VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ LỆ QUYÊN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội, năm 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ LỆ QUYÊN
PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. LÊ THỊ HOÀI THU
Hà Nội, năm 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này./.
TÁC GIẢ
TRẦN THỊ LỆ QUYÊN
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
BẮT BUỘC VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC . 6
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc .................................................. 6
1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................ 11
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM
XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI HUYỆN
CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG ........................................................ 27
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............... 27
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương ....................................................................... 43
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT
BUỘC TỪ THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
..................................................................................................................... 60
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc ................................................. 60
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt
buộc ............................................................................................................. 61
3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương 70
KẾT LUẬN ................................................................................................ 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BHXH : Bảo hiểm xã hội
NLĐ : Người lao động
NSDLĐ : Người sử dụng lao động
TNLĐ, BNN : Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Bảng 2.1.Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng lao động
trên địa bàn huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018 ................................. 46
Bảng 2.2. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ trên địa bàn huyện
Cẩm Giàng từ năm 2014-2018 .................................................................... 47
Bảng 2.3. Tình hình thu nộ BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng
giai đoạn 2014-2018 .................................................................................... 49
Bảng 2.4. Tình hình chi trả các chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018 ........ 52
Bảng 2.5. Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng
giai đoạn 2014-2018 .................................................................................... 55
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam là một trong những chính sách
lớn, luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, xây dựng phù hợp với yêu
cầu thực tiễn của đất nước, đáp ứng nguyện vọng của đông đảo người lao
động (NLĐ), bảo đảm an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Chính sách này
ra đời nhằm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ và gia đình
họ, đảm bảo đời sống được ổn định khi họ gặp phải các sự kiện bảo hiểm
như ốm đau, bệnh tật, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (TNLĐ, BNN)…
Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20 tháng 11 năm 2014 ban
hành thay thế Luật BHXH 2006 đánh dấu bước phát triển mới của pháp
luật BHXH ở nước ta trong việc tạo cơ sở pháp lý để nâng cao hiệu quả
thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành
và bổ sung các chính sách BHXH. Theo đó mở rộng hơn nữa phạm vi tham
gia và thụ hưởng BHXH của NLĐ và tăng cường vai trò quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực BHXH.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, các chính sách cũng như các
chế độ về BHXH cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập thể hiện qua nội dung
các quy định về BHXH và việc tổ chức thực thi các quy định này trong việc
giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hưu trí và tử tuất của
BHXH bắt buộc. Điều đó làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của NLĐ,
dẫn đến sự thiếu công bằng giữa các đối tượng tham gia BHXH. Chế tài xử
phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH chưa đủ mạnh, tình
trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH vẫn còn phổ biến gây mất cân đối và ảnh
hưởng đến hoạt động đầu tư sinh lời của quỹ BHXH trong dài hạn. Một số
bất cập của chính sách, chế độ BHXH nêu trên đòi hỏi cần phải được đánh
giá, xem xét một cách toàn diện, từ đó có sự điều chỉnh, bổ sung để đáp
ứng với các yêu cầu thực tiễn, bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ, đảm bảo
1
an sinh xã hội. Vì lý do đó, tác giả chọn đề tài: “Pháp luật về Bảo hiểm xã
hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương” làm luận
văn Thạc sỹ Luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc nghiên cứu, phân tích về vấn đề BHXH bắt buộc đã được rất
nhiều nhà khoa học, nhà nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu, đã có một số công
trình nghiên cứu có giá trị được công bố. Có thể kể đến một số công trình
có giá trị liên quan trực tiếp đến chuyên ngành cũng như đề tài luận văn
như:
* Đề tài nghiên cứu:
- Vụ BHXH (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ
BHXH bắt buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.
* Luận án tiến sỹ:
- Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật BHXH ở Việt Nam
– Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Trường Đại
học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
- Đồng Thị Hồng (2015), Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành
phố Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Trường Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội.
* Luận văn thạc sỹ:
- Nguyễn Thị Thúy (2014), BHXH trong luật BHXH và thực tiễn thi
hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Quốc gia Hà Nội.
- Vũ Thị Mỹ Duyên (2018), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực
tiễn thi hành tại thành phố Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
- Chu Linh Trang (2017), Pháp luật về BHXH bắt buộc và thực tiễn
áp dụng tại tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.
2
- Nguyễn Thị Hương (2018), Pháp luật về BHXH bắt buộc qua thực
tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học
Luật, Đại học Huế.
* Một số bài viết đăng trên tạp chí:
- TS. Lê Thị Hoài Thu (2009), Luật BHXH từ thực tiễn đến quy định
áp dụng, Tạp chí BHXH.
- Đặng Như Lợi (2014), Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm
hưu trí đối với người cao tuổi, Tạp chí Chính trị.
- Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình luận
pháp lý liên quan đến Điều 60 Luật BHXH năm 2014”, Tạp chí Luật học.
- Đỗ Quang Hải và Phạm Thị Thi (2016), “Một số vấn đề về việc
hình thành, sử dụng và phát triển quỹ BHXH theo Luật BHXH năm 2014”,
Nhà nước và Pháp luật.
Nhìn chung, các bài viết, các công trình nghiên cứu nêu trên đã góp
phần tạo ra những cơ sở lý luận và đánh giá thực trạng các quy định của
pháp luật, nêu và phân tích những điểm mới của luật, thực tiễn thực hiện và
trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị. Tuy vậy, các công trình này khi
nghiên cứu còn tản mạn, hoặc cũng đã đề cập tới quá trình thực hiện pháp
luật BHXH bắt buộc ở một số địa phương cụ thể (Hà Nội, Lạng Sơn...)
nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp về việc thi hành pháp
luật BHXH tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Do vậy, Luận văn tập
trung nghiên cứu và làm sáng rõ thêm những vấn đề lý luận về BHXH bắt
buộc, thực trạng của các quy định pháp luật hiện nay và tình hình thực hiện
BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương để từ đó
đưa ra giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các quy định của Luật BHXH bắt
buộc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm, các quy định
của Luật BHXH năm 2014 về BHXH bắt buộc và các văn bản hướng dẫn
3
thi hành. Bên cạnh đó, Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
Về phạm vi nghiên cứu, bên cạnh các quy định của pháp luật hiện
hành, luận văn còn nghiên cứu các vấn đề liên quan về lĩnh vực BHXH, kể
cả kinh nghiệm nước ngoài nhằm vận dụng vào hoàn thiện pháp luật BHXH bắt buộc ở nước ta.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý
luận về BHXH bắt buộc, thực trạng pháp luật hiện hành về BHXH bắt buộc
và thực tiễn áp dụng trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Từ đó
đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc nói chung và trên địa bàn
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương nói riêng.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác
định trên những khía cạnh sau:
- Nghiên cứu, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt
buộc.
- Đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc để
từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
BHXH bắt buộc.
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa
bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt
buộc và nâng cao hiệu quả thực hiện tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác –
Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, Luận văn
4
còn áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực
của đề tài như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic, thống kê…
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các
cơ quan hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về
BHXH bắt buộc, đặc biệt là các cơ quan BHXH, các đơn vị tham gia
BHXH trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Luận văn cũng có
thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu pháp
luật, giảng dạy, học tập tại các cơ sở đào tạo luật cũng như cho bất cứ ai có
quan tâm đến các chế độ BHXH bắt buộc nói riêng
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn được trình bày trong 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và pháp luật
về Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thi hành tại huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh
Hải Dương
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
1.1. Khái quát về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Ngành bảo hiểm trên thế giới đã có lịch sử phát triển khá lâu dài.
Trước công nguyên, ở Ai Cập, những người thợ đẽo đá đã thành lập “quỹ
tương trợ” để giúp đỡ các nạn nhân trong các vụ tai nạn. Từ đó, các hoạt
động mang tính chất bảo hiểm phát triển theo sự phát triển của xã hội loài
người. Bắt đầu bằng hình thức các quỹ dự trữ, tương trợ đơn giản, dần dần
các loại hình bảo hiểm áp dụng cho từng trường hợp khác nhau được hình
thành và phát triển. Trong đó, BHXH được chính phủ một số nước xem xét
nhằm huy động sự đóng góp của NLĐ, người sử dụng lao động (NSDLĐ),
có sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp cho NLĐ khi gặp những trường hợp
rủi ro, ốm đau, tai nạn già yếu không làm việc được nên không có tiền
lương để sinh sống, lâm vào cảnh khốn cùng, phát sinh nhiều ảnh hưởng
tiêu cực đến xã hội.
Hiện nay, BHXH đã trở thành một chính sách lớn và vô cùng quan
trọng của Đảng và Nhà nước ta, được quy định rõ trong Hiến pháp, nhằm
góp phần ổn định thu nhập cho NLĐ và gia đình của họ khi không may gặp
rủi ro. Ở Việt Nam cũng như trên thế giới, BHXH được nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau như: tài chính, pháp luật,… Vì vậy, có thể có nhiều
định nghĩa khác nhau về BHXH.
Tùy theo góc độ nhìn nhận mà khái niệm BHXH được tiếp cận ở nhiều
khía cạnh khác nhau:
Theo Công ước 102 của tổ chức Lao động quốc tế (ILO) năm 1952:
“BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua
các biện pháp công cộng nhằm chống lại khó khăn về kinh tế - xã hội do bị
ngừng hoặc giảm thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, TNLĐ, thất nghiệp,
6
thương tật, tuổi già và chết; đồng thời đảm bảo chăm sóc y tế và trợ cấp
cho các gia đình đông con”.
Theo Từ điển tiếng Việt: “BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật
chất cho công nhân, viên chức khi không làm việc được vì ốm đau, sinh đẻ,
già yếu, bị TNLĐ…”
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3, Luật BHXH năm 2014 của Quốc
Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam: “BHXH là sự đảm bảo
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất
thu nhập do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết
trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”
Tuy xuất phát ở nhiều khía cạnh, phương diện khác nhau, nhưng có thể
khái quát về BHXH như sau:
- BHXH là hệ thống bảo đảm khoản thu nhập thay thế cho NLĐ khi
NLĐ bị mất hoặc giảm thu nhập, thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ
tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia và có sự ủng hộ của Nhà
nước.
- BHXH được chi trả trong các trường hợp NLĐ bị giảm hoặc mất thu
nhập, chỉ trong các trường hợp: ốm đau; thai sản; TNLĐ; BNN; thất
nghiệp; hết tuổi lao động; hoặc chết.
- Quỹ BHXH được sử dụng để trả lương hưu và các khoản trợ cấp
BHXH cho NLĐ nhằm góp phần bảo đảm ổn định đời sống cho NLĐ và
gia đình họ, đồng thời góp phần bảo đảm an sinh xã hội, ổn định xã hội.
- Đối tượng của BHXH chính là thu nhập bị biến động giảm hoặc mất
do các trường hợp được quy định trong Luật BHXH của những NLĐ tham
gia BHXH.
- Thực chất của BHXH là lấy số đông bù số ít và thực hiện chức năng
phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang giữa những NLĐ
có thu nhập thấp hơn, giữa những người khoẻ mạnh đang làm việc với
những người ốm yếu phải nghỉ việc. Nói cách khác, BHXH góp phần đảm
7
bảo sự “thăng bằng” về thu nhập cho NLĐ và gia đình họ. Điều này góp
phần vào việc đảm bảo công bằng xã hội.
Tại khoản 2 Điều 3 Luật BHXH năm 2014 quy định: “BHXH bắt
buộc là loại hình BHXH do Nhà nước tổ chức mà NLĐ và NSDLĐ phải
tham gia”. Từ khái niệm BHXH, có thể hiểu khái niệm BHXH bắt buộc là
sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho NLĐ (trong một
số trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp phải biến cố hoặc rủi
ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân nhất định
gây nên (do ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, hết tuổi lao động hoặc chết)
trên cơ sở nghĩa vụ (bắt buộc) tham gia của NLĐ và NSDLĐ. BHXH bắt
buộc là một hình thức đóng góp quan trọng hình thành nên quỹ tiền tệ tập
trung ổn định và bền vững để đảm bảo thu nhập cho NLĐ, góp phần ổn
định an sinh xã hội.
1.1.2. Đặc điểm bảo hiểm xã hội bắt buộc
BHXH bắt buộc là một trong hai hình thức quan trọng của BHXH.
Vì vậy, BHXH bắt buộc có những đặc điểm của BHXH nói chung:
- BHXH bảo đảm cho NLĐ trong và sau quá trình lao động: NLĐ sẽ
được BHXH trợ cấp cho đến lúc chết khi tham gia BHXH. Khi còn làm
việc, NLĐ được hưởng các loại trợ cấp khi ốm đau, khi sinh con đối với lao
động nữ, khi bị TNLĐ, còn nếu NLĐ không còn làm việc nữa thì được
hưởng tiền hưu trí, khi chết thì gia đình được hưởng trợ cấp tiền mai táng
và tử tuất…
- Các sự kiện bảo hiểm và các rủi ro xã hội của NLĐ liên quan đến thu
nhập của họ. Bao gồm: ốm đau, TNLĐ, BNN, thai sản, thất nghiệp, già
yếu, chết… Do những sự kiện và rủi ro này mà NLĐ bị giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng, dẫn đến họ bị
giảm hoặc mất nguồn thu nhập, do đó họ cần phải có khoản thu khác bù
vào thông qua các trợ cấp BHXH, bảo đảm nhu cầu sống thiết yếu, chăm
sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật.
8
- Bên trong BHXH là mối quan hệ giữa ba bên phát sinh trên cơ sở
quan hệ lao động: Bên tham gia BHXH có thể là NLĐ hoặc NLĐ và
NSDLĐ; Bên BHXH là cơ quan chuyên trách cho Nhà nước lập ra, là bên
thực hiện nhiệm vụ BHXH; Bên được BHXH là NLĐ và gia đình họ. Các
bên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền
lợi trên cơ sở các quy định của pháp luật về BHXH.
- Sự đóng góp của NLĐ, NSDLĐ và sự bảo đảm của Nhà nước là
nguồn hình thành cơ bản của quỹ BHXH. Ngoài ra nguồn thu của quỹ
BHXH còn có các nguồn khác như lợi nhuận từ đầu tư phần tiền nhàn rỗi
của quỹ BHXH; khoản nộp phạt của các doanh nghiệp, đơn vị chậm nộp
BHXH theo quy định pháp luật và các nguồn thu hợp pháp khác.
- Các hoạt động BHXH được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật, các
chế độ BHXH cũng do luật định và là một dịch vụ công mang tính phi lợi
nhuận. BHXH vừa có tính dự phòng xã hội, vừa mang tính phúc lợi xã hội.
Ngoài những đặc điểm chung kể trên, BHXH bắt buộc cũng có những
đặc điểm riêng phân biệt với hình thức BHXH tự nguyện, cụ thể:
Thứ nhất, căn cứ vào quy định pháp luật về BHXH, những đối tượng
nào có nghĩa vụ phải tham gia BHXH bắt buộc thì phải tham gia BHXH mà
không phụ thuộc vào ý chí của họ có muốn tham gia hay không cũng như
thay thế bằng các hình thức khác. Việc tham gia BHXH của những đối
tượng này là quyền đồng thời cũng là nghĩa vụ đối với họ, nếu không tham
gia thì NLĐ và NSDLĐ sẽ phải chịu chế tài xử lý theo quy định của pháp
luật.
Thứ hai, mức đóng BHXH bắt buộc được pháp luật quy định cụ thể cho
các bên tham gia mà các bên không có quyền thương lượng hay thỏa thuận.
Tỷ lệ % mức đóng của mỗi bên gồm NLĐ và NSDLĐ căn cứ trên cơ sở
quỹ tiền lương trả cho NLĐ. Pháp luật quy định trách nhiệm của cả hai bên
để san sẻ nghĩa vụ tài chính khi đóng BHXH, tạo sự gắn kết lâu dài, hài hòa
quan hệ lao động, bảo đảm quyền và lợi ích của các bên.
9
1.1.3. Ý nghĩa bảo hiểm xã hội bắt buộc
Đối với người lao động
Là một trong những chính sách kinh tế xã hội quan trọng của Nhà
nước, BHXH góp phần trợ giúp cho NLĐ khi ốm đau, tai nạn, lúc sinh đẻ
và chăm sóc con cái, khi không làm việc, lúc già cả để duy trì và ổn định
cuộc sống của cá nhân NLĐ và gia đình họ, bằng cách tạo ra cho họ những
thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi, khắc phục hậu quả ở
mức độ cần thiết… Từ đó góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất lao
động cũng như chất lượng công việc cho doanh nghiệp nói riêng và đảm
bảo ổn định cho toàn xã hội nói chung.
Đối với người sử dụng lao động
BHXH bắt buộc thể hiện nghĩa vụ và trách nhiệm của NSDLĐ đối với
NLĐ – đối tượng mà NSDLĐ khai thác lợi ích bằng sức lao động của họ.
Bên cạnh việc trợ giúp cho đời sống của NLĐ và gia đình họ khi gặp rủi ro
hay các sự kiện bảo hiểm như ốm đau, tai nạn không có nguồn thu nhập,
không có chi phí thuốc men…, BHXH bắt buộc còn là biện pháp “phân tán
rủi ro” cho NSDLĐ, giúp cho NSDLĐ có thể ổn định hoạt động, sản xuất
kinh doanh, tránh được thiệt hại kinh tế do phải chi trả một khoản tiền lớn
cho NLĐ gặp rủi ro. Mặt khác, những rủi ro đối với NLĐ dẫn đến đời sống
của họ bị ảnh hưởng, từ đó chất lượng, hiệu quả cũng như năng suất lao
động trong doanh nghiệp cũng bị ảnh hưởng theo, BHXH bắt buộc góp
phần làm cho lực lượng lao động trong doanh nghiệp hoạt động ổn định,
liên tục, giảm bớt tình trạng tranh chấp, tạo mối quan hệ lao động tốt đẹp.
Đối với xã hội
BHXH là công cụ quan trọng giúp NHà nước thực hiện chức năng xã
hội hiệu quả hơn nhằm đạt tới mục tiêu công bằng và tiến bộ xã hội. Thông
qua các quy định về BHXH, Nhà nước thực hiện việc phân phối thu nhập,
điều tiết quyền và lợi ích của các bên, đảm bảo sự công bằng trong việc giải
quyết hậu quả của rủi ro, bất trắc xảy ra. Dù không may gặp phải rủi ro thì
10
vẫn có một nguồn quỹ bảo đảm bù đắp để cho NLĐ có thể đứng vững,
NSDLĐ tiếp tục sản xuất, một nền kinh tế vẫn có thể tiếp tục duy trì, phát
triển và xã hội vẫn giữ được sự cân bằng, ổn định. Qua đó có thể thấy rằng,
BHXH đã tạo ra cơ chế chia sẻ rủi ro, góp phần nâng cao tính cộng đồng xã
hội, củng cố tình đoàn kết và gắn bó giữa các thành viên trong xã hội. Hoạt
động BHXH cũng góp phần vào việc huy động vốn đầu tư, làm cho thị
trường tài chính phong phú và kinh tế - xã hội phát triển.
Như vậy, BHXH bắt buộc là một trong những chính sách xã hội
quan trọng không thể thiếu của mỗi quốc gia nhằm ổn định đời sống kinh tế
- xã hội, là tiền đề thúc đẩy kinh tế tăng trưởng bền vững và góp phần làm
vững chắc thể chế chính trị.
1.2. Khái quát pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.1. Nguyên tắc pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc
Nguyên tắc BHXH là những vấn đề, những quan điểm cơ bản được
đặt ra và thực hiện xuyên suốt trong mọi hoạt động BHXH [33,tr.38]. Là
một loại hình bảo hiểm, lại chủ yếu mang mục đích xã hội, BHXH vừa phải
thực hiện các nguyên tắc chung của hoạt động bảo hiểm, vừa phải thực hiện
các nguyên tắc mang tính xã hội của mình. Các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật BHXH bắt buộc bao gồm:
Thứ nhất, mọi NLĐ đều có quyền tham gia và hưởng BHXH
Mọi NLĐ đều có thể gặp rủi ro , do vậy họ có quyền bình đẳng tham
gia và hưởng BHXH. Trong thực tế không phải lúc nào cuộc sống và trong
lao động cũng dễ dàng thuận lợi, có thu nhập thường xuyên và mọi điều
kiện sống bình thường, có nhiều trường hợp bất lợi phát sinh làm giảm
hoặc mất thu nhập như ốm, đau, TNLĐ… Khi gặp phải những bất lợi như
vậy được cộng đồng chia sẻ rủi ro là một nhu cầu chính đáng của NLĐ. Đó
là phương thức bảo đảm bình đẳng cho NLĐ trên phương diện xã hội, nhất
là trong điều kiện BHXH có sự bảo trợ của Nhà nước. Mặt khác, quyền
tham gia và hưởng BHXH không bị phân biệt về khu vực, ngành nghề,
11
thành phần kinh tế, có tham gia hoạt động lao động hay không… NLĐ
được tham gia và hưởng BHXH ở mức độ nào, trong những trường hợp
nào hay nói cách khác là khả năng được chia sẻ, khắc phục rủi ro đến đâu
còn tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ quản lý rủi ro trong
mỗi quốc gia[29,tr.19].
Thứ hai, mức hưởng BHXH được tính trên cơ sở mức đóng, thời
gian đóng BHXH và có chia sẻ giữa những người tham gia BHXH.
Nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt sau: người nào đóng
BHXH thì được hưởng chế độ; thời gian tham gia đóng BHXH càng nhiều,
mức đóng càng cao thì mức trợ cấp ốm đau, thai sản, TNLĐ, BNN, lương
hưu, trợ cấp tử tuất và trợ cấp thất nghiệp được hưởng với mức cao và
ngược lại. Mức đóng và mức hưởng quỹ BHXH cũng thường bị khống chế
ở mức trần nhất định. Điều đó để đảm bảo công bằng xã hội và ngân sách
Nhà nước sẽ không phải hỗ trợ cho những mức bảo hiểm quá cao, ảnh
hưởng đến hoạt động chi ngân sách. Như vậy, mức đóng, hưởng BHXH
của NLĐ phải được tính toán và quy định hợp lý trong sự tương quan với
các yếu tố khác. Việc xác định mức đóng, hưởng BHXH hợp lý là nguyên
tắc quan trọng để đảm bảo tính bền vững của BHXH.
Thứ ba, BHXH thực hiện trên cơ sở số đông bù số ít
Với nguyên tắc này, số đông NLĐ tham gia BHXH có quãng thời
gian làm việc có thu nhập sẽ bù cho số ít NLĐ không may gặp rủi ro bị
giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm nên không có thu
nhập. Như vậy, càng nhiều người tham gia BHXH thì sự san sẻ rủi ro càng
được thực hiện dễ dàng hơn. Nguyên tắc lấy số đông bù số ít có ý nghĩa
quan trọng trong việc thực hiện BHXH và được vận dụng xuyên suốt trong
việc quản lý quỹ BHXH.
12
Thứ tư, Nhà nước thống nhất quản lý BHXH, tổ chức bộ máy thực
hiện chính sách BHXH
Bởi vì, BHXH là một bộ phận cấu thành chính sách xã hội, nó vừa là
nhân tố làm ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội. Do
đó, vai trò và chức năng của Nhà nước rất quan trọng. Thực tế nếu không
có sự can thiệp và sự quản lý của Nhà nước mối quan hệ giữa NLĐ và
NSDLĐ sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH
sẽ dễ bị phá vỡ.
Hơn nữa, BHXH được thực hiện trên một quy trình chặt chẽ và cụ
thể, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến việc xét trợ cấp,
chế độ v.v... Vì vậy, Nhà nước sẽ phải quản lý tất cả các khâu trong quy
trình này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi.
Trước hết, việc hoạch định chính sách BHXH là khâu đầu tiên và
quan trọng nhất. Sự quản lý của Nhà nước về vấn đề này thể hiện ở việc
xây dựng và ban hành các dự án, các văn bản pháp luật về BHXH sau đó tổ
chức thực hiện. Sau đó là hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra các tổ chức, cá
nhân về việc thực hiện chính sách, quy định của pháp luật.
Đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà nước
phụ thuộc vào các chính sách BHXH do Nhà nước quy định. Có những mô
hình bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nước cung cấp thì Nhà
nước sẽ quản lý trực tiếp và toàn diện, còn nếu nguồn đảm bảo trợ cấp do
NSDLĐ, NLĐ và Nhà nước đóng góp thì Nhà nước sẽ góp phần tham gia
quản lý. Để quản lý về BHXH, Nhà nước sử dụng các công cụ chủ yếu như
luật pháp và bộ máy tổ chức.
Thứ năm, BHXH phải kết hợp hài hòa các lợi ích, các mục tiêu và
phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất nước trong từng thời kỳ
Trong quan hệ BHXH, không chỉ NLĐ được đảm bảo về thu nhập
mà các bên còn lại tham gia vào mối quan hệ đều có những lợi ích nhất
định, vì vậy cần phải biết kết hợp hài hòa giữa các lợi ích. Trước hết là lợi
13
ích giữa các bên tham gia BHXH: giữa NLĐ - NSDLĐ; NLĐ - NLĐ và lợi
ích riêng giữa các bên tham gia BHXH với lợi ích, mục tiêu chung của xã
hội. Nếu NSDLĐ không chấp hành quy định của pháp luật về đóng BHXH
bắt buộc cho NLĐ thì có thể sẽ phải chịu một chi phí rất lớn khi NLĐ gặp
phải các rủi ro, sự kiện bảo hiểm như bị TNLĐ, ốm đau, thai sản…. Mặt
khác, nếu quy định NLĐ được hưởng bảo hiểm ở mức cao thì có thể dẫn
đến NSDLĐ phải đóng phí bảo hiểm ở mức cao. Điều đó làm tăng chi phí
sản xuất, tăng giá thành sản phẩm, giảm sức cạnh tranh dẫn đến việc làm,
thu nhập của NLĐ đều bị ảnh hưởng. Nếu NLĐ đóng phí bảo hiểm ở mức
thấp thì phần thu nhập chi cho nhu cầu hàng ngày sẽ nhiều hơn nhưng khi
gặp các rủi ro như ốm đau, TNLĐ thì chỉ được đảm bảo thu nhập ở mức độ
thấp (và ngược lại). Bên cạnh đó, nếu Nhà nước không tổ chức thực hiện và
quản lý tốt BHXH thì không đạt được các lợi ích chung của xã hội và có
thể ảnh hưởng tới cả các điều kiện kinh tế, chính trị của quốc gia…
Như vậy, trong việc xây dựng chính sách, quy định các chế độ
BHXH cụ thể và trong quản lý hệ thống BHXH cần phải tìm ra các giải
pháp kết hợp hài hòa lợi ích của các bên tham gia, kết hợp lợi ích trước mắt
cũng như lâu dài của các đối tượng và xã hội tại mỗi quốc gia, phù hợp với
sự phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
1.2.2. Nội dung pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.2.1. Đối tượng của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Mặc dù đã ra đời rất lâu nhưng đối tượng của BHXH còn nhiều quan
điểm chưa thống nhất dẫn đến sự nhầm lẫn giữa đối tượng của BHXH với
đối tượng tham gia BHXH.
BHXH bắt buộc có ý nghĩa trong việc bù đắp một phần thu nhập cho
NLĐ khi NLĐ bị suy giảm hay mất khả năng lao động dẫn đến bị suy giảm
hay mất thu nhập. BHXH bắt buộc sẽ bù đắp thu nhập cho NLĐ khi NLĐ
đang tham gia vào quan hệ lao động hoặc kể cả khi chấm dứt quan hệ lao
động hay khi NLĐ chết. Vì vậy, đối tượng của BHXH chính là phần thu
14
nhập bị mất hay giảm đi do rủi ro mà họ gặp phải trong cuộc sống làm
giảm hoặc mất khả năng lao động. Còn đối tượng tham gia BHXH trước
hết là NLĐ. Ngoài đối tượng trực tiếp tham gia là NLĐ được áp dụng chế
độ BHXH, thì NLĐ chết, các thân nhân của NLĐ như vợ (hoặc chồng), bố,
mẹ đã hết tuổi lao động hoặc con chưa đến tuổi lao động cũng được hưởng
trợ cấp (chế độ tiền tuất). Mặt khác, khi NLĐ tham gia vào quan hệ lao
động thì NSDLĐ phải có nghĩa vụ tham gia đóng phí bảo hiểm cho những
NLĐ đó, do đó NSDLĐ cũng là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc. Tùy
vào điều kiện phát triển kinh tế của từng thời kỳ mà đối tượng tham gia có
thể là tất cả hoặc một bộ phận NLĐ nhưng nhìn chung thì kinh tế càng phát
triển thì đối tượng tham gia BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng sang
nhiều bộ phận lao động khác.
Các bên trong BHXH bắt buộc gồm có bên thực hiện BHXH và bên
được BHXH. Bên được BHXH là NLĐ hoặc các thành viên trong gia đình
khi họ thỏa mãn đầy đủ các điều kiện hưởng BHXH theo quy định của
pháp luật. Ở một số quốc gia, bên thực hiện BHXH có thể là các tổ chức
BHXH do Nhà nước thành lập hoặc các tổ chức xã hội, kinh tế thực hiện
hoạt động bảo hiểm được Nhà nước giám sát, quản lý chặt chẽ. Hệ thống
BHXH ở Việt Nam do Nhà nước thống nhất quản lý và tổ chức thực hiện
từ trung ương đến địa phương, hoạt động tuân theo quy định của pháp luật.
Các bên tham gia BHXH bắt buộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, hòa
hợp, thống nhất lợi ích và nghĩa vụ nhằm hướng tới lợi ích và mục tiêu
chung của xã hội.
Do điều kiện chính trị, kinh tế xã hội mỗi nước là khác nhau nên
phạm vi, đối tượng áp dụng các chế độ BHXH có khác nhau. Ở Đức, đối
tượng tham gia BHXH là NLĐ, tuy nhiên các quỹ BHXH thường được
triển khai với từng nhóm đối tượng NLĐ các đặc thù nghề nghiệp hay tình
trạng sức khỏe, thu nhập…, cụ thể: công nhân mỏ; NLĐ ngành hàng hải;
người làm sản xuất nông nghiệp; học sinh, sinh viên; nghệ sĩ; người làm
15
nghề xuất bản; thương nhân; công chức;…. Có quốc gia áp dụng BHXH
đối với công nhân, viên chức Nhà nước như Lào, có quốc gia lại áp dụng
cho mọi NLĐ, có thể kể đến như Australia. Tại Anh, “Chế độ bảo hiểm
quốc gia là chế độ bảo hiểm phổ thông và có xu hướng phủ toàn bộ dân cư
thường trú tại Anh: người làm công ăn lương, lao động độc lập và người
không làm việc”[35, tr.351-352]. Ngày nay xu thế chung của nhiều nước là
mở rộng đối tượng áp dụng BHXH đến mọi lao động, với đối tượng áp
dụng rộng lớn, cùng với hệ thống trợ cấp toàn diện, BHXH bắt buộc mới
thực sự phục vụ đời sống con người, góp phần bảo đảm cho xã hội an toàn,
phát triển. Vì thế ở Việt Nam, đối tượng BHXH cần được mở rộng đến tất
cả NLĐ kể cả ngắn hạn và dài hạn đảm bảo tính bền vững của quỹ BHXH
trong thời gian dài.
1.2.2.2. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Quỹ BHXH được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau, được sử
dụng để chi trả các trợ cấp BHXH cho người thụ hưởng và các chi phí quản
lý khác theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH cần phải được tính toán
sao cho nguồn thu đủ lớn và được đóng góp một cách liên tục để đảm bảo
các chi phí đầu ra ở BHXH không chỉ ở hiện tại mà cả trong tương lai khi
mức chi ra ngày càng lớn, những người hoạch định phát triển BHXH phải
tìm cách để tăng nhiều hơn mức thu vào. Quỹ BHXH là một trong những
nội dung quan trọng của hệ thống BHXH. Có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về quỹ BHXH. Cụ thể quỹ BHXH có thể được định nghĩa như sau:
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung, nằm ngoài ngân
sách nhà nước, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia
BHXH (có thể bao gồm NLĐ, NSDLĐ và nhà nước trong một số trường
hợp) và các nguồn thu hợp pháp khác sử dụng để chi trả các chế độ BHXH
cho những người được hưởng bảo hiểm và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc
mất thu nhập do bị suy giảm hoặc mất khả năng lao động, bị mất việc làm
hoặc bị chết theo quy định của pháp luật. Quỹ BHXH là một công cụ để
16
thực hiện chức năng tài chính BHXH và chính sách BHXH của nhà nước,
đóng vai trò vừa là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng, quỹ
BHXH vừa mang tính tiết kiệm, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều
kiện, cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH
tồn tại và phát triển.
BHXH là phạm trù kinh tế - xã hội tổng hợp, mặc dù tính xã hội được
thể hiện nổi trội hơn. Theo nhận định của các nhà kinh tế, kinh tế, tài chính
là nền tảng của BHXH vì chỉ khi NLĐ có thu nhập đạt đến một mức độ nào
đó thì việc tham gia BHXH mới thiết thực và hiệu quả. Cũng theo các nhà
kinh tế, BHXH chỉ có thể phát triển được theo đúng nghĩa trong điều kiện
nền kinh tế thị trường khi người tham gia BHXH có trách nhiệm đóng góp
BHXH để bảo đảm cuộc sống cho mình từ thu nhập cá nhân, NSDLĐ cũng
phải tham gia đóng BHXH cho NLĐ từ quỹ của đơn vị. Bên cạnh đó, Nhà
nước cũng có trách nhiệm bảo hộ quỹ BHXH ví dụ như đóng góp khi quỹ
BHXH mất cân đối, bị thâm hụt. Do vậy, quỹ BHXH được hình thành bởi
nhiều nguồn khác nhau, trước hết chủ yếu là phần đóng góp của các đối
tượng tham gia BHXH bắt buộc tức là NLĐ, NSDLĐ và Nhà nước; thứ hai
là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức
BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lợi; thứ ba là phần nộp phạt
của những cá nhân và tổ chức vi phạm các quy định pháp luật về BHXH.
Ngoài ra, quỹ BHXH còn có các nguồn thu hợp pháp khác tùy theo điều
kiện kinh tế - xã hội và pháp luật của mỗi quốc gia quy định. Nguồn quỹ
BHXH có dồi dào thì đảm bảo được khả năng chi trả cho các đối tượng
tham gia BHXH.
Trong quỹ BHXH, phần đóng góp của NSDLĐ cho NLĐ sẽ tránh
được các thiệt hại kinh tế lớn khi có rủi ro không may xảy ra đối với NLĐ
như bệnh tật, TNLĐ… thể hiện trách nhiệm của NSDLĐ đối với NLĐ mà
họ đang thuê mướn. Còn về phần đóng góp của NLĐ vừa biểu hiện sự tự
17
gánh chịu rủi ro của mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ và quyền lợi
một cách chặt chẽ.
Quỹ BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp BHXH,
đặc biệt là đảm bảo chi trả cho các đối tượng được hưởng BHXH và đảm
bảo cho hệ thống BHXH hoạt động một cách có hiệu quả.
Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH là các khoản chi cho trợ cấp và
các chế độ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH của đối tượng tham gia
theo quy định của pháp luật về BHXH. Đây là khoản chi chiếm tỷ trọng lớn
nhất. Ngoài ra còn có chi phí quản lý hệ thống, chi phí đầu tư tăng trưởng.
Trong đó, chi phí cho quản lý hệ thống BHXH ở từng thời kỳ được Nhà
nước quy định mức trần, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy
mô hệ thống và thời gian hoạt động.
Hiện nay, quỹ BHXH bắt buộc do các cơ quan, tổ chức BHXH trực
tiếp quản lý và thực hiện các chế độ BHXH một cách công khai, minh
bạch, có giám sát của cơ chế ba bên (Đại diện NLĐ, NSDLĐ, Nhà nước).
Hoạt động quản lý quỹ muốn đạt hiệu quả tốt cần tăng cường thanh tra,
kiểm tra, tránh thất thoát quỹ, đảm bảo khả năng chi trả lâu dài, thực hiện
đúng mục tiêu của BHXH là vì mục tiêu, lợi ích chung của xã hội.
Tỷ lệ đóng góp phí BHXH giữa NLĐ và NSDLĐ của từng quốc gia
là khác nhau. Đa phần các quốc gia xác định trên cơ sở tỷ lệ tiền lương
nhưng cũng có những quốc gia áp dụng mức đóng đồng đều trên cơ sở tiền
lương tối thiểu. Thông thường mức đóng của NLĐ thấp hơn NSDLĐ
nhưng cũng có quốc gia quy định tỷ lệ bằng nhau. Theo quan điểm của tổ
chức ILO thì tỷ lệ đóng góp của NLĐ vào quỹ BHXH không được vượt
quá 50%. Tại Đức, Hà Lan, phí đóng BHXH của NLĐ và NSDLĐ ngang
bằng nhau, mức đóng này cũng tùy theo tính chất của quỹ. Ở Tây Ban Nha,
đóng góp BHXH chiếm 70% tổng thu nhập, trong đó các khoản đóng góp
NSDLĐ lớn gấp 5 lần của NLĐ. Hay ở Đan Mạch, từ ngày 01/01/1994 đã
áp dụng một loại phí xã hội bắt buộc đối với tất cả NLĐ hưởng lương hoặc
18
không hưởng lương. NSDLĐ đóng góp từ 01/01/1997 là 0,3%. Vào năm
1995, tỷ lệ đóng góp của NLĐ là 1,9% tiền thu nhập. Tỷ lệ này là 2,9% vào
năm 1996 và tăng lên dần dần đến năm 1998 là 4,9% [35, tr.329]
Các khoản chi chủ yếu từ quỹ BHXH bắt buộc là các khoản trợ cấp
và các chế độ luật định khác cho người được BHXH bắt buộc. Khoản chi
này chỉ phụ thuộc vào điều kiện hưởng BHXH bắt buộc do Pháp luật quy
định, không phụ thuộc vào khả năng của quỹ BHXH. Ngoài ra còn có các
chi phí quản lý hệ thống sẽ tỷ lệ nghịch với trình độ quản lý ở mỗi nước và
ngày càng có xu hướng giảm do trình độ quản lý đạt được ngày càng cao,
đồng thời giảm chi phí do áp dụng khoa học công nghệ, nhất là công nghệ
thông tin vào quá trình quản lý liên thông. Tuy nhiên, để tránh lạm dụng
quỹ BHXH, trong từng thời kỳ khác nhau, Nhà nước có thể quy định một
mức trần chi quản lý, tương đương với chất lượng dịch vụ BHXH, quy mô
hệ thống và thời gian hoạt động.
Về tổ chức và quản lý quỹ BHXH, tùy thuộc vào mô hình tổ chức
quỹ BHXH mà các quốc gia quy định việc quản lý quỹ BHXH. Do điều
kiện kinh tế - xã hội và chính trị mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH
của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ
chức BHXH chung cho tất cả các nước. Thông thường các quốc gia thiết
lập hệ thống các cơ quan từ trung ương đến địa phương để quản lý quỹ
BHXH. Có một số nước trên thế giới lại giao cho một bộ, ngành nào đó
đảm nhận cả chức năng quản lý nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện
các nghiệp vụ ngành BHXH [16, tr.16]
1.2.2.3. Các chế độ bảo hiểm xã hội
Chế độ BHXH là những quy định cụ thể và chi tiết về những chế
định thực hiện BHXH đối với NLĐ. Nói cách khác, đó là một hệ thống các
quy định của pháp luật về đối tượng và phạm vi, về nghĩa vụ và quyền lợi,
về điều kiện và mức đóng góp cho từng trường hợp BHXH cụ thể.
19
Theo khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế ILO đã nêu trong
Công ước số 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ, hệ thống chế độ BHXH
bao gồm 9 chế độ sau đây: Chăm sóc y tế; Trợ cấp ốm đau; Trợ cấp thất
nghiệp; Trợ cấp tuổi già; Trợ cấp TNLĐ, BNN; Trợ cấp gia đình; Trợ cấp
sinh đẻ; Trợ cấp khi tàn phế; Trợ cấp tiền tuất trợ cấp mất người nuôi
dưỡng. Chín chế độ trên hình thành 1 hệ thống chế độ BHXH. Tuỳ theo
điều kiện kinh tế - xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực
hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất là phải thực hiện
được 3 chế độ và ít nhất phải áp dụng một trong các chế độ: trợ cấp thất
nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp TNLĐ – BNN, trợ cấp tàn tật hoặc trợ cấp
tử tuất. Việc áp dụng BHXH trên của các quốc gia khác nhau thường khác
nhau về nội dung thực hiện, tùy thuộc vào nhu cầu của riêng từng nơi trong
việc đảm bảo cuộc sống của NLĐ và vào khả năng tài chính, khả năng
quản lý có thể đáp ứng. Tuy nhiên, xu hướng chung là tùy thuộc vào điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội, BHXH sẽ mở rộng dần về số lượng và nội
dung thực hiện của từng chế độ.
Chế độ BHXH được cụ thể hoá dưới dạng các văn bản luật, các nghị
định, thông tư hướng dẫn. Vì thế, khi thực hiện mỗi chế độ phải nắm vững
những vấn đề mang tính cốt lõi của chính sách BHXH để đảm bảo sự đúng
đắn và tính nhất quán trong toàn bộ hệ thống các chế độ BHXH.
Các chế độ BHXH ở một số quốc gia trên thế giới:
Chế độ ốm đau:
Là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ tạm thời bị gián
đoạn do phải nghỉ việc do bị ốm đau, tai nạn. Ở Thụy Điển, tất cả những
người cư trú ở Thụy Điển đều được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. Các hội
đồng cấp quận chịu trách nhiệm về các dịch vụ y tế - vệ sinh trong địa hạt
của mình và vì vậy họ có quyền đánh thuế riêng. Hội đồng sở hữu và quản
lý các trung tâm y tế. Ngoài ra, còn có các tổ chức tư nhân mà phần lớn là
đã ký các thỏa ước với các hội đồng cấp quận. Quỹ BHXH đền bù một
20
phần những chi phí y tế, kiểm tra và điều trị do các bác sỹ đã ký kết thỏa
thuận thực hiện trong lĩnh vực tư [35, tr.434-435]. Còn ở Đức, chế độ này
bao hàm cả chăm sóc y tế, trợ cấp ốm đau và tàn tật. Thuộc diện tham gia
bảo hiểm bắt buộc và được hưởng chế độ ốm đau sẽ bao gồm: NLĐ có mức
thu nhập đạt tới mức quy định; người về hưu; người thất nghiệp; học sinh,
sinh viên; nông trang viên; người hoạt động nghệ thuật. Bảo hiểm ốm đau
bao gồm nhiều quỹ độc lập, được tổ chức theo phạm vi rất khác nhau, như
theo ngành nghề và theo vùng lãnh thổ. Trong đó, quỹ bảo hiểm ốm đau
theo ngành nghề là khá phổ biến. [35, tr.345]
Chế độ thai sản:
Chế độ bảo hiểm thai sản được quy định trong pháp luật hầu hết
các nước trên thế giới, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị xã hội ở
mỗi nước mà chế độ này được quy định khác nhau về thời gian nghỉ, mức
trợ cấp và điều kiện hưởng.
