Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay
lượt xem 14
download
Kết cấu của luận văn gồm Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được chia thành 3 chương: Chương 1 - Khái quát chung về tiền lương tối thiểu và pháp luật về tiền lương tối thiểu; Chương 2 - Thực trạng pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam; Chương 3 - Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ QUỲNH TRANG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ HÀ NỘI, 2019
- VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI CAO THỊ QUỲNH TRANG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN HỮU CHÍ HÀ NỘI, 2019
- LỜI CAM ĐOAN Tôi là Cao Thị Quỳnh Trang , Học viên cao học đợt 1 -2017 chuyên ngành Luật Kinh tế tại Học viện Khoa học xã hội, xin cam đoan luận văn “Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của cá nhân tôi. Kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tác giả thực hiện. Các tài liệu, số liệu, kết quả nghiên cứu của các tổ chức, cá nhân khác được tham khảo, sử dụng, trích dẫn trong luận văn đều đã được ghi rõ nguồn gốc một cách trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về những nội dung đã cam đoan ở trên. Tác giả luận văn Cao Thị Quỳnh Trang
- MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIÊN LƯƠNG TỐI THIỂU .................................................................. 6 1.1. Khái quát chung về tiền lương tối thiểu ..................................................... 6 1.2. Pháp luật về tiền lương tối thiểu ........................................................................ 21 1.3. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam ......................................................................................................... 27 Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM .............................................................................................................. 33 2.1. Quy định của pháp luật hiện hành về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam ... 33 2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam ............ 43 Chương 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI............................................................................................................................ 59 PHÁP LUẬT VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU Ở VIỆT NAM........................... 59 3.1. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu .............................................................................. 59 3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu .............................................................................. 64 KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 81
- MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong hai thập niên trở lại đây, tình hình kinh tế - xã hội nước ta đã có nhiều thay đổi quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trên con đường phát triển: chỉ tiêu tăng trưởng luôn được duy trì, các chỉ báo xoá đói giảm nghèo, phát triển con người, bình đẳng giới tương đối khả quan trong điều kiện trình độ phát triển kinh tế với xuất phát điểm thấp, bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động không thuận lợi. Những thành tựu đó là kết quả của chính sách đổi mới đất nước đã được Đảng và Nhà nước ta đề ra và thực hiện thông qua các chính sách và biện pháp trên mọi lĩnh vực, trong đó các chính sách về tiền lương. Tiền lương là một trong những công cụ kinh tế quan trọng và nhạy cảm trong đời sống kinh tế - chính trị và xã hội của bất cứ một quốc gia nào. Chính vì vậy, việc nghiên cứu tiền lương, nhất là tiền lương tối thiểu phải luôn được quan tâm để có thể giúp các nhà hoạch định chính sách cũng như các nhà chức trách có được một cái nhìn đầy đủ, toàn diện, chính xác và sâu sắc hơn nữa về chế định kinh tế đặc biệt quan trọng này. Như chúng ta đã biết, tiền lương đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người lao động. Tiền lương là nguồn để tái sản xuất sức lao động, vì vậy nó tác động rất lớn đến thái độ của người lao động đối với sản xuất, quyết định tâm tư, tình cảm của nhân dân đối với chế độ của xã hội. Xét trên góc độ quản lý kinh doanh, quản lý xã hội, vì tiền lương luôn là nguồn sống của người lao động nên nó là đòn bẩy kinh tế quan trọng. Thông qua chính sách tiền lương, Nhà nước có thể điều chỉnh lại nguồn lao động giữa các vùng theo yêu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Tiền lương, trong đó có mức lương tối thiểu, là vấn đề rất phức tạp trong chính sách kinh tế - xã hội của mọi quốc gia. Muốn giải quyết tương đối tốt, phù hợp chính sách tiền lương, cần thống nhất nhận thức và hành động về vấn đề này. Tiền lương tối thiểu vốn nhằm bảo vệ người lao động, lo cho những người làm công ăn lương khó khăn nhất. Nhưng để bảo đảm hài hòa lợi ích, Hội đồng Tiền lương Quốc gia được thành lập theo quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012 1
