra Quyết định số 60/2007/NQ-CP giao cho Bộ Tài

nguyên và Môi trường chỉ đạo việc xây dựng Chương trình Mục Tiêu Quốc Gia

(CHTMTQG) về Thích nghi biến đổi khí hậu, nhằm tìm kiếm tài trợ quốc tế cho

Chương trình, và trình lên Thủ tướng Chính phủ trong quý hai năm 2008. Bộ Tài

nguyên và Môi trường cũng cho biết sẽ soạn thảo một đề xuất về việc giảm thiểu

các tác động của hiện tượng ấm lên toàn cầu và đệ trình Chính phủ vào phiên họp

thứ tư quốc hội khóa 12. Theo đề xuất, các dự án thích nghi biến đổi khí hậu và

giảm thiệu tác động trong giai đoạn 2011 -2015 sẽ được thực hiện trên phạm vi toàn

quốc.

1.1.4. Nhìn nhận hiện trạng ngành nước

Về cấp nước và vệ sinh:

Với tốc độ gia tăng dân số hàng năm tại đô thị là 2,18% so với 0,93% ở khu vực

nông thôn. Lượng cấp nước đô thị trung bình là 80-90 lít/người/ngày; ở các thành

phố lớn là 120-130 lít/người/ngày (mục tiêu quốc gia là 120-150). Nguồn nước cấp

chủ yếu là nước mặt, chiếm khoảng 70%. Tuy nhiên, khoảng 60% dân số sống hoàn

toàn phụ thuộc vào nguồn nước dưới đất.

Nhìn chung, các công ty nước sạch đều là các công ty quốc doanh và có khoảng

13.442 cán bộ làm việc. Tỉ lệ nhân viên ngành cấp nước trên 1000 điểm cấp là gần

gấp 2,5 lần so với tỉ lệ tốt nhất ở một nước đang phát triển (5 nhân viên trên 1000

điểm cấp). Tỉ lệ hoạt động của ngành cấp nước (tỉ lệ chi phí hoạt động trên doanh

thu hoạt động) là 0,64, cao hơn mức hoạt động trung bình của 25% các cơ sở cấp

nước hàng đầu ở các nước đang phát triển. Năm 2002 toàn bộ hoạt động cấp nước

đều dựa trên doanh thu tính theo thể tích, theo đó một công ty sẽ thu mức phí tối

thiểu cố định, và 45% sử dụng tính giá nước lũy tiến. Hầu hết các công ty đều đảm

bảo cấp nước 14 đến 20 tiếng/ngày, và chỉ có 3 hay 4 thành phố chỉ có khả năng cấp

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

nước 8-10 tiếng/ngày. Tỉ lệ cấp nước không đo đếm từ 14% đến 76% với mức trung

Trang 12 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

bình là 35%. Hiện tại chỉ có khoảng 50% mạng lưới phân phối nước đáp ứng về

chất lượng nước.

Mạng lưới các hệ thống vệ sinh và tiêu nước ở các khu vực đô thị hiện chưa

được điều tra. 11 trong số 16 lưu vực không có hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt.

Các khu vực đô thị có thể áp dụng phí vệ sinh nước ở mức 10% của giá nước nước

sạch. Tuy nhiên, nếu như các công ty cấp nước đứng ra thu phí thì quỹ thu lại được

nộp vào ngân sách tỉnh hoặc thành phố. 60% các bệnh viện có nhà máy xử lý chất

hải nhưng chỉ có 18% các nhà máy này hoạt động hiệu quả và hầu hết nước thải

bệnh viện được thải trực tiếp vào hệ thống nước thải đô thị.

Diện phủ cấp nước và vệ sinh tăng lên là một ưu tiên chính của Chính phủ và là

một nội dung quan trọng trong cuộc chiến chống đói nghèo. Năm 2005, có trên 60

triệu dân sinh sống ở nông thôn. Khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh là một vấn

đề lớn của dân nghèo nông thôn Việt Nam. Trong số 20% người nghèo nhất, chỉ có

22% được tiếp cận nước sạch so với 78% của số 20% những người giàu nhất. Về vệ

sinh, trong số 20% số người nghèo nhất chỉ có 2% được tiếp cận điều kiện vệ sinh

so với tỉ lệ 20% ở người giàu.

Tỷ lệ phủ trên toàn quốc của hệ thống cấp nước và vệ sinh nông thôn (theo tiêu

chuẩn truyền thống của Bộ NN&PTNT) ước tính xấp xỉ 66% và tỉ lệ nhà vệ sinh đạt

yêu cầu là 50%; khoảng 70% các trường học, nhà trẻ và mẫu giáo, 58% trạm y tế xã

và 17% chợ nông thôn được sử dụng nước sạch và có nhà vệ sinh đạt yêu cầu. Tuy

nhiên, nếu áp dụng tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y Tế, khoảng 25% dân số nông

thôn có nước sạch trong nhà và một tỉ lệ thấp hơn có khả năng tiếp cận điều kiện vệ

sinh. Nói một cách khác, cuối năm 2006 có khoảng 21 triệu người sống ở nông thôn

không được tiếp cận với nước “hợp vệ sinh” và 42 triệu người không được tiếp cận

nước sạch.

Quy hoạch Cấp nước và vệ sinh nông thôn trong khuôn khổ CHTMTQG II đang

triển khai nhờ với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế. Chương trình phản ánh nhu cầu

cần tập trung cao độ hơn nữa đến vệ sinh, cần hướng mục tiêu bao cấp hơn nữa cho

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

người nghèo, và chú trọng hơn đến tính bền vững, cải thiện hoạt động và bảo dưỡng

Trang 13 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

các công trình cấp nước và vệ sinh và tiếp tục phân cấp thực hiện. Ngân sách dự

kiến cho CHTMTQG II là 22.600 tỉ đồng. Vốn ngân sách Nhà nước là 14%, chính

phủ địa phương 10%, huy động trong dân 36%, các khoản vay ưu đãi 25%, và từ

phía các nhà tài trợ là 15%.

Đối với các mục tiêu quản lý tiểu ngành, nước sạch được chia thành 2 nhóm: cấp

nước đô thị (bao gồm sản xuất công nghiệp và dịch vụ) của các đô thị loại V và cao

hơn, dưới sự quản lý của Bộ Xây dựng; và cấp nước nông thôn (các thị trấn nhỏ với

dân số từ 2.000 đến 4.000 cho đến các làng nhỏ), dưới sự quản lý của Bộ

NN&PTNT. Tài nguyên nước và bảo vệ nguồn nước thuộc trách nhiệm của Bộ

TNMT. Tiêu chuẩn và chất lượng nước sạch do Bộ Y Tế quản lý. Việc quy định giá

nước sạch sẽ do Bộ Xây dựng và Bộ Tài Chính hướng dẫn nhưng người ra quyết

định là UBND các tỉnh.

Mục tiêu của chính phủ Việt Nam là phấn đấu 100% dân số đô thị có nước sạch ở

mức 120-150 lít/người/ngày vào năm 2020. Tổng nhu cầu nước được ước tính trên 7

triệu m3/ngày đêm năm 2010 và trên 12 triệu m3/ngày đêm năm 2020, chi phí ước

tính là 30.275 tỉ đồng vào năm 2010 và 37.500 tỉ đồng năm 2020.

Cơ cấu tổ chức của ngành CNVSNT khá phức tạp. Một Ủy ban chỉ đạo quốc gia và

một văn phòng thường trực đóng tại Bộ NN&PTNT với cơ cấu tương tự ở cấp tỉnh sẽ

cùng phối hợp với CTMTQG. UBND các tỉnh chịu trách nhiệm quản lý nguồn nước và

điều phối việc phân phối đưa chương trình CHTMTQG tới các địa phương. Bộ Y Tế

chịu trách nhiệm về tiêu chuẩn nước sạch và nhà xí vệ sinh, các quy định về sử dụng

phân bắc làm phân bón, và giám sát quá trình thực hiện. Cung cấp hỗ trợ ngành trong

CTMTQG II là một thay đổi đáng kể về cách tiếp cận đối với các nhà tài trợ trong

chương trình và mục đích là nhằm điều phối tạo sự hài hòa giữa các nhà tài trợ, điều

chỉnh và giảm chi phí giao dịch, phù hợp với Tuyên bố Hà Nội về Hiệu quả Tài trợ .

Về Lũ và các thiên tai:

Việt Nam là một trong các nước thường xuyên đối mặt với rủi ro, trong đó thiên tai

hàng năm đã cướp đi rất nhiều sinh mạng, phá hủy tàu thuyền, nhà cửa và ruộng lúa.

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

Thiệt hại trung bình hàng năm do thiên tai ở các lưu vực chủ yếu rơi vào Miền Trung

Trang 14 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Việt Nam, đặc biệt là trên các lưu vực sông Thạch Hãn, Thu Bồn & Vũ Gia và sông

Hương nơi thiệt hại hàng năm chiếm từ 6 đến 8,4% GDP của lưu vực.

Đối với hầu hết các lưu vực, các biện pháp công trình không thể được thực hiện

một cách toàn diện. Lũ quét đã làm gần 50 người chết mỗi năm. Việc giải quyết vấn đề

này là hết sức khó khăn và phụ thuộc vào quản lý sử dụng đất, cảnh báo và sự sẵn sàng

của cộng đồng hơn là dựa vào bất kỳ biện pháp công trình nào. Tuy nhiên, Việt Nam

khó có thể thực hiện các biện pháp phi công trình để quản lý rủi ro thiên tai và đây

được xem như là một thất bại lớn. Một cách tiếp cận tổng hợp trong quản lý rủi ro thiên

tai cần bao gồm cả các biện pháp công trình và phi công trình xuyên ngành, quy hoạch

phát triển nhằm đối phó với thiên tai có xem xét đến cách tiếp cận Quản lý rủi ro thiên

tai dựa vào Cộng đồng (CBDRM). Một dự án gần đây ở vùng hay chịu thiên tai – tỉnh

Quãng Ngãi (thuộc lưu vực sông Trà Khúc) đã trình diễn cách tiếp cận này, và các số

liệu báo cáo từ khi thực hiện và các đánh giá độc lập đã đề xuất cách tiếp cận này là

một mô hình tốt cho các vùng hay có nguy cơ thiên tai ở Việt Nam.

Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, người ta ít chú ý đến tính ổn định lâu dài của bờ

biển trước thiên tai. Tác động của việc thảm thực vật bị phá dỡ, đặc biệt là việc phá

rừng ngập mặn, là điều ai cũng rõ. Việc khai thác quá mức cát trên sông cho mục đích

phát triển cũng làm suy giảm các quá trình tạo cát tự nhiên cho bờ biển và làm giảm

khả năng chống chịu xói mòn. Biến đổi khí hậu cũng sẽ làm tăng ảnh hưởng của thiên

tai và khiến con người chú trọng hơn vào các giải pháp phi công trình. Ngược lại, việc

giải quyết các rủi ro thiên tai theo cách này sẽ đạt được nhiều mục tiêu thích nghi biến

đổi khí hậu.

Có một mạng lưới phòng chống thiên tai hoạt động hiệu quả được cơ cấu chặt chẽ

từ trung ương đến địa phương. Tuy nhiên, hầu hết các cán bộ có trách nhiệm phòng

chống lụt bão lại là cán bộ kiêm nhiệm – bên cạnh nhiệm vụ chính của họ - nên trong

thực tế không có cơ quan cụ thể nào hỗ trợ các hoạt động này, một cơ quan đáp ứng kịp

thời yêu cầu công tác. Ở cấp tỉnh, cũng tồn tại các vấn đề tương tự. Năm 2007, Chiến

lược quốc gia về phòng chống, ứng phó và giảm nhẹ thiên tai tới năm 2020 đã được

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

phê duyệt và hiện đang được thực hiện.

Trang 15 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Về Giao thông thủy:

Đường thủy nội địa có lợi thế là chi phí thấp hơn so với các phương thức vận

chuyển khác, và có thể chuyên chở hàng hóa quá cỡ và quá trọng tải trên một quãng

đường dài. Nhược điểm của loại hình vận tải này là tốc độ chậm, phụ thuộc vào thời

tiết và điều kiện thủy văn, và không thể cung cấp dịch vụ “lấy tận nơi, giao tận chỗ”.

Sông Đồng Nai có 43% giá trị vận tải thủy, tiếp theo là sông Hồng - Thái Bình

(32%), và sông Cửu Long (17%). Ba lưu vực trên chiếm 92% giá trị vận tải thủy cả

nước. Phần thượng lưu của hầu hết các con sông khác không phù hợp với các hoạt

động vận tải thủy lớn. Tuy nhiên, nhiều người dân địa phương, đặc biệt là người dân

tộc, vẫn phụ thuộc nhiều vào vận tải thủy để làm sinh kế. Ở phía hạ lưu sông, tĩnh

không các cầu đường bộ thường thấp và trên nhiều con sông, hồ chứa, đập và đập ngăn

mặn thường gây cản trở cho giao thông thủy.

Có nhiều tác động môi trường từ các hoạt động vận tải thủy, như tràn dầu. Luật

Đường thủy Nội địa điều chỉnh vấn đề giao thông thủy và Cục Đường Sông thuộc Bộ

Giao thông Vận tải chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về giao thông thủy. Hệ thống

biển báo luồng lạch vận tải thuỷ của Việt nam đã được Uỷ hội Sông Mê Công áp dụng

như một hệ thống báo luồng lạch cho giao thông thủy hạ lưu sông Mê Công.

Về Công nghiệp và làng nghề:

Tổng lượng nước sử dụng cho công nghiệp ước tính khoảng 3.760 triệu m3/năm,

với gần một nửa được sử dụng cho công nghiệp ở lưu vực sông Hồng – Thái Bình.

25% cấp nước công nghiệp thuộc lưu vực sông Đồng Nai, 7% ở lưu vực SDNB và

10% ở lưu vực sông Cửu Long. Một lượng lớn nước dưới đất được sử dụng trong công

nghiệp. Vào năm 2015, lượng nước sử dụng trong công nghiệp sẽ tăng gấp đôi với dự

báo lượng tăng lớn nhất ở lưu vực sông Hồng, sông Đồng Nai, NLVSĐNB, Cửu Long,

và Thu Bồn & Vũ Gia. Khu vực NLVSĐNB có giá trị lãi suất kinh tế trong sử dụng

nước là 441.000 đồng/m3 và lưu vực sông Đồng Nai là 393.000 đồng/m3. Tuy nhiên,

giá trị trung bình toàn quốc là (13,3 Đô la/m3) thấp hơn so với các nước khác.

Các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nguồn nước nhiều nhất là ‘các cơ sở sản xuất

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

phân bón và nitơ, bột giấy, giấy và bìa các tông và các hoá chất cơ bản, ngoài các cơ sở

Trang 16 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

sản xuất phân bón và nitơ. Mặc dù có 154 khu công nghiệp và các khu chế xuất, chỉ có

43 nhà máy xử lý nước thải tập trung. Khoảng một nửa số các doanh nghiệp ngoài

quốc doanh nằm ngoài các khu công nghiệp, có rất ít hoặc không có hệ thống xử lý

nước thải. Ước tính năm 2006 có 2.803 doanh nghiệp công nghiệp trên phạm vi toàn

quốc đã thải ra trên 155 triệu m3 nước thải/năm hay 850.000 m3/ngày. Lượng nước

thải này tương đương với 340 bể bơi Olympic chứa nước chưa được xử lý thải ra hàng

ngày.

Việc quản lý trực tiếp phần lớn các cơ sở trên là chính phủ. Khu vực quốc doanh

đóng góp xấp xỉ 40% GDP của Việt nam. Nhiều bộ liên quan vừa sở hữu vừa quản lý

các ngành công nghiệp gây ô nhiễm nhất nước. Trong giai đoạn 5 năm 2001-2005, giá trị

sản xuất công nghiệp tăng trung bình 15,7%/năm; tuy nhiên giá trị gia tăng chỉ là 10,3%.

Đổi mới công nghệ ở Việt nam diễn ra chậm chạp hơn nhiều các nước láng giềng.

Quyết định số 64/2003 của Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt kế hoạch xử lý

nghiêm các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Tuy nhiên, cuối giai đoạn 1

chỉ có 63% các điểm đen trên danh mục được xử lý. Nghị định 67/2003 sử dụng phí ô

nhiễm nhằm hạn chế ô nhiễm môi trường do nước thải nhằm mục đích sử dụng nước

sạch một cách tiết kiệm và tạo nguồn thu cho Quỹ bảo vệ Môi trường. Tuy nhiên phí

này không được áp dụng đồng bộ và không phải tất cả các tỉnh thành đều tham gia.

Tương tự quá trình xây dựng mức phí không mang tính thực tiễn.

Sản xuất làng nghề thủ công đã chứng kiến sự phát triển ấn tượng, đặc biệt là ở lưu

vực sông Hồng – Thái Bình, nơi có 60% làng nghề trên cả nước. Các làng nghề được

xem như một biện pháp quan trọng để thúc đẩy kinh tế phát triển, nơi có 75% dân số

Việt nam sinh sống. Thu nhập trung bình đầu người ở các làng nghề cao gấp 5 lần ở

những làng làm nông nghiệp. Số làng nghề ước tính trên 2.000 năm 2002, chiếm 2,5%

tổng số làng ở nông thôn, cung cấp trên 10 triệu việc làm và thu hút 29% lực lượng lao

động nông thôn. Ước tính 40.500 doanh nghiệp đóng trên các làng nghề, khoảng 80%

là kinh doanh hộ gia đình với 1 đến 3 nhân công.

Làng nghề là nơi ẩn chứa các rủi ro sức khoẻ nghề nghiệp cao và gây ô nhiễm, đặc

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

biệt là ở các làng công nghiệp thủ công quy mô nhỏ nơi không có công nghệ kiểm soát

Trang 17 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

ô nhiễm, không có bảo hộ lao động và không có xử lý nước thải. Hầu hết các hộ gia

đình trong làng sử dụng nhà và vườn làm nơi sản xuất và thải trực tiếp nước thải vào

môi trường xung quanh nơi ở hay vào sông và nguồn nước dưới đất xung quanh. Điều

này làm ảnh hưởng trực tiếp không chỉ nước mặt (trong kênh, hồ, ao, sông), mà cả

nước dưới đất, ảnh hưởng đến nguồn nước uống của làng. Ô nhiễm nguồn nước từ các

làng nghề là một vấn đề hết sức nghiêm trọng và ngày càng gia tăng.

Quản lý làng nghề gần đây được giao cho Bộ NN&PTNT, và hình thành một mục

tiêu trong CNVSNT thuộc CTMTQG II. Trong Bộ NN&PTNT có Cục Chế biến,

Thương mại Nông lâm thủy sản và Nghề muối chịu trách nhiệm trực tiếp về các làng

nghề. Cục đang phối hợp với nhiều Bộ khác để xây dựng phương hướng, đặc biệt khi

nhiều làng nghề có mối liên quan với các hoạt động công nghiệp mà Bộ NN&PTNT

không có kinh nghiệm xử lý.

Về Thuỷ điện:

Ba lưu vực sông quan trọng nhất trong sản xuất thuỷ điện là lưu vực sông Hồng-

Thái Bình, Đồng Nai, và sông Sê San. Thuỷ điện ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình và

Đồng Nai sẽ chiếm 28% và 23% tương ứng công suất thuỷ điện của cả nước. Lưu vực

sông Sê San sẽ đóng góp khoảng 14% tổng côn suất thuỷ điện. Các trạm thuỷ điện nhỏ

chiếm 11% tổng sản lượng. Lưu ý rằng thuỷ điện “nhỏ” không hẳn đã tác động nhỏ

đến song, nhiều hệ thống thuỷ điện nhỏ có quy mô khá lớn.

Tổng công suất lắp của hệ thống điện trên toàn quốc dự kiến tới năm 2025 là

181.754 MW, bao gồm 18% từ thuỷ điện, 67% từ nhiệt điện (than) và 8% từ nhà máy

tuốc bin khí, 6% từ điện hạt nhân và 1% từ nhà máy chạy dầu diesel. Lượng điện tăng

chủ yếu là ở lưu vực sông Hồng-Thái Bình, nơi sản lượng điện dự kiến sẽ tăng gấp 4

lần. Khu vực NLVSĐNB sẽ đóng góp khoảng gần 16% toàn bộ công suất thuỷ điện

của cả nước trong tương lai, với nguồn nước được chuyển nước từ sông Đồng Nai.

Phát triển thủy điện nhỏ trên toàn quốc sẽ chiếm khoảng 15% tổng công suất. Dự kiến

đến năm 2025, tỉ lệ sử dụng tiềm năng thuỷ điện sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao. Việt

Nam có tiềm năng thủy điện tương đối ít, và tới năm 2025 Việt Nam sẽ là nước tận

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

dụng gần hết tiềm năng thủy điện của mình.

Trang 18 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Hợp tác quốc tế với các nước khác là rất quan trọng trong việc đáp ứng các dự báo

về nhu cầu năng lượng và việc phát triển thủy điện ở Lào, Cămpuchia và Trung Quốc

dự kiến sẽ đóng góp đáng kể vào nguồn điện ở Việt Nam. Việt Nam dự kiến nhập khẩu

khoảng 6.000 MW từ thủy điện vào năm 2025.

Bộ Công Thương chịu trách nhiệm về quản lý chung và phát triển ngành năng

lượng. Cơ quan điều phối điện của Việt Nam (ERAV) đã được thành lập trong Bộ

Công Thương với nhiệm vụ cấp phép hoạt động, điều tiết thị trường năng lượng, thiết

lập giá điện và thẩm định các Kế hoạch phát triển năng lượng tỉnh. Điện lực Việt Nam

(EVN) là một tập đoàn nhà nước của Bộ Công thương có nhiệm vụ vận hành, chuyển

tải/phân phối và bán điện. EVN lập hầu hết các dự án năng lượng lớn, mặc dù khu vực

tư nhân vẫn có thể tham gia vào ngành này.

Sơ đồ tổng quan Ngành điện VI có mục tiêu thỏa mãn nhu cầu trong giai đoạn từ

2006 đến 2015. Chính quyền các tỉnh cũng lập quy hoạch phát triển các thủy điện quy

mô nhỏ. Những quy hoạch này được các UBND phê duyệt, sau khi ERAV đã thẩm

định, và nhà đầu tư sẽ tìm kiếm nhà thầu thiết kế, thi công và vận hành. Báo cáo về Các

vấn đề và lựa chọn của dự án đã thảo luận một số mâu thuẫn giữa các Tỉnh về các dự

án tiềm năng. Việc vận hành tất cả các nhà máy thủy điện hòa vào lưới điện quốc gia sẽ

dưới sự điều hành của một Ủy ban nằm trong EVN.

Về Tưới:

Vì tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP toàn quốc sẽ giảm, ngành nông

nghiệp dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức khiêm tốn. Tưới là ngành sử dụng nước

lớn nhất – trên 66 tỉ m3/năm, chiếm trên 80% tổng lượng nước sử dụng dự tính. Lưu

vực sông Cửu Long và Hồng – Thái Bình chiếm gần 70% lượng sử dụng đó. Lưu vực

sông Cửu Long có lượng nước tưới sử dụng trên đầu người lớn nhất, trên 1.600

m3/người/năm. Hầu hết các lưu vực đều có lượng nước tưới nhỏ hơn

1.000 m3/người/năm. Lúa là cây trồng chủ yếu, chiếm 82% diện tích được tưới. Tốc

độ tăng trưởng tương đối nhanh trong vòng 14 năm qua là nhờ quá trình thâm cạnh

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

tăng vụ - còn lại đầu tư vào các công trình tưới mới hay cải tạo các công trình cũ rất ít.

Trang 19 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trên hầu hết các lưu vực sông, đóng góp của nông nghiệp vào GDP đã giảm từ 80-

90% xuống còn 30-50%, mặc dù đây vẫn là hoạt động kinh tế chủ đạo. Sự suy giảm

trong nông nghiệp không có nghĩa là ngành nông nghiệp đang bị thu hẹp. Lao động

trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm 32% ở lưu vực sông Hương (cũng là lưu vực có tỉ

trọng GDP nông nghiệp thấp nhưng tỉ lệ dùng nước cao), khá cao là lưu vực sông Bằng

Giang – Kỳ Cùng, tới 82%. Lợi nhuận ở lưu vực sông Gianh là 1.000 đồng/m3 nước

sử dụng trong khi ở lưu vực sông Sê San là 14.000 đồng/m3. Lưu vực sông Thạch Hãn

và Đồng Nai có lợi nhuận cao hơn, trong khi các lưu vực sông Mã, Thu Bồn – Vũ Gia,

Cửu Long và sông Ba có giá trị lợi nhuận tương đối thấp.

Hóa chất nông nghiệp được sử dụng với tỉ lệ cao và trên diện tích đất rộng. Một

nghiên cứu về sử dụng hóa chất cho thấy hầu hết các loại thuốc trừ sâu đang sử dụng

đều có độc tính cao, mức độ phơi nhiễm đối với người rất cao, chi phí đắt nhưng hiệu

quả lại thập. Hầu hết nông dân đều hiểu biết rất ít về việc sử dụng thuốc trừ sâu và

nhiều người đang phải gánh chịu các vấn đề về nhiễm độc thuốc trừ sâu.

Bộ NN&PTNT có trách nhiệm chính về quản lý tưới. Cục bảo vệ thực vật phê

duyệt việc sử dụng thuốc trừ sâu và thuốc trừ cỏ. Bộ NN&PTNT kiểm soát 12 tổng

công với 317 công ty. Hiện tại có 110 công ty quản lý và khai thác công trình thủy lợi,

với hơn 22.500 nhân viên. Ba trong số 110 công ty này chịu sự quản lý trực tiếp của Bộ

NN&PTNT (công ty thủy nông Bắc Hưng Hải, Bắc Nam Hà, và Dầu Tiếng), các công

ty còn lại trực thuộc tỉnh. Tỉ lệ cán bộ trên 100 hecta được tưới dao động trong khoảng

0,2 ở đồng bằng sông Cửu Long đến 10,5 ở đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông

Hồng cũng có số cán bộ tưới tiêu cao nhất làm việc trong một công ty thủy nông,

nhưng dịch vụ tưới lại không được cung cấp đảm bảo. Số lượng nhân viên thấp nhất

trong một công ty thủy nông là 118 ở vùng Tây Nguyên. Các thực nghiệm về Quản lý

tưới có sự tham gia của cộng đồng (PIM) cho thấy PIM có thể giúp cải thiện đáng kể

hiệu quả quản lý tưới. Tuy nhiên, việc triển khai PIM vẫn còn rất chậm.

Cho mãi đến gần đây, các hộ nông dân vẫn phải trả thủy lợi phí để trang trải ít nhất

một phần chi phí vận hành và bảo dưỡng đi kèm với việc cung cấp dịch vụ tưới của

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

công ty thủy nông và Hội những người sử dụng nước. Mặc dù khoản phí này không đủ

Trang 20 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

để đáp ứng các yêu cầu về vận hành và bảo dưỡng, nhưng chúng vẫn là nguồn thu đáng

kể trong ngân sách của các công ty thủy nông. Cho đến năm 2008, phí này bị bãi bỏ.

Về Nuôi trồng Thủy sản và nghề cá:

Ngành thủy sản ở Việt Nam đang trên đà phát triển, và được Chính phủ thúc đẩy

mạnh mẽ bởi nhằm giúp xóa đói giảm nghèo. Ngành cung cấp khoảng 1/2 lượng đạm

động vật cho bữa ăn của người dân. Dựa trên tổng doanh thu, ngành được xếp là ngành

xuất khẩu quan trọng thứ 3 của Việt Nam. Hơn 3 triệu người tham gia trực tiếp vào sản

xuất và gần 10% dân số kiếm sống từ nghề cá.

Nuôi trồng thủy sản phát triển mạnh trong những năm gần đây, tốc độ tăng trưởng

trung bình là 12%/năm từ năm 1990, đóng góp hơn 40% cho tổng sản phẩm thủy sản.