Ở Thái Lan, điều kiện được hưởng chế độ bảo hiểm thai sản thì
NLĐ phải có 7 tháng đóng BHXH trong vòng 15 tháng trước khi sinh.
Singapore quy định ít nhất phải có 6 tháng làm việc. Nhật Bản quy định
phải có 12 tháng làm việc trước đó. Tại Philipin, trợ cấp thai sản được thực
hiện trong 4 lần sinh với điều kiện lao động nữ phải đóng BHXH 3 tháng
trong vòng 12 tháng trước khi sinh. [35, tr.240-248].
Đối với thời gian nghỉ sinh con chế độ thai sản ở Đức quy định
nghỉ thai sản 14 hoặc 18 tuần (6 tuần trước khi sinh; 8 hoặc 12 tuần sau khi
sinh). [35, tr.347]. Liên bang Nga quy định thời gian nghỉ thai sản 16 tuần
đối với lao động nữ lao động thể lực, 12 tuần đối với lao động nữ làm công
việc văn phòng trí tuệ. [35, tr.320]. Nhật Bản, Indonexia quy định thời gian
nghỉ thai sản là 3 tháng. Brunei, Malaysia, Hàn Quốc, Đài Loan thời gian
nghỉ thai sản là 8 tuần hoặc 60 ngày [35, tr.240-248]. Nhìn chung, pháp
luật của một số nước quy định các quyền lợi NLĐ khi tham gia BHXH
được hưởng chế độ thai sản như thời gian nghỉ, mức hưởng tương đối có
21
lợi cho NLĐ nhưng rất chú trọng trong vấn đề bảo toàn và phát triển Quỹ
BHXH bằng việc quy định NLĐ phải tham gia đóng BHXH trong một thời
gian nhất định. Điều đó giúp Việt Nam nghiên cứu tiếp thu quy định phù
hợp bảo vệ quyền lợi cho NLĐ nhưng vẫn bảo toàn và phát triển tài chính.
Bởi lẽ BHXH không chỉ thực hiện theo nguyên tắc lấy số đông bù số ít mà
còn tuân thủ theo nguyên tắc phân phối theo lao động.
Chế độ hưu trí:
Bảo hiểm hưu trí là chế độ bảo hiểm dành cho những người không
còn tham gia quan hệ lao động nữa. Ở Anh, tuổi nghỉ hưu là 65 tuổi đối với
nam và 60 tuổi đối với nữ. Thời gian làm việc đầy đủ là 44 năm làm việc
đối với nam và 39 năm đối với nữ. Từ năm 2010, tuổi nghỉ hưu của nữ sẽ
được nâng lên mỗi năm 6 tháng tuổi cho đến 65 tuổi vào năm 2020 [35, tr.
361]. Trợ cấp hưu trí mà người về hưu nhận là một khoản trợ cấp theo pháp
luật cơ bản, độc lập với lương và là một khoản trợ cấp bổ sung bắt buộc.
Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Bao gồm các quy định pháp luật nhằm bảo đảm thu nhập và bảo
đảm sức khỏe cho NLĐ trong các trường hợp bị TNLĐ hoặc bị BNN. Ở
Thụy Điển, tất cả những người thực hiện một hoạt động làm công ăn lương
hay độc lập cũng như học viên của một số trường nghiệp vụ được bảo hiểm
cho những rủi ro về TNLĐ. Đó là tất cả các tai nạn và tất cả những bệnh có
mối liên hệ với hoạt động nghề nghiệp. Không có danh sách các BNN. Để
được trợ cấp, cần phải chứng minh thiệt hại là do một hay nhiều ảnh hưởng
độc hại ở nơi làm việc gây ra. Tai nạn trên quãng đường giữa nơi làm việc
và nơi ở cũng được bảo hiểm [35, tr.437].
Đối với Việt Nam, trên cơ sở kế thừa những tri thức về BHXH của
thế giới, với điều kiện hiện tại, nước ta đã lựa chọn thực hiện các chế độ
BHXH bắt buộc, bao gồm: chế độ ốm đau, thai sản, TNLĐ và BNN, hưu
trí, tử tuất. Và, tùy điều kiện kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ mà Nhà
22
nước có những điều chỉnh khác nhau đối với hệ thống các chế độ BHXH bắt buộc cho phù hợp.
1.2.2.4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Xử lý vi phạm về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trên thực tế, trong quá trình thực thi các quy định của pháp luật về
BHXH xảy ra nhiều vi phạm từ phía các bên tham gia BHXH. Các khả
năng xảy ra vi phạm về BHXH bắt buộc thường nằm trong quá trình đóng,
hưởng và quản lý quỹ BHXH. Các nhóm hành vi vi phạm về BHXH bắt
buộc cụ thể bao gồm:
Nhóm hành vi vi phạm pháp luật về nghĩa vụ đóng BHXH: không
đóng, đóng không đúng thời gian quy định, đóng không đúng mức quy
định, đóng không đủ số người thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc. Nhóm
hành vi này xuất phát từ ý thức không tuân thủ các quy định pháp luật về
BHXH bắt buộc của người tham gia BHXH.
Nhóm hành vi vi phạm pháp luật về quyền thụ hưởng BHXH: cố
tình gây khó khăn hoặc cản trở việc hưởng BHXH của NLĐ, gian lận thông
qua việc làm sai lệch, giả mạo giấy tờ, hồ sơ để hưởng chế độ BHXH, giám
định sai.
Nhóm hành vi vi phạm pháp luật về quản lý quỹ BHXH: sử dụng
tiền đóng và quỹ BHXH trái quy định của pháp luật; báo cáo sai sự thật,
cung cấp sai lệch thông tin, số liệu tiền đóng và quỹ BHXH. Các hành vi vi
phạm này có thể dẫn đến thất thoát trực tiếp tài chính quỹ BHXH và ảnh
hưởng gián tiếp đến quyền lợi của NLĐ, làm giảm uy tín của các cơ quan
tổ chức BHXH cũng như niềm tin của NLĐ vào việc thực thi chính sách
BHXH của Nhà nước.
Tùy theo tính chất và mức độ mà các hành vi vi phạm về BHXH bắt
buộc có thể bị xử phạt hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự.
23
Trên thế giới, hầu hết văn bản pháp luật của các nước đều quy định
các hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng và quyền
thụ hưởng các chế độ. Nhiều quốc gia trên thế giới đã quy định chế tài hình
sự để xử lý những hành vi vi phạm nghĩa vụ đóng BHXH và vi phạm về
quyền thụ hưởng các chế độ BHXH để bảo vệ chính sách an sinh xã hội
của mình thông qua việc bảo vệ những quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình thực hiện chính sách BHXH trong các luật chuyên ngành về BHXH
(như: Mỹ, Philippin, Thái Lan, Campuchia...). Từ kinh nghiệm của các
quốc gia, Việt Nam có thể nghiên cứu, học hỏi để xây dựng các chế tài xử
phạt hành vi vi phạm pháp luật BHXH, phù hợp với điều kiện kinh tế, xã
hội của đất nước. Đặc biệt, việc tội phạm hóa một số hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay và trong tương lai.
Giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Tranh chấp về BHXH bắt buộc là tranh chấp trong việc thực hiện
các quy định của pháp luật về các chế độ BHXH bắt buộc. Tranh chấp về
BHXH có thể xảy ra khi một trong các bên hoặc tất cả các bên tham gia
quan hệ BHXH bắt buộc xung đột, mâu thuẫn với nhau về các quyền lợi
BHXH. Trong đó, tranh chấp BHXH giữa NLĐ và NSDLĐ là một trong
những tranh chấp lao động phổ biến nhất.
Do vậy, các bên trong tranh chấp BHXH đều mong muốn tìm được
biện pháp giải quyết đảm bảo tốt nhất mọi quyền lợi, không ảnh hưởng đến
mối quan hệ giữa các bên, do đó việc lựa chọn cơ chế giải quyết tranh chấp
về BHXH là vô cùng quan trọng. Các cơ chế giải quyết tranh chấp về
BHXH bao gồm: cơ chế thỏa thuận, cơ chế khiếu nại và cơ chế kiện tụng.
Thứ nhất, cơ chế thỏa thuận là cơ chế mà các bên tiến hành giải
quyết tranh chấp về BHXH thông qua việc thỏa thuận trực tiếp với nhau
(hay còn gọi là thương lượng) hoặc thông qua một bên trung gian, độc lập,
có kiến thức kinh nghiệm và kỹ năng giải quyết tranh chấp để đưa ra các
lời khuyên về quyền lợi và nghĩa vụ cho các bên (hòa giải ngoài tố tụng
24
hay trọng tài). Cơ chế thỏa thuận được khuyến khích sử dụng do sự hiệu
quả mà nó đem lại
Thứ hai, cơ chế khiếu nại là cơ chế mà bên khiếu nại là NLĐ,
NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc; bên giải quyết khiếu nại có thể là
NSDLĐ hoặc tổ chức, cơ quan BHXH. Việc giải quyết tranh chấp bằng cơ
chế khiếu nại nhằm mục đích giúp cho các bên vi phạm có thể sửa sai các
hành vi của mình.
Thứ ba, cơ chế kiện tụng là cơ chế giải quyết tranh chấp BHXH cuối
cùng sau khi các bên đã áp dụng cơ chế thỏa thuận nhưng không thành
hoặc không áp dụng cơ chế khiếu nại. Cơ quan tố tụng sẽ tiến hành các
hoạt động theo trình tự, thủ tục luật định để phân định đúng đắn vụ việc
tranh chấp. Đối với việc giải quyết tranh chấp BHXH bằng cơ chế kiện
tụng, các quyết định của cơ quan tài phán có tính bắt buộc nhằm bảo đảm
quyền lợi của bên bị xâm hại cũng như quyền lợi của các bên tranh chấp.
Về việc tổ chức hệ thống tòa án an sinh xã hội, Việt Nam có thể tham khảo
các quốc gia như Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng hòa Pháp, Hoa Kỳ...
Tiểu kết chương
Với sự phát triển mạnh mẽ và đa dạng, BHXH đã trở thành một trụ
cột chính của hệ thống an sinh xã hội ở mỗi quốc gia. Ngày nay, BHXH đã
và đang mang tính toàn cầu, trở thành nhu cầu và quyền lợi của NLĐ và
được thừa nhận là nhu cầu khách quan, một trong những quyền lợi cơ bản
của con người. Cùng với sự phát triển của văn minh nhân loại, dù thể chế
chính trị của các nước có thể khác nhau, nhưng BHXH đều được thừa nhận
là một chính sách xã hội không thể thiếu ở các nước. Mỗi quốc gia tùy
thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội mà hệ thống các chế độ
BHXH được xây dựng khác nhau. Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta coi
BHXH là một chính sách lớn, trọng điểm, luôn quan tâm, thường xuyên
25
sửa đổi, bổ sung hệ thống pháp luật về BHXH phù hợp với điều kiện kinh
tế - xã hội trong từng thời kỳ của đất nước. BHXH bắt buộc là một trong
những loại hình bảo hiểm có vai trò quan trọng trong hệ thống BHXH.
Ngày nay cùng với sự phát triển về kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế, đối
tượng và phạm vi áp dụng BHXH bắt buộc ngày càng được mở rộng, các
chế độ BHXH bắt buộc cũng được bổ sung hoàn thiện, đảm bảo cuộc sống,
quyền lợi cho NLĐ.
26
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ
BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI
HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
2.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người có trách nhiệm đóng phí
bảo hiểm cho cơ quan thực hiện BHXH theo quy định của Nhà nước. Theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành, đối tượng tham gia BHXH bắt
buộc bao gồm NLĐ và NSDLĐ.
Theo quy định của Luật BHXH năm 2014, NLĐ tham gia BHXH bắt
buộc bao gồm: Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định
thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; Cán bộ,
công chức, viên chức Nhà nước; Lực lượng vũ trang; Người làm việc có
thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc; Người làm
việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
Người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều hành hợp tác xã có hưởng
tiền lương; Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn;
NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc tại Việt Nam có giấy phép lao
động hoặc chứng chỉ hành nghề hoặc giấy phép hành nghề do cơ quan có
thẩm quyền của Việt Nam cấp được tham gia BHXH bắt buộc theo quy
định của Chính phủ.
Có thể thấy hình thức BHXH bắt buộc đang có sự phát triển khá
nhanh, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng. BHXH bắt
buộc gần như bao phủ tất cả các đối tượng tham gia quan hệ lao động. Theo
quy định luật BHXH năm 2014, NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có
thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng thuộc diện bắt buộc tham gia
BHXH có ý nghĩa quan trọng, vừa đảm bảo quyền lợi của NLĐ do những
lao động thuộc nhóm này vẫn có thể gặp rủi ro khi làm việc, vừa ngăn cản
27
việc các doanh nghiệp trốn tránh việc tham gia BHXH cho NLĐ bằng cách
ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng theo chuỗi. Tuy nhiên, trên thực tế, đối
tượng lao động này rất khó quản lý, do tính chất đặc thù không ổn định,
thay đổi thường xuyên trong khi cơ chế quản lý về lao động, tiền lương và
thủ tục tham gia và dừng đóng BHXH bắt buộc còn nhiều hạn chế. Mặt
khác, theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Bộ luật lao động 2012 thì đối với
công việc tạm thời có thời hạn dưới 03 tháng, các bên có thể giao kết hợp
đồng lao động bằng lời nói. Quy định này dễ dàng tạo điều kiện cho chủ sử
dụng lao động “lách luật” để không phải tham gia BHXH cho NLĐ. Chủ sử
dụng lao động cũng có thể ký kết hợp đồng dưới 01 tháng với NLĐ hoặc
không công khai thuê mướn lao động, NLĐ trong trường hợp này trở thành
lao động chui và không được bảo vệ quyền lợi đầy đủ.
Mặt khác, trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng như hiện nay, việc
Việt Nam thực hiện chính sách BHXH bắt buộc đối với NLĐ là công dân
nước ngoài là cần thiết nhằm đảm bảo quyền lợi cho NLĐ, góp phần tạo ra
sự bình đẳng giữa lao động trong nước với lao động nước ngoài, tạo tâm lý
yên tâm làm việc cho NLĐ. Đây là một yếu tố tích cực tạo môi trường kinh
doanh thuận lợi, thu hút lao động chất lượng cao đến Việt Nam. Việc quy
định áp dụng BHXH bắt buộc đối với tất cả những NLĐ đi làm việc ở nước
ngoài theo hợp đồng và NLĐ là công dân nước ngoài làm việc tại Việt
Nam sẽ là tiền đề thúc đẩy, triển khai các Hiệp định song phương về
BHXH giữa Việt Nam và các quốc gia khác.
Về NSDLĐ, NSDLĐ tham gia BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà
nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị - xã
hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ
chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động
trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ
hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp
đồng lao động. Luật BHXH năm 2014 đã hệ thống một cách chi tiết và đầy
28
đủ các trường hợp có sử dụng, thuê mướn lao động phải tham gia BHXH
bắt buộc. Tham gia BHXH bắt buộc trở thành nghĩa vụ và trách nhiệm của
NSDLĐ để bảo vệ NLĐ.
2.1.2. Về các chế độ BHXH bắt buộc
Chế độ BHXH là hệ thống các các quy định về mức hưởng của từng
trường hợp, điều kiện hưởng và thời hạn hưởng cho NLĐ khi họ gặp phải
những rủi ro thuộc từng phạm vi bảo hiểm. Hầu hết các quốc gia, trong đó
có Việt Nam quy định các chế độ BHXH bắt buộc bao gồm 5 chế độ: chế
độ ốm đau; chế độ thai sản; chế độ TNLĐ, BNN; chế độ hưu trí và chế độ
tử tuất.
2.1.2.1. Chế độ ốm đau
Theo Giáo trình Luật an sinh xã hội của Trường Đại học Luật Hà
Nội: “Bảo hiểm ốm đau là chế độ BHXH nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ
(người tham gia BHXH) tạm thời bị gián đoạn do phải nghỉ việc vì ốm đau,
tai nạn, chăm sóc con ốm theo quy định của pháp luật” [34, tr. 134]
- Theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì đối tượng áp dụng
chế độ ốm đau là các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trừ những người
đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, người hoạt động không chuyên
trách ở xã, phường, thị trấn và NLĐ là công dân nước ngoài vào làm việc
tại Việt Nam. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, đối với đối tượng lao động làm
việc theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng do tính chất
không ổn định và thay đổi thường xuyên thì việc thực hiện các chế độ
BHXH ngắn hạn như ốm đau, thai sản… đối với họ là rất khó khăn và còn
gặp nhiều vướng mắc.
- Pháp luật BHXH quy định thời gian tối đa được hưởng chế độ ốm
đau trong một năm của NLĐ đủ điều kiện được hưởng được tính theo ngày
làm việc không kể ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, nghỉ hằng tuần theo quy định của
pháp luật về lao động.
29
Thời gian hưởng chế độ ốm đau trong trường hợp NLĐ nghỉ do mắc
bệnh thông thường theo quy định của Luật BHXH năm 2014 là tối đa 30
ngày nếu đóng BHXH dưới 15 năm, 40 ngày nếu đóng BHXH từ 15 năm
đến dưới 30 năm, 60 ngày nếu đóng BHXH từ 30 năm trở lên. Việc quy
định khoảng cách thời gian đóng BHXH giữa các mức hưởng là quá lớn
không đảm bảo sự công bằng, thể hiện được nguyên tắc đóng – hưởng và
không khuyến khích mọi người đóng BHXH với thời gian lâu hơn.
- Về trường hợp NLĐ nghỉ do mắc bệnh thuộc Danh mục chữa trị
dài ngày do Bộ Y tế ban hành thì Luật BHXH năm 2014 không quy định
thời gian đóng BHXH tối thiểu của NLĐ trước khi hưởng chế độ ốm đau.
Do đó ngay khi NLĐ bị ốm đau trong tháng đầu tiên tham gia đóng BHXH,
họ vẫn có quyền được hưởng chế độ ốm đau như các đối tượng khác đóng
lâu hơn. Điều này dẫn tới chính sách dễ bị lạm dụng, nhất là đối với trường
hợp NLĐ nghỉ do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần điều trị dài ngày, từ
đó làm ảnh hưởng cân đối thu chi của quỹ BHXH, nguyên tắc đóng -
hưởng và cũng không đảm bảo tính công bằng giữa những người NLĐ
tham gia BHXH.
- Đối với trường hợp NLĐ nghỉ chăm con ốm đau: thời gian hưởng
chế độ khi con ốm đau được xác định theo tuổi của con và cũng tính trong
phạm vi một năm phụ thuộc vào các yếu tố về điều kiện lao động, tình
trạng bệnh tật, thời gian đóng BHXH và độ tuổi của con bị ốm. Tuy nhiên,
Luật BHXH năm 2014 chưa có sự phân biệt về thời gian hưởng chế độ
BHXH ốm đau để chăm sóc con ốm tùy theo tình trạng và mức độ bệnh tật
của con, điều này xảy ra vướng mắc khi áp dụng đối với trường hợp con
mắc bệnh điều trị dài ngày và con chỉ bị ốm đau thông thường. Trong khi
đó, dưới 07 tuổi là thời gian sức khỏe của trẻ vẫn còn nhạy cảm, rất dễ bị
mắc các bệnh thông thường hoặc cần phải điều trị dài ngày nên NLĐ phải
nghỉ việc để chăm sóc con ốm là điều tất yếu.
30
- Riêng đối với những người làm việc trong lực lượng vũ trang (sĩ
quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan
nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân…)
thì thời gian nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau căn cứ vào thời gian điều trị
tại cơ sở khám chữa bệnh có thẩm quyền hoàn toàn không phụ thuộc vào
thời gian đóng BHXH cũng như loại bệnh. Về mức hưởng chế độ ốm đau
thì họ sẽ được hưởng 100% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề
trước khi nghỉ việc. Thời gian hưởng và mức hưởng chế độ ốm đau đối với
những NLĐ làm việc trong lực lượng vũ trang có sự khác biệt và ưu đãi
hơn so với NLĐ dân sự. Đây là những chế độ đãi ngộ đặc biệt của Nhà
nước dành cho các đối tượng này bởi tính chất công việc của họ, nhưng lại
được sử dụng quỹ BHXH. Trong khi đó quỹ BHXH độc lập với ngân sách
Nhà nước. Mặt khác, trong cùng một mối quan hệ tương quan về lao động,
khi được đặt trong vị trí là đối tượng điều chỉnh của một ngành Luật thì chế
độ này chưa đảm bảo nguyên tắc bình đẳng.
2.1.2.2. Chế độ thai sản
Chế độ thai sản là một chế độ đặc thù chủ yếu gắn liền với NLĐ nữ,
không chỉ bảo đảm đời sống và sức khỏe cho lao động nữ nói riêng khi
thực hiện thiên chức làm mẹ mà còn tạo điều kiện cho NLĐ nói chung, đặc
biệt là lao động nữ kết hợp hài hòa giữa cuộc sống lao động và cuộc sống
gia đình, phát huy hiệu quả trí tuệ, tài năng vào công cuộc xây dựng và phát
triển kinh tế - xã hội đất nước.
