VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ

THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2019

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ

THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

Ngành: Luật kinh tế

Mã số: 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU

Hà Nội, năm 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.

Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công

trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,

được trích dẫn đúng quy định.

Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này./.

TÁC GIẢ

TRẦN THỊ LỆ QUYÊN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC . 6

1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................. 6

1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................ 11

Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM

XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN

CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG ........................................................ 27

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............... 27

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện

Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương ....................................................................... 43

Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO

HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT

BUỘC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

..................................................................................................................... 60

3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................................. 60

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt

buộc ............................................................................................................. 61

3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương 70

KẾT LUẬN ................................................................................................ 77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHXH : Bảo hiểm xã hội

NLĐ : Người lao động

NSDLĐ : Người sử dụng lao động

TNLĐ, BNN : Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU

Bảng 2.1.Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng lao động

trên địa bàn huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018 ................................. 46

Bảng 2.2. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ trên địa bàn huyện

Cẩm Giàng từ năm 2014-2018 .................................................................... 47

Bảng 2.3. Tình hình thu nộ BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng

giai đoạn 2014-2018 .................................................................................... 49

Bảng 2.4. Tình hình chi trả các chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018 ........ 52

Bảng 2.5. Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng

giai đoạn 2014-2018 .................................................................................... 55

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam là một trong những chính sách

lớn, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, xây dựng phù hợp với yêu

cầu thực tiễn của đất nước, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao

động (NLĐ), bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Chính sách này

ra đời nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình

họ, đảm bảo đời sống được ổn định khi họ gặp phải các sự kiện bảo hiểm

như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ, BNN)…

Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 ban

hành thay thế Luật BHXH 2006 đánh dấu bước phát triển mới của pháp

luật BHXH ở nước ta trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả

thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành

và bổ sung các chính sách BHXH. Theo đó mở rộng hơn nữa phạm vi tham

gia và thụ hưởng BHXH của NLĐ và tăng cường vai trò quản lý của Nhà

nước trong lĩnh vực BHXH.

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách cũng như các

chế độ về BHXH cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập thể hiện qua nội dung

các quy định về BHXH và việc tổ chức thực thi các quy định này trong việc

giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hưu trí và tử tuất của

BHXH bắt buộc. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ,

dẫn đến sự thiếu công bằng giữa các đối tượng tham gia BHXH. Chế tài xử

phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH chưa đủ mạnh, tình

trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH vẫn còn phổ biến gây mất cân đối và ảnh

hưởng đến hoạt động đầu tư sinh lời của quỹ BHXH trong dài hạn. Một số

bất cập của chính sách, chế độ BHXH nêu trên đòi hỏi cần phải được đánh

giá, xem xét một cách toàn diện, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung để đáp

ứng với các yêu cầu thực tiễn, bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ, đảm bảo

1

an sinh xã hội. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về Bảo hiểm xã

hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương” làm luận

văn Thạc sỹ Luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu

Việc nghiên cứu, phân tích về vấn đề BHXH bắt buộc đã được rất

nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu, đã có một số công

trình nghiên cứu có giá trị được công bố. Có thể kể đến một số công trình

có giá trị liên quan trực tiếp đến chuyên ngành cũng như đề tài luận văn

như:

* Đề tài nghiên cứu:

- Vụ BHXH (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ

BHXH bắt buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.

* Luận án tiến sỹ:

- Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật BHXH ở Việt Nam

– Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Trường Đại

học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

- Đồng Thị Hồng (2015), Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành

phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Học viện Chính trị quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội.

* Luận văn thạc sỹ:

- Nguyễn Thị Thúy (2014), BHXH trong luật BHXH và thực tiễn thi

hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại

học Quốc gia Hà Nội.

- Vũ Thị Mỹ Duyên (2018), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực

tiễn thi hành tại thành phố Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường

Đại học Luật Hà Nội.

- Chu Linh Trang (2017), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn

áp dụng tại tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật

Hà Nội.

2

- Nguyễn Thị Hương (2018), Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực

tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học

Luật, Đại học Huế.

* Một số bài viết đăng trên tạp chí:

- TS. Lê Thị Hoài Thu (2009), Luật BHXH từ thực tiễn đến quy định

áp dụng, Tạp chí BHXH.

- Đặng Như Lợi (2014), Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm

hưu trí đối với người cao tuổi, Tạp chí Chính trị.

- Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình luận

pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học.

- Đỗ Quang Hải và Phạm Thị Thi (2016), “Một số vấn đề về việc

hình thành, sử dụng và phát triển quỹ BHXH theo Luật BHXH năm 2014”,

Nhà nước và Pháp luật.

Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp

phần tạo ra những cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng các quy định của

pháp luật, nêu và phân tích những điểm mới của luật, thực tiễn thực hiện và

trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị. Tuy vậy, các công trình này khi

nghiên cứu còn tản mạn, hoặc cũng đã đề cập tới quá trình thực hiện pháp

luật BHXH bắt buộc ở một số địa phương cụ thể (Hà Nội, Lạng Sơn...)

nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về việc thi hành pháp

luật BHXH tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Do vậy, Luận văn tập

trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm những vấn đề lý luận về BHXH bắt

buộc, thực trạng của các quy định pháp luật hiện nay và tình hình thực hiện

BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương để từ đó

đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật BHXH bắt

buộc.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm, các quy định

của Luật BHXH năm 2014 về BHXH bắt buộc và các văn bản hướng dẫn

3

thi hành. Bên cạnh đó, Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

Về phạm vi nghiên cứu, bên cạnh các quy định của pháp luật hiện

hành, luận văn còn nghiên cứu các vấn đề liên quan về lĩnh vực BHXH, kể

cả kinh nghiệm nước ngoài nhằm vận dụng vào hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc ở nước ta.

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý

luận về BHXH bắt buộc, thực trạng pháp luật hiện hành về BHXH bắt buộc

và thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ đó

đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và nâng cao

hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc nói chung và trên địa bàn

huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nói riêng.

Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác

định trên những khía cạnh sau:

- Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt

buộc.

- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc để

từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về

BHXH bắt buộc.

- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa

bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt

buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải

Dương.

5. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác –

Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, Luận văn

4

còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực

của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các

cơ quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về

BHXH bắt buộc, đặc biệt là các cơ quan BHXH, các đơn vị tham gia

BHXH trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Luận văn cũng có

thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu pháp

luật, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật cũng như cho bất cứ ai có

quan tâm đến các chế độ BHXH bắt buộc nói riêng

7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận

văn được trình bày trong 3 chương. Cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật

về Bảo hiểm xã hội bắt buộc

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội bắt buộc và

thực tiễn thi hành tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện

pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh

Hải Dương

5

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc

Ngành bảo hiểm trên thế giới đã có lịch sử phát triển khá lâu dài.

Trước công nguyên, ở Ai Cập, những người thợ đẽo đá đã thành lập “quỹ

tương trợ” để giúp đỡ các nạn nhân trong các vụ tai nạn. Từ đó, các hoạt

động mang tính chất bảo hiểm phát triển theo sự phát triển của xã hội loài

người. Bắt đầu bằng hình thức các quỹ dự trữ, tương trợ đơn giản, dần dần

các loại hình bảo hiểm áp dụng cho từng trường hợp khác nhau được hình

thành và phát triển. Trong đó, BHXH được chính phủ một số nước xem xét

nhằm huy động sự đóng góp của NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ),

có sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp cho NLĐ khi gặp những trường hợp

rủi ro, ốm đau, tai nạn già yếu không làm việc được nên không có tiền

lương để sinh sống, lâm vào cảnh khốn cùng, phát sinh nhiều ảnh hưởng

tiêu cực đến xã hội.

Hiện nay, BHXH đã trở thành một chính sách lớn và vô cùng quan

trọng của Đảng và Nhà nước ta, được quy định rõ trong Hiến pháp, nhằm

góp phần ổn định thu nhập cho NLĐ và gia đình của họ khi không may gặp

rủi ro. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, BHXH được nghiên cứu dưới

nhiều góc độ khác nhau như: tài chính, pháp luật,… Vì vậy, có thể có nhiều

định nghĩa khác nhau về BHXH.

Tùy theo góc độ nhìn nhận mà khái niệm BHXH được tiếp cận ở nhiều

khía cạnh khác nhau:

Theo Công ước 102 của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1952:

“BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua

các biện pháp công cộng nhằm chống lại khó khăn về kinh tế - xã hội do bị

ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp,

6

thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp

cho các gia đình đông con”.

Theo Từ điển tiếng Việt: “BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật

chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ,

già yếu, bị TNLĐ…”

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3, Luật BHXH năm 2014 của Quốc

Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo

thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất

thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết

trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”

Tuy xuất phát ở nhiều khía cạnh, phương diện khác nhau, nhưng có thể

khái quát về BHXH như sau:

- BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho NLĐ khi

NLĐ bị mất hoặc giảm thu nhập, thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ

tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia và có sự ủng hộ của Nhà

nước.

- BHXH được chi trả trong các trường hợp NLĐ bị giảm hoặc mất thu

nhập, chỉ trong các trường hợp: ốm đau; thai sản; TNLĐ; BNN; thất

nghiệp; hết tuổi lao động; hoặc chết.

- Quỹ BHXH được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp

BHXH cho NLĐ nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho NLĐ và

gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định xã hội.

- Đối tượng của BHXH chính là thu nhập bị biến động giảm hoặc mất

do các trường hợp được quy định trong Luật BHXH của những NLĐ tham

gia BHXH.

- Thực chất của BHXH là lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng

phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những NLĐ

có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với

những người ốm yếu phải nghỉ việc. Nói cách khác, BHXH góp phần đảm

7

bảo sự “thăng bằng” về thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Điều này góp

phần vào việc đảm bảo công bằng xã hội.

Tại khoản 2 Điều 3 Luật BHXH năm 2014 quy định: “BHXH bắt

buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải

tham gia”. Từ khái niệm BHXH, có thể hiểu khái niệm BHXH bắt buộc là

sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ (trong một

số trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp phải biến cố hoặc rủi

ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân nhất định

gây nên (do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết)

trên cơ sở nghĩa vụ (bắt buộc) tham gia của NLĐ và NSDLĐ. BHXH bắt

buộc là một hình thức đóng góp quan trọng hình thành nên quỹ tiền tệ tập

trung ổn định và bền vững để đảm bảo thu nhập cho NLĐ, góp phần ổn

định an sinh xã hội.

1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội bắt buộc

BHXH bắt buộc là một trong hai hình thức quan trọng của BHXH.

Vì vậy, BHXH bắt buộc có những đặc điểm của BHXH nói chung:

- BHXH bảo đảm cho NLĐ trong và sau quá trình lao động: NLĐ sẽ

được BHXH trợ cấp cho đến lúc chết khi tham gia BHXH. Khi còn làm

việc, NLĐ được hưởng các loại trợ cấp khi ốm đau, khi sinh con đối với lao

động nữ, khi bị TNLĐ, còn nếu NLĐ không còn làm việc nữa thì được

hưởng tiền hưu trí, khi chết thì gia đình được hưởng trợ cấp tiền mai táng

và tử tuất…

- Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội của NLĐ liên quan đến thu

nhập của họ. Bao gồm: ốm đau, TNLĐ, BNN, thai sản, thất nghiệp, già

yếu, chết… Do những sự kiện và rủi ro này mà NLĐ bị giảm hoặc mất khả

năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, dẫn đến họ bị

giảm hoặc mất nguồn thu nhập, do đó họ cần phải có khoản thu khác bù

vào thông qua các trợ cấp BHXH, bảo đảm nhu cầu sống thiết yếu, chăm

sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật.

8

- Bên trong BHXH là mối quan hệ giữa ba bên phát sinh trên cơ sở

quan hệ lao động: Bên tham gia BHXH có thể là NLĐ hoặc NLĐ và

NSDLĐ; Bên BHXH là cơ quan chuyên trách cho Nhà nước lập ra, là bên

thực hiện nhiệm vụ BHXH; Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ. Các

bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền

lợi trên cơ sở các quy định của pháp luật về BHXH.

- Sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự bảo đảm của Nhà nước là

nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngoài ra nguồn thu của quỹ

BHXH còn có các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư phần tiền nhàn rỗi

của quỹ BHXH; khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị chậm nộp

BHXH theo quy định pháp luật và các nguồn thu hợp pháp khác.

- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các

chế độ BHXH cũng do luật định và là một dịch vụ công mang tính phi lợi

nhuận. BHXH vừa có tính dự phòng xã hội, vừa mang tính phúc lợi xã hội.

Ngoài những đặc điểm chung kể trên, BHXH bắt buộc cũng có những

đặc điểm riêng phân biệt với hình thức BHXH tự nguyện, cụ thể:

Thứ nhất, căn cứ vào quy định pháp luật về BHXH, những đối tượng

nào có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc thì phải tham gia BHXH mà

không phụ thuộc vào ý chí của họ có muốn tham gia hay không cũng như

thay thế bằng các hình thức khác. Việc tham gia BHXH của những đối

tượng này là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ đối với họ, nếu không tham

gia thì NLĐ và NSDLĐ sẽ phải chịu chế tài xử lý theo quy định của pháp

luật.

Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được pháp luật quy định cụ thể cho

các bên tham gia mà các bên không có quyền thương lượng hay thỏa thuận.

Tỷ lệ % mức đóng của mỗi bên gồm NLĐ và NSDLĐ căn cứ trên cơ sở

quỹ tiền lương trả cho NLĐ. Pháp luật quy định trách nhiệm của cả hai bên

để san sẻ nghĩa vụ tài chính khi đóng BHXH, tạo sự gắn kết lâu dài, hài hòa

quan hệ lao động, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên.

9

1.1.3. Ý nghĩa bảo hiểm xã hội bắt buộc

 Đối với người lao động

Là một trong những chính sách kinh tế xã hội quan trọng của Nhà

nước, BHXH góp phần trợ giúp cho NLĐ khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ

và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định

cuộc sống của cá nhân NLĐ và gia đình họ, bằng cách tạo ra cho họ những

thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi, khắc phục hậu quả ở

mức độ cần thiết… Từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao

động cũng như chất lượng công việc cho doanh nghiệp nói riêng và đảm

bảo ổn định cho toàn xã hội nói chung.

 Đối với người sử dụng lao động

BHXH bắt buộc thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với

NLĐ – đối tượng mà NSDLĐ khai thác lợi ích bằng sức lao động của họ.

Bên cạnh việc trợ giúp cho đời sống của NLĐ và gia đình họ khi gặp rủi ro

hay các sự kiện bảo hiểm như ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập,

không có chi phí thuốc men…, BHXH bắt buộc còn là biện pháp “phân tán

rủi ro” cho NSDLĐ, giúp cho NSDLĐ có thể ổn định hoạt động, sản xuất

kinh doanh, tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi trả một khoản tiền lớn

cho NLĐ gặp rủi ro. Mặt khác, những rủi ro đối với NLĐ dẫn đến đời sống

của họ bị ảnh hưởng, từ đó chất lượng, hiệu quả cũng như năng suất lao

động trong doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo, BHXH bắt buộc góp

phần làm cho lực lượng lao động trong doanh nghiệp hoạt động ổn định,

liên tục, giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo mối quan hệ lao động tốt đẹp.

 Đối với xã hội

BHXH là công cụ quan trọng giúp NHà nước thực hiện chức năng xã

hội hiệu quả hơn nhằm đạt tới mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Thông

qua các quy định về BHXH, Nhà nước thực hiện việc phân phối thu nhập,

điều tiết quyền và lợi ích của các bên, đảm bảo sự công bằng trong việc giải

quyết hậu quả của rủi ro, bất trắc xảy ra. Dù không may gặp phải rủi ro thì

10

vẫn có một nguồn quỹ bảo đảm bù đắp để cho NLĐ có thể đứng vững,

NSDLĐ tiếp tục sản xuất, một nền kinh tế vẫn có thể tiếp tục duy trì, phát

triển và xã hội vẫn giữ được sự cân bằng, ổn định. Qua đó có thể thấy rằng,

BHXH đã tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, góp phần nâng cao tính cộng đồng xã

hội, củng cố tình đoàn kết và gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Hoạt

động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị

trường tài chính phong phú và kinh tế - xã hội phát triển.

Như vậy, BHXH bắt buộc là một trong những chính sách xã hội

quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế

- xã hội, là tiền đề thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và góp phần làm

vững chắc thể chế chính trị.

1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc

Nguyên tắc BHXH là những vấn đề, những quan điểm cơ bản được

đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động BHXH [33,tr.38]. Là

một loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu mang mục đích xã hội, BHXH vừa phải

thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa phải thực hiện

các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Các nguyên tắc cơ bản của pháp

luật BHXH bắt buộc bao gồm:

Thứ nhất, mọi NLĐ đều có quyền tham gia và hưởng BHXH

Mọi NLĐ đều có thể gặp rủi ro , do vậy họ có quyền bình đẳng tham

gia và hưởng BHXH. Trong thực tế không phải lúc nào cuộc sống và trong

lao động cũng dễ dàng thuận lợi, có thu nhập thường xuyên và mọi điều

kiện sống bình thường, có nhiều trường hợp bất lợi phát sinh làm giảm

hoặc mất thu nhập như ốm, đau, TNLĐ… Khi gặp phải những bất lợi như

vậy được cộng đồng chia sẻ rủi ro là một nhu cầu chính đáng của NLĐ. Đó

là phương thức bảo đảm bình đẳng cho NLĐ trên phương diện xã hội, nhất

là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của Nhà nước. Mặt khác, quyền

tham gia và hưởng BHXH không bị phân biệt về khu vực, ngành nghề,

11

thành phần kinh tế, có tham gia hoạt động lao động hay không… NLĐ

được tham gia và hưởng BHXH ở mức độ nào, trong những trường hợp

nào hay nói cách khác là khả năng được chia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu

còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ quản lý rủi ro trong

mỗi quốc gia[29,tr.19].

Thứ hai, mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời

gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.

Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt sau: người nào đóng

BHXH thì được hưởng chế độ; thời gian tham gia đóng BHXH càng nhiều,

mức đóng càng cao thì mức trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, lương

hưu, trợ cấp tử tuất và trợ cấp thất nghiệp được hưởng với mức cao và

ngược lại. Mức đóng và mức hưởng quỹ BHXH cũng thường bị khống chế

ở mức trần nhất định. Điều đó để đảm bảo công bằng xã hội và ngân sách

Nhà nước sẽ không phải hỗ trợ cho những mức bảo hiểm quá cao, ảnh

hưởng đến hoạt động chi ngân sách. Như vậy, mức đóng, hưởng BHXH

của NLĐ phải được tính toán và quy định hợp lý trong sự tương quan với

các yếu tố khác. Việc xác định mức đóng, hưởng BHXH hợp lý là nguyên

tắc quan trọng để đảm bảo tính bền vững của BHXH.

Thứ ba, BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít

Với nguyên tắc này, số đông NLĐ tham gia BHXH có quãng thời

gian làm việc có thu nhập sẽ bù cho số ít NLĐ không may gặp rủi ro bị

giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm nên không có thu

nhập. Như vậy, càng nhiều người tham gia BHXH thì sự san sẻ rủi ro càng

được thực hiện dễ dàng hơn. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít có ý nghĩa

quan trọng trong việc thực hiện BHXH và được vận dụng xuyên suốt trong

việc quản lý quỹ BHXH.