- là một cơ chế đối thoại. Tiền lương tối thiểu từ chỗ hoàn toàn do Nhà nước dẫn dắt chuyển sang cơ chế ba bên, ghi nhận tầm quan trọng của việc người lao động và người sử dụng lao động tham gia vào quá trình xác định tiền lương tối thiểu. Xuất phát từ tính cấp thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc của vấn đề tiền lương tối thiểu tại Việt Nam nên tác giả mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Quá trình tìm hiểu và sưu tầm tài liệu cho thấy trước đây đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề tiền lương tối thiểu tại Việt Nam. Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Phạm Thị Quỳnh Trang (2009), Khóa luận tốt nghiệp, “Tiền lương tối thiểu trong pháp luật lao động Việt Nam”, Trường Đại học Luật Hà Nội; Đào Duy Phương (2010), Chế độ pháp lý về lương tối thiểu và hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Phạm Thị Hồng (2013), Pháp luật về tiền lương – thực trạng áp dụng tại công ty cổ phần đầu tư và thương mại TNG, Luận văn ThS Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội; Lưu Thị Lam (2014), luận văn thạc sĩ luật học, “Pháp luật Việt nam về tiền lương tối thiểu” hay luận án tiến sĩ của Vũ Hồng Phong “Nghiên cứu tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn Hà Nội” đề cập đến vấn đề thực tiễn thực hiện các chế định pháp luật về tiền lương trên địa bản thành phố Hà Nội – một trong những trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội lớn nhất cả nước; luận văn thạc sĩ “Hoàn thiện quy chế trả lương tại Tổng công ty Sông Đà” của Nguyễn Thị Thùy Linh. Rất nhiều báo cáo chuyên đề, đề tài nghiên cứu về tiền lương tối thiểu: Báo cáo phiên 1 và phiên 2 của Bộ phận kỹ thuật Hội đồng tiền lương quốc gia về đề xuất mức lương tối thiểu năm 2018; Tham luận “Hoàn thiện các quy định của pháp luật về tiền lương tối thiểu” của tiến sĩ Bùi Sỹ Lợi – Phó chủ nhiệm Ủy ban về các vấn đề xã hội; các Báo cáo và đề xuất trao đổi tại cuộc họp Hội đồng tiền lương quốc gia của Phòng Thương mại và Công nghiệp 2
- Việt Nam (VCCI); Báo cáo và đề xuất phương án lương tối thiểu vùng năm 2018 của Cục quan hệ lao động – Tiền lương… Tuy nhiên, phần lớn các công trình trên chỉ đề cập đến những khía cạnh khác nhau của vấn đề tiền lương tối thiểu hoặc có nghiên cứu chung về pháp luật tiền lương tối thiểu thì về mặt thời gian, pháp luật tiền lương tối thiểu luôn luôn vận động và thay đổi theo sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội. Luận văn “Pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam hiện nay” tập trung nghiên cứu và bám sát về vấn đề tiền lương tối thiểu đang trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động năm 2012 và việc ban hành Nghị định 157/2018/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về mức lương tối thiểu vùng của người lao động làm việc theo hợp đồng lao động năm 2019 để đáp ứng yêu cầu đặt ra của thực tiễn áp dụng pháp luật. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài nằm phân tích, làm rõ các nội dung pháp lý về chính sách tiền lương tối thiểu, qua đó đưa ra những kiến nghị phù hợp để hoàn thiện nội dung này. Để đạt được mục đích trên, đề tài thực hiện các nhiệm vụ sau: - Khái quát về chế định tiền lương tối thiểu theo quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam cũng như sơ lược sự phát triển của chế định này qua các thời kì. Phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chế định tiền lương tối thiểu. - Tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về việc xác lập, điều chỉnh và áp dụng pháp luật về tiền lương tối thiểu. - Đề xuất các giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về tiền lương tối thiểu trong hiện tại và tương lai. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung vào đối tượng nghiên cứu là: - Các quan điểm về tiền lương tối thiểu; - Quy định của pháp luật Việt Nam về tiền lương tối thiểu; 3