Về đối tượng được hưởng chế độ thai sản, Luật BHXH năm 2014 đã
mở rộng thêm phạm vi đối tượng là trường hợp lao động nữ mang thai hộ
và người mẹ nhờ mang thai hộ; trường hợp lao động nam đang đóng
BHXH có vợ sinh con. Ngoài ra, NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng
tuổi cũng được hưởng chế độ thai sản thay vì quy định dưới 04 tháng tuổi
như trước kia. Việc mở rộng phạm vi đối tượng hưởng chế độ thai sản mà
31
Luật BHXH năm 2014 đang quy định rất tiến bộ, phù hợp với quy định của
pháp luật thế giới.
Về điều kiện hưởng chế độ thai sản thì Luật BHXH năm 2014 đã
quy định cụ thể hơn trường hợp NLĐ đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở
lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh có thẩm quyền thì phải đóng BHXH từ 03 tháng trở
lên trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con. Luật đã nới lỏng quy định
điều kiện hưởng với đối tượng này, đảm bảo công bằng và quyền lợi cho
NLĐ, tạo điều kiện cho lao động nữ vì lý do bệnh lý phải nghỉ việc dưỡng
thai vẫn có đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con, vừa hạn chế
được tình trạng trục lợi chế độ thai sản.
Về thời gian hưởng chế độ thai sản, Luật BHXH năm 2014 quy định
cả trường hợp lao động nam đang đóng BHXH có vợ sinh con tại khoản 2
Điều 34. Quy định này rất tiến bộ và thể hiện sự bình đẳng giới, sự chia sẻ
trách nhiệm của người chồng trong việc chăm sóc con, đảm bảo tốt hơn sức
khỏe của người mẹ và trẻ sơ sinh.
Luật BHXH năm 2014 quy định mức hưởng chế độ thai sản tại Điều
39 bao gồm mức hưởng một tháng, mức hưởng một ngày và mức hưởng
chế độ khi sinh con hoặc nhận nuôi. Về mức hưởng một ngày, Luật BHXH
năm 2014 đã bổ sung áp dụng đối với trường hợp khi khám thai và lao
động nam có vợ sinh con được tính bằng mức hưởng chế độ thai sản theo
tháng chia cho 24 ngày, quy định này đảm bảo công bằng về quyền lợi của
NLĐ và thống nhất với quy định về chế độ ốm đau.
Luật BHXH năm 2014 cũng quy định cụ thể hơn về thời gian NLĐ
nghỉ việc hưởng chế độ thai sản từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng
được tính là thời gian đóng BHXH, nhằm đảm bảo công bằng về quyền lợi
cho NLĐ trong tương quan với các chế độ BHXH khác.
Tuy nhiên, Luật BHXH năm 2014 chưa quy định chi tiết về chế độ
hưởng trợ cấp một lần khi sinh cho trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH,
32
vì với điều kiện về quản lý nhân khẩu và lao động hiện hành thì chỉ trong
thực tế không thể xác định được người mẹ có tham gia BHXH hay không
mà chỉ căn cứ vào đơn và xác nhận nên chắc chắn sẽ bị lạm dụng và không
kiểm soát được khi cả cha, mẹ đóng BHXH tại các đơn vị khác nhau, thậm
chí tại các địa phương khác nhau cũng đề nghị hưởng trợ cấp một lần khi
sinh con.
Pháp luật Việt Nam đã công nhận quyền nuôi con nuôi và quyền
được làm con nuôi là một trong những quyền con người, quyền công dân
được pháp luật tôn trọng và bảo vệ. Luật BHXH năm 2014 cũng quy định
đảm bảo quyền của NLĐ khi nhận nuôi con nuôi. Theo Luật BHXH năm
2014, khi NLĐ nhận nuôi con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì được hưởng chế
độ thai sản cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng
có trường hợp NLĐ nhận nuôi nhiều con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì Luật
BHXH hiện nay chưa quy định.
Luật BHXH năm 2014 quy định điều kiện để lao động nữ có thể đi
làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con là sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít
nhất được 04 tháng (Luật BHXH 2006 là từ đủ 60 ngày trở lên) và phải báo
trước và được NSDLĐ đồng ý. Việc kéo dài thời gian nghỉ sinh con mới có
đủ điều kiện để đi làm để đảm bảo tối đa sức khỏe, quyền lợi của NLĐ nữ,
mặc dù Luật quy định chỉ mang tính tùy nghi, phụ thuộc vào sự lựa chọn
của lao động nữ cũng là để lao động nữ có cơ hội việc làm, đảm bảo thu
nhập trong quá trình chăm sóc con nhỏ khi sức khỏe đã được đảm bảo. Tuy
nhiên, việc Luật BHXH năm 2014 vẫn quy định bỏ ngỏ về điều kiện “báo
trước và được NSDLĐ đồng ý” mà không quy định chi tiết “thời hạn báo
trước là bao lâu hay vấn đề này do hai bên thỏa thuận hoặc do NSDLĐ quy
định” [28, tr.13] cũng gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện
chế độ thai sản.
33
2.1.2.3. Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Chế độ TNLĐ, BNN là chế độ nhằm bảo vệ quyền lợi NLĐ trước
những rủi ro nghề nghiệp, đảm bảo các khoản trợ cấp và bù đắp phần thu
nhập bị mất đi khi họ phải nghỉ việc vì bị TNLĐ, BNN. Chế độ TNLĐ,
BNN không chỉ được quy định tại Luật BHXH năm 2014 mà còn được
điều chỉnh bởi Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 và các văn bản hướng
dẫn thi hành.
Về đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN: Luật An toàn, vệ sinh
lao động 2015 quy định đối tượng áp dụng chế độ TNLĐ, BNN bao gồm
NLĐ tham gia BHXH bắt buộc quy định theo Khoản 1 Điều 2 và NSDLĐ
theo quy định tại khoản 3 Điều 2 Luật BHXH năm 2014. Điểm mới của
Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 so với Luật BHXH năm 2014 là đã bổ
sung đối tượng hưởng chế độ TNLĐ, BNN là NSDLĐ tham gia BHXH.
Về điều kiện hưởng chế độ TNLĐ: Theo quy định của Luật BHXH
năm 2014 và Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 thì NLĐ được hưởng chế
độ TNLĐ khi bị TNLĐ tại nơi làm việc và trong giờ làm việc; ngoài nơi
làm việc hoặc ngoài giờ làm việc khi thực hiện công việc theo yêu cầu của
NSDLĐ hoặc NSDLĐ ủy quyền bằng văn bản trực tiếp quản lý lao động;
trên tuyến đường đi từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc từ nơi làm việc về nơi ở
trong khoảng thời gian và tuyến đường hợp lý.
Tuy nhiên, các trường hợp như thế nào được coi là tai nạn vẫn chưa
có quy định chi tiết, một số trường hợp tai nạn còn chưa có căn cứ để giải
quyết như trường hợp NLĐ bị tai nạn khi tham gia các hoạt động thể thao,
văn hóa, văn nghệ, thăm người ốm…do cơ quan tổ chức hoặc do cơ quan
cử đi tham gia; trường hợp NLĐ “tự ý làm những công việc không phải
công việc chính được giao, đùa nghịch, đánh nhau trong lúc làm việc dẫn
tới tai nạn…dù rằng tai nạn đó xảy ra ở nơi làm việc, trong giờ làm việc”
[12, tr.19]
34
Bên cạnh đó, trong trường hợp NLĐ bị tai nạn trên tuyến đường từ
nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại, để xác định được “khoảng thời gian
và tuyến đường hợp lý” là rất khó khăn, quy định của luật còn chung
chung, chưa hướng dẫn cụ thể. Ví dụ như NLĐ đi làm ở nơi vùng sâu, vùng
xa, những quãng đường vắng không có dân cư và những tai nạn bất ngờ
như cây đổ, sạt lở đất… những trường hợp này không thể lập biên bản hiện
trường, NLĐ không đủ điều kiện để hưởng chế độ theo quy định của pháp
luật hoặc từ việc khó xác định thời gian, địa điểm tai nạn mà NLĐ có thể
lạm dụng để hưởng chế độ TNLĐ. Hay phải kể đến những trường hợp
NLĐ tai nạn giao thông do vi phạm pháp luật giao thông như phóng nhanh,
vượt ẩu, uống rượu bia khi tham gia giao thông, vượt đèn đỏ… khi cần giải
quyết chế độ TNLĐ cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc.
Về điều kiện hưởng chế độ BNN:
Luật BHXH năm 2014 quy định NLĐ tham gia bảo hiểm TNLĐ,
BNN được hưởng chế độ BNN khi bị bệnh thuộc danh mục BNN do Bộ Y
tế và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành khi làm việc trong
môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại. Tuy nhiên trong thực tiễn “có
trường hợp NLĐ đã làm việc ở môi trường, nghề độc hại nhưng sau đó
chuyển sang nơi làm việc có yếu tố bình thường thì mới phát sinh BNN thì
có được hưởng chế độ BNN không? Có tính đến vấn đề bảo lưu điều kiện
lao động có hại cũng như nguyên tắc bảo lưu như thế nào?”[28, tr.14].
Luật BHXH năm 2014 quy định chưa cụ thể và không bao quát được các
trường hợp có thể xảy ra trong thực tiễn, dẫn đến những vướng mắc, khó khăn trong việc áp dụng chế độ TNLĐ, BNN.
Về mức hưởng chế độ TNLĐ, BNN:
Mức hưởng chế độ TNLĐ, BNN được xác định dựa trên tỷ lệ suy
giảm khả năng lao động, mức trợ cấp một lần, hằng tháng được quy định
dựa trên mức lương cơ sở và ngoài khoản trợ cấp này NLĐ còn được
hưởng một khoản trợ cấp tính theo số năm đã đóng BHXH, tức là tính theo
35
tiền lương, tiền công đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc để
điều trị. Khoản trợ cấp này đảm bảo tính hợp lý, công bằng và đảm bảo
nguyên tắc mức hưởng trên cơ sở mức đóng BHXH. Tuy nhiên, quy định
về khoản trợ cấp thêm xác định theo số năm đóng BHXH ngoài trợ cấp
chính được tính dựa trên mức lương cơ sở chưa đảm bảo công bằng giữa
những người cùng hưởng chế độ TNLĐ, BNN, vì tiền lương làm căn cứ
đóng BHXH của mỗi người cao thấp khác nhau mặc dù tỷ lệ suy giảm khả
năng lao động là như nhau.
Về phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình:
Theo quy định của Luật BHXH năm 2014 thì NLĐ bị TNLĐ, BNN
mà bị tổn thương các chức năng hoạt động của cơ thể thì được cấp phương
tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình theo niên hạn căn cứ vào tình
trạng thương tật, bệnh tật. Tuy nhiên, trong thực tiễn, việc cấp phương tiện
trợ giúp sinh hoạt và dụng cụ chỉnh hình như thế nào và cấp trong thời gian
bao lâu cho NLĐ thì các cơ quan BHXH khi thực hiện quy định này cũng
gặp nhiều vướng mắc, khó khăn.
Ngoài ra, Điều 52 của Luật BHXH năm 2014 quy định về nghỉ
dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật, bệnh tật: “NLĐ
sau khi điều trị ổn định thương tật do TNLĐ hoặc bệnh tật do nghề nghiệp
mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức phục hồi sức khỏe từ
05 ngày đến 10 ngày”. Tuy nhiên, đến thời điểm này cũng chưa có hướng
dẫn quy định cụ thể về tỷ lệ thương tật bao nhiêu là được hưởng và số ngày
được nghỉ dưỡng sức tương ứng với tỷ lệ thương tật, bệnh tật.
2.1.2.4. Chế độ hưu trí
Chế độ hưu trí và xây dựng quỹ lương hưu là chính sách cốt lõi của
BHXH. Trong quá trình lao động, NLĐ sẽ có thu nhập để trang trải cuộc
sống, nhưng vẫn muốn có một khoản tiền để dành khi không còn lao động,
NLĐ có thể lo toan cho cuộc sống. Do đó, chính sách của Nhà nước là tạo
điều kiện để NLĐ tham gia BHXH hưu trí, đảm bảo cuộc sống cho NLĐ
36
khi bước ra khỏi quá trình lao động. Nhìn chung, các quy định về chế độ
hưu trí trong Luật BHXH năm 2014 đã tương đối hợp lý về điều kiện nghỉ
hưu, điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH, điều chỉnh lương
hưu... đã tạo được sự đồng tình của đa số NLĐ và giải quyết kịp thời quyền
lợi thụ hưởng cho NLĐ khi về hưu và từng bước giảm dần sự chênh lệch về
mức hưởng của NLĐ giữa các khu vực khác nhau. Cụ thể:
Điều kiện hưởng: Luật BHXH năm 2014 bổ sung điều kiện hưởng
lương hưu đối với lao động đặc thù nghỉ hưu ở độ tuổi thấp, cụ thể 02
trường hợp là lao động làm công việc khai thác than trong hầm lò và lao
động bị nhiễm HIV/AIDS. Đối với đối tượng sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân khi có từ đủ 20 năm đóng
BHXH trở lên mà bị nhiễm HIV/AIDS do tai nạn rủi ro nghề nghiệp cũng
đủ điều kiện hưởng lương hưu, đây là một trong những quy định được bổ
sung nhằm đảm bảo quyền lợi, chính sách đối với lao động trong điều kiện
đặc thù và bị rủi ro nghề nghiệp.
Thời điểm hưởng lương hưu: Điều 59 Luật BHXH 2014 quy định rõ
ràng, tách bạch thời điểm hưởng lương hưu cho từng đối tượng: NLĐ đang
đóng BHXH bắt buộc, người quản lý doanh nghiệp, người quản lý điều
hành hợp tác xã, NLĐ đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và người
đang bảo lưu thời gian đóng BHXH. Quy định này tạo nên tính minh bạch
trong quá trình quan hệ lao động và thỏa thuận hợp đồng lao động, giúp
NLĐ xác định rõ thời điểm hưởng lương hưu để cân đối tài chính hợp lý.
Mức hưởng: Luật BHXH năm 2014 điều chỉnh công thức tính lương
hưu, việc này bảo đảm tốt hơn nguyên tắc đóng – hưởng, bảo đảm tốt hơn
khả năng bền vững của quỹ hưu trí và tử tuất; tỉ lệ lương hưu tính thêm cho
mỗi năm đóng BHXH sau năm thứ 20 của nam và sau năm thứ 15 của nữ là
giống nhau (2%) là công bằng.
BHXH một lần:
37
Luật BHXH năm 2014 quy định bổ sung đối tượng được hưởng
BHXH một lần là lao động nữ hoạt động chuyên trách mà chưa đủ 15 năm
đóng BHXH và không tiếp tục tham gia BHXH tự nguyện; người đang bị
mắc một trong những bệnh nguy hiểm đến tính mạng như: Ung thư, bại
liệt, xơ gan cổ chướng, phong, lao nặng, nhiễm HIV đã chuyển sang giai
đoạn AIDS và những bệnh khác theo quy định của Bộ Y tế. Việc bổ sung
thêm đối tượng được hưởng BHXH một lần là hợp lý, thể hiện tính nhân
văn trong chính sách và đảm bảo tối đa quyền lợi của NLĐ tham gia
BHXH bắt buộc.
Mức hưởng BHXH một lần theo Luật BHXH năm 2014 được điều
chỉnh theo hướng có lợi hơn cho người được hưởng BHXH. Ngoài ra, Luật
BHXH cũng bổ sung chế độ bảo hiểm hưu trí bổ sung. Đây là chính sách
BHXH mang tính chất tự nguyện nhằm mục tiêu bổ sung cho chế độ hưu
trí trong BHXH bắt buộc, có cơ chế tạo lập quỹ từ sự đóng góp của NLĐ
và NSDLĐ dưới hình thức tài khoản tiết kiệm cá nhân, được bảo toàn, tích
lũy thông qua hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật và được Nhà
nước khuyến khích tham gia.
Tuy nhiên, trước sự tăng trưởng của nền kinh tế và nhu cầu sử dụng
nguồn lao động có chất lượng cao, và xu hướng già hóa dân số, chế độ hưu
trí tại Luật BHXH đã bộc lộ một số bất cập sau:
Còn có sự lồng ghép giữa chế độ hưu trí với các chính sách khác
như chính sách lao động, chính sách việc làm (như chính sách đối với lao
động dôi dư, tinh giảm biên chế, đối với người không đủ tuổi tái cử, tái bổ
nhiệm,...) dẫn đến tình trạng nhiều trường hợp giải quyết chế độ hưu trí
trước tuổi quy định khiến cho quỹ BHXH ngày càng có nguy cơ mất cân
đối; đồng thời cũng tạo nên sự không công bằng giữa các đối tượng tham
gia BHXH nói chung.
Việc quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ thấp hơn tuổi nghỉ hưu
của lao động nam chỉ hợp lý đối với một số ngành nghề, lĩnh vực nhất định.
38
Việc quy định tuổi nghỉ hưu của lao động nữ nói chung sớm hơn nam 5
tuổi vừa tạo nên sự bất bình đẳng giữa nam và nữ, hạn chế sự thăng tiến,
đồng thời vừa gây lãng phí nguồn lao động (đặc biệt là những lao động có
sự tích luỹ nhiều kinh nghiệm cần thiết trong công tác nghiên cứu), vừa dẫn
đến quỹ BHXH phải chi trả cho những người có khả năng và nhu cầu làm việc, có thể sau khi nghỉ hưu vẫn làm việc có thu nhập.
Về tuổi nghỉ hưu nói chung quy định như hiện nay cơ bản là hợp lý
trong thời điểm hiện tại, song với thực trạng tuổi thọ dân số đang tăng lên
sẽ là một trong những nguyên nhân làm cho quỹ không có khả năng chi trả, ảnh hưởng đến việc cân đối quỹ hưu trí trong dài hạn.
Việc quy định NLĐ chưa hết tuổi lao động và còn khả năng lao
động có dưới 20 năm đóng BHXH được nhận trợ cấp BHXH một lần là
chưa đảm bảo khuyến khích NLĐ tham gia BHXH tự nguyện và chưa phù
hợp với mục tiêu của BHXH là nhằm đảm bảo cuộc sống cho NLĐ khi hết
tuổi lao động, đảm bảo an sinh xã hội. Mức hưởng bảo hiểm một lần còn thấp so với mức đóng.
Luật BHXH hiện hành chưa quy định về việc tiếp tục hưởng lương
hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng sau khi chấp hành xong hình phạt tù hoặc
người xuất cảnh trở về định cư hợp pháp, mất tích trở về, nên gây khó khăn
trong thực hiện và thiệt hại quyền lợi của NLĐ [9, tr.13].
Mức lương hưu hiện nay còn thấp so với nhu cầu cuộc sống của
người về hưu, tiền lương làm căn cứ đóng BHXH thấp hơn nhiều so với thu
nhập thực tế của NLĐ. Điều đó dẫn đến tình trạng mặc dù tỷ lệ % hưởng
lương hưu khá cao (tối đa 75%) nhưng mức lương hưu của người nghỉ hưu
còn thấp so với nhu cầu của cuộc sống, điều này cũng gây một áp lực lớn
đối với quỹ BHXH trong việc điều chỉnh lương hưu. Điều này thể hiện khá
rõ đối với lao động hưởng lương và đóng BHXH theo chế độ tiền lương do
NSDLĐ quyết định, do quy định tiền lương làm căn cứ đóng BHXH là
mức tiền lương ghi trên hợp đồng lao động nên các doanh nghiệp khi ký
39
hợp đồng lao động với NLĐ thỏa thuận tiền lương ghi trên hợp đồng lao
động là phần cơ bản, đảm bảo cao hơn mức lương tối thiểu vùng theo quy
định, còn lại là các khoản phụ cấp, trợ cấp để trốn đóng BHXH.
Xu hướng giải quyết BHXH một lần (đối với người chưa hết tuổi lao
động) ngày càng tăng, số NLĐ nghỉ việc giải quyết BHXH một lần hàng
năm có chiều hướng gia tăng và chiếm khoảng từ 5-6% tổng số đối tượng
tham gia BHXH, điều này đặt ra câu hỏi cho các cơ quan quản lý nhà nước
và cơ quan BHXH khi nghiên cứu, xây dựng chính sách với mục tiêu từng
bước mở rộng đối tượng tham gia đảm bảo cuộc sống NLĐ khi hết tuổi lao
động, đảm bảo an sinh xã hội. Mặt khác, Luật BHXH năm 2014 giảm bớt
02 đối tượng hưởng BHXH một lần là: NLĐ suy giảm khả năng lao động
từ 61% trở lên mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH; NLĐ sau một năm nghỉ
việc nếu không tiếp tục đóng BHXH và có yêu cầu nhận BHXH một lần
mà chưa đủ 20 năm đóng BHXH. Quy định này với mục đích nhằm khuyến
khích NLĐ bảo lưu thời gian đã đóng BHXH, tích lũy thời gian đóng
BHXH để có thể hưởng lương hưu hằng tháng khi đủ điều kiện về thời gian
tham gia và tuổi nghỉ hưu nhằm đảm bảo cuộc sống khi hết tuổi lao động
thay vì nhận BHXH một lần. Nhưng trên thực tế, NLĐ bị suy giảm khả
năng lao động từ 61% trở lên, tuổi thọ sẽ không bằng người có sức khỏe
bình thường, với điều kiện sức khỏe suy giảm như vậy khó có khả năng
tiếp tục làm việc, việc họ không có khoản thu nhập để trang trải và chuyển
đổi công việc phù hợp với sức khỏe và nếu họ không có nguyện vọng tiếp
tục làm việc, phải bảo lưu thời gian đóng BHXH hoặc tiếp tục đóng BHXH
tự nguyện để được hưởng hưu trí là không hợp lý và không đảm bảo quyền
lợi cho NLĐ thuộc đối tượng này.