Về sản xuất thủy sản, thủy sản nước ngọt vẫn chiếm ưu thế với 65-70%. Hộ gia đình

cũng chiếm ưu thế trong đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, năm 2001 nuôi trồng thủy sản

là nghề chính của 4,3% hộ gia đình và là nghề nghiệp chính của 5,1% lực lượng lao

động. Hầu hết ngư dân và những người tham gia sản xuất nuôi trồng thủy sản đều là

những người sản xuất nhỏ – 77% các hộ gia đình có nuôi trồng thủy sản trên diện tích

ao hồ dưới 0,1 ha và 7% trên diện tích ao hồ từ 0,1 ha đến 0,2 ha. Gần đây các hợp tác

xã nghề cá cũng được thành lập. Nguồn thu nhập lớn nhất từ đánh bắt và nuôi trồng

thủy sản có được từ đồng bằng sông Cửu Long, nơi có từ 60% đến 70% hộ gia đình

tham gia vào một hình thức nuôi trồng thủy sản nào đó, thu hút hơn 600.000 lao động.

Nuôi tôm cũng thu hút hơn một nửa số lao động nuôi trồng thủy sản.

Giá trị sản xuất thủy sản trên các lưu vực khác nhau đáng kể - từ 15.300 VNĐ/m3

nước sử dụng ở lưu vực sông Côn, xuống còn 3.800 VNĐ/m3 nước sử dụng ở đồng

bằng sông Cửu Long. Sông Trà Khúc có giá trị lợi nhuận cao nhất trên diện tích nuôi

trồng thủy sản, ở mức 198 triệu đồng/ha, và lưu vực sông Cửu Long 93 triệu đồng/ha.

Các yêu cầu về an toàn thực phẩm đang nổi lên như là các rào cản đối với sản phẩm thủy

sản trong nước tiếp cận thị trường quốc tế đã định hình lại đáng kể cơ cấu của ngành.

Trách nhiệm quản lý tất cả các hoạt động nghề cá thuộc về Bộ NN&PTNT. Bộ chịu

trách nhiệm quy định tổng sản lượng đánh bắt cho phép; các biện pháp bảo vệ có liên

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

quan đến môi trường biển; khoanh vùng, giám sát và nghiên cứu; và quản lý cấp giấy

Trang 21 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

phép đánh bắt. Với mục đích bảo vệ và phát triển các nguồn lợi thủy sản, chính phủ đã

khởi xướng một quỹ dành cho việc tăng cường nguồn lợi bao gồm “Quỹ Khôi phục

nguồn lợi thủy sản”. Cục Khai thác và Bảo vệ nguồn lợi thủy sản quản lý môi trường tự

nhiên (thuộc các khu bảo tồn biển và đất liền). Cục Quản lý chất lượng, an toàn vệ sinh

và thú y thủy sản đã được thành lập nhằm đáp ứng các tiêu chuẩn y tế của EU/US.

Trong khi có nhiều mối đe dọa liên quan đến nguồn nước phát sinh từ ngành thủy

sản, ngành chế biến cá và nuôi trồng thủy sản lại đang làm suy thoái nguồn nước thông

qua việc sử dụng nước và gây ô nhiễm nguồn nước.

Số lượng các doanh nghiệp kinh doanh thủy sản nhà nước (DNTSNN) giảm mạnh.

Hầu hết các tỉnh duyên hải đều có một hoặc nhiều doanh nghiệp thủy sản nhà nước hoạt

động. Các DNTSNN thường hoạt động kém hiệu quả và không mang lại lợi nhuận.

1.2. Tham khảo việc quản lý tài nguyên và môi trường ở một số nước trên thế giới

Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế và các nhà quản lý bắt đầu tỏ ra lo

ngại về khả năng cạn kiệt của các tài nguyên không - tái tạo. Câu hỏi mà họ đặt ra là

các tài nguyên thiết yếu cho nền kinh tế, tức là các tài nguyên mà nếu không có nó thì

sản lượng nào đó của nền kinh tế sẽ bằng không, có thể được thay thế bởi các nhân tố

sản xuất do con người tạo ra, cụ thể là vốn hay không?

Ý nghĩa của câu hỏi được đặt ra ở trên là, liệu có thể thay thế tài nguyên thiên nhiên

không - tái tạo bởi các tài nguyên tái tạo để duy trì phát triển kinh tế bền vững hay

không? Nói cách khác, giá trị của sự cạn kiệt của những tài nguyên không - tái tạo là

một cản trở lớn của phát triển kinh tế bền vững, cần được giải quyết trong nội dung của

kinh tế tài nguyên thiên nhiên.

Tại Nhật Bản:

Khác với Việt Nam, ngoài khung pháp lý rất đầy đủ về môi trường, Nhật Bản có

hẳn một hệ thống tư pháp, thực thi luật môi trường được phân cấp rõ ràng từ quốc gia

đến địa phương. Theo đó, việc ban hành luật là do Nghị viện, Chính phủ hay Bộ Môi

trường là cơ quan thi hành, còn chính quyền địa phương, cảnh sát tỉnh chỉ làm nhiệm

vụ điều tra các hành vi vi phạm môi trường, mọi vi phạm liên quan đên môi trường đều

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

do Tòa án xét xử.

Trang 22 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Từ năm 1970, 14 luật môi trường ở Nhật Bản đã được ban hành và sửa đổi, trong

đó, phải kể đến Luật Giải quyết tranh chấp môi trường (EDSL), đã bảo vệ quyền lợi

của cộng đồng, giảm thiểu gánh nặng cho nạn nhân môi trường trong việc đòi bồi

thường thiệt hại.

Từ đó, một hệ thống các tổ chức giải quyết tranh chấp môi trường ở Nhật Bản đã

được thành lập, đứng đầu là Ủy ban Điều phối tranh chấp môi trường (EDCC), rồi đến

các Ủy ban kiểm tra tình trạng ô nhiễm cấp tỉnh (PPECs). Các Ủy ban này sẽ tiếp nhận

các vụ kiện môi trường với các thủ tục như: hòa giải, trung gian hòa giải, phân xử, xét

xử trách nhiệm và xét xử nguyên nhân. Nhờ vậy, các tranh chấp môi trường đã được

giải quyết nhanh chóng, đơn giản hóa và chính xác, đảm bảo được quyền lợi của người

bị thiệt hại.

Tại Trung Quốc:

Từ năm 1978, nền kinh tế Trung Quốc đã trải qua những thay đổi to lớn. Từ năm

1978 đến năm 1993, tỉ lệ tăng trưởng trung bình của GNP là trên 9% năm. Bên cạnh sự

tăng trưởng kinh tế nhanh chóng, nền kinh tế đã chuyển một bước quan trọng từ nền

kinh tế chỉ huy sang nền kinh tế có xu hướng thị trường. Chính phủ kiểm soát giá, hạn

ngạch hàng hoá được phân bổ theo kế hoạch, chia sẻ sản xuất của các doanh nghiệp

thuộc sở hữu nhà nước cũng như tầm quan trọng của đầu tư tài chính nhà nước đã hạ đi

một cách kịch tính. Nghiên cứu mới nhất của nền kinh tế Trung Quốc chỉ ra rằng thị

trường đang đóng một vai trò quan trọng trong việc ra quyết định trong kinh tế.

Mặc dù Trung Quốc đang nói với thế giới một câu chuyện về sự phát triển kinh tế

thành công, nhưng môi trường của Trung Quốc lại đang chỉ ra một bức tranh rất khác.

Sự suy thoái môi trường hiện nay đang lan tràn và nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Theo

Uỷ ban môi trường của Trung Quốc (NEPA,1994), ô nhiễm không khí ở các thành phố

lớn và trung bình nghiêm trọng và tiếp tục xấu đi ở các thành phố nhỏ. Phần điều tra 94

con sông chạy dọc khu vực đô thị, 65% (69%) con sông trong số đó, nước sông bị ô

nhiễm. Chất lượng của nước ngầm trở nên xấu hơn và việc giảm sút đó gây ra do tình

trạng quá ô nhiễm của nước ngầm xảy diễn ra ở 36 thành phố. Tỉ lệ che phủ của rừng

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

chỉ còn 12.98% (số liệu năm 1989), và cung cấp gỗ vẫn còn khó khăn. Diện tích đất xói

Trang 23 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

lở mở rộng ra lên tới 150 triệu ha, 15.6% tổng diện tích đất; một phần ba đất nông

nghiệp đối mặt với vấn đề sạt lở đất nghiêm trọng; và 6.67 triệu ha đất nông nghiệp bị

chuyển thành bãi thải nước công nghiệp và đô thị.

Để chiến đấu với các vấn đề môi trường, chính phủ Trung Quốc đã đưa ra một loạt

các chính sách môi trường, các chương trình, các quy định trong lĩnh vực này. Phần lớn

các thiết lập và chính sách môi trường sử dụng đều bao gồm hệ thống đánh giá tác

động môi trường, hệ thống phí thải ô nhiễm công nghiệp, quỹ bảo vệ môi trường, các

giấy phép phát thải ô nhiễm (bây giờ đang triển khai thử ở một số khu vực đô thị) và

các đo lường quản lý môi trường khác. Năm 1994 Uỷ ban bảo vệ môi trường quốc gia

Trung Quốc đã phát động chương trình bảo vệ môi trường 5 năm, với mục tiêu cho đến

cuối năm 1998 giảm ô nhiễm công nghiệp xuống bằng cách xử lý được 80% trong tổng

số nước thải công nghiệp và 88% khí thải công nghiệp.

Tuy nhiên vì thiếu các mô hình định lượng nhất quán cho việc phân tích chính sách

môi trường, toàn bộ hiệu quả của các chính sách môi trường này và các chương trình

kiểm soát ô nhiễm nhiễm cũng như các hàm ý kinh tế vẫn chưa được biết. Cần thiết

cho các mô hình để đánh giá các tác động kinh tế môi trường của những chính sách và

chương trình này. Vì vậy cho nên mô hình CGE môi trường được phát triển trong phần

3 được áp dụng ở Trung Quốc cho mục đích này.

Trung Quốc có 7 ngành sản xuất: nông nghiệp, mỏ, công nghiệp nhẹ, năng lượng,

công nghiệp nặng, xây dựng và dịch vụ. Các nhân tố sản xuất bao gồm 2 nhân tố chính,

lao động và vốn và các đầu vào trung gian. Cung vốn và lao động tổng hợp được xác

định một cách ngoại sinh. Tỉ lệ lương trung bình cũng được cố định trong mô hình

phản ánh tính cứng nhắc trong lương của Trung Quốc. Các biến ngoại sinh khác bao

gồm tỉ lệ trao đổi ngoại tệ, chi tiêu hàng hoá của chính phủ, trợ cấp chính phủ và nợ.

Mô hình xác định ba loại ô nhiễm tổng quát: Nước thải, bụi khói lẫn sương, chất

thải rắn. Vì vậy, có ba ngành giảm thiểu ô nhiễm tương ứng.

Mô hình bao gồm tất cả có 289 bíên nội sinh. Các biến ngoại sinh hoặc các biến

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

kiểm soát chính sách của mô hình bao gồm rất nhiều loại khác nhau của tỉ lệ thuế, trợ

Trang 24 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

cấp, chi tiêu chính phủ, vay mượn chính phủ, tỉ lệ lương trung bình và tỉ lệ trao đổi

ngoại tệ.

Các tham số ước lượng ở trên có các sai số không thể tránh khỏi hoặc chứa đựng

những điểm phi tất yếu. Hơn nữa các sai số và những điểm phi tất yếu này ảnh hưởng

đến kết quả mô phỏng chính sách của mô hình. Vì vậy nên phân tích độ nhạy cần được

sử dụng để kiểm tra tính thiết thực của các kết quả mô phỏng đối với sự thay đổi trong

cường độ ô nhiễm. Các kết quả phân tích độ nhạy cho biết các xu hướng của sự thay

đổi biến là ổn định cùng với sự thay đổi cường độ ô nhiễm đã kiểm tra.

Sử dụng mô hình ở Trung Quốc, đã kiểm tra một vài lựa chọn chính sách môi

trường. Chúng bao gồm việc tăng tỉ lệ thuế phát thải ô nhiễm dựa vào nước thải, trợ

cấp cho các hoạt động xử lý nước thải, đánh thuế rác thải và nước thải cống của các hộ

gia đình và tăng mua bán các dịch vụ xử lý nước thải của chính phủ. Để đánh giá các

tác động kinh tế của chương trình bảo vệ môi trường 5 năm của Trung Quốc, đánh giá

tác động là một trong số những mục tiêu chính của chương trình, tăng lượng nước thải

được xử lý lên đến 80% cũng được sử dụng.

Trung Quốc bắt đầu đưa vào một hệ thống đánh thuế ô nhiễm vào những năm cuối

1970. Cho đến năm 1990, Trung Quốc đã đưa ra phí thải dựa vào lượng phát thải của

khoảng 100 loại chất gây ô nhiễm ở 4 loại ô nhiễm là: Ô nhiễm nước, ô nhiễm khí ga,

chất thải rắn và tiếng ồn. Năm 1990 tổng thuế phát thải ô nhiễm thu được là 1.75 tỉ

Yuan và năm 1991 là 2.06 tỉ Yuan. Thuế phát thải ô nhiễm cung cấp một nguồn quan

trọng cho quỹ bảo vệ môi trường đặc biệt, tổ chức mà chủ yếu đầu tư vào các hoạt

động kiểm soát ô nhiễm công nghiệp. Mặc dù hệ thống đánh thuế ô nhiễm là đáng ca

ngợi như các phương pháp thành công của việc tăng thêm quỹ để kiểm soát ô nhiễm

nhưng nó cũng có điểm yếu. Một điểm yếu quan trọng là phí hiện nay quá thấp để cho

những người gây ô nhiễm có động cơ giảm thấp lượng phát thải của họ. Cần tăng phí

xả thải đã được thảo luận nhiều năm. Một câu hỏi đặt ra bây giờ là phí này nên tăng lên

bao nhiêu và tác động của việc tăng này lên nền kinh tế và kiểm soát ô nhiễm sẽ là gì.

Với các tỉ lệ thuế phát thải ô nhiễm được kết hợp vào mô hình CGE môi trường, một ai

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

đó có thể sử dụng mô hình để mô phỏng hiểu quả của việc tăng phí phát thải ô nhiễm.

Trang 25 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Phí phát thải ô nhiễm nước thải được lựa chọn cho các yêu cầu chính sách này. Tỉ lệ

thuế vào năm 1990 là 0.2 yuan một tấn. Giả định một cách tuỳ ý là chính phủ tăng tỉ lệ

thuế lên 25%, 50%,100%,150% và 200% thì sẽ có sự thay đổi trong các biến quan

trọng như tổng đầu vào, thu nhập, việc làm, tiết kiệm, mức giá, giảm thiểu ô nhiễm và

phát thải ô nhiễm.

Nói chung, khi tỉ lệ thuế tăng lên, các kết quả mô phỏng một cách định lượng chỉ ra

sự giảm ổn định trong sản xuất và sự tăng ổn định trong chỉ số giá. Hơn nữa, việc giảm

sản xuất gây ra tỉ lệ thất nghiệp tăng lên và mức độ tạo ra ô nhiễm giảm đi. Tổng sản

phẩm quốc nội thực (GDP) giảm xuống, tiếp theo là việc giảm trong mức độ sản xuất.

Các xu hướng quan sát được từ các mô hình hoá nhất quán với lý thuyết đánh thuế ô

nhiễm của kinh tế môi trường.

Các kết quả mô phỏng từ mô hình cũng cung cấp những thay đổi thuộc ngành trong

sản xuất và tiêu dùng chi tiết hơn, cho phép có một cái nhìn gần hơn về những tác động

của việc tăng thuế ô nhiễm lên mỗi ngành riêng biệt.

Trừ ngành năng lượng, các sản phẩm ngành sản xuất giảm xuống khi tỉ lệ thuế phát

thải nước thải tăng. Chẳng hạn, khi tỉ lệ thuế tăng lên 50%,.. 0.3yuân/tấn. Sản phẩm của

ngành công nghiệp nặng giảm xuống 0.27% hoặc …Tác động tiêu cực lên sản xuất

thậm chí ảnh hưởng đến các ngành không gây ô nhiễm như nông nghiệp (giảm 1.78 tỉ

Yuan và 0.23%) và các ngành dịch vụ (giảm 1.2 tỉ Yuan và 0.16%).

Quan tâm đến tính hiệu quả của việc tăng tỉ lệ đánh thuế vào việc xử lý nước thải,

sự mô phỏng chỉ ra rằng kịch bản tăng tỉ lệ thuế lên 25% (từ 0.25 yuân/tấn năm 1990

lên 0.25) không đủ giảm phát thải ô nhiễm. Trong khi một cách tương ứng tỉ lệ thuế

tăng lên thì ngành công nghiệp đơn giản đứng ra và trả nhiều thuế hơn cho việc phát

thải nước ô nhiễm. Tổng thuế phát thải ô nhiễm từ 3 loại phát thải ô nhiễm tăng lên từ

1.2 tỉ yuan trong 1 năm lên 1.45 tỉ Yuan.

Khi tỉ lệ thuế tăng lên 0.3 yuan/tấn (tăng 50%), tỉ lệ làm sạch cho nước thải công

nghiệp tăng từ 37.7% (4.5 tỉ tấn nước thải đã được xử lý) trong một năm tăng lên

65.4% (7.8 tỉ tấn nước thải). Chú ý rằng một khối lượng nước thải giảm đáng kể khi

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

tăng 50% hoặc cao hơn nữa tỉ lệ thuế nước thải.

Trang 26 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trong khi đánh giá các kết quả mô phỏng từ các chính sách môi trường, một ai đó

nên chú ý rằng mô hỉnh chỉ đo lường những thành tựu hoặc những cái mất của một

chính sách môi trường. Không có các lợi nhuận phi tiền từ việc giảm thiểu ô nhiễm thu

được bởi mô hình. Tuy nhiên các kết quả mô phỏng từ mô hình có thể rất hữu ích cho

các nhà làm chính sách đánh giá các tác động kinh tế và hiệu quả giảm thiểu ô nhiễm

của một chính sách kiểm soát ô nhiễm.

Khác với đánh thuế, trợ cấp hướng đến kết quả trong việc giảm giá bvà tăng mức

sản xuất của một ngành nhận được trợ cấp. Các kết quả đầu tiên của hai kịch bản trợ

cấp ô nhiễm. Giá của việc làm sạch nước thải giảm 10.3% với trợ cấp thấp và giảm

14.4% với trợ cấp cao. Việc giảm giá làm sạch đưa đến việc giảm các chi phí giảm

thiểu ô nhiễm của các ngành sản xuất và hơn nữa giảm giá sản phẩm. Tuy nhiên, tác

động lên giá sản phẩm là rất nhỏ trong cả hai kịch bản và không đủ để được phản ánh

trong chỉ số giá. Mức xử lý nước thải được tăng lên bằng cách tăng nhu cầu xử lý nước

thải do chi phí thấp. Mức tổng nước thải xử lý tăng 51.7% khi trợ cấp 400 tỉ Yuan được

cung cấp cho ngành xử lý nước thải.

Mặc dù các trợ cấp kích thích sản xuất của ngành xử lý nước thải, nhưng chúng ảnh

hưởng một cách tiêu cực đến sản phẩm sản xuất đưa ra nguồn tài nguyên vốn bị giới

hạn có sẵn trong nền kinh tế. Tổng sản phẩm giảm xuống trong cả hai kịch bản.

Có sự khác nhau giữa hai kịch bản (200 tỉ Yuan và 400 tỉ Yuan) trong tác động của

chúng lên sản phẩm và thu nhập. Tình huống trợ cấp thấp có tác động nhỏ hơn lên nền

kinh tế. Sản phẩm sản xuất giảm một cách nhẹ nhàng trong bối cảnh này. Giá trị của tất

cả các biến rât gần với các giá trị năm gốc. Mức xử lý nước thải tăng nhẹ từ 4.5 tỉ tấn

lên 4.7 tỉ tấn. Tuy nhiên, ở bối cảnh trợ cấp cao hơn làm cho sản xuất giảm hơn. Tỉ lệ

thất nghiệp tăng từ 4% lên 4.11% khi đó thu nhập và tiết kiệm giảm.

Những thay đổi trong sản xuất thuộc ngành được chi tiết từ hai mô phỏng trợ cấp ô

nhiễm. so sánh với quan sát ở năm gốc, một ai đó có thể phát hiện ra rằng trợ cấp các

ngành giảm thiểu ô nhiễm thực sự gây tổn hại đến các ngành hoàn toàn không ô nhiễm

hoặc các ngành ít ô nhiễm hơn, giảm đi, chẳng hạn sản phẩm của ngành nông nghiệp

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

và dịch vụ tương ứng là 840 triệu Yuan và 630 triệu Yuan. Tuy nhiên, các sản phẩm

Trang 27 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

của các ngành tập trung ô nhiễm như mỏ và năng lượng không bị tác động một cách

tiêu cực. Điều này là vì tất cả các ngành được giả định là cạnh tranh nhau cho nguồn tài

nguyên vốn dưới ràng buộc cung vốn chặt. Khi các ngành dựa nhiều vào vốn như là

mỏ và năng lượng trở bắt đầu có hiệu lực lợi nhuận – chi phí hơn vì việc giảm các chi

phí giảm thiểu ô nhiễm của họ. Họ có lợi thế trong việc thu được vốn để tăng thêm sản

xuất của họ.

1.3. Thách thức đối với Việt Nam trong quản lý tài nguyên và môi trường

Ngành nước Việt Nam đang đối mặt với một tình trạng khủng hoảng trên

diện rộng, đòi hỏi phải có những hành động khắc phục ngay trên nhiều mặt trận.

Tuy nhiên, rất ít người nhận ra nguy cơ khủng hoảng này chứ chưa nói đến nhận

thức mức độ và phạm vi của nó. Ngành nước đang bị bao vây bởi nhiều vấn đề quan

trọng từ việc thiếu dữ liệu cho tới khả năng đầu tư tài chính hạn chế, thiếu quyền sử

dụng nước và ô nhiễm trầm trọng. Một chương trình cải tổ quy mô đã được đề xuất

nhằm đối phó với các vấn đề trên và đưa Việt Nam tiếp tục trên con đường

QLTNNTH. Tuy nhiên, có rất nhiều thử thách to lớn nếu Việt Nam chấp nhận và

thực hiện chương trình đề xuất này.

Ngành nước Việt Nam đang nhận thấy QLTNNTH là hết sức cần thiết trong

tương lai. Tuy nhiên, trên tất cả các mặt trận, cách tiếp cận QLTNNTH ở Việt Nam

còn đang trong thời kỳ trứng nước. Luật Tài nguyên Nước đáng lẽ cần phải xem xét

lại nhiều năm trước đây, nhưng vào thời điểm đó lại không tìm được sự hỗ trợ quốc tế

nào. Việc thiếu các thông tin và dữ liệu tốt và sẵn có là một trong những vấn đề

nghiêm trọng nhất, cộng với việc thu phí diễn ra không công khai đối với nguồn dữ

liệu do nhà nước tài trợ thu thập, đang làm méo mó quá trình ra quyết định. Các bước

đầu tiên đã được thực hiện với các biện pháp kinh tế nhưng bản thân chúng lại đang

bị hạn chế do chính phủ kiểm soát và không được áp dụng hiệu quả. Quyền sử dụng

nước không được xác định và mặc dù quá trình cấp phép đang diễn ra, vẫn còn thiếu

sự tập trung và hỗ trợ cần thiết. Các nỗ lực quản lý chất lượng nước không hiệu quả,

ô nhiễm ngày càng gia tăng ở hầu hết các khu vực gần các trung tâm đô thị/công

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

nghiệp đông đúc, đang tạo nên mối đe dọa ngày càng tăng cho sức khỏe con người.

Trang 28 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Các điều khoản bảo vệ môi trường thiếu trầm trọng, nước không được xem là một

phần của hệ sinh thái, và quá trình lập Báo cáo đánh giá tác động môi trường không

được thực hiện hiệu quả. Trên nhiều mặt trận QLTNNTH không có chính sách rõ

ràng – ví dụ đâu là tiêu chuẩn phù hợp cho cấp nước sạch nông thôn? Quyền sử dụng

nước là gì? Nước được chia sẻ như thế nào? Dòng chảy môi trường là gì? Dòng chảy

môi trường được áp dụng như thế nào? Chính sách của chính phủ Việt Nam về “dòng

sông không bị ảnh hưởng” v.v…Hiểu biết về các vấn đề liên quan đến nước ở tất cả

các cấp của chính phủ và trong cộng đồng còn rất hạn chế. Các cơ quan của chính

phủ có văn hóa tập trung chủ yếu vào Bộ và các nhu cầu của họ, hơn là chú ý đến các

quy định và các yêu cầu do chính phủ đặt ra.

Một trong các thất bại chính là việc thiếu sự hỗ trợ và hành động của chính

phủ và các IDP trong việc giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến QLTNNTH, điều

này có thể nhận thấy rõ ràng. Nhiều vấn đề ngành đang phải đối mặt cũng đã được

xác định trong báo cáo Rà soát ngành nước đầu tiên được thực hiện khoảng 1 thập

kỷ trước. Năm 2003, với sự hỗ trợ của nhiều IDPs, chính phủ Việt Nam đã thành

lập Bộ TNMT để đảm nhiệm chức năng quản lý nhà nước đối với tài nguyên nước.

Nhưng khi tiến hành quyết định cứng rắn và đúng đắn đó, cả chính phủ và các IDP

đều không cung cấp một sự hỗ trợ thực tế nào cho Bộ mới này khi Bộ bắt đầu nỗ

lực để bắt đầu đưa Việt Nam đi trên con đường tiến tới QLTNNTH. Bộ TNMT

hiện rất thiếu nguồn nhân lực và thiếu sự hỗ trợ; Bộ cũng đứng ngoài những chương

trình tài nguyên quan trọng đang được vận hành bởi các tổ chức lớn và truyền thống

từ trước đến nay. Cách quản lý nước truyền thống vẫn tiếp tục dưới sự hỗ trợ của

chính phủ và IDP, như thể Bộ TNMT chưa từng được thành lập. Trong tình hình

này sẽ cực kỳ khó khăn cho Bộ TNMT phát triển và trở thành một Bộ hoạt động

mạnh và hiệu quả.

Công tác quản lý ngành nước hiện tại đang bị lấn át bởi các cách tiếp cận

truyền thống hơn là cách tiếp cận dựa trên QLTNNTH. Chính phủ và các IDP phải

nhận ra điều này và chấp nhận thực tế là các cách quản lý truyền thống đang mang

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

lại các vấn đề mà Việt Nam phải đối mặt.

Trang 29 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Quy hoạch lưu vực sông là một ví dụ. Một số sáng kiến về lưu vực sông đã được

thực hiện trong vòng 1 thập kỷ qua hay lâu hơn thông qua các cách tiếp cận truyền thông,

hầu hết đều dựa trên việc lập các quy hoạch tổng thể phát triển tài nguyên nước. Tuy

nhiên, các cách trong lập quy hoạch lưu vực sông truyền thống đã không ngăn chặn được

tình huống hiện nay là các lưu vực đang ngày càng lún sâu vào các giai đoạn khác nhau

của sự căng thẳng, và nguồn nước sẵn có đang giảm dần. Các quy hoạch khác nhau của

lưu vực sông Đồng Nai và tổ chức lưu vực sông Đồng Nai mới thành lập năm 2001 đã

không tránh cho con sông này, vốn có vai trò quan trọng trong cấp nước và điện cho các

trung tâm kinh tế của Việt Nam, trở thành con sông chịu áp lực và ô nhiễm nhất Việt

Nam. Ngày nay Việt Nam đang đòi hỏi quá nhiều từ con sông này, vẫn theo cách tiếp

cận quy hoạch truyền thống. Các cách tiếp cận trong quy hoạch lưu vực sông trong quá

khứ đã thất bại, và xét đến tầm quan trọng của việc áp dụng biện pháp này trong tương

lai ngành nước, các cách tiếp cận QLTNNTH mới là rất cấp thiết.

Các cách tiếp cận truyền thống đã khiến ngành cấp nước đô thị và vệ sinh bỏ

qua rất nhiều đối tượng. Khoảng 8,5 triệu người dân đô thị không được tiếp cận

nước sạch và những người được cấp nước thì tiêu chuẩn dịch vụ rất thấp. Chính phủ

Việt Nam đang cố gắng cung cấp đầy đủ và hiệu quả các dịch vụ cấp nước nhằm

đáp ứng nhu cầu dân cư đô thị và các ngành công nghiệp đang bùng nổ; nhưng các

UBND tỉnh lại đặt mức giá nước thấp ở mức không thể giúp duy trì ngành kinh

doanh nước và đặt gánh nặng vận hành và ra quyết định lên vai chính quyền. Trong

ngành cấp nước đô thị, các cách tiếp cận truyền thống đang cản trở tiến bộ trong

một lĩnh vực quan trọng đối với thành công trong kinh tế và xã hội. Ở đầu kia của

cấp nước đô thị, các dịch vụ vệ sinh thiếu trầm trọng. Theo cách tiếp cận hiện tại,

tình trạng này sẽ không được cải thiện đáng kể, ngoại trừ ở một số nơi tại một số ít

các thành phố lớn. Việc tài trợ cơ sở hạ tầng quy mô lớn vượt quá khả năng của

chính phủ - và giá nước bị chặn ở mức thấp hơn nhiều mức có thể sinh lợi cho hoạt

động kinh doanh nước. Đây là điều có thể dễ hiểu và cũng là không may mắn trong

trường hợp Việt Nam, vì cấp nước và vệ sinh được xem là một vấn đề xã hội và

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

chịu sự kiểm soát nặng nề của chính phủ nhằm đạt được các mục tiêu xã hội. Ở các

Trang 30 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nước phát triển, cấp nước đô thị và vệ sinh được xem như một hàng hóa như tất cả

các mặt hàng công cộng khác là ga, điện, viễn thông v.v... Điều thú vị là chính phủ

Việt Nam đã tiến hành cải tổ cơ bản ngành năng lượng trong đó bao gồm việc cải

thiện quản lý kinh tế nhờ cơ chế thị trường tự tài trợ, giảm độc quyền, tách tổ chức,

đa sở hữu trong khi chính phủ vẫn tạo điều kiện cho việc đạt được các chính sách

xã hội quốc gia. Dường như người ta nhìn nhận “nước” khác với các loại hàng hóa

khác, nước là một tài nguyên công cộng quan trọng và là một phần tất yếu của đời

sống con người. Vì vậy, những cải tổ quan trọng như trên trong ngành nước thường

tụt hậu so với các ngành công cộng khác. Tuy nhiên, một khi đã tiến hành các bước

đi cần thiết, dịch vụ nước cho khách hàng ở các thành phố và thị trấn sẽ được nhìn

nhận như một hàng hóa công cộng, và sẽ mang lại lợi ích đáng kể và nhanh chóng

cho chính phủ, cho khách hàng, cho cộng đồng nói chung và cho môi trường. Việc

tiến hành các bước cải tổ các ngành công cộng ở Việt Nam giờ đang là việc làm cấp

thiết.

Về cấp nước nông thôn và vệ sinh, có 21 triệu người không được tiếp cận nước

vệ sinh, và 41 triệu người không có nguồn cấp đạt tiêu chuẩn nước sạch của Bộ Y tế.

Phần lớn người dân nông thôn không có nhà xí đạt tiêu chuẩn vệ sinh. Tuy nhiên, mặc

dù có những thử thách to lớn như vậy, đây là một ví dụ về việc cách tiếp cận truyền

thống đã được thay đổi hoàn toàn trong CTMTQG II, và kết quả mang lại vượt trên

mong đợi. Một cách tiếp cận mới có tính hợp tác và tổng hợp, tăng cường quá trình ra

quyết định “từ dưới lên” đang được xây dựng. Trong khi có nhiều vấn đề trong thực tế

quá trình xây dựng cách tiếp cận này, cho đến hiện tại nhiều thành tựu đã đạt được hơn

sơ với khi áp dụng cách tiếp cận truyền thống. CTMTQG II xứng đáng được nhận

nhiều sự hỗ trợ hơn.

Tưới từ lâu đã là trụ cột của cộng đồng nông thôn. Sự phát triển mạnh mẽ

của ngành tưới trong nhiều năm qua đã bảo đảm an ninh lương thực và đưa Việt

Nam thành một nước xuất khẩu gạo lớn. Tưới trong trồng lúa là yếu tố hết sức quan

trọng đối với hầu hết các cộng đồng nông thôn. Tuy nhiên, quản lý tưới hiện nay

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

đang đi theo phương pháp truyền thống, và hiện tại nước tưới đang được cấp miễn

Trang 31 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

phí, và truyền thống cũ lại càng được khoét sâu thêm. Trong thực tế, tưới là một

phương tiện cung cấp dịch vụ xã hội cho hầu hết người dân nông thôn. Ngày nay,

nước tưới vẫn cấp không đủ và hiệu quả, cơ sở hạ tầng ngành tưới cũ và xuống cấp

trầm trọng, hoàn toàn phụ thuộc vào ngân sách nhà nước và vốn ODA để duy trì

hoạt động của hệ thống. Với mức đầu tư hiện tại tất cả các hệ thống đang hoạt động

ở mức kinh phí rất eo hẹp; tất cả các công trình tiếp tục đang xuống cấp, mặc dù có

các dự án khôi phục cải tạo nhờ vốn ODA, vẫn có nhiều công trình cuối cùng sẽ

không hoạt động một phần hay toàn bộ. Cải tổ ngành tưới sẽ luôn là một tình huống

tiến thoái lưỡng nan của chính phủ vì tình hình đói nghèo ở khu vực nông thôn hiện

nay. Tất cả các hình thức cải tổ ngành tưới đều diễn ra rất chậm chạp. Nông dân có

rất ít tiếng nói trong quản lý hệ thống cho được đã có một số thành công của PIM –

các hệ thống tưới được xây dựng để phục vụ trồng lúa, nguồn nước do các Công ty

thủy nông cung cấp nhằm đáp ứng nhu cầu nước tưới. Nếu thủy lợi phí bị bãi bỏ, sẽ

không còn động cơ khuyến khích người nông dân tham gia và quản lý tưới. Đa dạng

hóa cây trồng cũng gặp khó khăn vì hoạt động cấp nước là từ trên xuống và không

xuất phát từ nhu cầu của nông dân. Trong tương lai chính phủ sẽ cần ra các quyết

định mạnh mẽ hơn để cách tiếp cận truyền thống được phát triển tiếp tục ở mức độ

nào để việc cấp nước tưới được sử dụng như một phương tiện để cung cấp hỗ trợ xã

hội, cùng với những cải cách lớn có thể vẫn được thực hiện tạo nên nhiều khu vực

tin cậy, một ngành thủy lợi đổi mới và tiến bộ. Những kiến nghị sẽ được nêu ở phần

sau của Báo cáo.

Việc giải quyết các ảnh hưởng của thiên tai cũng là một lĩnh vực đang gắn

liền với cách thức quản lý thực hành truyền thống. Có hai khía cạnh cần xem xét.

Một là sự đối phó khi thiên tai xảy ra, và lịch sử lâu đời trong việc đối phó với các

trận bão to đã tạo nên một mạng lưới vững mạnh và một văn hóa đối phó thiên tai

lâu đời. Khía cạnh thứ hai là công viêc được tiến hành giữa những đợt thiên tai

trong quá trình xây dựng cách tiếp cận nhằm đối phó tốt hơn với thiên tai trong

tương lai (làm thế nào để ngăn chặn không cho chúng trở thành thiên tai đối với con

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

người) và bảo vệ cộng đồng khỏi các tác động của chúng. Tuy nhiên, khía cạnh này

Trang 32 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

lại được dựa trên một cách tiếp cận công trình truyền thống mạnh mẽ đối với thiên

tai, đặc biệt là thông qua việc xây dựng đê kè, cơ quan trung ương có nhiệm vụ đối

phó với thiên tai được giao nhiệm vụ xây dựng giải pháp công trình truyền thống

này. Tuy nhiên, các biện pháp công trình thường không hiệu quả đối với hầu hết các

sông bị ảnh hưởng ở miền Trung Việt Nam, nơi có rất nhiều người chết hàng năm

do thiên tai. Việt Nam cần xây dựng các biện pháp hữu hiệu hơn để có thể áp dụng

nhiều biện pháp phi công trình, nhờ đó cứu được nhiều người hơn, và các biện pháp

đó cũng có hiệu quả tại các tỉnh với cách tiếp cận dựa vào cộng đồng. Cũng như

vậy, việc làm cấp thiết hiện giờ là tạo dựng nguồn nhân lực chuyên trách việc đối

phó thiên tai vì các cán bộ phụ trách mảng này đều là cán bộ kiêm nhiệm.

Phát triển thuỷ điện đang diễn ra với tốc độ cao. Đáng tiếc, thủy điện đã đi

trước ngành nước quá xa. Chương trình cải cách năng lượng của chính phủ đang

chuyển dần chức năng của chính phủ từ chức năng của người vận hành sang chức

năng điều hành do khu vực tư nhân ngày càng tham gia nhiều hơn có vai trò nhiều

hơn trong lĩn vực cung cấp năng lượng. Do những cải tổ này là bản chất của cơ chế

thị trường, chúnh cần được hỗ trợ bởi một tiến trình của các cải tổ khác về điều

hành, như cần có chế độ xác định rõ ràng hơn quyền và chức năng, minh bạch hơn

và tiếp cận thông tin tốt hơn, bảo vệ về mặt pháp lý mới về quyền được phê phán

v..v. những yếu tố trên sẽ tạo nên quá trình ra quyết định chung cũng như ảnh

hưởng đến các đầu tư riêng lẻ. Một khung pháp lý mạnh cần được tạo ra thông qua

quá trình rõ ràng, có sự tham vấn rộng rãi và những quy chế có thể áp dụng được

cho cả chính phủ và cả những đói tương vận hành không phải chính phủ. Đáng tiếc

ở Việt Nam, Vai trò thực sự của nhiều cơ cấu quan trọng trong ngành nước còn đi

sau những gì đáng ra nó phải làm. Tiến trình thực hiện EIA là yếu, không xây dựng

được Quyền sử nước rõ ràng và minh bạch đã tạo nên cơ sở nghèo nàn cho các đầu

tư, nhu cầu của tất cả người dùng nước đã không được xem xét một cách thoả đáng

đặc biệt đối với nhu cầu của những cộng đồng nằm ở hạ lưu các lưu vực sông, cần

xây dựng yêu cầu chất lượng nước và đưa vào thực hiện v..v. Trong khung cảnh

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

như vậy một cách tiếp cận thận trọng dường như là một cách tốt để trách được cái

Trang 33 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

giá phải trả trong tương lai. Thuỷ điện hoặc cần đi chậm hơn để nhiều phần của

ngành nước bắt nhịp theo kịp hoặc ngành nước cần phải có những đột phá mạnh mẽ

và khẩn cấp.

Giao thông thuỷ thường là phần quên lãng của ngành nước. Những nhu cầu

của nó không được xét đến trong quá trình hình thành quyết định của ngành nước

mà thường được kết hợp vào với các quyết định khác. Tuy nhiên tương lai của một

tiểu ngành phải được xác định bằng chỉ tiêu kinh tế - những phần mà tiểu ngành

cung cấp dịch vụ với mức độ hoàn vốn hấp dẫn về kinh tế của ngành. Khi được xác

định đúng vai trò, các giá trị giao của thông thủy và hạ tầng cần bảo vệ và nhìn nhận

lớn hơn nhiều nhờ sự phát triển của các bộ phận khác của ngành nước. Qui hoạch

lưu vực sông chính là chỗ tốt nhất những vấn đề giao thông thủy được nhìn nhận.

Mối quan hệ giữa các Chương trình tài trợ quốc tế (CTTTQT) và Chính phủ

đang trong một giai đoạn chuyển tiếp vì cả hai đang tìm kiếm cơ hội thực hiện

Tuyên bố chung Hà Nội. CTTTQT cung cấp hỗ trợ to lớn cho ngành nước của Việt

Nam. Tuy nhiên, cũng thấy rõ là một số CTTTQT trong số đó có nhiều nhà tài trợ

lớn tiếp tục hành động riêng rẽ với các nhà tài trợ khác dẫn đến có sự trùng lập và

chồng chéo trong nhiều họa động. Thí dụ UBND thành phố Hồ Chí Minh đang

được 6 CTTTQT khác nhau tiếp cận riêng rẽ về cùng một vấn đề như đã nói ở trên.

Các CTTTQT không có cách tiếp cận chiến lược chung- chỉ có ít các nhà tài trợ làm

việc với nhau về những dự án có cùng những mục tiêu và hầu hết các hỗ trợ ODA

vẫn tập trung vào những lĩnh vực truyền thống. Đầu tư nước ngoài hiện tại phản ảnh

sự tập trung cao vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng. Mức độ hỗ trợ cho các dự án hạ

tầng có thể là hoàn phù hợp và cần thiết không có vấn đề gì phải nghi ngại. Tuy

nhiên, nhiều khu vực trong quản lý tài nguyên nước đã nhận được rất ít hoặc không

nhận đước sự hỗ trợ nào. Sự thiếu đầu tự cho QLTNNTH là đáng báo động, như

trong những lĩnh vực như cải cách pháp lý, chính sách và xây dựng chiến lược, xác

lập quyền dùng nước, hệ thống thống thông tin dữ liệu, qui hoạch lưu vực sông, các

công cụ như cấp phép, định giá nước, bảo vệ tài sản môi trường, quản lý chất lượng

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

nước và huy động sự tham gia của cộng đồng. Những công cụ này là tối quan trọng

Trang 34 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

để ngành nước Việt Nam có thể phát triển một cách bền vững. Một kết luận thuyết

phục khác là thiếu hỗ trợ cho Bộ TNMT sự hỗ trợ trực tiếp từ CTTTQT là dưới 1%

trong toàn bộ tài trợ.

Một kết luận rất rõ ràng từ Rà soát Tổng quan Ngành Nước cần có những

thay đổi lớn và cấp bách để Việt nam thực sự có thể bắt đầu thực hiện tiến bộ thực

sự hướng tới QLTHTNN, theo những khinh nghiêm tố của quốc tế. Cần một sự thay

đổi văn hóa quan trọng cả trong và ngoài chính phủ, nếu những cách tiếp cận này

đạt được kết quả và lợi ích cho các ngành, chính phủ và cộng đòng là được ghi

nhận. Cách thức suy nghĩ và kinh nghiệm đã qua cần phải được thay đổi và cần đưa

vào những khái niêm mới. Điều này cũng cần được các CTTTQT áp dụng.

Các cải cách trong nghành nước cần được bắt đầu với việc nâng cao mạnh mẽ nhận

thức về QLTNNTH và tăng cường năng lực ở cấp chính phủ và UBND các tỉnh thành, đặc

biệt những vấn đề lien quan đế quyền dung nước, dòng chảy môi trường và bảo vệ nguồ

nước. Viện trợ của DANIDA hiện tại cho Bộ TNMT để thực thi QLTNNTH cần phải bảo

đảm rằng quá trình nâng cao nhận thức này cần được bắt đầu ngay.

Những kiến nghị và các chương trình cho các hoạt động được đặt ra cái gì là

đòi hỏi không chỉ giúp Việt Nam khởi động trên con đường thực hiện QLTNNTH

mà cũng còn đưa ra những bước quan trọng trong suốt quá trình đạt được mục tiêu

đề ra. Tuy nhiên đây là chương trình đầy tham vọng và yêu cầu những ưu tiên cao

để có thể tiến đến thành công.

Sự hiểu và hỗ trợ từ các CTTTQT, nguồn to lớn yêu cầu cho công cuộc này,

không chỉ là việc xây dựng thêm công trình mới (chủ yếu là thủy lợi và vệ sinh) mà

quan trọng là QLTNNTH – bao gồm luật, chính sách, qui hoạch lưu vực, quyền

dùng nước, bảo vệ nguồn nước và các công cụ khác của QLTNNTH.

Sự hỗ trợ lớn lao từ chính phủ cho Bộ TNMT, như là người quản gia cho

nguồn tài nguyên quốc gia, để có thể trở thành hiện thực, nhận lấy chức năng nó đã

được giao phó. Không có đầu mối lãnh đạo mạnh và hiệu quả , QLTHTNN sẽ bị rời

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

rạc và không hiệu quả, cách tiếp cận truyền thống sẽ lấn át, và phần lớn các lưu vực

Trang 35 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

sông sẽ tiếp tục vòng soáy chôn ốc đi xuống như hiện tại. Các cộng đồng sống trong

lưu vực song sẽ tiếp tục phải chịu đựng sự vô cảm và vô vàn vấn đề nghiêm trọng

hơn cần phải giải quyết trong tương lai. Cần một sự can thiệp mạnh mẽ bảo vệ

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

nguồn tài nguyên và CTTTQT cần phải giúp công việc này.

Trang 36 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

CHƯƠNG 2

TỔNG QUAN VỀ MÔ HÌNH CGE TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN

VÀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG

2.1. Tóm tắt

Tính toán mô hình cân bằng tổng quát (CGE) là một nỗ lực để sử dụng lý thuyết

cân bằng tổng thể như một công cụ để phân tích phân bổ nguồn lực và các vấn đề phân

phối thu nhập trong nền kinh tế thị trường. Kể từ đầu những năm 1990, mô hình CGE đã

được sử dụng rộng rãi để phân tích chính sách môi trường và các vấn đề quản lý tài nguyên

thiên nhiên. Mục đích của chương này là để xem xét các nhánh của mô hình CGE.

Hầu hết các mô hình CGE hiện có là tĩnh, nhưng với công cụ máy tính có

cấu hình cao và phần mềm xử lý hiệu quả hơn đang phát triển thì một số lượng các

mô hình CGE động về môi trường ngày càng gia tăng. Ngoài ra phạm vi các mô

hình tĩnh và mô hình động rất hữu ích để phân biệt giữa các mô hình của một quốc

gia, đa quốc gia và toàn cầu. Một số mô hình CGE môi trường chủ yếu tập trung

vào các tác động bên ngoài của sản xuất và tiêu dùng, trong khi một số khác được

thiết kế để làm sáng tỏ các vấn đề khác nhau liên quan đến việc quản lý các nguồn

tài nguyên thiên nhiên.

Tuy nhiên, các mô hình CGE hiện tại hầu hết tập trung vào các yếu tố bên

ngoài, chủ yếu là phát thải khí nhà kính. Toàn cầu "yếu tố bên ngoài" mô hình CGE

đã được sử dụng để ước tính chi phí xã hội tuân thủ Nghị định thư Kyoto, trong khi

mô hình một quốc gia, đã được sử dụng để đánh giá hiệu quả của các loại thuế khí

thải và các công cụ chính sách môi trường khác. Mô hình CGE hiện nay là cả một

lĩnh vực cho các chuyên gia và là một phần gần như tiêu chuẩn của hộp công cụ của

các nhà kinh tế quan tâm đến nghiên cứu định hướng chính sách. Một lý do chính

cho việc sử dụng rộng rãi mô hình CGE có thể là cầu nối lý tưởng giữa lý thuyết

kinh tế và nghiên cứu chính sách ứng dụng. Quan điểm "cầu nối", cho thấy rằng mô

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

hình CGE là một cách để sử dụng chứ không phải là thử nghiệm lý thuyết kinh tế.

Trang 37 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Tuy nhiên, các mô hình CGE thiết kế một cách cẩn thận và ước tính có rất nhiều

điều để nói về thực tế thế giới nền kinh tế.

2.2. Giới thiệu

Lý thuyết cân bằng tổng quát là một chính thức hoá của các quan sát đơn

giản nhưng cơ bản của thị trường trong nền kinh tế thực của thế giới phụ thuộc lẫn

nhau. Lý thuyết phân tích cân bằng tổng thể đã cung cấp những hiểu biết quan trọng

về các yếu tố và cơ chế xác định giá tương đối và phân bổ các nguồn lực bên trong

và giữa các nền kinh tế thị trường. Ví dụ, Debreu (1959) thuyết cân bằng tổng quát

đã đạt đến một mức độ rất cao của sự chặt chẽ. Tuy nhiên, hầu hết các khoản đóng

góp cho lý thuyết cân bằng tổng quát đã tập trung vào việc phân bổ hàng cá nhân và

các nguồn lực tư nhân. Trường hợp ngoại lệ là MALER (1974), lấy cảm hứng từ

Ayres và Kneese (1969), mở rộng khuôn khổ cân bằng tổng thể bao gồm các yếu tố

bên ngoài và các nguồn tài nguyên môi trường với đặc điểm hàng hóa công cộng.

Tính toán cân bằng tổng quát (CGE) là một nỗ lực để sử dụng lý thuyết cân

bằng tổng thể như một công cụ hoạt động trong phân tích thực nghiệm theo định

hướng phân bổ nguồn lực và các vấn đề phân phối thu nhập trong nền kinh tế thị

trường. Các mô hình CGE đầu tiên đã được trình bày bởi Johansen (1960), và với

sự phát triển nhanh chóng của các máy tính và phần mềm phù hợp với một số lượng

lớn các mô hình CGE đã được phát triển và được sử dụng để phân tích chính sách.

Các ứng dụng bao gồm các phân tích của cải cách thuế quan trọng, thay đổi chế độ

chính sách thương mại, hội nhập kinh tế quốc tế, các chính sách nông nghiệp và

chính sách năng lượng.Một số mô hình CGE đã được thiết kế để làm sáng tỏ các

vấn đề chính sách khác nhau ở các nước đang phát triển.

Từ đầu những năm 1990 mô hình CGE cũng đã trở thành một công cụ được

sử dụng rộng rãi để phân tích chính sách môi trường và các vấn đề quản lý tài

nguyên thiên nhiên. Mục đích của chương này là để xem xét một nhánh của mô

hình CGE tức là mô hình CGE trong phân tích chính sách và quản lý tài nguyên.

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

Mục đích là để làm sáng tỏ các mô hình phương pháp tiếp cận được thông qua,

Trang 38 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

chính sách và các vấn đề quản lý tài nguyên được xử lý trong các mô hình CGE

"môi trường". Ngoài ra một số vấn đề cụ thể trong mô hình CGE môi trường sẽ

được thảo luận. Một số mô hình cụ thể sẽ được giới thiệu, nhưng chương này chưa

phải là tiếp cận đầy đủ của tất cả các mô hình CGE dành cho quản lý tài nguyên môi

trường và phân tích chính sách.

2.3. Mô hình CGE là gì và mô hình này hữu ích cho những gì?

Không có định nghĩa chính xác của một mô hình CGE, nhưng bất cứ khi nào

sử dụng mô hình này thì đều có một số tính năng cụ thể. Về cơ bản nó là một mô

hình đa ngành, đa lĩnh vực dựa trên dữ liệu thực của một hoặc một số nền kinh tế

quốc gia. Tuy nhiên, trong lý thuyết cân bằng tổng quát thì có liên quan với sự

tương tác của một số lượng lớn các hộ gia đình, cá nhân và các công ty. Hầu hết các

mô hình CGE có được khá tổng hợp. Như vậy, trong một mô hình CGE điển hình là

chỉ có một hoặc có thể là một vài "hộ gia đình", trong khi số lượng các ngành sản

xuất nói chung là rất lớn.

Nói chung, công nghệ này được giả định để trình bày suất không đổi theo

quy mô, và sở thích được giả định là đồng đẳng. Lợi ích và hành vi tối đa hóa lợi

nhuận trên là một phần của hộ gia đình và các công ty thường được giả định, và các

hàm cầu là đồng nhất của cấp số không về giá và đáp ứng luật Walras. Hơn nữa, thị

trường sản phẩm và các yếu tố được cho là cạnh tranh, và tương đối đủ linh hoạt về

giá đối với tất cả các sản phẩm và thị trường. Một sự khác biệt quan trọng so với mô

hình đầu vào-đầu ra (input/output) của Leontief là trong một mô hình CGE điển

hình các hệ số công nghệ rất linh hoạt và được xác định bởi giá cả tương đối.

Các mô hình CGE luôn luôn được chuẩn hoá bởi nền kinh tế thực và do đó

không bao gồm các thị trường tài chính. Đây là một trong những sự khác biệt giữa

các mô hình CGE và mô hình số dựa trên lý thuyết kinh tế vi mô ngày càng được sử

dụng nhiều trong kinh tế vĩ mô. Do đó, trong một mô hình CGE điển hình thì giá là

nội sinh, nhưng không thể xác định giá danh nghĩa và tỷ giá hối đoái danh nghĩa.

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

Điều này có nghĩa rằng các mô hình CGE nói chung là nhằm mục đích làm sáng tỏ

Trang 39 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

phân bổ các nguồn lực cân bằng và sự tăng trưởng tốt hơn so với chu kỳ kinh doanh

hoặc hiện tượng bất cân bằng. Trong các mô hình CGE cụ thể là nhằm mục đích

định lượng các tác động của các chính sách cụ thể về việc phân bổ cân bằng các

nguồn lực và tương đối của giá hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng.

2.3.1. Phân loại các mô hình CGE

Mặc dù có những điểm tương đồng cơ bản, cũng có sự khác biệt đáng kể

giữa các mô hình CGE riêng lẻ, và một số sự khác nhau của các mô hình CGE có

thể phân biệt. Trong khi một số lựa chọn thay thế phân loại có thể được dự kiến, sự

phân biệt giữa các mô hình tĩnh và động có vẻ là phù hợp với một phân loại rộng

các phương pháp tiếp cận mô hình hóa. Tuy nhiên, vẫn có sự mơ hồ đối với ý nghĩa

chính xác trong bối cảnh "linh động" này. Rõ ràng rằng các mô hình trong đó hành

vi thấy trước trên một phần của hộ gia đình và các công ty được công nhận và

chứng khoán quan hệ tích lũy được một cách rõ ràng nên được biểu thị "linh động".

Tuy nhiên, một số mô hình CGE tĩnh được sử dụng cho phân tích nhiều kỳ. Vì vậy,

các giải pháp thu được cho mỗi một số năm liên tiếp, và các giải pháp cho một năm

t riêng lẻ được sử dụng để xác định các tích luỹ vốn và các tài sản khác có liên quan

có sẵn trong năm t + 1. Khi mô hình tĩnh, các đại lý được mặc nhiên giả định có

những kỳ vọng thiển cận, tức là nguồn tài nguyên cơ sở được quyết định giao hoàn

toàn vào điều kiện hiện tại.

Ngoài chiều hướng tĩnh-động, nó rất hữu ích để phân biệt giữa một quốc gia

đơn lẻ, đa quốc gia và các mô hình toàn cầu. Mô hình một quốc gia có xu hướng

được chi tiết hơn về các lĩnh vực và các hộ gia đình nói chung được sử dụng để

phân tích các vấn đề chính sách quốc gia và đưa ra các đề xuất cụ thể. Mặt khác, mô

hình đa quốc gia và toàn cầu có xu hướng ít chi tiết tại khu vực và được thiết kế để

phân tích các đề xuất chính sách đa phương như các thỏa thuận thương mại tự do.

Trong trường hợp của các mô hình CGE môi trường, các mô hình đa quốc gia và

toàn cầu trong hầu hết các trường hợp được thiết kế để phân tích các vấn đề ô nhiễm

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

xuyên biên giới.

Trang 40 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Mỗi một loại mô hình CGE có thể khác nhau theo nhiều cách như khác nhau

về số lượng của các ngành sản xuất, số lượng của các yếu tố chính và đặc điểm kỹ

thuật của quan hệ thương mại quốc tế.

2.3.2. Các mô hình CGE và phân tích chính sách môi trường

Như là một quan sát ban đầu, nó nên được lưu ý rằng tổng quát nó là một

trường hợp cho việc sử dụng một mô hình CGE nếu các biện pháp chính sách được

đề xuất, hoặc thay đổi dự kiến trong điều kiện ngoại sinh khác, có thể sẽ có tác dụng

cân bằng tổng thể. Tuy nhiên, nhìn từ góc độ chính sách thì tất cả các biện pháp liên

quan đến vấn đề tài nguyên môi trường và tự nhiên có thể có chung cân bằng hiệu

ứng. Một số vấn đề về môi trường là do địa phương và các vị trí trọng điểm. Đây là

trường hợp chất lượng không khí và các vấn đề tiếng ồn tại các khu vực đô thị và

các vùng phụ cận với sự hình thành các khu công nghiệp lớn. Các vấn đề môi

trường khác có liên quan đến chất cụ thể, chẳng hạn như CFCs, chỉ được sử dụng

trong một vài quá trình sản xuất công nghiệp để tạo ra các sản phẩm, hoặc tương đối

có thể dễ dàng được thay thế bằng các chất khác. Mặc dù các biện pháp để giải

quyết những vấn đề môi trường có thể khá tốn kém đối với một số công ty và các hộ

gia đình, nhưng nó lại ảnh hưởng đến phần còn lại của nền kinh tế và thường là nhỏ

hoặc gần như không tồn tại.