12

Thứ tư, Nhà nước thống nhất quản lý BHXH, tổ chức bộ máy thực

hiện chính sách BHXH

Bởi vì, BHXH là một bộ phận cấu thành chính sách xã hội, nó vừa là

nhân tố làm ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Do

đó, vai trò và chức năng của Nhà nước rất quan trọng. Thực tế nếu không

có sự can thiệp và sự quản lý của Nhà nước mối quan hệ giữa NLĐ và

NSDLĐ sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH

sẽ dễ bị phá vỡ.

Hơn nữa, BHXH được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ và cụ

thể, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp,

chế độ v.v... Vì vậy, Nhà nước sẽ phải quản lý tất cả các khâu trong quy

trình này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.

Trước hết, việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và

quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc

xây dựng và ban hành các dự án, các văn bản pháp luật về BHXH sau đó tổ

chức thực hiện. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá

nhân về việc thực hiện chính sách, quy định của pháp luật.

Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước

phụ thuộc vào các chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô

hình bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì Nhà

nước sẽ quản lý trực tiếp và toàn diện, còn nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do

NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước sẽ góp phần tham gia

quản lý. Để quản lý về BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như

luật pháp và bộ máy tổ chức.

Thứ năm, BHXH phải kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và

phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ

Trong quan hệ BHXH, không chỉ NLĐ được đảm bảo về thu nhập

mà các bên còn lại tham gia vào mối quan hệ đều có những lợi ích nhất

định, vì vậy cần phải biết kết hợp hài hòa giữa các lợi ích. Trước hết là lợi

13

ích giữa các bên tham gia BHXH: giữa NLĐ - NSDLĐ; NLĐ - NLĐ và lợi

ích riêng giữa các bên tham gia BHXH với lợi ích, mục tiêu chung của xã

hội. Nếu NSDLĐ không chấp hành quy định của pháp luật về đóng BHXH

bắt buộc cho NLĐ thì có thể sẽ phải chịu một chi phí rất lớn khi NLĐ gặp

phải các rủi ro, sự kiện bảo hiểm như bị TNLĐ, ốm đau, thai sản…. Mặt

khác, nếu quy định NLĐ được hưởng bảo hiểm ở mức cao thì có thể dẫn

đến NSDLĐ phải đóng phí bảo hiểm ở mức cao. Điều đó làm tăng chi phí

sản xuất, tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh dẫn đến việc làm,

thu nhập của NLĐ đều bị ảnh hưởng. Nếu NLĐ đóng phí bảo hiểm ở mức

thấp thì phần thu nhập chi cho nhu cầu hàng ngày sẽ nhiều hơn nhưng khi

gặp các rủi ro như ốm đau, TNLĐ thì chỉ được đảm bảo thu nhập ở mức độ

thấp (và ngược lại). Bên cạnh đó, nếu Nhà nước không tổ chức thực hiện và

quản lý tốt BHXH thì không đạt được các lợi ích chung của xã hội và có

thể ảnh hưởng tới cả các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc gia…

Như vậy, trong việc xây dựng chính sách, quy định các chế độ

BHXH cụ thể và trong quản lý hệ thống BHXH cần phải tìm ra các giải

pháp kết hợp hài hòa lợi ích của các bên tham gia, kết hợp lợi ích trước mắt

cũng như lâu dài của các đối tượng và xã hội tại mỗi quốc gia, phù hợp với

sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.

1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

1.2.2.1. Đối tượng của bảo hiểm xã hội bắt buộc

Mặc dù đã ra đời rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn nhiều quan

điểm chưa thống nhất dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với

đối tượng tham gia BHXH.

BHXH bắt buộc có ý nghĩa trong việc bù đắp một phần thu nhập cho

NLĐ khi NLĐ bị suy giảm hay mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm

hay mất thu nhập. BHXH bắt buộc sẽ bù đắp thu nhập cho NLĐ khi NLĐ

đang tham gia vào quan hệ lao động hoặc kể cả khi chấm dứt quan hệ lao

động hay khi NLĐ chết. Vì vậy, đối tượng của BHXH chính là phần thu

14

nhập bị mất hay giảm đi do rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm

giảm hoặc mất khả năng lao động. Còn đối tượng tham gia BHXH trước

hết là NLĐ. Ngoài đối tượng trực tiếp tham gia là NLĐ được áp dụng chế

độ BHXH, thì NLĐ chết, các thân nhân của NLĐ như vợ (hoặc chồng), bố,

mẹ đã hết tuổi lao động hoặc con chưa đến tuổi lao động cũng được hưởng

trợ cấp (chế độ tiền tuất). Mặt khác, khi NLĐ tham gia vào quan hệ lao

động thì NSDLĐ phải có nghĩa vụ tham gia đóng phí bảo hiểm cho những

NLĐ đó, do đó NSDLĐ cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Tùy

vào điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng tham gia có

thể là tất cả hoặc một bộ phận NLĐ nhưng nhìn chung thì kinh tế càng phát

triển thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng sang

nhiều bộ phận lao động khác.

Các bên trong BHXH bắt buộc gồm có bên thực hiện BHXH và bên

được BHXH. Bên được BHXH là NLĐ hoặc các thành viên trong gia đình

khi họ thỏa mãn đầy đủ các điều kiện hưởng BHXH theo quy định của

pháp luật. Ở một số quốc gia, bên thực hiện BHXH có thể là các tổ chức

BHXH do Nhà nước thành lập hoặc các tổ chức xã hội, kinh tế thực hiện

hoạt động bảo hiểm được Nhà nước giám sát, quản lý chặt chẽ. Hệ thống

BHXH ở Việt Nam do Nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện

từ trung ương đến địa phương, hoạt động tuân theo quy định của pháp luật.

Các bên tham gia BHXH bắt buộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, hòa

hợp, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ nhằm hướng tới lợi ích và mục tiêu

chung của xã hội.

Do điều kiện chính trị, kinh tế xã hội mỗi nước là khác nhau nên

phạm vi, đối tượng áp dụng các chế độ BHXH có khác nhau. Ở Đức, đối

tượng tham gia BHXH là NLĐ, tuy nhiên các quỹ BHXH thường được

triển khai với từng nhóm đối tượng NLĐ các đặc thù nghề nghiệp hay tình

trạng sức khỏe, thu nhập…, cụ thể: công nhân mỏ; NLĐ ngành hàng hải;

người làm sản xuất nông nghiệp; học sinh, sinh viên; nghệ sĩ; người làm

15

nghề xuất bản; thương nhân; công chức;…. Có quốc gia áp dụng BHXH

đối với công nhân, viên chức Nhà nước như Lào, có quốc gia lại áp dụng

cho mọi NLĐ, có thể kể đến như Australia. Tại Anh, “Chế độ bảo hiểm

quốc gia là chế độ bảo hiểm phổ thông và có xu hướng phủ toàn bộ dân cư

thường trú tại Anh: người làm công ăn lương, lao động độc lập và người

không làm việc”[35, tr.351-352]. Ngày nay xu thế chung của nhiều nước là

mở rộng đối tượng áp dụng BHXH đến mọi lao động, với đối tượng áp

dụng rộng lớn, cùng với hệ thống trợ cấp toàn diện, BHXH bắt buộc mới

thực sự phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm cho xã hội an toàn,

phát triển. Vì thế ở Việt Nam, đối tượng BHXH cần được mở rộng đến tất

cả NLĐ kể cả ngắn hạn và dài hạn đảm bảo tính bền vững của quỹ BHXH

trong thời gian dài.

1.2.2.2. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc

Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được sử

dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản

lý khác theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH cần phải được tính toán

sao cho nguồn thu đủ lớn và được đóng góp một cách liên tục để đảm bảo

các chi phí đầu ra ở BHXH không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai khi

mức chi ra ngày càng lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải

tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Quỹ BHXH là một trong những

nội dung quan trọng của hệ thống BHXH. Có nhiều cách định nghĩa khác

nhau về quỹ BHXH. Cụ thể quỹ BHXH có thể được định nghĩa như sau:

Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân

sách nhà nước, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia

BHXH (có thể bao gồm NLĐ, NSDLĐ và nhà nước trong một số trường

hợp) và các nguồn thu hợp pháp khác sử dụng để chi trả các chế độ BHXH

cho những người được hưởng bảo hiểm và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc

mất thu nhập do bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động, bị mất việc làm

hoặc bị chết theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH là một công cụ để

16

thực hiện chức năng tài chính BHXH và chính sách BHXH của nhà nước,

đóng vai trò vừa là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, quỹ

BHXH vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều

kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH

tồn tại và phát triển.

BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, mặc dù tính xã hội được

thể hiện nổi trội hơn. Theo nhận định của các nhà kinh tế, kinh tế, tài chính

là nền tảng của BHXH vì chỉ khi NLĐ có thu nhập đạt đến một mức độ nào

đó thì việc tham gia BHXH mới thiết thực và hiệu quả. Cũng theo các nhà

kinh tế, BHXH chỉ có thể phát triển được theo đúng nghĩa trong điều kiện

nền kinh tế thị trường khi người tham gia BHXH có trách nhiệm đóng góp

BHXH để bảo đảm cuộc sống cho mình từ thu nhập cá nhân, NSDLĐ cũng

phải tham gia đóng BHXH cho NLĐ từ quỹ của đơn vị. Bên cạnh đó, Nhà

nước cũng có trách nhiệm bảo hộ quỹ BHXH ví dụ như đóng góp khi quỹ

BHXH mất cân đối, bị thâm hụt. Do vậy, quỹ BHXH được hình thành bởi

nhiều nguồn khác nhau, trước hết chủ yếu là phần đóng góp của các đối

tượng tham gia BHXH bắt buộc tức là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước; thứ hai

là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức

BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lợi; thứ ba là phần nộp phạt

của những cá nhân và tổ chức vi phạm các quy định pháp luật về BHXH.

Ngoài ra, quỹ BHXH còn có các nguồn thu hợp pháp khác tùy theo điều

kiện kinh tế - xã hội và pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Nguồn quỹ

BHXH có dồi dào thì đảm bảo được khả năng chi trả cho các đối tượng

tham gia BHXH.

Trong quỹ BHXH, phần đóng góp của NSDLĐ cho NLĐ sẽ tránh

được các thiệt hại kinh tế lớn khi có rủi ro không may xảy ra đối với NLĐ

như bệnh tật, TNLĐ… thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ mà

họ đang thuê mướn. Còn về phần đóng góp của NLĐ vừa biểu hiện sự tự

17

gánh chịu rủi ro của mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi

một cách chặt chẽ.

Quỹ BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp BHXH,

đặc biệt là đảm bảo chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH và đảm

bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả.

Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH là các khoản chi cho trợ cấp và

các chế độ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH của đối tượng tham gia

theo quy định của pháp luật về BHXH. Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn

nhất. Ngoài ra còn có chi phí quản lý hệ thống, chi phí đầu tư tăng trưởng.

Trong đó, chi phí cho quản lý hệ thống BHXH ở từng thời kỳ được Nhà

nước quy định mức trần, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy

mô hệ thống và thời gian hoạt động.

Hiện nay, quỹ BHXH bắt buộc do các cơ quan, tổ chức BHXH trực

tiếp quản lý và thực hiện các chế độ BHXH một cách công khai, minh

bạch, có giám sát của cơ chế ba bên (Đại diện NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước).

Hoạt động quản lý quỹ muốn đạt hiệu quả tốt cần tăng cường thanh tra,

kiểm tra, tránh thất thoát quỹ, đảm bảo khả năng chi trả lâu dài, thực hiện

đúng mục tiêu của BHXH là vì mục tiêu, lợi ích chung của xã hội.

Tỷ lệ đóng góp phí BHXH giữa NLĐ và NSDLĐ của từng quốc gia

là khác nhau. Đa phần các quốc gia xác định trên cơ sở tỷ lệ tiền lương

nhưng cũng có những quốc gia áp dụng mức đóng đồng đều trên cơ sở tiền

lương tối thiểu. Thông thường mức đóng của NLĐ thấp hơn NSDLĐ

nhưng cũng có quốc gia quy định tỷ lệ bằng nhau. Theo quan điểm của tổ

chức ILO thì tỷ lệ đóng góp của NLĐ vào quỹ BHXH không được vượt

quá 50%. Tại Đức, Hà Lan, phí đóng BHXH của NLĐ và NSDLĐ ngang

bằng nhau, mức đóng này cũng tùy theo tính chất của quỹ. Ở Tây Ban Nha,

đóng góp BHXH chiếm 70% tổng thu nhập, trong đó các khoản đóng góp

NSDLĐ lớn gấp 5 lần của NLĐ. Hay ở Đan Mạch, từ ngày 01/01/1994 đã

áp dụng một loại phí xã hội bắt buộc đối với tất cả NLĐ hưởng lương hoặc

18

không hưởng lương. NSDLĐ đóng góp từ 01/01/1997 là 0,3%. Vào năm

1995, tỷ lệ đóng góp của NLĐ là 1,9% tiền thu nhập. Tỷ lệ này là 2,9% vào

năm 1996 và tăng lên dần dần đến năm 1998 là 4,9% [35, tr.329]

Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH bắt buộc là các khoản trợ cấp

và các chế độ luật định khác cho người được BHXH bắt buộc. Khoản chi

này chỉ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH bắt buộc do Pháp luật quy

định, không phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH. Ngoài ra còn có các

chi phí quản lý hệ thống sẽ tỷ lệ nghịch với trình độ quản lý ở mỗi nước và

ngày càng có xu hướng giảm do trình độ quản lý đạt được ngày càng cao,

đồng thời giảm chi phí do áp dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ

thông tin vào quá trình quản lý liên thông. Tuy nhiên, để tránh lạm dụng

quỹ BHXH, trong từng thời kỳ khác nhau, Nhà nước có thể quy định một

mức trần chi quản lý, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy mô

hệ thống và thời gian hoạt động.

Về tổ chức và quản lý quỹ BHXH, tùy thuộc vào mô hình tổ chức

quỹ BHXH mà các quốc gia quy định việc quản lý quỹ BHXH. Do điều

kiện kinh tế - xã hội và chính trị mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH

của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ

chức BHXH chung cho tất cả các nước. Thông thường các quốc gia thiết

lập hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương để quản lý quỹ

BHXH. Có một số nước trên thế giới lại giao cho một bộ, ngành nào đó

đảm nhận cả chức năng quản lý nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện

các nghiệp vụ ngành BHXH [16, tr.16]

1.2.2.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội

Chế độ BHXH là những quy định cụ thể và chi tiết về những chế

định thực hiện BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các

quy định của pháp luật về đối tượng và phạm vi, về nghĩa vụ và quyền lợi,

về điều kiện và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.

19

Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã nêu trong

Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH

bao gồm 9 chế độ sau đây: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất

nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp TNLĐ, BNN; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp

sinh đẻ; Trợ cấp khi tàn phế; Trợ cấp tiền tuất trợ cấp mất người nuôi

dưỡng. Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống chế độ BHXH. Tuỳ theo

điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực

hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất là phải thực hiện

được 3 chế độ và ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất

nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ – BNN, trợ cấp tàn tật hoặc trợ cấp

tử tuất. Việc áp dụng BHXH trên của các quốc gia khác nhau thường khác

nhau về nội dung thực hiện, tùy thuộc vào nhu cầu của riêng từng nơi trong

việc đảm bảo cuộc sống của NLĐ và vào khả năng tài chính, khả năng

quản lý có thể đáp ứng. Tuy nhiên, xu hướng chung là tùy thuộc vào điều

kiện phát triển kinh tế - xã hội, BHXH sẽ mở rộng dần về số lượng và nội

dung thực hiện của từng chế độ.

Chế độ BHXH được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản luật, các nghị

định, thông tư hướng dẫn. Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ phải nắm vững

những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng

đắn và tính nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.

Các chế độ BHXH ở một số quốc gia trên thế giới:

 Chế độ ốm đau:

Là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ tạm thời bị gián

đoạn do phải nghỉ việc do bị ốm đau, tai nạn. Ở Thụy Điển, tất cả những

người cư trú ở Thụy Điển đều được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Các hội

đồng cấp quận chịu trách nhiệm về các dịch vụ y tế - vệ sinh trong địa hạt

của mình và vì vậy họ có quyền đánh thuế riêng. Hội đồng sở hữu và quản

lý các trung tâm y tế. Ngoài ra, còn có các tổ chức tư nhân mà phần lớn là

đã ký các thỏa ước với các hội đồng cấp quận. Quỹ BHXH đền bù một

20

phần những chi phí y tế, kiểm tra và điều trị do các bác sỹ đã ký kết thỏa

thuận thực hiện trong lĩnh vực tư [35, tr.434-435]. Còn ở Đức, chế độ này

bao hàm cả chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau và tàn tật. Thuộc diện tham gia

bảo hiểm bắt buộc và được hưởng chế độ ốm đau sẽ bao gồm: NLĐ có mức

thu nhập đạt tới mức quy định; người về hưu; người thất nghiệp; học sinh,

sinh viên; nông trang viên; người hoạt động nghệ thuật. Bảo hiểm ốm đau

bao gồm nhiều quỹ độc lập, được tổ chức theo phạm vi rất khác nhau, như

theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ. Trong đó, quỹ bảo hiểm ốm đau

theo ngành nghề là khá phổ biến. [35, tr.345]

 Chế độ thai sản:

Chế độ bảo hiểm thai sản được quy định trong pháp luật hầu hết

các nước trên thế giới, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị xã hội ở

mỗi nước mà chế độ này được quy định khác nhau về thời gian nghỉ, mức

trợ cấp và điều kiện hưởng.

Ở Thái Lan, điều kiện được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản thì

NLĐ phải có 7 tháng đóng BHXH trong vòng 15 tháng trước khi sinh.

Singapore quy định ít nhất phải có 6 tháng làm việc. Nhật Bản quy định

phải có 12 tháng làm việc trước đó. Tại Philipin, trợ cấp thai sản được thực

hiện trong 4 lần sinh với điều kiện lao động nữ phải đóng BHXH 3 tháng

trong vòng 12 tháng trước khi sinh. [35, tr.240-248].

Đối với thời gian nghỉ sinh con chế độ thai sản ở Đức quy định

nghỉ thai sản 14 hoặc 18 tuần (6 tuần trước khi sinh; 8 hoặc 12 tuần sau khi

sinh). [35, tr.347]. Liên bang Nga quy định thời gian nghỉ thai sản 16 tuần

đối với lao động nữ lao động thể lực, 12 tuần đối với lao động nữ làm công

việc văn phòng trí tuệ. [35, tr.320]. Nhật Bản, Indonexia quy định thời gian

nghỉ thai sản là 3 tháng. Brunei, Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan thời gian

nghỉ thai sản là 8 tuần hoặc 60 ngày [35, tr.240-248]. Nhìn chung, pháp

luật của một số nước quy định các quyền lợi NLĐ khi tham gia BHXH

được hưởng chế độ thai sản như thời gian nghỉ, mức hưởng tương đối có

21

lợi cho NLĐ nhưng rất chú trọng trong vấn đề bảo toàn và phát triển Quỹ

BHXH bằng việc quy định NLĐ phải tham gia đóng BHXH trong một thời

gian nhất định. Điều đó giúp Việt Nam nghiên cứu tiếp thu quy định phù

hợp bảo vệ quyền lợi cho NLĐ nhưng vẫn bảo toàn và phát triển tài chính.