2.1.2.5. Chế độ tử tuất
Chế độ tử tuất là chế độ BHXH bù đắp phần thu nhập của NLĐ dùng
để đảm bảo cuộc sống cho thân nhân họ hoặc các chi phí khác phát sinh do
NLĐ đang tham gia quan hệ lao động hoặc đang hưởng BHXH bị chết.
40
Trên thực tế, trong quá trình thực hiện chế độ tử tuất theo quy định
của Luật BHXH bộc lộ những hạn chế, bất cập như:
Về các trường hợp giải quyết chế độ tử tuất theo quy định của Luật
BHXH đã cơ bản bao phủ hết các trường hợp, tuy nhiên riêng đối với
trường hợp người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp TNLĐ, BNN
hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án
treo mà bị chết trong tù thì chưa được quy định nên thân nhân chưa được
hưởng chế độ tử tuất.
Còn có sự chênh lệch lớn giữa trợ cấp tuất một lần và trợ cấp tuất
hàng tháng. Trong một số trường hợp, nhiều NLĐ chết còn ít thân nhân đủ
điều kiện hưởng tuất hàng tháng hoặc thời gian hưởng trợ cấp hàng tháng là
rất ngắn làm cho chênh lệch giữa tổng mức hưởng trợ cấp tuất hàng tháng
và trợ cấp tuất một lần rất lớn. Mặt khác, chưa có quy định cụ thể xác định
“thu nhập” của thân nhân. Điều này dễ tạo nên sự tùy tiện, lạm dụng trong
việc giải quyết, xảy ra các trường hợp thân nhân người chết tìm cách lách
luật, kê khai hoàn cảnh gia đình để được hưởng trợ cấp tuất một lần hoặc
hàng tháng theo hướng có lợi hơn, gây mất cân đối cho quỹ BHXH.
Tương tự như mức hưởng BHXH một lần, mức trợ cấp tuất một lần
đối với người đang đóng BHXH hoặc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH
chết chưa đảm bảo được nguyên tắc đóng - hưởng, gây thiệt thòi cho thân
nhân NLĐ.
2.1.3. Về quỹ BHXH bắt buộc
Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân
sách Nhà nước, hoạt động theo nguyên tắc cân đối thu-chi, được bảo toàn
và tăng trưởng. Quỹ BHXH được hình thành bởi nhiều nguồn khác nhau.
Một trong những nguồn cơ bản hình thành nên quỹ BHXH bắt buộc là từ
phía các bên tham gia BHXH bắt buộc bao gồm NLĐ và NSDLĐ.
41
Về cơ bản, Luật BHXH năm 2014 đã quy định rất chặt chẽ và cụ thể
về mức đóng và phương thức đóng BHXH, đảm bảo ổn định việc chi trả
các chế độ BHXH cho NLĐ.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
(đặc biệt là NSDLĐ) tìm mọi cách để trốn đóng hoặc nợ BHXH gây thất
thu cho quỹ BHXH, còn đối tượng hưởng BHXH thì tìm nhiều cách để lạm
dụng quỹ gây thất thoát quỹ. Bên cạnh đó, chi nhiều nhất là chi cho chế độ
hưu trí. Theo thống kê của BHXH Việt Nam, từ năm 1995 – 2012, hàng
năm số thu vào quỹ hưu trí, tử tuất đều lớn hơn số chi. Tuy nhiên, trong
tương lai, số người nghỉ hưu hưởng từ quỹ BHXH càng nhiều. Dự báo đến
năm 2023, quỹ hưu trí, tử tuất sẽ có số thu bằng số chi. Từ năm 2024 trở đi,
ngoài số thu trong năm, phải trích sử dụng thêm tiền cân đối dương của các
năm trước mới đảm bảo đủ chi. Đến năm 2037, số thu BHXH trong năm và
số tồn tích bắt đầu không đảm bảo khả năng chi trả. Các năm sau đó, số chi
sẽ lớn hơn nhiều so với số thu trong năm. Do đó, quỹ hưu trí, tử tuất tiềm
ẩn nguy cơ mất cân đối trong dài hạn.
Bên cạnh đó, có thể thấy rằng, chính sách về đầu tư, tăng trưởng quỹ
BHXH tuy chặt chẽ, an toàn nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao. Trong bối
cảnh khủng hoảng tài chính như hiện nay, việc đầu tư, cân đối quỹ BHXH
bắt buộc đang trở nên khó khăn hơn bao giờ hết. Hoạt động đầu tư quỹ
BHXH không chỉ đảm bảo sinh lời mà còn đòi hỏi độ an toàn vì cần phải
đảm bảo nghĩa vụ chi trả cho người tham gia khi cần thiết.
2.1.4. Về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc
Hiện nay, tình hình xử lý vi phạm pháp luật và giải quyết tranh
chấp về BHXH bắt buộc còn nhiều khó khăn và hạn chế. Nhiều doanh
nghiệp, đặc biệt là khối các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật BHXH với nhiều hình thức và mức độ
như: Doanh nghiệp ký hợp đồng theo ngày, theo giờ đối với lao động mùa
vụ để không phải đóng BHXH; cố tình kê khai mức lương thấp hơn thực tế
42
hợp đồng lao động để giảm chi phí BHXH phải nộp; Doanh nghiệp “chây
ỳ”, “trốn” đóng BHXH diễn ra phổ biến…
Điều 122 của Luật BHXH năm 2014 đã đưa ra một số quy định mới
trong lĩnh vực xử lý vi phạm pháp luật về BHXH. Theo đó, cơ quan, tổ
chức, cá nhân nếu có hành vi vi phạm quy định của Luật BHXH, tùy theo
tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử lý dưới các hình thức với mức phạt khác
nhau: xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự, nếu gây thiệt hại sẽ phải bồi thường. Theo quy định pháp
luật BHXH hiện hành thì mức phạt tiền cao nhất đối với hành vi vi phạm
về BHXH được quy định tối đa không quá 75.000.000 đồng. Mức phạt tiền
này được đánh giá là khá nhẹ, chưa đủ tính răn đe đối với những doanh
nghiệp trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ. Nhiều doanh nghiệp sẵn
sàng nộp phạt nếu bị phát hiện hành vi vi phạm, bởi vì số tiền phải nộp thấp
hơn nhiều so với số tiền phải đóng BHXH theo đúng quy định. Thậm chí,
có doanh nghiệp còn dùng tiền đóng BHXH gửi ngân hàng hoặc chiếm
dụng vốn để lấy lãi trả tiền phạt hành chính về việc chậm đóng BHXH.
Mặt khác, hiện nay, khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản cần phải có
xác nhận của cơ quan Thuế hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, nhưng lại không
được yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan BHXH về hoàn thành nghĩa vụ
đóng BHXH.
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc tại
huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
Huyện Cẩm Giàng nằm ở phía tây-bắc tỉnh Hải Dương, giáp với các
tỉnh Bắc Ninh và Hưng Yên. Cẩm Giàng là một huyện nhỏ với diện tích
109 km2 chia thành 19 đơn vị hành chính bao gồm 17 xã và 02 thị trấn, dân
số 127.914 người. Trong những năm gần đây, cùng với điều kiện phát triển
chung của đất nước, nền kinh tế huyện Cẩm Giàng có sự tăng trưởng vượt
bậc. Trong đó, lĩnh vực thương mại, công nghiệp dịch vụ được khuyến
khích đầu tư phát triển. Hiện tại, trên địa bàn huyện có 02 cụm công
43
nghiệp, 05 khu công nghiệp lớn là Tân Trường, Phúc Điền, Lai Cách, Đại
An, Cẩm Điền – Lương Điền và 02 cụm công nghiệp làng nghề thu hút trên
20.000 lao động trên khắp cả nước. Việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong những năm qua đã làm cho nền kinh tế huyện Cẩm Giàng
tăng trưởng với nhịp độ cao và phát triển tương đối toàn diện, đã giải quyết
việc làm cho hàng vạn lao động trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh. Ngoài ra,
huyện Cẩm Giàng nằm gần với Trung tâm thành phố Hải Dương, có hệ
thống đường giao thông trọng điểm đi qua với 3 trục: quốc lộ 5A, đường
sắt Hà Nội-Hải Phòng, quốc lộ 38 nối đường 5A với đường 5B, đường 194
phân nhánh tạo nên những trục đường giao thông lớn, thuận lợi cho lưu
thông luân chuyển hàng hóa.
BHXH tỉnh Hải Hưng được thành lập và bắt đầu hoạt động từ ngày
15/06/1995 theo quyết định số 20/QĐ-TCCB của BHXH Việt Nam. Cùng
với việc thành lập BHXH tỉnh Hải Hưng, BHXH huyện Cẩm Bình cũng đã
được thành lập, có trụ sở tại Thị trấn Lai Cách, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải
Hưng (Nay thuộc huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Ngày 01/01/1997
theo nghị quyết về việc chia và điều chỉnh địa giới hành chính của một số
tỉnh trong đó có tỉnh Hải Hưng, tỉnh Hải Hưng được tách thành tỉnh Hải
Dương và tỉnh Hưng Yên. Theo ý kiến của thủ tướng Chính phủ tại công
văn số 4045/CCHC ngày 13/08/1997 của văn phòng Chính phủ về việc
chia tách BHXH ở các tỉnh mới tách, tháng 10/1997 BHXH tỉnh Hải
Dương được thành lập theo Quyết định số 1599/QĐ-TCCB ngày
16/09/1997 của BHXH Việt Nam trên cơ sở tách BHXH tỉnh Hải Hưng
thành BHXH tỉnh Hải Dương và BHXH tỉnh Hưng Yên. Cùng với phân
chia địa giới tỉnh, địa giới của huyện Cẩm Bình cũng được chia tách thành
huyện Cẩm Giàng và huyện Bình Giang.
BHXH huyện Cẩm Giàng được thành lập và đi vào hoạt động theo
quyết định số 375/BHXH-QĐ/TCCB ngày 01/03/1997 của tổng giám đốc
BHXH Việt Nam trên cơ sở chia tách BHXH huyện Cẩm Bình đến nay đã
44
được hơn 20 năm. Nhận được sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của BHXH
tỉnh, của Huyện ủy, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân huyện Cẩm
Giàng và sự phối hợp của các ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức chính trị
xã hội trong huyện, BHXH huyện Cẩm Giàng đều hoàn thành kế hoạch
được giao, đảm bảo năm sau cao hơn năm trước. Bám sát tình hình thực tế
của địa phương và nhiệm vụ được giao, BHXH Cẩm Giàng luôn chủ động
xây dựng kế hoạch, tham mưu cho BHXH tỉnh, Huyện ủy, Hội đồng nhân
dân, Uỷ ban nhân dân huyện, phối hợp tốt với các cơ quan, đơn vị trên địa
bàn, thực hiện triệt để công tác cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục ổn định
công tác tổ chức cán bộ, đoàn kết sáng tạo và chủ động khắc phục mọi khó
khăn, đảm bảo thống nhất, thông suốt, đồng bộ, đạt hiệu quả, góp phần
quan trọng vào việc ổn định đời sống NLĐ và ổn định chính trị, xã hội trên
địa bàn.
2.2.1. Thành tựu đạt được
2.2.1.1. Mở rộng, phát triển đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
Cẩm Giàng là một trong những huyện đứng đầu tỉnh về số lượng khu
công nghiệp và số lượng doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư sản xuất kinh
doanh, do vậy đối tượng và đơn vị tham gia BHXH không ngừng tăng theo
các năm. BHXH huyện Cẩm Giàng đã rất tích cực trong việc phát triển đối
tượng tham gia BHXH và coi đây là nhiệm vụ trọng tâm để phấn đấu góp
phần đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn huyện. Theo đó, một số hình thức
tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật về BHXH đã được tổ chức,
bước đầu mang lại hiệu quả tích cực, như đăng thông tin lên các phương
tiện thông tin đại chúng, tổ chức phát hành miễn phí các loại ấn phẩm tuyên
truyền, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ làm BHXH của doanh
nghiệp, tổ chức các hội nghị đối thoại trực tiếp với NLĐ và NSDLĐ, qua
đó đã giúp cho NLĐ, NSDLĐ có được thông tin cập nhật về chế độ chính
sách BHXH, dễ dàng trong giao dịch, tiết kiệm thời gian và chi phí đi lại.
Nhờ vậy, đối tượng tham gia BHXH ngày càng được mở rộng với tất cả
45
các thành phần kinh tế, NLĐ thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia ngày
càng nhiều, nhất là ở các doanh nghiệp khu vực ngoài quốc doanh. Điều đó
góp phần quan trọng vào tăng trưởng quỹ BHXH với số tiền thu của
BHXH huyện Cẩm Giàng hằng năm tăng cao, đều đạt và vượt chỉ tiêu kế
hoạch được giao.
Theo thống kê của BHXH huyện Cẩm Giàng, các đơn vị sử dụng lao
động trên địa bàn huyện Cẩm Giàng có biến động về số lượng đơn vị tham
gia BHXH bắt buộc giai đoạn 2014-2018 như sau:
Bảng 2.1. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng
lao động trên địa bàn huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018
Chỉ tiêu
Đơn vị sử dụng lao động đã tham gia
Tỷ lệ tham gia (%)
Đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia
338
325
96.15
2014
362
349
96.41
2015
397
386
97.23
2016
415
405
97.59
2017
440
428
97.73
2018
96.98
1952
1893
Tổng
(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)
Nhìn vào bảng số liệu 2.1 trên, ta có thể thấy rõ ràng tình hình tham
gia BHXH bắt buộc của đơn vị sử dụng lao động tại BHXH huyện Cẩm
Giàng giai đoạn 2014-2018 tăng dần theo các năm. Cụ thể:
Năm 2014, số lượng đơn vị sử dụng lao động thuộc diện tham gia là
338 đơn vị, số đơn vị đã tham gia là 325 đơn vị, đạt tỷ lệ 96,15%. Đến năm
2015 tăng lên 362 đơn vị, tăng thêm 24 đơn vị tương ứng với khoảng 1,07
lần và số đơn vị đã tham gia cũng tăng lên là 349 đơn vị, đạt 96,41% tỷ lệ
tham gia.
46
Năm 2018, số lượng đơn vị đã tham gia BHXH bắt buộc là 428 đơn vị
trong tổng số 440 đơn vị thuộc diện tham gia, tăng gấp 1,32 lần so với năm
2014, chiếm tỷ lệ tham gia BHXH năm 2018 đạt 97,73%.
Nguyên nhân của sự gia tăng số lượng đơn vị sử dụng lao động tham
gia BHXH bắt buộc qua các năm là do:
Nền kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng đang dần
được phục hồi vì vậy hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
cũng đi vào ổn định hơn.
Sự gia tăng số lượng đơn vị sử dụng lao động tham gia BHXH chủ
yếu là đến từ hai khối ngành là Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và Doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, do trong giai đoạn này, Việt Nam gia
nhập cộng đồng ASEAN và liên tiếp kí kết được các hiệp định về thương
mại quốc tế như FTA, WTO, TPP… các hiệp định thương mại quốc tế này
đều mang chung một mục tiêu là mở rộng thị trường, thúc đẩy nền kinh tế,
tạo điều kiện giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực, thu hút đông đảo
các nhà đầu tư từ nước ngoài vào Việt Nam…
Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ tại BHXH huyện Cẩm
Giàng giai đoạn 2014-2018 được thống kê qua bảng sau:
Bảng 2.2. Tình hình tham gia BHXH bắt buộc của NLĐ trên địa
bàn huyện Cẩm Giàng từ năm 2014-2018
Chỉ tiêu
Số NLĐ thuộc diện tham gia (người)
Số NLĐ đã tham gia (người)
Tỷ lệ tham gia (%)
28.904
26.173
90.55
2014
30.52
27.446
89.93
2015
33.751
32.254
95.56
2016
35.894
34.648
96.52
2017
38.458
37.316
97.03
2018
94.22
167.527
157.837
Tổng
(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)
47
Nhìn vào bảng số liệu 2.2 trên, ta có thể nhận thấy số lượng lao động
tham gia BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-
2018 tăng đều qua các năm, cụ thể:
Năm 2014, số lượng lao động thuộc diện tham gia BHXH bắt buộc là
28.904 người và số lao động đã tham gia là 26.173 người, chiếm 90,55% tỷ
lệ tham gia.
Năm 2015, số lao động thuộc diện tham gia là 30.520 người, số lao
động đã tham gia là 27.446 người, chiếm tỷ lệ đã tham gia là 89,93%. Tăng
khoảng 1,05 lần so với năm trước.
Năm 2018, số lao động thuộc diện tham gia là 38.458 người, số lao
động đã tham gia là 37.316 người, chiếm tỷ lệ đã tham gia là 97.03%. Tăng
khoảng 1,43 lần so với năm 2014.
Những số liệu trên đã cho thấy công tác khai thác, phát triển, mở rộng
đối tượng của BHXH huyện Cẩm Giàng thực hiện khá hiệu quả.
2.2.1.2. Về công tác thu BHXH
Về đóng góp quỹ BHXH bắt buộc, xác định công tác thu là nhiệm vụ
trọng tâm, xuyên suốt trong quá trình tổ chức, triển khai nhiệm vụ của
ngành, BHXH tỉnh Hải Dương đã giao dự toán chỉ tiêu kế hoạch thu cho
BHXH các huyện sát với thực tế. Trong đó, BHXH huyện Cẩm Giàng luôn
thực hiện tốt công tác thu BHXH, luôn đảm bảo tiến độ và hoàn thành vượt
mức kế hoạch BHXH tỉnh giao, góp phần đảm bảo quyền lợi cho hàng
ngàn NLĐ trên địa bàn huyện. Phần lớn các cơ quan, đơn vị tự giác chấp
hành quy định đối chiếu và thu nộp tiền BHXH ngay sau kỳ trả lương và
thanh toán, giải quyết kịp thời các chế độ cho NLĐ. Điều này được thể hiện
cụ thể qua bảng số liệu thống kê sau:
48
Năm
2014
2015
2016
2017
2018
Loại hình
Số phải thu(trđ)
Số đã thu(trđ)
Số phải thu(trđ)
Số đã thu(trđ)
Số phải thu(trđ)
Số đã thu(trđ)
Số phải thu(trđ)
Số đã thu(trđ)
Số phải thu(trđ)
Số đã thu(trđ)
Tỷ lệ hoàn thành(%)
Tỷ lệ hoàn thành(%)
Tỷ lệ hoàn thành(%)
Tỷ lệ hoàn thành(%)
Tỷ lệ hoàn thành(%)
Khối
doanh
nghiệp
nhà
4738
4707
99,35
5223
5009
95,90
5970
5901
98,84
6150
5936
96,52
6270
5960
95,06
nươc
Khối
doanh
nghiệp có vốn
189327
188598
99,61
211550
210055
99,29
226811
219190
96,94
231578
233705
100,92
235487
235534
100,02
đầu
tư nước
ngoài
Khối
doanh
nghiệp ngoài
18984
13287
69,99
20800
15463
74,34
22298
20672
92,71
23568
22046
93,54
24875
23435
94,21
quốc doanh
Khối học sinh,
28430
28532
100,36
40747
40914
100,41
48257
48522
100,55
50487
50815
100,65
52453
52929
100,87
Đảng, Đoàn
Khối
ngoài
4796
4849
101,1
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0
công lập
Khối hợp tác
1156
1176
101,73
1245
1264
101,53
1300
1300
100
1421
1424
100,21
1542
1536
100,42
xã
Khối phường
3713
3798
102,3
4158
4848
116,6
4578
4667
101,95
4865
5626
115,65
4985
5259
105,5
xã, thị trấn,
Khối khác
27
0
0
41
13
31,71
415
400
96.39
465
478
100,80
475
484
101,89
Tổng
251171
244947
97,52
283764
277566
97,82
309629
300652
97,11
318534
320030
100,47
326087
325137
99,71
Bảng 2.3. Tình hình thu nộp BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm Giàng giai đoạn 2014-2018.
(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)
49
Nhìn vào bảng số liệu 2.3 trên ta có thể thấy công tác thu luôn đạt được
những kết quả thu tích cực, hoàn thành chỉ tiêu mà tỉnh giao cho, thậm chí
còn có khối ngành vượt mức chỉ tiêu. Cụ thể:
Khối doanh nghiệp nhà nước: Năm 2014, số phải thu của khối ngành này
là 4.738trđ và thực tế đã thu được là 4.707trđ, đạt 99,35% tỷ lệ hoàn thành.
Năm 2015, số phải thu tăng lên là 5.223trđ, số thu thực tế đạt 5.009trđ, tỷ lệ
hoàn thành hạ xuống còn 95,90%. Năm 2016, số phải thu của khối ngành này
là 5.970trđ và thực tế đã thu được 5.901trđ, đạt 98,84% tỷ lệ hoàn thành. Năm
2017 số phải thu là 6.150trđ và số thu thực tế là 5.936trđ, đạt 96,52% tỷ lệ
hoàn thành. Năm 2018, tỷ lệ hoàn thành là 95,06% khi số phải thu là 6.270trđ
và số thu thực tế là 5.960trđ.
Nguyên nhân của kết quả thu được cao như vậy là do thực tế khối ngành
này có số lượng đơn vị cũng như số lượng lao động ít, lương được tính theo
hệ số lương, cấp bậc lương nhà nước nên hầu như không có tình trạng nợ
đọng.
Khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: Năm 2014, số phải thu
của khối ngành này là 189.327trđ, số thu thực tế đạt 188.598trđ, chiếm
99,61% tỷ lệ hoàn thành. Năm 2015, số tiền phải thu tăng lên là 211.550trđ,
đạt 99,29% tương ứng với số thu được thực tế là 210.055trđ. Năm 2016, tỷ lệ
hoàn thành của khối ngành này đạt 96,94% với số thu thực tế được là
219.190trđ so với số phải thu là 226.811trđ. Năm 2017, số phải thu là
231.578trđ và số thu thực tế được là 233.705trđ, đạt vượt lên 100,92% tỷ lệ
hoàn thành. Năm 2018, tỷ lệ hoàn thành đạt 100,02% với số tiền thu được là
235,534trđ so với số phải thu là 235,487trđ. Tỷ lệ hoàn thành ở khối ngành
này gần như là tuyệt đối.
Nguyên nhân là do trong những năm qua, nền kinh tế đang ấm dần lên,
khối ngành này đã bắt đầu phát triển dần trở lại. Kết hợp với điều kiện kinh tế
50
cũng như cơ sở giao thông của huyện rất thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư
nước ngoài. Vì vậy, khi đó doanh thu của các đơn vị được cải thiện thì việc
các doanh nghiệp nợ đóng BHXH ở khối ngành này cũng được cải thiện theo.
Khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Đây là một khối ngành có tỷ lệ
thu thấp nhất trong tổng các khối ngành trên địa bàn huyện. Năm 2014, số thu
được chỉ đạt 13.287trđ trên tổng 18.984trđ phải thu, chiếm 69,99% tỷ lệ hoàn
thành. Năm 2015, thu được 15.463trđ trên 20.800trđ phải thu, tỷ lệ hoàn
thành 74,34%. Năm 2016, số thu được là 20.672trđ so với số phải thu là
22.298trđ, tỷ lệ hoàn thành đã tăng mạnh lên là 92,71%. Năm 2017, số phải
thu là 23.568trđ nhưng số thu được là 22.046trđ, đạt 93,54% tỷ lệ hoàn thành.
Năm 2018, tỷ lệ thu tiếp tục tăng lên đạt 94,21% khi số thu được là 23.435trđ
so với số phải thu là 24.875trđ.
Nguyên nhân là do ở khối ngành này, đa phần là các doanh nghiệp vừa
và nhỏ, sử dụng ít lao động, doanh thu thấp…dẫn đến tình trạng nợ đọng
nhiều. Tuy nhiên, với sự nỗ lực hỗ trợ từ phía các cấp về vốn, về điều kiện sản
xuất kinh doanh, về công tác tuyên truyền của các cán bộ BHXH đã đến động
viên các đơn vị trong khối ngành này, vì vậy mà tỷ lệ hoàn thành kế hoạch thu
của khối ngành này đã được tăng lên đáng kể trong thời gian gần đây.
Khối ngành học sinh, Đảng, Đoàn; khối hợp tác xã hay khối xã, phường,
thị trấn trong kế hoạch thu luôn đạt tỷ lệ hoàn thành trên 100%, vượt mức kế
hoạch đề ra. Nguyên nhân là do khối ngành này có ít số lượng đơn vị và ít lao
động, hầu hết được đảm bảo về mức thu nhập nên không có tình trạng thiếu
nợ BHXH.
Nhìn chung, kết quả trong công tác thu BHXH, bảo hiểm y tế, bảo hiểm
tự nguyện tại BHXH huyện Cẩm Giàng trong 5 năm từ năm 2014-2018 luôn
đạt được kết quả cao. Đây là kết quả của việc chỉ đạo, hướng dẫn sát sao của
ban Giám đốc BHXH huyện Cẩm Giàng. Dựa vào kế hoạch thu hàng năm do
51
BHXH tỉnh giao, sự phát triển đối tượng tham gia trên địa bàn huyện, Giám
đốc BHXH Cẩm Giàng đã thành lập bộ phận thu bao gồm 07 đồng chí. Mỗi
đồng chí chịu trách thu một khối, ngành khác nhau. Việc này phần nào đã
chia sẻ khối lượng công việc cho tất cả các cán bộ trong bộ phận thu, tránh
tình trạng né tránh trách nhiệm, chồng chéo công việc lẫn nhau.
2.2.1.3. Về tình hình chi trả các chế độ BHXH
Thực hiện các quy định của Luật BHXH và các văn bản hướng dẫn triển
khai thực hiện Luật, cùng với hệ thống văn bản hướng dẫn nghiệp vụ, trong
đó quy định cụ thể trình tự, thủ tục hồ sơ giải quyết chế độ ốm đau, thai sản
của BHXH Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho NSDLĐ, NLĐ và cơ
quan BHXH thành phố Hà Nội trong việc giải quyết chế độ, đảm bảo một
cách đầy đủ, kịp thời quyền thụ hưởng của NLĐ. Cụ thể, tình hình chi trả các
chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018 như sau:
Bảng 2.4. Tình hình chi trả các chế độ BHXH giai đoạn 2014-2018
Đơn vị: triệu đồng
Năm
2014
2015
2016
2017
2018
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Số tiền
Chế độ
Số người
Số người
Số người
Số người
Số người
Ốm đau -
12,413
64,871
13,484
68,157
15,784
74,258
17,448
76,415
18,148
80,466
thai sản
Dưỡng
974
1,684
1,148
1,894
1,268
2,251
1,451
2,487
1,534
3,252
sức
TNLĐ -
783
3,218
987
3,487
1,105
3,872
1,289
4,168
1,341
5,481
BNN
Hưu trí –
15,426
305,748
17,541 315,784 18,756 357,405 20,487 387,415 24,548 405,418
Tử tuất
29,596
375,521
33,160 389,322 36,913 437,786 40,675 470,485 45,571 494,617
TỔNG
(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)
52
Qua bảng số liệu trên có thể thấy, số người hưởng và số tiền chi trả cho
các chế độ BHXH của huyện Cẩm Giàng tăng dần qua các năm. Đến năm
2018, tổng số tiền mà BHXH huyện Cẩm Giàng chi cho các chế độ là 494.617
triệu đồng (tăng 1.05 lần so với năm 2017 và 1.32 lần so với năm 2014). Số
tiền chi lớn nhất vẫn thuộc về chi cho hưu trí và tử tuất với tổng số tiền chi là
405.418 triệu đồng (chiếm tỷ lệ 81,97% tổng chi các chế độ).
2.2.1.4. Công tác xét duyệt hồ sơ, giải quyết chính sách, chế độ đối với NLĐ
Trong năm 2018, BHXH huyện Cẩm Giàng tiếp nhận 1.548 hồ sơ ốm
đau, thai sản, dưỡng sức và phục hồi sức khỏe, số hồ sơ được giải quyết cho
các chế độ này là 1.439 hồ sơ đạt tỷ lệ 93%. Đối với chế độ TNLĐ và BNN,
BHXH huyện Cẩm Giàng tiếp nhận 348 hồ sơ thì có 278 hồ sơ được giải
quyết đạt tỷ lệ 80%. Còn với chế độ hưu trí – tử tuất, BHXH huyện Cẩm
Giàng tiếp nhận 8.487 hồ sơ thì có 8.232 hồ sơ được giải quyết đạt tỷ lệ 97%.
Các hồ sơ chưa được giải quyết là do hồ sơ còn thiếu sót và chưa hợp lệ.
Để đạt được kết quả đó là do BHXH huyện Cẩm Giàng đã áp dụng công
tác cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin vào chi trả
BHXH. Việc tiếp nhận và giải quyết các thủ tục hành chính theo cơ chế một
cửa đã mang lại sự thuận tiện cho người dân, đảm bảo công khai, minh bạch,
ngăn chặn tình trạng sách nhiễu của cán bộ viên chức trong thực thi công vụ.
Từ năm 2016, BHXH triển khai, áp dụng hệ thống tiếp nhận hồ sơ một cửa
điện tử, hầu hết các thủ tục được thực hiện tiếp nhận và trả kết quả thông qua
hệ thống phần mềm “Một cửa điện tử”; hồ sơ được luân chuyển giữa các
phòng nghiệp vụ theo một quy trình khép kín, theo dõi được đường đi của
từng hồ sơ, tiến độ, trách nhiệm giải quyết hồ sơ của từng cán bộ.
Phần mềm TST (phần mềm ứng dụng trong lĩnh vực quản lý thu BHXH,
cấp sổ BHXH và cấp thẻ BHYT) đã được nâng cấp, sử dụng một cách phổ
53
biến, nhanh chóng, nhờ đó đã giúp cơ quan BHXH huyện Cẩm Giàng thuận
tiện trong việc đối chiếu, quyết toán với các đơn vị tham gia BHXH.
2.2.1.5. Hạn chế tối đa tình trạng trốn đóng, nợ đọng BHXH nhờ công tác
thanh, kiểm tra
Trong nội bộ ngành, từ Đảng ủy, Giám đốc cho đến ban chấp hành Công
đoàn đều có văn bản chỉ đạo và tạo điều kiện, huy động toàn lực phục vụ công
tác thu chủ động triển khai đôn đốc thu, thường xuyên rà soát, phân loại các
đơn vị nợ, nợ đọng để đôn đốc, đồng thời, lãnh đạo BHXH huyện trực tiếp
đến làm việc với các đơn vị, nhất là những đơn vị có số nợ lớn, nợ đọng kéo
dài. Bên cạnh đó, BHXH huyện Cẩm Giàng cũng đã có sự giám sát, phối hợp
giữa các ban ngành liên quan trên địa bàn huyện trong quản lý các đơn vị,
DN, tổ chức sử dụng lao động và NLĐ, hạn chế phần nào tình trạng trốn
đóng, nợ đọng BHXH làm cho hoạt động thu dần đi vào ổn định và phát triển.
2.2.2. Hạn chế, nguyên nhân của hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được như trên thì thực tiễn thi hành pháp
luật BHXH bắt buộc ở huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương còn tồn tại một số
hạn chế sau:
Một là, hạn chế về đối tượng tham gia:
Trên thực tế số lao động đã tham gia so với số lao động thuộc diện tham
gia BHXH bắt buộc vẫn còn chiếm tỷ lệ thấp. Theo số liệu tính đến
31/12/2018 tỷ lệ số lao động có tham gia BHXH bắt buộc mới chiếm khoảng
94.22% tổng lao động thuộc diện phải tham gia BHXH bắt buộc, hầu hết tập
trung ở các cơ sở kinh tế tư nhân, các đơn vị ngoài công lập và các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh. Tình trạng này xảy ra chủ yếu do một số nguyên
nhân sau đây:
NLĐ làm việc ở khu vực này có tư tưởng không gắn bó lâu dài nên cũng
không muốn tham gia đóng BHXH.
54
Mặt khác, một số doanh nghiệp chỉ ký hợp đồng lao động tượng trưng
đối với lao động quản lý chủ chốt của doanh nghiệp, khai giảm số lao động
hoặc hoàn toàn không ký hợp đồng lao động với NLĐ.
Hai là, hạn chế về chi trả chế độ BHXH
Theo bảng số liệu 2.3 có thể thấy số tiền thu BHXH được tăng lên qua
các năm từ năm 2014-2018, năm sau luôn luôn cao hơn năm trước. Qua Báo
cáo tình hình thực hiện công tác bảo hiểm từ năm 2014 đến năm 2018 của
BHXH huyện Cẩm Giàng đều cho thấy số thu luôn vượt chỉ tiêu kế hoạch
hằng năm từ 0,5-1,2%. Tuy nhiên, nhìn vào bảng số liệu 2.5 thì thể hiện một
thực tế đó là mặc dù số thu có tăng và vượt kế hoạch nhưng số tiền chi trả
luôn cao hơn số tiền thu được, bội chi năm 2018 cao hơn 1,52 lần so với bội
thu. Như vậy, khả năng chi trả của quỹ BHXH huyện Cẩm Giàng không tự
đáp ứng được và ngân sách Nhà nước luôn phải hỗ trợ để đảm bảo cân bằng
thu – chi quỹ BHXH. Đây cũng là hạn chế trong công tác quản lý thu – chi
quỹ BHXH nói chung và quỹ BHXH bắt buộc nói riêng .
Ba là, tình trạng chậm đóng, nợ đọng bảo hiểm xã hội
Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được ở trên vẫn còn tồn tại một
số doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn huyện kém tuân
thủ quy định trong việc đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của NLĐ. Tình
trạng trốn đóng, nợ đọng, né tránh trách nhiệm đối với NLĐ của chủ sử dụng
lao động vẫn còn tồn tại được thống kê qua bảng số liệu sau:
Bảng 2.5. Tình hình nợ đọng BHXH bắt buộc tại BHXH huyện Cẩm
Giàng giai đoạn 2014-2018
Chỉ tiêu Số phải thu (trđ) Số nợ đọng (trđ) Tỷ lệ nợ đọng (%)
311.408
4.786
1.54
2014
55
5.885
354.656
0.02
2015
2.961
387.611
0.76
2016
2.127
415.487
0.51
2017
2.082
447.742
0.47
2018
0.93
Tổng
1.916.904
17.841
(Nguồn: BHXH huyện Cẩm Giàng)
Nhìn vào bảng số liệu 2.5 trên ta có thể thấy tình trạng nợ đọng thay đổi
tăng, giảm không đáng kể qua các năm. Năm nào cũng vẫn còn tình trạng nợ
đọng của các doanh nghiệp. Cụ thể:
Năm 2014, số tiền nợ đọng là 4.786trđ chiếm 1,54% trong tổng số
311.408trđ số tiền phải thu.
Năm 2015, tỷ lệ nợ đọng là 0,02% tương ứng với số tiền 5.885trđ so với
354.656trđ phải thu.
Năm 2016, số tiền nợ đọng giảm còn 2.902trđ tương ứng với tỷ lệ 0,76%
so với 387.611trđ phải thu.
Năm 2017, số tiền nợ đọng tiếp tục giảm còn 2.127trđ so với 415.487trđ
phải thu (chiếm tỷ lệ 0.51%)
Năm 2018, tỷ lệ nợ đọng còn 0,47% tương ứng với số tiền nợ đọng là
2.082trđ so với 447.742trđ phải thu.
Thông qua số liệu trên cho thấy tình trạng chậm đóng, nợ đọng BHXH là
do những nguyên nhân sau::
Nguyên nhân trực tiếp: về phía NLĐ và NSDLĐ
Về phía NLĐ, sự thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc chưa quan tâm đúng
mức đến BHXH đã vô tình tiếp tay cho hành động sai trái của chủ sử dụng lao
động, đồng thời đem lại thiệt hại cho chính bản thân và gia đình mình. Nhận
thức về pháp luật lao động của NLĐ vẫn còn hạn chế nên việc không tự bảo
56
vệ quyền lợi của mình trong việc đóng BHXH. Một số người không muốn
tham gia tổ chức công đoàn vì sợ thu nhập giảm hoặc NLĐ không dám đấu
tranh khi quyền và lợi ích của mình bị xâm hại.
Về phía NSDLĐ, tìm cách đối phó, trốn tránh hoặc chiếm dụng tiền
đóng BHXH của NLĐ, tiêu biểu là các doanh nghiệp dù lảng tránh trách
nhiệm đóng BHXH nhưng vẫn bớt 10.5% tiền lương của NLĐ vốn dĩ được sử
dụng để đóng bảo hiểm.
Nguyên nhân gián tiếp:
Công tác quản lý nhà nước về BHXH còn nhiều bất cập cũng là một
trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng nợ đọng. Hiện tại, một
số nội dung của Luật BHXH còn chưa được thực hiện tốt. Cơ quan quản lý
nhà nước về BHXH trên địa bàn huyện còn lúng túng khi phối hợp với một số
cơ quan khác như Liên đoàn lao động, Thanh tra lao động trong việc thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm cũng như xây dựng các chế tài có tính pháp lý cao
buộc các đơn vị sử dụng lao động tuân thủ pháp luật lao động và BHXH. Vì
vậy, rất khó khăn trong việc kiểm tra thu đúng, thu đủ cũng như thực hiện
quyền lợi về BHXH cho NLĐ.
Khi các đơn vị sản xuất kinh doanh kém hiệu quả cũng dẫn đến tình
trạng nợ đóng BHXH. Thực trạng này xảy ra phổ biến ở khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh. Những đơn vị này thường có quy mô nhỏ, trình độ quản lý
còn yếu, không ổn định. Nhiều doanh nghiệp đã đăng ký thành lập nhưng
không có trụ sở giao dịch; hoặc thành lập xong không hoạt động hay hoạt
động thời gian ngắn rồi giải thể. Đặc biệt có một số trường hợp đơn vị đã nộp
hoặc đã đối chiếu theo dõi công nợ tiền BHXH nay giải thể, phá sản, dừng
hoạt động không còn chủ sở hữu hoặc chưa có biện pháp để giải quyết số nợ
này. Do đó mà tình trạng trốn tránh, nợ đọng tiền BHXH ở các doanh nghiệp
vẫn diễn ra phổ biến.
57
Bốn là, về công tác giải quyết chế độ BHXH
Do khối lượng hồ sơ giải quyết chế độ BHXH hằng tháng tương đối lớn
nên không tránh khỏi việc giải quyết và trả kết quả hồ sơ trong một số trường
hợp chưa kịp thời khiến cho người thụ hưởng phải đi lại nhiều lần, chưa giải
quyết được tình trạng các đơn vị nợ đọng kéo dài nên việc giải quyết các chế
độ BHXH cho NLĐ không thực hiện được làm ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích chính đáng của NLĐ.
Đối với công tác chi trả trợ cấp thất nghiệp, tình trạng chi trả, hưởng
trùng nhiều loại trợ cấp xảy ra không ít (NLĐ vừa nộp hồ sơ hưởng trợ cấp
thất nghiệp đồng thời nộp hồ sơ đề nghị giải quyết chế độ hưu trí, hoặc tìm
được việc làm mới có tham gia đóng BHXH nhưng vẫn không báo giảm thất
nghiệp…) dẫn đến việc giải quyết chế độ mất thêm nhiều thời gian, trong khi
thời hạn giải quyết hồ sơ ngắn.
Năm là, về công tác xử lý vi phạm pháp luật BHXH
Về công tác xử lý vi phạm pháp luật BHXH, còn một số đơn vị thực hiện
chưa nghiêm túc Luật BHXH như: tham gia không đúng với số lao động thực
tế đang sử dụng; không thực hiện đóng BHXH hàng tháng theo quy định; cá
biệt có đơn vị cố tình chiếm dụng tiền lương của NLĐ…
Đội ngũ cán bộ công chức làm công tác kiểm tra còn thiếu nên tổ chức
các đoàn kiểm tra nội bộ và kiểm tra các đơn vị sử dụng lao động còn ít.
Ngoài ra, việc tổ chức các đoàn thanh tra liên ngành cũng chưa được thực
hiện thường xuyên. Do yêu cầu các hồ sơ khởi kiện phải do người đứng đầu
đơn vị ký, vì vậy, đơn vị nợ thường trốn tránh giao cho cấp phó của người
đứng đầu hoặc cấp phòng ký.
58
Tiểu kết chương
Luật BHXH được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua ngày 20/11/2014 đã cơ bản đáp ứng được mục tiêu đổi mới căn
bản, toàn diện pháp luật về BHXH nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển hệ thống
an sinh xã hội phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trên thực tiễn thi hành còn gặp một
số vướng mắc nhất định như nhận thức của NSDLĐ, NLĐ còn hạn chế, xảy
ra tình trạng trốn tránh trách nhiệm đóng BHXH; việc giải quyết chế độ còn
nhiều vướng mắc; tình trạng nợ đọng BHXH chưa được khắc phục triệt để,
ảnh hưởng đến việc thực hiện chế độ, chính sách BHXH và sự an toàn của hệ
thống quỹ BHXH. Vì vậy bên cạnh những điểm phù hợp tương thích với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, pháp luật về chế độ BHXH bắt
buộc trong thời gian từ khi Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành đến
nay đang bộc lộ một số điểm hạn chế, bất cập cần được nghiên cứu để bổ
sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới.
59
Chương 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TỪ
THỰC TIỄN HUYỆN CẨM GIÀNG, TỈNH HẢI DƯƠNG
3.1. Những yêu cầu đặt ra cho việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Ngày 20/11/2014 Quốc hội đã thông qua Luật BHXH số
58/2014/QH13 có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2016 (một số điểm có hiệu
lực từ 1/1/2018). Luật BHXH năm 2014 với rất nhiều điểm mới theo hướng
có lợi cho NLĐ, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thay đổi tổng thể,
toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách BHXH, pháp
điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách BHXH đảm bảo
an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Trong đó, các quy định về BHXH bắt
buộc do đã có quá trình triển khai thực hiện và phát huy tác dụng tích cực
trong việc bảo vệ NLĐ nên được Luật BHXH quy định cụ thể hơn và có
những thay đổi, bổ sung phù hợp với yêu cầu của thực tiễn khách quan. Ngoài
ra, với việc Chính phủ và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội kịp thời ban
hành hai văn bản hướng dẫn là Nghị định 115/2015/NĐ-CP và Thông tư
59/2015/TT-BLĐTBXH về BHXH bắt buộc, vấn đề thực hiện BHXH bắt
buộc đối với NLĐ đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để triển khai trong thực tiễn.