- - Thực tiễn thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu. - Nội dung pháp lý về tiền lương tối thiểu bất cập cần hoàn thiện. Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào chế định pháp luật tiền lương tối thiểu hiện hành của Việt Nam. Cụ thể, bao gồm các nội dung như: quy định của pháp luật về tiền lương tối thiểu vùng, tiền lương tối thiểu ngành, tình hình thực hiện quy định về tiền lương tối thiểu trên thực tế và định hướng hoàn thiện pháp lý dựa trên chính sách pháp luật về tiền lương tối thiểu hiện tại. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, đồng thời sử dụng và kết hợp một cách hợp lý các phương pháp nghiên cứu khoa học như: phương pháp phân tích, phương pháp lịch sử, phương pháp tổng hợp, diễn giải, suy luận logic, so sánh… nhằm chứng minh các luận điểm nêu ra trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Ý nghĩa lý luận: + Đề xuất phương phương án xác định mức sống tối thiểu, phương án kỹ thuật xây dựng phương án tiền lương tối thiểu tiến bộ, phù hợp với đặc thù kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay. + Đề xuất phương án pháp lý nhằm xác lập, điều chỉnh các quy định của pháp luật về tiền lương tối thiểu. Ý nghĩa thực tiễn: + Kết quả nghiên cứu giúp đánh giá tính phù hợp, những yếu tố tích cực và những tồn tại, hạn chế còn tồn đọng của pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam. + Kết quả nghiên cứu có thể được dùng để định hướng cho việc điều chỉnh pháp luật về tiền lương tối thiểu, định hướng cho các phương án xác lập tiền lương tối thiểu trong thời gian sắp tới. + Kết quả nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu giảng dạy, nghiên cứu khoa học và tham khảo cho các đối tượng quan tâm. 4
- 7. Kết cấu của luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Khái quát chung về tiền lương tối thiểu và pháp luật về tiền lương tối thiểu. Chương 2: Thực trạng pháp luật về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam. Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về tiền lương tối thiểu ở Việt Nam. 5
- Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG TỐI THIỂU VÀ PHÁP LUẬT VỀ TIÊN LƯƠNG TỐI THIỂU 1.1. Khái quát chung về tiền lương tối thiểu 1.1.1. Khái niệm và các loại tiền lương tối thiểu 1.1.1.1. Khái niệm tiền lương tối thiểu Tiền lương tối thiểu theo quan điểm của Các Mác: Lý luận nói chung về tiền lương đã được các nhà kinh tế nghiên cứu từ rất lâu bắt đầu là W.Petty. Chính William Petty là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết “quy luật sắt về tiền lương”. Lý thuyết mức lương tối thiểu phản ánh trình độ phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Lúc này, sản xuất chưa phát triển, để buộc công nhân làm việc, giai cấp tư sản phải dựa vào Nhà nước để duy trì mức lương thấp. Tuy nhiên từ lý luận này ta thấy được là, công nhân chỉ nhận được từ sản phẩm lao động của mình những tư liệu sinh hoạt tối thiểu do họ tạo ra. Phần còn lại đã bị nhà tư bản chiếm đoạt. Đó là mầm mống phân tích sự bóc lột. Lý luận về tiền lương của Mác là sự tiếp tục phát triển lý luận về tiền lương của các nhà kinh tế cổ điển trước đó. Lý luận tiền lương của Mác đã vạch rõ bản chất của tiền lương dưới chủ nghĩa tư bản đã bị che đậy – tiền lương là giá cả của lao động, bác bỏ quan niệm của các nhà kinh tế tư bản trước đó (Ricardo). Những luận điểm của Mác về tiền lương vẫn còn giá trị đến ngày nay. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tiền lương là một phần thu nhập quốc dân biểu hiện bằng tiền mà người lao động nhận được để bù đắp cho lao động đã bỏ ra tuỳ theo số lượng và chất lượng của người lao động đó. Như vậy tiền lương là một phần giá trị mới sáng tạo ra được phân phối cho người lao động để tái sản xuất sức lao động của mình. Vì người lao động trong quá trình tham gia sản xuất phải hao phí một lương sức lao động nhất định và sau đó phải được bù đắp bằng việc sử dụng tư liệu tiêu dùng. Dựa vào cơ sở xác định chi phí bù đắp và duy trì sức lao động của người công nhân, C. Mác khẳng định: “Chi phí sản xuất ra sức lao động đơn giản là bao gồm chi phí 6
- sinh hoạt của người công nhân và chi phí tái sản xuất ra công nhân. Giá những chi phí sinh hoạt và chi phí tái sản xuất đó là tiền công. Tiền công được quy định như vậy là tiền công tối thiểu”[3,tr.38,39] . Tiền lương tối thiểu theo quan điểm của quốc tế: Tiền lương tối thiểu là một chính sách, chế định pháp luật được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm. Có tới 90% các nước duy trì hệ thống lương tối thiểu và sử dụng lương tối thiểu như một công cụ quan trọng để bảo vệ những người lao động lương thấp dễ bị tổn thương. Là kênh điều tiết thị trường quan trọng nhằm tạo dựng sự ổn định trong phát triển kinh tế, bền vững trong yếu tố dân sinh. Ngay từ năm 1919, trong hiến chương thành lập của mình, ILO đã khuyến cáo “đảm bảo mức tiền lương đủ sống cho người lao động” là một trong những nội dung thể hiện sự quan tâm và chủ trương hoàn thiện các điều kiện lao động, an sinh xã hội và thúc đẩy hòa bình, đặt ra những cơ sở đầu tiên về việc ghi nhận tiền lương tối thiểu của một tổ chức quốc tế hàng đầu về vấn đề lao động. Trong Công ước số 26 ngày 30/05/1928 của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho rằng: “Tiền lương tối thiểu là mức trả công lao động thấp nhất trả cho người lao động làm các công việc đơn giản nhất đủ đảm bảo cho họ một mức sống