i

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬN VĂN THẠC SĨ

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH TỪ THỰC TIỄN THI HÀNH LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH, THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI QUẢNG NINH TẠI TỈNH QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107

NGUYỄN THỊ HƢƠNG XUÂN

NGUYỄN THỊ HƢƠNG XUÂN

Hà Nội - 2018

Hà Nội - 2018

ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬN VĂN THẠC SĨ

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG du lịch từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng Ninh LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH, THỰC TIỄN THI HÀNH

TẠI QUẢNG NINH

Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107 Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8380107

Học viên: Nguyễn Thị Hƣơng Xuân

Học viên: NGUYỄN THỊ HƢƠNG XUÂN Ngƣời hƣớng dẫn: TS Nguyễn Văn Cảnh

Ngƣời hƣớng dẫn: TS NGUYỄN VĂN CẢNH

Hà Nội - 2018

Hà Nội - 2018

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi

số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn là hoàn toàn trung thực có nguồn gốc

rõ ràng và chưa từng được ai công bố trong bất kz công trình nào trước đây.

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Tác giả

Nguyễn Thị Hương Xuân

iv

LỜI CẢM ƠN

Tác giả xin trân trọng cảm ơn các thầy, cô giáo Trường Đại học Ngoại thương,

nhất là các cán bộ, giảng viên khoa sau đại học đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tác

giả hoàn thành bản luận văn này. Đặc biệt, tác giả xin trân trọng cảm ơn thầy giáo

hướng dẫn TS Nguyễn Văn Cảnh đã hết lòng ủng hộ và hướng dẫn tác giả hoàn

thành luận văn.

Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã giúp đỡ, chia sẻ khó khăn và

động viên tác giả trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành luận

văn này.

Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày tháng năm 2018

Học viên

Nguyễn Thị Hương Xuân

v

Luận văn đã tập trung nghiên cứu các nội dung chủ yếu sau:

TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU LUẬN VĂN

- Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch và thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng

Ninh từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.

- Làm rõ những vấn đề lý luận về cạnh tranh và pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, CTKLM theo pháp luật Việt

Nam.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn Pháp luật về hành vi CTKLM trong dịch vụ du

lịch tại tỉnh Quảng Ninh.

- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về dịch vụ du lịch tại tỉnh

Quảng Ninh.

- Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách và pháp

luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Tổ chức thực hiện pháp luật

cạnh tranh về du lịch.

vi

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Chữ viết đầy đủ

Công nghiệp hoá CNH

Hiện đại hoá HĐH

Uỷ ban nhân dân UBND

Hoạt động du lịch HĐDL

Kinh tế - xã hội KT-XH

PL CTKLM Pháp luật cạnh tranh không lành mạnh

Cạnh tranh không lành mạnh CTKLM

Dịch vụ du lịch DVDL

Du lịch DL

Văn hóa thể thao du lịch VHTTDL

Thành phố TP

Trách nhiệm hữu hạn TNHH

Cổ phần du lịch CP DL

Xuất nhập khẩu XNK

Kinh doanh nhà hàng KDNH

vii

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU

LỊCH ...........................................................................................................................7

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch ............................................................................................7

1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ

du lịch ....................................................................................................................7

1.1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh ................................7

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại về dịch vụ du lịch ................................10

1.1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnhtrong lĩnh vực dịch vụ

du lịch ..................................................................................................................17

1.1.3. Phân loại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch

vụdu lịch ..............................................................................................................21

1.2. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch ..........................................................................................................................22

1.2.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch ..............................................................................................22

1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch .......................................................................................24

1.2.3. Chủ thể của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch ..............................................................................................27

1.2.4. Nguyên tắc của pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch .......................................................................................................................27

1.3. Nội dung của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch .................................................................................................27

1.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch ............27

1.3.2. Biện pháp xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch ..............................................................................................28

viii

1.3.3. Quy định về thẩm quyền xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ...................................................................28

1.4. Các yêu tố ảnh hưởng đến pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lịch vực du

lịch ..........................................................................................................................29

1.4.1.Yếu tố chính trị ...........................................................................................29

1.4.2. Trình độ, năng lực xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện về hành

vicạnh tranh trong lĩnh vực DVDL .....................................................................29

1.4.3. Yếu tố về ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý .........................................30

1.4.4. Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực du lịch ........................................................................30

Kết luận chƣơng 1 ...................................................................................................32

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ

THỰC TIỀN THỰC THI TẠI TỈNH QUẢNG NINH ........................................33

2.1. Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch ........................................................................................................33

2.1.1. Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch .......................................................................................................................33

2.1.2. Các quy định về hình thức xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực Dịch vụ du lịch ..................................................................34

2.1.3. Các quy định về thẩm quyềm xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch .............................................................................36

2.2. Tổng quan về tỉnh Quảng Ninh .......................................................................36

2.2.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiện ..................................................................36

2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội ............................................................................39

2.2.2.1. Tài chính, tín dụng .................................................................................39

2.2.2.2. Đầu tư, xây dựng ....................................................................................40

2.2.2.3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp .................................................40

2.2.2.4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản. ................................................41

2.2.2.5. Sản xuất công nghiệp .............................................................................42

ix

2.2.2.6. Thương mại, dịch vụ ..............................................................................42

2.2.2.7. An sinh xã hội .........................................................................................43

2.2.3. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế xã hội đến thực thi pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh tại tỉnh Quảng Ninh .............................................44

2.3. Thực trạng về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch trong thời gian

qua và thực tiễn xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn tại

tỉnh Quảng Ninh .....................................................................................................45

2.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất lợi dụng ........45

2.3.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất công kích ......48

2.3.3. Các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng ................................................51

2.3.4. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của các doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch ......................................................................51

2.3.5. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến quyền lợi của khách du

lịch .......................................................................................................................53

2.3.6. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại môi trường, cảnh quan thiên

nhiên du lịch ........................................................................................................54

2.4. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh .........55

2.4.1. Đánh giá tồn tại của hệ thống văn bản pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịc vụ du lịch ..................................................55

2.4.2. Đánh giá chung về việc thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ..........................67

Kết luận chƣơng 2 ...................................................................................................69

CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG

LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH THỰC TẠI TỈNH QUẢNG NINH ...............70

3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực thi hiệu quả pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ...................................................70

x

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch .............................................................................70

3.1.2. Định hướng thực thi hiệu quả pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt Nam ................................................80

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch ..........................................................................................75

3.2.1. Tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng góp ý kiến

của nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng chịu sự tác động của văn

bản quy phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL

.............................................................................................................................75

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực DVDL mang tính toàn diện, đảm bảo bao quát hết các

loại hành vi và chủ thể thực hiện hành vi nhằm cạnh tranh không lành mạnh ..76

3.2.3. Giải pháp đổi mới quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL đảm bảo tính khả thi .........78

3.2.4. Giải pháp nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quần

chúng nhân dân về pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung

và pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL nói riêng ...............................79

3.2.5. Giải pháp thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ............................................80

3.2.6. Một số đề xuất để hoàn thiện các giải pháp .............................................81

3.3. Một số giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh ..................90

3.3.1. Đối với cấp Tỉnh .......................................................................................90

3.3.2. Đối với cấp Sở ngành ...............................................................................84

3.3.3. Đối với các cơ quan liên quan ..................................................................85

KẾT LUẬN ..............................................................................................................87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................89

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Du lịch là một ngành kinh tế năng động của mọi nền kinh tế, phát triển với tốc

độ ngày càng nhanh trên phạm vi toàn thế giới. Những nhịp độ tăng trưởng cao và

dòng chảy đầu tư lớn vào du lịch có ảnh hưởng tích cực đến các khu vực kinh tế

khác nhau (nhà nước hoặc tư nhân) và tạo ra một ngành công nghiệp quan trọng -

công nghiệp du lịch. Du lịch chiếm 6% tổng sản phẩm quốc dân thế giới, 7% đầu tư

toàn cầu, 1/16 chỗ làm việc, 11% chi phí tiêu dùng thế giới. Dịch vụ du lịch trở

thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nhiều nước. Ngành du lịch phát

triển sẽ kéo theo sự phát triển của một loạt các ngành khác như vận tải, bưu điện,

thương nghiệp, tài chính, các hoạt động phục vụ sinh hoạt cá nhân, các dịch vụ phục

vụ nhu cầu giải trí, các hoạt động văn hoá thể thao... Mặt khác, hoạt động dịch vụ

du lịch còn có tác dụng tăng cường các mối quan hệ xã hội, tình hữu nghị và sự hiểu

biết lẫn nhau giữa các dân tộc, các quốc gia. Do đó, ngày nay không thể không nhận

thấy ảnh hưởng to lớn của dịch vụ du lịch đối với nền kinh tế thế giới. Với hiệu quả

như vậy, nhiều nước chú trọng phát triển du lịch, coi du lịch là một ngành kinh tế

quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của mình. Việt Nam cũng

không nằm ngoài con số đó. Việt Nam là một quốc gia có tiềm năng phát triển hoạt

động du lịch. Dịch vụ du lịch Quảng Ninh lại là một trong những điểm sáng vô

cùng tiềm năng, nơi hội tụ những vẻ đẹp tiềm ẩn, đầy quyến rũ; đã, đang và sẽ là

một điểm đến tuyệt vời cho những du khách thích chiêm ngưỡng cái đẹp, thích

khám phá cảnh quan thiên nhiên kỳ thú nơi đây. Tuy nhiên, đứng trên góc độ nhìn

nhận nào đó, dịch vụ du lịch Quảng Ninh chưa thực sự phát triển tương xứng với

tiềm năng to lớn này. Để đưa dịch vụ du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trên

địa bàn Quảng Ninh cần thiết có những giải pháp hữu hiệu để tháo gỡ những khó

khăn và hạn chế của thực trạng phát triển hoạt động dịch vụ du lịch của tỉnh. Tuy

nhiên làm như thế nào để đưa dịch vụ du lịch Quảng Ninh trở thành ngành kinh tế

mũi nhọn lại là vấn để cần được xem xét trong thời điểm thực tiễn này.Thực tế cho

thấy, trong lĩnh vực này đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến hoạt

động cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế

2

khác nhau, tác động xấu đến môi trường kinh doanh ở Việt Nam, như: Nội dung

quảng cáo không trung thực, sai lệch nhiều mặt, dùng những hình ảnh, cử chỉ, lời

nói gây phản cảm, vi phạm đạo đức truyền thống…

Với tính chất phức tạp và đa dạng, các hành vi cạnh tranh, cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch không nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của

Luật Cạnh tranh, được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 6 tháng 12/2004

và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005... và các văn bản hướng dẫn thi hành. Với các

phân tích ở trên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ chế bảo đảm thi

hành pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh gian dối, không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch có ý nghĩa quan trọng để vận dụng trong công cuộc phát

triển nền kinh tế, xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh ở

nước ta. Đây là cơ sở để học viên lựa chọn đề tài “Pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng

Ninh” để nghiên cứu và làm Luận văn thạc sĩ luật học của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung được rất nhiều

nhà nghiên cứu Luật học quan tâm, trong đó đã có khá nhiều công trình nghiên cứu

về vấn đề này ở Việt Nam. Tất cả các công trình này đều đã nêu ra được bản chất

pháp lý của cạnh tranh và hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, các bài

viết về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch chủ yếu mới dừng lại ở các

bài báo, tạp chí, báo mạng, khóa luận tốt nghiệp đại học hay được đề cập một phần

trong các công trình nghiên cứu về CTKLM mà chưa có công trình nào đi sâu

nghiên cứu về vấn đề hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Có thể kể đến

một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về CTKLM bao gồm: Đề tài Nghiên cứu

khoa học cấp bộ “Những nội dung cơ bản của Luật cạnh tranh Việt Nam năm 2004

và đề xuất áp dụng” của TS Tăng Văn Nghĩa, 2005; Đề tài Nghiên cứu khoa học

cấp bộ “ Những vấn đề đặt ra và giải pháp thực thi có hiệu quả Luật cạnh tranh

trong thực tiễn”, Đề tài Tiến sĩ “Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn (2008) do PGS.TS Nguyễn Như Phát hướng

dẫn khoa học của Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nôị; và một số bài báo, tạp chí

3

chuyên ngành cũng như rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề cạnh tranh không

lành mạnh, trong đó có đề cập đến vấn đề về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch

vụ du lịch.

Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học thì vấn đề pháp luật về hành vi CTKLM

trong lĩnh vực du lịch hầu như chưa có công trình nghiên cứu. Tuy nhiên, có một số

đề tài nghiên cứu khoa học đã công bố có liên quan đến nội dung của đề tài như:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Ngành Du lịch năm 2007 của tác giả Trần

Việt Dũng: Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt Nam trong giai

đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Đề tài đã làm rõ những vấn đề lý luận; đánh giá thực

trạngnăng lực cạnh tranh của ngành dịch vụ du lịch Việt Nam từ đó chỉ ra những

điểm mạnh, điểm yếu, thách thức và cơ hội đối với ngành du lịch Việt Nam trong

giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế. Học tập kinh nghiệm nâng cao năng lực cạnh

tranh của ngành du lịch ở một số nước có ngành du lịch phát triển trên thế giới.Đề

xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành du lịch Việt

Nam.

- Luận văn thạc sĩ năm 2009 của tác giả Vũ Thu Giang với tiêu đề: Cạnh

tranh không lành mạnh: Thực trạng và những đề xuất xử lý vi phạm ở Việt Nam,

của trường Đại học ngoại thương Hà Nội. Đề tài đã làm rõ những vấn đề lý luận cơ

bản về cạnh tranh, đánh giá thực trạng về CTKLM ở Việt Nam từ đó đưa ra đề xuất,

giải pháp xử lý thỏa đáng hành vi CTKLM ở Việt Nam.

Bài viết đăng trên Báo điện tử Tổng cục du lịch ngày 12 tháng 4 năm 2017 của

tác giả Minh Nhân - Vụ Thể thao và Du lịch có tựa đề: Tour giá rẻ, Tour 0 đồng:

Bản chất và giải pháp. Đã làm rõ những vấn đề của CTKLM trong các Tour du lịch

từ đó đưa ra đề xuất, giải pháp xử lý thỏa đáng hành vi CTKLM trong lĩnh vực

DVDL ở Việt Nam. Bài viết đăng trên Báo Thanh niên ngày 22 tháng 7 năm 2017

của tác giả Hà Mai có tựa đề: Cạnh tranh trên thị trường du lịch trực tuyến. Đã chỉ

ra thực trạng CTKLM trên thị trường du lịch trực tuyến. Và đưa ra được giải pháp

cho các doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường này.

Bài viết đăng trên báo điện tử Petro Times ngày 29 tháng 3 năm 2018 của tác

giả Thùy Trang có tựa đề: Doanh nghiệp du lịch bức xúc vì cạnh tranh không lành

4

mạnh. Đã chỉ ra những vấn đề bức thiết gây lo lắng cho các doanh nghiệp du lịch do

hành vi CTKLM .

Luận văn kế thừa một số vấn đề, nội dung mang tính chất lý luận chung và tập

trung nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch

vụ du lịch phân tích, luận giải thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng Ninh.

Tuy nhiên các đề tài này chủ yếu nghiên cứu về năng lực cạnh tranh của ngành

du lịch Việt Nam mà chưa nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật về hành vi CTKLM

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch theo pháp luật cạnh Việt Nam và thực tiễn thực thi tại

tỉnh Quảng Ninh.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng

Ninh từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về

hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Làm rõ những vấn đề lý luận về cạnh tranh và pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, CTKLM theo pháp luật Việt

Nam.

- Phân tích, đánh giá thực tiễn pháp luật về hành vi CTKLM trong dịch vụ du

lịch tại tỉnh Quảng Ninh

- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về dịch vụ du lịch tại tỉnh

Quảng Ninh

- Đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi

CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Tổ chức thực hiện pháp luật cạnh tranh về

du lịch

4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

5

Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch và thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng

Ninh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh được diễn ra trong hầu hết

các lĩnh vực kinh doanh, trong phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học, ngành luật

kinh tế học viên tập trung nghiên cứu pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch và thực tiễn thi hành pháp luật tại tỉnh Quảng

Ninh. Để làm sâu sắc hơn nội hàm đề tài nghiên cứu, trong phạm vi luận văn này,

học viên tập trung nghiên cứu về chế định pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch để đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn

thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt Nam

hiện nay nhằm điều chỉnh và kiểm soát hiệu quả các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.

Về thời gian: Luận văn nghiên cứu pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch từ khi có Luật Cạnh tranh năm 2004 cho tới

nay, khi nghiên cứu giải pháp hoàn thiện và thực thi pháp luật học viên đưa giải

pháp từ nay đến năm 2023 và tầm nhìn đến năm 2028.

Về không gian: Học viên nghiên cứu pháp luật thực tại của Việt Nam thực tiễn

thi hành tại tỉnh Quảng Ninh.

5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Đề tài được nghiên cứu trên nền tảng cơ sở lý luận về pháp luật về cạnh tranh

ở Việt Nam và về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn thi hành

tại tỉnh Quảng Ninh, thông qua đó làm rõ các vấn đề lý thuyết được đặt ra trong

luận văn.

Đề tài sẽ được triển khai nghiên cứu với phương pháp luận của chủ nghĩa duy

vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học bao gồm: Phương

pháp tổng hợp; phương pháp phân tích, thống kê; phương pháp so sánh; phương

pháp điều tra khảo sát thực tiễn... để hoàn thành luận văn.

6

Phương pháp tổng hợp và phân tích: Nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận

về cạnh tranh và thực trạng pháp luật CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt

Nam.

Phương pháp thống kê: Dùng để thống kê các văn bản quy phạm pháp luật,

các tài liệu khác liên quan đến đề tài.

Phương pháp so sánh: Luật học so sánh việc áp dụng các quy định của pháp

luật với thực trạng áp dụng pháp luật tại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du

lịch, so sánh các quy định của pháp luật hiện hành và các văn bản đã bị thay thế.

6. Ý nghĩa của luận văn

Với kết quả nghiên cứu của luận văn, đây có thể là tài liệu để các cá nhân, tổ

chức có thể tham khảo trong quá trình nghiên cứu khoa học cũng như áp dụng thực

tiễn công tác trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hành vi CTKLM trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu, nội dung chính của luật

văn gồm ba chương theo hướng đi từ những vấn đề chung mang tính khái quát đến

những vấn đề cụ thể hơn từ đó đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi

CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Bao gồm:

Chương 1. Một số vấn đề lý luận về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

Chương 2. Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh và thực tiễn hoạt động cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn thi hành tại tỉnh

Quảng Ninh.

Chương 3. Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh và tổ chức

thực hiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn

thi hành tại tỉnh Quảng Ninh.

7

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI

CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU

LỊCH

1.1. Một số vấn đề lý luận chung về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch

1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ

du lịch

1.1.1.1. Khái niệm về hành vi cạnh tranh không lạnh mạnh

Cho đến nay, vai trò của cạnh tranh trong việc cân bằng cung cầu trên thị

trường, tạo động lực đổi mới và phát triển cũng như bảo vệ quyền lợi cho người tiêu

dùng. Tuy nhiên, để đem lại những lợi ích như vậy, hoạt động cạnh tranh cần được

duy trì trong một khuôn khổ lành mạnh và tuân theo những nguyên tắc nhất định.

Có thể hiểu đơn giản hành vi cạnh tranh không lành mạnh là một thứ cạnh

tranh quá mức và vì thế gây tác dụng ngược. Nhà nghiên cứu người Pháp

Dominique Brault đã trích dẫn một so sánh mang tính hình tượng: “Cạnh tranh là

một thứ rượu, dùng đúng liều nó là chất kích thích, dùng quá liều nó trở thành thuốc

độc”. Nhà nước không chỉ có trách nhiệm không tạo ra lợi thế hay bất lợi cho một

đối thủ cạnh tranh, mà còn cần ngăn chặn việc các đối thủ cạnh tranh tạo ra lợi thế

cho mình bằng bất kỳ thủ đoạn nào họ muốn. Nếu không, trật tự kinh tế sẽ bị rối

loạn và nhiều doanh nghiệp trung thực bị gạt ra khỏi cuộc chơi. Xét một cách khái

quát, pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngăn chặn các hành vi của

doanh nghiệp nhằm tạo lợi thế cạnh tranh một cách không chính đáng trước các đối

thủ cạnh tranh khác. Những vụ việc thực tế về cạnh tranh không lành mạnh đều thể

hiện một bản chất chung theo đó doanh nghiệp toan tính đạt được thành công trên

thị trường không dựa trên nỗ lực của bản thân cải thiện chất lượng, giá cả của sản

phẩm, mà bằng cách chiếm đoạt những ưu thế của sản phẩm người khác hoặc tác

động sai trái lên khách hàng.

Tuy nhiên, xét cả về lý luận lẫn thực tiễn, khi cơ chế thị trường khuyến khích

các doanh nghiệp cạnh tranh tự do và sáng tạo, việc đánh giá tính chính đáng trong

hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp và đặt ra các giới hạn cho cạnh tranh lành

8

mạnh là khó khăn mà các nhà lập pháp có vẻ đã không giải quyết được triệt để và

trong nhiều trường hợp chỉ đề ra các tiêu chí khái quát chung và trao quyền cho cơ

quan thực thi pháp luật cạnh tranh tự đánh giá và quyết định ở những vụ việc cụ thể.

(Nguyễn Long, 2018, Tr.17).

Sự không rõ ràng trong khái niệm về cạnh tranh không lành mạnh được thể

hiện ngay tại một trong những định nghĩa pháp lý phổ biến nhất và lâu đời nhất của

nó, nằm tại Điều 10 bis Công ước Paris về Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp. Điều

khoản này được bổ sung được bổ sung vào Công ước năm 1900 và được sửa đổi lần

cuối theo Văn bản Stockholm năm 1967, theo đó bất kỳ hành vi cạnh tranh nào đi

ngược lại các thông lệ trung thực, thiện chí trong công nghiệp hoặc trong thương

mại đều là hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tại định nghĩa này, có thể thấy tiêu

chí đánh giá quan trọng nhất về tính lành mạnh không, lành mạnh của một hành vi

cạnh tranh là “các thông lệ trung thực và thiện chí” không rõ ràng và ổn định, ở mỗi

quốc gia có thể có những khác biệt phụ thuộc vào điều kiện kinh tế, văn hoá, xã hội

và lịch sử của quốc gia đó.

Trên thực tế, Điều 10 bis Công ước Paris đã có ý bỏ ngỏ khái niệm này cho

pháp luật quốc gia của các nước thành viên Công ước tự định đoạt. Tuy nhiên đến

cấp độ pháp luật quốc gia, tình hình cũng không có gì tiến triển hơn. Sự không rõ

ràng trong việc xác định phạm vi cạnh tranh không lành mạnh tiếp tục được thể

hiện trong pháp luật nhiều nước, tại Bỉ và Luxembourg các tiêu chí này được gọi là

“thông lệ thương mại trung thực”, tại Tây Ban Nha và Thuỵ Sỹ là “nguyên tắc ngay

tình”, tại Italia là “tính chuyên nghiệp đúng đắn”, tại Đức, Hy Lạp và Ba Lan là

“đạo đức kinh doanh”. Còn tại Hoa Kỳ, do thiếu định nghĩa trong các văn bản pháp

luật, các toà án đã xác định từ nguồn án lệ định nghĩa cạnh tranh lành mạnh là “các

nguyên tắc giải quyết trung thực và công bằng” hoặc “đạo đức thị trường”. Pháp

luật đã không đưa ra được chuẩn mực để nhận diện các hành vi cạnh tranh lành

mạnh, được chấp nhận trong kinh doanh. Tiêu chí “công bằng” hay “trung thực”

phản ánh các quan niệm đa chiều về kinh tế, xã hội, văn hoá, đạo đức, triết học …

tồn tại trong một xã hội, do đó sẽ khác nhau giữa các quốc gia hoặc thậm chí trong

cùng một quốc gia. Theo thời gian, các tiêu chí này cũng có thể thay đổi. Hơn nữa,

9

luôn có những hoạt động cạnh tranh không lành mạnh mới, khi tính sáng tạo trong

kinh doanh không có giới hạn. Mọi nỗ lực nhằm bao quát trong một định nghĩa tất

cả các hoạt động cạnh tranh hiện tại và tương lai, có thể đồng thời xác định mọi

hành vi bị ngăn cấm và linh hoạt đủ để thích nghi với những thông lệ thị trường

mới, cho đến nay vẫn thất bại (Lâm Vũ, 2017, Tr 23).

Luật Cạnh tranh năm 2004 Việt Nam đưa ra định nghĩa về cạnh tranh không

lành mạnh tại khoản 4 Điều 3 như sau: “Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là

hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với các chuẩn

mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại

đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc

người tiêu dùng”. (Luật VN 2004). Nhìn chung, định nghĩa về cạnh tranh không

lành mạnh của Luật Cạnh tranh năm 2004 tương tự với định nghĩa của Công ước

Paris và pháp luật các nước có nền kinh tế thị trường phát triển trên thế giới. Tuy

nhiên, tại định nghĩa này, một lần nữa có thể thấy tiêu chí đánh giá về tính chất

không lành mạnh của hành vi cạnh tranh chỉ được nêu chung chung là “các chuẩn

mực thông thường về đạo đức kinh doanh”. Công ước Paris ít nhất còn đưa ra hai

tiêu chí cụ thể là tính trung thực và tính thiện chí, để dựa vào đó cơ quan công

quyền đánh giá một hành vi cụ thể trên thực tế có tỏ ra trung thực và thiện chí hay

không. Đồng thời Công ước cũng khuyến nghị các nước tham gia cụ thể hóa các

tiêu chí đánh giá trong nội luật của mình để thuận tiện cho việc áp dụng pháp luật.

Pháp luật cạnh tranh Việt Nam chẳng những không đưa thêm được các tiêu chí

đánh giá mà còn giản lược hơn khi chỉ đề cập đến khái niệm đạo đức kinh doanh,

gây khó khăn cho việc xem xét hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thực tế:

- Thứ nhất, do nền kinh tế thị trường tại nước ta mới hình thành, các quan hệ

kinh doanh chưa đủ thời gian để trở thành tập quán và được chấp nhận rộng rãi.

Tầng lớp thương nhân của Việt Nam cũng chưa đủ đông và mạnh để có thể thống

nhất đặt ra những tiêu chuẩn chung, những hướng dẫn đóng vai trò quy tắc đạo đức

cho một ngành kinh doanh.

- Thứ hai, do pháp luật Việt Nam không thừa nhận án lệ, các cơ quan tài phán

của nước ta thường có vai trò hạn chế trong việc vận dụng pháp luật, nhất là trong

10

trường hợp chỉ có những quy định mang tính nguyên tắc như trường hợp về các

chuẩn mực đạo đức kinh doanh này. Các cơ quan công quyền cũng không đủ hiểu

biết thực tế để thay cho thương nhân đặt ra các quy tắc đạo đức trong một ngành

kinh doanh cụ thể. Do đó, quy định thiếu cụ thể đối với một nội dung có vai trò

định vị như vậy sẽ gây trở ngại lớn cho các hoạt động thực thi pháp luật cạnh tranh

tại Việt Nam.(Lâm Vũ, 2017, Tr 25).

1.1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, phân loại về dịch vụ du lịch

- Khái niệm

+ Khái niệm về dịch vụ

- Theo Từ điển Tiếng Việt: Dịch vụ là công việc phục vụ trực tiếp cho những

nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công (Từ điển Tiếng Việt,

2004, NXB Đà Nẵng, tr256)

Dịch vụ là vấn đề được nhiều nhà khoa học phân tích, luận giải. Mặc dù vậy,

hiện nay vẫn chưa có quan điểm thống nhất về dịch vụ. Dựa trên các căn cứ khác

nhau, các tác giả đưa ra các cách hiểu khác nhau về dịch vụ. Theo tác giả T.P. Hill:

“Dịch vụ là sự thay đổi về điều kiện hay trạng thái của con người hay hàng hoá

thuộc sở hữu của một chủ thể kinh tế nào đó do sự tác động của chủ thể kinh tế khác

với sự đồng ý trước của người hay chủ thể kinh tế ban đầu”. Theo Từ điển Bách

khoa Việt Nam năm 2012, dịch vụ là “những hoạt động phục vụ nhằm thoả mãn

nhu cầu sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt” . Do nhu cầu đa dạng và do sự phân

công lao động xã hội nên dịch vụ có thể được phân thành nhiều loại, như dịch vụ

phục vụ sản xuất kinh doanh, dịch vụ xã hội (giáo dục, y tế, giải trí), dịch vụ cá

nhân dưới hình thức những dịch vụ gia đình,... Như vậy, định nghĩa trong Từ điển

Bách khoa Việt Nam nhấn mạnh vào tính chất và mục tiêu của dịch vụ là những

hoạt động phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi đối tượng, từ nhà sản xuất,

doanh nghiệp đến người tiêu dùng. Từ những phân tích trên, học viên cho rằng dịch

vụ là sản phẩm của quá trình lao động sản xuất của con người. Nói cách khác, dịch

vụ là hoạt động có ý thức của con người được tiến hành nhằm đáp ứng nhu cầu của

con người trong xã hội. Dịch vụ có thể phát sinh ở mọi lĩnh vực như trong đời sống

hàng ngày, trong hoạt động sản xuất, trong hoạt động kinh doanh... Dịch vụ cũng có

11

thể phát sinh ở phạm vimột nước và cả ở phạm vi quốc tế. Chính điều này đã dẫn

đến một thực tế khách quan là nhiều tổ chức quốc tế (ví dụ WTO) đã đặt ra yêu cầu

là các thành viên phải có chính sách phù hợp để thúc đẩy dịch vụ phát triển trong

phạm vi thương mại quốc tế.

+ Khái niệm về du lịch

Ngày nay, du lịch đã trở thành một hiện tượng kinh tế xã hội phổ biến không

chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

Tuy nhiên, cho đến nay, không chỉ ở nước ta, nhận thức về nội dung du lịch vẫn

chưa thống nhất.

Do hoàn cảnh khác nhau, dưới mỗi góc độ nghiên cứu khác nhau, mỗi người

có một cách hiểu về du lịch khác nhau. Do vậy có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về

du lịch thì có bấy nhiêu định nghĩa.

Dưới con mắt của Guer Freuler thì “du lịch với ý nghĩa hiện đại của từ này là

một hiện tượng của thời đại chúng ta, dựa trên sự tăng trưởng về nhu cầu khôi phục

sức khoẻ và sự thay đổi của môi trường xung quanh, dựa vào sự phát sinh, phát

triển tình cảm đối với vẻ đẹp thiên nhiên”.

Kaspar cho rằng du lịch không chỉ là hiện tượng di chuyển của cư dân mà phải

là tất cả những gì có liên quan đến sự di chuyển đó. Chúng ta cũng thấy ý tưởng này

trong quan điểm của Hienziker và Kraff “du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và

hiện tượng bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của các cá nhân tại

những nơi không phải là nơi ở và nơi làm việc thường xuyên của họ”. (Về sau định

nghĩa này được hiệp hội các chuyên gia khoa học về du lịch thừa nhận)

Theo các nhà kinh tế, du lịch không chỉ là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà

nó phải gắn chặt với hoạt động kinh tế. Nhà kinh tế học Picara- Edmod đưa ra định

nghĩa: “du lịch là việc tổng hoà việc tổ chức và chức năng của nó không chỉ về

phương diện khách vãng lai mà chính về phương diện giá trị do khách chỉ ra và của

những khách vãng lai mang đến với một túi tiền đầy, tiêu dùng trực tiếp hoặc gián

tiếp cho các chi phí của họ nhằm thoả mãn nhu cầu hiểu biết và giải trí.”

Khác với quan điểm trên, các học giả biên soạn bách khoa toàn thư Việt Nam

đã tách hai nội dung cơ bản của du lịch thành hai phần riêng biệt. Theo các chuyên

12

gia này, nghĩa thứ nhất của từ này là “một dạng nghỉ dưỡng sức tham quan tích cực

của con người ngoài nơi cư trú với mục đích: nghỉ ngơi, giải trí, xem danh lam

thắng cảnh…”. Theo định nghĩa thứ hai, du lịch được coi là “một ngành kinh doanh

tổng hợp có hiệu quả cao về nhiều mặt nâng cao hiểu biết về thiên nhiên, truyền

thông lịch sử và văn hoá dân tộc, từ đó góp phần làm tăng thêm tình yêu đất nước,

đối với người nước ngoài là tình hữu nghị với dân tộc mình, về mặt kinh tế, du lịch

là lĩnh vực kinh doanh mang lại hiệu quả rất lớn; có thể coi là hình thức xuất khẩu

hàng hoá và dịch vụ tại chỗ.

Để tránh sự hiểu lầm và không đầy đủ về du lịch, chúng ta tách du lịch thành

hai phần để định nghĩa nó. Du lịch có thể được hiểu là:

+ Sự di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá

nhân hay tập thể ngoài nơi cư trú nhằm mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao tại

chỗ nhận thức về thế giới xung quanh, có hoặc không kèm theo việc tiêu thụ một số

giá trị tự nhiên, kinh tế, văn hoá và dịch vụ của các cơ sở chuyên cung ứng.

+ Một lĩnh vực kinh doanh các dịch vụ nhằm thoả mãn nhu cầu nảy sinh trong

quá trình di chuyển và lưu trú qua đêm tạm thời trong thời gian rảnh rỗi của cá nhân

hay tập thể ngoài nơi cư trú với mục đích phục hồi sức khoẻ, nâng cao nhận thức tại

chỗ về thế giới xung quanh. (Nguyễn Long, 2018, Tr.24).

Khi điều kiện kinh tế chưa phát triển, người ta coi du lịch như một hiện tượng

xã hội mang tính nhân văn nhằm làm phong phú thêm nhận thức con người và dịch

vụ du lịch là thoả mãn nhu cầu cho tầng lớp trên của xã hội kiếm được tiền ở một

nơi và đi tiêu tiền ở một nơi khác. Điều kiện kinh tế phát triển hơn, người ta nhận

thức được du lịch không còn là một hiện tượng xã hội đơn thuần mà còn là một hoạt

động kinh tế, trong đó những hoạt động dịch vụ phối hợp với nhau nhằm thoả mãn

nhu cầu của con người.

Khi kinh doanh du lịch phát triển, trở thành một hệ thống mang tính tổng hợp

trên phạm vi vùng miền không chỉ của một quốc gia thì người ta coi du lịch là một

ngành công nghiệp với toàn bộ các hoạt động mà mục tiêu là kết hợp giá trị của các

tài nguyên du lịch thiên nhiên và nhân văn với các dịch vụ, hàng hoá để tạo ra sản

phẩm du lịch, đáp ứng nhu cầu của du khách.

13

Pháp lệnh Du lịch (2/1999) do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước CHXHCN

Việt Nam quy định: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con

người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,

tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định (Pháp lệnh,

1999. Tr.57).

Có thể hiểu, du lịch là một phạm trù kép; một mặt có ý nghĩa thông thường là

sự di chuyển của con người với mục đích nghỉ ngơi giải trí, nhưng mặt khác nó bao

hàm hệ quả kinh tế tự thân khi những dịch vụ hỗ trợ và cung ứng nhằm thoả mãn

nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách, trong sự di chuyển đó.

Với quan niệm trên, sản phẩm du lịch cũng mang những nét đặc trưng cơ bản

không như các sản phẩm vật chất thuần tuý khác. Theo Từ điển du lịch (Tiếng Đức,

Nxb Kinh tế Berlinh, 1984) định nghĩa: "Sản phẩm du lịch là sự kết hợp những dịch

vụ và phương tiện vật chất trên cơ sở khai thác các tiềm năng du lịch nhằm cung

cấp cho du khách một khoảng thời gian thú vị, một kinh nghiệm du lịch trọn vẹn và

sự hài lòng" Theo nghĩa hẹp, thì sản phẩm du lịch là những gì du khách bỏ tiền ra

mua lẻ hoặc trọn gói trong chuyến đi của mình. Còn theo nghĩa rộng, đó là tổng hợp

những sản phẩm vô hình và hữu hình do con người và thiên nhiên tạo ra, có khả

năng thoả mãn nhu cầu vật chất và tinh thần cho du khách về nghỉ ngơi, giải trí và

những hoạt động có ích khác.

Theo Từ điển du lịch, lữ hành, lưu trú và ăn uống, (Tiếng Anh, Nxb

Butterworth Heinemann 1993) thì: Dịch vụ du lịch là kết quả của các hoạt động

kinh tế được thể hiện trong sản phẩm vô hình (phân biệt với hàng hoá vật chất) như

lưu trú, vận chuyển, dịch vụ tài chính, thông tin liên lạc, y tế và các dịch vụ cá nhân

.+ Khái niệm về dịch vụ du lịch

khác.

Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú,

ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp

ứng nhu cầu của khách du lịch. (Điều 4 – Luật du lịch năm 2017, tr.2)

- Đặc điểm về dịch vụ du lịch

14

Dịch vụ du lịch có những đặc điểm chung của dịch vụ: là kết quả mang lại nhờ

các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng và khách hàng và thông qua

việc đáp ứng nhu cầu khách hàng đó mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ

đó. Ngoài ra, dịch vụ du lịch còn có các đặc điểm mang tính đặc thù:

Thứ nhất: Tính phi vật thể - đây là đặc điểm quan trọng nhất của dịch vụ du

lịch. Người sử dụng dịch vụ không thể tiêu dùng trực tiếp dịch vụ đó trước khi mua

nó, nói cách khác quá trình sản xuất ra dịch vụ cũng gắn liền với quá trình tiêu thụ

nó. Dịch vụ đồng hành với sản phẩm vật chất nhưng nó lại tồn tại dưới dạng phi vật

chất nên người sử dụng chỉ có thể đánh giá được chất lượng của dịch vụ khi trực

tiếp sử dụng nó. Đặc điểm quan trọng này buộc các nhà cung cấp phải có trách

nhiệm trong việc tạo dựng thương hiệu thông qua cung cấp thông tin đầy đủ và

chính xác, chân thực và khách quan về những tiện ích và ưu việt của dịch vụ đối với

du khách để họ thực sự yên tâm và hài lòng về quyết định mua sản phẩm dịch vụ.

Về phía du khách: phải thận trọng và cần có sự nhìn nhận, lựa chọn nhà cung cấp

căn cứ trên uy tín thương hiệu, quảng cáo sản phẩm và tham khảo thêm những

người đã sử dụng dịch vụ trước khi quyết định mua dịch vụ cho mình.

Thứ hai: Tính đồng thời trong sản xuất và tiêu dùng sản phẩm dịch vụ. Khác

với các hàng hoá thông thường có quá trình sản xuất và tiêu dùng diễn ra ở từng

thời gian và địa điểm khác nhau, dịch vụ du lịch được sản xuất và tiêu dùng thường

diễn ra cùng lúc. Chính đặc điểm này quy định tính thời vụ trong loại hình kinh

doanh du lịch và nó làm cho công tác dự báo của ngành du lịch thực sự trở thành

một khoa học giúp các nhà hoạch định chiến lược nắm được cung - cầu trên thị

trường mà có hướng đầu tư phù hợp. Trên thực tế có nhiều bất cập xảy đến trong

quá trình quản lý và kinh doanh du lịch, nguyên nhân sâu xa chính vì chưa nắm thấu

đáo tính chất đặc thù này.

Thứ ba: Khách hàng là một bộ phận của cả quá trình sản xuất và tiêu thụ sản

phẩm. Tính đặc thù này được quy định bởi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm dịch vụ

diễn ra trong một thời gian và không gian nhất định nên không tạo ra khoảng cách

giữa người tiêu dùng và người sản xuất dịch vụ. Nói cách khác, người tiêu dùng

không chỉ hưởng thụ một cách thụ động sản phẩm dịch vụ được cung ứng, mà họ

15

còn trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất thông qua việc phản hồi của họ với

nhà cung cấp về chất lượng và mức độ hoàn thiện của sản phẩm. Thậm chí bằng

kinh nghiệm và trình độ cảm nhận của mình, du khách còn là người trực tiếp sáng

tạo ra các sản phẩm dịch vụ giúp cho nhà cung cấp tạo ra những sản phẩm nhằm

thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng.

Thứ tư: Quyền sở hữu không được chuyển giao khi mua và bán. Đây là một

đặc thù riêng có của loại hình sản phẩm dịch vụ khi đem trao đổi trên thị trường. Vì

là sản phẩm không thể di chuyển trong không gian, là sản phẩm phi vật thể và có

tính đồng nhất trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, nên khách hàng chỉ đang mua

quyền sử dụng sản phẩm chứ không hề mua được quyền sở hữu sản phẩm dịch vụ

đó. Khi quyền sử dụng của du khách không còn thì cũng là lúc nhà cung cấp toàn

quyền sở hữu đối với sản phẩm dịch vụ đó.

Sản phẩm du lịch gồm: Dịch vụ du lịch và giá trị tài nguyên thiên nhiên

- Phân loại dịch vụ du lịch

Dịch vụ du lịch gồm:

- Dịch vụ vận chuyển, nhằm đưa du khách từ nơi cư trú đến các điểm du lịch,

từ các điểm du lịch này đến điểm du lịch khác hoặc trong phạm vi một điểm du lịch

nào đó, bằng phương tiện nhất định.

- Dịch vụ lưu trú, ăn uống bao gồm các dịch vụ phục vụ du khách nghỉ ngơi,

thư giãn và lấy lại sức khoẻ trong hành trình du lịch của mình thông qua hệ thống

các khách sạn, nhà nghỉ, nhà hàng... nơi khách dừng chân.

- Dịch vụ vui chơi giải trí: là loại hình giúp du khách đạt được sự thoả mãn

cao trong mỗi chuyến đi. Bởi vậy, nên thời gian của du khách phần lớn được các

nhà tổ chức chuyên nghiệp hướng đến là đưa khách tham quan các khu du lịch, các

khu di tích, xem văn nghệ... thậm chí đến các sòng bạc, các bar café, sàn nhảy... TS.

Nguyễn Văn Mạnh, 2005, Tr.27)

Kinh tế càng phát triển thì nhu cầu được thoả mãn về tinh thần càng lấn át nhu

cầu mang tính vật chất thuần tuý, do đó, nhu cầu đi du lịch ngày càng có xu hướng

tăng cao trong cộng đồng dân cư. Nắm được điều này, các nhà kinh doanh du lịch

càng nghiên cứu đầu tư vào dịch vụ giải trí sẽ càng thu được lợi nhuận cao. Thái

16

Lan, Trung Quốc, Tây Ban Nha... là những quốc gia có kinh nghiệm và nhạy bén

trong việc tập trung đầu tư cho dịch vụ này nên chỉ trong vòng vài thập niên đã

nhanh chóng thu hút được tỉ lệ lớn khách du lịch đến từ các nước và nhờ đó đã đóng

góp được một phần đáng kể ngoại tệ cho phát triển kinh tế đất nước.

Ví dụ: Thái Lan năm 2004 đón 11,6 triệu khách du lịch quốc tế, thu ngoại tệ

đạt 9,6 tỷ USD. Khách du lịch nội địa đạt 74,8 triệu lượt khách, tạo thu nội tệ xấp xỉ

8 tỷ USD. Du lịch đóng góp cho GDP năm 2005 gần 15%. Ngoài ra, hoạt động du

lịch đã tạo ra trên 1,3 triệu việc làm gián tiếp và trực tiếp cho xã hội (Báo điện tử,

2018).

Hoặc Trung Quốc: hiện nay là quốc gia có thu nhập từ du lịch quốc tế lớn nhất

thế giới. Năm 2004, Trung Quốc đón 41,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế (nếu tính

cả khách tham quan du lịch trong ngày là 109 triệu lượt), thu nhập ngoại tệ từ du

lịch đạt 25,7 tỷ USD. Khách du lịch nội địa đạt 1,1 tỷ lượt khách, tạo thu nội địa

tương đương 65,7 tỷ USD. Du lịch tạo ra 38,93 triệu việc làm gián tiếp và trực tiếp

cho xã hội.

Cả hai cường quốc trên đều có ưu việt nổi trội trong hoạt động du lịch và có

nhiều kinh nghiệm phát triển kinh doanh du lịch. Hai nước này đều luôn coi du lịch

là quốc sách và có nhiều biện pháp nhằm tạo ra chiến lược sản phẩm du lịch tốt,

trong đó coi trọng việc đầu tư đồng bộ các loại hình dịch vụ giải trí cho du khách.

- Dịch vụ mua sắm: thực tế đây cũng là hình thức giải trí không thể thiếu trong

một chuyến đi du lịch của du khách, được thực hiện thông qua các siêu thị, cửa

hàng, làng nghề truyền thống, hàng mỹ nghệ, tạp hoá, vải lụa...

- Dịch vụ trung gian và bổ sung khác: y tế, công nghệ thông tin, Internet, sửa

chữa... tuy phụ trợ nhưng loại hình dịch vụ này cũng góp phần làm thoả mãn

chuyến đi của du khách và tham gia vào việc tạo nên một sản phẩm du lịch hoàn

chỉnh nơi khách dừng chân.

Ngoài ra, sản phẩm du lịch còn bao gồm cả giá trị tài nguyên thiên nhiên - một

bộ phận cấu thành quan trọng, nó đòi hỏi các nhà chuyên môn trong quản lý và điều

hành phải biết phối hợp và điều tiết quá trình cung ứng sản phẩm du lịch một cách

khoa học thực sự, mới đem lại hiệu quả kinh tế cao đồng thời thoả mãn được nhu

cầu của du khách.

17

Trong nền kinh tế hiện đại, tỉ trọng các ngành dịch vụ có xu hướng ngày càng

tăng, ở các nước tiên tiến có khi lên đến 75%, ở Việt Nam chiếm khoảng 40%. Nghị

quyết Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X đã chỉ rõ “Cơ

cấu ngành trong GDP năm 2010: Khu vực nông nghiệp khoảng 15-16%, công

nghiệp -xây dựng 43-44%, dịch vụ 40-41%”

1.1.2. Đặc điểm của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ

du lịch

Xuất phát khái niệm về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nêu trên, có thể

xác định một số đặc điểm cơ bản của hành vi cạnh tranh không lành mạnh như sau:

Thứ nhất: Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

trước hết là một hành vi cạnh tranh do chủ thể kinh doanh dịch vụ du lịch trên thị

trường thực hiện. Có thể phân tích vấn đề này trên hai khía cạnh:

- Một là, trên thị trường cạnh tranh, mỗi hành vi kinh doanh trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch của một doanh nghiệp cũng chính là hành vi cạnh tranh trong tương

quan với các doanh nghiệp khác, do đó mọi hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch đều có thể bị xem xét về tính chính đáng, phù hợp với thông lệ

hay đạo đức kinh doanh và pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh có thể can

thiệp vào nhiều hoạt động khác nhau của đời sống kinh tế. Đặc điểm này khiến cho

pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh tại một số quốc gia có thể có phạm vi áp

dụng rất rộng và điều chỉnh những hành vi đa dạng. Một ví dụ gần đây được nhiều

người biết đến là Điều 18 của Luật hành vi cạnh tranh không lành mạnh Nhật Bản

quy định về việc hối lộ cũng bị coi là một dạng hành vi cạnh tranh không lành

mạnh. Quy định này được bổ sung năm 1998 và được coi là sự nội luật hoá Công

ước của OECD về Chống hối lộ đối với quan chức nước ngoài trong giao dịch quốc

tế.

- Hai là, chủ thể thực hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh là các doanh

nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch trên thị

trường. Ở đây, khái niệm doanh nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ

chức hay cá nhân tham gia hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tìm kiếm lợi

nhuận một cách thường xuyên và chuyên nghiệp, hay sử dụng khái niệm của pháp

18

luật thương mại là có tư cách thương nhân trên thị trường. Trên một phạm vi rộng

hơn, các quy định về cạnh tranh không lành mạnh còn có thể áp dụng đối với hành

vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động có tổ chức (hiệp hội) và các cá nhân hành

nghề tự do (bác sỹ, luật sư, kiến trúc sư…). Và cuối cùng, liên quan đến trách

nhiệm cá nhân, theo một truyền thống chung của pháp luật cạnh tranh, một số quốc

gia còn mở rộng phạm vi đối tượng chịu trách nhiệm pháp lý về vi phạm đến các cá

nhân là lãnh đạo doanh nghiệp và không loại trừ các chế tài mang tính hình sự. Lấy

tiếp ví dụ tại Luật hành vi cạnh tranh không lành mạnh của Nhật Bản nêu trên, hình

phạt tối đa đối với các cá nhân vi phạm có thể lên đến 10 năm tù và 10 triệu yên tiền

phạt.

Thứ hai, đặc điểm thứ hai của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch đã được nhắc tới tại phần trên, đó là tính chất đối lập, đi ngược

lại các thông lệ tốt, các nguyên tắc đạo đức kinh doanh, có thể hiểu là những quy

tắc xử sự chung đã được chấp nhận rộng rãi và lâu dài trong hoạt động kinh doanh

trên thị trường. Đặc điểm này phần nào thể hiện nguồn gốc tập quán pháp của pháp

luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, các quy định về

cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch được hình thành và hoàn

thiện qua bề dày thực tiễn phát triển kinh tế xã hội, không thể một sớm một chiều

mà có được. Mặt khác, đặc điểm này cũng đòi hỏi cơ quan xử lý về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch phải có những hiểu biết và

đánh giá sâu sắc về thực tiễn thị trường để phán định một hành vi có đi ngược lại

những quy tắc xử sự chung trong kinh doanh tại một thời điểm nhất định hay

không.

Như đã phân tích ở phần trên, với nền kinh tế thị trường mới hình thành, các

thông lệ, tập quán thương mại tại Việt Nam chưa đủ thời gian để tạo thành các

chuẩn mực đạo đức kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch được các tổ chức, cá

nhân cùng nhận thức giống nhau và tự nguyên thực hiện như những quy tắc xử sự

có tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, người viết cho rằng vẫn có một số nguyên tắc

được khẳng định cả trong pháp luật và thực tiễn có thể sử dụng để đánh giá tính

lành mạnh của hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, cũng là những

19

nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự, thương mại được quy định tại văn bản luật

khác như Bộ luật Dân sự hay Luật Doanh nghiệp. Đó là các nguyên tắc như trung

thực, thiện chí, tự nguyện, hợp tác, hợp tác, cẩn trọng và mẫn cán…. Và những

nguyên tắc khác có thể được đề xuất trong tương lai phù hợp với yêu cầu thực tế

của công cuộc phát triển kinh tế xã hội.

Do đặt tiêu chí đánh giá tính lành mạnh của hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch dựa trên các thông lệ kinh doanh trung thực, thiện chí, pháp luật về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch luôn có trọng

tâm bảo vệ các doanh nghiệp trung thực, các chuẩn mực hành vi của doanh nghiệp

được xem là trọng tâm ban đầu để xây dựng các quy định trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch. Một hoạt động kinh doanh nhất định bị đa số trong cộng đồng doanh nghiệp

phản đối thì hiếm khi được coi là là cạnh tranh lành mạnh.

Mặt khác, một số thông lệ kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch được

công nhận trong một số lĩnh vực nhất định, song lại bị coi là sai trái ở những lĩnh

vực khác. Trong những trường hợp như vậy, việc đánh giá hành vi phải dựa trên các

chuẩn mực chung hơn về đạo đức kinh doanh, trong đó xem xét khả năng quyền lợi

của người du khách bị phương hại. Cũng có những trường hợp hành vi thoạt đầu

không gây hại cho du khách và các doanh nghiệp khác, nhưng về lâu dài vẫn có thể

ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế, do đó cần phải có biện pháp ngăn chặn thích

hợp. Do đó, để đánh giá một hành vi cạnh tranh không lành mạnh không trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch thể không xem xét tác động của hành vi đó đến du khách không

mà là cả doanh nghiệp khác.

Một khía cạnh khác cần phân tích liên quan đến đặc điểm đi ngược lại thông

lệ, chuẩn mực đạo đức kinh doanh của hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch, đó là yếu tố chủ quan của bên thực hiện hành vi. Một hành

vi cạnh tranh không lành mạnh điển hình luôn gắn với lỗi cố ý của bên vi phạm,

mặc dù biết hoặc buộc phải biết đến các thông lệ, chuẩn mực đặt ra đối với hoạt

động kinh doanh của mình nhưng vẫn cố tình vi phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn

xử lý, việc xem xét đánh giá yếu tố lỗi được trao cho toà án hoặc cơ quan xử lý vụ

việc, và nhiều trường hợp mang tính chất suy đoán hơn là đòi hỏi các bằng chứng

cụ thể về ý định cạnh tranh không lành mạnh của bên thực hiện hành vi. Và khi vấn

20

đề bảo vệ du khách được nhấn mạnh định hướng thực thi pháp luật về cạnh tranh

không lành mạnh thì việc xem xét yếu tố lỗi càng không mang tính quyết định. Về

nguyên tắc, một hành vi của doanh nghiệp cho dù chỉ là vô ý, bất cẩn nhưng gây

thiệt hại cho du khách cũng vẫn phải bị ngăn chặn.

Ba là, một hành vi cạnh tranh bị kết luận là không lành mạnh trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch và cần phải ngăn chặn khi nó gây thiệt hại hoặc có khả năng gây

thiệt hại cho các đối tượng khác. Đặc điểm này mang nhiều ý nghĩa về tố tụng và

đặc biệt được chú ý khi việc xử lý cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch

vụ du lịch được tiến hành trong khuôn khổ kiện dân sự và gắn liền với yêu cầu bồi

thường thiệt hại. Câu hỏi đặt ra là liệu việc chứng minh thiệt hại thực tế được coi là

bắt buộc để bắt đầu tiến trình xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh hay không?

Tuỳ thuộc vào quy định của từng quốc gia cũng như quan điểm của cơ quan xử lý,

có các cách thức nhìn nhận khác nhau về hậu quả của hành vi cạnh tranh không

lành mạnh. Trong nhiều trường hợp, cơ quan xử lý có thể chấp nhận việc “đe doạ

gây thiệt hại”, cũng như các thiệt hại không tính toán được cụ thể về cơ hội kinh

doanh là đủ để coi một hành vi cạnh tranh là không lành mạnh và đáng bị ngăn cấm.

(Chính phủ, 2013, Tr. 45).

Về đối tượng chịu thiệt hại, dễ thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch có thể tác động đến nhiều đối tượng khác nhau tham

gia thị trường khác nhau, trong đó hai nhóm cơ bản là các đối thủ cạnh tranh và du

khách. Điều 3 của Luật hành vi cạnh tranh không lành mạnh Đức cấm “các hành vi

cạnh tranh không lành mạnh có thể gây ảnh hưởng đáng kể về cạnh tranh làm tổn

hại đến các đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng và các chủ thể tham gia thị trường

khác”. Luật Cạnh tranh Việt Nam có đưa thêm một đối tượng có thể bị xâm hại là

Nhà nước, tuy nhiên đối tượng này không mang tính tiêu biểu, không phổ biến

trong quy định về cạnh tranh không lành mạnh của nhiều quốc gia, do chỉ có thể đặt

vấn đề bảo vệ lợi ích của Nhà nước trước hành vi cạnh tranh không lành mạnh tại

những nền kinh tế mà ở đó Nhà nước tham gia sâu vào hoạt động kinh doanh, và

cạnh tranh trực tiếp với các thành phần kinh tế khác trên thị trường. Trong đa số

21

trường hợp khác, lợi ích của Nhà nước đã được thể hiện thông qua lợi ích của các

nhóm chủ thể tham gia thị trường là doanh nghiệp và người tiêu dùng.

Trước đây, một số quốc gia có cách tiếp cận cứng khi xác định một hành vi là

cạnh tranh không lành mạnh ngay khi nó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cạnh

tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch mà không cần xem xét ảnh hưởng đến các đối

tượng khác, đặc biệt là du khách. Điển hình là Luật hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trước của Đức (ra đời năm 1909 và được thay thế bằng đạo luật mới năm

2004), trong đó cấm cả các chương trình khuyến mại giảm giá đặc biệt cho người

tiêu dùng và kéo dài quá 12 ngày. Hiện nay, cách nhìn nhận về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trở nên cân bằng hơn, cơ quan xử lý thường phải đánh giá cả thiệt

hại của người tiêu dùng và các đối tượng khác để kết luận về vi phạm. Cần thấy

rằng trong một phạm vi thị trường hữu hạn, doanh nghiệp thực hiện một hành vi

cạnh tranh bất kỳ cũng đều có khả năng gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh của

doanh nghiệp đó, do vậy, nếu chỉ căn cứ vào thiệt hại của các đối thủ cạnh tranh để

xác định một hành vi là không lành mạnh thì sẽ không đầy đủ. Trên thực tế, các

hành vi cạnh tranh gây thiệt hại cho đối thủ cạnh tranh khác nhưng đem lại lợi ích

thực tế cho du khách sẽ không bị coi là cạnh tranh không lành mạnh. Ví dụ điển

hình là trường hợp quảng cáo so sánh, trước đây bị coi là một trong những hành vi

cạnh tranh không lành mạnh điển hình, tuy nhiên từ sự cân nhắc lợi ích nó đem lại

cho du khách (tiết kiệm thời gian tìm kiếm, lựa chọn), mà hành vi này đến nay đã

được chấp nhận với những điều kiện ràng buộc về tính chính xác, đầy đủ của thông

tin để tránh bị các doanh nghiệp lợi dụng công kích đối thủ cạnh tranh. Việt Nam

hiện còn lại là một trong số rất ít các quốc gia trên thế giới cấm tuyệt đối các hình

thức quảng cáo trong lĩnh vực dịch vụ du lịch là so sánh trực tiếp, mà không cần xét

đến nội dung quảng cáo.

1.1.3. Phân loại các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch

vụdu lịch

Do tính chất không rõ ràng trong khái niệm cũng như phạm vi điều chỉnh đối

với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL, các nhà làm luật sử

dụng cách tiếp cận từ mặt trái trong việc xây dựng quy định điều chỉnh trong lĩnh

vực pháp luật này và luôn cố gắng xây dựng một danh sách các hành vi CTKLM bị

22

cấm. Nhìn chung, thông qua thực tiễn thương mại, người ta xác định được một số

hành vi luôn luôn bị coi là tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh. Có thể phân loại

các hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch theo hai loại nhóm:

+ Nhóm 1: Nhóm các hành vi bất chính

Xét một cách khái quát, các hành vi CTKLM được mô tả trên đây có cùng một

bản chất là việc tạo ra những lợi thế không chính đáng trong tương quan cạnh tranh

trên thị trường, và có thể được chia thành ba hành vi:

- Các hành vi mang tính chất lợi dụng;

- Các hành vi mang tính chất công kích;

- Các hành vi lừa dối, lôi kéo khách hàng

+ Nhóm 2: Nhóm các hành vi gây thiệt hại

Đối với các hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch cũng có thể Phân

loại theo Nhóm các hành vi gây thiệt hại như sau:

- Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của các doanh nghiệp

kinh doanh dịch vụ du lịch;

- Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến quyền lợi của khách du lịch;

- Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại môi trường, cảnh quan thiên

nhiên du lịch; (Luật cạnh tranh năm 2004, Tr.37)

1.2. Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ

du lịch

1.2.1. Khái niệm pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

Pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh ra đời sớm hơn pháp luật về hành vi

cạnh tranh. Các quy định chống hành vi cạnh tranh chỉ ra đời khi thị trường đã phát

triển và đạt được mức độ tập trung hoá nhất định dẫn đến sự hình thành các doanh

nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp mang quyền lực thị trường cần phải bị kiểm soát.

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh gắn liền với sự ra đời của thương

mại tự do tại Châu Âu thế kỷ 19, mà theo một số nhà nghiên cứu, khởi đầu từ Cách

mạng Pháp 1791. Hệ thống các phường hội thương mại đã duy trì và phát triển luật

chơi trong ngành một cách mạnh mẽ, trong khi người ta nhận thấy rõ rằng không

23

thể trông đợi các thương nhân đơn lẻ thực hiện hành vi cạnh tranh lành mạnh một

cách tự giác. Xuất phát từ Điều 1382 Bộ luật Dân sự Pháp về trách nhiệm bồi

thường thiệt hại dân sự nói chung, một loạt các án lệ về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh (concurrence deloyal) đã xuất hiện đem lại sự bảo vệ cho thương nhân

trước các hành vi gây nhầm lẫn, gièm pha, xâm phạm bí mật kinh doanh, cạnh tranh

“ăn bám” ... Trong khi đó, nước Đức từ chối mô hình của Pháp và sau gần một thế

kỷ đã ban hành một đạo luật riêng về cạnh tranh không lành mạnh (1909) trong đó

đưa ra các quy định giới hạn nghiêm ngặt hoạt động kinh doanh của thương nhân,

trong đó có những hành vi ngày nay được coi là rất thông thường trong thực tiễn

thương mại, như là khuyến mại, giảm giá. Còn ở trung tâm công nghiệp và pháp lý

thứ ba của Châu Âu thời kỳ đó là nước Anh, người ta không theo mô hình luật

chung kết hợp với án lệ của Pháp, cũng không theo mô hình luật riêng về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh của Đức. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

hệ thống Thông luật của Anh quốc chỉ gói gọn trong việc mô tả các hành vi gây

nhầm lẫn về nhãn hiệu (passing off), gắn liền với pháp luật về sở hữu trí tuệ, và sau

đó hệ thống pháp luật Hoa Kỳ cũng tiếp tục cách tiếp cận này trong việc điều chỉnh

cạnh tranh không lành mạnh.

Như vậy, có thể thấy pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh tương

đối đa dạng, bao gồm cả án lệ, luật tục, luật thành văn, trong đó luật thành văn có

thể la quy định chung của pháp luật về dân sự, thương mại, cũng có thể là một đạo

luật riêng về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hay là rải rác các quy định nằm

trong các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan.

Xét về góc độ pháp luật có thể định nghĩa khái niệm pháp luật về hành vi

CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch là: Hệ thống những quy phạm pháp luật

điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh do Nhà nước ban hành hoặc thừa

nhận, thể hiện ý chí của Nhà nước và là nhân tố điều chỉnh các quan hệ xã hội liên

quan đến cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch: quy định về chủ thể tham gia

cạnh tranh, chủ thể chịu ảnh hưởng, các chế tài xử lý, giải quyết kiến nghị, tranh

chấp của các DNDL và khách du lịch được quy định tại Luật du lịch và các văn bản

hướng dẫn thi hành và nằm rải rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác có

24

liên quan như: Luật CT, Luật Doanh nghiệp, luật bảo vệ môi trường nhằm định

hướng lĩnh vực này phát triển phù hợp với lợi ích, điều kiện kinh tế, chính trị, văn

hóa xã hội của đất nước.

Khoản 4 Điều 3 Luật Cạnh tranh quy định “hành vi CTKLM là hành vi của

doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái với với các chuẩn mực thông thường

về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà

nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người tiêu dùng”.

(Luật cạnh tranh, 2004, Tr 17).

Từ đó có thể đúc rút khái niệm của cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch như sau “CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch là hành vi của

doanh nghiệp kinh doanh DVDL trong quá trình kinh doanh lĩnh vực du lịch trái

với với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có

thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh

nghiệp khác hoặc khách du lịch, gây bất ổn cho thị trường du lịch và hình ảnh của

du lịch Việt Nam trong mắt khách du lịch trong và ngoài nước”

1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong ngành dịch vụ du lịch là một lĩnh

vực còn ít được quan tâm trong nghiên cứu và xử lý hành vi cạnh tranh ở các nước.

Một phần, đây là ngành kinh tế mới có sự phát triển chỉ trong vài thập niên gần đây,

một phần, tỉ trọng của dịch vụ du lịch trong nền kinh tế các nước phát triển hầu như

không đáng kể. Chính vì vậy, tác động của Ngành dịch vụ du lịch trong nền kinh tế

chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các nước có nền kinh tế nhỏ hoặc đang phát triển.

Nghịch lý là, chính ở các nước này, pháp luật và chính sách cạnh tranh còn rất sơ

khai, thêm vào đó, ý chí chính trị để xử lý các hành vi phản cạnh tranh trong Ngành

dịch vụ du lịch thường còn yếu do e ngại việc xử lý các doanh nghiệp có yếu tố

nước ngoài sẽ gây sụt giảm đầu tư và nguồn khách du lịch.

Hơn nữa, đối với các hành vi phản cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch,

lợi ích người tiêu dùng nội địa thường ít bị đe dọa trực tiếp, các doanh nghiệp nội

địa hoạt động trong cùng lĩnh vực lại có lợi ích chồng chéo nên ít có sự tố cáo khiếu

25

nại, vì vậy, cơ quan cạnh tranh các nước cũng ít quan tâm đến lĩnh vực này. Do đó,

số lượng các vụ việc liên quan đến hành vi cạnh tranh phát hiện trong Ngành dịch

vụ du lịch còn thấp và số lượng các vụ việc được đưa ra xử lý thực tế còn ít hơn

nhiều.

Tuy nhiên, hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

là nguy cơ thực tế do đặc thù của thị trường du lịch là có chỉ số tập trung tương đối

cao. Sản phẩm dịch vụ du lịch thường có khối lượng giao dịch thường xuyên và

mức cầu ổn định, ít tính thay đổi, sáng tạo. Vì vậy, các hành vi thông đồng ấn định

giá, phân chia thị trường, áp đặt giá dịch vụ bất hợp lý, áp đặt điều kiện hợp đồng

hoặc ngăn cản việc tham gia/gia nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh rất phổ

biến trong Ngành Du lịch.

Nền kinh tế càng nhỏ, càng khép kín thì khi mở cửa tư nhân hóa, mức độ tập

trung thị trường càng lớn. Các doanh nghiệp có vị thế thị trường thống lĩnh nhờ quá

trình điều tiết và bảo hộ trước đây vẫn sẽ tiếp tục chiếm vị trí thống lĩnh, mặc dù về

nguyên tắc, khi phi điều tiết theo cơ chế tự do phải có thêm nhiều doanh nghiệp mới

gia nhập. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp khai thác du lịch chịu rào cản gia

nhập ngành lớn vì đặc thù của ngành dịch vụ là lợi thế theo quy mô, càng có quy

mô lớn, số lượng khách lớn, chi phí càng thấp, dẫn đến mức giá rẻ và khả năng cạnh

tranh cao hơn.

Ở các nước đang phát triển, hình thức về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

tương đối phổ biến là việc bán dưới giá thành nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Hình

thức này có thể ở dạng giảm giá giả tạo, nghĩa là đưa ra mức giá chào bán tour và

dịch vụ du lịch thấp hơn nhiều các doanh nghiệp lữ hành khác, nhằm lôi kéo khách

hàng sử dụng dịch vụ. Thực tế, doanh nghiệp lữ hành lại cấu kết với các doanh

nghiệp cung ứng các dịch vụ khác (thuốc, đồ lưu niệm, quà tặng đặc chủng của địa

phương...) nhằm thu lợi bất chính từ việc bán chênh nhiều lần các mặt hàng này, có

trường hợp chênh đến cả 100 lần so với mức giá bán lẻ ngoài thị trường. Thậm chí,

có trường hợp doanh nghiệp lữ hành tự mở các doanh nghiệp sân sau cung cấp các

dịch vụ bán hàng này khiến cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính không thể

cạnh tranh nổi về giá.

26

Một đặc điểm khác liên quan đến hành vi cạnh tranh KLM mà các doanh

nghiệp dịch vụ du lịch ở các nước đang phát triển phải đối mặt là việc phụ thuộc và

bị ép giá khi liên kết cung cấp dịch vụ du lịch cho khách nước ngoài. Các công ty lữ

hành quốc tế với tiềm lực kinh tế lớn và với lợi thế nắm nguồn cung khách có khả

năng thao túng đáng kể mức giá cung ứng dịch vụ mà các doanh nghiệp sở tại cung

cấp. Các công ty này còn buộc các doanh nghiệp địa phương phải ký các hợp đồng

độc quyền, chỉ cung cấp dịch vụ cho một bên mà không được bán hoặc giới thiệu

cho các khách khác. Ngay từ năm 1998, báo cáo của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về

thương mại và phát triển (UNTACD) liên quan đến Ngành dịch vụ du lịch đã chỉ ra

rằng, các dịch vụ liên quan đến du lịch do các nước đang phát triển cung cấp phải

chịu sự cạnh tranh lớn từ các công ty lữ hành đa quốc gia vì các doanh nghiệp cung

cấp các dịch vụ này hầu hết đều là các doanh nghiệp nhỏ, không có vị thế và kỹ

năng thương thuyết nên thường phải chịu các hợp đồng bất lợi.

Đối với các nước phát triển, hình thức cạnh tranh KLM phổ biến nhất trong

lĩnh vực du lịch là hành vi cạnh tranh do các doanh nghiệp lữ hành lớn (thường là

đa quốc gia) và hành vi cạnh tranh do các doanh nghiệp vận tải hàng không gây ra.

Hành vi cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành đa quốc gia gây thiệt hại không

chỉ cho các doanh nghiệp du lịch ở các nước đang phát triển, mà chính người tiêu

dùng ở các nước phát triển cũng chịu thiệt hại do không thể xác định được giá giao

dịch thực giữa các doanh nghiệp lữ hành này với các bên cung cấp dịch vụ tại điểm

đến. Đối với hành vi cạnh tranh liên quan đến các doanh nghiệp vận tải hàng không,

đối tượng thiệt hại chính là các doanh nghiệp lữ hành, vì nhờ vị thế thị trường lớn,

và thường là thống lĩnh, các doanh nghiệp vận tải hàng không có khả năng áp đặt

các doanh nghiệp lữ hành phải ký các hợp đồng độc quyền.

Cuối cùng, phải kể đến xu thế cartel hóa khu vực giữa các doanh nghiệp lữ

hành của các nước phát triển. Xu thế này diễn ra giữa các nhóm doanh nghiệp lữ

hành có hoạt động kinh doanh trong cùng một khu vực để đối chọi với các nhóm

doanh nghiệp lữ hành thuộc khu vực khác, ví dụ nhóm kinh doanh thị trường Caribe

với nhóm kinh doanh thị trường Địa Trung Hải. Các doanh nghiệp kinh doanh sản

phẩm du lịch trên cùng một địa bàn sẽ thống nhất chiến lược marketing, tài trợ các

27

quảng cáo nhằm thúc đẩy thị trường. Tuy nhiên, các hoạt động này thường hay biến

tướng thành các dạng thống nhất hành vi nhằm giảm bớt cạnh tranh trên thị trường,

thông qua việc thông đồng ấn định giá. (Chính phủ, 2005, Tr. 40)

1.2.3. Chủ thể của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

Chủ thể của pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch đó là

“tất cả các doanh nghiệp kinh doanh du lịch trong quá trình cạnh tranh trên lĩnh vực

dịch vụ du lịch vì lợi nhuận có thể gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, doanh

nghiệp khác và người tiêu dùng (khách du lịch)”

Như vậy chủ thể thực hiện hành vi CTKLM trong lĩnh vực là các doanh

nghiệp kinh doanh du lịch tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường. Ở đây,

khái niệm doanh nghiệp du lịch được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm mọi tổ chức

hay cá nhân tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận một cách thường xuyên và

chuyên nghiệp, hay sử dụng khái niệm của pháp luật thương mại là có tư cách

thương nhân trên thị trường du lịch. Trên một phạm vi rộng hơn, các quy định về

CTKLM còn có thể áp dụng đối với hành vi của các nhóm doanh nghiệp hoạt động

có tổ chức (hiệp hội du lịch) và các cá nhân hành nghề tự do (hướng dẫn viên, lái xe

du lịch…).

1.2.4. Nguyên tắc của pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch

Do đặt tiêu chí đánh giá tính lành mạnh của hành vi CTKLM trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch dựa trên các nguyên tắc thông lệ kinh doanh “trung thực, thiện chí”,

pháp luật về CTKLM luôn có trọng tâm bảo vệ các doanh nghiệp kinh doanh du

lịch “trung thực”

1.3. Nội dung của pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

1.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch

Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh theo quy định tại Điều 39 Luật cạnh

tranh bao gồm:

- Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;

28

- Xâm phạm bí mật kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch;

- Ép buộc trong kinh doanh dịch vụ du lịch;

- Gièm pha doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch khác;

- Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch khác;

- Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực dịch vụ du

lịch;

- Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;

- Phân biệt đối xử của hiệp hội;

- Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác theo tiêu chí xác định tại

khoản 4 Điều 3 của Luật Cạnh tranh năm 2004 do Chính phủ quy định. (Luật cạnh

tranh, 2004, tr.18)

1.3.2. Biện pháp xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch là hành vi

gây nguy hại cho xã hội, gây thiệt hại trực tiếp đến du khách, cho các đối thủ cạnh

tranh nói riêng và cho môi trường cạnh tranh nói chung. Vì thế, Nhà nước áp dụng

các chế tài phù hợp là tổng hợp các biện pháp xử lý buộc các chủ thể đó phải gánh

chịu những hậu quả bất lợi do đã có hành vi cạnh tranh không lành mạnhtrong lĩnh

vực dịch vụ du lịch gây thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Các chế tài này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của các doanh nghiệp, chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh của các

doanh nghiệp đối thủ; bảo vệ quyền lợi của cho du khách; là công cụ góp phần tạo

lập môi trường kinh doanh và cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng, công bằng. (Điều

71 Luật cạnh tranh, 2004, Điều 72 Luật cạnh tranh năm 2018).

1.3.3. Quy định về thẩm quyền xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 49 Luật cạnh tranh và Điều 40 Nghị định

71/2014/NĐ-CP, thẩm quyền xử lý hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch thuộc về cơ quan quản lí cạnh tranh. Riêng hành vi chỉ dẫn gây

nhầm lẫn và hành vi xâm phạm bí mật kinh doanh là hành vi cạnh tranh không lành

29

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch được quy định ở cả Luật cạnh tranh và luật sở

du lịch nên thẩm quyền xử lý thuộc cả hai cơ quan là cục quản lý cạnh tranh và

thanh tra ngành du lịch. Trường hợp này, chủ thể có quyền có thể lựa chọn một

trong các cơ quan để yêu cầu giải quyết, hoặc nếu đồng thời nộp đơn yêu cầu nhiều

cơ quan có thẩm quyền thì cơ quan thụ lý đầu tiên có thẩm quyền giải quyết. ( Luật

cạnh tranh năm 2004).

1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lịch vực

du lịch

1.4.1.Yếu tố chính trị

Yếu tố về chính trị có ảnh hưởng mang tính định hướng, chỉ đạo quan trọng

đối với việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Ở

Việt Nam, yếu tố về chính trị thể hiện chủ yếu trong chủ trương, quan điểm của

Đảng Cộng sản Việt Nam. Việc xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, cạnh

tranh bình đẳng và công bằng là một trong những vấn đề được Đảng ta đặc biệt

quan tâm. Nhà nước có trách nhiệm thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng tổ

chức thực hiện chính sách, pháp luật, bảo đảm các loại thị trường ngày càng hoàn

thiện và vận hành thông suốt, cạnh tranh công bằng, bình đẳng và kiểm soát độc

quyền kinh doanh; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp, cải

thiện môi trường đầu tư kinh doanh.

1.4.2. Trình độ, năng lực xây dựng pháp luật và tổ chức thực hiện về hành vi

cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL

Kết quả việc hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ

du lịch phụ thuộc rất nhiều vào trình độ, năng lực xây dựng pháp luật. Trước hết,

các cơ quan xây dựng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch phải

nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng về xây dựng trật tự kinh doanh lành

mạnh, công bằng trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, khuyến khích cạnh tranh và phát

triển kinh doanh một cách lành mạnh. Trên cơ sở đó, xác định rõ ràng mục tiêu của

văn bản, phạm vi điều chỉnh, đối tượng điều chỉnh của văn bản quy phạm pháp luật

mà mình có trách nhiệm xây dựng. Đặc biệt, năng lực phân tích chính sách, xây

30

dựng báo cáo tác động của văn bản pháp luật về cạnh tranh tới đời sống có ý nghĩa

hết sức quan trọng đối với chất lượng, hiệu quả của văn bản quy phạm pháp luật.

1.4.3. Yếu tố về ý thức pháp luật và văn hóa pháp lý

Ý thức pháp luật là tiền đề tư tưởng trực tiếp để xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật, là nhân tố thúc đẩy việc thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội,

là cơ sở bảo đảm áp dụng đúng đắn các quy phạm pháp luật. Còn văn hóa pháp lý

(còn gọi là văn hóa pháp luật) được hiểu “là sự hiểu biết và chuyển hóa các quy

phạm pháp luật vào hành vi ứng xử của con người”.

1.4.4. Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực du lịch

Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004 nhiệm vụ quản lý nhà nước về

cạnh tranh thuộc Bộ Công thương. Các cơ quan quản lý nhà nước về cạnh tranh cần

phải có sự phối kết hợp trong việc xem xét, đánh giá và quản lý các hoạt động cạnh

tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.

Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước về cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực du lịch không nằm ngoài mục đích hỗ trợ và tạo điều kiện cho du

lịch phát triển nhanh và bền vững. Theo đó, các doanh nghiệp sử dụng tất cả các

biện pháp có thể để can thiệp vào công tác này nhằm tạo ra môi trường du lịch lành

mạnh, phân bổ nguồn lực một cách tối ưu và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển

xã hội một cách hài hòa, phù hợp với giá trị truyền thống và văn hóa của một quốc

gia, một vùng, một địa phương. Mặt khác, với tính chất là một ngành KT-XH mang

lại những hiệu quả tổng hợp, cũng như các ngành kinh tế khác, du lịch muốn phát

triển bền vững không thể đặt ngoài sự quản lý của một quốc gia, một địa phương

hay một vùng.

Vai trò của các cơ quan quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực du lịch được thể hiện ở những khía cạnh sau:

Thứ nhất, tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch đều

không thể không có sự quản lý của Nhà nước. Từ quản lý của Nhà nước mà các

doanh nghiệp định hình được phương hướng nhiệm vụ đưa ra hướng đi tốt nhất

trong hoạt động quản lý phục vụ khách du lịch của doanh nghiệp mình. Nhờ đó mà

hoạt động du lịch sẽ vận động theo hai hướng vừa tích cực, vừa tiêu cực. Đó là quy

31

luật vận động của nền kinh tế thị trường nói chung. Vai trò của công tác quản lý thể

hiện ở chỗ, Nhà nước trên cơ sở nắm bắt những quy luật vận động khách quan của

nền kinh tế, định hướng cho hoạt động phục vụ khách du lịch phát triển theo hướng

tích cực, hạn chế tiêu cực để nhanh chóng đạt được các mục tiêu đã đề ra. Nhà nước

tạo cơ sở pháp lý, có chính sách khuyến khích các tổ chức và cá nhân tham gia hoạt

động phục vụ khách du lịch.

Thứ hai, khi tham gia quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực du lịch đôi khi các vấn đề như về môi trường, an ninh, an toàn

cho du khách cũng như các vấn đề về hợp tác quốc tế và vấn đề về thủ tục hành

chính trong du lịch không theo ý muốn nên cần có sự quản lý chặt chẽ, đưa những

vấn đề đó chở nên đơn giản và giải quyết gọn nhẹ, mang lại lòng tin cho du khách.

Thứ ba, du lịch là ngành có định hướng tài nguyên.Vì thế, trong quá trình hoạt

động, tổ chức và doanh nghiệp du lịch thường hay chỉ quan tâm đến lợi nhuận riêng

của mình mà không quan tâm đến việc bảo vệ tài nguyên du lịch. Do vậy, cũng cần

phải tham gia vào việc phân phối và sử dụng tài nguyên bằng việc ban hành các quy

định về duy trì và bảo vệ tài nguyên du lịch cho khu vực khai thác sử dụng của

doanh nghiệp du lịch.

Thứ tư, công tác quản lý Nhà nước về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực du lịch phục vụ khách du lịch thực chất cũng là để doanh nghiệp du

lịch bảo vệ lợi ích của chính mình. Bởi vì bất cứ một hoạt động KT-XH nào cũng

các mô hình quản lý riêng của mình, đảm bảo lợi ích thiết thực cho khách du lịch.

Thứ năm, du lịch là một ngành KT-XH liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh

vực khác. Để du lịch phát triển tốt, các doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực này

cần đưa ra những quy định riêng nhằm điều hòa lợi ích cũng như đảm bảo sự hỗ trợ

phát triển giữa du lịch với các ngành, lĩnh vực có liên quan.

32

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

Nội dung chương 1 đã khái quát cho chúng ta các khái niệm cơ bản liên quan

đến du lịch như khái niệm về du lịch, khách du lịch và vai trò của ngành du lịch đối

với sự phát triển kinh tế, xã hội. Và khái niệm cơ bản về Phát luật cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch như: Khái niệm, đặc điểm, vai trò các các

yếu tố đánh giá pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch...

Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng

điểm phía Bắc đồng thời là một trong bốn trung tâm du lịch lớn của Việt Nam với

Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long đã hai lần được UNESCO công nhận về

giá trị thẩm mỹ và địa chất, địa mạo.Tuy nhiên vẫn chưa phát triển hết tiềm năng và

vị thế vốn có. Chính vì vậy, việc đề ra những định hướng, giải pháp nhằm hoàn

thiện Pháp luật về hành vicạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch, thực tiễn thi hành tại tỉnh Quảng Ninh là rất cần thiết để phát triển du lịch

Quảng Ninh một cách bền vững.Tại chương một tác giả đã đi sâu, nghiên cứu hệ

thống hoá những vấn đề lý thuyết cơ bản về Pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, làm cơ sở để đi vào thực trạng về việc

Pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở

chương 2 và làm cơ sở để đánh giá, đưa ra các giải pháp tại chương 3 của luận văn

này.

33

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH

KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THỰC

TIỀN THỰC THI NHÌN NHẬN QUA THỰC TẾ TẠI TỈNH QUẢNG NINH

2.1. Thực trạng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh

vực dịch vụ du lịch

2.1.1 Các quy định về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du

lịch

Hiện nay không có quy định cụ thể chi tiết riêng biệt về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch được hướng dẫn chi tiết Luật cạnh

tranh năm 2004. Nhưng căn cứ vào các hành vi nằm trong hành vi cạnh tranh không

lành mạnh thì có thể xác định được một số quy định của pháp luật điều chỉnh vấn

đề, theo luật cạnh tranh năm 2004 và đối chiếu các hành vi trong lĩnh vực DVDL

không có hành vi CTKLM bán hàng đa cấp bất chính còn các hành vi còn lại đều

xảy ra trong thực tế và nằm rải rác trong quy định của pháp luật về cạnh tranh và du

lịch. Tác giả sẽ đề cập các hành vi xảy ra trong thực tế vi phạm luật cạnh tranh

trong phần thực tranh CTKLM trong lĩnh vực DVDL thời gian qua.

Mặc dù Luật cạnh tranh năm 2004 và Luật Du lịch 2017 đã điều chỉnh tương

đối chi tiết và đầy đủ các loại hành vi CTKLM trong lĩnh vực DVDL, song các

hành vi CTKLM trong lĩnh vực này xảy ra dưới nhiều hình thức khác nhau và ngày

càng đa dang, tinh vi và luôn được thay đổi, cải biến theo thị trường du lịch, gây

hậu quả ngày càng nghiêm trong đến doanh nghiệp du lịch làm ăn chân chính và

người tiêu dùng.

Thực trạng pháp luật cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL nước

ta hiện nay vẫn còn nhiều bất cập liên quan đến hiệu lực của các quy phạm pháp

luật và hiệu quả thi hành. Các quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành

mạnh và chế tài xử lý vi phạm vẫn thiếu đồng bộ và chưa được pháp điển hoá trong

một văn bản pháp luật. Hệ thống văn bản dưới luật quy định về vấn đề này còn

nhiều, khi áp dụng luật thường phải dẫn chiếu đến các quy định hướng dẫn thi hành.

Hiện tượng vi phạm pháp luật cạnh tranh vẫn diễn ra phổ biến, chưa được phát hiện

kịp thời và xử lý nghiêm minh. Ý thức đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực trong

34

hoạt động cạnh tranh của các doanh nghiệp chưa cao, người tiêu dùng còn thiếu

hiểu biết để tự bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Vì vậy, cạnh tranh

không lành mạnh vẫn diễn ra ở nhiều lĩnh vực dịch vụ du lịch khác nhau và biểu

hiện ở nhiều dạng hành vi khác nhau trong quan hệ kinh doanh, thương mại diễn ra

trên thị trường du lịch.

2.1.2. Các quy định về hình thức xử lý đối với hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực Dịch vụ du lịch

+ Xử lý hành chính

Theo quy định của Luật Cạnh tranh năm 2004, các hình thức chế tài xử lý vi

phạm về cạnh tranh không lành mạnh trong lịch vực DVDL chủ yếu là các chế tài

hành chính, được quy định trong các quy phạm pháp luật mang tính xử phạt và khắc

phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra (Điều 117). Các hình thức xử lý đó đã được

Nghị định 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định chi tiết, bao

gồm:

Hình thức xử phạt chính: Phạt tiền đến 100 triệu đồng.

Các hình thức xử phạt bổ sung gồm: Tịch thu tang vật, phương tiện được sử

dụng để thực hiện hành vi vi phạm, bao gồm cả tịch thu toàn bộ khoản lợi nhuận thu

được từ việc thực hiện hành vi vi phạm.

Ngoài các hình thức xử phạt đó, đối tượng vi phạm còn có thể bị áp dụng biện

pháp khắc phục hậu quả: Buộc cải chính công khai.

+ Xử lý hình sự

Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực DVDL được quy định tại Chương XVI "Các tội xâm phạm trật

tự quản lý kinh tế" của Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi năm 2009, biểu hiện

dưới các tội danh như: tội lừa dối khách hàng (Điều 162); tội quảng cáo gian dối

(Điều 168); tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (Điều 171); ...

Hình phạt áp dụng đối với các tội danh trên thường là phạt tiền, cải tạo không

giam giữ hoặc tù có thời hạn. Một số trường hợp bị áp dụng hình phạt rất nặng như

tù chung thân hoặc tử hình. Ngoài ra, còn có thể áp dụng các biện pháp tịch thu một

phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định.

35

+Xử lý dân sự

Bồi thường thiệt hại là một chế định quan trọng trong hệ thống chế tài áp dụng

đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vụ DVDL. Chức năng chủ

yếu của bồi thường thiệt hại là khôi phục, đền bù, nhằm bù đắp những tổn thất về

vật chất và tinh thần mà bên mang quyền phải gánh chịu do hành vi vi phạm các

quy tắc trong kinh doanh của bên kia gây ra. Vì vậy, pháp luật cạnh tranh của nước

nào cũng quy định chế tài này.

Theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam, khi áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại

thì phải dẫn chiếu đến pháp luật dân sự. Vấn đề khởi kiện đòi bồi thường thiệt hại

đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ được áp dụng theo các quy định về

trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, tại Chương XXI của Bộ luật Dân

sự năm 2005 và pháp luật có liên quan.

Yêu cầu bồi thường thiệt hại là một quyền mặc định được pháp luật thừa nhận,

nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các chủ thể kinh doanh. Vì vậy, chế tài bồi

thường thiệt hại có thể áp dụng đồng thời với các chế tài khác.

+ Mối quan hệ giữa các hình thức xử lý

Các hình thức xử lý có bản chất, nội dung, hậu quả trái ngược nhau thì không

thể áp dụng đồng thời. Các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực DVDL có tính độc lập nhất định, trừ một số biện pháp bổ sung, khắc

phục hậu quả trong các chế tài hành chính.

Đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL, không có

sự chuyển hóa giữa vi phạm hành chính với tội phạm theo lý thuyết thông thường.

Hậu quả không phải là căn cứ tiên quyết để xác định áp dụng xử lý hành chính hay

xử lý hình sự, vì thiệt hại luôn là dấu hiệu bắt buộc trong việc xác định hành vi cạnh

tranh không lành mạnh. Tính chất nguy hiểm của hành vi không căn cứ vào sự phân

tích tầm quan trọng của quan hệ xã hội mà hành vi xâm hại, mà căn cứ vào những

viện dẫn của Điều luật.

Những chế tài mang tính trách nhiệm vật chất thường có thể áp dụng đồng thời

với các chế tài khác. Vì vậy, khi doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực DVDL thực

hiện hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ra thiệt hại cho chủ thể khác thì tất

36

yếu phải chịu trách nhiệm bồi thường dân sự. Nghĩa là xử lý bồi thường thiệt hại có

thể áp dụng đồng thời với việc xử lý hành chính hoặc xử lý hình sự.

2.1.3. Các quy định về thẩm quyền xử lí hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

Theo Điều 119. Thẩm quyền xử phạt, xử lý vi phạm pháp luật về cạnh tranh

của Luật cạnh tranh năm 2004 thì:

Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh có các quyền hạn sau

đây:

a) Phạt cảnh cáo;

b) Phạt tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 118 của Luật này;

c) Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh

tranh;

d) Áp dụng các biện pháp quy định tại các điểm c, d và đ khoản 3 Điều 117

của Luật này;

đ) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi giấy chứng nhận đăng ký

kinh doanh, tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề;

e) Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp quy định

tại điểm a và điểm b khoản 3 Điều 117 của Luật này.

Cơ quan quản lý cạnh tranh có quyền áp dụng các biện pháp quy định tại điểm

a khoản 1, điểm b khoản 2, điểm c khoản 3 Điều 117 và khoản 2 Điều 118 của Luật

này. Các cơ quan khác có thẩm quyền xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về

cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL liên quan đến quyền sở hữu trí

tuệ theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.

2.2. Tổng quan về tỉnh Quảng Ninh

2.2.1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiện

a. Vị trí địa lý

Quảng Ninh có toạ độ địa lý khoảng 106o26' đến 108o31' kinh độ đông và từ

20o40' đến 21o40' vĩ độ bắc. Bề ngang từ đông sang tây, nơi rộng nhất là 195 km.

Bề dọc từ bắc xuống nam khoảng 102 km. Điểm cực bắc là dãy núi cao thuộc thôn

Mỏ Toòng, xã Hoành Mô, huyện Bình Liêu. Điểm cực nam ở đảo Hạ Mai thuộc xã

Ngọc Vừng, huyện Vân Đồn. Điểm cực tây là sông Vàng Chua ở xã Bình Dương và

37

xã Nguyễn Huệ, huyện Đông Triều. Điểm cực đông trên đất liền là mũi Gót ở đông

bắc xã Trà Cổ, thị xã Móng Cái.

Quảng Ninh có biên giới quốc gia và hải phận giáp giới nước Cộng hoà Nhân

dân Trung Hoa. Trên đất liền, phía bắc của tỉnh (có các huyện Bình Liêu, Hải Hà và

thị xã Móng Cái) giáp huyện Phòng Thành và thị trấn Đông Hưng, tỉnh Quảng Tây

với 132,8 km đường biên giới; phía đông là vịnh Bắc Bộ; phía tây giáp các tỉnh

Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Dương; phía nam giáp Hải Phòng. Bờ biển dài 250 km.

Quảng Diện tích tự nhiên toàn tỉnh Quảng Ninh là tính đến ngày 1-10-1998

là 611.081,3 ha. Trong đó đất nông nghiệp 243.833,2 ha, đất chuyên dùng 36.513

ha, đất ở 6.815,9 ha, đất chưa sử dụng 268.158,3 ha.

b. Địa hình

Vùng núi chia làm hai miền: Vùng núi miền Đông từ Tiên Yên qua Bình Liêu,

Hải Hà, Đầm Hà đến Móng Cái. Đây là vùng nối tiếp của vùng núi Thập Vạn Đại

Sơn từ Trung Quốc, hướng chủ đạo là đông bắc - tây nam. Có hai dãy núi chính:

dãy Quảng Nam Châu (1.507 m) và Cao Xiêm (1.330 m) chiếm phần lớn diện tích

tự nhiên các huyện Bình Liêu, Hải Hà, Đầm Hà, dãy Ngàn Chi (1.166 m) ở phía bắc

huyện Tiên Yên. Vùng núi miền tây từ Tiên Yên qua Ba Chẽ, Hoành Bồ, phía bắc

thị xã Uông Bí và thấp dần xuống ở phía bắc huyện Đông Triều. Vùng núi này là

những dãy nối tiếp hơi uốn cong nên thường được gọi là cánh cung núi Đông Triều

với đỉnh Yên Tử (1.068 m) trên đất Uông Bí và đỉnh Am Váp (1.094 m) trên đất

Hoành Bồ.

Vùng trung du và đồng bằng ven biển gồm những dải đồi thấp bị phong hoá và

xâm thực tạo nên những cánh đồng từ các chân núi thấp dần xuống các triền sông

và bờ biển. Đó là vùng Đông Triều, Uông Bí, bắc Yên Hưng, nam Tiên Yên, Đầm

Hà, Hải Hà và một phần Móng Cái. ở các cửa sông, các vùng bồi lắng phù sa tạo

nên những cánh đồng và bãi triều thấp. Đó là vùng nam Uông Bí, nam Yên Hưng

(đảo Hà Nam), đông Yên Hưng, Đồng Rui (Tiên Yên), nam Đầm Hà, đông nam Hải

Hà, nam Móng Cái. Tuy có diện tích hẹp và bị chia cắt nhưng vùng trung du và

đồng bằng ven biển thuận tiện cho nông nghiệp và giao thông nên đang là những

vùng dân cư trù phú của tỉnh Quảng Ninh.

38

c. Khí hậu

Quảng Ninh nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới có một mùa hạ nóng ẩm, mưa

nhiều; một mùa đông lạnh, ít mưa và tính nhiệt đới nóng ẩm là bao trùm nhất.

Do nằm trong vành đai nhiệt đới nên hàng năm có hai lần mặt trời qua thiên

đỉnh, tiềm năng về bức xạ và nhiệt độ rất phong phú.

Ảnh hưởng bởi hoàn lưu gió mùa Đông Nam Á nên khí hậu bị phân hoá thành

hai mùa: mùa hạ nóng ẩm với mùa mưa, mùa đông lạnh với mùa khô.

Về nhiệt độ: được xác định có mùa đông lạnh, nhiệt độ không khí trung bình

ổn định dưới 20oC. Mùa nóng có nhiệt độ trung bình ổn định trên 25oC.

Về mưa: theo quy ước chung, thời kỳ có lượng mưa ổn định trên 100 mm là

mùa mưa; còn mùa khô là mùa có lượng mưa tháng ổn định dưới 100 mm.

Theo số liệu quan trắc, mùa lạnh ở tỉnh Quảng Ninh bắt đầu từ hạ tuần tháng

11 và kết thúc vào cuối tháng 3 năm sau, mùa nóng bắt đầu từ tháng 5 và kết thúc

vào đầu tháng 10.

Mùa ít mưa bắt đầu từ tháng 11 cho đến tháng 4 năm sau, mùa mưa nhiều bắt

đầu từ tháng 5 và kết thúc vào đầu tháng 10.

Giữa hai mùa lạnh và mùa nóng, hai mùa khô và mùa mưa là hai thời kỳ

chuyển tiếp khí hậu, mỗi thời kỳ khoảng một tháng (tháng 4 và tháng 10).

Sự chênh lệch về nhiệt độ trung bình của tháng tiêu biểu cho mùa đông (tháng

1) thấp hơn nhiệt độ trung bình của tháng tiêu biểu cho mùa hạ (tháng 7) là 120C và

thấp hơn nhiệt độ trung bình của tháng 1 theo tiêu chuẩn nhiệt độ cùng vĩ tuyến là

5,10C

d.Dân số

Kết cấu dân số ở Quảng Ninh có mấy nét đáng chú ý. Trước hết là "dân số

trẻ", tỉ lệ trẻ em dưới 15 tuổi chiếm tới 37,6%. Người già trên 60 tuổi (với nam) và

trên 55 tuổi (với nữ) là 7,1%. Các huyện miền núi tỉ lệ trẻ em dưới tuổi lao động

còn lên tới 45%. Nét đáng chú ý thứ hai là ở tỉnh Quảng Ninh, nam giới đông hơn

nữ giới (nam chiếm 50,9 %, nữ chiếm 49,1%). Ngược với tỷ lệ toàn quốc. Ở các địa

phương có ngành công nghiệp mỏ, tỷ lệ này còn cao hơn, ví dụ: Cẩm Phả, nam

53,2%, nữ 46,8%.

e.Tài nguyên du lịch

39

Quảng Ninh có nguồn tài nguyên du lịch đặc sắc vào loại nhất của cả nước, có

nhiều bãi biển đẹp, có cảnh quan nổi tiếng như vịnh Hạ Long - 02 lần được Unesco

xếp hạng di sản thiên nhiên thế giới và trở thành 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên mới

của thế giớí: Vịnh Hạ Long, Bái Tử Long.

+ Tài nguyên du lịch Văn hóa - tâm linh & lễ hội tiêu biểu

Khu Di tích nhà Trần ở Đông Triều; Cụm Di tích chiến thắng Bạch Đằng;

Miếu Vua Bà; Cây lim Giếng Rừng (Cây lim cổ thụ); Đình Yên Giang (An Hưng

đền); Đền Trung Cốc; Di tích thương cảng Vân Đồn; Núi Bài Thơ; Đền thờ Đức

Ông Trần Quốc Nghiễn; Chùa Long Tiên; Đền Cửa Ông; Miếu Tiên Ông; Lễ hội

Yên Tử; Lễ hội Bạch Đằng; Lễ hội đền Cửa Ông; Lễ hội chùa Long Tiên; Lễ hội

Thập Cửu Tiên Công; Lễ hội Trà Cổ...

2.2.2. Điều kiện kinh tế xã hội

Quảng Ninh là một trọng điểm kinh tế, một đầu tàu của vùng kinh tế trọng

điểm phía bắc. Tỉnh Quảng Ninh có nhiều Khu kinh tế, Trung tâm thương mại

Móng Cái là đầu mối giao thương giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc và các

nước trong khu vực.

Quảng Ninh hội tụ những điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội

quan trọng trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Là một tỉnh có

nguồn tài nguyên khoáng sản, nguyên liệu sản xuất vật liệu xây dựng, cung cấp vật

tư, nguyên liệu cho các ngành sản xuất trong nước và xuất khẩu, đóng góp quan

trọng cho sự phát triển kinh tế, tăng trưởng GDP của tỉnh Quảng Ninh.

Quảng Ninh là một địa danh giàu tiềm năng du lịch, là một đỉnh của tam giác

tăng trưởng du lịch miền Bắc Việt Nam, Quảng Ninh có danh thắng nổi tiếng là

vịnh Hạ Long đã được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới và di sản

thế giới bởi giá trị địa chất địa mạo. Vịnh Hạ Long là địa điêm du lịch lý tưởng của

Quảng Ninh cũng như miền bắc Việt Nam.

2.2.2.1. Tài chính, tín dụng

Thu chi ngân sách: Tổng thu NSNN trên địa bàn bao gồm các khoản để lại chi

quản lý qua ngân sách nhà nước ước năm 2017: 37.600 tỷ đồng, đạt 118 % dự toán

40

năm, bằng 93% so cùng kỳ. Trong đó, thu về hoạt động XNK: 10.000 tỷ đồng, đạt

185% dự toán năm, bằng 78% so với cùng kỳ; tổng thu nội địa: 27.600 tỷ đồng, đạt

105% dự toán, tăng 11% so cùng kỳ.

Tín dụng: Vốn huy động tại địa phương dự kiến năm 2017 đạt 108.700 tỷ

đồng, tăng 10,5% so với cùng kỳ. Trong đó: Tiền gửi tổ chức KT: 14.000 tỷ, giảm

8,6% so với cùng kỳ;Tiền gửi tiết kiệm: 88.500 tỷ, tăng 11,2% so với cùng kỳ.

Tổng dư nợ vốn tín dụng dự kiến năm 2017 đạt 103.000 tỷ đồng, tăng 12,2%

cùng kỳ, trong đó: dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 42.800 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng

41,55%; dư nợ cho vay trung và dài hạn đạt 60.200 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 58,45%.

(http://www.quangninh.gov.vn/Trang/Default.aspx, năm 2017)

2.2.2.2. Đầu tư, xây dựng

Tổng vốn đầu tư phát triển trên địa bàn Quảng Ninh ước năm 2017 đạt 60,6

nghìn tỷ đồng tăng 10,1% so với cùng kỳ 2016. Trong đó, vốn nhà nước trên địa

bàn ước đạt 22,7 nghìn tỷ, tăng 6,8% so CK 2016; vốn ngoài nhà nước ước đạt 25,9

nghìn tỷ, tăng 16,5% so CK 2016; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 11,9

nghìn tỷ, tăng 3,9% so CK 2016.

Vốn đầu tư xây dựng cơ bản trong năm 2017 tập trung chủ yếu cho các dự án

dân sinh và một số công trình trọng điểm của tỉnh như Cung quy hoạch, Hội chợ và

Triển lãm Quảng Ninh, tuyến đường nối từ đường 18A vào Trung tâm Thể thao

vùng Đông Bắc, cải tạo nâng cấp tuyến đường QL 18 vào Khu di tích Yên Tử...; dự

án giao thông như cảng hàng không Quảng Ninh, đường cao tốc Vân Đồn – Móng

Cái, dự án Cầu Bạch Đằng, đường dẫn nút giao thông cuối tuyến; dự án đường cao

tốc Hạ Long – Vân Đồn; sân golf Ngôi Sao Hạ Long

(http://www.quangninh.gov.vn/Trang/Default.aspx, năm 2017)

2.2.2.3. Tình hình hoạt động của doanh nghiệp

Năm 2017, số doanh nghiệp đăng ký thành lập mới 2.240 doanh nghiệp (tăng

32% cùng kỳ), với tổng số vốn đăng ký 12.866 tỷ đồng (tăng 9,3%); có 4.657 lượt

doanh nghiệp đăng ký thay đổi thông tin thuế, người đại diện, ngành nghề kinh

doanh; số doanh nghiệp những năm trước gặp khó khăn, ngừng hoạt động nay hoạt

động trở lại là 500 doanh nghiệp, tăng 43,6%, nâng tổng số doanh nghiệp đăng ký

trên địa bàn tỉnh là 14.900 doanh nghiệp, tổng số vốn ddang ký là 147.990 tỷ đồng.

41

Tuy nhiên, có 278 doanh nghiệp giải thể, chấm dứt hoạt động kinh doanh, tăng 20%

cùng kỳ; có 750 doanh nghiệp khó khăn, buộc phải tạm ngừng hoạt động (tăng 21%

cùng kỳ).

2.2.2.4. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.

Sản xuất nông nghiệp:

Trồng trọt: Năm 2017 toàn tỉnh gieo trồng được 67.365,3 ha, giảm 1,4% so

với cùng kỳ. Trong đó, lúa Đông Xuân đạt 16.528,6 ha, giảm 2,5% so cùng kỳ,

tương ứng với 423,5 ha; lúa mùa đạt 25.128,6 ha, giảm 0,6% so với cùng kỳ, tương

ứng với 160,2 ha.

Chăn nuôi: Trong những tháng đầu năm 2017, giá lợn hơi xuống thấp, gây

thiệt thòi cho người chăn nuôi. Giá lợn hơi giảm sâu nhất có thời điểm còn từ

18.000 – đến 20.000 đồng /1 kg.

Ước năm 2017, tổng đàn trâu hiện có là 46.664 con, tăng 0,9% so với cùng

kỳ; sản lượng thịt hơi xuất chuồng đạt 1.580,5 tấn, so cùng kỳ tăng 3,1%.Tổng đàn

bò hiện có là 25.263 con, tăng 10% so với cùng kỳ; sản lượng thịt hơi xuất chuồng

đạt 1.362,7 tấn, tăng 27,7% so với cùng kỳ. Tổng đàn lợn hiện có là 423.793 con,

tăng 1,5% so với cùng kỳ; tổng sản lượng thịt hơi xuất chuồng ước đạt 80.263 tấn,

tăng 2 % so với cùng kỳ.

Trên địa bàn tỉnh từ đầu năm tới nay không có dịch bệnh lớn xảy ra, nhưng

các địa phương trong toàn tỉnh vẫn tăng cường công tác kiểm tra, kiểm dịch động

vật ngăn chặn việc nhập lậu các loại thực phẩm không rõ nguồn gốc vào.

Lâm nghiệp: Năm 2017,trên địa bàn toàn tỉnh ước tính trồng được 12.310 ha,

bằng 108,9% kế hoạch, tăng 0,7% so CK, hiện tại số cây đã trồng đảm bảo tỉ lệ

sống và phát triển tốt. Sản lượng gỗ khai thác 2017 ước đạt 371,1 nghìn m3 tăng

1,2% so cùng kỳ. Khai thác các loại sản phẩm khác diễn ra bình thường.

Thuỷ sản: Năm 2017, sản xuất thủy sản tiếp tục phát triển theo hướng tập

trung nuôi trồng các loại thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao.Toàn tỉnh đã thả 4,7

tỷ con giống trên diện tích 20.645 ha đạt 100% so với kế hoạch. Trong đó: diện

tích mặn lợ 17.331 ha; ngọt3.314 ha; lồng bè 8.957 ô lồng; diện tích nuôi thâm

42

canh là 3.605 ha. Sản lượng nuôi trồng ước năm 2017 đạt 54,2 nghìn tấn tăng 9,3 %

so cùng kỳ.

Đối với hoạt động khai thác thủy sản, các địa phương rất quan tâm tạo điều

kiện cho các chủ tàu thuyền ra khơi xa khai khác như trang bị máy thông tin liên

lạc, thành lập tổ, đội tự nguyện để giúp đỡ nhau trong việc đánh bắt hải sản trên

biển; hỗ trợ vay vốn ưu đãi để cải hoán, đóng mới tàu thuyền công suất lớn; tổ chức

đăng ký, đăng kiểm, kiểm tra an toàn kỹ thuật tàu cá nên các chuyến đi biển xa bờ

đạt hiệu quả khá. (http://www.quangninh.gov.vn/Trang/Default.aspx, năm 2017)

2.2.2.5. Sản xuất công nghiệp

Năm 2017, chỉ số sản xuất chung toàn ngành công nghiệp so cùng kỳ trước

tăng 3,77%.

Năm 2017 trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh chưa có thêm nhà máy nhiệt điện nào

đi vào hoạt động, đồng thời một số tổ máy phải ngừng hoạt động theo nhu cầu huy

động các nguồn điện của Trung tâm điều độ hệ thống điện miền Bắc. Những yếu tố

trên tác động làm cho sản lượng điện sản tăng 8% so cùng kỳ.

2.2.2.6. Thương mại, dịch vụ

Trong năm 2017, nền kinh tế tỉnh Quảng Ninh tiếp tục chuyển biến tích cực,

vốn đầu tư và xây dựng là yếu tố quan trọng thúc đẩy ngành dịch vụ tăng cao:

Các công trình trọng điểm về xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông như tuyến

đường cao tốc (Hạ Long – Vân Đồn, Hạ Long - Hải Phòng, cầu Bạch Ðằng, đường

dẫn và nút giao cuối tuyến, Cảng hàng không quốc tế Vân Ðồn) không chỉ trực tiếp

tăng mạnh khu vực xây dựng mà còn góp phần tăng doanh thu cao ở nhóm mặt

hàng vật liệu xây dựng (ước năm 2017 tăng 20,7%), làm tăng khối lượng hàng hóa

vận chuyển của các doanh nghiệp, cơ sở vận tải,..

Hoạt động du lịch: Năm 2017, nhiều chương trình văn hóa nghệ thuật được tổ

chức, nhiều dự án đầu tư về du lịch của các nhà đầu tư lớn được triển khai đã góp

phần đa dạng hóa sản phẩm du lịch. Môi trường kinh doanh du lịch được bảo đảm,

các hoạt động Lễ hội, quảng bá, xúc tiến du lịch đã được tổ chức ở nhiều nơi với

cách làm mới, hiệu quả, tạo chuyển biến tích cực về chất lượng dịch vụ, năng lực

43

cạnh tranh và xây dựng thương hiệu, đã thu hút lượng lớn khách du lịch đến với

tỉnh Quảng Ninh.

Năm 2017 tổng số khách du lịch đến tỉnh Quảng Ninh đạt 9.872 nghìn lượt

khách, tăng 18,2% so cùng kỳ, trong đó: khách quốc tế đạt 4.288 nghìn lượt khách

tăng 22,4%, khách nội địa đạt 5588 nghìn lượt khách tăng 15,2%. Doanh thu du lịch

ước năm 2017 đạt 17,9 nghìn tỷ tăng 34,5%; trong đó thu từ khách quốc tế đạt

9.231 tỷ đồng, chiếm 51,5% tổng doanh thu, tăng 19,9% so cùng kỳ; thu từ khách

nội địa đạt 8.690 tỷ đồng, chiếm 48,5% tổng doanh thu, tăng 54,2% so cùng kỳ.

Nguyên nhân do tỉnh đã tổ chức tốt các hoạt động quảng bá, giới thiệu tiềm năng,

sản phẩm du lịch phong phú đa dạng, nâng cao chất lượng dịch vụ, qua các phương

tiện thông tin đại chúng, các hội chợ, … nên đã thu hút lượng lớn khách tới tỉnh

Quảng Ninh, đến các khu du lịch trên các đia bàn như: Hạ Long, Vân Đồn, Móng

Cái, …, đồng thời khu vui chơi giải trí Hạ Long Park chính thức hoàn thiện đi vào

hoạt động với chất lượng dịch vụ cao, đặc sắc cũng là một trong những nguyên làm

tăng lượng khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch trong nước…

Chi tiêu bình quân một lượt khách ước đạt 1,81 triệu đồng/lượt. Khách quốc tế

ước đạt 2,15 triệu đồng/ lượt, khách ngủ qua đêm ước đạt 3,03 triệu đồng/lượt,

khách đi trong ngày ước đạt 1,2 triệu đồng/lượt. Khách nội địa đạt 1,55 triệu

đồng/lượt, khách ngủ qua đêm ước đạt 2,2 triệu đồng/lượt, khách đi trong ngày ước

đạt 1,06 triệu đồng/lượt. (http://www.quangninh.gov.vn/Trang/Default.aspx, năm

2017)

2.2.2.7. An sinh xã hội

Năm 2017, tỉnh Quảng Ninh đã giải quyết chính sách cho các đối tượng như

người có công với cách mạng, thân nhân ... kịp thời theo quy định.

Trong năm thực hiện điều dưỡng tập trung 2.384 người có công và thân nhân;

hỗ trợ nhà ở cho 232 hộ gia đình người có công với cách mạng; tặng quà cho các

đối tượng người có công và thân nhân với tổng kinh phí 30 tỷ đồng; hỗ trợ hoạt

động giải độc và phục hồi sức khoẻ cho nạn nhân chất độc da cam tỉnh; tuyên

truyền, tư vấn, đối thoại trực tiếp với người dân về chính sách ưu đãi đối với người

có công tại một số địa phương trên địa bàn tỉnh. Chi trả trợ cấp thường xuyên cho

44

trên 14.400 đối tượng NCC, số tiền trên 135 tỷ đồng; gần 34.000 đối tượng BTXH

số tiền trên 120 tỷ đồng từ nguồn ĐBXH tại các địa phương.

Y tế: Công tác phòng, chống dịch bệnh được triển khai có hiệu quả, không để

dịch lây lan ra diện rộng. Tổ chức khám lưu động định kỳ tại 39 xã vùng sâu, vùng

xa, vùng khó khăn trên địa bàn tỉnh (do 4 Đoàn khám của 4 Bệnh viện đầu ngành

của tỉnh thực hiện để thống kê, đánh giá mô hình bệnh tật của từng vùng và xác

định nhu cầu của công tác quản lý sức khoẻ. Công tác đảm bảo an toàn thực phẩm

được tăng cường. Năm 2017, toàn tỉnh xảy ra 05 vụ ngộ độc thực phẩm (36 người

mắc), không có tử vong.

Tai nạn giao thông: Năm 2017 (số liệu tính từ ngày 16/12/2016 đến

15/12/2017) toàn tỉnh xảy ra 123 vụ TNGT làm chết 72 người, làm bị thương 103

người. So với cùng kỳ năm 2016, số vụ giảm 15 vụ; số người chết giảm 7 người; số

người bị thương giảm 25 người. Trong đó:TNGT đường bộ xảy ra 118 vụ làm chết

72 người, bị thương 99 người. TNGT đường thủy xảy ra 3 vụ làm bị thương 2

người; TNGT đường sắt xảy ra 2 vụ làm bị thương 2 người./.

(http://www.quangninh.gov.vn/Trang/Default.aspx, năm 2017)

2.2.3. Ảnh hưởng của điều kiện kinh tế xã hội đến thực thi pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh tại Tỉnh Quảng Ninh

Do nền kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh vô cùng đa dạng các ngành nghề

và các Doanh nghiệp cũng được thành lập là một con số lớn, để đảm bảo cho hoạt

động của Doanh nghiệp của mình được phát triển bền vững trên thị trường thì các

Doanh nghiệp này cần pải vượt qua các đối thủ cạnh tranh của mình một cách khốc

nghiệt nhất, do đó các Doanh nghiệp cùng hoạt động trên một lĩnh vực sẽ không

tránh khỏi những hành vi cạnh tranh không lành mạnh gây ảnh hưởng nặng nề cho

sự phát triển của các Doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế - xã hội của Tỉnh

Quảng Ninh nói riêng.

Đáng chú ý là gần đây đã xuất hiện tình trạng nhiều công ty lữ hành đua

nhau hạ giá tua du lịch, thậm chí giá tua thấp hơn so với giá thành đối với khách

Trung Quốc. Để bù lại các chi phí và có lãi, các đơn vị hoạt động kinh doanh du

lịch lữ hành Trung Quốc và Việt Nam đã câu kết thông qua hình thức đưa khách đi

mua sắm, nâng giá các sản phẩm để bù chi phí đầu vào, bao gồm khách sạn, nhà

45

hàng, phương tiện vận chuyển. Điều này khiến hoạt động đón khách quốc tế trở nên

lộn xộn, chất lượng dịch vụ du lịch bị giảm, khách du lịch bị “chặt chém” và làm

ảnh hưởng xấu đến ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh.

Trước thực trạng này, tỉnh Quảng Ninh đã yêu cầu các địa phương tiến hành

thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của tỉnh đối với các công ty lữ

hành; kiểm tra, công khai các tua tuyến cho khách du lịch; rà soát lại việc quản lý

các điểm bán hàng, nhà hàng. Bên cạnh đó, thực hiện thanh tra các điểm có các tua

du lịch của khách quốc tế; công khai, minh bạch giá dịch vụ tại các điểm bán hàng

đối với khách du lịch; đình chỉ hoạt động đối với các doanh nghiệp chưa chấp hành

nghiêm các quy định về quản lý hoạt động lữ hành đón khách du lịch qua cửa khẩu

đường bộ trên địa bàn tỉnh, nhất là các doanh nghiệp có trụ sở chính ở tỉnh, thành

phố khác mà không có chi nhánh tại tỉnh Quảng Ninh.

Là địa bàn tập trung nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch lữ

hành, TP Móng Cái đã chỉ đạo các địa phương và các ngành chức năng tăng cường

kiểm tra, lập lại trật tự hoạt động kinh doanh du lịch dịch vụ trên địa bàn, kiên quyết

tháo dỡ các biển hiệu kinh doanh không bảo đảm quy định; xử lý nghiêm các vi

phạm về vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, xây dựng trái phép, lấn

chiếm vỉa hè, không niêm yết giá, chấm dứt tình trạng ăn xin, bán hàng rong đeo

bám, chèo kéo khách du lịch và tình trạng không có hướng dẫn viên quản lý các

đoàn khách đi sâu vào nội địa Việt Nam.

Chính vì thế đối với tỉnh Quảng Ninh cần có những giải pháp cụ thể để ngăn

chặn, xử lí đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động dịch vụ du

lịch nhằm ổn định thị trường này, tránh những rủi ro, nhưng ảnh hưởng lớn đối với

nền kinh tế của tỉnh, bởi ngành dịch vụ du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh

Quảng Ninh.

2.3. Thực trạng về hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch trong thời

gian qua và thực tiễn xử lý hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

thực tiễn tại tỉnh Quảng Ninh

2.3.1. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất lợi dụng

46

Hành vi CTKLM trong lĩnh vực du lịch điển hình hiện nay được biết đến dưới

nhiều dạng hình thức khác nhau như gây nhầm lẫn về nguồn gốc dịch vụ, lợi dụng

thành quả đầu tư du lịch của người khác, xâm phạm bí mật kinh doanh… hành vi

này trọng tâm là việc chiếm đoạt hay sử dụng trái phép lợi thế cạnh tranh của doanh

nghiệp khác.

Lợi dụng uy tín của doanh nghiệp (DN) khác, một số công ty lữ hành sử dụng

chiêu trò cạnh tranh không lành mạnh, lừa đảo khách hàng… như hành vi “ cướp

khách mà một số các Công ty lữ hành tại tỉnh Quảng Ninh đã phải bất lực trước đối

thủ của mình. Mới đây, hàng loạt công ty du lịch lữ hành tại tỉnh Quảng Ninh…

phát hiện số điện thoại tổng đài của họ đã đăng ký trên Google Maps bị thay thế

bằng các số máy khác của Công ty Du lịch khác, thạm chí một số đơn vị còn bị sửa

cả trụ sở công ty, số điện thoại chi nhánh và đường link website dẫn về trang web

của Công ty. Theo các công ty du lịch, với hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trên, rất có thể họ đã bị Công ty lữ hành kia “cướp” khách hàng, gây thiệt hại

nghiêm trọng khi đang trong giai đoạn cao điểm du lịch. Bởi lẽ, đa số khách hàng

khi muốn đăng ký tour, họ thường lên Google tìm tên, số điện thoại của công ty để

tiện liên hệ. Như vậy có thể thấy hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính

chất lợi dụng này là một hành vi hết sự nghiêm trọng cần có điều luật hết sức

nghiêm ngặt khiến tất cả các công ty hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch đều

phải tuân thủ một cách nghiêm túc trong quá trình cạnh tranh.

“Văn hóa kinh doanh kém, quản lý Nhà nước lại lỏng lẻo chưa có công cụ bảo

hộ những doanh nghiệp làm ăn chân chính. Các doanh nghiệp phải tự bơi, tự bảo vệ

mình. Đây là thực trạng đáng buồn trong kinh doanh du lịch hiện nay”. PGS.TS.

Phạm Trung Lương. Không dừng lại ở đó, một số công ty còn dở trò cạnh tranh

“bẩn”, gây nhiễu loạn thông tin thị trường qua kênh quảng cáo Google. Cụ thể, theo

chính sách quảng cáo Google Adwords, các bên tham gia quảng cáo được quyền

mua từ khóa mang tên thương hiệu của bất kỳ công ty nào, Những hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trên vô cùng nguy hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị

trường và khách hàng. Nếu không xử lý kịp thời, các công ty uy tín sẽ bị dìm chết

bởi các chiêu trò của những công ty làm ăn chộp giật”. Mặt khác đây cũng là “hồi

47

chuông cảnh báo” cho hành vi núp bóng các công ty uy tín để lừa đảo khách

hàng trong kinh doanh thương mại điện tử nói chung, không chỉ riêng ngành Du

lịch.Là một người gắn bó lâu năm với ngành Du lịch, PGS.TS. Phạm Trung Lương,

nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch chia sẻ: Thực trạng

cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty du lịch đã xuất hiện từ lâu. Đáng nói,

trong số này có cả những công ty lớn. Không chỉ lấy tên, làm giả thương hiệu của

nhau, theo ông Lương, một số doanh nghiệp làm ăn còn có cả chiêu “nẫng tay trên”

khách hàng của doanh nghiệp (DN) khác ngay tại sân bay hay trong khách sạn…

Trong đó phổ biến nhất vẫn là chiêu “trộm” ý tưởng tour du lịch. “Những DN làm

ăn chân chính trong mỗi mùa vụ, họ đều phải bỏ công sức lẫn tiền bạc để thiết kế

xây dựng các tour. Trong trường hợp này, cơ quan chức năng có thể ra quyết định

xử lý vi phạm hành chính, yêu cầu doanh nghiệp chấm dứt hành vi vi phạm và công

khai đính chính xin lỗi. Về vấn đề bồi thường thiệt hại, tuy nhiên khó khả thi vì để

được bồi thường, đối tượng bị hại phải thu thập bằng chứng, chứng minh mức độ

thiệt hại và kiện ra tòa, mặc dù vậy trường hợp này rất khó để chứng minh nên việc

bồi thường thiệt hại là rất khó xác định.

Cụ thể như vụ việc Gần đây khách du lịch Trung Quốc tới VN ngày càng

đông. Theo Tổng cục Du lịch, trong giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 8/2016, VN đón

gần 1,8 triệu khách Trung Quốc, tương đương lượng khách nước này trong cả năm

2015. Tuy nhiên, việc các tour du lịch 0 đồng đang diễn ra tại tỉnh Quảng Ninh

đang gây ra những hệ lụy không nhỏ. Quảng Ninh, địa phương có lượng khách

Trung Quốc khá đông, trong 7 tháng năm 2016, tổng lượng khách du lịch đến tỉnh

Quảng Ninh đạt hơn 5,9 triệu lượt, tăng 4% so với cùng kỳ. Trong đó khách quốc tế

đạt hơn 2,1 triệu lượt, tăng 42% so với cùng kỳ, tăng trưởng mạnh nhất là thị trường

khách du lịch Trung Quốc. Với các tour du lịch 0 đồng đang tồn tại, ít nhiều hình

ảnh du lịch tỉnh Quảng Ninh sẽ bị ảnh hưởng. Theo phản ánh, ở một số tour 0 đồng,

mỗi khách đi du lịch trên đảo Ti tốp (Hạ Long) bị hướng dẫn viên nâng giá từ 500

ngàn lên 800 ngàn đồng/người.

Ông Phan Đình Huệ, Giám đốc Cty du lịch Vòng Tròn Việt thừa nhận với báo

giới rằng có tình trạng tour 0 đồng đang diễn ra ở VN. Hình thức là các Cty du lịch

48

Trung Quốc bán tour chương trình và các cơ sở nhận khách tại VN sẽ đưa vào các

điểm mua sắm có giá rất cao so với bình thường. Đáng nói là những tour này được

sự “hỗ trợ” của một số Cty lữ hành VN, đua hạ giá để nhận khách từ các Cty du lịch

Trung Quốc. Hậu quả là du khách "một đi không trở lại", hình ảnh VN bị hoen ố,

ảnh hưởng nghiêm trọng tới tiềm năng phát triển ngành du lịch.

Theo các chuyên gia, thực chất, du lịch 0 đồng chỉ là một chiêu trò để thu hút

khách, doanh thu có thể lớn hơn gấp nhiều lần từ việc mua sắm của khách. Điều

đáng nói là doanh thu từ nguồn mua sắm này đều rơi vào tay các DN Trung Quốc vì

các cửa hàng, dịch vụ đều do người Trung Quốc trực tiếp quản lý hoặc núp bóng

pháp nhân địa phương...

Theo PGSTS Phạm Trung Lương, Nguyên Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu

phát triển Du lịch: Trước hết, ngành du lịch cần rà soát tình hình và ngăn chặn ngay

loại hình du lịch này. Bên cạnh đó, các địa phương tăng cường kiểm soát chặt chẽ

các tour du lịch, không để cho phía các DN Trung Quốc điều hành, bán các tour du

lịch 0 đồng cho phía DN VN. Đặc biệt là kiếm soát được các cửa hàng mua sắm,

các điểm đến thăm quan bán giá cao bất thường sẽ ngăn chặn được tour du lịch 0

đồng. Ngoài ra, cần kiểm soát chặt chẽ đội ngũ hướng dẫn viên, cũng như những

người tiếp tay tour du lịch 0 đồng.

2.3.2. Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh mang tính chất công kích

Hiện nay trên thị trường du lịch hành vi tấn công vào đối thủ cạnh tranh, triệt

tiêu hoặc làm suy giảm các lợi thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh diễn ra rất phổ

biến, công kích trực tiếp vào thế mạnh của của đối thủ cạnh tranh.

Bằng các mánh khóe nhằm cạnh tranh không lành mạnh, các đối thủ canh

tranh không ngừng đưa ra các giải pháp nhằm công kích trực tiếp vào đối thủ của

mình. Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thời gian qua tại thị trường quảng Ninh có thể

thấy các đối thủ sử dụng hành vi này trong các trường hợp sau:

+ Khi đối thủ cạnh tranh chỉ có cách duy nhất để mở rộng thị phần. Khi phải

cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch nhiều công ty mới mọc lên với kinh

nghiệp và khả năng thị trường còn nhiều sự non nớt họ đã không tìm ra được một

giải pháp hữu hiệu, nhìn thấymột thị trường không có nhiều triển vọng mở rộng

49

thêm về quy mô thì cách tốt nhất để nới rộng thị phần là chiếm thị phần của các đối

thủ. Do đó với họ đây là cách duy nhất,tuy nhiên, trong một thị trường ổn định thì

các biến động về thị phần nói chung không lớn, đòi hỏi doanh nghiệp phải mất

nhiều công sức và chi phí để có được “miếng bánh” lớn hơn. Vậy nên, điều quan

trọng là doanh nghiệp cần cân nhắc giữa lợi ích thu được và các chi phí bỏ ra.

+ Khi mà các đối thủ cạnh tranh sở hữu thứ mà các đối thủ cạnh tranh khác

không có. Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch của các đối thủ cạnh tranh tương tự nhau

thì một cải tiến mới trong dịch vụ sẽ giúp doanh nghiệp có thêm lượng du khách

mới. Somma cho rằng doanh nghiệp phải luôn nỗ lực cải tiến dịch vụ và nên nhanh

chóng thông tin cho các du khách iết những ý tưởng mới hay các cải tiến đã thực

hiện để họ thấy được doanh nghiệp rất cố gắng đáp ứng nhu cầu của du khách.

Chính vì thế đây là điểm sáng thu hút mọi cái nhìn của các đối thủ cạnh tranh, họ

sẵn sàng có các hành vi cạnh tranh không lành lạnh để nhằm mục đích vượt qua đối

thủ của mình đem lại lợi ích cho Công ty.

+ Khi các đối thủ canh tranh có thông điệp tiếp thị hấp dẫn, khác hẳn thông

điệp của các đối thủ cạnh tranh. Trường hợp này rất thích hợp đối với các Công ty

dịch vụ du lịch muốn tạo ra một tính cách riêng trong một thị trường ít sôi động

nhưng vô cùng hiệu quả, góp phần vào sự phát triển của Công ty dịch vụ du lịch.

Tạo thêm nhiều sự chú ý của khách hàng là tiền đề để doanh nghiệp và cũng chính

đây là điểm khiến các đối thủ buộc phải có các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh.

+ Khi đối thủ cạnh tranh chững lại: Trường hợp này khiến các đối thủ không

xác định được hướng đi của đối thủ, họ sẽ có các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh họ sẽ hành động nhanh với quyết tâm đạt cho được một số mục tiêu cụ thể.

Điều quan trọng là phải tập trung vào các hành động và kết quả thực hiện phải thấy

được, cụ thể là giúp doanh nghiệp bành trướng sự hiện diện trên thị trường. Nếu

doanh nghiệp hành động nhanh thì đối thủ nào đang “ngủ quên trên chiến thắng” sẽ

không kịp nhận ra sự thay đổi quan trọng đó.

+ Khi hình ảnh của đối thủ cạnh tranh đang trở nên mờ nhạt. Nếu đối thủ cạnh

tranh đang gặp rắc rối khó giải quyết hay đơn giản là vị thế của họ trên thị trường

50

đang bị suy yếu thì ngay lập tức các đối thủ sẽ có hành vi cạnh tranh không lành

mạnh bằng cách tổ chức tấn công,nỗ lực mở rộng thị phần trong hoàn cảnh ấy sẽ

khiến đối thủ cạnh tranh khó có thể phản ứng lại dược.

+ Khi bản thân đối thủ cạnh tranh muốn làm mới hình ảnh của mình. Đây

được xem là một ý đồ chiến lược rất táo bạo, vì vậy đối thủ cạnh tranh đã cân nhắc

kỹ các rủi ro trước khi đầu tư công sức và tiền của để chứng tỏ cho du khách thấy

doanh nghiệp đang thay đổi nhằm mang lại cho họ những điều tốt đẹp hơn.

+ Khi đối thủ cạnh tranh đang chuẩn bị tấn công. Nếu biết đối thủ cạnh tranh

đang chuẩn bị tấn công mình thì một trong những cách phòng vệ tốt nhất là tấn

công họ trước. Do vậy hành vi cạnh tranh không lành mạnh sẽ phát sinh nhằm bảo

vệ chính đáng dịch vụ của mình. Động thái này sẽ khiến cho đối thủ cạnh tranh

chuyển từ thế tấn công sang phòng thủ.

+ Khi bị đối thủ cạnh tranh tấn công, cần phải có biện pháp chống lại. Trong

trường hợp này, doanh nghiệp cần phải tìm cách trì hoãn các kế hoạch của đối thủ

cạnh tranh. Có bốn cách để thực hiện điều này: (i) Đổi hướng tấn công sang đối thủ

yếu hơn; (ii) Bác bỏ những điều đối thủ cạnh tranh đang làm; (iii) Tái định vị nhãn

hiệu của doanh nghiệp nhằm thay đổi nhận thức của khách hàng về doanh nghiệp;

(iiii) Khéo léo nhắc nhở du khách về những giá trị của doanh nghiệp và giải thích

vì sao du khách nên gắn bó với doanh nghiệp.

+ Khi đối thủ cạnh tranh có thời cơ để mở rộng thị phần. Nếu doanh nghiệp

đang từng bước mở rộng thị phần thì có thể tấn công đối thủ bằng cách mua lại một

số cơ sở của đối thủ cạnh tranh để mở rộng mạng lưới, đồng thời tạo áp lực lên các

đối thủ khác.

Thông thường, khi các doanh nghiệp cạnh tranh đối đầu trực tiếp và kéo dài

thì du khách không còn quan tâm đến những gì xảy ra trên “đấu trường” và không

phân định được ai đúng ai sai (vì điều du khách quan tâm nhất là các doanh nghiệp

làm được gì cho họ). Do đó, Somma khuyên rằng doanh nghiệp cần tuân thủ một số

nguyên tắc dưới đây khi tấn công đối thủ cạnh tranh:

- Hướng đến lợi ích của du khách chứ không phải nhằm đánh bại đối thủ

51

- Giữ thái độ quyết tâm nhưng hòa nhã, lịch sự. Dùng lý lẽ tấn công vào điểm

yếu có thật của đối thủ cạnh tranh chứ không vào những vấn đề mang tính cá nhân.

- Tích cực và lạc quan nhìn về những khả năng có thể xảy ra.

- Sử dụng nhiều kênh truyền thông để thể hiện quan điểm của mình.

- Tập trung giới thiệu những điểm mạnh của mình, không cần đi sâu phân tích

điểm yếu của đối thủ cạnh tranh.

- Thực hiện đúng những cam kết với du khách.

- Đặt ra kế hoạch tấn công với thời hạn, ngân sách và các giải pháp rõ ràng, cụ

thể. Thường xuyên đánh giá lại việc thực hiện kế hoạch.

2.3.3. Các hành vi lôi kéo bất chính khách hàng

Giành giật du khách một cách không lành mạnh là vấn đề nhức nhối của thị

trường du lịch. Du khách là người mua, người tiêu thụ sản phẩm du lịch và là đối

tượng phục vụ của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch. Trong điều kiện

mà khả năng tiếp đón du lịch đã định, số du khách nhiều hay ít mà người kinh

doanh du lịch có sẽ trực tiếp quan hệ tới sự thành bại của người kinh doanh

Lôi kéo du khách bất chính bằng các hình thức: Đưa thông tin gian dối hoặc

gây nhầm lẫn cho khách hàng về doanh nghiệp hoặc hàng hóa, dịch vụ, khuyến mại,

điều kiện giao dịch liên quan đến hàng hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp

nhằm thu hút khách hàng của doanh nghiệp khác; So sánh hàng hóa, dịch vụ của

mình với hàng hóa, dịch vụ cùng loại của doanh nghiệp khác nhưng không chứng

minh được nội dung.

Theo các công ty du lịch, với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên, rất

có thể họ đã bị Cty DL DV Hữu Nghị “cướp” khách hàng, gây thiệt hại nghiêm

trọng khi đang trong giai đoạn cao điểm du lịch Tết. Bởi lẽ, đa số khách hàng khi

muốn đăng ký tour, họ thường lên Google tìm tên, số điện thoại của công ty để tiện

liên hệ

2.3.4. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến lợi ích của các doanh

nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch

Khoản 5, 6 và 7 Điều 9 Luật Du lịch 2017 nghiêm cấm các hành vi: “Kinh

doanh du lịch không đủ điều kiện kinh doanh, không có giấy phép kinh doanh hoặc

52

không duy trì đủ điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động theo quy định của

Luật này và quy định của pháp luật khác có liên quan. không đúng ngành, nghề,

phạm vi kinh doanh và sử dụng tư cách pháp nhân của tổ chức khác hoặc cho người

khác sử dụng tư cách pháp nhân của mình để hoạt động kinh doanh trái pháp luật”.

“ Hành nghề hướng dẫn du lịch khi không đủ điều kiện hành nghề”.

Cụ thể tháng 5/2017 theo Đơn khiếu nại của Công ty TNHHBình Minh Tours

(trụ sở tại Lê Thánh Tông, Thành phố Hạ Long gửi Cục Quản lý Cạnh tranh (Bộ

Công Thương) với nội dung: Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Khách

(có trụ sở tại Bãi Cháy, Hạ Long đã ký hợp đồng độc quyền sử dụng phòng với các

khách sạn ở Hạ Long, phục vụ du khách du lịch Anh đến Việt Nam, điều này làm

hạn chế cạnh tranh đối Công ty TNHH Bình Minh Tours.

Cụ thể, Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Khách đã ký kết và thực

hiện hợp đồng với khách hàng trong đó có quy định: Các khách sạn tại các thành

phố chỉ được nhận khách du lịch từ Anh và các nước liên quan do Ngọc Khánh

cung cấp.

Do đó, nhiều khách sạn đã từ chối khách do Công ty TNHH Bình Minh Tours

và các công ty Du lịch lữ hành khác đưa đến mặc dù còn trống phòng. Trong hợp

đồng ký giữa Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Khách với 12 khách sạn

trên địa bàn Hạ Long còn có những nội dung mang hành vi cạnh tranh không lành

mạnh. Sau khi tiếp nhận hồ sơ và kết luận điều tra của Cục trưởng Cục Quản lý

Cạnh tranh, ngày 31/12/2017, Chủ tịch Hội đồng cạnh tranh đã ban hành Quyết

định thành lập Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh để xử lý vụ việc mang hành vi

cạnh tranh không lành mành và đã có kết luận chính thức.

Theo đó, Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Khách có vị trí thống

lĩnh trên thị trường dịch vụ lữ hành đối với khách Anh và các nước liên quan vào

Việt Nam tại tất cả các điểm du lịch trên toàn quốc. Công ty TNHH thương mại và

du lịch Ngọc Khách đã có hành vi buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ

không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng; buộc các khách sạn phải

chấp nhận những nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng

53

bởi đối tượng của hợp đồng cung cấp phòng chính là dịch vụ lưu trú được thực hiện

thông qua việc thuê phòng khách sạn.

Đặc biệt, Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Khách đã có hành vi

ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới, thông qua việc

yêu cầu các khách sạn chỉ được nhận đặt phòng cho du khách Anh và các nước liên

quan bay bằng chuyên cơ/chuyến bay thuê bao riêng của Công ty TNHH thương

mại và du lịch Ngọc Khách đến Hạ Long - Việt Nam, khách sạn không được phép

kí kết hợp đồng với các công ty đối thủ của Pegas cung cấp dịch vụ bay từ Anh tới

Hạ Long. Ngoài ra, Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Kháchđã ngăn cản

việc gia nhập thị trường của doanh nghiệp khác, bao gồm cả các đối thủ cạnh tranh

mới. Đây là hành vi quy định tại khoản 1 Điều 31, Nghị định số 116/2005/NĐ-CP,

bị cấm tại khoản 6 Điều 13 Luật Cạnh tranh năm 2004.

Trên cơ sở Công ty TNHH thương mại và du lịch Ngọc Khách đã tự nguyện

chấm dứt hành vi và loại bỏ các điều khoản vi phạm trong các hợp đồng bị khiếu

nại và bên khiếu nại tự nguyện rút đơn khiếu nại vụ việc cạnh tranh gửi Hội đồng

Cạnh tranh và Cục Quản lý cạnh tranh; ngày 30/12/2017, Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh đã ban hành Quyết định số 10/QĐ-HĐCT giải quyết vụ việc cạnh tranh

theo điểm b khoản 1, Điều 101, Luật cạnh tranh năm 2004.

Sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày ký Quyết định, không có bên nào khiếu nại

Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh. Công ty TNHH thương mại và

du lịch Ngọc Khách đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp tiền vào Ngân sách Nhà

nước.

Quyết định xử lý vụ việc có hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch này của

Hội đồng Cạnh tranh có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động du lịch lữ hành đón khách

quốc tế nói riêng và hoạt động xuất khẩu dịch vụ của Việt Nam nói chung, góp phần

nâng cao nhận thức về pháp luật cạnh tranh của các doanh nghiệp./.

2.3.5. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại đến quyền lợi của khách du

lịch

Mùa du lịch khách đông là thời điểm thích hợp để kinh doanh dịch vụ du lịch

và đây cũng là thời điểm được một số doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ du lịch lợi

54

dụng để nâng giá, đẩy giá tour lên cao nhưng chất lượng dịch vụ lại giảm hoặc cố

tình chèn ép du khách đặt phòng, ăn uống, sử dụng phương tiện vận chuyển... gây

phản cảm cho du khách.

Theo báo cáo của CP DL và XNK Hồng Hà , một số công ty còn dở trò cạnh

tranh “bẩn”, gây nhiễu loạn thông tin thị trường qua kênh quảng cáo Google. Cụ

thể, theo chính sách quảng cáo Google Adwords, các bên tham gia quảng cáo được

quyền mua từ khóa mang tên thương hiệu của bất kỳ công ty nào, ngành nghề nào

và dẫn link về website tùy ý mà không cần qua kiểm duyệt. Lợi dụng điều này, đã

có “bên thứ 3” mua cụm từ khóa “du lich Hồng Hà - HL”CP DL và XNK Hồng Hà,

hiển thị thông tin nhưng lại có link dẫn về website “ DL Hồng Hà” mà không có sự

cho phép từ phía công ty.

Trao đổi với Báo Giao thông, bà Nguyễn Thị Bích Ngọc, Giám đốc CP DL và

XNK Hồng Hà khẳng định: “Những hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên vô

cùng nguy hại, ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường và khách hàng. Nếu không

xử lý kịp thời, các công ty uy tín sẽ bị dìm chết bởi các chiêu trò của những công ty

làm ăn chộp giật”. Mặt khác theo bà Ngọc, đây cũng là “hồi chuông cảnh báo” cho

hành vi núp bóng các công ty uy tín để lừa đảo khách hàng trong kinh doanh thương

mại điện tử nói chung, không chỉ riêng ngành Du lịch.

Là một người gắn bó lâu năm với ngành Du lịch, PGS.TS. Phạm Trung

Lương, nguyên Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển du lịch chia sẻ: Thực

trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các công ty du lịch đã xuất hiện từ lâu.

Đáng nói, trong số này có cả những công ty lớn. Không chỉ lấy tên, làm giả thương

hiệu của nhau, theo ông Lương, một số doanh nghiệp làm ăn còn có cả chiêu “nẫng

tay trên” khách hàng của doanh nghiệp (DN) khác ngay tại sân bay hay trong khách

sạn… Trong đó phổ biến nhất vẫn là chiêu “trộm” ý tưởng tour du lịch. “Những DN

làm ăn chân chính trong mỗi mùa vụ, họ đều phải bỏ công sức lẫn tiền bạc để thiết

kế xây dựng các tour. Tuy nhiên, chỉ sau khi tung lên mạng vài phút đã bị DN khác

copy lại”, ông Lương bức xúc cho biết.

2.3.6. Nhóm các hành vi cạnh tranh gây thiệt hại môi trường, cảnh quan thiên

nhiên du lịch

55

Mặc dù, Nhà Nước ta đã ban hành các quy định điều chỉnh về môi trường du

lịch cho phù hợp với thực tiễn hoạt động nhưng nhìn chung vẫn không cải thiện

được tình trạng ô nhiễm môi trường trong du lịch. Hiện tượng các doanh nghiệp

mặc sức khai thác hoặc khai thác một cách bừa bãi các nguồn tài nguyên thiên

nhiên mà không có kế hoạch bảo vệ, tôn tạo, duy tu vẫn không giảm. Một số doanh

nghiệp còn xây dựng các cơ sở hạ tầng du lịch không theo quy hoạch, kế hoạch dẫn

tới việc khai thác và sử dụng quá mức làm cạn kiệt tài nguyên, gia tăng các chất thải

và khí thải, nước thải, tiếng ồn làm ô nhiễm và xuống cấp môi trường, cảnh quan

thiên nhiên du lịch, ảnh hưởng tới sức khoẻ của cả cộng đồng dân cư.

- Thực trạng thị trường về hành vi CTKLM qua ý kiến của các chuyên gia về

lĩnh vực du lịch

Theo ý kiến của các chuyên gia: “Cần “cởi mở” hơn tránh gò bó trong các

quyđịnh pháp luật để các doanh nghiệp có thể sáng tạo trong kinh doanh du lịch từ

đó thúc đẩy tính cạnh tranh, thể hiện rõ vai trò của nền kinh tế thị trường để từ đó

phát triển nền kinh tế du lịch. Đó là kết luận của Hội thảo “Những vấn đề đặt ra

trong táicơ cấu ngành Du lịch” do Tổng cục Du lịch và Hiệp hội Du lịch Việt Nam

đồng chủ trì diễn ra sáng 22/2/2017

Bà Vũ Đặng Hải Yến - Phó Tổng giám đốc kiêm Trưởng Ban Pháp chế của

Tập đoàn FLC cho rằng cần có quy định rõ ràng để các doanh nghiệp biết mình có

thể sáng tạo và năng lực cạnh tranh đến đâu? “Việc sáng tạo đổi mới, cạnh tranh

lànhmạnh của doanh nghiệp luôn phải tuân theo phát triển lành mạnh bền vững cho

du lịch, tuy nhiên ranh giới giữa phát triển bền vững và và không bền vững, cạnh

tranh lành mạnh và không lành mạnh trong lĩnh vực du lịch rất mong manh, vì thế

cầnphải có những tiêu chí rõ ràng minh bạch để các doanh nghiệp có thể triển khai

các kế hoạch phát triển và các dự án du lịch trong tương lai”

2.4. Đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn thực thi pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng

Ninh

2.4.1. Đánh giá tồn tại của hệ thống văn bản pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

56

Bên cạnh những kết quả đạt được thì hệ thống văn bản pháp luật về hành vi

canh tranh không lành mạnh trong lịch vực dịch vụ du lịch cũng còn một số những

tồn tại sau: Xử phạt vi phạm hành chính hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịchvụ du lịch thi hành tại tỉnh Quảng Ninh còn chưa rõ ràng chủ yếu đối

với các vi phạm như: Vi phạm quy định về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch,

kinh doanh ô tô vận chuyển khách du lịch; Vi phạm quy định về kinh doanh lưu trú

du lịch;

+ Vi phạm quy định về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch, kinh doanh ô

tô vận chuyển khách du lịch:

Kinh doanh lữ hành là việc xây dựng, bán và tổ chức thực hiện một phần hoặc

toàn bộ chương trình du lịch cho khách du lịch với mục đích sinh lợi. Ở Việt Nam

hiện nay, lực lượng kinh doanh lữ hành ngày càng phát triển, có vai trò chủ lực

trong việc khai thác khách và hướng dẫn khách đi du lịch. Hoạt động kinh doanh lữ

hành phát triển không chỉ góp phần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của Ngành Du

lịch, mà còn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Kinh doanh lữ hành được điều chỉnh bởi Luật Du lịch năm 2005. Theo đó, tổ

chức, cá nhân kinh doanh lữ hành phải thành lập doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh

doanh lữ hành bao gồm doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa và doanh nghiệp

kinh doanh lữ hành quốc tế. Để được kinh doanh lữ hành, doanh nghiệp phải đáp

ứng đầy đủ điều kiện theo quy định của Luật Du lịch năm 2005. Doanh nghiệp kinh

doanh lữ hành quốc tế được kinh doanh lữ hành nội địa, còn doanh nghiệp kinh

doanh lữ hành nội địa không được kinh doanh lữ hành quốc tế. Mặc dù, pháp luật

hiện hành đã quy định tương đối đầy đủ về kinh doanh lữ hành, tuy nhiên nhiều quy

định không còn phù hợp với thực tiễn. Trong bài viết, tác giả đưa ra một số bất cập

cụ thể của pháp luật về kinh doanh du lịch lữ hành và bất cập trong quy định về

biện pháp khắc phục hậu quả đối với hoạt động kinh doanh lữ hành.

Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa

cao. Quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch có liên quan đến nhiều ngành, nhiều

cấp, nhiều lĩnh vực khác như văn hóa, giao thông, tài nguyên môi trường, quốc

phòng, an ninh, nông nghiệp, thương mại... Ở nước ta, hoạt động du lịch lữ hành có

57

từ những năm 1960, nhưng đến năm 1994, các văn bản quản lý nhà nước về du lịch

lữ hành mới được ban hành, tuy nhiên, hiệu lực và tính pháp lý của các văn bản này

chưa cao, nội dung chưa rõ ràng, hình thức và thẩm quyền ban hành chưa phù hợp.

Nhằm mục tiêu phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, Nhà nước đã ban

hành Pháp lệnh Du lịch năm 1999 và sau đó là Luật Du lịch năm 2005, đánh dấu

bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong hoạt động du lịch nói chung, trong đó có

kinh doanh du lịch lữ hành. Sau hơn 10 năm thực thi Luật Du lịch năm 2005, hoạt

động du lịch của Việt Nam đã có những thay đổi rất lớn, các cơ quan quản lý nhà

nước ở địa phương thực hiện tốt hơn vai trò quản lý nhà nước của mình đối với các

doanh nghiệp làm du lịch, tăng cường quản lý ở các khu điểm du lịch… Tuy nhiên,

đến nay, Luật Du lịch năm 2005 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập về kinh doanh du

lịch lữ hành cần được bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã

hội ở Việt Nam, tạo hướng đột phá cho du lịch Việt Nam phát triển trong những

năm tới.

Thứ nhất, về điều chỉnh pháp luật đối với kinh doanh du lịch lữ hành:

Việc điều chỉnh pháp luật đối với hoạt động kinh doanh lữ hành cần phải làm rõ các

nội dung: Kinh doanh lữ hành nội địa, điều kiện kinh doanh, bảo hiểm du lịch và

các doanh nghiệp lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài... Tuy nhiên, các quy định của

Luật Du lịch năm 2005 còn một số hạn chế như: Quy định chưa chặt chẽ đối với

việc thành lập doanh nghiệp, điều kiện đối với kinh doanh lữ hành nội địa; chưa quy

định tỷ lệ vốn góp đối với doanh nghiệp lữ hành có vốn đầu tư nước ngoài…

Mấy năm gần đây, hoạt động kinh doanh lữ hành, vận chuyển và hướng dẫn

du lịch đang chuyển hướng sang phát triển thị trường nội địa. Thực tiễn cho thấy,

khi xây dựng Luật Du lịch năm 2005, các nhà làm luật chưa chú ý đúng mức đến lữ

hành nội địa là một nguyên nhân làm cho loại hình du lịch này hiện nay lộn xộn,

khó quản lý, cạnh tranh không lành mạnh và chất lượng ngày càng đáng báo động.

Các điều kiện kinh doanh lữ hành nội địa và lữ hành quốc tế cũng bộc lộ nhiều

bất cập, vướng mắc trong việc cấp thẻ từ cho hướng dẫn viên du lịch. Bên cạnh đó,

chưa có thông tư hướng dẫn về quy chế quản lý, hoạt động cho các khu du lịch,

tuyến, điểm du lịch; việc thể chế hóa nội dung và trách nhiệm quản lý nhà nước về

58

du lịch trong các nghị định chưa rõ. Công tác xúc tiến du lịch chung của quốc gia

thiếu tập trung, dàn trải, không hiệu quả, không có đơn vị đầu tàu định hướng quảng

bá quốc gia, tỉnh, gây ra tình trạng lãng phí… Đối với hoạt động lữ hành quốc tế,

hiện có khoảng hơn 1.000 công ty, trong đó chỉ khoảng 30% là kinh doanh đưa

khách vào Việt Nam, khoảng 70% là kinh doanh đưa người Việt Nam ra nước

ngoài. Luật Du lịch năm 2005 về cơ bản chỉ tập trung quản lý đối với loại hình

inbound, chưa thể hiện sự ưu tiên đối với loại hình kinh doanh này (tương tự như ưu

tiên xuất khẩu) và buông lỏng, không quản lý loại hình outbound (như nhập khẩu)

về bảo hiểm du lịch, do chỉ quy định mua bảo hiểm bắt buộc đối với khách

outbound, cho nên, khách du lịch nội địa và inbound không kiểm soát, khi có sự cố

gây khó khăn cho các doanh nghiệp và người đi du lịch. Vấn đề doanh nghiệp lữ

hành có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh và văn phòng đại diện của các doanh

nghiệp du lịch nước ngoài ở Việt Nam cũng chưa rõ ràng, hạn chế tính tích cực của

loại hình doanh nghiệp này.

Thực tế cho thấy, có một số vấn đề sát sườn với kinh doanh du lịch lữ hành

như vấn đề ký quỹ, doanh nghiệp lữ hành nội địa phải ký quỹ (ký gửi một số tiền

nhất định với ngân hàng đề phòng trường hợp doanh nghiệp đột ngột giải thể, phá

sản hay tai nạn…). Tuy nhiên, Luật Du lịch năm 2005 lại không quy định các đối

tác có liên quan của doanh nghiệp du lịch như các điểm lưu trú, khu du lịch, hãng

vận chuyển cũng cần phải ký quỹ. Điều này thể hiện sự lỏng lẻo của Luật do không

đảm bảo quyền lợi của khách du lịch và không ràng buộc được trách nhiệm của các

doanh nghiệp liên quan đến hoạt động du lịch. Đối với việc miễn visa xuất nhập

cảnh thì phải có vé vào, vé ra và bắt buộc khách phải mua bảo hiểm du lịch và mua

lưu trú phòng, còn tour có thể mua trước hoặc mua sau thì chúng ta sẽ không gặp

phải tình trạng khách vào đi làm chui hay đi làm những việc có tính chất tệ nạn...

Điều khoản quy định về quyền và nghĩa vụ của khách du lịch cũng như điều kiện

của các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành tuy đã có nhưng còn đơn giản, chưa rõ

ràng, chưa thật sự chặt chẽ và đầy đủ để bảo vệ du khách. Điều 35 Luật Du lịch năm

2005 quy định khách du lịch sẽ được bồi thường thiệt hại do lỗi của tổ chức, cá

nhân gây ra; có quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện hành vi vi phạm về pháp luật du

59

lịch. Điểm này chưa thể hiện rõ ai sẽ phải chịu trách nhiệm bảo vệ khách du lịch và

ai sẽ đại diện cho quyền lợi của họ? Do vậy, cần phải nhanh chóng bổ sung các quy

định trong Luật Du lịch như: Doanh nghiệp lữ hành nội địa phải có giấy phép, phải

ký quỹ, doanh nghiệp phải có hướng dẫn viên làm việc lâu dài để bảo vệ quyền lợi

cho khách du lịch nội địa. Đối với kinh doanh lữ hành quốc tế, cần có quy định về

tỷ lệ nhân sự ở các vị trí quản lý trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài

hoặc liên doanh; có quy định cụ thể về giám sát thực hiện mua bảo hiểm cho khách

du lịch. Về hướng dẫn viên du lịch, cần mở rộng cấp thẻ hướng dẫn du lịch quốc tế

tới trình độ cao đẳng chuyên ngành hướng dẫn du lịch (thay cho điều kiện bắt buộc

phải có bằng đại học); bổ sung một số quy định cụ thể về thuyết minh viên; chuẩn

hóa chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ và nội dung cấp chứng chỉ cho đối tượng

này. Cho phép quy định hướng dẫn đối với hướng dẫn viên một số thị trường có

tính đặc thù ngoại ngữ hiếm; cấp thẻ đặc cách dựa trên các yếu tố kinh nghiệm,

trình độ, kiến thức sau khi qua các kỳ kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ và ngoại

ngữ; cần có thêm quy định chặt chẽ hơn đối với công tác đổi thẻ.

Bên cạnh đó, quyền lợi của du khách cần được ưu tiên và được nêu ra một

cách rõ ràng. Cần phải xác định việc bảo vệ du khách đến đâu, lực lượng nào chịu

trách nhiệm an ninh an toàn cho khách du lịch và ai đại diện cho quyền lợi của họ…

Để bảo vệ quyền lợi của khách du lịch, cần bổ sung vào Luật điều khoản về cơ quan

chịu trách nhiệm chính trong việc bảo vệ khách du lịch. Tại các khu du lịch, điểm

du lịch phải đặt trạm tiếp nhận và giải quyết những vướng mắc, phản ánh của

khách. Cần có điều khoản bổ sung về thành lập các lực lượng chuyên trách trong hỗ

trợ, bảo vệ khách du lịch. Bổ sung điều khoản bảo vệ khách du lịch trong trường

hợp các công ty lữ hành đột ngột giải thể, phá sản… Liên quan đến vấn đề xuất

nhập cảnh, cần phải sửa đổi Luật Du lịch năm 2005 cho tương thích với Luật Nhập

cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2014 để

bảo đảm tính đồng bộ trong việc thực thi...Đối với những quy định về lĩnh vực lưu

trú du lịch, ngoài những loại cơ sở lưu trú du lịch đã được quy định xếp hạng như

khách sạn, nhà nghỉ, biệt thự, làng du lịch, căn hộ du lịch, trên thực tế đã xuất hiện

loại hình khách sạn bệnh viện, tàu hỏa lưu trú du lịch, tàu thuỷ lưu trú du lịch... nên

nhiều ý kiến kiến nghị bổ sung vào Điều 62 tên các loại hình cơ sở lưu trú du lịch

60

này và trên cơ sở đó bổ sung tiêu chuẩn xếp hạng vào bộ Tiêu chuẩn quốc gia về

xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch. Cần xem xét quy định mức điểm hợp lý hơn giữa các

yêu cầu về kết cấu xây dựng cố định và các trang thiết bị nội thất, khả năng cung

ứng dịch vụ theo hướng ưu tiên cho những tiêu chí linh hoạt, doanh nghiệp có thể

thay đổi, bổ sung, tạo điều kiện để doanh nghiệp đạt số điểm theo yêu cầu. Đồng

thời, cũng cần có quy định cụ thể về điều kiện được công nhận là khu, điểm du lịch

sinh thái, giúp các nhà đầu tư xây dựng dự án phù hợp với chính sách ưu đãi đầu tư

theo quy định. Thẩm quyền phân loại xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch cũng được kiến

nghị theo hướng phân cấp cho cấp huyện thẩm định, xếp hạng đối với loại nhà nghỉ,

nhà ở có phòng cho khách du lịch thuê; cấp biển hiệu đạt tiêu chuẩn phục vụ khách

du lịch cho cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch trong khu du lịch, điểm du lịch, đô thị

du lịch thuộc địa bàn quản lý của huyện, thị xã, thành phố.

Khắc phục bất cập tại khoản 3 Điều 66 Luật Du lịch năm 2005: “Loại cơ sở

lưu trú du lịch... được công nhận xếp hạng sao hoặc hạng cao cấp khi kinh doanh

hàng hóa, dịch vụ có điều kiện không cần phải có giấy phép kinh doanh đối với

từng loại hàng hóa, dịch vụ, nhưng phải đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm

quyền trước khi thực hiện”. Tuy nhiên, ở một số địa phương, các cơ sở lưu trú du

lịch đã được công nhận xếp hạng sao hoặc hạng cao cấp khi kinh doanh hàng hóa,

dịch vụ có điều kiện như massage, vũ trường, karaoke... vẫn phải xin giấy phép kinh

doanh.

Về xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư, nguồn vốn, thuế để xây dựng

và phát triển cơ sở lưu trú du lịch, đề nghị theo hướng cụ thể hóa cơ chế chính sách

ưu đãi đầu tư: Tổ chức, cá nhân được hưởng thuế suất ưu đãi khi đầu tư xây dựng

cơ sở lưu trú du lịch hạng 3 sao, 4 sao, 5 sao và hạng cao cấp; được hưởng thuế suất

ưu đãi khi nhập khẩu trang thiết bị chuyên dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch

trong tất cả các lần nhập khẩu khi đầu tư xây dựng mới hoặc nâng cấp cơ sở lưu trú

du lịch hạng 3 sao, 4 sao, 5 sao và hạng cao cấp (hiện đã có chính sách ưu đãi về

thuế khi nhập khẩu lần đầu); được hưởng ưu đãi về thuế đối với khuôn viên không

xây dựng gồm: Khu vực sân, vườn cây xanh, khu vực có các tiện ích bảo vệ môi

trường.

61

Thứ hai, khắc phục bất cập trong quy định về biện pháp khắc phục hậu quả

Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi

phạm hành chính trong lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo (Nghị định

số 158/2013/NĐ-CP) đã không tổng hợp hết những nội dung cần thiết từ Nghị định

số 16/2012/NĐ-CP ngày 12/3/2012 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm

hành chính trong lĩnh vực du lịch (Nghị định số 16/2012/NĐ-CP). Dễ dàng để nhận

thấy được những khoảng trống trong văn bản pháp luật mới về biện pháp khắc phục

hậu quả. Cụ thể, Điều 2 Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định: “Ngoài các biện

pháp khắc phục hậu quả quy định tại các điểm a, b, đ, e, h và i khoản 1 Điều 28

Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh

vực văn hóa, thể thao, du lịch còn có thể bị áp dụng một hoặc các biện pháp khắc

phục hậu quả.

Theo đó, nội dung gồm 12 điều quy định cụ thể về tiêu chuẩn với các loại ô

tô du lịch, lái xe, nhân viên phục vụ, hướng dẫn thủ tục cấp biển đạt chuẩn với các

điều khoản thực hiện, thi hành. Theo đó quy định rõ: đối với xe du lịch là niên hạn

phục vụ không quá 20 năm, lái xe và nhân viên phục vụ phải có Giấy chứng nhận

tập huấn nghiệp vụ du lịch do Sở VHTT& DL địa phương cấp... Bắt đầu từ 1-4 sẽ

triển khai cấp biển hiệu cho xe ô tô vận chuyển khách du lịch được áp dụng dựa trên

Thông tư liên tịch số 05/2011/TTLT-BVHTTDL-BGTVT. Xe đạt chuẩn vận

chuyển khách du lịch sẽ được cơ quan chức năng cấp biển, có thời hạn 24 tháng và

giá trị trong toàn quốc.

Đối với doanh nghiệp, có thể thấy lợi ích của việc triển khai cấp biển hiệu rất

rõ ràng, thiết thực. Việc cấp biển hiệu gắn liền với việc nâng cao chất lượng xe,

nghiệp vụ du lịch, văn hóa trong ứng xử của người phục vụ, hướng tới chuyên

nghiệp hóa trong hoạt động vận tải du lịch. Như vậy, thực hiện thông tư trên, doanh

nghiệp có thể kiểm soát được dịch vụ cung cấp cho du khách, góp phần cải thiện

nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Đó cũng là góp phần vào nâng cao chất lượng

ngành du lịch

+ Vi phạm quy định về kinh doanh lưu trú du lịch:

62

Trời gian 6 ngày (9 – 15/10/2017), đoàn đã tiến hành thanh tra tại 14 đơn vị có

hoạt động kinh doanh du lịch. Trong đó, 6 đơn vị kinh doanh lữ hành và 8 đơn vị

kinh doanh lưu trú du lịch. Quá trình kiểm tra, 14 đơn vị đều đảm bảo tư cách pháp

nhân theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại thời điểm kiểm tra thì một số

đơn vị vẫn mắc nhiều vi phạm.

Cụ thể, đối với hoạt động kinh doanh lữ hành, Công ty CP Du lịch và Thương

mại Hạ Long Cruiser và Công ty TNHH MTV Du lịch và Thương mại quốc tế Hải

Ninh chưa lập, lưu trữ hồ sơ đoàn khách đầy đủ theo quy định; chưa thực hiện đúng

chế độ báo cáo cho cơ quan thẩm quyền theo quy định.

Đặc biệt, riêng Công ty CP Du lịch và Thương mại Hạ Long Cruiser chưa xuất

trình được thẻ hướng dẫn viên du lịch của 4 cộng tác viên mà công ty sử dụng để

hướng dẫn cho khách du lịch.

Về hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch, một số khách sạn, nhân viên phục vụ

chưa đủ bằng cấp, chứng chỉ chuyển môn nghiệp vụ, ngoại ngữ so với quy

định.Theo đó, tại thời điểm kiểm tra, 2 khách sạn Luxury Hạ Long và Biển Bắc

chưa xuất trình được bằng cấp, chứng chỉ chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ của

một số nhân viên phục vụ và hồ sơ về công tác bảo vệ môi trường.

Về lỗi vi phạm của khách sạn Luxury Hạ Long và Biển Bắc, Đoàn Thanh tra

Bộ văn hóa thể thao du lịch đã đề nghị Thanh tra Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh tiếp

tục làm việc và xử lý theo quy định của pháp luật.

Kết thúc đợt kiểm tra, Thanh tra Bộ VHTTDL yêu cầu Tổng cục Du lịch cần

tăng cường quản lý các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh lữ hành, hướng dẫn các

doanh nghiệp thực hiện đúng chế độ lập, lưu trữ hồ sơ, tài liệu và báo cáo theo quy

định.

Trong hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch, cần tăng cường công tác quản lý

các khách sạn, thẩm định, xếp hạng cơ sở lưu trú du lịch đúng quy định của pháp

luật. Đồng thời, tăng cường công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch để đáp ứng nhu

cầu của doanh nghiệp.

Thanh tra Bộ cũng yêu cầu Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh chủ động phối hợp

với các cơ quan chức năng tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện

quy định pháp luật trong hoạt động kinh doanh du lịch trên địa bàn.

63

+ Việc xử lý dân sự, kinh tế, hình sự đối hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch cũng cần có những văn bản pháp luật quy định rõ

ràng hơn nhằm xử lý kịp thời nhưng hành vi cạnh tranh nguy hại đến nền kinh tế

của tỉnh và tài sản, con người trong các Doanh nghiệp đang hoạt dộng trong lĩnh

vực này.

Thời gian qua, tỉnh Quảng Ninh đã vào cuộc quyết liệt nhằm chấn chỉnh hoạt

động lữ hành đón khách du lịch qua cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh) từng bước

làm sạch môi trường kinh doanh, đồng thời xử lý nghiêm các đơn vị, cá nhân có

hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Tuy nhiên, gần đây, hiện tượng tua du lịch giá

rẻ, du lịch 0 đồng, điểm mua sắm bán sản phẩm giá cao có nguy cơ quay trở lại.

Mạnh tay xử lý tua giá rẻ: Hiện nay, khách du lịch qua cửa khẩu Móng Cái

chủ yếu gồm hai đối tượng là người Trung Quốc sử dụng hộ chiếu vào Việt Nam du

lịch và người sử dụng "Giấy thông hành xuất nhập cảnh" do Trung Quốc cấp vào

Khu kinh tế cửa khẩu tham quan du lịch theo quy định tại Nghị định số

29/2008/NÐ-CP ngày 14-3-2008 của Chính phủ. Theo báo cáo của Sở Du lịch tỉnh

Quảng Ninh, trên địa bàn hiện có 47 doanh nghiệp lữ hành đón khách du lịch qua

cửa khẩu Móng Cái; trong đó 26 doanh nghiệp lữ hành có trụ sở chính tại Quảng

Ninh, 21 doanh nghiệp có trụ sở chính ở các địa phương khác ( chủ yếu tại Hà Nội).

Nhiều năm trở lại đây, doanh nghiệp lữ hành nước ngoài liên tục ép các doanh

nghiệp du lịch Việt Nam nhận khách với mức giá thấp, thậm chí có những chương

trình du lịch với giá 0 đồng. Các doanh nghiệp lữ hành nhận khách của Việt Nam

buộc phải đưa khách đến địa điểm bán hàng lưu niệm, ép khách mua thêm những

tua du lịch với giá cao, gây bức xúc cho du khách và ảnh hưởng đến hình ảnh du

lịch tỉnh Quảng Ninh.

Ðại diện một công ty du lịch ở TP Móng Cái chia sẻ: "Thực chất tua 0 đồng là

tua giá rẻ, khách mua sản phẩm du lịch gồm chi phí vé máy bay, tàu, thuyền, ô-tô,

phí visa, dịch vụ khách sạn và chương trình du lịch với mức giá thấp hơn nhiều mức

chi phí thực tế mà doanh nghiệp phải chi trả. Trong hợp đồng không có tua "0

đồng", đương nhiên không tồn tại hợp đồng 0 đồng giữa khách du lịch (bên mua) và

64

công ty gom khách (bên bán). Ðiều đó dẫn tới tình trạng ép khách sử dụng các dịch

vụ như ăn uống, nghỉ ngơi… đắt đỏ".

Theo phản ánh của doanh nghiệp và Chi hội hướng dẫn viên, hiện nay nhiều

doanh nghiệp lữ hành nước ngoài vẫn tiếp tục chào giá sang Việt Nam với giá thấp,

thậm chí bằng "0". Ðể có lãi, các đơn vị hoạt động kinh doanh du lịch lữ hành buộc

phải thông qua hình thức "chăn dắt" khách đi mua sắm, nâng giá các sản phẩm.

Ðiều này khiến hoạt động đón khách quốc tế trở nên lộn xộn, chất lượng dịch vụ

giảm, khách bị "chặt chém" làm ảnh hưởng xấu đến ngành du lịch địa phương.

Phó Giám đốc phụ trách Sở Du lịch Quảng Ninh Trịnh Ðăng Thanh cho biết:

"Thời gian qua, ngành du lịch tỉnh Quảng Ninh yêu cầu các công ty lữ hành triển

khai đón du khách qua cửa khẩu quốc tế Móng Cái phải chấn chỉnh việc doanh

nghiệp lữ hành Việt Nam cấu kết với một số doanh nghiệp nước ngoài hạ giá tua;

xử lý nghiêm doanh nghiệp vi phạm, các hướng dẫn viên cố tình đưa khách vào các

điểm mua sắm để chèn ép giá, kết hợp các lực lượng chức năng, tăng cường kiểm

soát và xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế hoạt động này vẫn luôn tiềm ẩn nguy cơ biến

tướng trở lại".

Thời gian qua, ngành chức năng và các địa phương Hạ Long, Móng Cái, Ðông

Triều tổ chức 18 cuộc thanh kiểm tra các doanh nghiệp lữ hành, các điểm dịch vụ

mua sắm hàng hóa. Tổng số tiền phạt trong ba lĩnh vực lữ hành, hướng dẫn viên, cơ

sở mua sắm là hơn một tỷ đồng; tước quyền sử dụng giấy phép kinh doanh lữ hành

quốc tế đối với năm doanh nghiệp trong thời hạn 12 tháng; kiểm tra gần 300 lượt

hướng dẫn viên du lịch, xử phạt 72 trường hợp với tổng số tiền gần 400 triệu đồng,

tịch thu mười thẻ giả, hai thẻ hết hạn, tước quyền sử dụng thẻ hướng dẫn viên du

lịch đối với hai trường hợp. Thu hồi giấy phép và dừng hoạt động của 24 điểm bán

hàng, xử phạt bốn cửa hàng trong đó có cửa hàng của Công ty TNHH Ngọc Rồng

(Hùng Thắng) bị phạt 400 triệu đồng vì hành vi niêm yết giá bằng ngoại tệ. Bàn

giao 28 thẻ hướng dẫn viên giả cho Cục An ninh kinh tế tổng hợp (Bộ Công an) để

điều tra xử lý.

Sở sẽ tham mưu cho UBND tỉnh để phân cấp cho các địa phương chủ động

xây dựng, quản lý các cơ sở cửa hàng, nhà hàng đạt chuẩn căn cứ theo Thông tư số

65

88/2008 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Cơ sở nào không đạt chuẩn vẫn hoạt

động sẽ thu hồi giấy phép vĩnh viễn. Các cơ sở sẽ nộp hồ sơ tại Trung tâm Hành

chính công, Sở Du lịch cũng phối hợp với TP Móng Cái và Hạ Long thẩm định

đồng bộ tại chỗ và quyết định công nhận cửa hàng đạt chuẩn.

Chặt đứt "mắt xích" của tua 0 đồng: Sáu tháng đầu năm 2017, lượng khách

đến tỉnh Quảng Ninh ngày càng tăng cao. Doanh thu du lịch tăng 23% so với cùng

kỳ năm 2016, đóng góp cao cho GRDP của Tỉnh.

Với sự vào cuộc quyết liệt của tỉnh từ cuối tháng 3-2017, hoạt động lữ hành

kinh doanh đón khách du lịch nước ngoài qua cửa khẩu Móng Cái đã ổn định.

Nhiều doanh nghiệp đồng tình với chiến dịch làm trong sạch môi trường du lịch bởi

nó sẽ xóa đi những tua du lịch giá rẻ có dấu hiệu lừa đảo, loại bỏ những doanh

nghiệp làm ăn không chân chính, trục lợi, làm ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch của

tỉnh Quảng Ninh.

Thời gian tới, tỉnh Quảng Ninh phối hợp Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch,

chính quyền Khu tự trị Quảng Tây - Trung Quốc, Ủy ban phát triển du lịch tỉnh

Quảng Tây, TP Phòng Thành Cảng của Quảng Tây.... thường xuyên thông báo tình

hình các doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam vi phạm để kịp thời chấn chỉnh,

đình chỉ doanh nghiệp vi phạm; đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, kịp thời biểu

dương khích lệ các đơn vị, cá nhân làm việc tốt; tiếp tục kiến nghị Chính phủ, Bộ

Văn hóa, Thể thao và Du lịch phân cấp cho tỉnh trong cấp phép hoạt động doanh

nghiệp lữ hành, hướng dẫn viên du lịch quốc tế.

Sở Du lịch tỉnh Quảng Ninh từ đầu năm đến nay đã tổ chức kiểm tra 1.150 tổ

chức, cá nhân hoạt động du lịch. Trong đó, xử phạt hành chính 123 tổ chức, cá nhân

gồm 91 hướng dẫn viên du lịch, 18 đơn vị kinh doanh lữ hành và 14 cơ sở lưu trú

với số tiền phạt gần 730 triệu đồng do các lỗi vi phạm trong lĩnh vực kinh doanh du

lịch, dịch vụ. Có tới 5 doanh nghiệp lữ hành quốc tế bị tước giấy phép hoạt động 12

tháng, hơn 10 hướng dẫn viên du lịch bị tước, tịch thu thẻ hành nghề.

Cục Thuế tỉnh đã kiểm tra 5 doanh nghiệp lữ hành, truy thu và xử phạt 472

triệu đồng cho ngân sách. Chi cục Quản lý thị trường đã kiểm tra 166 lượt, xử phạt

57 cơ sở kinh doanh du lịch, dịch vụ vi phạm với số tiền xử phạt hơn 300 triệu

66

đồng; tịch thu, phát mại, tiêu hủy hàng hóa lên tới 56 triệu đồng. Công an tỉnh phối

hợp với các cơ quan chức năng kiểm tra xuất nhập cảnh của 93 doanh nghiệp, cơ sở

lưu trú; chấn chỉnh 24 cơ sở lưu trú trong việc khai báo tạm trú, ra quyết định xử

phạt 17 vụ với 29 trường hợp. Công an tỉnh Quảng Ninh cũng phát hiện 1 vụ việc

người nước ngoài cấu kết với một số cá nhân trong nước về việc thuê cơ sở lưu trú

tại Vân Đồn để thực hiện các hành vi trái phép.

Nhờ sự vào cuộc tích cực của các sở, ngành và chính quyền địa phương đã tạo

ra môi trường kinh doanh du lịch lành mạnh, công bằng hơn. Lượng khách đến với

tỉnh Quảng Ninh trong 10 tháng năm 2017 đạt 8,6 triệu lượt, tăng 18% so với cùng

kỳ năm 2016, đạt 100% kế hoạch; trong đó lượng khách quốc tế đạt 3,4 triệu lượt,

tăng 21%. Tổng thu từ hoạt động du lịch đạt trên 15 ngàn tỷ đồng, tăng 38% so với

cùng kỳ và vượt 5% so với kế hoạch năm.

Thời gian qua, các ngành chức năng, địa phương liên quan đã "mạnh tay" kiên

quyết xử lý vấn nạn "tour 0 đồng", các hệ lụy từ "tour 0 đồng", duy trì tốt giải pháp

nhằm đảm bảo môi trường kinh doanh du lịch.

Nổi bật là lực lượng thanh tra chuyên ngành tiếp tục chiến dịch chấn chỉnh

môi trường kinh doanh du lịch, hoạt động lữ hành. Theo đó, Thanh tra Sở Du lịch

đã tổ chức kiểm tra 26 lượt hướng dẫn viên du lịch tại Trạm Kiểm soát liên hợp KM

15 - Bến tàu Dân Tiến (TP Móng Cái), các điểm dừng chân tại Móng Cái, Hạ Long;

kiểm tra 17 lượt cơ sở lưu trú tại Hạ Long, Vân Đồn. Qua đó, đã xử lý nhiều vi

phạm, lành mạnh hóa môi trường du lịch, bảo vệ quyền lợi du khách. Thanh tra Sở

Giao thông -Vận tải cũng thường xuyên bố trí lực lượng tại Cảng tàu khách quốc tế

Tuần Châu, kiểm tra phát hiện và xử lý 30 trường hợp vi phạm hành chính về giao

thông thủy, an toàn phương tiện trên Vịnh Hạ Long...

Cùng với đó, Sở Du lịch hướng dẫn, thẩm định lại các cơ sở kinh doanh du

lịch đạt chuẩn; phối hợp với các ngành liên quan tăng cường kiểm tra niêm yết giá,

chất lượng hàng hóa... Các địa phương: Hạ Long, Uông Bí, Móng Cái cũng quyết

liệt, tích cực thực hiện các giải pháp về an ninh trật tự, đảm bảo môi trường kinh

doanh du lịch lành mạnh. Trong 8 tháng năm 2017, lực lượng chức năng của TP Hạ

Long đã kiểm tra, xử lý 12 trường hợp vi phạm trên Vịnh Hạ Long, xử phạt hơn 33

67

triệu đồng; TP Móng Cái cũng kiểm tra, xử lý đối với 11 đoàn khách, hướng dẫn

viên...

Đặc biệt, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh, Tổ công tác quản lý hoạt động lữ

hành trên địa bàn tỉnh đã được thành lập. Tổ có nhiệm vụ kiểm tra chất lượng dịch

vụ, chống thất thu thuế, quản lý du khách, hướng dẫn viên... thông qua việc thanh,

kiểm tra.

Theo thống kê, 9 tháng năm 2017, tỉnh Quảng Ninh đón 7,9 triệu lượt khách

du lịch, tăng 18% so với cùng kỳ 2016, trong đó khách quốc tế đạt 3 triệu lượt, tăng

20% so với cùng kỳ. Tổng thu từ hoạt động du lịch đạt trên 12.000 tỷ đồng, tăng

28% so với cùng kỳ. Đó là những kết quả đáng khích lệ từ việc nỗ lực chấn chỉnh,

làm trong sạch môi trường kinh doanh du lịch.

Bên cạnh những kết quả đạt được, theo báo cáo của các cơ quan chức năng, du

lịch tỉnh Quảng Ninh vẫn còn nhiều vấn đề tồn tại, phát sinh, như: Doanh nghiệp

ngoài tỉnh "lách luật" trong việc đón khách lữ hành Trung Quốc, cạnh tranh không

lành mạnh, hạ giá tour... Cùng với đó, còn có một số vấn đề được quan tâm, như:

Việc xử lý các bungalow trái phép ở Cô Tô; vấn đề giá dịch vụ từ việc lượng khách

lưu trú đến Quảng Ninh tăng mạnh; hoạt động vận chuyển khách tham quan Vịnh

Hạ Long phát sinh một số phức tạp, đặc biệt liên quan tới thuyền viên tàu du lịch;

môi trường kinh doanh du lịch ở Khu du lịch Bãi Cháy... Theo đánh giá, hầu hết

đây không phải những vấn đề mới nhưng vẫn tồn tại hoặc phát sinh dưới các hình

thức khác nhau, cần sự vào cuộc quyết liệt hơn với những giải pháp cụ thể trong

thời gian tới.

2.4.2. Đánh giá chung về việc thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh

Thứ nhất, Pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực

thi tại Quảng Ninh đã thể chế hóa quan điểm của Đảng về xây dựng và hoàn thiện

thể chế kinh tế thị trường, phù hợp với các công ước, điều ước quốc tế mà Việt Nam

tham gia trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế

Trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, lần đầu tiên, các quy định pháp luật về hành vi

cạnh tranh xác định và điều chỉnh các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du

68

lịch. Phù hợp với pháp luật về hành vi cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới, Luật

Cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam quy định các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch được điều chỉnh bởi chế định cạnh tranh không

lành mạnh. Theo Điều 45 của Luật Cạnh tranh năm 2004, cấm các doanh nghiệp

thực hiện các hoạt động nhằm cạnh tranh không lành mạnh. Đây được coi là cơ sở

pháp lý tiền đề để chúng ta phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm, xây dựng môi

trường cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch.

Thứ 2, Pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch đã quy

định và điều chỉnh các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh dịch vụ du

lịch

Một là, hành vi quảng cáo so sánh trực tiếp dịch vụ của mình với dịch vụ cùng

loại của doanh nghiệp khác ;

Hai là, hành vi bắt chước các hoạt động, mô hình... khác để gây nhầm lẫn cho

du khách;

Ba là, hành vi đưa thông tin gian dối hoặc gây nhầm lẫn cho du khách làm ảnh

hưởng đến đối thủ cạnh tranh;

Bốn là, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác: Luật Cạnh tranh không

chỉ cấm các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh được quy định

trong Luật Cạnh tranh năm 2004, mà còn cấm các hoạt động quảng cáo khác được

quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành nếu hành vi đó thoả mãn các

tiêu chí của cạnh tranh.

Thứ 3, Pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực thi

tại tỉnh Quảng Ninh đã bước đầu thể hiện được tính đồng bộ, thống nhất trong cơ

chế xử lý các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

+ Quy định thống nhất về nguyên tắc áp dụng pháp luật để xử lý hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch;

+ Quy định thống nhất về cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm và trình tự,

thủ tục xử lý vi phạm đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực

quảng cáo;

69

+ Quy định thống nhất về các biện pháp chế tài đối với hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Luận văn là công trình nghiên cứu có hệ thống về pháp luật về hành vi CTKLM

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Với cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nêu tại

chương 1 và chương 2 của luận văn này, tác giả hy vọng góp phần làm rõ thêm về

mặt lý luận chung của cạnh tranh và chính sách cạnh tranh, ý nghĩa và vai trò của

cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh; rà soát và đánh giá lại toàn bộ các

quy định có liên quan tới hành vi CTKLM trong lịch vực dịch vụ du lịch thực tiễn

thi hành tại tỉnh Quảng Ninh; đánh giá và chỉ ra được những bất cập nảy sinh từ bản

thân các quy định hiện hành; đánh giá và chỉ ra được những khó khăn phát sinh

trong quá trình thực thi, một số vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn cần bổ sung

các quy định pháp lý để điều chỉnh kịp thời qua đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn

thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực tiễn thi

hành tại tỉnh Quảng Ninh.

Chương 2 của luận văn đã đưa ra được một số các hạn chế hạn chế cần đưa ra giải

pháp hoàn thiện như sau:

Một là: Một số quy định của pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ

du lịch còn thiếu tính rõ ràng và minh bạch

Hai là: Pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch còn thiếu tính

toàn diện khi chưa bao quát hết các loại hành vi và chủ thể thực hiện hành vi nhằm

cạnh tranh không lành mạnh

Ba là: Pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch còn thiếu tính

khả thi.

Bốn là: Nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp và quần chúng nhân dân về pháp

luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và pháp luật về cạnh tranh

trong lĩnh vực DVDL nói riêng còn chưa cao.

70

CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ THỰC THI

PHÁP LUẬT VỀ HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH TRONG

LĨNH VỰC DỊCH VỤ DU LỊCH THỰC TẠI TỈNH QUẢNG NINH

3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thực thi hiệu quả pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

3.1.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

Thể chế hóa đầy đủ các đường lối, chủ tương, chính sách của Đảng trong việc

phát triển nền kinh tế có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN với điểm

nhấn là: Thể chế hóa Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16-01-2017 của Bộ Chính trị

về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Luật Du lịch 2017 đã quy

định các chính sách cụ thể và có tính khả thi hơn. Theo đó, tổ chức, cá nhân kinh

doanh du lịch được hưởng mức ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cao nhất, có môi trường cạnh

tranh lành mạnh khi Nhà nước ban hành, áp dụng các chính sách về ưu đãi và hỗ trợ

đầu tư. Để định hướng hoàn thiện pháp luật cạnh tranh tron lĩnh vực dịch vụ du lịch

trước hết cần hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực này:

Hạn chế các hành vi cạnh tranh trong ngành dịch vụ du lịch là một lĩnh vực

còn ít được quan tâm trong nghiên cứu và xử lý hành vi cạnh tranh ở các nước còn

nhiều hạn chế. Một phần, đây là ngành kinh tế mới có sự phát triển chỉ trong vài

thập niên gần đây, một phần, tỉ trọng của du lịch trong nền kinh tế các nước phát

triển hầu như không đáng kể. Chính vì vậy, tác động của ngành dịch vụ du lịch

trong nền kinh tế chỉ có ý nghĩa quan trọng đối với các nước có nền kinh tế nhỏ

hoặc đang phát triển. Nghịch lý là, chính ở các nước này, pháp luật và chính sách

cạnh tranh còn rất sơ khai, thêm vào đó, ý chí chính trị để xử lý các hành vi phản

cạnh tranh trong ngành dịch vụ du lịch thường còn yếu do e ngại việc xử lý các

doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài sẽ gây sụt giảm đầu tư và nguồn khách du lịch.

Hơn nữa, đối với các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, lợi ích

khách du lịch nội địa thường ít bị đe dọa trực tiếp, các doanh nghiệp nội địa hoạt

động trong cùng lĩnh vực lại có lợi ích chồng chéo nên ít có sự tố cáo khiếu nại, vì

71

vậy, cơ quan cạnh tranh các nước cũng ít quan tâm đến lĩnh vực này. Do đó, số

lượng các vụ việc hạn chế cạnh tranh phát hiện trong ngành dịch vụ du lịch còn thấp

và số lượng các vụ việc được đưa ra xử lý thực tế còn ít hơn nhiều.

Tuy nhiên, hạn chế các hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch là

nguy cơ thực tế do đặc thù của thị trường du lịch là có chỉ số tập trung tương đối

cao. Sản phẩm dịch vụ du lịch thường có khối lượng giao dịch thường xuyên và

mức cầu ổn định, ít tính thay đổi, sáng tạo. Vì vậy, các hành vi thông đồng ấn định

giá, phân chia thị trường, áp đặt giá dịch vụ bất hợp lý, áp đặt điều kiện hợp đồng

hoặc ngăn cản việc tham gia/gia nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh rất phổ

biến trong ngành dịch vụ du lịch.

Nền kinh tế càng nhỏ, càng khép kín thì khi mở cửa tư nhân hóa, mức độ tập

trung thị trường càng lớn. Các doanh nghiệp có vị thế thị trường thống lĩnh nhờ quá

trình điều tiết và bảo hộ trước đây vẫn sẽ tiếp tục chiếm vị trí thống lĩnh, mặc dù về

nguyên tắc, khi phi điều tiết theo cơ chế tự do phải có thêm nhiều doanh nghiệp mới

gia nhập. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp khai thác du lịch chịu rào cản gia

nhập ngành lớn vì đặc thù của ngành dịch vụ du lịch là lợi thế theo quy mô, càng có

quy mô lớn, số lượng khách lớn, chi phí càng thấp, dẫn đến mức giá rẻ và khả năng

cạnh tranh cao hơn.

Ở các nước đang phát triển, hình thức hạn chế các hành vi cạnh tranh tương

đối phổ biến là việc bán dưới giá thành nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh. Hình thức

này có thể ở dạng giảm giá giả tạo, nghĩa là đưa ra mức giá chào bán tour và dịch

vụ du lịch thấp hơn nhiều các doanh nghiệp lữ hành khác, nhằm lôi kéo khách hàng

sử dụng dịch vụ. Thực tế, doanh nghiệp lữ hành lại cấu kết với các doanh nghiệp

cung ứng các dịch vụ khác (thuốc, đồ lưu niệm, quà tặng đặc chủng của địa

phương...) nhằm thu lợi bất chính từ việc bán chênh nhiều lần các mặt hàng này, có

trường hợp chênh đến cả 100 lần so với mức giá bán lẻ ngoài thị trường. Thậm chí,

có trường hợp doanh nghiệp lữ hành tự mở các doanh nghiệp sân sau cung cấp các

dịch vụ bán hàng này khiến cho các doanh nghiệp làm ăn chân chính không thể

cạnh tranh nổi về giá.

Một đặc điểm khác liên quan đến các hành vi cạnh tranh mà các doanh nghiệp

dịch vụ du lịch ở các nước đang phát triển phải đối mặt là việc phụ thuộc và bị ép

72

giá khi liên kết cung cấp dịch vụ du lịch cho khách nước ngoài. Các công ty lữ hành

quốc tế với tiềm lực kinh tế lớn và với lợi thế nắm nguồn cung khách có khả năng

thao túng đáng kể mức giá cung ứng dịch vụ mà các doanh nghiệp sở tại cung cấp.

Các công ty này còn buộc các doanh nghiệp địa phương phải ký các hợp đồng độc

quyền, chỉ cung cấp dịch vụ cho một bên mà không được bán hoặc giới thiệu cho

các khách khác. Ngay từ năm 1998, báo cáo của Hội nghị Liên Hiệp Quốc về

thương mại và phát triển (UNTACD) liên quan đến Ngành Du lịch đã chỉ ra rằng,

các dịch vụ liên quan đến du lịch do các nước đang phát triển cung cấp phải chịu sự

cạnh tranh lớn từ các công ty lữ hành đa quốc gia vì các doanh nghiệp cung cấp các

dịch vụ này hầu hết đều là các doanh nghiệp nhỏ, không có vị thế và kỹ năng

thương thuyết nên thường phải chịu các hợp đồng bất lợi.

Đối với các nước phát triển, hình thức hạn chế các hành vi cạnh tranh phổ biến

nhất trong lĩnh vực du lịch là hạn chế cạnh tranh do các doanh nghiệp lữ hành lớn

(thường là đa quốc gia) và hạn chế các hành vi cạnh tranh do các doanh nghiệp vận

tải hàng không gây ra. Hành vi hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành đa

quốc gia gây thiệt hại không chỉ cho các doanh nghiệp du lịch ở các nước đang phát

triển, mà chính người tiêu dùng ở các nước phát triển cũng chịu thiệt hại do không

thể xác định được giá giao dịch thực giữa các doanh nghiệp lữ hành này với các bên

cung cấp dịch vụ tại điểm đến. Đối với hình thức hạn chế cạnh tranh liên quan đến

các doanh nghiệp vận tải hàng không, đối tượng thiệt hại chính là các doanh nghiệp

lữ hành, vì nhờ vị thế thị trường lớn, và thường là thống lĩnh, các doanh nghiệp vận

tải hàng không có khả năng áp đặt các doanh nghiệp lữ hành phải ký các hợp đồng

độc quyền.

Cuối cùng, phải kể đến xu thế cartel hóa khu vực giữa các doanh nghiệp lữ

hành của các nước phát triển. Xu thế này diễn ra giữa các nhóm doanh nghiệp lữ

hành có hoạt động kinh doanh trong cùng một khu vực để đối chọi với các nhóm

doanh nghiệp lữ hành thuộc khu vực khác, ví dụ nhóm kinh doanh thị trường Caribe

với nhóm kinh doanh thị trường Địa Trung Hải. Các doanh nghiệp kinh doanh sản

phẩm du lịch trên cùng một địa bàn sẽ thống nhất chiến lược marketing, tài trợ các

quảng cáo nhằm thúc đẩy thị trường. Tuy nhiên, các hoạt động này thường hay biến

73

tướng thành các dạng thống nhất hành vi nhằm giảm bớt cạnh tranh trên thị trường,

thông qua việc thông đồng ấn định giá.

3.1.2. Định hướng thực thi hiệu quả pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành

mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch ở Việt Nam

Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch

cần phải phù hợp với quan điểm hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa và bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ hai, hoàn thiện pháp luật ề hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL phải

đáp ứng các tiêu chí hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm cạnh tranh công bằng, lành

mạnh giữa các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế.

Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL cần

quan tâm coi trọng công tác tổng kết thực tiễn thực hiện pháp luật và công tác rà

soát, hệ thống hóa pháp luật.

Thứ tư, Hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL cần

đảm bảo nguyên tắc độc lập trong tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý cạnh

tranh.

Cơ quan cạnh tranh của các nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế nhỏ, rất

khó có khả năng xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch, đặc

biệt là các vụ việc có tính chất xuyên quốc gia, hoặc các vụ việc có yếu tố nước

ngoài. Các nước nhỏ và đang phát triển lại phụ thuộc cả về tài chính và chuyên môn

vào các đối tác nước ngoài trong việc tìm kiếm khách du lịch quốc tế. Vì vậy, khả

năng áp đặt các hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc trong lĩnh vực du lịch của các

doanh nghiệp lữ hành đa quốc gia là có thật và rất phổ biến, chứ không chỉ là

trường hợp riêng có của Gambia. Đặc biệt, ở các nước có nền pháp luật cạnh tranh

non trẻ, vừa thiếu kinh nghiệm xử lý, vừa yếu về bộ máy thực thi, cơ quan cạnh

tranh thường dễ chùn bước trước các công ty có đóng góp lớn vào nguồn thu ngân

sách và tăng trưởng quốc gia. Kinh nghiệm của Gambia cho thấy, để xử lý hiệu quả

các hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như để ngăn ngừa các biến tướng gây hại cho

thị trường du lịch, cần phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa cơ quan cạnh tranh và cơ

quan quản lý ngành (Bộ Du lịch và Văn hóa, cơ quan du lịch quốc gia).

74

Đối với các nền kinh tế chuyển đổi, cũng giống như các ngành kinh tế khác,

du lịch cũng có những nhóm lợi ích quyền năng đại diện mà những nhóm này

thường có liên hệ mật thiết với cơ quan quản lý nhà nước. Vì vậy, kể cả gia tăng

nguồn lực, thẩm quyền cho các cơ quan thực thi luật cạnh tranh theo cách truyền

thống chỉ đẩy thêm vòng luẩn quẩn là các nhóm lợi ích lại tìm kiếm sự bảo hộ và

điều tiết từ các cơ quan quản lý nhà nước khác. Chính vì vậy, hợp tác khu vực giữa

các cơ quan cạnh tranh phải trở thành xu thế để đảm bảo khả năng thực thi luật, đối

chọi lại với khả năng gây ảnh hưởng từ các nhóm lợi ích trong nước hoặc xuyên

quốc gia. Hợp tác thực thi cạnh tranh nội vùng càng có ý nghĩa trong ngành du lịch

khi các hiện tượng liên kết thỏa thuận giá đang trở nên hết sức phổ biến giữa các

điểm đến du lịch trong cùng khu vực. Hơn nữa, để đối phó với các hình thức cartel

khu vực, cần phải có cơ chế đa phương mới có thể điều tra và xử lý hiệu quả các

hành vi.

Hợp tác thực thi cạnh tranh trong lĩnh vực du lịch đặc biệt cần đến sự hợp tác

thực chất và hiệu quả giữa cơ quan cạnh tranh của các nước phát triển với các nước

đang phát triển, vì lý do đã phân tích ở trên, các nước phát triển hầu như không ưu

tiên xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh mà chỉ có tác động hạn chế cạnh tranh ở

hạ nguồn (tác động chủ yếu tới các doanh nghiệp kinh doanh du lịch ở điểm đến

thường là các nước đang phát triển). Về bản chất, hành vi của các doanh nghiệp lữ

hành đa quốc gia cần được phân tích dưới góc độ của hành vi bóp nghẹt lợi nhuận.

Nhờ vị trí thống lĩnh trên thị trường đầu nguồn (khách du lịch của các nước kinh tế

phát triển), các doanh nghiệp lữ hành nâng giá đến sát mức giá bán sản phẩm trên

thị trường cuối nguồn, khiến cho các doanh nghiệp kinh doanh du lịch địa phương

của các nước đang phát triển hầu như không thể cạnh tranh, và cũng làm giảm

doanh thu từ du lịch của các nước đang phát triển. Chính Liên Hiệp Quốc đã từng

có báo cáo phân tích về hành vi bóp nghẹt lợi nhuận trong lĩnh vực du lịch ở Hy

Lạp, trong đó dẫn chứng cụ thể mức sụt giảm lên tới 20% doanh thu ngành du lịch

nước này. Thậm chí, một báo cáo của Ấn Độ còn cho rằng, việc các nước Caribe

ban hành Luật Cạnh tranh là do quan ngại về hành vi bóp nghẹt cạnh tranh của các

doanh nghiệp lữ hành đa quốc gia trong lĩnh vực du lịch. Tuy nhiên, đến nay, chưa

75

có một hình thức hợp tác thực thi cụ thể nào trong lĩnh vực này được triển khai. Nói

cách khác, quyền lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ và người lao động ở các nước

đang phát triển hiện vẫn chưa phải là ưu tiên quan tâm của cơ quan cạnh tranh các

nước phát triển. Vì vậy, ngoài việc hợp tác thực thi giữa các nhóm nước, cần nghiên

cứu những cơ chế hợp tác, phát triển thể chế cạnh tranh ở cấp đa phương để xử lý

hiệu quả những hành vi hạn chế cạnh tranh này.

Cơ quan cạnh tranh cần phối hợp với các cơ quan quản lý ngành du lịch để

giúp các doanh nghiệp lữ hành, các cơ sở kinh doanh lưu trú và hiệp hội du lịch của

mình hiểu rõ về Luật Cạnh tranh, từ đó bảo vệ các doanh nghiệp tốt hơn khỏi sự

chèn ép nhằm hạn chế cạnh tranh của các doanh nghiệp lữ hành quốc tế. Bên cạnh

đó, chính Hiệp hội Du lịch cũng phải nâng cao nhận thức về pháp luật để tránh trở

thành trung gian đầu mối của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong ngành.

3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh

trong lĩnh vực dịch vụ du lịch

3.2.1. Tăng cường tính công khai, minh bạch và sự tham gia đóng góp ý kiến của

nhân dân, của đối tượng điều chỉnh, đối tượng chịu sự tác động của văn bản quy

phạm pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL

Trong những năm gần đây, mặc dù quy trình xây dựng pháp luật không còn

khép kín, hoạt động triển khai lấy ý kiến của người dân, doanh nghiệp đã được thực

hiện rộng rãi, công khai, tuy nhiên vẫn chưa đi vào thực chất. Doanh nghiệp tham

gia vào hoạt động xây dựng chính sách và pháp luật còn rất hạn chế, xuất phát từ

nhiều nguyên nhân như: Việc lấy ý kiến đối với dự thảo nhiều khi mang tính hình

thức; không giải trình công khai minh bạch về các ý kiến nhận được; lấy ý kiến một

lần và không lấy ý kiến khi có thay đổi quan trọng liên quan đến nghĩa vụ doanh

nghiệp… Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược

xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đến năm 2010, định hướng đến năm

2020 thể hiện rõ quan điểm: “… Bảo đảm để nhân dân tích cực tham gia vào các

hoạt động xây dựng pháp luật” và một trong các giải pháp quan trọng được nhấn

mạnh vai trò của các đơn vị nghiên cứu, khuyến khích cơ chế thu hút “các hiệp hội,

tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi” tham gia hoạch

76

định chính sách, pháp luật ở tất cả các quá trình lập pháp cũng như xác định cơ chế

phản biện xã hội và tiếp thu ý kiến. Hiến pháp năm 2013 cũng đã quy định khá cụ

thể nguyên tắc về quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân. Để cơ

chế tham vấn hiệu quả hơn, trong quá trình xây dựng văn bản quy phạm pháp luật

về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phải có sự tham gia của các chủ thể liên

quan đến văn bản đó, cụ thể là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực quảng

cáo. Từ các ý kiến tham vấn của doanh nghiệp, Chính phủ sẽ xem xét những văn

bản chưa có tính khả thi đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực này để tránh tình trạng

phải sửa đổi khi văn bản đã đi vào cuộc sống. Về nguyên tắc, dự thảo các văn bản

quy phạm pháp luật sẽ được xin ý kiến góp ý, phản biện của tất cả các đối tượng

chịu tác động của văn bản đó. Từng cá nhân, pháp nhân đều có thể tự mình nêu các

ý kiến góp ý, phản biện hoặc thông qua tổ chức đại diện của mình.

3.2.2. Giải pháp hoàn thiện nội dung pháp luật về hành vi cạnh tranh không

lành mạnh trong lĩnh vực DVDL mang tính toàn diện, đảm bảo bao quát hết các

loại hành vi và chủ thể thực hiện hành vi nhằm cạnh tranh không lành mạnh

Có thể nhận thấy, các quy định hiện hành về hành vi CTKLM trong hoạt động

dịch vụ du lịch còn chung chung, chưa phản ánh được những nét đặc thù trong việc

điều chỉnh hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó, thực tiễn

thi hành pháp luật về hành vi CTKLM trong lĩnh vực ngân hàng đã phát sinh những

khó khăn, bất cập nhất định, bản thân hành vi CTKLM, tiêu chí xác định mang tính

trừu tượng, khó xác định và cũng khó chứng minh. Để bảo đảm ngăn ngừa, xử lý có

hiệu quả hành vi CTKLM trong hoạt động dịch vụ du lịch mang tính toàn diện, đảm

bảo bao quát hết các loại hành vi và chủ thể thực hiện hành vi nhằm cạnh tranh

không lành mạnh, theo chúng tôi, Nhà nước cần thực hiện các giải pháp sau:

Một là, nghiên cứu, xây dựng và sớm ban hành bộ chuẩn quy tắc về đạo đức

trong hoạt động KDNH. Việc xác định thế nào là chuẩn mực ĐĐKD, các nguyên

tắc xã hội, tập quán và truyền thống kinh doanh cũng rất khó khăn. Do vậy, chỉ khi

ban hành được bộ chuẩn ĐĐKD trong lĩnh vực dịch vụ du lịch thì mới có được cơ

sở để xác định “tính không lành mạnh” trong hành vi cạnh tranh của các Công ty

làm căn cứ để điều tra, xử lý.

77

Hai là, làm rõ quan niệm “hợp tác” và “cạnh tranh” trong hoạt động dịch vụ

du lịch làm cơ sở cho việc xác định hành vi CTKLM trong hoạt động dịch vụ du

lịch. Theo Từ điển Tiếng Việt, cạnh tranh là “đua tranh với nhau giữa những người

theo đuổi cùng một mục đích, nhằm đánh bại đối thủ và giành cho mình thế có lợi

nhất”, hợp tác là “cùng chung sức, giúp đỡ lẫn nhau trong một công việc, một lĩnh

vực nào đó nhằm một mục đích chung”. Như đã phân tích, trong hoạt động, các

Công ty kinh doanh dịch vụ du lịch có mối liên hệ khá chặt chẽ với nhau, tuy nhiên,

có những chủ thể lợi dụng việc hợp tác giữa các chủ thể kinh doanh để trục lợi bất

hợp pháp hoặc gây khó khăn cho đối tác. Do vậy, theo chúng tôi, hành vi lợi dụng

“chính sách hợp tác” trong kinh doanh phải được coi là hành vi CTKLM.

Ba là, về khái niệm hành vi CTKLM trong lĩnh vực dịch vụ du lịch, có quan

điểm cho rằng “Hành vi CTKLM trong hoạt động dịch vụ du lịch là hành vi cạnh

tranh của tổ chức và cá nhân có liên quan đến hành vi CTKLM trong hoạt động

dịch vụ du lịch vì quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà trái với các chuẩn mực

thông thường về ĐĐKD, có nguy cơ gây tổn hại hoặc gây tổn hại đến việc thực hiện

chính sách, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân

khác”. Với quan niệm này, dấu hiệu quan trọng để xác định hành vi CTKLM là “vì

quá chạy theo mục tiêu lợi nhuận” mà thực hiện các hành vi vi phạm “chuẩn mực

thông thường về ĐĐKD”, chúng tôi cho rằng, với cách tiếp cận này, hành vi

CTKLM trong hoạt động dịch vụ du lịch đã thu hẹp quá nhiều hành vi CTKLM

theo quy định của Luật Cạnh tranh. Thực tế cho thấy, việc thực hiện hành vi

CTKLM của các chủ thể trên thị trường không phải lúc nào cũng vì mục tiêu lợi

nhuận, trong thực tế, để gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh, các chủ thể kinh

doanh đã “hy sinh mục tiêu lợi nhuận” sử dụng các hành vi CTKLM thì hành vi này

phải được coi là CTKLM.

Bốn là, thống nhất thẩm quyền và thủ tục xử lý hành vi CTKLM trong hoạt

động dịch vụ du lịch theo thủ tục tố tụng cạnh tranh do Hội đồng Cạnh tranh tiến

hành, không nên quy định song song hai thủ tục xử lý hành vi CTKLM tương ứng

với thẩm quyền của Cơ quan Thanh tra, Cục Quản lý Cạnh tranh. Theo đó, Cơ quan

Thanh tra, giám sát có trách nhiệm phát hiện, chuyển giao và phối hợp với Hội đồng

78

Cạnh tranh trong việc điều tra, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động dịch vụ du

lịch. Thực hiện kiến nghị này sẽ bảo đảm tính thống nhất của pháp luật trong việc

điều tra, xử lý hành vi CTKLM trong hoạt động dịch vụ du lịch, bởi lẽ, Hội đồng

Cạnh tranh có nhiệm vụ tổ chức xử lý, giải quyết khiếu nại đối với các vụ việc cạnh

tranh liên quan đến hành vi hạn chế cạnh tranh theo quy định của Luật Cạnh tranh.

3.2.3. Giải pháp đổi mới quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về hành vi

cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực DVDL đảm bảo tính khả thi

Việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện Luật Cạnh tranh đã được đưa vào Chương

trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2017. Tuy nhiên để Luật này đáp ứng được yêu

cầu thực tiễn, cần phải có sự đổi mới quy trình xây dựng và hoàn thiện để có thể

đảm bảo tính khả thi cao của luật. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm

2015 đã có những quy định mới nhằm đổi mới cơ bản quy trình xây dựng, ban hành

văn bản theo hướng tách bạch quy trình xây dựng chính sách với quy trình soạn

thảo luật…, trong đó quy định về quy trình xây dựng chính sách theo hướng chính

sách được thông qua, phê duyệt trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản luật; sửa đổi

một số quy định trong quy trình soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua

văn bản pháp luật. Bởi vậy, việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực

dịch vụ du lịch cũng cần đổi mới quy trình theo hướng này.

Trước hết đổi mới cơ bản quy trình, thủ tục xây dựng pháp luật từ sáng kiến

pháp luật đến thông qua luật nhằm đẩy nhanh quá trình soạn thảo, ban hành luật.

Nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật. Các dự án luật, pháp lệnh chỉ

được xem xét thông qua khi có giải trình rõ ràng về cơ chế, biện pháp, các nguồn

lực bảo đảm tổ chức thực hiện. Sớm triển khai phương thức ban hành một luật để

sửa đổi nhiều đạo luật liên quan. Xác định rõ quy trình, cơ chế "nội luật hoá" các

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Nâng cao trình độ và năng lực làm luật của Quốc hội. Tăng hợp lý tỉ lệ đại

biểu chuyên trách, có trình độ, hiểu biết về pháp luật; xác lập cơ chế bảo đảm thực

hiện quyền sáng kiến pháp luật của đại biểu Quốc hội; phát huy vai trò, trách nhiệm

của Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội trong việc chuẩn bị, thẩm tra dự

án luật, pháp lệnh. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn cách thức thảo luận, thông qua

luật, pháp lệnh.

79

Tăng cường hoạt động giải thích luật, pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Tăng cường trách nhiệm của Chính phủ và các bộ trưởng trong việc chỉ đạo

hoạt động xây dựng pháp luật. Chính phủ tập trung xem xét, quyết định những vấn

đề mang tính quan điểm, chính sách và những vấn đề liên ngành còn có ý kiến khác

nhau; tăng cường kiểm tra đối với văn bản quy phạm pháp luật do các bộ, ngành và

địa phương ban hành để bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của hệ

thống pháp luật.

Kiện toàn và nâng cao năng lực bộ máy giúp việc cho Quốc hội, Chính phủ,

các bộ, ngành trong công tác xây dựng pháp luật. Củng cố bộ phận pháp chế bộ,

ngành, địa phương; thành lập Viện Nghiên cứu lập pháp của Quốc hội.

Tăng cường vai trò, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu chuyên

ngành trong hoạt động xây dựng pháp luật. Có cơ chế thu hút các hiệp hội, tổ chức

kinh tế, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các chuyên gia giỏi tham gia vào việc nghiên

cứu, đánh giá nhu cầu, hoạch định chính sách pháp luật, soạn thảo, thẩm định, thẩm

tra các dự thảo văn bản pháp luật. Xác định cơ chế phản biện xã hội và tiếp thu ý

kiến của các tầng lớp nhân dân đối với các dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.

Hiện đại hoá phương thức và phương tiện xây dựng pháp luật. Khai thác, ứng

dụng tối đa thành tựu của khoa học, kỹ thuật, nhất là công nghệ thông tin nhằm đổi

mới phương pháp, tiến độ, chất lượng và hiệu quả của quy trình xây dựng pháp luật.

Xây dựng và khai thác hiệu quả cơ sở dữ liệu quốc gia về pháp luật.

Hoàn thiện pháp luật về Công báo, bảo đảm tất cả các văn bản quy phạm pháp

luật, các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, văn bản hành chính có hiệu

lực áp dụng chung đều được công bố trên Công báo một cách đầy đủ, kịp thời và

chính xác.

Nghiên cứu về khả năng khai thác, sử dụng án lệ, tập quán (kể cả tập quán,

thông lệ thương mại quốc tế) và quy tắc của các hiệp hội nghề nghiệp, góp phần bổ

sung và hoàn thiện pháp luật.

3.2.4. Giải pháp nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và quần

chúng nhân dân về pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung

và pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực DVDL nói riêng

80

Do thiếu kiến thức pháp luật về hành vi cạnh tranh, nên các doanh nghiệp, các

chủ thể kinh doanh thường hay thực hiện hoạt động cạnh tranh một cách tự phát,

chủ yếu dựa trên kinh nghiệm thương trường. Vì vậy, các cơ quan chức năng cần có

nhiều biện pháp đa dạng để tuyên truyền pháp luật cạnh tranh rộng rãi đến các chủ

thể trong xã hội, đặc biệt là các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh.

Đối tượng tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luậtvề hành vi cạnh tranh

không lành mạnh chủ yếu nên hướng tới là cộng đồng doanh nghiệp. Nội dung

tuyên truyền cần giúp các doanh nghiệp nhận diện rõ những hành vi bị coi là cạnh

tranh không lành mạnh và quyền khiếu nại, khởi kiện của doanh nghiệp bị xâm hại,

các hình thức chế tài có thể được áp dụng đối với doanh nghiệp có hành vi vi phạm.

Các nội dung khác như trình tự, thủ tục khiếu nại, khởi kiện đối với hành vi cạnh

tranh không lành mạnh, phạm vi chứng minh, kinh nghiệm xử lý hành vi cạnh tranh

không lành mạnh cũng cần được tuyên truyền, phổ biến.

Để Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống, phát huy được vai trò của nó trong mọi

mặt hoạt động của nền kinh tế, đặc biệt là trong bối cảnh nước ta đang hội nhập

mạnh mẽ vào kinh tế quốc tế, trước hết phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến Luật

Cạnh tranh. Bên cạnh đó, các nhà làm luật cũng cần liên tục rà soát nhằm sửa đổi

những điểm bất cập, bổ sụng và hoàn thiện pháp luật; các thủ tục khi doanh nghiệp

muốn khiếu nại cũng cần phải đơn giản, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận với

các cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ việc liên quan đến cạnh

tranh.

3.2.5. Giải pháp thực thi pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong

lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh

- Nhằm tạo cơ sở cho hoạt động dịch vụ du lịch trên địa bàn tỉnh thực hiện

cho được chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong những năm tới theo hướng

du lịch, dịch vụ - thương mại - công nghiệp - nông nghiệp, tỉnh Quảng Ninh cần

thực hiện các hoạt động tuyên truyền, phố biển các điều, khoản thi hành của pháp

luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực này.

- Thực hiện chủ trương tăng quy mô đầu tư cho dịch vụ du lịch hàng năm,

trong đó ưu tiên cho công tác xúc tiến tuyên truyền quảng bá du lịch, cho công tác

81

nghiên cứu nhằm tạo ra sản phẩm du lịch mới mang tính chủ lực và đặc thù, và cho

công tác quy hoạch đào tạo cán bộ làm công tác du lịch. Do đó Tỉnh cũng cần mở

các lớp đào tạo đan xen để cán bộ nhân viên ngành du lịch nắm bắt, tuyên truyền và

thực hiện đúng pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhằm phát triển

một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng và sôi động.

- Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý nhằm chống hành vi cạnh tranh

không lành mạnh cho hoạt động dịch vụ du lịch, quan tâm tạo điều kiện trong chỉ

đạo sát sao nhằm phát huy được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành và đoàn

thể vì một môi trường kinh doanh lành mạnh và an toàn, tránh những chồng chéo và

gây phiền hà không đáng có cho các cơ sở kinh doanh phục vụ và cho du khách.

- Cần tích cực và chủ động nghiên cứu đề xuất, tham mưu cho lãnh đạo các

biện pháp thực thi pháp luật có hiệu quả đối với hoạt động của ngành, với tinh thần

dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm cao nhất. Trên cơ sở quy hoạch phát triển

du lịch và định hướng phát triển cho ngành dịch vụ du lịch tỉnh Quảng Ninh, trong

quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã được các cơ quan lãnh đạo

Đảng và Nhà nước phê duyệt.

- Quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo nguồn nhân lực cho kinh doanh

du lịch nắm bắt nhanh thông pháp luật về hành vi cạnh tranh không lành mạnh để

phục vụ cho công tác tuyên truyền quảng bá xúc tiến du lịch, cả thị trường nội địa

và quốc tế, mà trước mắt là thị trường khách nội địa.

- Thực sự cầu thị trong việc chống lại các hành vi cạnh tranh không lành

mạnh nhằm xây dựng mối liên kết vùng miền đối với hoạt động kinh doanh dịch vụ

du lịch khu vực để cùng nhau phát triển một cách bền vững, đặc biệt là thông qua

đó tận dụng ưu thế là trung điểm của các di sản văn hóa thế giới tại tỉnh Quảng

Ninh, tìm kiếm các cơ hội đầu tư và quảng bá cho du lịch tỉnh Quảng Ninh.

3.2.6. Một số đề xuất để hoàn thiện các giải pháp

Từ thực trạng quản lý hoạt động du lịch của tỉnh Quảng Ninh, tác giả bài viết

gợi ý một số đề xuất với mục đích cung cấp thông tin để các nhà lãnh đạo Tỉnh

tham khảo và có thể có những điều chỉnh xây dựng pháp luật về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch cụ thể là:

82

Cần xem xét mức xử phạt và hình thức xử phạt đối với các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo nói riêng và các hành vi cạnh tranh

không lành mạnh nói chung. Bởi vì trên thực tế, những hành vi cạnh tranh không

lành mạnh có thể mang lại lợi ích khổng lồ cho doanh nghiệp, nhiều hơn rất nhiều

so với số tiền phạt họ phải gánh chịu. Chế tài phạt tiền tuy đã được sửa đổi trong

Nghị định 71/2014/NĐ-CP nhưng quy định khung tiền phạt thường nhanh chóng

lạc hậu theo thời gian và chưa mang nhiều tính răn đe với các đối tượng vi phạm.

Cần có cơ chế đảm bảo thi hành để việc áp dụng các chế tài hành chính đạt

hiệu quả cao. Trong trường hợp doanh nghiệp không chấp hành cần có các biện

pháp cưỡng chế đủ mạnh để răn đe, đồng thời có thể áp dụng cơ chế tăng nặng hình

phạt, mức phạt nếu như doanh nghiệp không chấp hành nghiêm quyết định xử phạt.

Có như vậy thì việc áp dụng các chế tài hành chính mới đạt hiệu quả cao.

Trong trường hợp doanh nghiệp bị xử phạt không chấp hành hình thức xử phạt

hành chính cần xem xét xử lý hình sự. Tuy nhiên, Nhà nước chỉ coi những hành vi

xâm hại quyền lợi của người tiêu dùng là tội phạm và áp dụng chế tài hình sự khi

hành vi đó có tính chất nguy hiểm cao, gây tổn hại nghiêm trọng cho tính mạng, sức

khỏe và tài sản của người tiêu dùng. Để có thể áp dụng chế tài hình sự cho người vi

phạm, buộc phải chứng minh được các yếu tố cấu thành tội phạm, điều đó không hề

đơn giản. Trong khi đó các hành vi cạnh tranh không lành mạnh ngày càng phổ

biến, tinh vi, ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của người tiêu dùng. Do đó pháp

luật Việt Nam cần có nhiều quy định hơn nữa các chế tài hình sự đối với các hành vi

xâm hại quyền lợi của người tiêu dùng và các doanh nghiệp làm ăn chân chính.

Vấn đề cạnh tranh trên thị trường ngày càng diễn biến phức tạp, việc áp dụng

các chế tài đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói chung và cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo thương mại nói riêng vẫn gặp nhiều khó

khăn, đặc biệt là ở khâu tổ chức thi hành. Do đó, pháp luật cạnh tranh cần hoàn

thiện quy định các chế tài pháp lý điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh

để phù hợp với thực tiễn cuộc sống, góp phần tạo lập môi trường kinh doanh lành

mạnh và bình đẳng.

83

3.3. Một số giải pháp nâng cao khả năng thực thi pháp luật về hành vi cạnh

tranh không lành mạnh trong lĩnh vực dịch vụ du lịch tại tỉnh Quảng Ninh

3.3.1. Đối với cấp Tỉnh

- Liên quan đến quy định điều chỉnh hành vi cạnh tranh không lành mạnh:

+ Thứ nhất, cần xem lại các quy định về hành vi lôi kéo khách hàng bất chính

vì những lí do sau: các hành vi được liệt kê tại điều 48 Luật Cạnh tranh chủ yếu xảy

ra trong quan hệ giữa doanh nghiệp là hành vi lôi kéo khách, yếu tố cạnh tranh

không thể hiện rõ trong từng hành vi đã được quy định tại Điều 48 Luật Cạnh tranh.

+ Thứ hai, cần sửa đổi và làm rõ thêm một số quy định về hành vi cạnh tranh

không lành mạnh. Cụ thể:

Với hành vi chỉ dẫn gây nhầm lẫn, cần thay đổi về cách mô tả hành vi hiện tại.

Chỉ dẫn gây nhầm lẫn không thể hiểu hạn hẹp trong phạm vi hành vi tạo ra sự nhầm

lẫn giữa các sản phẩm mà còn bao gồm việc sử dụng các chỉ dẫn thương mại gây

nhầm lẫn về nội dung của sản phẩm.

Cần làm rõ cấu thành pháp lý của hành vi bắt chước một sản phẩm quảng cáo

khác để gây nhầm lẫn cho khách hàng. Trong trường hợp này, có hai vấn đề cần

được làm rõ khi xây dựng các quy định của pháp luật là xác định rõ tính không lành

mạnh của hành vi; xây dựng cấu thành pháp lý của hành vi.

Cần đánh giá lại về tính không lành mạnh của hành vi phân biệt đối xử đối với

các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong cùng

một chương trình khuyến mại. Về cấu thành pháp lý, quy định tại Khoản 3 Điều 46

Luật Cạnh tranh đã tạo nên cấu thành phức tạp và rất khó áp dụng trong thực tiễn.

Hơn nữa, xét về nhiều khía cạnh, hành vi áp dụng các lợi ích khuyến mại khác nhau

cho các khách hàng như nhau tại các địa bàn tổ chức khuyến mại khác nhau trong

cùng một chương trình khuyến mại không mang bản chất của một hành vi cạnh

tranh không lành mạnh nên xét thấy nên đưa quy định này ra khỏi Luật Cạnh tranh.

+ Thứ ba, phải xác định rõ rằng mối quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và các văn

bản pháp luật quản lý Nhà nước các lĩnh vực kinh tế cụ thể là quan hệ pháp luật

chung và pháp luật chuyên ngành. Trong đó, Luật Cạnh tranh đặt ra những nguyên

tắc cơ bản cho việc nhận dạng hành vi và xử lý hành vi cạnh tranh không lành

mạnh. Các văn bản pháp luật khác khi quy định về hành vi cạnh tranh không lành

84

mạnh trong lĩnh vực điều chỉnh phải tuân thủ theo đúng các nguyên tắc này. Tuy

nhiên cần có sự phân biệt giữa các hành cạnh tranh không lành mạnh và hành vi

đơn thuần chỉ vi phạm pháp luật chuyên nghành. Để làm được điều này, cần có

những nghiên cứu nghiêm túc về các loại hành vi và bản chất cạnh tranh không lành

mạnh của chúng trong từng lĩnh vực để có những quy định phù hợp.

+ Thứ tư, cần thống nhất trong các quy định của pháp luật về các hành vi đã

được quy định trong Luật Cạnh tranh và các văn bản pháp luật chuyên ngành và

thống nhất về quan điểm xử lý.

+ Thứ năm, cần thống nhất về việc xử lý vi phạm đối với các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh được quy định trong Luật Cạnh tranh và trong các văn bản

pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực pháp luật cụ thể. Để làm được điều này cần phải

nghiên cứu thêm về cơ chế phối hợp giữa cơ quan quản lý cạnh tranh với cơ quan

quản lý chuyên ngành kinh tế cụ thể khi tiến hành điều tra và xử lý các vụ việc về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh.

3.3.2. Đối với cấp Sở ngành

Liên quan đến quy định về mô hình cơ quan quản lý cạnh tranh:

Căn cứ theo các quy định về chức năng, nhiệm vụ của Cục Quản lý cạnh

tranhvà Hội đồng cạnh tranh kết hợp tham khảo kinh nghiệm quốc tế, Chính phủ

cần thành lập một cơ quan cạnh tranh thống nhất trực thuộc Chính phủ trên cơ sở

nhập Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh vì các lý do sau đây:

Hoạt động của cơ quan quản lý cạnh tranh chủ yếu được thể hiện trong hoạt

động điều tra và xử lý vụ việc cạnh tranh. Đặc biệt, trong điều kiện ở nước ta hiện

nay khi mà các doanh nghiệp nhà nước đang giữ hầu hết các lĩnh vực then chốt của

nền kinh tế, do đó đối tượng điều tra của cơ quan cạnh tranh có thể sẽ là các Tổng

Công ty nhà nước, các tập đoàn kinh tế lớn và thậm chí là cả các cơ quan quản lý

nhà nước. Nếu không có một vị thế đủ mạnh thì cơ quan cạnh tranh sẽ không thể

thực hiện tốt các nhiệm vụ của mình.

Việc thành lập một cơ quan cạnh tranh độc lập thuộc Chính phủ cũng sẽ tạo

điều kiện cho việc huy động nguồn thu ngân sách thông qua hoạt động một cách

độc lập, tăng thêm tính tự chủ của cơ quan cạnh tranh. Kinh nghiệm tách bộ, ngành,

tái cơ cấu được thực thi trong những năm gần đây cho thấy việc thiết lập một cơ

85

quan ngang Bộ về mặt thể chế, có cơ cấu gọn nhỏ trong giai đoạn đầu, có cơ chế

huy động ngân sách hoạt động cụ thể là khả thi. Đặc biệt khả năng phát triển ngày

càng độc lập trong tương lai sẽ không bị giới hạn trong một khuôn khổ nhất định

nào.

Vị trí độc lập của một cơ quan trực thuộc Chính phủ giúp đảm bảo và thúc đẩy

việc tập trung chuyên môn, tính công chính, minh bạch và khả năng chịu trách

nhiệm và giải trình của cơ quan này. Tự chủ về quá trình tuyển chọn, bổ nhiệm

cũng như đào tạo nhân sự, cũng như tự chủ về mặt ngân sách hoạt động đảm bảo

cho cơ quan cạnh tranh có thực quyền cao hơn.

Một trong những chức năng quan trọng khác của hầu hết các cơ quan cạnh

tranh trên thế giới là chức năng tham vấn. Tại Nghị định 06/2006/NĐ-CP ngày

9/1/2006 cũng quy định Cục Quản lý cạnh tranh có quyền «phát hiện và kiến nghị

cơ quan có liên quan giải quyết theo thẩm quyền về những văn bản đã ban hành có

nội dung không phù hợp với quy định của pháp luật cạnh tranh». Đây đã là một

điểm khá tiến bộ theo hướng cho phép cơ quan cạnh tranh được quyền loại bỏ tất cả

các quy định đi ngược lại với các nguyên tắc cạnh tranh. Tuy nhiên, để làm được

điều này đòi hỏi cơ quan cạnh tranh phải có vị trí đủ mạnh.Để đáp ứng đòi hỏi ngày

càng tăng của hội nhập kinh tế quốc tế, số vụ kiện về các hành vi vi phạm pháp luật

canh tranh chắc chắn sẽ tăng lên một cách đáng kể. Điều này đòi hỏi quy mô của cơ

quan cạnh tranh phải được mở rộng nhằm đảm bảo nguồn tài chính, nhân lực để  thực thi hiệu quả các công việc được giao.

3.3.3. Đối với các cơ quan liên quan

- Trước hết là cần đổi mới trong công tác tuyên truyền, thực thi pháp luật về

hành vi cạnh tranh không lành mạnh đối với tất cả các ngành nghề kinh doanh trong

lĩnh vực mình quản lý.

- Tăng cường thông tin về pháp luật cạnh tranh không lành mạnh tại các điểm

phục vụ du lịch như trên các nhà ga, sân bay, cảng biển...

- Nêu cao vai trò quản lý ngành trong hoạt động kiểm tra giám sát các cơ sở

kinh doanh thông qua việc quản lý giá, kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực

phẩm, kiểm tra việc bảo đảm môi trường kinh doanh, chống cạnh tranh không lành

mạnh giữa các khu, điểm, cơ sở dịch vụ. Góp phần trực tiếp giải quyết những chồng

86

chéo trong thực hiện chỉ đạo quản lý, tổ chức và bảo vệ môi trường du lịch của các

ngành, các cơ quan chức năng trên địa bàn thành phố, tránh những phiền hà và tạo

bầu không khí trong lành và an tâm cho các chủ doanh nghiệp đang hoạt động dịch

vụ trên địa bàn.

- Phối hợp chặt chẽ trong công tác bảo đảm an toàn tính mạng và tài sản cho

khách thông qua hoạt động của các ngành chức năng như: y tế, công an và lực

lượng dân phòng của từng địa bàn hoạt động với cơ sở kinh doanh dịch vụ. Thực

hiện nghiêm túc quy định bắt buộc mua bảo hiểm đối với khách du lịch của các

hãng lữ hành và một số đơn vị dịch vụ chuyên vận chuyển khách du lịch.

- Tích cực và chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp khi gặp khó khăn trong hoạt

động kinh doanh... thông qua việc miễn giảm thuế, giãn nợ vay ngân hàng, hỗ trợ

vốn cho phục hồi sản xuất kinh doanh thông qua hình thức bảo lãnh cho vay có thời

hạn một số vốn nhất định hoặc bằng nhiều hình thức khác, tạo sự gắn kết trong cộng

đồng doanh nghiệp vì sự phát triển dịch vụ trên địa bàn, đồng thời cũng tạo điều

kiện phục hồi sản xuất kinh doanh sớm tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương.

87

KẾT LUẬN

Du lịch đang đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của nước

ta, đặc biệt Quảng Ninh là nơi hội tụ những điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi để

phát triển ngành kinh tế du lịch của Việt Nam, cạnh tranh trong thị trường du lịch

đang ngày càng gay gắt. Biểu hiện của các hành Biểu hiện của các hành vi cạnh

tranh thiếu lành mạnh cũng ngày càng đa dạng và xuất hiện rộng rãi ở mọi nơi. Tạo

ra một môi trường pháp luật du lịch bình đẳng, minh bạch và công khai luôn là yêu

cầu tất yếu để cho ngành du lịch Việt Nam nói chung và dịch vụ du lịch tỉnh Quảng

Ninh nói riêng phát triển bền vững. Từ đó làm cơ sở để đáp ứng tốt nhất nhu cầu

của du khách, đưa ngành du lịch thực sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của

nền kinh tế quốc dân. Do đó, việc thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và

Nhà nước về lĩnh vực du lịch cần được đặc biệt quan tâm của các cấp, các ngành và

các tầng lớp nhân dân. Trên cơ sở đó cần ban hành các chính sách, các quy định

pháp luật tạo hành lang pháp lý để ngành du lịch phát triển. Theo đó, các cấp, các

ngành tiếp tục tìm ra các giải pháp, các chế tài phù hợp để ngành du lịch phát triển

trong ổn định và lành mạnh. Việc thể chế hóa các hoạt động du lịch sẽ góp phần

làm cho hoạt động du lịch ngày càng phong phú và đa dạng song vẫn đảm bảo pháp

luật trong lĩnh vực du lịch được tôn trọng. Hiện nay, khi đất nước ta đã trở thành

thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, ngành du lịch đang có sự hội

nhập sâu rộng. Do vậy, những chế định pháp luật về du lịch của Việt Nam cũng

phải phù hợp với các thông lệ quốc tế về du lịch; chống cạnh tranh độc quyền, cũng

như cạnh tranh không lành mạnh. Điều này không những giúp cho hệ thống pháp

luật của nước ta được hoàn thiện, mà còn góp phần vào việc xây dựng môi trường

cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy môi trường kinh doanh đạt hiệu quả tốt với nhiều

thành phần kinh tế tham gia. Một vấn đề quan trọng khác là phải tiếp tục đẩy mạnh

công tác tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp

luật của Nhà nước về du lịch đến các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân và đơn

vị, để mọi người hiểu và áp dụng pháp luật du lịch một cách hiệu quả.

Không chỉ tạo hành lang pháp lý đồng bộ, hoàn thiện mà Nhà nước còn cần

thực hiện các công việc cụ thể để đưa ngành du lịch phát triển. Theo đó, đầu tưnâng

88

cấp cơ sở vật chất, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch. Đồng thời thực

hiện xã hội hóa du lịch; tạo điều kiện, hỗ trợ, giúp đỡ các doanh nghiệp, các thành

phần kinh tế kinh doanh du lịch hình thành, quảng bá các sản phẩm du lịch, đào tạo

nguồn nhân lực có chất lượng cao, hiểu biết về pháp luật du lịch để phát triển du

lịch theo chiều hướng cạnh tranh lành mạnh… nhằm nâng cao vị thế của du lịch

Việt Nam trong khu vực và trên thế giới. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân, doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực du lịch phải có ý thức chấp hành tốt các quy định

của Nhà nước về phát triển du lịch; có kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh trong

bối cảnh hội nhập; chủ động đào tạo, đổi mới nâng cao trình độ, năng lực của mình

để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới. Bên cạnh đó, phải có trách nhiệm cùng

với Nhà nước tham gia đấu tranh, đẩy lùi các hiện tượng CTKLM trong ngành; góp

phần làm trong sạch và hoàn thiện môi trường kinh doanh du lịch hiện đại song đậm

đà bản sắc dân tộc./.

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quốc hội nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp nước CHXH Chủ

nghĩa Việt Nam, NXB CAN, năm 2013.

2. Quốc hội nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Cạnh tranh, NXB Tài

chính, Hà Nội 2004.

3. Quốc hội nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam, Luật du lịch, NXB Tài chính,

Hà Nội 2005

4. Quốc hội nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam, Luật du lịch, NXB Tài chính,

HàNội 2017

5. Quốc hội nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam, Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Luật

Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, NXB Tài chính, Hà Nội 2009.

6. Ban chấp hành Trung Ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết của Bộ Chính

trị số 08-NQ/TW về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

7. Chính phủ, Nghị định 71/2014/NĐ-CP ngày 21/7/2014 quy định chi tiết

Luật Cạnh tranh về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh.

8. Chính phủ, Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 Quy định về xử

lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực Cạnh tranh.

9. Chính phủ, Nghị định số 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định việc

xử phạt vi phạm hành chính trong văn hóa, thể thao, du lịch và QC.

10. Chính phủ, Nghị định số 28/2017/NĐ-CP ngày 20 tháng 3 năm 2017 sửa

đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 158/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 của

Chính phủ quy định việc xử phạt vi phạm hành chính trong văn hóa, thể thao, du

lịch và quảng cáo.

11. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 88/2008/ TT-BVHTTDL

ngày 30 tháng 12 năm 2008 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 92/2007/NĐ-

CPngày 01 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều

của Luật Du lịch về lưu trú du lịch.

12. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Thông tư số 06/2017/TT-BVHTTDL

ngày 15 tháng 12 năm 2017 Quy định chi tiết một số điều của Luật Du lịch 2017

90

13. Hồng Dương, Vận động hướng dẫn viên “nói không” với “sitting guide”,

http://toquoc.vn/kinh-te-du-lich/van-dong-huong-dan-vien-noi-khong-voi-sitting-

uide-200313.html , truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2017.

14. Đăng Hùng, Mạnh tay xử lý cạnh tranh du lịch không lành mạnh,

http://cand.com.vn/Chuyen-dong-van-hoa/Manh-tay-xu-ly-canh-tranh-du-lich-

khong-lanh-manh-433825, truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2017.

15. Diệu Linh. Giao thông vận tải gắn bó mật thiết với ngành du lịch, httd://

http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/245639, truy cập ngày 18 tháng 12

năm 2017.

16. Nguyễn Long, làm thế nào để tăng tính cạnh tranh cho du lịch Việt

Nam,http://enternews.vn/lam-the-nao-de-tang-tinh-canh-tranh-cho-du-lich viet-

nam-122315.html, truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2018.

17. Minh Nhân – Vụ TTDL, Tour giá rẻ, tour 0 đồng: Bản chất và Giải pháp,

http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/23543, truy cập thứ năm ngày 18

tháng 12 năm 2017.

18. TS. Nguyễn Văn Mạnh, Quản trị kinh doanh Lữ hành, NXB Khoa học và

Kỹ thuật 2005.

19. TS. Trần Thu Quỳnh, Văn phòng Hội đồng cạnh tranh, Hạn chế cạnh

tranh trong lĩnh vực du lịch Kinh nghiệm quốc tế và bài học đối với Việt

Nam,http://tcdcpl.moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/phap-luat-kinh-px?ItemID=181,

truy cập ngày 17 tháng 12 năm 2017.

20. Nguyễn Quỳnh, Một doanh nghiệp du lịch vi phạm luật cạnh tranh,

https://vov.vn/kinh-te/doanh-nghiep/mot-doanh-nghiep-du-lich-vi-pham-luat-canh-

tranh-596858.vov, truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2017.

21. Vũ Thu Giang, Luận văn thạc sĩ Quản trị kinh doanh, Đề tài: cạnh tranh

không lành mạnh, thực trạng và những đề xuất xử lý vi phạm ở Việt Nam, năm 2015

22. Mai Trần Thị Tưởng , Nữ hướng dẫn viên tiếng Trung: Không còn tin Sở

Du lịch Đà Nẵng, http://infonet.vn/nu-huong-dan-vien-tieng-trung-khong-con-tin-

so-du-lich-da-nang-post237447.info, truy cập thứ năm ngày 18 tháng 12 năm 2017.

91

23. Đặng Xuân Sơn, thực trạng ô nhiễm môi trường do cạnh tranh không lành

mạnh trong ngành du lịch, httd://Baomoi.com/ thuc- trang- o-nhiem-moi-truong-do-

canh- tranh- khong- lanh-manh- trong-nganh-du-lich/d/2364971.epi. truy cậpngày

13 tháng 11 năm 2017.

24. Thanh Sơn, Hạ Long, Quảng Ninh: Xử phạt 13 vụ việc vi phạm về kinh doanh

du lịch, http://baodautu.vn/ha-long-quang-ninh-xu-phat-13-vu-viec-vi-pham-ve-

kinh-doanh-du-lich-d79470.html, truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2018.

25. Lâm Vũ. Ngành du lịch: Nhiều chiêu cạnh tranh không lành mạnh.

https://baomoi.com/nganh-du-lich-nhieu-chieu-canh-tranh-khong-lanh mạnhtruy

cập ngày 13 tháng 11 năm 2017.

26. PGS.TS. Lê Danh Vĩnh (Chủ biên),Ths. Hoàng Xuân Bắc, Ths. Nguyễn

Ngọc Sơn, Giáo trình Luật cạnh tranh, NXB Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ

ChíMinh.

27. TS. Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, ThS. Nguyễn Ngọc Sơn, Pháp luật

Cạnh tranh tại Việt Nam, Nxb Tư pháp Hà Nội 2006.

28. Báo điện tử Tổng cục Du lịch, Doanh nghiệp lữ hành quốc tế giai

đoạn2005-2016, http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13466, truy cập ngày

18 tháng 01 năm 2018.

29. Báo điện tử Tổng cục Du lịch, Doanh nghiệp lữ hành quốc tế lách luật,

http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13468, truy cập ngày 18 tháng 01

năm2018.

30. Báo điện tử Tổng cục Du lịch, cạnh tranh không lành mạnh gây thiệt hại

khách du lịch, http://vietnamtourism.gov.vn/index.php/items/13469, truy cập ngày

18 tháng 01 năm 2018.

25. Báo điện tử Quảng Ninh http://www.qtv.vn/channel/5986/201712/dau-an-

tang-truong-du-lich-quang-ninh-201, năm 2013.