Tuy nhiên, sau một thời gian triển khai và thi hành Luật BHXH năm 2014,
Luật BHXH năm 2014 đang bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: diện bao phủ
BHXH còn thấp (30,2% lực lượng lao động tham gia BHXH so với mục tiêu
mà Nghị quyết 21 do Bộ Chính trị ban hành ngày 22/11/2012 về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác BHXH, bảo hiểm y tế giai đoạn 2012-2020
đề ra là phấn đấu đến năm 2020, có khoảng 50% lực lượng lao động tham gia
BHXH còn khá xa[5]); tình trạng nợ đọng, chậm đóng BHXH chưa giảm;
60
chậm ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa quản lý BHXH; công tác đầu
tư tăng trưởng quỹ BHXH chưa đạt mục tiêu đề ra; công tác phối hợp, trách
nhiệm của BHXH Việt Nam và các bộ, ngành liên quan còn hạn chế. Do đó đặt
ra yêu cầu cần phải hoàn thiện luật BHXH năm 2014 theo hướng xây dựng hệ
thống BHXH đa dạng, hiện đại, linh hoạt và bền vững; ngày càng mở rộng diện
bao phủ đối tượng tham gia BHXH; tuân thủ nguyên tắc đóng hưởng và bảo
đảm khả năng cân đối quỹ BHXH; hoàn thiện các chế độ chính sách BHXH,
bảo đảm sự bình đẳng trong tham gia và thụ hưởng BHXH sao cho phù hợp với
thực tiễn, các điều kiện kinh tế, xã hội của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay,
đảm bảo an sinh xã hội và xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc
3.2.1. Về đối tượng tham gia Bảo hiểm xã hội bắt buộc
Luật BHXH 2014 đã bổ sung thêm đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
là NLĐ làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới
03 tháng. Ngoài nhằm mở rộng diện bao phủ đối tượng tham gia BHXH thì
việc bổ sung nhóm đối tượng này tham gia BHXH bắt buộc còn đem lại
quyền lợi chính đáng cho NLĐ trong những trường hợp NSDLĐ sử dụng hình
thức ký hợp đồng lao động này để trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho NLĐ.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, thực tế, đối tượng lao động này rất khó quản lý,
không ổn định, thay đổi thường xuyên. Mặt khác, quy định của Luật BHXH
năm 2014 và quy định tại Bộ luật lao động 2012 không có sự thống nhất với
nhau ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của nhóm lao động này khi dễ
bị NSDLĐ lợi dụng “kẽ hở” của luật để không tham gia BHXH cho NLĐ.
Do đó, tác giả cho rằng cần phải có sự thống nhất chặt chẽ và đồng bộ
giữa các điều khoản trong các văn bản pháp luật quy định về đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc. Bên cạnh đó, đối với các đối tượng lao động làm việc
theo hợp đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng, NSDLĐ phải kê
61
khai đầy đủ và có nghĩa vụ đóng đầy đủ BHXH bắt buộc cho NLĐ. Để làm
được điều này thì cần nâng cao hiệu quả cơ chế quản lý, thanh tra, kiểm tra về
lao động, tiền lương, các thủ tục liên quan đến BHXH bắt buộc để bảo vệ tối
đa quyền lợi của mọi đối tượng lao động.
3.2.2. Về chế độ ốm đau
Nhìn chung, các quy định của Luật BHXH 2014 về chế độ ốm đau đã
bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, góp phần đảm bảo tốt hơn
thu nhập và đời sống của họ khi họ không may bị mắc bệnh, ốm đau,….Tuy
nhiên, trên thực tế, việc thực hiện chế độ ốm đau hiện nay vẫn còn một số
vướng mắc và khó khăn về thời gian, mức hưởng và đối tượng hưởng. Do đó,
tác giả đưa ra những khuyến nghị sửa đổi một số quy định của Luật BHXH
năm 2014 về chế độ ốm đau như sau:
Về đối tượng hưởng chế độ ốm đau: Luật BHXH năm 2014 đã bổ
sung thêm đối tượng hưởng chế độ ốm đau theo hướng mở rộng diện bao phủ,
tuy nhiên, như đã nói ở trên, đối với đối tượng lao động làm việc theo hợp
đồng lao động từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng thì việc thực hiện các chế độ
BHXH ngắn hạn đối với họ là rất khó khăn và còn gặp nhiều vướng mắc. Do
đó, theo nhận định của tác giả, chỉ nên cho nhóm đối tượng này tham gia vào
các chế độ hưu trí và tử tuất sẽ hợp lý và thuận lợi trong việc hưởng chế độ.
Về thời gian hưởng và mức hưởng chế độ ốm đau:
Đối với trường hợp NLĐ nghỉ do mắc các bệnh thông thường: Luật
BHXH năm 2014 quy định khoảng cách thời gian đóng BHXH giữa các mức
hưởng là quá lớn (15 năm) không khuyến khích được mọi người đóng BHXH
với thời gian lâu hơn. Do đó, tác giả khuyến nghị cần thiết rút ngắn khoảng
cách thời gian đóng BHXH giữa các mức hưởng chế độ ốm đau xuống 10
năm đảm bảo công bằng, thực hiện nguyên tắc đóng – hưởng của BHXH.
62
Đối với người hưởng chế độ ốm đau mắc các bệnh thuộc danh mục
chữa trị dài ngày: Luật BHXH năm 2014 lại không quy định thời gian đóng
BHXH tối thiểu trước khi hưởng chế độ ốm đau, điều này rất dễ bị lạm dụng,
ảnh hưởng đến cân đối thu chi quỹ BHXH, nguyên tắc đóng hưởng và không
đảm bảo sự công bằng giữa những NLĐ cùng tham gia BHXH. Do đó, theo
tác giả, cần sửa đổi theo hướng quy định điều kiện về thời gian đóng BHXH
tối thiểu để được hưởng chế độ ốm đau, từ đó quy định các mức hưởng khác
nhau tương đương với thời gian đóng góp nhằm hướng tới sự công bằng giữa
các đối tượng tham gia. Cụ thể có thể quy định NLĐ mắc bệnh cần điều trị
dài ngày để được hưởng chế độ ốm đau cần tham gia tối thiểu 03 tháng
BHXH bắt buộc.
Bên cạnh đó, trong trường hợp NLĐ nghỉ chăm con ốm, Luật BHXH
2014 chưa có sự phân biệt về thời gian hưởng chế độ ốm đau trong trường
hợp chăm sóc con ốm theo tình trạng và mức độ bệnh tật của con. Do đó, cần
quy định rõ trường hợp NLĐ nghỉ chăm con ốm đau thông thường và nghỉ
chăm con mắc các bệnh cần điều trị dài ngày nhằm phù hợp với thực tiễn đời
sống của NLĐ, tạo điều kiện cho NLĐ có thời gian để chăm sóc con tốt hơn.
Có thể quy định thời gian hưởng chế độ khi chăm sóc con mắc các bệnh cần
điều trị dài ngày như sau: Nếu con dưới 03 tuổi mắc bệnh cần điều trị dài
ngày thì thời gian nghỉ chăm sóc con được hưởng bảo hiểm tối đa là 30 ngày
làm việc, nếu con từ đủ 03 tuổi đến dưới 07 tuổi là 20 ngày làm việc (không
kể ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, nghỉ hàng tuần).
Đối với những người làm việc trong lực lượng vũ trang, như đã nêu ở
Chương 2, thời gian hưởng và mức hưởng chế độ ốm đau của những người
thuộc nhóm đối tượng này được Luật BHXH năm 2014 quy định có sự khác
biệt và cao hơn so với NLĐ thông thường. Tuy nhiên quy định này chưa thật
sự hợp lý bởi vì quỹ BHXH là do NLĐ đóng góp, hạch toán độc lập, không
63
phải lấy từ ngân sách Nhà nước nên không thể lấy quỹ đó để thực hiện ưu đãi
của Nhà nước, nói cách khác Nhà nước không thể lấy khoản tiền do các chủ
thể đóng góp để ưu đãi cho một nhóm đối tượng nhất định, trong khi các đối
tượng đó đã được hưởng các chính sách đãi ngộ ở tiền lương và các chế độ
khác. Do đó, nếu có ưu đãi thì cần phải lấy từ ngân sách Nhà nước và nên thể
hiện thông qua chính sách tiền lương, trợ cấp, trợ giúp khác chứ không nên
bằng chính sách BHXH. Ưu đãi bằng chính sách BHXH sẽ thể hiện yếu tố
không công bằng trong lĩnh vực xã hội [20, tr.74].
3.2.3. Về chế độ thai sản
Về các quy định chế độ thai sản, Luật BHXH 2014 đã giải quyết được
những vướng mắc, bất cập trong quá trình triển khai thực hiện Luật trong thời
gian vừa qua. Tuy nhiên, Luật BHXH 2014 chưa quy định rõ về chế độ hưởng
trợ cấp một lần khi sinh cho trường hợp chỉ có cha tham gia BHXH, do đó để
kiểm soát và tránh bị lạm dụng để hưởng chế độ thì Luật cần thiết quy định cụ
thể hơn về trường hợp này.
Bên cạnh đó, Luật BHXH 2014 quy định khi NLĐ nhận nuôi con nuôi
dưới 06 tháng tuổi thì được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 06
tháng tuổi. Tuy nhiên, trên thực tế, cũng có trường hợp NLĐ nhận nuôi nhiều
con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì Luật BHXH hiện nay chưa quy định. Luật có
thể quy định đối với NLĐ nuôi nhiều con nuôi dưới 06 tháng tuổi thì tính từ
con thứ hai trở đi, với mỗi con NLĐ sẽ được nghỉ thêm 01 tháng tương ứng
với trường hợp lao động nữ được hưởng chế độ khi sinh đôi, đảm bảo quyền
lợi cho NLĐ cũng như con của họ.
Luật BHXH 2014 quy định điều kiện để lao động nữ có thể đi làm
trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con là sau khi đã nghỉ hưởng chế độ ít nhất
được 04 tháng và phải báo trước và được NSDLĐ đồng ý. Tuy nhiên, Luật
64
cần quy định chi tiết thời hạn báo trước của NLĐ cho NSDLĐ và xác định rõ
thời hạn đó sẽ do NSDLĐ quy định hay do hai bên thỏa thuận.
3.2.4. Về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp
Chế độ TNLĐ, BNN không chỉ được quy định tại Luật BHXH 2014 mà
còn được điều chỉnh bởi Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015 và các văn bản
hướng dẫn thi hành đã góp phần bảo vệ quyền lợi NLĐ trước những rủi ro
nghề nghiệp, đảm bảo các khoản trợ cấp và bù đắp phần thu nhập bị mất đi
khi họ phải nghỉ việc vì bị TNLĐ, BNN. Tuy nhiên, khi áp dụng chế độ
TNLĐ, BNN còn gặp nhiều khó khăn, bất cập cần thiết phải điều chỉnh một
số quy định của Luật để áp dụng hiệu quả vào thực tiễn, cụ thể:
Về điều kiện hưởng chế độ TNLĐ, như ở Chương 2 tác giả đã phân
tích bất cập quy định pháp luật về điều kiện hưởng, Luật BHXH 2014 và Luật
An toàn, vệ sinh lao động 2015 cần quy định rõ các căn cứ để xác định trường
hợp nào được coi là TNLĐ và khoảng thời gian và tuyến đường khi NLĐ bị
tai nạn trên tuyến đường từ nơi ở đến nơi làm việc hoặc ngược lại để việc giải
quyết chế độ TNLĐ trên thực tế được hiệu quả, tránh việc lạm dụng hoặc bỏ
xót các trường hợp cần được giải quyết chế độ TNLĐ.
Về điều kiện hưởng chế độ BNN, trong thực tế đã phát sinh trường
hợp NLĐ làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại nhưng sau
đó chuyển sang nơi làm việc có yếu tố bình thường thì mới phát sinh BNN thì
Luật không quy định trường hợp này có được hưởng chế độ BNN hay không.
Do đó, tác giả nhận định pháp luật về BHXH cần xét đến vấn đề bảo lưu điều
kiện lao động có hại cũng như quy định rõ nguyên tắc bảo lưu để bảo đảm
quyền lợi cho NLĐ làm việc trong môi trường hoặc nghề có yếu tố độc hại.
Về mức hưởng trợ cấp TNLĐ, BNN: Luật BHXH năm 2014 quy định
mức trợ cấp một lần, hằng tháng được quy định dựa trên mức lương cơ sở và
ngoài khoản trợ cấp này NLĐ còn được hưởng một khoản trợ cấp tính theo số
65
năm đã đóng BHXH, tức là tính theo tiền lương, tiền công đóng BHXH của
tháng liền kề trước khi nghỉ việc để điều trị. Sự bất cập của Luật ở đây được
thể hiện ở quy định trợ cấp thêm được tính theo tiền lương, tiền công đóng
BHXH của NLĐ, trong khi đó tiền lương của mỗi người là khác nhau trong
khi đó tỷ lệ suy giảm khả năng lao động là như nhau. Tác giả nhận định, pháp
luật về BHXH có thể sửa đổi theo hướng mức hưởng trợ cấp thêm ngoài trợ
cấp chính được hưởng chế độ TNLĐ, BNN xác định dựa trên tỷ lệ suy giảm
khả năng lao động và mức lương tối thiểu vùng để đảm bảo tính công bằng
giữa những NLĐ cùng được hưởng chế độ TNLĐ, BNN.
Về phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình: Theo tác giả,
Luật BHXH năm 2014 cần quy định chi tiết hơn về quy trình, cách thức và
thời gian cấp phương tiện trợ giúp sinh hoạt, dụng cụ chỉnh hình giải quyết
những khó khăn vướng mắc cho các cơ quan BHXH khi giải quyết chế độ
TNLĐ, BNN cho NLĐ trong thực tiễn.
Về nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau khi điều trị thương tật,
bệnh tật, cần thiết có quy định cụ thể về tỷ lệ thương tật của NLĐ là bao nhiêu
thì được nghỉ dưỡng sức thêm và tương ứng với đó là số ngày được nghỉ để
phục hồi sức khỏe để việc thực hiện chế độ TNLĐ, BNN được hiệu quả trong
thực tiễn.
3.2.5. Về chế độ hưu trí
Ở Việt Nam, tuổi thọ bình quân năm 2005 đã lên đến 72,2 tuổi và dự
kiến sẽ tăng lên 75 tuổi vào năm 2020. Trong khi đó, tuổi nghỉ hưu ở nam vẫn
giữ là 60 tuổi và ở nữ là 55 tuổi. Vì vậy, thời gian đóng BHXH ngắn nhưng
thời gian hưởng lương hưu càng ngày càng dài hơn do tuổi thọ bình quân tăng
lên thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến quỹ hưu trí. Theo Báo cáo đánh giá tác động
của dự án Luật sửa đổi, bổ sung của BLLĐ (dự thảo lần 2 tháng 5 năm 2017),
số năm hưởng lương hưu bình quân là 19,5 năm, trong đó nam giới là 16,1
66
năm và nữ giới là 22,9 năm, tuy nhiên, tính trung bình tiền đóng BHXH của
một NLĐ làm việc trong 28 năm chỉ đủ chi trả cho chính người đó trong vòng
10 năm nên rõ ràng thời gian hưởng còn lại (9,5 năm đối với nam và 12,9 năm
đối với nữ) sẽ phải lấy từ nguồn đóng góp của thế hệ sau [6]. Do đó, việc điều
chỉnh tuổi nghỉ hưu là một trong những giải pháp quan trọng để đối phó với
sự mất cân đối của quỹ hưu trí. Việc nâng tuổi nghỉ hưu sẽ làm giảm tỉ lệ giữa
người hưởng lương hưu và số NLĐ, đồng thời kéo dài thời gian đóng BHXH,
đảm bảo sự bền vững tài chính cho quỹ BHXH.
Vấn đề điều chỉnh tuổi nghỉ hưu là vấn đề toàn cầu. Trong nửa thế kỷ
qua, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều phải điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu
để thích ứng với quá trình già hóa dân số, ngoại trừ một số nước có cơ cấu
dân số trẻ (ở Châu Phi) và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Kinh nghiệm cải
cách hệ thống hưu trí của các nước (như Pháp, Hàn Quốc…) đã cho thấy việc
nâng tuổi nghỉ hưu là một giải pháp chính sách mang lại tác dụng trong dài
hạn và khả thi trong việc đảm bảo cân đối quỹ. Theo tính toán của Viện Khoa
học BHXH, BHXH Việt Nam, giả sử từ ngày 01/01/2018, cứ mỗi năm tăng
thêm 3 tháng cho đến khi nam đủ 62 tuổi, nữ đủ 60 tuổi (theo phương án dự
thảo của Bộ Luật lao động sửa đổi), kết quả dự báo cân đối quỹ do tác động
của việc tăng tuổi nghỉ hưu như sau: Năm 2037, mất cân đối thu – chi trong
năm (so với tính toán dự báo cân đối quỹ theo Luật BHXH năm 2014 thì đã
kéo dài thêm 6 năm) và quỹ đủ khả năng cân đối đến năm 2058 (kéo dài thêm
7 năm so với tính toán dự báo cân đối quỹ theo Luật BHXH năm 2014) [29].
Từ năm 1960 đến nay Việt Nam chưa tăng tuổi nghỉ hưu, do vậy đề
xuất tăng tuổi nghỉ hưu giai đoạn này là tất yếu và cần thiết đưa vào Bộ Luật
lao động sửa đổi. Tuy nhiên việc điều chỉnh tuổi nghỉ hưu cần có tầm nhìn dài
hạn và có lộ trình phù hợp với tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thất
nghiệp, không gây tác động tiêu cực đến thị trường lao động; bảo đảm số
67
lượng, chất lượng và cơ cấu dân số; bình đẳng giới; cân đối quỹ BHXH trong
dài hạn; tính chất, loại hình lao động và giữa các ngành nghề, lĩnh vực.. Trước
tính tất yếu của vấn đề điều chỉnh tăng tuổi nghỉ hưu, Nghị quyết số 28-
NQ/TW đã đưa ra lộ trình điều chỉnh như sau “Từ năm 2021, thực hiện điều
chỉnh tuổi nghỉ hưu theo mục tiêu tăng tuổi nghỉ hưu chung, thu hẹp dần
khoảng cách về giới trong quy định tuổi nghỉ hưu; đối với những ngành nghề
đặc biệt, NLĐ được quyền nghỉ hưu sớm, hoặc muộn hơn 5 tuổi so với tuổi
nghỉ hưu chung”[1].
Ngoài ra, sự chênh lệch về tuổi nghỉ hưu giữa nam và nữ cũng nên
được điều chỉnh. Luật BHXH 2014 quy định độ tuổi nghỉ hưu chênh lệch giữa
nam và nữ là 05 tuổi. Quy định này dựa trên cơ sở thể trạng nữ giới được cho
rằng là yếu hơn nam giới. Tuy nhiên, với điều kiện sống thay đổi như hiện
nay thì phụ nữ lại có những ưu thế hơn so với nam giới ở khả năng chịu đựng
áp lực, sự dẻo dai và thực tế tuổi thọ của nữ giới lại thường cao hơn so với
nam giới. Năm 2017, tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam là 73,4 tuổi,
trong đó nam là 70,2 tuổi và nữ là 76,6 tuổi [21]. Do vậy, cần tiến tới quy
định độ tuổi nghỉ hưu của lao động nữ tăng dần phù hợp với nam giới để đảm
bảo quyền bình đẳng giữa lao động nữ và lao động nam, đồng thời phát huy
nguồn lực lao động nữ.
3.2.6. Về chế độ tử tuất
Như đã đề cập ở chương 2, tác giả nhận định cần thiết bổ sung thêm
trường hợp người người đang bị dừng hưởng lương hưu, trợ cấp TNLĐ, BNN
hàng tháng do phải chấp hành hình phạt tù nhưng không được hưởng án treo
mà bị chết trong tù thì thân nhân của người đó sẽ được hưởng chế độ tử tuất.
Mặt khác, trợ cấp tuất một lần và trợ cấp tuất hàng tháng còn chênh
lệch quá lớn. Do đó, Luật BHXH nên quy định rõ thu nhập hàng tháng của
thân nhân của người đã chết được xác định tại thời điểm nào và gồm những
68
khoản gì vì đây là nội dung rất vướng trong tổ chức thực hiện. Mức hưởng trợ
cấp tuất hàng tháng cũng cần phải được điều chỉnh theo hướng tăng lên để
tương xứng với việc điều chỉnh tăng mức hưởng trợ cấp tuất một lần. Việc
điều chỉnh này sẽ thu hẹp dần sự chênh lệch tương đối lớn giữa hai loại trợ
cấp. Từ đó, thân nhân NLĐ sẽ không tìm cách để lạm dụng quỹ BHXH và cơ
quan BHXH cũng thuận lợi hơn trong việc giải quyết chế độ. Nên chăng,
pháp luật BHXH sửa đổi mức này theo hướng, “nếu NLĐ có thời gian đóng
BHXH chưa đủ một năm thì mức trợ cấp bằng số tiền đã đóng; mức tối đa
bằng 1,5 tháng mức bình quân thu nhập tháng đóng BHXH.”
Với việc mở rộng đối tượng tham gia của Luật BHXH năm 2014 thì
việc ấn định mức trợ cấp thấp nhất bằng 3 tháng lương là không phù hợp và
rất dễ bị lạm dụng (ký hợp đồng lao động có thời hạn một vài tháng với
những người ốm nặng để khi chết, thân nhân vừa được hưởng mai táng,
vừa được hưởng 3 tháng lương bình quân); mặt khác cần xác định đối với
quỹ hưu trí, tử tuất thì mức độ chia sẻ phải thấp và cần đề cao nguyên tắc
đóng - hưởng.
3.2.7. Về xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là khối các doanh nghiệp tư
nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vi phạm pháp luật BHXH với
nhiều hình thức và mức độ như: Doanh nghiệp ký hợp đồng theo ngày, theo
giờ đối với lao động mùa vụ để không phải đóng BHXH; cố tình kê khai mức
lương thấp hơn thực tế hợp đồng lao động để giảm chi phí BHXH phải nộp;…
Điều này cho thấy, các quy định về xử phạt vi phạm hành chính, giải quyết
tranh chấp về BHXH trong đó có BHXH bắt buộc cần phải sửa đổi, bổ sung
để có hiệu quả hơn trên thực tế.