tối thiểu với tư cách là người chủ gia đình, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội” và “không có sự sắp đặt nào để có thể điều chỉnh lương theo thoả ước tập thể hoặc bằng cách khác, với một mức lương thấp”. Năm 1944, Tuyên bố Philadenphia đã khuyến khích các nước đấu tranh bảo vệ “mức tiền lương tối thiểu đủ sống cho toàn thể những người làm công ăn lương”. Tiếp theo, tại Công ước 131 về tiền lương tối thiểu do ILO ban hành năm 1970 và Khuyến nghị kèm theo số 135, đã xác định “đảm bảo cho những người làm công ăn lương một sự đảm bảo xã hội cần thiết dưới dạng mức tiền lương tối thiểu đủ sống”. Như vậy, đã có sự định hình rất rõ ràng về một mức “đảm bảo xã hội cần thiết” được ILO thiết lập như cơ chế đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động trên cơ sở tiền lương tối thiểu. Nguyên tắc tham vấn đầy đủ về tiền lương tối thiểu đối với xã hội là trọng tâm của Công ước này. 7
- Trong tuyên bố Chương trình hành động tại Hội nghị thế giới 03 bên năm 1976 về việc làm, phân phối thu nhập và tiến bộ xã hội, đã khuyến nghị “Bảo đảm mức sống tối thiểu là một trong những nội dung cơ bản của chiến lược phát triển kinh tế xã hội và chính sách tiền lương của mỗi nước”. Việc làm và tiền lương là hai phạm trù có mối quan hệ với nhau, nó khác với khái niệm “thu nhập tối thiểu”. Thu nhập tối thiểu có mục tiêu đảm bảo mức sống tối thiểu cho một người không phụ thuộc vào việc người đó có đi làm hay không. Mức tiền lương tối thiểu không bao gồm các khoản tiền thưởng hoặc phúc lợi xã hội và cũng không áp dụng đối với một số việc nhất định. Các mức tiền lương thấp nhất xác định thông qua thỏa ước lao động tập thể không phải các mức tiền lương tối thiểu vì nó không được luật pháp hóa. Tương tự, mức tiền lương thấp nhất trong khu vực hưởng lương từ ngân sách nhà nước cũng không phải mức tiền lương tối thiểu. Quan niệm tiền lương tối thiểu ở Việt Nam: Tại Việt Nam, tiền lương tối thiểu được quy định tại Điều 91 Bộ luật lao động 2012, là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc đơn giản nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Tiền lương tối thiểu hay mức lương tối thiểu được Chính phủ quyết định dựa trên cơ sở khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia – là cơ quan đại diện ba bên cấp quốc gia, tiêu chí để xác định tiền lương tối thiểu căn cứ vào nhu cầu sống tối thiểu của người lao động, gia đình họ và các điều kiện kinh tế - xã hội. Để làm rõ, có thể hiểu mức lương tối thiểu được sử dụng để trả cho người lao động làm công việc yêu cầu trình độ lao động giản đơn nhất, cường độ lao động nhẹ nhàng nhất, diễn ra trong điều kiện lao động bình thường và được sử dụng để xác định các mức lương, phụ cấp và các khoản bổ sung khác cho người lao động. Do đó, tiền lương tối thiểu có những đặc trưng cơ bản sau đây: Thứ nhất, tiền lương tối thiểu được áp dụng để trả cho người lao động làm công việc giản đơn nhất, không cần qua đào tạo. Thứ hai, tiền lương tối thiểu được trả tương ứng với điều kiện lao động và môi trường lao động bình thường. Do vậy, mức lương tối thiểu sẽ không thể được sử dụng để 8
- trả cho những người lao động làm các công việc có yếu tố nặng nhọc hoặc trong môi trường độc hại, nguy hiểm. Thứ ba, tiền lương tối thiểu được quy định nhằm đảm bảo bù đắp sức lao động giản đơn và một phần giúp tái sản xuất sức lao động cho người lao động. Bàn về tiền lương tối thiểu tại Việt Nam, Ông Vũ Quang Thọ, Viện trưởng Viện Công nhân và Công đoàn (Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam) đã có chia sẻ: “Lương tối thiểu không phải tự chúng ta nghĩ ra mà do những lực lượng tiến bộ trên thế giới, trong đó có Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) thấy rằng, người lao động chính là những tầng lớp yếu thế trong xã hội, nhưng lại chiếm số đông nên cần phải được bảo vệ một cách tích cực. Tiền lương tối thiểu là lưới an toàn cuối cùng để bảo vệ người lao động, với vai trò như vậy rất cần có tiền lương tối thiểu. Hiện nay trong 189 quốc gia tham gia ILO thì có đến 130 nước có quy định về tiền lương tối thiểu. Nhiều nước phát triển như Mỹ, Nhật Bản, EU hay các nước xung quanh chúng ta như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia… đều có quy định về tiền lương tối thiểu chứ không phải ngẫu nhiên”[8]. Thật vậy, tiền lương tối thiểu không phải ngẫu nhiên mà có, tiền lương tối thiểu là công cụ điều tiết và kiểm soát dân sinh quan trọng của mỗi chính phủ, nhà nước. Tiền lương tối thiểu phải phản ánh được mức sống tối thiểu của người lao động làm công ăn lương trong từng thời kỳ nhất định. Đây là một trong những nền tảng đảm bảo quan trọng cho việc duy trì năng suất và chất lượng lao động; là cơ sở cho việc vươn tới các mục tiêu tiến bộ và công bằng xã hội của Việt Nam nói riêng, yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế nói chung. 1.1.1.2. Các loại tiền lương tối thiểu Việc phân loại tiền lương tối thiểu có ý nghĩa pháp lý quan trọng. Trước hết, giúp chúng ta phân biệt được loại tiền lương tối thiểu này với loại tiền lương tối thiểu khác, từ đó đưa ra được các cơ chế điều chỉnh hợp lý tuỳ thuộc vào đặc trưng của mỗi loại. Bên cạnh đó, phân loại tiền lương tối thiểu giúp đảm bảo được sự công bằng trong việc trả lương cho người lao động khi điều kiện lao động có những yếu tố khác nhau nhất 9