Bởi lẽ BHXH không chỉ thực hiện theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít mà

còn tuân thủ theo nguyên tắc phân phối theo lao động.

 Chế độ hưu trí:

Bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm dành cho những người không

còn tham gia quan hệ lao động nữa. Ở Anh, tuổi nghỉ hưu là 65 tuổi đối với

nam và 60 tuổi đối với nữ. Thời gian làm việc đầy đủ là 44 năm làm việc

đối với nam và 39 năm đối với nữ. Từ năm 2010, tuổi nghỉ hưu của nữ sẽ

được nâng lên mỗi năm 6 tháng tuổi cho đến 65 tuổi vào năm 2020 [35, tr.

361]. Trợ cấp hưu trí mà người về hưu nhận là một khoản trợ cấp theo pháp

luật cơ bản, độc lập với lương và là một khoản trợ cấp bổ sung bắt buộc.

 Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp

Bao gồm các quy định pháp luật nhằm bảo đảm thu nhập và bảo

đảm sức khỏe cho NLĐ trong các trường hợp bị TNLĐ hoặc bị BNN. Ở

Thụy Điển, tất cả những người thực hiện một hoạt động làm công ăn lương

hay độc lập cũng như học viên của một số trường nghiệp vụ được bảo hiểm

cho những rủi ro về TNLĐ. Đó là tất cả các tai nạn và tất cả những bệnh có

mối liên hệ với hoạt động nghề nghiệp. Không có danh sách các BNN. Để

được trợ cấp, cần phải chứng minh thiệt hại là do một hay nhiều ảnh hưởng

độc hại ở nơi làm việc gây ra. Tai nạn trên quãng đường giữa nơi làm việc

và nơi ở cũng được bảo hiểm [35, tr.437].

Đối với Việt Nam, trên cơ sở kế thừa những tri thức về BHXH của

thế giới, với điều kiện hiện tại, nước ta đã lựa chọn thực hiện các chế độ

BHXH bắt buộc, bao gồm: chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, hưu

trí, tử tuất. Và, tùy điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ mà Nhà

22

nước có những điều chỉnh khác nhau đối với hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc cho phù hợp.

1.2.2.4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc

 Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội bắt buộc

Trên thực tế, trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về

BHXH xảy ra nhiều vi phạm từ phía các bên tham gia BHXH. Các khả

năng xảy ra vi phạm về BHXH bắt buộc thường nằm trong quá trình đóng,

hưởng và quản lý quỹ BHXH. Các nhóm hành vi vi phạm về BHXH bắt

buộc cụ thể bao gồm:

Nhóm hành vi vi phạm pháp luật về nghĩa vụ đóng BHXH: không

đóng, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy

định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Nhóm

hành vi này xuất phát từ ý thức không tuân thủ các quy định pháp luật về

BHXH bắt buộc của người tham gia BHXH.

Nhóm hành vi vi phạm pháp luật về quyền thụ hưởng BHXH: cố

tình gây khó khăn hoặc cản trở việc hưởng BHXH của NLĐ, gian lận thông

qua việc làm sai lệch, giả mạo giấy tờ, hồ sơ để hưởng chế độ BHXH, giám

định sai.

Nhóm hành vi vi phạm pháp luật về quản lý quỹ BHXH: sử dụng

tiền đóng và quỹ BHXH trái quy định của pháp luật; báo cáo sai sự thật,

cung cấp sai lệch thông tin, số liệu tiền đóng và quỹ BHXH. Các hành vi vi

phạm này có thể dẫn đến thất thoát trực tiếp tài chính quỹ BHXH và ảnh

hưởng gián tiếp đến quyền lợi của NLĐ, làm giảm uy tín của các cơ quan

tổ chức BHXH cũng như niềm tin của NLĐ vào việc thực thi chính sách

BHXH của Nhà nước.

Tùy theo tính chất và mức độ mà các hành vi vi phạm về BHXH bắt

buộc có thể bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách

nhiệm hình sự.

23

Trên thế giới, hầu hết văn bản pháp luật của các nước đều quy định

các hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng và quyền

thụ hưởng các chế độ. Nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định chế tài hình

sự để xử lý những hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH và vi phạm về

quyền thụ hưởng các chế độ BHXH để bảo vệ chính sách an sinh xã hội

của mình thông qua việc bảo vệ những quan hệ xã hội phát sinh trong quá

trình thực hiện chính sách BHXH trong các luật chuyên ngành về BHXH

(như: Mỹ, Philippin, Thái Lan, Campuchia...). Từ kinh nghiệm của các

quốc gia, Việt Nam có thể nghiên cứu, học hỏi để xây dựng các chế tài xử

phạt hành vi vi phạm pháp luật BHXH, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã

hội của đất nước. Đặc biệt, việc tội phạm hóa một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.

 Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc

Tranh chấp về BHXH bắt buộc là tranh chấp trong việc thực hiện

các quy định của pháp luật về các chế độ BHXH bắt buộc. Tranh chấp về

BHXH có thể xảy ra khi một trong các bên hoặc tất cả các bên tham gia

quan hệ BHXH bắt buộc xung đột, mâu thuẫn với nhau về các quyền lợi

BHXH. Trong đó, tranh chấp BHXH giữa NLĐ và NSDLĐ là một trong

những tranh chấp lao động phổ biến nhất.

Do vậy, các bên trong tranh chấp BHXH đều mong muốn tìm được

biện pháp giải quyết đảm bảo tốt nhất mọi quyền lợi, không ảnh hưởng đến

mối quan hệ giữa các bên, do đó việc lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp

về BHXH là vô cùng quan trọng. Các cơ chế giải quyết tranh chấp về

BHXH bao gồm: cơ chế thỏa thuận, cơ chế khiếu nại và cơ chế kiện tụng.

Thứ nhất, cơ chế thỏa thuận là cơ chế mà các bên tiến hành giải

quyết tranh chấp về BHXH thông qua việc thỏa thuận trực tiếp với nhau

(hay còn gọi là thương lượng) hoặc thông qua một bên trung gian, độc lập,

có kiến thức kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết tranh chấp để đưa ra các

lời khuyên về quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên (hòa giải ngoài tố tụng

24

hay trọng tài). Cơ chế thỏa thuận được khuyến khích sử dụng do sự hiệu

quả mà nó đem lại

Thứ hai, cơ chế khiếu nại là cơ chế mà bên khiếu nại là NLĐ,

NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc; bên giải quyết khiếu nại có thể là

NSDLĐ hoặc tổ chức, cơ quan BHXH. Việc giải quyết tranh chấp bằng cơ

chế khiếu nại nhằm mục đích giúp cho các bên vi phạm có thể sửa sai các

hành vi của mình.

Thứ ba, cơ chế kiện tụng là cơ chế giải quyết tranh chấp BHXH cuối

cùng sau khi các bên đã áp dụng cơ chế thỏa thuận nhưng không thành

hoặc không áp dụng cơ chế khiếu nại. Cơ quan tố tụng sẽ tiến hành các

hoạt động theo trình tự, thủ tục luật định để phân định đúng đắn vụ việc

tranh chấp. Đối với việc giải quyết tranh chấp BHXH bằng cơ chế kiện

tụng, các quyết định của cơ quan tài phán có tính bắt buộc nhằm bảo đảm

quyền lợi của bên bị xâm hại cũng như quyền lợi của các bên tranh chấp.

Về việc tổ chức hệ thống tòa án an sinh xã hội, Việt Nam có thể tham khảo

các quốc gia như Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ...

Tiểu kết chương

Với sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng, BHXH đã trở thành một trụ

cột chính của hệ thống an sinh xã hội ở mỗi quốc gia. Ngày nay, BHXH đã

và đang mang tính toàn cầu, trở thành nhu cầu và quyền lợi của NLĐ và

được thừa nhận là nhu cầu khách quan, một trong những quyền lợi cơ bản

của con người. Cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, dù thể chế

chính trị của các nước có thể khác nhau, nhưng BHXH đều được thừa nhận

là một chính sách xã hội không thể thiếu ở các nước. Mỗi quốc gia tùy

thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà hệ thống các chế độ

BHXH được xây dựng khác nhau. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta coi

BHXH là một chính sách lớn, trọng điểm, luôn quan tâm, thường xuyên

25

sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về BHXH phù hợp với điều kiện kinh

tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. BHXH bắt buộc là một trong

những loại hình bảo hiểm có vai trò quan trọng trong hệ thống BHXH.

Ngày nay cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, đối

tượng và phạm vi áp dụng BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng, các

chế độ BHXH bắt buộc cũng được bổ sung hoàn thiện, đảm bảo cuộc sống,

quyền lợi cho NLĐ.

26

Chương 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ

BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI

HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc

Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người có trách nhiệm đóng phí

bảo hiểm cho cơ quan thực hiện BHXH theo quy định của Nhà nước. Theo

quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đối tượng tham gia BHXH bắt

buộc bao gồm NLĐ và NSDLĐ.

Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, NLĐ tham gia BHXH bắt

buộc bao gồm: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định

thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; Cán bộ,

công chức, viên chức Nhà nước; Lực lượng vũ trang; Người làm việc có

thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc; Người làm

việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;

Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng

tiền lương; Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn;

NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao

động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có

thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy

định của Chính phủ.

Có thể thấy hình thức BHXH bắt buộc đang có sự phát triển khá

nhanh, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. BHXH bắt

buộc gần như bao phủ tất cả các đối tượng tham gia quan hệ lao động. Theo

quy định luật BHXH năm 2014, NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có

thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng thuộc diện bắt buộc tham gia

BHXH có ý nghĩa quan trọng, vừa đảm bảo quyền lợi của NLĐ do những

lao động thuộc nhóm này vẫn có thể gặp rủi ro khi làm việc, vừa ngăn cản

27

việc các doanh nghiệp trốn tránh việc tham gia BHXH cho NLĐ bằng cách

ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng theo chuỗi. Tuy nhiên, trên thực tế, đối

tượng lao động này rất khó quản lý, do tính chất đặc thù không ổn định,

thay đổi thường xuyên trong khi cơ chế quản lý về lao động, tiền lương và

thủ tục tham gia và dừng đóng BHXH bắt buộc còn nhiều hạn chế. Mặt

khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Bộ luật lao động 2012 thì đối với

công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp

đồng lao động bằng lời nói. Quy định này dễ dàng tạo điều kiện cho chủ sử

dụng lao động “lách luật” để không phải tham gia BHXH cho NLĐ. Chủ sử

dụng lao động cũng có thể ký kết hợp đồng dưới 01 tháng với NLĐ hoặc

không công khai thuê mướn lao động, NLĐ trong trường hợp này trở thành

lao động chui và không được bảo vệ quyền lợi đầy đủ.

Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay, việc

Việt Nam thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân

nước ngoài là cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần tạo ra

sự bình đẳng giữa lao động trong nước với lao động nước ngoài, tạo tâm lý

yên tâm làm việc cho NLĐ. Đây là một yếu tố tích cực tạo môi trường kinh

doanh thuận lợi, thu hút lao động chất lượng cao đến Việt Nam. Việc quy

định áp dụng BHXH bắt buộc đối với tất cả những NLĐ đi làm việc ở nước

ngoài theo hợp đồng và NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt

Nam sẽ là tiền đề thúc đẩy, triển khai các Hiệp định song phương về

BHXH giữa Việt Nam và các quốc gia khác.

Về NSDLĐ, NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà

nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị - xã

hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ

chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động

trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ

hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp

đồng lao động. Luật BHXH năm 2014 đã hệ thống một cách chi tiết và đầy

28

đủ các trường hợp có sử dụng, thuê mướn lao động phải tham gia BHXH

bắt buộc. Tham gia BHXH bắt buộc trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm của

NSDLĐ để bảo vệ NLĐ.

2.1.2. Về các chế độ BHXH bắt buộc

Chế độ BHXH là hệ thống các các quy định về mức hưởng của từng

trường hợp, điều kiện hưởng và thời hạn hưởng cho NLĐ khi họ gặp phải

những rủi ro thuộc từng phạm vi bảo hiểm. Hầu hết các quốc gia, trong đó

có Việt Nam quy định các chế độ BHXH bắt buộc bao gồm 5 chế độ: chế

độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ TNLĐ, BNN; chế độ hưu trí và chế độ

tử tuất.

2.1.2.1. Chế độ ốm đau

Theo Giáo trình Luật an sinh xã hội của Trường Đại học Luật Hà

Nội: “Bảo hiểm ốm đau là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ

(người tham gia BHXH) tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì ốm đau,

tai nạn, chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật” [34, tr. 134]

- Theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì đối tượng áp dụng

chế độ ốm đau là các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trừ những người

đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người hoạt động không chuyên

trách ở xã, phường, thị trấn và NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc

tại Việt Nam. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, đối với đối tượng lao động làm

việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng do tính chất

không ổn định và thay đổi thường xuyên thì việc thực hiện các chế độ

BHXH ngắn hạn như ốm đau, thai sản… đối với họ là rất khó khăn và còn

gặp nhiều vướng mắc.

- Pháp luật BHXH quy định thời gian tối đa được hưởng chế độ ốm

đau trong một năm của NLĐ đủ điều kiện được hưởng được tính theo ngày

làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ hằng tuần theo quy định của

pháp luật về lao động.

29

Thời gian hưởng chế độ ốm đau trong trường hợp NLĐ nghỉ do mắc

bệnh thông thường theo quy định của Luật BHXH năm 2014 là tối đa 30

ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm, 40 ngày nếu đóng BHXH từ 15 năm

đến dưới 30 năm, 60 ngày nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên. Việc quy

định khoảng cách thời gian đóng BHXH giữa các mức hưởng là quá lớn

không đảm bảo sự công bằng, thể hiện được nguyên tắc đóng – hưởng và

không khuyến khích mọi người đóng BHXH với thời gian lâu hơn.

- Về trường hợp NLĐ nghỉ do mắc bệnh thuộc Danh mục chữa trị

dài ngày do Bộ Y tế ban hành thì Luật BHXH năm 2014 không quy định

thời gian đóng BHXH tối thiểu của NLĐ trước khi hưởng chế độ ốm đau.

Do đó ngay khi NLĐ bị ốm đau trong tháng đầu tiên tham gia đóng BHXH,

họ vẫn có quyền được hưởng chế độ ốm đau như các đối tượng khác đóng

lâu hơn. Điều này dẫn tới chính sách dễ bị lạm dụng, nhất là đối với trường

hợp NLĐ nghỉ do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần điều trị dài ngày, từ

đó làm ảnh hưởng cân đối thu chi của quỹ BHXH, nguyên tắc đóng -

hưởng và cũng không đảm bảo tính công bằng giữa những người NLĐ

tham gia BHXH.

- Đối với trường hợp NLĐ nghỉ chăm con ốm đau: thời gian hưởng

chế độ khi con ốm đau được xác định theo tuổi của con và cũng tính trong

phạm vi một năm phụ thuộc vào các yếu tố về điều kiện lao động, tình

trạng bệnh tật, thời gian đóng BHXH và độ tuổi của con bị ốm. Tuy nhiên,

Luật BHXH năm 2014 chưa có sự phân biệt về thời gian hưởng chế độ

BHXH ốm đau để chăm sóc con ốm tùy theo tình trạng và mức độ bệnh tật

của con, điều này xảy ra vướng mắc khi áp dụng đối với trường hợp con

mắc bệnh điều trị dài ngày và con chỉ bị ốm đau thông thường. Trong khi

đó, dưới 07 tuổi là thời gian sức khỏe của trẻ vẫn còn nhạy cảm, rất dễ bị

mắc các bệnh thông thường hoặc cần phải điều trị dài ngày nên NLĐ phải

nghỉ việc để chăm sóc con ốm là điều tất yếu.

30

- Riêng đối với những người làm việc trong lực lượng vũ trang (sĩ

quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan

nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân…)

thì thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau căn cứ vào thời gian điều trị

tại cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền hoàn toàn không phụ thuộc vào

thời gian đóng BHXH cũng như loại bệnh. Về mức hưởng chế độ ốm đau

thì họ sẽ được hưởng 100% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề

trước khi nghỉ việc. Thời gian hưởng và mức hưởng chế độ ốm đau đối với

những NLĐ làm việc trong lực lượng vũ trang có sự khác biệt và ưu đãi

hơn so với NLĐ dân sự. Đây là những chế độ đãi ngộ đặc biệt của Nhà

nước dành cho các đối tượng này bởi tính chất công việc của họ, nhưng lại

được sử dụng quỹ BHXH. Trong khi đó quỹ BHXH độc lập với ngân sách

Nhà nước. Mặt khác, trong cùng một mối quan hệ tương quan về lao động,

khi được đặt trong vị trí là đối tượng điều chỉnh của một ngành Luật thì chế

độ này chưa đảm bảo nguyên tắc bình đẳng.

2.1.2.2. Chế độ thai sản

Chế độ thai sản là một chế độ đặc thù chủ yếu gắn liền với NLĐ nữ,

không chỉ bảo đảm đời sống và sức khỏe cho lao động nữ nói riêng khi

thực hiện thiên chức làm mẹ mà còn tạo điều kiện cho NLĐ nói chung, đặc

biệt là lao động nữ kết hợp hài hòa giữa cuộc sống lao động và cuộc sống

gia đình, phát huy hiệu quả trí tuệ, tài năng vào công cuộc xây dựng và phát

triển kinh tế - xã hội đất nước.

Về đối tượng được hưởng chế độ thai sản, Luật BHXH năm 2014 đã

mở rộng thêm phạm vi đối tượng là trường hợp lao động nữ mang thai hộ

và người mẹ nhờ mang thai hộ; trường hợp lao động nam đang đóng

BHXH có vợ sinh con. Ngoài ra, NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng

tuổi cũng được hưởng chế độ thai sản thay vì quy định dưới 04 tháng tuổi

như trước kia. Việc mở rộng phạm vi đối tượng hưởng chế độ thai sản mà

31

Luật BHXH năm 2014 đang quy định rất tiến bộ, phù hợp với quy định của

pháp luật thế giới.

Về điều kiện hưởng chế độ thai sản thì Luật BHXH năm 2014 đã

quy định cụ thể hơn trường hợp NLĐ đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở

lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở

khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng BHXH từ 03 tháng trở

lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Luật đã nới lỏng quy định

điều kiện hưởng với đối tượng này, đảm bảo công bằng và quyền lợi cho

NLĐ, tạo điều kiện cho lao động nữ vì lý do bệnh lý phải nghỉ việc dưỡng

thai vẫn có đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con, vừa hạn chế

được tình trạng trục lợi chế độ thai sản.

Về thời gian hưởng chế độ thai sản, Luật BHXH năm 2014 quy định

cả trường hợp lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con tại khoản 2

Điều 34. Quy định này rất tiến bộ và thể hiện sự bình đẳng giới, sự chia sẻ

trách nhiệm của người chồng trong việc chăm sóc con, đảm bảo tốt hơn sức

khỏe của người mẹ và trẻ sơ sinh.

Luật BHXH năm 2014 quy định mức hưởng chế độ thai sản tại Điều

39 bao gồm mức hưởng một tháng, mức hưởng một ngày và mức hưởng

chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi. Về mức hưởng một ngày, Luật BHXH

năm 2014 đã bổ sung áp dụng đối với trường hợp khi khám thai và lao

động nam có vợ sinh con được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo

tháng chia cho 24 ngày, quy định này đảm bảo công bằng về quyền lợi của

NLĐ và thống nhất với quy định về chế độ ốm đau.

Luật BHXH năm 2014 cũng quy định cụ thể hơn về thời gian NLĐ

nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng

được tính là thời gian đóng BHXH, nhằm đảm bảo công bằng về quyền lợi

cho NLĐ trong tương quan với các chế độ BHXH khác.

Tuy nhiên, Luật BHXH năm 2014 chưa quy định chi tiết về chế độ

hưởng trợ cấp một lần khi sinh cho trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH,

32

vì với điều kiện về quản lý nhân khẩu và lao động hiện hành thì chỉ trong

thực tế không thể xác định được người mẹ có tham gia BHXH hay không

mà chỉ căn cứ vào đơn và xác nhận nên chắc chắn sẽ bị lạm dụng và không

kiểm soát được khi cả cha, mẹ đóng BHXH tại các đơn vị khác nhau, thậm

chí tại các địa phương khác nhau cũng đề nghị hưởng trợ cấp một lần khi

sinh con.

Pháp luật Việt Nam đã công nhận quyền nuôi con nuôi và quyền

được làm con nuôi là một trong những quyền con người, quyền công dân

được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Luật BHXH năm 2014 cũng quy định

đảm bảo quyền của NLĐ khi nhận nuôi con nuôi. Theo Luật BHXH năm

2014, khi NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được hưởng chế

độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng

có trường hợp NLĐ nhận nuôi nhiều con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì Luật

BHXH hiện nay chưa quy định.

Luật BHXH năm 2014 quy định điều kiện để lao động nữ có thể đi

làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con là sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít

nhất được 04 tháng (Luật BHXH 2006 là từ đủ 60 ngày trở lên) và phải báo

trước và được NSDLĐ đồng ý. Việc kéo dài thời gian nghỉ sinh con mới có

đủ điều kiện để đi làm để đảm bảo tối đa sức khỏe, quyền lợi của NLĐ nữ,

mặc dù Luật quy định chỉ mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào sự lựa chọn

của lao động nữ cũng là để lao động nữ có cơ hội việc làm, đảm bảo thu

nhập trong quá trình chăm sóc con nhỏ khi sức khỏe đã được đảm bảo. Tuy

nhiên, việc Luật BHXH năm 2014 vẫn quy định bỏ ngỏ về điều kiện “báo

trước và được NSDLĐ đồng ý” mà không quy định chi tiết “thời hạn báo

trước là bao lâu hay vấn đề này do hai bên thỏa thuận hoặc do NSDLĐ quy

định” [28, tr.13] cũng gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện

chế độ thai sản.

33

2.1.2.3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Chế độ TNLĐ, BNN là chế độ nhằm bảo vệ quyền lợi NLĐ trước

những rủi ro nghề nghiệp, đảm bảo các khoản trợ cấp và bù đắp phần thu

nhập bị mất đi khi họ phải nghỉ việc vì bị TNLĐ, BNN. Chế độ TNLĐ,

BNN không chỉ được quy định tại Luật BHXH năm 2014 mà còn được

điều chỉnh bởi Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 và các văn bản hướng

dẫn thi hành.

Về đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN: Luật An toàn, vệ sinh

lao động 2015 quy định đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN bao gồm

NLĐ tham gia BHXH bắt buộc quy định theo Khoản 1 Điều 2 và NSDLĐ

theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật BHXH năm 2014. Điểm mới của

Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 so với Luật BHXH năm 2014 là đã bổ

sung đối tượng hưởng chế độ TNLĐ, BNN là NSDLĐ tham gia BHXH.

Về điều kiện hưởng chế độ TNLĐ: Theo quy định của Luật BHXH

năm 2014 và Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 thì NLĐ được hưởng chế

độ TNLĐ khi bị TNLĐ tại nơi làm việc và trong giờ làm việc; ngoài nơi

làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của

NSDLĐ hoặc NSDLĐ ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động;

trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở

trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý.

Tuy nhiên, các trường hợp như thế nào được coi là tai nạn vẫn chưa

có quy định chi tiết, một số trường hợp tai nạn còn chưa có căn cứ để giải

quyết như trường hợp NLĐ bị tai nạn khi tham gia các hoạt động thể thao,

văn hóa, văn nghệ, thăm người ốm…do cơ quan tổ chức hoặc do cơ quan

cử đi tham gia; trường hợp NLĐ “tự ý làm những công việc không phải

công việc chính được giao, đùa nghịch, đánh nhau trong lúc làm việc dẫn

tới tai nạn…dù rằng tai nạn đó xảy ra ở nơi làm việc, trong giờ làm việc”

[12, tr.19]

34

Bên cạnh đó, trong trường hợp NLĐ bị tai nạn trên tuyến đường từ

nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại, để xác định được “khoảng thời gian

và tuyến đường hợp lý” là rất khó khăn, quy định của luật còn chung

chung, chưa hướng dẫn cụ thể. Ví dụ như NLĐ đi làm ở nơi vùng sâu, vùng

xa, những quãng đường vắng không có dân cư và những tai nạn bất ngờ

như cây đổ, sạt lở đất… những trường hợp này không thể lập biên bản hiện

trường, NLĐ không đủ điều kiện để hưởng chế độ theo quy định của pháp

luật hoặc từ việc khó xác định thời gian, địa điểm tai nạn mà NLĐ có thể

lạm dụng để hưởng chế độ TNLĐ. Hay phải kể đến những trường hợp

NLĐ tai nạn giao thông do vi phạm pháp luật giao thông như phóng nhanh,

vượt ẩu, uống rượu bia khi tham gia giao thông, vượt đèn đỏ… khi cần giải

quyết chế độ TNLĐ cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc.

Về điều kiện hưởng chế độ BNN:

Luật BHXH năm 2014 quy định NLĐ tham gia bảo hiểm TNLĐ,

BNN được hưởng chế độ BNN khi bị bệnh thuộc danh mục BNN do Bộ Y

tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong

môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại. Tuy nhiên trong thực tiễn “có

trường hợp NLĐ đã làm việc ở môi trường, nghề độc hại nhưng sau đó

chuyển sang nơi làm việc có yếu tố bình thường thì mới phát sinh BNN thì

có được hưởng chế độ BNN không? Có tính đến vấn đề bảo lưu điều kiện

lao động có hại cũng như nguyên tắc bảo lưu như thế nào?”[28, tr.14].

Luật BHXH năm 2014 quy định chưa cụ thể và không bao quát được các

trường hợp có thể xảy ra trong thực tiễn, dẫn đến những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng chế độ TNLĐ, BNN.

Về mức hưởng chế độ TNLĐ, BNN:

Mức hưởng chế độ TNLĐ, BNN được xác định dựa trên tỷ lệ suy

giảm khả năng lao động, mức trợ cấp một lần, hằng tháng được quy định

dựa trên mức lương cơ sở và ngoài khoản trợ cấp này NLĐ còn được

hưởng một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, tức là tính theo

35

tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để

điều trị. Khoản trợ cấp này đảm bảo tính hợp lý, công bằng và đảm bảo

nguyên tắc mức hưởng trên cơ sở mức đóng BHXH. Tuy nhiên, quy định

về khoản trợ cấp thêm xác định theo số năm đóng BHXH ngoài trợ cấp

chính được tính dựa trên mức lương cơ sở chưa đảm bảo công bằng giữa

những người cùng hưởng chế độ TNLĐ, BNN, vì tiền lương làm căn cứ

đóng BHXH của mỗi người cao thấp khác nhau mặc dù tỷ lệ suy giảm khả

năng lao động là như nhau.

Về phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình:

Theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì NLĐ bị TNLĐ, BNN

mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương

tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình

trạng thương tật, bệnh tật. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc cấp phương tiện

trợ giúp sinh hoạt và dụng cụ chỉnh hình như thế nào và cấp trong thời gian

bao lâu cho NLĐ thì các cơ quan BHXH khi thực hiện quy định này cũng

gặp nhiều vướng mắc, khó khăn.

Ngoài ra, Điều 52 của Luật BHXH năm 2014 quy định về nghỉ

dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật: “NLĐ

sau khi điều trị ổn định thương tật do TNLĐ hoặc bệnh tật do nghề nghiệp

mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe từ

05 ngày đến 10 ngày”. Tuy nhiên, đến thời điểm này cũng chưa có hướng

dẫn quy định cụ thể về tỷ lệ thương tật bao nhiêu là được hưởng và số ngày

được nghỉ dưỡng sức tương ứng với tỷ lệ thương tật, bệnh tật.

2.1.2.4. Chế độ hưu trí

Chế độ hưu trí và xây dựng quỹ lương hưu là chính sách cốt lõi của

BHXH. Trong quá trình lao động, NLĐ sẽ có thu nhập để trang trải cuộc

sống, nhưng vẫn muốn có một khoản tiền để dành khi không còn lao động,

NLĐ có thể lo toan cho cuộc sống. Do đó, chính sách của Nhà nước là tạo

điều kiện để NLĐ tham gia BHXH hưu trí, đảm bảo cuộc sống cho NLĐ

36

khi bước ra khỏi quá trình lao động. Nhìn chung, các quy định về chế độ

hưu trí trong Luật BHXH năm 2014 đã tương đối hợp lý về điều kiện nghỉ

hưu, điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH, điều chỉnh lương

hưu... đã tạo được sự đồng tình của đa số NLĐ và giải quyết kịp thời quyền

lợi thụ hưởng cho NLĐ khi về hưu và từng bước giảm dần sự chênh lệch về

mức hưởng của NLĐ giữa các khu vực khác nhau. Cụ thể:

 Điều kiện hưởng: Luật BHXH năm 2014 bổ sung điều kiện hưởng

lương hưu đối với lao động đặc thù nghỉ hưu ở độ tuổi thấp, cụ thể 02

trường hợp là lao động làm công việc khai thác than trong hầm lò và lao

động bị nhiễm HIV/AIDS. Đối với đối tượng sĩ quan, quân nhân chuyên

nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân khi có từ đủ 20 năm đóng

BHXH trở lên mà bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp cũng

đủ điều kiện hưởng lương hưu, đây là một trong những quy định được bổ

sung nhằm đảm bảo quyền lợi, chính sách đối với lao động trong điều kiện

đặc thù và bị rủi ro nghề nghiệp.

 Thời điểm hưởng lương hưu: Điều 59 Luật BHXH 2014 quy định rõ

ràng, tách bạch thời điểm hưởng lương hưu cho từng đối tượng: NLĐ đang

đóng BHXH bắt buộc, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều

hành hợp tác xã, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và người

đang bảo lưu thời gian đóng BHXH. Quy định này tạo nên tính minh bạch

trong quá trình quan hệ lao động và thỏa thuận hợp đồng lao động, giúp

NLĐ xác định rõ thời điểm hưởng lương hưu để cân đối tài chính hợp lý.

 Mức hưởng: Luật BHXH năm 2014 điều chỉnh công thức tính lương

hưu, việc này bảo đảm tốt hơn nguyên tắc đóng – hưởng, bảo đảm tốt hơn

khả năng bền vững của quỹ hưu trí và tử tuất; tỉ lệ lương hưu tính thêm cho

mỗi năm đóng BHXH sau năm thứ 20 của nam và sau năm thứ 15 của nữ là

giống nhau (2%) là công bằng.

 BHXH một lần:

37

Luật BHXH năm 2014 quy định bổ sung đối tượng được hưởng

BHXH một lần là lao động nữ hoạt động chuyên trách mà chưa đủ 15 năm

đóng BHXH và không tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện; người đang bị

mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như: Ung thư, bại

liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai

đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế. Việc bổ sung

thêm đối tượng được hưởng BHXH một lần là hợp lý, thể hiện tính nhân

văn trong chính sách và đảm bảo tối đa quyền lợi của NLĐ tham gia

BHXH bắt buộc.

Mức hưởng BHXH một lần theo Luật BHXH năm 2014 được điều

chỉnh theo hướng có lợi hơn cho người được hưởng BHXH. Ngoài ra, Luật

BHXH cũng bổ sung chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung. Đây là chính sách

BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung cho chế độ hưu

trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp của NLĐ

và NSDLĐ dưới hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn, tích

lũy thông qua hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật và được Nhà

nước khuyến khích tham gia.

Tuy nhiên, trước sự tăng trưởng của nền kinh tế và nhu cầu sử dụng

nguồn lao động có chất lượng cao, và xu hướng già hóa dân số, chế độ hưu

trí tại Luật BHXH đã bộc lộ một số bất cập sau:

Còn có sự lồng ghép giữa chế độ hưu trí với các chính sách khác

như chính sách lao động, chính sách việc làm (như chính sách đối với lao

động dôi dư, tinh giảm biên chế, đối với người không đủ tuổi tái cử, tái bổ

nhiệm,...) dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp giải quyết chế độ hưu trí

trước tuổi quy định khiến cho quỹ BHXH ngày càng có nguy cơ mất cân

đối; đồng thời cũng tạo nên sự không công bằng giữa các đối tượng tham

gia BHXH nói chung.

Việc quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ thấp hơn tuổi nghỉ hưu

của lao động nam chỉ hợp lý đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định.

38

Việc quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ nói chung sớm hơn nam 5

tuổi vừa tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, hạn chế sự thăng tiến,

đồng thời vừa gây lãng phí nguồn lao động (đặc biệt là những lao động có

sự tích luỹ nhiều kinh nghiệm cần thiết trong công tác nghiên cứu), vừa dẫn

đến quỹ BHXH phải chi trả cho những người có khả năng và nhu cầu làm việc, có thể sau khi nghỉ hưu vẫn làm việc có thu nhập.

Về tuổi nghỉ hưu nói chung quy định như hiện nay cơ bản là hợp lý

trong thời điểm hiện tại, song với thực trạng tuổi thọ dân số đang tăng lên

sẽ là một trong những nguyên nhân làm cho quỹ không có khả năng chi trả, ảnh hưởng đến việc cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn.

Việc quy định NLĐ chưa hết tuổi lao động và còn khả năng lao

động có dưới 20 năm đóng BHXH được nhận trợ cấp BHXH một lần là

chưa đảm bảo khuyến khích NLĐ tham gia BHXH tự nguyện và chưa phù

hợp với mục tiêu của BHXH là nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi hết

tuổi lao động, đảm bảo an sinh xã hội. Mức hưởng bảo hiểm một lần còn thấp so với mức đóng.

Luật BHXH hiện hành chưa quy định về việc tiếp tục hưởng lương

hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc

người xuất cảnh trở về định cư hợp pháp, mất tích trở về, nên gây khó khăn

trong thực hiện và thiệt hại quyền lợi của NLĐ [9, tr.13].

Mức lương hưu hiện nay còn thấp so với nhu cầu cuộc sống của

người về hưu, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH thấp hơn nhiều so với thu

nhập thực tế của NLĐ. Điều đó dẫn đến tình trạng mặc dù tỷ lệ % hưởng

lương hưu khá cao (tối đa 75%) nhưng mức lương hưu của người nghỉ hưu

còn thấp so với nhu cầu của cuộc sống, điều này cũng gây một áp lực lớn

đối với quỹ BHXH trong việc điều chỉnh lương hưu. Điều này thể hiện khá

rõ đối với lao động hưởng lương và đóng BHXH theo chế độ tiền lương do

NSDLĐ quyết định, do quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là

mức tiền lương ghi trên hợp đồng lao động nên các doanh nghiệp khi ký

39

hợp đồng lao động với NLĐ thỏa thuận tiền lương ghi trên hợp đồng lao

động là phần cơ bản, đảm bảo cao hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy

định, còn lại là các khoản phụ cấp, trợ cấp để trốn đóng BHXH.

Xu hướng giải quyết BHXH một lần (đối với người chưa hết tuổi lao

động) ngày càng tăng, số NLĐ nghỉ việc giải quyết BHXH một lần hàng

năm có chiều hướng gia tăng và chiếm khoảng từ 5-6% tổng số đối tượng

tham gia BHXH, điều này đặt ra câu hỏi cho các cơ quan quản lý nhà nước

và cơ quan BHXH khi nghiên cứu, xây dựng chính sách với mục tiêu từng

bước mở rộng đối tượng tham gia đảm bảo cuộc sống NLĐ khi hết tuổi lao

động, đảm bảo an sinh xã hội. Mặt khác, Luật BHXH năm 2014 giảm bớt

02 đối tượng hưởng BHXH một lần là: NLĐ suy giảm khả năng lao động

từ 61% trở lên mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH; NLĐ sau một năm nghỉ

việc nếu không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhận BHXH một lần

mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH. Quy định này với mục đích nhằm khuyến

khích NLĐ bảo lưu thời gian đã đóng BHXH, tích lũy thời gian đóng

BHXH để có thể hưởng lương hưu hằng tháng khi đủ điều kiện về thời gian

tham gia và tuổi nghỉ hưu nhằm đảm bảo cuộc sống khi hết tuổi lao động

thay vì nhận BHXH một lần. Nhưng trên thực tế, NLĐ bị suy giảm khả

năng lao động từ 61% trở lên, tuổi thọ sẽ không bằng người có sức khỏe

bình thường, với điều kiện sức khỏe suy giảm như vậy khó có khả năng

tiếp tục làm việc, việc họ không có khoản thu nhập để trang trải và chuyển

đổi công việc phù hợp với sức khỏe và nếu họ không có nguyện vọng tiếp

tục làm việc, phải bảo lưu thời gian đóng BHXH hoặc tiếp tục đóng BHXH

tự nguyện để được hưởng hưu trí là không hợp lý và không đảm bảo quyền

lợi cho NLĐ thuộc đối tượng này.

2.1.2.5. Chế độ tử tuất

Chế độ tử tuất là chế độ BHXH bù đắp phần thu nhập của NLĐ dùng

để đảm bảo cuộc sống cho thân nhân họ hoặc các chi phí khác phát sinh do

NLĐ đang tham gia quan hệ lao động hoặc đang hưởng BHXH bị chết.

40

Trên thực tế, trong quá trình thực hiện chế độ tử tuất theo quy định

của Luật BHXH bộc lộ những hạn chế, bất cập như:

Về các trường hợp giải quyết chế độ tử tuất theo quy định của Luật

BHXH đã cơ bản bao phủ hết các trường hợp, tuy nhiên riêng đối với

trường hợp người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp TNLĐ, BNN

hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án

treo mà bị chết trong tù thì chưa được quy định nên thân nhân chưa được

hưởng chế độ tử tuất.

Còn có sự chênh lệch lớn giữa trợ cấp tuất một lần và trợ cấp tuất

hàng tháng. Trong một số trường hợp, nhiều NLĐ chết còn ít thân nhân đủ

điều kiện hưởng tuất hàng tháng hoặc thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng là

rất ngắn làm cho chênh lệch giữa tổng mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng

và trợ cấp tuất một lần rất lớn. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể xác định

“thu nhập” của thân nhân. Điều này dễ tạo nên sự tùy tiện, lạm dụng trong

việc giải quyết, xảy ra các trường hợp thân nhân người chết tìm cách lách

luật, kê khai hoàn cảnh gia đình để được hưởng trợ cấp tuất một lần hoặc

hàng tháng theo hướng có lợi hơn, gây mất cân đối cho quỹ BHXH.

Tương tự như mức hưởng BHXH một lần, mức trợ cấp tuất một lần

đối với người đang đóng BHXH hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH

chết chưa đảm bảo được nguyên tắc đóng - hưởng, gây thiệt thòi cho thân

nhân NLĐ.

2.1.3. Về quỹ BHXH bắt buộc

Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân

sách Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc cân đối thu-chi, được bảo toàn

và tăng trưởng. Quỹ BHXH được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau.

Một trong những nguồn cơ bản hình thành nên quỹ BHXH bắt buộc là từ

phía các bên tham gia BHXH bắt buộc bao gồm NLĐ và NSDLĐ.

41

Về cơ bản, Luật BHXH năm 2014 đã quy định rất chặt chẽ và cụ thể

về mức đóng và phương thức đóng BHXH, đảm bảo ổn định việc chi trả

các chế độ BHXH cho NLĐ.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

(đặc biệt là NSDLĐ) tìm mọi cách để trốn đóng hoặc nợ BHXH gây thất

thu cho quỹ BHXH, còn đối tượng hưởng BHXH thì tìm nhiều cách để lạm

dụng quỹ gây thất thoát quỹ. Bên cạnh đó, chi nhiều nhất là chi cho chế độ

hưu trí. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, từ năm 1995 – 2012, hàng

năm số thu vào quỹ hưu trí, tử tuất đều lớn hơn số chi. Tuy nhiên, trong

tương lai, số người nghỉ hưu hưởng từ quỹ BHXH càng nhiều. Dự báo đến

năm 2023, quỹ hưu trí, tử tuất sẽ có số thu bằng số chi. Từ năm 2024 trở đi,

ngoài số thu trong năm, phải trích sử dụng thêm tiền cân đối dương của các

năm trước mới đảm bảo đủ chi. Đến năm 2037, số thu BHXH trong năm và

số tồn tích bắt đầu không đảm bảo khả năng chi trả. Các năm sau đó, số chi

sẽ lớn hơn nhiều so với số thu trong năm. Do đó, quỹ hưu trí, tử tuất tiềm

ẩn nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.

Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, chính sách về đầu tư, tăng trưởng quỹ

BHXH tuy chặt chẽ, an toàn nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao. Trong bối

cảnh khủng hoảng tài chính như hiện nay, việc đầu tư, cân đối quỹ BHXH

bắt buộc đang trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Hoạt động đầu tư quỹ

BHXH không chỉ đảm bảo sinh lời mà còn đòi hỏi độ an toàn vì cần phải

đảm bảo nghĩa vụ chi trả cho người tham gia khi cần thiết.

2.1.4. Về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc

Hiện nay, tình hình xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh

chấp về BHXH bắt buộc còn nhiều khó khăn và hạn chế. Nhiều doanh

nghiệp, đặc biệt là khối các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật BHXH với nhiều hình thức và mức độ

như: Doanh nghiệp ký hợp đồng theo ngày, theo giờ đối với lao động mùa

vụ để không phải đóng BHXH; cố tình kê khai mức lương thấp hơn thực tế

42

hợp đồng lao động để giảm chi phí BHXH phải nộp; Doanh nghiệp “chây

ỳ”, “trốn” đóng BHXH diễn ra phổ biến…

Điều 122 của Luật BHXH năm 2014 đã đưa ra một số quy định mới

trong lĩnh vực xử lý vi phạm pháp luật về BHXH. Theo đó, cơ quan, tổ

chức, cá nhân nếu có hành vi vi phạm quy định của Luật BHXH, tùy theo

tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý dưới các hình thức với mức phạt khác

nhau: xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách

nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại sẽ phải bồi thường. Theo quy định pháp

luật BHXH hiện hành thì mức phạt tiền cao nhất đối với hành vi vi phạm

về BHXH được quy định tối đa không quá 75.000.000 đồng. Mức phạt tiền

này được đánh giá là khá nhẹ, chưa đủ tính răn đe đối với những doanh

nghiệp trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ. Nhiều doanh nghiệp sẵn

sàng nộp phạt nếu bị phát hiện hành vi vi phạm, bởi vì số tiền phải nộp thấp

hơn nhiều so với số tiền phải đóng BHXH theo đúng quy định. Thậm chí,

có doanh nghiệp còn dùng tiền đóng BHXH gửi ngân hàng hoặc chiếm

dụng vốn để lấy lãi trả tiền phạt hành chính về việc chậm đóng BHXH.

Mặt khác, hiện nay, khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản cần phải có

xác nhận của cơ quan Thuế hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, nhưng lại không

được yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan BHXH về hoàn thành nghĩa vụ

đóng BHXH.

2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại

huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía tây-bắc tỉnh Hải Dương, giáp với các

tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên. Cẩm Giàng là một huyện nhỏ với diện tích

109 km2 chia thành 19 đơn vị hành chính bao gồm 17 xã và 02 thị trấn, dân

số 127.914 người. Trong những năm gần đây, cùng với điều kiện phát triển

chung của đất nước, nền kinh tế huyện Cẩm Giàng có sự tăng trưởng vượt

bậc. Trong đó, lĩnh vực thương mại, công nghiệp dịch vụ được khuyến

khích đầu tư phát triển. Hiện tại, trên địa bàn huyện có 02 cụm công

43

nghiệp, 05 khu công nghiệp lớn là Tân Trường, Phúc Điền, Lai Cách, Đại

An, Cẩm Điền – Lương Điền và 02 cụm công nghiệp làng nghề thu hút trên

20.000 lao động trên khắp cả nước. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện

đại hoá trong những năm qua đã làm cho nền kinh tế huyện Cẩm Giàng

tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển tương đối toàn diện, đã giải quyết

việc làm cho hàng vạn lao động trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh. Ngoài ra,

huyện Cẩm Giàng nằm gần với Trung tâm thành phố Hải Dương, có hệ

thống đường giao thông trọng điểm đi qua với 3 trục: quốc lộ 5A, đường

sắt Hà Nội-Hải Phòng, quốc lộ 38 nối đường 5A với đường 5B, đường 194

phân nhánh tạo nên những trục đường giao thông lớn, thuận lợi cho lưu

thông luân chuyển hàng hóa.

BHXH tỉnh Hải Hưng được thành lập và bắt đầu hoạt động từ ngày

15/06/1995 theo quyết định số 20/QĐ-TCCB của BHXH Việt Nam. Cùng

với việc thành lập BHXH tỉnh Hải Hưng, BHXH huyện Cẩm Bình cũng đã

được thành lập, có trụ sở tại Thị trấn Lai Cách, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải

Hưng (Nay thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Ngày 01/01/1997

theo nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính của một số

tỉnh trong đó có tỉnh Hải Hưng, tỉnh Hải Hưng được tách thành tỉnh Hải

Dương và tỉnh Hưng Yên. Theo ý kiến của thủ tướng Chính phủ tại công

văn số 4045/CCHC ngày 13/08/1997 của văn phòng Chính phủ về việc

chia tách BHXH ở các tỉnh mới tách, tháng 10/1997 BHXH tỉnh Hải

Dương được thành lập theo Quyết định số 1599/QĐ-TCCB ngày

16/09/1997 của BHXH Việt Nam trên cơ sở tách BHXH tỉnh Hải Hưng

thành BHXH tỉnh Hải Dương và BHXH tỉnh Hưng Yên. Cùng với phân

chia địa giới tỉnh, địa giới của huyện Cẩm Bình cũng được chia tách thành

huyện Cẩm Giàng và huyện Bình Giang.

BHXH huyện Cẩm Giàng được thành lập và đi vào hoạt động theo

quyết định số 375/BHXH-QĐ/TCCB ngày 01/03/1997 của tổng giám đốc

BHXH Việt Nam trên cơ sở chia tách BHXH huyện Cẩm Bình đến nay đã

44

được hơn 20 năm. Nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của BHXH

tỉnh, của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm

Giàng và sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức chính trị

xã hội trong huyện, BHXH huyện Cẩm Giàng đều hoàn thành kế hoạch

được giao, đảm bảo năm sau cao hơn năm trước. Bám sát tình hình thực tế

của địa phương và nhiệm vụ được giao, BHXH Cẩm Giàng luôn chủ động

xây dựng kế hoạch, tham mưu cho BHXH tỉnh, Huyện ủy, Hội đồng nhân

dân, Uỷ ban nhân dân huyện, phối hợp tốt với các cơ quan, đơn vị trên địa

bàn, thực hiện triệt để công tác cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục ổn định

công tác tổ chức cán bộ, đoàn kết sáng tạo và chủ động khắc phục mọi khó

khăn, đảm bảo thống nhất, thông suốt, đồng bộ, đạt hiệu quả, góp phần

quan trọng vào việc ổn định đời sống NLĐ và ổn định chính trị, xã hội trên

địa bàn.

2.2.1. Thành tựu đạt được

2.2.1.1. Mở rộng, phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

Cẩm Giàng là một trong những huyện đứng đầu tỉnh về số lượng khu

công nghiệp và số lượng doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư sản xuất kinh

doanh, do vậy đối tượng và đơn vị tham gia BHXH không ngừng tăng theo

các năm. BHXH huyện Cẩm Giàng đã rất tích cực trong việc phát triển đối

tượng tham gia BHXH và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm để phấn đấu góp

phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn huyện. Theo đó, một số hình thức

tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHXH đã được tổ chức,

bước đầu mang lại hiệu quả tích cực, như đăng thông tin lên các phương

tiện thông tin đại chúng, tổ chức phát hành miễn phí các loại ấn phẩm tuyên

truyền, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm BHXH của doanh

nghiệp, tổ chức các hội nghị đối thoại trực tiếp với NLĐ và NSDLĐ, qua

đó đã giúp cho NLĐ, NSDLĐ có được thông tin cập nhật về chế độ chính

sách BHXH, dễ dàng trong giao dịch, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.

Nhờ vậy, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng với tất cả

45

các thành phần kinh tế, NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngày

càng nhiều, nhất là ở các doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh. Điều đó

góp phần quan trọng vào tăng trưởng quỹ BHXH với số tiền thu của

BHXH huyện Cẩm Giàng hằng năm tăng cao, đều đạt và vượt chỉ tiêu kế

hoạch được giao.

Theo thống kê của BHXH huyện Cẩm Giàng, các đơn vị sử dụng lao

động trên địa bàn huyện Cẩm Giàng có biến động về số lượng đơn vị tham

gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2014-2018 như sau:

Bảng 2.1. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng

lao động trên địa bàn huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018

Chỉ tiêu

Đơn vị sử dụng lao động đã tham gia

Tỷ lệ tham gia (%)

Đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia

338

325

96.15

2014

362

349

96.41

2015

397

386

97.23

2016

415

405

97.59

2017

440

428

97.73

2018

96.98

1952

1893

Tổng

(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)

Nhìn vào bảng số liệu 2.1 trên, ta có thể thấy rõ ràng tình hình tham

gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng lao động tại BHXH huyện Cẩm

Giàng giai đoạn 2014-2018 tăng dần theo các năm. Cụ thể:

Năm 2014, số lượng đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia là

338 đơn vị, số đơn vị đã tham gia là 325 đơn vị, đạt tỷ lệ 96,15%. Đến năm

2015 tăng lên 362 đơn vị, tăng thêm 24 đơn vị tương ứng với khoảng 1,07

lần và số đơn vị đã tham gia cũng tăng lên là 349 đơn vị, đạt 96,41% tỷ lệ

tham gia.

46

Năm 2018, số lượng đơn vị đã tham gia BHXH bắt buộc là 428 đơn vị

trong tổng số 440 đơn vị thuộc diện tham gia, tăng gấp 1,32 lần so với năm

2014, chiếm tỷ lệ tham gia BHXH năm 2018 đạt 97,73%.

Nguyên nhân của sự gia tăng số lượng đơn vị sử dụng lao động tham

gia BHXH bắt buộc qua các năm là do:

Nền kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang dần

được phục hồi vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp

cũng đi vào ổn định hơn.

Sự gia tăng số lượng đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH chủ

yếu là đến từ hai khối ngành là Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và Doanh

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do trong giai đoạn này, Việt Nam gia

nhập cộng đồng ASEAN và liên tiếp kí kết được các hiệp định về thương

mại quốc tế như FTA, WTO, TPP… các hiệp định thương mại quốc tế này

đều mang chung một mục tiêu là mở rộng thị trường, thúc đẩy nền kinh tế,

tạo điều kiện giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực, thu hút đông đảo

các nhà đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam…

Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ tại BHXH huyện Cẩm

Giàng giai đoạn 2014-2018 được thống kê qua bảng sau:

Bảng 2.2. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ trên địa

bàn huyện Cẩm Giàng từ năm 2014-2018

Chỉ tiêu

Số NLĐ thuộc diện tham gia (người)

Số NLĐ đã tham gia (người)

Tỷ lệ tham gia (%)

28.904

26.173

90.55

2014

30.52

27.446

89.93

2015

33.751

32.254

95.56

2016

35.894

34.648

96.52

2017

38.458

37.316

97.03

2018

94.22

167.527

157.837

Tổng

(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)

47

Nhìn vào bảng số liệu 2.2 trên, ta có thể nhận thấy số lượng lao động

tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-

2018 tăng đều qua các năm, cụ thể:

Năm 2014, số lượng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc là

28.904 người và số lao động đã tham gia là 26.173 người, chiếm 90,55% tỷ

lệ tham gia.

Năm 2015, số lao động thuộc diện tham gia là 30.520 người, số lao

động đã tham gia là 27.446 người, chiếm tỷ lệ đã tham gia là 89,93%. Tăng

khoảng 1,05 lần so với năm trước.

Năm 2018, số lao động thuộc diện tham gia là 38.458 người, số lao

động đã tham gia là 37.316 người, chiếm tỷ lệ đã tham gia là 97.03%. Tăng

khoảng 1,43 lần so với năm 2014.

Những số liệu trên đã cho thấy công tác khai thác, phát triển, mở rộng

đối tượng của BHXH huyện Cẩm Giàng thực hiện khá hiệu quả.

2.2.1.2. Về công tác thu BHXH

Về đóng góp quỹ BHXH bắt buộc, xác định công tác thu là nhiệm vụ

trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình tổ chức, triển khai nhiệm vụ của

ngành, BHXH tỉnh Hải Dương đã giao dự toán chỉ tiêu kế hoạch thu cho

BHXH các huyện sát với thực tế. Trong đó, BHXH huyện Cẩm Giàng luôn

thực hiện tốt công tác thu BHXH, luôn đảm bảo tiến độ và hoàn thành vượt

mức kế hoạch BHXH tỉnh giao, góp phần đảm bảo quyền lợi cho hàng

ngàn NLĐ trên địa bàn huyện. Phần lớn các cơ quan, đơn vị tự giác chấp

hành quy định đối chiếu và thu nộp tiền BHXH ngay sau kỳ trả lương và

thanh toán, giải quyết kịp thời các chế độ cho NLĐ. Điều này được thể hiện

cụ thể qua bảng số liệu thống kê sau:

48

Năm

2014

2015

2016

2017

2018

Loại hình

Số phải thu(trđ)

Số đã thu(trđ)

Số phải thu(trđ)

Số đã thu(trđ)

Số phải thu(trđ)

Số đã thu(trđ)

Số phải thu(trđ)

Số đã thu(trđ)

Số phải thu(trđ)

Số đã thu(trđ)

Tỷ lệ hoàn thành(%)

Tỷ lệ hoàn thành(%)

Tỷ lệ hoàn thành(%)

Tỷ lệ hoàn thành(%)

Tỷ lệ hoàn thành(%)

Khối

doanh

nghiệp

nhà

4738

4707

99,35

5223

5009

95,90

5970

5901

98,84

6150

5936

96,52

6270

5960

95,06

nươc

Khối

doanh

nghiệp có vốn

189327

188598

99,61

211550

210055

99,29

226811

219190

96,94

231578

233705

100,92

235487

235534

100,02

đầu

tư nước

ngoài

Khối

doanh

nghiệp ngoài

18984

13287

69,99

20800

15463

74,34

22298

20672

92,71

23568

22046

93,54

24875

23435

94,21

quốc doanh

Khối học sinh,

28430

28532

100,36

40747

40914

100,41

48257

48522

100,55

50487

50815

100,65

52453

52929

100,87

Đảng, Đoàn

Khối

ngoài

4796

4849

101,1

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

0

công lập

Khối hợp tác

1156

1176

101,73

1245

1264

101,53

1300

1300

100

1421

1424

100,21

1542

1536

100,42

Khối phường

3713

3798

102,3

4158

4848

116,6

4578

4667

101,95

4865

5626

115,65

4985

5259

105,5

xã, thị trấn,

Khối khác

27

0

0

41

13

31,71

415

400

96.39

465

478

100,80

475

484

101,89

Tổng

251171

244947

97,52

283764

277566

97,82

309629

300652

97,11

318534

320030

100,47

326087

325137

99,71

Bảng 2.3. Tình hình thu nộp BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018.

(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)

49

Nhìn vào bảng số liệu 2.3 trên ta có thể thấy công tác thu luôn đạt được

những kết quả thu tích cực, hoàn thành chỉ tiêu mà tỉnh giao cho, thậm chí

còn có khối ngành vượt mức chỉ tiêu. Cụ thể:

Khối doanh nghiệp nhà nước: Năm 2014, số phải thu của khối ngành này

là 4.738trđ và thực tế đã thu được là 4.707trđ, đạt 99,35% tỷ lệ hoàn thành.

Năm 2015, số phải thu tăng lên là 5.223trđ, số thu thực tế đạt 5.009trđ, tỷ lệ

hoàn thành hạ xuống còn 95,90%. Năm 2016, số phải thu của khối ngành này

là 5.970trđ và thực tế đã thu được 5.901trđ, đạt 98,84% tỷ lệ hoàn thành. Năm

2017 số phải thu là 6.150trđ và số thu thực tế là 5.936trđ, đạt 96,52% tỷ lệ

hoàn thành. Năm 2018, tỷ lệ hoàn thành là 95,06% khi số phải thu là 6.270trđ

và số thu thực tế là 5.960trđ.

Nguyên nhân của kết quả thu được cao như vậy là do thực tế khối ngành

này có số lượng đơn vị cũng như số lượng lao động ít, lương được tính theo

hệ số lương, cấp bậc lương nhà nước nên hầu như không có tình trạng nợ

đọng.

Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Năm 2014, số phải thu

của khối ngành này là 189.327trđ, số thu thực tế đạt 188.598trđ, chiếm

99,61% tỷ lệ hoàn thành. Năm 2015, số tiền phải thu tăng lên là 211.550trđ,

đạt 99,29% tương ứng với số thu được thực tế là 210.055trđ. Năm 2016, tỷ lệ

hoàn thành của khối ngành này đạt 96,94% với số thu thực tế được là

219.190trđ so với số phải thu là 226.811trđ. Năm 2017, số phải thu là

231.578trđ và số thu thực tế được là 233.705trđ, đạt vượt lên 100,92% tỷ lệ

hoàn thành. Năm 2018, tỷ lệ hoàn thành đạt 100,02% với số tiền thu được là

235,534trđ so với số phải thu là 235,487trđ. Tỷ lệ hoàn thành ở khối ngành

này gần như là tuyệt đối.

Nguyên nhân là do trong những năm qua, nền kinh tế đang ấm dần lên,

khối ngành này đã bắt đầu phát triển dần trở lại. Kết hợp với điều kiện kinh tế

50

cũng như cơ sở giao thông của huyện rất thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư

nước ngoài. Vì vậy, khi đó doanh thu của các đơn vị được cải thiện thì việc

các doanh nghiệp nợ đóng BHXH ở khối ngành này cũng được cải thiện theo.

Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Đây là một khối ngành có tỷ lệ

thu thấp nhất trong tổng các khối ngành trên địa bàn huyện. Năm 2014, số thu

được chỉ đạt 13.287trđ trên tổng 18.984trđ phải thu, chiếm 69,99% tỷ lệ hoàn

thành. Năm 2015, thu được 15.463trđ trên 20.800trđ phải thu, tỷ lệ hoàn

thành 74,34%. Năm 2016, số thu được là 20.672trđ so với số phải thu là

22.298trđ, tỷ lệ hoàn thành đã tăng mạnh lên là 92,71%. Năm 2017, số phải

thu là 23.568trđ nhưng số thu được là 22.046trđ, đạt 93,54% tỷ lệ hoàn thành.

Năm 2018, tỷ lệ thu tiếp tục tăng lên đạt 94,21% khi số thu được là 23.435trđ

so với số phải thu là 24.875trđ.

Nguyên nhân là do ở khối ngành này, đa phần là các doanh nghiệp vừa

và nhỏ, sử dụng ít lao động, doanh thu thấp…dẫn đến tình trạng nợ đọng

nhiều. Tuy nhiên, với sự nỗ lực hỗ trợ từ phía các cấp về vốn, về điều kiện sản

xuất kinh doanh, về công tác tuyên truyền của các cán bộ BHXH đã đến động

viên các đơn vị trong khối ngành này, vì vậy mà tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu

của khối ngành này đã được tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây.

Khối ngành học sinh, Đảng, Đoàn; khối hợp tác xã hay khối xã, phường,

thị trấn trong kế hoạch thu luôn đạt tỷ lệ hoàn thành trên 100%, vượt mức kế

hoạch đề ra. Nguyên nhân là do khối ngành này có ít số lượng đơn vị và ít lao

động, hầu hết được đảm bảo về mức thu nhập nên không có tình trạng thiếu

nợ BHXH.

Nhìn chung, kết quả trong công tác thu BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm

tự nguyện tại BHXH huyện Cẩm Giàng trong 5 năm từ năm 2014-2018 luôn

đạt được kết quả cao. Đây là kết quả của việc chỉ đạo, hướng dẫn sát sao của

ban Giám đốc BHXH huyện Cẩm Giàng. Dựa vào kế hoạch thu hàng năm do

51

BHXH tỉnh giao, sự phát triển đối tượng tham gia trên địa bàn huyện, Giám

đốc BHXH Cẩm Giàng đã thành lập bộ phận thu bao gồm 07 đồng chí. Mỗi

đồng chí chịu trách thu một khối, ngành khác nhau. Việc này phần nào đã

chia sẻ khối lượng công việc cho tất cả các cán bộ trong bộ phận thu, tránh

tình trạng né tránh trách nhiệm, chồng chéo công việc lẫn nhau.

2.2.1.3. Về tình hình chi trả các chế độ BHXH

Thực hiện các quy định của Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn triển

khai thực hiện Luật, cùng với hệ thống văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, trong

đó quy định cụ thể trình tự, thủ tục hồ sơ giải quyết chế độ ốm đau, thai sản

của BHXH Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho NSDLĐ, NLĐ và cơ

quan BHXH thành phố Hà Nội trong việc giải quyết chế độ, đảm bảo một

cách đầy đủ, kịp thời quyền thụ hưởng của NLĐ. Cụ thể, tình hình chi trả các

chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018 như sau:

Bảng 2.4. Tình hình chi trả các chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018

Đơn vị: triệu đồng

Năm

2014

2015

2016

2017

2018

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Số tiền

Chế độ

Số người

Số người

Số người

Số người

Số người

Ốm đau -

12,413

64,871

13,484

68,157

15,784

74,258

17,448

76,415

18,148

80,466

thai sản

Dưỡng

974

1,684

1,148

1,894

1,268

2,251

1,451

2,487

1,534

3,252

sức

TNLĐ -

783

3,218

987

3,487

1,105

3,872

1,289

4,168

1,341

5,481

BNN

Hưu trí –

15,426

305,748

17,541 315,784 18,756 357,405 20,487 387,415 24,548 405,418

Tử tuất

29,596

375,521

33,160 389,322 36,913 437,786 40,675 470,485 45,571 494,617

TỔNG

(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)

52

Qua bảng số liệu trên có thể thấy, số người hưởng và số tiền chi trả cho

các chế độ BHXH của huyện Cẩm Giàng tăng dần qua các năm. Đến năm

2018, tổng số tiền mà BHXH huyện Cẩm Giàng chi cho các chế độ là 494.617

triệu đồng (tăng 1.05 lần so với năm 2017 và 1.32 lần so với năm 2014). Số

tiền chi lớn nhất vẫn thuộc về chi cho hưu trí và tử tuất với tổng số tiền chi là

405.418 triệu đồng (chiếm tỷ lệ 81,97% tổng chi các chế độ).

2.2.1.4. Công tác xét duyệt hồ sơ, giải quyết chính sách, chế độ đối với NLĐ

Trong năm 2018, BHXH huyện Cẩm Giàng tiếp nhận 1.548 hồ sơ ốm

đau, thai sản, dưỡng sức và phục hồi sức khỏe, số hồ sơ được giải quyết cho

các chế độ này là 1.439 hồ sơ đạt tỷ lệ 93%. Đối với chế độ TNLĐ và BNN,

BHXH huyện Cẩm Giàng tiếp nhận 348 hồ sơ thì có 278 hồ sơ được giải

quyết đạt tỷ lệ 80%. Còn với chế độ hưu trí – tử tuất, BHXH huyện Cẩm

Giàng tiếp nhận 8.487 hồ sơ thì có 8.232 hồ sơ được giải quyết đạt tỷ lệ 97%.

Các hồ sơ chưa được giải quyết là do hồ sơ còn thiếu sót và chưa hợp lệ.

Để đạt được kết quả đó là do BHXH huyện Cẩm Giàng đã áp dụng công

tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào chi trả

BHXH. Việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế một

cửa đã mang lại sự thuận tiện cho người dân, đảm bảo công khai, minh bạch,

ngăn chặn tình trạng sách nhiễu của cán bộ viên chức trong thực thi công vụ.

Từ năm 2016, BHXH triển khai, áp dụng hệ thống tiếp nhận hồ sơ một cửa

điện tử, hầu hết các thủ tục được thực hiện tiếp nhận và trả kết quả thông qua

hệ thống phần mềm “Một cửa điện tử”; hồ sơ được luân chuyển giữa các

phòng nghiệp vụ theo một quy trình khép kín, theo dõi được đường đi của

từng hồ sơ, tiến độ, trách nhiệm giải quyết hồ sơ của từng cán bộ.

Phần mềm TST (phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực quản lý thu BHXH,

cấp sổ BHXH và cấp thẻ BHYT) đã được nâng cấp, sử dụng một cách phổ

53

biến, nhanh chóng, nhờ đó đã giúp cơ quan BHXH huyện Cẩm Giàng thuận

tiện trong việc đối chiếu, quyết toán với các đơn vị tham gia BHXH.

2.2.1.5. Hạn chế tối đa tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH nhờ công tác

thanh, kiểm tra

Trong nội bộ ngành, từ Đảng ủy, Giám đốc cho đến ban chấp hành Công

đoàn đều có văn bản chỉ đạo và tạo điều kiện, huy động toàn lực phục vụ công

tác thu chủ động triển khai đôn đốc thu, thường xuyên rà soát, phân loại các

đơn vị nợ, nợ đọng để đôn đốc, đồng thời, lãnh đạo BHXH huyện trực tiếp

đến làm việc với các đơn vị, nhất là những đơn vị có số nợ lớn, nợ đọng kéo

dài. Bên cạnh đó, BHXH huyện Cẩm Giàng cũng đã có sự giám sát, phối hợp

giữa các ban ngành liên quan trên địa bàn huyện trong quản lý các đơn vị,

DN, tổ chức sử dụng lao động và NLĐ, hạn chế phần nào tình trạng trốn

đóng, nợ đọng BHXH làm cho hoạt động thu dần đi vào ổn định và phát triển.

2.2.2. Hạn chế, nguyên nhân của hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được như trên thì thực tiễn thi hành pháp

luật BHXH bắt buộc ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương còn tồn tại một số

hạn chế sau:

Một là, hạn chế về đối tượng tham gia:

Trên thực tế số lao động đã tham gia so với số lao động thuộc diện tham

gia BHXH bắt buộc vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Theo số liệu tính đến

31/12/2018 tỷ lệ số lao động có tham gia BHXH bắt buộc mới chiếm khoảng

94.22% tổng lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, hầu hết tập

trung ở các cơ sở kinh tế tư nhân, các đơn vị ngoài công lập và các doanh

nghiệp ngoài quốc doanh. Tình trạng này xảy ra chủ yếu do một số nguyên

nhân sau đây:

NLĐ làm việc ở khu vực này có tư tưởng không gắn bó lâu dài nên cũng

không muốn tham gia đóng BHXH.

54

Mặt khác, một số doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng lao động tượng trưng

đối với lao động quản lý chủ chốt của doanh nghiệp, khai giảm số lao động

hoặc hoàn toàn không ký hợp đồng lao động với NLĐ.

Hai là, hạn chế về chi trả chế độ BHXH

Theo bảng số liệu 2.3 có thể thấy số tiền thu BHXH được tăng lên qua

các năm từ năm 2014-2018, năm sau luôn luôn cao hơn năm trước. Qua Báo

cáo tình hình thực hiện công tác bảo hiểm từ năm 2014 đến năm 2018 của

BHXH huyện Cẩm Giàng đều cho thấy số thu luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch

hằng năm từ 0,5-1,2%. Tuy nhiên, nhìn vào bảng số liệu 2.5 thì thể hiện một

thực tế đó là mặc dù số thu có tăng và vượt kế hoạch nhưng số tiền chi trả

luôn cao hơn số tiền thu được, bội chi năm 2018 cao hơn 1,52 lần so với bội

thu. Như vậy, khả năng chi trả của quỹ BHXH huyện Cẩm Giàng không tự

đáp ứng được và ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ để đảm bảo cân bằng

thu – chi quỹ BHXH. Đây cũng là hạn chế trong công tác quản lý thu – chi

quỹ BHXH nói chung và quỹ BHXH bắt buộc nói riêng .

Ba là, tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được ở trên vẫn còn tồn tại một

số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện kém tuân

thủ quy định trong việc đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của NLĐ. Tình

trạng trốn đóng, nợ đọng, né tránh trách nhiệm đối với NLĐ của chủ sử dụng

lao động vẫn còn tồn tại được thống kê qua bảng số liệu sau:

Bảng 2.5. Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm

Giàng giai đoạn 2014-2018

Chỉ tiêu Số phải thu (trđ) Số nợ đọng (trđ) Tỷ lệ nợ đọng (%)

311.408

4.786

1.54

2014

55

5.885

354.656

0.02

2015

2.961

387.611

0.76

2016

2.127

415.487

0.51

2017

2.082

447.742

0.47

2018

0.93

Tổng

1.916.904

17.841

(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)

Nhìn vào bảng số liệu 2.5 trên ta có thể thấy tình trạng nợ đọng thay đổi

tăng, giảm không đáng kể qua các năm. Năm nào cũng vẫn còn tình trạng nợ

đọng của các doanh nghiệp. Cụ thể:

Năm 2014, số tiền nợ đọng là 4.786trđ chiếm 1,54% trong tổng số

311.408trđ số tiền phải thu.

Năm 2015, tỷ lệ nợ đọng là 0,02% tương ứng với số tiền 5.885trđ so với

354.656trđ phải thu.

Năm 2016, số tiền nợ đọng giảm còn 2.902trđ tương ứng với tỷ lệ 0,76%

so với 387.611trđ phải thu.

Năm 2017, số tiền nợ đọng tiếp tục giảm còn 2.127trđ so với 415.487trđ

phải thu (chiếm tỷ lệ 0.51%)

Năm 2018, tỷ lệ nợ đọng còn 0,47% tương ứng với số tiền nợ đọng là

2.082trđ so với 447.742trđ phải thu.

Thông qua số liệu trên cho thấy tình trạng chậm đóng, nợ đọng BHXH là

do những nguyên nhân sau::

Nguyên nhân trực tiếp: về phía NLĐ và NSDLĐ

Về phía NLĐ, sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc chưa quan tâm đúng

mức đến BHXH đã vô tình tiếp tay cho hành động sai trái của chủ sử dụng lao

động, đồng thời đem lại thiệt hại cho chính bản thân và gia đình mình. Nhận

thức về pháp luật lao động của NLĐ vẫn còn hạn chế nên việc không tự bảo

56

vệ quyền lợi của mình trong việc đóng BHXH. Một số người không muốn

tham gia tổ chức công đoàn vì sợ thu nhập giảm hoặc NLĐ không dám đấu

tranh khi quyền và lợi ích của mình bị xâm hại.

Về phía NSDLĐ, tìm cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền

đóng BHXH của NLĐ, tiêu biểu là các doanh nghiệp dù lảng tránh trách

nhiệm đóng BHXH nhưng vẫn bớt 10.5% tiền lương của NLĐ vốn dĩ được sử

dụng để đóng bảo hiểm.

Nguyên nhân gián tiếp:

Công tác quản lý nhà nước về BHXH còn nhiều bất cập cũng là một

trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nợ đọng. Hiện tại, một

số nội dung của Luật BHXH còn chưa được thực hiện tốt. Cơ quan quản lý

nhà nước về BHXH trên địa bàn huyện còn lúng túng khi phối hợp với một số

cơ quan khác như Liên đoàn lao động, Thanh tra lao động trong việc thanh

tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như xây dựng các chế tài có tính pháp lý cao

buộc các đơn vị sử dụng lao động tuân thủ pháp luật lao động và BHXH. Vì

vậy, rất khó khăn trong việc kiểm tra thu đúng, thu đủ cũng như thực hiện

quyền lợi về BHXH cho NLĐ.

Khi các đơn vị sản xuất kinh doanh kém hiệu quả cũng dẫn đến tình

trạng nợ đóng BHXH. Thực trạng này xảy ra phổ biến ở khu vực kinh tế

ngoài quốc doanh. Những đơn vị này thường có quy mô nhỏ, trình độ quản lý

còn yếu, không ổn định. Nhiều doanh nghiệp đã đăng ký thành lập nhưng

không có trụ sở giao dịch; hoặc thành lập xong không hoạt động hay hoạt

động thời gian ngắn rồi giải thể. Đặc biệt có một số trường hợp đơn vị đã nộp

hoặc đã đối chiếu theo dõi công nợ tiền BHXH nay giải thể, phá sản, dừng

hoạt động không còn chủ sở hữu hoặc chưa có biện pháp để giải quyết số nợ

này. Do đó mà tình trạng trốn tránh, nợ đọng tiền BHXH ở các doanh nghiệp

vẫn diễn ra phổ biến.

57

Bốn là, về công tác giải quyết chế độ BHXH

Do khối lượng hồ sơ giải quyết chế độ BHXH hằng tháng tương đối lớn

nên không tránh khỏi việc giải quyết và trả kết quả hồ sơ trong một số trường

hợp chưa kịp thời khiến cho người thụ hưởng phải đi lại nhiều lần, chưa giải

quyết được tình trạng các đơn vị nợ đọng kéo dài nên việc giải quyết các chế

độ BHXH cho NLĐ không thực hiện được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi

ích chính đáng của NLĐ.

Đối với công tác chi trả trợ cấp thất nghiệp, tình trạng chi trả, hưởng

trùng nhiều loại trợ cấp xảy ra không ít (NLĐ vừa nộp hồ sơ hưởng trợ cấp

thất nghiệp đồng thời nộp hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ hưu trí, hoặc tìm

được việc làm mới có tham gia đóng BHXH nhưng vẫn không báo giảm thất

nghiệp…) dẫn đến việc giải quyết chế độ mất thêm nhiều thời gian, trong khi

thời hạn giải quyết hồ sơ ngắn.

Năm là, về công tác xử lý vi phạm pháp luật BHXH

Về công tác xử lý vi phạm pháp luật BHXH, còn một số đơn vị thực hiện

chưa nghiêm túc Luật BHXH như: tham gia không đúng với số lao động thực

tế đang sử dụng; không thực hiện đóng BHXH hàng tháng theo quy định; cá

biệt có đơn vị cố tình chiếm dụng tiền lương của NLĐ…

Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác kiểm tra còn thiếu nên tổ chức

các đoàn kiểm tra nội bộ và kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động còn ít.

Ngoài ra, việc tổ chức các đoàn thanh tra liên ngành cũng chưa được thực

hiện thường xuyên. Do yêu cầu các hồ sơ khởi kiện phải do người đứng đầu

đơn vị ký, vì vậy, đơn vị nợ thường trốn tránh giao cho cấp phó của người

đứng đầu hoặc cấp phòng ký.

58

Tiểu kết chương

Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

thông qua ngày 20/11/2014 đã cơ bản đáp ứng được mục tiêu đổi mới căn

bản, toàn diện pháp luật về BHXH nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển hệ thống

an sinh xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tiễn thi hành còn gặp một

số vướng mắc nhất định như nhận thức của NSDLĐ, NLĐ còn hạn chế, xảy

ra tình trạng trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH; việc giải quyết chế độ còn

nhiều vướng mắc; tình trạng nợ đọng BHXH chưa được khắc phục triệt để,

ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH và sự an toàn của hệ

thống quỹ BHXH. Vì vậy bên cạnh những điểm phù hợp tương thích với tình

hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, pháp luật về chế độ BHXH bắt

buộc trong thời gian từ khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành đến

nay đang bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu để bổ

sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới.

59

Chương 3

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ

THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG

3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

Ngày 20/11/2014 Quốc hội đã thông qua Luật BHXH số

58/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016 (một số điểm có hiệu

lực từ 1/1/2018). Luật BHXH năm 2014 với rất nhiều điểm mới theo hướng

có lợi cho NLĐ, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thay đổi tổng thể,

toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp

điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách BHXH đảm bảo

an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Trong đó, các quy định về BHXH bắt

buộc do đã có quá trình triển khai thực hiện và phát huy tác dụng tích cực

trong việc bảo vệ NLĐ nên được Luật BHXH quy định cụ thể hơn và có

những thay đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan. Ngoài

ra, với việc Chính phủ và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội kịp thời ban

hành hai văn bản hướng dẫn là Nghị định 115/2015/NĐ-CP và Thông tư

59/2015/TT-BLĐTBXH về BHXH bắt buộc, vấn đề thực hiện BHXH bắt

buộc đối với NLĐ đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để triển khai trong thực tiễn.

Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai và thi hành Luật BHXH năm 2014,

Luật BHXH năm 2014 đang bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: diện bao phủ

BHXH còn thấp (30,2% lực lượng lao động tham gia BHXH so với mục tiêu

mà Nghị quyết 21 do Bộ Chính trị ban hành ngày 22/11/2012 về tăng cường sự

lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020

đề ra là phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia

BHXH còn khá xa[5]); tình trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH chưa giảm;

60

chậm ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa quản lý BHXH; công tác đầu

tư tăng trưởng quỹ BHXH chưa đạt mục tiêu đề ra; công tác phối hợp, trách

nhiệm của BHXH Việt Nam và các bộ, ngành liên quan còn hạn chế. Do đó đặt

ra yêu cầu cần phải hoàn thiện luật BHXH năm 2014 theo hướng xây dựng hệ

thống BHXH đa dạng, hiện đại, linh hoạt và bền vững; ngày càng mở rộng diện

bao phủ đối tượng tham gia BHXH; tuân thủ nguyên tắc đóng hưởng và bảo

đảm khả năng cân đối quỹ BHXH; hoàn thiện các chế độ chính sách BHXH,

bảo đảm sự bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng BHXH sao cho phù hợp với

thực tiễn, các điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,

đảm bảo an sinh xã hội và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc

3.2.1. Về đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc

Luật BHXH 2014 đã bổ sung thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

là NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới

03 tháng. Ngoài nhằm mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH thì

việc bổ sung nhóm đối tượng này tham gia BHXH bắt buộc còn đem lại

quyền lợi chính đáng cho NLĐ trong những trường hợp NSDLĐ sử dụng hình

thức ký hợp đồng lao động này để trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ.

Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thực tế, đối tượng lao động này rất khó quản lý,

không ổn định, thay đổi thường xuyên. Mặt khác, quy định của Luật BHXH

năm 2014 và quy định tại Bộ luật lao động 2012 không có sự thống nhất với

nhau ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhóm lao động này khi dễ

bị NSDLĐ lợi dụng “kẽ hở” của luật để không tham gia BHXH cho NLĐ.

Do đó, tác giả cho rằng cần phải có sự thống nhất chặt chẽ và đồng bộ

giữa các điều khoản trong các văn bản pháp luật quy định về đối tượng tham

gia BHXH bắt buộc. Bên cạnh đó, đối với các đối tượng lao động làm việc

theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng, NSDLĐ phải kê

61

khai đầy đủ và có nghĩa vụ đóng đầy đủ BHXH bắt buộc cho NLĐ. Để làm

được điều này thì cần nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý, thanh tra, kiểm tra về

lao động, tiền lương, các thủ tục liên quan đến BHXH bắt buộc để bảo vệ tối

đa quyền lợi của mọi đối tượng lao động.

3.2.2. Về chế độ ốm đau

Nhìn chung, các quy định của Luật BHXH 2014 về chế độ ốm đau đã

bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, góp phần đảm bảo tốt hơn

thu nhập và đời sống của họ khi họ không may bị mắc bệnh, ốm đau,….Tuy

nhiên, trên thực tế, việc thực hiện chế độ ốm đau hiện nay vẫn còn một số

vướng mắc và khó khăn về thời gian, mức hưởng và đối tượng hưởng. Do đó,

tác giả đưa ra những khuyến nghị sửa đổi một số quy định của Luật BHXH

năm 2014 về chế độ ốm đau như sau:

Về đối tượng hưởng chế độ ốm đau: Luật BHXH năm 2014 đã bổ

sung thêm đối tượng hưởng chế độ ốm đau theo hướng mở rộng diện bao phủ,

tuy nhiên, như đã nói ở trên, đối với đối tượng lao động làm việc theo hợp

đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng thì việc thực hiện các chế độ

BHXH ngắn hạn đối với họ là rất khó khăn và còn gặp nhiều vướng mắc. Do

đó, theo nhận định của tác giả, chỉ nên cho nhóm đối tượng này tham gia vào

các chế độ hưu trí và tử tuất sẽ hợp lý và thuận lợi trong việc hưởng chế độ.

Về thời gian hưởng và mức hưởng chế độ ốm đau:

Đối với trường hợp NLĐ nghỉ do mắc các bệnh thông thường: Luật

BHXH năm 2014 quy định khoảng cách thời gian đóng BHXH giữa các mức

hưởng là quá lớn (15 năm) không khuyến khích được mọi người đóng BHXH

với thời gian lâu hơn. Do đó, tác giả khuyến nghị cần thiết rút ngắn khoảng

cách thời gian đóng BHXH giữa các mức hưởng chế độ ốm đau xuống 10

năm đảm bảo công bằng, thực hiện nguyên tắc đóng – hưởng của BHXH.

62

Đối với người hưởng chế độ ốm đau mắc các bệnh thuộc danh mục

chữa trị dài ngày: Luật BHXH năm 2014 lại không quy định thời gian đóng

BHXH tối thiểu trước khi hưởng chế độ ốm đau, điều này rất dễ bị lạm dụng,

ảnh hưởng đến cân đối thu chi quỹ BHXH, nguyên tắc đóng hưởng và không

đảm bảo sự công bằng giữa những NLĐ cùng tham gia BHXH. Do đó, theo

tác giả, cần sửa đổi theo hướng quy định điều kiện về thời gian đóng BHXH

tối thiểu để được hưởng chế độ ốm đau, từ đó quy định các mức hưởng khác

nhau tương đương với thời gian đóng góp nhằm hướng tới sự công bằng giữa

các đối tượng tham gia. Cụ thể có thể quy định NLĐ mắc bệnh cần điều trị

dài ngày để được hưởng chế độ ốm đau cần tham gia tối thiểu 03 tháng

BHXH bắt buộc.

Bên cạnh đó, trong trường hợp NLĐ nghỉ chăm con ốm, Luật BHXH

2014 chưa có sự phân biệt về thời gian hưởng chế độ ốm đau trong trường

hợp chăm sóc con ốm theo tình trạng và mức độ bệnh tật của con. Do đó, cần

quy định rõ trường hợp NLĐ nghỉ chăm con ốm đau thông thường và nghỉ

chăm con mắc các bệnh cần điều trị dài ngày nhằm phù hợp với thực tiễn đời

sống của NLĐ, tạo điều kiện cho NLĐ có thời gian để chăm sóc con tốt hơn.

Có thể quy định thời gian hưởng chế độ khi chăm sóc con mắc các bệnh cần

điều trị dài ngày như sau: Nếu con dưới 03 tuổi mắc bệnh cần điều trị dài

ngày thì thời gian nghỉ chăm sóc con được hưởng bảo hiểm tối đa là 30 ngày

làm việc, nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi là 20 ngày làm việc (không

kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, nghỉ hàng tuần).

Đối với những người làm việc trong lực lượng vũ trang, như đã nêu ở

Chương 2, thời gian hưởng và mức hưởng chế độ ốm đau của những người

thuộc nhóm đối tượng này được Luật BHXH năm 2014 quy định có sự khác

biệt và cao hơn so với NLĐ thông thường. Tuy nhiên quy định này chưa thật

sự hợp lý bởi vì quỹ BHXH là do NLĐ đóng góp, hạch toán độc lập, không

63

phải lấy từ ngân sách Nhà nước nên không thể lấy quỹ đó để thực hiện ưu đãi

của Nhà nước, nói cách khác Nhà nước không thể lấy khoản tiền do các chủ

thể đóng góp để ưu đãi cho một nhóm đối tượng nhất định, trong khi các đối

tượng đó đã được hưởng các chính sách đãi ngộ ở tiền lương và các chế độ

khác. Do đó, nếu có ưu đãi thì cần phải lấy từ ngân sách Nhà nước và nên thể

hiện thông qua chính sách tiền lương, trợ cấp, trợ giúp khác chứ không nên

bằng chính sách BHXH. Ưu đãi bằng chính sách BHXH sẽ thể hiện yếu tố

không công bằng trong lĩnh vực xã hội [20, tr.74].

3.2.3. Về chế độ thai sản

Về các quy định chế độ thai sản, Luật BHXH 2014 đã giải quyết được

những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Luật trong thời

gian vừa qua. Tuy nhiên, Luật BHXH 2014 chưa quy định rõ về chế độ hưởng

trợ cấp một lần khi sinh cho trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH, do đó để

kiểm soát và tránh bị lạm dụng để hưởng chế độ thì Luật cần thiết quy định cụ

thể hơn về trường hợp này.

Bên cạnh đó, Luật BHXH 2014 quy định khi NLĐ nhận nuôi con nuôi

dưới 06 tháng tuổi thì được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06

tháng tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng có trường hợp NLĐ nhận nuôi nhiều

con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì Luật BHXH hiện nay chưa quy định. Luật có

thể quy định đối với NLĐ nuôi nhiều con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì tính từ

con thứ hai trở đi, với mỗi con NLĐ sẽ được nghỉ thêm 01 tháng tương ứng

với trường hợp lao động nữ được hưởng chế độ khi sinh đôi, đảm bảo quyền

lợi cho NLĐ cũng như con của họ.

Luật BHXH 2014 quy định điều kiện để lao động nữ có thể đi làm

trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con là sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất

được 04 tháng và phải báo trước và được NSDLĐ đồng ý. Tuy nhiên, Luật

64

cần quy định chi tiết thời hạn báo trước của NLĐ cho NSDLĐ và xác định rõ

thời hạn đó sẽ do NSDLĐ quy định hay do hai bên thỏa thuận.

3.2.4. Về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

Chế độ TNLĐ, BNN không chỉ được quy định tại Luật BHXH 2014 mà

còn được điều chỉnh bởi Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 và các văn bản

hướng dẫn thi hành đã góp phần bảo vệ quyền lợi NLĐ trước những rủi ro

nghề nghiệp, đảm bảo các khoản trợ cấp và bù đắp phần thu nhập bị mất đi

khi họ phải nghỉ việc vì bị TNLĐ, BNN. Tuy nhiên, khi áp dụng chế độ

TNLĐ, BNN còn gặp nhiều khó khăn, bất cập cần thiết phải điều chỉnh một

số quy định của Luật để áp dụng hiệu quả vào thực tiễn, cụ thể:

Về điều kiện hưởng chế độ TNLĐ, như ở Chương 2 tác giả đã phân

tích bất cập quy định pháp luật về điều kiện hưởng, Luật BHXH 2014 và Luật

An toàn, vệ sinh lao động 2015 cần quy định rõ các căn cứ để xác định trường

hợp nào được coi là TNLĐ và khoảng thời gian và tuyến đường khi NLĐ bị

tai nạn trên tuyến đường từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại để việc giải

quyết chế độ TNLĐ trên thực tế được hiệu quả, tránh việc lạm dụng hoặc bỏ

xót các trường hợp cần được giải quyết chế độ TNLĐ.

Về điều kiện hưởng chế độ BNN, trong thực tế đã phát sinh trường

hợp NLĐ làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại nhưng sau

đó chuyển sang nơi làm việc có yếu tố bình thường thì mới phát sinh BNN thì

Luật không quy định trường hợp này có được hưởng chế độ BNN hay không.

Do đó, tác giả nhận định pháp luật về BHXH cần xét đến vấn đề bảo lưu điều

kiện lao động có hại cũng như quy định rõ nguyên tắc bảo lưu để bảo đảm

quyền lợi cho NLĐ làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại.

Về mức hưởng trợ cấp TNLĐ, BNN: Luật BHXH năm 2014 quy định

mức trợ cấp một lần, hằng tháng được quy định dựa trên mức lương cơ sở và

ngoài khoản trợ cấp này NLĐ còn được hưởng một khoản trợ cấp tính theo số

65

năm đã đóng BHXH, tức là tính theo tiền lương, tiền công đóng BHXH của

tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. Sự bất cập của Luật ở đây được

thể hiện ở quy định trợ cấp thêm được tính theo tiền lương, tiền công đóng

BHXH của NLĐ, trong khi đó tiền lương của mỗi người là khác nhau trong

khi đó tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là như nhau. Tác giả nhận định, pháp

luật về BHXH có thể sửa đổi theo hướng mức hưởng trợ cấp thêm ngoài trợ

cấp chính được hưởng chế độ TNLĐ, BNN xác định dựa trên tỷ lệ suy giảm

khả năng lao động và mức lương tối thiểu vùng để đảm bảo tính công bằng

giữa những NLĐ cùng được hưởng chế độ TNLĐ, BNN.

Về phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình: Theo tác giả,

Luật BHXH năm 2014 cần quy định chi tiết hơn về quy trình, cách thức và

thời gian cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình giải quyết

những khó khăn vướng mắc cho các cơ quan BHXH khi giải quyết chế độ

TNLĐ, BNN cho NLĐ trong thực tiễn.

Về nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật,

bệnh tật, cần thiết có quy định cụ thể về tỷ lệ thương tật của NLĐ là bao nhiêu

thì được nghỉ dưỡng sức thêm và tương ứng với đó là số ngày được nghỉ để

phục hồi sức khỏe để việc thực hiện chế độ TNLĐ, BNN được hiệu quả trong

thực tiễn.

3.2.5. Về chế độ hưu trí

Ở Việt Nam, tuổi thọ bình quân năm 2005 đã lên đến 72,2 tuổi và dự

kiến sẽ tăng lên 75 tuổi vào năm 2020. Trong khi đó, tuổi nghỉ hưu ở nam vẫn

giữ là 60 tuổi và ở nữ là 55 tuổi. Vì vậy, thời gian đóng BHXH ngắn nhưng

thời gian hưởng lương hưu càng ngày càng dài hơn do tuổi thọ bình quân tăng

lên thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quỹ hưu trí. Theo Báo cáo đánh giá tác động

của dự án Luật sửa đổi, bổ sung của BLLĐ (dự thảo lần 2 tháng 5 năm 2017),

số năm hưởng lương hưu bình quân là 19,5 năm, trong đó nam giới là 16,1

66

năm và nữ giới là 22,9 năm, tuy nhiên, tính trung bình tiền đóng BHXH của

một NLĐ làm việc trong 28 năm chỉ đủ chi trả cho chính người đó trong vòng

10 năm nên rõ ràng thời gian hưởng còn lại (9,5 năm đối với nam và 12,9 năm

đối với nữ) sẽ phải lấy từ nguồn đóng góp của thế hệ sau [6]. Do đó, việc điều

chỉnh tuổi nghỉ hưu là một trong những giải pháp quan trọng để đối phó với

sự mất cân đối của quỹ hưu trí. Việc nâng tuổi nghỉ hưu sẽ làm giảm tỉ lệ giữa

người hưởng lương hưu và số NLĐ, đồng thời kéo dài thời gian đóng BHXH,

đảm bảo sự bền vững tài chính cho quỹ BHXH.

Vấn đề điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là vấn đề toàn cầu. Trong nửa thế kỷ

qua, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu

để thích ứng với quá trình già hóa dân số, ngoại trừ một số nước có cơ cấu

dân số trẻ (ở Châu Phi) và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Kinh nghiệm cải

cách hệ thống hưu trí của các nước (như Pháp, Hàn Quốc…) đã cho thấy việc

nâng tuổi nghỉ hưu là một giải pháp chính sách mang lại tác dụng trong dài

hạn và khả thi trong việc đảm bảo cân đối quỹ. Theo tính toán của Viện Khoa

học BHXH, BHXH Việt Nam, giả sử từ ngày 01/01/2018, cứ mỗi năm tăng

thêm 3 tháng cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi (theo phương án dự

thảo của Bộ Luật lao động sửa đổi), kết quả dự báo cân đối quỹ do tác động

của việc tăng tuổi nghỉ hưu như sau: Năm 2037, mất cân đối thu – chi trong

năm (so với tính toán dự báo cân đối quỹ theo Luật BHXH năm 2014 thì đã

kéo dài thêm 6 năm) và quỹ đủ khả năng cân đối đến năm 2058 (kéo dài thêm

7 năm so với tính toán dự báo cân đối quỹ theo Luật BHXH năm 2014) [29].

Từ năm 1960 đến nay Việt Nam chưa tăng tuổi nghỉ hưu, do vậy đề

xuất tăng tuổi nghỉ hưu giai đoạn này là tất yếu và cần thiết đưa vào Bộ Luật

lao động sửa đổi. Tuy nhiên việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài

hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất

nghiệp, không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số

67

lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối quỹ BHXH trong

dài hạn; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.. Trước

tính tất yếu của vấn đề điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu, Nghị quyết số 28-

NQ/TW đã đưa ra lộ trình điều chỉnh như sau “Từ năm 2021, thực hiện điều

chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần

khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề

đặc biệt, NLĐ được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi

nghỉ hưu chung”[1].

Ngoài ra, sự chênh lệch về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ cũng nên

được điều chỉnh. Luật BHXH 2014 quy định độ tuổi nghỉ hưu chênh lệch giữa

nam và nữ là 05 tuổi. Quy định này dựa trên cơ sở thể trạng nữ giới được cho

rằng là yếu hơn nam giới. Tuy nhiên, với điều kiện sống thay đổi như hiện

nay thì phụ nữ lại có những ưu thế hơn so với nam giới ở khả năng chịu đựng

áp lực, sự dẻo dai và thực tế tuổi thọ của nữ giới lại thường cao hơn so với

nam giới. Năm 2017, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam là 73,4 tuổi,

trong đó nam là 70,2 tuổi và nữ là 76,6 tuổi [21]. Do vậy, cần tiến tới quy

định độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ tăng dần phù hợp với nam giới để đảm

bảo quyền bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam, đồng thời phát huy

nguồn lực lao động nữ.

3.2.6. Về chế độ tử tuất

Như đã đề cập ở chương 2, tác giả nhận định cần thiết bổ sung thêm

trường hợp người người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp TNLĐ, BNN

hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo

mà bị chết trong tù thì thân nhân của người đó sẽ được hưởng chế độ tử tuất.

Mặt khác, trợ cấp tuất một lần và trợ cấp tuất hàng tháng còn chênh

lệch quá lớn. Do đó, Luật BHXH nên quy định rõ thu nhập hàng tháng của

thân nhân của người đã chết được xác định tại thời điểm nào và gồm những

68

khoản gì vì đây là nội dung rất vướng trong tổ chức thực hiện. Mức hưởng trợ

cấp tuất hàng tháng cũng cần phải được điều chỉnh theo hướng tăng lên để

tương xứng với việc điều chỉnh tăng mức hưởng trợ cấp tuất một lần. Việc

điều chỉnh này sẽ thu hẹp dần sự chênh lệch tương đối lớn giữa hai loại trợ

cấp. Từ đó, thân nhân NLĐ sẽ không tìm cách để lạm dụng quỹ BHXH và cơ

quan BHXH cũng thuận lợi hơn trong việc giải quyết chế độ. Nên chăng,

pháp luật BHXH sửa đổi mức này theo hướng, “nếu NLĐ có thời gian đóng

BHXH chưa đủ một năm thì mức trợ cấp bằng số tiền đã đóng; mức tối đa

bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.”

Với việc mở rộng đối tượng tham gia của Luật BHXH năm 2014 thì

việc ấn định mức trợ cấp thấp nhất bằng 3 tháng lương là không phù hợp và

rất dễ bị lạm dụng (ký hợp đồng lao động có thời hạn một vài tháng với

những người ốm nặng để khi chết, thân nhân vừa được hưởng mai táng,

vừa được hưởng 3 tháng lương bình quân); mặt khác cần xác định đối với

quỹ hưu trí, tử tuất thì mức độ chia sẻ phải thấp và cần đề cao nguyên tắc

đóng - hưởng.

3.2.7. Về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc

Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là khối các doanh nghiệp tư

nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật BHXH với

nhiều hình thức và mức độ như: Doanh nghiệp ký hợp đồng theo ngày, theo

giờ đối với lao động mùa vụ để không phải đóng BHXH; cố tình kê khai mức

lương thấp hơn thực tế hợp đồng lao động để giảm chi phí BHXH phải nộp;…

Điều này cho thấy, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính, giải quyết

tranh chấp về BHXH trong đó có BHXH bắt buộc cần phải sửa đổi, bổ sung

để có hiệu quả hơn trên thực tế.

Theo quy định pháp luật BHXH hiện hành thì mức phạt tiền cao nhất

đối với hành vi vi phạm về BHXH được quy định tối đa không quá

69

75.000.000 đồng. Mức phạt tiền này được đánh giá là khá nhẹ, chưa đủ tính

răn đe đối với những doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho

NLĐ. Vì vậy, pháp luật nên điều chỉnh theo hướng tăng các chế tài xử lý đối

với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, chẳng hạn như: Phạt tiền với

mức từ 25% đến 30% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất

nghiệp tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá

150.000.000 đồng. Có thể thấy rằng khi có một chế tài nghiêm khắc sẽ đủ sức

phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm.

Mặt khác, hiện nay, khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản cần phải có

xác nhận của cơ quan Thuế hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, nhưng lại không

được yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan BHXH về hoàn thành nghĩa vụ

đóng BHXH. Do đó pháp luật cần phải bổ sung quy định doanh nghiệp chỉ

được tuyên bố phá sản sau khi hoàn thành nghĩa vụ đóng BHXH, tạo căn cứ

pháp lý vững chắc để cơ quan BHXH xử lý các trường hợp vi phạm.

3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về

bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

3.3.1. Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp giữa các ban ngành liên quan

Để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, hệ

thống văn bản Luật có liên quan đến BHXH của các cơ quan chức năng được

sửa đổi, bổ sung thường xuyên, do vậy, BHXH Việt Nam phải ban hành

nhanh chóng các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo kịp thời các vướng mắc phát

sinh đối với BHXH các tỉnh để giúp BHXH các tỉnh không lúng túng trong

việc thực hiện công tác chuyên môn. BHXH huyện Cẩm Giàng cần chủ động

phối hợp hiệu quả với các sở, ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện để phát

triển đối tượng tham gia, thu hồi nợ đọng, đảm bảo quyền lợi, giải quyết chế

độ chính sách BHXH đúng quy định của pháp luật. Tiếp tục phối hợp với Bưu

70

điện huyện Cẩm Giàng hoàn thiện Đề án tổ chức chi trả hương hưu, các chế

độ BHXH hàng tháng qua hệ thống Bưu điện.

BHXH huyện Cẩm Giàng cần khuyến nghị chính quyền địa phương tạo

điều kiện cho công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật

về BHXH đến mọi đối tượng người dân trên địa bàn huyện nhằm nâng cao

nhận thức của NLĐ và người sử dụng lao động. BHXH huyện nên phối hợp

chặt chẽ hơn nữa với Công đoàn cơ sở. Khi đã thấu hiểu chính sách, tầm quan

trọng của BHXH đối với đời sống NLĐ, tổ chức Công đoàn sẽ tác động đến

NLĐ, thay đổi nhận thức và hành vi của họ, đấu tranh đòi hưởng những

quyền lợi chính đáng của mình.

Ngoài ra, BHXH Cẩm Giàng có thể kết hợp với ngân hàng, Kho bạc

phong toả tài khoản khi cần thiết đối với các đơn vị nợ BHXH dài hạn, kết

hợp với Toà án nhân dân trong việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH và

phối hợp với cơ quan Thuế, Sở kế hoạch đầu tư nắm rõ đối tượng tham gia

BHXH, BHYT để yêu cầu các đơn vị tham gia đầy đủ cho NLĐ theo quy định

của pháp luật, đặc biệt là các đơn vị thuộc khu vực ngoài quốc doanh.

3.3.2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm

xã hội, khuyến khích, động viên các đối tượng tham gia, thực hiện bảo hiểm

xã hội

Công tác tuyên truyền chính sách BHXH có tích cực nhưng chưa thật sự

chuyên sâu và chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến tình trạng vẫn còn một số NLĐ

chưa hiểu biết và quan tâm đến quyền lợi về BHXH của mình và chưa nắm

rõ các quy định về hoàn thiện thủ tục, giấy tờ khi tham gia đóng, hưởng

BHXH. Bên cạnh đó còn một bộ phận NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp

nhỏ có tâm lý không muốn trích tiền lương của mình tham gia BHXH hoặc

không được chủ sử dụng lao động tạo điều kiện để tham gia BHXH nhưng

không dám đấu tranh đòi quyền lợi. Một số cơ quan, tổ chức chưa nhận thức

71

đầy đủ về tầm quan trọng của chính sách BHXH nên công tác phối hợp

thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH ở một số địa phương

còn chậm được thực hiện. Hình thức tuyên truyền còn đơn giản, chưa thu hút

được sự quan tâm của NLĐ và chủ sử dụng lao động dẫn đến đối tượng

tham gia BHXH còn thấp so với thực tế, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi

của NLĐ. Nội dung, phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp với đặc thù về

phong tục, tập quán ngôn ngữ của từng nhóm đối tượng tham gia. Tính chủ

động trong công tác thông tin, tuyên truyền chưa cao, chưa theo dõi nắm bắt

kịp thời dư luận xã hội hoặc những phản ứng trái chiều của NLĐ và nhân

dân liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách BHXH để chủ động

tuyên truyền kịp thời.

Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung

ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về cải cách chính sách BHXH ban

hành ngày 23/5/2018 yêu cầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tăng cường

lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình

thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH để cán bộ, đảng

viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung

cơ bản của cải cách chính sách BHXH đối với bảo đảm an sinh xã hội, an

ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực

hiện chính sách BHXH. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của việc lãnh

đạo, chỉ đạo trong thực hiện chính sách, pháp luật BHXH của các tổ chức

đảng và chính quyền các cấp [1].

Vì vậy, BHXH huyện Cẩm Giàng cần phải tiến hành triển khai tốt Nghị

quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa XII

về cải cách chính sách BHXH, đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng dưới

nhiều hình thức đa dạng, phong phú, trực quan, sinh động như: tổ chức các

buổi nói chuyện, tư vấn các chế độ chính sách BHXH cho NLĐ, in ấn, phát

72

hành tờ rời, treo băng rôn, khẩu hiệu tại các trục đường giao thông chính…

với nội dung cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn, sát cơ sở; ứng dụng công nghệ thông

tin vào các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả Cổng thông tin điện tử,

cập nhật thường xuyên chính sách, pháp luật về BHXH và các thông tin về

hoạt động của cơ quan, ngành; kết hợp với báo Hải Dương, Đài phát thanh

huyện, các xã và thị trấn trong huyện thực hiện việc tuyên truyền về những

chính sách BHXH cho toàn thể NLĐ trên địa bàn huyện.

3.3.3. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin

vào hoạt động bảo hiểm xã hội

Công tác cải cách thủ tục hành chính vẫn luôn là một trong những nhiệm

vụ trọng tâm của ngành BHXH. Trong thời gian tới, BHXH huyện Cẩm

Giàng cần tiếp tục rà soát từng quy trình thực hiện của tất cả các lĩnh vực

nghiệp vụ từ thu, cấp sổ BHXH đến giải quyết, chi trả các chế độ… để cắt

giảm thủ tục hành chính không cần thiết tạo sự thuận lợi cho người dân.

BHXH huyện Cẩm Giàng cần phát huy hiệu quả việc tiếp nhận và trả kết quả

thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công, nhằm tạo điều kiện cho người

dân, doanh nghiệp được lựa chọn hình thức giao dịch các thủ tục hành chính

với cơ quan BHXH, đồng thời triển khai giao dịch hồ sơ đóng BHXH qua

internet đến tất cả các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện. Tất cả các

quy trình, quy định, hồ sơ, thủ tục khi tham gia và giải quyết hưởng các chế

độ BHXH đều được cập nhật và niêm yết công khai tại BHXH huyện bảo

đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho tổ chức,

cá nhân tiếp cận, tìm hiểu và thực hiện thủ tục hành chính. Bên cạnh đó,

BHXH huyện cần thông báo số điện thoại đường dây nóng, hộp thư góp ý để

các cá nhân, tổ chức và đơn vị có thể phản ánh, kiến nghị những bất cập về

quy định thủ tục hành chính.

73

Song song với việc cắt giảm các thủ tục hành chính, thì các hoạt động

ứng dụng công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. BHXH huyện

Cẩm Giàng cần tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các hệ thống thông

tin, cơ sở dữ liệu tập trung như: Hệ thống giao dịch BHXH điện tử; hệ thống

thu, sổ thẻ; hệ thống tài chính kế toán; hệ thống quản lý chính sách… Bên

cạnh những lợi ích to lớn mà hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin đem lại,

BHXH cần chú trọng hơn nữa đầu tư cơ sở hạ tầng trang thiết bị công nghệ

thông tin như: tăng cường thêm hệ thống máy tính chất lượng cao đảm bảo

tốc độ truy cập, các máy trạm, máy chủ, hệ thống tường lửa, hệ thống Hội

nghị truyền hình, đường truyền mạng WAN để kết nối dữ liệu trong toàn hệ

thống và các thiết bị mạng khác luôn đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết,

an toàn cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của ngành. Đồng thời, tăng

cường cán bộ kỹ thuật hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của ngành. Đồng

thời, tăng cường cán bộ kỹ thuật khắc phục sự cố trong khi sử dụng các phần

cứng, phần mềm nghiệp vụ luôn được đáp ứng kịp thời từ đó giúp cán bộ giải

quyết nhanh chóng các công việc.

3.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng

cho cán bộ bảo hiểm xã hội

Hàng năm, BHXH huyện Cẩm Giàng cần có kế hoạch bồi dưỡng chuyên

môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ một cách hợp lý. Cần phải tập huấn, rút

kinh nghiệm cho các cán bộ ở các bộ phận và các phòng ban chức năng có

liên quan để quá trình triển khai đảm bảo tính thống nhất, hạn chế tối đa

những sai sót không đáng có. Tổ chức các lớp bổ túc, nâng cao nghiệp vụ

chuyên môn, trình độ quản lý cho cán bộ cơ quan. Sắp xếp bộ máy theo

hướng chuyên sâu, phân chia, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cán

bộ, phòng ban để tạo sự năng động, chủ động khi thực hiện nhiệm vụ, tránh

hành chính quan liêu.

74

Thường xuyên tổng kết, đánh giá những mặt đã đạt được, những yếu kém

còn tồn tại để có phương hướng, biện pháp khắc phục triệt để những hạn chế

đó, các cán bộ trong cơ quan luôn trau dồi kinh nghiệm quản lý với nhau…

Xây dựng tinh thần đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm giữa các cán bộ trong đơn vị

với nhau thông qua các buổi giao lưu, tổng kết, sinh hoạt chi bộ…

Bên cạnh đó, BHXH huyện Cẩm Giàng cũng cần phải chú trọng nâng

cao đạo đức công vụ, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của công chức, viên

chức cụ thể trong từng bộ phận:

Đối với đội ngũ làm công tác thu, phát triển đối tượng phải nắm vững địa

bàn, nâng cao khả năng thuyết phục đối với đơn vị khi vận động phát triển đối

tượng, phải là cầu nối giữa chính sách của Đảng, Nhà nước với NLĐ.

Đối với đội ngũ làm công tác tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả phải đổi mới

phong cách phục vụ, nêu cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân; coi việc

của tổ chức, cá nhân là việc của mình để tận tâm giải quyết; biết lắng nghe và

tiếp thu ý kiến đúng đắn của khách đến giao dịch để cải tiến quy trình, trả kết

quả đúng hạn.

Đối với đội ngũ làm công tác nghiệp vụ giải quyết chế độ chính sách

BHXH, phải tích cực nghiên cứu, nắm vững các quy định của chính sách để

cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết, xử lý đúng người,

đúng phạm vi mức độ quyền lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng

tham gia BHXH bắt buộc.

Tiểu kết chương

Trong Chương 3, tác giả đã nêu ra những ý kiến về giải pháp hoàn thiện

pháp luật về BHXH bắt buộc, bảo đảm bám sát, phù hợp với quan điểm,

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; đảm bảo đồng bộ với các chế

75

độ BHXH khác, phù hợp với đời sống của NLĐ và tiếp thu có chọn lọc kinh

nghiệm của các quốc gia khác trong quá trình hoàn thiện pháp luật về BHXH

bắt buộc nhằm đảm bảo việc hoàn thiện pháp luật nhất quán, xuyên suốt.

Từ đó, tác giả nêu ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thi

hành pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải

Dương như: Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp giữa các ban ngành liên

quan, tuyên truyền pháp luật về BHXH; tăng cường cải cách thủ tục hành

chính và áp dụng công nghệ thông tin; đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ

chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng cho cán bộ BHXH… để càng đáp ứng tốt

hơn nhu cầu của các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện

Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương cũng như thực hiện có hiệu quả trên thực tiễn các

quy định của pháp luật về BHXH.

76

KẾT LUẬN

Đối với bất kỳ quốc gia nào, BHXH luôn là trụ cột quan trọng nhất của

hệ thống an sinh xã hội. Với Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của

Đảng và Nhà nước ta, góp phần ổn định đời sống của hàng triệu NLĐ và gia

đình họ khi gặp phải những rủi ro, khó khăn trong cuộc sống. Ngày nay chính

sách BHXH ngày càng được mở rộng về đối tượng tham gia ở mọi thành

phần kinh tế ở cả hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Thực

hiện tốt chính sách BHXH là yếu tố quan trọng đảm bảo ổn định xã hội trong

sự phát triển bền vững, đáp ứng tiến trình hội nhập với kinh tế thế giới, là mục

tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới.

Luật BHXH năm 2014 ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng

cho sự hoàn thiện khung pháp lý về BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói

riêng và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách

xã hội của Đảng và Nhà nước. Luật BHXH năm 2014 với rất nhiều điểm mới

theo hướng có lợi cho NLĐ, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thay

đổi tổng thể, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách

BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách

BHXH đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai và thực hiện trên thực tế, Luật

BHXH năm 2014 cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế đặt ra nhu cầu khách

quan về việc sửa đổi Luật BHXH một cách căn cơ nhằm thiết lập khung chính

sách, pháp luật BHXH phù hợp với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của NLĐ,

đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Từ việc phân tích những tồn tại,

hạn chế của pháp luật, tác giả cũng đưa ra những khuyến nghị góp phần hoàn

thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH

bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương./.

77

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị

quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, ban hành ngày

23/5/2018, Hà Nội.

2. Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội ở Việt

Nam – Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Đại

học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.

3. Báo cáo công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội các năm từ 2014-2018

của Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương

4. Báo cáo tổng kết công tác và nhiệm vụ các năm tới từ 2014-2018 của

Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.

5. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh

đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai

đoạn 2012-2020, ban hành ngày 22/11/2012, Hà Nội.

6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2017), Báo cáo đánh giá tác

động của dự án Luật sửa đổi, bổ sung của Bộ luật lao động (dự thảo lần

2 tháng 5 năm 2017).

7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư 59/2015/TT-

BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của

Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, ban hành ngày

29/12/2015, Hà Nội.

8. Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình luận pháp

lý liên quan đến Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014”, Tạp chí

Luật học.

9. Mai Đức Chính (2014), “Một số ý kiến và phương án cải cách bảo hiểm

hưu trí từ quan điểm đại diện người lao động”, Tạp chí Bảo hiểm xã

hội, Kỳ 02 tháng 01/2014.

10. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một

số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, ban

hành ngày 11/11/2015, Hà Nội.

11. Vũ Thị Mỹ Duyên (2018), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và

thực tiễn thi hành tại thành phố Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ luật học,

Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

12. Bùi Thị Lâm Hà (2012), “Chế độ tai nạn lao động ở Việt Nam – Những

khó khăn, vướng mắc”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 01 tháng 6/2012.

13. Diệp Hà (2019), “Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo đảm an sinh

bền vững”, < http://dangcongsan.vn/thoi-su/phat-trien-he-thong-bao-

hiem-xa-hoi-bao-dam-an-sinh-ben-vung-512574.html>, (10/7/2019)

14. Đỗ Quang Hải và Phạm Thị Thi (2016), Một số vấn đề về việc hình

thành, sử dụng và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội theo Luật Bảo hiểm

xã hội năm 2014, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

15. Đồng Thị Hồng (2015), Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố

Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh, Hà Nội.

16. Bùi Thanh Hương (2017), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở

Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.

17. Nguyễn Thị Hương (2018), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc qua

thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học

Luật, Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.

18. Đào Liên (2016), “5 điểm mới của Luật BHXH có lợi cho người lao

động”,

bhxh-co-loi-cho-nguoi-lao-dong-610515.html>, (06/7/2019)

19. Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật Bảo hiểm xã hội để mở rộng bảo

hiểm hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Chính trị.

20. Nguyễn Hiền Phương chủ biên (2016), Bình luận khoa học những nội

dung cơ bản của Luật Bảo hiểm xã hội, NXB Tư Pháp, Hà Nội

21. Mai Phương (2007), “Nâng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam lên

75 tuổi vào năm 2030”,

khhgd/nang-tuoi-tho-trung-binh-cua-nguoi-viet-nam-len-75-tuoi-vao-

nam-2030-2473.html>, (05/7/2019)

22. Quốc hội (2012), Bộ Luật Lao động, ban hành ngày 18/6/2012, Hà Nội.

23. Quốc hội (2015), Bộ Luật Hình sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội.

24. Quốc hội (2006), Luật Bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 29/6/2006, Hà

Nội.

25. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 20/11/2014, Hà

Nội.

26. Quốc hội (2016), Luật An toàn, vệ sinh lao động, ban hành ngày

25/6/2016, Hà Nội.

27. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, ban hành ngày

20/6/2012.

28. Lê Thị Hoài Thu (2009), “Luật Bảo hiểm xã hội từ thực tiễn đến quy

định áp dụng”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 02 Tháng 10/2009.

29. Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội trong luật Bảo hiểm xã hội

và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ

luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

30. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quyết định số

559/QĐ-BHXH quy định quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế,

bảo hiểm thất nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ bảo hiểm y tế, ban hành

ngày 14/4/2017, Hà Nội.

31. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số

1414/QĐ-BHXH quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ

chức của BHXH địa phương, ban hành ngày 04/10/2016, Hà Nội.

32. Chu Linh Trang (2017), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực

tiễn áp dụng tại tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật

Hà Nội, Hà Nội.

33. Trường Đại học Lao động – Xã hội (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội,

NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội.

34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật An sinh xã hội,

NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

35. Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm

xã hội của một số nước trên thế giới, NXB Tư pháp, Hà Nội.

36. Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế

độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu

khoa học cấp Bộ.