Tuy nhiên, thực sự có vấn đề lớn về môi trường với một phạm vi địa lý và

kinh tế rộng lớn hơn nhiều, việc kêu gọi các biện pháp với các hiệu ứng có khả năng

khá đáng kể trên việc phân bổ các nguồn lực trong toàn bộ quốc gia, hoặc thậm chí

nền kinh tế toàn cầu. "Mưa axit" có liên quan đến phát thải của lưu huỳnh và nitơ

oxit là một ví dụ. Ví dụ điển hình là "biến đổi khí hậu", có liên quan đến khí thải

carbon dioxide và cái gọi là hiệu ứng nhà kính khác. Trong cả hai trường hợp, có

một liên kết mạnh mẽ giữa việc sử dụng năng lượng và phát thải các chất ô nhiễm.

Hơn nữa, trong cả hai trường hợp việc giảm phát thải là rất quan trọng và nó được

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

coi là cần thiết để bảo vệ môi trường. Không có gì đáng ngạc nhiên, các mô hình

Trang 41 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

CGE được sử dụng rộng rãi để đánh giá các chính sách liên quan đến biến đổi khí

hậu và các vấn đề mưa axit.

Các mô hình CGE tập trung vào vấn đề cơ bản là biến đổi khí hậu và mưa

axit với các ngoại ứng và chính sách nhằm vào các yếu tố ngoại ứng. Tuy nhiên, các

vấn đề về môi trường cũng có thể phản ánh quyền sở hữu được xác định là phản tác

dụng, bị hoạt động thị trường vốn, bảo hiểm hoặc một số loại khác của thất bại thị

trường dẫn đến quản lý yếu kém của các nguồn tài nguyên thiên nhiên và thiệt hại

về môi trường tiện nghi. Vì vậy, trong nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào các nguồn

tài nguyên thiên nhiên như rừng, thủy sản, đất nông nghiệp hoặc đất chăn thả,

những thay đổi trong chế độ quản lý tài nguyên thiên nhiên có thể có tác dụng tới

toàn nền kinh tế. Các mô hình CGE thiết kế thích hợp có thể có thể để làm sáng tỏ

và định lượng những tác động này. Tuy nhiên, các mô hình CGE được thiết kế để

phân tích các loại hình này về các vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên có thể khác

biệt đáng kể trong nhiều khía cạnh từ các mô hình CGE được thiết kế để phân tích

các vấn đề liên quan đến yếu tố yếu tố ngoại ứng. Hai loại mô hình CGE cũng có

khả năng được sử dụng trong các thiết lập khá khác nhau. Vì vậy có hai loại mô

hình CGE riêng biệt đó là “các mô hình CGE về vấn đề ngoại ứng” và “các mô hình

CGE trong quản lý tài nguyên thiên nhiên”. Tuy nhiên, không có câu trả lời chung

cho câu hỏi về mô hình nào của CGE là tốt cho cái gì. Tính hữu ích của một mô

hình CGE thiết kế và thực hiện một cách cẩn thận phụ thuộc vào những gì nó được

dự định và những lựa chọn thay thế.

Một mô hình CGE của nền kinh tế thế giới phức tạp có thể ít hữu ích chỉ vì

nó có thể giúp các nhà phân tích để xác định tác dụng cân bằng tổng thể của các

thay đổi trong điều kiện ngoại sinh mà ban đầu không rõ ràng. Đây là trường hợp

ngay cả khi các thông số quan trọng của mô hình là khá chắc chắn. Hơn nữa, ngay

cả khi không chắc chắn về các giá trị số của các thông số quan trọng làm cho tầm

quan trọng của hiệu quả tính toán của các thay đổi chính sách không chắc chắn, các

nhà phân tích có thể là có thể an toàn kết luận rằng những tác động trong câu hỏi là

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

"nhỏ" hay "lớn". Điều này đặc biệt là trường hợp như khả năng tính toán của máy

Trang 42 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

tính hiện đại đã làm cho nó có thể thực hiện phân tích độ nhạy rất rộng rãi, và do đó

để tìm hiểu cách thức không chắc chắn về giá trị tham số và các khía cạnh cấu trúc

của mô hình ảnh hưởng đến kết quả và kết luận của các phân tích. Đôi khi kết quả

mô hình CGE có thể có sự phản trực giác và trong quá trình giải thích kết quả như

vậy, mô hình thu được những hiểu biết sâu sắc hơn vào sự phụ thuộc lẫn nhau trong

nền kinh tế.

2.4 Lịch sử phát triển của mô hình CGE

Các tài liệu hiện có về mô hình CGE và phân tích kinh tế dựa trên các mô

hình CGE là rất lớn. Nó đã phát triển từ ba nguồn gốc khá khác biệt, mỗi một liên

kết với sự đóng góp của một tác giả cụ thể. Ba tác giả là Leif Johansen, Herbert W.

Scarf và Dale Jorgenson.

2.4.1 Leif Johansen và mô hình MSG

Trong luận án của mình Một nghiên cứu đa ngành của tăng trưởng kinh tế

[Johansen (1960)], nhà kinh tế Leif ohansen Na Uy đã trình bày một mô hình số

nhanh chóng trở thành được biết đến như là "mô hình MSG". Mô hình này thường

được xem như là mô hình CGE đầu tiên, được dự định chủ yếu là một công cụ để

dự báo kinh tế dài hạn và đánh giá chính sách kinh tế. Trong phiên bản gốc đã có 20

ngành sản xuất và một khu vực hộ gia đình tổng hợp. Công chúng tiêu dùng, đầu tư

và xuất khẩu ròng ngoại sinh đã được xác định. Johansen thấy mô hình MSG như là

một phiên bản mở rộng của một mô hình đầu vào-đầu ra. Vì vậy, giữ hệ số đầu vào

cố định cho các đầu vào trung gian, Johansen bổ sung thêm chức năng sản xuất giá

trị gia tăng và các thị trường yếu tố mà giá thị trường lao động là minh bạch và vốn

đã được xác định.

Mặc dù mô hình MSG đã thể hiện rõ ràng lý thuyết cân bằng tổng thể của

Walrasian, đặc biệt là các giả định về việc xác định tiền lương và tỷ lệ lợi nhuận

trên vốn. Như vậy, mặc dù cả hai yếu tố lao động và vốn hoàn toàn dễ bị biến động

trên các lĩnh vực, đã có trạng thái cân bằng khác biệt về tiền lương và tỷ lệ lợi

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

nhuận trên vốn liên ngành. Những sai lệch từ lý thuyết cân bằng tổng thể Walrasian

Trang 43 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

đã được thúc đẩy bởi sự tồn tại của các yếu tố và điều kiện không rõ ràng giải quyết

trong mô hình, nhưng có thể có tác động đến sự phát triển ngành của nền kinh tế.

Trong số các yếu tố và điều kiện được đề cập bởi Johansen là sự khác biệt liên

ngành liên tục đối với các thành phần của lực lượng lao động, điều kiện làm việc,

không chắc chắn và mức độ độc quyền thị trường sản phẩm. Trong những điều kiện

này, một mô hình hoàn toàn dựa trên lý thuyết cân bằng tổng thể Walrasian đã

không được coi là thích hợp. Thay vào đó, mô hình MSG được dự định để có một

xấp xỉ của một mô hình phức tạp nhưng phần lớn không rõ về sự đúng đắn của nó.

Mô hình MSG sớm trở thành một công cụ quan trọng cho kế hoạch phát triển

kinh tế và dự báo dài hạn ở Na Uy, nó đã được mở rộng trong nhiều giai đoạn. Đặc

biệt, trong việc xây dựng nhân tố thay thế và nhu cầu năng lượng đã được hợp nhất,

gần đây phiên bản MSG-EE được thiết kế đặc biệt để phân tích các vấn đề liên

quan đến sử dụng năng lượng và ô nhiễm môi trường. Đó cũng là hình mẫu cho

ORANI, đó là một mô hình CGE xây dựng của nền kinh tế Úc và thường được gọi

là "mô hình Johansen". Các mô hình MSG này cũng có ảnh hưởng đến việc thiết kế

các mô hình CGE của các nước đang phát triển.

2.4.2. Herber Scarf và thuật toán Scarf

Thuật toán nổi tiếng của Herbert Scarf để tính toán cân bằng cân bằng tổng

quát Walrasian [Scarf (1967)] là một điểm khởi đầu cho sự phát triển của mô hình

CGE. Sử dụng thuật toán Scarf, John Shoven và John Whalley đã chứng minh sự

tồn tại của việc thiết kế một khung tính toán cho việc tìm kiếm một điểm cân bằng

chung với các loại thuế. Cùng với tác phẩm đầu tiên trên một mô hình hai khu vực

của Arnold Harberger, lấy cảm hứng từ một loạt các phân tích về thuế và các vấn đề

chính sách thương mại trong khung Walrasian và các mô hình cân bằng tổng thể

của Heckscher-Ohlin.

Một đóng góp trên tinh thần này, nhưng Norman và Haaland (1987) tập

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

trung vào thương mại quốc tế và các vấn đề phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế mở

Trang 44 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

nhỏ. Tài liệu về một cuộc khảo sát đầu tiên được tìm thấy trong các cuốn sách của

Shoven và Whalley (1984), Shoven và Whalley (1992).

Ngược lại với mô hình MSG Johansen, các mô hình phát triển trong truyền

thống Scarf-Shoven-Whalley đã được bắt nguồn sâu xa từ trong lý thuyết cân bằng

tổng thể Walrasian. Một số phạm vi, mục đích của mô hình là "con số trên lý

thuyết". Trong khi Johansen rõ ràng là rất quan tâm đến khả năng của mô hình để

phản ánh điều kiện thế giới thực, các tác giả truyền thống Scarf-Shoven-Whalley đã

nhấn mạnh tính minh bạch và nhất quán với lý thuyết kinh tế cơ bản. Hơn nữa,

trong khi Johansen tập trung vào tăng trưởng kinh tế và thay đổi cơ cấu dài hạn, thì

hầu hết các tác giả truyền thống Scarf-Shoven-Whalley đã có một quan điểm phúc

lợi kinh tế tĩnh và tập trung vào những tác động hiệu quả và phân phối các biện

pháp chính sách kinh tế khác nhau.

2.4.3.Dale W. Jorgenson và mô hình kinh tế lượng cân bằng tổng thể

Dale W. Jorgenson đã có một số đóng góp với mô hình CGE, nhưng độc đáo

nhất trong số này là việc sử dụng hệ thống các phương pháp kinh tế để ước lượng

tham số. Điều này là trái ngược với hầu hết các mô hình CGE khác, nơi mà thông số

chức năng cung cấp và nhu cầu được ước tính với kỹ thuật hiệu chuẩn đơn giản. Sự

phát triển của mô hình cân bằng tổng thể kinh tế có thể đã được thực hiện bằng

những đóng góp đáng kể của Jorgenson (và đồng tác giả) để phân tích sản xuất và

tiện ích , kinh tế và kế toàn quốc gia. Người đầu tiên sử dụng phương pháp tiếp cận

của Jorgenson đối mô hình CGE là Hazilla và Kopp (1990).

Cách tiếp cận của Jorgenson đối với mô hình CGE đã kết hợp tiếp cận truyền

thống của Johansen và Scarf-Shoven-Whalley. Như vậy, trong cách làm của

Johansen, có một tập trung vào tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, trong

khi Johansen chỉ có thể tính toán tỷ lệ thay đổi của các biến số kinh tế trọng điểm tại

một điểm cụ thể trong thời gian, phân tích của Jorgenson được dựa trên một mô

hình hoàn toàn động của nền kinh tế Mỹ. Cũng giống như các mô hình truyền thống

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

Scarf-Shoven-Whalley, các mô hình bền vững của Jorgenson bắt nguồn từ lý thuyết

Trang 45 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

kinh tế tân cổ điển và đã được sử dụng cho phân tích các tác động phúc lợi của các

hình thức khác nhau của thuế. Tuy nhiên, trong khi các mô hình tĩnh truyền thống

Scarf-Shoven-Whalley đã được tập trung vào các tác động tái phân bổ trong khi mô

hình động của Jorgenson đã được tập trung vào các hiệu ứng tăng trưởng của các

chính sách thuế khác nhau.

Không cần phải tranh luận rằng nếu không có sự phát triển mạnh mẽ của

máy tính và phần mềm phù hợp thì có thể sẽ không có sự phát triển của mô hình

CGE. Trong những ngày đầu phát triển của mô hình CGE, thiếu máy tính đủ đặt

những hạn chế nghiêm trọng vào kích cỡ và đặc điểm kỹ thuật của các mô hình

CGE, và thiếu phần mềm thân thiện với người sử dụng thực hiện mô hình CGE

trong một lĩnh vực cho các chuyên gia trong các phương pháp số. Các mã máy tính

đã được mô hình hoá cụ thể và có thể không dễ dàng được sử dụng bởi các nhà lập

mô hình khác. Hơn nữa, phân tích độ nhạy để đánh giá sự không chắc chắn về giá

trị tham số sẽ mất rất nhiều thời gian.

Một sự thay đổi lớn đi kèm với sự ra đời của GAMS [hệ thống mô hình hóa

đại số, Brooke, Kendrick và Meeraus (1988)], cho phép không có chuyên môn trong

các phương pháp số để thiết kế và giải quyết các mô hình của Walrasian. Máy tính

với cấu hình mạnh có thể giải quyết các mô hình nhiều ngành hơn, và thực hiện các

bước đầu tiên hướng tới mẫu CGE động đồng thời nó cũng mở rộng phân tích độ

nhạy khả thi. Kết quả là, việc sử dụng các mô hình CGE mở rộng nhanh chóng. Gần

đây phát triển của GAMS/PATH [Ferris và Munson (2000)] đã làm cho nó dễ dàng

giải quyết các mô hình động với một số lượng tương đối lớn của các ngành, chi phí

thấp về thời gian và tiền bạc. Điều này có nghĩa rằng mô hình CGE dần dần đã trở

thành một công cụ có thể truy cập cho kinh tế ứng dụng, và "giải pháp thời gian"

không còn là một vấn đề đối với các nhà lập mô hình CGE. Thay vào đó, nó là một

tính năng điển hình của nghiên cứu CGE hiện đại mà phân tích độ nhạy rất phong

phú, trong đó mô hình được giải quyết cho hàng ngàn kết hợp lựa chọn ngẫu nhiên

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

của các giá trị tại các tham số không chắc chắn được thực hiện.

Trang 46 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

2.4.4. Mô hình CGE môi trường

Trong kết nối với Dự án Chính sách năng lượng vào đầu năm 1970, tóm tắt

trong khối lượng Một thời gian để chọn [Ford Foundation (1974)], Hudson và

Jorgenson đã phát triển một mô hình CGE kinh tế lượng để phân tích chính sách

năng lượng. Hudson và Jorgenson là người đầu tiên có một số lượng lớn các mô

hình được thiết kế để phân tích các vấn đề chính sách năng lượng trong sự trỗi dậy

của sự gia tăng giá dầu năm 1973 và 1979. Tuy nhiên, hầu hết các mô hình này là

mô hình khu vực năng lượng, trong đó các phần còn lại của nền kinh tế đã được đại

diện bởi một tỷ lệ được xác định ngoại sinh của sự tăng trưởng nhu cầu năng lượng.

Một ngoại lệ nổi tiếng gọi là mô hình Alan Manne ETA-MACRO trong đó một chi

tiết công nghệ năng lượng mô hình đánh giá đã được liên kết với một mô hình khu

vực tân cổ điển về phần còn lại của nền kinh tế.

Tuy nhiên, vào đầu những năm 1990 tập trung chuyển từ các vấn đề liên

quan tới việc cung cấp năng lượng với các tác động bên ngoài liên kết, với việc sử

dụng năng lượng, nhiên liệu hóa thạch đặc biệt. Người ta lo ngại là mưa axit, nhưng

mối quan tâm chính là biến đổi khí hậu do khí thải carbon dioxide. Nhiều tác giả

của các mô hình năng lượng có thể dễ dàng thiết kế mô hình để phân tích đánh thuế

carbon và các loại khác của chính sách khí hậu. Ngoài ra, một tập mới của các mô

hình CGE, được thiết kế, phát triển để phân tích chính sách khí hậu. Một trong

những mô hình nổi tiếng nhất là mô hình XANH phát triển tại Ban thư ký OECD để

phân tích các vấn đề chính sách khí hậu ở quy mô toàn cầu.

Đồng thời, một số mô hình phân tích quản lý tài nguyên và chính sách môi

trường ở những quốc gia khác nhau đã được phát triển. Như vậy, Hazilla và Kopp

(1990) ước tính chi phí xã hội của các quy định về chất lượng môi trường bằng cách

sử dụng một mô hình CGE của nền kinh tế Mỹ. Bergman (1990) ước tính chi phí xã

hội loại bỏ năng lượng hạt nhân trong sự hiện diện của SO2, NOx và hạn chế phát

thải CO2, bằng cách sử dụng một mô hình CGE của nền kinh tế Thụy Điển. Trong

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

các phần sau, sẽ thảo luận về các phương pháp tiếp cận được thông qua, những vấn

Trang 47 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

đề được giải quyết, và một số những kết luận đã được rút ra trong mô hình CGE

môi trường.

2.5. Một vài kết quả tổng quát trong mô hình CGE môi trường

Hầu hết các mô hình CGE môi trường được thiết kế để làm sáng tỏ nhiều

khía cạnh khác nhau của các chính sách về biến đổi khí hậu, mưa axit. Trên diện

rộng, biến đổi khí hậu và các vấn đề mưa axit được gây ra bởi khí thải từ quá trình

đốt cháy nhiên liệu hóa thạch. Trong cả hai trường hợp, những thiệt hại về môi

trường phụ thuộc vào các sự tích lũy chứ không phải là dòng chảy hiện tại của các

chất gây ô nhiễm. Hơn nữa, các sự tích luỹ của các chất ô nhiễm trong câu hỏi tích

lũy chậm để có một khoảng thời gian đáng kể, đặc biệt, trong trường hợp của biến

đổi khí hậu, giữa phát thải các chất ô nhiễm và tác động lên môi trường. Những

quan sát này có nhiều ý nghĩa cho việc thiết kế các mô hình CGE dành cho chính

sách.

Rõ ràng ngụ ý là mô hình cần phải có một phương pháp xây dựng việc cung

cấp và nhu cầu năng lượng. Đặc biệt, nó cần phải có một phương pháp xây dựng

các khả năng để thay thế nhiên liệu hoá thạch bằng các hình thức khác của năng

lượng, hoặc các yếu tố khác của sản xuất. Nó cũng cần phải có một phương pháp

điều trị rõ ràng về mối quan hệ giữa việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch và phát thải

các chất ô nhiễm khác nhau.

Một ý nghĩa khác về bản chất của các vấn đề môi trường trong câu hỏi là mô

hình nên tích lũy nguồn cung trong thời gian rất dài của thời gian vào bảng kê khai.

Trong khi dòng thời gian của một hoặc hai thập kỷ qua trong phân tích mô hình

điển hình CGE của các chính sách thuế, thương mại, trong tương lai và dòng thời

gian có liên quan trong phân tích chính sách biến đổi khí hậu trong tương lai là vài

thập kỷ hoặc thậm chí là một hoặc hai thế kỷ. Vấn đề mấu chốt xây dựng mô hình

với dòng thời gian xa là tác động tiềm năng khá đáng kể của công nghệ mới.

Một ý nghĩa thứ ba cho các mô hình CGE có liên quan đến thực tế là những

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

lợi ích của các biện pháp chính sách môi trường "phi kinh tế", nghĩa là họ đi theo

Trang 48 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

hình thức chất lượng môi trường tốt hơn. Vì vậy, một mô hình CGE dành cho phân

tích chi phí - lợi ích của các chính sách môi trường cần phải có một "mô-đun môi

trường", tức là một mô-đun trong đó những lợi ích giảm ô nhiễm môi trường được

lượng hóa và chuyển đổi thành một biện pháp tiền tệ các lợi ích môi trường. Các

mô-đun môi trường cũng có thể bao gồm cơ chế "phản hồi", tức là mô hình thay thế

một tác động cải thiện môi trường (hoặc suy giảm) trên yếu tố năng suất và tiện ích

gia đình của các dịch vụ về môi trường.

Rõ ràng là mô hình CGE môi trường là một công việc đòi hỏi việc xây dựng

mô hình là ràng buộc gặp phải một số vấn đề phức tạp về mô hình hóa . Và hiển

nhiên rằng các mô hình CGE môi trường nên là các mô hình động. Mục đích của

phần này là thảo luận về một số phương pháp tiếp cận mô hình phổ biến ở lĩnh vực

cụ thể của mô hình CGE.

2.5.1. Nhân tố sản xuất

Các mô hình CGE nhằm làm sáng tỏ chính sách biến đổi khí hậu, mưa axit

cần phải có một phương pháp xử lý phức tạp về nhu cầu đối với nhiên liệu hóa

thạch. Điều này không những có ý nghĩa nhất định trong kỹ thuật sản xuất mà còn

cho sự phân chia khu vực sản xuất của mô hình. Đặc biệt, có trường hợp để xử lý tại

các khu vực nhiều nhiên liệu hóa thạch là các lĩnh vực sản xuất riêng biệt. Vì lý do

này, một mô hình CGE điển hình cho tác động “ngoại ứng” có ngành sản xuất riêng

cho điện, giao thông, bột giấy, kim loại và giấy, hóa chất, trong khi phần còn lại của

nền kinh tế có thể được tổng hợp thành một vài lĩnh vực sản xuất. Khi được kết hợp

một mô-đun xây dựng môi trường, tuy nhiên, các lĩnh vực bị ảnh hưởng bởi biến

đổi khí hậu (ví dụ, nông nghiệp) hoặc mưa axit (ví dụ, lâm nghiệp) được voi như

các lĩnh vực sản xuất riêng biệt.

Tuy nhiên, ngành sản xuất dùng nhiều nhiên liệu hóa thạch có thể bao gồm

các phân ngành rất khác nhau từ quan điểm này. Có thể thấy rõ ràng là trường hợp

cho ngành sản xuất điện có thể được sản xuất bởi công nghệ dung nhiều nhiên liệu

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

hóa thạch như than đá, dầu, và các công nghệ độc lập với việc sử dụng nhiên liệu

Trang 49 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

hóa thạch như thủy điện và điện hạt nhân. Vì vậy, một phần của ngành điện đáp ứng

với các biện pháp chính sách khí hậu là để thay đổi kết hợp các công nghệ khác

nhau được sử dụng để sản xuất điện. Để nắm bắt những khả năng thay thế một cách

thực tế, những hạn chế công nghệ của ngành điện, hoặc năng lượng toàn ngành, đôi

khi được đại diện bởi một mô hình phụ riêng biệt hơn là một chức năng tiêu chuẩn

sản xuất tân cổ điển.

Nguồn gốc chung của mô hình ngành năng lượng là các mô hình hoạt động

tuyến tính được sử dụng cho việc lập kế hoạch và đánh giá công nghệ trong lĩnh vực

năng lượng. Một ví dụ xây dựng một mô hình truyền thống toàn cầu là Nordhaus

(1974).Các tính năng chính của các mô hình này, thường được gọi là mô hình "từ

dưới lên", là công nghệ riêng để chuyển đổi năng lượng, được phân biệt khai thác

và vận chuyển. Trong số những thứ khác, phương pháp này mô hình hóa làm cho nó

dễ dàng để kết hợp các công nghệ mới, như năng lượng gió, với tỷ lệ đầu vào yếu tố

hoàn toàn khác với công nghệ hiện có. Mặt khác, mô hình tuyến tính ngành năng

lượng đã được tích hợp với mô hình "tân cổ điển" của các ngành phi năng lượng.

Một ví dụ của một tích hợp mô hình "từ dưới lên" ngành năng lượng và mô hình

"phần còn lại của nền kinh tế" tân cổ điển là mô hình của Alan Manne

ETAMACRO đã đề cập ở trên. Các ví dụ khác là Jorgenson (1982) và Lundgren

(1985).

Lĩnh vực giao thông vận tải cũng tương tự như ngành điện với ý nghĩa rằng

có một số phương thức vận chuyển khác nhau biểu hiện tính chất rất khác nhau liên

quan đến việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch trên một đơn vị sản lượng. Các phản

ứng dài hạn với các biện pháp chính sách khí hậu ảnh hưởng đến lĩnh vực giao

thông vận tải có khả năng điều chỉnh và thay thế bao gồm cả việc cung và cầu đối

với loại nhiên liệu này. Tuy nhiên, mô hình của lĩnh vực giao thông vận tải thường

không được xây dựng trong các mô hình CGE dành cho phân tích chính sách môi

trường. Các phương thức vận chuyển khác nhau thường phân biệt không rõ ràng và

các doanh nghiệp, hộ gia đình thông thường không có các dịch vụ giao thông vận

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

tải thông thường.

Trang 50 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Hơn nữa, nhu cầu cho các dịch vụ vận tải rõ ràng phản ánh vị trí của hoạt

động sản xuất và tiêu dùng, hầu hết các mô hình CGE không có không gian một

chiều.Và trong khi sự lựa chọn giữa các chế độ khác nhau của giao thông vận tải

đến một mức độ lớn phụ thuộc vào lượng thời gian mà người dùng có để chi tiêu,

thời gian thường không được xử lý như là một yếu tố khan hiếm trong các mô hình

CGE. Ngoài ra, khả năng cạnh tranh tương đối của các chế độ khác nhau của giao

thông vận tải đến một mức độ lớn phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng giao thông vận tải,

tức là đường bộ, đường sắt, sân bay, ... Nhìn chung, điều này có nghĩa rằng các mô

hình CGE phát triển cho đến nay có rất ít để nói về nhu cầu và thay thế giữa các

phương thức vận chuyển khác nhau. Để kê khai cho các cơ hội thay thế có liên

quan, một số loại phương pháp tiếp cận "từ dưới lên" có thể là cần thiết.

2.5.2. Hàm sản xuất

Các chức năng sản xuất ngành về cơ bản xác định khả năng thay thế giữa các

yếu tố đầu vào được xác định rõ ràng. Trong các mô hình CGE tập trung vào các

chính sách môi trường liên quan đến biến đổi khí hậu, mưa axit, điều quan trọng là

để phân biệt không chỉ giữa vốn, lao động, năng lượng đầu vào trung gian và năng

lượng, mà còn giữa các năng lượng hóa thạch và năng lượng phi hóa thạch. Thường

thì nó cũng là thuận tiện để phân biệt giữa nhiên liệu và điện. Do đó, chức năng sản

xuất của một ngành j đại diện ngành sản xuất trong một mô hình CGE có thể được

viết là:

Xj = fj(Kj, Lj, Mj, Fj, Ej) (1)

Trong đó X: là tổng sản lượng, K: vốn, L: lao động, M: phi năng lượng đầu vào

trung gian, F: nhiên liệu và E: điện. Trong hầu hết các trường hợp F là tổng hợp của

các nhiên liệu hóa thạch khác nhau. Sau đây phi năng lượng đầu vào trung gian

được coi là "vật liệu".

Trong một số mô hình CGE, hàm sản xuất fj, hoặc hàm chi phí kép của nó

được giả định là linh hoạt (translog hoặc tổng quát Leontief) và các tham số có thể

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

được ước lượng. Việc sử dụng các dạng hàm linh hoạt là một cách để phá vỡ các giả

Trang 51 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

định mạnh mẽ về độ co giãn thay thế giữa các cặp yếu tố đầu vào khác nhau trong

các hàm sản xuất. Những dạng hàm này được phát triển để đối phó với khả năng

thay thế năng lượng và các yếu tố sản xuất khác trong mô hình cân bằng tổng quát

(Jorgenson (1998a)). Tuy nhiên việc thiếu dữ liệu thường là trở ngại của việc ước

lượng các hàm chi phí ngành. Thay vào đó, độ co giãn thay thế giữa các đầu vào

khác nhau thường được "ước tính bằng suy đoán và lập luận". Điều này có nghĩa là

cả hai cấu trúc lồng nhau của các hàm sản xuất và các giá trị số được được chấp

nhận đều dựa trên các tài liệu khảo sát từ các nghiên cứu kinh tế có liên quan.

Như vậy, dựa trên các thông tin sẵn có về độ co giãn thay thế, kỹ thuật trong

hầu hết các mô hình CGE được mô tả bởi một số loại cấu trúc hàm sản xuất lồng

nhau, trong đó hàm CES (constant elasticity of substitution – độ co giãn thay thế

không đổi), hàm Cobb-Douglas và các hàm sản xuất Leontief được kết hợp.Các tài

liệu hiện có về các nghiên cứu kinh tế về sản xuất không dẫn đến kết luận rõ ràng về

cấu trúc lồng nhau thích hợp nhất. Tuy nhiên, trong hầu hết các mô hình nhiên liệu

và điện, tức là F và E trong phương trình trên, được kết hợp trong một hàm CES với

độ co giãn thay thế tương đối lớn. Đầu vào "nhiên liệu" thường được định nghĩa

như là một tổ hợp-CES của các nhiên liệu hóa thạch và phi hóa thạch khác nhau. Độ

co giãn thay thế giữa các loại nhiên liệu khác nhau thường là tương đối cao.

Trong trường hợp vốn và năng lượng, bằng chứng kinh tế là mâu thuẫn nhau.

Một số nghiên cứu chỉ ra rằng vốn và năng lượng thay thế ở mức độ liên quan của

tổ hợp, trong khi những nghiên cứu khác cho rằng vốn và năng lượng bổ sung cho

nhau. Tuy nhiên, hầu hết các mô hình CGE giả định rằng vốn và năng lượng thay

thế, mặc dù độ co giãn thay thế giữa vốn và năng lượng nói chung được xem là khá

thấp. Cấu trúc lồng nhau có thể khác nhau giữa các mô hình khác nhau, nhưng cấu

trúc của hàm sản xuất ngành (2) có thể được tìm thấy trong các mô hình CGE có

mục đích cho phân tích chính sách đối phó biến đổi khí hậu hoặc mưa axit:

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

Xj = fj(Lj, Mj, Qj(Kj, Hj( Fj (Fj1, ..., Fjn), Ej))) (2)

Trang 52 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Vì vậy, nhiên liệu (F), mà là một tổ hợp của n loại nhiên liệu hóa thạch và

phi hóa thạch khác nhau và điện (E) được kết hợp trong một tổ hợp CES được định

nghĩa là một hàng hóa năng lượng tổng hợp (H). Các đầu vào năng lượng tổng hợp

được kết hợp với vốn trong một tổ hợp CES năng lượng-vốn. Sau đó, tổ hợp đầu

vào năng lượng-vốn Q được kết hợp với lao động (L) và vật liệu (M). Tuy nhiên,

trong một số mô hình, vốn và lao động được kết hợp chứ không phải là vốn và năng

lượng.

2.5.3. Xả thải và giảm xả thải

Nhìn chung, lượng khí thải của chất gây ô nhiễm trên một đơn vị sản lượng

có thể được giảm bớt nếu đầu vào của một hoặc một số các yếu tố đầu vào khác

tăng lên. Vì vậy, khả năng để phát thải các chất ô nhiễm vào môi trường có thể được

xem như là một loại đầu vào trong quá trình sản xuất, và nó có thể dung để ước tính

độ co giãn thay thế giữa khí thải vào môi trường và các yếu tố đầu vào khác. Ước

tính của các khả năng thay thế rõ ràng đòi hỏi rằng các yếu tố đầu vào và phát thải

các chất ô nhiễm có thể đo được một cách thích hợp. Tuy nhiên, phát thải các chất ô

nhiễm như lưu huỳnh và các oxit nitơ và carbon dioxide thường được đo trực tiếp,

và trong nhiều trường hợp thì việc đo lường trực tiếp rất khó khăn và tốn kém. Thay

vào đó, lượng khí thải được ước tính trên giả định rằng chúng là tỷ lệ thuận với việc

sử dụng các loại khác nhau của nhiên liệu hóa thạch.

Giả định này ngụ ý rằng giảm phát thải có thể mang lại được chỉ bằng cách

cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch hoặc bằng cách thay đổi trong thành

phần tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch. Trong thực tế, các nhiên liệu thay thế có thể dẫn

đến giảm phát thải khá đáng kể. Ví dụ, quá trình đốt cháy khí tự nhiên thì việc làm

tăng phát thải ít khí carbon dioxide trên một đơn vị năng lượng hơn than. Vì vậy,

thay thế khí đốt tự nhiên cho than trong khi các yếu tố khác không thay đổi sẽ làm

giảm lượng khí thải carbon dioxide ở các cấp độ cho đầu ra.

Tuy nhiên, lượng khí thải của các oxit lưu huỳnh và nitơ có thể được giảm

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

không chỉ bằng cách cắt giảm sản lượng và nhiên liệu chuyển đổi. Ngoài ra còn có

Trang 53 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

khả năng xử lý chất thải trực tiếp. Để nắm bắt các biện pháp xử lý chất thải, một số

mô hình CGE môi trường kết hợp các chức năng chi phí xử lý chất thải, thường

được ước tính trên cơ sở chung chứ không phải là các dữ liệu kỹ thuật tại khu vực

cụ thể. Trong mô hình CGE đại diện, các hoạt động xử lý chất thải được giả định là

phụ thuộc vào các biện pháp khuyến khích kinh tế để xử lý chất thải đó diễn ra bất

cứ khi nào chi phí cận biên giảm thiểu nhỏ hơn hoặc bằng chi phí phát thải biên cho

các công ty, hoặc hộ gia đình. Chi phí cận biên của khí thải, đến lượt nó, được xác

định bằng phí phát thải hoặc do giá giấy phép phát thải. Từ một quan điểm thể chế

người ta cho rằng các công ty chuyên cung cấp dịch vụ xử lý chất thải cho các

ngành công nghiệp có nghĩa vụ thực hiện theo quy định với những hạn chế phát

thải.

2.5.4. Thay đổi công nghệ

Trong ngắn hạn và trung hạn, thay thế giữa đầu vào là một cơ chế quan trọng

trong việc điều chỉnh các biện pháp chính sách môi trường khác nhau. Đây là lý do

tại sao tính đàn hồi của các thông số thay thế các chức năng sản xuất của ngành là

rất quan trọng trong các mô hình CGE dành cho phân tích chính sách môi trường.

Tuy nhiên, như đã đề cập ở trên, dòng thời gian trong phân tích chính sách môi

trường thường kéo dài nhiều thập kỷ hoặc thậm chí một thế kỷ hoặc hai trong tương

lai. Vì vậy, việc phát triển và thực hiện các công nghệ mới có thể ảnh hưởng đến

lượng khí thải và các tác động khác đối với môi trường nhiều hơn thay thế giữa các

công nghệ đang tồn tại. Kỳ vọng đối với giá cả trong tương lai tương, thuế và các

quy định rõ ràng có ảnh hưởng đến tốc độ và hướng phát triển công nghệ

Các liên kết giữa các điều kiện trong quá khứ và hiện tại, sự hình thành của

những kỳ vọng về tương lai và sự phát triển, thực hiện các công nghệ mới chưa

được hiểu rõ. Nordhaus (1997) thảo luận gây ra sự thay đổi kỹ thuật trong bối cảnh

của thời điểm tối ưu của các biện pháp xử lý chất thải. Goulder và Schneider (1999)

giới thiệu một thị trường cho các dịch vụ R&D trong một mô hình CGE. Khi các

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

dịch vụ R&D có thể được sử dụng như là một thay thế cho các yếu tố khác của sản

Trang 54 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

xuất, điều này có nghĩa là thay đổi công nghệ có hiệu lực trở thành một quá trình

nội sinh.

Tuy nhiên, trong hầu hết các mô hình CGE thay đổi công nghệ là một yếu tố

ngoại sinh làm cho tổng năng suất nhân tố chức năng ngày càng tăng theo thời gian.

Trong các mô hình CGE dành cho năng lượng hoặc phân tích chính sách môi

trường là khá phổ biến để kết hợp các giả định cụ thể về “hiệu quả cải tiến năng

lượng tự sinh” (autonomous energy efficiency improvements - AEEI). Nhân tố

AEEI được giả định là xác định ngoại sinh và để phản ánh tất cả các yếu tố, ngoại

trừ giá hiện tại gây ra thay thế, làm cho đầu vào của năng lượng trong một ngành

sản xuất nhất định phát triển chậm hơn so với sản lượng của ngành đó. Giá trị số

của các yếu tố AEEI thường được giả định là trong khoảng 0-2% mỗi năm.

Một yếu tố AEEI ở cấp độ của một phần trăm mỗi năm hoặc nhiều hơn có

tác động rất đáng kể về sử dụng năng lượng, và kéo theo đó là lượng khí thải ở một

góc độ thời gian 50-100 năm. Vì vậy, các giả định về các giá trị số của AEEI trong

các lĩnh vực quan trọng của sản xuất có thể có một tác động rất đáng kể vào kết quả

của việc thực hiện mô hình hóa toàn bộ. Khi mô hình CGE là nghĩa vụ phải làm

sáng tỏ tác động của thay đổi giá cả tương đối về phân bổ nguồn lực trong nền kinh

tế, tất nhiên hơi đáng lo ngại bị ép buộc để xử lý thay đổi công nghệ như là một yếu

tố ngoại sinh. Thậm chí còn đáng lo ngại hơn là các giả định về các yếu tố tích cực

AEEI dường như để yên tâm một chút cho sự không chắc chắn vào các căn cứ thực

nghiệm. Vì vậy Hogan và Jorgenson (1991) cho thấy không có bằng chứng rõ ràng

về việc tăng hiệu quả do việc sử dụng năng lượng tự dùng nếu giá ảnh hưởng thay

thế được đưa vào báo cáo.

Trong các mô hình CGE môi trường với một mô tả "từ dưới lên" của công

nghệ ngành năng lượng là khá phổ biến để kết hợp một công nghệ "back-stop" trở

nên sẵn có đối với một số khoảng thời gian trong tương lai. Công nghệ “back-stop”

thường dựa trên các nguồn tài nguyên không bị cạn kiệt. Kỳ công nghệ back-stop là

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

ngoại sinh được xác định, cho dù công nghệ back-stop được sử dụng tại kỳ đó, tại

Trang 55 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

một số kỳ sau đó hoặc không phải ở tất cả các nội sinh được xác định trong mô

hình.

2.5.5. Phúc lợi từ môi trường

Một cách sử dụng một mô hình CGE môi trường là tập trung vào chi phí của

các biện pháp chính sách môi trường cụ thể (chẳng hạn như một lệnh cấm về việc

sử dụng năng lượng hạt nhân), hoặc trên chi phí của việc đạt được một mục tiêu

chính sách môi trường cụ thể (chẳng hạn như giảm tổng lượng lưu huỳnh phát thải

30%). Tuy nhiên, nếu mô hình được sử dụng để đánh giá các chính sách, cần có khả

năng định lượng cả các chi phí và lợi ích của các chính sách trong câu hỏi. Điều này

có nghĩa rằng các mô hình CGE cần phải có một "mô-đun môi trường", trong đó

những lợi ích do giảm thiểu ô nhiễm môi trường được lượng hóa và thể hiện bằng

đơn vị tiền tệ.Từ một quan điểm hoàn toàn lý thuyết, sự phát triển của một mô-đun

môi trường như vậy là khá đơn giản. Trong thực tế, việc thiếu các dữ liệu có liên

quan và đáng tin cậy thì đó là một nhiệm vụ gần như không thể.

Những gì cần thiết để xây dựng một "hàm lợi ích" có thể được chia thành hai

bộ của các mối quan hệ chức năng. Đầu tiên là một tập hợp các chức năng thiệt hại

vật chất chuyển đổi khí thải và tác động môi trường khác của sản xuất và tiêu dùng

vào các biện pháp thiệt hại về môi trường vật lý (trong trường hợp lượng khí thải

tăng lên, vv) hoặc cải tiến (trong trường hợp giảm lượng khí thải, vv). Việc ước

lượng của các hàm như vậy rõ ràng nằm ngoài lĩnh vực kinh tế, và nó có vẻ không

là một mối quan tâm chính cho các nhà khoa học tự nhiên. Thứ hai, tập hợp các

hàm xác định giá trị trong các đơn vị tiền tệ, những thay đổi trong các đặc điểm vật

lý của môi trường. Với quan điểm kinh tế, những thay đổi này có thể đối lập nhau,

nhưng không loại trừ lẫn nhau về hình thức.

Một là những thay đổi vật lý trong môi trường ảnh hưởng đến việc cung cấp

dịch vụ môi trường được trực tiếp "tiêu thụ" bởi các hộ gia đình. Trong điều kiện

của một mô hình CGE, điều này có nghĩa là thay đổi chất lượng môi trường ảnh

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

hưởng trực tiếp đến phúc lợi thông qua các hàm lợi ích của các hộ gia đình.Ví dụ rõ

Trang 56 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

ràng các dịch vụ đó là làm sạch không khí và nước. Trong những trường hợp này và

hầu hết các dịch vụ môi trường trong câu hỏi có thể được mô tả như là hàng hóa

công cộng. Vì vậy, các giá trị có liên quan không thể được xác định trên cơ sở giá

thị chi trả (WTP) cho các dịch vụ môi trường trong câu hỏi.

Các lựa chọn thay thế khác là những thay đổi trong các đặc tính vật lý của

môi trường chỉ ảnh hưởng đến năng suất trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa "thông

thường" và dịch vụ được giao dịch trên thị trường thường xuyên. Trong điều kiện

của một mô hình CGE, điều này có nghĩa là thay đổi chất lượng môi trường ảnh

hưởng đến phúc lợi gián tiếp thông qua các chi phí sản xuất hàng hóa và dịch vụ

thông thường. Tác động của các thiệt hại về môi trường vào chi phí của hàng hoá và

dịch vụ thông thường là một ví dụ về những gì được gọi là "tác động phản hồi".

Một ví dụ về tác động phản hồi là việc giảm nhân tố năng suất trong lâm nghiệp, đó

có thể là kết quả của sự lắng đọng axit gây ra bởi khí thải của lưu huỳnh. Trong

trường hợp này, chi phí thiệt hại môi trường có thể được ước tính trên cơ sở giá thị

trường thông thường cho các sản phẩm rừng.

Nhiều mô hình CGE môi trường thiếu một mô-đun để tính lợi ích môi

trường, hoặc có một mô-đun môi trường dựa trên dữ liệu không vững và/hoặc giả

định rất táo bạo. Về cơ bản hai phương pháp tiếp cận đã được thông qua. Một là tập

trung vào tác động phản hồi. Ví dụ mô hình khí hậu tiên tiến được sử dụng để ước

tính hiệu quả thông tin phản hồi lượng khí thải của gas .Các mô hình CGE của việc

gây hiệu ứng nhà kính với hiệu ứng phản hồi rõ ràng. Một cách khác là để thừa

nhận rằng chính trị xác định mục tiêu môi trường, hoặc thoả thuận quốc tế về cắt

giảm khí thải, đại diện cho một hiệu quả thương mại nổi bật giữa giá và lợi ích liên

quan. Với giả định này, các thông số của một chức năng lợi ích môi trường có thể

được xác định. Chức năng lợi ích sau đó có thể được sử dụng để đánh giá các đề

xuất chính sách khác. Một ví dụ của phương pháp này là tác giả Whalley và Wigle

(1992).

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

2.5.6. Thương mại quốc tế trong các mô hình CGE

Trang 57 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Các đặc điểm kỹ thuật của quan hệ thương mại quốc tế là một khía cạnh

quan trọng của tất cả các mô hình CGE của một nền kinh tế mở, nhưng nó đặc biệt

quan trọng trong các mô hình CGE môi trường. Lý do chính của việc này là di

chuyển các hoạt động kinh tế quốc tế là một phản ứng tiềm năng then chốt để có các

biện pháp chính sách môi trường đơn phương. Nó vượt ngoài phạm vi của chương

này để thảo luận về các vấn đề đặc điểm kỹ thuật chi tiết, nhưng một vài từ để nói

về vấn đề thương mại quốc tế được xử lý trong các mô hình CGE của nền kinh tế

mở.

Điểm tự nhiên sau đó đã được Heckscher-Ohlin mô hình hoá một nền kinh tế

mở nhỏ, trong đó các công nghệ hiện lợi nhuận cố định theo quy mô, và các nhà sản

xuất trong nước là giá thực thi trên thị trường quốc tế đối với hàng hóa có thể giao

dịch. Tuy nhiên, với n hàng hóa và m các yếu tố và n > m, mức sản lượng cân bằng

trong mô hình là tích cực ở hầu hết m lĩnh vực. Hơn nữa, một thay đổi nhỏ ở một

mức giá thị trường thế giới, hoặc một tỷ lệ thuế trong nước, có thể làm giảm mức

sản lượng cân bằng trong một khu vực nhất định từ một giá trị tích cực tương đối

lớn về không, hoặc từ số không đến một giá trị tích cực tương đối lớn. Như hầu hết

các mô hình CGE có số lĩnh vực nhiều hơn các yếu tố, tính năng này của các mô

hình trong truyền thống Heckscher-Ohlin có xu hướng cho các hình dạng khá cực

đoan và không thực tế chuyên môn. Vượt qua vấn đề chuyên môn hoá cái gọi là đã

thu hút được nhiều sự chú ý trong các tài liệu lập mô hình CGE, và một số "giải

pháp" đã được đề xuất.

Cách tiếp cận được sử dụng rộng rãi nhất là áp dụng "giả thiết Armington"

[Armington (1969)], mà ngụ ý rằng hàng hoá có phân loại thống kê tương tự, nhưng

có nguồn gốc từ các quốc gia khác nhau đang được coi là thay thế không hoàn hảo.

Việc áp dụng các ý tưởng này trong các mô hình CGE chẳng khác gì việc xem hàng

hoá tiêu thụ nội địa như tổ hợp CES của hàng hóa sản xuất trong nước và nhập khẩu

với cùng một phân loại thống kê. Kết quả là, nhập khẩu của một loại hàng hóa phụ

thuộc vào mối quan hệ giữa giá cả của hàng hoá nhập khẩu và sản xuất trong nước

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

của các loại đó. Hơn nữa, nếu giả định tương tự được áp dụng trên phần còn lại của

Trang 58 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

thế giới, các nhà sản xuất của nền kinh tế mở nhỏ sẽ phải đối mặt với các hàm cầu

xuất khẩu phụ thuộc giá tương đối, và các điều khoản của thương mại sẽ phụ thuộc

vào khối lượng xuất khẩu. Điều này có nghĩa là các thuộc tính của các mô hình

CGE dựa trên giả thiết Armington có thể khác đáng kể với các thuộc tính của các

mô hình dựa trên giả thiết Heckscher-Ohlin tiêu chuẩn.

Một cách tiếp cận áp dụng rộng rãi cho vấn đề "chuyên môn hoá" trong các

mô hình CGE là giữ lại các giả định về các điều khoản ngoại sinh được đưa ra

thương mại, trong khi quan hệ về giá lại phụ thuộc vào các hàm cung xuất khẩu

được thêm vào. Các hàm này thường có nguồn gốc từ các hàm có độ co giãn chuyển

đổi không thay đổi (constant elasticity of transformation- CET) xác định sản lượng

của một ngành nhất định như là một tổ hợp tối đa hóa doanh thu hàng hoá cho thị

trường trong nước và hàng hóa cho thị trường nước ngoài. Điều này có nghĩa là nếu

giá hàng hoá cho thị trường nước ngoài tăng, các thành phần của nguồn cung trong

nước được chuyển dịch theo hướng nhiều hàng hóa hơn cho thị trường nước ngoài

và ít hơn cho thị trường trong nước. Mức độ của các phản ứng với những thay đổi

về giá tương đối phụ thuộc vào độ co giãn chuyển đổi giữa hàng hóa cho hai loại thị

trường.

Cả hai giả thiết Armington và cách tiếp cận hàm CET cản trở các mô hình

chuyên ngành trong các mô hình CGE với hàng hóa có thể giao dịch nhiều hơn là

các mô hình với các nhân tố. Các mô hình có khả năng đánh giá thấp ảnh hưởng về

mặt cấu trúc của những thay đổi dài hạn về giá tương đối. Tính năng này có thể đặc

biệt quan trọng trong các mô hình CGE dành cho phân tích chính sách môi trường.

2.6. Các mô hình CGE về vấn đề ngoại ứng toàn cầu

Trong những năm 1990, một số các mô hình CGE toàn cầu dành cho phân

tích chính sách về biến đổi khí hậu được phát triển và được sử dụng để phân tích

chính sách. Các lĩnh vực chính của ứng dụng đã đánh giá các khía cạnh khác nhau

của Nghị định thư Kyoto, tức là thỏa thuận (chưa phê chuẩn) để giảm lượng khí thải

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

carbon dioxide và các khí nhà kính khác. Trong thực tế, các cam kết của các nước

Trang 59 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

công nghiệp theo Nghị định thư Kyoto dường như là lý do chính mà rất nhiều các

mô hình CGE toàn cầu về môi trường được phát triển trong những năm 1990. Dưới

đây là một số mô hình nổi tiếng nhất, và một số kết quả thu được từ sự mô phỏng

với mô hình "yếu tố bên ngoài" toàn cầu.

2.6.1. Các mô hình

Các đặc điểm chính của các mô hình lựa chọn được tóm tắt trong Bảng 1.

Đây không phải là một danh sách đầy đủ của tất cả các mô hình CGE toàn cầu hiện

có để phân tích chính sách môi trường. Tuy nhiên, bộ sưu tập các mô hình có trong

danh sách sẽ cung cấp cho một tài khoản khá đầy đủ về các phương pháp tiếp cận

mô hình, về phân chia khu vực và kích thước khác, thường áp dụng trong lĩnh vực

này của mô hình CGE. Hơn nữa, danh sách một số phạm vi phản ánh sự phát triển

liên tục của một số các mô hình. Vì vậy MIT-EPPA là một phiên bản nâng cấp và

mở rộng của GREEN. Tương tự, 12RT là một phiên bản mở rộng của Global 2100,

và RICE là một phiên bản khu vực hóa của DICE [Nordhaus (1994)].

Một đặc điểm chung của các mô hình là cơ sở tăng trưởng GDP chủ yếu

được xác định bởi các giả thiết về tổng tiết kiệm, thay đổi công nghệ và sự phát

triển của lực lượng lao động trong các khu vực khác nhau của thế giới. Điều này có

nghĩa là lượng phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính đến một mức độ lớn cũng được

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

xác định từ những giả thiết này.

Trang 60

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Bảng1: Những tính nhất chủ yếu của các mô hình CGE toàn cầu được chọn

Mô hình Tác giả Số vùng Động Ngành năng lượng Công nghệ Backstop Thay đổi công nghệ Ngành trên vùng Phúc lợi môi trường

Whalley and Wigle (1991)

*

Nordhaus and Yang (1996) Harrison and Rutherford (1997) Babiker, Maskus and Rutherford (1997) Bernstein et al. (1999) Kainuma, Matsuoka and Morita (1999)

Lớp 17K

Học viên: Bùi Xuân Trường

WW GREEN Burniaux, Martin and Oliveira-Martins (1992) Global 2100 Manne and Richels (1992) Manne (1977) 12RT CRTM Rutherford (1992) G-Cubed McKibbin and Wilcoxen (1995) MIT-EPPA Yang et al. (1996) RICE IIAM UR MS-MRT AIM WorldScan Bollen, Gielen and Timmer (1999) 6 12 5 12 5 8 12 13 5 26 10 21 13 Tĩnh Top-down 3 11 Bán động Top-down 2 Động Bottom-up Động Bottom-up 2 3 Bán động Bottom-up Động Top-down 12 8 Bán động Top-down Động 1 Động Top-down 2 Tĩnh Top-down 13 6 Động Top-down 11 Bán động Top-down 11 Bán động Top-down No Yes Yes Yes Yes No Yes Yes No No Yes No No None Yes No AEEI No AEEI No AEEI No AEEI No None AEEI No AEEI Yes No None No None No AEEI No AEEI No None

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 61

Tuy nhiên, các cam kết Kyoto quy định về giảm phát thải liên quan đến một chuẩn

mực lịch sử. Vì vậy, tính nghiêm ngặt của các hạn chế phát thải áp dụng, chi phí tuân thủ

những hạn chế này, trên thực tế được xác định bởi các giả thiết về tăng trưởng kinh tế

ban đầu. Ví dụ, trong Manne và Richels (1992) đường cơ sở giả định tăng trưởng ngụ ý

rằng Trung Quốc sẽ phát triển nhanh hơn so với mức trung bình của thế giới, và tăng

GDP của thế giới từ 1,8% năm 1988 đến 22,1% trong năm 2100. Dưới những điều kiện

này, nó chỉ ra rằng chính sách giảm phát thải toàn cầu sẽ rất tốn kém, đặc biệt là nếu

không có các biện pháp giảm phát thải được thực hiện ở Trung Quốc. Tuy nhiên, nếu

Trung Quốc phát triển chậm hơn so với mức trung bình của thế giới, việc đạt được các

mục tiêu giảm phát thải sẽ tốn kém ít hơn đáng kể.

Một tính năng phổ biến khác là các mô hình được sử dụng cho việc mô phỏng

trong thời gian là đủ dài để tạo ra những tác động quan trọng của sự suy giảm tài nguyên.

Để nắm bắt được tác động suy giảm, Global 2100 và 12RT phân biệt giữa hai loại tài

nguyên dầu mỏ và khí đốt. Vì vậy, chi phí chiết xuất dầu và khí đốt từ dự trữ hiện nay đã

được chứng minh là thấp hơn so với chi phí tương ứng cho các kho còn lại nhưng vẫn

chưa được chứng minh dự trữ. GREEN, trữ lượng than đá được giả định là vô hạn, trong

khi dầu khí được giả định là các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt. Chi phí của các tài nguyên

hiện phụ thuộc vào mức độ ban đầu của dự trữ đã được kiểm chứng và chưa được chứng

minh, tỷ lệ dự trữ phát hiện, và tỷ lệ khai thác. Hơn nữa, tỷ lệ dự trữ phát hiện được giả

định là phụ thuộc vào giá dầu mỏ thế giới và giá xăng. Cơ chế, phản ánh chi phí ngày

càng tăng của dầu và khí đốt dự trữ đã được chứng minh đang cạn kiệt, cũng được tích

hợp trong CRTM, IIAM và mô hình G-Cubed. Tuy nhiên, trong các mô hình một công

nghệ back-stop được kết hợp, chi phí năng lượng dài hạn bị giới hạn bởi chi phí của việc

sử dụng công nghệ back-stop để sản xuất năng lượng.

2.6.2. Vấn đề xả thải

Theo Nghị định thư Kyoto, các nước OECD có thu nhập cao, nên bắt đầu giảm

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

lượng khí thải carbon dioxide của họ trước các nước trong phần còn lại của thế giới. Một

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 62

tác động của chính sách như vậy là "rò rỉ carbon", tức là nguồn phát thải di chuyển từ

giảm đi không giảm đi các nước.Khả năng rò rỉ carbon là một vấn đề đáng quan tâm ở

một số nước, và nó có vẻ là một trở ngại lớn đối với chính sách đơn phương giảm phát

thải. Từ một quan điểm lý thuyết, nó là rõ ràng rằng hành động đơn phương sẽ tạo ra một

số "rò rỉ". Câu hỏi đặt ra là liệu rò rỉ là số lượng đáng kể hay không. Một mô hình CGE

toàn cầu nên thích hợp công cụ để đánh giá mức độ rò rỉ carbon do chính sách giảm phát

thải đơn phương.

Pezzey (1992) sử dụng mô hình nước thải để ước tính ảnh hưởng rò rỉ đơn phương

của Cộng đồng Châu Âu và chính sách giảm phát thải carbon dioxide của OECD. Giả sử

rằng các mục tiêu phát thải là 20% dưới mức cơ bản, sự rò rỉ hóa ra là 70%.Vì vậy, nếu

OECD giảm phát thải 100 tấn carbon dioxide, kết quả giảm phát thải toàn cầu sẽ chỉ là 30

tấn. Rutherford (1992) cũng cho thấy rằng rò rỉ là đáng kể. Đặc biệt, ông thấy rằng nếu

OECD tăng mục tiêu giảm phát thải từ 4 đến 5% phát thải hiện nay, sẽ không có giảm ở

tất cả các khí thải toàn cầu. Như vậy, theo nghiên cứu này hiệu quả rò rỉ "biên" là 100

phần trăm!

Tuy nhiên, các nghiên cứu dựa trên CGE khác đã đi đến kết quả rất khác nhau liên

quan đến hiệu ứng rò rỉ. McKibbin và Wilcoxen (1995) nghiên cứu giảm thiểu phát thải

đơn phương của một số nước theo quy định của Nghị định thư Kyoto và thấy rằng tác

động rò rỉ là 6%.Trong các thí nghiệm GREEN, hiệu quả rò rỉ là chỉ có 3,5% khi OECD

lượng khí thải carbon dioxide đã được ổn định ở mức 1990. Trong 12RT hiệu quả rò rỉ

nhỏ hơn trong các nghiên cứu của Pezzey và Rutherford, nhưng lớn hơn đáng kể trong

GREEN và nghiên cứu của McKibbon và Wilcoxen. Vì vậy, hiệu quả rò rỉ ước tính vào

12RT, khi các quốc gia hành động đơn phương, là 35.

Để giải thích những khác biệt lớn, Manne và Oliveira-Martins (1994) đã thực hiện

một so sánh có hệ thống các kết quả mô phỏng 12RT và GREEN. Họ nhận thấy rằng hiệu

ứng rò rỉ phản ánh hai tác dụng chính của các biện pháp chính sách khí hậu. Việc đầu tiên

là do thực tế là một loại thuế về lượng khí thải carbon dioxide tăng chi phí sản xuất nhiều

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

năng lượng trong nước giảm đi. Vì vậy, khả năng cạnh tranh tương đối của sản xuất có

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 63

thể giao dịch trong nước không giảm phát thải tăng lên, và một phần của sự sụt giảm sản

xuất trong nước giảm phát thải được bù đắp bằng tăng sản xuất và xuất khẩu ròng trong

nước không giảm phát thải. Hiệu ứng này có thể được gọi là "tái định cư có hiệu lực".

Tác động thứ hai là do thực tế rằng việc giảm tiêu thụ năng lượng trong nước giảm đi có

xu hướng giảm giá thị trường thế giới của dầu mỏ và than đá. Như một kết quả của các

mức giá thấp hơn, tiêu thụ năng lượng, và lượng khí thải carbon dioxide, tăng ở các nước

không giảm đi. Hiệu ứng này có thể được gọi là "phục hồi hiệu lực".

Sự khác biệt lớn giữa hai mô hình về hiệu ứng rò rỉ ra chủ yếu phụ thuộc vào hiệu

ứng di chuyển, do đó phụ thuộc vào sự khác biệt trong việc điều trị thương mại quốc tế.

Trong thương mại quốc tế xanh là mô hình phù hợp với giả thiết Armington. Điều này có

nghĩa là hàng hoá tương tự với các quốc gia khác nhau có nguồn gốc đang được coi là

thay thế không hoàn hảo, mà có xu hướng làm giảm hiệu ứng di chuyển. Mặt khác, trong

12RT, hàng hóa phi năng lượng với nước xuất xứ khác nhau được giả định là đồng nhất,

mà có xu hướng làm cho dòng chảy thương mại quốc tế nhạy cảm với những thay đổi

trong điều kiện chi phí tương đối giữa các quốc gia. Những phát hiện này cho thấy rằng

các đặc điểm kỹ thuật của thương mại quốc tế trong các mô hình CGE toàn cầu có thể có

một tác động đáng kể về kết quả và do đó đáng được sự chú ý đáng kể. Tuy nhiên, như

được chứng minh bởi McKibbin và Wilcoxen (1995), bất kỳ yếu tố làm cho chuyển đổi

cơ cấu chi phí có xu hướng để giảm hiệu ứng rò rỉ của chính sách khí hậu đơn

phương.Trong trường hợp này, di chuyển vốn quốc tế bị cản trở bởi chi phí lắp đặt vốn

trong nước không giảm đi.

2.6.3. Kết luận

Có rất nhiều khóa học có thể cho biết về các mô hình toàn cầu và các nghiên cứu,

trong đó mô hình như vậy đã được sử dụng để phân tích các đề xuất chính sách môi

trường. Tuy nhiên, nó cũng đủ để kết luận rằng các mô hình này và phần lớn các nghiên

cứu đã hình thành "sự khôn ngoan thông thường" về những hậu quả kinh tế của các chính

sách được đề xuất bởi Nghị định thư Kyoto. Có thể nói thêm rằng Nghị định thư Kyoto

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

đã tạo ra một trường hợp lý tưởng cho việc sử dụng các mô hình CGE: trông chờ vào

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 64

tương lai để vấn đề điều chỉnh ngắn hạn có thể được bỏ qua. Đồng thời, việc giảm phát

thải được đề xuất là đáng kể và rõ ràng gọi cho các biện pháp chính sách có khả năng để

có cân bằng tổng thể tác động cả trong và giữa các quốc gia và khu vực.

2.7. Các mô hình CGE trong quản lý và khai thác tài nguyên

Khi các nước đang phát triển có khuynh hướng phụ thuộc nhiều hơn vào tài

nguyên thiên nhiên so với các quốc gia công nghiệp hóa có thu nhập cao hơn, các mô

hình CGE tập trung vào các vấn đề quản lý tài nguyên thiên nhiên thường là các mô hình

của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, các loại "yếu tố bên ngoài" của các mô hình

CGE môi trường hoàn toàn thống trị lĩnh vực này. Trong thực tế, có rất ít các mô hình tập

trung vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên và quản lý và các vấn đề chính sách.

Devarajan (1988) khảo sát các vấn đề đã được xử lý trong một mô hình CGE của

một nước đang phát triển, trong đó các nền kinh tế phụ thuộc khá nhiều vào một nguồn

tài nguyên có thể cạn kiệt. Ba quan điểm khác nhau được thông qua, và sẽ được thảo luận

các vấn đề liên quan đến mô hình CGE. Trong quan điểm đầu tiên, tài nguyên thiên nhiên

được xem như là một đầu vào cho sản xuất. Thứ hai, gọi là quan điểm "căn bệnh Hà

Lan", nó được xem như là một nguồn doanh thu cho nền kinh tế. Thứ ba, phân tích được

tập trung trên tính có thể cạn kiệt của tài nguyên và các vấn đề phân bổ nguồn lực theo

thời gian liên quan đến nó. Tuy nhiên, hầu hết các mô hình của các nước đang phát triển

đang tập trung hoặc các vấn đề ô nhiễm hoặc các vấn đề liên quan đến khai thác quá mức

các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Một vài ví dụ được đưa ra dưới đây.

Xie và Saltzman (2000) trình bày một khuôn khổ chung cho các mô hình CGE của

các nước đang phát triển và một mô hình cụ thể của nền kinh tế Trung Quốc. Là một cơ

sở cho mô hình CGE, họ phát triển một ma trận tính toán xã hội mở rộng về vấn đề môi

trường (extended social accounting matrix- Esam) để phục vụ như là một dữ liệu phù hợp

cho việc đo đạc các mô hình. Mô hình Trung Quốc được sử dụng cho việc đánh giá các

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

chính sách kiểm soát ô nhiễm tập trung vào xử lý nước thải, bụi khói và chất thải rắn.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 65

Một mô hình gần đây với một sự nghiên cứu các nguồn tài nguyên thiên nhiên là

Abler, Rodriguez và Shortle (1999). Đó là một mô hình của Costa Rica, và một trong

những tính năng khác biệt của mô hình là nó bao gồm 8 chỉ số môi trường khác nhau, bao

gồm cả mức độ phá rừng và mức độ đánh bắt quá mức. Tác động của hoạt động sản xuất

và tiêu thụ chủ yếu là mô hình hóa như các tác động bên ngoài, và các chỉ số môi trường

có hiệu lực được coi là hàng hóa công cộng.

Persson và Munasinghe (1995) cũng sử dụng một mô hình của Costa Rica và tập

trung vào tình trạng phá rừng. Trong mô hình, phá rừng là một kết quả nội sinh của

quyền không rõ ràng đối với đất lâm nghiệp. Vì vậy, khi quyền sở hữu đất rừng không

được xác định rõ ràng và được bảo vệ, người khai thác gỗ và người chiếm đất bỏ qua giá

trị của việc duy trì đất trong câu hỏi cho lâm nghiệp trong tương lai, và các biện pháp

khuyến khích phá rừng mạnh mẽ. mặt khác, khi xác định quyền sở hữu đối với đất lâm

nghiệp, các chủ sở hữu đưa giá trị của việc duy trì rừng vào xem xét, và các động cơ cho

nạn phá rừng là yếu hơn nhiều.

Một ví dụ khác của một mô hình CGE tập trung vào các vấn đề quản lý tài nguyên

thiên nhiên là Unemo (1995). Mục đích của nghiên cứu là để phân tích các tác dụng phụ

không mong muốn của các chính sách của chính phủ ở Botswana. Một trong những điểm

đặc trưng quan trọng của mô hình là "vốn" trong ngành chăn nuôi gia súc. Một đặc điểm

quan trọng khác là một biện pháp áp lực đất, đo tỷ lệ giữa số lượng hecta đất chăn thả và

số gia súc được tổ chức trên đất. Đất chăn thả gia súc được coi như một nguồn lực tài sản

chung. Ý tưởng là sự gia tăng số lượng gia súc trên một đơn vị đất chăn thả có một tác

động tiêu cực đến năng suất trong ngành chăn nuôi. Biến áp lực đất cũng có thể được

xem như là một chỉ số về chất lượng môi trường. Sử dụng các mô hình, Unemo tìm thấy

một số mối quan hệ thú vị giữa các biện pháp chính sách kinh tế và những thay đổi trong

điều kiện thị trường thế giới và với chất lượng môi trường.

Vì vậy, trong một trường hợp, nó đã được giả định rằng có một sự sụt giảm trong

giá thị trường thế giới của kim cương, đó là một sản phẩm xuất khẩu chính của

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Botswana. Theo mô hình, thế giới thấp hơn giá thị trường kim cương sẽ dẫn đến sự suy

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 66

giảm chất lượng môi trường, về áp lực đất, ở Botswana. Lý do là thấp hơn doanh thu từ

dẫn xuất khẩu kim cương nhu cầu đối với hàng hóa sản xuất và như vậy tỷ lệ thấp hơn

hồi vốn trong lĩnh vực sản xuất. Như một kết quả của điều đó, nguồn vốn được phân bổ

lại cho ngành chăn nuôi, tức là số lượng gia súc tăng lên. Như một kết quả, áp lực về mức

tăng đất. Kết quả này minh họa rằng một mô hình CGE có thể tiết lộ gián tiếp phụ thuộc

lẫn nhau trong nền kinh tế mà không phải là rõ ràng ngay lập tức để phân tích.

2.8. Kết luận

Về số lượng các mô hình và nghiên cứu dựa trên các mô hình này, mô hình CGE

đã mở rộng rất đáng kể, đặc biệt là trong những năm 1990. Hiện nay CGE mô hình là

một lĩnh vực nghiên cứu chuyên ngành, và là một phần gần như tiêu chuẩn của hộp công

cụ của các nhà kinh tế quan tâm đến nghiên cứu định hướng chính sách. Một lý do chính

cho việc sử dụng rộng rãi mô hình CGE có thể là một mô hình CGE là cầu nối lý tưởng

giữa lý thuyết kinh tế và nghiên cứu chính sách ứng dụng. Tuy nhiên, quan điểm "cầu

nối", cho thấy rằng mô hình CGE là một cách để sử dụng chứ không phải là thử nghiệm

lý thuyết kinh tế. Tuy nhiên, thiết kế cẩn thận và các mô hình CGE ước tính có rất nhiều

để nói về nền kinh tế thế giới thực. Mô hình CGE đã đạt được những tiến bộ đáng kể về

kích thước và độ phức tạp của các mô hình có thể được giải quyết. Như vậy, trong khi

các mô hình CGE ban đầu là những mô hình đơn giản tĩnh Walrasian của một nền kinh tế

duy nhất, sau đó là các mô hình CGE đến một mức độ lớn năng động, đa quốc gia hoặc

toàn cầu. Ngoài ra còn có các mô hình với sự cạnh tranh không hoàn hảo trong một hoặc

một vài thị trường. Trong mô hình CGE môi trường, cả tính động và các tính đa quốc gia

đã khiến các mô hình CGE hữu ích trong việc phân tích các vấn đề chính sách quan trọng

như biến đổi khí hậu và mưa axit. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp thiệt hại do phát

thải các chất ô nhiễm gây ra là không chắc chắn và các biện pháp chính sách có hiệu lực

có thể được xem như là một bảo hiểm chống lại thảm hại trong tương lai. Vì vậy, mong

muốn phát triển hơn nữa của mô hình CGE môi trường là để kết hợp các yếu tố bất định.

Tuy nhiên, sự phức tạp không bao giờ nên là một kết thúc trong chính nó trong mô

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

hình CGE. Phần lớn sự hữu ích của một mô hình CGE bắt nguồn từ nền tảng vững chắc

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 67

của nó trong lý thuyết kinh tế cơ bản. Như vậy, ngay cả khi kết quả mô phỏng từ một mô

hình CGE tiêu chuẩn đôi khi có thể là đáng ngạc nhiên, họ luôn luôn có thể được giải

thích về hiệu ứng thu nhập và thay thế nổi tiếng kết hợp với sự phụ thuộc lẫn nhau giữa

các thị trường. Việc bổ sung đặc tính phi tiêu chuẩn, chẳng hạn như cạnh tranh không

hoàn hảo trên thị trường, sản phẩm và các yếu tố giá cả cứng nhắc và quan hệ qua thời

gian, có thể làm cho mô hình "thực tế" hơn. Nhưng điều đó cũng có thể ngụ ý rằng sự

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

minh bạch của các mô hình CGE bị mất.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 68

CHƯƠNG 3

ỨNG DỤNG MÔ HÌNH CGE TRONG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN

VÀ CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG

3.1. Các vấn đề về tài nguyên

Trong những thập kỷ gần đây, các nhà kinh tế và các nhà quản lý bắt đầu tỏ ra lo

ngại về khả năng cạn kiệt của các tài nguyên không - tái tạo. Câu hỏi mà họ đặt ra là các

tài nguyên thiết yếu cho nền kinh tế, tức là các tài nguyên mà nếu không có nó thì sản

lượng nào đó của nền kinh tế sẽ bằng không, có thể được thay thế bởi các nhân tố sản

xuất do con người tạo ra, cụ thể là vốn hay không?

Ý nghĩa của câu hỏi được đặt ra ở trên là, liệu có thể thay thế tài nguyên thiên nhiên

không - tái tạo bởi các tài nguyên tái tạo để duy trì phát triển kinh tế bền vững hay

không? Nói cách khác, giá trị của sự cạn kiệt của những tài nguyên không - tái tạo là một

cản trở lớn của phát triển kinh tế bền vững, cần được giải quyết trong nội dung của kinh

tế tài nguyên thiên nhiên.

Mô hình căn bản của bài toán tài nguyên không - tái tạo là:

Cần phải lựa chọn chi tiêu và khai thác tài nguyên không-tái tạo với

sao cho tối đa:

(3.1)

tùy thuộc vào ràng buộc:

và (3.2)

Trong đó là dự trữ kho tài nguyên tại thời điểm t, là lợi ích thu được do

tiêu dùng tại thời điểm t, là dự trữ của kho vốn tại thời điểm t, và là sản

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

lượng của nền kinh tế tại thời điểm t, là tỷ lệ chiết khấu.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 69

Bài toán nói trên có thể được giải bằng cách xây dựng hàm Hamilton và điều kiện

cực đại Pontraghin. Một trong những điều kiện mà lời giải phải thỏa mãn là:

(3.3)

Trong đó là giá của tài nguyên đang xét.

Điều kiện này cho thấy, nếu khai thác tối ưu thì giá tài nguyên sẽ phải tăng lên với

một tỷ lệ phần trăm là . Tức là, để tối ưu tài nguyên không - tái tạo sẽ phải tăng giá với

một tỷ lệ phần trăm là . Điều đó có nghĩa là cùng với sự cạn kiệt của mình, càng ngày

tài nguyên không - tái tạo càng phải được đánh đổi với một khối lượng ngày càng gia

tăng của tất cả các hàng hóa còn lại của nền kinh tế. Đây là quy tắc có tên là quy tắc

Hotelling nổi tiếng trong kinh tế học tài nguyên môi trường.

Tài nguyên nước vốn không phải là một tài nguyên không-tái tạo. Tuy nhiên, trong

những năm gần đây, các nhà kinh tế tài nguyên thiên nhiên đã đi đến kết luận rằng, nhiều

tài nguyên thiên nhiên, tuy không phải là tài nguyên không - tái tạo, nhưng do bị khai

thác quá mức bởi con người, hoặc bị làm xuống cấp trầm trọng bởi các chất thải gây ô

nhiễm, cũng sẽ dần tới tình trạng tương tự như tài nguyên không - tái tạo, tức là cũng có

thể bị dẫn tới tình trạng cạn kiệt.

Vì vậy, các tác động ô nhiễm môi trường và sử dụng quá mức tài nguyên nước cũng

sẽ chịu hậu quả tương tự như tài nguyên không - tái tạo đã xét ở trên. Tức là quy tắc

Hotelling cũng thể sẽ xảy ra nếu con người không chú trọng thới cách thức khai thác hợp

lý nguồn tài nguyên thiên nhiên vốn sẵn có này.

3.2. Các biện pháp chính sách cho những vấn đề tài nguyên môi trường

3.2.1. Các mô hình xác định đích kiểm soát môi trường

Khi nói về chính sách ô nhiễm, nhà kinh tế quan tâm tới hai câu hỏi chính. Ô nhiễm

sẽ cần phải nằm ở mức nào? Và khi một mức đích nào đó đã được chọn, phương pháp tốt

nhất để đạt được mức đó là gì? Trong mục này chúng ta sẽ làm việc với câu hỏi thứ nhất,

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

câu hỏi thứ hai được đề cập trong mục tiếp theo.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 70

Ô nhiễm nên ở mức nào còn phụ thuộc vào mục tiêu cần được tìm kiếm. Nhiều nhà

kinh tế coi tối ưu kinh tế là mục tiêu lý tưởng. Điều này yêu cầu các tài nguyên cần được

phân bổ sao cho tối đa phúc lợi xã hội. Phân bổ gắn liền với mục tiêu đó sẽ là mức ô

nhiễm tối ưu. Tuy nhiên, thông tin được yêu cầu để thiết lập mức ô nhiễm tối ưu dường

như là không thể có được, và do vậy tiêu chuẩn không là khả thi trong thực tế. Như một

kết quả, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế thường được đề xuất ở một mức thấp hơn

để sắp đặt các đích ô nhiễm.

Tiếp cận sử dụng hiệu quả như một cách để xác định mức ô nhiễm đã có từ công

trình của Pigou, và xuất hiện từ nghiên cứu của ông về khái niệm ngoại ứng (Pigou,

1920). Kế tiếp theo, sau khi lý thuyết ngoại ứng đã được mở rộng và phát triển, nó trở

thành nguyên tắc tổ chức chính được sử dụng bởi các nhà kinh tế khi phân tích các vấn

đề ô nhiễm.

Trên thực tế, trong phần lớn công trình của các nhà kinh tế dựa vào khung ngoại

ứng đã sử dụng tiếp cận cân bằng cục bộ, tức là nhìn vào một hoạt động đơn nhất (và ô

nhiễm gắn với nó) một cách biệt lập với phần còn lại của hệ thống trong đó hoạt động

được diễn ra. Tất nhiên, không có lý do nào ngăn cản nhìn nhận các ngoại ứng trong một

khung cân bằng tổng quát, và một số công trình phôi thai trong kinh tế học môi trường đã

làm như vậy. (Ví dụ, xem Baumol và Oates, 1988, và Cornes và Sandler, 1996).

Điều này làm đặt ra câu hỏi cho chúng ta là khái niệm “hệ thống” hàm ý gì về việc

các hoạt động tạo - ô nhiễm được diễn ra trong đó. Việc phát triển kinh tế học môi trường

và kinh tế học sinh thái như các môn học độc lập đã dẫn một số tác giả tới việc sử dụng

một quan điểm toàn diện của hệ thống đó. Điều này liên quan tới việc đưa các hệ thống

con vật chất và sinh học vào cùng một chỗ, và tính tới các ràng buộc lên các tương tác

môi trường.

Một bước tiến theo hướng tiếp cận này là kết hợp các tài nguyên thiên nhiên vào các

mô hình tăng trưởng kinh tế. Khi đó ô nhiễm có thể gắn liền với khoan hút và sử dụng tài

nguyên, và các mức ô nhiễm tốt nhất xuất hiện trong lời giải cho bài toán tăng trưởng tối

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

ưu. Các vấn đề ô nhiễm do vậy có được một cơ sở vật chất vững chắc và các chính sách

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 71

liên quan tới các mức ô nhiễm và sử dụng tài nguyên thiên nhiên được liên kết lại. Phần

lớn của công trình được thực hiện trong lĩnh vực này đã là trừu tượng, ở một mức tổng

hợp cao và là khó về mặt kỹ thuật. Tuy nhiên, chúng ta cảm thấy điều này là đủ quan

trọng để cần thiết phải nghiên cứu.

Hiệu quả kinh tế là một cách tư duy về việc sắp đặt đích ô nhiễm, nhưng nó chắc

chắn không phải là cách duy nhất. Ví dụ, chúng ta có thể chấp nhận tính bền vững như

một mục tiêu chính sách, hoặc như một ràng buộc phải được thỏa mãn trong việc theo

đuổi các mục tiêu khác. Khi đó các mức ô nhiễm (hoặc các quỹ đạo của chúng theo thời

gian) sẽ được đánh giá theo nghĩa liệu chúng có là tương thích với phát triển bền vững

hay không. Các mô hình tăng trưởng tối ưu với tài nguyên thiên nhiên tự thân mình đã

dẫn tới việc phát triển các đích ô nhiễm sử dụng tiêu chuẩn bền vững. Chúng ta cũng có

thể chỉ ra sau này rằng các tiêu chuẩn hiệu quả và bền vững không thường xuyên dẫn tới

các khuyến cáo tương tự nhau về các đích ô nhiễm.

Các đích ô nhiễm có thể, và trên thực tế thường được xác định trên các cơ sở khác

với hiệu quả hoặc bền vững kinh tế. Chúng có thể được dựa trên tiêu chuẩn rủi ro sức

khỏe hợp lý, hoặc dựa vào tiêu chuẩn được chấp nhận bởi quan điểm công cộng. Chúng

có thể được dựa trên tiêu chuẩn khả thi về mặt chính trị. Hơn nữa, trong một thế giới

trong đó tầm quan trọng nhận thức của các vấn đề ô nhiễm quốc tế và toàn cầu ngày càng

gia tăng, những người làm chính sách tự bản thân phát hiện ra là sắp đặt các đích bên

trong một mạng trách nhiệm và áp lực từ các chính phủ quốc gia khác nhau và các liên

minh.

Trong nhận xét cuối cùng, các đích ô nhiễm hiếm khi được đặt hoàn toàn trên các cơ

sở kinh tế thuần túy. Việc đặt ra các tiêu chuẩn thường là một kết quả của nỗ lực có được

các mục tiêu kép bên trong một môi trường thể chế phức tạp. Tuy nhiên, mục tiêu chính

của chúng ta ở đây là giải thích nền tảng kinh tế học cho việc xác định đích ô nhiễm. Sau

đây là một số mô hình chính cho đích ô nhiễm.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

3.2.1.1. Mô hình tĩnh

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 72

Mô hình tĩnh đơn giản (là mô hình trong đó thời gian không đóng vai trò nào) có thể

được sử dụng để xác định mức hiệu quả của một chất gây ô nhiễm luồng. Trong mô hình

này, xả thải có cả lợi ích và chi phí. Nói chung, chi phí xả thải được gọi là thiệt hại.

Những thiệt hại này có thể được cho là một ngoại ứng âm (có hại). Sản xuất tạo ra một

kết quả chung: các hàng hóa hoặc dịch vụ dự kiến, xả thải chất gây ô nhiễm kèm theo.

Trong một môi trường kinh tế có điều chỉnh, chi phí gắn liền với sản xuất hàng hóa và

dịch vụ theo dự định được thanh toán bởi nhà sản xuất, và do vậy được nội hóa. Nhưng

chi phí do thiệt hại ô nhiễm không được công ty thanh toán, và không được tính tới trong

các quyết định của công ty, và do vậy nó là các ngoại ứng.

Một mức xả thải hiệu quả là mức tối đa lợi ích ròng từ ô nhiễm, nơi mà lợi ích ròng

được xác định như là lợi ích ô nhiễm trừ đi chi phí ô nhiễm (hoặc thiệt hại). Mức xả thải

tại đó các lợi ích ròng được tối đa là tương đương với kết cục sẽ là phổ biến nếu ngoại

ứng ô nhiễm được nội hóa hoàn toàn. Trong trường hợp ô nhiễm luồng, thiệt hại (D) chỉ

phụ thuộc vào độ lớn của luồng xả thải (M), do vậy hàm thiệt hại có thể được chỉ ra là:

(3.4)

Về mặt ký hiệu, chúng ta có thể biểu diễn mối quan hệ hàm lợi ích là:

(3.5)

Trong đó B ký hiệu các lợi ích từ xả thải. Lợi ích ròng xã hội (NB) của một mức xả

thải đã cho được xác định bởi:

(3.6)

Nếu làm việc với các hàm cận biên, (hoặc là lợi ích cận biên của ô

nhiễm và (hoặc ) là thiệt hại cận biên của ô nhiễm. Các nhà kinh tế

thường giả thiết các hàm tổng thiệt hại và lợi ích và thiệt hại và lợi ích cận biên có các

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

dạng tổng quát được chỉ ra trên Hình dưới đây.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 73

Hình 1: Tổng thiệt hại và lợi ích và mức xả thải ô nhiễm luồng hiệu quả

Để cực đại lợi ích ròng của hoạt động kinh tế, chúng ta yêu cầu luồng ô nhiễm M

được chọn sao cho:

(3.7)

hoặc một cách tương đương:

(3.8)

Là điều phát biểu rằng lợi ích ròng của ô nhiễm có thể được tối đa chỉ ở những nơi

mà lợi ích cận biên của ô nhiễm bằng với thiệt hại cận biên của ô nhiễm.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

3.2.1.2. Mô hình động

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 74

Bây giờ chúng ta xem xét trường hợp các chất gây ô nhiễm kho có vòng hoạt động

(nghĩa là gây ra thiệt hại) tương đối dài nhưng hòa trộn một cách đồng nhất. Mô hình mà

chúng ta sử dụng để kiểm tra các đích ô nhiễm là một mô hình đơn giản nhất có thể mà

có thể xử lý với các lựa chọn giữa các khoảng thời gian có liên quan. Thiệt hại tại thời

điểm t được xác định bởi kích thước kho đồng thời hoặc tỷ lệ tập trung của chất gây ô

nhiễm trong phương tiện môi trường thích hợp. Lợi ích thô phụ thuộc vào luồng xả thải.

Do vậy các hàm thiệt hại của chúng ta và lợi ích (thô) của chúng ta có các dạng tổng

quát:

(3.9)

(3.10)

Các biến và trong các phương trình trên tất nhiên, không là độc lập với nhau.

Với các chất gây ô nhiễm tồn tại - lâu dài hơn một cách tương đối, xả thải bổ sung thêm

vào các kho hiện có và những kho đó tích lũy theo thời gian. Tuy nhiên, ngoại trừ trong

trường hợp đặc biệt nơi mà các chất gây ô nhiễm tồn tại lâu dài vô hạn, một phần của kho

hiện có sẽ phân hủy thành một dạng vô hại theo thời gian, do vậy có một tác động âm lên

tích lũy kho. Một cách thuận tiện để thể hiện mối quan hệ luồng-kho này là bằng cách giả

thiết tỷ lệ thay đổi của kho chất gây ô nhiễm theo thời gian được chỉ đạo bởi phương

trình vi phân:

(3.11)

Trong đó dấu chấm trên một biến chỉ ra đạo hàm của nó theo thời gian, do vậy

. Một ví dụ có thể thấy trong ngành nước là dư lượng hóa chất được thải

xuống dòng chảy sau khi những nông dân canh tác vụ mùa. Các dư lượng hóa chất này

không thể phân hủy hết ngay lập tức và vì vậy còn tồn tại trong dòng chảy và tích lũy

dưới dạng biến ô nhiễm kho. Một ví dụ khác là độ mặn trong đất trồng do tưới. Muối

được tích lại do cây sử dụng nước tinh khiết cho tăng trưởng nhưng muối các khoáng

chất còn lại vẫn đọng dưới phần đất dưới gốc cây. Và dĩ nhiên điều này cũng thể hiện

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

một biến kho của ô nhiễm.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 75

Chúng ta đã nhắc tới ở đây là, mối quan hệ giữa M và A không độc lập theo thời

gian. Bằng cách tích phân phương trình trên theo thời gian chúng ta nhận được:

(3.12)

Trong đó ký hiệu thời điểm đầu tại đó chất gây ô nhiễm đang xét được xả thải.

Do vậy mức kho ô nhiễm tại bất kỳ thời điểm nào, phụ thuộc vào toàn bộ lịch sử xả

thải cho tới thời điểm đó. Thậm chí nếu xả thải đã ở một mức cố định trong quá khứ và

vẫn còn lại trong tương lai, sẽ không cố định theo thời gian. Nói cách khác, khi xả thải

tại thời điểm bổ sung vào các kho ô nhiễm tại thời điểm đó trong các giai đoạn

tương lai, không có mối quan hệ một-một giữa và . Điều đó là vì thời gian ở đây là

quan trọng theo một cách thức căn bản khiến cho các biến trong các phương trình trên

được cập nhật theo thời gian.

Vì các giai đoạn thời gian được liên kết vào cùng một chỗ qua một mối quan hệ kho

- luồng, các đích và các chính sách ô nhiễm hiệu quả phải được rút ra từ phân tích giữa

các khoảng thời gian. Chúng ta tiến hành bằng cách giả thiết người làm chính sách có

mục đích tối đa các lợi ích ròng được chiết khấu trong một khoảng thời gian thích hợp

nào đó. Để cho đơn giản, khoảng thời gian được lấy là vô hạn. Sử dụng để ký hiệu

giai đoạn thời gian hiện tại, và xác định lợi ích ròng của ô nhiễm là lợi ích thô cộng trừ đi

các thiệt hại mục tiêu của người làm chính sách là lựa chọn cho khoảng từ tới

để tối đa:

(3.13)

Trong đó là tỷ lệ chiết khấu (tiêu dùng) xã hội.

Một mô tả ô nhiễm kho hiệu quả, do vậy sẽ không bao gồm một con số đơn, mà một

quỹ đạo (hoặc đường thời gian) của các mức xả thải theo thời gian. Nói chung, quỹ đạo

tối ưu này sẽ là quỹ đạo trong đó các mức xả thải thay đổi theo thời gian. Tuy nhiên,

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

trong nhiều tình huống quỹ đạo sẽ bao gồm hai pha. Một trong những pha này là cái được

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 76

gọi là trạng thái ổn định trong đó xả thải (và các mức tập trung) vẫn là cố định một cách

vô hạn tại một mức nào đó. Một pha khác là một phần điều chỉnh; quỹ đạo mô tả một

đường theo đó xả thải (và độ tập trung) dịch chuyển từ các mức hiện tại tới các mức hiệu

quả, trạng thái - ổn định của chúng. Quá trình tự - điều chỉnh này có thể là nhanh, hoặc

nó có thể cần có một khoảng thời gian dài.

3.2.1.3. Mô hình ô nhiễm tối ưu theo không gian

Chúng ta xét trường hợp có nhiều nguồn gây ô nhiễm khác nhau và nhiều vùng tiếp

nhận ô nhiễm khác nhau. Nói một cách khác, chúng ta xét bài toán sắp đặt tiêu chuẩn ô

nhiễm cho một hệ thống nhiều nguồn gây ô nhiễm và nhiều đối tượng bị tác động bởi ô

nhiễm.

Bây giờ cần có thêm một số ký hiệu bổ sung. Sử dụng thuật ngữ trước đây, chúng ta

coi môi trường như một chuỗi các vùng “tiếp nhận” ô nhiễm phân biệt về mặt không

gian. Giả sử có vùng tiếp nhận phân biệt, mỗi vùng được đánh chỉ số bởi chỉ số dưới

(do vậy = 1, 2, …, ) và N nguồn ô nhiễm phân biệt, mỗi nguồn được đánh chỉ số bởi

chỉ số dưới (do vậy ). Các quá trình vật lý và hóa học khác nhau xác định tác

động lên độ tập trung chất gây ô nhiễm trong bất kỳ vùng tiếp nhận cụ thể nào từ bất kỳ

nguồn cụ thể nào. Để đơn giản, chúng ta giả sử các mối quan hệ là tuyến tính. Trong

trường hợp đó, một tập các “hệ số biến đổi” cố định có thể được xác định. Hệ số biến đổi

mô tả tác động lên độ tập trung chất gây ô nhiễm tại vùng tiếp nhận được quy cho

nguồn . Tổng mức hoặc tỷ lệ tập trung của ô nhiễm tại vị trí , , sẽ là tổng của các

đóng góp cho ô nhiễm tại vị trí đó từ tất cả các nguồn xả thải N. Điều này có thể được

viết là:

(3.14)

Trong đó ký hiệu tổng xả thải từ nguồn .

Ví dụ, chúng ta có nguồn và vùng tiếp nhận. Khi đó chúng ta có bốn

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

phương trình tương ứng với phương trình trên. Chúng là:

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 77

(1.15)

Chúng ta có thể thu thập tất cả tám hệ số vào một ma trận kích thước .

Ký hiệu véc tơ xả thải từ hai nguồn là và véc tơ của các mức ô nhiễm xung quanh

trong bốn vùng tiếp nhận là chúng ta có:

(3.16)

hoặc:

(3.17)

Trang bị bởi thuật ngữ này, bây giờ chúng ta trả lời câu hỏi sau theo một cách tổng

quát: mức xả thải hiệu quả về mặt xã hội từ mỗi nguồn là bao nhiêu? Như trong tất cả các

trường hợp trước đây trong chương này, nó sẽ là một tập các tiêu chuẩn xả thải làm tối đa

các lợi ích ròng. Để thấy được điều này ở đây làm việc như thế nào, lưu ý có N nguồn xả

thải, và do vậy lời giải của chúng ta sẽ bao gồm N giá trị của , một cho mỗi nguồn.

Lợi ích bao gồm tổng theo tất cả N nguồn của lợi ích ô nhiễm của mỗi công ty. Do vậy

chúng ta có:

(3.18)

Các thiệt hại bao gồm tổng theo tất cả các vùng tiếp nhận của thiệt hại được gánh

chịu trong vùng đó. Tức là:

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

(3.19)

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 78

Do vậy hàm lợi ích ròng cần được tối đa (bởi lựa chọn thích hợp các , …,

N) là

(3.20)

Thay các biểu thức thích hợp ở trên ta nhận được:

(3.21)

Điều kiện cần cho cực đại là:

với (3.22)

là đại lượng, sau khi sắp xếp lại, tạo ra tập của N điều kiện cận biên

với (3.23)

Trong đó:

Trực giác đằng sau kết quả này là rõ ràng. Đích xả thải (hoặc tiêu chuẩn) cho mỗi

công ty cần phải được đặt sao cho lợi ích cận biên tư nhân của xả thải của nó (vế trái của

phương trình) bằng với thiệt hại cận biên của xả thải của nó (vế phải của phương trình).

Lưu ý vì xả thải của công ty thứ được chuyển cho một số hoặc tất cả vùng tiếp nhận,

thiệt hại cận biên được quy cho công ty thứ có được bằng cách cộng đóng góp của nó

vào thiệt hại cho mỗi một trong vùng tiếp nhận.

Trên đây chúng ta đã mô tả một cách tóm tắt các tình huống xác định tiêu chuẩn xả

thải (hay tiêu chuẩn ô nhiễm) trong thực hành. Các trường hợp điển hình là tối ưu kinh tế

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

tĩnh, động và trường hợp tối ưu theo không gian. Trong thực tế, các tình huống là phức

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 79

tạp hơn nhưng dựa trên những trường hợp cơ sở nói trên. Tuy nhiên, cũng cần nhắc lại là

tiêu chuẩn kinh tế chỉ là một trong nhiều tiêu chuẩn khác cho quá trình làm quyết định.

3.2.2. Ước lượng chi phí giảm ô nhiễm

Có nhiều cách thức theo đó có thể ước lượng các chi phí giảm thiểu ô nhiễm. Hai

lớp rộng có thể được nhận biết: Các mô hình kỹ thuật và Các mô hình kinh tế.

Trên thực tế, đa số nghiên cứu đã sử dụng các mô hình kinh tế - kỹ thuật liên kết,

nhưng sự chú ý tương đối tới mỗi cấu phần thay đổi rộng rãi.

3.2.2.1. Mô hình I/O ý nghĩa của nó trong việc giải quyết bài toán Tài nguyên Môi

trường

Hình sau sắp đặt bằng sơ đồ một hệ thống đầu vào - đầu ra tổng quát cho phân tích

mối liên kết qua lại giữa hoạt động kinh tế và môi trường tự nhiên. Cơ sở là sự nhận thức

về việc có ba kiểu liên kết giữa nền kinh tế và môi trường, là điều cần được xử lý một

cách đúng đắn. Thứ nhất, các đại diện kinh tế khoan hút hoặc khai thác tài nguyên thiên

nhiên, kể cả các hình thức khai thác rõ ràng như khoan hút quặng và khoáng sản, thu

hoạch cá và vân vân, nhưng cũng theo những cách thức kém rõ ràng như “tiêu thụ”

không khí sạch và cảnh đẹp.

Thứ hai, việc xử lý và tiêu dùng những tài nguyên môi trường này tạo ra những

phần dư được thải ngược trở lại môi trường, và chúng có thể có các tác động kinh tế, xã

hội hoặc sức khỏe không mong muốn, như ô nhiễm không khí, hủy hoại đất đai và mất

mát nơi cư trú. Những nỗ lực loại bỏ, làm giảm hoặc đền bù cho những tác động này dẫn

tới kiểu thứ ba của liên kết kinh tế - môi trường, cụ thể là các hoạt động được giành cho

giảm thiểu hoặc tái tạo môi trường.

Trên Hình vẽ, các ma trận con I và VII tương ứng với bảng đầu vào-đầu ra thông

thường: I ghi lại các luồng hàng hóa và dịch vụ giữa các khu vực trung gian của nền kinh

tế, và VII ghi lại các chuyển giao cho những người mua hoặc người sử dụng cuối cùng

(tiêu dùng, đầu tư, xuất khẩu tư nhân và chính phủ). Để cho đơn giản, chúng ta giả sử ở

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

đây, rằng mỗi “ngành công nghiệp” sản xuất ra một “hàng hóa” đồng nhất duy nhất, do

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 80

vậy tránh được nhu cầu cho một hệ thống phức tạp hơn của các tài khoản liên kết các

ngành công nghiệp và các hàng hóa.

Ma trận con II ghi lại khoan hút hoặc sử dụng trực tiếp của tài nguyên thiên nhiên

bởi các ngành công nghiệp, liên quan tới một sự cắt giảm trong véc tơ các kho của tài

nguyên thiên nhiên. Ô ij của ma trận con II ghi lại khối lượng hoặc dung tích tài nguyên

i, được đo lường theo các đơn vị vật lý, được sử dụng hoặc tiêu dùng bởi ngành công

nghiệp j trong một giai đoạn thời gian cụ thể, ví dụ một năm. Do vậy, nếu tài nguyên i là

nước và ngành công nghiệp j là cung cấp nước, chỗ vào số liệu trong ô ij ghi lại dung tích

nước được thu gom và xử lý bởi khu vực cung cấp nước: các doanh thu hoặc chuyển giao

kế theo của nước cho ngành công nghiệp hoặc các hộ gia đình sẽ xuất hiện trong hàng

của các ma trận con I và VII.

Theo thực hành mô hình hóa đầu vào - đầu ra thông thường, nếu chúng ta giả sử

một mối quan hệ tỷ lệ thuận cố định giữa các đầu vào của tài nguyên và các đầu ra của

các ngành công nghiệp, chúng ta có thể rút ra một ma trận con của các hệ số đầu vào tài

nguyên trong đó hệ số điển hình chỉ ra khối lượng tài nguyên i (theo các đơn vị vật lý)

được yêu cầu cho một đơn vị đầu ra (một cách điển hình được đo lường theo các đơn vị

giá trị) của ngành công nghiệp j. Theo ví dụ nói trên, sẽ ghi lại số lượng galons (1

gallon  3,785 lít) nước được yêu cầu cho một triệu đô la đầu ra của ngành công nghiệp

cung cấp nước.

Nhiều ô trong ma trận con II sẽ là không (0), vì chỉ một số lượng giới hạn các ngành

công nghiệp liên hệ với khoan hút trực tiếp hoặc thu hoạch tài nguyên thiên nhiên. Tài

nguyên thiên nhiên đã được chế biến sẽ được phân loại như các sản phẩm công nghiệp và

được phân phối dọc theo các hàng của các ma trận con I, IV và VII.

Ma trận con III ghi lại các chất thải phần dư được tạo ra bởi mỗi ngành công nghiệp,

là một hàng tách biệt cho mỗi kiểu phần dư: do vậy một chỗ nhập số liệu trong ô gk trong

III ghi lại khối lượng phần dư g được tạo ra bởi ngành công nghiệp k trong giai đoạn kế

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

toán có liên quan. Một lần nữa, theo thực hành đầu vào-đầu ra tiêu chuẩn, nếu chúng ta

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 81

giả sử một mối quan hệ tỷ lệ phần trăm cố định giữa đầu ra ngành công nghiệp và tạo ra

phần dư, chúng ta có thể rút ra một ma trận con của các hệ số chất thải trong đó phần tử

điển hình chỉ ra khối lượng phần tử chất thải g được tạo ra cho một triệu đô la đầu ra

của ngành công nghiệp k. Lưu ý mặc dù các phần tử của ma trận con III là các đầu ra chứ

không phải các đầu vào, chúng được xử lý ở đây theo một cách thức giống hệt với các

luồng đầu vào trong các ma trận con II và I. Các ví dụ rõ ràng của kiểu tạo ra chất thải

này là các chất gây ô nhiễm được tạo ra bởi sản xuất công nghiệp và phân phối, mà một

ví dụ của điều đó sẽ được nghiên cứu ở phần này.

Hình 2: Hệ thống đầu vào - đầu ra mở rộng

Các cột từ n + 1 tới n + m (các ma trận con IV, V và VI) thể hiện các giảm thiểu

phần dư hoặc các hoạt động xử lý. Lưu ý mặc dù các hoạt động giảm thiểu ở đây được

làm cho phù hợp với trạng thái của các ngành công nghiệp tách biệt, trong thực tế các

hoạt động như vậy có thể được tiến hành bởi và bên trong các ngành công nghiệp chịu

trách nhiệm đối với việc tạo ra phần dư cần quan tâm. Ví dụ một công ty xả nước thải có

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

thể thực hiện làm sạch “tại chỗ” trước khi thải nước ngược lại môi trường. Trong hệ

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 82

thống kế toán ở đây, các hoạt động sản xuất và làm sạch chính thống sẽ được ghi lại một

cách tách biệt. Cũng lưu ý trong sơ đồ này, các hoạt động giảm thiểu/xử lý xác định có

thể vận hành tại các mức bằng không.

Giống như các ngành công nghiệp khác, các ngành công nghiệp giảm thiểu mua

hàng hóa và dịch vụ từ các ngành công nghiệp khác (ma trận con IV), và cũng có thể hấp

thụ tài nguyên thiên nhiên một cách trực tiếp (ma trận con V, mặc dù ma trận con này có

thể là rỗng). Hơn nữa, giống như các ngành công nghiệp khác các khu vực giảm thiểu có

thể tự bản thân mình tạo ra các chất thải phần dư (ma trận con VI).

Đầu ra của các ngành công nghiệp giảm thiểu có thể được biểu diễn theo các thành

phần giá trị, một cách điển hình giống như các ngành công nghiệp khác trong bảng, hoặc

theo các đơn vị vật lý, như khối lượng phần dư được xử lý hoặc được loại bỏ. Trong trường

hợp sau các hệ số đầu vào (ma trận con IV) sẽ đo lường đầu vào đô la (cố định) trên tấn

của phần dư được xử lý hoặc được loại bỏ. Một lần nữa, đối với những ngành công nghiệp

này chúng ta giả thiết công nghệ Leontief của các hệ số đầu vào tỷ lệ cố định.

Các cột cuối của bảng ghi lại các doanh thu hoặc khối lượng giao hàng cho những

người mua cuối cùng, một cách điển hình là tiêu dùng (tư nhân) hộ gia đình, tiêu dùng

chính phủ, đầu tư, những thay đổi trong các kho, xuất khẩu và (cột âm của) nhập khẩu,

nhưng mỗi một trong những phần loại này có thể được tiếp tục phân rã thêm nữa. Một

khả năng là phân rã cột đầu tư để nhận biết một cách tách biệt chi tiêu vốn hướng tới việc

tái tạo tài nguyên thiên nhiên, như trồng rừng, tái tạo đất trồng, tái tạo các kho cá, và vân

vân. Những hành động này khi đó cung cấp một liên kết tới véc tơ các kho tài nguyên

thiên nhiên tại điểm khởi đầu của chuỗi môi trường - kinh tế - môi trường trong Hình 1.2,

và là một bước hướng tới việc đóng hệ thống mô hình.

Ma trận con VIII tính tới khả năng của khoan hút hoặc sử dụng trực tiếp của tài

nguyên thiên nhiên bởi những người mua cuối cùng (ví dụ, không khí trong lành, nước

không được xử lý, cá được đánh bắt cho tiêu dùng cá nhân, …), trong khi ma trận con IX

bao gồm các chất thải phần dư được tạo ra bởi các hộ gia đình và những người mua cuối

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

cùng khác (CO2, chất thải rắn, phế liệu ...).

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 83

Các phiên bản phức tạp hơn có thể được xây dựng, và các hệ thống kế toán thay thế

có thể được sử dụng, nhưng sơ đồ ở trên nắm bắt những đặc điểm bản chất của hệ thống

đầu vào - đầu ra môi trường, từ đó một mô hình có thể được xây dựng. Giống như mô

hình đầu vào - đầu ra cơ sở được mô tả, phiên bản được trình bày ở dưới là một mô hình

mở, tĩnh học - so sánh trong đó các hàm cầu cuối cùng là ngoại sinh (được xác định bên

ngoài mô hình). Không có các ràng buộc công suất tường minh đối với đầu ra, hoặc các

giới hạn với cung cấp nhân tố sản xuất, là những thứ tương đương với xử lý cung cấp

nhân tố như là co giãn hoàn hảo tại các mức giá nhân tố hiện hành.

Để đơn giản hóa về mặt đại số, chúng ta giả sử trong phần sau các ma trận con V và

VIII là rỗng. Đối với n khu vực đầu vào-đầu ra ‘truyền thống các phương trình cân bằng

là:

(3.24)

hoặc:

(3.25)

Trong đó X là véc tơ đầu ra cho các ngành công nghiệp thông thường, Z là véc tơ

đầu ra cho các ngành công nghiệp giảm thiểu (được thảo luận ở phần sau) và F là một

véc tơ các chuyển giao cho những người tiêu dùng cuối cùng. (Để cho tiện chúng ta giả

thiết ở đây F là một véc tơ). Các hệ số và được rút ra từ hệ thống các tài

khoản trong Hình 1.2 là:

(3.26)

Trong đó là khối lượng mua sắm hàng hóa i để sản xuất đầu ra , và

(3.27)

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

trong đó là đầu ra của véc tơ giảm thiểu q (hoặc dung tích của phần dư bị loại bỏ).

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 84

Những giả thiết các hệ số đầu vào tỷ lệ cố định này phản ánh những giả thiết của mô

hình đầu vào-đầu ra cơ bản của nội dung chương này, và phản ánh các thuộc tính của

hàm sản xuất Leontief, đặc biệt là giao hoàn không đổi theo quy mô và thay thế bằng

không (0) giữa các đầu vào, tương phản với hàm tân cổ điển thông thường hơn.

Đối với các ma trận con các phần dư (III, VI và IX), sản xuất hoặc tạo ra các phần

dư có thể được viết là:

(3.28)

Trong đó là khối lượng của phần dư g được tạo ra bởi sản xuất, bởi các hoạt

động giảm thiểu và bởi cầu cuối cùng.

Dưới dạng ma trận:

(3.29)

Phương trình trên đo lường sản lượng thô của các phần dư. Sản lượng ròng là sản

lượng thô trừ đi dung tích được xử lý hoặc bị loại bỏ, là đầu ra được đo lường của khu

vực giảm thiểu. Đại lượng này được xác định như thế nào? Đối với phần dư g, sản lượng

ròng (dung tích của phần dư được hoàn trả lại môi trường) có thể được viết là:

(3.30)

Trong đó là dung tích của phần dư g bị loại bỏ (đầu ra của khu vực giảm thiểu g)

và là sản lượng ròng của g (dung tích không bị loại bỏ). Trừ phi có loại bỏ hoàn toàn,

điển hình sẽ là âm, nhưng mức độ của nó có thể là phải chịu sự kiểm soát, và trong

những tình huống lý tưởng có thể được lấy như thước đo của mức xả thải, chất thải hoặc

thiệt hại ròng được phép, tại đó thiệt hại cận biên và chi phí giảm thiểu là bằng nhau.

Bằng cách chỉ ra mức này như một cầu cuối cùng âm cho phần dư có liên quan, chúng ta

có một điều kiện cân bằng cho phép chúng ta xác định đầu ra của hoạt động giảm thiểu

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

cho phần dư đó.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 85

Dưới dạng ma trận:

(3.31)

Chúng ta bây giờ viết mô hình đầy đủ dưới dạng được phân chia sau đây:

(3.32)

F và D là các véc tơ của các biến độc lập: F là cầu cuối cùng cho các hàng hóa

chuẩn, và D là các mức xả thải, chất thải hoặc thiệt hại chấp nhận được hoặc được phép.

Một khi F và D được chỉ ra, chúng ta có thể giải cho X (các mức đầu ra công nghiệp) và

Z (các mức giảm thiểu):

(3.33)

Khi đã biết véc tơ lời giải , mức tiêu dùng tài nguyên thiên nhiên có thể được

tính theo công thức:

(3.34)

Trong đó R là ma trận của các hệ số đầu vào tài nguyên thiên nhiên.

Mặc dù có nhiều ứng dụng số của các mô hình đầu vào - đầu ra môi trường, không

có ứng dụng nào đạt được mức độ chi tiết và hoàn chỉnh của cấu trúc mô hình được phác

họa trên đây. Các vấn đề số liệu là nghiệt ngã, nói riêng trong mối quan hệ với các cấu

trúc chi phí và sản xuất của các hoạt động giảm thiểu, nhưng cũng trong cả định nghĩa và

đo lường của các kiểu xác định của hủy hoại môi trường.

Đối với hệ thống đầu vào - đầu ra môi trường mở rộng này, các tính toán chi phí -

giá có thể được giới thiệu theo một cách. Trên thực tế một dãy các tiếp cận đã được chấp

thuận, được quản lý một phần bởi khả năng sẵn có của số liệu và một phần bởi dạng đặc

biệt của mô hình. Ví dụ, các phương trình chi phí - giá cả cho các khu vực giảm thiểu

(các ma trận con IV, V và VI của Hình 2.1) có thể được hình thành sao cho giá của một

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

đơn vị giảm thiểu được xác định bởi chi phí sản xuất của nó. Trong thực hành, hoạt động

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 86

giảm thiểu hoặc loại bỏ có thể được tiến hành bởi và bên trong ngành công nghiệp hoặc

các ngành công nghiệp tạo ra ô nhiễm, và nó có thể là khó nhận biết chi phí của hoạt

động giảm thiểu.

Nếu số liệu đầy đủ về chi phí giảm thiểu là sẵn có hoặc có thể thu thập được, các

phương trình giá có thể được hình thành cho các khu vực giảm thiểu như

(3.35)

Trong đó là giá hoặc chi phí của việc loại bỏ một đơn vị của chất gây ô nhiễm g.

Những phương trình này được sử dụng như thế nào trong mô hình mở rộng còn phụ

thuộc vào cơ chế được chấp nhận cho việc thanh toán cho giảm thiểu hoặc loại bỏ. Nếu

pháp luật bắt buộc kẻ - gây - ô nhiễm phải thanh toán, thì các ngành công nghiệp gây ô

nhiễm sẽ mua các dịch vụ giảm thiểu từ các khu vực giảm thiểu, và chi phí của những

dịch vụ này sẽ được đưa vào trong giá của các ngành công nghiệp gây ô nhiễm. Giá đầu

ra cho ngành công nghiệp j bây giờ trở thành:

(3.36)

Trong đó là khối lượng dịch vụ giảm thiểu g cho một đơn vị đầu ra mà ngành

công nghiệp j yêu cầu mua, và là chi phí đơn vị của dịch vụ giảm thiểu g. Lời giải tổng

quát cho mô hình giá mở rộng khi đó trở thành:

(3.37)

Trong đó P, v, và A bây giờ bao gồm các ngành giảm thiểu. Một cách thay thế,

giảm thiểu/xử lý có thể được tài trợ thông qua thuế chung. Trong trường hợp này, giá cả

của ngành công nghiệp gây ô nhiễm không bị tác động (ít nhất một cách trực tiếp). Các

dịch vụ giảm thiểu được cung cấp bởi hoặc được mua bởi chính phủ (trung ương hoặc địa

phương) và được phân phát cho những người tiêu dùng như dịch vụ công cộng (ví dụ,

làm sạch nước sông, thu thập rác thải hộ gia đình, thải loại cất phóng xạ).

3.2.2.2. Ứng dụng mô hình tính toán phân bổ nguồn nước cho hệ thống Hồ Núi Cốc

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

phục vụ cho việc quản lý và phân bổ tài nguyên nước

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 87

Nước đóng một vai trò quan trọng đối với sự tồn tại của mọi sinh vật trên Trái

Đất. Trong cuộc sống thường ngày, con người không thể tồn tại được nếu không có nước.

Con người sử dụng nước cho nhiều mục đích khác nhau: phục vụ cho Nông

nghiệp, Công nghiệp, Thuỷ sản, Sinh hoạt, Du lịch và một số mục đích khác.

Nước ta là nước mà nông nghiệp chiếm chủ đạo trong nền kinh tế mà hiệu quả của

nó mang lại cho nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nguồn nước. Với tình hình nguồn nước

ngày càng khan hiếm cũng như sự biến động khó lường của thời tiết do biến đổi khí hậu

thì việc tính giá trị kinh tế của nước tưới tính toán giá trị kinh tế của nước là một công

việc cấp thiết, bởi vì nếu không lượng hóa và phân bổ chính xác giá trị của nước, chúng

ta không thể có được những quyết định rõ ràng cho mục đích kinh tế cũng như bảo tồn

nước một cách hiệu quả.

a. Tổng quan hệ thống Hồ Núi Cốc

Công trình đầu mối Núi Cốc được xây dựng tại xã Phúc Trìu- Thành phố Thái

Nguyên, nằm trên dòng sông Công. Hồ có diện tích F=535 km2 cung cấp nước tưới cho

12.000 ha diện tích đất Nông nghiệp, cung cấp nước cho công nghiệp 7,1m3/s, nước sinh

hoạt 0,1m3/s, có các thông số chính như sau:

Lưu vực hồ: Diện tích lưu vực: 535 km2, Chiều dài lưu vực= 54km, chiều rộng

bình quân lưu vực =10km;

Dung tích hữu ích 175.10^6 m3.

Dung tích phòng lũ: 240.10^6 m3.

Cao trình đỉnh đập : +49m.

Cao trình tường chắn sóng: +50m.

Cao trình ngưỡng tràn: +41,2m.

Chiều cao đập: 27m.

Nhu cầu dùng nước cho nhiệm vụ tưới chỉ cần đề cập tới vụ Đông và vụ Xuân vì

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

vụ Mùa thường có lượng nước đến rất phong phú, thường vượt quá nhu cầu nước và

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 88

thậm chí phải xả thừa nhằm đảm bảo an toàn cho bản thân công trình. Vì vậy chỉ đề cập

đến vụ Đông và vụ Xuân, từ tháng 10 năm trước đến hết tháng 5 năm sau.

Nhu cầu tưới cho cây lúa được tính theo tần suất bảo đảm 75%.

Theo tính toán trung bình mỗi năm hồ Núi Cốc phải đảm bảo cấp nước cho nông

nghiệp là 90.10^6 m3/năm.

Theo tính toán trung bình mỗi năm Hồ Núi Cốc phải đảm bảo cấp nước:

Cho nông nghiệp là: 70.10^6 m3/ năm (cho 3 vụ: Đông Xuân, Hè Thu, Thu

Đông).

Cho công nghiệp và sinh hoạt: 13.10^6 m3/năm.

Bán cho tỉnh bên cạnh: 10.10^6 m3/năm.

b. Xây dựng Mô hình bằng Quy hoạch động Phân bổ tối ưu nguồn nước ở Hồ Núi Cốc

+ Mô tả khu vực sử dụng nước ở Hồ Núi Cốc:

Để mô tả khu vực sử dụng Hồ Núi Cốc có thể được phân chía thành bốn nhóm gồm

nước Nông nghiệp, nước Công nghiệp, nước Sinh hoạt và nước cho các mục đính sử dụng

khác trong đó có cả nghề cá, vân tải và du lịch. Tùy thuộc vào cấu thành của mỗi nhóm,

mỗi nhóm được chia thành các nhóm con như trong khu vực Nông nghiệp có thể chia

thành các nhóm con theo kênh tưới ( Kênh Chính, Kênh Đông, Kênh Giữa, Kênh Tây).

+ Hàm mục tiêu:

Tối ưu lợi ích kinh tế từ việc sử dụng nước ở hồ Núi Cốc phục vụ cho sản xuất

Nông nghiệp (sản xuất lúa).

Với mục tiêu là cực đại lợi ích nhận được, xác đinh quỹ đạo vận hành mang lại lợi

ích tối ưu.

Vì vậy, hàm mục tiêu cần cực đại là: rmax=rvụ Đông Xuân + rvụ Hè Thu + rvụ

Thu Đông

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

+ Nhận xét: Giai đoạn bắt đầu: Mùa Đông Xuân.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 89

Trạng thái bắt đầu Sn.

Hướng đi: dn.

Phiếm hàm mục tiêu có dạng như sau:

W= với ri = r(Sn,Sn+1,Xn).

i =1,2,3 tương ứng với giai đoạn các vụ Đông Xuân, vụ Hè Thu, vụ Thu Đông.

Với các ràng buộc động sau:

Sn+1= Sn + QFn – dn.

Šn = Sn+1.

+ Phân tích :

Thiết lập bài toán theo vụ gieo trồng của sản xuất Nông nghiệp, 3 vụ: vụ Đông

Xuân, vụ Hè Thu, vụ Thu Đông. Mỗi vụ được coi như một giai đoạn. Quá trình điều hành

Hồ Núi Cốc trong 1 năm được chia làm 3 giai đoạn bởi 4 thời điểm n=0,1,2,3. Thời điểm

n=0 ứng với đầu vụ Đông Xuân và cũng là thời điểm xuất phát của quá trình điều khiển.

n

Giai đoạn n:

Biến trạng thái: Biến trạng thái đầu vào Sn.

Biến trạng thái đầu ra Sn+1.

Biến quyết đinh (Biến điều khiển): dn.

Kết quả thu được: rn (là kết quả thu được tại thời điểm n, chỉ phụ thuôc vào biến

đầu vào, đầu ra và biến quyết định tại thời điểm n).

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

rn : max.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 90

Các ràng buộc động thể hiện mối quan hệ giữa lượng nước trữ lại trong hồ đầu vụ

và cuối vụ thứ n là: Sn(Lượng nước trong hồ lúc đầu vụ) + QFn (Lượng nước vào hồ

trong vụ) – Xn (Lượng nước xả trong vụ) = Sn+1 (Lượng nước trong hồ vào đầu vụ sau).

Nghĩa là: Sn+1= Sn + QFn – Xn.

Sn+1 là lượng nước trữ lại trong hồ ở cuối gia đoạn n và cũng là lượng nước trữ

lại trong hồ ở đầu giai đoạn (n+1)

Nghĩa là: Šn = Sn+1.

c. Mô hình Quy hoạch động:

Nguyên tắc cơ bản của lý thuyết QHĐ là chuyển bài toán tối ưu có quy mô lớn với

nhiều biến (chẳng hạn N biến) nhiều giai đoạn thành một chuỗi N bài toán tối ưu nhỏ hơn

(gọi là bài toán con), đơn giản hơn mà trong mỗi bài toán con chỉ có một hoặc một vài

biến và một giai đoạn mà thôi. Tất nhiên những bài toán con có liên hệ mật thiết với nhau

sao để sao cho nghiệm của chuỗi các bài toán con cũng là nghiệm của bài toán gốc.

Thành phần của một bài toán QHĐ:

Quy hoạch động là một quá trình tối ưu một chuỗi các bài toán con để tìm nghiệm

cho cả chuỗi.

Bài toán tối ưu lớn đã được thay thế bằng một chuỗi N bài toán con của mô hình

QHĐ. Mô hình này có những đặc trưng sau đây:

Giai đoạn – Stage (n): Nếu bài toán tối ưu có thể chia thành N bài toán con, thì sẽ

có N giai đoạn, mà mỗi giai đoạn sẽ tồn tại một biến chính cần xác định để đạt được mục

tiêu tối ưu hóa giai đoạn đó.

Biến chính (Xn): Biến chính hay biến quyết định là biến cần được xác định để đạt

được mục tiêu tối ưu của giai đoạn. Mỗi giai đoạn thường có một biến chín, cho đến một

vài biến chính.

Biến trạng thái – State Variables (Sn): Biến trạng thái thể hiện trạng thái của hệ

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

thống tại các giai đoạn. Biến trạng thái có thể mang tính liên tục hay rời rạng, có thể hữu

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 91

hạn hay vô hạn. Mỗi giai đoạn có một biến trạng thái vào và một biến trạng thái ra (kết

quả), biến trạng thái ra của giai đoạn này là biến đầu vào của giai đoạn tiếp theo. Biến

trạng thái đã liên kết với nhau thành một chuỗi gắn kết hữu cơ. Do đó nếu như tất cả các

giai đọn đều đã tối ưu hóa thì tổng thể cũng sẽ được tối ưu.

Kết quả giai đoạn – Stage Return (rn): Kết quả giai đoạn là chỉ số và thước đo

đánh giá mức độ tối ưu của giai đoạn. Nó là hàm của biến trạng thái vào, biến trạng thái

ra và biến chính của mỗi giai đoạn. Tức là: rn = r(Sn, Sn+1, Xn).

Phép biến đổi trạng thái – Stage Tranformation hay phép biến đổi giai đoạn –

Transition (tn): Là phép biến đổi thể hiện mối quan hệ giữa biến trạng thái vào, biến

trạng thái ra và biến chính. Như vậy thông qua phép biến đổi này, tại bất kỳ giai đoạn

nào, biến trạng thái ra sẽ là hàm số của biến trạng thái vào và biến chính của giai đoạn.

Nghĩa là: Sn+1 = tn (Sn, Xn).

Đặc điểm chung của bài toán QHĐ:

Những đặc điểm cơ bản chung nhất áp dụng cho tất cả câc bài toán QHĐ được rút

ra như sau:

+ Bài toán được chia thành nhiều giai đoạn, ở mỗi giai đoạn có biến quyết định

của giai đoạn đó.

+ Mỗi giai đoạn có các biến trạng thái của nó (biến trạng thái đầu vào và trạng thái

đầu ra).

+ Kết quả trong mỗi giai đoạn được thể hiện thông qua biến trạng thái đầu vào,

biến trạng thái đầu ra và biến chính trong mỗi giai đoạn đó. Đồng thời, chuyển biến trạng

thái của giai đoạn này sang giai đoạn tiếp theo thông qua phép biến đổi trạng thái.

Bài toán: Phân bổ tối ưu lượng nước trong Hồ Núi Cốc phục vụ cho các khu vực

Nông nghiệp, Công nghiệp, Sinh hoạt và nước sử dụng cho mục đích khác để tối đa lợi

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

ích mang lại cho toàn bộ nền kinh tế.

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 92

Từ bài toán trên ta có thể chia ra việc cung cấp nước từ Hồ Núi Cốc cho các khu

vực kinh tế theo 3 mùa vụ (3 giai đoạn), thì có thể chia bài toán thành 3 bài toán con mà

ở mỗi bài toán con đó cần thỏa mãn tiêu chuẩn max lợi nhuân của chính nó cùng với giai

đoạn trước.

Áp dụng lý thuyết QHĐ để giải, trước tiên cần xác định rõ các thành phần của bài

toán.

+ Giai đoạn (n): Có 3 giai đoạn, n=0,1,2,3. Mỗi mùa được coi như một giai đoạn.

Tại thời điểm n=0 ứng với đầu vụ Chiêm và cũng là điểm xuất phát của quá trình điều

khiển; Thời điểm n=3 ứng với cuối vụ Đông và cũng là thời điểm kết thúc của quá trình

điều khiển.

+ Biến chính (Xn): Biến chính của bài toán chính là lượng nước xả ra khỏi Hồ Núi

Cốc trong từng vụ. Biến này còn được gọi là Biến điều khiển hay Biến quyết định.

+ Biến trạng thái (S): có 2 biến trạng thái đầu vào (Sn) và biến trạng thái đầu ra

(Sn+1).

+ Kết quả giai đoạn (rn): Kết quả giai đoạn trong bài toán này chính là lợi nhuận

đạt được cho mỗi quyết định xả nước ở từng vụ. Hàm rn = r(Sn, Sn+1, Xn).

+ Phép biến đổi trạng thái: Sn+1 = tn (Sn, Xn).

+ Giải bài toán QHD:

Hàm mục tiêu: W=

* Šn = Sn + QFn –Xn

Sđông xuân + QFđông xuân – (XNN1 + XCN1 + XSH1 + XK1)= Shè thu

Shè thu + QFhè thu – (XNN2 + XCN2 + XSH2 + XK2)= Sthu đông

Sthu đông + QFthu đông – (XNN3 + XCN3 + XSH3 + XK3)= Scuối thu đông.

* Šn= Sn+1.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Šđông xuân = Shè thu

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 93

Šhè thu= Sthu đông

Šthu đông=Scuối thu đông.

Với : Xđông xuân= XNN1 + XCN1 + XSH1 + XK1

Xhè thu = XNN1 + XCN1 + XSH1 + XK1

Xthu đông = XNN1 + XCN1 + XSH1 + XK1

Hồ Núi Cốc cung cấp nước phục vụ cho các khu vực: Nông nghiệp, Sinh hoạt,

Công nghiệp, Du lịch. Để đạt được lợi ích tối đa, cần phải đánh đổi giữa các khu vực

kinh tế, đánh đổi nước tưới cho nông nghiệp giữa các vụ trong năm, đánh đổi giữa việc

cung cấp nước cho các kênh.

Giả sử như với vụ Đông Xuân, nước phục vụ cho tưới nông nghiệp thì ta có:

Xnông nghiệp= Xkênh chính + Xkênh đông + Xkênh giữa + Xkênh tây.

Để xác định được lợi ích nước mang lại từ việc tưới nước cho nông nghiệp ta cần

xây dựng nên đường cầu nước tưới nông nghiệp cho mỗi kênh.

Phương pháp tính cầu nước tưới dựa vào giá trị phần dư

Về mặt lý thuyết, mô hình sản xuất mùa vụ (ví dụn như ngũ cố, khoai, sắn, đậu

nành,…) thường được các nhà kinh tế mô tả như một “hộp đen” có các đầu vào là vốn

(K), lao động (L), đất đai (R), phân bón (F), thuốc trừ sâu (Pe), thuốc diệt cỏ (He), và

tưới (W) và đầu ra là năng suất của mùa vụ (Y). Mô hình này được thể hiện qua hình vẽ

dưới đây:

Hàm sản xuất : Hàm sản xuất: Q( K, L, R, W…. )

P*Q = PK*K + PL*L + PR*R + PF*F + PPe*Pe + PHe*He + PW*W

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 94

Chúng ta thấy hầu như tất cả các đầu vào và đầu ra của mô hình tưới này đều được

trao đổi trên thị trường cạnh tranh gần như hoàn hảo, ngoại trừ nhập lượng tưới. Do vậy,

giá trị của tưới có thể được tính bằng cách lấy tổng giá trị đầu ra của sản xuất nông

nghiệp trừ đi các giá trị của đầu vào ngoài nước. Giá trị phần dư còn lại sẽ là giá trị của

tưới.

PW*W = P*Q – (P*K + P*L + PR*R + PF*F + PPe*Pe + PHe*He)

Tức là, theo định nghĩa truyền thống, diện tích của phần mặt phẳng nằm dưới

đường cầu tưới, phía trên trục hoành và bị chặn bởi hai đường thẳng đứng thể hiện cận

trên và cận dưới của khối lượng nước tưới.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Hình 3: Giá trị phần dư của nước tưới

Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Trang 95

Bảng 2: Bảng dữ liệu tính toán đường cầu

b

Đông Giữ

Tây

Giữa Tây

Đông Giữa

Tây

Vụ Hè Thu Chính Đông

Kênh

Vụ Đông Xuân Chín h 588

2467,90 2597,

Vụ Thu Đông Chí nh 511 1399,3 1472,9 3208,8

DT(ha)

3692, 6

a 169 5 4,86 4,86 25

30

1610, 3 4,86 25

4,86 20

5659, 2 4,72 30

7 4,72 25

3,99 3,99 20

25

3,99 25

3,99 30

901,1 0 4,72 20

4,72 25

7500

3000

2500

5300

208

NS(T/ha) Tổn thất(%) Nhu cầu nước(m3/h a) Lượng mưa HQ (m3/ha)

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Trang 96 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

Từ những số liệu ở trên, kết hợp với cách xây dựng đường cầu theo Hàm sản

xuất của người nông dân Q(K,L,R) ta được:

* Vụ Đông Xuân

- Kênh chính : p= 805,376-219,150w

- Kênh Đông: p= 755,040- 70,332w.

- Kênh Giữa: p= 755,040- 66,818w

- Kênh Tây: p= 704,704- 26,718w

* Vụ Hè Thu

- Kênh Chính:p= 329,134- 132,821w

- Kênh Đông: p= 308,563- 42,624w

- Kênh Giữa: p= 308,563- 40,494w

- Kênh Tây: p= 287,992- 16,192w

* Vụ Thu Đông

- Kênh Chính: p= 6174,606-3462,286w

- Kênh Đông: p=5788,693-1111,260w

- Kênh Giữa: p=5788,873-1055,731w

- Kênh Tây: p= 5402,780-422,141w.

Từ việc xây dựng các phương trình đường cầu cho 4 kênh ở 3 vụ, ta sẽ tính

được lợi ích thu được với 1 đơn vị nước tưới mà hồ Núi Cốc cung cấp cho các kênh,

trong từng vụ.

Gọi: x11,x12,x13,x14: lần lượt là lượng nước tưới hiệu quả qua 4 kênh vào Vụ Đông Xuân.

x21,x22,x23,x24:lần lượt là lượng nước tưới hiệu quả qua 4 kênh vào vụ Hè Thu.

x31, x32,x33,x34:lần lượt là lượng nước tưới hiệu quả qua 4 kênh vào vụ Thu Đông.

Ta có, Tổng lợi ích thu được:

* Vụ Đông Xuân:

(-219,150*x11^2 + 805,376) + (-70,332*x12^2+ 755,040) + (-66,818*x13^2 +

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

755,040) + (-26,718*x14^2 + 704,704).

Trang 97 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

s.t. X11 <=B11/A11

X12 <=B12/A12

X13<=B13/A13

X14<=BB14/A14

Lượng nước tưới cho vụ Đông Xuân: xđông xuân= x11 + x12 + x13+ x14.

* Vụ Hè Thu:

(-132,821*x21^2 +329,134) + (-42,624*x22^2 + 308,563) + (-40,624*x23^2 +

308,563) + (-16,192*x24^2 –+287,992).

s.t.

X21 <=B21/A21

X22<=B22/A22

X23<=B23/A23

X24 <=B24/A24

Lượng nước tưới cho vụ Hè Thu: xhè thu = x21 + x22 + x23 + x24.

* Vụ Thu Đông :

(-3462,286*x31^2 + 6174,606) + (-1111,260*x32^2 + 5788,693) + (-1055,731*x33^2

+ 5788,693) + (-422,141*x34^2 + 5402,780).

s.t.

X31 <=B31/A31

X32<=B32/A32

X33<=B33/A33

X34<=B34/A34

Lượng nước tưới cho vụ Thu Đông: xthu đông =x31 + x32 + x33 + x34.

d. Giải bài toán quy hoạt động bằng phần mềm Lingo

Từ mô hình lý thuyết và mô hình toán đã xây dựng ở trên, chúng ta áp

dụng phần mên LINGo để tìm ra lời giải

+ Thân chương trình:

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Trang 98 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

MAX= Chiem + Mua + Dong;

B11=589.4123484; B12=684.1165159; B13=763.0366555; B14=675.9079024;

-0.5*A11*X11^2+B11*X11+ -0.5*A12*X12^2+B12*X12+ -0.5*A13*X13^2+B13*X13+ -0.5*A14*X14^2+B14*X14;

B24=294.34564451;

-0.5*A21*X21^2+B21*X21+ -0.5*A22*X22^2+B22*X22+ -0.5*A23*X23^2+B23*X23+ -0.5*A24*X24^2+B24*X24;

B31=1642.480394; B32=1857.575238; B33=2024.871227; B34=1212.281069;

!********* VU DONG XUAN ***********; A11=104.3751034; A12=64.61100428; A13=63.58638795; A14=47.12211956; Chiem = X11<=B11/A11; X12<=B12/A12; X13<=B13/A13; X14<=B14/A14; X_CHIEM=X11+X12+X13+X14; !********** VU HE THU **************; B21=89.73658923; A21=39.11594915; A22=22.0677551; B22=93.46343334; A23=21.55506657; B23=106.5073877; A24=55.7859379; Mua = X21<=B21/A21; X22<=B22/A22; X23<=B23/A23; X24<=B24/A24; X_MUA=X21+X22+X23+X24; !********** VU DONG ****************; A31=816.4313981; A32=593.5771581; A33=641.2332848; A34=379.1534589; Dong =

-0.5*A31*X31^2+B31*X31+ -0.5*A32*X32^2+B32*X32+ -0.5*A33*X33^2+B33*X33+

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Trang 99 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

-0.5*A34*X34^2+B34*X34;

X31<=B31/A31; X32<=B32/A32; X33<=B33/A33; X34<=B34/A34; X_DONG=X31+X32+X33+X34; TONG_LUONG_TUOI = X_CHIEM+X_MUA+X_DONG; ! *** RANG BUOC QUY HOACH DONG ***; S1 = 175; QF1=41;QF2=59.777;QF3=69.233; S4=175; S1+QF1-SUDUNGNUOC1=S2; S2+QF2-SUDUNGNUOC2=S3; S3+QF3-SUDUNGNUOC3=S4; Rows= 23 Vars= 24 No. integer vars= 0 Nonlinear rows= 3 Nonlinear vars= 12 Nonlinear constraints= 3 Nonzeros= 71 Constraint nonz= 53 Density=0.123 No. < : 12 No. =: 10 No. > : 0, Obj=MAX Single cols= 4 Local optimal solution found at step: 35 Objective value: 75746.89 Variable Value Reduced Cost CHIEM 30711.16 0.0000000 MUA 26526.32 0.0000000 DONG 18509.41 0.0000000 A11 104.3751 0.0000000 B11 589.4123 0.0000000 A12 64.61100 0.0000000 B12 684.1165 0.0000000 A13 63.58639 0.0000000 B13 763.0367 0.0000000 A14 47.12212 0.0000000 B14 675.9079 0.0000000 X11 5.647059 0.0000000 X12 10.58823 0.0000000 X13 12.00000 0.0000000 X14 14.34375 0.0000000 X_CHIEM 42.57904 0.0000000 A21 39.11595 0.0000000 B21 89.73659 0.0000000 A22 22.06776 0.0000000 B22 93.46343 0.0000000 A23 21.55507 0.0000000 B23 106.5074 0.0000000 A24 55.78594 0.0000000 B24 294.3456 0.0000000 X21 2.294118 0.0000000 X22 4.235294 0.0000000 X23 4.941176 0.0000000 X24 5.276341 0.0000000

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Trang 100 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

X_MUA 16.74693 0.0000000 A31 816.4314 0.0000000 B31 1642.480 0.0000000 A32 593.5772 0.0000000 B32 1857.575 0.0000000 A33 641.2333 0.0000000 B33 2024.871 0.0000000 A34 379.1535 0.0000000 B34 1212.281 0.0000000 X31 2.011780 0.0000000 X32 3.129459 0.0000000 X33 3.157776 0.0000000 X34 3.197336 0.0000000 X_DONG 11.49635 0.0000000 TONG_LUONG_TUOI 70.82232 0.0000000 S1 175.0000 0.0000000 QF1 41.00000 0.0000000 QF2 59.77700 0.0000000 QF3 69.23300 0.0000000 S4 175.0000 0.0000000 SUDUNGNUOC1 0.0000000 0.0000000 S2 216.0000 0.0000000 SUDUNGNUOC2 0.0000000 0.0000000 S3 275.7770 0.0000000 SUDUNGNUOC3 170.0100 0.0000000 Row Slack or Surplus Dual Price 1 25746.13 1.000000 2 0.0000000 -15.94463 3 0.0000000 5.647059 4 0.0000000 -56.05536 5 0.0000000 10.58823 6 0.0000000 -71.99999 7 0.0000000 12.00000 8 0.0000000 -102.8716 9 0.0000000 14.34375 10 -0.1818989E-11 1.000000 11 0.2656349E-06 -0.3221127E-05 12 0.5044079E-06 -0.1717935E-05 13 0.6037209E-06 0.0000000 14 0.7580650E-06 0.1268141E-05 15 0.0000000 0.0000000 16 0.0000000 -2.631488 17 0.0000000 2.294118 18 0.0000000 -8.968857 19 0.0000000 4.235294 20 0.0000000 -12.20761 21 0.0000000 4.941176 22 0.0000000 -13.91989 23 0.0000000 5.276341 24 0.0000000 1.000000 25 0.1168392E-06 0.0000000 26 0.1439730E-06 -0.1610564E-05 27 0.1005174E-06 -0.3221127E-05 28 0.2618397E-06 -0.4309306E-06 29 0.0000000 0.0000000 30 0.0000000 -2.023629 31 0.0000000 2.011780

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Trang 101 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

32 0.0000000 -4.896756 33 0.0000000 3.129459 34 0.0000000 -4.985775 35 0.0000000 3.157776 36 0.0000000 -5.111479 37 0.0000000 3.197336 38 0.0000000 1.000000 39 0.1027403E-06 0.0000000 40 0.1556594E-06 0.5812473E-05 41 0.1667873E-06 0.5760350E-05 42 0.1716960E-06 0.5689078E-05 43 0.0000000 0.0000000 44 -0.1421085E-13 0.0000000 45 0.0000000 0.0000000 46 0.0000000 0.0000000 47 0.0000000 0.0000000 48 0.0000000 0.0000000 49 0.0000000 0.0000000 50 0.0000000 0.0000000 51 -0.4272461E-06 0.0000000 52 -0.1708984E-05 0.0000000

+ Phân tích kết quả:

Giá tri tối ưu mà nước mang lại cho ngành nông nghiệp là 75.746,89

(triệu đồng), cụ thể là các vụ mang lại là: CHIEM 30.711,16

MUA 26.526,32 DONG 18.509,41

Lượng nước tưới cho các vụ và các kênh là

- Vụ Đông Xuân 36.96052 với kênh chính, kênh đông, kênh giữa, kênh tây lần lượt là:

X11 5.647059 X12 10.58823 X13 12.00000 X14 14.34375

- Vụ Hè Thu 16.74693 với kênh chính, kênh đông, kênh giữa, kênh tây lần lượt là:

X21 2.294118 X22 4.235294 X23 4.941176 X24 5.276341

- Vụ Đông 11.49635 với kênh chính, kênh đông, kênh giữa, kênh tây lần lượt là:

X31 2.011780 X32 3.129459 X33 3.157776

X34 3.197336

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Trang 102 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Qua thời gian học tập và thực hiện Luận văn thạc sĩ, tác giả đã học tập được

nhiều điều mới trong lĩnh vực Kinh tế tài nguyên môi trường nói chung và Tài

nguyên nước nói riêng. Một số kết quả đạt được được như sau:

Đã học được nhiều kiến thức mới bên ngoài những cuốn sách giáo khoa trong

nhà trường. Cụ thể là tác giả đã được tiếp cận và nghiên cứu một số mô hình về

Kinh tế tài nguyên môi trường như mô hình CGE.

Trong nội dung học tập trên lớp môn Kinh tế Tài nguyên Môi trường, tác giả

chưa thấy được ngay những hàm ý khoa học cho một thực tế rộng lớn của cuộc

sống. Nhưng trong quá trình thực hiện luận văn, tác giả đã được cọ xát với những

khó khăn thực sự trong thực tế Hệ thống Tài nguyên môi trường nói chung và Hệ

thống tài nguyên nước nói riêng, để nhận thấy rằng còn cần phải làm rất vất vả để

đưa khoa học vào cuộc sống để cải thiện hiệu quả của các hoạt động kinh tế xã hội.

Tác giả cũng nhận thức được rằng các cán bộ trong các cơ quan quản lý và khai

thác tài nguyên nước đã phải nỗ lực làm việc như thế nào để đạt được những kết quả

trong thực tế. Và công tác thống kê, theo dõi số liệu của các hoạt động kinh tế là rất

cần thiết trong việc phân tích các chính sách để đưa ra các chính sách phù hợp, hiệu

quả cho xã hội.

Tác giả cũng nhận thấy được những hàm ý vô cùng quan trọng, là những ảnh

hưởng như tác động xả thải các chất gây ô nhiễm tưởng chừng rất nhỏ trong ngắn

hạn nhưng lại rất nguy hiểm trong dài hạn, thậm chí có thể dẫn tới những hậu quả

không thể phục hồi. Qua nghiên cứu mô hình CGE trong quản lý tài nguyên và

chính sách môi trường tác giả nhận thấy rằng để xây dựng và tìm được nghiệm cho

mô hình cân bằng tổng quát chung là việc làm không đơn giản, tuy nhiên để làm

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

được việc này sẽ cần một hệ thống thống kê phù hợp ở tất cả các ngành.

Trang 103 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Nguyễn Thị Kim Nga (2006), Giáo trình Kinh tế t i nguyên môi trường , Nhà

xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

2. TS. Nguyễn Văn Song, TS. Vũ Thị Phương Thuỵ, Kinh tế t i nguyên môi trường,

Trường Đại học nông nghiệp.

3. TSKH. Nguyễn Trung Dũng, Giáo trình Kinh tế môi trường, Đại học Thủy lợi.

4. PGS. TS. Nguyễn Khắc Minh (2004),Tối ưu hóa động trong phân tích kinh tế,

Đại học Kinh tế Quốc dân.

5. TS. Nguyễn Quang Dong, TS. Nguyễn Khắc Minh, GS. TSKH. Vũ Thiếu, Kinh

tế lượng, Đại học Kinh tế Quốc dân.

6. Ths. Luật Nguyễn Thị Phương Loan, Khung pháp lý ề t i nguyên nước ở Việt

Nam, Đại học Cần Thơ.

7. Lê Minh Hoàng (1999-2002), Giải thuật & Lập trình, Đại học Sư phạm Hà Nội.

8. PGS.TS. Phó Đức Anh,PGS.TS. Đặng Hữu Đạo, Phân tích tối ưu hóa hệ

thống, Trường Đại học Thủy lợi.

… Tiếng Anh

1. Shantayanan Devarajan and Delfin S. Go, The Simplest Dynamic General-

Equilibrium Model of an Open Economy, The World Bank.

2. Hans Lofgren, Rebecca Lee Harris, Sherman Robinson, With assistance from

Marcelle Thomas, Moataz El-Said, A Standard Computable General Equilibrium

(CGE) Model in GAMS, International Food Policy Research Institute.

3. Professor Steven C. Hackett (2006), Environmental and Natural Resources

Economics: Theory, Policy, and the Sustainable Society.

4. Lars Bergman, CGE Modeling of Environmental Policy and Resource

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K

Management, Stockholm School of Economics, Stockholm, Sweden.

Trang 104 Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT

5. Jian Xie and Sidney Saltzman, Environmental Policy Analysis: An

Environmental Computable General – Equilibrium Approach for Developing

Countries, Department of City and Regional Planning, Cornell University..

6. Nobuhiro Hosoe Associate Professor, Computable General Equilibrium

Modeling with GAMS, National Graduate Institute for Policy Studies.

7. PETER B. DIXON and B.R. PARMENTER, Computable General Equilibrium

Modelling for Policy Analysis and Forecasting, Monash University.

8. Tom Tietenberg, Environmental & Natural Resource Economics, Colby College,

Lynne Lewis, Bates College.

9. Tom Tietenberg, Environmental Economics and Policy, Colby College.

10. Xia Jun, Deng Qun, Sun Yangbo, Integrated Water and CGE Model of the

Impacts of the Water Policy on the Beijing’s Economy and Output.

Học viên: Bùi Xuân Trường

Lớp 17K