- định. Có rất nhiều cách phân loại tiền lương tối thiểu, tác giả khái quát và phân tích một số căn cứ phân loại điển hình như sau: Thứ nhất, căn cứ vào phạm vi áp dụng của tiền lương tối thiểu, có thể phân chia thành tiền lương tối thiểu chung duy nhất và tiền lương tối thiểu cho từng nhóm lao động cụ thể. Theo quy định tại Điều 5 Mục III Khuyến nghị số 135 về ấn định lương tối thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế ngày 22/06/1970 quy định: “(1) Hệ thống lương tối thiểu có thể được áp dụng với những người làm công ăn lương theo Điều 1 của Công ước trên bằng cách ấn định một mức lương tối thiểu duy nhất để áp dụng chung hoặc ấn định một loạt mức lương tối thiểu áp dụng cho các nhóm người lao động cụ thể. (2) Một hệ thống dựa trên mức lương tối thiểu duy nhất: (a) phải tương thích với mức ấn định các mức lương tối thiểu khác tại các vùng hoặc miền khác nhau với ý định cho phép những khác biệt về chi phí cuộc sống; (b) phải không làm tổn hại đến các tác dụng của quyết định, trước đây hoặc sau này, về mức lương tối thiểu cao hơn mức tối thiểu chung cho các nhóm người lao động cụ thể”. Một là, tiền lương tối thiểu chung duy nhất. Tiền lương tối thiểu chung duy nhất là tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định, áp dụng chung cho người lao động làm việc trong mọi ngành nghề, mọi khu vực trong cả nước. Tiền lương tối thiểu chung duy nhất là loại tiền lương phổ cập được áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ quốc gia, không phân biệt vùng, ngành kinh tế cũng như quan hệ lao động. Mọi mức lương kể cả mức lương tối thiểu khác cũng không được thấp hơn mức lương tối thiểu chung. Nói cách khác, lương tối thiểu chung phải đảm bảo là “lưới an toàn chung”, là nền thấp nhất để trả công cho lao động xã hội, là cơ sở để xây dựng hệ thống thang lương, bảng lương và các loại tiền tối thiểu khác. Tiền lương tối thiểu chung duy nhất là loại tiền lương được nhiều quốc gia áp dụng làm “lưới an toàn 10
- chung” cho chính sách tiền lương tối thiểu. Điển hình như Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức… Hai là, tiền lương tối thiểu áp dụng cho nhóm người lao động cụ thể. Việc xây dựng và áp dụng chính sách tiền lương tối thiểu cho nhóm người lao động cụ thể có thể được các quốc gia tiếp cận tùy thuộc vào đặc thù kinh tế và định hướng lập pháp của từng quốc gia. Hiện nay, tiền lương áp dụng cho nhóm người lao động cụ thể theo tinh thần của Khuyến nghị số 135 về ấn định tiền lương tối thiểu của Tổ chức Lao động quốc tế khá đa dạng. Nhóm người lao động cụ thể dựa trên cơ sở phân chia về lĩnh vực lao động, chúng ta có “tiền lương tối thiểu theo ngành”; dựa trên cơ sở phân chia về vị trí địa lý, chúng ta có “tiền lương tối thiểu theo vùng”. Tiền lương tối thiểu theo ngành là loại tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định hoặc đại diện hai bên quan hệ lao động thỏa thuận để áp dụng cho người lao động trong một ngành hoặc một nhóm ngành kinh tế kỹ thuật có tính chất ngành nghề tương đồng trên cơ sở tiền lương tối thiểu chung và có tính đến các yếu tố lao động đặc thù của từng ngành nghề đó sao cho tiền lương tối thiểu theo ngành ít nhất cũng phải bằng hoặc phải cao hơn tiền lương tối thiểu chung. Tiền lương tối thiểu vùng do nhà nước quy định, áp dụng cho người lao động làm việc ở từng vùng lãnh thổ nhất định, căn cứ trên mức lương tối thiểu chung và có tính đến những yếu tố đặc thù vùng lãnh thổ đó như điều kiện kinh tế của vùng, mức thu nhập bình quân trên đầu người của từng vùng, mức chi tiêu tối thiểu chung của vùng và các yếu tố có liên quan khác như điều kiện làm việc, ăn ở, đi lại, yếu tố địa lý… Phạm vi áp dụng của tiền lương tối thiểu vùng hẹp hơn so với tiền lương tối thiểu chung vì nó chỉ áp dụng cho một vùng lãnh thổ nhất định đặc trưng bởi những yếu tố địa lý như đồng bằng, miền núi, trung du, miền biển khác nhau… do đó, ảnh hưởng khác nhau đến quá trình lao động, sản xuất và sinh hoạt của người lao động và gia đình họ. Mục tiêu của tiền lương tối thiểu theo vùng là đáp ứng sự khác biệt về không gian của các yếu tố chi phối tiền lương tối thiểu chung, nhấn mạnh yếu tố đặc thù của từng vùng cũng như chiến lược phát triển trong từng vùng đó. 11