Theo quy định pháp luật BHXH hiện hành thì mức phạt tiền cao nhất
đối với hành vi vi phạm về BHXH được quy định tối đa không quá
69
75.000.000 đồng. Mức phạt tiền này được đánh giá là khá nhẹ, chưa đủ tính
răn đe đối với những doanh nghiệp trốn tránh nghĩa vụ đóng BHXH cho
NLĐ. Vì vậy, pháp luật nên điều chỉnh theo hướng tăng các chế tài xử lý đối
với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực BHXH, chẳng hạn như: Phạt tiền với
mức từ 25% đến 30% tổng số tiền phải đóng BHXH bắt buộc, bảo hiểm thất
nghiệp tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá
150.000.000 đồng. Có thể thấy rằng khi có một chế tài nghiêm khắc sẽ đủ sức
phòng ngừa đối với các hành vi vi phạm.
Mặt khác, hiện nay, khi doanh nghiệp tuyên bố phá sản cần phải có
xác nhận của cơ quan Thuế hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế, nhưng lại không
được yêu cầu phải có xác nhận của cơ quan BHXH về hoàn thành nghĩa vụ
đóng BHXH. Do đó pháp luật cần phải bổ sung quy định doanh nghiệp chỉ
được tuyên bố phá sản sau khi hoàn thành nghĩa vụ đóng BHXH, tạo căn cứ
pháp lý vững chắc để cơ quan BHXH xử lý các trường hợp vi phạm.
3.3. Một số kiến nghị cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
3.3.1. Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp giữa các ban ngành liên quan
Để phù hợp với tình hình phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, hệ
thống văn bản Luật có liên quan đến BHXH của các cơ quan chức năng được
sửa đổi, bổ sung thường xuyên, do vậy, BHXH Việt Nam phải ban hành
nhanh chóng các văn bản hướng dẫn và chỉ đạo kịp thời các vướng mắc phát
sinh đối với BHXH các tỉnh để giúp BHXH các tỉnh không lúng túng trong
việc thực hiện công tác chuyên môn. BHXH huyện Cẩm Giàng cần chủ động
phối hợp hiệu quả với các sở, ngành, Ủy ban nhân dân quận, huyện để phát
triển đối tượng tham gia, thu hồi nợ đọng, đảm bảo quyền lợi, giải quyết chế
độ chính sách BHXH đúng quy định của pháp luật. Tiếp tục phối hợp với Bưu
70
điện huyện Cẩm Giàng hoàn thiện Đề án tổ chức chi trả hương hưu, các chế
độ BHXH hàng tháng qua hệ thống Bưu điện.
BHXH huyện Cẩm Giàng cần khuyến nghị chính quyền địa phương tạo
điều kiện cho công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật
về BHXH đến mọi đối tượng người dân trên địa bàn huyện nhằm nâng cao
nhận thức của NLĐ và người sử dụng lao động. BHXH huyện nên phối hợp
chặt chẽ hơn nữa với Công đoàn cơ sở. Khi đã thấu hiểu chính sách, tầm quan
trọng của BHXH đối với đời sống NLĐ, tổ chức Công đoàn sẽ tác động đến
NLĐ, thay đổi nhận thức và hành vi của họ, đấu tranh đòi hưởng những
quyền lợi chính đáng của mình.
Ngoài ra, BHXH Cẩm Giàng có thể kết hợp với ngân hàng, Kho bạc
phong toả tài khoản khi cần thiết đối với các đơn vị nợ BHXH dài hạn, kết
hợp với Toà án nhân dân trong việc xử lý vi phạm pháp luật về BHXH và
phối hợp với cơ quan Thuế, Sở kế hoạch đầu tư nắm rõ đối tượng tham gia
BHXH, BHYT để yêu cầu các đơn vị tham gia đầy đủ cho NLĐ theo quy định
của pháp luật, đặc biệt là các đơn vị thuộc khu vực ngoài quốc doanh.
3.3.2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo hiểm
xã hội, khuyến khích, động viên các đối tượng tham gia, thực hiện bảo hiểm
xã hội
Công tác tuyên truyền chính sách BHXH có tích cực nhưng chưa thật sự
chuyên sâu và chưa đạt hiệu quả cao dẫn đến tình trạng vẫn còn một số NLĐ
chưa hiểu biết và quan tâm đến quyền lợi về BHXH của mình và chưa nắm
rõ các quy định về hoàn thiện thủ tục, giấy tờ khi tham gia đóng, hưởng
BHXH. Bên cạnh đó còn một bộ phận NLĐ làm việc trong các doanh nghiệp
nhỏ có tâm lý không muốn trích tiền lương của mình tham gia BHXH hoặc
không được chủ sử dụng lao động tạo điều kiện để tham gia BHXH nhưng
không dám đấu tranh đòi quyền lợi. Một số cơ quan, tổ chức chưa nhận thức
71
đầy đủ về tầm quan trọng của chính sách BHXH nên công tác phối hợp
thông tin tuyên truyền, phổ biến pháp luật về BHXH ở một số địa phương
còn chậm được thực hiện. Hình thức tuyên truyền còn đơn giản, chưa thu hút
được sự quan tâm của NLĐ và chủ sử dụng lao động dẫn đến đối tượng
tham gia BHXH còn thấp so với thực tế, từ đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi
của NLĐ. Nội dung, phương pháp tuyên truyền chưa phù hợp với đặc thù về
phong tục, tập quán ngôn ngữ của từng nhóm đối tượng tham gia. Tính chủ
động trong công tác thông tin, tuyên truyền chưa cao, chưa theo dõi nắm bắt
kịp thời dư luận xã hội hoặc những phản ứng trái chiều của NLĐ và nhân
dân liên quan đến việc thực hiện chế độ chính sách BHXH để chủ động
tuyên truyền kịp thời.
Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XII về cải cách chính sách BHXH ban
hành ngày 23/5/2018 yêu cầu cấp ủy đảng, chính quyền các cấp tăng cường
lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin, tuyên truyền; đổi mới nội dung, hình
thức tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật về BHXH để cán bộ, đảng
viên, nhân dân hiểu rõ sự cần thiết, lợi ích, vai trò, ý nghĩa và những nội dung
cơ bản của cải cách chính sách BHXH đối với bảo đảm an sinh xã hội, an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo sự đồng thuận, thống nhất trong thực
hiện chính sách BHXH. Điều này cho thấy vai trò quan trọng của việc lãnh
đạo, chỉ đạo trong thực hiện chính sách, pháp luật BHXH của các tổ chức
đảng và chính quyền các cấp [1].
Vì vậy, BHXH huyện Cẩm Giàng cần phải tiến hành triển khai tốt Nghị
quyết 28 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam khóa XII
về cải cách chính sách BHXH, đẩy mạnh công tác tuyên truyền sâu rộng dưới
nhiều hình thức đa dạng, phong phú, trực quan, sinh động như: tổ chức các
buổi nói chuyện, tư vấn các chế độ chính sách BHXH cho NLĐ, in ấn, phát
72
hành tờ rời, treo băng rôn, khẩu hiệu tại các trục đường giao thông chính…
với nội dung cô đọng, dễ hiểu, hấp dẫn, sát cơ sở; ứng dụng công nghệ thông
tin vào các hoạt động nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả Cổng thông tin điện tử,
cập nhật thường xuyên chính sách, pháp luật về BHXH và các thông tin về
hoạt động của cơ quan, ngành; kết hợp với báo Hải Dương, Đài phát thanh
huyện, các xã và thị trấn trong huyện thực hiện việc tuyên truyền về những
chính sách BHXH cho toàn thể NLĐ trên địa bàn huyện.
3.3.3. Tăng cường cải cách thủ tục hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin
vào hoạt động bảo hiểm xã hội
Công tác cải cách thủ tục hành chính vẫn luôn là một trong những nhiệm
vụ trọng tâm của ngành BHXH. Trong thời gian tới, BHXH huyện Cẩm
Giàng cần tiếp tục rà soát từng quy trình thực hiện của tất cả các lĩnh vực
nghiệp vụ từ thu, cấp sổ BHXH đến giải quyết, chi trả các chế độ… để cắt
giảm thủ tục hành chính không cần thiết tạo sự thuận lợi cho người dân.
BHXH huyện Cẩm Giàng cần phát huy hiệu quả việc tiếp nhận và trả kết quả
thủ tục hành chính qua dịch vụ bưu chính công, nhằm tạo điều kiện cho người
dân, doanh nghiệp được lựa chọn hình thức giao dịch các thủ tục hành chính
với cơ quan BHXH, đồng thời triển khai giao dịch hồ sơ đóng BHXH qua
internet đến tất cả các đơn vị sử dụng lao động trên địa bàn huyện. Tất cả các
quy trình, quy định, hồ sơ, thủ tục khi tham gia và giải quyết hưởng các chế
độ BHXH đều được cập nhật và niêm yết công khai tại BHXH huyện bảo
đảm chính xác, rõ ràng, đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho tổ chức,
cá nhân tiếp cận, tìm hiểu và thực hiện thủ tục hành chính. Bên cạnh đó,
BHXH huyện cần thông báo số điện thoại đường dây nóng, hộp thư góp ý để
các cá nhân, tổ chức và đơn vị có thể phản ánh, kiến nghị những bất cập về
quy định thủ tục hành chính.
73
Song song với việc cắt giảm các thủ tục hành chính, thì các hoạt động
ứng dụng công nghệ thông tin đóng vai trò vô cùng quan trọng. BHXH huyện
Cẩm Giàng cần tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các hệ thống thông
tin, cơ sở dữ liệu tập trung như: Hệ thống giao dịch BHXH điện tử; hệ thống
thu, sổ thẻ; hệ thống tài chính kế toán; hệ thống quản lý chính sách… Bên
cạnh những lợi ích to lớn mà hệ thống ứng dụng công nghệ thông tin đem lại,
BHXH cần chú trọng hơn nữa đầu tư cơ sở hạ tầng trang thiết bị công nghệ
thông tin như: tăng cường thêm hệ thống máy tính chất lượng cao đảm bảo
tốc độ truy cập, các máy trạm, máy chủ, hệ thống tường lửa, hệ thống Hội
nghị truyền hình, đường truyền mạng WAN để kết nối dữ liệu trong toàn hệ
thống và các thiết bị mạng khác luôn đảm bảo các điều kiện kỹ thuật cần thiết,
an toàn cho hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của ngành. Đồng thời, tăng
cường cán bộ kỹ thuật hoạt động chuyên môn nghiệp vụ của ngành. Đồng
thời, tăng cường cán bộ kỹ thuật khắc phục sự cố trong khi sử dụng các phần
cứng, phần mềm nghiệp vụ luôn được đáp ứng kịp thời từ đó giúp cán bộ giải
quyết nhanh chóng các công việc.
3.3.4. Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng
cho cán bộ bảo hiểm xã hội
Hàng năm, BHXH huyện Cẩm Giàng cần có kế hoạch bồi dưỡng chuyên
môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ một cách hợp lý. Cần phải tập huấn, rút
kinh nghiệm cho các cán bộ ở các bộ phận và các phòng ban chức năng có
liên quan để quá trình triển khai đảm bảo tính thống nhất, hạn chế tối đa
những sai sót không đáng có. Tổ chức các lớp bổ túc, nâng cao nghiệp vụ
chuyên môn, trình độ quản lý cho cán bộ cơ quan. Sắp xếp bộ máy theo
hướng chuyên sâu, phân chia, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng cán
bộ, phòng ban để tạo sự năng động, chủ động khi thực hiện nhiệm vụ, tránh
hành chính quan liêu.
74
Thường xuyên tổng kết, đánh giá những mặt đã đạt được, những yếu kém
còn tồn tại để có phương hướng, biện pháp khắc phục triệt để những hạn chế
đó, các cán bộ trong cơ quan luôn trau dồi kinh nghiệm quản lý với nhau…
Xây dựng tinh thần đoàn kết, học hỏi kinh nghiệm giữa các cán bộ trong đơn vị
với nhau thông qua các buổi giao lưu, tổng kết, sinh hoạt chi bộ…
Bên cạnh đó, BHXH huyện Cẩm Giàng cũng cần phải chú trọng nâng
cao đạo đức công vụ, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp của công chức, viên
chức cụ thể trong từng bộ phận:
Đối với đội ngũ làm công tác thu, phát triển đối tượng phải nắm vững địa
bàn, nâng cao khả năng thuyết phục đối với đơn vị khi vận động phát triển đối
tượng, phải là cầu nối giữa chính sách của Đảng, Nhà nước với NLĐ.
Đối với đội ngũ làm công tác tiếp nhận hồ sơ và trả kết quả phải đổi mới
phong cách phục vụ, nêu cao ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân; coi việc
của tổ chức, cá nhân là việc của mình để tận tâm giải quyết; biết lắng nghe và
tiếp thu ý kiến đúng đắn của khách đến giao dịch để cải tiến quy trình, trả kết
quả đúng hạn.
Đối với đội ngũ làm công tác nghiệp vụ giải quyết chế độ chính sách
BHXH, phải tích cực nghiên cứu, nắm vững các quy định của chính sách để
cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian giải quyết, xử lý đúng người,
đúng phạm vi mức độ quyền lợi, tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
tham gia BHXH bắt buộc.
Tiểu kết chương
Trong Chương 3, tác giả đã nêu ra những ý kiến về giải pháp hoàn thiện
pháp luật về BHXH bắt buộc, bảo đảm bám sát, phù hợp với quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; đảm bảo đồng bộ với các chế
75
độ BHXH khác, phù hợp với đời sống của NLĐ và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm của các quốc gia khác trong quá trình hoàn thiện pháp luật về BHXH
bắt buộc nhằm đảm bảo việc hoàn thiện pháp luật nhất quán, xuyên suốt.
Từ đó, tác giả nêu ra một số giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải
Dương như: Tăng cường sự chỉ đạo và phối hợp giữa các ban ngành liên
quan, tuyên truyền pháp luật về BHXH; tăng cường cải cách thủ tục hành
chính và áp dụng công nghệ thông tin; đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng cho cán bộ BHXH… để càng đáp ứng tốt
hơn nhu cầu của các đối tượng tham gia BHXH bắt buộc trên địa bàn huyện
Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương cũng như thực hiện có hiệu quả trên thực tiễn các
quy định của pháp luật về BHXH.
76
KẾT LUẬN
Đối với bất kỳ quốc gia nào, BHXH luôn là trụ cột quan trọng nhất của
hệ thống an sinh xã hội. Với Việt Nam, BHXH là một chính sách lớn của
Đảng và Nhà nước ta, góp phần ổn định đời sống của hàng triệu NLĐ và gia
đình họ khi gặp phải những rủi ro, khó khăn trong cuộc sống. Ngày nay chính
sách BHXH ngày càng được mở rộng về đối tượng tham gia ở mọi thành
phần kinh tế ở cả hai loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện. Thực
hiện tốt chính sách BHXH là yếu tố quan trọng đảm bảo ổn định xã hội trong
sự phát triển bền vững, đáp ứng tiến trình hội nhập với kinh tế thế giới, là mục
tiêu hàng đầu mà Đảng và Nhà nước ta đang hướng tới.
Luật BHXH năm 2014 ra đời đã đánh dấu một bước tiến quan trọng
cho sự hoàn thiện khung pháp lý về BHXH nói chung và BHXH bắt buộc nói
riêng và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách
xã hội của Đảng và Nhà nước. Luật BHXH năm 2014 với rất nhiều điểm mới
theo hướng có lợi cho NLĐ, có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc thay
đổi tổng thể, toàn diện nhằm nâng cao hiệu quả thực thi chế độ, chính sách
BHXH, pháp điển hóa các quy định hiện hành và bổ sung các chính sách
BHXH đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai và thực hiện trên thực tế, Luật
BHXH năm 2014 cũng bộc lộ những tồn tại, hạn chế đặt ra nhu cầu khách
quan về việc sửa đổi Luật BHXH một cách căn cơ nhằm thiết lập khung chính
sách, pháp luật BHXH phù hợp với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được nguyện vọng của NLĐ,
đảm bảo an sinh xã hội và hội nhập quốc tế. Từ việc phân tích những tồn tại,
hạn chế của pháp luật, tác giả cũng đưa ra những khuyến nghị góp phần hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hơn nữa hiệu quả thực hiện pháp luật về BHXH
bắt buộc trên địa bàn huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương./.
77
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam (2018), Nghị
quyết số 28-NQ/TW về cải cách chính sách BHXH, ban hành ngày
23/5/2018, Hà Nội.
2. Nguyễn Huy Ban (1996), Hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm xã hội ở Việt
Nam – Lý luận và thực tiễn, Luận án Phó tiến sĩ khoa học Luật học, Đại
học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
3. Báo cáo công tác quản lý thu Bảo hiểm xã hội các năm từ 2014-2018
của Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương
4. Báo cáo tổng kết công tác và nhiệm vụ các năm tới từ 2014-2018 của
Bảo hiểm xã hội huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương.
5. Bộ Chính trị (2012), Nghị quyết số 21-NQ/TW về tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế giai
đoạn 2012-2020, ban hành ngày 22/11/2012, Hà Nội.
6. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2017), Báo cáo đánh giá tác
động của dự án Luật sửa đổi, bổ sung của Bộ luật lao động (dự thảo lần
2 tháng 5 năm 2017).
7. Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (2015), Thông tư 59/2015/TT-
BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, ban hành ngày
29/12/2015, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Chí và Bùi Thị Kim Ngân (2015), “Một số bình luận pháp
lý liên quan đến Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014”, Tạp chí
Luật học.
9. Mai Đức Chính (2014), “Một số ý kiến và phương án cải cách bảo hiểm
hưu trí từ quan điểm đại diện người lao động”, Tạp chí Bảo hiểm xã
hội, Kỳ 02 tháng 01/2014.
10. Chính phủ (2015), Nghị định số 115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một
số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, ban
hành ngày 11/11/2015, Hà Nội.
11. Vũ Thị Mỹ Duyên (2018), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và
thực tiễn thi hành tại thành phố Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ luật học,
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
12. Bùi Thị Lâm Hà (2012), “Chế độ tai nạn lao động ở Việt Nam – Những
khó khăn, vướng mắc”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 01 tháng 6/2012.
13. Diệp Hà (2019), “Phát triển hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo đảm an sinh
bền vững”, < http://dangcongsan.vn/thoi-su/phat-trien-he-thong-bao-
hiem-xa-hoi-bao-dam-an-sinh-ben-vung-512574.html>, (10/7/2019)
14. Đỗ Quang Hải và Phạm Thị Thi (2016), Một số vấn đề về việc hình
thành, sử dụng và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội theo Luật Bảo hiểm
xã hội năm 2014, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.
15. Đồng Thị Hồng (2015), Đảm bảo an sinh xã hội trên địa bàn thành phố
Hà Nội, Luận án tiến sĩ kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội.
16. Bùi Thanh Hương (2017), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc ở
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
17. Nguyễn Thị Hương (2018), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc qua
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Trị, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học
Luật, Đại học Huế, Thừa Thiên Huế.
18. Đào Liên (2016), “5 điểm mới của Luật BHXH có lợi cho người lao
động”, bhxh-co-loi-cho-nguoi-lao-dong-610515.html>, (06/7/2019) 19. Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật Bảo hiểm xã hội để mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Chính trị. 20. Nguyễn Hiền Phương chủ biên (2016), Bình luận khoa học những nội dung cơ bản của Luật Bảo hiểm xã hội, NXB Tư Pháp, Hà Nội 21. Mai Phương (2007), “Nâng tuổi thọ trung bình của người Việt Nam lên 75 tuổi vào năm 2030”, khhgd/nang-tuoi-tho-trung-binh-cua-nguoi-viet-nam-len-75-tuoi-vao- nam-2030-2473.html>, (05/7/2019) 22. Quốc hội (2012), Bộ Luật Lao động, ban hành ngày 18/6/2012, Hà Nội. 23. Quốc hội (2015), Bộ Luật Hình sự, ban hành ngày 27/11/2015, Hà Nội. 24. Quốc hội (2006), Luật Bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 29/6/2006, Hà Nội. 25. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, ban hành ngày 20/11/2014, Hà Nội. 26. Quốc hội (2016), Luật An toàn, vệ sinh lao động, ban hành ngày 25/6/2016, Hà Nội. 27. Quốc hội (2012), Luật Xử lý vi phạm hành chính, ban hành ngày 20/6/2012. 28. Lê Thị Hoài Thu (2009), “Luật Bảo hiểm xã hội từ thực tiễn đến quy định áp dụng”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, Kỳ 02 Tháng 10/2009. 29. Nguyễn Thị Thúy (2014), Bảo hiểm xã hội trong luật Bảo hiểm xã hội và thực tiễn thi hành trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. 30. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quyết định số 559/QĐ-BHXH quy định quản lý thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ bảo hiểm y tế, ban hành ngày 14/4/2017, Hà Nội. 31. Tổng Giám đốc Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 1414/QĐ-BHXH quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH địa phương, ban hành ngày 04/10/2016, Hà Nội. 32. Chu Linh Trang (2017), Pháp luật về Bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Yên Bái, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. 33. Trường Đại học Lao động – Xã hội (2010), Giáo trình Bảo hiểm xã hội, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội. 34. Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật An sinh xã hội, NXB Công an nhân dân, Hà Nội. 35. Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội (2005), Pháp luật Bảo hiểm xã hội của một số nước trên thế giới, NXB Tư pháp, Hà Nội. 36. Vụ Bảo hiểm xã hội (2010), Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc giai đoạn đến 2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ.