ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------
TRẦN THỊ THỦY
CÔNG KHAI, MINH BẠCH, TRÁCH NHIỆM
GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT ----------
TRẦN THỊ THỦY
CÔNG KHAI, MINH BẠCH, TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên Ngành: Quản trị Nhà nƣớc và Phòng, chống tham nhũng
Mã số: 8380101.09
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ CÔNG GIAO
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác.
Các số liệu và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Hà Nội, ngày tháng năm 2020
Học viên
Trần Thị Thủy
LỜI CẢM ƠN
Để thực hiện và hoàn thành đề tài luận văn này ngoài sự nỗ lực, cố gắng
của bản thân, tôi đã nhận được nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ và tạo điều kiện của
các thầy cô, đồng nghiệp, bạn bè và người thân.
Trước hết tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành sâu sắc đến Thầy giáo
PGS. TS. Vũ Công Giao người trực tiếp hướng dẫn, động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội cùng
toàn thể các thầy, cô giáo đã tận tình truyền đạt những kiến thức quý báu và
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo và cán bộ, đồng
nghiệp cơ quan BHXH Việt Nam đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá
trình hoàn thiện luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin trân trọng cảm ơn tập thể lớp Cao học Quản trị Nhà
nước và Phòng chống tham nhũng Khóa 1 - Khoa Luật Đại học quốc Gia Hà
Nội, gia đình và bạn bè đã tạo điều kiện thuận lợi, giúp đỡ, cổ vũ và động viên
tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận
văn này không tránh khỏi những tồn tại, thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự
góp ý của quý thầy cô và những người quan tâm để luận được hoàn thiện
hơn./,
Trân trọng cảm ơn!
Học viên Trần Thị Thủy
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG
KHAI, MINH BẠCH, TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay ................................................ 8
1.2. Khung pháp luật hiện hành về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong Ngành bảo hiểm xã hội .......................................................................................... 22
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH
VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY ............................ 38
2.1. Khái quát về Ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam .................................................. 38
2.2. Thực trạng thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của Ngành Bảo
hiểm Xã hội Việt Nam .................................................................................................... 45
2.3. Thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành Bảo
hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay .................................................................................. 61
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CÔNG
KHAI MINH BẠCH VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT
ĐỘNG CỦA NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............ 69
3.1. Quan điểm tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
hoạt động của Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay .................................... 69
3.2. Giải pháp tăng cường thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong hoạt động của Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay .......................... 71
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 88
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Nguyên nghĩa Stt Ký hiệu
Bảo hiểm xã hội BHXH 1
Bảo hiểm y tế BHYT 2
Bảo hiểm thất nghiệp BHTN 3
Bộ LĐ-TB&XH Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội 4
Bộ TT&TT Bộ Thông tin và Truyền thông 5
Công nghệ thông tin CNTT 6
Cơ sở dữ liệu CSDL 7
Hội đồng Nhân dân HĐND 8
9 Luật PCTN Luật Phòng chống tham nhũng
Người lao động NLĐ 10
Sử dụng lao động SDLĐ 11
Thủ tục hành chính TTHC 12
13 Tổng LĐLĐ Việt Nam Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
14 UBND Ủy ban Nhân dân
DANH MỤC BẢNG BIỂU
stt Bảng Nội dung Trang
1 Bảng 1 49 Kết quả tiếp nhận giải quyết các chế độ BHXH, BHYT thông qua giao dịch điện tử của toàn Ngành BHXH trong giai đoạn 2016 -2019
2 Bảng 2 50 Kết quả tiếp nhận hồ sơ hưởng chế độ BHYT và liên thông dữ liệu trên cổng thông tin giám định BHYT của Ngành BHXH giai đoạn 2016 -2019
55 3 Bảng 3 Chỉ số và xếp hạng tổng thể mức độ ứng dụng CNTT của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
55 4 Bảng 4 Chỉ số và xếp hạng hạng mục Hạ tầng kỹ thuật CNTT của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
56
5 Bảng 5
Chỉ số và xếp hạng hạng mục Ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
56 6 Bảng 6 Chỉ số và xếp hạng hạng mục Trang/Cổng thông tin điện tử của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
57
7 Bảng 7
Chỉ số và xếp hạng hạng mục Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
63 8 Bảng 8 Số liệu tiếp công dân của BHXH Việt Nam giai đoạn 2017 -2019
63
9 Bảng 9
Số liệu giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của BHXH Việt Nam giai đoạn 2017 – 2019
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là yêu cầu cơ bản trong
quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng. Công khai, minh bạch góp
phần nâng cao hiệu quả của hoạt động quản trị nhà nước thông qua việc thu hút
sự tham gia tích cực và rộng rãi của công chúng vào quá trình, quản lý xã hội,
tăng cường đối thoại giữa nhà nước và công dân. Trong khi đó, trách nhiệm
giải trình tạo cơ sở giám sát liên tục hiệu quả hoạt động của các cơ quan, viên
chức nhà nước, bảo đảm rằng các cơ quan công quyền, viên chức nhà nước
phải thực thi đúng, đầy đủ các nhiệm vụ quyền hạn được giao trong việc cung
cấp dịch vụ công cho người dân.
Xác định được tầm quan trọng đó, thời gian qua, Ngành BHXH Việt
Nam đã triển khai nhiều giải pháp quyết liệt để thực hiện có hiệu quả mục tiêu
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành, tiến
tới xây dựng bộ máy tổ chức tinh gọn, chuyên nghiệp và hiện đại theo mô hình
Chính phủ điện tử.
Trong những giải pháp đó, phải kể đến nỗ lực của Ngành với việc thực
hiện cải cách TTHC, thực hiện hàng loạt các biện pháp cụ thể, thiết thực như
tập trung rà soát, cắt giảm các TTHC nhất là những TTHC liên quan tới người
dân, doanh nghiệp, đồng thời công khai, minh bạch tất cả các TTHC trên các
phương tiện thông tin của Ngành và niêm yết tại trụ sở cơ quan BHXH các
cấp; duy trì và cập nhật CSDL quốc gia về TTHC. Song song với cải cách
TTHC việc ứng dụng CNTT vào hoạt động nghiệp vụ cũng như hoạt động
quản lý cũng được Ngành BHXH đặc biệt quan tâm và thực hiện quyết liệt cụ
thể: Triển khai thực hiện giao dịch điện tử toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
nghiệp vụ; đưa vào sử dụng hệ thống phần mềm nghiệp vụ, tin học hóa toàn
2
diện hoạt động nghiệp vụ của Ngành, thống nhất từ Trung ương đến địa phương
nhằm công khai, minh bạch hoạt động của Ngành BHXH trên môi trường mạng.
Tuy nhiên, do thời gian triển khai thực hiện các giải pháp còn chưa dài
nên chưa đánh giá được một cách toàn diện tác dụng, hiệu quả của những biện
pháp nêu trên với quá trình tổ chức thực hiện chức năng nhiệm vụ của Ngành
BHXH. Điều này đặt ra yêu cầu cần có những nghiên cứu chuyên sâu để xác
định những kết quả và hạn chế, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm thực
hiện tốt hơn nữa công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Là một cán bộ đang công tác trong Ngành BHXH, từ thực tế nêu trên,
học viên quyết định chọn đề tài “Công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của Ngành Bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”
để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình, với mong muốn góp phần
khỏa lấp khoảng trống trong nghiên cứu về vấn đề này ở nước ta.
2. Tình hình nghiên về vấn đề này ở nƣớc ta
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc thực hiện công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình, từ trước đến nay có nhiều công trình nghiên cứu về vấn
đề này được công bố ở Việt Nam, trong đó có thể kể ra một số nghiên cứu tiêu
biểu như:
- Đề tài cấp Bộ “Công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng - thực trạng và
giải pháp” năm 2010 do Hoàng Thái Dương - Phó Cục trưởng Cục Chống
tham nhũng, Thanh tra Ch nh phủ làm Chủ nhiệm.
- Bài viết Bàn về chuyện công khai và minh bạch ở Việt Nam, của Đặng
Hùng Võ, đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo số 03/2015.
3
- Bài viết Công khai, minh bạch trong tiếp cận thông tin đáp ứng yêu
cầu cải cách hành chính hiện nay, của Phạm Mạnh Hùng đăng trên Tạp chí Tổ
chức nhà nước điện tử ngày 30/6/2017.
- Bài viết Những tác động tích cực nhìn từ góc độ công khai minh bạch
trong hoạt động của Kiểm toán nhà nước, của Lê Minh Nam đăng trên Trang
Thông tin điện tử Tổng kiểm toán Nhà nước, ngày 09/05/2011.
- Bài viết Kinh nghiệm quốc tế về công khai, minh bạch tài sản thu nhập
của cán bộ, công chức, của Nguyễn Hà Thanh đăng trên trang Thông tin điện
tử tổng hợp Ban Nội ch nh Trung ương, ngày 28/9/2016.
-Bài viết Lý luận cơ bản về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng của Đặng Minh
Tuấn, trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và
ở Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
- Bài viết của Nguyễn Phương Vy, Xung đột pháp luật giữa công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình và quyền bí mật thông tin ở Việt Nam, trong
Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Việt
Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
- Bài viết của Trương Hồ Hải và Đặng Việt Đạt (2019), Mối quan hệ
giữa công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước
và quyền tiếp cận công lý của công dân ở Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội thảo
quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà
nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam" do Khoa Luật
ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
- Bài viết của Phan Văn Trưởng - Vũ Công Giao, Công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, trong Kỷ
4
yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam"
do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
- Bài viết của Nguyễn Thị Minh Hà - Hà Thị Hằng, Pháp luật về công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ ở Việt Nam
hiện nay, trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế
giới và ở Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại
Hà Nội.
- Bài viết của Ngô Thu Hà, Kết quả đánh giá ban đầu việc thực hiện luật
tiếp cận thông tin ở Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống
tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức
ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến một lượng kiến thức,
thông tin lớn liên quan đến đề tài, là nguồn tài liệu tham khảo quý cho học viên
trong khi thực hiện luận văn này.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên đều chưa đề cập trực tiếp đến việc
thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của
Ngành BHXH, vì vậy đề tài này vẫn có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đ ch của luận văn là phân t ch làm rõ những vấn đề lý luận, pháp
lý và thực tiễn, từ đó đề xuất giải pháp thúc đẩy sự công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
5
Để đạt được mục đ ch nghiên cứu nêu trên, luận văn cần giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Hệ thống hoá những vấn đề lý luận và khung pháp luật hiện hành liên
quan đến thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của Ngành BHXH ở Việt Nam;
- Phân t ch, đánh giá thực trạng bảo đảm công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở nước ta, xác định những
kết quả và hạn chế và phân t ch nguyên nhân;
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp thúc đẩy công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH nước ta trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện công khai, minh
bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam
hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, do đặc thù là một Ngành thực hiện chính sách nên vấn đề
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động Ngành BHXH ở
Việt Nam chủ yếu chỉ liên quan đến các quy định về chính sách, chế độ
BHXH, BHYT và quản lý Quỹ BHXH, BHYT.
Vì vậy trong luận văn này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vấn đề công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong Ngành BHXH ở Việt Nam gắn
với các nội dung cụ thể sau đây: Điều kiện, quyền và nghĩa vụ của đối tượng
tham gia, thụ hưởng chính sách BHXH, BHYT; quy trình TTHC, quy trình giải
quyết công việc, hồ sơ đăng ký tham gia đóng BHXH, BHYT và đề nghị giải
quyết hưởng các chế độ BHXH, BHYT; việc thực hiện chính sách, pháp luật
và quản lý quỹ BHXH, BHYT.
6
Về không gian, luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam, không
mở rộng sang các Ngành khác và ở quốc gia khác.
Về thời gian, luận văn chỉ nghiên cứu vấn đề công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam trong
khoảng 5 năm gần đây.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác – Lênin làm cơ sở để phân
tích, đánh giá.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
- Các phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh được sử dụng trong tất
cả các chương của luận văn để nghiên cứu, đánh giá quá trình hình thành, phát
triển cũng như việc tổ chức thực hiện các biện pháp công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam trong
khoảng 5 năm gần đây.
- Phương pháp chuyên gia được sử dụng để thu thập thêm dữ liệu và
kiểm nghiệm kết quả phân t ch, đánh giá, cũng như những đề xuất ở các
chương 2 và 3 của luận văn. Các chuyên gia được tham vấn bao gồm một số
lãnh đạo và chuyên viên của Ngành BHXH Việt Nam nơi tác giả đang làm
việc. Việc tham vấn được thực hiện một cách không chính thức qua trao đổi,
trò chuyện tại nơi làm việc và ở một số cuộc họp chuyên môn, toạ đàm, hội thảo
của Ngành BHXH được tổ chức trong thời gian học viên viết luận văn này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Luận văn góp phần củng cố cơ sở lý luận về công khai, minh bạch và
7
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay;
- Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho Ngành
BHXH ở Việt Nam trong việc hoàn thiện và tăng cường thực hiện công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH, khắc
phục những tồn tại, hạn chế trong thời gian qua.
Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác
nghiên cứu, giảng dạy, tổng kết thực tiễn liên quan đến công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong hoạt động quản lý nhà nước nói chung cũng như
của các cơ sở học thuật nói riêng.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp tăng cường thực hiện công khai minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay.
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ CÔNG KHAI, MINH
BẠCH, TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Những vấn đề lý luận về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay
1.1.1. Khái niệm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội
1.1.1.1. Khái niệm công khai trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội
Công khai (tiếng Anh: “Openness”), theo Đại từ điển Tiếng Việt do
Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí
Minh ấn hành, được hiểu là “Không giấu diếm bí mật mà cho mọi người cùng
biết” [50, tr.346]. Trong khoa học pháp lý Việt Nam, công khai được hiểu là:
“… mọi hoạt động của nhà nước phải được công bố hoặc phổ biến, truyền tải
trên các phương tiện thông tin đại chúng làm cho mọi người dân có thể tiếp
cận được các quyết định của nhà nước một cách dễ dàng” [27].
Theo khoản 2 Điều 2 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005 (sửa đổi
bổ sung năm 2007 và 2012) và khoản 4 Điều 3 Luật Phòng chống tham nhũng
năm 2018, công khai được hiểu là: “… việc cơ quan tổ chức, đơn vị công bố,
cung cấp thông tin chính thức về văn bản, hoạt động về nội dung nhất định”.
Từ những phân tích trên, có thể xác định, công khai trong hoạt động của
Ngành BHXH là việc công chức, viên chức có trách nhiệm công bố, cung cấp
thông tin chính thức, kịp thời trước người tham gia và thụ hưởng chính sách
BHXH, BHYT các điều kiện tham gia, thụ hưởng chính sách; quyền và nghĩa
vụ của người tham gia, thụ hưởng; quy trình TTHC, quy trình giải quyết công
9
việc, thành phần hồ sơ đăng ký tham gia đóng BHXH, BHYT và đề nghị giải
quyết hưởng các chế độ BHXH, BHYT; tình hình quản lý quỹ BHXH, BHYT.
1.1.1.2. Khái niệm minh bạch trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội
Minh bạch (tiếng Anh: Transparency”) là một khái niệm khá trừu tượng,
vì vậy, để đo lường tính minh bạch của một công việc là hết sức khó khăn.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên, Nhà xuất bản Đại
học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh ấn hành thì “minh bạch là “sáng rõ, rành
mạch” [50, tr.1037 ].
Minh bạch trong quản trị công có nghĩa là khi các cơ quan, công chức
nhà nước đưa ra các quyết định và quá trình thực hiện các quyết định phải
công khai để công chúng biết, ngoại trừ các trường hợp cần giữ bí mật vì an
ninh quốc gia hay để bảo đảm tính hiệu quả của hoạt động quản lý. Ví dụ, khi
các cơ quan, công chức đưa ra quyết định thực hiện một ch nh sách nào đó
phải công khai quá trình thực hiện các quyết định, bao gồm tất cả các khâu từ
hoạch định chính sách, xây dựng chính sách, ban hành chính sách trên các
phương tiện thông tin đại chúng để người dân biết, tiếp cận và giám sát.
Trong thực tế, nhiều người thường hiểu minh bạch đồng nghĩa với công
khai. Tuy nhiên, cần thấy rằng công khai là nền tảng của minh bạch nhưng
không hoàn toàn đồng nghĩa với minh bạch. Điều đó là bởi trong thực tế, đặc
biệt là trong hoạt động quản lý nhà nước, nhiều khi có sự công khai nhưng
thiếu minh bạch. Ở đây, minh bạch có những đòi hỏi cao hơn công khai. Sự
công khai đơn thuần chỉ là việc công bố đầy đủ thông tin để mọi người có thể
tiếp cận, kiểm chứng và giám sát. Trong khi đó, khái niệm minh bạch đòi hỏi
phải bảo đảm cả cơ hội, t nh bình đẳng trong tiếp cận thông tin, tính tin cậy,
nhất quán của thông tin, tính dự toán trước được và sự cởi mở của cơ quan
cung cấp thông tin.
10
Minh bạch trong hoạt động quản lý nhà nước không những phải công
khai mà còn phải trong sáng, không khuất tất, không nhũng nhiễu, gây khó
khăn cho công dân trong tiếp cận thông tin. Nói cách khác, minh bạch là đảm
bảo sự rõ ràng, không chỉ đáp ứng được tính công khai (tức là sự sẵn sàng chia
sẻ thông tin) mà còn đảm bảo khả năng tiếp cận được thông tin, sẵn sàng tham
gia trao đổi một cách thẳng thắn, trung thực về quá trình ban hành các chính
sách và quyết định. Nếu không minh bạch sẽ dẫn đến sự tùy tiện và quan liêu,
tham nhũng. Vì vậy minh bạch cũng ch nh là nhằm đảm bảo dân chủ trong xã
hội, đây là quyền của người dân trong tham gia quản lý tổ chức, nhà nước.
Minh bạch là yếu tố thiết yếu để xây dựng một nền hành ch nh cởi mở, có
trách nhiệm, và là một trong những giải pháp cơ bản để ngăn chặn nạn tham
nhũng, quan liêu.
Xét về bản chất, có thể nêu 03 cách tiếp cận chính về minh bạch như sau
[48, tr.07]:
Thứ nhất, minh bạch là một giá trị hoặc quy tắc xử sự để phòng, chống
tham nhũng. Ở phương diện này, minh bạch có được khi người dân có thông
tin, đảm bảo công khai trong ban hành chính sách. Minh bạch đòi hỏi phải có
trách nhiệm giải trình của Nhà nước, và vì thế minh bạch phải được thể chế
hóa thành hệ thống các quy tắc pháp luật [48, tr.07];
Thứ hai, minh bạch là phương thức quản trị mở. Cách tiếp cận này chú
trọng đến quy trình quản lý hay quản trị. Ở đây, minh bạch chính là việc tiếp
cận và sử dụng dễ dàng các thông tin của các cơ quan nhà nước và tổ chức
khác. Quản trị càng mở và dễ dàng, thông tin càng dễ tiếp cận thì tính minh
bạch càng cao. Khác với cách tiếp cận thứ nhất coi việc ban hành chính sách là
một thành tố của minh bạch thì theo cách tiếp cận này, ban hành chính sách mở
có nghĩa tương đương với minh bạch [48, tr.07];
11
Thứ ba, minh bạch là một vấn đề có tính phức hợp liên quan đến tất cả
các vấn đề của quản trị công, từ chủ thể có quyền ra quyết định cho đến quy
trình ban hành chính sách. Minh bạch gắn liền với việc thiết kế chính sách, là
một phần của chính sách tốt. Vì thế, thông qua việc phân t ch, đánh giá ch nh
sách, các nhà hoạch định chính sách có thể góp phần thúc đẩy sự minh bạch
[48, tr.07].
Từ những phân tích ở trên, có thể xem minh bạch trong hoạt động của
Ngành BHXH là việc công chức, viên chức thuộc Ngành BHXH công khai rõ
ràng, rành mạch và kịp thời những thông tin về chính sách, điều kiện tham gia,
thụ hưởng, trình tự thủ tục giải quyết công việc theo phương thức dễ tiếp cận
để công chúng có thể theo dõi, giám sát và thực hiện các quyền và nghĩa vụ về
BHXH, BHYT của mình.
1.1.1.3. Khái niệm trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành
bảo hiểm xã hội
Trách nhiệm giải trình là thuật ngữ được dịch ra tiếng Việt từ thuật ngữ
“Accountability” trong tiếng Anh, nghĩa là một bên (cá nhân, tổ chức) và các
hoạt động của cá nhân, tổ chức đó chịu sự giám sát, chỉ đạo hoặc bị yêu cầu
phải cung cấp thông tin hoặc biện minh cho các hoạt động của mình. OEDC
định nghĩa trách nhiệm giải trình là trách nhiệm và nghĩa vụ của chính quyền
trong việc thông tin với các công dân về các quyết định ban hành, cũng như
chịu trách nhiệm về các hoạt động và thực thi quyền lực của chính quyền và
viên chức nhà nước [44].
Dưới góc độ quản trị công, World Bank đã đưa ra một giải th ch sâu hơn
về bản chất cho thuật ngữ này, theo đó “Trách nhiệm giải trình là để đảm bảo
các hành động và các quyết định của các quan chức chính quyền phải chịu sự
giám sát để chắc chắn rằng các hoạt động của chính quyền phù hợp với những
tuyên bố của họ về các mục tiêu đề ra, đáp ứng được nhu cầu của cộng đồng có
12
lợi ích từ các hoạt động này và để quản lý tốt hơn” [44]. Word Bank cũng chỉ
ra rằng, trách nhiệm giải trình được cấu thành bởi hai thành tố: khả năng đáp
ứng (answerability) và khả năng thực thi (enforcement). Theo đó, khả năng
đáp ứng đề cập đến nghĩa vụ của chính quyền, cơ quan chức năng và người có
thẩm quyền trong việc cung cấp thông tin về các quyết định, hành động và biện
minh trước công chúng và các tổ chức về hoạt động của mình. Còn khả năng
thực thi có nghĩa là các cơ quan có trách nhiệm giải trình có thể bị xử phạt
hoặc bị buộc phải khắc phục thiệt hại nếu vi phạm trách nhiệm này [ 44].
Như vậy, trách nhiệm giải trình là một tiêu chuẩn, một trụ cột quan trọng
trong quản trị công, bởi lẽ nó giúp đánh giá t nh hiệu quả của cơ quan công
quyền và các công chức, nhằm đảm bảo rằng họ đang thực hiện đúng và đầy
đủ chức năng được giao phó, qua đó gìn giữ niềm tin của công chúng vào chính
quyền và đáp ứng nhu cầu các cộng đồng mà chính quyền đó đang phục vụ.
Trong khuôn khổ hoạt động quản trị công thì trách nhiệm giải trình được
hiểu là trách nhiệm của cơ quan công quyền. Cơ quan công quyền khi đã nhận
quyền lực từ nhân dân và đặt ra mục tiêu thực thi quyền lực vì nhân dân thì
phải có nghĩa vụ trả lời, lý giải và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình
trước nhân dân. Như vậy, trong quản trị công, trách nhiệm giải trình trước hết
là việc cơ quan nhà nước cung cấp, giải thích làm rõ các thông tin về thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn được giao với nhân dân và chịu trách nhiệm của mình
trong việc thực hiện nhiệm vụ quyền hạn đó. [01]
Nhìn chung, trách nhiệm giải trình bao gồm toàn bộ các vấn đề liên quan
đến nghĩa vụ của Ngành BHXH, của công chức, viên chức. Khái niệm này thể
hiện theo hai hướng: Trách nhiệm của cấp dưới đối với cấp trên (trách nhiệm
trong nội bộ) là trách nhiệm của các cơ quan BHXH địa phương với BHXH
Việt Nam, trách nhiệm của BHXH Việt Nam với Quốc hội, Chính phủ,Hội
đồng quản lý BHXH, các Bộ được giao chức năng quản lý Nhà nước về
13
BHXH, BHYT và trách nhiệm của công chức, viên chức trong Ngành BHXH
với Lãnh đạo cấp trên; trách nhiệm của Ngành BHXH với xã hội (trách nhiệm
ra bên ngoài hay trách nhiệm hướng xuống dưới) các cơ quan nhà nước phải
giải trình về những tác động từ những quyết định mà họ đưa ra. Ngành BHXH
có trách nhiệm giải trình đối với cơ quan cấp trên, Quốc hội, HĐND khu vực
tư nhân, các tổ chức xã hội, công chúng và các bên liên quan đến các quy định
đó. Trách nhiệm giải trình không thể thực hiện nếu thiếu tính minh bạch và hệ
thống các quy định pháp luật đầy đủ và chính xác.
Từ những phân tích ở trên, có thể xem trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của Ngành BHXH là việc, công chức, viên chức thuộc Ngành BHXH phải
thông báo, cung cấp thông tin và giải thích làm rõ những vấn đề liên quan đến
việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn mà họ được giao với người dân, cơ quan
nhà nước, tổ chức, doanh nghiệp để bảo đảm tính công khai, minh bạch, qua
đó giúp các chủ thể đã nêu có thể theo dõi, giám sát các hoạt động của mình
phù hợp với quy định pháp luật.
1.1.2. Nội hàm của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
1.1.2.1. Nội hàm của công khai, minh bạch trong Ngành bảo hiểm xã hội
ở Việt Nam
Về mặt hình thức, nội hàm của công khai, minh bạch trong Ngành bảo hiểm
xã hội ở Việt Nam cũng ch nh là nội hàm của công khai, minh bạch nói chung.
Thực tế cho thấy, sự công khai có thể được tiếp cận từ nhiều phương
diện khác nhau, song chủ yếu được hiểu thông qua việc công bố những thông
tin, dữ liệu cần thiết về một hoạt động nhất định. Tiêu ch đánh giá sự công
khai đơn thuần chỉ là tính sẵn có của những thông tin, dữ liệu đó.
Trong khi đó, sự minh bạch là biểu hiện về mặt chất lượng của sự công
khai. Nó cho phép những người quan tâm nhìn thấu qua và có thể kiểm tra,
14
giám sát những thông tin được công bố về hoạt động. Điều đó có nghĩa là minh
bạch không chỉ dừng lại ở số lượng thông tin, mà còn thể hiện ở nội dung,
phạm vi, độ chính xác, sự kịp thời và khả năng tiếp cận với thông tin được
công khai của công chúng. Như vậy, so sánh với công khai, minh bạch mang
tính chủ động và đặt nhiều trách nhiệm hơn vào các tổ chức và cơ quan quản lý.
Xét về nội dung, minh bạch có thể được chia thành các cấp độ từ thấp
đến cao, cụ thể như sau [01]:
Cấp độ 1: Sẵn có thông tin: Ở cấp độ này, minh bạch mới chỉ dừng ở
việc cung cấp thông tin sẵn có theo yêu cầu của người dân và doanh nghiệp.
Thời điểm, cách thức cung cấp thông tin diễn ra một cách bị động, tùy theo yêu
cầu của người cần thông tin. Đối tượng cần thông tin vẫn phải phụ thuộc nhiều
vào cơ quan nhà nước trong việc tiếp cận thông tin.
Cấp độ 2: Cung cấp thông tin chủ động: Ở cấp độ này, cơ quan nhà nước
chủ động nghiên cứu nhu cầu thông tin của người dân và doanh nghiệp, từ đó
thiết kế CSDL thông tin nhằm đáp ứng tốt nhu cầu này. Ngoài ra, CSDL này
cũng được chủ động công bố trên nhiều phương tiện thông tin nhằm giúp
người dân và doanh nghiệp có thể tiếp cận một cách dễ dàng, chẳng hạn như
website, báo chí, hội thảo hay sách xuất bản…
Cấp độ 3: Tham gia vào quá trình hoạch định, phản biện và giám sát
chính sách: Ở cấp độ này, công chúng tham gia một cách chủ động vào quá
trình hoạch định chính sách và giám sát quá trình thực hiện ch nh sách đó. Sự
tham gia này được coi là một phần của tính minh bạch, vì nó giúp các đối
tượng quản lý thể hiện nhu cầu và hiểu rõ hơn bản chất các chính sách. Ngoài
ra, sự rõ ràng trong tiêu chí và quy trình ra quyết định (trong chính sách) cho
phép bản thân các đối tượng quản lý có thể dự đoán được chính sách hay kết quả
của các quyết định quản lý và giám sát được quá trình thực hiện chính sách.
15
1.1.2.2. Nội hàm của trách nhiệm giải trình trong Ngành bảo hiểm xã
hội ở Việt Nam
Tương tự, về mặt hình thức, nội hàm của trách nhiệm giải trình trong
Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam cũng chính là nội hàm của trách nhiệm
giải trình nói chung.
Từ góc độ chung, như đã đề cập ở mục trên, khái niệm trách nhiệm giải
trình xuất hiện trong mối quan hệ giữa các bên, được coi là có nghĩa vụ thông
báo cho bên kia biết về các hoạt động của mình; cũng như phải lý giải cho bên
kia về các hành động đó và chịu sự trừng phạt của bên kia trong trường hợp
thực thi sai điều đã cam kết.
Đi sâu về nội dung, có thể thấy trách nhiệm giải trình gồm ba yếu tố cấu
thành cơ bản đó là [36]:
Thứ nhất, một cơ quan đã ban hành quyết định thì phải báo cáo công
khai và phải giải trình được mục đ ch, cũng như các căn cứ cho việc ban hành
quyết định đó. Những người ban hành quyết định sẽ phải làm rõ được vấn đề
đang phát sinh là vấn đề gì? Sự cần thiết và t nh cấp thiết phải xử lý vấn đề đó
trong mối tương quan những ưu tiên của cơ quan, tổ chức, cộng đồng. Ngoài
ra, những người ban hành quyết định cũng phải làm rõ được nguyên nhân của
vấn đề là gì và chứng minh được rằng giải pháp ch nh sách mà họ đề ra sẽ loại
bỏ được nguyên nhân và xử lý được vấn đề. Cuối cùng, nhưng không phải là t
quan trọng nhất, những người ban hành quyết định còn phải chứng minh được
chi ph dự kiến bỏ ra là hợp lý, giải pháp đề ra là hiệu quả[36].
Thứ hai, một cá nhân nếu không giải trình được ch nh sách mà người đó
đã ban hành thì phải chịu trách nhiệm về việc thực thi ch nh sách đó. Chịu
trách nhiệm thông thường có nghĩa là phải bị bãi nhiệm. Đối với các quan chức
chính trị, họ sẽ phải giải trình trước các đại biểu dân cử. Nếu không giải trình
được thì sẽ bị bỏ phiếu bất t n nhiệm và bị mất chức [36].
16
Thứ ba, chủ thể ban hành ch nh sách phải chịu trách nhiệm về hậu quả
của ch nh sách đó. Một ch nh sách được ban hành mà không giải quyết được
vấn đề đang được đặt ra, ngược lại còn làm phát sinh nhiều hệ quả tiêu cực, thì
người ban hành ch nh sách sẽ phải chịu trách nhiệm, hoặc phải từ chức hoặc bị
bỏ phiếu bất t n nhiệm và mất chức [36].
Tóm lại, trách nhiệm giải trình được kết hợp bởi hai yếu tố là sự giải
trình và sự chịu trách nhiệm. Trách nhiệm phải dựa trên sự giải trình. Ngược
lại, giải trình không gắn với nghĩa vụ và không kèm theo chế tài thì sự giải
trình đó cũng chỉ mang tính hình thức.
1.1.3. Mối quan hệ giữa công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Mối quan hệ giữa công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
Ngành BHXH ở Việt Nam cũng có thể được xem xét từ mối quan hệ giữa công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình nói chung.
Từ góc độ chung, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình có mối
quan hệ gắn kết, qua lại với nhau. Công khai là điều kiện để bảo đảm minh
bạch, còn cả hai yếu tố công khai và minh bạch đóng vai trò quan trọng trong
việc tạo điều kiện thúc đẩy người dân tham gia quản lý nhà nước và đòi hỏi
trách nhiệm giải trình của các cơ quan, công chức nhà nước. Ảnh hưởng, tác
động của công khai minh bạch được đánh giá dựa trên khả năng của hai yếu tố
này trong việc thúc đẩy trách nhiệm giải trình và sự tham gia của người dân
trong quản trị nhà nước. Trong khi đó, việc tăng cường trách nhiệm giải trình
sẽ thúc đẩy chính quyền ngày càng hoạt động một cách công khai, minh bạch hơn [
48, tr.08].
Từ góc độ khác, công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình đều liên
quan chặt chẽ đến việc đảm bảo một số quyền con người, đặc biệt các quyền
tham gia quản lý nhà nước và quyền tiếp cận thông tin.
17
Quyền tham gia quản lý nhà nước
Quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân vừa là yêu cầu, vừa là
nội dung của công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình. Nói cách khác,
việc đảm bảo quyền tham gia quản lý nhà nước của công dân cũng là để bảo
đảm sự công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và ngược lại. Sự tham gia
quản lý xã hội của người dân tạo thành cơ chế giám sát xã hội đối với các cơ
quan, viên chức nhà nước. Khi thực thi quyền tham gia, người dân có quyền
yêu cầu các cơ quan và viên chức nhà nước thực hiện trách nhiệm giải trình [
48, tr.09].
Quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin là quyền con người cơ bản cho phép người dân
được biết, được tiếp cận, sử dụng, chia sẻ các thông tin của nhà nước. Quyền
tiếp cận thông tin chỉ có thể được bảo đảm khi thông tin của nhà nước công
khai, hoạt động của các cơ quan nhà nước được minh bạch và có tham gia của
người dân. Trên thực tế, sự hình thành và mở rộng của quyền tiếp cận thông tin
gắn liền với cuộc đấu tranh đòi hỏi công khai và minh bạch hóa đời sống chính
trị. Sự bưng b t, b mật thông tin gây ra nhiều hệ quả đối với xã hội, vì thế ở
các quốc gia, người dân ngày càng đặt ra yêu cầu với chính quyền phải công
khai, minh bạch hơn trong hoạt động. Ở chiều ngược lại, việc bảo đảm tiếp cận
thông tín sẽ thúc đẩy sự công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình [48, tr.09].
Quyền đời tư, bí mật quốc gia và các giới hạn quyền con người
Trong quả trị nhà nước, việc bảo đảm công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình luôn đặt trong mối quan hệ với các quyền được giữ bí mật đời
tư và việc bảo vệ bí mật quốc gia. Tất cả những vấn đề này liên quan đến các
quy định về giới hạn quyền con người. Công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình cần được giới hạn trong khuôn khổ bảo vệ quyền đời tư, b mật quốc
gia và các giới hạn quyền con người khác. Mặc dù pháp luật quốc tế có các
18
quy định và hướng dẫn về các vấn đề này, các quốc gia vẫn có các quy định rất
khác nhau về mức độ thể hiện về các mối quan hệ này [48, tr.09].
1.1.4. Đặc điểm và vai trò của công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình là những yêu cầu, đòi hỏi
cơ bản trong quản trị hiện đại. Trong quản trị hiện đại, công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình ch nh là để bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan
cung cấp dịch vụ công như Ngành BHXH luôn nằm trong khuôn khổ pháp luật
và hài hoà lợi ch giữa chủ thể cung cấp và chủ thể tiếp nhận dịch vụ. Theo
nghĩa đó, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là yêu cầu nội tại,
xuất phát từ bản chất và là một trong những chuẩn mực đối với hoạt động của
Ngành BHXH, có vai trò t ch cực góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
các đơn vị trong toàn Ngành. Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
còn là biện pháp hữu hiệu nhằm phòng ngừa các hành vi sai trái, tiêu cực, các
biểu hiện làm sai lệch, suy giảm hiệu quả hoạt động của các cơ quan BHXH.
Không chỉ vậy, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải còn có vai trò chủ
động, t ch cực trong chống tham nhũng, xây dựng quy chế quản trị dân chủ,
thúc đẩy sự đáp ứng của các cơ quan BHXH trong việc cung cấp các dịch vụ
cho tất cả mọi người một cách bình đẳng, từ đó giúp xây dựng, củng cố sự tin
tưởng và thái độ tích cực của người dân vào Ngành BHXH.
Tóm lại, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình có ý nghĩa rất
lớn đối với việc nâng cao hiệu quả quản trị và hoạt động của Ngành BHXH.
Đây là những yêu cầu cơ bản của quản trị nhà nước cũng như quản trị doanh
nghiệp tốt, đồng thời giúp tăng cường các chỉ số khác của Ngành BHXH.
Bên cạnh đó, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình cũng góp phần
thu hút sự tham gia tích cực và rộng rãi của công chúng vào các lĩnh vực
hoạt động của Ngành BHXH, tăng cường đối thoại giữa Ngành BHXH và
19
người hưởng thụ các dịch vụ BHXH, đánh giá, giám sát hiệu quả hoạt động
của Ngành BHXH. Theo nghĩa đó, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình cũng là tiền đề cho sự phát triển của Ngành BHXH theo hướng dân
chủ, công bằng, văn minh.
1.1.5. Các yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam
Về cơ bản, các yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam
cũng chính là các yếu tố tác động và điều kiện đảm bảo công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình trong quản trị công nói chung.
Xét từ góc độ khái quát như vậy, có thể thấy công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong Ngành bảo hiểm xã hội ở Việt Nam được thực hiện trên cơ
sở và chịu sự tác động của các yếu tố và điều kiện sau đây:
- Yếu tố chính trị
Công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị công nói
chung, trong Ngành BHXH nói riêng cần phải được ủng hộ với quyết tâm
chính trị cao. Nền quản trị công nói chung, quản trị trong Ngành BHXH nói
riêng không thể công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình nếu nhà nước
không ủng hộ. Trong bối cảnh, sẽ không có cơ sở chính trị cho việc ban hành
và thực thi các chính sách phù hợp và thiết lập các cơ chế thực thi hiệu quả về
công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình [48, tr.12,13].
- Yếu tố pháp lý
Để đảm bảo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị
công nói chung, quản trị trong Ngành BHXH nói riêng, cần phải quy định
chúng thành các quy tắc pháp lý. Một khi đã được thể chế hoá thành các quy
phạm pháp luật, vấn đề công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình sẽ có
tính bắt buộc với các cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan[48, tr.12,13].
20
Mặc dù vậy, để đảm bảo công khai minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong, các quy định pháp luật về vấn đề này cần phải đầy đủ, phù hợp và tiến
bộ. Thêm vào đó, các văn bản pháp luật cần phải gắn với việc thực thi để đưa
pháp luật vào đời sống. Đây là những yêu cầu áp dụng với cả quản trị công nói
chung và quản trị trong Ngành BHXH nói riêng.
- Nền tảng quản trị dân chủ, pháp quyền
Xây dựng nền quản trị dựa trên dân chủ, pháp quyền đặt ra yêu cầu,
đồng thời cũng là điều kiện bảo đảm cho việc thực thi công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong quản trị công nói chung, quản trị trong Ngành
BHXH nói riêng. Nhà nước dân chủ đòi hỏi tất cả các cơ quan công quyền và
cơ quan cung cấp dịch vụ công đều phải chịu sự giám sát của nhân dân và đều
phải hoạt động theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật [48, tr.13].
Vì thế, các nền tảng dân chủ là điều kiện để thực hiện công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị công nói chung, quản trị trong
Ngành BHXH nói riêng. Ở chiều ngược lại, các giá trị về công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình đóng vai trò là phương thức để hiện thực hóa các quy
chế dân chủ và các nguyên tắc pháp quyền trong quản trị công nói chung, quản trị
trong Ngành BHXH nói riêng.
- Khoa học công nghệ
Trong thời đại ngày nay, việc ứng dụng các thành tựu khoa học công
nghệ, đặc biệt là CNTT, là không thể thiếu trong quản trị quản trị công nói
chung, quản trị trong Ngành BHXH nói riêng. Khoa học công nghệ không chỉ
giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả, mà còn góp phần thúc đẩy công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của tất cả các cơ quan công
quyền và cơ quan cung cấp dịch vụ như Ngành BHXH.
Thực tế ở nhiều quốc gia cho thấy, quản trị công dựa trên nền tảng công
nghệ đã tạo ra sự kết nối phẳng hơn giữa nhà nước và công dân, đặc biệt trong
21
việc tiếp cận thông tin và giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền và
cơ quan cung cấp dịch vụ công [48, tr.13].
Quá trình chuyển đổi số có thể giúp các cơ quan công quyền và cơ quan
cung cấp dịch vụ công như Ngành BHXH thúc đẩy sự minh bạch, thông tin và
trách nhiệm giải trình; sự tham gia; chất lượng phục vụ trong các hoạt động và
dịch vụ công.
- Nhận thức, năng lực của người dân
Nâng cao nhận thức, năng lực của công chúng về công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình là một yêu cầu tất yếu để có thể thúc đẩy việc tuân
thủ các yêu cầu này trong hoạt động quản trị các cơ quan công quyền và cơ
quan cung cấp dịch vụ công. Thực tế cho thấy người dân cần có nhận thức đầy
đủ về các yêu cầu công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ
quan công quyền và cơ quan cung cấp dịch vụ công, từ đó có thể đòi hỏi các cơ
quan đó phải thực hiện các nghĩa vụ trong quá trình hoạt động.
Theo nghĩa rộng, các tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội cũng cần
được tăng cường nhận thức và năng lực trong hoạt động vận động cho sự công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền và cơ quan cung cấp
dịch vụ công [48, tr.14].
- Văn hoá truyền thống về quản trị công
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình là các giá trị của nền
quản trị hiện đại, có tính dân chủ cao. Vì thế, để hiện thực hoá các giá trị này,
cần xóa bỏ những rào cản, trở ngại truyền thống về nền quản trị cũ, lạc hậu,
chẳng hạn như văn hoá b mật, khép kín, coi hoạt động của các cơ quan công
quyền và cơ quan cung cấp dịch vụ công là một đặc quyền, hạn chế chia sẻ
thông tin và sự tham gia của người dân. Cũng cần xóa bỏ tư tưởng cho rằng
những người làm việc trong các cơ quan công quyền và cơ quan cung cấp dịch
vụ công là tầng lớp tinh hoa, còn người dân thì thiếu hiểu biết, không đủ năng lực
22
khả năng tham gia vào hoạt động quản lý, giám sát hoạt động của các cơ quan này
[48, tr.14].
1.2. Khung pháp luật hiện hành về công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong Ngành bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái quát các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong pháp luật Việt Nam
Xuất phát từ tầm quan trọng của việc thực hiện công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong phòng, chống tham nhũng nên hiện tại các vấn đề
này chủ yếu được quy định trong hệ thống văn bản pháp luật về phòng, chống
tham nhũng của Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là đối tượng điều chỉnh của
các quy định pháp luật Việt Nam về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình là các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc phạm vi điều chỉnh của
Luật Phòng chống tham nhũng (Luật PCTN).
Theo Luật PCTN 2018, “công khai, minh bạch [về tổ chức và hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị] là việc công bố, cung cấp thông tin, giải trình về
tổ chức bộ máy, việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trong khi
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan, tổ chức, đơn vị”[42, k.4đ.1], còn
“trách nhiệm giải trình là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền
làm rõ thông tin, giải th ch kịp thời, đầy đủ về quyết định, hành vi của mình
trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao” [42, k.5đ.1].
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, thực hiện công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan công quyền
và cơ quan cung cấp dịch vụ công là những biện pháp quan trọng nhất để
phòng ngừa tham nhũng. Đó là bởi thông qua việc thực hiện công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình sẽ nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức thực
thi công vụ của các cơ quan này và cán bộ của các cơ quan đó. Thực hiện công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình đòi hỏi các cơ quan này và cán bộ
23
của các cơ quan đó phải luôn có ý thức thực hiện đúng đắn các quy định của
pháp luật, hoàn thành chức trách, công vụ của mình theo đúng trình tự, thủ tục,
thẩm quyền mà pháp luật quy định.
Bên cạnh đó, công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình còn tạo điều
kiện để người dân cũng như các tổ chức xã hội và doanh nghiệp giám sát hoạt
động của các cơ quan công quyền và cơ quan cung cấp dịch vụ công. Thông
qua việc thực hiện công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan này, người
dân sẽ dễ dàng biết được những việc làm sai trái của cán bộ của các cơ quan
đó; còn thông qua việc thực hiện trách nhiệm giải trình, người dân có thể yêu
cầu các cơ quan đó giải th ch những hành động mà người dân cho rằng không
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và nghĩa vụ của các cơ quan đó
được pháp luật quy định. Vì vậy, các hành vi vi phạm pháp luật, phiền hà, sách
nhiễu hay lợi dụng chức vụ, quyền hạn của các cơ quan và cán bộ của các cơ
quan đó có thể dễ dàng bị phát hiện và xử lý.
Thấy được tầm quan trọng của việc thực hiện công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong quản trị công, ngay trong Luật PCTN 2005 (sửa
đổi, bổ sung năm 2007, 2012 – sau đây gọi tắt là Luật PCTN 2005) của Việt
Nam đã có những quy định khá cụ thể về vấn đề này. Kế thừa các quy định của
Luật PCTN 2005, Luật PCTN 2018 đã dành một mục riêng (Mục 1 Chương II)
để quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong tổ chức và
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Có thể khái quát những nội dung ch nh
của mục này như sau:
Thứ nhất, về công khai, minh bạch
Nguyên tắc chung trong vấn đề này là: cơ quan, tổ chức, đơn vị phải
công khai, minh bạch mọi thông tin về tổ chức, hoạt động của cơ quan, tổ
chức, đơn vị mình, trừ nội dung thuộc b mật nhà nước, b mật kinh doanh và
nội dung khác theo quy định của pháp luật. Việc công khai, minh bạch phải
24
bảo đảm ch nh xác, rõ ràng, đầy đủ, kịp thời theo trình tự, thủ tục do cơ quan,
tổ chức, đơn vị có thẩm quyền quy định, nhưng phải phù hợp với quy định của
pháp luật [42,đ.9]
Về nội dung, theo Điều 10 Luật PCTN 2018, cơ quan, tổ chức, đơn vị
phải công khai, minh bạch về các vấn đề sau đây: a) Việc thực hiện ch nh sách,
pháp luật có nội dung liên quan đến quyền, lợi ch hợp pháp của cán bộ, công
chức, viên chức; NLĐ; cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang và công dân;
b) Việc bố tr , quản lý, sử dụng tài ch nh công, tài sản công hoặc kinh ph huy
động từ các nguồn hợp pháp khác; c) Công tác tổ chức cán bộ của cơ quan, tổ
chức, đơn vị; quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn; d) Việc thực
hiện ch nh sách, pháp luật có nội dung không thuộc trường hợp quy định tại
các điểm a, b và c khoản này mà theo quy định của pháp luật phải công khai,
minh bạch [42, k.1đ.10]. Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp giải
quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân khác ngoài nội dung
công khai, minh bạch quy định tại khoản 1 Điều này còn phải công khai, minh
bạch về TTHC [42, k.2đ.10].
Về hình thức, theo Điều 11 Luật PCTN 2018, việc công khai có thể thực
hiện bằng cách: a) Công bố tại cuộc họp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; b) Niêm
yết tại trụ sở của cơ quan, tổ chức, đơn vị; c) Thông báo bằng văn bản đến cơ
quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan; d) Phát hành ấn phẩm; đ) Thông
báo trên phương tiện thông tin đại chúng; e) Đăng tải trên cổng thông tin điện
tử, trang thông tin điện tử; g) Tổ chức họp báo; h) Cung cấp thông tin theo yêu
cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân [37,k.1đ.11]. Trường hợp luật khác
không quy định về hình thức công khai thì người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị phải thực hiện một hoặc một số hình thức công khai quy định tại các
điểm b, c, d, đ, e và g khoản 1 Điều này, đồng thời người đứng đầu cơ quan, tổ
25
chức, đơn vị có thể lựa chọn thực hiện thêm hình thức công khai quy định tại
điểm a và điểm h khoản 1 Điều này [42, k.1, đ.11].
Điều 12 Luật PCTN 2018 ấn định trách nhiệm tổ chức thực hiện việc
công khai, minh bạch cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị [
42,k.1đ.12]. Trách nhiệm đó thể hiện cụ thể ở các hành động “chỉ đạo, kiểm
tra, đôn đốc và hướng dẫn cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân thuộc quyền quản
lý thực hiện công khai, minh bạch; trường hợp phát hiện vi phạm pháp luật về
công khai, minh bạch thì phải xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có
thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật” [42,k.2đ.12].
Thực tế cho thấy, một trong những hình thức công khai, minh bạch quan
trọng nhất là họp báo, phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo ch . Luật
PCTN 2018 dành hẳn một điều riêng quy định về hình thức này, trong đó nêu
rằng: “1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm tổ chức họp báo, phát ngôn
và cung cấp thông tin cho báo ch định kỳ hoặc đột xuất về tổ chức và hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình, về công tác phòng, chống tham nhũng
và xử lý vụ việc, vụ án tham nhũng theo quy định của pháp luật về báo ch . 2.
Cơ quan, tổ chức, đơn vị phải tổ chức họp báo, phát ngôn và cung cấp thông
tin cho báo ch đột xuất đối với vụ việc có liên quan đến tổ chức và hoạt động
của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình mà dư luận xã hội quan tâm, trừ trường hợp
pháp luật về báo ch có quy định khác” [42,đ.13].
Xem quyền yêu cầu cung cấp thông tin như là một yếu tố không thể
thiếu của việc thực hiện công khai, minh bạch [và cả trách nhiệm giải trình],
Luật PTCN 2018 đã dành một điều riêng quy định về vấn đề này, trong đó nêu
rằng: “1. Cơ quan nhà nước, tổ chức ch nh trị, tổ chức ch nh trị - xã hội, cơ
quan báo ch , trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có quyền yêu cầu
cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm cung cấp thông tin về tổ chức và hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị đó theo quy định của pháp luật. Trong thời
26
hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu
cầu phải cung cấp thông tin, trừ trường hợp nội dung thông tin đã được công
khai trên phương tiện thông tin đại chúng, được phát hành ấn phẩm hoặc được
niêm yết công khai; trường hợp không cung cấp hoặc chưa cung cấp được thì
phải trả lời bằng văn bản cho cơ quan, tổ chức đã yêu cầu và nêu rõ lý do. 2.
Công dân có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin theo quy
định của pháp luật về tiếp cận thông tin. 3. Việc cung cấp thông tin của cơ
quan, tổ chức, đơn vị cho cán bộ, công chức, viên chức, NLĐ, cán bộ, chiến sĩ
trong lực lượng vũ trang công tác, làm việc tại cơ quan, tổ chức, đơn vị đó
được thực hiện theo quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở và
quy định của pháp luật có liên quan” [42,đ.14].
Liên quan đến vấn đề công khai, minh bạch, Nghị định số 59/2019/NĐ-
CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 đã bổ sung một điều khoản quy định về thực
hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp, tổ
chức khu vực ngoài nhà nước mà có huy động các khoản đóng góp của Nhân
dân để hoạt động từ thiện. Theo đó, căn cứ vào quy định của Luật PCTN 2018,
Nghị định này và pháp luật khác có liên quan, công ty đại chúng, tổ chức t n
dụng và tổ chức xã hội do Thủ tướng Ch nh phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc
Chủ tịch UBND cấp tỉnh quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy
động các khoản đóng góp của Nhân dân để hoạt động từ thiện, trên cơ sở phù
hợp với đặc thù trong tổ chức, hoạt động của mình, có trách nhiệm quy định cụ
thể hình thức công khai, nội dung, trách nhiệm thực hiện việc công khai, minh
bạch trong doanh nghiệp, tổ chức mình. Nội dung công khai, minh bạch bao
gồm: a) Việc thực hiện ch nh sách, pháp luật có nội dung liên quan đến quyền,
lợi ch hợp pháp của NLĐ, thành viên; chế độ lương, thưởng; thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi và các chế độ phúc lợi xã hội khác; quy tắc ứng xử,
điều lệ doanh nghiệp, tổ chức; công tác tổ chức, bố tr nhân sự và các nội dung
27
khác phải công khai, minh bạch theo quy định của pháp luật có liên quan. b)
Ngoài các nội dung quy định tại điểm a khoản 2 Điều này, tổ chức xã hội do
Thủ tướng Ch nh phủ, Bộ trưởng Bộ Nội vụ hoặc Chủ tịch UBND cấp tỉnh
quyết định thành lập hoặc phê duyệt điều lệ có huy động các khoản đóng góp
của Nhân dân để hoạt động từ thiện còn phải công khai, minh bạch các nội
dung sau: quy chế huy động, quản lý, sử dụng các khoản đóng góp để hoạt
động từ thiện; quyền lợi và nghĩa vụ của người đóng góp, người được hưởng
lợi; mục đ ch huy động các khoản đóng góp để hoạt động từ thiện; đối tượng,
hình thức và mức huy động các khoản đóng góp; kết quả huy động, bao gồm:
danh sách các đối tượng đóng góp, tài trợ, hình thức và mức đóng góp, tài trợ
của từng đối tượng; kết quả quản lý, sử dụng các khoản huy động vào mục
đ ch từ thiện [30,đ.53].
Thứ hai, về trách nhiệm giải trình
Luật PCTN 2018 dành một điều riêng quy định về trách nhiệm giải
trình, trong đó nêu rõ: 1. Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giải
trình về quyết định, hành vi của mình trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ
được giao khi có yêu cầu của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân bị tác động trực
tiếp bởi quyết định, hành vi đó. Người thực hiện trách nhiệm giải trình là người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc người được phân công, người được ủy
quyền hợp pháp để thực hiện trách nhiệm giải trình. 2. Trường hợp báo ch
đăng tải thông tin về vi phạm pháp luật và có yêu cầu trả lời các vấn đề liên
quan đến việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ được giao thì cơ quan, tổ chức, đơn
vị, cá nhân có thẩm quyền phải giải trình và công khai nội dung giải trình trên
báo ch theo quy định của pháp luật. 3. Việc giải trình khi có yêu cầu của cơ
quan có thẩm quyền giám sát hoặc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền khác được thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan”.
[42, đ.15]
28
Liên quan đến vấn đề trách nhiệm giải trình, Nghị định số 59/2019/NĐ-
CP ngày 01 tháng 7 năm 2019 đã có một số quy định chi tiết hoá nội dung
Khoản 1 Điều 15 Luật PCTN 2018, cụ thể như sau:
Thứ nhất, nội dung giải trình bao gồm: [30, đ.03] 1. Cơ sở pháp lý của
việc ban hành quyết định, thực hiện hành vi. 2. Thẩm quyền ban hành quyết
định, thực hiện hành vi. 3. Trình tự, thủ tục ban hành quyết định, thực hiện
hành vi. 4. Nội dung của quyết định, hành vi.
Thứ hai, điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình [30, đ.04]: 1. Cá nhân yêu
cầu giải trình có năng lực hành vi dân sự đầy đủ hoặc có người đại diện theo
quy định của pháp luật; cơ quan, tổ chức, đơn vị yêu cầu giải trình có người
đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình. 2. Quyết định, hành vi
của cơ quan, tổ chức, đơn vị được yêu cầu giải trình tác động trực tiếp đến
quyền, lợi ch hợp pháp của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có yêu cầu giải
trình.
Thứ ba, những trường hợp được từ chối yêu cầu giải trình: [30, đ.05 ] 1.
Không đủ điều kiện tiếp nhận yêu cầu giải trình được quy định tại Điều 4 của
Nghị định này. 2. Nội dung yêu cầu giải trình thuộc trường hợp quy định tại
Điều 6 của Nghị định này, nội dung đã được giải trình hoặc đã được cơ quan,
tổ chức, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền thụ lý giải quyết, trừ trường hợp người
yêu cầu có lý do ch nh đáng. 3. Người yêu cầu giải trình đang trong tình trạng
không làm chủ được hành vi do dùng chất k ch th ch hoặc có hành vi gây rối
trật tự, đe dọa, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người tiếp nhận yêu cầu giải
trình. 4. Người được ủy quyền, người đại diện không có giấy tờ hợp pháp theo
quy định của pháp luật.
Thứ tư, những nội dung không thuộc phạm vi giải trình: [30, đ.06] 1.
Nội dung thuộc b mật nhà nước, b mật đời sống riêng tư, b mật cá nhân, b
mật kinh doanh theo quy định của pháp luật. 2. Nội dung chỉ đạo, điều hành, tổ
29
chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong nội bộ cơ quan, tổ chức, đơn vị mà
chưa ban hành, chưa thực hiện hoặc nội dung chỉ đạo, điều hành của cơ quan
cấp trên với cơ quan cấp dưới.
Thứ năm, trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị
trong việc thực hiện trách nhiệm giải trình [30, đ.07]: 1. Quy định cụ thể việc
thực hiện trách nhiệm giải trình trong nội quy, quy chế làm việc của cơ quan,
tổ chức, đơn vị. 2. Phân công cá nhân hoặc bộ phận có trách nhiệm tiếp nhận
yêu cầu giải trình. 3. Tổ chức, chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện trách
nhiệm giải trình và xử lý vi phạm theo thẩm quyền.
Thứ sáu, quyền và nghĩa vụ của người yêu cầu giải trình: [30, đ.08] 1.
Người yêu cầu giải trình có các quyền sau đây: a) Tự mình hoặc ủy quyền cho
người khác có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thực hiện yêu cầu giải trình; b)
Rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu giải trình; c) Nhận văn bản giải trình của
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có trách nhiệm giải trình; d) Khiếu nại, tố cáo
theo quy định của pháp luật. 2. Người yêu cầu giải trình có các nghĩa vụ sau
đây: a) Nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền;
b) Thực hiện đúng trình tự, thủ tục yêu cầu giải trình quy định tại Mục 3
Chương II của Nghị định này và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
c) Trình bày rõ ràng, trung thực, có căn cứ về nội dung yêu cầu giải trình; d)
Cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến nội dung yêu cầu giải trình.
Thứ bảy, quyền và nghĩa vụ của người thực hiện trách nhiệm giải trình:
[30, đ.09] 1. Người thực hiện trách nhiệm giải trình có các quyền sau đây: a)
Yêu cầu người yêu cầu giải trình cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội
dung yêu cầu giải trình; b) Hướng dẫn người yêu cầu giải trình thực hiện đúng
trình tự, thủ tục quy định tại Mục 3 Chương II của Nghị định này và các quy
định khác của pháp luật có liên quan; c) Từ chối yêu cầu giải trình trong các
trường hợp được quy định tại Điều 5 của Nghị định này. 2. Người thực hiện
30
trách nhiệm giải trình có các nghĩa vụ sau đây: a) Tiếp nhận yêu cầu giải trình
thuộc thẩm quyền; b) Hướng dẫn người yêu cầu giải trình thực hiện đứng trình
tự, thủ tục quy định tại Mục 3 Chương II của Nghị định này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan; c) Giải quyết yêu cầu giải trình theo đúng
trình tự, thủ tục và thời hạn quy định tại Nghị định này và các quy định khác
của pháp luật có liên quan.
Thứ tám, trình tự, thủ tục thực hiện việc giải trình, cụ thể như sau:
- Yêu cầu giải trình: [30,đ.10 ] Yêu cầu giải trình được thực hiện bằng
văn bản hoặc trực tiếp tại cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm giải trình.
Nếu yêu cầu giải trình bằng văn bản thì: a) Văn bản yêu cầu giải trình phải nêu
rõ nội dung yêu cầu giải trình; ghi rõ họ tên, địa chỉ, số điện thoại hoặc địa chỉ
thư t n của người yêu cầu giải trình. b) Văn bản yêu cầu giải trình phải có chữ
ký hoặc điểm chỉ xác nhận của người yêu cầu giải trình. Nếu yêu cầu giải trình
trực tiếp thì: a) Người yêu cầu giải trình trình bày rõ ràng nội dung yêu cầu với
người được giao tiếp nhận yêu cầu giải trình (trường hợp nhiều người cùng yêu
cầu giải trình về một nội dung thì phải cử người đại diện để trình bày. Việc cử
người đại diện được thể hiện bằng văn bản có chữ ký hoặc điểm chỉ của những
người yêu cầu giải trình); b) Người được giao tiếp nhận yêu cầu giải trình phải
thể hiện trung thực nội dung yêu cầu giải trình bằng văn bản; ghi rõ họ tên, địa
chỉ, số điện thoại hoặc địa chỉ thư t n của người yêu cầu giải trình; c) Người
yêu cầu giải trình ký hoặc điểm chỉ xác nhận vào văn bản yêu cầu giải trình.
- Tiếp nhận yêu cầu giải trình: [30, đ.11] Cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân có trách nhiệm giải trình tiếp nhận yêu cầu giải trình khi đáp ứng các điều
kiện tiếp nhận và không thuộc những trường hợp từ chối yêu cầu giải trình lần
lượt quy định tại Điều 4 và Điều 5 của Nghị định này. Trường hợp yêu cầu giải
trình không thuộc trách nhiệm thì người tiếp nhận hướng dẫn người yêu cầu
đến cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Trường hợp văn bản
31
yêu cầu giải trình không đáp ứng điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 10 của
Nghị định này thì người tiếp nhận có trách nhiệm hướng dẫn người yêu cầu
giải trình bổ sung thông tin, tài liệu. Trường hợp nội dung yêu cầu giải trình đã
được giải trình cho người khác trước đó thì cung cấp bản sao văn bản giải trình
cho người yêu cấu giải trình. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiếp
nhận yêu cầu, người giải trình phải thông báo bằng văn bản cho người yêu cầu
giải trình về việc giải quyết hoặc không giải quyết và nêu rõ lý do.
- Thực hiện việc giải trình: [30,đ.12] Trong trường hợp yêu cầu giải trình
trực tiếp, có nội dung đơn giản, thì việc giải trình có thể thực hiện bằng hình
thức trực tiếp. Việc giải trình trực tiếp phải được lập thành biên bản có chữ ký
hoặc điểm chỉ của các bên. Trong những trường hợp còn lại thì việc giải trình
được thực hiện như sau: a) Thu thập, xác minh thông tin có liên quan; b) Làm
việc trực tiếp với người yêu cầu giải trình để làm rõ những nội dung có liên
quan khi thấy cần thiết. Nội dung làm việc được lập thành biên bản có chữ ký
hoặc điểm chỉ của các bên; c) Ban hành văn bản giải trình; d) Gửi văn bản giải
trình đến người yêu cầu giải trình. Văn bản giải trình phải có các nội dung sau
đây: a) Họ tên, địa chỉ người yêu cầu giải trình; b) Nội dung yêu cầu giải trình;
c) Kết quả làm việc trực tiếp với tổ chức, cá nhân (nếu có); d) Căn cứ pháp lý
thực hiện việc giải trình; đ) Nội dung giải trình cụ thể.
- Thời hạn thực hiện việc giải trình: [30, đ.13] Thời hạn thực hiện việc
giải trình không quá 15 ngày, kể từ ngày ra thông báo tiếp nhận yêu cầu giải
trình; trường hợp có nội dung phức tạp thì có thể gia hạn 01 lần; thời gian gia
hạn không quá 15 ngày và phải thông báo bằng văn bản đến người yêu cầu giải
trình. Thời gian tạm đình chỉ việc giải trình theo quy định tại khoản 1 Điều 14
của Nghị định này không được t nh vào thời hạn thực hiện việc giải trình.
- Tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải trình: [30, đ.14] Trong quá trình thực
hiện việc giải trình, người thực hiện trách nhiệm giải trình quyết định tạm đình
32
chỉ việc giải trình trong các trường hợp sau đây: a) Người yêu cầu giải trình là
cá nhân đã chết mà chưa xác định được người thừa kế quyền, nghĩa vụ; cơ
quan, tổ chức bị chia tách, sáp nhập, giải thể mà chưa có cá nhân, tổ chức kế
thừa quyền, nghĩa vụ trong vụ việc yêu cầu giải trình; b) Người yêu cầu giải
trình là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà chưa xác định được người đại
diện theo pháp luật; c) Cá nhân yêu cầu giải trình bị ốm đau hoặc vì lý do
khách quan khác mà người thực hiện trách nhiệm giải trình chưa thể thực hiện
được việc giải trình. Người thực hiện trách nhiệm giải trình tiếp tục thực hiện
việc giải trình khi lý do của việc tạm đình chỉ không còn. Người thực hiện
trách nhiệm giải trình quyết định đình chỉ việc giải trình trong các trường hợp
sau: a) Người yêu cầu giải trình là cá nhân đã chết mà không có người thừa kế
quyền, nghĩa vụ; cơ quan, tổ chức bị chia tách, sáp nhập, giải thể mà không có
cá nhân, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa vụ trong vụ việc yêu cầu giải trình; b)
Người yêu cầu giải trình là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự mà không có
người đại diện theo pháp luật; c) Người yêu cầu giải trình rút toàn bộ yêu cầu
giải trình.
1.2.2. Quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
Ngành bảo hiểm xã hội
BHXH Việt Nam là một cơ quan thuộc Ch nh phủ, có chức năng thực
hiện ch nh sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý Quỹ BHXH, BHYT theo
quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của Bộ Bộ
LĐ-TB&XH về BHXH, của Bộ Y tế về BHYT, của Bộ Tài ch nh về chế độ
ch nh sách đối với các quỹ BHXH, BHYT.
Với tư cách là một cơ quan nhà nước, BHXH Việt Nam cũng là đối
tượng điều chỉnh của các quy định về công khai, minh bạch, trách nhiệm giải
trình trong Luật PCTN 2018 và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 7
33
năm 2019 của Ch nh phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật PCTN 2018.
Tuy nhiên, do đặc thù là một Ngành thực hiện ch nh sách nên trọng tâm
của vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong Ngành BHXH ở
Việt Nam ch nh là các quy định về ch nh sách, chế độ BHXH, BHYT và quản
lý Quỹ BHXH, BHYT. Cụ thể hơn, vấn đề công khai, minh bạch, trách nhiệm
giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam gắn với các nội dung
sau đây:
- Điều kiện, quyền và nghĩa vụ của đối tượng tham gia, thụ hưởng chính
sách BHXH, BHYT.
- Quy trình TTHC, quy trình giải quyết công việc, thành phần hồ sơ
đăng ký tham gia đóng BHXH, BHYT và đề nghị giải quyết hưởng các chế độ
BHXH, BHYT.
- Việc thực hiện chính sách, pháp luật và quản lý quỹ BHXH, BHYT.
Để thực hiện công khai, minh bạch trong các vấn đề trên, trong những
năm vừa qua (giai đoạn 2015 - 2019), Ngành BHXH đã ban hành nhiều văn
bản hướng dẫn thực hiện các quy định của pháp luật liên quan đến chế độ
chính sách BHXH, BHYT, trình tự thủ tục đăng ký đóng, hưởng BHXH,
BHYT. Việc các quy định pháp luật được cụ thể hóa và hướng dẫn thực hiện
một cách rõ ràng sẽ hạn chế tình trạng tùy tiện trong áp dụng ch nh sách, mặt
khác giúp người dân - đối tượng tham gia, thụ hưởng ch nh sách BHXH,
BHYT - hiểu được, biết được quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong ch nh sách
an sinh xã hội của Nhà nước. Cụ thể, các văn bản quan trọng bao gồm:
- Đối với lĩnh vực thu BHXH, BHTN, BHYT cấp sổ BHXH, thẻ BHYT:
Quyết định số 919/QĐ-BHXH và Quyết định số 959/QĐ-BHXH quy định hồ
sơ, thủ tục, quy trình thực hiện của lĩnh vực thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT
(năm 2015); Quyết định số 595/QĐ-BHXH về quy trình thu BHXH, BHTN,
34
BHYT, bảo hiểm tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp; quản lý sổ BHXH, thẻ
BHYT (năm 2017). Đây là những văn bản cụ thể hóa quy định về đối tượng
tham gia BHXH, BHTN, BHYT, quyền và nghĩa vụ đối tượng tham gia, hồ sơ,
trình tự thủ tục đăng ký tham gia BHXH, BHTN, BHYT; phân cấp quản lý thu,
cấp sổ BHXH, thẻ BHYT của Ngành BHXH;
- Giải quyết và chi trả các chế độ BHXH, BHYT: Quyết định số
1399/QĐ - BHXH ban hành quy định về tổ chức thực hiện BHYT trong khám
chữa bệnh BHYT (năm 2015). Quyết định số 636/QĐ-BHXH quy định về hồ
sơ và quy trình giải quyết hưởng các chế độ BHXH; Quyết định số 828/QĐ-
BHXH về quy định quản lý chi trả BHXH, BHTN (năm 2016); Quyết định số
166/QĐ-BHXH ngày 31/01/2019 ban hành quy trình giải quyết các chế độ
BHXH và giải quyết chi trả các chế độ BHXH, BHTN. Đây là những quy định
cụ thể về thành phần hồ sơ, thủ tục tiếp nhận, trình tự, thời hạn giải quyết, chi
trả từng chế độ BHXH và BHYT.
Bên cạnh đó, để giúp người dân, doanh nghiệp dễ dàng, thuận tiện trong
việc giao dịch tham gia và thụ hưởng chính sách BHXH, BHTN, BHYT, đồng
thời bảo đảm tính công khai, minh bạch trong giải quyết công việc, góp phần
phòng, chống tham nhũng hiệu quả trong công chức, viên chức, Ngành BHXH
đã ban hành nhiều văn bản khác để công bố rộng rãi các TTHC thuộc thẩm
quyền giải quyết của Ngành BHXH trong đó bao gồm các TTHC bị bãi bỏ,
thay thế hàng năm như: Quyết định 528/QĐ-BHXH ngày 14/4/2015 quy định
về giao dịch điện tử trong việc thực hiện thủ tục tham gia bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, BHTN; cấp sổ bảo hiểm xã hội, thẻ bảo hiểm y tế, Quyết định
số 1133/QĐ-BHXH ngày 16 /10/2015 về việc công bố thủ tục hành ch nh được
sửa đổi, bổ sung, thay thế thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH Việt Nam,
Quyết định số 1055/QĐ-BHXH ngày 25/7/ 2016 về việc công bố thủ tục hành
ch nh được sửa đổi, bổ sung, thay thế thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH
35
Việt Nam, Quyết định 838/QĐ-BHXH ngày 29/5/2017 ban hành quy trình giao
dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT...
Với mục tiêu minh bạch trong từng khâu nghiệp vụ, người dân, doanh
nghiệp có thể theo dõi, giám sát quá trình giải quyết hồ sơ thủ tục khi giao dịch
với Ngành BHXH. Năm 2017, BHXH Việt Nam đã triển khai thực hiện giao
dịch điện tử toàn diện trên tất cả các khâu nghiệp vụ, đồng thời đã ban hành
văn bản hướng dẫn quy trình thực hiện giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh
vực: thu, cấp sổ BHXH; thẻ BHYT; giải quyết các chế độ BHXH, thanh toán
chi phí khám chữa bệnh BHYT. Đặc biệt, tháng 12/2019, Tổng Giám đốc
BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định số 2192/QĐ-BHXH ngày
10/12/2019 về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông
trong Ngành BHXH, theo đó Quyết định đã quy định rõ chức năng nhiệm vụ
của Bộ phận một cửa là „Công khai đầy đủ, kịp thời bằng phương tiện điện tử
hoặc bằng văn bản danh mục TTHC được thực hiện tại Bộ phận Một cửa; các
nội dung TTHC được công khai theo quy định của pháp luật; hỗ trợ những
trường hợp không có khả năng tiếp cận TTHC được công khai bằng phương
tiện điện tử”. Đồng thời, văn bản này còn quy định việc: “Tiếp nhận, xử lý
hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo
của tổ chức, cá nhân đối với công chức, viên chức liên quan đến việc hướng
dẫn, tiếp nhận, giải quyết, chuyển hồ sơ giải quyết và trả kết quả giải quyết
TTHC; chuyển ý kiến giải quyết của cấp có thẩm quyền về các phản ánh, kiến
nghị, khiếu nại, tố cáo đến tổ chức, cá nhân”.
Xét chung, trong những năm vừa qua, Ngành BHXH đang từng bước
giải bài toán về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Nhiều nội dung, cách thức thực hiện
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình được xác định phù hợp với đặc
36
thù hoạt động của Ngành, bên cạnh những nội dung, cách thức được thực hiện
theo quy trình, quy chế chung như ban hành quy chế phát ngôn và cung cấp
thông tin cho báo chí; quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo và tiếp công dân
Những nội dung đặc thù rất đa dạng, trong đó bao gồm việc hàng năm ban
hành văn bản chỉ đạo BHXH các địa phương chú trọng công tác đối thoại với
đơn vị SDLĐ và NLĐ. Việc hướng dẫn rõ ràng về hồ sơ, thủ tục, quy trình
nghiệp vụ đã có tác động rất lớn trong việc tạo sự công khai, minh bạch trong
hoạt động của Ngành BHXH. Điều này phù hợp với những mục tiêu cơ bản
của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
37
Tổng kết Chƣơng 1
Nội dung Chương 1 đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận về công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình và công khai, minh bạch, trách nhiệm
giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH, trong đó nhấn mạnh nội hàm và
mối quan hệ giữa công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Ngoài ra, trong
Chương 1 cũng trình bày những quy định của pháp luật về công khai, minh
bạch, trách nhiệm giải trình và những yếu tố tác động đến quá trình thực hiện
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành
BHXH Việt Nam hiện nay.
Việc nghiên cứu những vấn đề cơ sở lý luận ở Chương 1 đặt nền tảng lý
luận để nghiên cứu Chương 2 và Chương 3 của Luận văn.
38
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI, MINH BẠCH
VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA
NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát về Ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
Giai đoạn trước Đổi mới (1986) việc quản lý Quỹ hưu tr và tổ chức thực
hiện ch nh sách BHXH có đặc điểm chung là chưa ổn định và phân tán. Nếu
như trong những năm đầu thành lập nước (1945), việc quản lý Quỹ hưu bổng
được giao cho Nha hưu bổng (thuộc Ch nh phủ) thực hiện, thì 5 năm sau đó
được giao cho Bộ Tài ch nh đảm nhiệm. Tiếp đó, trách nhiệm quản lý Quỹ
BHXH và sự nghiệp BHXH của cán bộ, nhân viên Nhà nước được giao cho
Tổng Công đoàn Việt Nam; công tác thu - chi do Tổng Công đoàn Việt Nam
và Ngân hàng Nhà nước phụ trách [45].
Kể từ năm 1986 đến năm 1994 việc tổ chức thực hiện BHXH cho cán
bộ, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang vẫn thực hiện phân tán. Bộ Tài
ch nh chịu trách nhiệm thu BHXH của cán bộ công chức và lực lượng vũ
trang; cơ quan Thuế tổ chức thu BHXH của NLĐ trong các cơ sở kinh tế quốc
doanh; Bộ LĐ-TB&XH quản lý 2 chế độ hưu tr và tử tuất; Tổng LĐLĐ Việt
Nam quản lý các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động-bệnh nghề
nghiệp… Tuy nhiên, tại 5 địa phương đã thực hiện th điểm BHXH ngoài quốc
doanh, nơi mà các Công ty BHXH được thành lập [45].
Từ cuối năm 1990 đến tháng 6/1991, đã có 4 địa phương thành lập cơ
quan BHYT cấp tỉnh là: Hải Phòng, Quảng Trị, Phú Yên, Bến Tre [45]. Triển
khai Điều lệ BHYT ban hành theo Nghị định 299-HĐBT ngày 15/8/1992 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Ch nh phủ), hệ thống tổ chức BHYT trên cả nước
đã nhanh chóng được hình thành và đi vào hoạt động, bao gồm cơ quan BHYT
39
53 tỉnh, thành phố; 4 BHYT các Ngành: Giao thông, Dầu kh , Cao su, Than;
BHYT Việt Nam và chi nhánh tại TP.Hồ Ch Minh [45]. Trong thời gian này,
dù hệ thống tổ chức BHYT được thành lập từ Trung ương đến địa phương,
nhưng tại địa phương, BHYT các tỉnh, thành phố vừa trực thuộc Ngành dọc
(BHYT Việt Nam), vừa trực thuộc Giám đốc Sở Y tế, do Giám đốc Sở Y tế bổ
nhiệm; BHYT các Ngành cũng vừa trực thuộc BHYT Việt Nam, vừa trực
thuộc lãnh đạo Ngành BHYT Việt Nam. Quỹ BHYT cũng được quản lý phân
tán tại các địa phương và chịu sự kiểm tra, giám sát của Hội đồng quản trị do
ch nh quyền tỉnh, thành phố thành lập [45].
Sau 50 năm tổ chức thực hiện ch nh sách BHXH theo mô hình phân tán,
ngày 16/2/1995, Ch nh phủ ban hành Nghị định 19-CP về việc thành lập
BHXH Việt Nam trên cơ sở hợp nhất các tổ chức thực hiện BHXH ở Trung
ương và địa phương thuộc hệ thống LĐ-TB&XH và Tổng LĐLĐ Việt Nam để
giúp Thủ tướng Ch nh phủ chỉ đạo công tác quản lý Quỹ BHXH và thực hiện
các chế độ, ch nh sách BHXH theo pháp luật của Nhà nước [45]. Nghị định
này cũng quy định việc thành lập Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam gồm: đại
diện có thẩm quyền của Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Tài ch nh, Tổng LĐLĐ Việt Nam
và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam [45 ].
Ngày 26/9/1995, Thủ tướng Ch nh phủ ký Quyết định số 606/TTg ban
hành quy chế tổ chức và hoạt động của BHXH Việt Nam. Theo Quyết định
này, Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam là cơ quan quản lý cao nhất của
BHXH Việt Nam; BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống 3 cấp: Trung
ương, cấp tỉnh và cấp huyện. Tại cơ quan BHXH Việt Nam có 8 tổ chức giúp
việc Tổng Giám đốc, gồm: Ban Quản lý chế độ ch nh sách BHXH; Ban Quản
lý thu BHXH; Ban Quản lý chi BHXH; Ban Kiểm tra- Pháp chế; Ban Kế
hoạch- Tài ch nh; Ban Tổ chức- Cán bộ; Văn phòng và Trung tâm Thông tin-
Khoa học.
40
Liên quan đến bộ máy tổ chức BHYT, từ cuối năm 1998, theo Nghị định
số 58/1998/NĐ-CP, BHYT Việt Nam ch nh thức được tổ chức và quản lý theo
hệ thống tập trung, thống nhất theo 3 cấp: Ở Trung ương, BHYT Việt Nam
trực thuộc Bộ Y tế; ở cấp tỉnh, BHYT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
và BHYT Ngành trực thuộc BHYT Việt Nam; ở cấp huyện, quận, thành phố,
thị xã thuộc tỉnh (gọi chung là huyện) tổ chức thành chi nhánh BHYT trực
thuộc BHYT tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương [45].
Hội đồng quản lý BHYT Việt Nam là cơ quan quản lý, giám sát hoạt
động của BHYT Việt Nam, bao gồm các thành viên là đại diện có thẩm quyền
của các Bộ: Y tế, Tài ch nh, Lao động - Thương binh và Xã hội, Tổng LĐLĐ
Việt Nam và BHYT Việt Nam [45 ].
Thực hiện tiến trình cải cách bộ máy của Ch nh phủ trong tình hình mới,
ngày 24/1/2002, Thủ tướng Ch nh phủ đã ký Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg
chuyển BHYT Việt Nam sang BHXH Việt Nam. Từ năm 2003, ngoài việc
đảm bảo các chế độ BHXH cho NLĐ, BHXH Việt Nam đã tiếp nhận thêm tổ
chức, nhiệm vụ thực hiện chế độ BHYT cho các đối tượng tham gia BHYT;
quản lý thu - chi Quỹ BHYT [45].
Thực hiện Luật BHXH năm 2006, ngày 22/8/2008, Ch nh phủ ban hành
Nghị định số 94/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Theo quy định tại Nghị định này, “BHXH
Việt Nam là cơ quan thuộc Ch nh phủ, có chức năng tổ chức thực hiện chế độ,
ch nh sách bảo hiểm bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHYT bắt buộc, BHYT tự
nguyện; tổ chức thu, chi chế độ BH TN; quản lý và sử dụng các quỹ: BHXH
bắt buộc, BHXH tự nguyện, BH TN, BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện theo
quy định của pháp luật” [45].
Để giúp Ch nh phủ, Thủ tướng Ch nh phủ chỉ đạo và giám sát việc thực
hiện chế độ, ch nh sách và thu, chi, quản lý, sử dụng các quỹ BHXH, BHYT,
41
Ch nh phủ thành lập Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam gồm đại diện lãnh đạo
Bộ LĐ-TB&XH, Bộ Y tế, Bộ Tài ch nh, Bộ Nội vụ, Tổng LĐLĐ Việt Nam,
Phòng TM&CN Việt Nam, Liên minh HTX Việt Nam, Hội Nông dân Việt
Nam, Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam và thành viên khác do Ch nh phủ quy
định tùy vào từng thời điểm. Hội đồng quản lý có Chủ tịch, Phó Chủ tịch
thường trực và các thành viên do Thủ tướng Ch nh phủ bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Nội vụ; nhiệm kỳ 5 năm. Cũng theo
Nghị định số 94/2008/NĐ-CP, cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam ở Trung
ương gồm có 18 đơn vị trực thuộc, gồm: Ban Thực hiện ch nh sách BHXH;
Ban Thực hiện ch nh sách BHYT; Ban Thu; Ban Chi; Ban Cấp sổ, thẻ; Ban
Tuyên truyền; Ban Hợp tác quốc tế; Ban Kiểm tra; Ban Thi đua- Khen thưởng;
Ban Kế hoạch- Tài ch nh; Ban Tổ chức cán bộ; Văn phòng; Viện Khoa học
BHXH; Trung tâm Thông tin; Trung tâm Lưu trữ; Trường Đào tạo nghiệp vụ
BHXH; Báo BHXH và Tạp ch BHXH [45].
Thực hiện Nghị định số 116/2011/NĐ-CP ngày 14/12/2011 của Ch nh
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 94/2008, từ ngày
5/2/2012, cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam ở Trung ương bao gồm 22 tổ
chức thay vì 18 tổ chức như trước đó, trong đó có 4 tổ chức được thành lập
mới là: Ban Pháp chế, Ban Đầu tư quỹ, Ban Dược và Vật tư y tế và Trung tâm
Giám định BHYT và Thanh toán đa tuyến [45].
Để tổ chức thực hiện tốt Luật BHXH, Luật BHYT, ngày 17/1/2014,
Ch nh phủ ban hành Nghị định số 05/2014/NĐ-CP thay thế Nghị định
94/2008/NĐ-CP và Nghị định 116/2011/NĐ-CP. Theo đó, tổ chức BHXH Việt
Nam ở Trung ương tăng từ 22 lên 24 tổ chức giúp việc và đơn vị sự nghiệp.
Thực hiện Luật Việc làm ngày 16 tháng 11 năm 2013, Luật Bảo hiểm y tế ngày
14 tháng 11 năm 2008 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT
ngày 13 tháng 6 năm 2014, Luật BHXH ngày 20 tháng 11 năm 2014; Ngày
42
05/1/2016, Ch nh phủ ban hành Nghị định 01/2016/NĐ-CP quy định chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Theo đó,
BHXH Việt Nam có cơ cấu tổ chức gồm: Ở trung ương gồm 24 đơn vị, ở địa
phương gồm: 63 cơ quan BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, 700
BHXH quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh [ 45 ] (xem sơ đồ sau).
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức Ngành BHXH hiện nay
T nh đến 31/12/2019 toàn Ngành BHXH đang quản lý khoảng 15,2 triệu
người tham gia BHXH; 574.000 người tham gia BHXH tự nguyện; 13,429
triệu người tham gia BHTN; 85,9 triệu người tham gia BHYT (đạt tỷ lệ bao
phủ 90% dân số). Quản lý và chi trả cho hơn 3,1 triệu người hưởng các chế độ
43
BHXH hàng tháng, hàng năm chi khoảng hơn 100 nghìn tỷ chi phí khám chữa bệnh
cho khoảng 180 triệu lượt khám chữa bệnh BHYT nội trú và ngoại trú [7, tr.02].
2.1.2. Chức năng nhiệm vụ của Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
Chức năng nhiệm vụ của BHXH Việt Nam phụ thuộc vào cơ cấu tổ chức
và theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn cụ thể [ 45]:
- Giai đoạn 1995 - 2002: Sau khi tách từ Ngành LĐTB&XH được Chính
phủ thành lập hệ thống tổ chức BHXH thống nhất để quản lý quỹ và thực hiện
các chế độ, chính sách về BHXH theo quy định của pháp luật đối với NLĐ tại
Điều 42 Nghị định 12/CP ngày 26/01/1995, ngày 26/9/1995, Thủ tướng Ch nh
phủ ký Quyết định số 606/TTg ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của
BHXH Việt Nam, theo đó Ngành BHXH có 16 nhiệm vụ, quyền hạn, trong đó
một số nhiệm vụ ch nh là: Chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu BHXH theo
quy định của Bộ luật Lao động, Điều lệ BHXH và các quy định của Chính
phủ; Quản lý Quỹ BHXH và tổ chức việc chi trả BHXH cho người tham gia
BHXH được đẩy đủ, thuận tiện và đúng thời hạn; cấp và quản lý sổ BHXH…
- Giai đoạn 2003 - 2006: Sau khi sáp nhập tổ chức BHYT từ Bộ Y tế
sang BHXH Việt Nam theo Quyết định số 20/2002/QĐ-TTg ngày 24/1/2002
của Thủ tướng Ch nh phủ thì nhiệm vụ quyền hạn của BHXH Việt Nam được
quy định tại Nghị định số 100/2002/NĐ-CP ngày 06/12/2002 của Ch nh phủ
ban hành quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
BHXH Việt Nam, theo đó Ngành BHXH có 19 nhiệm vụ, quyền hạn. Ngoài
việc thực hiện các nhiệm vụ chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc thu BHXH theo
quy định của Bộ luật Lao động, Điều lệ BHXH và các quy định của Chính
phủ; Quản lý Quỹ BHXH và tổ chức việc chi trả BHXH cho người tham gia
BHXH; cấp và quản lý sổ BHXH… BHXH Việt Nam còn thực hiện nhiệm vụ
cấp thẻ BHYT; tổ chức hợp đồng với các cơ sở khám, chữa bệnh hợp pháp để
phục vụ người có sổ, thẻ bảo hiểm; kiểm tra việc ký hợp đồng và việc thu, chi
44
BHXH đối với cơ quan, đơn vị, tổ chức SDLĐ, cá nhân, cơ sở khám chữa
bệnh; kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền và cơ quan cấp trên của
đơn vị SDLĐ, cơ sở khám chữa bệnh để xử lý những hành vi vi phạm pháp
luật về BHXH [ 45 ]…
- Giai đoạn 2007 đến 2015: Ngày 01 tháng 01 năm 2007 Luật BHXH
số 71/2006/QH 11 có hiệu lực thi hành, lần đầu tiên tổ chức BHXH được luật
hóa là tổ chức sự nghiệp, có chức năng thực hiện chế độ, chính sách BHXH,
quản lý và sử dụng các quỹ BHXH theo quy định của Luật này. Tại Nghị
định số 94/2008/NĐ-CP ngày 22/8/2008 và Nghị định số 05/2014/NĐ-CP của
Ch nh phủ quy định BHXH Việt Nam là cơ quan thuộc Chính phủ, có chức
năng tổ chức thực hiện chế độ, chính sách bảo hiểm bắt buộc, BHXH tự
nguyện, BHYT bắt buộc, BHYT tự nguyện; tổ chức thu, chi chế độ BHTN;
quản lý và sử dụng các quỹ: BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện, BHTN theo
quy định của pháp luật [ 45];
- Giai đoạn năm 2016 đến nay: Sau khi Luật Việc làm năm 2013, Luật
BHYT năm 2008, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT năm
2014, và Luật BHXH năm 2014 có hiệu lực thi hành, ngày 05/1/2016, Chính
phủ ban hành Nghị định 01/2016/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam. Theo đó BHXH Việt Nam
là cơ quan nhà nước thuộc Chính phủ, có chức năng tổ chức thực hiện các chế
độ, chính sách BHXH, BHYT; tổ chức thu, chi chế độ BHTN; quản lý và sử
dụng các quỹ: BHXH, BHTN, BHYT; thanh tra chuyên Ngành việc đóng
BHXH, BHTN, BHYT. Theo quy định của pháp luật, BHXH Việt Nam có 31
nhiệm vụ tập trung trong các hoạt động: Tổ chức thu các khoản đóng BHXH,
BHYT của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người SDLĐ và cá nhân theo quy
định của pháp luật; Tiếp nhận các khoản kinh phí từ ngân sách nhà nước
chuyển sang để chi các chế độ BHXH, BHYT theo quy định của pháp luật;
45
Tiếp nhận hồ sơ, giải quyết các chế độ ốm đau, thai sản; tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp; hưu tr ; tử tuất; dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm đau, thai
sản và sau khi điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Khám, chữa bệnh
theo quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam còn có nhiệm vụ tổ chức chi trả lương
hưu; trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp ốm đau; trợ cấp thai
sản; trợ cấp mất sức lao động; trợ cấp dưỡng sức phục hồi sức khỏe sau ốm
đau, thai sản và sau khi điều trị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; trợ cấp tử
tuất; chi ph khám, chữa bệnh đầy đủ, thuận tiện, đúng thời hạn; tổ chức thu
BHTN của các cơ quan, đơn vị, tổ chức, người SDLĐ và NLĐ; tổ chức chi trợ
cấp TN, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, đóng BHYT cho người được
hưởng trợ cấp TN theo quy định của pháp luật. Đồng thời, BHXH Việt Nam có
trách nhiệm quản lý và sử dụng các ưuỹ BHXH, BHTN, BHYT bao gồm: Quỹ
hưu tr và tử tuất; Quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; Quỹ ốm đau và thai
sản; Quỹ BHTN; Quỹ BHYT theo nguyên tắc tập trung thống nhất, công khai,
minh bạch, đúng mục đ ch theo quy định của pháp luật; tổ chức hạch toán các
Quỹ BHXH, BHTN, BHYT theo quy định của pháp luật...
2.2. Thực trạng thực hiện công khai, minh bạch trong hoạt động của
Ngành Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
2.2.1. Cách thức tổ chức và kết quả thực hiện công khai, minh bạch
trong Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay
Về mặt pháp lý, BHXH Việt Nam là một cơ quan thuộc Chính phủ, có
chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT và quản lý Quỹ BHXH
theo quy định của pháp luật. BHXH Việt Nam chịu sự quản lý nhà nước của
Bộ LĐTB&XH về BHXH, của Bộ Y tế về BHYT, của Bộ Tài chính về chế độ
ch nh sách đối với các quỹ BHXH, BHYT.
46
Như đã đề cập, với tư cách là một cơ quan nhà nước, BHXH Việt Nam
cũng là đối tượng điều chỉnh của các quy định về công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong Luật PCTN 2018 và Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày
01 tháng 7 năm 2019 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật PCTN 2018.
Tuy nhiên, xét từ đặc thù là một Ngành thực hiện chính sách, nên vấn đề
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong Ngành BHXH ở Việt Nam
chủ yếu liên quan đến các quy định về chính sách, chế độ BHXH, BHYT và
quản lý Quỹ BHXH, BHYT. Cụ thể hơn, vấn đề công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam gắn nhiều nhất
với các nội dung sau đây:
- Điều kiện, quyền và nghĩa vụ của đối tượng tham gia, thụ hưởng chính
sách BHXH, BHYT.
- Quy trình TTHC, quy trình giải quyết công việc, thành phần hồ sơ
đăng ký tham gia đóng BHXH, BHYT và đề nghị giải quyết hưởng các chế độ
BHXH, BHYT.
- Việc thực hiện chính sách, pháp luật và quản lý quỹ BHXH, BHYT.
Để công khai, minh bạch trong hoạt động quản lý, tạo sự thuận lợi
trong giải quyết công việc cũng như niềm tin của người tham gia và thụ
hưởng chính sách BHXH, BHYT, trong vài năm gần đây, BHXH Việt Nam
đã thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, quyết liệt, trong đó tập trung vào
một số điểm chính sau:
Thứ nhất: Cải cách và công khai các TTHC liên quan đến BHXH, BHTYT
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nâng tầm chỉ số cải cách hành
chính, từ nhiều năm nay, BHXH Việt Nam luôn xác định cải cách TTHC là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của toàn Ngành, được thực hiện thường
xuyên, quyết liệt nhằm cắt giảm thời gian, chi ph cho doanh nghiệp và người dân.
47
Với nhiều giải pháp đồng bộ được chỉ đạo thực hiện quyết liệt, số lượng
thủ tục trong lĩnh vực BHXH đã giảm đáng kể. Những TTHC đã rút gọn được
cập nhật lên CSDL quốc gia về TTHC, được niêm yết và thông báo công khai,
giúp các tổ chức, cá nhân dễ dàng giải quyết công việc. Cụ thể, từ năm 2015
đến năm 2019, số lượng TTHC của Ngành BHXH đã giảm từ 115 xuống còn
27 TTHC (giảm trên 75%). Chỉ t nh riêng năm 2017 đã giảm từ 32 xuống còn
28 TTHC; rút ngắn thời hạn cấp sổ BHXH từ 20 ngày, thẻ BHYT từ 7 ngày
xuống còn 3 ngày và 1 ngày đối với trường hợp cấp cứu, chuyển công tác hoặc
không thay đổi thông tin…Số giờ thực hiện TTHC từ 335 giờ giảm xuống còn
49 giờ (năm 2018) và 45 giờ (năm 2019). Từ năm 2018 đến nay, số biểu mẫu
liên quan đến việc thực hiện các thủ tục cũng giảm được 24%; số tiêu thức
giảm 29%; số quy trình thao tác thực hiện 12% và số thành phần hồ sơ giảm
49% [3, tr.05] (xem biểu đồ sau):
400
350
300
250
200
150
100
50
0
Năm 2015
Năm 2016
Năm 2017
Năm 2018
Năm 2019
Bộ TTHC
Số giờ thực hiện TTHC
Biểu đồ 1: Kết quả cải cách TTHC của BHXH Việt Nam giai đoạn 2015 -2019
(Nguồn: Vụ Pháp chế - BHXH Việt Nam)
Bên cạnh đó, BHXH Việt Nam cũng đã chủ động thay đổi những hình
thức tiếp nhận hồ sơ phù hợp yêu cầu và điều kiện của xã hội, cụ thể như:
Thực hiện qua giao dịch điện tử, giao dịch tại trụ sở cơ quan BHXH, giao dịch
48
qua dịch vụ bưu ch nh công ch. Việc thực hiện giao dịch điện tử trong tất cả
các khâu từ thu, nộp đến quản lý chi, trả nên số lần thực hiện giao dịch điện tử
giảm từ 12 lần/năm xuống còn 1 lần/năm. Ðến nay, BHXH Việt Nam đã cung
cấp 19 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 4 trong số 27 TTHC [3, tr.05]...;
Việc cập nhật, công bố, công khai TTHC được thực hiện theo đúng quy
định, tất cả các TTHC đều được niêm yết công khai tại trụ sở BHXH cấp tỉnh,
BHXH cấp huyện; thực hiện công bố công khai danh mục các TTHC trên Cổng
Thông tin điện tử của BHXH Việt Nam, Trang tin điện tử của BHXH các tỉnh.
Đồng thời, cập nhật lên CSDL Quốc gia về TTHC, đảm bảo cho các tổ chức, cá
nhân có thể dễ dàng tiếp cận, thuận tiện khi cần giải quyết công việc.
Gần đây, trong Danh mục TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của các
cơ quan trung ương được tổ chức theo Ngành dọc đóng tại địa phương đưa ra
tiếp nhận tại Trung tâm phục vụ hành chính công cấp tỉnh, Bộ phận tiếp nhận
và trả kết quả giải quyết TTHC cấp huyện, xã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt năm 2019 có 09 TTHC thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH Việt
Nam được đưa ra tiếp nhận [ 46 ]
Đặc biệt, ngay sau khi Cổng Dịch vụ công quốc gia chính thức đi vào
vận hành, BHXH Việt Nam đã phối hợp với Văn phòng Ch nh phủ và các đơn
vị liên quan thực hiện nâng cấp hệ thống Giao dịch điện tử BHXH t ch hợp với
Cổng Dịch vụ công quốc gia để thực hiện liên thông cấp lại thẻ BHYT do
hỏng, mất. Cấp lại thẻ BHYT do hỏng, mất là một trong 08 dịch vụ công được
tích hợp trên Cổng Dịch vụ công quốc gia, người dân có thể thực hiện ngay
dịch vụ này ngay từ chiều 9/12/2019 (thời điểm khai trương, ch nh thức đi vào
hoạt động của Cổng Dịch vụ công quốc gia). Đồng thời, CSDL chuyên Ngành
BHXH đã được chia sẻ với hệ thống thông tin đăng ký và quản lý hộ tịch nhằm
phục vụ đăng ký khai sinh, cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi, góp phần
giảm đáng kể số lượng giấy tờ, thủ tục và chi phí.
49
Việc triển khai, cung cấp các dịch vụ công trực tuyến tạo điều kiện
thuận lợi, đáp ứng nhu cầu thực tế cho tổ chức, công dân trong việc thực hiện
các TTHC BHXH, BHYT trên môi trường điện tử mọi lúc, mọi nơi, tạo ra một
phương thức giao dịch hiện đại, minh bạch giữa Ngành BHXH và các tổ chức, cá
nhân, phục vụ hiệu quả công tác cải cách hành chính của Ngành BHXH.
Việc cải cách và công khai các TTHC giúp Ngành BHXH nâng cao chất
lượng phục vụ, kiểm soát được tình trạng gian lận khi giải quyết hưởng các chế
độ BHXH, thanh toán chế độ BHYT. Đồng thời, thông qua đó người dân có
thể giám sát, kiểm tra và phản ánh những vấn đề còn tồn tại, vướng mắc trong
hoạt động nghiệp vụ liên quan đến BHXH, BHYT giúp nhà quản lý có góc
nhìn toàn diện, đa chiều, từ đó đưa ra các giải pháp điều chỉnh phù hợp nhằm nâng
cao hiệu quả trong công tác quản lý và hoạt động nghiệp vụ của Ngành BHXH.
Thứ hai: Công khai, minh bạch việc thực hiện nghiệp vụ về BHXH, BHYT
Với mục tiêu minh bạch trong từng khâu nghiệp vụ, người dân, doanh
nghiệp có thể theo dõi, giám sát quá trình giải quyết hồ sơ thủ tục khi giao dịch
với cơ quan BHXH. Từ năm 2015, sau khi có Quyết định số 08/2015/QĐ-TTg
ngày 09/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ về th điểm về giao dịch điện tử
trong việc thực hiện thủ tục tham gia BHXH, BHYT, BHTN và đề nghị cấp sổ
BHXH, thẻ BHYT, BHXH Việt Nam đã ban hành các văn bản chỉ đạo BHXH
các tỉnh, thành phố, hướng dẫn các tổ chức, đơn vị có liên quan, đồng thời
chuẩn bị các điều kiện thực hiện về cơ sở hạ tầng CNTT và phần mềm giao
dịch điện tử (lắp đặt hệ thống máy chủ, máy trạm ở trung ương và 63 BHXH
tỉnh, thành phố; kết nối liên thông hệ thống mạng WAN thông suốt đường
truyền từ BHXH Việt Nam xuống BHXH tỉnh; thiết lập Cổng thông tin BHXH
Việt Nam và kết nối với các cổng giao dịch điện tử của các nhà WAN; triển
khai các phần mềm nghiệp vụ để liên thông với phần mềm giao dịch điện tử:
Kê khai BHXH, Tiếp nhận và quản lý hồ sơ và Cổng thông tin điện tử) [12,
50
tr.46]. Về công tác đào tạo, tập huấn: 100% công chức, viên chức BHXH các
tỉnh, thành phố và toàn bộ các đơn vị đang tham gia bảo hiểm được tập huấn
về quy trình, thủ tục tiếp nhận hồ sơ, giải quyết, trả kết quả trong giao dịch
điện tử và quy chế sử dụng chữ ký số trong giao dịch điện tử của Ngành
BHXH [12,tr.46]. Đến nay BHXH Việt Nam đã triển khai thực hiện giao dịch
điện tử toàn diện trên tất cả các khâu nghiệp vụ, đồng thời đã ban hành văn bản
hướng dẫn quy trình thực hiện giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh vực: thu,
cấp sổ BHXH; thẻ BHYT; giải quyết các chế độ BHXH [10].
Giao dịch điện tử được triển khai là một bước tiến mới trong công cuộc
cải cách TTHC lĩnh vực BHXH, BHTN, BHYT. Thông qua giao dịch điện tử,
tất cả quy trình tiếp nhận, giải quyết thủ tục về BHXH, BHYT, BHTN đều
được thực hiện qua hệ thống mạng, qua đó, tổ chức, doanh nghiệp có thể trực
tiếp theo dõi, giám sát quá trình giải quyết hồ sơ của cơ quan BHXH; đồng
thời giảm tối đa phiền hà, thời gian, chi ph thực hiện TTHC cho đơn vị SDLĐ.
Đây là một trong những yếu tố góp phần minh bạch hóa hoạt động quản lý của
Ngành BHXH (xem bảng sau):
Bảng 1: Kết quả tiếp nhận giải quyết các chế độ BHXH, BHYT thông qua
giao dịch điện tử của toàn Ngành BHXH trong giai đoạn 2016 -2019
STT
Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019
Lĩnh vực giải quyết Công văn
sách
2.663.681
2.888.753
3.069.751
9.257.354
1
sách
38.617
57.673
85.785
1.385.823
2
BHXH,
15.048.539 17.057.880 19.199.300
62.370.702
3
493.225
70.395
68.905
42.934
4
7.945.921
7.578.823
8.332.352
6.367.133
5
Chính BHXH Chính BHYT Thu BHYT, BHTN Chi trả các chế độ BHXH Cấp sổ BHXH, thẻ BHYT
(Nguồn: Vụ Pháp chế - BHXH Việt Nam)
Năm 2016, hệ thống thông tin giám định BHYT trực tuyến chính thức
51
tiếp nhận hồ sơ đề nghị thanh toán BHYT từ các cơ sở khám chữa bệnh BHYT
trên phạm vi toàn quốc. Hệ thống thông tin giám định BHYT đã góp phần
quan trọng trong việc kiểm soát, giám sát thực hiện dịch vụ của các cơ sở y tế,
người tham gia BHYT và cán bộ thực hiện công tác giám định BHYT của
Ngành BHXH. Đây là công cụ hỗ trợ đắc lực dùng để giám sát, cảnh báo
những vấn đề bất thường; kịp thời ngăn ngừa tình trạng trục lợi, lạm dụng quỹ
BHYT; minh bạch, tiết kiệm chi phí khám chữa bệnh cho người dân; tiết kiệm
thời gian, nhân lực..(xem bảng sau)
Bảng 2: Kết quả tiếp nhận hồ sơ hƣởng chế độ BHYT và liên thông dữ
liệu trên cổng thông tin giám định BHYT của Ngành BHXH
giai đoạn 2016 -2019
STT Năm HS tiếp nhận (triệu lượt) Tỷ lệ liên thông dữ liệu (%) Số tiền thanh toán BHYT (tỷ đồng)
1 Năm 2016 156,2 76.567 91%
2 Năm 2017 168,9 89.925 95%
3 Năm 2018 176,5 98.116 95,12%
4 Năm 2019 187,5 101.357 99,8%
(Nguồn: Trung tâm Giám định BHYT và Thanh toán đa tuyến - BHXH Việt Nam)
Cùng với đó, từ ngày 01/01/2017, BHXH Việt Nam đã triển khai Hệ
thống Một cửa điện tử tập trung trên cơ sở phần mềm “Tiếp nhận và quản lý hồ
sơ”. Qua hệ thống này có thể theo dõi, giám sát tình trạng giải quyết hồ sơ và
kịp thời đôn đốc tiến độ giải quyết TTHC, đảm bảo việc thực hiện TTHC được
công khai, minh bạch, không để xảy ra tình trạng chậm muộn hoặc để tồn đọng
hồ sơ tại BHXH các cấp.
52
Từ ngày 01/8/2017, Ngành BHXH triển khai thực hiện cấp mã số
BHXH mới cho người tham gia BHXH trên cơ sở đồng bộ dữ liệu với thông
tin mã hộ gia đình. Đây là mã số định danh cá nhân duy nhất của người tham
gia do cơ quan BHXH cấp để ghi trên sổ BHXH, thẻ BHYT, giúp quản lý
xuyên suốt quá trình tham gia đóng, hưởng chế độ BHXH, BHYT, kiểm soát
việc trốn đóng BHXH, BHYT của các đơn vị SDLĐ.
Sau thời gian triển khai việc cấp mã số BHXH đã mang lại nhiều lợi ch
không chỉ cho Ngành BHXH, mà còn cho cả người tham gia và thụ hưởng các
chế độ BHXH, BHYT, BHTN; cũng như lợi ch cho đơn vị SDLĐ. Cụ thể:
Đối với người tham gia và hưởng các chế độ BHXH, BHYT, BHTN: chỉ
cần cung cấp mã số BHXH khi thực hiện các giao dịch đóng, hưởng các chế độ
BHXH, BHYT, BHTN là có thể tra cứu trực tuyến quá trình đóng, hưởng các
chế độ BHXH, BHYT, BHTN thông qua mã số BHXH trên Cổng thông tin
điện tử Ngành.
Đối với đơn vị SDLĐ, giúp giảm thời gian cho việc kê khai, cập nhật
thông tin của NLĐ khi giải quyết các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ.
Đối với Ngành BHXH, giúp quản lý chặt chẽ quá trình đóng, hưởng chế
độ BHXH, BHYT của người tham gia và hưởng các chế độ BHXH, BHYT,
BHTN.
Dự kiến trong thời gian tới, BHXH Việt Nam sẽ đẩy mạnh thanh toán
điện tử và đảm bảo các điều kiện để thực hiện dịch vụ công trực tuyến cấp độ
4. Trong đó, xây dựng Hệ thống thu nộp, chi trả BHXH điện tử trên nền tảng
áp dụng phương thức thanh toán điện tử trực tuyến công nghệ tiên tiến, hiện
đại theo hướng tự động hóa, góp phần tăng tốc độ xử lý giao dịch, hiện đại hóa
công tác thanh toán của Ngành BHXH, đồng thời nâng cao năng lực cung cấp
dịch vụ công trực tuyến của Ngành BHXH.
Thứ ba: Minh bạch trong quản lý điều hành
53
Tháng 4/2017, BHXH Việt Nam triển khai “Cổng thông tin điện tử của
BHXH Việt Nam” bao gồm cả phiên bản tiếng Anh. Với chức năng là kênh
thông tin chính thống và duy nhất của BHXH Việt Nam, Cổng thông tin có
nhiệm vụ cung cấp các thông tin về hoạt động chỉ đạo, điều hành của lãnh
đạo Ngành cũng như phản ánh một cách kịp thời, toàn diện hoạt động của
Ngành trong việc tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về BHXH, BHYT;
tăng tương tác với các tổ chức quốc tế trong lĩnh vực an sinh xã hội, người
nước ngoài làm việc tại Việt Nam và người Việt Nam sinh sống, làm việc tại
nước ngoài, góp phần xây dựng nền tảng của Chính phủ điện tử, nâng cao
tính minh bạch thông tin.
Thứ tư: Ứng dụng CNTT trong hoạt động quản lý nghiệp vụ
Công tác ứng dụng CNTT vào các hoạt động quản lý, nghiệp vụ được
Ngành BHXH đặc biệt quan tâm, chú trọng. Đó là bởi đây là một trong những
nhiệm vụ quan trọng, là điều kiện tiên quyết cho việc đổi mới phương thức
hoạt động và hiện đại hóa Ngành BHXH hướng tới công khai, minh bạch toàn diện.
Trên tinh thần đó, tháng 4/2016, BHXH Việt Nam ban hành Kế hoạch
ứng dụng CNTT trong hoạt động của Ngành giai đoạn 2016 - 2020 nhằm tin
học hóa toàn diện trong các hoạt động quản lý và nghiệp vụ của Ngành ở tất cả
các lĩnh vực; đồng thời liên thông dữ liệu với các Bộ, Ngành và các cơ quan
liên quan để thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH [13]
Trong thời gian qua, nhiều hoạt động phục vụ công tác quản lý, hiện đại
hóa hoạt động hệ thống Ngành BHXH được triển khai quyết liệt và có hiệu quả.
Hệ thống CNTT của BHXH được triển khai từ BHXH Việt Nam tới BHXH 63
tỉnh, thành phố, 709 huyện; triển khai thực hiện giao dịch điện tử trên tất cả các
lĩnh vực: thu, cấp sổ BHXH; thẻ BHYT; giải quyết các chế độ BHXH, BHYT,
BHTN; giám định và thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT [07]. Ngành
BHXH đã xây dựng, đưa vào sử dụng hệ thống phần mềm nghiệp vụ với mục
54
tiêu tin học hóa toàn diện hoạt động nghiệp vụ của Ngành, thống nhất từ Trung
ương đến địa phương nhằm công khai, minh bạch hoạt động của cơ quan BHXH
trên môi trường mạng, nâng cao năng lực hiệu quả phục vụ người dân và đơn vị
SDLĐ, bao gồm các phần mềm: Lưu trữ hồ sơ điện tử Ngành BHXH để số hóa
tài liệu lưu trữ của Ngành; Thu và quản lý sổ thẻ; Kế toán tập trung; Xét duyệt
chính sách (liên thông dữ liệu với phần mềm Thu và quản lý sổ thẻ và phần
mềm Kế toán tập trung nên hạn chế được rất nhiều trường hợp trục lợi quỹ
BHXH); Quản lý đầu tư quỹ (liên thông dữ liệu với phần mềm thu và quản lý sổ
thẻ, phần mềm kế toán tập trung); Quản lý đấu thầu thuốc tập trung; Phần mềm
giao dịch điện tử trên tất cả các lĩnh vực thu, cấp sổ BHXH, thẻ BHYT, giải
quyết chế độ BHXH, BHTN; Hệ thống một cửa điện tử tập trung trên cơ sở
phần mềm “Tiếp nhận và quản lý hồ sơ”; Hệ thống quản lý văn bản và điều
hành; Hệ thống thông tin giám định BHYT [10 ]. Đặc biệt, tháng 8/2019,
BHXH Việt Nam chính thức đưa và hoạt động Phần mềm quản lý công tác
thanh tra, kiểm tra phiên bản 1.0 nhằm hiện đại hóa công tác quản lý, giảm tải sử
dụng văn bản giấy và sổ sách ghi chép tay; tiết kiệm thời gian cho cán bộ trong
công tác báo cáo, tổng hợp; hỗ trợ các tiện ch để nâng cao hiệu quả công tác
thanh tra, kiểm tra, đồng thời công tác quản lý hoạt động thanh tra, kiểm tra
được toàn diện, bao quát và đồng bộ hơn hạn chế được những tiêu cực có thể
phát sinh trong quá trình thanh tra, kiểm tra…[23]
Từ tháng 04/2019, dịch vụ tin nhắn thông báo, tra cứu quá trình đóng,
hưởng, giải quyết hồ sơ BHXH, BHYT, BHTN trong Hệ thống tương tác đa
phương tiện giữa người dân, doanh nghiệp với cơ quan BHXH ch nh thức đi vào
hoạt động. Hệ thống tương tác đa phương tiện của Ngành BHXH có thể gửi
thông báo tới đại diện doanh nghiệp sau khi doanh nghiệp nộp tiền tham gia
BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ; Tự động thông báo ngừng đóng BHXH đến
NLĐ khi doanh nghiệp báo giảm, không tiếp tục tham gia BHXH cho NLĐ; Gửi
55
tin nhắn thông báo cho đơn vị/cá nhân nộp hồ sơ cho cơ quan BHXH và khi cơ
quan BHXH giải quyết xong hồ sơ; Thông báo cho người tham gia BHXH tự
nguyện khi phương thức đóng đã đăng ký gần hết hạn; Thông báo cho người tham
gia BHYT hộ gia đình trước khi thẻ BHYT hết giá trị sử dụng 30 ngày [24].
Bên cạnh đó, để phục vụ người dân được tốt hơn, BHXH Việt Nam cũng
đã triển khai hệ thống tương tác đa phương tiện với tám dịch vụ, gồm: Gọi
điện thoại (Call Center); ứng dụng tr tuệ nhân tạo (chatbot); trang mạng xã hội
(fanpage); chuyên trang BHXH với tổ chức, cá nhân; thanh toán điện tử; ứng
dụng qua di động; tin nhắn thương hiệu; đánh giá sự hài lòng [10]. Ðây là hệ
thống góp phần nâng cao khả năng hỗ trợ người dân và tổ chức khi tương tác
với cơ quan BHXH, tạo thuận tiện trong việc nắm bắt quá trình tham gia
BHXH của cá nhân, về thẻ BHYT, hồ sơ giải quyết chế độ, ch nh sách. Đồng
thời, kịp thời trao đổi giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá trình
Đặc biệt, hiện nay, Ngành BHXH đã hoàn thành việc xây dựng CSDL
thực hiện chế độ, chính sách về BHXH, BHYT.
quốc gia về bảo hiểm đang quản lý thông tin của hơn 94 triệu người dân với 6
thông tin cơ bản, trong đó có 82 triệu hồ sơ của người tham gia BHYT [ 10 ].
CSDL này đã sẵn sàng tiến tới tích hợp, đồng bộ hóa với CSDL dân cư quốc
gia. Trong 6 trụ cột mà CSDL quốc gia về an sinh xã hội hướng tới thì CSDL
quốc gia về bảo hiểm đã chứa 3 trụ cột là BHXH, BHYT, BHTN. CSDL quốc
gia về bảo hiểm là CSDL sơ cấp quan trọng giúp cung cấp thông tin đầu vào
cho CSDL quốc gia về an sinh xã hội. CSDL quốc gia có liên quan phải lấy
người dân làm trung tâm, hướng tới mục tiêu là sự hài lòng của cá nhân, tổ
chức. CSDL quốc gia về bảo hiểm có vai trò tạo nền tảng phát triển Chính phủ
điện tử, thông qua cung cấp các dịch vụ dữ liệu dùng chung cho các hệ thống
thông tin trong cơ quan nhà nước, để kết nối khai thác, sử dụng, phục vụ mục
tiêu cải cách hành ch nh và đơn giản hóa TTHC cho người dân và doanh nghiệp.
56
Qua công tác đánh giá, xếp hạng mức độ ứng dụng CNTT của cơ quan
nhà nước đối với các cơ quan thuộc Ch nh phủ của năm 2017, 2018 với 05
hạng mục là: (1) Hạ tầng kỹ thuật CNTT; (2) Ứng dụng CNTT trong hoạt động
của cơ quan; (3) Trang/Cổng thông tin điện tử (Cung cấp, cập nhật thông tin;
Các chức năng hỗ trợ trên trang/cổng thông tin điện tử); (4) Cơ chế, ch nh sách
và quy định cho ứng dụng CNTT và (5) Nhân lực cho ứng dụng CNTT. 02
năm liên tiếp Bảo hiểm Việt Nam được đánh giá đứng đầu ở 04 hạng mục: Hạ
tầng kỹ thuật CNTT; Ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan;
Trang/Cổng thông tin điện tử (Cung cấp, cập nhật thông tin; Các chức năng hỗ
trợ trên trang/cổng thông tin điện tử) và Nhân lực cho ứng dụng CNTT. Cụ thể,
xem các bảng xếp hạng dưới đây [28]:
Bảng 3: Chỉ số và xếp hạng tổng thể mức độ ứng dụng công nghệ
thông tin của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
TT
Cơ quan thuộc Chính phủ
Năm 2018
Năm 2017
1 Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
01 (0,857)
01 (0,814)
2 Thông tấn xã Việt Nam
02 (0,647)
03 (0,615)
3 Đài Truyền hình Việt Nam
03 (0,579)
02 (0,646)
4 Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
04 (0,508)
04 (0,565)
5 Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam
05 (0,476)
06 (0,436)
6 Đài Tiếng nói Việt Nam
06 (0,446)
05 (0,469)
7 Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Ch Minh
07 (0,318)
-
(Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông – Công bố kết quả đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của cơ quan thuộc Chính phủ) Bảng 4: Chỉ số và xếp hạng hạng mục Hạ tầng kỹ thuật CNTT của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
Cơ quan thuộc Chính phủ
Năm 2018
Năm 2017
TT
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
01 (0,850)
01 (0,925)
1
Thông tấn xã Việt Nam
02 (0,725)
02 (0,754)
2
3 Đài Truyền hình Việt Nam
03 (0,576)
03 (0,603)
57
TT
Cơ quan thuộc Chính phủ
Năm 2018
Năm 2017
4
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Ch Minh
04 (0,460)
-
5 Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam
05 (0,385)
05 (0,484)
6 Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
06 (0,320)
04 (0,488)
7 Đài Tiếng nói Việt Nam
07 (0,301)
06 (0,478)
(Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông – Công bố kết quả đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của cơ quan thuộc Chính phủ) Bảng 5: Chỉ số và xếp hạng hạng mục Ứng dụng CNTT trong hoạt động của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
TT
Cơ quan thuộc Chính phủ
Năm 2018
Năm 2017
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
01 (0,799)
03 (0,677)
1
Đài Truyền hình Việt Nam
02 (0,647)
01 (0,761)
2
Thông tấn xã Việt Nam
03 (0,608)
04 (0,586)
3
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
04 (0,558)
02 (0,747)
4
Đài Tiếng nói Việt Nam
05 (0,496)
05 (0,441)
5
Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam
06 (0,376)
06 (0,310)
6
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Ch Minh
07 (0,192)
-
7
(Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông – Công bố kết quả đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của cơ quan thuộc Chính phủ) Bảng 6: Chỉ số và xếp hạng hạng mục Trang/Cổng thông tin điện tử của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
Địa chỉ Website/Portal
TT
Chỉ số năm 2018
Chỉ số năm 2017
Cơ quan thuộc Chính phủ Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
www.baohiemxahoi.gov.vn
01 (0,940)
01 (0,890)
1
www.vass.gov.vn
02 (0,593)
03 (0,538)
2
Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam
www.vass.gov.vn
03 (0,585)
02 (0,560)
3
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
Đài Tiếng nói Việt Nam
vov.vn
04 (0,435)
05 (0,390)
4
Thông tấn xã Việt Nam
vnanet.vn
05 (0,430)
08 (0,240)
5
www.bqllang.gov.vn
06 (0,398)
07 (0,273)
6
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh
Đài Truyền hình Việt Nam
www.vtv.vn
07 (0,260)
06 (0,310)
7
58
(Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông – Công bố kết quả đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của cơ quan thuộc Chính phủ) Bảng 7: Chỉ số và xếp hạng hạng mục Nguồn nhân lực cho ứng dụng CNTT của các cơ quan thuộc Chính phủ Việt Nam
TT
Cơ quan thuộc Chính phủ
Năm 2018
Năm 2017
1
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam
01 (1,000)
01 (0,826)
1 Viện Hàn lâm Khoa học và Xã hội Việt Nam
01 (1,000)
07 (0,421)
3 Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
03 (0,750)
06 (0,465)
4
Thông tấn xã Việt Nam
04 (0,650)
03 (0,670)
5 Đài Tiếng nói Việt Nam
05 (0,550)
04 (0,576)
5 Đài Truyền hình Việt Nam
05 (0,550)
02 (0,728)
7
Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Ch Minh
07 (0,250)
-
(Nguồn: Bộ Thông tin và Truyền thông – Công bố kết quả đánh giá mức độ ứng dụng CNTT của cơ quan thuộc Chính phủ)
Xét tổng quát, việc triển khai ứng dụng CNTT đã từng bước hiện đại
hóa hoạt động của Ngành BHXH, đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện
tử trong thời kỳ Cách mạng công nghệ 4.0. Đến nay, công tác này đã đạt được
các kết quả ấn tượng như: Xây dựng được một hệ thống chính phủ điện tử
thông suốt trong toàn Ngành; Hoàn thành việc cấp mã số định danh BHXH cho
94 triệu người dân, trong đó có gần 86 triệu người tham gia BHYT; đã cung
cấp 19 dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,4; Hệ thống tổng hợp và phân tích dữ
liệu tập trung Ngành BHXH, là nền tảng hình thành CSDL quốc gia về bảo
hiểm; Hệ thống thông tin giám định BHYT kết nối, liên thông giữa cơ quan
BHXH với gần 100% cơ sở KCB BHYT trên phạm vi toàn quốc;… Đặc biệt,
trong năm 2019, Ngành BHXH đã phối hợp với Bộ TT&TT và Bộ Tư pháp
chính thức khai trương CSDL chuyên Ngành BHXH và kết nối hệ thống thông
tin quản lý hộ tịch qua Trục dữ liệu quốc gia (NGSP) phục vụ liên thông khai
sinh, cấp thẻ BHYT cho trẻ em dưới 6 tuổi.
59
Những chỉ số trên là cơ sở, là nền tảng vững chắc cho quá trình minh
bạch hóa hoạt động của Ngành BHXH, từng bước chuyển đổi phương thức
quản lý từ thủ công sang hiện đại, tác phong làm việc chuyển từ hành chính sang
phục vụ nhằm hài lòng tổ chức và cá nhân tham gia, thụ hưởng BHXH, BHYT.
Đặc biệt, hiện nay Ngành BHXH vừa triển khai dịch vụ nhắn tin tra cứu
quá trình tham gia BHXH, thời hạn sử dụng thẻ BHYT và tra cứu hồ sơ đã
nộp, tình trạng hồ sơ qua đầu số 8079.
Với việc triển khai dịch vụ tin nhắn tra cứu, người dân, NLĐ có thể chủ
động hơn trong việc nắm bắt, cập nhật thông tin quá trình tham gia, thụ hưởng
các ch nh sách BHXH, BHYT; từ đó, t ch cực tham gia phòng, chống các hành
vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, bảo vệ quyền lợi ch nh đáng của
người dân, NLĐ. Cụ thể, với cước ph 1.000 đồng/1 tin nhắn mỗi lần, NLĐ có
thể nhắn tin tra cứu quá trình tham gia BHXH; thời hạn sử dụng thẻ BHYT;
tình trạng hồ sơ... Đây là nỗ lực của Ngành BHXH trong việc ứng dụng CNTT
trong các hoạt động nghiệp vụ của Ngành, hướng đến công khai, minh bạch,
cải cách TTHC.
2.2.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thực
hiện công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của Ngành BHXH ở
Việt Nam hiện nay
Mặc dù việc thực hiện công khai, minh bạch trong tổ chức hoạt động đã
được Ngành BHXH triển khai toàn diện trên tất cả các nội dung, tuy nhiên
thực tế còn chưa đồng đều giữa các địa phương trong toàn quốc, do trình độ,
năng lực cán bộ, tình hình thực tế kết quả từng địa phương khác nhau. Thêm
vào đó, ở một số địa phương có sự khác biệt nhất định về kinh tế, xã hội, văn
hóa nên nhận thức của người dân về ch nh sách pháp luật còn hạn chế.
60
- Xét chung, việc thực hiện công khai, minh bạch ở một số nội dung
của Ngành còn hạn chế do liên quan đến các quy định về “danh mục b mật
nhà nước”.
- Nguyên tắc và yêu cầu công khai, minh bạch trong tổ chức hoạt
động luôn là yếu tố bắt buộc trong các văn bản của Ngành BHXH. Tuy
nhiên, do đặc thù tổ chức và hoạt động, Ngành BHXH hiện vẫn chưa xây
dựng được những quy định riêng về cách thức, nội dung thực hiện công
khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, mà hiện mới chủ yếu thực hiện trên
cơ sở những quy định chung của Luật PCTN năm 2018 và Nghị định số
59/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật.
- Nhìn tổng thể, Ngành BHXH đang trong giai đoạn đầu thực hiện t ch
hợp, số hóa hồ sơ, tài liệu và kết nối thông tin toàn quốc để đảm bảo quyền tiếp
cận thông tin về BHXH, BHTN, BHYT của công dân. Dù vậy, do một số
nguyên nhân nên quá trình cập nhật, cung cấp thông tin trên trên mạng điện tử
toàn quốc vẫn còn một số hạn chế nhất định.
- Mặt khác, một số t cán bộ, viên chức chưa có đầy đủ kiến thức về
công khai, minh bạch, đồng thời chưa thực sự ý thức được tầm quan trọng của
việc thực hiện công khai minh bạch trong quá trình thực hiện nghiệp vụ cũng
như quá trình quản lý.
- Bên cạnh đó, công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện công
khai, minh bạch của Ngành BHXH cũng như của các cơ quan có thẩm quyền
đối với Ngành BHXH còn hạn chế, chủ yếu là lồng ghép trong các nội dung
thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ theo kế hoạch, chưa tổ chức các cuộc kiểm tra
chuyên đề về nội dung này.
Những tồn tại trong việc thực hiện công khai minh bạch chủ yếu là do
một số nguyên nhân sau đây:
61
Thứ nhất, ch nh sách BHXH của nước ta được hình thành và phát triển
cùng với quá trình chuyển đổi mô hình kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi tư duy lý luận,
hay nhận thức về BHXH cần quá trình từng bước hoàn chỉnh; năng lực thiết kế
hệ thống còn hạn chế. Việc hình thành, hoàn thiện ch nh sách BHXH đòi hỏi
thời gian dài trong khi chúng ta mới thực hiện được hơn 20 năm. Vì vậy, việc
xây dựng ch nh sách, pháp luật, thiết kế bộ máy tổ chức thực hiện BHXH còn
chưa đồng bộ, do đó việc công khai minh bạch các khâu trong quá trình quản
lý vẫn còn phải thực hiện từng bước.
Thứ hai, đặc trưng cơ cấu lao động ở nước ta còn nhiều lao động làm
việc ở khu vực không có quan hệ lao động, thu nhập của số đông người dân
còn thấp và không ổn định, áp lực chi tiêu trước mắt lớn, nên mạng lưới an
sinh xã hội phi ch nh thức dựa trên mô hình gia đình truyền thống còn phổ
biến. Do đó, một số người dân chưa thực sự quan tâm tham gia BHXH, vì vậy,
việc tiếp cận và truyền tải thông tin ch nh sách BHXH, BHYT cũng như cải
cách thủ thục hành ch nh về BHXH, BHYT đến người dân trong một số trường
hợp chưa đạt được hiệu quả.
Thứ ba, Công tác thông tin, truyền thông những năm gần đây đã được
chú trọng. Tuy nhiên, nhận thức về BHXH của các chủ thể tham gia BHXH
còn nhiều hạn chế, nhất là ý thức về quyền lợi, trách nhiệm đóng góp BHXH
của người SDLĐ và NLĐ.
2.3. Thực trạng thực hiện trách nhiệm giải trình trong hoạt động
của Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Cách thức tổ chức và kết quả thực hiện trách nhiệm giải trình
trong tổ chức và hoạt động của Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay
Hàng năm, định kỳ Ngành BHXH tham gia và trả lời chất vấn của đại
biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND tại các phiên họp thường kỳ hoặc đột xuất của
62
Quốc Hội liên quan đến việc bảo đảm quyền và lợi ch BHXH, BHYT cho
công dân. Bên cạnh đó, lãnh đạo Ngành cũng tham gia đoàn tiếp xúc cử tri của
các đại biểu Quốc Hội, đại biểu HĐND, UBND tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam để trả lời những vướng mắc về chế độ ch nh sách BHXH, BHYT của các
cử tri, đồng thời ghi nhận, tổng hợp những ý kiến đề xuất, nguyện vọng của cử
tri liên quan đến ch nh sách BHXH, BHYT, chẳng hạn như một số vấn đề liên
quan đến chuyển tuyến KCB BHYT, giải pháp xử lý nợ BHXH đối với những
đơn vị, doanh nghiệp dừng hoạt động, chủ doanh nghiệp bỏ trốn, doanh nghiệp
không có khả năng nộp BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ; giải pháp xử lý
doanh nghiệp thành lập, có mã số thuế, có SDLĐ nhưng không tham gia
BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ. Những ý kiến qua tiếp xúc cử tri đều được
BHXH Việt Nam tập hợp để báo cáo Ch nh phủ, Quốc Hội xem xét điều chỉnh
ch nh sách cho phù hợp với tình hình thực tế.
Ngoài việc tham gia trực tiếp, Cơ quan BHXH thường xuyên ban hành
văn bản trả lời ý kiến chất vấn của Đại biểu Quốc Hội, Đại biểu HĐND tỉnh về
những vấn đề liên quan đến chi phí khám, chữa bệnh BHYT, việc sử dụng
Quỹ, việc cấp kinh ph KCB BHYT cho các cơ sở KCB BHYT.
Theo cơ chế chỉ đạo, giám sát BHXH Việt Nam thường xuyên, định kỳ
báo cáo Hội đồng quản lý BHXH Việt Nam về những vấn đề liên quan đến
thực hiện kế hoạch thu, chi, quản lý; việc mở rộng phát triển đối tượng tham
gia BHXH, BHYT, BHTN, tình hình quản lý và sử dụng các Quỹ BHXH,
BHTN, BHYT trước khi BHXH Việt Nam trình cơ quan có thẩm quyền.
Một trong những hoạt động có t nh tương tác đa chiều với người dân,
với xã hội trong quá trình quản lý nhà nước là hoạt động tiếp công dân và giải
quyết khiếu nại tố cáo. Ngành BHXH đã thực hiện nghiêm túc việc tổ chức,
tiếp nhận và giải quyết phản ánh, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của người dân
liên quan đến chế độ ch nh sách BHXH, BHTN, BHYT. Đây cũng ch nh là
63
phương thức thực hiện trách nhiệm giải trình xã hội trong hoạt động quản lý, góp
phần tạo nên cơ chế công khai, minh bạch về ch nh sách BHXH, BHTN BHYT.
Với mục tiêu đảm bảo thực hiện đúng quy trình, thời hạn giải quyết
KNTC, KNPA, đảm bảo đúng quyền lợi của người tham gia, thụ hưởng
BHXH, BHYT, cơ quan BHXH đã tăng cường phối hợp với các cấp, Ngành,
ch nh quyền địa phương tập trung giải quyết đơn KNTC vượt cấp, kéo dài; chú
trọng đối thoại với người KNTC kết hợp với tuyên truyền ch nh sách BHXH,
BHYT, giải th ch, vận động để người KNTC rút đơn KNTC; linh hoạt, khéo
léo để dung hòa lợi ch của người KNTC, KNPA với trách nhiệm quản lý, thực
hiện chế độ, ch nh sách BHXH, BHYT của Ngành.
Kết quả là trong giai đoạn năm 2017 - 2019, toàn Ngành BHXH đã tiếp
34.196 lượt công dân [8, tr.02]. Số lượt tiếp công dân có chiều hướng giảm dần
qua các năm, số lượt tiếp công dân năm 2019 là 9.304 lượt, giảm 4.441 lượt
(tương ứng giảm 47,7%) so với năm 2017 [ 8,tr.02]. Để đạt được kết quả trên,
cơ quan BHXH các cấp đã duy trì tốt việc thường trực tiếp công dân, tổ chức
tốt các buổi tiếp công dân định kỳ của Lãnh đạo BHXH Việt Nam và BHXH
các tỉnh, thành phố; tiếp nhận, hướng dẫn, giải th ch nội dung KNTC, KNPA
của công dân một cách tận tình, thấu đáo nên hạn chế được việc công dân phải đi
lại nhiều lần, tái khiếu, tái tố; góp phần kịp thời đảm bảo quyền lợi ch nh đáng
cho công dân.
Công tác giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo được thực hiện kịp thời,
đúng quy định của pháp luật, góp phần thực hiện tốt các chế độ, chính sách
BHXH, BHYT, BHTN cho NLĐ; công tác tiếp công dân luôn được quan tâm,
chú trọng, mọi khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của công dân liên quan
đến quyền lợi về BHXH, BHYT đều được được trả lời, hướng dẫn, giải thích
tận tình theo đúng quy định của pháp luật (xem bảng sau).
64
Bảng 8: Số liệu tiếp công dân của BHXH Việt Nam giai đoạn 2017 -2019
Nội dung Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Tổng
Số lượt 13.745 11.147 9.304 34.196
Số vụ việc 13.697 11.112 9.284 34.093
Số đoàn đông người 18 18 09 45
(Nguồn: Vụ Thanh tra – Kiểm tra, BHXH Việt Nam)
Bảng 9: Số liệu giải quyết đơn thƣ khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh
của BHXH Việt Nam giai đoạn 2017 - 2019
Nội dung Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019 Tổng
Đơn kỳ trước chuyển sang 84 84 58 84
Đơn tiếp nhận trong kỳ 3.587 3.087 2.918 9.592
Khiếu nại 287 208 200 695
Tố cáo 138 154 145 437
Kiến nghị, phản ánh 3.162 2.725 2.573 8.460
Tổng đơn phải giải quyết 3.671 3.171 2.976 9.676
Đã giải quyết 3.587 3.113 2.899 9.599
Chưa giải quyết 84 58 77 77
(Nguồn: Vụ Thanh tra – Kiểm tra, BHXH Việt Nam)
Bên cạnh đó, Cơ quan BHXH các địa phương thường xuyên tổ chức
đối thoại về chính sách BHXH, BHTN, BHYT với NLĐ, người SDLĐ. Mỗi
năm toàn Ngành tổ chức hơn 10.000 cuộc đối thoại, tọa đàm, phố biến chính
sách, pháp luật về BHXH, BHYT thu hút được sự quan tâm của đông đảo
tầng lớp nhân dân. BHXH Việt Nam cũng định kỳ tổ chức các cuộc giao lưu
trực tuyến, đối thoại trực tuyến về chính sách BHXH, BHYT trên Cổng
65
Thông tin điện tử BHXH Việt Nam và các Cổng/Trang thông tin điện tử của
BHXH các tỉnh, thành phố, qua đó đã phát huy hiệu quả, tạo ra một diễn đàn
hỏi - đáp trực tuyến giữa người dân, NLĐ, đơn vị và doanh nghiệp, giúp
người dân hiểu rõ, hiểu sâu, hiểu rộng về ch nh sách, từ đó triển khai hiệu quả
ch nh sách BHXH, BHYT vào thực tiễn.
Việc tổ chức giao lưu trực tuyến cũng nhằm tăng cường khả năng tương
tác giữa BHXH Việt Nam với người dân, thông tin đến người dân một cách
trực tiếp, kịp thời các vấn đề liên quan đến ch nh sách BHXH, BHYT. Việc
giải đáp kịp thời những khó khăn, vướng mắc của người dân, NLĐ và doanh
nghiệp giúp người tham gia thụ hưởng ch nh sách BHXH, BHYT thấy được
quyền lợi, trách nhiệm của mình khi tham gia BHXH, BHYT, cũng như thấy
được t nh ưu việt của chế độ BHXH, BHYT.
Đặc biệt, BHXH Việt Nam còn thường xuyên tổ chức cung cấp thông tin
cho báo chí về hoạt động của Ngành BHXH thông qua các hình thức sau:
- Hàng tháng, cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí và cập nhật thông
tin trên Trang tin điện tử của BHXH Việt Nam theo quy định tại Nghị định số
43/2011/NĐ-CP ngày 13/6/2011 của Chính phủ quy định về việc cung cấp
thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc cổng
thông tin điện tử của cơ quan nhà nước.
- Tổ chức họp báo. Thời gian họp báo định kỳ do Tổng Giám đốc
quyết định.
- Trường hợp cần thiết, BHXH Việt Nam tổ chức cung cấp thông tin
định kỳ cho báo chí bằng văn bản hoặc thông tin trực tiếp tại các cuộc giao
ban định kỳ do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ TT & TT và Hội Nhà báo
Việt Nam tổ chức.
66
2.3.2. Những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong thực
hiện trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của Ngành Bảo hiểm
Xã hội ở Việt Nam hiện nay
Bên cạnh những ưu điểm, vẫn còn những hạn chế nhất định trong việc
thực hiện trách nhiệm giải trình trong tổ chức và hoạt động của Ngành Bảo
hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay, cụ thể như sau:
- Là một đơn vị đặc thù, thực hiện nhiều trọng trách an sinh xã hội
nhưng BHXH Việt Nam chưa có cơ chế cụ thể rõ ràng cho việc thực hiện trách
nhiệm giải trình của Ngành BHXH. Việc thực hiện trách nhiệm giải trình của
Ngành hiện chủ yếu vẫn thực hiện theo cơ chế chung của các cơ quan quản lý
nhà nước. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ hành lang pháp lý
chung chưa có hướng dẫn cụ thể cho việc thực hiện giải trình của một cơ quan
đặc thù mà không phải là cơ quan quản lý nhà nước nhưng thực hiện nhiệm vụ
gần giống với cơ quan quản lý nhà nước, tuy lĩnh vực hoạt động có sức ảnh hưởng
sâu, rộng trực tiếp đến quyền lợi của các tầng lớp nhân dân như Ngành BHXH.
- Việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ quan BHXH hiện còn
chưa thật sự chủ động, chủ yếu giải trình theo yêu cầu của các cơ quan cấp trên
và theo kiến nghị, phản ánh của người dân hoặc thông qua các buổi cung cấp
thông tin báo chí. Xét từ góc độ xã hội thì trong quá trình quản lý BHXH,
BHTN, BHYT chưa có sự tham gia tích cực của người dân, cơ chế giám sát
của người dân còn chưa chặt chẽ do có nhiều cơ quan tham gia vào quá trình
quản lý nhà nước về BHXH, BHYT như: Hội đồng quản lý, Bộ Tài chính, Bộ
Y tế, Bộ Lao động thương binh & Xã hội…do vậy việc thực hiện trách nhiệm
giải trình hành chính và trách nhiệm giải trình xã hội còn gặp nhiều khó khăn.
- Cuối cùng, hình thức thực hiện trách nhiệm giải trình của Ngành
BHXH đa dạng nhưng chưa sâu, BHXH địa phương cũng đã chủ động thực
hiện trách nhiệm giải trình song còn chưa được thường xuyên.
67
Nguyên nhân của những tồn tại trên xuất phát từ một số yếu tố sau:
Do Ngành BHXH chưa có những văn bản cụ thể hóa việc thực hiện
trách nhiệm giải trình để áp dụng đối với các hoạt động của Ngành mà vẫn
thực hiện cơ chế chung của các cơ quan quản lý nhà nước nên vẫn bị ảnh
hưởng bởi việc một số quy định pháp luật về trách nhiệm giải trình chưa cụ
thể, phù hợp với thực tế trong các văn bản luật và dưới luật.
Bên cạnh nguyên nhân từ một số quy định pháp luật thì còn có các
nguyên nhân khác như:
- Một số người dân chưa ý thức được đầy đủ về trách nhiệm và quyền
yêu cầu giải trình của mình, do đó, chưa có t nh chủ động trong việc nắm bắt
thông tin thông qua cơ chế giải trình, chưa phát huy hết được vai trò giám sát
theo quy định đối với hoạt động của bộ máy nhà nước.
- Ý thức của một bộ phận cán bộ, công chức chưa thực hiện nghiêm
chỉnh quy định về giải trình trong hoạt động công vụ, nhiệm vụ được giao.
68
Tổng kết Chƣơng 2
Trong Chương này, Luận văn đã giới thiệu khát quát về quá trình hình
thành, phát triển và cơ cấu tổ chức hiện tại của Ngành BHXH, đồng thời đánh
giá kết quả thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của Ngành BHXH Việt Nam hiện nay từ hai kh a cạnh nội dung và hình
thức thực hiện. Trên cơ sở đó, đã xác định những ưu điểm, hạn chế và nguyên
nhân của những tồn tại, hạn chế trong thực hiện công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình của Ngành BHXH trong thời gian qua.
Kết quả có được từ Chương 2 là những cơ sở để tác giả đề xuất các quan
điểm giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế trong thực hiện công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình của Ngành BHXH Việt Nam trong thời gian
tới ở Chương 3.
69
CHƢƠNG 3
QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC HIỆN CÔNG KHAI
MINH BẠCH VÀ TRÁCH NHIỆM GIẢI TRÌNH TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA NGÀNH BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Quan điểm tăng cƣờng công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam hiện nay
Để tăng cường thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam hiện nay, cần quán triệt
một số quan điểm sau đây:
Thứ nhất, xem việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình như là yêu cầu sống còn của hoạt động quản trị công trong bối
cảnh mới
Tăng cường công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của các cơ quan công quyền và cơ quan cung cấp dịch vụ công đang là
xu hướng tất yếu của nền quản trị hiện đại. Ở cấp độ quốc gia, Đảng, Nhà nước
Việt Nam đã và đang nỗ lực thực hiện những cam kết phục vụ nhân dân; mở
rộng và kêu gọi sự tham gia tích cực của người dân thực hiện giám sát, phản
biện các hoạt động quản trị của bộ máy cơ quan cung cấp dịch vụ công, trong
đó có Ngành BHXH.
Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động quản trị trở thành
nhiệm vụ quan trọng bậc nhất trong các nỗ lực cải cách của bộ máy cơ quan
cung cấp dịch vụ công ở Việt Nam. Ở tầm vĩ mô, công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trước hết là nhằm bảo đảm bản chất dân chủ của xã hội,
thể hiện quyền của người dân trong việc tham gia quản lý nhà nước, ngoài ra
đây còn là những giải pháp quan trọng để khắc phục tệ quan liêu, tham nhũng,
70
làm trong sạch bộ máy quản lý. Trong khi đó, ở tầm vi mô, mỗi bộ phận, cơ
quan, tổ chức của hệ thống dịch vụ công cần phải xem công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình là điều kiện không thể thiếu để tiếp tục phát triển, mà
có thể xem như là yếu tố quyết định “tồn tại hay không tồn tại” của mỗi cơ
quan, tổ chức đó.
Thứ hai, thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
như là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục trong hoạt động quản trị
Tại BHXH Việt Nam, việc tăng cường công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong hoạt động nghiệp vụ cũng như hoạt động quản trị đã
được xác định rõ trong chương trình hành động hàng năm, và đã chứng minh
tính hiệu quả của cách tiếp cận đó trong việc duy trì các nguyên tắc này một
cách thường xuyên, liên tục.
Theo cách tiếp cận trên, BHXH Việt Nam đã tăng cường được hoạt động
quản lý công tác chi trả các chế độ BHXH, BHYT, đảm bảo chi trả đầy đủ, kịp
thời, đúng chế độ cho người hưởng. Cũng theo cách tiếp cận trên, Ngành đã
thực hiện giải quyết ch nh sách BHXH, BHYT đúng pháp luật, kịp thời, thuận
tiện; hạn chế tình trạng trục lợi quỹ BHXH, BHTN. Đặc biệt, với cách tiếp cận
đó, BHXH Việt Nam đã nâng cao chất lượng công tác giám định, giám sát chặt
chẽ việc thanh toán chi ph khám chữa bệnh BHYT; tăng cường quản lý lĩnh
vực dược và vật tư y tế trong khám chữa bệnh BHYT; đảm bảo quyền lợi của
người tham gia và hạn chế tình trạng bội chi quỹ BHYT.
Thứ ba, triệt để sử dụng CNTT để thực hiện công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình
CNTT đã chứng minh là không thể thiếu, thậm chí là yếu tố quyết định,
để có thể thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình một cách có
hiệu quả.
Kinh nghiệm của BHXH Việt Nam trong thời gian vừa qua là đẩy mạnh
71
ứng dụng CNTT trong việc thực hiện BHXH, BHYT, qua đó giúp đạt được
mục tiêu công khai, minh bạch hoạt động và trách nhiệm giải trình của Ngành
BHXH, nâng cao hiệu lực, hiệu quả phục vụ và sự hài lòng của người dân và
doanh nghiệp.
Thứ tư, thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình gắn
với phát triển nguồn nhân lực hiện đại
Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình gắn với yếu tố con
người. Nếu chỉ có các quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình nhưng đội ngũ cán bộ không muốn hoặc không thể tuân thủ, áp dụng các
quy định đó thì mục tiêu cũng không thể đạt được. Chính vì vậy, để đạt được
mục tiêu bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt
động của cơ quan, tổ chức, cần chú ý đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ phù
hợp, mà cụ thể là những người ủng hộ, sẵn sàng và có khả năng áp dụng các
nguyên tắc, quy định về công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Ở BHXH Việt Nam, quán triệt quan điểm của Đảng và Nhà nước về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, BHXH Việt Nam coi
việc phát triển nguồn nhân lực là nội dung trọng tâm trong Chiến lược phát
triển của Ngành BHXH đến năm 2020. Chiến lược này xác định việc phát triển
nguồn nhân lực phải gắn với đào tạo, coi đầu tư cho đào tạo là đầu tư cho phát
triển. Nội dung đào tạo bao gồm những vấn đề về năng lực, phẩm chất của cán
bộ, công chức, viên chức; mà trong đó sự tận tâm, trung thực, ý thức công
khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong thực thi công vụ.
3.2. Giải pháp tăng cƣờng thực hiện công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành Bảo hiểm Xã hội ở Việt Nam
hiện nay
3.2.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp luật
72
Thứ nhất, xây dựng những văn bản riêng cụ thể về việc thực hiện
công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong Ngành BHXH
Trên cơ sở các quy định chung của pháp luật về công khai minh bạch,
trách nhiệm giải trình của các cơ quan nhà nước, Ngành BHXH cần có những
văn bản hướng dẫn quy trình, nội dung, thời gian, địa điểm, cách thức thực
hiện công khai, minh bạch và phương thức thực hiện giải trình đối với từng
hoạt động nghiệp vụ, hoạt động quản lý liên quan đến BHXH, BHYT. Đây là
nền tảng cơ bản cần thiết để thúc đẩy hoạt động công khai, minh bạch trong
hoạt động của Ngành ngày càng hiệu quả đồng thời góp phần trong việc phòng
chống tham nhũng trong hoạt động công vụ ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, hoàn thiện hệ thống thông tin về TTHC
Hệ thống TTHC hiện nay rất phức tạp, đặc biệt là TTHC trong các lĩnh
vực liên quan đến quyền lợi của người dân như các TTHC về BHXH, BHYT.
Các quy định về TTHC nằm rải rác trong rất nhiều văn bản khiến người dân
gặp khó khăn khi tìm hiểu dẫn đến việc áp dụng không thống nhất. BHXH các
tỉnh, thành phố đã công khai các TTHC, quy trình thực hiện trên trang thông
tin điện tử của BHXH các tỉnh, thành phố để người dân thuận tiện trong việc
tìm hiểu và áp dụng, Ngành BHXH cũng thường xuyên ban hành các văn bản
về việc thay đổi, bãi bỏ hoặc điều chỉnh các TTHC. Tuy nhiên, để hệ thống
hóa toàn bộ các TTHC thì thời gian qua BHXH Việt Nam chưa làm được. Do
đó, trên cơ sở những nội dung đã công khai đến người dân BHXH Việt Nam
cần hoàn thiện và xây dựng một Hệ thống thông tin về TTHC về BHXH,
BHYT và hệ thống này phải được xây dựng và phát triển theo hướng dễ truy
cập, dễ sử dụng, được cập nhật thường xuyên và miễn ph . Hệ thống này được
xây dựng sẽ là minh chứng rõ ràng cho mục tiêu của việc đẩy mạnh cải cách
TTHC là giảm phiền hà cho người dân, doanh nghiệp trong quá trình giải
quyết công việc với cơ quan BHXH, qua đó giúp loại bỏ những lực cản do bộ
73
máy hành ch nh đối với sự phát triển của xã hội nói chung và phát triển kinh tế
nói riêng. Quá trình cải cách TTHC gắn liền với việc đơn giản hóa các thủ tục
và quy trình giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp, cũng như xác
định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước và công khai các bộ
TTHC thuộc các lĩnh vực quản lý nhà nước. Như vậy, quá trình này cũng chính
là việc thực hiện công khai và minh bạch hóa hoạt động hành ch nh. Những kết
quả đạt được sẽ giúp người dân và doanh nghiệp hiểu rõ được các quyền, nghĩa
vụ của mình, cũng như những thông tin khác có liên quan đến quá trình giải
quyết công việc với cơ quan quản lý nhà nước về trình tự, thủ tục thực hiện và
các biện pháp bảo đảm thực hiện quyền, nghĩa vụ. Đồng thời, quá trình này
cũng giúp làm giảm tình trạng “đặc quyền về thông tin” - một hiện tượng cản
trở quá trình công khai và minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức
khi người có thẩm quyền sử dụng những thông tin do mình có hoặc trực tiếp
nắm giữ vì động cơ vụ lợi. Như vậy, cải cách TTHC là tiền đề thúc đẩy quá
trình công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước.
Thứ ba, tiếp tục xây dựng, ban hành và áp dụng các bộ quy tắc ứng
xử, đạo đức nghề nghiệp gắn với bồi thường về tính liêm chính đối với cán
bộ, công chức trong Ngành BHXH
Việc ban hành, công khai và áp dụng các bộ quy tắc ứng xử, đạo đức
nghề nghiệp trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị có ý nghĩa quan trọng nhằm tạo
ra những khuôn mẫu, thước đo đối với cán bộ, công chức trong thi hành công
vụ, nhiệm vụ. Qua đó, người dân và những người xung quanh, bao gồm cả ch nh
những đồng nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức trong cơ quan, tổ chức,
đơn vị có thể giám sát hoạt động của họ. Quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp
cần đưa ra những yêu cầu về mặt thái độ và hành vi của cán bộ, công chức, viên
chức trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ. Đồng thời, các hình thức xử lý trách
nhiệm cũng cần được quy định rõ và tương xứng nhằm đảm bảo việc thực hiện
74
các quy tắc ứng xử, đạo đức nghề nghiệp trên thực tế. Như vậy, khi các quy tắc
ứng xử và đạo đức nghề nghiệp được thực hiện một cách nghiêm túc, sẽ góp
phần tăng cường công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức,
đơn vị.
Bên cạnh đó, việc thường xuyên giáo dục, nâng cao ý thức của cán bộ,
công chức về công khai, minh bạch và t nh liêm ch nh cũng cần được coi
trọng. Mỗi cán bộ, công chức phải coi việc thực hiện công khai, minh bạch
trong khi thi hành công vụ, nhiệm vụ là trách nhiệm của mình. T nh liêm ch nh
thể hiện phẩm chất của mỗi người, song cần được coi như một yêu cầu bắt
buộc đối với cán bộ, công chức - những người là công bộc của nhân dân và
phải gương mẫu trước nhân dân để họ “nói không với tham nhũng” và phát
huy tinh thần trách nhiệm trong đấu tranh với những hành vi hoặc biểu hiện
tiêu cực đó. Như vậy, việc nâng cao t nh liêm ch nh trong đội ngũ cán bộ, công
chức, viên chức sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện và nâng cao hiệu
quả phòng ngừa, phát hiện tham nhũng từ bên trong mỗi cơ quan, tổ chức, đơn
vị. Đồng thời, cần đẩy mạnh thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật về công khai, minh bạch, giáo dục ch nh trị, tư tưởng, đạo đức cho đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức và nhân dân; có ch nh sách truyền thông đúng
đắn, hiệu quả về công khai, minh bạch và tác dụng của nó đối với công tác
phòng, chống tham nhũng; tăng cường phối hợp giữa các cơ quan chức năng
trong việc cung cấp thông tin cho các cơ quan báo ch .
3.2.2. Nhóm giải pháp kỹ thuật
Thứ nhất, xây dựng các đề tài, đề án trong quản lý
Ngành BHXH trong thời gian qua đã trình Ch nh phủ Đề án “Đẩy mạnh
cải cách TTHC, thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 04, đẩy mạnh xây
dựng CSDL quốc gia về BHXH, bảo đảm tính kết nối, chia sẻ dữ liệu với các
CSDL quốc gia có liên quan”.
75
Mặc dù vậy, vẫn cần tiếp tục hoàn thiện CSDL quốc gia về bảo hiểm
theo Quyết định số 714/QĐ-TTg ngày 22/5/2015 của Thủ tướng Chính phủ;
hoàn thiện cơ sở hạ tầng, hệ thống CSDL tập trung, các phần mềm nghiệp vụ
của Ngành; triển khai hiệu quả hệ thống tương tác đa phương tiện với người
dân và doanh nghiệp; mở rộng cung cấp các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3,
4; đẩy mạnh việc giao dịch điện tử; quản lý, sử dụng văn bản điện tử trong
Ngành BHXH và trên trục liên thông của Chính phủ.
Theo đó, phương hướng của Đề án cần là thúc đẩy cung cấp dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4; coi đây là một chỉ số ch nh phản ánh thực chất cải
cách hành ch nh gắn với ứng dụng CNTT lấy người dân làm trung tâm, hướng
tới mục tiêu là sự hài lòng của cá nhân, tổ chức. CSDL quốc gia về bảo hiểm là
tài sản chung được Ch nh phủ, Thủ tướng Ch nh phủ giao BHXH Việt Nam
chủ trì xây dựng, quản lý và vận hành, chứa đựng các thông tin cần thiết về
BHXH, BHTN, BHYT và các thông tin về y tế, an sinh xã hội để thực hiện
ch nh sách Bảo hiểm đồng thời phục vụ quản lý nhà nước của các Ngành liên
quan như y tế, lao động, thương binh - xã hội… CSDLquốc gia về Bảo hiểm
kết nối, chia sẻ hai chiều với CSDL chuyên Ngành, CSDL quốc gia có liên
quan đảm bảo t nh phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của các bộ, Ngành, cơ
quan liên quan. Trường hợp đặc biệt do Thủ tướng Ch nh phủ quyết định.
CSDL quốc gia về Bảo hiểm được triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn, an
ninh mạng. Thông tin trong CSDL quốc gia về Bảo hiểm được chia sẻ với các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền, được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân theo
quy định của pháp luật. Việc thu thập, cập nhật và sử dụng thông tin tuân thủ
pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân.
Để đạt được các mục tiêu trên, Đề án cũng cần xác định rõ các nhóm
nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sẽ được tập trung triển khai thời gian tới.
76
Thứ hai, đẩy mạnh ứng dụng CNTT và kết nối, khai thác các CSDL
của các bộ, Ngành; đẩy mạnh thanh toán điện tử và bảo đảm các điều kiện
để thực hiện dịch vụ công trực tuyến mức độ 4
Cần nghiên cứu rà soát, đơn giản hóa các hồ sơ, quy trình, TTHC gắn
liền với việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT và kết nối, khai thác các CSDL của
các bộ, Ngành. Thực hiện phương án khai thác các CSDL chuyên Ngành,
CSDL quốc gia để thực hiện dịch vụ công.
Rà soát, hoàn thiện cơ sở pháp lý thực hiện phương thức thanh toán điện
tử; trên cơ sở số dịch vụ công của Ngành, BHXH xác định tổng số dịch vụ
công trực tuyến, mức độ của từng dịch vụ công và xây dựng lộ trình thực hiện
dịch vụ công mức độ 4 triển khai trong năm 2020 và năm 2021, nhằm đạt mục
tiêu tối thiểu 70% số dịch vụ công mức độ 4 năm 2020; 85% số dịch vụ công
mức độ 4 năm 2021). BHXH cũng sẽ đẩy mạnh việc tuyên truyền và các giải pháp
vận động, khuyến kh ch người dân thực hiện dịch vụ công trực tuyến, nhận lương
hưu, trợ cấp BHXH qua các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt.
Triển khai các giải pháp bảo đảm điều kiện về cơ sở hạ tầng CNTT; triển
khai giao dịch điện tử đối với cá nhân, tổ chức trên các lĩnh vực BHXH,
BHYT, BHTN bằng nhiều phương tiện trực tuyến khác nhau như Cổng thông
tin điện tử, ứng dụng trên thiết bị thông minh; qua hệ thống tin nhắn đa phương
tiện...; triển khai các dịch vụ công trực tuyến theo từng TTHC; từng bước thực
hiện thanh toán điện tử bắt buộc.
Hoàn thiện Hệ thống thu nộp, chi trả BHXH điện tử trên nền tảng áp
dụng phương thức thanh toán điện tử trực tuyến công nghệ tiên tiến, hiện đại
theo hướng tự động hóa, đa dạng hóa các hình thức thanh toán để phục vụ tổ
chức, cá nhân sử dụng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt trong thu
nộp và chi trả BHXH, BHYT, thanh toán dịch vụ y tế.
77
Hoàn thiện Cổng dịch vụ công của BHXH Việt Nam theo quy định hiện
hành; kết nối, t ch hợp, chia sẻ dữ liệu với Cổng dịch vụ công quốc gia.
Triển khai đánh giá và xác định cấp độ an toàn thông tin cho các hệ
thống thông tin quan trọng của BHXH Việt Nam theo quy định và tổ chức triển
khai việc bảo đảm an toàn thông tin.
Thứ ba, đẩy mạnh xây dựng CSDL quốc gia về Bảo hiểm
Nhóm giải pháp đẩy mạnh xây dựng CSDL về bảo hiểm bao gồm hoàn
thiện cơ sở pháp lý; xây dựng hạ tầng kỹ thuật; tuyên truyền, đào tạo nâng cao
nhận thức về CSDL quốc gia về bảo hiểm.
Xây dựng hạ tầng kỹ thuật gồm có: xây dựng hệ thống CSDL quốc gia
về bảo hiểm theo quy định; kết nối, cung cấp, khai thác CSDL của các bộ,
Ngành, địa phương với CSDL quốc gia về bảo hiểm, trong đó ưu tiên kết nối
chia sẻ dữ liệu trong lĩnh vực y tế, lao động, thương binh và xã hội, thuế, tài
ch nh, ngân hàng nghiên cứu, ứng dụng thẻ điện tử, t ch hợp các thông tin của
người dân để dùng chung trong lĩnh vực bảo hiểm, y tế, an sinh xã hội và các
lĩnh vực có liên quan.
BHXH Việt Nam cần chịu trách nhiệm chủ trì triển khai thực hiện
CSDL quốc gia về bảo hiểm; kết nối, chia sẻ và hỗ trợ các bộ, Ngành, địa
phương kết nối với CSDL quốc gia về bảo hiểm; tiếp nhận và xử lý các yêu
cầu kết nối, chia sẻ khai thác dữ liệu của các cơ quan, đơn vị có nhu cầu.
Các bộ, Ngành, địa phương có trách nhiệm nâng cấp, hoàn thiện hệ
thống CSDL chuyên Ngành, CSDL quốc gia do đơn vị quản lý đảm bảo tiếp
nhận các kết nối khai thác dữ liệu của các bộ, Ngành, địa phương theo các quy
định, hướng dẫn về kết nối các hệ thống thông tin, CSDL với CSDL quốc gia
về bảo hiểm. Đồng thời, phối hợp với BHXH Việt Nam thực hiện kết nối, chia
sẻ dữ liệu do các bộ, Ngành, địa phương quản lý với CSDL quốc gia về bảo
hiểm.
78
Bộ TT&TT cần phối hợp về kỹ thuật với BHXH Việt Nam và các cơ
quan liên quan thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa CSDL quốc gia về bảo
hiểm với hệ thống thông tin của các bộ, Ngành, địa phương.
Bộ Y tế, Bộ LĐTB-XH cần phối hợp với BHXH Việt Nam tạo lập, cung
cấp, cập nhật, bổ sung, chỉ đạo cập nhật, bổ sung các thông tin liên quan cần
thiết cho CSDL quốc gia về bảo hiểm; thực hiện kết nối, chia sẻ dữ liệu trong
lĩnh vực y tế, lao động, thương binh và xã hội với CSDL quốc gia về bảo hiểm;
nghiên cứu áp dụng thẻ điện tử, t ch hợp các thông tin của người dân để dùng
chung trong lĩnh vực bảo hiểm, y tế, an sinh xã hội.
Thứ tư, ứng dụng CNTT
BHXH Việt Nam cần thiết phải ứng dụng CNTT quản lý người hưởng
chế độ BHXH hàng tháng, tập trung CSDL tại BHXH Việt Nam phục vụ việc
khai thác, sử dụng, kiểm soát thông tin người hưởng BHXH, BHYT, BHTN,
cụ thể:
- Xây dựng phần mềm khai báo thay đổi thông tin người hưởng, chia sẻ,
phân quyền cập nhật thông tin người hưởng cho Bưu điện, đại diện chi trả, cán
bộ xã phường; Công an hộ tịch, hộ khẩu sử dụng phần mềm truy cập trên web
để tra cứu, tham gia quản lý người hưởng, cập nhật thông tin người hưởng.
- Kết nối trung tâm dữ liệu người hưởng các chế độ BHXH với Cổng
thông tin điện tử Ngành để cung cấp cho người hưởng các chế độ BHXH trong
việc kê khai, sửa đổi, bổ sung thông tin người hưởng các chế độ BHXH ứng
dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 3.
- Kết nối trung tâm dữ liệu người hưởng các chế độ BHXH với phần
mềm chi trả của cơ quan Bưu điện để thực hiện tra soát thông tin khi chi trả
cho người hưởng các chế độ BHXH hàng tháng.
Việc ứng dụng CNTT, xây dựng CSDL tập trung, liên thông toàn quốc
giúp quản lý người hưởng chế độ BHXH hàng tháng trên phạm vi toàn quốc,
79
góp phần giảm thời gian giao dịch, cải cách TTHC. Vì vậy, cần xây dựng trục
tích hợp, hệ thống CNTT kết nối, liên thông dữ liệu với các Bộ, Ngành phục
vụ việc cập nhật, xử lý, khai thác, tìm kiếm, lưu trữ thông tin, dữ liệu người thụ
hưởng chế độ.
Việc liên kết, trao đổi thông tin toàn diện với các Ngành có liên quan để
trao đổi thông tin, giảm bớt việc kê khai thông tin nhiều lần; đối chiếu thông
tin để thẩm định, giám định, hậu kiểm, vì vậy, BHXH Việt Nam cũng cần xây
dựng cơ chế phối hợp liên thông giữa BHXH Việt Nam với các Bộ, Ngành:
LĐ-TB&XH, Tài chính, Kế hoạch Đầu tư, Y tế, cơ sở KCB, HĐGĐYK, Thuế,
Ngân hàng trong việc cung cấp, xử lý thông tin, dữ liệu người thụ hưởng chế
độ, khai thác, sử dụng, quản lý CSDL; xây dựng công cụ trao đổi dữ liệu, định
nghĩa dữ liệu trao đổi giữa Ngành BHXH với các cơ quan liên quan.
Yêu cầu chung của hệ thống cần là:
+ Yêu cầu về chức năng:Thực hiện việc kết nối dữ liệu với các Bộ,
Ngành để hỗ trợ trong quá trình giải quyết các chế độ BHXH, BHYT, BHTN:
- Đối với xét duyệt chế độ ngắn hạn: Có thể kết nối với dữ liệu khám
chữa bệnh tại các cơ sở KCB để đối chiếu thời gian hưởng chế độ ngắn hạn;
Cho phép tiếp nhận dữ liệu, tra cứu, thống kê dữ liệu (Quản lý được thời gian
tối đa hưởng chế độ ốm đau, thời gian hưởng chế độ ốm đau dài ngày trong
một năm của NLĐ...). Chỉ tiêu bắt buộc: Họ tên, ngày sinh, địa chỉ, tên đơn vị làm
việc, mã thẻ BHYT, tên bệnh, ngày vào viện, ngày ra viện, số ngày điều trị.
- Đối với việc quản lý người hưởng trợ cấp BHTN: kết nối được dữ liệu
giải quyết hưởng BHTN của Ngành Lao động - TB & XH để đối chiếu thông
tin người hưởng BHTN.
- Đối với việc giải quyết trợ cấp BHXH một lần, hưu tr , tử tuất: khi xét
duyệt, giải quyết chế độ cần kết nối được với CSDL các Ngành liên quan như
80
HĐGĐYK... và CSDL quá trình đóng BHXH được quản lý tập trung tại
BHXH Việt Nam, tránh việc nhập lại dữ liệu từ sổ BHXH.
- Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước phối hợp với
BHXH Việt Nam chia sẻ, kết nối đầy đủ thông tin, dữ liệu để thực hiện thanh
toán điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN.
+ Yêu cầu về kỹ thuật:
- Hệ thống phải được phát triển dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, có
độ tin cậy và an toàn bảo mật cao.
- Sử dụng hệ quản trị CSDL có chế độ bảo mật cao, có khả năng lưu trữ
với dung lượng lớn.
- Hạ tầng kỹ thuật phải ổn định đáp ứng việc nhập liệu và khai thác dữ
liệu của toàn hệ thống.
Việc thực hiện quản lý tập trung CSDL và kết nối dữ liệu với các Bộ,
Ngành sẽ góp phần kiểm soát các hành vi gian lận, lạm dụng trong giải quyết
các chế độ BHXH, BHYT, BHTN; đáp ứng yêu cầu quản lý, khai thác dữ liệu
của BHXH Việt Nam, đặc biệt góp phần quan trọng trong cải cách TTHC, cắt
giảm tối đa hồ sơ, giấy tờ thực hiện thủ tục hưởng BHXH, BHYT, BHTN cho
người dân và doanh nghiệp.
3.2.3. Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực
Để phù hợp với quá trình thực hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm
giải trình, BHXH Việt Nam cũng cần có giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân
lực như sau:
-Xây dựng dự báo chiến lược về các loại nguồn nhân lực, nhằm phát
triển nhân lực Ngành BHXH cả về chất lượng và số lượng, cơ cấu hợp lý, đáp
ứng yêu cầu thực tiễn và chiến lược phát triển Ngành BHXH đến năm 2020,
tầm nhìn 2030; có t nh đồng bộ, toàn diện, kế thừa, sử dụng, phát huy tối đa
nguồn công chức, viên chức hiện có và bảo đảm sự phát triển bền vững, phù
81
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Hoàn thiện về tiêu chuẩn cán
bộ, tiêu chuẩn ngạch công chức, hạng viên chức; tăng cường việc luân chuyển
cán bộ quản lý giữa các cấp.
- Nâng cao nhận thức của lãnh đạo các đơn vị trong hệ thống BHXH
Việt Nam về vai trò của công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức: Tổ
chức các hội nghị tập huấn về công tác tổ chức cán bộ, trong đó có nội dung
đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao nhận thức về trách nhiệm học và tự học của
cán bộ, công chức, viên chức để nâng cao trình độ bản thân, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ ngày càng cao. Quan tâm, đôn đốc việc xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng công chức, viên chức hàng năm của từng đơn vị hướng tới đạt mục
tiêu chung đề ra, tổ chức thực hiện đúng kế hoạch và chủ động báo cáo kết quả
thực hiện. Tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng lãnh đạo quản lý, kỹ năng
giao tiếp với đối tượng tham gia BHXH, BHYT, BHTN. Cập nhật, hoàn thiện
các quy định về công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức; bố trí
nguồn tài chính phục vụ công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức căn
cứ vào đối tượng, nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng hằng năm để thực
hiện có hiệu quả.
- Thông qua thi tuyển, xét tuyển đối với các trường hợp bằng cấp chính
quy, thủ khoa, thạc sĩ một số chuyên Ngành đào tạo ở nước ngoài; nhân lực
làm công tác giám định BHYT chuyên Ngành bác sĩ, dược sĩ... và có cơ chế
khuyến khích trong quản lý, sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao hợp lý để
bảo đảm phát huy hết năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Tổ chức đào tạo, tập
huấn, bồi dưỡng kỹ năng tại các cơ sở đào tạo của Ngành; gửi đi đào tạo nước
ngoài cho 1-2% tổng số nhân lực đào tạo mới.
- Đổi mới và cải cách công tác quản lý cán bộ, công chức, viên chức ở
tất cả các khâu; công khai, minh bạch, đúng thẩm quyền và có sự kiểm tra,
giám sát để giảm thiểu tối đa tiêu cực phát sinh trong hoạt động thực thi
82
công vụ, nhiệm vụ.
- Thực hiện tốt nguyên tắc quản lý cán bộ, công chức, viên chức; trong
đó, chú ý kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế.
- Thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở nhằm tạo điều kiện để cán bộ, công
chức, viên chức và nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát. Tăng cường hệ
thống thanh, kiểm tra thực thi công vụ, nhiệm vụ, thực hiện quy tắc ứng xử,
đạo đức nghề nghiệp, tác phong phục vụ... nhằm nâng cao năng lực cho đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức làm công tác thanh, kiểm tra; thanh, kiểm tra
thường xuyên và định kỳ các hoạt động công vụ, thực hiện nhiệm vụ. chú
trọng công tác khen thưởng và xử lý vi phạm, phát hiện và xử lý nghiêm minh
các hành vi vi phạm.
- Bên cạnh đó, mở rộng, tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo,
bồi dưỡng: Tăng cường hợp tác với các quốc gia, tổ chức quốc tế trong lĩnh
vực đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (trong 05 năm
gần đây, BHXH Việt Nam đã cử hơn 200 lượt công chức, viên chức tham gia
các đoàn khảo sát, học tập kinh nghiệm, hội thảo, chuyên đề, chương trình học
bổng Thạc sĩ, chương trình hợp tác đào tạo, nâng cao trình độ ngoại ngữ trong
và ngoài nước…); đặc biệt, nâng cao nhận thức đối với vấn đề đạo đức công
vụ trong thực thi nhiệm vụ, đó cũng ch nh là nâng cao chất lượng dịch vụ của
BHXH Việt Nam để phục vụ người dân tốt hơn. Thu hút các nguồn tài trợ cho
đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức. Nâng cao trình độ ngoại ngữ của
công chức, viên chức thông qua các chương trình đào tạo, bồi dưỡng ở nước
ngoài, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
-Đặc biệt, cần chú trọng đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT, cụ
thể là cần:
+ Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực CNTT, đảm bảo đáp ứng
100% về số lượng và chất lượng phục vụ công tác ứng dụng CNTT trong triển
83
khai giao dịch điện tử và cung cấp dịch vụ công trực tuyến; khai thác, vận hành
và quản trị hệ thống CNTT của Ngành.
+ Đào tạo chuyên sâu về quản trị mạng, quản trị CSDL, an ninh mạng
máy tính, an ninh dữ liệu cho cán bộ CNTT của Ngành. Hình thức tổ chức là
đào tạo tập trung tại trung ương.
+ Đào tạo kiến thức, kỹ năng lập trình cho cán bộ của Trung tâm CNTT
theo các chuẩn công nghệ mới. Hình thức tổ chức theo các khóa học có chứng
chỉ quốc tế do các tổ chức đào tạo trong nước có uy tín tổ chức.
+ Đào tạo nâng cao trình độ tin học cho cán bộ công chức, viên chức; tập
huấn và chuyển giao công nghệ để cán bộ BHXH các cấp có đủ năng lực sử dụng,
khai thác các ứng dụng CNTT trong các hoạt động nghiệp vụ tương ứng.
3.2.4. Nhóm giải pháp tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm tra, giám
sát việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
Về phương diện lý luận, thanh tra, kiểm tra là công cụ giúp người quản
lý nắm bắt tình hình thực hiện nhiệm vụ và duy trì kỷ cương, kỷ luật đối với
cấp dưới hoặc đối với lĩnh vực mình quản lý. Bất cứ hoạt động nào của cán bộ
công chức, viên chức hoặc của cơ quan nhà nước đều cần có sự kiểm tra giám
sát để đảm bảo mọi hoạt động được thực hiện đúng yêu cầu của quá trình quản
lý và đúng pháp luật
Về phương diện thực tiễn, qua hoạt động thanh tra, kiểm tra đã phát hiện
và xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật của các cá nhân, tổ chức, đặc biệt là
nhiều cán bộ, công chức, viên chức của các cơ quan công quyền. Bên cạnh đó,
còn phát hiện nhiều sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để kiến
nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy nhân
tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
84
Việc thanh tra, kiểm tra, giám sát thực hiện công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình của Ngành BHXH thời gian qua còn hạn chế, vì vậy, để hoạt
động này được thực hiện thường xuyên và có hiệu quả cần phải xác định một
số nội dung sau:
- Xác định rõ tầm quan trọng của việc thực hiện công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong hoạt động quản lý, cũng như hoạt động nghiệp vụ,
hàng năm cần xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra việc thực hiện nội dung
này tại các BHXH cấp tỉnh, cấp huyện.
- Trong hoạt động thanh tra, kiểm tra nội bộ, thay việc lồng ghép vào
các nội dung kiểm tra nghiệp vụ bằng việc đưa nội dung kiểm tra việc thực
hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình là một nội dung độc lập
trong đề cương kiểm tra như các nội dung kiểm tra nghiệp vụ khác.
- Có chế tài xử lý rõ ràng đối với những cá nhân, đơn vị vi phạm không
thực hiện những yêu cầu của việc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình
làm ảnh hưởng đến kết quả hoạt động chung toàn Ngành được phát hiện qua
quá trình thanh tra, kiểm tra.
85
Tổng kết Chƣơng 3
Trong Chương này, căn cứ vào quan điểm của Ngành BHXH về thực
hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm, giải trình trong hoạt động BHXH,
BHYT và định hướng của Đảng, Nhà nước về thực hiện công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình, trên cơ sở kết quả phân tích kết quả đạt được và tồn tại,
hạn chế ở Chương 2, Luận văn đã đưa ra được các quan điểm và nhóm giải
pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, đồng thời nâng cấp việc thực
hiện công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành
BHXH ở Việt Nam hiện nay, gồm: Nhóm giải pháp hoàn thiện khung pháp
luật, nhóm giải pháp kỹ thuật, nhóm giải pháp về nguồn nhân lực và nhóm giải
pháp về tăng cường thanh tra, kiểm tra.
86
KẾT LUẬN
Công khai, minh bạch trong quản trị công là một trong những đặc điểm
cơ bản của một thể chế ch nh trị dân chủ. Chỉ có công khai, minh bạch mới có
được lòng tin của người dân với thể chế quyền lực. Chỉ có một thể chế mạnh,
một nhà nước mạnh mới có thể xây dựng được sự công khai, minh bạch và
ngược lại. Công khai, minh bạch toàn diện và đề cao trách nhiệm giải trình là
chiến lược quan trọng bậc nhất giúp cuộc chiến chống tham nhũng có được
những bước đi tốt hơn trong tương lai.
Thời gian qua, việc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong hoạt động đã giúp Ngành BHXH từng bước phát triển, đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Toàn Ngành đã, đang và sẽ tập trung tối đa mọi
nguồn lực, triển khai đồng loạt các giải pháp, quyết liệt thực hiện cải cách
TTHC nhằm thực hiện tốt hơn việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải
trình trong quá trình quản lý BHXH, BHYT. Điều đó góp phần quan trọng
trong việc nâng cao hiệu quả quản trị công và củng cố lòng tin của người dân
với Đảng và Nhà nước, tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với việc triển khai
thực hiện các chủ trương ch nh sách để phát triển hệ thống an sinh xã hội nói
riêng và phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nói chung.
Luận văn đã đạt được những kết quả ch nh sau đây:
1. Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp lý về công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình trong quản trị công nói chung và trong Ngành BHXH nói
riêng. Theo đó, luận văn đã phân tích các khái niệm: Khái niệm công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH; nội
hàm của công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong Ngành BHXH,
đồng thời nêu lên đặc điểm, vai trò và mối quan hệ của công khai, minh bạch
và trách nhiệm giải trình trong quản trị công nói chung và trong Ngành BHXH
nói riêng.
87
2. Phân tích thực trạng việc thực hiện nội dung công khai, minh bạch,
trách nhiệm giải trình trong Ngành BHXH thông qua nhiều nội dung hoạt động
như cải cách TTHC, ứng dụng CNTT vào công tác nghiệp vụ và quản lý
BHXH, BHYT, trả lời chất vấn Quốc Hội, HĐND, giải quyết khiếu nại, tố cáo
và tiếp công dân của Ngành BHXH. Đồng thời, nêu ra những tồn tại hạn chế
và nguyên nhân của những tồn tại hạn chế trong quá trình thực hiện công khai,
minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành BHXH.
3. Nêu, phân tích những quan điểm về công khai, minh bạch, trách
nhiệm giải trình của Ngành BHXH. Đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh
việc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình trong hoạt động của Ngành
BHXH. Qua đó, góp phần nâng cao tính công khai minh bạch trong hoạt động
quản trị nhà nước ở Việt Nam nói chung.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
công tác học tập, nghiên cứu, giảng dạy đối với chuyên Ngành Quản trị Nhà
nước và Phòng chống tham nhũng tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội
cũng như phục vụ việc tổng kết thực tiễn liên quan đến công khai, minh bạch
trong quá trình hoạt động của Ngành BHXH ở Việt Nam.
88
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ Công Giao, Nguyễn Hoàng Anh (2018), Các
lý thuyết, mô hình, cách tiếp cận về quản trị nhà nước và phòng, chống
tham nhũng, Nxb., Hồng Đức.
2. Lưu Kiếm Anh, Lê Thị Hương (2016), Trách nhiệm giải trình trong khu
vực công ở Việt Nam, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 245, tr. 30 -34.
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Báo cáo đánh giá 05 năm thực hiện cải
cách thủ tục hành chính của Ngành Bảo hiểm xã hội giai đoạn 2015 -
2019.
4. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Báo cáo tổng kết của Ngành Bảo
hiểm xã hội năm 2016
5. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Báo cáo tổng kết của Ngành Bảo
hiểm xã hội năm 2017
6. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2018), Báo cáo tổng kết của Ngành Bảo
hiểm xã hội năm 2018
7. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Báo cáo tổng kết của Ngành Bảo
hiểm xã hội năm 2019
8. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Báo cáo tổng kết 03 năm thực hiện
tiếp công dân, giải quyết khiếu nại tố cáo Ngành Bảo hiểm xã hội
9. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Dự án hiện đại hóa Bảo hiểm xã hội
Việt Nam.
10. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Báo cáo ứng dụng CNTT Ngành
BHXH giai đoạn 2015 -2019.
11. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017) Tóm lược lịch sử hình thành và phát
triển của BHXH Việt Nam https://vss.gov.vn/gioithieu
89
12. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Đề tài “Đề xuất quy định về giao
dịch điện tử trong việc thực hiện thủ tục đăng ký tham gia BHXH,
BHYT, BHTN và đề nghị cấp sổ BHXH, thẻ BHYT”.
13. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Đề án “Cải cách thủ tục hành chính
và giao dịch điện tử trong lĩnh vực giải quyết, chi trả trợ cấp ốm đau,
thai sản, dưỡng sức” Bảo hiểm xã hội thành phố Hồ Chí Minh.
14. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 640/QĐ - BHXH Kế
hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động của Ngành Bảo hiểm xã hội
(giai đoạn 2016-2020).
15. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2015), Quyết định 528/QĐ-BHXH ngày
14/4/2015 quy định về giao dịch điện tử trong việc thực hiện thủ tục
tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, BHTN; cấp sổ bảo hiểm xã
hội, thẻ bảo hiểm y tế.
16. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2015), Quyết định số 1133/QĐ-
BHXH ngày 16 tháng 10 năm 2015 về việc công bố thủ tục hành ch nh
được sửa đổi, bổ sung, thay thế thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH
Việt Nam.
17. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 1055/QĐ-
BHXH ngày 25 tháng 7 năm 2016 về việc công bố thủ tục hành ch nh
được sửa đổi, bổ sung, thay thế thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH
Việt Nam.
18. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2016), Quyết định số 640/QĐ-BHXH ngày
28/4/2016 về việc phê duyệt Kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động
của Ngành giai đoạn 2016 - 2020.
19. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quyết định 838/QĐ-BHXH ngày
29/5/2017 ban hành quy trình giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH,
BHTN, BHYT.
90
20. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2017), Quyết định số 595/QĐ-BHXH ngày
14 tháng 4 năm 2017 ban hành Quy trình thu BHXH, BHYT, BHTN,
Bảo hiểm TNLĐ, BNN; quản lý sổ BHXH, thẻ BHYT.
21. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019), Quyết định số 166/QĐ-BHXH ngày
31 tháng 01 năm 2019 ban hành quy trình giải quyết các chế độ BHXH,
chi trả các chế độ BHXH, BHTN.
22. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019) Quyết định số 777/QĐ-BHXH ngày
24 tháng 6 năm 2019 về việc công bố TTHC thay thế, bị bãi bỏ thuộc
lĩnh vực giải quyết hưởng các chế độ BHXH và chi trả các chế độ
BHXH, BHTN thuộc thẩm quyền giải quyết của BHXH Việt Nam.
23. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019) Quyết định số 999/QĐ-BHXH ngày
8/8/2019, BHXH Việt Nam ban hành Phần mềm Quản lý hoạt động
thanh tra, kiểm tra phiên bản 1.0.
24. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2019) Công văn số 815/CNTT-PM ngày
29/7/2019 về việc dùng tin nhắn tra cứu tới đầu số 8179.
25. Ban Chấp hành Trung ương (2018), Nghị quyết số 28- NQ/TW ngày
23/5/2018 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) về cải cách chính
sách bảo hiểm xã hội.
26. Bộ Chính trị (2014), Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ
Chính trị (khóa XI) về “Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng
yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế”.
27. Bộ Nội vụ (2015), hoàn thiện thể chế về công khai minh bạch trong
quản lý hành chính nhà nước https://moha.gov.vn
28. Bộ Thông tin và Truyền thông (2019), Công bố kết quả đánh giá xếp
hạng mức độ ứng dụng CNTT của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ, các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương năm 2017,
2018.
91
29. Chính phủ (2011), Nghị định số 166/2016/NĐ-CP ngày 24/12/2016 về
việc giao dịch điện tử trong lĩnh vực BHXH, BHYT, BHTN.
30. Chính phủ (2019), Nghị định số 159/NĐ-CP ngày 01/7/2019 quy định
chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Phòng, chống tham
nhũng.
31. Chính phủ (2011), Nghị quyết số 30c/NQ-CP ngày 8/11/2011 ban hành
Chương trình tổng thể cải cách hành ch nh nhà nước giai đoạn 2011 -
2020.
32. Chính phủ (2015), Nghị quyết số 36a/NQ-CP ngày 14 tháng 10 năm
2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử.
33. Chính phủ (2016), Nghị quyết số 19/2016/NQ-CP ngày 28/4/2016 về
những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh,
nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016 - 2017, định hướng
đến năm 2020.
34. Nguyễn Đăng Dung (2005), Sự hạn chế quyền lực nhà nước, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Hội.
35. Ngô Thu Hà (2019), Kết quả đánh giá ban đầu việc thực hiện luật tiếp
cận thông tin ở Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh
bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống
tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội
tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
36. Nguyễn Thị Minh Hà - Hà Thị Hằng (2019), Pháp luật về công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong hoạt động công vụ ở Việt
Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách
nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng
trên thế giới và ở Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày
3/10/2019 tại Hà Nội.
92
37. Trương Hồ Hải và Đặng Việt Đạt (2019), Mối quan hệ giữa công khai,
minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và quyền
tiếp cận công lý của công dân ở Việt Nam, trong Kỷ yếu Hội thảo quốc
tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà
nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Việt Nam" do
Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
38. Vương Đình Huệ (2018), Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội góp phần
bảo đảm an sinh xã hội, thúc đẩy tiến bộ và công bằng xã hội để phát
triển bền vững đất nước, Báo Nhân dân https://www.nhandan.com.vn.
39. Lâm Nguyên, Anh Nguyễn (2019) Bảo hiểm xã hội Việt Nam,góp phần
phát triển Chính phủ điện tử tại Việt Nam, Báo Bảo hiểm xã hội
http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn.
40. Quốc Hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội số 58/2014/QH13 ngày 20
tháng 11 năm 2014.
41. Quốc Hội, Luật Bảo hiểm y tế số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng 11 năm
2008, Luật số 46/2014/QH13 ngày 13 tháng 6 năm 2014 sửa đổi, bổ
sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế.
42. Quốc Hội (2018), Luật Phòng chống tham nhũng số 36/2018/QH14
ngày 20/11/2018.
43. Quốc Hội (2005), Luật Giao dịch điện tử ngày 29 tháng 11 năm 2005.
44. Phan Thị Thanh Thúy (2018), Trách nhiệm giải trình trong quản trị
45. Tạp chí Bảo hiểm xã hội (2015) Sự ra đời và phát triển Bảo hiểm xã hội
công ở Việt Nam: Từ lý luận đến thực tiễn http://lapphap.vn/
ở Việt Nam http://tapchibaohiemxahoi.gov.vn/.
46. Thủ tướng Chính phủ (2019) Quyết định số 1291/QĐ-TTg ngày
07/10/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thủ tục hành chính
thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan Trung ương được tổ chức
93
theo Ngành dọc đóng tại địa phương đưa ra tiếp nhận tại Trung tâm phục
vụ hành chính công cấp tỉnh, Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả giải quyết
thủ tục hành chính cấp huyện, xã
47. Phạm Văn Trưởng - Vũ Công Giao (2019), Công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong pháp luật hiện hành của Việt Nam, Kỷ yếu
Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình trong
quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở Việt
Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà Nội.
48. Đặng Minh Tuấn (2019), Lý luận cơ bản về công khai, minh bạch và
trách nhiệm giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham
nhũng, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm
giải trình trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế
giới và ở Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày
3/10/2019 tại Hà Nội.
49. Nguyễn Phương Vy (2019), Xung đột pháp luật giữa công khai, minh
bạch, trách nhiệm giải trình và quyền bí mật thông tin ở Việt Nam, Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế: “Công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình
trong quản trị nhà nước và phòng, chống tham nhũng trên thế giới và ở
Việt Nam" do Khoa Luật ĐHQG Hà Nội tổ chức ngày 3/10/2019 tại Hà
Nội.
50. Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
II. Tiếng Anh
51. https://www.oecd.org/gov/open-goverment.htm