- Tiền lương tối thiểu vùng được áp dụng tại đa số các nước châu Á như Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Việt Nam...[11] Thứ hai, căn cứ vào thẩm quyền quyết định mức lương tối thiểu, có tiền lương tối thiểu do Chính phủ quyết định, công bố và tiền lương tối thiểu do doanh nghiệp tự quy định. Một là, tiền lương tối thiểu do Chính phủ quyết định. Tiền lương tối thiểu có vai trò quan trọng không chỉ đối với chính sách tiền lương mà ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc sống của người lao động và sự tăng trưởng phát triển kinh tế - xã hội trong các thời kỳ. Cho nên việc công bố tiền lương tối thiểu là rất quan trọng, phải thông qua cơ quan Nhà nước có thẩm quyền mới đảm bảo được hiệu lực pháp lý và tầm quan trọng của nó. Dựa trên quyết định đơn phương của chính phủ theo luật tiền lương tối thiểu được một số quốc gia ấn định như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức... Hai là, tiền lương tối thiểu do doanh nghiệp tự quy định, áp dụng trong phạm vi doanh nghiệp. Việc Nhà nước ban hành tiền lương tối thiểu là để tạo ra “lưới an toàn” xã hội cho người lao động, đảm bảo cho họ có thể duy trì cuộc sống và tái sản xuất sức lao động. Người sử dụng lao động trong mọi trường hợp phải tiến hành trả lương cho người lao động ở “ngưỡng” đó, nghĩa là không được thấp hơn tiền lương tối thiểu. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện và khả năng, các doanh nghiệp có thể quy định, áp dụng mức lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Quy định này là phù hợp với yêu cầu thực tiễn, bởi mỗi doanh nghiệp đều có khả năng riêng, đồng thời chính sách tiền lương cũng là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp thu hút lao động khi cần thiết. Thứ ba, dựa trên cơ cấu mức tiền lương tối thiểu theo thời gian, có tiền lương tối thiểu theo giờ và tiền lương tối thiểu theo tháng. Tiền lương tối thiểu theo giờ phụ thuộc vào tổng số giờ làm việc. Do đó, nếu người lao động không được bố trí đủ thời gian làm việc hoặc bị lạm dụng để trả cho công việc toàn thời gian hoặc theo tháng, mức lương tháng của họ sẽ không đảm bảo được mức sống tối thiểu. Tuy nhiên, lương tối thiểu theo giờ có yếu tố linh hoạt thuận lợi cho 12
- người lao động và doanh nghiệp. Việc trả lương tối thiểu theo giờ dành cho những người lao động làm công việc trong điều kiện giản đơn, công việc không đầy đủ, công việc trong thời gian ngắn và linh hoạt. Những công việc có đặc thù ngắn hạn, người lao động làm việc bán thời gian. Hiện nay, quy định về tiền lương tối thiểu theo giờ thường được Chính phủ ở các nước phát triển ấn định. Tiền lương tối thiểu theo tháng là mức tiền lương quy định cho một tháng làm việc của lao động giản đơn, làm việc trong điều kiện lao động bình thường mà người sử dụng lao động không được trả thấp hơn cho người lao động. 1.1.2. Bản chất của tiền lương tối thiểu Dưới góc độ của một doanh nghiệp, tiền lương trong sản xuất kinh doanh là yếu tố được tính vào chi phí sản xuất. Nó phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu lao động trên thị trường, giá cả sinh hoạt, tập quán tiêu dùng, hiệu quả kinh doanh của từng ngành, cũng như chính sách tiền lương của mỗi doanh nghiệp. Về bản chất, tiền lương là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động, thông qua sự thoả thuận giữa người có sức lao động và người thuê mướn, sử dụng sức lao động, đồng thời chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế trong đó có quy luật cung - cầu. Trong đó giá trị sức lao động là toàn bộ những chi phí về ăn, ở, đi lại, các chi phí thiết yếu khác nhằm bù đắp một lượng nhất định những hao phí sức lao động: cơ bắp, trí tuệ, thần kinh, để duy trì sức khoẻ của bản thân người lao động trong trạng thái bình thường và tái sản xuất sức lao động cả về lượng và chất. Xét về mặt cấu trúc, tiền lương tối thiểu là một bộ phận cấu thành của tiền lương. Về bản chất tiền lương tối thiểu là giá cả sức lao động được hình thành trên cơ sở giá trị sức lao động. Tuy nhiên, giá cả sức lao động ở đây được hiểu là giá cả thấp nhất của hàng hoá sức lao động. Tiền lương tối thiểu không chỉ được áp dụng cho lao động giản đơn mà là khung pháp lý quan trọng, mang tính chất bắt buộc người sử dụng lao động phải trả thấp nhất là bằng chứ không được thấp hơn mức Nhà nước ấn định, tạo ra lưới an toàn bảo vệ người lao động trong quan hệ lao động. Tuy nhiên, tùy theo điều kiện và khả năng, các doanh nghiệp có thể quy định, áp dụng mức lương tối thiểu cao hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Quy định này là phù hợp với yêu cầu thực 13
- tiễn, bởi mỗi doanh nghiệp đều có khả năng riêng, đồng thời chính sách tiền lương cũng là công cụ hữu hiệu để các doanh nghiệp thu hút lao động khi cần thiết, đồng thời đó cũng là cách Nhà nước tôn trọng và khuyến khích sự thỏa thuận hợp pháp giữa hai bên trên tinh thần tự nguyện. Giá trị sức lao động được coi là cơ sở tính tiền lương tối thiểu bao gồm những chi phí cần thiết để duy trì sức khỏe và đảm bảo tái sản xuất sức lao động ở mức tối thiểu. Nghĩa là tiền lương tối thiểu chỉ đáp ứng cho giá trị sức lao động có trình độ giản đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường với cường độ lao động nhẹ nhàng nhất. Nó không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu cuộc sống của người lao động và gia đình họ, mà chỉ đáp ứng được nhu cầu tối thiểu cần thiết để duy trì cuộc sống nhằm tái sản xuất sức lao động giản đơn và một phần tái sản xuất sức lao động mở rộng. Đây chính là một trong những lý do việc hoạch định chính sách tiền lương tối thiểu qua từng thời kỳ của Nhà nước luôn được quan tâm, bàn luận, dự thảo và sửa đổi nhiều để có phương án phù hợp nhất theo từng thời kỳ. 1.1.3. Vai trò của lương tối thiểu và pháp luật về tiền lương tối thiểu 1.1.3.1. Vai trò của tiền lương tối thiểu Tiền lương tối thiểu có vị trí và vai trò rất quan trọng. Hiện nay, chế độ tiền lương bao gồm các nội dung cơ bản: tiền lương tối thiểu, hệ thống thang bảng lương, các chế độ phụ cấp lương, chế độ tiền thưởng. Trong đó tiền lương tối thiểu có vị trí đặc biệt, là mức “sàn”, là cơ sở để xác định các nội dung khác trong chế độ tiền lương. Chế định quan trọng đã được ILO khẳng định rất rõ ràng trong Khuyến nghị lương tối thiểu số 135 năm 1970. Tựu chung lại, tiền lương tối thiểu có những vai trò cơ bản sau: Thứ nhất, tiền lương tối thiểu giúp tăng năng suất lao động. Năng suất lao động và tiền lương luôn tỷ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên, năng suất lao động không thể tăng đột biến ngay được vì vậy tiền lương sẽ chỉ tăng từ từ. Bà Sandra Polaski, Phó Tổng giám đốc Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), khẳng định lương tối thiểu có vai trò rất quan trọng trong việc tăng năng suất lao động[7]. Tăng tiền lương khiến người sử dụng lao động tìm cách tăng năng suất lao động thông qua đầu tư kỹ thuật, quá trình làm việc hiệu quả hơn. 14
- Thứ hai, tiền lương tối thiểu là “lưới an toàn” đối với người lao động. Vai trò này rất dễ nhận ra bởi tính đảm bảo của lương tối thiểu đối với các nhu cầu thiết yếu của người lao động. Tiền lương tối thiểu loại bỏ sự bóc lột có thể xảy ra đối với người làm công ăn lương trước sức ép của thị trường. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sức lao động được coi là một loại hàng hoá và cũng được tự do mua bán theo thoả thuận của người lao động và người sử dụng lao động. Hiện nay, tình trạng thất nghiệp còn cao, cung lao động nhiều hơn cầu lao động, là điều kiện để người sử dụng lao động có cơ sở gây sức ép với người lao động, trả cho họ một mức lương thấp hơn mức lương họ đáng được hưởng. Việc quy định tiền lương tối thiểu giới hạn rõ hành vi của người sử dụng lao động trong việc trả lương, bảo đảm sự cân bằng và bảo vệ người lao động khỏi sự bóc lột trước sức ép của thị trường. Thứ ba, tiền lương tối thiểu giúp xóa đói, giảm nghèo, đảm bảo tiến bộ xã hội. Về mặt lý thuyết, mỗi chính sách xóa đói giảm nghèo đều nhằm cụ thể những mục tiêu riêng, hỗ trợ một khu vực riêng, một đối tượng hay nhóm nhỏ đối tượng nào đó, tuy nhiên, đều có những điểm chung là giải quyết nguyên nhân dẫn đến gia tăng đói nghèo, cải thiện môi trường, trợ giúp dân thoát nghèo, từ đó giảm tỷ lệ nghèo đói. Việc quy định khung tiền lương an toàn cho người lao động có vai trò quan trọng trong công tác xóa đói, giảm nghèo và đảm bảo tiến bộ xã hội. Bởi lẽ, với khung tiền lương an toàn này, người lao động và gia đình của họ có thể được tiếp cận ở mức tối thiểu và đảm bảo đối với các nhu cầu thiết yếu, các dịch vụ y tế, văn hóa, dịch vụ xã hội. Có thể coi việc xác định tiền lương tối thiểu là công cụ tấn công trực diện vào đói nghèo và vấn đề đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội của một quốc gia. Thứ tư, tiền lương tối thiểu là công cụ điều tiết của Nhà nước trên phạm vi toàn xã hội và trong từng cơ sở kinh tế. Tiền lương tối thiểu là sự đảm bảo có tính pháp lý của Nhà nước đối với người lao động trong mọi ngành nghề, khu vực có tồn tại quan hệ lao động, đảm bảo đời sống tối thiểu cho họ phù hợp với khả năng của nền kinh tế. Xuất phát từ nguyên tắc bảo vệ người lao động khi tham gia quan hệ lao động, Nhà nước quy định tiền lương tối thiểu như là một sự đảm bảo về mặt pháp lý đối với người lao động. Tiền lương tối thiểu là 15
- khoản tiền đáp ứng nhu cầu tối thiểu nhất cho người lao động. Khi xác định tiền lương tối thiểu, Nhà nước đã căn cứ vào những thoả thuận của người lao động phù hợp với trên cơ sở nền kinh tế của đất nước, do đó tiền lương tối thiểu luôn đảm bảo cho người lao động có cuộc sống phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội ở từng thời kỳ. Thứ năm, tiền lương tối thiểu bảo vệ sức mua cho các mức tiền lương trước sự gia tăng của lạm phát và các yếu tố kinh tế khác. Tiền lương tối thiểu được xác định dựa trên cơ sở giá cả trung bình của thị trường trong nước, vì thế nó có sự cân bằng với giá cả thị trường, hạn chế được sự lạm phát. Tiền lương tối thiểu loại bỏ sự cạnh tranh không công bằng của thị trường lao động. Cạnh tranh là quy luật chung của thị trường trong điều kiện hàng hoá sức lao động dư thừa, cung lao động cao hơn so với cầu lao động cho nên cạnh tranh giữa người lao động với nhau là tất yếu. Nhà nước quy định mức lương tối thiểu là khung pháp lý quan trọng, đảm bảo cho sự cạnh tranh này luôn ở trong khuôn khổ pháp luật, đảm bảo cho yếu tố cạnh tranh trên thị trường lành mạnh hơn. Thứ sáu, tiền lương tối thiểu là cơ sở xây dựng thang bảng lương, điều hòa tiền lương giữa các nhóm, vùng, lĩnh vực lao động. Tiền lương tối thiểu đảm bảo sự trả lương tương đương cho những công việc tương đương, tiền lương tối thiểu ở một mức độ nào đó là sự điều hoà trong các nhóm người lao động mà ở đó thường không được tính đúng mức. Tiền lương tối thiểu, là cơ sở tính các mức lương tiếp theo trong thang, bảng lương. Vì thế, ở những công việc tương đương người lao động sẽ được trả mức lương tương đương. Thứ bảy, tiền lương tối thiểu giúp phòng ngừa xung đột lao động. Tiền lương tối thiểu phòng ngừa xung đột, tranh chấp lao động giữa giới chủ và giới thợ. Sự xác định thoả đáng các mức tiền lương tối thiểu có thể xoá bỏ một trong những nguyên nhân gây nên xung đột giữa chủ và thợ để thúc đẩy kinh tế phát triển. Tóm lại, tiền lương tối thiểu là một chế định quan trọng trong nền tài chính của một quốc gia. Tiền lương tối thiểu giải quyết được rất nhiều vấn đề quan trọng trong việc xây dựng lưới an toàn lao động chung cho toàn xã hội; là công cụ pháp lý, công cụ kinh 16
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về bảo vệ thông tin cá nhân của người tiêu dùng ở Việt Nam hiện nay
65 p | 271 | 52
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Người đại diện của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp năm 2020
74 p | 335 | 50
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về hộ kinh doanh từ thực tiễn huyện Krông Bông, tỉnh Đắk Lắk
83 p | 108 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Đăng ký hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn quận Hoàng Mai, thành phố Hà Nội
66 p | 104 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Bảo hiểm tài sản theo pháp luật Việt Nam hiện nay
79 p | 215 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Đình công bất hợp pháp từ thực tiễn các khu công nghiệp tỉnh Tây Ninh
76 p | 121 | 26
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân theo Luật đất đai năm 2013
84 p | 77 | 23
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Thi hành quyết định tuyên bố phá sản theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
75 p | 89 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo pháp luật Việt Nam qua thực tiễn tại Thành phố Hồ Chí Minh
88 p | 31 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Góp vốn vào doanh nghiệp bằng quyền sử dụng đất theo Pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
84 p | 181 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp Luật Hôn nhân và Gia đình ở Việt Nam hiện nay
68 p | 106 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Cưỡng chế thi hành bản án kinh doanh, thương mại và thực tiễn thi hành tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh
99 p | 32 | 17
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Hộ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Tây Ninh
75 p | 72 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai
78 p | 56 | 15
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Pháp luật về Bảo hiểm xã hội tự nguyện từ thực tiễn huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
73 p | 61 | 13
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Pháp luật về mua bán nợ xấu phát sinh từ hợp đồng tín dụng của ngân hàng thương mại qua thực tiễn tại TP. Hồ Chí Minh
101 p | 16 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế: Chế độ hưu trí theo pháp luật Bảo hiểm xã hội bắt buộc từ thực tiễn thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau
70 p | 82 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Luật kinh tế: Thực thi pháp luật Việt Nam về chuyển nhượng dự án xây dựng nhà ở thương mại từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh
77 p | 16 | 8
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn