Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT
Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
Trang 1
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN
CHÍNH SÁCH MÔI TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
1.1. Thực trạng việc quản lý tài nguyên môi trường ở Việt Nam
Hiện nay Việt nam vẫn một nước đang phát triển, một đất nước trải qua nhiều
cuộc chiến tranh đô h tàn dư của các cuộc chiến tranh để lại vẫn còn rất nặng
n. H thống khung pháp luật chưa hoàn chỉnh, các chính ch v các lĩnh vực cũng
đang được Nhà nước rất quan tâm nghiên cứu. Trong các lĩnh vực được quan m
trong đó lĩnh vực quản tài nguyên môi trường đang được đề cập nhiều để đưa
ra những chính sách phù hợp với điều kiện thực tế phát triển đất nước.
đây tác gi xin được đi sâu vào lĩnh vực tài nguyên nước sau đây tóm
lược hiện trạng ngành nước của Việt Nam trong điều kiện dân số, sự tăng trưởng và
thay đổi cấu kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ. Mục này tập trung vào cách tiếp cận
Quản lý Tài nguyên Nước Tổng hợp (QLTNNTH) để quản lý, những thay đổi
tổ chức cần thiết đối với ngành nước để Việt Nam thể nắm bắt đi theo cách
tiếp cận mới này. nêu ra mối quan hệ tổng thể những vấn đliên quan cần
phải được đưa vào một chương trình cải tổ ngành.
1.1.2. Bối cảnh phát triển
Việt Nam hiện đang nước đông dân số thứ 5 trên thế giới. Năm 2009, dân số
Việt Nam trên 86 triệu người dự báo sẽ đạt đến con số 100 triệu người trong
vòng 20 m tới và sổn định quanh mức 120 triệu người vào giữa thế kỷ này. Tuy
nhiên, mặc cứ một m dân số lại tăng 1 triệu người, tốc độ tăng dân số đã giảm
đáng kể trong thập niên 90 của Thế k 20 vừa qua. Khoảng một phần ba dân số hiện
nay đang sinh sống lưu vực sông Hồng Thái Bình, gần 21% Đồng bằng Sông
Cửu Long (ĐBSCL) và 15% ở lưu vực sông Đồng Nai.
Phân bố dân đang sự chuyển dịch từ nông thôn ra thành thị đến các
vùng kinh tế mới. Trong khoảng thời gian từ 1995 đến 2005, dân số thành thị tăng
Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT
Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
Trang 2
từ 15 triệu lên 22,4 triệu đã tạo nên một áp lực lớn cho đầu sở hạ tầng làm
gia tăng ô nhiễm môi trường. Trên phạm vi toàn quốc, luôn một lượng người di
đều đặn từ Bắc vào Nam. bốn vùng chyếu thu hút làn sóng di cư: vùng đô
thị thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, và các tỉnh Tây Nguyên.
Trong vòng 20 m tới, lượng dân số gia tăng trên sẽ đòi hỏi một lượng nước từ
4 đến 4,5 triệu ngày đêm, hay 8–9 triệu m³/ngày đêm nếu tính cả nhu cầu cho
các hoạt động sản xuất công nghiệp đi m gấp đôi khả năng cấp nước hiện tại.
Các trung tâm đô thị cũng đang thải ra ra lượng nước thải rất lớn, trong khi đó, trên
toàn quốc chỉ vài phần trăm lượng nước thải này được xử trước khi đưa vào
nguồn nước thiên nhiên. Khối lượng đầu tư cần thiết để đáp ứng các Mục tiêu Thiên
niên k(MTTNK) của Việt Nam về cấp nước vệ sinh nông thôn đô thị tới
năm 2020 ước tính 600 triệu USD mỗi năm gấp gần 4 lần đầu hàng m
trong hơn 10 năm qua. Khoản đầu trong qkhứ, đặc biệt cho khu vực đô thị,
chủ yếu là từ nguồn vốn ODA (gần 85% trong số 1 tỷ USD được đầu tư).
ràng một trong những áp lực lớn nhất đến tài nguyên nước ngành nước
do sự tăng trưởng mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, và thay đổi trong cơ cấu kinh
tế. Sự phát triển mạnh kinh tế dẫn đến việc tiêu thụ ngày càng nhiều nguồn tài
nguyên, đòi hỏi một nguồn ớc tốt hơn, tạo ra sự tập trung dân số lớn, quan
trọng hơn cả tạo ra lượng nước thải bị ô nhiễm cùng các chất thải khác. Nền kinh
tế đã đang chứng kiến tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5% và
D báo trong hai năm tới đạt 6,4% 6.7%. Với tốc độ tăng trưởng hiện tại, sản
phẩm của kinh tế của Việt Nam sẽ tăng gấp đôi sau mỗi thời gian 10 năm.
Trong vòng 10 m qua, GDP đã ng gần gấp 3 lần. Các ngành công nghiệp,
xây dựng dịch vụ tăng trưởng mạnh. Sản xuất công nghiệp duy trì mức tăng
trưởng cao ổn định. Nông nghiệp, lâm nghiệp thu sản cũng mức tăng
trưởng cao nhưng với mức tăng thấp hơn.
cấu tăng trưởng kinh tế trên phạm vi toàn quốc rất không đồng đều. dụ,
lưu vực sông Đồng Nai mức phát triển nhanh hơn mức trung bình của cả nước,
trong khi các lưu vực khác như sông Trà Khúc, lại những lưu vực rất
Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT
Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
Trang 3
nghèo, với cấu kinh tế tương tự với cấu kinh tế của Việt Nam 1520 m
trước. Ba lưu vực sông đóng góp trên 70% o GDP của Việt nam lưu vực sông
Hồng-Thái Bình (25%), ĐBSCL (17%), lưu vực sông Đồng Nai (28%). Tỉ trọng
của Nhóm u vực sông Đông Nam bộ 10%. Điều y cho thấy cấu tăng
trưởng kinh tế rất không đồng đều. Quan trọng Việt nam cần nhận thức được sự
khác biệt trên cần ưu tiên phát triển tài nguyên ớc để hỗ trợ cho cả người dân
và phát triển kinh tế.
Bước tiến của Việt nam vào một nền kinh tế thị trường vẫn trong giai đoạn quá
độ. Các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) vẫn chiếm phần lớn trong nền kinh tế.
Quá trình cải tổ các DNNN hay quá trình ‘cổ phần hóa” diễn ra chậm chạp trong
những năm gần đây và đóng góp của các DNNN chiếm khoảng 39% cho cả GDP
đầu ra ngành công nghiệp 35% tỉ trọng xuất khẩu sản phẩm không phải dầu
mỏ. Khu vực các DNNN thường hoạt động kém hiệu quả hơn so với khu vực ngoài
quốc doanh. Điển hình gần đây việc thất thoát hàng nghìn t đồng của Tập Đoàn
Công nghiệp Tầu thu Việt Nam (VINASHIN), việc Kinh doanh thua l của Tập
đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), ..Việc đối xthiên vị đối với các DNNN đã khiến
khu vực ngoài quốc doanh mất đi nhiều hội tăng trưởng. Các DNNN cũng sở
hữu một số ngành công nghiệp y ô nhiễm nhất cả nước. Việc tiếp tục cải tổ các
DNNN rất cần thiết, sẽ tạo ra “sân chơi công bằng giữa khu vực quốc
doanh và ngoài quốc doanh.
Chính phủ Việt Nam rõ ràng kvọng tốc độ của cải tổ kinh tế sẽ được tiếp tục
duy trì trong tương lai, điều y sẽ tạo nên áp lực lớn hơn cho tài nguyên nước.
Trong các quy hoạch các ngành, chỉ đối với phát triển thủy điện tài chính mới
không vấn đề. Tất ccác quy hoạch các ngành khác ờng như quá tham vọng
và phần lớn không có nguồn vốn.
Thủy điện ngành ảnh tác động lớn đến tài nguyên nước nhiều lưu vực
sông. Trong những năm gần đây, phát triển thu điện diễn ra nhanh và sẽ tiếp tục đà
phát triển y. Sơ đồ Tổng quan VI ngành điện quy hoạch nhằm đáp ứng nhu cầu
điện năng trong giai đoạn 2006–2015, trong quy hoạch có đưa ra kế hoạch xây dựng
Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT
Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
Trang 4
thêm 26 hồ chứa, trong đó một số hồ chứa đang được xây dựng. So với các nước
trên thế giới, Việt Nam nước tiềm ng thuđiện tương đối nhỏ - tối đa
85.000 GWh/năm, so với 130.000 GWh/năm của Nhật Bản, 320.000 GWh/năm của
Ấn Độ 1.300.000 GWh/năm của Trung Quốc. Vào m 2010, khoảng 50% tiềm
năng kthuật kinh tế trên toàn quốc đã được triển khai. Tuy nhiên, vào năm
2025, tỉ lệ y dự định sẽ tăng lên 83%, một tỉ lệ rất cao, góp phần đưa Việt nam
thành quốc gia có tỉ lệ tận dụng tiềm năng thủy điện ở mức cao nhất.
Kế hoạch phát triển kinh tế hội đưa ra một danh mục các dự án đầu tư. Các
dự án liên quan đến nước được tài trợ từ ngân sách quốc gia với tổng kinh phí
78.000 tỉ đồng trong đó các dự án thuỷ điện chiếm đến 64%. c dự án phòng
chống thiên tai chiếm 14%, đô thị 10%, nước sạch vệ sinh ng thôn 9%, tưới
3%. Một phần kinh phí bổ sung 32.500 tỉ đồng vốn đầu được lấy từ nguồn trái
phiếu chính phủ, toàn bộ kinh phí y được dành cho các công trình thulợi.
Các dự án ODA cam kết ước tính tổng giá trị 677 triệu USD. Khoảng 90%
các dự án liên quan đến cấp nước đô thị, vệ sinh cải thiện môi trường, còn lại
là cho ngành thủy lợi.
1.1.3. Đánh giá đối với ngành nước
Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào các con sông quốc tế mà Việt Nam chia sẻ với
các nước khác. Tổng lượng nước mặt trung bình năm của Việt Nam khoảng
830 tỉ m3 hơn 60% lượng nước y phát sinh từ bên ngoài lãnh thổ. Sáu lưu vực
phụ thuộc vào dòng chảy từ các nước khác sông Cửu Long, gần 95% tổng
lượng nước đến trung bình năm từ các nước thượng lưu sông Công; sông
Hồng -Thái Bình gần 40% lượng ớc mặt đến từ phần u vực nằm trong lãnh
thổ Trung Quốc; lưu vực sông Cả, gần 30 % 22% tương ng, lượng
nước đến từ Lào; lưu vực sông Đồng Nai gần 17% lượng nước đến từ
Campuhica. Sông Bằng Giang-Kỳ Cùng cũng chảy từ Trung Quốc vào Việt Nam và
sau đó lại chảy về lại Trung Quốc. Dòng chảy mặt trên lưu vực sông San
Srê Pốk trên lãnh thổ Việt nam chiếm 75% 50% tổng lượng nước toàn u vực.
Luận văn thạc sĩ Ngành: Kinh tế TNTN&MT
Học viên: Bùi Xuân Trường Lớp 17K
Trang 5
Gần 57% tổng lượng nước của cả nước của lưu vực sông Cửu Long, hơn 16%
trên sông Hồng -Thái Bình, và hơn 4% trên lưu vực sông Đồng Nai.
Mùa khô ảnh hưởng lớn đến dòng chảy lượng nước. a khô thường kéo
dài từ 6 đến 9 tháng kéo dài nhất các lưu vực sông Miền trung Việt Nam.
Lượng nước tự nhiên đến vào mùa khô chiếm 20–30% tổng lượng nước cả m.
Lượng trữ nước của các hồ chứa ợng nước chuyển ra ngoài lưu vực vào mùa
khô thể tạo ra sự khác biệt đáng kể đối với lượng nước hiện vào mùa khô.
Nếu giả thiết rằng các hồ chứa trữ đầy vào mùa mưa sẵn sàng để sử dụng trong
mùa khô thì lượng trên sông vào mùa khô sẽ được cải thiện lên mức từ 23% và 46%
so với tổng lượng cả năm. Trên u vực sông Đồng Nai, dung tích trữ hiện tại gấp
đôi lượng nước đến thiên nhiên vào mùa khô.
Báo cáo hiện trạng sử dụng hai chỉ số chính để phản ánh thực trạng về ợng
nước hiện áp lực lên nguồn nước của lưu vực sông. Chỉ số thứ nhất lượng
nước tính trên đầu người. Tổng lượng nước mặt của Việt Nam tính trên đầu người
là 9.856m3/năm, nhưng tỉ lệ này khác nhau nhiều giữa các lưu vực. Theo tiêu chuẩn
quốc tế tổng lượng nước trên đầu người khoảng 1.700m3/năm được xem là đáp ứng
đủ nhu cầu, với lượng nước bình quân đầu người từ 1.700m3/năm đến
4.000m3/năm được xem thiếu nước không thường xuyên hoặc thiếu nước cục bộ.
Với dân số và mức độ phát triển hiện tại, theo tiêu chuẩn này, cho thấy lưu vực sông
Đồng Nai và Nhóm lưu vực sông Đông Nam Bộ (NLVSĐNB) đều đang đối mặt với
nguy cơ thiếu nước không thường xuyên và cục bộ, trong khi các sông Hồng, Mã và
sông Côn đang tiệm cận mức độ thiếu nước này.
Chỉ số thứ 2 đánh giá về phần trăm lượng nước bị khai thác so tổng lượng
nước trung bình m của một lưu vực sông. Tiêu chuẩn quốc tế về “căng thẳng do
khai thác nguồn nước” đề ra, mức độ căng thẳng trung bình bắt đầu với ngưỡng
khai thác là 20%, mức căng thẳng cao là trên 40%. Với mức độ sdụng hiện tại,
các lưu vực sông Mã, Hương trong tình trạng căng thẳng trung bình về nguồn
nước (giữa 20% 40%), sông Đồng Nai cũng đang giới hạn này. Tất cả các
sông khác đều đang mức căng thẳng thấp. Tuy nhiên, vào mùa khô, sáu trong số